
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngô (
Zea mays
L.) là một trong ba cây cốc quan trọng nhất cung cấp
lương thực cho loài người và thức ăn cho gia súc. Bên cạnh đó ngô còn là cây
thực phẩm cung cấp bắp ngô bao tử làm rau cao cấp, bắp nếp, bắp đường cho
ăn tươi, làm sữa ngô, các loại đồ uống và đồ hộp. Ngoài ra ngô còn cung cấp
nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất các mặt hàng của ngành lương thực,
thực phẩm, dược phẩm và công nghiệp nhẹ, đặc biệt là nguyên liệu lý tưởng
cho năng lượng sinh học. Ngô còn là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị,
mang lại ngoại tệ cho nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.
Cây ngô được đưa vào nước ta cách đây khoảng 300 năm (Ngô Hữu Tình,
2009) và trong số các cây lương thực, ngô được xếp hàng quan trọng thứ hai
sau cây lúa. Tuy nhiên, năng suất ngô của nước ta vẫn thấp hơn năng suất
trung bình của thế giới, ví dụ như: Năm 2013 đạt trung bình 4,43 tấn/ha so với
5,52 tấn/ha trung bình của thế giới, bằng 80,25% (Tổng cục Thống kê, 2014);
Năm 2018 đạt trung bình 4,72 tấn/ha so với 5,92 tấn/ha, bằng 79,7% (Tổng
cục Thống kê, 2019; FAO, 2018). Về sản lượng ngô trong nước, tuy tốc độ
tăng khá nhanh nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ do nhu cầu tiêu dùng tăng cao, ví
dụ niên vụ 2016/2017 nhu cầu về ngô ở nước ta là 12,9 triệu tấn, chúng ta đã
phải nhập khẩu 8,5 triệu tấn; niên vụ 2019/2020, nhu cầu là 15,4 triệu tấn,
chúng ta đã phải nhập khẩu 11,5 triệu tấn (USDA, 2020). Từ đó cho thấy việc
tăng sản lượng ngô trồng trong nước để đáp ứng nội tiêu, hạn chế nhập khẩu là
một thách thức của ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, về diện tích, các vùng trồng
ngô có diện tích và sản lượng ngô lớn hiện nay đang bị thu hẹp do một số loại
cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn đã thay thế một phần diện tích ngô
(điển hình như ở Sơn La). Muốn vậy, ngoài việc tận dụng triệt để vùng đất có
thể trồng ngô cần áp dụng cơ giới hóa hiện đại, đồng bộ, cơ cấu lại mùa vụ, áp
dụng tiến bộ kỹ thuật, chọn tạo giống để có những bộ giống mới phù hợp với
từng mùa vụ, vùng sinh thái để có năng suất cao, sản lượng ngô lớn.
Vụ Đông sau hai vụ lúa ở đồng bằng sông Hồng là một vụ rất đặc thù. Sau
khi kết thúc vụ lúa Mùa, một phần diện tích chân lúa này được sử dụng để
trồng cây rau màu, phần lớn diện tích còn lại thường để trống. Đây là cơ hội để
tăng diện tích trồng ngô, tăng sản lượng ngô trên đất hai lúa tại các tỉnh phía
Bắc; đặc biệt hiện nay Bộ Nông nghiệp và PTNT đang có chủ trương phát
triển trồng ngô sinh khối làm thức ăn xanh cho chăn nuôi trong vụ Đông ở các
tỉnh phía Bắc. Tuy nhiên trong quá trình sản xuất ở vụ Đông, nền nhiệt độ
giảm dần vào những tháng cuối năm, có những năm các đợt lạnh dưới 15
o
C
kéo dài tới vài tuần làm ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất cây trồng nói chung và
cây ngô nói riêng. Do vậy, để có thể phát triển mạnh vụ ngô Đông cần cơ giới
hóa từ khâu trồng, chăm sóc, thu hoạch đến phơi sấy, bảo quản và yếu tố quan
trọng nhất là phải có các giống ngô mới chống chịu rét tốt, cho năng suất cao.
Để khai thác hết tiềm năng đất vụ Đông góp phần nâng cao năng suất và
tăng sản lượng ngô của vùng đồng bằng sông Hồng, đáp ứng nhu cầu ngô cho
thức ăn chăn nuôi, đặc biệt ngô sinh khối làm thức ăn xanh cho đại gia súc
trong mùa đông lạnh ở miền Bắc, giải quyết vấn đề về bố trí cơ cấu cây trồng