Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé quèc phßng
häc viÖn qu©n y
nguyÔn thÞ hiªn
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG
TIM - MẠCH, TÂM - THẦN KINH CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
Y THÁI BÌNH Ở TRẠNG THÁI TĨNH VÀ SAU KHI THI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI - 2013
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé quèc phßng
häc viÖn qu©n y
nguyÔn thÞ hiªn
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG
TIM - MẠCH, TÂM - THẦN KINH CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
Y THÁI BÌNH Ở TRẠNG THÁI TĨNH VÀ SAU KHI THI
Chuyªn ngµnh: Sinh lý häc
M· sè: 62 72 01 07
luËn ¸n tiÕn sÜ Y häc
Ng êi h íng dÉn khoa häc:
PGS. TS. TrÇn §¨ng Dong
PGS. TS. V ¬ng ThÞ Hßa
Hµ néi - 2013
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe không chỉ là vốn quí của mỗi cá nhân mà còn là nhân tố quan
trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong đó sinh viên là lực lƣợng
lao động chất lƣợng cao trong tƣơng lai của xã hội, là “nguyên khí” của mỗi
quốc gia, đặc biệt trong nền kinh tế tri thức ngày nay. Chăm sóc sức khỏe cho
sinh viên là nhiệm vụ quan trọng không chỉ của nhà trƣờng mà là của toàn xã
hội. Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ tri thức, đòi hỏi không chỉ tăng trƣởng số lƣợng tri
thức mà yêu cầu phải có sự thay đổi căn bản cách chiếm lĩnh và sử dụng tri
thức của ngƣời đƣợc đào tạo.
Thời đại ngày nay, thời đại của sự hội nhập, toàn cầu hóa với sự phát
triển vƣợt bậc của khoa học kỹ thuật, cùng với ô nhiễm môi trƣờng và yếu tố
nội tại trong cơ thể con ngƣời đã trở thành những tác nhân gây nên stress.
Năm 1992, Tổ chức Liên Hợp Quốc đã đƣa ra một bản báo cáo mang tên
“Bệnh tật trong thế kỷ XX”, trong đó có việc cảnh báo stress có thể mang
nhiều nguy cơ gây hại cho cuộc sống của con ngƣời ở thế kỷ XXI [108].
Stress tác động tới mọi tầng lớp trong xã hội, trong đó có sinh viên.
Cuộc sống của sinh viên ở các trƣờng đại học có nhiều yếu tố gây căng thẳng
(stressor) thần kinh - tâm lý, đặc biệt là đối với sinh viên các trƣờng đại học
Y. Ngoài các stressor chung ở mọi sinh viên (điều kiện sinh hoạt, học tập...),
sinh viên các trƣờng đại học Y là những ngƣời có thời gian học tập tại trƣờng
dài nhất với khối lƣợng kiến thức lý thuyết và thực hành rất lớn cùng với
nhiều kỳ thi, do đó chịu nhiều áp lực gây căng thẳng chức năng tâm lý cao và
trƣờng diễn [60], [81], [84], [85]. Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy các
stressor có thể làm thay đổi chức năng hệ thống miễn dịch, thần kinh, tim
mạch và nội tiết của con ngƣời [58], [93], [94], [99], [103], [114], [119],
[131]. Tuy nhiên các tác động đó không phải tất cả là tiêu cực, nhiều nghiên
cứu xác nhận trạng thái stress có mức độ nhất định lại làm tăng khả năng tự
2
xoay xở với đòi hỏi thích nghi môi trƣờng, nhờ thế tạo điều kiện phát triển
tâm lý. Cuộc sống không có stress sẽ không có thách thức đòi hỏi phải vƣợt
qua, nên hạn chế việc nâng cao năng lực và trau dồi trí tuệ.
Stress là hiện thực của cuộc sống, vì vậy chúng ta cần phải hiểu sự đáp ứng
của cơ thể trong từng trạng thái căng thẳng. Muốn vậy phải lƣợng hóa đƣợc
mức độ stress bằng các chỉ số đo lƣờng khách quan. Ở Việt nam đã có một số
công trình nghiên cứu về stress nghề nghiệp của các nhà khoa học thuộc Viện
Khoa học kỹ thuật Bảo hộ lao động, Viện Y học lao động và Vệ sinh dịch tễ,
các nhà khoa học một số trƣờng đại học [6], [10], [18], [23]. Vấn đề stress ở
học sinh, sinh viên cũng đang đƣợc một số nhà khoa học quan tâm bởi những
hệ quả do stress gây ra nhƣ trầm cảm, lạm dụng chất gây nghiện, có hành vi
gây hấn hoặc thậm chí tự sát. Căng thẳng mạn tính ảnh hƣởng đến khả năng
giải quyết vấn đề cần đòi hỏi phải tƣ duy linh hoạt [84]. Tuy nhiên còn rất ít
nghiên cứu về đáp ứng của hệ thống nội tiết, tim mạch và thần kinh của cá thể
với trạng thái căng thẳng, trong đó có đối tƣợng là sinh viên. Xuất phát từ lý
do nêu trên, chúng tôi tiến hành đề tài "Nghiên cứu một số chỉ số chức năng
tim - mạch , tâm - thần kinh của sinh viên Đại học Y Thái Bình ở trạng thái
tĩnh và sau khi thi" nhằm góp phần xây dựng một số chỉ số sinh học ngƣời Việt
Nam hiện nay, làm cơ sở khoa học giúp các nhà giáo dục và y tế tìm các giải
pháp giảm bớt căng thẳng, duy trì sức khỏe thể chất, tinh thần và học tập tốt
hơn cho sinh viên.
Đề tài đƣợc tiến hành với các mục tiêu sau:
1. Xác định một số chỉ số tim - mạch, tâm - thần kinh ở trạng thái tĩnh của
sinh viên Đại học Y Thái Bình.
2. Đánh giá một số chỉ số tim - mạch, tâm - thần kinh và nội tiết tố sau hoạt
động trí tuệ (sau buổi thi) của sinh viên Đại học Y Thái Bình.
3
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG TIM-MẠCH
Nhiều công trình của các tác giả trên thế giới cũng nhƣ trong nƣớc đã sử
dụng các chỉ số tim mạch để đánh giá trạng thái căng thẳng chức năng vì sự
thay đổi nhịp tim là phản ứng tổng hợp của toàn bộ cơ thể đối với bất kỳ tác
động nào của môi trƣờng bên ngoài. Những năm gần đây, ngoài phƣơng pháp
sử dụng những chỉ số đơn giản của hệ tim mạch nhƣ tần số nhịp tim (TSNT)
và huyết áp (HA), một số tác giả đã sử dụng các chỉ số thống kê toán học nhịp
tim (TKTHNT) của Baevski và cs [133] để đánh giá chức năng tim. Một số
nghiên cứu [18], [19], [20], [132], [133], [134] cho thấy căng thẳng trí tuệ và
stress cấp tính gây tăng chỉ số căng thẳng và giảm sự dao động nhịp tim.
1.1.1. Tần số mạch và huyết áp
*Tần số mạch
Tần số mạch hay tần số tim là số lần tim đập trong một phút. Bình
thƣờng tần số tim ở ngƣời trƣởng thành là 70 - 80 lần/phút, thông số này ở nữ
cao hơn so với ở nam trong cùng một độ tuổi.
Tần số tim thay đổi dƣới tác động của nhiều yếu tố. Làm việc căng thẳng
gây tăng nhịp tim là do kích thích hệ thần kinh giao cảm, đồng thời gây ức
chế các tín hiệu của dây X tới tim. Lao động trí óc chịu tác động của nhiều
yếu tố stress dễ dẫn đến tăng nhịp tim, tăng huyết áp, vữa xơ động mạch [79],
[80]. Hoạt động của tim luôn thay đổi để phù hợp với nhu cầu của cơ thể. Tim
có tính thích nghi và đáp ứng với căng thẳng là nhờ có cơ chế tự điều hòa và
cơ chế thần kinh - thể dịch. Trong điều hòa theo cơ chế thần kinh thì hệ thần
kinh tự chủ có vai trò quan trọng.
4
Hệ thần kinh phó giao cảm có trung tâm điều hòa hoạt động tim nằm ở
hành não, đó là nhân của dây thần kinh số X. Các sợi trƣớc hạch của dây X đi
tới hạch phó giao cảm nằm ngay trong cơ tim, các sợi sau hạch phó giao cảm
chi phối hoạt động của nút xoang và nút nhĩ - thất. Tác dụng của hệ phó giao
cảm đối với hoạt động của tim là giảm tần số tim, giảm lực co bóp cơ tim,
giảm trƣơng lực cơ tim, giảm tốc độ dẫn truyền xung động trong tim và giảm
tính hƣng phấn của cơ tim. Hệ thần kinh phó giao cảm tác dụng lên tim thông
qua hóa chất trung gian là acetycholin.
Hệ thần kinh giao cảm có trung tâm điều hòa hoạt động tim nằm ở sừng
bên chất xám tủy sống đoạn lƣng 1-3, từ đây có các sợi thần kinh đi tới hạch
giao cảm nằm gần cột sống. Cũng có một số sợi xuất phát từ sừng bên chất
xám tủy sống đoạn các đốt sống cổ 1-7 đi đến hạch giao cảm. Các sợi sau
hạch đi tới nút xoang, nút nhĩ - thất và bó His. Kích thích của dây giao cảm
đến tim gây ra các tác dụng ngƣợc với tác dụng của dây X, cụ thể là tăng tần
số, tăng lực co bóp, tăng trƣơng lực cơ tim, tăng tốc độ dẫn truyền xung động
trong tim, tăng tính hƣng phấn và tăng dinh dƣỡng cơ tim. Hệ thần kinh giao
cảm tác dụng lên hoạt động tim thông qua hóa chất trung gian là noradrenalin.
Ngoài hệ thần kinh thực vật còn có các phản xạ điều hòa hoạt động tim
xuất phát từ vỏ não cùng một số trung tâm thần kinh khác. Dƣới ảnh hƣởng
của các yếu tố lên vỏ não thƣờng tạo các cảm xúc mạnh, gây hồi hộp, sợ hãi
và làm biến đổi nhịp tim. Khi hồi hộp thƣờng làm cho tim đập nhanh, khi quá
sợ hãi hoặc quá xúc động nhịp tim có thể tăng lên, nhƣng cũng có khi tim đập
chậm, thậm chí ngừng đập.
Hoạt động tim còn đƣợc điều hòa bằng cơ chế thể dịch. Hormon T3, T4
của tuyến giáp, adrenalin của tuyến tủy thƣợng thận có tác dụng làm tim đập
nhanh. Nồng độ khí oxy giảm, CO2 tăng trong máu động mạch cũng làm tim đập nhanh. Nồng độ ion Ca2+ trong máu tăng làm tăng trƣơng lực cơ tim.
5
Nồng độ K+ trong máu tăng làm giảm trƣơng lực cơ tim. pH của máu giảm
làm tim đập nhanh. Nhiệt độ cơ thể tăng làm tim đập nhanh. Ngƣợc lại nhịp
tim giảm trong hạ nhiệt nhân tạo (trong mổ tim phải hạ nhiệt nhân tạo xuống còn 250C - 300C để cơ thể có thể chịu đựng đƣợc với sự thiếu oxy) [38].
*Huyết áp
Động lực chính làm máu lƣu thông trong động mạch là huyết áp. Huyết
áp là áp lực của máu trong một đoạn mạch nhất định.
Huyết áp động mạch đƣợc tạo ra bởi hai lực: áp lực do tâm thất thu tống
máu ra khỏi tim và phản lực do tính đàn hồi của thành động mạch. Đây là hai
lực ngƣợc chiều nhau và cân bằng nhau, cùng có tác dụng đẩy máu đi.
Huyết áp tâm thu là trị số huyết áp cao nhất trong chu kỳ hoạt động của
tim, đo đƣợc trong lúc tâm thu. Thông số này đánh giá lực co của tâm thất là
chính. Trị số bình thƣờng là 110 mmHg, giới hạn từ 90 - <140 mmHg. Huyết
áp tâm trƣơng là trị số huyết áp thấp nhất trong chu kỳ hoạt động của tim, đo
đƣợc trong lúc tâm trƣơng. Thông số này phản ánh trƣơng lực của động mạch.
Trị số bình thƣờng là 70 mmHg, giới hạn từ 60 - <90 mmHg. Đó là các mốc
đánh giá huyết áp thấp hay tăng huyết áp [16], [38].
Nhiều tác giả đã ứng dụng phƣơng pháp đánh giá chức năng tim mạch
thông qua tần số nhịp tim và huyết áp trong nghiên cứu trên các đối tƣợng thuộc
các ngành nghề khác nhau.
Theo Pickering [105], huyết áp động mạch đƣợc xem là chỉ số khá tin
cậy để đánh giá stress cấp tính trong điều kiện tự nhiên. Nghiên cứu của tác
giả cho thấy đi bộ làm tăng huyết áp tâm thu khoảng 12 mmHg, trong cuộc
họp huyết áp tâm thu tăng 20 mmHg, nói chuyện điện thoại huyết áp có thể
tăng 10 mmHg và khi ngủ huyết áp tâm thu có thể giảm 10 mmHg .Vrijkotte
T.G. [125] đã ghi Holter điện tim 2 ngày làm việc và 1 ngày không làm việc
cho 109 nam lao động trí óc. Kết quả cho thấy nhịp tim khi làm việc tăng cao
6
hơn so với sau khi làm việc và gánh nặng công việc làm tăng nguy cơ mắc các
bệnh tim mạch. Munataka M. [100] nghiên cứu trên 18 y tá, tuổi trung bình là
29±2 cho thấy huyết áp tâm thu và nhịp tim trong thời gian làm ca đêm thấp
hơn so với làm ca ngày, sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,05.
Một số nghiên cứu trên thế giới cho thấy kiểm tra, thi cử gây căng thẳng
chức năng tâm lý, làm thay đổi một số chức năng của cơ thể, trong đó có chức
năng tim mạch của con ngƣời [73], [92], [99], [125], [130], [131].
Nghiên cứu của Droogleever [70] trên các nghiên cứu sinh Hà Lan cho
thấy mặc dù huyết áp thay đổi không đáng kể do căng thẳng trong lúc thi,
nhƣng mật độ thụ thể benzodiazepine ngoại vi, allopregnanolon và nồng độ
cortisol ở các nghiên cứu sinh tăng lên đáng kể. Makarenco và cs. [95] nghiên
cứu tính nhịp điệu của tim trên sinh viên theo các đặc tính cá nhân và các loại
hình thần kinh trong suốt quá trình kiểm tra căng thẳng cho thấy giảm ảnh
hƣởng của thần kinh phó giao cảm trên nhịp tim, kích thích chuyển hóa và
tăng hoạt động của thần kinh giao cảm. Nghiên cứu chỉ ra rằng sức chịu đựng
và loại phản ứng thần kinh thực vật của sinh viên đối với căng thẳng kỳ thi
đƣợc quyết định bởi đặc tính cá nhân và các loại hình thần kinh cùng với
trạng thái tâm lý ban đầu.
Ở Việt Nam, nhiều tác giả đã sử dụng phƣơng pháp đánh giá chức năng
tim mạch thông qua tần số nhịp tim và huyết áp trong các dạng lao động có
căng thẳng thần kinh tâm lý cao nhƣ lao động của phi công, bộ đội, cảnh sát,
nhân viên y tế, điều độ viên chỉ huy chạy tàu, nhân viên vận hành các máy
móc tự động, điều phối viên không lƣu… [6], [18], [20], [22], [23].
Nhƣ vậy phƣơng pháp đo tần số nhịp tim (tần số mạch) và huyết áp đƣợc
nhiều tác giả trong và ngoài nƣớc ứng dụng trong các nghiên cứu ở các dạng
lao động khác nhau để đánh giá chức năng tim mạch cho ngƣời lao động.
7
1.1.2. Chỉ số thống kê toán học nhịp tim và các nghiên cứu
Những năm gần đây các nhà y học và sinh lý học đã và đang cố gắng
nghiên cứu tìm ra các thông số tim mạch có giá trị để đánh giá, phân loại khả
năng lao động (KNLĐ) cá thể, từ đó tuyển chọn đối tƣợng có khả năng thích
nghi (KNTN) với một số nghề nghiệp đặc biệt. Hiện nay các nhà nghiên cứu
thƣờng sử dụng phƣơng pháp thống kê toán học nhịp tim để phân tích sự dao
động của các khoảng RR của nhịp tim theo thời gian.
Nghiên cứu trên thế giới về dao động nhịp tim
Năm 1966, tại Moskva đã tổ chức hội nghị chuyên đề về vấn đề "Ứng
dụng các phƣơng pháp toán học để phân tích nhịp tim". Tại đây nhiều báo cáo
về ứng dụng các phƣơng pháp phân tích toán học nhịp tim (THNT) để tiếp tục
hoàn thiện các phƣơng pháp chẩn đoán và để dự báo trạng thái chức năng hệ
tim mạch cũng nhƣ trạng thái chức năng chung của cơ thể, đặc biệt cho các
nhà du hành vũ trụ trong chuyến đi dài ngày. Theo Baevski [132] thì chức
năng hệ tim mạch thay đổi đƣợc coi là chỉ tiêu đánh giá phản ứng thích nghi
của toàn bộ cơ thể, còn nhịp tim là hiệu quả của sự điều khiển của thần kinh
nội tiết. Phƣơng pháp phân tích THNT là phƣơng pháp định lƣợng của phản
ứng thích nghi mà các nhà y học và sinh lý học rất quan tâm.
Baevski và cs [133] đã đƣa ra nguyên lý chung để nghiên cứu biến động
nhịp tim và các chỉ số thống kê toán học nhịp tim (TKTHNT). Một số chỉ số
TKTHNT đặc trƣng cho dao động của 100 khoảng RR liên tiếp của nhịp tim
hay đƣợc sử dụng là:
- Tần số tim (TST) trung bình của 100 khoảng RR liên tiếp, tính bằng
nhịp /phút là chỉ số đặc trƣng cho hoạt động của hệ tim mạch. Đây là thông
số cân bằng nội môi của cơ thể. Sự biến đổi của TSNT so với tiêu chuẩn của
cá thể nói lên sự tăng gánh nặng đối với bộ máy tuần hoàn hoặc có thay đổi
8
bệnh lý. TSNT= 60/RRtb (RRtb là thời gian trung bình của 1 khoảng RR tính
bằng giây, RRtb = tổng số RR/100).
- Độ lệch chuẩn của 100 khoảng RR liên tiếp (SD), tính bằng giây là một
trong những chỉ số chính của dao động nhịp tim, đặc trƣng cho trạng thái cơ
chế điều khiển. Nó chỉ ra ảnh hƣởng tổng hợp của hệ thần kinh thực vật đến
nút xoang của tim. Tăng hay giảm chỉ số này nói lên sự dịch chuyển của cân
bằng nội môi hƣớng về thần kinh phó giao cảm hay thần kinh giao cảm.
- Hệ số biến thiên của 100 khoảng RR (V= SD /RRtb), tính bằng giây. Ý nghĩa
sinh lý của thông số này giống chỉ số SD và là chỉ số đƣợc tiêu chuẩn hóa theo TSNT.
- Mod của 100 khoảng RR liên tiếp (Mo), tính bằng giây là giá trị
khoảng RR gặp nhiều nhất trong 100 khoảng RR. Mo chỉ ra khả năng hoạt
động của hệ tuần hoàn (chính xác hơn là của nút xoang) và trong quá trình
tƣơng đối tĩnh tại, nó trùng với X trung bình.
- Biên độ của Mod (AMo), tính bằng % là số lƣợng khoảng RR có giá trị
gặp nhiều nhất (Mo) trong 100RR. Chỉ số này biếu thị hiệu quả ổn định điều
khiển nhịp tim mức trung ƣơng.
- Khoảng dao động của RR tối đa và tối thiểu (X= RR tối đa - RR tối
thiểu) tính bằng giây, chỉ ra mức độ dao động tối đa của khoảng RR. Đối với
quá trình tĩnh tại, chỉ số X tƣơng tự nhƣ chỉ số SD.
- Chỉ số căng thẳng (CSCT) - đơn vị điều kiện là chỉ số bậc 2 đƣợc tính
từ các chỉ số trên, nó đặc trƣng cho mức độ của điều khiển nhịp tim từ trung
ƣơng. CSCT = AMo/2. X.Mo
Các chỉ số X, AMo, SD,V, CSCT đặc trƣng cho trạng thái của hệ thần
kinh thực vật (hay còn gọi là điều khiển tự động).
Phƣơng pháp phân tích thống kê toán học đánh giá dao động nhịp tim
đƣợc ứng dụng rộng rãi nhằm xác định trạng thái cân bằng hệ thần kinh thực
9
vật; quan hệ hoạt động tƣơng hỗ giữa thần kinh giao cảm và phó giao cảm; mức
điều khiển tự động và mức điều khiển trung ƣơng của hệ thần kinh thực vật,
cụ thể là: AMo, CSCT cao và X, SD ,V thấp là biểu hiện điều khiển nhịp tim
mức trung ƣơng, ngƣợc lại, AMo, CSCT thấp và X, SD,V cao là biểu hiện
điều khiển nhịp tim mức tự động [120].
Nhiều nghiên cứu cho thấy các chỉ số thống kê toán học nhịp tim cho
nhiều thông tin tốt để đánh giá trạng thái chức năng của cơ thể. Chúng là chỉ
số dự báo khả năng thích nghi nghề nghiệp, năng lực và hiệu quả hoạt động
nghề nghiệp để từ đó tuyển chọn đối tƣợng có khả năng thích nghi tốt với một
số điều kiện lao động, đặc biệt là những nghề nghiệp có trạng thái căng thẳng
cảm xúc cao [132], [134], [135], [136], [137], [138].
Baevski [132] đã áp dụng phƣơng pháp phân tích toán học nhịp tim để
nghiên cứu diễn biến nhịp tim của các nhà du hành vũ trụ với mục đích dự
báo những khả năng biến đổi trạng thái cơ thể của họ. Kết quả bƣớc đầu cho
thấy những đối tƣợng có biểu hiện KNTN kém hơn trong điều kiện thử
nghiệm dƣới mặt đất (biểu hiện trội điều khiển giao cảm hơn) thì sau 3 ngày,
trong chuyến bay thật có rối loạn điều khiển nhịp tim nhiều hơn so với đối tƣợng
có biểu hiện thích nghi tốt hơn (điều khiển trội phó giao cảm hơn).
Zemaichiche [134] cho rằng con ngƣời tăng KNTN phụ thuộc vào mức
độ tăng điều khiển phó giao cảm trong quá trình rèn luyện. Giảm ảnh hƣởng
của điều khiển phó giao cảm đồng thời tăng điều khiển giao cảm khi lao động
thể lực và căng thẳng về cảm xúc dẫn tới giảm KNTN đƣợc biểu hiện ở sự
thay đổi các chỉ số TKTHNT.
Zatsiorxki [135] đã sử dụng đặc điểm TKTHNT để đánh giá ảnh hƣởng
của điều kiện môi trƣờng (nhiệt độ cao, tiếng ồn cao) lên chức năng điều
khiển nhịp tim. Tác giả thấy rằng có mối liên quan giữa yếu tố stress nghề
nghiệp, tác hại nghề nghiệp với giảm dao động nhịp tim thể hiện qua các chỉ
10
số thống kê toán học nhịp tim nhƣ giảm độ lệch chuẩn của 100RR (SD), tăng
chỉ số căng thẳng (CSCT).
Gevorkian E. và cộng sự [75] nghiên cứu ảnh hƣởng của căng thẳng thần
kinh cảm xúc trƣớc thi của sinh viên đối với chức năng điều khiển nhịp tim
theo phƣơng pháp của Baevski cho thấy những sinh viên có điểm căng thẳng
cảm xúc Spielberger càng cao thì chỉ số căng thẳng tim mạch càng cao. Các
phản ứng này phụ thuộc vào đặc tính của từng cá nhân và hoạt động của hệ
thống thần kinh tự chủ.
Nghiên cứu tại Việt Nam về dao động nhịp tim
Ở nƣớc ta trong những năm gần đây, phƣơng pháp nghiên cứu dao động
nhịp tim bằng các chỉ số TKTHNT bƣớc đầu đã đƣợc ứng dụng để đánh giá
mức căng thẳng chức năng và căng thẳng hệ tim mạch trong quá trình lao động
[18], [19], [20], [21], [22], [23], [45].
Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hà [18] về sự căng thẳng tim mạch trên
nhân viên y tế cho thấy có mức căng thẳng cao (mức 3/4) với chỉ số căng
thẳng là 239 và khả năng thích nghi kém với độ lệch chuẩn là 0,038. Trần
Thanh Hà [20] đã áp dụng phƣơng pháp phân tích TKTHNT để nghiên cứu
dự báo khả năng lao động của bộ đội tiêu binh. Kết quả cho thấy nhóm tiêu
binh có khả năng thích nghi kém nhất với nghề nghiệp thì có chỉ số TKTHNT
ở trạng thái tĩnh đạt mức CSCT cao nhất, X thấp nhất, SD ở mức quá căng
thẳng (mức 3/4). Đặc biệt tất cả các đối tƣợng đã bị ngất trong lúc làm nhiệm
vụ đều có chỉ số dao động nhịp tim ở mức quá căng thẳng (SD<0,04 và
V<0,056 theo phân loại của Baevski) và có biểu hiện rối loạn điều hoà nhịp
tim dạng trội giao cảm.
Nhƣ vậy, nghiên cứu dao động nhịp tim dựa trên các chỉ số TKTHNT
cho phép đánh giá mức căng thẳng chức năng của cơ thể và hệ tim mạch do
11
các yếu tố stress trong cuộc sống và trong lao động gây ra, đồng thời có thể
dự báo khả năng thích nghi nghề nghiệp của đối tƣợng.
1.1.3. Stress và nguy cơ các bệnh tim mạch
Nhiều năm qua các nhà khoa học luôn cho rằng stress có thể sẽ dẫn đến
bệnh tim, tuy nhiên có rất ít chứng cứ y học có thể chứng minh đƣợc điều này.
Gần đây các nhà khoa học Anh đã tiến hành nghiên cứu trên 514 đối tƣợng cả
nam lẫn nữ ở độ tuổi trung bình 62, trƣớc khi nghiên cứu những đối tƣợng
này đều không mắc các chứng bệnh về tim. Các đối tƣợng nghiên cứu đƣợc
làm trắc nghiệm stress, đồng thời đƣợc xét nghiệm nồng độ cortisol và chụp
cắt lớp vi tính động mạch. Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng xác suất
mắc chứng bệnh tích tụ mỡ trong động mạch của những đối tƣợng bị stress
cao gấp 2 lần so với những đối tƣợng không bị stress. Nghiên cứu trên đã gợi
ý căng thẳng tâm lý có thể là yếu tố nguy cơ dẫn đến các chứng bệnh về động
mạch vành [79]. Trên cơ cở nghiên cứu ngang này, Hamer và cộng sự [80] đã
tiến hành một nghiên cứu dọc trên 466 đối tƣợng nam và nữ có độ tuổi trung
bình 62,7 ±5,6, không có tiền sử tim mạch. Sau 3 năm theo dõi tác giả đã phát
hiện có mối liên quan giữa phản ứng cao của cortisol với căng thẳng và tiến
triển của vôi hóa động mạch vành (OR= 1,27, 95% CI, 1,02-1,60). Những dữ
liệu này ủng hộ quan điểm cho rằng căng thẳng tâm lý gây tăng cortisol (một
hormon stress) có thể ảnh hƣởng đến nguy cơ mắc bệnh mạch vành và rối
loạn nhịp tim. Cơ chế mà HPA hoạt động ảnh hƣởng trực tiếp đến xơ vữa
động mạch vẫn còn chƣa đƣợc hiểu rõ, mặc dù có một số bằng chứng cho
thấy tăng mức cortisol máu có thể thúc đẩy viêm quanh mạch [126].
Ngày càng có nhiều nghiên cứu thử nghiệm xem liệu các đáp ứng mạnh
mẽ của tim mạch với căng thẳng tinh thần có thể dự đoán các bệnh tim mạch
trong tƣơng lai hay không, nhƣng kết quả của các nghiên cứu rất đa dạng
[67], [69], [79], [80], [111]. Nghiên cứu của Roemmmich [111] trên thanh,
thiếu niên cho thấy căng thẳng gây phản ứng tim mạch, đặc biệt là phản ứng
12
của huyết áp tâm thu, liên quan đến độ dày động mạch cảnh và là nguy cơ
phát sinh sớm các bệnh tim mạch. Chida Y. và Steptoe A. [67] đã tổng hợp
các nghiên cứu thuần tập tƣơng lai về đáp ứng của tim mạch với stress và các
yếu tố nguy cơ tim mạch từ các dữ liệu ở các thƣ mục của PsycINFO, Web of
Science và PubMed. Kết quả nghiên cứu độc lập của hai nhà nghiên cứu cho
thấy có 169 sự kết hợp trong 36 bài báo về phản ứng căng thẳng và 30 sự kết
hợp (5 bài báo) về hồi phục sau căng thẳng có quan hệ với nguy cơ tim mạch
trong tƣơng lai, bao gồm tăng huyết áp, dày thất trái, xơ vữa động mạch và
các triệu chứng về tim. Phân tích tổng hợp toàn diện cho thấy phản ứng mạnh
hơn với căng thẳng và hồi phục sau căng thẳng kém hơn có liên quan theo
chiều dọc với nguy cơ xấu về bệnh tim mạch (r=0,091) [95%CI: 0,05-0,132],
p<0,01 và r=0,096 [95%CI: 0,058-0,134], p<0,01). Những kết quả này đƣợc
xác định bằng những phân tích phân nhóm kỹ lƣỡng về các hiệu ứng kết hợp.
Nhƣ vậy stress là một yếu tố gây bệnh vữa xơ động mạch quan trọng. Những
ngƣời hiểu biết về stress, có sức khỏe và tâm lý vững vàng sẽ dễ dàng vƣợt
qua đƣợc những tác động của stress. Ngƣợc lại, những ngƣời có cơ thể ốm
yếu, suy sụp, không thích ứng nổi thì dễ phát sinh bệnh tật và có thể bị ảnh
hƣởng lớn bởi stress, dẫn đến đột tử khi gặp những cú sốc quá lớn trong cuộc
đời. Đột tử là nguyên nhân gây tử vong phổ biến của các bệnh nhân bị vữa xơ
động mạch, đặc biệt là vữa xơ động mạch vành. Có giả thuyết cho rằng, khi bị
căng thẳng về tâm lý cấp tính có thể gây rung thất và đột tử, do kích hoạt hệ
thống bảo vệ dẫn đến làm giảm đột ngột trƣơng lực phó giao cảm. Thông qua
cơ chế thần kinh phó giao cảm trung ƣơng làm mất sự ổn định về điện học của
tim. Trong khi đồng thời làm tăng trƣơng lực thần kinh giao cảm ở tim dẫn
đến làm tăng tần số tim, tăng co bóp cơ tim, tăng huyết áp tâm thu và gây
thiếu máu cơ tim ở các bệnh nhân có vữa xơ động mạch vành, làm tăng nguy
cơ bị rung thất và đột tử. Vì vậy các phƣơng pháp quản lý stress có giá trị có
13
thể phòng ngừa và điều trị các bệnh tim mạch, nâng cao chất lƣợng cuộc sống
của con ngƣời [67], [69].
Căng thẳng không những gây biến động về tim mạch mà còn gây rất
nhiều các biến động về chức năng tâm - thần kinh của con ngƣời.
1.2. MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG TÂM - THẦN KINH
1.2.1. Hoạt động trí tuệ
1.2.1.1. Các quan điểm về trí tuệ
Trí tuệ là hoạt động tâm lý phức tạp bao gồm khả năng nhận thức, ngôn
ngữ vận động và khả năng thích ứng với xã hội. Trí tuệ là một trong những
đặc tính tâm lý và tƣ duy chỉ có ở con ngƣời, vì vậy nghiên cứu về năng lực
trí tuệ là vấn đề luôn đƣợc quan tâm đặc biệt trong giới khoa học. Cho đến
nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về trí tuệ, Fredman tập hợp các quan
điểm thành 3 khuynh hƣớng chính:
Khuynh hƣớng thứ nhất coi trí tuệ là năng lực nhận thức, năng lực học
tập của cá nhân. Theo Huarte J. thì trí tuệ là tập hợp các khả năng lĩnh hội tri
thức, phán xét, đánh giá và sáng tạo. J.P Ducanson [71] coi trí thông minh là
năng lực học tập. Philipvecnon định nghĩa năng lực trí tuệ thông qua hệ số
thông minh. Ushinski K.D. cho rằng trí tuệ là một hệ thống tri thức có tổ chức
tốt, luôn luôn đƣợc điều chỉnh và làm phong phú thêm, không phải chỉ trong
những biểu hiện cụ thể về những sự vật hoặc sự kiện riêng biệt mà còn đƣợc
khái quát thành khái niệm [55]. Năng lực trí tuệ trƣớc hết phải là sản phẩm
của trí tuệ, biểu hiện năng lực nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn của
con ngƣời.
Khuynh hƣớng thứ hai coi trí tuệ là năng lực tƣ duy trừu tƣợng. Ngƣời
đại diện cho khuynh hƣớng này là Terman L. Ông cho rằng chức năng của trí
tuệ là sử dụng hiệu quả các khái niệm. Quan niệm này có phần hạn chế về
khái niệm và phạm vi thể hiện của trí thông minh. Theo Menchinskaia M.N.,
14
đặc trƣng của trí tuệ là sự tích lũy vốn tri thức và các thao tác trí tuệ.
Rubinstein S.L. coi hạt nhân của trí tuệ là các thao tác tƣ duy nhƣ phân tích,
tổng hợp, so sánh, khái quát hóa và trừu tƣợng hóa (theo [40]).
Khuynh hƣớng thứ ba coi trí tuệ là năng lực thích nghi của con ngƣời đối
với thế giới xung quanh. Đại diện cho khuynh hƣớng này là Stern V., tác giả
coi trí tuệ là năng lực thích ứng chung của con ngƣời đối với điều kiện và
nhiệm vụ mới trong đời sống. Theo David Wechsler, trí tuệ là năng lực chung
của nhân cách, đƣợc thể hiện trong hoạt động có mục đích và làm cho cơ thể
thích nghi với các điều kiện môi trƣờng [127].
Sở dĩ có nhiều định nghĩa khác nhau vì năng lực trí tuệ đƣợc biểu hiện
dƣới nhiều dạng và liên quan đến nhiều hiện tƣợng tâm lý khác nhau. Cho đến
nay chƣa có một định nghĩa nào về năng lực trí tuệ đƣợc đa số các nhà tâm lý
học thừa nhận. Tuy nhiên, chúng ta có thể thống nhất với quan điểm của
N.X.Leytex coi năng lực trí tuệ là khả năng nhận thức và hoạt động thực hành
của con ngƣời [37].
1.2.1.2. Nghiên cứu trên thế giới về phương pháp đánh giá năng lực trí tuệ
Lịch sử về phát triển test đánh giá trí tuệ
Ngƣời đầu tiên đề xuất tƣ tƣởng trắc nghiệm và đƣa ra thuật ngữ "trắc
nghiệm tâm lý" là Francis Galton (1822-1911), nhà nhân chủng học và tâm lý
học ngƣời Anh. Nhƣng ngƣời có công trong việc sử dụng rộng rãi thuật ngữ
này là học trò của ông - nhà tâm lý học Mỹ, J.Mc.Cattell (1860-1944), tác giả
cuốn trắc nghiệm và đo lƣờng trí tuệ (1890). Tuy nhiên phải đến sau năm 1905,
khi công trình nghiên cứu năng lực trí tuệ trẻ em từ 3 đến 15 tuổi của Alfred
Binet và T. Simon đƣợc công bố, cùng với hệ thống các trắc nghiệm để xác định
mức độ trí tuệ, thì việc sử dụng trắc nghiệm mới đƣợc sử dụng rộng rãi trên thế
giới (theo [50]. Từ đây hàng loạt các trắc nghiệm trí tuệ khác đã ra đời, bao gồm
15
thang điểm Binet- Simon (1905), trắc nghiệm Stanford-Binet (1916), thang
điểm Wechsler (1939), test Gille (1944), test Raven (1960).
Cho đến nay nhiều loại test trí tuệ (ví dụ test Raven) đã đƣợc sử dụng
rộng rãi ở các nƣớc trên thế giới nhƣ Nga, Mỹ, Ba Lan, Đức, Pháp…
Trắc nghiệm Raven
Test Raven hay trắc nghiệm khuôn hình tiếp diễn do J.C.Raven (Anh)
xây dựng và công bố năm 1936. Đây là loại trắc nghiệm phi ngôn ngữ về trí
tuệ. Sau hai lần chuẩn hóa vào các năm 1945, 1956, đến năm 1960 test Raven
đƣợc UNESCO chính thức sử dụng để chẩn đoán trí tuệ của con ngƣời. Đến
nay test này đã đƣợc sử dụng rộng rãi ở nhiều nƣớc trên thế giới.
Khi thực hiện các bài trắc nghiệm này, các quá trình tâm lý cơ bản đƣợc
thể hiện là chú ý, tri giác và tƣ duy.
Test Raven đƣợc dùng để đo năng lực tƣ duy trên bình diện rộng nhất và
đƣợc sử dụng rộng rãi cho cá nhân cũng nhƣ cho nhóm ngƣời có độ tuổi từ 6
đến 60. Toàn bộ test gồm 60 bài tập, chia làm 5 bộ A,B,C,D,E, mỗi bộ gồm 12
bài tập (khuôn hình) đƣợc đánh dấu nhƣ sau: A1- A12; B1- B12; C1- C12;
D1- D12; E1- E12. Các bài tập từ 1-12, từ A - E đƣợc xây dựng theo mức độ
phức tạp dần. Do đó trong bộ test Raven, bài dễ nhất là bài 1 của bộ A, tức là
khuôn hình A, bài khó nhất là bài E12. Trật tự này đƣợc xem nhƣ một phƣơng
thức hƣớng dẫn làm việc. Các bộ A-E đƣợc xây dựng theo các nguyên tắc sau:
+ Bộ A: thể hiện tính liên tục, toàn vẹn của cấu trúc.
+ Bộ B: thể hiện sự giống nhau giữa các cặp hình.
+ Bộ C: thể hiện sự thay đổi tiếp diễn trong các cấu trúc.
+ Bộ D: thể hiện sự thay đổi logic vị trí các hình .
+ Bộ E: thể hiện sự phân tích cấu trúc các bộ phận trắc nghiệm .
16
Năm bộ bài tập là 5 cách đánh giá về năng lực trí tuệ của cá nhân. Tổng
điểm số của từng cá nhân là một chỉ số về năng lực trí tuệ.
Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, sự vắng mặt của các bài tập ngôn
ngữ trong test Raven cho phép loại trừ, trong một mức độ nào đó, ảnh hƣởng
của trình độ học vấn, kinh nghiệm sống và những khác biệt về văn hóa xã hội
của đối tƣợng nghiên cứu. Do vậy, test này có thể sử dụng rộng rãi trên nhiều
loại đối tƣợng. Một ƣu điểm nữa của test Raven là kỹ thuật tiến hành và xử lý
test tƣơng đối đơn giản, đòi hỏi ít thời gian và có thể nghiên cứu trên nhiều đối
tƣợng cùng một lúc. Nhƣợc điểm của test Raven là chỉ cho biết kết quả cuối
cùng mà không cho biết quá trình đi đến kết quả. Do đó, để đánh giá một cách
chính xác về năng lực trí tuệ chung cần phải sử dụng bổ sung các phƣơng pháp
khác [1], [55].
1.2.1.3. Sơ lược về tình hình sử dụng test nghiên cứu trí tuệ tại Việt Nam
Cùng với xu hƣớng phát triển chung của thế giới, một số test trí tuệ đã và
đang đƣợc sử dụng ở Việt Nam. Trƣớc những năm 80, vấn đề test trí tuệ rất ít
đƣợc đề cập tới. Tuy nhiên trong thời kỳ này, bệnh viện Bạch Mai và bệnh viện
Nhi Thụy Điển đã sử dụng một vài loại test (WAIS, Denver) để chẩn đoán tình
trạng trí lực của bệnh nhân tâm thần. Trƣờng đại học Sƣ phạm Hà Nội cũng đã có
một số công trình nghiên cứu ứng dụng test trong đánh giá kết quả học tập của sinh
viên nhƣ công trình của Trần Bá Hoành (1971), Nguyễn Long (1978) (theo [1]).
Từ những năm 80 đến nay, test trí tuệ đã đƣợc ứng dụng nhiều ở Việt
Nam. Hai cơ sở có đóng góp quan trọng trong lĩnh vực này là Viện Tâm-Sinh
lý lứa tuổi, thuộc Viện Khoa học giáo dục Việt Nam và trung tâm nghiên cứu
trẻ em Hà Nội. Các cán bộ của 2 cơ sở này đã tiến hành nhiều công trình thích
nghi hóa test WISC (1987), test Gille (1989) và test Raven (1991) ở Việt Nam
và sử dụng để nghiên cứu trí tuệ của học sinh. Trong những năm gần đây, cán
bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên khoa Sinh - Kỹ
17
thuật nông nghiệp và khoa Tâm lý - Giáo dục trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà
Nội đã sử dụng test Raven và test Gille để nghiên cứu trí tuệ của học sinh,
sinh viên Việt Nam. Đó là các công trình nghiên cứu bằng test Raven của
Nguyễn Thạc và Lê Văn Hồng [47], Trần Thị Loan [40], Ngô Thị Kim Thoa
[49], Mai Văn Hƣng [33] và các công trình nghiên cứu bằng test Gille của
Nguyễn Thạc [47]. Một số trƣờng phổ thông cũng đã sử dụng test trí tuệ trong
việc tuyển chọn học sinh nhƣ trƣờng dân lập Mari-Curi (sử dụng test Raven),
trƣờng dân lập Đông Đô (sử dụng test Gille)…Đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về lĩnh vực này nhƣ công trình nghiên cứu trí tuệ của học sinh cấp
I. II, III và của sinh viên đại học [25], [28], [33], [40], [49], [36]. Nhƣ vậy,
trong số các test trí tuệ, test Raven là một trong những test đƣợc sử dụng rộng
rãi nhất (theo [1]).
1.2.1.4. Một số yếu tố di truyền, môi trường ảnh hưởng đến hoạt động trí tuệ
Di truyền tác động lên trí thông minh
Vai trò của di truyền và môi trƣờng tác động lên trí thông minh là một đề
tài nghiên cứu từ rất lâu. Khả năng thừa kế của một gene lên thế hệ sau đƣợc
biểu diễn bằng một số trong khoảng từ 0 đến 1, gọi là hệ số di truyền. Một số
nghiên cứu cho thấy hệ số di truyền trung bình ở trẻ em là 0,5, hệ số di truyền
ở ngƣời có thể lên đến 0,8. Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kì vào năm 1995 trong
công trình "Intelligence: Knowns and Unknowns" (Trí thông minh: những
điều đã biết và chƣa biết) kết luận rằng hệ số di truyền là "khoảng 0,75"[102].
Môi trường
Yếu tố môi trƣờng đóng vai trò rất lớn trong việc xác định trí thông
minh. Một số nghiên cứu về yếu tố môi trƣờng cho rằng thời kỳ thai phụ hay
lúc cho con bú nếu tiếp xúc với những loại độc tố hay thiếu các vitamin và
muối khoáng quan trọng có thể ảnh hƣởng đến chỉ số IQ của đứa bé. Trong xã
18
hội đã phát triển, môi trƣờng trong gia đình có thể tạo ra 25% sự khác biệt về
chỉ số IQ. Tuy nhiên, khi lớn lên, điều này hầu nhƣ biến mất [128].
Sự chậm phát triển trí não
Khoảng 75-80% số trẻ chậm phát triển trí não là do di truyền và 20-25%
còn lại là do những nguyên nhân bên trong cơ thể nhƣ sự bất thƣờng ở các
nhiễm sắc thể hay chấn thƣơng ở não [128].
Nghiên cứu của Trung tâm Điều khiển và Phòng chống Dịch bệnh
(CDC) cho thấy tỉ lệ mắc chứng kém phát triển trí tuệ ở nam cao hơn ở nữ.
Đối với chủng tộc, tỉ lệ chung về mắc chứng kém phát triển trí tuệ là 1,66%
cho ngƣời da đen và 0,68% cho ngƣời da trắng. Đối với nam ngƣời da đen có
tỉ lệ cao nhất, gấp 1,7 lần so với nữ da đen; 2,4 lần so với nam da trắng và 3,1
lần so với nữ da trắng. Ở Hoa Kì những ngƣời có chỉ số IQ dƣới 70 sẽ đƣợc
miễn tội tử hình từ năm 2002 [128].
Sự quay lại
Sự di truyền chỉ số IQ của một đứa trẻ bị ảnh hƣởng từ IQ của cha mẹ.
Hệ số di truyền của chỉ số IQ luôn nhỏ hơn 1 nên chỉ số IQ của đứa trẻ sẽ có
xu hƣớng quay lại về chỉ số IQ chuẩn của dân số chung. Hiệu ứng trên có thể
: chỉ số IQ dự đoán của đứa trẻ
: h2: hệ số di truyền của chỉ số IQ.
m và f: chỉ số thông minh của mẹ và bố đứa trẻ.
đƣợc biểu diễn bởi công thức:
Vì vậy, nếu hệ số di truyền là 50%, một cặp vợ chồng có IQ trung bình
là 120 và sống trong xã hội có IQ trung bình là 100 thì con của họ có nhiều
khả năng có IQ là 110 [128].
19
Hiệu ứng Flynn
Trên toàn thế giới, chỉ số IQ tăng một cách chậm chạp, đƣợc gọi là hiệu
ứng Flynn (1999). Hiệu ứng Flynn đƣợc quan sát từ lâu nhƣng rất khó giải thích.
Sự liên quan giữa chỉ số IQ và chủng tộc
Chỉ số IQ của các chủng tộc khác nhau trên thế giới đƣợc nghiên cứu
vào năm 1981. Ngƣời Do Thái và Đông Á có phân bố thang IQ cao hơn ngƣời
Châu Âu, trong khi những ngƣời Latin và ở vùng hạ Sahara lại có thang IQ thấp
hơn. Một số nhà khoa học cho rằng đó là do sự khác nhau trong những điều kiện
kinh tế xã hội, nhƣng giả thiết trên vẫn chƣa đƣợc chấp nhận hoàn toàn [102].
Sức khỏe và chỉ số IQ
Một ngƣời có trí thông minh cao thƣờng ít bị bệnh hơn và sống lâu hơn. Điều
đó có thể là do họ có khả năng né tránh những chấn thƣơng tốt hơn và chăm sóc sức
khỏe của mình tốt hơn, mặt khác họ thƣờng có đời sống kinh tế khá giả hơn [109].
Nghiên cứu ở Scotland cho thấy những ngƣời có chỉ số IQ thấp hơn bình thƣờng 15
điểm thì họ sẽ mất đi một phần năm cơ hội mừng sinh nhật thứ 76 của mình. Những
ngƣời có chỉ số IQ thấp hơn 30 điểm thì tỉ lệ đó lên đến 37% [90].
Sự phát triển kinh tế và chỉ số IQ
Một cuốn sách gây tranh cãi “IQ and the Wealth of Nations” (IQ và sự
thịnh vƣợng của quốc gia) cho rằng sự giàu có của một quốc gia, phần lớn có
thể giải thích bằng cách nhìn vào chỉ số IQ trung bình của nƣớc đó. Thông tin
này đang đƣợc đặt câu hỏi để nghiên cứu thêm [128].
1.2.2. Trí nhớ
Bản chất của trí nhớ (memory) là quá trình hoạt động thần kinh lặp lại
trên một mạch neuron. Mạch neuron này dẫn truyền xung động cảm giác do
kích thích từ bên ngoài vào trung tâm thần kinh (dẫn truyền hƣớng tâm).
Mạch xung động đó là con đƣờng mới (new pathways) hay còn gọi là con
20
đƣờng mòn dấu vết nhớ. Sau đó nếu không có kích thích bên ngoài, nhƣng nếu
tâm trí ta nghĩ tới thì có thể hoạt hóa con đƣờng mòn đó và nhớ lại đƣợc [39].
Trí nhớ là khả năng lƣu giữ thông tin từ môi trƣờng bên ngoài tác động
lên cơ thể, cũng nhƣ các phản ứng xảy ra trong cơ thể và tái hiện lại những
thông tin đã đƣợc lƣu giữ hoặc những kinh nghiệm cũ và sử dụng chúng trong
lĩnh vực ý thức hoặc tập tính. Nơi lƣu giữ thông tin chủ yếu là các cấu trúc
của vỏ não hoặc dƣới vỏ. Trí nhớ liên quan đến quá trình học tập, nhờ đó mà
chúng ta có đƣợc kỹ năng học tập, kỹ năng lao động và tiếp thu đƣợc các kiến
thức khoa học. Trí nhớ ngắn hạn là nhớ kéo dài đƣợc từ vài ngày đến vài tuần,
đó là những thông tin cần thiết cho nhu cầu cơ thể trong một giai đoạn nhất định,
sau đó mất đi hoặc chuyển thành trí nhớ dài hạn. Trí nhớ ngắn hạn liên quan với
sự tuần hoàn của các luồng xung động thần kinh trong các vòng neuron. Các
luồng xung động này dễ bị mất do thuốc gây mê, shock, chấn động cơ học...Cơ
chế của trí nhớ ngắn hạn là kết quả của sự tăng giải phóng chất truyền đạt thần
kinh và kéo dài thời gian dẫn truyền xung động qua synap. Cơ chế này không
gây biến đổi cấu trúc thần kinh [32], [39].
Trí nhớ ngắn hạn là một trong những chỉ số thần kinh thường được dùng
để đánh giá trí lực.
Các công trình nghiên cứu thực nghiệm và các quan sát lâm sàng cho
thấy có nhiều cấu trúc thần kinh trong não liên quan với trí nhớ, trong đó quan
trọng nhất là hệ limbic và vỏ não mới. Các vùng trong hệ limbic đáng chú ý là
hồi hải mã, hồi đai, phức hợp hạnh nhân và thể vú, còn các vùng vỏ não mới
có liên quan với trí nhớ là vùng trán và vùng thái dƣơng.
Mỗi vùng nói trên có chức năng khác nhau đối với việc ghi nhớ các
thông tin nhận đƣợc. Ví dụ, các tài liệu lâm sàng cho thấy, ở ngƣời nếu bị tổn
thƣơng hồi đai thì quá trình phục hồi trí nhớ sẽ bị rối loạn; tổn thƣơng thể vú
thì quá trình hình thành các dấu vết (trí nhớ) sẽ bị chậm lại và bị suy giảm trí
21
nhớ logic; tổn thƣơng thể hạnh nhân thì thời gian duy trì trí nhớ ngắn hạn bị
rút ngắn; tổn thƣơng hippocamp (nếu bị tổn thƣơng ở cả hai phía) sẽ bị mất trí
nhớ ngắn hạn, không nhớ đƣợc những sự kiện, hiện tƣợng vừa mới xảy ra, trí
nhớ logic cũng bị giảm. Trên hình 1.1 thấy rõ các vùng có liên quan với trí
nhớ thuộc hippocamp. Cụ thể là vùng CA3 có tác dụng làm giảm trí nhớ, còn
vùng CA2 và CA1 có tác dụng làm tăng trí nhớ trong hippocamp.
Hình 1.1. Các vùng trong hippocamp (CA1, CA2, CA3) có liên quan đến trí nhớ * Nguồn: Đỗ Công Huỳnh, Trần Hải Anh, Tạp chí Sinh lý học Việt Nam (2005) [31]
Do trí nhớ liên quan với nhiều vùng khác nhau của não bộ, cho nên trong
các thí nghiệm cắt bỏ nhiều vùng rộng lớn trong não vẫn không làm cho trí
nhớ mất hoàn toàn [31].
Trí nhớ của con ngƣời là một quá trình hoạt động tích cực và phức tạp.
Trí nhớ có vai trò quan trọng trong học tập cũng nhƣ trong xử lý thông tin
trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Ở các độ tuổi khác nhau thì trí nhớ
cũng khác nhau. Nghiên cứu về khả năng nhớ của Trần Thị Loan [40] trên
học sinh từ 6 đến 17 tuổi cho thấy khả năng nhớ ngắn hạn của học sinh tăng
theo tuổi nhƣng không đều, từ 6 đến 11 tuổi tăng nhanh, đặc biệt là từ 9 đến
11, từ 11đến 17 tuổi tăng chậm hơn. Nghiên cứu của Mai Văn Hƣng [33] trên
sinh viên đại học sƣ phạm Hà Nội cho thấy trí nhớ ở các sinh viên này chủ
yếu thuộc loại khá và giỏi. Nghiên cứu của Lại Thế Luyện về biểu hiện stress
22
trên sinh viên trƣờng Đại học Sƣ phạm Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy có
biểu hiện giảm trí nhớ cao thứ hai sau khó tập trung chú ý [41].
Theo J. Lazaus, stress làm tổn thƣơng trí nhớ, gây ra sự bất ổn về tinh
thần, không có khả năng tập trung, do dự, thiếu quyết đoán, thiếu chú ý, đầu
óc trống rỗng…là những triệu chứng thƣờng xuất hiện. Nhiều nghiên cứu cho
thấy khi bị căng thẳng lúc làm việc, các thông số tâm lý nhƣ trí nhớ, tƣ duy và
chú ý đều giảm một cách đáng kể [5].
Tác động của căng thẳng lên quá trình học tập và trí nhớ là những khía
cạnh thiết yếu của chức năng não của con ngƣời. Điều này đặc biệt đúng trong
điều kiện stress. Trong điều kiện căng thẳng, chúng ta có khả năng tìm hiểu
và giải thích ý nghĩa dự đoán các kích thích môi trƣờng. Điều này rất quan
trọng cho việc lựa chọn các chiến lƣợc đối phó thích hợp đối với các tác nhân
đe dọa [82]. Nhiều nghiên cứu [41], [110] đã chỉ ra rằng stress ảnh hƣởng đến
học tập, trí nhớ và nhiều bằng chứng cho thấy các glucocorticoid và
catecholamine là những chất chính phản ứng lại những kích thích gây căng
thẳng, tác động lên quá trình nhận thức [82], [87], [96]. Ví dụ, các
glucocorticoid điều chỉnh học tập không gian ở chuột, cũng nhƣ củng cố trí
nhớ và phục hồi trí nhớ ở ngƣời. Tuy nhiên, tác dụng của các chất trung gian
căng thẳng lên học tập và trí nhớ rất phức tạp. Căng thẳng đôi khi tạo điều
kiện thuận lợi nhƣng có khi gây bất lợi cho quá trình học tập và ghi nhớ. Các
yếu tố nhƣ thời điểm điều hòa hoạt động căng thẳng, thời gian tác dụng của
thần kinh tự chủ hay khuấy động tình cảm và loại căng thẳng ảnh hƣởng đến
kết quả này. Các câu hỏi ảnh hƣởng lâu dài của stress đến học tập và trí nhớ
vẫn cần đƣợc trả lời [82], [112]. Các nghiên cứu gần đây cho thấy các kích
thích gây trạng thái căng thẳng xảy ra trong hoặc ngay sau khi học tập, chủ yếu
làm tăng trí nhớ sau này. Ngƣợc lại, căng thẳng đƣợc gây ra một thời gian nhất
định trƣớc hoặc sau khi học tập làm giảm tác dụng của căng thẳng trong việc
23
phục hồi trí nhớ. Hiện nay có hai mô hình chính giải thích cho điều này [87],
[112], [116], [117].
Mô hình thứ nhất cho rằng tác động ngƣợc của stress về học tập và trí
nhớ phụ thuộc chủ yếu vào trải nghiệm căng thẳng về học tập, thời gian của
các sự kiện cũng nhƣ thời gian giải phóng catecholamine và glucocorticoid
khác nhau. Dựa trên những phát hiện của Joels và các đồng nghiệp [87] kết
luận rằng thời điểm khởi phát căng thẳng là quan trọng, ảnh hƣởng đến quá
trình học tập và ghi nhớ. Các nhà khoa học cho rằng các tác động phụ thuộc
vào thời gian căng thẳng đƣợc giải thích bằng hoạt động khác nhau của stress
trên các tế bào não và hệ thống chức năng liên quan đến các chất truyền đạt
thần kinh và hormon. Theo thuyết này, hệ thần kinh tự chủ đƣợc khởi động
đầu tiên khi cơ thể bị tác động của kích thích gây stress (hoạt động của hệ này
thông qua catecholamin). Catecholamin tác dụng nhanh chóng và hiệu ứng
tƣơng đối ngắn. Hoạt động của glucocorticoid chủ yếu hoạt hóa hệ gen trong
tế bào, tức là chậm và lâu dài. Ngoài các tác động thông qua hoạt hóa hệ gen,
glucocorticoid có tác dụng nhanh chóng, không qua hoạt hóa hệ gen mà tác
dụng gián tiếp lên các receptor màng tế bào [76]. Tác dụng nhanh của
catecholamin và các glucocorticoid không thông qua hoạt hóa hệ gen trong tế
bào, tạo điều kiện cho việc hình thành những ký ức mới, hình dạng nhận thức
và sự quan tâm đối với các căng thẳng. Ngƣợc lại, tác dụng chậm của các
glucocorticoid thông qua hoạt hóa hệ gen trong tế bào phải mất hàng chục
phút sau khi tiếp xúc căng thẳng, ngăn chặn thông tin không liên quan đến
stressor và tăng cƣờng củng cố nhớ các thông tin liên quan đến stressor. Nếu
căng thẳng là nhƣ vậy, kinh nghiệm trong quá trình học tập, những tác động
ban đầu của hoạt động điều hòa căng thẳng và tác động muộn của các
glucocorticoid lên củng cố trí nhớ sẽ tăng cƣờng hiệu suất hoạt động của bộ
nhớ sau này. Tuy nhiên, nếu sự xuất hiện của các kích thích gây căng thẳng xảy
ra tại một thời gian dài trƣớc khi học hoặc một thời gian ngắn trƣớc khi phục
24
hồi trí nhớ, hoạt động của glucocorticoid thông qua hoạt hóa hệ gen trong tế
bào có thể ngăn chặn quá trình xử lý thông tin mới, làm giảm trí nhớ sẽ ảnh
hƣởng xấu tới việc học tập mới và phục hồi các thông tin cũ [82], [116], [117].
Mô hình của thuyết này đƣợc biểu hiện trên hình 1.2
(a) Nếu căng thẳng xảy ra xung quanh khoảng thời gian trải nghiệm học
tập, hoạt động của catecholamin và glucocorticoid không thông qua hoạt hóa
hệ gen trong tế bào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình mã hóa và do đó
tăng cƣờng trí nhớ tiếp theo.
(b) Nếu căng thẳng xảy ra tại một thời gian đáng kể trƣớc khi học tập,
hoạt động của glucocorticoid thông qua hoạt hóa hệ gen trong tế bào có thể ức
chế xử lý thông tin và làm giảm trí nhớ, không liên quan đến sự giải phóng
Học tập/ stress
Mã hóa Củng cố Lưu trữ
Tạo đk thuận lợi
Ngăn chặn xử lý thông tin
Noradrenaline Glucocorticoids
Glucocorticoids
Stress
Học tập
Mã hóa Củng cố Lưu trữ
Ngăn chặn xử lý thông tin
Noradrenaline Glucocorticoids
Glucocorticoids
hormon stress.
Hình 1.2. Tác động ngược của stress về học tập và trí nhớ
*Nguồn: Theo Lars Schwabea, Stress effects on memory, 2012 [117].
25
Mô hình thứ hai cho rằng kinh nghiệm học tập cùng với sự khuấy động
cảm xúc (stress) có tác dụng trên cả hai yếu tố củng cố và phục hồi trí nhớ,
kích thích đồng thời glucocorticoid và các sợi adrenergic hoạt động ở phần
đáy bên của hạch hạnh nhân [112], [117]. Glucocorticoid đƣợc giải phóng
trong giai đoạn căng thẳng có thể dễ dàng vƣợt qua hàng rào máu - não và
liên kết với thụ thể mineralocorticoid và thụ thể glucocorticoid trong vùng
não limbic. Ngƣợc lại, catecholamine không thể vƣợt qua hàng rào máu - não,
chúng kích hoạt các sợi adrenergic thuộc dây hƣớng tâm của thần kinh số X,
sau đó dừng lại trong bó thần kinh đơn độc. Sợi adrenergic trong bó thần kinh
đơn độc kích thích các hạch hạnh nhân đáy bên trực tiếp hoặc gián tiếp thông
qua locus ceruleus. Trong hạch hạnh nhân đáy bên, β adrenoceptor gắn trực
tiếp với adenylcyclase để kích thích hình thành AMP vòng. Glucocorticoid
tƣơng tác với hệ thống noradrenergic tại màng trƣớc synap và màng sau synap
gây ảnh hƣởng đến quá trình ghi nhớ. Bằng chứng gần đây cho thấy những
hiệu ứng nhanh chóng của glucocorticoid trên hệ thống noradrenergic có thể
là do tác dụng với các receptor màng, hoạt hóa protein- G kép. Proteinkinase
G kích thích một chuỗi enzym theo kiểu dòng thác gây biến đổi nhanh trong
tế bào thần kinh dễ bị kích thích [63], [117]. Cuối cùng, glucocorticoid và
catecholamin do kích hoạt của hạch hạnh nhân đáy bên có thể điều chỉnh quá
trình ghi nhớ trong các vùng não khác nhƣ vùng đồi thị và vỏ não trƣớc trán
(hình 1.3).
Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy hiệu ứng căng thẳng tác động vào bộ
nhớ giảm sau khi glucocorticoid bị phong tỏa hoặc sau khi giảm kích thích
các sợi adrenergic và khi tổn thƣơng hoặc ngừng hoạt động của hạch hạnh
nhân đáy bên [117].
Bắt đầu củng cố trí nhớ
Kinh nghiệm học tập
Vỏ não
Hạch hạnh
vùng trán
26
Hồi hải mã, nhân đuôi, các vùng não khác
NA
noadrenalin
i
Ảnh hưởng của điều chỉnh
ị v ế h p
h n k n ầ h t y â D
Hàng rào máu não
Tuyến
thượng thận
nhân đáy bên
Hình 1.3. Glucocorticoid tương tác với hệ thống noradrenergic gây
ảnh hưởng đến quá trình ghi nhớ
*Nguồn: Theo Lars Schwabea, Stress effects on memory, 2012 [117]
1.2.3. Khả năng chú ý
Chú ý là sự định hƣớng tích cực của ý thức con ngƣời vào một số hiện
tƣợng và đối tƣợng nhất định, đồng thời tách chúng ra khỏi các hiện tƣợng và
đối tƣợng khác. M.Miler, nhà tâm - sinh lý cho rằng khi một phức hợp các
kích thích gây ra phản ứng và loại trừ tác dụng của tất cả các tín hiệu còn lại
đƣợc gọi là sự chọn lọc và chọn lọc này chính là sự chú ý. Các nhà sinh lý học
cho rằng chú ý là phản xạ “cái gì đó” hay là phản xạ định hƣớng, phản xạ tìm tòi.
Tùy thuộc vào mức độ chú ý, trong tâm lý học chia chú ý làm ba loại .
27
- Chú ý không chủ định là chú ý không có mục đích trƣớc cho nên không
có sự cố gắng, khắc phục khó khăn để tập trung chú ý, mà do đối tƣợng có
những đặc điểm khác biệt nổi bật, hấp dẫn và lôi cuốn về màu sắc, hình dáng,
âm thanh, mùi vị, khối lƣợng, tốc độ... Đây là cơ sở của các ''mốt'' và sự
quảng cáo, thu hút sự chú ý không chủ định của con ngƣời.
- Chú ý có chủ định là chú ý có mục đích trƣớc, cho nên có kế hoạch trƣớc
để khắc phục khó khăn, tập trung chú ý, nhƣ sự chú ý trong học tập và làm việc.
Hai loại chú ý này dễ chuyển hoá lẫn nhau, từ chú ý không chủ định
sang chú ý có chủ định và ngƣợc lại.
- Chú ý sau chủ định nảy sinh từ chú ý có chủ định. Lúc đầu ngƣời ta
phải nỗ lực ý chí để buộc mình tập trung vào một việc gì đó, nhƣng về sau ý
thức đƣợc tập trung vào đối tƣợng sẽ hoạt động một cách tự nhiên.
Ngoài ra còn có chú ý cảm xúc là chú ý xảy ra sau một chấn thƣơng tinh
thần do sự qua đời của ngƣời thân hay sự phản bội của bạn bè. Chấn thƣơng tinh
thần ấy để lại một dấu ấn trong tâm trí con ngƣời, dù muốn hay không muốn, nó
cứ tồn tại lâu trong tâm trí, kéo dài hàng tháng hay hàng năm [32], [29].
Chú ý là một hoạt động tâm lý phức tạp liên quan đến các quá trình sinh
lý thần kinh. Tại Việt Nam, khi nghiên cứu trên đối tƣợng là học sinh, Trần
Thị Loan nhận thấy sự tăng nhanh khả năng chú ý của nam, nữ học sinh cũng
nằm trong khoảng thời gian tăng nhanh khả năng nhớ và thời gian phát triển,
hoàn thiện về mặt cấu trúc, chức năng của não bộ [40]. Nghiên cứu của một
số tác giả cho thấy biểu hiện stress rõ nhất và chiếm thứ bậc cao nhất trên sinh
viên đó là khó tập trung chú ý [41].
1.2.4. Thời gian phản xạ thị giác - vận động, tốc độ xử lý thông tin
Phản xạ là đáp ứng của cơ thể đối với các kích thích từ môi trƣờng bên
trong hoặc bên ngoài cơ thể thông qua hệ thần kinh trung ƣơng. Phản xạ có
nhiều loại: phản xạ đơn giản, phản xạ phức tạp, phản xạ có điều kiện, phản xạ
không điều kiện, phản xạ định hƣớng...
28
Cung phản xạ là đƣờng đi của xung thần kinh từ cơ quan đƣợc kích thích
tới cơ quan đáp ứng. Một cung phản xạ cơ bản gồm 5 bộ phận đó là cơ quan
cảm giác, đƣờng dẫn truyền hƣớng tâm, trung khu thần kinh, đƣờng dẫn
truyền ly tâm và cơ quan đáp ứng. Cung phản xạ chỉ hoạt động khi toàn vẹn
về cấu trúc và chức năng. Cung phản xạ phức tạp, ngoài 5 bộ phận trên còn có
một số bộ phận khác. Ví dụ có sự tham gia của nhiều trung khu thần kinh nằm
ở các tầng khác nhau trong hệ thần kinh trung ƣơng, có sự tham gia của các
yếu tố thể dịch (các hormon, các sản phẩm chuyển hóa) và có đƣờng thông
báo ngƣợc [44].
Thông tin đến với con ngƣời rất đa dạng, qua nhiều kênh khác nhau: thị
giác (ánh sáng) chiếm tới 90%, thính giác (âm thanh), xúc giác (tiếp xúc)...Để
đánh giá chức năng phản xạ đối với cơ thể, ví dụ phản xạ thị giác - vận động,
ngƣời ta có nhiều phƣơng pháp đo khác nhau, trong đó có chƣơng trình
nghiên cứu của nhóm Z1, Học viện Quân y [11] dựa trên kỹ thuật xử lý trên
máy vi tính, đã khắc phục đƣợc rất nhiều nhƣợc điểm của phƣơng pháp thô sơ
trƣớc đây. Từ thời gian đo phản xạ thị giác - vận động có thể tính đƣợc tốc độ
xử lý thông tin. Đây là một chỉ số đƣợc các nhà khoa học đánh giá cao trong
việc nghiên cứu khả năng lao động trí óc. Tốc độ xử lý thông tin phụ thuộc
vào hoạt động của não bộ thông qua hai quá trình hƣng phấn và ức chế. Kết
quả nghiên cứu của Đỗ Công Huỳnh và cs [30] cho thấy thời gian phản xạ
cảm giác- vận động giảm dần theo tuổi, tuổi càng lớn (không quá 18), thời
gian phản xạ càng ngắn. Điều này chứng tỏ quá trình xử lý thông tin ngày
càng tốt hơn theo lớp tuổi. Các nghiên cứu của Tạ Thúy Lan và cộng sự, Trần
Thị Loan, Mai Văn Hƣng cũng cho kết quả tƣơng tự và thời gian phản xạ của
nữ chậm hơn so với ở nam [36], [40], [33].
29
1.2.5. Nghiên cứu về mối liên quan giữa điện não đồ và hoạt động trí tuệ
Sự căng thẳng thần kinh - cảm xúc do môi trƣờng học tập, sau các hoạt
động trí tuệ là nguyên nhân gây những biến đổi về trạng thái chức năng của
các tế bào thần kinh thuộc các cấu trúc khác nhau của não. Những biến đổi
này xuất hiện sớm và có thể nhận thấy trên hình ảnh điện não đồ. Những yếu
tố bất lợi tác động lên hệ thần kinh trung ƣơng và mức độ ảnh hƣởng của
chúng đƣợc thể hiện qua hình ảnh điện não đồ cho phép đánh giá trạng thái
căng thẳng của hệ thần kinh giao cảm - tủy thƣợng thận (do tăng tiết
catecholamin) làm giãn mạch não dẫn đến những biến đổi sớm trên hình ảnh
lƣu huyết não. Hiện nay nhiều labo thăm dò chức năng đã và đang sử dụng
các kỹ thuật điện sinh lý để thăm dò chức năng của hệ thần kinh, trong đó có
kỹ thuật ghi điện não đồ (electroencephalogram, EEG) ghi lại điện thế hoạt
động của các tế bào thần kinh.
Gottlober ghi EEG ở nhóm sinh viên bình thƣờng, đã tìm ra đƣợc mối
liên quan giữa sóng alpha và cá tính (Theo[65]). Cũng với mục đích trên
Mundy - Castle cho thấy ở những cá thể phản ứng nhanh, linh hoạt có tần số
sóng alpha cao hơn so với những ngƣời có phản ứng chậm chạp và tƣơng đối
cẩn thận. Walter cho rằng ở những ngƣời lớn thông minh, sự biến đổi EEG rõ
hơn so với những ngƣời ít thông minh. Netchine cho rằng khi IQ tăng thì EEG
cũng trở nên phức tạp hơn. Theo Rappelsberger, khi thực hiện phép tính số
học, biên độ của các sóng alpha giảm trên toàn bộ phần não sau, ở vùng trung
tâm và vùng trán phải (theo [8]).
Các tác giả ở Việt Nam cho thấy năng lực trí tuệ của học sinh phụ thuộc
vào mức độ hoàn chỉnh các phần của não bộ, thể hiện qua hình ảnh điện não
đồ. Ở các giai đoạn phát triển cá thể khác nhau sự thay đổi các chỉ số điện não
đồ theo năng lực trí tuệ không giống nhau [46]. Theo Vũ Đăng Nguyên [42],
sự thay đổi các chỉ số EEG phụ thuộc vào nhiều yếu tố gây căng thẳng thần
30
kinh. Nguyễn Thị Ty và Hoàng Ánh Tuyết [54] cho thấy biên độ và chỉ số alpha
ở đạo trình đỉnh chẩm tăng lên sau khi luyện tập khí công thƣ giãn. Nghiên cứu
của Trần Thị Cúc về EEG cho thấy khi suy nghĩ, biên độ và chỉ số sóng alpha
giảm, còn tần số và chỉ số sóng beta tăng tỷ lệ thuận với năng lực trí tuệ [8]. Nhƣ
vậy việc nghiên cứu sự thay đổi EEG lúc bình thƣờng và sau lao động trí óc là
vấn đề cần thiết, cho phép xác định khả năng hoạt động trí tuệ của từng cá thể.
1.3. TRẠNG THÁI CĂNG THẲNG CẢM XÚC
1.3.1. Khái niệm cơ bản về trạng thái căng thẳng cảm xúc
Trạng thái căng thẳng cảm xúc là một quá trình phức tạp liên quan đến
xã hội, yếu tố tâm lý và sinh lý.
Khái niệm stress đầu tiên do Hans Sélye, chuyên gia nội tiết Canada
gốc Áo đƣa ra năm 1936. Theo tác giả, stress là trạng thái của cơ thể phát sinh
khi bị tác động mạnh của các yếu tố từ bên ngoài hoặc bên trong cơ thể.
Trong đó, cơ thể phải thay đổi đột ngột chương trình hoạt động sinh học,
nhằm đảm bảo cân bằng nội môi. Những phản ứng của cơ thể trong trạng thái
stress đƣợc coi là hội chứng thích ứng chung (GAS - general adaptation
syndrome). Các kích thích gây trạng thái stress đƣợc gọi là các stressor, có thể
là các yếu tố hóa học, lý học, sinh học, mất máu, những cảm xúc mạnh đột ngột.
Sự thay đổi chế độ làm việc, thay đổi chỗ ở đều có thể gây ra trạng thái stress
[17], [32].
Trong khi Sélye lần đầu tiên đƣa ra khái niệm về stress, Cannon là nhà
nghiên cứu đầu tiên mô tả một cách khái quát một phản ứng đối với sự đe dọa
mà ông gọi là phản ứng “Chống hoặc chạy” (fight or flight). Cannon cho
rằng khi một sinh vật đƣơng đầu với một sự đe dọa sự sống còn của mình, thì
các biến đổi sinh lý sẽ xảy ra theo một mô hình đã đƣợc “cài đặt” sẵn do sự
kích thích hệ giao cảm tủy thƣợng thận làm tăng tiết catecholamin, giúp cho
cơ thể chống lại hoặc thoát khỏi sự kích thích đe dọa đó.
31
Theo thuyết tâm lý, stress xuất hiện khi cá nhân nhận thấy rằng họ không
thể ứng phó/ đáp ứng đƣợc với những yêu cầu đối với họ hoặc đe dọa sự tồn
tại sức khỏe của họ. Stress là kết quả của sự mất cân bằng giữa nhu cầu nhận
thức từ môi trƣờng và nguồn lực của cá nhân đƣợc nhận thức để đáp ứng với
những yêu cầu đó [74]. Một định nghĩa đơn giản về stress có thể đƣợc sử
dụng là stress xuất hiện khi áp lực vƣợt quá khả năng thông thƣờng của bạn
để ứng phó. Theo các định nghĩa này, stress đƣợc hiểu dƣới góc độ một hiện
tƣợng nhận thức của cá nhân, trong mối quan hệ giữa con ngƣời và môi trƣờng
bên ngoài. Tuy nhiên yếu tố môi trƣờng không quyết định mức độ của stress
mà chính việc nhìn nhận của con ngƣời về kích thích từ môi trƣờng mới quyết
định mức độ căng thẳng của sự kiện đó.
Theo thuyết stress nghề nghiệp thì stress nghề nghiệp là sự mất cân bằng
giữa yêu cầu nghề nghiệp và khả năng cá nhân để hoàn thành công việc.
Nghiên cứu gần đây của Ursin và cs [124] về lý thuyết hoạt động nhận
thức của stress (cognitive activation theory of stress - CATS) đã nhấn mạnh
các quá trình nhận thức và kích hoạt các quá trình sinh lý thần kinh. Theo tác
giả thuật ngữ “stress” bao gồm bốn khía cạnh, đó là sự kích thích căng thẳng,
kinh nghiệm của các căng thẳng, các phản ứng sinh lý không đặc hiệu với
căng thẳng và kinh nghiệm của các phản ứng căng thẳng. Đáp ứng sinh lý
stress phụ thuộc vào thẩm định của cá nhân về trạng thái căng thẳng. Thẩm
định gồm hai giai đoạn: giai đoạn đầu liên quan đến việc xác định các yếu tố
kích thích và những hệ quả của nó, ví dụ nhƣ yếu tố kích thích là có hại, đe
dọa hoặc thách thức. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn thẩm định liên quan đến
việc làm thế nào dung hòa đƣợc các yếu tố kích thích gây stress và xác định
chiến lƣợc đối phó. Nếu các biện pháp đối phó không có hiệu quả, stress kéo
dài có thể xuất hiện và gây ảnh hƣởng đến chức năng. Theo CATS bệnh chỉ
xảy ra khi không có sự đáp ứng đối phó thích hợp, điều đó có thể dẫn đến cảm
giác bất lực và tuyệt vọng.
32
Những yếu tố gây stress có thể chia thành nhiều nhóm theo đặc trƣng của
nó, đó là yếu tố thực thể hay xã hội hoặc tâm lý, theo thời gian (cấp tính hoặc
mạn tính) và cƣờng độ. Trong cuộc sống thực tế, nhiều yếu tố gây stress đƣợc
trộn lẫn và phối hợp với nhau [97]. Các yếu tố gây stress điển hình và thƣờng
xuyên xảy ra nhƣ áp lực thời gian, tiếng ồn, nhiệm vụ khó khăn, phải thực
hiện kéo dài, tốc độ làm việc cao và xung đột xã hội.
Ngày nay, phần lớn các tác nhân gây stress đều có bản chất tâm lý - xã hội,
vì thế không còn tuân theo các giải pháp “chống hoặc chạy” nữa, tuy nhiên sự
hoạt hóa sinh lý vẫn xảy ra. Khi đối đầu với một mối đe dọa về thể chất, sự
hoạt hóa này tƣơng đối ngắn. Chúng ta hoặc sẽ giải quyết thành công mối đe
dọa này hoặc là sẽ bị giết chết. Nhƣng đối với những tác nhân gây stress về tâm
lý - xã hội, sự hoạt hóa sẽ xảy ra thƣờng xuyên và trong một thời gian dài.
Muốn quản lý đƣợc căng thẳng và có chiến lƣợc đối phó thích hợp cần phải xác
định đƣợc các yếu tố qui định mức độ và khả năng thích ứng với căng thẳng.
Các yếu tố qui định mức độ căng thẳng:
- Cƣờng độ của kích thích mạnh, bất ngờ gây stress cấp tính nhƣ đối tƣợng
nhìn thấy đám cháy, đám nổ lớn, hoặc trực tiếp bị đe doạ tính mạng hay ngƣời
thân bị chết đột ngột. Một sự tàn khốc quá sức chịu đựng nhƣ chứng kiến sự tàn
bạo đẫm máu do giao tranh, khủng bố. Stress mạn tính: ngƣời bệnh bị ngƣợc đãi,
học sinh tâm lý bị dồn nén trong thi cử - học hành, những ngƣời làm việc quá
khả năng của mình kéo dài, những cặp vợ chồng hôn nhân không hạnh phúc.
- Thời gian và tần số của kích thích cùng với sự xuất hiện chắc chắn của
stress ảnh hƣởng lên sự nhận định của đối tƣợng. Khi một sự kiện trở nên
chắc chắn sẽ xảy đến, đối tƣợng sẽ nhận thấy nó càng lúc càng có tính thách
thức và đe dọa. Ví dụ những thí sinh chuẩn bị thi sẽ càng bị lo âu hơn khi kỳ
thi đến gần. Một khi kỳ thi thực sự bắt đầu, sẽ có sự giảm nhẹ đáng kể về cảm
xúc. Thời gian hiện diện của các tác nhân gây stress cũng thay đổi từ những
sự kiện có giới hạn về thời gian nhƣ thi cử đến những sự kiện kéo dài nhƣ
33
mâu thuẫn vợ chồng, tham gia chiến đấu hoặc mắc bệnh ung thƣ. Thời gian
và tần số xuất hiện các tác nhân gây stress (tập cộng nhỏ thành lớn) cũng
đƣợc xem là có vai trò trung tâm trong việc xác định những hậu quả tiêu cực
của stress đối với sức khỏe. Nghiên cứu về tƣơng quan dịch tễ và thực nghiệm
thấy rằng có một mối liên quan rõ rệt, tuy vừa phải, giữa tần số, cƣờng độ và
thời gian xảy ra stress với sức khỏe [51].
Khi tần số, cƣờng độ và thời gian xảy ra sự hoạt hóa sinh lý đi kèm theo
stress trở nên quá mức, nó có thể gây nên những tác dụng tai hại. Điều này
còn tùy thuộc vào sự nhận định của cá nhân về môi trƣờng sống và những kỹ
năng ứng phó của họ. Sự hoạt hóa quá mức có thể xảy ra khi cá nhân nhận
định sai lầm một sự kiện vô hại thành một sự kiện thật sự đe dọa hoặc có hại và
khi họ không có đủ những kỹ năng ứng phó hiệu quả với các tác nhân gây stress.
- Khả năng thích ứng của cơ thể với stress: quyết định mức độ stress.
Các yếu tố qui định khả năng thích ứng của cơ thể
- Khả năng nhận biết và tiên đoán stress. Việc đầu tiên là chúng ta cần
nhận ra các dấu hiệu của stress. Các dấu hiệu stress bao gồm những biểu hiện
về tâm thần, thể chất và các mối quan hệ xã hội. Cụ thể là sự mệt mỏi, tự
nhiên thèm ăn hoặc bỏ ăn, đau đầu, khóc, mất ngủ hoặc là ngủ quên. Ngoài ra,
tìm đến rƣợu, thuốc, hoặc những biểu hiện khó chịu khác cũng là những dấu
hiệu của căng thẳng. Căng thẳng còn đi kèm với cảm giác bất an, giận dữ
hoặc sợ hãi. Khả năng tiên đoán là sự biết trƣớc khi nào sự kiện sẽ xảy ra. Nói
chung, những sự kiện có thể tiên đoán đƣợc thì ít gây stress hơn những sự
kiện không tiên đoán đƣợc. Sẽ rất có lợi nếu ta biết trƣớc đƣợc những sự kiện
ngoài ý muốn có xảy ra hay không và nếu có thì xảy ra khi nào. Khả năng tiên
đoán làm giảm mức độ đe dọa, nguy hại và thách thức, bằng cách cho phép ta
chuẩn bị ứng phó sự kiện và biết đƣợc khi nào chúng ta đƣợc an toàn. Nhƣ
vậy đáp ứng sinh lý với stress không chỉ có tính không đặc hiệu (giống nhau
trong mọi điều kiện có hại) mà các biến đổi sinh lý còn tùy thuộc vào cách
thức phản ứng của đối tƣợng về hành vi và cảm xúc [51].
34
- Khả năng tiếp nhận stress. Những cá nhân có khả năng tiếp nhận stress
và giải quyết vấn đề theo hƣớng tích cực có mức độ suy giảm tâm lý ít hơn
[115]. Hãy thử để "sử dụng" stress nếu bạn không thể khắc phục, cũng không
thoát khỏi những gì đang làm phiền bạn, cố gắng sử dụng nó trong cuộc sống.
- Sự từng trải của cơ thể với stress ảnh hƣởng đến đáp ứng cortisol. Ở
những đối tƣợng có kinh nghiệm thực hiện nhiệm vụ thì mức cortisol không
tăng so với trƣớc khi làm nhiệm vụ, trong khi những đối tƣợng có ít kinh
nghiệm, mức cortisol tăng cao [113]. Kinh nghiệm học tập khởi xƣớng quá
trình củng cố trí nhớ. Thêm vào đó, sự khuấy động cảm xúc (stress) liên quan
đến kinh nghiệm học tập kích thích sự giải phóng catecholamin và
glucocorticoid từ tuyến thƣợng thận, hai hormon này tƣơng tác với nhau tại
phần đáy bên của hạch hạnh nhân có thể điều chỉnh quá trình ghi nhớ trong các
vùng não khác nhƣ vùng đồi thị và vỏ não trƣớc trán, tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình hình thành những ký ức mới, hình dạng nhận thức và sự quan tâm
đối với các căng thẳng, giúp cơ thể chống lại căng thẳng tốt hơn [117].
- Khả năng chịu đựng stress và sức đề kháng của cơ thể cũng là những
yếu tố quan trọng qui định sự thích ứng của cơ thể với stress. Khi tiếp xúc với
căng thẳng không phải ngƣời nào cũng phản ứng nhƣ nhau. Có những tình
huống gây căng thẳng cho ngƣời này nhƣng lại không có vấn đề gì với ngƣời
khác. Điều đó còn phụ thuộc vào sự mạnh, yếu về tâm lí và thể trạng của đối
tƣợng. Ví dụ: đối tƣợng luôn lo lắng một cách quá mức cho ngƣời thân hoặc
bất cứ một công việc gì, thời gian kéo dài gây phản ứng với stress [51].
- Khả năng biến đổi stress bằng cách tƣơng kế tựu kế, lợi dụng stress để
hoàn thiện. Khi đối đầu với một sự kiện gây stress, con ngƣời sẽ cố gắng "hoá
giải" sự nguy hại và phòng tránh sự đe doạ bằng những hành động thuộc về
nhận thức và hành vi nhằm chế ngự những đòi hỏi của sự kiện đƣợc nhận
định là có tính gây stress. Mỗi ngƣời sẽ lựa chọn hoặc thích nghi để phù hợp tốt
hơn với môi trƣờng hoặc thay đổi môi trƣờng để thích hợp với nhu cầu bản thân của
mình. Một kiểu cách đáp ứng cũng phải có sẵn trong "vốn sống" của mỗi ngƣời, đó
chính là bản lĩnh đƣợc sử dụng để ứng phó với các tác nhân gây stress [51].
35
1.3.2. Biểu hiện và cơ chế của trạng thái stress (hội chứng thích ứng chung)
Tùy theo cƣờng độ và đặc điểm tác động của các kích thích gây stress và tùy
đặc điểm của cá thể, mà biểu hiện của hội chứng thích ứng chung trong cơ thể có
khác nhau. Ở mức độ nhẹ các stressor thƣờng gây rối loạn từ từ trong hoạt động
của hệ thần kinh, gây mất ngủ và kèm theo là rối loạn chức năng. Ở mức độ nặng,
kích thích có cƣờng độ lớn, tác động đột ngột, các tác nhân gây stress trƣớc hết tác
động lên hệ giao cảm tủy thƣợng thận (SAM) và hệ thống dƣới đồi - tuyến yên -
tuyến thƣợng thận (HPA). Sự kích hoạt HPA cùng với SAM sẽ dẫn đến tăng
cƣờng các hoạt động bảo vệ cơ thể, nghĩa là năng lƣợng đƣợc huy động để giúp
cơ thể đáp ứng lại những kích thích gây stress (hình 1.4). Sự huy động năng lƣợng
này dẫn đến tăng hàm lƣợng đƣờng và các lipid tự do trong máu, đồng thời quá
trình đồng hóa bị giảm xuống. Việc giảm quá trình đồng hóa liên quan đến stress
kéo dài sẽ là yếu tố quan trọng gây xuất hiện bệnh tật. Trong đó biến động có ý
nghĩa cần theo dõi sớm là những biến đổi chức năng hệ tim mạch [121]. Hội
chứng thích ứng chung gồm ba giai đoạn: giai đoạn báo động, giai đoạn thích nghi
và giai đoạn suy kiệt. Khi cơ thể bị stress, giai đoạn báo động sẽ bắt đầu. Giai
đoạn này có những biến đổi về thể chất (soma). Biểu hiện nhƣ tim đập nhanh,
huyết áp hơi tăng, hồi hộp…sau đó cơ thể lâm vào trạng thái shock: giảm huyết
áp, giảm thân nhiệt, tăng tính thấm thành mạch, rối loạn điện giải... Tùy theo
cƣờng độ của kích thích gây stress, mà giai đoạn báo động có thể ngắn hoặc kéo
dài vài ngày. Nếu stress kéo dài thì giai đoạn báo động sẽ chuyển sang giai đoạn
ổn định (thích nghi hay kháng cự). Trong giai đoạn này mọi cơ chế thích ứng
chung đƣợc huy động để chống đỡ, nhằm điều hòa các rối loạn diễn ra trong giai
đoạn báo động, lập lại và duy trì trạng thái cân bằng nội môi. Nếu sức đề kháng
của cơ thể trong giai đoạn này tốt, thì các chức năng của cơ thể sẽ đƣợc phục hồi.
Nếu kích thích gây stress quá mạnh và tác động kéo dài, thì sự thích nghi của cơ
thể giảm dần và mất đi, cơ thể chuyển sang giai đoạn thứ ba - giai đoạn suy kiệt. Ở
giai đoạn này, khả năng thích ứng của cơ thể giảm dần và chấm dứt [32].
36
Kích thích gây stress
HỆ THẦN KINH TRUNG ƢƠNG
Vùng dƣới đồi Hệ sympatho- adrenergic
ADH
Tuyến tùng
Các HM giải phóng
Adrenalin Hậu yên Tiền yên
Serotonin Melatonin
Vasopressin
ACTH TSH
Tăng huyết áp sau 10-15 min Tuyến cận giáp Tuyến giáp
Tăng huyết áp sau 40-45 min Tuyến vỏ thƣợng thận
Thyroxin Parathormon Glucocorticoid
TẾ BÀO
- Acetylcholin - Histamin - Mineralocorticoid - Somatotropin - Androgen - Các peptid nội sinh Giải phóng năng lƣợng Tổng hợp các protein enzym và cấu trúc Tổng hợp các protein điều hòa
Hình 1.4. Sơ đồ về cơ chế thần kinh- nội tiết điều hòa trạng thái stresss
Nguồn: Đỗ Công Huỳnh, Giáo trình Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao(2007) [32]
37
1.3.3. Vai trò của các yếu tố thần kinh và thể dịch chủ yếu tham gia điều
hòa trạng thái stress
Stress bao gồm những đáp ứng thuộc về cảm xúc, hành vi và sinh lý của
cơ thể thông qua sự tƣơng tác với môi trƣờng. Đáp ứng sinh lý đối với stress
đƣợc điều hòa thông qua hệ thần kinh, nội tiết và hệ miễn dịch.
1.3.3.1. Vai trò của hệ thần kinh tự chủ trong hội chứng thích ứng chung
Hệ thần kinh tự chủ (autonomic nervous system - ANS) hay hệ thần kinh
thực vật gồm hai phần: hệ giao cảm (sympathetic) và hệ phó giao cảm
(parasympathetic). Hệ giao cảm chuẩn bị cho cơ thể thực hiện những hành
động; tác dụng chung của nó trên các mô đích là gây “khởi động” (arousal).
Hệ phó giao cảm liên quan đến việc duy trì những nhu cầu cơ bản của cơ thể.
Hệ giao cảm - tủy thƣợng thận là hệ đƣợc khởi động đầu tiên khi cơ thể bị tác
động của kích thích gây stress. Hoạt động của hệ này đƣợc thông qua adrenalin.
Adrenalin (epinephrine) gây ra các thay đổi chức năng tim - mạch và
chuyển hóa [93], [99]. Chất này trƣớc hết tác động lên thành mạch ngoại vi
gây co thành mạch, tác động lên tim gây tăng hƣng phấn và co bóp của cơ
tim. Hiệu quả của hai tác dụng này là làm tăng huyết áp, duy trì dòng máu
tuần hoàn trong cơ thể. Adrenalin gây giãn mạch vành, mạch não, mạch cơ
vân để tăng cung cấp máu cho các cơ quan đặc biệt quan trọng này nhằm duy
trì hoạt động sống của cơ thể. Đồng thời adrelanin làm giảm dòng máu đến
các cơ quan nhƣ đến ống tiêu hóa, thận và các cơ quan không cần thiết cho sự
hoạt động nhanh chóng của cơ. Adrenalin làm tăng chuyển hóa tế bào toàn
thân, tăng lực co cơ, tăng hoạt động tâm thần, tăng đƣờng huyết do tăng phân
giải glycogen thành glucose ở gan. Đây là tác dụng rất quan trọng của
adrenalin - cung cấp nguồn nhiên liệu cho tế bào để giải phóng năng lƣợng
cần cho hoạt động của tất cả các cơ quan trong cơ thể, đặc biệt là trong điều
kiện cơ thể bị rơi vào trạng thái stress [32].
38
1.3.3.2. Vai trò của các hormon tủy tuyến thượng thận trong phản ứng stress
Đáp ứng của các hormon tủy tuyến thƣợng thận trong phản ứng stress
xảy ra chậm hơn, nhƣng kéo dài hơn so với adrenalin do thần kinh giao cảm
tiết ra vì nó liên quan đến cả hai con đƣờng thần kinh và thể dịch. Nói chung,
cần khoảng 20 - 30 phút để các tác dụng sinh lý của epinephrin (E) và
noepinephrin (NE) đƣợc thể hiện. Những tác dụng này kéo dài khoảng một
giờ hoặc hơn, vì E và NE đƣợc thải chậm khỏi hệ tuần hoàn. Thời gian tác
dụng của E và NE từ tuyến tủy thƣợng thận lâu gấp 10 lần so với đáp ứng giao cảm (theo [51]). Nồng độ của E và NE thay đổi theo tuổi và giới, cao nhất là ở nam giới độ tuổi trung niên. Ở ngƣời bình thƣờng nồng độ adrenalin
máu thấp hơn 100pg/ml.
Nghiên cứu về catecholamin và stress đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu
trong những năm gần đây. Vai trò của hai hệ thống thần kinh - nội tiết đƣợc
chứng minh trong các nghiên cứu về stress đó là hệ thống giao cảm tủy
thƣợng thận (sympathetic adrenalmedullary - SAM) tiết ra catecholamin và hệ
thống dƣới đồi - tuyến yên - tuyến thƣợng thận (hypothalamic - pituitary -
adrenocortical HPA) tiết ra cortisol [58], [74], [83], [93], [94], [103], [114].
Theo nghiên cứu của Lundberg và Johanson năm 2000 [93] về đáp ứng
của catecholamine cho thấy công nhân văn phòng khi làm việc căng thẳng
tăng bài tiết epinephrine khoảng 50% so với khi nghỉ ngơi, trong khi bài tiết
norepinephrine tăng rất ít hoặc không tăng. Trong số các công nhân, nhƣ công
nhân lắp ráp, thủ quỹ, mức epinephrine tăng lên khoảng 100% và norepinephrine
khoảng 50% [59].
Học tập căng thẳng có thể đƣợc xem là một mô hình nghiên cứu tốt của
trạng thái căng thẳng tự nhiên của con ngƣời [58], [78], [114]. Một số nghiên
cứu đã tập trung vào huyết học, miễn dịch và nội tiết của sự căng thẳng trong
học tập. Jammot cho thấy giảm globulin miễn dịch (IgA) trong nƣớc bọt trƣớc
khi kiểm tra ở 64 sinh viên nha khoa. Dorian và cộng sự đã chứng minh suy
giảm đáp ứng mitogen trong tế bào lympho và giảm hoạt động tế bào NK
39
trong học sinh tham gia một kỳ thi cuối cùng (theo [58]). Nghiên cứu của Al-
Ayadhi Ly [58] trên sinh viên năm đầu và năm thứ 2 cho thấy có sự gia tăng
nồng độ catecholamin máu sau kỳ thi so với trạng thái bình thƣờng.
1.3.3.3. Vai trò của hormon vỏ tuyến thượng thận trong phản ứng stress
Trong trạng thái stress, ngay lập tức nồng độ ACTH của tuyến yên tăng
trong máu, sau đó vài phút sự bài tiết cortisol cũng tăng lên, nhờ đó có thể
chống đƣợc các stress và đây là phản ứng có tính chất sinh mạng. Những loại
stress có tác dụng làm tăng nồng độ cortisol thƣờng gặp là chấn thƣơng,
nhiễm khuẩn, quá nóng, quá lạnh, phẫu thuật, tiêm các chất hoại tử dƣới da và
hầu hết các bệnh suy nhƣợc và căng thẳng thần kinh. Cortisol có tác dụng
chống stress là do cortisol huy động nhanh chóng nguồn acid amin và mỡ dự
trữ để cung cấp năng lƣợng và nguyên liệu cho việc tổng hợp các chất nhƣ
glucose là chất rất cần cho mọi tế bào hoặc một số hợp chất nhƣ purin,
pyrimidin, creatin phosphat là những chất rất cần thiết cho duy trì đời sống và
sinh sản các tế bào mới. Cortisol còn điều hòa tổng hợp các protein enzym
cho quá trình thích ứng và loại bỏ các phản ứng đặc trƣng cho stress cấp nhƣ
teo các hạch lympho và tuyến ức, giảm bạch cầu ƣa acid và bạch cầu lympho.
Một giả thuyết khác lại cho rằng cortisol làm tăng vận chuyển nhanh dịch vào
hệ thống mạch nên giúp cơ thể chống lại tình trạng shock [17], 77].
Trong máu cortisol gắn chủ yếu với globulin gọi là transcortin, chỉ
một lƣợng nhỏ gắn với albumin. Khoảng 94% lƣợng cortisol trong máu ở
dƣới dạng kết hợp, còn khoảng 6% ở dạng tự do - đây là dạng có tác dụng
sinh lý [113]. Ở ngƣời Việt Nam trƣởng thành nồng độ cortisol (8-10 giờ)
là 135,29-526,88 nmol/l [4]. Không có sự khác biệt về hàm lƣợng cortisol
giữa các đối tƣợng thuộc các lứa tuổi khác nhau. Trong nhiều nghiên cứu,
để ghi lại mức độ stress trong những điều kiện đặc biệt, cortisol trong nước
bọt hoặc trong huyết thanh được coi là một chỉ số tin cậy để đánh giá mức độ
stress [89], [91], [114], [113].
40
Nghiên cứu của Sanae Fukuda và cs [113] về lối sống, về stress và đáp
ứng của cortisol cho thấy có mối liên quan giữa cortisol và các trạng thái
stress khác nhau. Các tác giả thấy rằng stress tinh thần nhƣ những đối tƣợng
nói trƣớc công chúng, thời gian dự thi, làm bài toán số học…có tăng mức
cortisol. Lƣợng cortisol tăng cao đáng kể ở các đối tƣợng thuyết trình từ 30-
90 phút. Trong trạng thái thƣ giãn ngƣời ta tìm thấy mối liên quan giữa thiền
với sự giảm hàm lƣợng cortisol so với điều kiện kiểm soát (control), cortisol
giảm trong suốt và sau quá trình thiền định. Sự gia tăng nồng độ cortisol
huyết tƣơng trong quá trình nội soi dạ dày đã đƣợc chứng minh là giảm đáng
kể do ảnh hƣởng của âm nhạc. Đối tƣợng đƣợc nghe chƣơng trình ca nhạc 60
phút cho thấy có sự giảm rõ rệt nồng độ cortisol vào cuối buổi hòa nhạc có ý
nghĩa thống kê so với giá trị ban đầu [113].
Làm việc trí óc có liên quan đến tăng hàm lƣợng cortisol huyết tƣơng.
Việc kiểm tra, thi cử là một trong những sự kiện căng thẳng, dẫn đến thay đổi
về tâm thần và thể chất nhƣ tăng lo lắng, tăng cảm xúc âm tính và thay đổi
chức năng miễn dịch [89], [91],[103], [114].
Nghiên cứu của S.A. Shamsdin và cs [114] trên 35 sinh viên đại học y ở
miền nam Iran cho thấy nồng độ cortisol của sinh viên trƣớc cuộc thi 1 giờ tăng
có ý nghĩa thống kê so với nồng độ cortisol lấy trƣớc khi thi một tháng. Nghiên
cứu của Linda và cs [91] về mối quan hệ giữa cortisol và căng thẳng về tâm -
sinh lý, bệnh lý cũng nhƣ lối sống trong sinh viên đại học Nga và Mỹ cho
thấy ở nữ sinh viên có các triệu chứng lo âu nhiều hơn so với ở nam sinh viên.
Ở sinh viên Mỹ có các triệu chứng của bệnh trầm cảm nhiều hơn, đồng thời
nồng độ cortisol máu cao hơn so với những sinh viên Nga.
Do đó có thể cho rằng tăng nồng độ cortisol đƣợc coi là “hằng số sinh
lý” trong tình trạng stress [89].
41
1.3.3.4. Vai trò của hormon tuyến giáp trong phản ứng stress
Nghiên cứu của Zafar [129] về ảnh hƣởng của cuộc thi tới nồng độ hormon
tuyến giáp trên sinh viên y cho thấy nồng độ T3, T4 ở cả nam và nữ đều tăng, tỷ
lệ T3/ T4 giảm vào ngày thi so với ngày bình thƣờng có ý nghĩa thống kê, trong
đó nồng độ T3 tƣơng tự ở cả hai giới, nồng độ T4 ở nữ cao hơn ở nam vào ngày
thi có ý nghĩa thống kê. Kết quả của nghiên cứu trên cho thấy trong suốt quá
trình căng thẳng tâm lý, hormon tuyến giáp phản ứng ở nữ khác ở nam.
Tóm lại stress có thể đƣợc xem là một đáp ứng đa bình diện của con ngƣời
đối với các kích thích có tính chất đe dọa hoặc có hại đối với cơ thể. Một hệ
thống các đáp ứng phức tạp diễn ra trong cơ thể đƣợc quan sát thấy trong
stress, bao gồm sự kích hoạt thần kinh giao cảm trong thời gian ngắn, phản
ứng trung gian tiết adrenalin và noradrenalin từ tủy thƣợng thận và các biến
đổi kéo dài của hệ nội tiết, hệ miễn dịch. Trạng thái stress có thể xuất hiện ở
nhiều mức độ khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố môi trƣờng, điều kiện lao
động và các yếu tố xã hội. Tùy theo cƣờng độ, tần số, thời gian kéo dài của
kích thích và khả năng thích ứng của cơ thể mà mức độ stress đối với từng cá
thể khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu về nguyên nhân, cơ chế gây stress,
đáp ứng của cơ thể với căng thẳng và xác định cách thức để đối phó cũng nhƣ
lƣợng hóa mức độ stress bằng các chỉ số đo lƣờng khách quan là rất quan trọng.
1.3.4. Trạng thái căng thẳng cảm xúc ở lứa tuổi sinh viên
Stress là vấn đề không thể tránh khỏi trong cuộc sống của con ngƣời nói
chung và của lứa tuổi sinh viên nói riêng. Tuy nhiên, không phải lúc nào
stress cũng gây ra những ảnh hƣởng tiêu cực đối với sinh viên. Sự có mặt của
stress đôi khi lại là điều cần thiết, tác động nhiều đến động cơ và hứng thú
học tập của các em, thúc đẩy sinh viên vƣợt lên nó để ngày càng tiến xa hơn.
Stress chỉ ảnh hƣởng tiêu cực đối với sinh viên khi sinh viên không nhận thức
đƣợc sự hiện diện của nó, hoặc nhận thức đƣợc nhƣng lại không biết cách ứng
phó cho phù hợp.
42
Những biểu hiện của stress ở lứa tuổi sinh viên
Các biểu hiện stress ở lứa tuổi sinh viên rất đa dạng. Có thể khái quát
hoá thành những nhóm biểu hiện sau đây:
Những biểu hiện về thể chất và tâm lý
Khi bị stress, những dấu hiệu ban đầu có thể thấy ở sinh viên là nóng trong
ngƣời, đau đầu, buồn ngủ, tiếp đó là tức ngực, nhịp tim tăng, hoa mắt, chóng
mặt, đau cổ, đau lƣng, khẩu vị thay đổi, chán ăn, cơ thể mệt mỏi [41]. Về tâm lý,
biểu hiện rõ nhất ở sinh viên là khó tập trung chú ý , khó ghi nhớ, căng thẳng,
không hăng hái tích cực trong hoạt động. Ngoài ra, ở sinh viên còn có hàng
loạt những biểu hiện tâm lý khác cũng gây nên những biến đổi trong ứng xử
và cảm xúc nhƣ họ cảm thấy không hài lòng về bản thân mình, không thích
thú với hoàn cảnh xung quanh, cảm thấy buồn rầu có cảm giác trống rỗng, dễ
cáu gắt, ít quan tâm đến mọi ngƣời, thiếu tự tin [41].
Những nguyên nhân gây stress ở lứa tuổi sinh viên:
Có nhiều nguyên nhân gây stress, vậy ở lứa tuổi sinh viên có những nguyên
nhân nào? Có thể khái quát hoá thành những nhóm nguyên nhân sau:
Những nguyên nhân từ bản thân
Sinh viên đến học ở các trƣờng đại học hầu hết phải sống xa gia đình.
Việc thay đổi từ một môi trƣờng sống và học tập quen thuộc luôn đƣợc quan
tâm chăm sóc bởi cha mẹ hay các thành viên khác trong gia đình sang một
môi trƣờng hoàn toàn mới mẻ đã khiến các sinh viên, đặc biệt là sinh viên
những năm đầu rơi vào tình trạng căng thẳng, lo lắng. Sống vô tổ chức cũng
là một trong những nguyên nhân gây stress. Nhiều sinh viên còn chƣa biết xây
dựng cho bản thân kế hoạch học tập hợp lý [84],[110].
Những nguyên nhân từ hoạt động học tập
Một trong những hoạt động chủ đạo của lứa tuổi sinh viên là hoạt động
học tập. Thực tế cho thấy, có nhiều tân sinh viên dễ bị sốc với sự thay đổi đột
ngột về yêu cầu và phƣơng pháp học tập ở bậc đại học nên dễ bị căng thẳng
khi tiếp xúc với môi trƣờng học tập [115]. Xét trong phạm vi quá trình dạy
43
học, phải có kiểm tra, đánh giá. Các đợt thi kiểm tra có thể là những tác nhân
gây stress đối với nhiều sinh viên, nhƣng cũng có thể lại là nguồn gây hào
hứng đối với những sinh viên đã chuẩn bị kỹ lƣỡng và lòng đầy tự tin. Ngoài
ra, kết quả học tập không phải bao giờ cũng đạt đƣợc nhƣ bản thân mỗi sinh
viên kỳ vọng. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo ra stress mà sinh viên phải
đƣơng đầu.
Những nguyên nhân từ gia đình
Áp lực từ phía gia đình cũng là một trong những tác nhân góp phần gây
stress ở lứa tuổi sinh viên. Các bậc cha mẹ thƣờng đặt kỳ vọng rất cao vào
con, muốn con mình phải thành công trong việc học. Chính vì lý do đó, nhiều
sinh viên không muốn cha mẹ phải thất vọng vì mình. Họ lao vào học với
mong muốn đạt đƣợc kết quả. Tuy nhiên, kết quả học tập không phải lúc nào
cũng đạt đƣợc nhƣ bản thân và gia đình họ mong muốn. Cho nên, đây cũng là
một nguyên nhân góp phần tạo ra stress cho sinh viên [84].
Những nguyên nhân khác từ xã hội - cuộc sống - định hướng tương lai
Các mối quan hệ xã hội, tình bạn, tình yêu, khó khăn trong cuộc sống
liên quan đến chi phí sinh hoạt, cũng là nguyên nhân gây stress ở sinh viên.
Nhà ở chật chội, gò bó, tiếng ồn, đám đông và ô nhiễm là những nguyên nhân
môi trƣờng rõ rệt nhất dẫn đến căng thẳng. Theo Redhwan [110], rối loạn giấc
ngủ do yêu cầu học tập và thiếu hỗ trợ tài chính của sinh viên là một trong
những yếu tố có liên quan đến nguyên nhân gây stress, đó là do sự gia tăng chi
phí trong cuộc sống và cuộc khủng hoảng tài chính ảnh hƣởng đến toàn bộ thế
giới. Đây là những áp lực không nhỏ đã và đang đặt ra cho mỗi sinh viên.
Tóm lại, stress ở lứa tuổi sinh viên là một vấn đề khá phức tạp, mang
tính liên ngành về nhiều lĩnh vực, đòi hỏi các nhà khoa học nhƣ tâm lý học, xã
hội học và y học cùng tham gia, góp phần chăm sóc sức khỏe cho sinh viên-
lực lƣợng chủ yếu bổ sung cho đội ngũ trí thức và là nguồn lực quan trọng của
sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nƣớc.
44
CHƢƠNG 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu là 600 sinh viên các lớp đào tạo bác sỹ đa khoa hệ
chính qui ngƣời Việt Nam, các khối từ năm thứ 1 (Y1) đến năm thứ 5 (Y5) của
trƣờng Đại học Y Thái Bình, tuổi từ 18 đến 25. Chúng tôi không chọn sinh viên
khối Y6 vì sinh viên Y6 chuẩn bị ra trƣờng, cần nhiều thời gian để chuẩn bị các
môn thi tốt nghiệp, quá trình nghiên cứu kéo dài, ảnh hƣởng tới việc học tập
của họ, mặt khác sinh viên khối Y6 còn đi thực tập tốt nghiệp tại cộng đồng nên
khó tập trung. Đặc điểm về tuổi trung bình của sinh viên nam và nữ các năm
đƣợc trình bày trên bảng 2.1.
Bảng 2.1.Tuổi trung bình của sinh viên nam và nữ các năm thuộc trường
Y1 n=120
Y2 n=120
Y3 n=120
Y4 n=120
Y5 n=120
Khối, giới
Tuổi
Nam n=60
Nữ n=60
Nam n=60
Nữ n=60
Nam n=60
Nữ n=60
Nam n=60
Nữ n=60
Nam n=60
Nữ n=60
( X SD)
21,761,21
22,310,82
23,491,30
24,611,07
25,520,91
Đại học Y Thái Bình
Tiêu chuẩn chọn đối tƣợng: các đối tƣợng đƣợc lựa chọn vào nghiên cứu
là những ngƣời có chỉ số BMI, mạch, huyết áp, thính lực và thị lực trong giới
hạn bình thƣờng. Đối tƣợng nghiên cứu không mắc các bệnh cấp và mạn tính,
đặc biệt là các bệnh tim mạch, thần kinh và tâm thần; không dùng thuốc an
thần hoặc chất kích thích 3 ngày trƣớc và trong quá trình nghiên cứu; tình
nguyện tham gia nghiên cứu và tuân thủ đúng qui trình nghiên cứu.
2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đƣợc tiến hành theo phƣơng pháp mô tả cắt ngang, so sánh
đối chứng có phân tích số liệu định tính và định lƣợng.
45
2.2.1. Phƣơng pháp chọn mẫu và cỡ mẫu
Theo Phan Văn Duyệt, Lê Nam Trà [12] nghiên cứu các chỉ số sinh học
tiến hành chọn cỡ mẫu cho nghiên cứu đám đông theo công thức sau:
Trong đó:
n là số cá thể của mẫu cần lấy.
N là số cá thể của toàn bộ đám đông.
S là độ lệch chuẩn tính theo % giá trị trung bình (hay còn gọi là hệ số
biến thiên CV).
t là trị số t tƣơng ứng với độ tin cậy chọn trƣớc của kết quả.
d là sai số cho phép của trị số trung bình ( ) chọn trƣớc.
Chọn sai số cho phép của kết quả nghiên cứu là ±5% của trị số trung
bình, độ tin cậy của kết quả là 99% (kết quả đúng 99% các trƣờng hợp thì trị
số t để p = 0,01 ứng với n=∞ là 2,58). Theo đó ta sẽ tính đƣợc hệ số biến thiên
CV = 20% của giá trị trung bình ( ).
Mỗi khoá đào tạo bác sĩ đa khoa hệ chính quy của trƣờng Đại học Y
Thái Bình chiêu sinh khoảng 300 sinh viên (N=300) nên số cá thể của mẫu
cần chọn là:
Theo cách tính cỡ mẫu trên, trong nghiên cứu này chúng tôi lựa chọn
120 sinh viên cho mỗi khối (gồm 60 nam và 60 nữ), tổng số đối tƣợng nghiên
cứu của 5 khoá là 600 sinh viên để đo đạc các chỉ số sinh học nên đảm bảo cỡ
mẫu nghiên cứu.
46
Đối với nghiên cứu các chỉ số điện não đồ, thống kê toán học nhịp tim và
định lƣợng nồng độ hormon trong máu, do điều kiện thực hiện khó khăn và
hạn chế kinh phí nên chúng tôi hạ thấp yêu cầu về sai số cho phép và độ tin
cậy (d=10%, p=0,05 ứng với n= ∞ thì trị số t=1,96). Do đó, số cá thể của mẫu
cần lấy cho mỗi nhóm nghiên cứu là:
Trong nghiên cứu các chỉ số này chúng tôi chọn mỗi khối 30 sinh viên
(gồm 15 nam và 15 nữ). Tổng số đƣợc chọn là 30 ×5 = 150 sinh viên có kết
quả học tập tƣơng đối đồng đều (có điểm tổng kết trung bình chung khoảng từ
7 ÷ 7,5) để xác định một số chỉ số tim - mạch, tâm - thần kinh (trong đó có
các chỉ số điện não đồ, thống kê toán học nhịp tim) ở trạng thái tĩnh và sau
buổi thi, vì vậy đảm bảo cỡ mẫu nghiên cứu.
Trong số 150 sinh viên này, chúng tôi chọn ngẫu nhiên 30 sinh viên
(gồm 15 nam và 15 nữ), để đánh giá sự biến đổi nồng độ một số hormon trong
máu ở trạng thái tĩnh và sau hoạt động căng thẳng (sau buổi thi) do đó đảm
bảo đƣợc cỡ mẫu nghiên cứu.
2.2.2. Các chỉ số nghiên cứu, phƣơng tiện và cách xác định
2.2.2.1. Cách xác định các chỉ số chức năng hệ tim - mạch
* Tần số mạch yên tĩnh (nhịp/phút)
Mạch đƣợc lấy vào buổi sáng, chƣa tập thể dục. Đối tƣợng đƣợc đếm
mạch ở tƣ thế ngồi, nghỉ 5 phút trƣớc khi đếm. tránh hồi hộp, tránh các kích
thích bên ngoài, tránh chỗ gió lạnh. Đếm mạch thông qua nhịp động mạch
quay cổ tay bên phải, dùng đồng hồ bấm giây theo dõi. Lấy mạch trong một
phút, lấy hai, ba lần thấy ổn định là đƣợc.
47
* Huyết áp yên tĩnh (mmHg)
Đối tƣợng đƣợc đo huyết áp ở tƣ thế ngồi, nghỉ 5 phút trƣớc khi đo. Đo
huyết áp ở cánh tay trái, bằng huyết áp kế đồng hồ của Trung Quốc đã đƣợc
chuẩn hóa với huyết áp kế thủy ngân trƣớc khi đo, theo phƣơng pháp
Korotkov. Huyết áp đƣợc xác định 3 lần và lấy trị số trung bình của 3 lần đo,
đơn vị tính là mmHg. Huyết áp tâm thu đƣợc tính khi nghe tiếng đập đầu tiên,
huyết áp tâm trƣơng đƣợc tính khi thấy tiếng đập đột ngột mờ đi hoặc thay đổi
âm sắc rồi mất hẳn.
Đánh giá các mức độ huyết áp động mạch theo JNC 7 (2004) của hội
tim mạch Mỹ.
- Huyết áp bình thƣờng: huyết áp tâm thu < 140 mmHg và huyết áp tâm
trƣơng < 90 mmHg.
- Tăng huyết áp: huyết áp tâm thu ≥ 140mmHg và/hoặc huyết áp tâm
trƣơng ≥ 90 mmHg.
- Huyết áp thấp: huyết áp tâm thu < 90 mmHg và/hoặc huyết áp tâm
trƣơng < 50mmHg
* Tính chỉ số Kerdo
Chỉ số Kerdo đƣợc tính theo công thức:
Chỉ số Kerdo = (1-d/p) × 100
Trong đó: d là huyết áp tâm trƣơng.
p là tần số mạch trong một phút.
Phân loại trạng thái thần kinh thực vật theo chỉ số Kerdo:
Từ -15 đến +15: cân bằng.
>+15: cƣờng giao cảm.
<-15: cƣờng phó giao cảm.
*Đánh giá chức năng hệ tim mạch và trạng thái thần kinh thực vật bằng
phƣơng pháp thống kê toán học nhịp tim (Baevski R.M.và cs.) [133].
48
Phƣơng pháp ghi điện tim: điện tim đƣợc ghi bằng máy Cadiofax 3
cần của Nhật Bản. Test 1mV = 5 mm, tốc độ ghi 25mm/sec. Ghi ĐTĐ ở
đạo trình DII gồm 100 khoảng RR liên tiếp ở tƣ thế nằm nghỉ thoải mái.
Các chuyển đạo mẫu đƣợc đặt theo Einthoven, nơi đặt điện cực của các
chuyển đạo mẫu là:
D1 : tay phải (P) – tay trái (T).
D2 : tay phải (P) – chân trái (C).
D3 : tay trái (T) – chân trái (C).
Phân tích các chỉ số thống kê của 100 nhịp tim theo Baevski và cs [133].
- X (giây) = RR tối đa - RR tối thiểu.
- Mo (giây): giá trị của khoảng RR gặp nhiều nhất trong 100 RR.
- AMo (%): số lƣợng khoảng RR gặp nhiều nhất trong 100 RR.
- RRtb (giây) = tổng số RR/100.
- Tần số tim (nhịp/phút) = 60/RRtb.
- SD (giây): độ lệch chuẩn của 100RR.
- V : hệ số dao động của 100RR = SD/RRtb.
- CSCT : chỉ số căng thẳng (đơn vị điều kiện)
Phƣơng pháp đánh giá
- Thang điểm đánh giá
Đánh giá chung Tần số tim (nhịp/phút) RRTB(giây)
+ 2 (nhịp tim nhanh rõ) ≤0,66 ≥90
+ 1 (nhịp nhanh vừa phải) ≤0,80 ≥75
0 (nhịp tim bình thƣờng)
- 1 (nhịp tim chậm vừa phải) ≥1,0 ≤60
- 2 (nhịp tim chậm rõ) ≥1,2 ≤50
*Nguồn: theo Baevski và cs(1984)[133]
49
- Đánh giá cân bằng thần kinh thực vật (TKTV) điều khiển nhịp tim theo
các chỉ số thống kê toán học nhịp tim.
Biểu hiện CSCT(đơn vị điều kiện) X (giây) AM0(%)
Cƣờng giao cảm ≤0,15 ≥50 ≥200
Cƣờng phó giao cảm ≥0,30 ≤30 ≤50
*Nguồn: theo Baevskivà cs (1984)[133]
- Đánh giá rối loạn điều khiển nhịp tim (RLĐKNT) theo các chỉ số thống
kê toán học nhịp tim.
V CSCT
Biểu hiện (hệ số dao động) (đơn vị điều kiện) RRTB (giây)
≤0,03 ≥200 ≥0,8
≥0,06 ≤50 <0,8
RLĐKNT cƣờng giao cảm RLĐKNT cƣờng phó giao cảm
*Nguồn: theo Baevski và cs (1984)[133]
- Phân tích các chỉ số thống kê toán học nhịp tim (TKTHNT) bao gồm
các chỉ số: Tần số nhịp tim TSNT (nhịp/phút).
Độ lệch chuẩn (giây).
Chỉ số căng thẳng (đơn vị điều kiện).
- Căng thẳng chức năng tim mạch ở mức cao (mức 3/4 theo phân loại
của Baevski) bao gồm các chỉ số:
TSNT >90 (nhịp/phút) .
Độ lệch chuẩn <0,04 (giây).
Chỉ số căng thẳng ≥ 200 (đơn vị điều kiện).
- Căng thẳng chức năng thần kinh thực vật bao gồm các chỉ số:
Cƣờng giao cảm (trội giao cảm)
Chỉ số căng thẳng ≥200 (đơn vị điều kiện).
50
2.2.2.2. Cách xác định các chỉ số chức năng tâm- thần kinh
* Xác định năng lực trí tuệ
Trí tuệ đƣợc xác định bằng test khuôn hình tiếp diễn của Raven loại
A,B,C,D,E (phụ lục 5).
Việc đánh giá năng lực trí tuệ của sinh viên bằng test Raven đƣợc tiến
hành nhƣ sau: mỗi đối tƣợng đƣợc phát một bộ test Raven và một bộ phiếu trả
lời, hƣớng dẫn cách làm cho đối tƣợng, cùng đối tƣợng làm, ví dụ cụ thể bài
tập A1. Khi đối tƣợng đã hiểu rõ thì bắt đầu làm bài hoàn toàn độc lập từ bài
A2 đến hết E12, trong phòng yên tĩnh, thoải mái với thời gian tối đa là 30
phút. Các phiếu trả lời đƣợc thu lại để đánh giá kết quả.
Kết quả thô đƣợc xử lý nhƣ sau: chấm điểm bài tập theo khóa điểm của
test Raven 1960. Mỗi câu làm đúng đƣợc 1 điểm, tối đa là 60 điểm.
Đánh giá độ tin cậy của lần thử nghiệm bằng cách so sánh với bảng phân
bố chuẩn của Raven. Cách đánh giá:
- Sai số không quá 1 điểm ở mỗi test: độ tin cậy rất cao.
- Sai số không quá 2 điểm ở mỗi test: độ tin cậy cao.
- Sai số hơn 2 điểm ở mỗi test: độ tin cậy không cao do các nguyên nhân chủ
quan và khách quan, cần đƣợc loại bỏ và làm lại vào thời điểm thích hợp khác.
Mức độ phát triển trí tuệ đƣợc xác định dựa vào chỉ số IQ tính theo công
thức của Wechsler:
IQ = (X - X)/SD 15 + 100
Trong đó: X là điểm đối tƣợng đạt đƣợc.
X là điểm trung bình của các đối tƣợng nghiên cứu.
SD là độ lệch chuẩn.
Đối chiếu chỉ số IQ với tiêu chuẩn phân loại trí tuệ theo bảng phân loại hệ
số thông minh của D.Wechsler [127]. Xếp loại trí tuệ của đối tƣợng theo 7 mức.
51
Bảng 2.2. Bảng phân loại hệ số thông minh của Wechsler
Chỉ số IQ Phân loại Mức trí tuệ
Rất xuất sắc >130 I
Xuất sắc 120-129 II
Thông minh 110-119 III
Trung bình 90-109 IV
Trung bình yếu 80-89 V
Yếu 70-79 VI
Kém <70 VII
* Nguồn: theo D.Wechsler (1939) [127]
Sau đó tiến hành đối chiếu với kết quả học tập ở trƣờng để xem xét sự
tƣơng quan giữa năng lực trí tuệ và học lực của các đối tƣợng trên, đồng thời
tìm hiểu sự phát triển trí tuệ của sinh viên theo từng năm học và giữa các sinh
viên nam và nữ.
Kết quả học tập của sinh viên đƣợc chia thành 5 loại nhƣ sau :
Xuất sắc: Điểm trung bình từ 9,5 10
Giỏi: Điểm trung bình từ 8 9,4
Khá: Điểm trung bình từ 6,5 7,9
Trung bình: Điểm trung bình từ 5 6,4
Yếu: Điểm trung bình <5.
*Ghi điện não đồ
Điện não đƣợc ghi bằng máy Neurofax 9001 của hãng NIHON
KOHDEN Nhật Bản. Máy đƣợc đặt ở chế độ ghi đơn cực trên 21 kênh. Vị trí
các điện cực đặt theo "hệ thống quốc tế 10-20%" hay hệ thống điện cực Jasper
52
[86]. Mỗi kênh đƣợc nối với một điện cực đặt tiếp xúc với da đầu. Các điện
cực này đƣợc phân bố đều ở hai nửa đầu phải và trái.
Labo ghi điện não tại trƣờng Đại học Y Thái Bình, đảm bảo cách ly tiếng
động bên ngoài và những máy móc có khả năng gây nhiễu.
Trƣớc khi ghi điện não, đối tƣợng không dùng thuốc kích thích hoặc ức
chế thần kinh nhƣ thuốc an thần. Khi ghi đối tƣợng ngồi ở trong tƣ thế thoải
mái, thả lỏng cơ, nhắm mắt, không nháy, không đảo mắt.
Các nghiệm pháp đƣợc sử dụng trong khi ghi điện não là:"mở mắt -
nhắm mắt", kích thích ánh sáng nhịp và tăng thông khí trong 2 phút.
Các thông số điện não dùng trong nghiên cứu
- Nhịp alpha (ký hiệu α) với tần số từ 8 - 13c/s hay Hz.
- Nhịp beta (ký hiệu β) với tần số từ 14 - 30c/s hay Hz.
- Nhịp teta (ký hiệu θ) với tần số từ 4 - 7c/s hay Hz.
- Nhịp delta (ký hiệu δ) với tần số từ 0,5 – 3,5c/s hay Hz.
- Các phức bộ sóng (nếu có).
Tất cả các thông số trên đƣợc phân tích theo tiêu chuẩn sau:
- Tần số (số sóng xuất hiện trong 1 giây) đƣợc tính bằng số chu kỳ sóng
trong 1s, đơn vị là Hz.
- Biên độ đƣợc tính bằng cách đo độ cao từ đỉnh cao nhất đến đỉnh thấp
nhất của một sóng, đơn vị là µV.
- Chỉ số đƣợc tính bằng cách xác định số các sóng điện não trên bản ghi
trong 1 đơn vị thời gian, sau đó tính ra phần trăm.
Phân tích các thông số các sóng cơ bản của EEG gồm tần số (đơn vị là Hz),
biên độ (đơn vị là µV), chỉ số (đơn vị là %) của các sóng alpha, beta, teta và delta.
*Kết quả điện não do ngƣời đọc (chỉ số %) và do máy đọc (tần số và
biên độ các sóng điện não).
53
Mỗi đối tƣợng nghiên cứu đƣợc ghi tại hai thời điểm: ở trạng thái tĩnh
và sau một buổi thi.
* Đo thời gian phản xạ thị giác- vận động
Thời gian phản xạ thị giác - vận động và tốc độ xử lý thông tin đƣợc đo
trên máy vi tính bằng phần mềm trắc nghiệm tâm sinh lý của Ngô Tiến Dũng,
Đỗ Công Huỳnh và cộng sự [11].
Cách đo: đối tƣợng ngồi thoải mái trƣớc màn hình máy tính, hai ngón tay
thuận đặt vào nút chuột phải và trái của máy tính ở tƣ thế chuẩn bị bấm. Yêu
cầu đối tƣợng bấm thật nhanh khi xuất hiện tín hiệu trên màn hình.
- Đối với đo thời gian phản xạ thị giác- vận động đơn giản: khi có tín
hiệu đèn màu đỏ xuất hiện trên màn hình, đối tƣợng bấm nhanh vào nút chuột
trái để tắt đèn. Thao tác này đƣợc thực hiện 10 lần, máy tính sẽ tự phân tích
kết quả lấy số trung bình, đơn vị là ms.
- Đối với đo thời gian phản xạ thị giác- vận động phức tạp: khi trên màn
hình xuất hiện tín hiệu màu đỏ đối tƣợng bấm nhanh vào nút chuột trái, còn
khi trên màn hình xuất hiện tín hiệu màu xanh đối tƣợng bấm nhanh vào nút
chuột phải. Thao tác cũng đƣợc thực hiện 10 lần, máy tính sẽ tự phân tích và
hiện kết quả trên màn hình, đơn vị là ms.
- Tốc độ xử lý thông tin đƣợc tính theo công thức của Hick Hyman (theo [2]).
R= (bit/s)
Trong đó: I: lƣợng thông tin xử lý đƣợc (bit).
t: thời gian trung bình xử lý thông tin (s).
R: tốc độ xử lý thông tin (bit/s).
* Khả năng chú ý
Khối lƣợng chú ý và sự di chuyển chú ý đƣợc đánh giá bằng phƣơng
pháp sắp xếp bảng 25 chữ số lộn xộn [29] (Phụ lục 2).
54
- Cách tiến hành: cho đối tƣợng quan sát một bảng 25 chữ số có giá trị nhỏ
hơn 100, xắp xếp không theo thứ tự (hình 2.1A). Yêu cầu đối tƣợng vừa quan sát,
vừa sắp xếp các chữ số theo thứ tự từ nhỏ đến lớn vào một bảng có 25 ô trống (hình
2.1 B) theo chiều từ trái sang phải, từ trên xuống dƣới, trong thời gian 2 phút.
74 47 95 32 89
68 49 51 25 71
19 62 80 86 42
34 60 79 58 30
5 84 93 26 10
A B
Hình 2.1. Bảng sắp xếp 25 chữ số lộn xộn
*Nguồn: theo Bộ môn Y học Quân binh chủng, Học viện Quân y, Thực hành
Sinh lý Lao động Quân sự (1997) [29]
- Đánh giá kết quả dựa vào:
. Hiệu suất: số lƣợng các chữ số ghi đƣợc.
. Số lỗi: các chữ số bỏ sót hoặc các số không ghi theo trật tự.
. Tần số sai: Mối tƣơng quan giữa số lỗi và số ghi đƣợc.
. Đánh giá kết quả khả năng chú ý theo bảng 2.3.
Bảng 2.3. Bảng đánh giá khả năng chú ý
Mức Giỏi Khá Trung bình Kém
Hiệu suất >22 17 - 22 12 - 16 <12
*Nguồn: theo Bộ môn Y học Quân binh chủng, Học viện Quân y, Thực hành
Sinh lý Lao động Quân sự (1997) [29]
*Khả năng tư duy
Đánh giá khả năng tƣ duy logic bằng phƣơng pháp "tìm số theo qui luật" [29].
- Bảng “chữ số theo quy luật” gồm 15 dãy số, mỗi dãy có một quy luật
nhất định (cấp số cộng, cấp số nhân, cấp số mũ) (Phụ lục 3).
55
- Đối tƣợng có nhiệm vụ xác định hai chữ số tiếp theo đúng theo quy
luật của dãy số. Thời gian hoàn thành thử nghiệm là 7 phút.
- Đánh giá kết quả dựa vào số dãy số xác định đúng, nếu chỉ ghi đƣợc
một số đúng trong dãy số thì không tính kết quả dãy số đó ( bảng 2.3).
Bảng 2.4. Bảng đánh giá khả năng tư duy
Kết quả Số dãy số xác định đúng
Giỏi 14 – 15
Khá 11 – 13
Trung bình 8 – 10
Kém 6 – 7
*Nguồn: theo Bộ môn Y học Quân binh chủng, Học viện Quân y, Thực hành
Sinh lý Lao động Quân sự (1997) [29]
*Trí nhớ ngắn hạn:
Đánh giá bằng phƣơng pháp nhìn - nhớ chữ số (Phụ lục 1). Cho đối tƣợng
quan sát và nhớ bảng 12 chữ số có giá trí hàng chục trong 30 giây, sau đó yêu
cầu đối tƣợng ghi lại các chữ số nhớ đƣợc trong 1 phút, không cần theo thứ tự.
Đánh giá kết quả dựa vào các chữ số mà đối tƣợng đã nhớ đƣợc (bảng 2.4).
Bảng 2.5. Bảng đánh giá trí nhớ ngắn hạn
Kết quả Số chữ số nhớ đúng
Giỏi >9
Khá 6 - 8
Trung bình 4 - 5
Kém <4
*Nguồn: theo Bộ môn Y học Quân binh chủng, Học viện Quân y, Thực hành
Sinh lý Lao động Quân sự (1997) [29]
56
* Điều tra tình trạng căng thẳng cảm xúc
Tình trạng căng thẳng cảm xúc đƣợc đánh giá bằng bảng câu hỏi của
Spielberger. Bảng này gồm hai phần có 40 câu hỏi (Phụ lục 4):
+ Phần I: gồm các câu từ câu 1 đến câu 20 đánh giá trạng thái căng
thẳng cảm xúc của đối tƣợng ở thời điểm hiện tại.
+ Phần II: gồm các câu từ câu 21 đến câu 40 đánh giá trạng thái căng
thẳng cảm xúc thƣờng xuyên của đối tƣợng trong cuộc sống hàng ngày.
Với mỗi câu hỏi có 4 phƣơng án trả lời tƣơng ứng với 4 số điểm khác
nhau (từ 1 đến 4 điểm), các đối tƣợng đƣợc hƣớng dẫn đọc bảng câu hỏi và
chọn phƣơng án trả lời phù hợp với mình và trả lời theo ý đầu tiên xuất hiện
trong đầu.
+ Đánh giá trạng thái căng thẳng cảm xúc ở thời điểm hiện tại
SH = S1 - S2 + 35
Trong đó:
- SH: Chỉ số stress ở thời điểm hiện tại.
- S1: Tổng số điểm của các câu 3, 4, 6, 7, 9, 12, 13, 14, 17 và 18.
- S2: Tổng số điểm của các câu 1, 2, 5, 8, 10, 11, 15, 16, 19 và 20.
+ Đánh giá trạng thái căng thẳng cảm xúc thường xuyên
ST = S3 - S4 + 35
Trong đó:
- ST: chỉ số stress thƣờng xuyên.
- S3: Tổng số điểm của các câu 22, 23, 24, 25, 28, 29, 31, 32, 34, 35,
37, 38 và 40.
- S4: Tổng số điểm của các câu 21, 26, 27, 30, 33, 36 và 39.
Mức độ căng thẳng cảm xúc đánh giá theo thang điểm của Spielberger
qua bảng 2.5.
57
Bảng 2.6. Bảng đánh giá trạng thái căng thẳng cảm xúc theo Spielberger
Mức độ căng thẳng cảm xúc Tổng số điểm
Thấp <30
Vừa 31- 45
Cao 46- 64
Có xu hƣớng bệnh lý >64
*Nguồn: theo Bộ môn Y học Quân binh chủng, Học viện Quân y, Thực hành
Sinh lý Lao động Quân sự (1997) [29]
2.2.2.3. Cách xác định nồng độ cortisol và catecholamin máu
* Phương pháp định lượng nồng độ cortisol huyết thanh
- Lấy máu tĩnh mạch của sinh viên vào hai thời điểm: trong ngày nghỉ
và ngay sau một buổi thi. Mẫu máu đƣợc thu thập trong khoảng thời gian từ
8-10 giờ sáng.
- Xét nghiệm cortisol: mẫu máu thu thập đƣợc đựng trong ống không
chống đông. Quay ly tâm 1500v/1phút, trong 10 phút để tách huyết thanh. Mẫu huyết thanh đƣợc bảo quản ở nhiệt độ -700C đến khi đƣợc đƣa ra phân
tích. Định lƣợng cortisol trên máy Immulite 2000 của hãng Siemens tại Khoa
Hóa sinh, Viện Huyết học truyền máu trung ƣơng theo phƣơng pháp hóa phát
quang miễn dịch. Đây là phƣơng pháp miễn dịch cạnh tranh, kỹ thuật miễn
dịch hóa phát quang trực tiếp. Đơn vị tính là nmol/l.
* Phương pháp định lượng nồng độ catecholamine máu toàn phần
- Hàm lƣợng catecholamin đƣợc xác định từ máu tĩnh mạch (máu toàn
phần) của sinh viên. Lấy máu vào ống nghiệm có chứa chất chống đông
EDTA, sau đó nhẹ nhàng trộn máu với chất chống đông. Mẫu đƣợc bảo quản ở nhiệt độ -700C đến khi đƣợc đƣa ra phân tích.
Định lƣợng nồng độ catecholamin trong máu đƣợc xác định theo
phƣơng pháp của Smaznov (theo [139]). Nguyên lý của phƣơng pháp này là
58
dựa trên sự hấp thụ catecholamin (adrenalin, noradrenalin và dẫn xuất) bằng
hydroxyt nhôm ở 2 khoảng pH=4,0 và pH=8,5. Sau đó thực hiện phản ứng
màu với acid arsenomolipdic. Sản phẩm tạo thành cho màu xanh. Cƣờng độ
màu tỷ lệ với nồng độ catecholamin trong dung dịch phản ứng. Mật độ quang
học của mẫu thử đƣợc xác định trên máy đo quang có bƣớc sóng 550nm.
Các thuốc thử trong phản ứng gồm: dung dịch H2SO4 (tính theo thể tích)
4%, dung dịch metyl da cam 0,1%, dung dịch NaOH 0,1N, dung dịch H2SO4
0,1N và 0,01 dung dịch H2SO4 (1/1), dung dịch kiềm phenophtalenin (0,01g
phenophtalein tan trong 1 ml NaOH 4%, sau đó thêm nƣớc vừa đủ 200ml),
dung dịch hydroxyt nhôm (25g phèn chua tan trong 100ml nƣớc nóng, sau đó
làm lạnh đến nhiệt độ phòng, thêm 20ml KOH 25%, rửa cặn nhiều lần bằng
nƣớc cho đến khi kết tủa trở nên đặc lại), dung dịch acid sulfit 20%, nƣớc
kiềm (0,3ml dung dịch NaOH 4% trong 100ml nƣớc), acid arsenomolipdic
(60g natrimolipdat và 10g natriarsenat tan trong 250 đến 300 ml nƣớc) thêm
50 ml nƣớc Brom bão hòa và nƣớc để đƣa thể tích lên 500ml. Trƣớc khi dùng
cho thêm 0,8 ml H2SO4 đậm đặc vào 10 ml dung dịch trên. Dung dịch adrenalin mẫu pha loãng 1 x 105 trong dung dịch H2SO4 0,01N. Khi xây dựng
đƣờng chuẩn, dung dịch gốc đƣợc pha loãng sao cho 1ml dung dịch chuẩn
chứa 0,4 đến 0,5 microgam adrenalin. Hàm lƣợng catecholamin máu bình
thƣờng thấp hơn 90 µmol/l.
Kỹ thuật xét nghiệm catecholamin đƣợc thực hiện tại khoa Hóa sinh
trƣờng Đại học Y Thái Bình.
2.2.3. Thiết kế mô hình nghiên cứu
2.2.3.1. Tổ chức nghiên cứu
Bƣớc 1. - Chọn địa điểm nghiên cứu, tiến hành tập huấn để thống nhất
qui trình và kỹ thuật thu thập số liệu.
59
- Chọn sinh viên các lớp đào tạo bác sỹ chuyên khoa hệ chính qui, không
nghiên cứu các đối tƣợng là sinh viên cử tuyển, sinh viên Lào, Campuchia.
Lập danh sách các lớp thuộc các khối từ Y1 đến Y5.
- Khám lâm sàng chọn lọc các đối tƣợng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu.
- Căn cứ vào lịch đào tạo chọn ngẫu nhiên những lớp không học vào ngày
thứ 5 để tiến hành nghiên cứu. Mỗi khối 120 sinh viên, lấy toàn trƣờng 600 em.
Bƣớc 2. Đo các chỉ số ở trạng thái tĩnh tƣơng đối, gồm:
+ Trên 600SV đƣợc đo các chỉ số mạch, huyết áp, điện tâm đồ, thời gian
phản xạ thị giác - vận động, hƣớng dẫn các test trí nhớ, chú ý, test tƣ duy, trắc
nghiệm Spielberger, test Raven (do các cán bộ bộ môn Sinh lý học, Sinh lý
bệnh đảm nhiệm). Các chỉ số ở trạng thái tĩnh tƣơng đối đƣợc đo tại thời điểm
sinh viên học tập và sinh hoạt bình thƣờng, xa các cuộc thi ít nhất 1 tháng.
Mỗi đối tƣợng đƣợc đo mạch, huyết áp, đo thời gian phản xạ thị giác-
vận động trƣớc, sau đó thực hiện làm test Raven, test chú ý, trí nhớ, tƣ duy,
trắc nghiệm Spielberger vào cùng một thời điểm trong ngày, mỗi buổi 30 em.
+ Chọn 150 đối tƣợng, mỗi khối 30 em (trong số 600 SV đã đƣợc đo các
chỉ số tim-mạch và tâm-thần kinh đã nêu ở trên) tiến hành thu thập số liệu lần
1 các chỉ số: ghi điện não đồ và điện tim 100 khoảng RR. Các kỹ thuật này do
cán bộ Bộ môn Thần kinh phối hợp với cán bộ Bộ môn Sinh lý học, Sinh lý
bệnh đảm nhiệm, mỗi buổi 10 em. Có 30 SV đƣợc lấy máu xét nghiệm định
lƣợng hormon lần 1 theo danh sách.
Bƣớc 3. Đo các chỉ số sinh học sau buổi thi trên 150 sinh viên
Đo các chỉ số chức năng ngay sau các buổi thi của các lớp sinh viên,
Chọn buổi thi trắc nghiệm. Tổ hợp đề ngẫu nhiên, thời gian thi 60 phút.
Sinh viên Y1: sau thi môn Giải phẫu I. Số đơn vị học trình là 3.
Sinh viên Y2: sau thi môn Sinh lý học II. Số đơn vị học trình là 3.
60
Sinh viên Y3: sau thi môn Nội triệu chứng. Số đơn vị học trình là 3.
Sinh viên Y4: sau thi môn Nhi. Số đơn vị học trình là 3.
Sinh viên Y5: sau thi môn Truyền nhiễm. Số đơn vị học trình là 4 .
Mỗi khối sinh viên có 8 lớp. Chúng tôi lấy mỗi lớp 4 sinh viên sau buổi
thi. Mỗi buổi sáng có 3 lớp thi nên một buổi sáng lấy tối đa 12 em.
Qui trình nghiên cứu đƣợc tiến hành theo sơ đồ dƣới đây
2’ 5’ 60’ 6’ 1’ 2’ 12 ’ 3’ 11 ’
Mạch, HA Thi Lấy máu PXTGVĐ Thi ĐTĐ
Hình 2.2. Sơ đồ thời gian cứu trên sinh viên sau buổi thi
Bốn sinh viên trong danh sách đã chọn theo tiêu chuẩn, ra khỏi phòng thi
chúng tôi tiến hành thu thập số liệu lần 2 gồm:
- Đo mạch, huyết áp: mỗi sinh viên đo trong khoảng thời gian 2 phút, có
4 bàn làm việc. Thời gian hoàn thành đo mạch, huyết áp là phút thứ 2 sau thi.
- Đo thời gian phản xạ thị giác- vận động: mỗi sinh viên đo trong khoảng
thời gian 3 phút, có 4 máy tính để làm việc. Thời điểm hoàn thành đo phản xạ
thị giác - vận động là phút thứ 5 sau thi.
- Ghi điện tim 100 nhịp: mỗi sinh viên đo trong khoảng thời gian 3 phút.
Có 2 máy điện tim. Thời điểm hoàn thành ghi ECG là phút thứ 11 sau thi.
- Lấy máu làm xét nghiệm cortisol và catecholamin: mỗi sinh viên lấy
máu trong khoảng thời gian 1 phút. Thời điểm hoàn thành lấy máu là phút thứ
12 sau thi.
61
Thời gian hoàn thành tất cả các kỹ thuật là 12 phút sau khi sinh viên
bƣớc ra khỏi phòng thi. Sau đó các em tập trung làm test chú ý, trí nhớ, tƣ duy
và test căng thẳng cảm xúc.
Riêng việc ghi điện não đồ chúng tôi tiến hành trên các đối tƣợng sau khi
họ kết thúc cuộc thi khác. Mỗi buổi thi kéo dài 60 phút, trong đó một số sinh
viên kết thúc sớm hơn, có thể sau 45 phút, 50 phút, 55 phút, 60 phút. Chúng tôi
lấy mỗi buổi thi 4 em ở từng thời điểm trên. Thời gian ghi điện não đồ là 5 phút.
Nhƣ vậy đảm bảo thời gian cho các em đƣợc ghi điện não ngay sau khi bƣớc ra
khỏi phòng thi.
* Để tránh các yếu tố nhiễu
- Đo các chỉ số ở trạng thái tĩnh: tiến hành nghiên cứu vào ngày nghỉ,
tránh áp lực thi cử có thể ảnh hƣởng đến việc đánh giá các chỉ số nghiên cứu.
Địa điểm tại phòng Skillslab. Phòng đảm bảo thoáng mát, yên tĩnh.
- Phòng thi test của trƣờng Đại học Y Thái Bình đƣợc thiết kế chuyên
dụng, tránh tác động của các yếu tố ngoại cảnh, có điều hoà nhiệt độ duy trì nhiệt độ 260C, là một trong 8 cơ sở đạt chuẩn của Bộ GD-ĐT về phòng thi.
- Đo các chỉ số ở trạng thái căng thẳng: các trang thiết bị dùng trong
nghiên cứu đƣợc bố trí ngay cạnh phòng thi, phòng đo đạc yên tĩnh, nhiệt độ 260C (trong phòng có điều hòa nhiệt độ).
2.2.3.2. Mô hình nghiên cứu
Để giải quyết các mục tiêu của đề tài, nội dung nghiên cứu đƣợc tiến
hành theo mô hình trình bày ở hình 2.3.
62
Đối tƣợng nghiên cứu
Đánh giá các chỉ số nghiên cứu trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi n = 150SV (30SV/khối x 5 khối từ Y1 đến Y5)
Các chỉ số sinh học trong điều kiện tĩnh n = 600 (120SV/khối x 5 khối từ Y1 đến Y5)
Tần số mạch
Tần số mạch Huyết áp tâm thu, huyết áp tâm
Huyết áp tâm thu, huyết áp tâm
trƣơng.
Thời gian phản xạ thị giác- vận động Tốc độ xử lý thông tin. Chỉ số IQ (năng lực trí tuệ)
Các chỉ số TKTH NT Thời gian phản xạ thị giác-vận động. Tốc độ xử lý thông tin EEG Nồng độ cortisol và catecholamin máu
Khả năng chú ý.
(30SV)
Trí nhớ ngắn hạn.
Khả năng tƣ duy.
Trạng thái căng thẳng cảm xúc
Khả năng chú ý Trí nhớ ngắn hạn Khả năng tƣ duy. Trạng thái căng thẳng cảm xúc
trƣơng. Chỉ số Kerdo.
KÕt luËn 1. Xác định một số chỉ số tim-mạch, tâm - thần kinh ở trạng thái tĩnh
của sinh viên Đại học Y Thái Bình.
2. Đánh giá sự biến đổi một số chỉ số sinh học sau hoạt động trí tuệ (sau buổi thi) của sinh viên Đại học Y Thái Bình.
Hình 2.3. Mô hình nội dung nghiên cứu
63
2.3. XỬ LÝ SỐ LIỆU
Các số liệu đƣợc xử lý bằng máy vi tính trên phần mềm Epi Info 6.04 và SPSS
15.0 theo phƣơng pháp thống kê y sinh học. Kết quả đƣợc thể hiện dƣới dạng:
- Số trung bình (X), độ lệch chuẩn (SD), tỷ lệ phần trăm (%), hệ số
tƣơng quan (r).
- So sánh các tỷ lệ dùng test χ2. Giá trị khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05.
- Sử dụng test t - Student ghép cặp và không ghép cặp để so sánh các chỉ
số nghiên cứu trƣớc và sau một buổi thi trong từng nhóm và giữa 2 nhóm độc
lập (nam, nữ), so sánh từ 3 số trung bình trở lên dùng test ANOVA. Giá trị
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
- Mối liên quan OR đƣợc tính theo phƣơng pháp hồi quy logistic.
2.4. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Từ tháng 10/2007 đến tháng 05/2011.
2.5. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU
- Các thông tin thu thập đƣợc chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu,
không sử dụng cho bất kỳ mục đích nào khác.
- Đối tƣợng tự nguyện tham gia nghiên cứu.
64
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. MỘT SỐ CHỈ SỐ TIM - MẠCH CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC Y THÁI BÌNH
Một số chỉ số tim - mạch đƣợc xác định bao gồm tần số mạch, huyết áp,
chỉ số Kerdo và trạng thái thần kinh thực vật của các đối tƣợng nghiên cứu.
Kết quả đƣợc trình bày ở bảng 3.1, 3.2 và hình 3.1.
Bảng 3.1. Một số chỉ số về tim - mạch của sinh viên, ( ± SD)
Giới
Chỉ số Nam n=300 Nữ n=300 p
Tần số mạch (nhịp/phút) >0,05 79,859,02 79,819,02
Huyết áp tâm thu (mmHg) <0,05 116,0320,14 107,6011,86
Huyết áp tâm trƣơng (mmHg) <0,05 70,717,56 67,778,19
Chỉ số Kerdo <0,05 10,5113,79 14,713,64
Kết quả ở bảng 3.1 cho thấy không có sự khác biệt về tần số mạch giữa
hai giới. HA tâm thu, HA tâm trƣơng của nam cao hơn so với ở nữ có ý nghĩa
thống kê với p<0,05. Chỉ số Kerdo của nữ cao hơn nam có ý nghĩa thống kê
với p <0,05.
Hình 3.1. Biểu đồ trạng thái thần kinh thực vật của sinh viên
65
Số liệu ở hình 3.1 cho thấy:
- Trạng thái thần kinh thực vật cân bằng ở sinh viên khối Y4, Y5 cao hơn
so với ở sinh viên khối Y1, Y2,, Y3 ( p>0,05).
- Trạng thái cƣờng giao cảm ở sinh viên khối Y4 chiếm tỷ lệ thấp hơn so
với các khối khác (p>0,05).
Bảng 3.2. Đặc điểm về trạng thái thần kinh thực vật của sinh viên, theo giới.
Nam (A) Nữ (B) Chung
p(A-B)
Giới
n % n % n %
Trạng tháiTKTV
Cân bằng 171 57,0 150 50,0 >0,05 321 53,5
Cƣờng giao cảm 111 37,0 141 252 42,0 47,0 <0,05
Cƣờng phó giao cảm 18 6,0 9 3,0 >0,05 27 4,5
Tổng cộng 300 100,0 300 100,0 600 100,0
Các số liệu ở bảng 3.2 cho thấy:
- Trạng thái thần kinh thực vật cân bằng chiếm tỷ lệ cao nhất ở cả hai
giới, trạng thái cƣờng phó giao cảm chiếm tỷ lệ ít nhất.
- So sánh giữa hai giới thấy tỷ lệ trạng thái TKTV cân bằng ở nam cao
hơn so với ở nữ (p >0,05), còn tỷ lệ trạng thái cƣờng giao cảm ở nữ cao hơn
so với ở nam có ý nghĩa thống kê với p <0,05.
3.2. MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG TÂM - THẦN KINH CỦA SINH
VIÊN ĐẠI HỌC Y THÁI BÌNH
3.2.1. Thời gian phản xạ thị giác - vận động và tốc độ xử lý thông tin
Kết quả nghiên cứu về thời gian phản xạ thị giác - vận động và tốc độ xử
lý thông tin của các nhóm đối tƣợng nghiên cứu đƣợc trình bày trên các bảng
3.3 ÷ 3.6 và hình 3.2.
66
Bảng 3.3. Thời gian phản xạ thị giác - vận động (ms) của sinh viên từng khối,
TG PXTGVĐ
theo giới, ( ± SD)
Khối Đơn giản Phức tạp
Giới Nam (1A) n=60 300,82 70,91 407,98 94,89
Nữ (1B) n=60 SVY1 n=120 314,75 64,38 >0,05 423,57 61,33 >0,05
290,40 56,64 402,35 68,53
p Nam (2A) n=60 Nữ (2B) n=60 SVY2 n=120 307,92 65,38 >0,05 435,63 88,81 <0,05
p Nam (3A) n =60 287,15 58,94 388,93 65,89
Nữ (3B) n =60 SVY3 n=120 296,8846,93 >0,05 429,8262,38 <0,05
p Nam (4A) n=60 268,87 55,40 398,88 61,66
Nữ (4B) n=60 SVY4 n=120 276,52 60,23 >0,05 405,95 78,84 >0,05
p Nam (5A) n=60 304,25 68,65 413,24 78,02
Nữ (5B) n=60 SVY5 n=120 442,50 87,64 >0,05
p
p(4B-5B)*
Nữ n = 300 (*) <0,05
p(1B-4B)*, p (2B-4B)*, p(3B-4B)*, p(3B-5B)*, p(4B-5B)*
p Nam n = 300 (*) <0,05 326,25 98,08 >0,05 p(1A -4A)*, p (2A-4A)*, p(4A-5A)*
Kết quả ở bảng 3.3 cho thấy:
- Thời gian phản xạ thị giác - vận động đơn giản của nam và nữ sinh viên
các khối đều khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Sinh viên khối Y4 có
TGPX ngắn nhất và TGPX dài nhất là nhóm sinh viên khối Y5. Thời gian
PXTG - VĐ đơn giản của sinh viên nam và nữ ở từng khối tƣơng đƣơng nhau.
- Thời gian phản xạ thị giác - vận động phức tạp của nam sinh viên các
khối tƣơng đƣơng nhau, của nữ sinh viên các khối có sự khác biệt với p<0,05.
67
Sinh viên nữ khối Y4 có TGPX ngắn nhất và TGPX dài nhất là ở nhóm sinh
viên nữ khối Y5. Khối sinh viên Y2 và Y3 có TGPX phức tạp của nam ngắn
hơn so với ở nữ có ý nghĩa thống kê với p<0,05, SV thuộc các khối khác có
TGPX của nam và nữ tƣơng đƣơng nhau.
Bảng 3.4. Thời gian phản xạ thị giác - vận động và tốc độ xử lý thông tin
trung bình chung của sinh viên các khối, theo giới,( ± SD)
Chỉ số nghiên cứu p(A-B) Nam (A) n=300 Nữ (B) n=300 Chung hai giới n=600
TGPX đơn giản(ms) <0,05 290,25 63,25 304,4670,69 297,3567,39
<0,05 TGPX phức tạp (ms) 402,2474,70 427,4977,23 414,8776,95
>0,05 7,153,30 6,893,32 7,063,30
Tốc độ xử lý thông tin (bit/s)
Các số liệu ở bảng 3.4 cho thấy:
- Thời gian phản xạ thị giác - vận động đơn giản và phức tạp trung bình
của SV nam đều ngắn hơn so với của SV nữ có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
- Tốc độ xử lý thông tin trung bình của các nhóm SV nam và SV nữ
không có sự khác biệt với p>0,05.
Bảng 3.5. Tốc độ xử lý thông tin (bit/s) của sinh viên từng khối, theo giới,( ± SD)
Giới
Nam (A) n=300 Nữ (B) n=300 p(A-B) Nhóm SV
>0,05 SVY1 (1) n=120 7,633,57 7,503,38
>0,05 SVY2 (2) n=120 7,233,36 7,573,92
>0,05 SVY3 (3) n=120 7,193,73 6,763,23
>0,05 SVY4 (4) n=120 6,512,82 6,983,07
>0,05 SVY5 (5) n=120 7,152,91 6,102,77
p (1-2), p(1-3),p(1-4),p(1-5), p(2-3), p(2-4), p(2-5), p(3-4), p(3-5),p(4-5)
>0,05 >0,05
68
Kết quả ở bảng 3.5 và hình 3.2 cho thấy tốc độ xử lý thông tin của SV
Hình 3.2. Tốc độ xử lý thông tin chung của sinh viên, theo khối
giữa các khối tƣơng đƣơng nhau và không có sự khác biệt theo chỉ số này
giữa nam và nữ ở tất cả các khối.
Bảng 3.6. Phân loại tốc độ xử lý thông tin chung của sinh viên, theo giới
Giới Nam Nữ Chung hai giới p Mức độ n % n % n %
Giỏi 166 55,3 154 51,3 >0,05 320 53,3
Khá 93 31,0 96 32,0 >0,05 189 31,5
Trung bình 35 11,7 48 16,0 >0,05 83 13,8
Kém 6 2,0 2 0,7 >0,05 8 1,3
Tổng số 300 100 300 100 600 100
Kết quả ở bảng 3.6 cho thấy tốc độ xử lý thông tin của SV nam và nữ
chủ yếu đạt mức khá và giỏi. Không có sự khác biệt theo chỉ số này giữa nam
và nữ (p>0,05).
69
3.2.2. Năng lực trí tuệ theo test Raven
3.2.2.1. Chỉ số IQ và phân mức trí tuệ
Kết quả xác định chỉ số IQ và phân mức trí tuệ của đối tƣợng nghiên
cứu đƣợc trình bày trên các bảng 3.7 ÷ 3.9 và các hình 3.3, 3.4.
Bảng 3.7. Chỉ số IQ theo các khối và giới của sinh viên,( ± SD)
Giới p (A-B) Nam (A) n= 300 Nữ (B) n= 300 Khối sinh viên
>0,05 SVY1 (1) n=120 98,9018,65 99,8013,22
>0,05 SVY2 (2) n=120 98,0018,40 98,7514,72
>0,05 SVY3 (3) n=120 96,3021,81 101,409,98
>0,05 SVY4 (4) n=120 100,1012,35 101,7513,24
>0,05 SVY5 (5) n=120 99,7511,73 100,7511,95
>0,05 Chung 98,6116,98 100,5012,68
p(1-2), p(1-3),p(1-4),p(1-5), p(2-3), p(2-4), p(2-5), p(3-4),p(3-5), p(4-5)
± SD
Khối SV
>0,05 >0,05
Hình 3.3. Chỉ số IQ của sinh viên được nghiên cứu, theo khối
70
Các số liệu ở bảng 3.7 và hình 3.3 cho thấy chỉ số IQ của nhóm sinh viên
nam và nữ ở từng khối tƣơng đƣơng nhau. Chỉ số IQ giữa các nam sinh viên
và giữa các nữ SV các khối không khác biệt (p>0,05). Chỉ số IQ của sinh viên
khối Y4 cao hơn so với ở các khối khác, tuy nhiên sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p>0,05).
Bảng 3.8. Phân loại mức trí tuệ theo các khối và theo giới của sinh viên
Thông
Trung
Xuất sắc
TB yếu Yếu kém
minh
bình
Mức trí tuệ Rất
xuất sắc
1,7
19
31,7
30 50,0
6
10,0
4
6,7
Nam(1A) 0
0
1
0,0
17
28,3
35 58,3
3
5,0
5
8,3
Nữ (1B) 0
0
0
Các khối n % n % n % n % n % n %
SVY1
>0,05
>0,05
>0,05
>0,05
Nam(2A) 0
1,7
10
16,7
38 63,3
6
10,0
5
8,3
0
1
1,7
8
13,3
42 70,0
4
6,7
5
8,3
Nữ (2B) 0
0
1
p n=120
SVY2
>0,05
>0,05
>0,05
>0,05
6
5,0
15
25,0
25 41,7 11 18,3
10,0
Nam(3A) 0
0
3
2
1,7
11
18,3
41 68,3
5
8,3
3,3
Nữ (3B) 0
0
1
p n=120
SVY3
>0,05
>0,05
>0,05
-
p
<0,05
2
3,3
4
6,7
0
2
Nam(4A) 0
3,3 11
18,3
41 68,3
2
3,3
4
6,7
Nữ (4B) 0
0
1
1,7 15
25,0
38 63,3
n=120
SVY4
>0,05
>0,05
>0,05
>0,05
-
5
8,3
3
5,0
0,0 16
26,7
36 60,0
Nam(5A) 0
0
0
6
10,0
3
5,0
0,0 14
23,3
37 61,7
Nữ (5B) 0
0
0
p n=120
SVY5
>0,05
>0,05
>0,05
>0,05
-
-
p n=120
Mức trí tuệ trung bình p(1A-4A)*, p(2A-3A)*, p(3A-4A)*, p(3A-5A)*
(*)<0,05
71
Từ bảng 3.8 cho thấy:
- Đại bộ phận sinh viên thuộc các khối có chỉ số IQ đạt mức trung bình
và thông minh.
- Tỷ lệ mức trí tuệ ở nhóm SV nam và nhóm SV nữ từng khối không có
sự khác biệt, riêng ở khối Y3 mức IQ trung bình của nhóm SV nữ cao hơn rõ
rệt so với ở nhóm SV nam, (p<0,05).
- Các nhóm nữ SV thuộc các khối khác nhau có tỷ lệ các mức trí tuệ
không khác nhau rõ rệt, (p>0,05).
- Ở các nhóm SV nam thuộc các khối Y2, Y4 và Y5 có tỷ lệ mức trí tuệ
trung bình cao hơn có ý nghĩa thống kê so với ở các nhóm Y1 và Y3 (p<0,05).
Tỷ lệ các mức trí tuệ khác của SV nam thuộc các khối khác nhau không có ý
nghĩa (p>0,05).
Bảng 3.9. Phân loại mức trí tuệ tính theo chỉ số IQ và theo giới của sinh viên
Giới Nam Nữ Chung hai giới
Loại trí tuệ p n % % n % n Mức trí tuệ
I 0 0,0 0,0 - 0 0,0 0 > 130 điểm (rất xuất sắc)
II 7 2,3 1.0 >0,05 10 1,7 3 120-129 điểm (xuất sắc)
III 71 23,7 21,7 65 >0,05 136 22,7 110- 119 điểm (thông minh)
IV 170 56,7 64,3 193 >0,05 363 60,5 90- 109 điểm (trung bình)
V 30 10,0 6,7 20 >0,05 50 8,3 80- 89 (TB yếu)
VI 22 7,3 6,3 19 >0,05 41 6,8 < 80 (yếu kém)
Mức trí tuệ
72
Hình 3.4. Phân loại mức trí tuệ tính theo chỉ số IQ và theo giới của sinh viên
Từ bảng 3.9 và hình 3.4 cho thấy:
- Trong số các đối tƣợng nghiên cứu có 1,7% số sinh viên đạt mức
xuất sắc.
- Số đối tƣợng có chỉ số IQ đạt mức trung bình và thông minh chiếm đa
số (60,5% và 22,7%), không có sự khác biệt về mức trí tuệ giữa các nhóm SV
nam và SV nữ.
3.2.2.2. Mối liên quan giữa năng lực trí tuệ và kết quả học tập của sinh viên
Để đánh giá mối liên quan giữa năng lực trí tuệ với kết quả học tập của
SV, chúng tôi đối chiếu điểm test Raven với mức học lực của SV. Kết quả
nghiên cứu đƣợc trình bày trên các bảng 3.10 ÷ 3.12 và hình 3.5.
73
Bảng 3.10. Điểm test Raven trung bình của 2 giới theo từng nhóm
học lực,( ± SD)
Giới p Học lực Nam (n = 300) Nữ (n = 300) Chung hai giới (n = 600)
Giỏi 53,602,83 53,314,21 >0,05 53,354,03
Khá 52,084,97 52,503,84 >0,05 52,284,45
Trung bình 50,947,93 51,196,34 >0,05 51,017,47
Yếu 51,29 3,55 47,677,47 >0,05 50,203,91
Kết quả trên bảng 3.10 cho thấy điểm test Raven trung bình có xu hƣớng
giảm dần theo học lực từ học lực giỏi đến học lực yếu (53,35 xuống 50,20).
Không có sự khác biệt giữa nam và nữ về điểm test Raven ở từng mức học lực.
Bảng 3.11. Điểm test Raven trung bình của từng khối theo các nhóm học lực,
( ± SD)
Điểm test trung bình theo từng nhóm học lực của SV các khối p Khối Sinh viên Giỏi (1) Khá (2) Trung bình (3) Yếu (4)
50,55,09 So sánh p ở 52,567,43 52,513,47 50,977,84 SVY1 n=120
48,50,71 52,913,42 51,955,51 50,686,82 SVY2 n=120
- 52,752,06 52,374,44 50,758,32 SVY3 n=120
51,000,00 53,902,58 52,384,55 52,005,66 SVY4 n=120
từng khối p(1-2)>0,05 p(1-3)>0,05 p (1-4)>0,05 p (2-3)>0,05 p (2-4)>0,05 p(3-4)>0,05) 51,000,00 53,464,16 52,083,95 51,801,30 SVY5 n=120
Số liệu trên bảng 3.11 cho thấy điểm test Raven trung bình của từng khối
sinh viên có xu hƣớng giảm dần theo học lực từ học lực giỏi đến học lực yếu,
tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
74
Bảng 3.12. Phân bố đối tượng theo học lực và các mức trí tuệ của mỗi giới
Tỷ lệ % SV theo các mức trí tuệ
Giới Học n >130 120-129 110-119 90-109 80-89 <80
lực điểm điểm điểm điểm điểm điểm
0,0 0,0 30,0 70,0 0,0 0,0 Giỏi 10
0,0 2,7 23,3 57,6 9,6 6,8 Khá 219
Nam 0,0 1,6 23,4 53,2 10,9 10,9 TB 64
0,0 0,0 28,6 42,8 28,6 0,0 Yếu 7
0,0 0,0 29,5 70,5 0,0 0,0 Giỏi 61
0,0 1,0 19,0 67,1 12,9 0,0 Khá 210
Nữ 0,0 3,8 27,0 50,0 7,7 11,5 TB 26
Điểm học tập
0,0 0,0 0,0 66,7 0,0 33,3 Yếu 3
Chỉ số IQ
y=0,008x + 6,477
Hình 3.5. Đồ thị tương quan giữa chỉ số IQ và điểm học tập trung bình
75
Qua bảng 3.12 và hình 3.5 cho thấy:
- Tất cả các sinh viên cả nam và nữ có học lực giỏi đều có chỉ số IQ từ
xuất sắc đến trung bình, không có sinh viên nào có chỉ số IQ ở mức trung
bình kém trở xuống (IQ<89).
- Trong số các sinh viên có học lực khá vẫn có sinh viên có chỉ số IQ ở
mức kém (IQ <80) .
- Trong số các sinh viên có học lực trung bình không có sinh viên nào có
chỉ số IQ ở mức xuất sắc (IQ >120).
- Có mối tƣơng quan thuận giữa chỉ số IQ và điểm học tập trung bình
(học lực) nhƣng không chặt (r= 0,134).
3.2.3. Khả năng tƣ duy của sinh viên
Khả năng tƣ duy logic của sinh viên đƣợc đánh giá theo trắc nghiệm
”tìm số theo quy luật”. Kết quả nghiên cứu đƣợc trình bày trên các bảng 3.13,
3.14 và hình 3.6, 3.7.
Bảng 3.13. Số dãy số xác định đúng (qua test tìm số theo qui luật) của sinh
viên từng khối, theo giới, ( ± SD)
Giới p (A-B) Khối SV Nam (A) n= 300 Nữ (B) n= 300
>0,05 SVY1 (1) n=120 11,152,43 10,932,83
>0,05 SVY2 (2) n=120 10,832,73 11,383,17
>0,05 SVY3 (3) n=120 10,983,15 11,252,87
>0,05 SVY4 (4) n=120 10,552,89 11,482,55
>0,05 SVY5 (5) n=120 11,772,89 12,387,15
>0,05 >0,05
p (1-2), p(1-3),p(1-4),p(1-5), p(2-3), p(2-4), p(2-5), p(3-4),p(3-5),p(4-5)
>0,05 11,062,84 11,494,10
Chung 5 khối SV (n=600) 11,273,53
± SD
Khối SV
76
Hình 3.6. Biểu đồ số dãy số xác định đúng của sinh viên từng khối
Số liệu ở bảng 3.13 và hình 3.6 cho thấy:
- Số dãy số xác định đúng của nhóm nam và nữ sinh viên ở cùng khối và
giữa các khối không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Các sinh
viên nam và nữ thuộc khối sinh viên Y5 có số dãy số xác định đúng nhiều hơn
so với ở các khối khác.
- Số dãy số xác định đúng chung của nhóm sinh viên nam và nhóm sinh
viên nữ ở các khối là tƣơng đƣơng nhau (p>0,05) và đạt mức khả năng tƣ duy
loại khá.
Bảng 3.14. Phân loại khả năng tư duy chung của sinh viên theo giới
Giới Nam (n=300) Nữ (n=300) p Mức độ n % % n
Giỏi 71 23,7 28,7 >0,05 86
Khá 120 40,0 35,0 >0,05 105
Trung bình 69 23,0 24,3 >0,05 73
Kém 40 13,3 12,0 >0,05 36
77
Hình 3.7. Biểu đồ phân loại khả năng tư duy chung của sinh viên (n=600)
Kết quả ở bảng 3.14 và hình 3.7 cho thấy khả năng tƣ duy của đa số các
nhóm sinh viên nam và nữ ở mức khá. Mức khả năng tƣ duy đạt giỏi và trung
bình chiếm tỷ lệ tƣơng đƣơng nhau (23,7% và 26,1% ). Tỷ lệ khả năng tƣ duy
đạt mức kém là ít nhất. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ các mức khả
năng tƣ duy giữa các nhóm sinh viên nam và nhóm sinh viên nữ (p>0,05).
3.2.4. Khả năng chú ý của sinh viên
Khả năng chú ý của sinh viên đƣợc đánh giá bằng trắc nghiệm “sắp xếp các
chữ số lộn xộn”. Kết quả nghiên cứu đƣợc trình bày trên các bảng 3.15 ÷ 3.17 và
các hình 3.8, 3.9.
Bảng 3.15. Số lượng các chữ số ghi được của sinh viên từng khối, theo giới,( ± SD)
p(A-B)
Giới Khối SV SVY1 (1) n=120 SVY2 (2) n=120 SVY3 (3) n=120 SVY4 (4) n=120 SVY5 (5) n=120 p(4-1), p(4-2), p(4-3), p(4-5) Chung 5 khối SV (n=600) Nam (A) n=300 15,877,75 14,657,90 15,128,06 18,556,20 14,676,90 <0,05 15,777,49 Nữ (B) n=300 14,887,65 13,727,66 14,227,83 19,256,33 14,227,69 <0,05 15,267,68
15,517,58 >0,05 >0,05 >0,05 >0,05 >0,05 >0,05
± SD
78
Khối SV
*
Hình 3.8. Biểu đồ số lượng các chữ số ghi được của sinh viên từng khối
(* ) <0,05
Kết quả ở bảng 3.15 và hình 3.8 cho thấy:
- Số lƣợng các chữ số ghi đƣợc của sinh viên nam và nữ ở từng khối là
tƣơng đƣơng, p>0,05.
- Số lƣợng các chữ số ghi đƣợc của nam và của nữ sinh viên Y1, Y2, Y3,
Y5 khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Riêng số lƣợng các chữ số ghi đƣợc của khối sinh viên Y4 là nhiều nhất
và cao hơn rõ rệt so với của sinh viên các khối khác (p<0,05).
- Số lƣợng các chữ số ghi đƣợc chung của các nhóm nam và nữ sinh viên
ở các khối là tƣơng đƣơng nhau (p>0,05).
79
Bảng 3.16. Phân loại khả năng chú ý chung của sinh viên, theo giới
Giới
Nam (n=300) Nữ (n=300) p
Mức độ Giỏi Khá Trung bình Kém n 103 33 52 112 % 34,3 11,0 17,3 37,3 n 98 33 53 116 % 32,7 11,0 17,7 38,7 >0,05 >0,05 >0,05 >0,05
Hình 3.9. Biểu đồ phân loại khả năng chú ý chung của sinh viên (n=600)
Kết quả ở bảng 3.16 và hình 3.9 cho thấy khả năng chú ý của đa số sinh
viên ở mức giỏi và kém. Tỷ lệ các mức khả năng chú ý của SV nam và SV nữ
khác nhau không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Bảng 3.17. Tương quan giữa khả năng chú ý với thời gian phản xạ thị giác
vận động và khả năng chú ý với chỉ số IQ, (n=600)
Chỉ số r p
TG PXTGVĐ đơn giản - 0,159 <0,05
TG PXTGVĐ phức tạp - 0,128 <0,05
Chỉ số IQ + 0,243 <0,05
Bảng 3.17 cho thấy có mối tƣơng quan nghịch và ít chặt giữa khả năng
chú ý và thời gian phản xạ thị giác - vận động, có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Giữa khả năng chú ý và chỉ số IQ có mối tƣơng quan thuận và ít chặt, có ý
nghĩa thống kê với p<0,05.
80
3.2.5. Trí nhớ ngắn hạn của sinh viên
Khả năng trí nhớ ngắn hạn của sinh viên đƣợc đánh giá bằng trắc nghiệm
“nhìn nhớ chữ số”. Kết quả nghiên cứu đƣợc trình bày trên các bảng 3.18,
3.19 và các hình 3.10; 3.11.
Bảng 3.18. Số lượng các chữ số nhớ được của sinh viên từng khối, theo
giới,( ± SD)
Giới
Khối SV Nam (A) (n=300) Nữ (B) (n=300) p (A-B)
>0,05 SVY1 (1) n=120 7,472,11 8,122,03
>0,05 SVY2 (2) n=120 7,081,95 7,181,63
>0,05 SVY3 (3) n=120 7,781,91 8,071,76
>0,05 SVY4 (4) n=120 7,651,90 7,721,79
>0,05 SVY5 (5) n=120 7,301,80 7,682,21
p(1-2), p(1-3), p(1-4), p(1-5), p(2-3), p(2-4), p(2-5), p(3-4), p(3-5), p(4-5)
>0,05 >0,05
>0,05 7,461,94 7,751,91
± SD
Khối SV
Chung 5 khối SV (n = 600) 7,601,93
Hình 3.10. Biểu đồ số lượng các chữ số nhớ được của sinh viên từng khối
81
Số liệu ở bảng 3.18 và hình 3.10 cho thấy:
- Không có sự khác biệt có ý nghĩa về số chữ số nhớ đúng của nhóm sinh
viên nam và sinh viên nữ trong cùng khối và giữa các khối khác nhau
(p>0,05).
- Số chữ số nhớ đúng chung của nhóm sinh viên nam và nhóm sinh viên
nữ ở các khối không có sự khác biệt (p>0,05) và đạt loại khá (theo điểm số).
Bảng 3.19. Phân loại khả năng nhớ của sinh viên, theo giới
Giới Nam (n=300) Nữ (n=300) Chung hai giới p Mức độ n % n % n %
Giỏi 87 29,0 111 37,0 >0,05 198 33,0
Khá 161 53,7 151 50,3 >0,05 312 52,0
Trung bình 46 15,3 34 11,3 >0,05 80 13,3
Kém 6 2,0 4 1,3 >0,05 10 1,7
Hình 3.11. Biểu đồ phân loại khả năng nhớ chung của sinh viên, theo giới
Kết quả ở bảng 3.19 và hình 3.11 cho thấy khả năng nhớ của đa số các
nhóm sinh viên ở mức giỏi và khá. Không có sự khác biệt về tỷ lệ các mức
phân loại khả năng nhớ giữa nhóm nam và nữ sinh viên (p>0,05).
82
3.2.6. Trạng thái căng thẳng cảm xúc
3.2.6.1. Đánh giá trạng thái căng thẳng cảm xúc
Kết quả đánh giá trạng thái căng thẳng cảm xúc bằng trắc nghiệm
Spielberger đƣợc trình bày trên các bảng 3.20 ÷ 3.22 và hình 3.12.
Bảng 3.20.Trạng thái căng thẳng cảm xúc ở thời điểm hiện tại của sinh viên,
theo giới.
Giới
Chung hai giới Nam n= 300 Nữ n= 300 p
Mức độ căng thẳng cảm xúc
n % n % n %
Thấp 221 73,7 212 70,7 >0,05 433 72,2
Vừa 76 25,3 78 26,0 >0,05 154 25,7
Cao 3 1,0 10 3,3 >0,05 13 2,2
Có xu hƣớng bệnh lý 0 0 0 0 0 0
Kết quả ở bảng 3.20 cho thấy tại thời điểm nghiên cứu các sinh viên nam và
nữ có trạng thái căng thẳng cảm xúc ở mức độ thấp, chiếm (72,2%), không có đối
tƣợng nào ở mức độ căng thẳng cảm xúc có xu hƣớng bệnh lý. Tỷ lệ các mức độ
căng thẳng cảm xúc ở sinh viên nam và nữ không khác biệt (p>0,05).
Bảng 3.21.Trạng thái căng thẳng cảm xúc thường xuyên của sinh viên, theo khối
Có xu hƣớng Mức độ Thấp Vừa Cao bệnh lý
n % % n % n % n Các khối
5 4,2 2 1,7 54,2 48 40,0 65 SVY1 (1) n=120
5 4,2 1 0,8 61,7 40 33,3 74 SVY2 (2) n=120
2 1,7 1 0,8 47,5 60 50,0 57 SVY3 (3) n=120
2 1,7 1 0,8 66,7 37 30,8 80 SVY4 (4) n=120
2 1,7 1 0,8 64,2 40 33,3 77 SVY5 (5) n=120
Ở mức độ lo âu cao p (3-2)* , p (3-4)*, p (3-5)*
83
Số liệu ở bảng 3.21 cho thấy trạng thái căng thẳng cảm xúc thƣờng xuyên của sinh viên các khối chủ yếu ở mức độ vừa và cao. Mức độ lo âu cao thƣờng xuyên ở sinh viên năm thứ 3 (50%) cao hơn các khối khác có ý nghĩa thống kê với p<0,05, sau đó là sinh viên năm thứ 1 (40%), năm thứ 2 và thứ 5 (30,8%), thấp nhất là năm thứ 4 (30,8%).
Bảng 3.22. Trạng thái căng thẳng cảm xúc thường xuyên của sinh viên, theo giới
Mức độ căng thẳng cảm xúc
Giới Nữ n=300 Nam n=300 p OR 95%CI n % % n
6 10 3,3 2,0 >0,05 1,0 Thấp
193 64,3 160 Vừa 53,3 <0,05 0,4 0,2-1,2
31,3 131 94 Cao 43,7 <0,05 0,6 0,4-0,8 3 Có xu hƣớng bệnh lý 1,0 3 1,0 >0,05
Hình 3.12. Trạng thái căng thẳng cảm xúc thường xuyên của sinh viên
Kết quả ở bảng 3.22 và hình 3.12 cho thấy trong các trạng thái căng thẳng cảm xúc thƣờng xuyên có tới 58,8% số sinh viên ở mức độ lo âu vừa và 37,5% ở mức độ cao. Trong vài tháng gần thời điểm nghiên cứu có 1% số sinh viên ở mức độ căng thẳng cảm xúc có xu hƣớng bệnh lý. Có mối liên quan đáng kể giữa mức độ căng thẳng cảm xúc ở nam và nữ. Tỷ lệ SV nữ ở mức độ căng thẳng cảm xúc vừa ít hơn (OR= 0,4, 95% CI=0,2-1,2, p<0,05), căng thẳng cảm xúc cao và xu hƣớng bệnh lý nhiều hơn rõ rệt so với ở SV nam ( OR= 0,6; 95% CI = 0,4-0,8; p<0,05).
84
3.3. MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG TIM - MẠCH CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC Y THÁI BÌNH TRONG TRẠNG THÁI TĨNH VÀ SAU BUỔI THI
Kết quả nghiên cứu một số chỉ số mạch, huyết áp và chỉ số thống kê toán
học nhịp tim trên điện tâm đồ 100 nhịp của sinh viên trong trạng thái tĩnh và
trong trạng thái căng thẳng (sau buổi thi) đƣợc trình bày trên các bảng 3.23 ÷
3.30 và hình 3.13.
Bảng 3.23. Mạch, huyết áp của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi,
theo giới,( ± SD)
Chỉ số
p(A-B)
>0,05
Giới
Nam (A) n = 75 78,437,67 Nữ (B) n = 75 80,2111,23
Chung n = 150 79,329,62 82,747,88
<0,05
80,2112,74
85,277,93
>0,05
Tần số mạch (Nhịp/phút)
<0,05
<0,05
114,6011,08 104,408,85
<0,05 109,5011,22
114,409,56 107,9310,69 <0,05
111,1710,62
Huyết áp tâm thu (mmHg)
<0,05
>0,05 70,677,55
<0,05 65,207,32
>0,05 67,937,90
<0,05
72,077,97
68,808,13
70,438,19
Huyết áp tâm trƣơng (mmHg) Thời điểm TT tĩnh (1) Sau buổi thi (2) p (1-2) TT tĩnh (1) Sau buổi thi (2) p (1-2) TT tĩnh (1) Sau buổi thi (2) p (1-2) >0,05 <0,05 <0,05
Kết quả ở bảng 3.23 cho thấy:
- Sau buổi thi, tần số mạch, huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trƣơng của nhóm sinh viên nữ cao hơn so với trạng thái tĩnh có ý nghĩa, (p<0,05). Ở nhóm sinh viên nam không có sự khác biệt về các chỉ số này, (p> 0,05).
- Tần số mạch sau buổi thi của nhóm sinh viên nữ cao hơn so với của nam có ý nghĩa với p<0,05. Huyết áp tâm thu và tâm trƣơng của nhóm sinh viên nam cao hơn so với của nữ trong cả hai trạng thái có ý nghĩa với p<0,05.
- Xét chung hai giới cho thấy tần số mạch, huyết áp tâm trƣơng của sinh viên tăng có ý nghĩa, (p<0,05), còn huyết áp tâm thu tăng không có ý nghĩa, (p>0,05).
85
Hình 3.13. Điện tâm đồ 100 nhịp của sinh viên Nguyễn Ngọc A, sinh ngày
19/03/1989 - Ghi trong các thời điểm khác nhau
86
87
Bảng 3.24. Tỷ lệ (%) mạch, huyết áp của sinh viên trong trạng thái tĩnh và
Khối
Nam (A)
Nữ (B)
Chung
n= 75
n= 75
p(A,B)
n = 150
sau buổi thi, theo giới (n=150)
Thời điểm
Chỉ số
TT tĩnh (A)
n % n % n %
Tần số 0 0 0 0 0 0 -
Sau buổi thi (B) 0
p (A-B)
TT tĩnh (A)
mạch <50 0,0 0 0,0 0 0,0 - (Nhịp/phút) - - - -
Tần số 5 3,3 10 6,7 >0,05 15 10,0
Sau buổi thi (B) 13
mạch >90 8,7 13 8,7 >0,05 26 17,3
p (A-B)
Huyết áp
TT tĩnh (A)
(Nhịp/phút) >0,05 >0,05 >0,05
bình thƣờng
Sau buổi thi (B) 71
72 96,0 75 100,0 >0,5 147 98,0
(mmHg)
p (A-B)
94,7 75 100,0 >0,5 146 97,3
Huyết áp cao
TT tĩnh (A)
4,0
>0,5
giới hạn
Sau buổi thi (B) 4
3 0 0 3 2,0 -
(mmHg)
p (A-B)
5,3 0 0 4 2,7 -
TT tĩnh (A)
-
HA thấp
Sau buổi thi (B) 0
0 0,0 2 2,6 2 1,3 -
p (A-B)
0,0 0 0,0 0 0,0 -
-
Kết quả ở bảng 3.24 cho thấy:
- Tần số mạch và huyết áp của đa số các nhóm sinh viên đều nằm trong
giới hạn bình thƣờng ở cả hai trạng thái tĩnh và sau buổi thi.
- Tỷ lệ sinh viên có tần số mạch nhanh ở cả hai nhóm sinh viên nam và
nữ sau buổi thi tăng lên so với trạng thái tĩnh nhƣng không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05).
88
- Tỷ lệ sinh viên có huyết áp cao giới hạn ở nhóm sinh viên nam sau buổi
thi tăng lên so với trạng thái tĩnh nhƣng không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Bảng 3.25. Phân tích các chỉ số thống kê toán học nhịp tim của sinh viên trên điện
Khối
SVY1
SVY2
SVY3
SVY4
SVY5
Chỉ số
n= 30
n= 30
n= 30
n= 30
n= 30
Thời điểm
TT tĩnh (A) 72,7710,40
73,1013,14
76,8711,28
72,979,36
76,4010,53
TSNT
Sau buổi
80,5011,22
83,4716,05
76,4312,69
72,939,01
80,1011,79
(Nhịp/ph)
thi (B)
>0,05
>0,05
>0,05
p (A-B)
tâm đồ 100 nhịp trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo khối,( ± SD)
<0,05
<0,05
TT tĩnh (A) 0,06750,0276 0,06310,0258 0,05990,0278 0,06570,0276 0,06040,0218
Độ lệch
chuẩn
Sau buổi
0,04180,0131 0,04180,0207 0,04690,0134 0,05560,0148 0,04540,0123
(giây)
thi (B)
>0,05
p (A-B)
<0,05
<0,05
<0,05
<0,05
TT tĩnh (A) 89,9685,38 102,96114,20 119,32121,81 74,3672,37 103,69118,47
Chỉ số
căng thẳng
Sau buổi
216,48173,54 312,92346,21 191,60175,27 88,5153,50 162,28189,13
(đơn vị
thi (B)
điều kiện)
p (A-B)
>0,05
>0,05
>0,05
<0,05
<0,05
Kết quả ở bảng 3.25 cho thấy sau buổi thi, ở các nhóm SV thuộc các
khối Y1, Y2 có TSNT, chỉ số căng thẳng đều tăng, độ lệch chuẩn của 100
khoảng RR giảm có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Ở các nhóm SV thuộc các
khối Y3,Y5 có độ lệch chuẩn của 100 khoảng RR giảm có ý nghĩa thống kê
(p<0,05), nhƣng TSNT và CSCT tăng không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Riêng ở nhóm SV khối Y4 có TSNT, độ lệch chuẩn và CSCT sau thi không
khác biệt so với trạng thái tĩnh.
89
Bảng 3.26. Phân tích các chỉ số thống kê toán học nhịp tim của sinh viên trên điện
Giới
tâm đồ 100 nhịp trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo giới,( ± SD)
Nam Nữ Chung
Thời điểm
CSTKTHNT n= 75 n= 75 n=150
Tần số nhịp TT tĩnh (1) 73,3611,71 75,4811,25 74,4211,01
tim 77,0012,77 81,9712,74 79,4912,95
Sau buổi thi (2) (Nhịp/phút)
p (1-2) >0,05 <0,05 <0,05
TT tĩnh (1) 0,06290,0259 0,06370,0271 0,06330,0264 Độ lệch
chuẩn (giây) 0,04560,0153 0,04450,0167 0,04510,0160
Sau buổi thi (2)
p (1-2) <0,05 <0,05 <0,05
TT tĩnh (1) 101,30112,15 94,8295,89 98,06104,40 Chỉ số căng
187,18229,68 201,54209,67 194,36219,28 thẳng (đơn Sau buổi thi (2) vị điều kiện)
p (1-2) <0,05 <0,05 <0,05
Kết quả ở bảng 3.26 cho thấy:
- Sau buổi thi, các thông số về độ lệch chuẩn của 100 khoảng RR giảm,
chỉ số căng thẳng của cả nam và nữ sinh viên đều tăng so với ở trạng thái tĩnh
có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
- Tần số nhịp tim của nam và nữ sinh viên sau buổi thi đều tăng lên so
với ở trạng thái tĩnh nhƣng sự thay đổi có ý nghĩa thống kê (p<0,05) chỉ có ở
sinh viên nữ.
90
Bảng 3.27. Đối tượng có căng thẳng chức năng tim- mạch ở mức cao theo chỉ số
Khối
thống kê toán học nhịp tim trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo khối
SVY1 SVY2 SVY3 SVY4 SVY5
Thời điểm
Chỉ số (1) (2) (3) (4) (5)
n % n % n % n % n %
TT tĩnh (A) 2 6,7 3 10,0 5 16,7 2 6,7 1 3,3
TSNT>90 Sau buổi thi 8 26,7 11 36,7 2 6,7 0 0,0 5 16,7
(Nhịp/phút) (B)
p (A-B) >0,05 - >0,05 <0,05 <0,05
TT tĩnh (A) 6 20,0 6 20,0 9 30,0 3 10,0 6 20,0
Độ lệch
Sau buổi thi 13 43,3 16 53,3 15 50 6 20,0 10 33,3 chuẩn <0,04
(B) (giây)
p(3-4)B* , p(3-5)B* , p(4-2)B*
p (A-B) >0,05 >0,05 >0,05 >0,05 <0,05
(*) <0,05
TT tĩnh (A) 4 13,3 4 13,3 6 20,0 3 10,0 3 10,0 Chỉ số căng
thẳng 200 Sau buổi thi 11 36,7 13 43,3 9 30,0 2 6,7 5 16,7
(đơn vị điều (B)
p(4-1)B*, p(4-2)B*, p(4-3)B*
kiện) p (A-B) >0,05 >0,05 >0,05 <0,05 <0,05
(*) <0,05
Kết quả ở bảng 3.27 cho thấy:
- Sau buổi thi, tỷ lệ nhóm SV Y1, Y2 có tình trạng căng thẳng chức năng
tim mạch ở mức cao (mức 3/4)) đều tăng so với trạng thái tĩnh có ý nghĩa
thống kê với p<0,05. Các nhóm sinh viên khác không có sự khác biệt về các
chỉ số này trong trạng thái tĩnh và sau thi.
91
- So sánh giữa các khối cho thấy sinh viên khối Y3 có mức độ căng thẳng
chức năng tim mạch cao ở cả hai trạng thái tĩnh và sau thi đều ở mức cao (độ
lệch chuẩn <0,04 (giây) cao hơn so với ở sinh viên khối Y4,Y5 có ý nghĩa
thống kê (p<0,05). Sinh viên khối Y4 có chỉ số căng thẳng ≥ 200 (ĐVĐK) sau
buổi thi thấp hơn so với ở sinh viên các khối khác, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p<0,05.
Bảng 3.28. Đối tượng có căng thẳng chức năng tim mạch ở mức cao trong
trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo giới
Giới Nam Nữ Chung Căng thẳng
chức năng tim
n % n % n % mạch Thời điểm
TSNT >90 TT tĩnh (1) 7 9,3 6 8,0 13 8,7
Sau buổi thi (2) 13 17,3 13 17,3 26 17,3 (Nhịp/phút)
p (1-2) >0,05 >0,05 <0,05
Độ lệch chuẩn TT tĩnh (1) 16 21,3 14 18,7 30 20,0
Sau buổi thi (2) 27 36,0 33 44,0 60 40,0 <0,04 (giây)
p (1-2) <0,05 <0,05 <0,05
Chỉ số căng TT tĩnh (1) 14 18,7 6 8,0 20 13,3
thẳng ≥200 Sau buổi thi (2) 18 24,0 22 29,3 40 26,7
p (1-2) (đơn vị điều kiện) >0,05 <0,05 <0,05
Kết quả ở bảng 3.28 cho thấy sau buổi thi, tỷ lệ các đối tƣợng có tình
trạng căng thẳng chức năng tim mạch ở mức cao (với TSNT>90 nhịp/phút, độ
lệch chuẩn <0,04 giây, chỉ số căng thẳng nhịp tim ≥ 200 ĐVĐK) đều tăng so
với trạng thái tĩnh có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
92
Bảng 3.29. Đối tượng có căng thẳng chức năng thần kinh thực vật, theo khối
Khối Chỉ số SVY1 n % SVY2 n % SVY4 SVY3 n % n % SVY5 n % Thời điểm
1 3,3 2 6,7 2 6,7 1 3,3 2 6,7 TT tĩnh (1) Cƣờng giao 8 26,7 11 36,7 7 23,3 0 0,0 2 6,7 Sau buổi thi (2) cảm >0,05 - >0,05 <0,05 <0,05 p (1-2)
4 13,3 4 13,3 6 20,0 3 10,0 3 10,0 TT tĩnh (1)
11 36,7 13 43,3 9 30,0 2 6,7 5 16,7 Chỉ số căng thẳng 200 Sau buổi thi (2)
>0,05 >0,05 >0,05 <0,05 <0,05 (ĐVĐK) p (1-2)
9 30,0 13 43,3 9 30,0 8 26,7 5 16,7 TT tĩnh (1)
0 0,0 4 13,3 4 13,3 1 3,3 0 0,0 Sau buổi thi (2) Cƣờng phó giao cảm >0,05 >0,05 >0,05 <0,05 <0,05 p (1-2)
Từ bảng 3.29 cho thấy sau buổi thi, ở nhóm SV khối Y1, Y2 tỷ lệ đối tƣợng
có căng thẳng chức năng TKTV với cƣờng giao cảm và chỉ số căng thẳng ≥200
(ĐVĐK) tăng, cƣờng phó giao cảm giảm so với trạng thái tĩnh có ý nghĩa thống
kê với p <0,05. Ở các khối khác không có sự khác biệt theo chỉ số này.
Bảng 3.30. Đối tượng có căng thẳng chức năng thần kinh thực vật, theo giới
Căng thẳng chức Giới Nam Nữ Chung
năng TKTV Thời điểm n % n % n %
TT tĩnh (1) 4 5,3 4 5,3 8 5,3 Cƣờng Sau buổi thi (2) 14 18,6 14 18,6 28 18,6 giao cảm p (1-2) <0,05 <0,05 <0,05
Chỉ số căng TT tĩnh (1) 18,7 6 8,0 20 13,3 14
thẳng ≥200 24,0 22 29,3 40 26,7 18
Sau buổi thi (2) p (1-2) >0,05 <0,05 <0,05 (ĐVĐK)
29,3 24 32,0 20 26,7 44 TT tĩnh (1)
4 5,3 6,7 9 6,0 Cƣờng phó giao cảm TT căng thẳng (2) p (1-2) <0,05 5 <0,05 <0,05
93
Từ bảng 3.30 cho thấy sau buổi thi, tỷ lệ các đối tƣợng có căng thẳng
chức năng TKTV với cƣờng giao cảm và chỉ số căng thẳng ≥200 (ĐVĐK)
tăng, cƣờng phó giao cảm giảm so với trạng thái tĩnh có ý nghĩa (p<0,05) ở cả
nam và nữ sinh viên.
3.4. MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG TÂM - THẦN KINH CỦA SINH VIÊN
ĐẠI HỌC Y THÁI BÌNH TRONG TRẠNG THÁI TĨNH VÀ SAU BUỔI THI
3.4.1. Điện não đồ của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi
Kết quả nghiên cứu điện não đồ của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau
buổi thi đƣợc trình bày trên các bảng 3.31 ÷ 3.39 và hình 3.14.
Bảng 3.31. Tần số, biên độ, chỉ số sóng α trên điện não đồ của sinh viên trong
Khối
SVY1
SVY2
SVY3
SVY4
SVY5
trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo khối,( ± SD)
Thời điểm
Sóng α
n= 30 9,6 1,3
n= 30 9,8 1,3
n= 30 9,8 1,4
n= 30 9,7 1,3
n= 30 9,2 1,1
8,9 0,8
8,9 0,7
9,0 0,7
8,9 0,7
>0,05
>0,05
TT tĩnh (1) Tần số Sau buổi thi(2) 9,1 0,7 (Hz) p (1-2)
<0,05
<0,05
<0,05
52,5 12,2 54,6 9,8
54,6 11,9 50,8 11,4 54,9 11,3
TT tĩnh (1)
45,2 6,2 44,1 6,1
45,9 6,5
47,3 7,2
45,1 6,3
Biên độ Sau buổi thi
>0,05
(µV) (2)
p (1-2)
<0,05
<0,05
<0,05
<0,05
52,3 11,3 54,1 9,2
51,8 11,5 49,2 10,2 52,0 10,3
TT tĩnh (1)
45,4 7,0 43,9 7,6
44,4 7,0
47,1 7,3
43,1 5,5
Chỉ số Sau buổi thi
>0,05
(%) (2)
p (1-2)
<0,05
<0,05
<0,05
<0,05
Kết quả ở bảng 3.31 và hình 3.14 cho thấy sau buổi thi, tỷ lệ đối tƣợng
có các thông số về tần số, biên độ và chỉ số (%) sóng α ở các nhóm sinh viên
khối Y1, Y2, Y3 đều giảm có ý nghĩa với p<0,05 so với trạng thái tĩnh. Ở
nhóm SV khối Y5 có biên độ và chỉ số (%) sóng α giảm so với trạng thái tĩnh
có ý nghĩa (p<0,05). Ở SV khối Y4 không có sự khác biệt về chỉ số này.
Hình 3.14A. Điện não đồ của sinh viên Vũ Đình T. 22 tuổi, ở trạng thái tĩnh.
94
95
Hình 3.14B. Điện não đồ của sinh viên Vũ Đình T. 22 tuổi, sau buổi thi
96
Bảng 3.32. Tần số, biên độ, chỉ số sóng α trên điện não đồ của sinh viên trong
trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo giới,( ± SD)
Giới Nam Nữ Chung Sóng α Thời điểm n= 75 n= 75
TT tĩnh (1) 9,7 1,4 9,4 1,2 9,6 1,3
Tần số Sau buổi thi (2) 8,9 0,7 9,0 0,8 8,9 0,7 (Hz)
p (1-2) <0,05 <0,05 <0,05
TT tĩnh (1) 54,4 11,8 52,6 10,8 53,5 11,3
Sau buổi thi (2) 45,5 6,3 45,6 6,7 45,5 6,5
Biên độ (µV) p (1-2) <0,05 <0,05 <0,05
TT tĩnh (1) 52,5 10,9 51,210,1 51,6 10,5
Sau buổi thi (2) 44,7 7,3 44,7 7,3 44,8 6,9 Chỉ số (%) p (1-2) <0,05 <0,05 <0,05
Kết quả ở bảng 3.32 cho thấy các thông số về tần số, biên độ và chỉ số
(%) sóng α trên điện não đồ của nam và nữ sinh viên sau buổi thi đều giảm so
với trạng thái tĩnh, sự thay đổi có ý nghĩa thống kê, (p<0,05).
Bảng 3.33. Mức thay đổi tần số, biên độ, chỉ số sóng α trên điện não đồ của
sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo giới,( ± SD)
Giới p(A-B)
Nam (A) n=75 0,8 1,7 >0,05 Chỉ số Tần số (Hz) Nữ (B) n=75 0,5 1,4
8,7 14,2 >0,05 7,1 12,4 Biên độ (V)
7,9 14,4 >0,05 Chỉ số (%) 6,3 11,4
Kết quả ở bảng 3.33 cho thấy mức giảm tần số, biên độ, chỉ số sóng α
trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi giữa nam và nữ không khác biệt, với
p>0,05.
97
Bảng 3.34. Tần số, biên độ, chỉ số sóng β trên điện não đồ của sinh viên trong
Khối
SVY1
SVY2
SVY3
SVY4
SVY5
Sóng β
n= 30
n= 30
n= 30
n= 30
n= 30
Thời điểm
trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo khối,( ± SD)
15,2 0,9 15,2 1,1 14,9 0,9 15,0 0,8 15,4 1,1
TT tĩnh (1)
15,7 0,8 16,1 0,7 15,9 0,7 15,9 0,8 15,9 0,7
Tần số
(Hz) Sau buổi thi (2)
<0,05
<0,05
<0,05
<0,05
<0,05
p (1-2)
17,3 0,6 17,6 0,7 17,5 0,6 17,5 0,8 17,5 0,7
TT tĩnh (1)) 15,7 1,1 15,5 0,8 15,7 1,1 15,6 0,9 15,7 0,8
Biên độ (µV) Sau buổi thi (2)
<0,05
<0,05
<0,05
<0,05
<0,05
p (1-2)
35,4 5,9 33,0 5,9 33,3 6,6 32,8 6,6 33,5 6,4
35,3 4,6 36,5 4,7 37,3 4,9 35,2 4,9 37,3 3,9
TT tĩnh (1)
Chỉ số (%) Sau buổi thi (2)
>0,05
p (1-2)
<0,05
>0,05
<0,05
<0,05
Kết quả ở bảng 3.34 cho thấy sau buổi thi, tỷ lệ đối tƣợng có các thông
số về tần số, biên độ và chỉ số (%) sóng beta ở các nhóm sinh viên các khối
đều tăng so với trạng thái tĩnh, có ý nghĩa thống kê (với p<0,05). Ở nhóm sinh
viên khối Y4 không có sự khác biệt về chỉ số (%).
98
Bảng 3.35. Tần số, biên độ, chỉ số sóng β trên điện não đồ của sinh viên trong
trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo giới,( ± SD)
Giới Nam Nữ Chung Sóng β n= 150 Thời điểm n= 75 n= 75
Tần số TT tĩnh (1) 15,3 1,1 15,0 0,8 15,1 0,9
(Hz) Sau buổi thi (2) 15,8 0,7 16,0 0,8 15,9 0,7
p (1-2) <0,05 <0,05 <0,05
TT tĩnh (1) 15,6 0,9 15,6 0,9 15,67 0,9
Biên độ (µV) Sau buổi thi (2) 17,5 0,7 17,4 0,6 17,5 0,7
p (1-2) <0,05 <0,05 <0,05
Chỉ số (%) TT tĩnh (1) 33,2 6,6 33,9 6,0 33,6 6,3
Sau buổi thi (2) 36,4 5,1 36,0 4,3 36,3 4,6
p (1-2) <0,05 <0,05 <0,05
Kết quả ở bảng 3.35 cho thấy sau buổi thi, sóng β trên điện não đồ của cả
nam và nữ sinh viên đều tăng có ý nghĩa thống kê về tần số, biên độ và chỉ số
(%) với p<0,05 so với trạng thái tĩnh.
Bảng 3.36. Mức thay đổi tần số, biên độ, chỉ số %, sóng beta trên điện não đồ
của sinh viên sau thi so với trạng thái tĩnh, theo giới,( ± SD)
Giới Nam (A) Nữ (B) p(A-B) Chỉ số n=75 n=75
Tần số (Hz) <0,05 0,5 1,3 1,0 1,2
>0,05 Biên độ (V) 1,9 1,2 1,7 1,0
Chỉ số (%) >0,05 3,4 8,9 2,0 7,6
99
Từ bảng 3.36 thấy rõ mức tăng tần số sóng beta sau buổi thi ở nhóm sinh
viên nữ nhiều hơn so với ở nhóm sinh viên nam, có ý nghĩa thống kê với
p<0,05. Mức tăng biên độ, chỉ số (%) sóng beta giữa sinh viên nam và nữ
không khác biệt, với p>0,05.
Bảng 3.37. Tần số, biên độ, chỉ số sóng teta trên điện não đồ của sinh viên
Khối
Sóng
SVY1
SVY2
SVY3
SVY4
SVY5
teta
n= 30
n= 30
n= 30
n= 30
n= 30
Thời điểm
trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo khối,( ± SD)
5,3 0,5 5,2 0,4
5,3 0,5 5,3 0,4 5,3 0,4
TT tĩnh (1)
5,4 0,5 5,6 0,5
5,5 0,5 5,4 0,5 5,5 0,5
Tần số
>0,05
>0,05
>0,05
>0,05
(Hz) Sau buổi thi (2)
<0,05
p (1-2)
16,9 1,5
16,6 1,4
16,7 1,2
16,8 1,3
16,9 0,9
19,4 3,3
21,0 2,9
20,7 3,4
20,7 3,2
20,9 3,2
TT tĩnh (1)
Biên độ (µV) Sau buổi thi (2)
<0,05
<0,05
<0,05
<0,05
<0,05
p (1-2)
13,7 4,8
11,5 3,8
13,8 4,8
12,2 5,1
13,2 4,8
17,2 4,3
18,8 4,0
17,9 3,5
18,4 4,0
18,2 3,6
TT tĩnh (1)
Chỉ số (%) Sau buổi thi (2)
<0,05
<0,05
<0,05
<0,05
<0,05
p (1-2)
Kết quả ở bảng 3.37 cho thấy sau buổi thi, tỷ lệ số đối tƣợng có các
thông số về tần số, biên độ và chỉ số (%) sóng teta ở các nhóm sinh viên khối
Y1, Y2, đều tăng so với trạng thái tĩnh có ý nghĩa thống kê, với p<0,05. Ở
nhóm sinh viên các khối khác có biên độ và chỉ số (%) sóng teta cũng tăng so
với trạng thái tĩnh có ý nghĩa thống kê, với p<0,05.
100
Bảng 3.38. Tần số, biên độ, chỉ số sóng teta trên điện não đồ của sinh viên
Giới
Nam (A)
Nữ (B)
Chung hai giới
Sóng teta
Thời điểm
n= 75
n= 75
n= 150
5,3 0,5
5,3 0,4
5,3 0,5
trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo giới,( ± SD)
TT tĩnh (1)
5,5 0,5
5,4 0,5
5,5 0,5
Tần số Sau buổi thi (2) (Hz)
<0,05
<0,05
<0,05
16,7 1,2
16,8 1,2
16,8 1,2
p (1-2)
21,0 3,7
20,1 2,6
20,5 3,2
TT tĩnh (1)
Sau buổi thi (2) Biên độ (µV)
<0,05
<0,05
<0,05
12,9 5,1
12,8 4,8
12,8 4,4
p (1-2)
17,9 3,9
18,2 3,9
18,2 3,9
TT tĩnh (1)
Chỉ số (%) Sau buổi thi (2)
<0,05
<0,05
<0,05
p (1-2)
Kết quả ở bảng 3.38 cho thấy sau buổi thi, sóng teta trên điện não đồ của
nhóm nam và nữ sinh viên tăng có ý nghĩa thống kê về tần số, biên độ và chỉ
số (%) với p<0,05 so với trạng thái tĩnh .
Bảng 3.39. Mức thay đổi tần số, biên độ, chỉ số sóng teta trên điện não đồ của
sinh viên sau thi so với trạng thái tĩnh, theo giới, ( ± SD)
Giới p(A-B) Chỉ số
Tần số (Hz) Nam (A) n=75 0,2 0,7 Nữ (B) n=75 0,2 0,6 >0,05
Biên độ (V) 4,2 4,1 3,2 2,5 >0,05
Chỉ số (%) 5,1 7,1 5,3 5,2 >0,05
Bảng 3.39 cho thấy mức tăng tần số, biên độ và chỉ số (%) sóng teta sau
buổi thi ở nhóm sinh viên nữ và nam không khác biệt so với trạng thái tĩnh.
101
3.4.2. Khả năng nhớ, chú ý, tƣ duy trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi
Kết quả nghiên cứu khả năng nhớ, chú ý và khả năng tƣ duy logic trong
trạng thái tĩnh và trong trạng thái căng thẳng (sau buổi thi) của sinh viên đƣợc
trình bày trên các bảng 3.40 ÷ 3.48.
Bảng 3.40. Số chữ số nhớ được trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi của sinh
viên, theo khối, ( ± SD)
Thời điểm TT tĩnh (1) Sau buổi thi (2) p(1-2)
SVY2 (n= 30)
Khối SVY1 (n= 30) >0,05 7,731,80 8,402,34
SVY3 (n= 30)
<0,05 7,631,63 9,202,04
SVY4 (n= 30)
>0,05 7,731,76 8,132,33
SVY5 (n= 30)
>0,05 7,502,11 7,832,49
<0,05 6,972,04 9,202,06
Bảng 3.40 cho thấy sau buổi thi, số chữ số nhớ đƣợc của nhóm SV khối
Y2 và Y5 tăng lên so với trạng thái tĩnh, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05). Nhóm SV các khối khác không có sự khác biệt theo chỉ số này.
Bảng 3.41. Số chữ số nhớ được trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi của sinh
viên, theo giới, ( ± SD)
Giới Kết quả p(A-B) Thời điểm Nam (A) n= 75 Nữ (B) n= 75
TT tĩnh (1) >0,05 7,401,82 7,621,93
Sau buổi thi (2) >0,05 8,762,30 8,342,28 Số chữ số nhớ đƣợc
p (1-2) <0,05 <0,05
Kết quả ở bảng 3.41 cho thấy sau buổi thi, số chữ số nhớ đƣợc của nhóm
nam và nữ sinh viên đều tăng lên so với trạng thái tĩnh, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05). Giữa nam và nữ không có sự khác biệt theo chỉ số này.
102
Bảng 3.42. Khả năng nhìn nhớ của sinh viên (qua trắc nghiệm nhìn nhớ chữ
số) trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi (n=150)
Thời điểm TT tĩnh (1) Sau buổi thi (2)
p(1-2) n % n % Mức độ
Giỏi 48 32,0 83 55,3 <0,05
Khá 77 51,3 51 34,0 <0,05
Trung bình 23 15,3 13 8,7 >0,05
Kém 2 1,3 3 2,0 >0,05
Kết quả ở bảng 3.42 cho thấy trong trạng thái tĩnh, tỷ lệ sinh viên có trí
nhớ khá chiếm đa số, sau buổi thi tỷ lệ SV có trí nhớ giỏi chiếm đa số và tăng
hơn so với ở trạng thái tĩnh có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Mức trí nhớ trung
bình và kém sau buổi thi không khác biệt so với ở trạng thái tĩnh (p>0,05).
Bảng 3.43. Số lượng các chữ số ghi được trong trạng thái tĩnh và sau thi của
sinh viên, theo khối,( ± SD)
Thời điểm TT tĩnh (1) Sau buổi thi (2) p(1-2)
SVY2 (n= 30)
Khối SVY1 (n= 30) >0,05 15,707,99 19,476,75
SVY3 (n= 30)
>0,05 15,338,18 18,937,73
SVY4 (n= 30)
>0,05 14,908,41 12,577,94
SVY5 (n= 30)
>0,05 16,138,20 14,978,43
>0,05 14,138,22 15,739,26
Kết quả ở bảng 3.43 cho thấy sau buổi thi, số chữ số ghi đƣợc của nhóm
sinh viên các khối không khác biệt so với ở trạng thái tĩnh (p>0,05).
103
Bảng 3.44. Số lượng các chữ số ghi được trong trạng thái tĩnh và sau thi của
sinh viên theo giới,( ± SD)
Giới Nam (A) Nữ (B) p(A-B) Khả năng chú ý Thời điểm n= 75 n=75
Số lƣợng các TT tĩnh (1) >0,05 16,008,06 14,488,16
chữ số ghi Sau buổi thi (2) >0,05 16,767,70 15,919,00
đƣợc p (1-2) >0,05 >0,05
Kết quả ở bảng 3.44 cho thấy sau buổi thi, số chữ số ghi đƣợc của nhóm
nam và nữ sinh viên không khác biệt so với trạng thái tĩnh (p>0,05). Giữa
nam và nữ sinh viên không có sự khác biệt theo chỉ số này ở cả hai trạng thái
(p>0,05).
Bảng 3.45. Khả năng chú ý của sinh viên (qua trắc nghiệm sắp xếp các chữ số
lộn xộn) trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi (n=150).
Thời điểm TT tĩnh (1) Sau buổi thi (2) p(1,2) Mức độ n % n %
50 33,3 62 41,3 >0,05 Giỏi
17 11,3 17 11,3 >0,05 Khá
25 16,7 18 12,0 >0,05 Trung bình
58 38,7 53 35,3 >0,05 Kém
Kết quả ở bảng 3.45 cho thấy khả năng chú ý của sinh viên ở mức độ
giỏi chiếm đa số ở cả trạng thái tĩnh và sau buổi thi. Mức độ chú ý của sinh
viên sau thi không khác biệt so với trƣớc thi (p>0,05).
104
Bảng 3.46. Số dãy số xác định đúng của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau
thi, theo khối,( ± SD)
SVY1 (n= 30)
Thời điểm TT tĩnh (1) Sau buổi thi (2) p(1-2) Khối
SVY2 (n= 30)
>0,05 11,572,65 12,802,52
SVY3 (n= 30)
>0,05 11,972,47 12,202,95
SVY4 (n= 30)
<0,05 12,132,42 10,003,85
SVY5 (n= 30)
>0,05 10,572,87 10,033,18
>0,05 10,932,79 11,902,71
Kết quả ở bảng 3.46 cho thấy sau buổi thi, số dãy số xác định đúng của
nhóm sinh viên Y3 giảm so với ở trạng thái tĩnh có ý nghĩa thống kê với
p<0,05. Ở nhóm sinh viên các khối khác không có sự khác biệt theo chỉ số này.
Bảng 3.47. Số dãy số xác định đúng của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau
thi, theo giới,( ± SD)
Giới Nam (A) Nữ (B) p(A-B) Khả năng tƣ duy Thời điểm n= 75 n=75
TT tĩnh (1) >0,05 11,272,68 11,602,69 Số dãy số xác
Sau buổi thi (2) >0,05 11,443,23 11,333,28 định đúng
p (1-2) >0,05 >0,05
Kết quả ở bảng 3.47 cho thấy sau buổi thi, số dãy số xác định đúng của
nhóm nam và nữ sinh viên không khác biệt so với ở trạng thái tĩnh (p>0,05),
và không có sự khác biệt về kết quả này giữa nam và nữ sinh viên ở cả hai
trạng thái.
105
Bảng 3.48. Khả năng tư duy của sinh viên (qua trắc nghiệm tìm số theo qui
luật) trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi (n=150)
Thời điểm p
Kết quả Giỏi Khá Trung bình Kém TT tĩnh (1) % n 30,7 46 34,7 52 24,0 36 10,7 16 Sau buổi thi (2) % n 38,7 58 25,3 38 22,7 34 13,3 20 >0,05 >0,05 >0,05 >0,05
Kết quả ở bảng 3.48 cho thấy khả năng tƣ duy của sinh viên ở mức độ khá và
giỏi chiếm tỷ lệ nhiều nhất ở cả trạng thái tĩnh và sau buổi thi; tỷ lệ sinh viên có khả
năng tƣ duy mức trung bình đạt ít hơn và mức kém có tỷ lệ ít nhất. Mức độ tƣ duy
của sinh viên sau buổi thi không khác biệt so với trạng thái tĩnh (p>0,05).
3.4.3. Thời gian phản xạ thị giác - vận động, tốc độ xử lý thông tin của
sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi
Kết quả nghiên cứu thời gian thực hiện phản xạ thị giác - vận động, tốc
độ xử lý thông tin của sinh viên trong trạng tĩnh và trong trạng thái căng thẳng
(sau buổi thi), đƣợc trình bày trên các bảng 3.49, 3.50.
Bảng 3.49. Thời gian phản xạ thị giác -vận động trong trạng thái tĩnh và sau
buổi thi của sinh viên, theo giới,( ± SD)
Thời gian Giới Nam (A) Nữ (B) p(A-B) phản xạ Thời điểm n= 75 n=75
TT tĩnh (1) 28560,54 301,2467,17 >0,05
Sau buổi thi (2) 28785,75 288,2957,08 >0,05 Đơn giản
p (1-2) >0,05 >0,05
TT tĩnh (1) 436,4385,09 <0,05
421,3168,01 >0,05 Phức tạp
394,5373,23 Sau buổi thi (2) 411,8588,34 p (1-2) >0,05 >0,05
106
Từ bảng 3.49 cho thấy TGPX thị giác - vận động đơn giản và phức tạp của
nhóm nam và nữ SV sau buổi thi không khác biệt so với ở trạng thái tĩnh. TGPX
phức tạp của nữ SV dài hơn so với của nam ở trạng thái tĩnh có ý nghĩa (p<0,05).
Bảng 3.50. Tốc độ xử lý thông tin (bit/s) của sinh viên trong trạng thái tĩnh
và sau buổi thi, theo giới,( ± SD)
Giới p(A-B) Nam (A) n=75 Nữ (B) n=75 Thời điểm
TT tĩnh (1) >0,05 7,947,88 7,083,84
Sau buổi thi (2) >0,05 7,084,82 6,524,44
p (1-2) >0,05 >0,05
Kết quả ở bảng 3.50 cho thấy sau buổi thi, tốc độ xử lý thông tin của nhóm
nam và nữ sinh viên không khác biệt so với ở trạng thái tĩnh (p>0,05), không có
sự khác biệt về kết quả này giữa nam và nữ sinh viên ở cả hai trạng thái.
3.4.4. Tình trạng căng thẳng cảm xúc của sinh viên trong trạng thái tĩnh
và sau buổi thi
Tình trạng căng thẳng cảm xúc của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau
buổi thi đƣợc đánh giá bằng trắc nghiệm Spielberger (bảng 3.51).
Bảng 3.51. Mức độ căng thẳng cảm xúc ở thời điểm hiện tại của sinh viên trong
trạng thái tĩnh và sau buổi thi (theo thang điểm Spielberger).
Giới TT tĩnh (1) Sau buổi thi (2)
p(1-2) n % n % Mức độ CTCX
Thấp 106 70,7 93 62,0 >0,05
Vừa 41 27,3 48 32,0 >0,05
Cao 3 2,0 9 6,0 >0,05
Xu hƣớng bệnh lý 0 0 0 0
Tổng 150 100,0 150 100,0
Điểm TB <0,05 25,39,02 28,79,97
107
Từ bảng 3.51 thấy rõ sau buổi thi, tỷ lệ sinh viên có mức độ căng thẳng
cảm xúc vừa và cao tăng hơn so với ở trạng thái tĩnh nhƣng sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Điểm Spielberger trung bình sau buổi thi
tăng có ý nghĩa thống kê so với ở trạng thái tĩnh (p<0,05).
3.5. MỘT SỐ CHỈ SỐ NỘI TIẾT CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC Y THÁI BÌNH TRONG TRẠNG THÁI TĨNH VÀ SAU BUỔI THI
Kết quả xét nghiệm nồng độ cortisol, catecholamin của sinh viên trong
trạng thái tĩnh và trong trạng thái căng thẳng (sau một buổi thi) đƣợc trình bày
trên các bảng 3.52 ÷ 3.53 và hình 3.15 ÷ 3.16.
Bảng 3.52. Nồng độ cortisol huyết thanh (nmol/l) của sinh viên trong trạng
thái tĩnh và sau buổi thi, theo giới,( ± SD)
Giới Nam (A) Nữ (B) Chung p(A-B) Thời điểm n= 15 n= 15 n=30
TT tĩnh (1) 272,1269,47 235,8368,79 >0,05 254,4370,81
Sau buổi thi (2) 446,4194,49 439,00136,66 >0,05 442,60116,8
p (1-2) <0,05 <0,05 <0,05
Qua bảng 3.52 và hình 3.15 thấy rõ:
- Nồng độ cortisol ở nhóm sinh viên nam và nhóm sinh viên nữ sau buổi
thi đều tăng có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với ở trạng thái tĩnh.
- So sánh theo giới cho thấy nồng độ cortisol của nhóm sinh viên nam
cao hơn so với của nhóm sinh viên nữ ở cả hai thời điểm nhƣng sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Sau thi, độ lệch chuẩn (SD) tăng so với trạng thái tĩnh.
BT: Bình thƣờng, CT: Căng thẳng
108
Hình 3.15. Biểu đồ nồng độ cortisol huyết thanh của sinh viên trong trạng thái
tĩnh và sau buổi thi
Bảng 3.53. Nồng độ catecholamin máu (µmol/l) của sinh viên trong trạng thái
tĩnh và sau buổi thi, theo giới, ( ± SD)
Giới Nam (A) Nữ (B) p(A-B) Chung
Thời điểm n= 15 n= 15 n=30
TT tĩnh (1) >0,05 37,595,57 33,446,88 35,466,53
Sau buổi thi (2) 56,006,91 57,1110,57 >0,05 56,578,87
p (1-2) <0,05 <0,05 <0,05
BT: Bình thƣờng, CT: Căng thẳng
109
Hình 3.16. Biểu đồ nồng độ catecholamin máu của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi
Qua bảng 3.53 và hình 3.16 thấy rõ:
- Nồng độ catecholamin ở nhóm sinh viên nam và nhóm sinh viên nữ sau
buổi thi đều tăng có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với ở trạng thái tĩnh.
- So sánh theo giới cho thấy trong trạng thái tĩnh, nồng độ catecholamin
của nhóm sinh viên nam cao hơn so với của nhóm sinh viên nữ, còn sau buổi
thi nồng độ catecholamin của nhóm sinh viên nữ lại cao hơn so với của nhóm
sinh viên nam nhƣng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
110
CHƢƠNG 4
BÀN LUẬN
Sinh viên là một tầng lớp xã hội, một lực lƣợng quan trọng đối với mọi
thể chế chính trị. Họ sẽ là nguồn dự trữ chủ yếu cho đội ngũ chuyên gia theo
các nghề nghiệp khác nhau trong cấu trúc của tầng lớp trí thức. Sinh viên
ngày nay phải thƣờng xuyên đối mặt với cuộc cạnh tranh gay go, quyết liệt
của kinh tế thị trƣờng khu vực và toàn cầu, mà thực chất là cạnh tranh về tài
năng, trí tuệ con ngƣời, trong khi đất nƣớc chúng ta đang còn ở điểm xuất
phát rất thấp. Vị trí, vai trò ấy, sinh viên và trí thức trẻ phải có trách nhiệm
đảm nhận, để từng bƣớc đƣa đất nƣớc tiến lên [14].
Trong suốt quá trình học tập, hoạt động nghiên cứu khoa học và rèn
luyện nghề nghiệp tƣơng lai, mọi sinh viên, đặc biệt là sinh viên các trƣờng
đại học Y chịu nhiều áp lực của khối lƣợng lớn giờ học và các kỳ thi căng
thẳng. Sinh viên những năm đầu thì sáng học lý thuyết trên giảng đƣờng,
chiều thực tập ở các labo, sinh viên từ năm thứ 3 đến năm cuối thì sáng đi lâm
sàng, chiều học lý thuyết và tham gia trực bệnh viện. Những gắng sức nhƣ
vậy có thể tạo những đáp ứng thuộc về cảm xúc, hành vi và sinh lý của cơ thể.
Để lƣợng hóa mức độ căng thẳng bằng các chỉ số đo lƣờng khách quan, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu một số chỉ số chức năng tim mạch, thần kinh và một
số nội tiết tố ở trạng thái tĩnh và trạng thái căng thẳng (sau buổi thi), góp phần
làm cơ sở khoa học và thực tiễn đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế bớt
căng thẳng, nâng cao sức khỏe và chất lƣợng học tập của sinh viên.
4.1. MỘT SỐ CHỈ SỐ TIM - MẠCH CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC Y THÁI BÌNH
Một trong những chỉ số đơn giản để đánh giá năng lực hoạt động của cơ
thể là tần số nhịp tim và huyết áp động mạch. Từ lâu, trong sinh lý lao động
và ecgonomi, ngƣời ta đã sử dụng những chỉ số này để xác định khả năng lao
động thể lực và phân loại thể lực. Các chỉ số này dễ đo đạc, có thể đo trong
111
thời gian dài và lặp đi lặp lại và những biến đổi của chúng rất dễ nhận biết vì
khi tăng cƣờng độ lao động, tăng mức độ cảm xúc thì các chỉ số này cũng tăng
theo (theo[20]).
- Tần số mạch của sinh viên (bảng 3.1) ở nam là 79,85 ± 9,02 (nhịp/phút)
tƣơng đƣơng ở nữ là 79,81 ± 9,02 (nhịp/phút), nằm trong giới hạn bình
thƣờng của thanh niên Việt Nam cùng lứa tuổi [4]. Theo nghiên cứu của
Phạm Gia Khải, Nguyễn Lân Việt [35] trên 1899 đối tƣợng tuổi từ 16 đến 24
cho thấy tần số mạch ở nam là 76 ± 7 (nhịp/phút), ở nữ là 77 ± 7 (nhịp/phút).
Nghiên cứu một số chỉ sinh học của sinh viên tuổi từ 20-22 ở 3 trƣờng đại học
và cao đẳng tỉnh Thái Bình của chúng tôi [27] cho thấy tần số mạch của nam
(80,908,77 ck/ph) tƣơng tự của nữ (81,438,78 ck/ph). So sánh giữa 3
trƣờng thì tần số mạch của sinh viên trƣờng đại học Y Thái Bình cao hơn ở
sinh viên trƣờng đại học Công nghiệp và trƣờng CĐSP (với p<0,05). Điều
này chứng tỏ sinh viên Y chịu nhiều căng thẳng hơn so với sinh viên các
trƣờng khác.
- Huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trƣơng (HAtth, HAtr) của sinh viên
trong nghiên cứu của chúng tôi đều nằm trong giới hạn bình thƣờng của thanh
niên Việt Nam cùng lứa tuổi [4], [13], [16], [52].
Các trị số huyết áp của sinh viên nam (HAtth 116,03 ± 20,14 mmHg,
HAttr 70,71 ± 7,56 mmHg) đều cao hơn so với HA ở sinh viên nữ (HAtth
107,60 ± 1 1,86 mmHg và HAttr 67,77 ± 8,19 mmHg) có ý nghĩa thống kê
với p<0,05. Sự khác biệt này có lẽ do lực co cơ tim ở nam mạnh hơn ở nữ và
trƣơng lực mạch ở nam cũng lớn hơn ở nữ. So sánh kết quả nghiên cứu của
chúng tôi với kết quả của các tác giả khác cho thấy số liệu của chúng tôi
tƣơng đƣơng với kết quả nghiên cứu của Phạm Gia Khải, Nguyễn Lân Việt
[35] trên 1793 đối tƣợng có độ tuổi từ 16 đến 24 có huyết áp tâm thu, huyết áp
tâm trƣơng của nam lần lƣợt là 115±10 mmHg và 72 ± 7 mmHg, của nữ là 110 ±
112
10 mmHg và 70 ± 7mmHg. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi trên sinh viên 3
trƣờng Đại học và cao đẳng [27] cũng cho thấy HA tâm thu, HA tâm trƣơng
của nam (113,6711,19; 70,907,04) đều cao hơn ở nữ (107,1810,40;
67,247,06) có ý nghĩa thống kê với p<0,05, song thấp hơn so với số liệu của
Trần Đỗ Trinh [52] cho thấy HA tâm thu, HA tâm trƣơng của nam lần lƣợt là
120,27 ± 11,38,mmHg và 74,61 ± 8,82 mmHg, HA của nữ là 114 ± 10,88 mmHg
và 72,35 ± 9,18 mmHg . Tuy nhiên số đối tƣợng nghiên cứu của Trần Đỗ Trinh
khá lớn và đã cách đây 15 năm nên sự so sánh này chỉ là tƣơng đối.
- Trạng thái thần kinh thực vật
Kết quả nghiên cứu thu đƣợc ở bảng 3.2 và hình 3.1 cho thấy trạng thái
cân bằng thần kinh thực vật chiếm tỷ lệ cao nhất ở cả hai giới (53,5%). So
sánh trạng thái thần kinh thực vật giữa hai giới (bảng 3.2) thấy rõ trạng thái
cân bằng ở sinh viên nam (57%) chiếm tỉ lệ cao hơn so với ở sinh viên nữ,
(50%), với p>0,05, còn trạng thái cƣờng giao cảm ở sinh viên nữ (47%) lại
cao hơn so với ở sinh viên nam (37%), với p <0,05. Kết quả nghiên cứu này
cũng phù hợp với kết quả của chúng tôi thu đƣợc ở sinh viên ba trƣờng đại
học, cao đẳng tỉnh Thái Bình [27], cho thấy đa số sinh viên có trạng thái thần
kinh thực vật cân bằng (51,2%), trong đó ở nam có trạng thái cân bằng cao
hơn so với ở nữ, còn ở nữ có trạng thái cƣờng giao cảm hơn so với ở nam
[27]. Điều này liên quan đến hormon, gen và các yếu tố môi trƣờng [88]. So
sánh giữa các trƣờng thì trạng thái cƣờng giao cảm ở sinh viên nữ của trƣờng
đại học Y cao hơn so với ở sinh viên trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm (p<0,05).
Nhiều nghiên cứu cho thấy sinh viên Y phải có thể trải nghiệm một số lƣợng
đáng báo động liên quan đến căng thẳng bởi ngành Y là một ngành đào tạo
đòi hỏi ngoài năng lực trí tuệ còn cần phải có cảm xúc vì liên quan đến những
mối quan hệ phức tạp giữa bác sỹ và bệnh nhân sau này [84]. Nguồn gây căng
thẳng cho sinh viên Y rất khác biệt so với những sinh viên cùng lứa với họ
phải chịu đựng nhƣ số lƣợng giáo trình học tập rất lớn đƣợc đƣa vào trong
113
một khoảng thời gian giới hạn, dòng thác của khoa học trong lĩnh vực y tế với
rất nhiều các khái niệm mới, không đủ thời gian qui định lâm sàng, áp lực của
các buổi kiểm tra lƣợng giá liên tục mà các sinh viên các trƣờng khác không
phải trải qua [84], 115].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi trên các sinh viên từ năm thứ nhất đến
năm thứ năm cho thấy trạng thái thần kinh thực vật cân bằng ở sinh viên khối
Y4, Y5 cao hơn so với ở sinh viên các khối Y1, Y2,, Y3 (với p>0,05). Trạng
thái cƣờng giao cảm giảm dần từ lúc sinh viên mới vào trƣờng đến khi ra
trƣờng. Trạng thái cƣờng giao cảm ở sinh viên khối Y4 chiếm tỷ lệ thấp hơn
so với các khối khác. Điều này có lẽ do sinh viên phần lớn phải chuyển tới
sống ở những nơi cách xa gia đình, bạn bè và quê hƣơng. Thay đổi nơi ở sẽ
mất đi sự thân quen, lo sợ những điều không biết, bối rối khi làm quen với
những con ngƣời và nơi chốn mới lạ. Việc học ở bậc đại học đòi hỏi sinh viên
phải chủ động hơn cách học thụ động ở cấp phổ thông, sinh viên cần tìm hiểu
những môn học, những chuyên ngành khoa học cụ thể một cách chuyên sâu
để nắm đƣợc đối tƣợng, nhiệm vụ, phƣơng pháp, quy luật của các khoa học
đó, với mục đích trở thành những chuyên gia về các lĩnh vực nhất định. Chính
cuộc sống xa nhà với nhiều vất vả, lo toan và thay đổi phƣơng pháp học, phải
thích nghi với môi trƣờng xã hội mới, mối quan hệ giữa bạn bè đồng đẳng, kỳ
vọng của cha mẹ, căng thẳng về tài chính là những nguyên nhân góp phần gây
căng thẳng ở sinh viên, đặc biệt là sinh viên những năm đầu [84], [115].
Nghiên cứu của Shah [115] cho thấy các yếu tố gây căng thẳng cho sinh viên
Y năm đầu là 18-25% từ môi trƣờng, 21- 40% từ các mối quan hệ ở trƣờng,
18-25% từ các mối quan hệ xã hội và 35-70% từ các yếu tố học tập. Những
năm sau sinh viên ổn định về tâm sinh lý hơn, đồng thời ở họ đã có sự trải
nghiệm căng thẳng do đó trạng thái cƣờng giao cảm giảm dần.
114
4.2. MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG TÂM - THẦN KINH CỦA SINH
VIÊN ĐẠI HỌC Y THÁI BÌNH
4.2.1. Thời gian thực hiện phản xạ thị giác-vận động và tốc độ xử lý thông tin
Tốc độ xử lý thông tin là một chỉ số đánh giá khả năng di chuyển giữa
hai quá trình hƣng phấn và ức chế. Chỉ số này đƣợc xác định trên cơ sở tính
thời gian phản xạ thị giác - vận động đơn giản và phức tạp.
Qua kết quả nghiên cứu TGPX thị giác- vận động đơn giản và phức tạp
của sinh viên ĐH Y Thái Bình, chúng tôi nhận thấy TGPX thị giác - vận động
đơn giản và phức tạp của sinh viên nam ngắn hơn so với của sinh viên nữ có ý
nghĩa thống kê với p<0,05 (bảng 3.4). Sự khác nhau về thời gian phản xạ theo
giới tính cũng có thể thấy trong công trình nghiên cứu của Mai Văn Hƣng [33]
trên sinh viên lứa tuổi từ 18 đến 25 và trong nghiên cứu của Trần Thị Loan trên
các đối tƣợng là học sinh phổ thông tại Hà Nội [40].
Bảng 3.3 cho thấy TGPX thị giác - vận động đơn giản của nam và nữ
sinh viên các khối có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Sinh viên
khối Y4 có TGPX ngắn nhất và TGPX dài nhất là nhóm sinh viên khối Y5.
Điều này có lẽ do sinh viên khối Y4 có khả năng chú ý cao hơn so với các
khối khác với p<0,05 (bảng 3.15 và hình 3.8). Trong nghiên cứu này cũng cho
thấy có mối tƣơng quan nghịch giữa khả năng chú ý và TGPX thị giác - vận
động đơn giản, phức tạp (r = - 0,159 và r = - 0,128), sự khác biệt giữa các
chỉ số này có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (bảng 3.17). Điều đó có nghĩa là
tốc độ chú ý càng cao thì TGPX càng ngắn (phản xạ nhanh). Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của Mai Văn Hƣng [33] trên
sinh viên Đại học Sƣ phạm về mối tƣơng quan nghịch giữa khả năng chú ý và
thời gian phản xạ thính, thị giác - vận động.
Kết quả về TGPX thị giác - vận động của chúng tôi cũng tƣơng tự với
nhận xét của Nguyễn Văn Tƣ [53] trên sinh viên Đại học Y Thái Nguyên, của
115
Mai Văn Hƣng nghiên cứu trên sinh viên lứa tuổi từ 18 đến 25. Nếu so sánh
kết quả TGPX thị giác - vận động của Đỗ Công Huỳnh [30] trên thanh thiếu
niên từ 6 đến 19 tuổi và của Nguyễn Thị Ngọc Thanh [48] trên học sinh cuối
bậc tiểu học thì TGPX thị giác - vận động trong nghiên cứu của chúng tôi lại
ngắn hơn. Có sự khác biệt này có lẽ do độ tuổi khác nhau và do sống trong
các môi trƣờng khác nhau. Mặt khác, ở lứa tuổi 20 sự phối hợp hoạt động của
hệ thần kinh - cơ đã đạt mức độ hoàn chỉnh, tốc độ dẫn truyền thần kinh qua
synap nhanh hơn, do đó rút ngắn thời gian phản xạ so với các em ở lứa tuổi
nhỏ. Vì vậy, kết quả tốc độ xử lý thông tin trong nghiên cứu của chúng tôi
cũng cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Thanh. Tốc độ xử lý
thông tin của các đối tƣợng trong nghiên cứu này (bảng 3.4 và hình 3.2) là 7,06
± 3,30, chủ yếu ở mức khá, giỏi. Không có sự khác biệt giữa nam và nữ từng
khối cũng nhƣ giữa các khối sinh viên theo chỉ số này (bảng 3.5 và hình 3.2).
4.2.2. Năng lực trí tuệ theo test Raven
Các nhà Sinh lý học, Y học và Tâm lý học từ lâu đã đi sâu nghiên cứu về
năng lực trí tuệ. Tại Việt Nam những năm gần đây có nhiều công trình nghiên
cứu về lĩnh vực này và đã thu đƣợc các kết quả có ý nghĩa nhƣ các công trình
nghiên cứu trí tuệ trên học sinh phổ thông và sinh viên đại học [25], [28],
[33], [40], [36], [49].
Chỉ số IQ và phân mức trí tuệ
Trí tuệ là một trong những đặc tính tâm lý và tƣ duy chỉ có ở con ngƣời,
chính vì vậy nghiên cứu về năng lực trí tuệ là vấn đề luôn đƣợc quan tâm đặc
biệt trong giới khoa học. Có nhiều phƣơng pháp nghiên cứu về trí tuệ song test
Raven đƣợc sử dụng phổ biến. Trong nghiên cứu này chúng tôi đã dùng phép
thử test Raven để nghiên cứu năng lực trí tuệ trên sinh viên Đại học Y Thái Bình.
Kết quả nghiên cứu trên bảng 3.7 và hình 3.3 cho thấy chỉ số IQ của nam
là 98,61 ± 16,98, của nữ là 100,50 ± 12,68, không có sự khác biệt của chỉ số
116
IQ giữa nam và nữ ở từng khối cũng nhƣ toàn trƣờng. Chỉ số IQ của sinh viên
khối Y4 cao hơn các khối khác, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê, (p>0,05). Về phân mức trí tuệ, kết quả ở bảng 3.9 cho thấy năng lực trí tuệ
của các đối tƣợng nghiên cứu nằm trong các mức từ xuất sắc đến kém, trong
số các đối tƣợng nghiên cứu có 10 sinh viên đạt mức xuất sắc chiếm 1,7%. Số
đối tƣợng có chỉ số IQ đạt mức trung bình và thông minh chiếm đa số (60,5%
và 22,7%), không có sự khác biệt về mức trí tuệ giữa các nhóm nam và nữ
sinh viên. Bảng 3.8 còn cho thấy tỷ lệ mức trí tuệ ở nhóm sinh viên nam và
nhóm sinh viên nữ từng khối không có sự khác biệt, riêng ở khối Y3 mức IQ
trung bình của nhóm sinh viên nữ cao hơn rõ rệt so với ở nhóm sinh viên nam,
(p<0,05). Các nhóm nữ sinh viên thuộc các khối khác nhau có tỷ lệ các mức
trí tuệ không khác nhau rõ rệt, (p>0,05). Ở các nhóm sinh viên nam thuộc các
khối Y2, Y4 và Y5 có tỷ lệ mức trí tuệ trung bình cao hơn có ý nghĩa so với ở
các nhóm Y1 và Y3 (p<0,05). Tỷ lệ các mức trí tuệ khác của sinh viên nam
thuộc các khối khác nhau không có sự khác biệt có ý nghĩa (p>0,05).
So sánh kết quả trong nghiên cứu này với kết quả nghiên cứu của một số
tác giả khác cũng sử dụng test Raven nghiên cứu chỉ số IQ trên sinh viên cho
thấy kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với Trần Thị Cúc nghiên
cứu trên sinh viên năm thứ 2 Đại học Huế [8], Trần Thị Loan trên sinh viên
Đại học Sƣ phạm [50] và Mai Văn Hƣng [33] trên sinh viên Đại học Sƣ phạm,
Đại học Hồng Đức. Có sự khác nhau này một phần có thể do các sinh viên
các trƣờng khác đã có dịp làm quen với test Raven trong môn Tâm lý học,
còn sinh viên ĐH Y Thái Bình lần đầu tiên sử dụng test này. Mặt khác số đối
tƣợng trong các nghiên cứu của các tác giả có khác nhau và còn ít nên chƣa
thể đƣa ra kết luận chính xác về vấn đề này.
117
Liên quan giữa năng lực trí tuệ và kết quả học tập của sinh viên
Qua bảng 3.10, 3.11 cho thấy điểm test Raven trung bình theo từng
nhóm học lực của toàn trƣờng và từng khối sinh viên đều giảm dần theo học
lực từ học lực giỏi đến học lực yếu (53,35 xuống 50,20), tuy nhiên sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Không có sự khác biệt giữa nam
và nữ về điểm test Raven ở từng mức học lực. Kết quả ở bảng 3.12 cho thấy
tất cả các sinh viên có học lực giỏi đều có chỉ số IQ từ xuất sắc đến trung
bình, không có sinh viên nào có chỉ số IQ ở mức trung bình kém trở xuống
(IQ<89) ở cả nam và nữ. Trong số các sinh viên có học lực khá vẫn có sinh viên
có chỉ số IQ ở mức kém (IQ <80). Các sinh viên có học lực trung bình không có
sinh viên nào có chỉ số IQ ở mức xuất sắc (IQ >120). Kết quả trên hình 3.5 cho
thấy có mối tƣơng quan thuận giữa chỉ số IQ và điểm trung bình (học lực) của
sinh viên nhƣng không chặt (r = 0,134).
Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi thấp hơn so với kết quả nghiên
cứu của Trần Thị Cúc [8] trên học sinh và sinh viên Huế, tác giả cho thấy có
mối tƣơng quan thuận giữa năng lực trí tuệ theo test Raven với học lực, ở sinh
viên (r = 0,2) ít chặt hơn so với học sinh (r =0,32). Nghiên cứu của Trần Thị
Loan [40] trên học sinh từ 6-17 tuổi cũng thấy có mối tƣơng quan thuận chặt
chẽ giữa năng lực trí tuệ theo test Raven với học lực (r = 0,68). Nhƣ chúng ta
đã biết, năng lực trí tuệ có liên quan mật thiết với các loại hình hoạt động thần
kinh của con ngƣời. Năng lực trí tuệ chỉ tồn tại, hình thành và phát triển trong
hoạt động tƣơng ứng. Trong những trƣờng hợp này, năng lực trí tuệ đƣợc coi
là khả năng nhận thức, khả năng hoạt động trí óc và khả năng thực hành của
con ngƣời nhằm thích ứng với môi trƣờng sống. Nó là tổ hợp các đặc điểm
tâm - sinh lý của từng ngƣời nhằm đáp ứng yêu cầu và sự thành công của sự
hoạt động nhận thức cũng nhƣ hoạt động thực hành. Trong khi đó, học lực
phản ánh năng lực học tập của ngƣời học và đánh giá kết quả học tập bằng
118
điểm số. Năng lực học tập chính là các đặc điểm tâm lý của cá nhân (trƣớc hết
là các đặc điểm hoạt động trí tuệ) đáp ứng yêu cầu của hoạt động học tập và
giúp cho việc lĩnh hội một cách tƣơng đối nhanh, dễ dàng và sâu sắc các kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo. Một số công trình nghiên cứu cũng cho thấy có mối
liên hệ giữa năng lực trí tuệ và học lực [8], [28] [40], đó là mối tƣơng quan
thuận. Những học sinh có chỉ số thông minh IQ cao thì kết quả học tập
thƣờng thuộc loại giỏi. Ngƣợc lại những học sinh có học lực yếu thƣờng có
chỉ số IQ không cao. Tuy nhiên cần phải lƣu ý rằng năng lực trí tuệ và học lực
không đồng nhất. Những công trình nghiên cứu trên sinh viên của Ban Tâm lý
học thuộc trƣờng ĐH Tổng hợp Kiev cho thấy trong số sinh viên có học lực
yếu cũng có những ngƣời đạt chỉ số trí tuệ cao. Theo V.M.Blaykhat và
L.Ph.Burơlachuc, những trƣờng hợp này có thể giải thích bằng sự thiếu động
cơ học tập và thiếu tập trung chú ý (theo [50]). Chúng tôi cũng cho rằng các
sinh viên có chỉ số trí tuệ cao nhƣng học lực yếu là do họ không có động cơ
học tập đúng đắn hoặc không có phƣơng pháp học tập tốt, trong giờ lên lớp
không tập trung nghe giảng, ghi chép không đầy đủ. Về nhà không xem lại
bài đã ghi, không đọc giáo trình để bổ sung kiến thức còn thiếu sót. Do đó,
khi chuẩn bị thi với thời gian ngắn không thể nắm chắc đầy đủ toàn bộ giáo
trình nên kết quả thi kém là lẽ đƣơng nhiên.
Các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học ở Xanh Petecbua cho
thấy ở học sinh nữ có sự phụ thuộc trực tiếp của thành tích học tập (phƣơng
tiện đánh giá học lực) vào mức độ trí tuệ. Trong khi đó, ở nam giới, các
nguyên nhân khác lại thƣờng ảnh hƣởng đến thành tích học tập nhiều hơn, ví
dụ ảnh hƣởng của nhóm bạn bè, động cơ học tập... (theo [50]).
Nhƣ vậy trong một số trƣờng hợp học lực chƣa phản ánh đúng năng lực
trí tuệ. Bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng mỗi cá nhân đều có năng lực trí tuệ
nhiều hơn về một mặt nào đó và có năng lực trí tuệ ít hơn về một mặt khác.
119
Thừa nhận một ngƣời có ít năng lực trong lĩnh vực hoạt động nào đó (ví dụ
âm nhạc, văn học ..) không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn khả năng của họ
trong những lĩnh vực khác (ví dụ kỹ thuật, toán học...) [7]. Trong khi đó học
lực đƣợc đánh giá dựa trên kết quả của tất cả các môn học, cho nên không
phải bao giờ nó cũng phản ánh đúng năng lực trí tuệ.
Theo Cruchetski năng lực đƣợc hình thành và phát triển do ảnh hƣởng
của hoàn cảnh sống, hoạt động học tập và giáo dục của con ngƣời, còn những
đặc điểm bẩm sinh của não là tiền đề tự nhiên, có ảnh hƣởng nhất định đến sự
phát triển năng lực [7]. Sự phát triển trí tuệ không đơn thuần là sự biến đổi về
số lƣợng tri thức nhiều hay ít, cũng không chỉ là chỗ nắm bắt đƣợc phƣơng
thức phản ánh chung, mà là sự biến đổi về chất trong hoạt động của sinh viên.
Vì vậy, trong quá trình dạy và học phải chú ý cả hai yếu tố nâng cao tri thức
và phát triển tƣ duy cho sinh viên.
4.2.3. Khả năng tƣ duy của sinh viên
Tƣ duy là một thuộc tính chỉ có ở con ngƣời. Các thao tác của tƣ duy bao
gồm phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tƣợng hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa,
phân loại, hệ thống hóa. Chúng tôi chọn phƣơng pháp tƣ duy logic tức là dựa
trên những khái niệm trừu tƣợng.
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.13 và hình 3.6 cho thấy khả năng tƣ duy
của các sinh viên ĐH Y Thái Bình qua việc tìm đƣợc số dãy số xác định đúng
là 11,273,53. Số dãy số xác định đúng của nhóm nam sinh viên và nữ sinh
viên cùng khối và giữa các khối không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p>0,05). Về phân loại khả năng tƣ duy của sinh viên ĐH Y Thái Bình (bảng
3.14 và hình 3.7) cho thấy khả năng tƣ duy của của các nhóm sinh viên nam
và nữ đa số là ở mức khá. Mức khả năng tƣ duy đạt giỏi và trung bình chiếm
tỷ lệ tƣơng đƣơng nhau (23,7% và 23% ở nam; 28,7% và 24,3% ở nữ). Tỷ lệ
khả năng tƣ duy đạt mức kém ít nhất. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ
120
lệ các mức khả năng tƣ duy giữa nhóm sinh viên nam và nhóm sinh viên nữ.
Kết quả trong nghiên cứu này tƣơng tự với nghiên cứu của chúng tôi tiến
hành năm 2006 trên sinh viên Đại học Y Thái Bình, khả năng tƣ duy ở mức
khá, giỏi chiếm trên một nửa (62,8%) [26]. Điều này cho thấy chất lƣợng đầu
vào của sinh viên y là rất cao và tƣơng đối đồng đều giữa các năm.
4.2.4. Khả năng chú ý
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy khả năng chú ý
qua việc sắp xếp các chữ số lộn xộn của sinh viên Y Thái Bình là 15,51 ±
7,58. Kết quả ở bảng 3.15 và hình 3.8 cho thấy số lƣợng các chữ số ghi đƣợc
của sinh viên nam và sinh viên nữ ở từng khối là tƣơng đƣơng, (p>0,05). Số
lƣợng các chữ số ghi đƣợc của nam sinh viên và của nữ sinh viên Y1, Y2, Y3,
Y5 khác nhau không có ý nghĩa thống kê, (p>0,05). Riêng số lƣợng các chữ số
ghi đƣợc của khối sinh viên Y4 là nhiều nhất và cao hơn rõ rệt so với khả năng
này của sinh viên các khối khác, (p<0,05). Sự khác biệt này có lẽ là do sinh
viên khối Y4 có chỉ số IQ cao hơn các khối khác (bảng 3.7 và hình 3.3). Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi ở bảng 3.17 cho thấy có mối tƣơng quan thuận
giữa chỉ số IQ và khả năng chú ý (r = 0,243), có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Mai Văn Hƣng [33] trên sinh
viên cho thấy mối tƣơng quan thuận khá chặt chẽ (r= 0,675) giữa chỉ số IQ và
khả năng chú ý. Nhƣ vậy, chỉ số IQ càng cao thì khả năng chú ý càng tốt.
Về phân mức khả năng chú ý, kết quả ở bảng 3.16 và hình 3.9 cho thấy
khả năng chú ý của đa số các đối tƣợng ở 2 mức là mức giỏi (33,5%) và kém
(38%). Điều này có lẽ phụ thuộc vào sự hƣng phấn trong quá trình học tập,
nghiên cứu cũng nhƣ ý thức của sinh viên. Tỷ lệ số sinh viên có khả năng chú ý
ở mức giỏi trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với trong nghiên cứu
của Trần Thị Loan [40] ở các lớp tuổi từ 6 đến17, tƣơng tự với nghiên cứu
của Mai Văn Hƣng trên sinh viên Đại học Sƣ phạm Hà Nội [33]. Điều này
121
chứng tỏ ở tuổi trƣởng thành khả năng chú ý trở nên tốt hơn so với ở các lớp
tuổi khác. Kết quả này cũng phù hợp với nhận định của Daxiorski B.M. [9] là
ở ngƣời trƣởng thành có hệ thần kinh phát triển cả về số lƣợng (tăng đuôi gai,
tăng nhánh sợi trục, tăng hoạt động của các synap mới) lẫn chất lƣợng, dẫn
đến tăng khả năng hƣng phấn, độ linh hoạt và khả năng thích nghi.
4.2.5. Trí nhớ ngắn hạn
Một nội dung nữa liên quan đến trí tuệ của sinh viên đƣợc chúng tôi
nghiên cứu là khả năng nhớ. Trí nhớ ngắn hạn của sinh viên đƣợc đánh giá
bằng trắc nghiệm “nhìn nhớ chữ số”.
Kết quả nghiên cứu về trí nhớ ngắn hạn của các đối tƣợng nghiên cứu
(bảng 3.18 và hình 3.10) cho thấy số chữ số nhớ đƣợc là 7,60 ± 1,93. Không
có sự khác biệt có ý nghĩa về số chữ số nhớ đúng của nhóm sinh viên nam và
nữ trong cùng khối và giữa các khối khác nhau. Số chữ số nhớ đúng của
nhóm sinh viên nam và nhóm sinh viên nữ không có sự khác biệt (p>0,05) và
đạt loại khá (theo điểm số). Về phân loại trí nhớ ngắn hạn (bảng 3.19 và hình
3.11), thì trí nhớ của các sinh viên ĐHY Thái Bình chủ yếu ở mức khá, giỏi
85%. Không có sự khác biệt về tỷ lệ các mức phân loại khả năng nhớ giữa
nhóm nam sinh viên và nữ sinh viên. Kết quả trong nghiên cứu này tƣơng tự
nghiên cứu của chúng tôi trƣớc đây trên sinh viên Y2 Đại học Y Thái Bình
[26] cho thấy mức trí nhớ chủ yếu thuộc loại khá, giỏi 86,3% (trong đó mức
khá là 52,3 %), tƣơng tự nghiên cứu của Mai Văn Hƣng [33] và cao hơn nhiều
so với nghiên cứu của Nguyễn Thị Hƣơng [34] trên các đối tƣợng 60 - 70 tuổi.
Có lẽ ở lứa tuổi 60 - 70 bắt đầu có sự lão hóa trong hệ thần kinh trung ƣơng
nên có sự suy giảm về trí nhớ, còn ở lứa tuổi 18-22 có sự gia tăng sản xuất các
amin não và các receptor đặc hiệu có vai trò trong hình thành và lƣu giữ trí nhớ.
Các kết quả nghiên cứu của chúng tôi còn cho thấy thêm một điều nữa là,
cũng giống nhƣ chỉ số IQ, các chỉ số về khả năng nhớ, chú ý, tƣ duy của nữ
122
sinh viên và nam sinh viên là tƣơng đƣơng (p>0,05). Kết quả này đƣợc xem là
một dữ kiện chứng tỏ rằng không có sự khác biệt trong hoạt động trí tuệ giữa
nam và nữ.
4.2.6. Trạng thái căng thẳng cảm xúc
- Trạng thái căng thẳng cảm xúc hiện tại của sinh viên theo giới
Cảm xúc có vai trò quan trọng trong quá trình học tập, rèn luyện trong
môi trƣờng đại học. Sự căng thẳng trong học tập, sự bùng nổ của lƣợng thông
tin cùng với các yếu tố tâm lý khác và sự ô nhiễm môi trƣờng ngày càng tăng
có thể là các tác nhân ảnh hƣởng tới sức khỏe của sinh viên với các biểu hiện
thƣờng gặp là lo lắng, căng thẳng, dễ cáu giận, lơ đãng, thiếu tập trung.
Để nghiên cứu mức độ căng thẳng cảm xúc chúng tôi sử dụng trắc
nghiệm Spielberger. Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.20 cho thấy tại thời điểm
nghiên cứu các sinh viên nam và nữ có trạng thái căng thẳng cảm xúc ở mức
độ thấp, chiếm 72,2%, không có đối tƣợng nào ở mức độ căng thẳng cảm xúc
có xu hƣớng bệnh lý. Tỷ lệ các mức độ căng thẳng cảm xúc ở sinh viên nam
và nữ không có sự khác biệt (p>0,05). Nghiên cứu đƣợc tiến hành vào ngày
nghỉ để tránh ảnh hƣởng của áp lực thi cử ảnh hƣởng đến sinh viên. Có lẽ vì
thế mà các đối tƣợng nghiên cứu của chúng tôi có mức căng thẳng cảm xúc
cao ở thời điểm hiện tại có tỷ lệ thấp.
- Trạng thái căng thẳng cảm xúc thường xuyên của sinh viên theo giới
Kết quả ở bảng 3.22 và hình 3.12 cho thấy trạng thái căng thẳng cảm xúc
thƣờng xuyên của sinh viên có tới 58,8% ở mức độ lo âu vừa và 37,5% ở mức
độ cao. Trong vài tháng gần đây có 1% số sinh viên ở mức độ căng thẳng cảm
xúc có xu hƣớng bệnh lý. Trạng thái căng thẳng cảm xúc thƣờng xuyên của
sinh viên các khối chủ yếu ở mức độ vừa và cao (bảng 3.21). Mức độ lo âu
cao thƣờng xuyên ở sinh viên năm thứ nhất, năm thứ 2, năm thứ 3, năm thứ tƣ
và năm thứ 5 là 40%; 33,3%, 50,0%, 30,8%, 33,3%. Mức độ căng thẳng cao
123
của sinh viên khối Y3 cao hơn các khối khác có ý nghĩa thống kê, với
(p<0,05), thấp nhất là khối Y4. Tỷ lệ sinh viên nữ ở mức độ căng thẳng cảm
xúc vừa ít hơn, căng thẳng cảm xúc cao nhiều hơn rõ rệt so với ở sinh viên
nam (p<0,05). Có mối liên quan đáng kể giữa mức độ căng thẳng cảm xúc ở
nam và nữ. Tỷ lệ SV nữ ở mức độ căng thẳng cảm xúc vừa ít hơn (OR= 0,4,
95% CI=0,2-1,2, p<0,05), căng thẳng cảm xúc cao và xu hƣớng bệnh lý
nhiều hơn rõ rệt so với ở SV nam ( OR= 0,6; 95% CI = 0,4- 0,8; p<0,05).
Nghiên cứu của chúng tôi cũng tƣơng tự nghiên cứu của Rab F. trên sinh
viên Y ở Pakistan [107]. Tác giả cho thấy có 43,7% số sinh viên có căng
thẳng cảm xúc và có tới 19,5% số sinh viên bị trầm cảm. Nghiên cứu của
Jadoon N.A. [85] trên 815 sinh viên y ở Multan, Pakistan cũng cho thấy có
43,89% số sinh viên có biểu hiện căng thẳng cảm xúc, tỷ lệ căng thẳng của
sinh viên năm thứ nhất, năm thứ 2, năm thứ 3, năm thứ tƣ và năm cuối cùng
là 45,86%, 52,58%, 47,14%, 28,75% và 45,10%. Tỷ lệ sinh viên nữ bị trầm
cảm cao hơn sinh viên nam (OR= 2,05; 95% CI=1,42- 2,95; p<0,001).
Nguyên nhân gây căng thẳng đƣợc Hashmat [81] tìm thấy trên sinh viên Y là
do chƣơng trình học quá tải (90,8%), thiếu tập thể dục (90%) và thời gian dài
của các cuộc thi (77,5%). Mức độ căng thẳng mà sinh viên tại trƣờng đại học
Y Shri M.P Shah, Jamnagar phải chịu cũng rất lớn. Theo Shah [115] năm yếu
tố gây căng thẳng hay gặp theo thứ tự là độ dài tài liệu khóa học (81%), công
việc quá tải (76%), cạnh tranh trong thi cử (67%), cạnh tranh trong quá trình
học tập (46%). Điều này cho thấy các yếu tố học thuật là nguyên nhân đƣợc
nhận thấy rõ hơn của stress trong sinh viên Y.
Cuộc sống ở trƣờng đại học có rất nhiều yếu tố gây căng thẳng khác
nhau, đặc biệt là các sinh viên y. Ngoài áp lực của rất nhiều buổi học liên tục
sáng chiều, các cuộc thi, sinh viên Y còn tham gia các buổi thực hành lâm
sàng, trực bệnh viện, việc thƣờng xuyên tiếp xúc với bệnh nhân và ngƣời nhà
124
bệnh nhân, đặc biệt là những bệnh nhân mắc bệnh nguy hiểm nhƣ HIV, lao,
bệnh nhân tâm thần, các bệnh nhân trong tình trạng cấp cứu... cũng tạo một áp
lực tâm lý nhất định cho sinh viên. Có lẽ vì vậy tỷ lệ sinh viên y có mức độ
căng thẳng cao trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với sinh viên một
số trƣờng khác. Nghiên cứu của Lại Thế Luyện [41] về biểu hiện stress trên
sinh viên trƣờng Đại học Sƣ phạm Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy 94,4%
số sinh viên có biểu hiện căng thẳng, trong đó biểu hiện rất căng thẳng chiếm
10,8% và căng thẳng chiếm 49,8%. Sinh viên thƣờng xuyên trải qua các cuộc
thi, cần trau dồi kiến thức và nghiên cứu khoa học nhiều, trí tuệ sẽ đƣợc rèn
luyện thì số lƣợng các neuron đƣợc huy động nhiều, số synap hoạt động tăng,
nếu đƣợc củng cố thƣờng xuyên thì tốc độ thoái hoá của các neuron sẽ chậm
lại, dẫn đến giảm tốc độ lão hóa, giảm tác hại của stress.
4.3. MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG TIM - MẠCH, TÂM- THẦN KINH VÀ NỘI TIẾT CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC Y THÁI BÌNH TRONG TRẠNG THÁI TĨNH VÀ SAU BUỔI THI
Đối với lứa tuổi sinh viên, học tập là một trong những hoạt động chính
trong đời sống, với phần lớn thời gian dành cho việc học tập trên lớp cũng
nhƣ ở nhà. Nghiên cứu của Shah [115] cho thấy nguyên nhân chính gây căng
thẳng cho sinh viên Y là các yếu tố về học thuật (35-70%), trong đó nổi bật là
vấn đề quá tải và cạnh tranh trong thi cử [41, [81], [99], [115]. Những gắng
sức trong các kỳ thi nhƣ vậy có thể tạo những biến động chức năng trong các
hệ thống tim - mạch, thần kinh và nội tiết.
4.3.1. Một số chỉ số chức năng tim - mạch của sinh viên trong trạng thái
tĩnh và sau buổi thi
Tần số mạch, huyết áp của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi
Kết quả nghiên cứu trên bảng 3.23 cho thấy sau buổi thi, tần số mạch,
huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trƣơng của nhóm sinh viên nữ cao hơn so
với ở trạng thái tĩnh có ý nghĩa thống kê, (p<0,05). Tần số mạch, huyết áp tâm
125
thu và huyết áp tâm trƣơng của nhóm nam sinh viên sau thi không có sự khác
biệt so với ở trạng thái tĩnh. Tần số mạch của nữ sinh viên sau buổi thi cao
hơn so với ở nam sinh viên có ý nghĩa thống kê, (p<0,05). Huyết áp của nữ
sinh viên thấp hơn so với của nam sinh viên trong cả hai trạng thái, (p<0,05).
Chung cho cả hai giới sau buổi thi, thấy rõ tần số mạch, huyết áp tâm trƣơng
của sinh viên tăng có ý nghĩa thống kê (p<0,05), còn huyết áp tâm thu tăng
không có ý nghĩa (p>0,05). Có lẽ trong khi thi sinh viên nữ bị căng thẳng hơn
so với sinh viên nam, các stress tâm lý đã kích thích hệ thần kinh giao cảm, do
đó gây tăng tần số tim và huyết áp. Ở sinh viên nam do mức tăng tần số nhịp
tim không nhiều nên huyết áp tăng không có ý nghĩa thống kê, mặc dù ở cả
trạng thái tĩnh và trạng thái căng thẳng huyết áp của nam đều cao hơn của nữ.
Nghiên cứu này (bảng 3.54) cũng cho thấy nồng độ catecholamin ở nhóm
sinh viên nam và nhóm sinh viên nữ sau buổi thi đều tăng có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) so với ở trạng thái tĩnh tƣơng đối. Tuy nhiên khi so sánh theo giới thì
trong trạng thái tĩnh, nồng độ catecholamin của nhóm SV nam cao hơn so với
của nữ, còn trong trạng thái căng thẳng (sau buổi thi) thì nồng độ
catecholamin của nhóm SV nữ lại cao hơn so với của nhóm SV nam,
(p>0,05). Đáp ứng về huyết áp và tần số nhịp tim (bảng 3.23) ở sinh viên nam
và nữ khác nhau, phù hợp với kết quả trong nghiên cứu này về nồng độ
hormon.
Catecholamin máu phần lớn do tủy thƣợng thận tiết ra, còn catecholamin
do thần kinh giao cảm tiết ra có thời gian tác dụng ngắn, bị hủy nhanh ở
synap. Đáp ứng của tủy tuyến thƣợng thận xảy ra chậm nhƣng kéo dài khoảng
một giờ hoặc hơn (lâu gấp 10 lần so với đáp ứng giao cảm). Sau buổi thi, tỷ lệ
cƣờng giao cảm ở nam và nữ tƣơng đƣơng nhau mà thần kinh giao cảm chủ
yếu tiết ra noradrenalin, có tác dụng co mạch toàn thân làm tăng cả huyết áp
tâm thu và huyết áp tâm trƣơng. Sau buổi thi, ở nữ sinh viên tăng
catecholamin nhiều hơn so với ở nam sinh viên. Tủy thƣợng thận chủ yếu tiết
126
ra adrenalin có tác dụng tăng hoạt động tim gây tăng huyết áp tâm thu, đồng
thời adrenalin có tác dụng cả co và giãn mạch nên huyết áp tâm trƣơng ít
thay đổi. Vì vậy sau buổi thi, huyết áp tâm thu ở nam SV tăng không rõ, còn ở
nữ SV huyết áp tâm thu tăng có ý nghĩa (p<0,05).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về tần số tim và huyết áp sau căng
thẳng của buổi thi cũng phù hợp với nghiên cứu của Zeller [130]. Tác giả
nghiên cứu về căng thẳng tâm lý của sinh viên đại học Y trong một kỳ thi cho
thấy huyết áp tâm trƣơng tăng trong suốt thời gian thi, còn huyết áp tâm thu
tăng không có ý nghĩa thống kê và huyết áp tâm thu của nam sinh viên cao
hơn so với ở nữ sinh viên. Nghiên cứu của Pramanik [106] về ảnh hƣởng của
căng thẳng kỳ thi tới huyết áp của các sinh viên trƣờng Y cho thấy trong suốt
giai đoạn chuẩn bị cho kỳ thi cuối cùng có tăng huyết áp tâm trƣơng và huyết
áp trung bình ở cả hai giới so với ngày bình thƣờng (ít căng thẳng).
Một số nghiên cứu lại cho thấy cả huyết áp tâm thu và tâm trƣơng của
sinh viên đều tăng do ảnh hƣởng của căng thẳng kỳ thi [99], [131]. Nghiên
cứu của Mohammad [99] cho thấy trong trạng thái căng thẳng (sau buổi thi
của sinh viên) huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trƣơng và nhịp tim tăng ở cả hai
giới, nhƣng tần số nhịp tim ở nam cao hơn ở nữ mặc dù ở nữ căng thẳng hơn
so với ở nam. Nghiên cứu của tác giả cho thấy trong trạng thái căng thẳng
nồng độ cortisol máu của nam cao hơn so với ở nữ có ý nghĩa thống kê, đồng
thời lƣợng testosteron ở nam tăng lên và nồng độ progesteron của nữ trong
giai đoạn hoàng thể giảm so với ngày bình thƣờng, do đó đáp ứng với căng
thẳng của kỳ thi là khác nhau ở sinh viên nam và sinh viên nữ. Zhag Z. và cs.
[131] nghiên cứu ảnh hƣởng của căng thẳng kỳ thi đến nhịp tim và huyết áp
của sinh viên đại học Y (Trung Quốc) cho thấy nhịp tim và huyết áp tăng dần
trong thời gian 3 ngày từ lúc trƣớc thi, chuẩn bị thi, trong thời gian thi (với
p<0,05), có mối tƣơng quan chặt chẽ giữa điểm số lo lắng với huyết áp và
nhịp tim. Nghiên cứu của Vrijkote T.G. [125] về ảnh hƣởng của lao động
127
căng thẳng lên tần số nhịp tim, huyết áp và dao động nhịp tim cho thấy tần số
nhịp tim và huyết áp tâm thu tăng khi lao động có căng thẳng cảm xúc. Kết
quả đáp ứng về tần số nhịp tim và huyết áp ở các nghiên cứu khác nhau có lẽ
do thời điểm nghiên cứu khác nhau, cƣờng độ, tần số kích thích gây căng
thẳng khác nhau đồng thời khi stress xảy ra, các kích thích stress trƣớc hết tác
động trực tiếp lên hệ thần kinh trung ƣơng. Các xung động phát sinh từ hệ
thần kinh trung ƣơng đến hoạt hóa hệ sympatho - adrenergic (các hạch thần
kinh giao cảm và tủy thƣợng thận) gây tiết catecholamin (adrenalin và
noadrenalin). Catecholamin đƣợc chuyển vào dòng máu và đƣợc phân bố đến
các cơ quan khác nhau trong cơ thể, tác động lên các adrenoreceptor trên
màng tế bào thuộc các cơ quan khác nhau, tùy thuộc vào độ nhạy cảm của các
receptor và 1, 2 sẽ gây những đáp ứng khác nhau lên hệ thống tim mạch,
làm tăng huyết áp tâm thu hoặc huyết áp tâm trƣơng.
Ngoài các chỉ số nhƣ tần số mạch và huyết áp, gần đây một số tác giả đã
sử dụng các chỉ số thống kê toán học nhịp tim (TKTHNT) của Baevski [132]
để đánh giá chức năng tim. Đây là chỉ số đáng tin cậy đánh giá mức độ căng
thẳng chức năng của cơ thể và hệ tim mạch do các yếu tố stress trong cuộc
sống và trong lao động gây ra, đồng thời có thể dự báo khả năng thích nghi
nghề nghiệp.
Mức độ căng thẳng hệ tim - mạch và trạng thái chức năng cơ thể ở các
nhóm sinh viên Đại học Y Thái Bình
Phân tích các chỉ số thống kê toán học nhịp tim
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy có mối liên quan giữa yếu tố
stress nghề nghiệp, tác hại nghề nghiệp (tiếp xúc với mangan, nhiệt độ cao,
bụi, ồn, rung, điện từ trƣờng, các yếu tố stress căng thẳng thần kinh tâm lý)
với giảm dao động nhịp tim thể hiện qua các chỉ số thống kê toán học nhịp
tim (TKTHNT) nhƣ giảm độ lệch chuẩn của 100RR (SD), tăng chỉ số căng
thẳng (CSCT). Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu sử dụng các chỉ số
128
TKTHNT để đánh giá căng thẳng trạng thái chức năng cơ thể, hệ tim - mạch
và khả năng thích nghi ở công nhân một số nghề có các yếu tố stress nghề
nghiệp cao và dân cƣ tiếp xúc với yếu tố môi trƣờng không thuận lợi [18],
[20], [22], [23], [45].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.25) về các chỉ số thống kê
toán học nhịp tim cho thấy sau buổi thi, các nhóm SV thuộc các khối Y1, Y2
có TSNT, chỉ số căng thẳng đều tăng, độ lệch chuẩn của 100 khoảng RR giảm
có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Ở các nhóm SV thuộc các khối Y3,Y5 có độ
lệch chuẩn của 100 khoảng RR giảm có ý nghĩa thống kê (p<0,05) nhƣng
TSNT và CSCT tăng không có ý nghĩa thống kê, (p>0,05). Riêng nhóm SV
khối Y4 có TSNT, độ lệch chuẩn và CSCT sau thi không khác biệt so với
trƣớc thi. Điều này cho thấy sinh viên mới vào trƣờng có mức độ căng thẳng
hơn so với sinh viên các khối khác. Sinh viên các khối Y4,Y5 có lẽ đã có sự
thích nghi với các cuộc thi và môi trƣờng sống, trong đó nhóm sinh viên Y4
có sự ổn định nhất về tâm lý, do đó các thông số trên ít thay đổi. Kết quả này
cũng phù hợp với trạng thái thần kinh thực vật của những sinh viên mới vào
trƣờng có tỷ lệ cƣờng giao cảm cao hơn so với các sinh viên những năm sau,
sinh viên Y4 có tỷ lệ cƣờng giao cảm thấp nhất (hình 3.1) và căng thẳng cảm
xúc thƣờng xuyên thấp nhất (bảng 3.21).
Kết quả ở bảng 3.26 thống kê chung cho các khối cho thấy sau buổi thi, các
thông số về độ lệch chuẩn của 100 khoảng RR giảm (0,0633 xuống còn 0,0451),
chỉ số căng thẳng của cả nam sinh viên và nữ sinh viên tăng có ý nghĩa thống kê,
với p<0,05 so với bình thƣờng (98,06 lên 194,36). Tần số nhịp tim của nam sinh
viên và nữ sinh viên sau buổi thi đều tăng lên so với bình thƣờng nhƣng chỉ sự
thay đổi ở sinh viên nữ là có ý nghĩa thống kê (với p<0,05). Điều này một lần
nữa cho thấy sự căng thẳng ở sinh viên nữ cao hơn so với ở nam.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tƣơng tự kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Ngọc Sơn [45] trên 80 nhân viên y tế tại Viện Quân y 354 cho thấy
129
sau một ngày lao động tần số nhịp tim của nhân viên y tế biến đổi ít, nhƣng
độ lệch chuẩn của 100 khoảng RR giảm và chỉ số căng thẳng nhịp tim tăng,
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Các thông số nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với kết quả nghiên
cứu của Trần Thanh Hà, Đào Phú Cƣờng [23] trên cảnh sát và dân cƣ do ô
nhiễm môi trƣờng giao thông. Theo các tác giả này ở nhóm cảnh sát giao
thông làm nhiệm vụ hàng ngày trên đƣờng có chỉ số SD thấp hơn so với nhóm
chứng (0,034 giây so với 0,038 giây) và có CSCT cao hơn rõ rệt so với nhóm
chứng (406 so với 256, p<0,001). Nhóm dân cƣ sống ở trong phố cũng có chỉ
số SD thấp hơn so với nhóm chứng (0,032 giây so với 0,037 giây) và có
CSCT cao hơn so với nhóm chứng (362 so với 255, p<0,001). Nguyên nhân
của sự khác nhau đó có lẽ là do ở các đối tƣợng có cƣờng độ và thời gian kéo
dài của các kích thích gây căng thẳng khác nhau.
Myrtek M,, Weber D. và cộng sự [101] nghiên cứu dao động nhịp tim
(HRV – heart rate variation) ở nữ sinh viên đại học tổng hợp tại các thời điểm
học tập, giải trí và ở nhà cho thấy trong thời gian căng thẳng học tập (hội
thảo, nghe giảng), thấy tăng HRV - biểu hiện tăng gánh nặng tâm lý. Khi hoạt
động thể lực tần số nhịp tim tăng cao hơn trong lúc nghỉ và cả khi nghe giảng.
Đối với sinh viên có stress mạn tính thì có tần số nhịp tim cao hơn và HRV
thấp hơn so với sinh viên không bị stress mạn tính. Kovaleva [137] nghiên
cứu chức năng hệ tim - mạch ở những ngƣời lao động trí óc (các nhà toán học,
cán bộ nghiên cứu khoa học) thấy có sự khác biệt có ý nghĩa của các chỉ số
nhịp tim, ở giai đoạn phải lao động căng thẳng thì SD và X giảm rõ rệt cả ở
trạng thái tĩnh tại và trong thời gian lao động ổn định. Đã có nghiên cứu cho
thấy có mối liên quan đáng kể giữa stress và các chỉ số nhịp tim. Nghiên cứu
của Tsaneva và Dukov [122] về thay đổi các dao động nhịp tim ở công nhân
mỏ than cho thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa sự biến đổi các chỉ số biến
thiên nhịp tim với trạng thái stress nghề nghiệp mạn tính. Các stress cảm xúc
130
tự nhiên tác động tiêu cực đến tim và tuần hoàn máu. Stress cấp tính là một hệ
thống bảo vệ cơ thể, nó là điều cốt tử, stress mạn tính thì lại không nhất thiết
phải nặng, nhƣng có tính lặp lại trong một thời kỳ dài. Các hormon của stress
(các catecholamin, trong đó có adrenalin) gây những hiệu quả tiêu cực khi tim
chịu hàm lƣợng cao các chất này trong thời gian dài. Stress có thể làm tăng
mức đòi hỏi oxy trong cơ thể, gây co thắt động mạch vành và rối loạn nhịp tim
bởi hệ thống dẫn máu của tim bị bất ổn về điện học. Stress mạn tính làm tăng
tần số nhịp tim và huyết áp nên tim gặp khó khăn khi tạo ra lƣu thông máu để
nuôi cơ thể. Sự tăng huyết áp lâu dài có hại cho sức khoẻ và có thể gây nhồi
máu cơ tim, rối loạn nhịp tim và tai biến mạch máu não [67], [69].
Căng thẳng chức năng tim - mạch ở mức cao (mức 3/4 theo phân loại
của Baevski)
Thích nghi với điều kiện môi trƣờng, xã hội, sản xuất, sinh hoạt và khí
hậu... là một trong những tính chất cơ bản của cơ thể sống, đặc biệt là cơ thể
con ngƣời. Khi một ngƣời mất khả năng thích nghi thì ngƣời đó sẽ dễ mắc
bệnh. Theo Baevski [132] thì khả năng thích nghi của cơ thể có các giai đoạn
căng thẳng khác nhau, thƣờng xảy ra trƣớc thời kỳ mất khả năng thích nghi
phát triển bệnh tật. Vì vậy, tất cả các giai đoạn trƣớc khi phát sinh bệnh tật là
trạng thái tiền bệnh lý, đƣợc đặc trƣng bởi các mức độ căng thẳng của các cơ
chế điều khiển và dự trữ chức năng của cơ thể.
Khi theo dõi nghiên cứu quần thể dân cƣ Baevski [132] đã dựa trên một
loạt các chỉ số chức năng cơ thể để phân loại các đối tƣợng nghiên cứu thành
4 mức chức năng cơ thể (hay 4 mức khả năng thích nghi) và thấy ở mỗi mức
có các chỉ số TKTHNT trung bình khác nhau, trong đó mức 3 là mức quá
căng thẳng và khả năng thích nghi kém, còn mức 4 là mất khả năng thích
nghi. Nhóm đối tƣợng ở lứa tuổi lao động có mức quá căng thẳng chức năng
(mức 3/4) có chỉ số SD trung bình là 0,04 giây và 0,05giây và có CSCT trung
131
bình trên 150 [133]. Theo Nheverova N.P. và cs. thì khi CSCT ≥ 200 thì hệ
tim mạch chịu mức quá căng thẳng [138].
Kết quả nghiên cứu trên bảng 3.27 cho thấy sau buổi thi, tỷ lệ nhóm SV
Y1, Y2 có tình trạng căng thẳng chức năng tim mạch ở mức cao, mức 3/4 (với
TSNT >90 nhịp/phút, độ lệch chuẩn < 0,04 giây, chỉ số căng thẳng nhịp tim ≥
200 ĐVĐK) đều tăng có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với trạng thái tĩnh
tƣơng đối. Các nhóm sinh viên khác không có sự khác biệt về chỉ số này. So
sánh giữa các khối cho thấy sinh viên khối Y3 có mức độ căng thẳng chức
năng tim mạch cao ở cả hai trạng thái bình thƣờng và sau thi đều ở mức cao
(độ lệch chuẩn <0,04 (giây) cao hơn so với ở sinh viên khối Y4, Y5 có ý nghĩa
thống kê với p<0,05. Chỉ số căng thẳng ≥ 200 ĐVĐK sau buổi thi chiếm tỷ lệ
cao nhất ở sinh viên năm thứ hai (43,3%) và năm thứ nhất (36,7% ), chiếm
tỷ lệ thấp nhất ở sinh viên năm thứ tƣ (6,7%), sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p<0,05.
Nghiên cứu của chúng tôi tƣơng tự với nghiên cứu của Nheverova và Cs.
[138] về cơ chế thích nghi của sinh viên đại học sƣ phạm và giáo viên trung
học thông qua chỉ số TKTHNT là CSCT. Tác giả nhận thấy mức quá căng
thẳng cơ chế thích nghi (mức 3 với CSCT có giá trị 201- 290) chiếm tỷ lệ cao
nhất ở sinh viên năm thứ 1 (34%), chiếm tỷ lệ thấp nhất là sinh viên năm thứ
4 (6%); còn ở giáo viên thì căng thẳng mức thích nghi tăng theo tuổi đời. Kết
quả trên cho thấy cùng với chỉ số nhân trắc và tâm sinh lý, phƣơng pháp phân
tích toán học nhịp tim cũng cho phép xác định mức độ căng thẳng thích nghi
ở sinh viên và giáo viên. Gevorkian E. và cộng sự [75] đã sử dụng chỉ số
TKTHNT của Baevski để nghiên cứu trạng thái căng thẳng cảm xúc ở sinh
viên. Kết quả cho thấy những sinh viên có điểm căng thẳng cảm xúc
Spelberger càng cao thì chỉ số căng thẳng tim mạch càng tăng. Danilova N.N.
cũng sử dụng chỉ số TKTHNT để đánh giá mức độ căng thẳng tim mạch trên
đối tƣợng sinh viên dƣới ảnh hƣởng của gánh nặng tâm lý cho thấy, sau khi
132
thực hiện các bài test số học gây gánh nặng tâm lý, các chỉ số căng thẳng tim
mạch theo phƣơng pháp Baevski tăng lên rõ rệt (theo [57]).
Kết quả thu đƣợc ở bảng 3.28 trong nghiên cứu này cho thấy sau buổi
thi, tỷ lệ đối tƣợng căng thẳng chức năng tim mạch ở mức cao với TSNT >90
nhịp/phút, độ lệch chuẩn < 0,04 giây, chỉ số căng thẳng nhịp tim ≥200 ĐVĐK
đều tăng cao hơn so với trạng thái tĩnh, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05. Sau cuộc thi ở nữ SV chỉ số căng thẳng nhịp tim (đơn vị điều kiện)
cao hơn so với ở nam SV có ý nghĩa ( p<0,05).
Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hà [18] trên 627 nhân viên y tế cho thấy
71,3% số nhân viên y tế có biểu hiện ở mức quá căng thẳng với SD <0,04
giây. Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Sơn [45] cũng chỉ ra rằng mức độ căng
thẳng chức năng hệ tim mạch của nhân viên y tế sau một ngày lao động tăng
lên rõ rệt với p<0,01. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với kết
quả của hai tác giả nói trên, có lẽ do nhân viên y tế chịu nhiều ảnh hƣởng của
các yếu tố gây stress hơn. Chẳng hạn nhƣ nguy cơ cao bị phơi nhiễm các bệnh
lây truyền qua đƣờng máu do tổn thƣơng từ các vật sắc, nhọn. Stress tâm lý
cao còn do áp lực từ phía bệnh nhân và ngƣời nhà bệnh nhân, đặc biệt là
những bệnh nhân mắc bệnh nguy hiểm nhƣ HIV, lao, bệnh nhân tâm thần.
Chế độ làm việc quá tải ở các bệnh viện hiện nay cũng gây nhiều căng thẳng,
mệt mỏi cho nhân viên y tế. Còn sinh viên trong nghiên cứu của chúng tôi có lẽ
do qua nhiều cuộc thi nên mức độ căng thẳng có tăng lên sau cuộc thi nhƣng
không cao (p<0,05), chứng tỏ khả năng thích nghi giảm nhƣng không nhiều.
Đối tượng có căng thẳng chức năng thần kinh thực vật
Đánh giá chức năng TKTV điều khiển nhịp tim bằng các chỉ số
TKTHNT, Baevski cho rằng điều khiển nhịp tim cƣờng giao cảm (GC) biểu
hiện căng thẳng chức năng hệ tim mạch, còn RLĐKNT dạng cƣờng GC biểu
hiện có sự rối loạn TKTV khi có tăng cao hoạt tính thần kinh giao cảm quá
mức ở những ngƣời có nhịp tim bình thƣờng hoặc chậm [132].
133
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.29, 3.30) cho thấy sau buổi
thi, tỷ lệ đối tƣợng có căng thẳng chức năng thần kinh thực vật với cƣờng giao
cảm và chỉ số căng thẳng ≥200 (ĐVĐK) ở nhóm sinh viên khối Y1, Y2 đều
tăng lên so với ở trạng thái tĩnh, có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Ở các khối
SV khác không có sự khác biệt về chỉ số này. Sinh viên khối Y4 có căng
thẳng chức năng thần kinh thực vật thấp nhất ở cả hai trạng thái. Tỷ lệ đối
tƣợng có căng thẳng chức năng TKTV ở cả nam và nữ sinh viên đều tăng lên
so với trạng thái tĩnh tƣơng đối, có ý nghĩa thống kê với p <0,05.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tƣơng tự kết quả của Trần Thanh Hà. Tác
giả cho thấy nhóm cảnh sát giao thông cũng có rối loạn thần kinh thực vật có xu
hƣớng cao hơn so với nhóm chứng nhƣ cƣờng giao cảm 50,6% so với 44,7%,
đồng thời nhóm tiếp xúc với ô nhiễm cao hơn cũng có rối loạn thần kinh thực vật
cao hơn so với nhóm chứng nhƣ cƣờng giao cảm 40,3% so với 32,9% [23].
Khi hệ giao cảm hƣng phấn mạnh thì gây tăng huyết áp, lƣợng máu đến
các cơ tăng lên trong khi lƣợng máu đến ống tiêu hoá, thận và một số cơ quan
khác lại giảm. Chuyển hoá tế bào toàn thân, glucose huyết, phân giải
glycogen ở gan, lực co cơ, hoạt động tâm thần…đều tăng. Tất cả những tác
dụng trên cộng lại làm cho cơ thể có khả năng hoạt động mạnh hơn rất nhiều
so với bình thƣờng. Các stress tâm lý và thể xác thƣờng kích thích hệ giao
cảm nên ngƣời ta cho rằng mục đích của hệ giao cảm là làm tăng hoạt động của
cơ thể trong trạng thái stress và đấy là đáp ứng với stress của hệ giao cảm. Hiện
tƣợng này đƣợc gọi là phản ứng báo động, là phản ứng chiến đấu hay phản ứng
rút lui ( biểu hiện trụ lại để chiến đấu hoặc bỏ chạy) [17], [32] .
Nhƣ vậy, các kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sau buổi thi ở
sinh viên có biểu hiện căng thẳng chức năng hệ tim mạch cao hơn và khả
năng thích nghi thấp hơn theo chỉ số TKTHNT so với ở trạng thái tĩnh. Điều
này thể hiện chỉ số SD thấp hơn và CSCT cao hơn (p<0,05), đồng thời rối
loạn TKTV cao biểu hiện cƣờng giao cảm tăng lên. Kết quả này phù hợp với
134
nhiều nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam trong những năm gần đây [22],
[23], [45], [133], [137], [138].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở các khối cho thấy sinh viên khối
Y1, Y2 có biểu hiện căng thẳng chức năng tim mạch rõ rệt, các khối sinh viên
Y4, Y5 đã có sự thích nghi, trong đó nhóm sinh viên Y4 là ổn định nhất. Sinh
viên khối Y3 tuy không có sự khác biệt về các chỉ số căng thẳng chức năng
tim mạch ở trạng thái tĩnh và sau buổi thi nhƣng tỷ lệ các thông số này ở cả
hai trạng thái đều cao so với các khối khác. Sinh viên mới vào trƣờng rất dễ
căng thẳng do tính chất chuyển tiếp của cuộc sống sinh viên, lần đầu tiên sống
xa nhà, phải sống trong môi trƣờng học tập mức độ cao và phải thích nghi với
môi trƣờng giáo dục mới. Sinh viên khối Y3 bắt đầu đi lâm sàng, tiếp xúc với
một lĩnh vực hoàn toàn mới đồng thời có nhiều môn học có độ khó cao, bên
cạnh những môn thi test còn nhiều môn thi viết, đòi hỏi họ phải có kiến thức
toàn diện khiến các em căng thẳng ngay cả trong trạng thái bình thƣờng. Sinh
viên khối Y4, Y5 đã thích nghi với việc học lý thuyết và lâm sàng. Các kết quả
trong nghiên cứu của chúng tôi phần nào cho thấy tần số và cƣờng độ của
kích thích mạnh sẽ ảnh hƣởng tới sự thích nghi của sinh viên, đồng thời sự
trải nghiệm căng thẳng từ các sinh viên ở các năm sau là một trong những yếu
tố có ảnh hƣởng đến sự thích nghi với căng thẳng.
4.3.2. Một số chỉ số tâm - thần kinh của sinh viên trong trạng thái tĩnh và
sau buổi thi
- Sự biến động điện não đồ
Kiểm tra, thi cử là một trong những sự kiện căng thẳng và liên quan đến
sự thay đổi về sức khỏe tâm thần, thể chất của sinh viên nhƣ tăng lo lắng, tăng
cảm xúc âm tính, sự thay đổi chức năng miễn dịch [114] cũng nhƣ sự thay đổi
trạng thái hoạt động của các tế bào thần kinh trong vỏ các bán cầu đại não
[104]. Những cuộc thi học thuật thƣờng đƣợc sử dụng trong nghiên cứu stress
135
vì chúng có thể dự đoán đƣợc, đƣợc chuẩn hóa và là những ví dụ riêng rẽ của
các stressor trong cuộc sống thực. Căng thẳng của cuộc thi cũng đã đƣợc
nhiều tác giả chứng minh có liên quan tới sự thay đổi của thần kinh nội tiết
[68], [89], [114].
Để đánh giá ảnh hƣởng của cuộc thi đối với hoạt tính điện não, trong
nghiên cứu này chúng tôi tiến hành ghi điện não trong trạng thái tĩnh và sau
một buổi thi để xem sự biến động chỉ số các sóng điện não ở sinh viên sau
buổi thi nhƣ thế nào ( bảng 3.31 ÷ 3.39 và hình 3.14).
Kết quả trong nghiên cứu này (bảng 3.31) cho thấy sau buổi thi, tỷ lệ đối
tƣợng có các thông số về tần số, biên độ và chỉ số (%) sóng α ở các nhóm SV
khối Y1, Y2, Y3 đều giảm so với trạng thái bình thƣờng, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05). Ở nhóm SV khối Y5 có biên độ và chỉ số (%) sóng α
giảm so với trạng thái bình thƣờng, sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,05). SV khối
Y4 không có sự khác biệt về chỉ số này. Sự biến đổi trên cũng phù với những
biến đổi về chức năng tim mạch cũng nhƣ trạng thái căng thẳng cảm xúc thƣờng
xuyên và trạng thái thần kinh thực vật diễn biến theo khối. Kết quả ở bảng 3.31
cho thấy các thông số về tần số, biên độ và chỉ số (% ) sóng alpha trên điện
não đồ của nam và nữ sinh viên sau buổi thi đều giảm so với lúc bình thƣờng,
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Điều này cho thấy tính chất căng
thẳng của lao động trí óc đặc biệt là sau khi thi của sinh viên Y. Nghiên cứu
của Trần Thị Cúc [8] trên học sinh và sinh viên thành phố Huế cho thấy khi
căng thẳng tần số nhịp alpha tăng không đáng kể, còn biên độ và chỉ số sóng
alpha giảm. Tần số sóng alpha trong nghiên cứu của chúng tôi trên sinh viên
sau buổi thi biến đổi nhiều hơn so với nghiên cứu của Trần Thị Cúc trên sinh
viên sau khi suy nghĩ để trả lời những câu hỏi đƣợc đặt ra. Sự khác nhau này
có lẽ do mức độ căng thẳng khác nhau.
136
So sánh sự biến đổi chỉ số sóng alpha trong nghiên cứu của chúng tôi với
kết quả nghiên cứu của các tác giả khác ở những điều kiện lao động khác
nhau (bảng 4.1) cho thấy các đối tƣợng nhƣ các lái tàu, lái xe trong nghiên
cứu của Vũ Đăng Nguyên [42], sau ca lao động các chỉ số sóng alpha đều
giảm đáng kể cả về tần số, biên độ và chỉ số (%), với p<0,05. Sóng alpha trên
EEG ở các đối tƣợng là điều độ viên còn giảm rõ rệt hơn về các chỉ số alpha
sau ca lao động nhất là biên độ, sau đó đến tần số và chỉ số (%). Trong khi đó
điện não đồ sau ca lao động của các nhân viên hành chính trong nghiên cứu
của Tạ Tuyết Bình [3] thì các chỉ số sóng alpha hầu nhƣ không thay đổi sau
ca lao động. Nhƣ vậy, ở các đối tƣợng lao động không có tính chất căng thẳng
của công việc thì các chỉ số của sóng alpha thay đổi không đáng kể, còn ở các
đối tƣợng lao động có căng thẳng thần kinh tâm lý trong công việc thì các chỉ
số sóng alpha giảm rõ sau ca lao động.
Bảng 4.1. So sánh sự biến đổi sóng alpha của các đối tượng nghiên cứu qua
các công trình của các tác giả khác nhau
Giới
Nghiên cứu
Vũ Đăng
Tạ Tuyết
TrầnVăn Đại
Thời điểm
này
Nguyên
Bình
X SD
X SD
X SD
X SD
Sóng α
9,601,31
TT bình thƣờng(1)
10,00 0,09 10,001,29
10,08 1,19
Tần số
(CK/s)
8,960,74
Sau căng thẳng (2)
9,90 1,10 10,06 1,52
8,76 1,12
P (1-2)
<0,05
>0,05
<0.01
<0,05
TT bình thƣờng(1) 53,4911,34
29,50 3,20 27,94 10,32 49,9216,06
Biên độ
(V)
45,536,47
Sau căng thẳng (2)
26,20 2,20 27,7710,92
40,11 15,93
P (1-2)
<0,05
>0,05
<0.01
<0,05
46,72 4,15 51,00 22,4
52,16 14,93
Chỉ số % TT bình thƣờng(1) 51,5810,53
44,776,97
Sau căng thẳng (2)
42,91 4,32% 52,67 24,24 43,78 15,52
P (1-2)
<0,05
>0,05
<0,05
<0.01 Trong nghiên cứu của chúng tôi, sự biến đổi sóng alpha trên EEG của
sinh viên ít hơn so với trong nghiên cứu của Trần Văn Đại và cs. [15] trên
137
những đối tƣợng có nghề nghiệp mang tính chất căng thẳng cao (các điều độ
viên chỉ huy chạy tàu). Tác giả cho thấy trƣớc và sau ca lao động cả biên độ,
tần số và chỉ số sóng alpha đều giảm một cách đáng kể với p<0,01. Sự giảm
các chỉ số sóng alpha sau ca lao động còn thể hiện rõ trong nghiên cứu trên
các đối tƣợng có tính chất căng thẳng nhƣ bộ đội trinh sát kỹ thuật của
Nguyễn Minh Phƣơng [43]. Tác giả nghiên cứu ở cả 2 nhóm đối tƣợng đều
thấy giảm biên độ và chỉ số sóng alpha sau ca lao động, đặc biệt giảm rõ nhất
là ở nhóm trinh sát làm việc trên 15 năm.
Nghiên cứu EEG của Umriukhin E.A. [123] trên 39 sinh viên ở hai giai
giai đoạn trƣớc thi và giai đoạn học bình thƣờng cho thấy điểm số của sinh
viên giảm liên quan đến trƣớc thi thì chỉ số sóng alpha giảm và tăng chỉ số sóng
delta. Điểm số của sinh viên cao liên quan đến trƣớc thi thì chỉ số alpha tăng và
giảm chỉ số delta. Nhƣ vậy sinh viên có chỉ số sóng alpha nhiều trƣớc thi sẽ làm
bài hiệu quả hơn và cho kết quả cao hơn.
Cùng với sự biến đổi các chỉ số sóng alpha, trên EEG của SV cũng có sự
biến đổi các chỉ số của sóng beta. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi (bảng
3.34) cho thấy sau buổi thi, tỷ lệ các đối tƣợng có các thông số về tần số, biên
độ và chỉ số (%) sóng beta ở các nhóm sinh viên các khối (trừ khối Y4) đều
tăng so với ở trạng thái tĩnh, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết
quả nghiên cứu theo giới (bảng 3.35, 3.36) cho thấy sau buổi thi, sóng β trên
điện não đồ của cả nam và nữ sinh viên đều tăng có ý nghĩa thống kê cả về
tần số, biên độ và chỉ số (%), với p<0,05. Mức tăng tần số sóng beta sau buổi
thi ở nữ SV nhiều hơn so với ở nam SV, với p<0,05. Chứng tỏ mức độ căng
thẳng ở nữ nhiều hơn ở nam.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Trần Thị
Cúc tiến hành trên sinh viên thấy khi suy nghĩ tần số và chỉ số beta trên điện
não đồ vùng trán tăng lên. Mức thay đổi của các chỉ số điện não phụ thuộc
vào khả năng hoạt động trí tuệ [8]. Theo nghiên cứu của Vũ Văn Đại thì sau
ca lao động các chỉ số sóng β tăng lên rất rõ về tần số, biên độ và chỉ số (%), với
138
p<0,01. Một số nghiên cứu về sự căng thẳng thần kinh cho thấy khi làm việc bằng
trí óc, lo lắng nhiều thƣờng kèm theo giảm sóng alpha, còn sóng beta trở nên trội
hẳn. Điều này thể hiện rõ khi so sánh EEG của sinh viên trƣờng Đại học Y
khoa và của công nhân. Ở nhóm công nhân sự phân bố các sóng EEG cơ bản
rất đều và sóng alpha chiếm ƣu thế, còn ngƣợc lại trên EEG ở nhóm sinh viên
chủ yếu là sóng beta biên độ thấp [56].
Ngoài các sóng alpha và beta, trong nghiên cứu của chúng tôi (bảng
3.38) còn cho thấy sau buổi thi, sóng teta trên điện não đồ của các nhóm nam
và nữ sinh viên tăng có ý nghĩa thống kê (p<0,05) về tần số, biên độ và chỉ số.
Mức tăng tần số, biên độ, và chỉ số (%) sóng teta sau buổi thi ở các nhóm sinh
viên nam và nữ không khác biệt so với trạng thái tĩnh. Sau buổi thi (bảng
3.36) tỷ lệ đối tƣợng có các thông số về tần số, biên độ và chỉ số (%) sóng teta
ở các nhóm SV khối Y1, Y2, đều tăng so với trạng thái tĩnh, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05). Ở nhóm SV các khối khác có biên độ và chỉ số (%)
sóng teta tăng so với trạng thái tĩnh có ý nghĩa thống kê, (p<0,05).
Trong nghiên cứu của Trần Văn Đại và cs. [15] cũng thấy có sự tăng lên
rất rõ cả về tần số, biên độ và chỉ số sóng chậm teta, đặc biệt là biên độ và chỉ
số với p<0,001. Điều này cho thấy sự căng thẳng cùng với mệt mỏi gia tăng
của các điều độ viên sau một ca lao động thể hiện rõ hơn so với sinh viên sau
buổi thi trong nghiên cứu của chúng tôi.
Những thay đổi về đặc điểm sóng chậm teta sau ca lao động của một số
đối tƣợng trong nghiên cứu của Vũ Đăng Nguyên [42] cũng thấy rõ sự tăng
lên của sóng chậm teta cả về biên độ và chỉ số. Ở đối tƣợng lái tàu, lái xe biên
độ sóng teta trƣớc ca là 26,10 ± 2,55 µV, sau ca là 34,12 ± 3,12 µV; chỉ số
sóng teta trƣớc ca là 28,65 ± 2,60%, sau ca tăng lên 41,21 ± 2,97%. Còn ở
đối tƣợng điện báo viên biên độ sóng teta trƣớc ca là 25,12 ± 1,41 µV, sau ca
tăng lên là 30,00 ± 1,52 µV; chỉ số sóng teta là 33,00 ± 1,70%, sau ca tăng lên
45,88 ± 2,80%.
139
Qua so sánh giữa các đối tƣợng theo các nghề nghiệp khác nhau, đặc biệt
là những đối tƣợng có căng thẳng cao trong ca lao động là lái tàu, lái xe, các
điều độ viên …với các đối tƣợng ít có căng thẳng hơn là sinh viên hoặc các
điện báo viên cho thấy các chỉ số sóng teta đều tăng rõ ràng ở tất cả các đối
tƣợng sau ca lao động, song ở các đối tƣợng điều độ chạy tàu các chỉ số này
tăng rõ nhất với p<0,001, sau đó đến lái tàu, lái xe, tiếp đến là điện báo viên
với p<0,01 và cuối cùng là sinh viên tăng ít nhất với p<0,05. Tính chất căng
thẳng và đặc biệt là sự mệt mỏi sau một ca làm việc có thể là yếu tố làm tăng
sóng chậm teta.
Nhƣ vậy, sau căng thẳng của buổi thi có sự giảm tần số, biên độ và chỉ
số (%) sóng alpha cùng với tăng các chỉ số sóng beta và teta. Điều này chứng
tỏ có sự biến động trong hoạt tính điện của các tế bào thần kinh trong não bộ
của sinh viên trong các điều kiện hoạt động khác nhau.
- Khả năng nhớ, chú ý, tư duy của sinh viên ở trạng thái tĩnh và sau buổi thi
Trí nhớ của con ngƣời là một quá trình hoạt động tích cực và phức tạp. Đây
cũng là một trong những chỉ số khách quan đánh giá trạng thái căng thẳng.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.40÷3.42) cho thấy trong trạng
thái tĩnh tỷ lệ sinh viên có trí nhớ khá chiếm đa số, sau buổi thi tỷ lệ sinh viên
có trí nhớ giỏi chiếm đa số và tăng hơn so với trạng thái tĩnh có ý nghĩa thống
kê (p<0,05). Mức trí nhớ trung bình và kém sau buổi thi không khác biệt so
với trạng thái tĩnh (p>0,05). Trí nhớ ở sinh viên sau thi có xu hƣớng tăng lên
nhƣng chỉ diễn ra ở nhóm sinh viên khối Y2 và Y5, tăng có ý nghĩa thống kê
(p<0,05). Điều này có lẽ do năng lực trí tuệ của sinh viên khối Y2 và Y5 cao
hơn các khối khác. Theo chúng tôi, tăng trí nhớ ngắn hạn ngay sau thi có lẽ là
do các hoạt động suy nghĩ để hoàn thành bài thi đã trở thành những kích thích
thuận hóa gây hoạt hóa não bộ, trong đó có trung khu thị giác nên khi nhìn để
nhớ các chữ số đã làm tăng trí nhớ ngắn hạn ở sinh viên. Đồng thời việc tăng
trí nhớ ngắn hạn ngay sau buổi thi trong nghiên cứu này cũng phù hợp với
một số nghiên cứu gần đây về ảnh hƣởng của các chất trung gian gây căng
140
thẳng lên học tập và trí nhớ [87], [112], [117]. Các nghiên cứu cho thấy các
kích thích gây trạng thái căng thẳng (stressors) xảy ra trong hoặc ngay sau khi
học tập, chủ yếu làm tăng cƣờng hiệu quả của căng thẳng lên trí nhớ sau này.
Ngƣợc lại, căng thẳng đƣợc gây ra một thời gian nhất định trƣớc hoặc sau khi
học tập làm giảm tác dụng của căng thẳng trong việc phục hồi trí nhớ.
Schwabe L. [117] đã tích hợp hai mô hình phổ biến hiện nay để giải thích tác
dụng trái ngƣợc này là do sự giải phóng nhanh chóng catecholamine và tác
động sớm của glucorticoid theo cơ chế không hoạt hóa hệ gen trong tế bào,
mà là thông qua cơ chế tác dụng qua màng tế bào thông qua chất truyền tin
thứ hai là AMP vòng, gây hoạt hóa proteinkiase G kép, tƣơng tác trong hạch
hạnh nhân đáy bên để giúp cơ thể hình thành trí nhớ, tạo điều kiện cho việc
củng cố kinh nghiệm căng thẳng vào trí nhớ, hình thành những ký ức mới.
Điều này có nghĩa là catecholamine và glucocorticoids làm tăng cƣờng trí nhớ
và học tập trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, nếu sự xuất hiện của các kích
thích gây căng thẳng xảy ra tại một thời gian dài trƣớc khi học hoặc một thời
gian ngắn trƣớc khi phục hồi trí nhớ, tác dụng của glucocorticoids thông qua
hoạt hóa hệ gen trong tế bào có thể ức chế quá trình xử lý thông tin mới và do
đó làm giảm trí nhớ, ảnh hƣởng xấu tới việc học tập mới và phục hồi các
thông tin cũ [82].
Chú ý là một quá trình tâm lý đƣợc quan tâm nhiều trong học tập. Các
thuộc tính chú ý nhƣ khối lƣợng chú ý, phân phối chú ý, khả năng di
chuyển… là các đặc điểm quan trọng đƣợc phát triển trong quá trình học tập.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3,43 ÷ 3,45) cho thấy mức độ chú ý
của sinh viên sau thi không khác biệt so với trạng thái tĩnh. Nghiên cứu của
Nguyễn Minh Hải [24] cũng cho thấy ở nhóm phi công có tuổi đời <35 khả
năng chú ý giảm không đáng kể sau chuyến bay so với trƣớc khi bay.
Trí tuệ và tƣ duy là một trong những yếu tố cơ bản, liên quan đến học tập.
Kết quả nghiên cứu trên các bảng 3.46 ÷3.48 cho thấy sau thi khả năng tƣ duy
chung của sinh viên không khác biệt so với ở trạng thái tĩnh. Tuy nhiên
141
nghiên cứu ở từng khối cho thấy sau thi khả năng tƣ duy ở sinh viên khối Y3
giảm. Điều này có lẽ do sinh viên khối Y3 có mức độ căng thẳng cao hơn so
với các khối khác thể hiện qua các chỉ số căng thẳng tim - mạch, các chỉ số
điện não và trạng thái căng thẳng cảm xúc thƣờng xuyên, ngay cả trong khi
học tập sinh hoạt bình thƣờng. Có thể áp lực cao đã làm giảm khả năng tƣ duy
của sinh viên khối này.
- Thời gian phản xạ thị giác - vận động và tốc độ xử lý thông tin của sinh
viên trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi
Phản xạ thị giác - vận động là loại phản xạ phức tạp mà cung phản xạ
của nó có nhiều chặng dẫn truyền hƣớng tâm và ly tâm với nhiều trung khu
thần kinh của tủy sống và não bộ tham gia thực hiện và điều hòa một cách có
ý thức. Sự mệt mỏi của hệ thần kinh trung ƣơng hay của hệ vận động, sự mất
cân bằng giữa các quá trình hƣng phấn và ức chế của não bộ trong trạng thái
tâm lý bị căng thẳng hay ức chế đều ảnh hƣởng đến kết quả đáp ứng của loại
phản xạ này. Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.49 cho thấy thời gian phản xạ thị
giác - vận động đơn giản và phức tạp của các nhóm sinh viên nam và nữ sau
buổi thi không khác biệt so với trạng thái tĩnh (p>0,05). Giữa nam và nữ sinh
viên, chỉ có thời gian phản xạ phức tạp của nữ dài hơn so với ở nam trong
trạng thái tĩnh là có ý nghĩa thống kê, (p<0,05). Từ thời gian phản xạ chúng
tôi tính tốc độ xử lý thông tin. Kết quả ở bảng 3.50 cho thấy sau thi, tốc độ xử
lý thông tin của sinh viên có giảm so với trong trạng thái tĩnh nhƣng sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Đặc điểm về cảm xúc của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi
Kết quả ở bảng 3.51 cho thấy sau buổi thi, tỷ lệ sinh viên có mức độ
căng thẳng cảm xúc vừa và cao tăng hơn so với ở trạng thái tĩnh nhƣng sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Điểm Spielberger trung bình
sau buổi thi tăng có ý nghĩa thống kê so với trạng thái tĩnh (p<0,05). Điều
đáng chú ý là căng thẳng cảm xúc của kỳ thi đã gây biến đổi chức năng của hệ
142
thần kinh giao cảm tủy thƣợng thận (gây tăng tiết catecholamin) và hệ thống
dƣới đồi - yên - thƣợng thận (gây tăng tiết cortisol).
So sánh với nghiên cứu của Nguyễn Minh Hải [24] trên phi công cho
thấy ở thời điểm trƣớc bay tỷ lệ phi công có mức độ cảm xúc khá cao
(19,41%), còn ở sinh viên trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ này là 2%, sau
bay tỷ lệ phi công có cảm xúc cao giảm rõ rệt (8,94%), còn trong nghiên cứu
của chúng tôi sau thi tỷ lệ sinh viên có mức độ cảm xúc lại tăng (6%). Theo
chúng tôi có sự khác biệt này là do trƣớc khi bay phi công cảm thấy có thể gặp
nguy hiểm, rủi ro trên chuyến bay, còn ở sinh viên chủ yếu là những thách thức
trong cuộc sống hàng ngày , không có sự đe dọa đến tính mạng.
Trong lao động (đặc biệt là lao động trí óc) sự căng thẳng về thể chất và
tâm lý là một trong những đặc điểm đặc trƣng. Gánh nặng về tâm thần không
phải chỉ là hiện tƣợng một chiều đơn giản mà là một phức hợp bao gồm nhiều
yếu tố. Thứ nhất là gánh nặng về thời gian: sự đòi hỏi (áp lực về thời gian)
bao gồm cả thời gian thực hiện công việc và thời gian vƣợt qua. Rõ ràng sinh
viên là những ngƣời thƣờng xuyên tiếp xúc với thi cử, nếu phải thực hiện một
bài thi trong một khoảng thời gian quy định thì sinh viên phải chịu áp lực về
thời gian nhất định [9]. Thứ hai là gánh nặng gắng sức trí tuệ gồm các quá
trình tiếp nhận nguồn thông tin, đƣa thông tin vào trí nhớ, xử lý thông tin và
đƣa ra quyết định hành động. Quá trình này phụ thuộc vào khả năng tập trung
chú ý, khả năng nhớ và năng lực quyết đoán của cá nhân. Thứ ba là gánh nặng
tâm lý, gánh nặng này do nhiều yếu tố tác động, song biểu hiện chủ yếu là
trạng thái mệt mỏi, tình trạng sức khoẻ giảm sút và sự căng thẳng cảm xúc.
Các stress tâm lý này xuất hiện trong quá trình lao động ở các mức độ khác
nhau tùy thuộc vào đáp ứng của mỗi sinh viên, đòi hỏi sinh viên phải có
những cố gắng nhất định để vƣợt qua những thách thức đó [66],[118].
143
4.3.3. Sự thay đổi nồng độ một số nội tiết tố của sinh viên trong trạng thái
tĩnh và sau buổi thi
Căng thẳng tâm lý có thể dẫn đến những thay đổi trong hệ thống tim -
mạch, tâm - thần kinh, miễn dịch và nội tiết, bên cạnh đó còn giải phóng các chất
chuyển hóa khác. Theo một số tác giả [32], [72], [78], [89] có nhiều hormon của
các tuyến nội tiết tham gia vào phản ứng, trong đó các hormon quan trọng nhất
đƣợc coi là chỉ số của stress (index for stress) là cortisol và catecholamin
(adrenalin và noadrenalin). Đây là những hormon hết sức cần thiết cho quá trình
thích nghi của cơ thể đáp ứng lại với các yếu tố gây stress. Một trong các cơ chế
gây bệnh do stress đó là khi các hormon và các chất trung gian hóa học vẫn tiếp
tục tiết ra và tác động sau khi các yếu tố stress đã hết tác động.
Để xác định một cách khách quan mức độ căng thẳng tâm lý sau một
buổi thi, chúng tôi tiến hành định lƣợng nồng độ cortisol và catecholamin
trong trạng thái tĩnh tƣơng đối (ngày nghỉ) và trong trạng thái căng thẳng (sau
buổi thi). Kết quả ở bảng 3.52 và hình 3.15 cho thấy sau buổi thi nồng độ
cortisol ở các nhóm nam và nữ sinh viên đều tăng có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) so với trạng thái tĩnh. So sánh hai giới cho thấy nồng độ cortisol của
nam cao hơn so với ở nữ tại cả hai thời điểm nhƣng sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p>0,05). Sau buổi thi, độ lệch chuẩn (SD) của cortisol tăng so
với trạng thái tĩnh ở cả nam và nữ sinh viên. Điều này thể hiện mức độ căng
thẳng rất khác nhau ở sinh viên. Sự khác biệt về mức độ căng thẳng bị ảnh
hƣởng bởi tình huống tạo ra sự căng thẳng đó và các yếu tố khác nhƣ khả
năng điều chỉnh và kỹ năng đối phó của từng cá nhân.
Các nghiên cứu của các tác giả trƣớc đây đã chỉ ra rằng làm việc căng
thẳng gây tăng hàm lƣợng cortisol, một hormon đặc trƣng của stress [62],
[68], [70], [78], [91], [98].
Nghiên cứu của chúng tôi về hàm lƣợng cortisol cũng phù hợp với kết
quả của Krahwinkel và cs. [89]. Tác giả nghiên cứu sự tác động của căng
thẳng trong kỳ thi đến cortisol nƣớc bọt trên 38 sinh viên khỏe mạnh (18 nữ và
144
20 nam), với tuổi trung bình là 26,9. Mẫu nƣớc bọt đƣợc lấy trong khoảng thời
gian từ 9 -10 giờ sáng, trong hai giai đoạn căng thẳng khác nhau: trong một học
kỳ thực tập thông thƣờng và ngay sau khi thi vấn đáp. Kết quả cho thấy trong
khoảng thời gian không căng thẳng nồng độ cortisol trung bình đo đƣợc trong
nƣớc bọt là 0,085μg/dl và trong giai đoạn căng thẳng nồng độ chất này đo đƣợc
là 0,315μg/dl, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,001).
Hal.A. Droogleever và cs [78] nghiên cứu ảnh hƣởng của căng thẳng
trong kỳ thi tiến sỹ lên mức cortisol máu ở 14 nghiên cứu sinh bằng cách lấy
máu tại bốn thời điểm: trƣớc thi 4 tuần (T1), trƣớc thi 45 phút (T2), trong thời
gian thi (T3) và sau thi 4 tuần (T4). Kết quả cho thấy nồng độ cortisol tăng
trong suốt cuộc thi, trong đó nồng độ cortisol ở thời điểm T3 cao hơn so với
các thời điểm T1 và T4 với p<0,001. Nghiên cứu của Baker và cs [62] cho
thấy điểm số lo lắng và nồng độ cortisol của sinh viên mới vào trƣờng cao
hơn so với ở các sinh viên năm thứ 2.
Diana Preu và cs [68] nghiên cứu hai mẫu độc lập đánh giá đáp ứng
cortisol cho một kỳ thi đại học bằng thi viết và thi vấn đáp. Kết quả cho thấy
nồng độ cortisol tăng đáng kể trong từng giai đoạn của kỳ thi, đối với thi vấn
đáp, nồng độ cortisol tăng đáng kể trƣớc và sau khi thi so với ngày bình
thƣờng, còn khi thi viết nồng độ cortisol thay đổi không có ý nghĩa thống kê.
Điều đó chứng tỏ rằng thi viết chỉ gây ra một phản ứng nhẹ đối với HPA
(hypothalamic pituitary adrenocortical), trong khi thi vấn đáp gây ra một phản
ứng mạnh hơn đối với HPA. Những phát hiện nêu trên đã hỗ trợ cho ý tƣởng
rằng nhân tố xã hội là một yếu tố quan trọng xác định mức độ của các phản
ứng HPA cho những căng thẳng trong phòng thí nghiệm cũng nhƣ những
căng thẳng trong cuộc sống.
Nghiên cứu của Linda và cs [91] về mối quan hệ giữa cortisol với căng
thẳng về tâm - sinh lý, bệnh lý cũng nhƣ lối sống trong sinh viên đại học Nga
và Mỹ cho thấy ở nữ sinh viên có các triệu chứng lo âu nhiều hơn so với ở
145
nam sinh viên. Sinh viên Mỹ có các triệu chứng của bệnh trầm cảm nhiều hơn
đồng thời có mức cortisol cao hơn so với những sinh viên Nga.
Elizabeth J. và cs [72] nghiên cứu đáp ứng của cortisol với căng thẳng
của buổi thi ở sinh viên y năm thứ nhất cho thấy trƣớc thi một giờ, nồng độ
cortisol ở những sinh viên thích nghi kém (có điểm số lo lắng theo Spilbeger
trên 40 điểm) tăng so với ở những sinh viên có khả năng thích nghi tốt (điểm
số lo lắng dƣới 40 điểm). Nồng độ cortisol sau thi 2 ngày giảm ở cả những
ngƣời thích nghi tốt và kém, trong đó những ngƣời kém thích nghi có nồng độ
cortisol cao hơn. Nhƣ vậy điều này cũng chứng tỏ sự thích ứng stress của cơ
thể quyết định mức độ của stress.
Khi cơ thể lâm vào trạng thái căng thẳng, hệ thống sympathoadrenecgic
giao cảm tủy thƣợng thận đƣợc khởi phát đầu tiên, giải phóng catecholamin
mà chủ yếu là adrenalin [74]. Adrenalin đƣợc chuyển vào dòng máu và đƣợc
phân bố đến các cơ quan khác nhau trong cơ thể. Kết hợp với các
adrenoreceptor trên màng tế bào thuộc các cơ quan khác nhau, adrenalin gây
co mạch ngoại vi làm tăng nhịp tim, dẫn đến tăng huyết áp, giúp cung cấp
máu cho các cơ quan, hoạt hóa hệ thần kinh, trong đó có vùng dƣới đồi. Dƣới
tác dụng của adrenalin, phản ứng tăng huyết áp chống lại tác động gây stress
thƣờng xảy ra rất sớm, trong vòng 15 - 20 phút kể từ khi cơ thể lâm vào trạng
thái stress. Adrenalin còn tạo ra năng lƣợng cho cơ thể bằng cách huy động
glucose từ glycogen của gan, huy động các acid béo tự do và triglycerid từ các
mô mỡ dự trữ. Sự giải phóng adrenalin giúp cơ thể chuẩn bị “chiến đấu hoặc
chạy trốn” thông qua tăng cƣờng trao đổi chất và năng lực tri giác [32].
Một số nghiên cứu cho thấy tăng nồng độ catecholamin mạn tính trong máu
có liên quan đến tăng huyết áp và là nguy cơ cao bị bệnh tim - mạch [61], [74].
Kết quả nghiên cứu trên bảng 3.53 và hình 3.16 cho thấy nồng độ
catecholamin ở nhóm sinh viên nam và nữ sau buổi thi đều tăng có ý nghĩa
thống kê (p<0,05) so với trạng thái tĩnh. So sánh kết quả nghiên cứu giữa hai
giới cho thấy trong trạng thái tĩnh tƣơng đối nồng độ catecholamin của nam
146
cao hơn so với ở nữ, còn trong trạng thái căng thẳng (sau buổi thi),
catecholamin của nữ cao hơn so với ở nam nhƣng sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p>0,05). Dù có sự biến động khác nhau về nồng độ cortisol và
catecholamin ở hai nhóm đối tƣợng ở các thời điểm khác nhau, song điều này cho
thấy rõ áp lực trong thi cử là một stressor gây căng thẳng thần kinh cho tất cả sinh
viên làm cơ thể họ tăng cƣờng bài tiết cortisol và catecholamin.
Nghiên cứu của Al-Ayadhi Ly [58] trên 48 sinh viên nữ y khoa năm đầu
và năm thứ 2 cho thấy sự gia tăng có ý nghĩa thống kê nồng độ catecholamin
máu sau kỳ thi so với lúc họ ở trạng thái nghỉ ngơi bình thƣờng. Tác giả còn
cho thấy trong thời gian học tập căng thẳng có sự tăng rất cao mức độ
adrenomedullin và gây giải phóng NO trong huyết tƣơng so với điều kiện cơ
sở. Sự tăng NO lại liên quan với sự gia tăng có ý nghĩa thống kê mức độ nitrit
và nitrat, là các chất chuyển hóa của NO trong các hệ thống sinh học. Tăng
nitrit và nitrat phản ánh sự gia tăng sản xuất NO, tạo điều kiện để
adrenomedullin đƣợc giải phóng. Nồng độ adrenomedullin cao có thể gây một
hiệu ứng bảo vệ tế bào chống lại tổn thƣơng ở các cơ quan. Nồng độ cao của
adrenomedullin huyết tƣơng trong quá trình học tập căng thẳng và gia tăng
sản xuất NO có thể mang lại lợi ích về mặt sinh học nhƣ một cơ chế bảo vệ
chống lại những thay đổi sinh lý khác để đáp ứng với tình trạng căng thẳng.
Tóm lại stress là một quá trình phức tạp liên quan đến xã hội, yếu tố tâm
lý và sinh lý. Trạng thái stress có thể xuất hiện ở nhiều mức độ khác nhau phụ
thuộc vào các yếu tố môi trƣờng, điều kiện lao động và các yếu tố xã hội. Các
đáp ứng với stress còn thay đổi tùy theo sự nhận định, trải nghiệm cảm xúc và
nhận thức, hành vi (đối phó thích hợp) của đối tƣợng đối với sự kiện gây
stress. Vì vậy các nghiên cứu về đáp ứng của hệ thống nội tiết với căng thẳng
không phải lúc nào cũng hoàn toàn đồng nhất.
Qua lƣợng hóa mức độ căng thẳng bằng các chỉ số đo lƣờng khách quan
cho thấy hoạt động trí tuệ gây ra những biến đổi trạng thái chức năng với mức
độ khác nhau ở các khối sinh viên. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở trạng thái
147
tĩnh có tới 96,3% sinh viên Đại học Y Thái Bình có biểu hiện căng thẳng thần
kinh cảm xúc thƣờng xuyên ở mức vừa và cao. Sau buổi thi, sinh viên có biểu
hiện căng thẳng chức năng tim - mạch và căng thẳng chức năng thần kinh
thực vật theo phép thống kê toán học nhịp tim tăng; trên điện não đồ các
thông số (tần số, chỉ số (%), biên độ) của sóng anpha giảm, sóng beta tăng;
điểm Spielberger trung bình của sinh viên tăng; có sự tăng mạnh hàm lƣợng
cortisol, catecholamin máu so với trạng thái tĩnh. Phần lớn các chỉ số trên có
mức biến đổi rõ rệt ở sinh viên khối Y1,Y2 . Sinh viên khối Y3 có mức độ
căng thẳng cao ở cả trạng thái tĩnh và sau thi, khả năng tƣ duy của sinh viên
khối Y3 giảm, ít biến đổi ở sinh viên Y4 và Y5. Kết quả trên cho thấy chƣơng
trình học hiện tại của sinh viên đại học y là rất nặng khiến phần lớn sinh viên
có biểu hiện căng thẳng thần kinh cảm xúc. Sinh viên khối Y1 và Y2 là những
sinh viên mới vào trƣờng, chƣa thích nghi với môi trƣờng học tập mới, các
môn thi tập trung vào cuối kỳ. Chƣơng trình học năm thứ 3 có lẽ nặng nhất,
các em vừa học các môn cơ sở vừa bắt đầu đi lâm sàng, trực bệnh viện, tiếp
xúc với nhiều loại bệnh tật mà các em chƣa có kinh nghiệm. Lịch học năm
thứ 3 khá chồng chéo, chƣa học hết môn này đã phải thi môn khác và liên tục
thi cuốn chiếu do đó cƣờng độ cũng nhƣ tần số kích thích căng thẳng tăng lên
đặt thêm gánh nặng gây căng thẳng thƣờng xuyên hơn đối với họ. Sinh viên
các khối Y4, Y5 đã có sự thích nghi nên các chỉ số căng thẳng ít biến đổi, nhất
là khối Y4 mặc dù học các môn có đơn vị học trình lớn nhƣ nội, ngoại, sản,
nhi…nhƣng số lần thi ít và lịch thi không chồng chéo. Chƣơng trình học của
sinh viên khối Y5 theo cảm nhận là nhẹ nhất vì học các chuyên khoa lẻ, tuy
nhiên cứ ba tuần thi một môn, thời gian học ngắn nhƣng các mặt bệnh phủ hết
chƣơng trình và tần suất thi nhiều nên sinh viên khối Y5 có mức độ biến động
các chỉ số không ổn định nhƣ ở khối Y4. Sinh viên các khối Y4, Y5 đã có sự
trải nghiệm qua các kỳ thi cũng nhƣ việc học lý thuyết, thực hành ở các labo
và đi lâm sàng ở các bệnh viện, do đó ở họ đã có sự thích nghi, ổn định về thể
chất cũng nhƣ về tâm - sinh lý. Nhƣ vậy sự từng trải của sinh viên các năm
148
cuối với căng thẳng về học tập và sinh hoạt đã giúp cho các em có bản lĩnh
vững vàng hơn để đối phó với stress. Điều này cũng phù hợp với các nghiên
cứu gần đây cho rằng kinh nghiệm học tập là một trong những yếu tố qui định
khả năng thích ứng của cơ thể đối với stress. Những yếu tố kích thích cảm xúc
kết hợp với kinh nghiệm học tập sẽ kích thích việc giải phóng catecholamine và
glucocorticoid từ tuyến thƣợng thận. Catecholamine không thể vƣợt qua hàng
rào máu- não nhƣng sự kích hoạt thông qua dây hƣớng tâm của thần kinh phế
vị, sợi noradrenergic trong bó sợi thần kinh đơn độc (NTS) và coeruleus
locus, lần lƣợt kích thích các hạch hạnh nhân đáy bên. Glucocorticoid có thể
vƣợt qua hàng rào máu - não và ảnh hƣởng trực tiếp đến quá trình ghi nhớ trong
một số vùng não. Các glucocorticoid tƣơng tác với noradrenaline ở hạch hạnh
nhân đáy bên, sau đó điều chỉnh quá trình ghi nhớ trong vỏ não trƣớc trán, vùng
hippocampus, thể hạnh nhân và các khu vực khác của não, ảnh hƣởng tốt tới việc
học tập mới và phục hồi các thông tin cũ [117].
Mức độ biến đổi đa phần các chỉ số mạch, huyết áp, chỉ số TKTHNT và
các chỉ số tâm - sinh lý (tỷ lệ cƣờng giao cảm, mức độ căng thẳng cảm xúc
cao, mức tăng tần số sóng beta sau buổi thi so với trạng thái tĩnh) ở sinh viên
nữ cao hơn so với ở sinh viên nam. Trong đó đặc biệt chú ý về sự biến đổi
nồng độ catecholamin ở nhóm sinh viên nam và nhóm sinh viên nữ (trong
trạng thái tĩnh nồng độ chất này ở nam cao hơn nữ, ngƣợc lại trong trạng thái
căng thẳng nồng độ chất này ở nữ cao hơn nam). Các kết quả trên chứng tỏ
trạng thái lo âu cao ở nữ sinh viên đồng thời cũng phản ánh đặc điểm tâm lý ở
nữ giới. Để giải thích điều này các nhà khoa học cho rằng chính các hormon
đóng một vai trò nhất định trong việc phát sinh sự khác biệt về giới trong
phản ứng căng thẳng tâm - thần kinh. Tiến sĩ sinh học Jiongjiong Wang và
các cộng sự [88] thuộc Trƣờng đại học Pennsylvania, Philadelphia và Trƣờng
đại học Rockefeller, New York, Mỹ đã sử dụng phƣơng pháp cộng hƣởng từ
chức năng (fMRI) để đo lƣu lƣợng máu não hoạt động nhƣ thế nào lúc phản
ứng với căng thẳng tâm lý ở 32 ngƣời khỏe mạnh (16 nam và 16 nữ). Những
149
ngƣời tham gia phải thực hiện một công tác tính toán trong những điều kiện
stress. Kết quả cho thấy ở đàn ông, vỏ não trƣớc trán phải (điều hòa những
cảm xúc âm tính) hoạt động nhiều hơn, trong khi đó vỏ não hốc mắt - trán trái
(có vai trò ngăn chặn) ít bị kích thích hơn. Ngƣợc lại, căng thẳng ở phụ nữ
chủ yếu kích hoạt hệ limbic của não bộ, bao gồm cả thể vân bụng, các hạch,
thùy nhỏ não trƣớc và vỏ não. Ngoài ra, phản ứng của não bộ ở nữ kéo dài lâu
hơn sau thí nghiệm. Hoạt động bất đối xứng ở vùng trƣớc trán ở nam giới liên
quan với cortisol, một loại hormon stress. Trong khi ở nữ, hoạt động của hệ
limbic có mối tƣơng quan không chặt với nồng độ cortisol. Nhƣ vậy, các phản
ứng của não bộ đối với stress của nam và nữ là khác nhau và stress xúc cảm
của nữ đã giải thích tại sao họ thƣờng bị trầm cảm và căng thẳng hơn ở nam.
Mặt khác để giải thích sự khác nhau về cách giải quyết, đối mặt với căng
thẳng ở nam và nữ, các nhà khoa học còn cho rằng ở nam giới, lƣợng
oxytocin (loại nội tiết tố kháng stress) thƣờng sản sinh ít hơn so với ở nữ giới
do bị nội tiết tố sinh dục nam testosterone lấn át. Do đó, phái mạnh có xu
hƣớng tự đối mặt với stress và không thích chia sẻ với ngƣời khác.
Trong quá trình đào tạo tại các trƣờng Đại học, sinh viên chịu nhiều tác
động từ môi trƣờng xã hội và quá trình học tập, đặc biệt là sinh viên Y. Thi cử
là vấn đề không tránh khỏi đối với mỗi sinh viên, đây cũng là yếu tố làm căng
thẳng thần kinh, tăng tiết các nội tiết tố, trong đó có catecholamin và cortisol
(những chất vừa có lợi lại vừa có hại đối với cơ thể nếu bài tiết với số lƣợng
lớn và kéo dài), tăng sức ép tâm lý với họ. Can thiệp dự phòng cho sinh viên
Y để ngăn chặn những hậu quả tiêu cực của căng thẳng và cải thiện phong
cách sống của họ bằng cách thúc đẩy các nguồn lực cá nhân cũng nhƣ xã hội
là yếu tố rất quan trọng trong việc đạt đƣợc mục tiêu cải thiện sức khỏe. Vì
vậy nâng cao nhận thức về căng thẳng, hậu quả của nó và phƣơng thức quản
lý căng thẳng của các nhà quản lý y tế cần đƣợc quan tâm đúng mức để giảm
thiểu cẳng thẳng, nâng cao tài sản trí tuệ của sinh viên.
150
KẾT LUẬN
1. Một số chỉ số chức năng hệ tim-mạch và tâm - thần kinh của 600 sinh
viên Đại học Y Thái Bình ở trạng thái tĩnh
* Một số chỉ số chức năng tim mạch
- Tần số mạch của sinh viên nam (79,859,02 nhịp/ph) tƣơng tự so với của
sinh viên nữ (79,819,02 nhịp/ph). Ở nhóm sinh viên nam huyết áp tâm thu là
116,03 ± 20,14 mmHg, huyết áp tâm trƣơng là 70,71±7,56 mmHg cao hơn rõ
rệt so với ở nữ (107,6011,86 mmHg và 67,778,19 mmHg), với p<0,05.
- Tỷ lệ trạng thái thần kinh thực vật cƣờng giao cảm ở sinh viên nữ
(47%) cao hơn so với ở sinh viên nam (37%), với p<0,05.
* Một số chỉ số chức năng tâm - thần kinh
- Chỉ số IQ của sinh viên nam là 98,61±16,98, tƣơng đƣơng với của sinh
viên nữ là 100,50±12,68. Chỉ số IQ đạt mức trung bình và thông minh chiếm
đa số. Năng lực trí tuệ của sinh viên tính theo test Raven có mối tƣơng quan
thuận với học lực nhƣng không chặt (r= 0,134).
- Thời gian phản xạ thị giác - vận động đơn giản và phức tạp của sinh
viên nam ngắn hơn so với ở sinh viên nữ, (p<0,05). Sinh viên khối Y4 có thời
gian phản xạ thị giác - vận động ngắn hơn so với các khối khác, (p<0,05). Tốc
độ xử lý thông tin, khả năng tƣ duy logic, chú ý và trí nhớ ngắn hạn của sinh
viên nam và nữ là tƣơng đƣơng và đạt mức chủ yếu là khá, giỏi. Sinh viên
khối Y4 có khả năng chú ý cao hơn so với các khối khác, (p<0,05).
- Có mối tƣơng quan nghịch, không chặt giữa khả năng chú ý với thời
gian phản xạ thị giác - vận động đơn giản và phức tạp (r= -0,159 và r= -0,18,
p<0,05). Có mối tƣơng quan thuận, không chặt giữa khả năng chú ý với chỉ số
IQ (r= 0,243; p<0,05).
- Sinh viên có biểu hiện của trạng thái căng thẳng thần kinh cảm xúc
thƣờng xuyên ở mức vừa là 58,8%, ở mức cao là 37,5%. Tỷ lệ sinh viên nữ có
151
mức độ căng thẳng cảm xúc cao và xu hƣớng bệnh lý nhiều hơn so với ở sinh
viên nam (OR=0,6; 95% CI=0,4-0,8; p<0,05). Sinh viên khối Y3 có tỷ lệ căng
thẳng cảm xúc cao nhiều hơn sinh viên các khối khác (với p<0,05).
2. Một số chỉ số chức năng hệ tim-mạch, tâm-thần kinh (n=150) và nội tiết tố
(n=30) của sinh viên Đại học Y Thái Bình trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi
- Sau buổi thi, các chỉ số thống kê toán học nhịp tim có biểu hiện căng
thẳng chức năng tim- mạch nhƣ tần số nhịp tim tăng, độ lệch chuẩn của 100
khoảng RR giảm, chỉ số căng thẳng tăng và tỷ lệ sinh viên có biểu hiện căng
thẳng chức năng thần kinh thực vật ở sinh viên khối Y1, Y2 tăng rõ rệt (p<0,05).
Sinh viên khối Y3 có mức độ căng thẳng cao ở cả trạng thái tĩnh và sau thi, khối
Y4 các chỉ số ít biến đổi. Tần số mạch và huyết áp tâm trƣơng chung của cả nam
và nữ tăng (p<0,05), riêng ở sinh viên nữ huyết áp tâm thu cũng tăng có ý nghĩa
thống kê so với ở trạng thái tĩnh (p<0,05).
- Sau buổi thi, trên EEG của các nhóm sinh viên nam và nữ có các thông
số (tần số, chỉ số (%), biên độ) của sóng anpha giảm, sóng beta và teta đều
tăng có ý nghĩa so với ở trạng thái tĩnh (p<0,05). Điểm Spielberger trung bình
của sinh viên tăng (p<0,05).
- Sau buổi thi, trí nhớ ngắn hạn của sinh viên tăng so với ở trạng thái tĩnh
(p<0,05), trong đó khả năng nhớ của sinh viên khối Y2 và Y5 tăng rõ rệt so
với các khối Y1,Y3 và Y4 (p<0,05). Khả năng tƣ duy của sinh viên khối Y3
giảm so với trạng thái tĩnh (p< 0,05).
- Sau buổi thi, nồng độ cortisol huyết thanh và catecholamin máu của
các nhóm sinh viên nam và nữ đều tăng rõ so với ở trạng thái tĩnh (p<0,05).
Trong đó, nồng độ cortisol ở trạng thái tĩnh và sau buổi thi, nồng độ
catecholamin ở trạng thái tĩnh của các nhóm sinh viên nam đều cao hơn so với
của nữ (p>0,05), riêng nồng độ catecholamin sau buổi thi của nữ lại cao hơn
so với của nam (p>0,05).
152
KIẾN NGHỊ
Căng thẳng do các kỳ thi gây ra đã làm biến động một số chức năng tim
mạch, thần kinh và nội tiết ở sinh viên theo hƣớng bất lợi. Để bảo vệ sức khỏe
cho sinh viên, nhà trƣờng nên:
- Kiểm tra định kỳ sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm - sinh lý cho sinh viên,
nên sử dụng các chỉ số thống kê toán học nhịp tim để lƣợng hóa trạng thái
căng thẳng cảm xúc.
- Điều chỉnh lịch học và lịch thi cho hợp lý và có sự quan tâm nhiều hơn với
các nữ sinh viên y và những sinh viên mới vào trƣờng.
- Mở rộng nghiên cứu tiếp theo về lĩnh vực này, so sánh căng thẳng với các
trƣờng khác để thấy rõ mức độ căng thẳng của sinh viên y, những ngƣời sau
này sẽ đảm nhận trọng trách chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, làm cơ sở để
nhà nƣớc có chính sách ƣu đãi với nghề đặc biệt này.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Hiên, Vƣơng Thị Hòa (2008), “Nghiên cứu trạng thái căng
thẳng cảm xúc và các loại hình thần kinh ở một nhóm sinh viên Y3 Đại
học Y Thái Bình”, Tạp chí Y học thực hành, 629, tr. 343- 347.
2. Nguyễn Thị Hiên, Vƣơng Thị Hòa (2008), “Nghiên cứu trạng thái căng
thẳng chức năng hệ tim mạch ở một nhóm sinh viên Y3 Đại học Y Thái
Bình”, Tạp chí Sinh lý học Việt Nam, 12(2), tr. 15-21.
3. Nguyễn Thị Hiên, Trần Đăng Dong, Vƣơng Thị Hòa (2012) “Nghiên
cứu ảnh hƣởng của căng thẳng kỳ thi lên một số chỉ số tim mạch và hàm
lƣợng cortisol, catecholamin máu của sinh viên Đại học Y”, Tạp chí Y học
Việt Nam, 398(1), tr. 52 - 58.
4. Nguyễn Thị Hiên, Trần Đăng Dong, Vƣơng Thị Hòa (2012) “Nghiên
cứu trạng thái thần kinh thực vật và căng thẳng cảm xúc của sinh viên Đại
học Y Thái Bình”, Tạp chí Y học Việt Nam, 398(1), tr. 34 - 39.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đỗ Hồng Anh (1991), “Tình hình dùng test tâm lý ở Việt Nam”, Tạp chí
nghiên cứu giáo dục số 10/1991, tr. 44-45.
2. Trần Trí Bảo (2000), "Áp dụng lý thuyết thông tin trong nghiên cứu tâm-
sinh lý ở ngƣời”, Tạp chí Sinh lý học, 4(1), tr. 37-44.
3. Tạ Tuyết Bình (2002), Điều tra thực trạng điều kiện lao động và sức
khoẻ của người lao động thuộc nghề và công việc trên cao, Viện YHLĐ
&VSMT, đề tài cấp Bộ.
4. Bộ y tế (2003), Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ
90 - thế kỷ XX, Nxb Y học, Hà Nội.
5. Thùy Chi, Ngọc Mai (2001), Cách giảm stress tốt nhất (Biên dịch theo
Judith Lazarus), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr.28 - 31.
6. Phạm Hà Châu, Nguyễn Tùng Linh (2009), “Nghiên cứu một số chỉ số
tim mạch của phi công trƣớc và sau nghiệm pháp gắng sức”, Tạp chí Sinh
lý học, 13 (1), tr.21- 28.
7. Cruchetxki V.A. (1980), Những cơ sở của tâm lý học Sư phạm, Nxb
Giáo dục.
8. Trần Thị Cúc (2002), Nghiên cứu một số đặc điểm điện não và năng lực
trí tuệ của học sinh và sinh viên thành phố Huế, Luận án tiến sỹ sinh học,
trƣờng ĐHSP Hà Nội I.
9. Daxiorski B.M. (1998), Các tố chất thể lực của vận động viên, Nxb
TDTT, tr. 5-21.
10. Nguyễn Bích Diệp, Lê Gia Khải, Tạ Tuyết Bình (2002), “Gánh nặng tâm
thần”, Tâm sinh lý lao động và ecgonomi, Nxb Y học, Hà Nội, tr.257 - 282.
11. Ngô Tiến Dũng, Đỗ Công Huỳnh và cộng sự (2001), "Chƣơng trình hóa
các test tâm lý", Tạp chí Sinh lý học, 5(1).
12. Phan Văn Duyệt, Lê Nam Trà (1996), “Một số vấn đề chung về phƣơng
pháp luận trong nghiên cứu các chỉ tiêu sinh học” Kết quả bước đầu
nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội,
tr. 13 -18.
13. Trịnh Bỉnh Dy (1998), Sinh lý tuần hoàn, Sinh lý học - tập I, Nxb Y học,
tr. 176 - 275.
14. Dƣơng Tự Đam (1999), Những phương pháp tiếp cận thanh niên hiện
nay, Nxb Thanh Niên.
15. Trần Văn Đại, Tạ Tuyết Bình (2009), “Biến đổi điện não đồ của điều độ
viên chỉ huy chạy tàu trƣớc và sau ca lao động”, Tạp chí Y học quân sự, 4,
tr. 8 - 14.
16. Phạm Thị Minh Đức (1997), “Huyết áp động mạch”, Chuyên đề Sinh lý học
- tập I, NxbY học, tr. 51 - 58.
17. Phạm Thị Minh Đức (2007), “Sinh lý nội tiết”, Sinh lý học, Nxb Y học, tr.
287- 339.
18. Nguyễn Thu Hà, Tạ Tuyết Bình (2006), “Sự căng thẳng hệ tim mạch ở
nhân viên y tế”, Tạp chí Sinh lý học, 10 (3), tr.61 - 66.
19. Nguyễn Thu Hà, Tạ Tuyết Bình, Trần Thanh Hà (2008), “Đánh giá
stress nghề nghiệp và biến thiên nhịp tim trong lao động qua ghi holter
điện tâm đồ 24 giờ ở điều độ viên”, Tạp chí Sinh lý học, 3 (12), tr.63 - 68.
20. Trần Thanh Hà (1998), Nghiên cứu dự báo khả năng lao động của bộ
đội tiêu binh, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trƣờng Đại học Y Hà Nội.
21. Trần Thanh Hà, Nguyễn Bạch Ngọc (2003), “Phân loại khả năng thích
nghi với điều kiện lao động khắc nghiệt bằng phƣơng pháp phân tích toán
học nhịp tim”, Tạp chí Y học dự phòng, 1 (13), tr. 82 - 87.
22. Trần Thanh Hà, Nguyễn Thu Hà và cs. (2004), "Đánh giá căng thẳng
chức năng tim mạch bằng chỉ số thống kê toán học nhịp tim ở nhân viên
Y tế", Báo cáo khoa học toàn văn, Hội nghị khoa học quốc tế Y học Lao
động và VSMT lần thứ nhất, Nxb Y học, tr. 214-219.
23. Trần Thanh Hà, Đào Phú Cƣờng và cs. (2007) "Đánh giá căng thẳng
chức năng hệ tim mạch của cảnh sát và dân cƣ do ô nhiễm môi trƣờng
giao thông”, Tạp chí Sinh lý học, 11 (1), tr. 18-25.
24. Nguyễn Minh Hải (2009), Nghiên cứu một số chỉ số sức khỏe tâm thần
trong hoạt động bay ở phi công quân sự, Luận án tiến sỹ Y học, Học viện
Quân y.
25. Nguyễn Kế Hào (1991), "Khả năng phát triển trí tuệ của trẻ em Việt
Nam", Tạp chí nghiên cứu giáo dục, 10, tr. 2,3,10.
26. Nguyễn Thị Hiên (2006), “Nghiên cứu thời gian phản xạ thị giác - vận
động và năng lực trí tuệ ở một nhóm sinh viên Y2 Trƣờng Đại học Y Thái
Bình”, Tạp chí Y học thực hành, 12 (561), tr.16-20.
27. Nguyễn Thị Hiên, Vƣơng Thị Hòa, Trần Đăng Dong (2011), “Nghiên
cứu một số chỉ số mạch, huyết áp của sinh viên tuổi 20-22 ở 3 trƣờng Cao
đẳng và Đại học tỉnh Thái Bình”, Tạp chí Sinh lý học Việt Nam, 15 (3),
tr. 29-35.
28. Lê Thị Phƣơng Hoa (1997), Nghiên cứu mối liên quan giữa thể lực, học
lực và năng lực trí tuệ của học sinh trường tiểu học và trung học cơ sở
Đông Thái, Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Sinh học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội.
29. Bộ môn Y học Quân binh chủng, Học viện Quân y (1997), Thực hành
Sinh lý lao động quân sự, Nxb Quân đội nhân dân.
30. Đỗ Công Huỳnh và cs. (1997), "Nghiên cứu chỉ số IQ và thời gian phản
xạ cảm giác - vận động ở thanh thiếu niên tuổi từ 6-18 ở Nam sân bay
Biên Hòa, Bắc sân bay Biên Hòa và xã Vạn Phúc, Hà Đông, Hà Tây",
trong Dự án nghiên cứu y - sinh học-thuộc Dự án Z1, Bộ Quốc phòng,
Học viện Quân y Hà Nội.
31. Đỗ Công Huỳnh, Trần Hải Anh (2005), “Vùng hải mã và trí nhớ”, Tạp
chí Sinh lý học Việt Nam, 9(2), tr. 52-58.
32. Đỗ Công Huỳnh (2007), Đặc điểm hoạt động thần kinh cấp cao ở người,
Giáo trình Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, tr. 163-272.
33. Mai Văn Hƣng (2001), "Nghiên cứu một số chỉ số sinh học và năng lực
trí tuệ của sinh viên một số trường đại học phía Bắc Việt Nam", Luận án
Tiến sỹ Sinh học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
34. Nguyễn Thị Hƣơng (2005), Nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động thể
lực và trí lực lên một số chỉ số tuần hoàn và thần kinh ở một nhóm nam
giới cao tuổi, Luận văn thạc sỹ Y học, Trƣờng Đại học Y Hà Nội.
35. Phạm Gia Khải, Nguyễn Lân Việt (2003), “Tần số tim và huyết áp động
mạch ngƣời lớn Việt Nam bình thƣờng thập kỷ 90”, Các giá trị sinh học
người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 - thế kỷ XX, Nxb y học Hà Nội, tr.
122 - 123.
36. Tạ Thúy Lan, Mai Văn Hƣng (2001), "Phản xạ thị giác và thính giác
của sinh viên Trung học Sƣ phạm Thanh Hoá", Tạp chí Sinh học, số 3b,
tập 23, tr. 128 - 130.
37. Leytex N.X. (1980), Năng lực trí tuệ và lứa tuổi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Lê Thu Liên (2007), “ Sinh lý tuần hoàn”, Sinh lý học, Nxb Y học, tr.151-198.
39. Lê Thu Liên (2007), “Một số chức năng cấp cao của hệ thần kinh”, Sinh
lý học, Nxb Y học, tr. 450-464.
40. Trần Thị Loan (2002), Nghiên cứu một số chỉ số thể lực và trí tuệ của
học sinh 6 -17 tuổi tại Quận Cầu giấy Hà Nội, Luận án tiến sỹ Sinh học,
Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
41. Lại Thế Luyện (2010), Biểu hiện stress trên sinh viên trường Đại học Sư
phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ Tâm lý học,
Trƣờng Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.
42. Vũ Đăng Nguyên (1994), Nghiên cứu các đặc điểm điện não và lưu huyết
não của người vận hành máy trong một số nghề đặc biệt, Luận án phó
tiến sỹ khoa học Y dƣợc, Học viện Quân y.
43. Nguyễn Minh Phƣơng (2012), “Nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện lao
động đến một số chỉ số sinh học ở bộ đội trinh sát kỹ thuật”, Luận án tiến
sĩ Y học, Học viện Quân y.
44. Lê Văn Sơn, Đỗ Công Huỳnh (2011), “Phản xạ - cơ chế hoạt động cơ
bản của hệ thần kinh trung ƣơng”, Giải phẫu sinh lý người, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, tr. 167- 170.
45. Nguyễn Ngọc Sơn (2007), “Nghiên cứu tình trạng căng thẳng chức năng
hệ tim mạch của nhân viên y tế tại Viện Quân y 354”, Tạp chí Sinh lý học
11 (2), tr. 46-49.
46. Đào Phong Tần (1991), Sự biến đổi hình ảnh điện não đồ và lưu huyết
não người Việt Nam trong một số giai đoạn phát triển cá thể, Luận án phó
tiến sỹ Sinh học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
47. Nguyễn Thạc, Lê Văn Hồng (1993), "Nghiên cứu chẩn đoán sự phát
triển trí tuệ của học sinh", Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 11, tr. 21 - 22.
48. Nguyễn Thị Ngọc Thanh (2001), “Nghiên cứu khả năng xử lý thông tin
của học sinh cuối bậc tiểu học bằng phƣơng pháp đo thời gian phản xạ thị
giác- vận động”, Tạp chí Sinh lý học, 5 (2), tr.36-42.
49. Ngô Thị Kim Thoa (1994), Bước đầu nghiên cứu khả năng trí tuệ của
sinh viên Đại học Quy Nhơn, Luận văn thạc sỹ Sinh học, Trƣờng Đại học
Sƣ phạm, Hà Nội.
50. Trần Trọng Thủy (1992), Khoa học chẩn đoán tâm lý, Nxb Giáo dục.
51. Nguyễn Minh Tiến (2009), “Stress là gì” Giáo trình học tập khoa Tâm lý
học, Đại học Văn Hiến Hà Nội, Nxb Giáo dục.
52. Trần Đỗ Trinh (1996), “Trị số huyết áp động mạch ở ngƣời Việt Nam”,
Kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam,
Nxb Y học, tr. 146 - 150.
53. Nguyễn Văn Tƣ (2005), “Nghiên cứu thời gian phản xạ cảm giác - vận
động của sinh viên trƣờng Đại học Y Thái Nguyên năm thứ hai và bệnh
nhân basedow”, Tạp chí Sinh lý học, 9 (1), tr. 5-8.
54. Nguyễn Thị Ty, Hoàng Ánh Tuyết (1994), “Điện não đồ dƣới tác động
của luyện tập dƣỡng sinh”, Tạp chí Sinh học, 6, tr. 25-33.
55. Ushinski K.D. (1983), Tâm lý học Liên Xô, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
56. Đoàn Yên, Trịnh Bỉnh Dy, Trần Minh Mẫn (1993), Một số thăm dò chức
năng sinh lý, Nxb Y học, Hà Nội.
Tiếng Anh
57. Adams S.L. et al. (1998), Ambulatory blood pressure and holster
monitoring of emergency physicians before, during and after a night shift,
Acad. Emerg. Med. 5(9), pp. 871-877.
58. Al-Ayadhi Ly. (2005), “Neurohormonal changes in medical students
during academic stress”, Ann. Saudi. MAed, 25 (1), pp. 36-40.
59. Alehagen S., Wijma K., Lundberg U., Melin B. (2001), “Catecholamine
and cortisol reaction to child birth”, Int. J. Behav, Med. 8, pp.50–65.
60. Alex Chris (2012), “Manage exam stress tips for students”, www manage
your life.com.
61. Amal Chakraburtly (2010), The effects of stress on your body, Web MD,
LLC. All rights reserved.
62. Baker GHB, Itani MS, Byrom N.A. et al. (1985), “Stress, cortisol
concentrations, and lymphocyte subpopulations”. BMJ., 290, pp. 1393.
63. Barsegyanc A. et al. (2010), “Glucocorticoids in the prefrontal cortex
enhance memory consolidation and impair working memory by a
common neural mechanism”, Proc. Natl. Acad. Sci. U.S.A., 107, pp.
16655 - 16660.
64. Charles D. Spielberger , Reheiser E.C., Ritterband L.M., Sydeman
S.J., Unger K.K., (1995), “Assessment of emotional states and
personality traits: measuring psychological vital signs”, Practical
Approaches, Oxford University Press, pp. 207-32.
65. Chatrian G.E. and Lairy G.C. (1976). Handbook of electroencephalography
and clinical Neurophysiology, Elsevier Scientific Publishing Company,
Amsterdam, The Netherlands, 6, pp.6-175.
66. Chew P.H. (1997), “Media Operation Doctrine and training Branch
Office Chief Airforce Medical Office HQ”, Republic of Singapore
Airforce, Ann Acad Med Singapore, 26 (1), pp. 40-45.
67. Chida Y, Steptoe A. (2010), “Greater cardiovascular responses to laboratory
mental stress are associated with poor subsequent cardiovascular risk status:
a meta-analysis of prospective evidence”, Hypertension, 55, pp. 1026 - 1032.
68. Diana Preu et al. (2010), “The stressed student: Influence of written
examinations and oral presentations on salivary cortisol concentrations in
university students”, Informa Healthcare USA, Inc, pp. 1- 9.
69. Dimsdale J.E. (2008), “Psychological stress and cardiovascular disease”.
J. Am. Coll. Cardiol., 51, pp. 1237-1246.
70. Droogleever Fortuyn H.A., Van Broekhoven F., et al. (2004), “Effects of
PhD examination stress on allopregnanolone and cortisol plasma levels and
peripheral benzodiazepine receptor density”, Psychoneuroendocrinology,
29(10), pp. 1341-1344.
71. Ducanson J.P. (1964), Intelligence and the Ability learn, New York.
72. Elizabeth J. et al. (2009), “The response of serum cortisol and leptin levels
to academic stress”, Online Journal of Health and Allied Sciences, 8(3).
73. Flaa A., Eide I.K., Kjeldsen S.E., Rostrup M. (2008)“Sympathoadrenal
stress reactivity is a predictor of future blood pressure: an 18-year follow-
up study”, Hypertension, 52, pp. 336- 341.
74. Frankenhaeuser M. (1983), “The sympathetic-adrenal and pituitaryadrenal
response to challenge: comparison between the sexes”. In: Dembroski
TM, Schmidt TH, Bluămchen G, editors. Biobehavioral Bases of
Coronary Heart Disease. Basel, New York: Karger, pp. 91-105.
75. Gevorkian E., Daian A.V. et al. (2003), “The influence of examination
stress on psychological characteristics and heart rate in students”, Zh.
Vyssh. Nerv. Deiat. Im. IP. Pavlova, 53 (1), pp. 46-50.
76. Groeneweg F.L., Karst H. (2011), “Rapid non-genomic effects of
corticosteroids and their role in the central stress response”, J. Endocrinol,
209 (2), pp. 153 - 167.
77. Guyton A.C., Hall E. J. (1998), "Functions of the glucocorticoids", Text book
of medical phygiology, WB Saunders company, ningh edion, pp. 962 -965.
78. Hal A. Droogleever Fortuyna et al. (2004), “Hal A. Droogleever
Fortuyna, Effects of PhD examination stress on allopregnanolone and
cortisol plasma levels and peripheral benzodiazepine receptor density”,
Psychoneuroendocrinology, 29, pp. 1341-1344.
79. Hamer M., O'Donnell K., Lahiri A., Steptoe A. (2010), ’Salivary
cortisol responses to mental stress are associated with coronary artery
calcification in healthy men and women”, Eur. Heart J., 31, pp. 424- 429.
80. Hamer M., et al. (2012), “Cortisol Responses to Mental Stress and the
Progression of Coronary Artery Calcification in Healthy Men and Women”,
Journal pone, 7 (2), pp. 313-316.
81. Hashmat S. et al. (2008), “ Factors causing exam anxiety in medical
students” J. Pak Med Assoc, 58 (4), pp. 167-170.
82. Hartmut Schachinger, Jobst Meyer (2010), “Stress and the brain: The
brain as a coordinator and target of the human stress response”, Vorgelegt.
von Dipl.-Psych., pp. 10-11.
83. Henry J.P. (1992), “Biological basis of the stress response”, Integr.
Physiol. Behav. Sci., 27, pp.66–83.
84. Ipseeta Ray, Daniel Joseph (2010), “Stress in medical stusents”, Jk.
science, 12 (4), pp. 163 - 164.
85. Jadoon N.A. (2010), “Anxiety and depression among medical stusents:
across - sectional study”, J. Pak. Med. Assoc., 60 (8), pp. 699-702.
86. Jasper H.H. (1958), "The ten-twenty electrode system of the International.
Federation", Electroenceph. Clin. Neurophysiol, 10, pp. 371-375.
87. Joels. M. et al. (2006), “Learning under stress: how does it work?”
Trends in Cognitive Sciences, 10, 152-158.
88. Jiongjiong Wang et al. (2012), “Gender difference in neural response to
psychological stress”, Oxford Journals of medical research, Social
Cognitive and Affective Neurosci, 2 (3), pp. 227-239.
89. Krahwinkel, S. Nastali, B. Azrak, B. Willershausen (2004), “The effect
of examination stress conditions on the cortisol content of saliva - A study
of students from clinical semesters”, European Journal of medical
research, 9, pp. 256-260.
90. Lawrence J. Whalley, Ian J. Deary (2001), "Longitudinal cohort study
of childhood and survival up to age 76”, BMJ, 322, pp. 1-5.
91. Linda R. Tennison et al. (2010), “Cortisol and symptoms of
psychopathology in Russian and American college students”,
International Journal of Psychology, pp. 165-173.
92. Loft P, Thomas M.G. et al. (2007), “Examination stress results in altered
cardiovascular responses to acute challenge and lower cortisol”,
Psychoneuroendocrinology, 32(4), pp. 367-375.
93. Lundberg U. (2000), “Catecholamines. In: Fink G, editor. Encyclopedia
of Stress”, Vol. I, San Diego: Academic Press, pp. 408- 413.
94. Lundberg U.(2002),“Psychophysiology of Work: Stress, Gender,
Endocrine Response, and Work-Related Upper Extremity Disorders”.
American journal of industrial medicine, 41, pp. 383 - 392.
95. Makarenko, V.S.Lyzohub (2003), “Heart rhythm in students with
different individual and typological characteristics of the higher nervous
activity during examination stress”, Fiziol. Zh., 49(1), pp. 28-33.
96. Maroun M., Akirav I. (2008), “Arousal and stress effects on
consolidation and reconsolidation of recognition memory”,
Neuropsychopharmacology, 33, pp. 394 - 405
97. McCarty R., Pacak K. (2000), Alarm phase and general adaptation
syndrome, Encyclopedia of stress, Volume I, pp. 126-130.
98. Michaud, K., Matheson, K., Kelly, O., Anisman, H. (2008), “Impact of
stressors in a natural context on release of cortisol in healthy adult
humans: A meta-analysis” , Stress, 11(3), pp. 177-197.
99. Mohammad Khaksari. et al. (2005), “Differences between male and
female students in cardiovascular and endocrine responses to examination
stress”, Journal of Ayub Medical College, 17(2), pp. 40 - 45.
100. Munataka M., Ichi S., Nunokawa T (2001), “Influence of night shift
work on psychologic state and cardiovascular and neuroendocrine
responses in healthy nurses”, Hypertens Res; 24(1), pp. 25-31.
101. Myrtek M., Weber D. et al. (1996), “Occupational stress and strain of
female students: results of physiological, behavioral, and psychological
monitoring”, Biol. Psychol., 42(3), pp. 379-391.
102. Neisser Ulric, Gwyneth Boodoo, Thomas J., Bouchard et al. (1995),
Intelligence: Knowns and Unknowns, Science Directorate.
103. Nicole Weekes, Richard Lewis (2006), “Examination stress as an
ecological inducer of cortisol and psychological responses to stress in
undergraduate students”, Informa healthcare, 9(4), pp. 199-206.
104. Niedermeyer E. and Fernando Lopes da Silva (1987).
Electroencephalography: Basic principles, clinical applications and
related fields. Urban & Schwarzenberg.
105. Pickering T.G. (2000), “Ambulatory blood pressure monitoring”, In
G.Fink (Ed), Encyclopedia of stress, 1, pp. 164-167.
106. Pramanik, Tapas, Gosh, Arijit (2005), “Effect of examination stress on
the alteration of blood pressure in young normotensives” Blood pressure
monitoring, 10 (3), pp. 149- 150.
107. Rab F., Mamdou R. (2008), “Rates of depression and anxiety among
female medical students in Pakistan”, East Medical Health J, 14 (1), pp.
126-133.
108. Ravi Tangri (2003), Stress Costs - Stress Cures, www.stress-cures.com.
109. Ray J.R. and Thompson P.M. (2004), “Neurobiology of intelligence:
science and ethics”, Nat. Rev. Neurosci., 5(6), pp. 471-82.
110. Redhwan A.A.Na. et al. (2009), “Stress and Coping Strategies among
Management and Science University Students: A Qualitative Study”, The
International Medical Journal, 8(2), pp.11-15.
111. Roemmich J.N. et al. (2011), “Stress-induced cardiovascular reactivity
and atherogenesis in adolescents”, Atherosclerosis, 215(2), pp. 465-470.
112. Roozendaal, McEwen, Chattarji (2009), “Stress, memory and the
amygdala”, Nat. Rew. Neurosci., 10 (6), pp. 423 - 433.
113. Sanae Fukudal, Kanehisa Morimoto (2001), “Lifestyle, Stress and
Cortisol Response: Review I- Mental Stress”, Environmental Health and
Preventive Medicine, 6, pp. 9 -14.
114. S.A. Shamsdin, M. Anvar, D. Mehrabani (2009), ”The Effect of Exam
Stress on Serum IL-6, Cortisol, CRP and IgE levels”, Iranian Red
Crescent Medical Journal, 12 (4): 484 – 488.
115. Shah C., Trivedi RS. (2009), “ Coping of Stress by Medical Students”, J
Clin. Diag. Res., 19, pp. 401-523.
.“Effects of pre-learning stress on memory for neutral, positive and
116. Schwabe L., Bohringer A., Chatterjee M., Schachinger H. (2008),
negative words: Different roles of cortisol and autonomic arousal”,
Neurobiology of learning and memory, 90, pp. 44-53.
117. Schwabe L. et al. (2012), “Stress effects on memory: An update and
integration”, Neurosci. Biobehav. Rev., 36(7), pp. 1740- 1749.
118. Smith W.D., Chung Y.H., Berger R. (2000), “A virtual instrument
ergonomics workstation for measuring the mental workload of pilots”,
Stud. Health Techno Inform, 70, pp. 309-315.
119. Stowell (2003), “Use and Abuse of Academic Examinations in Stress
Research”, Psychosomatic Medicine, 65, pp. 1055-1057.
120. The European Society of Cardiology and the North American Society
of Pacing and Electrophysiology (1996), “Heart rate variability - stands
of measurement, physiological interpretation and clinical use”,
Circulation 93, pp. 1043 - 1065.
121. Theorell T. (2000), “Encylopedia of Stress”, Psychosomatic Medicine, 3,
pp. 304 - 309, New York: Academic Press.
122. Tsaneva L., Dukov R. (2004), “Correlations between certain hearing changes
and vegetative balance in miners”, Cent. Eur. J. Public Health, 12, pp. 49-52.
123. Umriukhin E.A, Dzhebrailova T.D, Korobeĭnikova II., Ivanova L.V
(2005), “EEG correlates of individual differences in performance
efficiency of students during examination stress”, Vyssh. Nerv. Deiat. Im.
I. P. Pavlova, 5(2), pp.189-96.
124. Ursin H., Eriksen H.R. (2004), “The cognitive activation theory of
stress”, Psychoneuroendocrinology, 29, pp. 567-592.
125. Vrijkotte T.G, Van Doornen L.G. (2000), “Effects of work stress on
ambulatory blood pressure, heart rate, and heart rate variability”,
Hypertension, 35 (4), pp. 880-886.
126. Walker BR.(2007), “Glucocorticoids and cardiovascular disease”, Eur. J.
Endocrinol., 157, pp. 545- 559.
127. Wechsler D. (1939), "The measurement of adult intelligence", Baltimore:
William and Wilkins.
128. Wikipedia (2006), Intelligence quotient.
129. Zafar Iqban (2009), “Examination stress; Efects on thyroid hormones”,
Professional Med. J., 16 (4), pp.550-555.
130. Zeller A., Handschin D. et al. (2004), “Blood pressure and heart rate of
students undergoing a Medical licensing examination”, Blood pressure,
13, pp. 20-24.
131. Zhang Z., Su H., Peng Q. et al. (2011), “Exam anxiety induces
significant blood pressure and heart rate increase in college students”,
Clin. Exp. Hypertens, 33 (5), pp. 281-286.
Tiếng Nga
132. Баевский Р. М.
(1966), “Некоторые результаты применения математических методов оценки сердечного автоматизма для изучения суточной периодики в условиях изоляции и гиподинами”, Математические методы анализа сердечного ритма , Академия Наук СССР, Издательство “Наука”, Москва , стр. 92-98
133. Баевский Р. М. , Б.А. Пряхин (1984), Алгоритм и машинная
программа для врачебного контроля по ритму сердечных
сокращений , Издательство “Наука”, Москва, стр. 1- 25.
134. Жемайтите Д. И. (1982), “Статический анализ деятельности
синоаудикулярного узла в норме и паталогии ”, Математические
методы анализа сердечного ритма , Академия Наук СССР,
Издательство “Наука”, Москва, стр. 80 - 88.
135. Зациоский В. М. (1968) “ Исследование физических аритмий
сердца” , Математические методы анализа сердечного ритма ,
Академия Наук СССР,Издательство “Наука”, Москва, стр. 136-146.
136. Казин Е. М. (1991), Опыт использования автоматизированной
системы для оценки функции человеческого организма. Примечание
: Показатели контроля нерва у спортсменов различных видов спорта
и уровня физической работоспособности человеческого организма.
Журнал Физиологии СССР, 2, стр. 135-140.
137. Ковалева А.И. (1975), Влияние умственного труда математиков
научных работников на функциональное состояние сердечно-
сосудистой системы и высшую нервную деятельность ,
Автореферат диссертации на соискание учёной степени кандидата
медицинских наук, Киев.
138. Неверова Н. П. (1996), “Преобразование здоровья педагогических
студентов и преподавателей по математическому методу анализа
сердечного ритма и антропометрическим и физиологическим
показателям”, Журнал Физиологии СССР, 2, стр. 104-107.
139. Пушкина Н. Н. (1963), “Биохимические методы исследования”, стр.
254-257.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU .......................................................... 3
1.1. Một số chỉ số chức năng tim mạch ............................................................ 3
1.1.1. Tần số mạch và huyết áp ................................................................... 3
1.1.2. Chỉ số thống kê toán học nhịp tim và các nghiên cứu ...................... 7
1.1.3. Stress và nguy cơ các bệnh tim mạch ............................................. 11
1.2. Một số chỉ số chức năng tâm - thần kinh ................................................ 13
1.2.1. Hoạt động trí tuệ .............................................................................. 13
1.2.2. Trí nhớ ............................................................................................. 19
1.2.3. Khả năng chú ý ................................................................................ 26
1.2.4. Thời gian phản xạ thị giác - vận động, tốc độ xử lý thông tin ........ 27
1.2.5. Nghiên cứu về mối liên quan giữa điện não đồ và hoạt động trí tuệ .... 29
1.3. Trạng thái căng thẳng cảm xúc .............................................................. 30
1.3.1. Khái niệm cơ bản về trạng thái căng thẳng cảm xúc ...................... 30
1.3.2. Biểu hiện và cơ chế của trạng thái stress ........................................ 35
1.3.3. Vai trò của các yếu tố thần kinh và thể dịch chủ yếu tham gia
điều hòa trạng thái stress ............................................................... 37
1.3.4. Trạng thái căng thẳng cảm xúc ở lứa tuổi sinh viên ....................... 41
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........... 44
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................. 44
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 44
2.2.1. Phƣơng pháp chọn mẫu và cỡ mẫu ................................................. 45
2.2.2. Các chỉ số nghiên cứu, phƣơng tiện và cách xác định .................... 46
2.2.3. Thiết kế mô hình nghiên cứu .......................................................... 58
2.3. Xử lý số liệu ............................................................................................ 63
2.4. Thời gian nghiên cứu .............................................................................. 63
2.5. Đạo đức trong nghiên cứu ...................................................................... 63
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................... 64
3.1. Một số chỉ số tim - mạch của sinh viên đại học y Thái Bình .......................... 64 3.2. Một số chỉ số chức năng tâm - thần kinh của sinh viên Đại học y Thái Bình .... 65
3.2.1. Thời gian phản xạ thị giác - vận động và tốc độ xử lý thông tin .... 65
3.2.2. Năng lực trí tuệ theo test Raven ...................................................... 69
3.2.3. Khả năng tƣ duy của sinh viên ........................................................ 75
3.2.4. Khả năng chú ý của sinh viên ......................................................... 77
3.2.5. Trí nhớ ngắn hạn của sinh viên ....................................................... 80
3.2.6. Trạng thái căng thẳng cảm xúc ....................................................... 82
3.3. Một số chỉ số chức năng tim - mạch của sinh viên Đại học y Thái Bình
trong trạng thái tĩnh và sau buổi học .................................................... 84
3.4. Một số chỉ số chức năng tâm - thần kinh của sinh viên Đại học y Thái Bình
trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi ........................................................ 93
3.4.1. Điện não đồ của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi ..... 93
3.4.2. Khả năng nhớ, chú ý, tƣ duy trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi ..... 101
3.4.3. Thời gian phản xạ thị giác - vận động, tốc độ xử lý thông tin của
sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi ............................. 105
3.4.4. Tình trạng căng thẳng cảm xúc của sinh viên trong trạng thái tĩnh
và sau buổi thi .............................................................................. 106
3.5. Một số chỉ số nội tiết của sinh viên Đại học y Thái Bình trong trạng thái
tĩnh và sau buổi thi ............................................................................... 107
CHƢƠNG 4. BÀN LUẬN ............................................................................. 110
4.1. Một số chỉ số tim - mạch của sinh viên Đại học y Thái Bình ................ 110
4.2. Một số chỉ số chức năng tâm - thần kinh của sinh viên Đại học y Thái Bình .... 114
4.2.1. Thời gian thực hiện phản xạ thị giác-vận động và tốc độ xử lý thông tin .. 114
4.2.2. Năng lực trí tuệ theo test Raven .................................................... 115
4.2.3. Khả năng tƣ duy của sinh viên ...................................................... 119
4.2.4. Khả năng chú ý .............................................................................. 120
4.2.5. Trí nhớ ngắn hạn ........................................................................... 121
4.2.6. Trạng thái căng thẳng cảm xúc ....................................................... 122
4.3. Một số chỉ số chức năng tim - mạch, tâm - thần kinh và nội tiết của sinh
viên Đại học y Thái Bình trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi ............. 124
4.3.1. Một số chỉ số chức năng tim - mạch của sinh viên trong trạng thái
tĩnh và sau buổi thi ....................................................................... 124
4.3.2. Một số chỉ số tâm - thần kinh của sinh viên trong trạng thái tĩnh
và sau buổi thi .............................................................................. 134
4.3.3. Sự thay đổi nồng độ một số nội tiết tố của sinh viên trong trạng thái
tĩnh và sau buổi thi ....................................................................... 143
KẾT LUẬN .................................................................................................... 150
KIẾN NGHỊ ................................................................................................... 152
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
AHS
ANS CATS
Adrenomedullary hormonal system (Hệ thống hormon tủy thƣợng thận) Autonomic nervous system (Hệ thần kinh tự chủ) Cognitive activation theory of stress (Lý thuyết về hoạt động nhận thức của stress) Chỉ số căng thẳng Căng thẳng cảm xúc Epinephrine (Adrenalin) Electroencephalogram (Điện não đồ)
CSCT CTCX E EEG ĐHYTB Đại học Y Thái Bình GAS GC HA HAtth HAttr HPA
General adaptation syndrome (Hội chứng thích ứng chung) Giao cảm Huyết áp Huyết áp tâm thu Huyết áp tâm trƣơng Hypothalamic pituitary adrenocortical (Hệ thống dƣới đồi- tuyến yên- vỏ tuyến thƣợng thận) Intelligence quotient (Chỉ số thông minh) Khả năng lao động Khả năng thích nghi Norepinephrine (Noradrenalin)
Sympathetic adrenalmedullary (Hệ giao cảm tủy thƣợng thận) Sympathetic nervous system (Hệ thần kinh giao cảm) Sinh viên Thời gian phản xạ
IQ KNLĐ KNTN NE RLĐKNT Rối loạn điều khiển nhịp tim SAM SNS SV TGPX TKTHNT Thống kê toán học nhịp tim TKTV TST TT Thần kinh thực vật Tần số tim Trạng thái
DA
Bảng
DANH MỤC BẢNG Tên bảng
Trang
2.1. Tuổi trung bình của sinh viên nam và nữ các năm thuộc trƣờng
Đại học Y Thái Bình ................................................................................ 44
2.2. Bảng phân loại hệ số thông minh của Wechsler ...................................... 51
2.3. Bảng đánh giá khả năng chú ý ................................................................ 54
2.4. Bảng đánh giá khả năng tƣ duy ................................................................ 55
2.5. Bảng đánh giá trí nhớ ngắn hạn ............................................................... 55
2.6. Bảng đánh giá trạng thái căng thẳng cảm xúc theo Spielberger .............. 57
3.1. Một số chỉ số về tim - mạch của sinh viên ............................................... 64
3.2. Đặc điểm về trạng thái thần kinh thực vật của sinh viên, theo giới......... 65
3.3. Thời gian phản xạ thị giác - vận động (ms) của sinh viên từng khối, theo giới ... 66
3.4. Thời gian phản xạ thị giác - vận động và tốc độ xử lý thông tin trung
bình chung của sinh viên các khối, theo giới ........................................... 67
3.5. Tốc độ xử lý thông tin (bit/s) của sinh viên từng khối, theo giới .................... 67
3.6. Phân loại tốc độ xử lý thông tin chung của sinh viên, theo giới .............. 68
3.7. Chỉ số IQ theo các khối và giới của sinh viên ......................................... 69
3.8. Phân loại mức trí tuệ theo các khối và theo giới của sinh viên ............... 70
3.9. Phân loại mức trí tuệ tính theo chỉ số IQ và theo giới của sinh viên ....... 71
3.10. Điểm test Raven trung bình của 2 giới theo từng nhóm học lực ............. 73
3.11. Điểm test Raven trung bình của từng khối theo các nhóm học lực ......... 73
3.12. Phân bố đối tƣợng theo học lực và các mức trí tuệ của mỗi giới ............ 74
3.13. Số dãy số xác định đúng (qua test tìm số theo qui luật) của sinh viên
từng khối, theo giới .................................................................................. 75
3.14. Phân loại khả năng tƣ duy chung của sinh viên theo giới ....................... 76
3.15. Số lƣợng các chữ số ghi đƣợc của sinh viên từng khối, theo giới ........... 77
Bảng Tên bảng Trang
3.16. Phân loại khả năng chú ý chung của sinh viên, theo giới ........................ 79
3.17. Tƣơng quan giữa khả năng chú ý với thời gian phản xạ thị giác vận động
và khả năng chú ý với chỉ số IQ ............................................................... 79
3.18. Số lƣợng các chữ số nhớ đƣợc của sinh viên từng khối, theo giới .......... 80
3.19. Phân loại khả năng nhớ của sinh viên, theo giới ..................................... 81
3.20. Trạng thái căng thẳng cảm xúc ở thời điểm hiện tại của sinh viên, theo giới. ... 82
3.21. Trạng thái căng thẳng cảm xúc thƣờng xuyên của sinh viên, theo khối ...... 82
3.22. Trạng thái căng thẳng cảm xúc thƣờng xuyên của sinh viên, theo giới ........ 83
3.23. Mạch, huyết áp của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo giới ..... 84
3.24. Tỷ lệ (%) mạch, huyết áp của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau buổi
thi, theo giới ............................................................................................ 87
3.25. Phân tích các chỉ số thống kê toán học nhịp tim của sinh viên trên điện tâm đồ
100 nhịp trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo khối ................................... 88
3.26. Phân tích các chỉ số thống kê toán học nhịp tim của sinh viên trên điện tâm đồ
100 nhịp trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo giới ................................... 89
3.27. Đối tƣợng có căng thẳng chức năng tim- mạch ở mức cao theo chỉ số thống kê
toán học nhịp tim trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo khối ...................... 90
3.28. Đối tƣợng có căng thẳng chức năng tim mạch ở mức cao trong trạng thái
tĩnh và sau buổi thi, theo giới. .................................................................. 91
3.29. Đối tƣợng có căng thẳng chức năng thần kinh thực vật, theo khối ......... 92
3.30. Đối tƣợng có căng thẳng chức năng thần kinh thực vật, theo giới .......... 92
3.31. Tần số, biên độ, chỉ số sóng α trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo khối .... 93
3.32. Tần số, biên độ, chỉ số sóng α trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo giới ...... 96
3.33. Mức thay đổi tần số, biên độ, chỉ số sóng α trong trạng thái tĩnh và sau
buổi thi, theo giới ..................................................................................... 96
3.34. Tần số, biên độ, chỉ số sóng β trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo khối .... 97
Bảng Tên bảng Trang
3.35. Tần số, biên độ, chỉ số sóng β trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo giới .... 98
3.36. Mức thay đổi tần số biên độ, chỉ số %, sóng beta sau buổi thi so với
trạng thái tĩnh, theo giới ........................................................................... 98
3.37. Tần số, biên độ, chỉ số sóng teta trên điện não đồ của sinh viên trong
trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo khối .................................................. 99
3.38. Tần số, biên độ, chỉ số sóng teta trên điện não đồ của sinh viên trong
trạng thái tĩnh và sau buổi thi, theo giới ................................................ 100
3.39. Mức thay đổi tần số biên độ, chỉ số sóng teta sau thi so với trạng thái
tĩnh, theo giới ......................................................................................... 100
3.40. Số chữ số nhớ đƣợc trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi của sinh viên,
theo khối ................................................................................................. 101
3.41. Số chữ số nhớ đƣợc trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi của sinh viên,
theo giới.................................................................................................. 101
3.42. Khả năng nhìn nhớ của sinh viên (qua trắc nghiệm nhìn nhớ chữ số)
trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi ....................................................... 102
3.43. Số lƣợng các chữ số ghi đƣợc trong trạng thái tĩnh và sau thi của sinh
viên, theo khối ........................................................................................ 102
3.44. Số lƣợng các chữ số ghi đƣợc trong trạng thái tĩnh và sau thi của sinh
viên theo giới .......................................................................................... 103
3.45. Khả năng chú ý của sinh viên (qua trắc nghiệm sắp xếp các chữ số lộn xộn)
trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi ....................................................... 103
3.46. Số dãy số xác định đúng của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau thi,
theo khối ................................................................................................. 104
3.47. Số dãy số xác định đúng của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau thi,
theo giới.................................................................................................. 104
Bảng Tên bảng Trang
3.48. Khả năng tƣ duy của sinh viên (qua trắc nghiệm tìm số theo qui luật)
trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi ....................................................... 105
3.49. Thời gian phản xạ thị giác -vận động trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi
của sinh viên, theo giới .......................................................................... 105
3.50. Tốc độ xử lý thông tin (bit/s) của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau
buổi thi, theo giới ................................................................................... 106
3.51. Mức độ căng thẳng cảm xúc ở thời điểm hiện tại của sinh viên trong trạng
thái tĩnh và sau buổi thi (theo thang điểm Spielberger). ........................... 106
3.52. Nồng độ cortisol huyết thanh (nmol/l) của sinh viên trong trạng thái tĩnh
và sau buổi thi, theo giới ........................................................................ 107
3.53. Nồng độ catecholamin máu (µmol/l) của sinh viên trong trạng thái tĩnh
và sau buổi thi, theo giới ........................................................................ 108
4.1. So sánh sự biến đổi sóng alpha của các đối tƣợng nghiên cứu qua các
công trình của các tác giả khác nhau ..................................................... 136
DANH MỤC HÌNH Tên hình
Hình Trang
1.1. Các vùng trong hippocamp (CA1, CA2, CA3) có liên quan đến trí nhớ ...... 21 1.2. Tác động ngƣợc của stress về học tập và trí nhớ ................................... 24 1.3. Glucocorticoid tƣơng tác với hệ thống noradrenergic gây ảnh hƣởng
đến quá trình ghi nhớ ............................................................................. 26 1.4. Sơ đồ về cơ chế thần kinh- nội tiết điều hòa trạng thái stresss ............. 36 2.1. Bảng sắp xếp 25 chữ số lộn xộn ............................................................ 54 2.2. Sơ đồ thời gian cứu trên sinh viên sau buổi thi ..................................... 60 2.3. Mô hình nội dung nghiên cứu ................................................................ 62 3.1. Biểu đồ trạng thái thần kinh thực vật của sinh viên ............................. 64 3.2. Tốc độ xử lý thông tin chung của sinh viên, theo khối ......................... 68 3.3. Chỉ số IQ của sinh viên đƣợc nghiên cứu, theo khối............................. 69 3.4. Phân loại mức trí tuệ tính theo chỉ số IQ và theo giới của sinh viên..... 72 3.5. Đồ thị tƣơng quan giữa chỉ số IQ và điểm học tập trung bình .............. 74 3.6. Biểu đồ số dãy số xác định đúng của sinh viên từng khối .................... 76 3.7. Biểu đồ phân loại khả năng tƣ duy chung của sinh viên ...................... 77 3.8. Biểu đồ số lƣợng các chữ số ghi đƣợc của sinh viên từng khối ............ 78 3.9. Biểu đồ phân loại khả năng chú ý chung của sinh viên, theo giới ....... 79 3.10. Biểu đồ số lƣợng các chữ số nhớ đƣợc của sinh viên từng khối ........... 80 3.11. Biểu đồ phân loại khả năng nhớ chung của sinh viên, theo giới ........... 81 3.12. Trạng thái căng thẳng cảm xúc thƣờng xuyên của sinh viên ................ 83 3.13A. Điện tâm đồ 100 nhịp của sinh viên Nguyễn Ngọc A., ở trạng thái tĩnh .... 85 3.13B. Điện tâm đồ 100 nhịp của sinh viên Nguyễn Ngọc A., sau buổi thi ........... 86 3.14A. Hình ảnh điện não đồ của sinh viên Vũ Đình T., ở trạng thái tĩnh ........ 94 3.14B. Hình ảnh điện não đồ của sinh viên Vũ Đình T., sau buổi thi ............... 95 3.15. Biểu đồ nồng độ cortisol huyết thanh của sinh viên trong trạng thái
tĩnh và sau buổi thi ............................................................................... 108 3.16. Biểu đồ nồng độ catecholamin máu của sinh viên trong trạng thái tĩnh và sau buổi thi ...................................................................................... 109