BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
VIỆN KHOA HỌC THUỶ LỢI VIỆT NAM
VIỆN KHOA HỌC THỦY LỢI MIỀN NAM
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO
NGHIÊN CỨU CƠ CHẾ THỦY ĐỘNG LỰC
VÀ VẬN CHUYỂN BÙN CÁT KHU VỰC BỜ BIỂN
TỈNH TRÀ VINH, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHỈNH TRỊ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
VIỆN KHOA HỌC THUỶ LỢI VIỆT NAM
VIỆN KHOA HỌC THỦY LỢI MIỀN NAM
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO
NGHIÊN CỨU CƠ CHẾ THỦY ĐỘNG LỰC
VÀ VẬN CHUYỂN BÙN CÁT KHU VỰC BỜ BIỂN
TỈNH TRÀ VINH, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHỈNH TRỊ
Chuyên ngành: Kỹ thuật Xây dựng công trình thủy
Mã số chuyên ngành: 958 02 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. HOÀNG VĂN HUÂN 2. PGS.TS. LƯƠNG VĂN THANH
TP. HCM – Năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố
trong bất kỳ công trình khoa học nào.
Tp. HCM, ngày 17 tháng 7 năm 2019
Tác giả luận án
i
Nguyễn Thị Phương Thảo
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Viện Kỹ Thuật Biển, Trường Đại Học Tài
nguyên và Môi trường Tp. HCM, Khoa Tài nguyên nước đã hỗ trợ, tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến sự hướng dẫn, giúp đỡ của thầy
PGS.TS. Hoàng Văn Huân và PGS.TS. Lương Văn Thanh. Các thầy đã tận tình
hướng dẫn, truyền đạt cho tôi những kiến thức quí báu cùng với những lời động
viên, khích lệ và những giúp đỡ cụ thể trong suốt quá trình nghiên cứu và thực
hiện luận án này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS. Nguyễn Hữu Nhân, ThS.
NCS. Phan Mạnh Hùng, ThS. Lê Thị Vân Linh, những người đã có những sự
giúp đỡ rất thiết thực đối với tôi trong quá trình định hướng cho luận án và làm
quen với bộ công cụ mô hình toán thực hiện trong luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến GS.TSKH. Nguyễn Ân Niên, GS. Lê Mạnh
Hùng, GS. Lương Phương Hậu, GS. Tăng Đức Thắng, GS. Thiều Quang Tuấn,
PGS.TS. Huỳnh Thanh Sơn, PGS.TS. Nguyễn Nghĩa Hùng và các thầy ở cơ sở
đào tạo đã có những góp ý một cách rất chi tiết, cụ thể để tôi hoàn thiện dần luận
án này.
Con xin ghi nhớ công ơn của Bố Mẹ đã sinh thành, nuôi dưỡng và dạy dỗ
con trưởng thành như ngày hôm nay. Bố Mẹ luôn là chỗ dựa tinh thần vững chắc
cho con trước những vấn đề khó khăn trong cuộc sống.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến chồng tôi, Ngô Huy
Biên. Anh đã động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án đồng thời quan
tâm, chăm sóc, lo lắng công việc gia đình để tôi có đủ thời gian vừa hoàn thành
công việc cơ quan, vừa thực hiện công việc nghiên cứu cho luận án này.
Tôi đã nỗ lực hết sức để hoàn thành tốt luận án của mình nhưng chắc
chắn sẽ còn những điều sai sót, kính mong quý thầy cô và bạn đọc đóng góp ý
kiến để tôi có thể tiếp tục hoàn thiện luận án.
ii
Nguyễn Thị Phương Thảo
MỤC LỤC
0.1. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN ............................................................. 1
0.1.1. Yêu cầu về phòng chống sạt lở ........................................................................ 1
0.1.2. Yêu cầu về bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn .............................................. 5
0.1.3. Yêu cầu bảo vệ môi trường ven biển ............................................................... 6
0.1.4. Yêu cầu về công trình chỉnh trị và bảo vệ ổn định bờ biển ............................. 6
0.2. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN .............................................................. 7
0.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN ....................................................... 8
0.4. CẤU TRÚC VÀ NỘI DUNG LUẬN ÁN .............................................................. 8
0.5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN ....................................................... 8
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI VỀ XÓI LỞ BỜ BIỂN ................................................................................................................................. 9
1.1.1. Nguyên nhân và cơ chế xói lở/bồi lắng của bờ biển bùn có rừng ngập mặn ... 9
1.1.2. Các công trình bảo vệ bờ biển ....................................................................... 20
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU XÓI LỞ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VIỆT NAM .......................................................................................................... 24
1.2.1. Một số nghiên cứu của tác giả nước ngoài .................................................... 24
1.2.2. Các công trình nghiên cứu kết hợp của tác giả nước ngoài và trong nước .... 24
1.2.3. Các công trình nghiên cứu của tác giả trong nước ........................................ 28
1.3. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU XÓI LỞ BỜ BIỂN TRÀ VINH ................ 33
1.3.1. Kết quả nghiên cứu của tác giả nước ngoài ................................................... 33
1.3.2. Kết quả nghiên cứu trong nước ...................................................................... 34
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU DIỄN BIẾN BỜ BIỂN ................................... 35
1.5. NHẬN XÉT CHUNG ........................................................................................... 38
1.5.1. Những thành tựu đã đạt được......................................................................... 38
1.5.2. Những vấn đề tồn tại ...................................................................................... 39
1.6. ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN ................................................ 41
1.6.1. Vấn đề nghiên cứu ......................................................................................... 41
1.6.2.
Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 41
iii
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ XÓI MÒN BỜ BIỂN VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ .................................................................... 9
1.7. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 42
2.1. PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN MÔ HÌNH TÍNH TOÁN .................................... 43
2.1.1. Giới thiệu phương pháp mô hình toán ........................................................... 43
2.1.2. Lựa chọn phần mềm....................................................................................... 43
2.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA MÔ HÌNH TÍNH TOÁN ......................................... 45
2.2.1. Mô phỏng dòng chảy vùng nước nông ......................................................... 45
2.2.2. Tính toán sóng ............................................................................................... 47
2.2.3. Mô phỏng quá trình vận chuyển bùn cát và biến hình lòng dẫn .................... 49
2.2.4.
Phương pháp xây dựng bản đồ ...................................................................... 52
2.3. XÂY DỰNG MÔ HÌNH TÍNH TOÁN ................................................................ 53
2.4. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 66
CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .... 43
3.1. NGHIÊN CỨU CƠ CHẾ THỦY ĐỘNG LỰC VÀ VẬN CHUYỂN BÙN CÁT VEN BỜ ........................................................................................................................... 68
3.1.1. Yếu tố tác động từ sông Mê Công ................................................................. 68
3.1.2. Yếu tố triều biển Đông ................................................................................... 74
3.1.3. Yếu tố dòng chảy ........................................................................................... 76
3.1.4. Yếu tố sóng biển ............................................................................................ 88
3.1.5. Chế độ vận chuyển bùn cát và trữ lượng ....................................................... 94
3.1.6. Cơ chế thủy động lực và vận chuyển bùn cát .............................................. 105
3.1.7.
Sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn cát vùng bờ biển Trà Vinh ........... 107
3.2. NGHIÊN CỨU HÌNH THÁI BỜ BIỂN TRÀ VINH ......................................... 111
3.2.1. Đặc trưng hình thái bờ biển Trà Vinh .......................................................... 111
3.2.2. Kết quả mô phỏng chế độ bồi xói vùng bờ biển Trà Vinh cho các kịch bản114
3.2.3. Xây dựng quan hệ đường giữa chiều dày bồi lắng theo thời gian tại một số khu vực đặc trưng bờ biển Trà Vinh .......................................................................... 118
3.3. NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHỈNH TRỊ ..... 123
3.3.1. Các quá trình xói lở ...................................................................................... 123
3.3.2. Đề xuất giải pháp chỉnh trị ........................................................................... 130
3.4. GIẢI PHÁP CHỈNH TRỊ BẢO VỆ BỜ BIỂN TRÀ VINH KHU VỰC HIỆP THẠNH .......................................................................................................................... 134
iv
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ CHẾ ĐỘ THỦY THẠCH ĐỘNG LỰC PHỤC VỤ CHỈNH TRỊ BỜ BIỂN TRÀ VINH ............................. 68
3.4.1. Giới thiện khu vực bờ biển xã Hiệp Thạnh ................................................. 134
3.4.2. Lựa chọn phương án bố trí tổng thể công trình ........................................... 135
3.4.3.
Phân tích hiệu quả của hệ thống công trình chỉnh trị ................................... 138
3.4.4. Nhận xét chung ............................................................................................ 143
3.5. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 144
4.1. KẾT LUẬN ......................................................................................................... 146
4.2. KIẾN NGHỊ ........................................................................................................ 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ ...................................................... 150
PHỤ LỤC 1: KẾT QUẢ HIỆU CHỈNH – KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH ............................ 157
PHỤ LỤC 2: ĐỊA HÌNH KHU VỰC BỜ BIỂN TRÀ VINH ...................................... - 1 -
PHỤ LỤC 3: TÀI LIỆU CHỨNG MINH BÙN CÁT BỊ GIỮ LẠI Ở THƯỢNG NGUỒN DO XÂY DỰNG ĐẬP THỦY ĐIỆN TRÊN SÔNG MÊ CÔNG ................. - 1 -
v
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................................. 146
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
vi
- BBTV: Bờ biển Trà Vinh - BĐKH: Biến đổi khí hậu - BTCT: Bê tông cốt thép - CSDL: Cơ sở dữ liệu - DEM: Digital Elevation Model - ĐB: đông bắc - ĐH: Đại học - ĐHXD: Đại học xây dựng - ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long - GIS: Geographical Information System (Hệ thống thông tin địa lý) - GMĐB: Gió mùa đông bắc - GMTN: Gió mùa tây nam - KTTV: Khí tượng thủy văn - KTXH: Kinh tế xã hội - NBD: Nước biển dâng - NCKH: Nghiên cứu khoa học - NN&PTNT: Nông nghiệp và phát triển nông thôn - NCS: Nghiên cứu sinh - TN: Tây nam - TNMT: Tài nguyên môi trường - tp. HCM: Thành phố Hồ Chí Minh - TT.: Thị trấn - TVXD: Tư vấn xây dựng - VNC: Vùng nghiên cứu - XD: Xây dựng
Bảng 0. 1: Hiện trạng xói bồi bờ biển tỉnh Trà Vinh mùa gió Đông Bắc ............................. 2
Bảng 0. 2: Hiện trạng xói bồi bờ biển tỉnh Trà Vinh mùa gió Tây Nam ............................... 3
Bảng 2. 1: Phân tích lựa chọn phần mềm ............................................................................ 44
Bảng 2. 2: Phân loại bùn cát mịn ......................................................................................... 49
Bảng 2. 3: Các thông số thiết lập trong mô hình Mike 21/3 FM ......................................... 60
Bảng 2. 4: Kịch bản nước biển dâng xét cho toàn khu vực biển Đông ............................... 64
Bảng 3. 1: Tọa độ của các mặt cắt cửa sông Mê Công ........................................................ 68
Bảng 3. 2: Lưu lượng dòng chảy lớn nhất tại các cửa sông Mê Công (năm 2011) ............. 69
Bảng 3. 3: Bảng so sánh lưu lượng dòng chảy lớn nhất tại cửa Định An và tổng Cung
Hầu – Cổ Chiên (năm 2011) ............................................................................... 71
Bảng 3. 4: Lưu lượng bùn cát lớn nhất tại các cửa sông Mê Công (năm 2011) .................. 72
Bảng 3. 5: Bảng so sánh lưu lượng bùn cát lớn nhất tại cửa Định An và tổng Cung Hầu
– Cổ Chiên (năm 2011) ....................................................................................... 73
Bảng 3. 6: Phân bố gió mùa hàng năm ở biển Đông ........................................................... 77
Bảng 3. 7: Tọa độ các điểm trích xuất giá trị vận tốc dòng chảy ........................................ 81
Bảng 3. 8: Tổng hợp các hoa sóng tại khu vực ven biển Trà Vinh...................................... 92
Bảng 3. 9: Tọa độ các mặt cắt trích xuất kết quả chuyển tải lưu lượng bùn cát .................. 95
Bảng 3. 10: Tổng lượng vận chuyển bùn cát qua mặt cắt MC1 trong 1 ngày ..................... 98
Bảng 3. 11: Kết quả tính toán thông lượng bùn cát dọc bờ qua các mặt cắt ....................... 99
Bảng 3. 12: Tọa độ các mặt cắt của ô tính cân bằng bùn cát khu vực hiệp Thạnh ............ 102
Bảng 3. 13: Phân tích trữ lượng bùn cát khu vực Hiệp Thạnh .......................................... 103
Bảng 3. 14: Phân tích trữ lượng bùn cát khu vực Trường Long Hòa – Đông Hải ............ 103
Bảng 3. 15: Tọa độ các mặt cắt của ô tính cân bằng bùn cát khu vực Trường Long Hòa –
Đông Hải ........................................................................................................... 104
Bảng 3. 16: Tọa độ các điểm trích xuất giá trị thay đổi bề dày lớp bồi tụ ......................... 118
Bảng 3. 17: Giá trị bề dày lớp bồi tụ tại các điểm Sx, Sb, So tương ứng với các kịch bản119
Bảng 3. 18: Mức độ thay đổi bề dày lớp bồi tụ so với kịch bản hiện trạng (%) ................ 121
Bảng 3. 19: Đặc điểm và nguyên nhân xói lở tại các khu vực trọng điểm ........................ 131
Bảng 3. 20: Các thông số thiết kế công trình gây bồi tạo bãi ............................................ 137
Bảng 3. 21: Các kịch bản bố trí công trình chỉnh trị .......................................................... 137
vii
DANH MỤC BẢNG
Hình 0. 1: Thực trạng xói bồi bờ biển Trà Vinh mùa gió Đông Bắc ..................................... 2
Hình 0. 2: Thực trạng xói bồi bờ biển Trà Vinh mùa gió Tây Nam ...................................... 3
Hình 0. 3: Diễn biến BBTV từ 1989 - 2012 qua phân tích ảnh viễn thám ........................... 5
Hình 0. 4: Kè Hiệp Thạnh (trái) và khu vực xói lở phía trước và sau kè (phải) .................... 6
Hình 1. 1: Sơ đồ dòng mặt của dòng ngoài bờ và hệ thống dòng ven bờ (chiều dài mũi
tên biểu thị thị trị số lưu tốc tương đối) .............................................................. 13
Hình 1. 2: Vận chuyển bùn cát dọc bờ ................................................................................ 16
Hình 1. 3: Sự thay đổi mặt cắt bờ biển do một sự kiện bão ................................................ 16
Hình 1. 4: Bùn (trái) và cát (phải) ....................................................................................... 17
Hình 1. 5: Quá trình vận chuyển bùn cát ............................................................................ 18
Hình 1. 6: Sơ đồ nguyên nhân của xói lở, bồi tụ bờ biển .................................................... 19
Hình 1. 7: Các dạng tích tụ bùn cát phát triển sau khi xây dựng đê chắn sóng .................. 21
Hình 1. 8: Quy trình tính toán khoảng cách giữa các mỏ hàn ............................................. 22
Hình 1. 9: Tuổi các giồng phân tích bằng phương pháp nhiệt huỳnh quang thạch anh từ
Vàm Láng (Tiền Giang) đến Duyên Hải (Trà Vinh) .......................................... 25
Hình 1. 10: Quá trình hình thành và phát triển của các tỉnh giữa sông Tiền và sông Hậu
từ 3500 năm trước hiện tại .................................................................................. 26
Hình 1. 11: Xu thế tích tụ trầm tích và vận chuyển trầm tích .............................................. 26
Hình 1. 12: Lưới tính vùng nghiên cứu của dự án JICA...................................................... 27
Hình 1. 13: Mặt cắt địa chất ven biển Trà Vinh .................................................................. 29
Hình 1. 14: Lưới tính của mô hình trong nghiên cứu của Vũ Duy Vĩnh ............................ 30
Hình 1. 15: Phân bố trầm tích lơ lửng (kg/m3) tầng mặt vùng ven bờ Châu thổ sông Mê
Công .................................................................................................................... 31
Hình 1. 16: Biến động địa hình (cm) khu vực cửa Trần Đề và Cung Hầu sau 1 tháng ...... 32
Hình 1. 17: Các quy luật diễn biến địa hình đáy phổ biến tại vùng bồi tụ ven biển Cà
Mau ...................................................................................................................... 33
Hình 1. 18: Bản đồ vị trí vùng nghiên cứu (được khoanh tròn) .......................................... 42
Hình 2. 1: Các bước thực hiện trong nghiên cứu bài toán diễn biến bờ biển bằng mô
hình toán .............................................................................................................. 43
Hình 2. 2: Vị trí các điểm tính trên lưới so le trong hệ tọa độ x,y ...................................... 47
Hình 2. 3: Qui trình xây dựng sơ đồ thủy động lực bằng phương pháp GIS ....................... 53
Hình 2. 4: Phạm vi địa hình đo đạc trên cạn và dưới nước thu thập cho VNC ................... 54
Hình 2. 5: Vị trí các trạm đo năm 2011 và năm 2014. ......................................................... 55
Hình 2. 6: Vị trí các điểm lấy mẫu bùn cát lơ lửng, bùn cát đáy năm 2011 ........................ 56
Hình 2. 7: Vị trí các điểm lấy mẫu bùn cát lơ lửng, bùn cát đáy năm 2014 ........................ 56
viii
DANH MỤC HÌNH
Hình 2. 8: Lưới tính, địa hình đáy biển và ba đoạn biên mở của miền tính ....................... 58
Hình 2. 9: Mô phỏng các công trình bảo vệ bờ và kênh chính trên lưới tính ..................... 59
Hình 2. 10: Các module sử dụng trong mô hình Mike 21/3 FM ......................................... 60
Hình 2. 11: Quá trình bồi/xói đáy trong mô hình “đa lớp bồi tụ” ........................................ 62
Hình 2. 12: Thay đổi nồng độ bùn cát lơ lửng trung bình tháng tại các trạm Cần Thơ và Mỹ Thuận trước và sau khi đập Manwan đi vào vận hành năm 1993. Đường nằm ngang biểu thị nồng độ bùn cát lơ lửng trung bình ..................................... 65
Hình 2. 13: Sơ đồ các bước thực hiện nội dung nghiên cứu ................................................ 67
Hình 3. 1: Vị trí trích xuất kết quả lưu lượng dòng chảy và lưu lượng bùn cát ................... 69
Hình 3. 2: Lưu lượng dòng chảy lớn nhất tại các cửa sông Mê Công trong 12 tháng ......... 70
Hình 3. 3: Biểu đồ so sánh lưu lượng dòng chảy lớn nhất tại cửa Định An và tổng Cung
Hầu – Cổ Chiên. .................................................................................................. 71
Hình 3. 4: Lưu lượng bùn cát lớn nhất tại các cửa sông Mê Công trong năm 2011 ............ 72
Hình 3. 5: Biểu đồ so sánh lưu lượng bùn cát lớn nhất tại cửa Định An và tổng Cung
Hầu – Cổ Chiên ................................................................................................... 73
Hình 3. 6: Dao động mực nước tại điểm T6 ven biển Trà Vinh năm 2011 ......................... 74
Hình 3. 7: Dao động mực nước tại điểm T6 tháng 4/2011 .................................................. 74
Hình 3. 8: Dao động mực nước tại điểm T6 tháng 9/2011 .................................................. 75
Hình 3. 9: Kết quả tính toán dòng triều của 4 sóng chính tại điểm T6 tháng 4/2011 .......... 76
Hình 3. 10: Kết quả tính toán dòng triều của 4 sóng chính tại điểm T6 tháng 9/2011 ........ 76
Hình 3. 11: Trường dòng chảy và cao độ mặt nước vào GMĐB khi triều dâng ................. 78
Hình 3. 12: Trường dòng chảy và cao độ mặt nước vào GMĐB khi triều rút ..................... 78
Hình 3. 13: Trường dòng chảy và cao độ mặt nước vào GMTN khi triều dâng .................. 79
Hình 3. 14: Trường dòng chảy và cao độ mặt nước vào GMTN khi triều rút ..................... 79
Hình 3. 15: Vị trí các điểm trích xuất kết quả vận tốc dòng chảy vùng nghiên cứu............ 80
Hình 3. 16: Biểu đồ so sánh giá trị dòng chảy lớn nhất tại các vị trí ................................... 81
Hình 3. 17: Trường dòng chảy vào cuối mùa gió tây nam khi triều bắt đầu dâng .............. 83
Hình 3. 18: Trường dòng chảy vào đầu mùa gió tây nam khi triều bắt đầu dâng................ 83
Hình 3. 19: Trường dòng chảy biển Đông vào đầu mùa gió tây nam khi triều dâng .......... 84
Hình 3. 20: Trường dòng chảy biển Đông vào cuối mùa gió tây nam khi triều dâng ......... 84
Hình 3. 21: Sự tương tác, tổ hợp giữa các loại dòng chảy tại điểm T6 ............................... 85
Hình 3. 22: Vận tốc dòng ven (dòng dư) tại các vị trí ......................................................... 86
Hình 3. 23: Dòng dư gió mùa đông bắc ............................................................................... 87
Hình 3. 24: Trường vận tốc tức thời do dòng triều đơn thuần trong pha triều lên .............. 88
Hình 3. 25: Trường sóng và chiều cao sóng vào thời điểm gió mùa đông bắc.................... 89
Hình 3. 26: Chiều cao sóng vào thời điểm gió mùa tây nam ............................................... 89
ix
Hình 3. 27: Biểu đồ so sánh giá trị chiều cao sóng trung bình tại các vị trí ........................ 90
Hình 3. 28: Cao độ địa hình khu vực ven biển TV và vị trí trích xuất hoa sóng ................. 92
Hình 3. 29: Vị trí các mặt cắt và hướng vận chuyển bùn cát tương ứng với giá trị trích
xuất từ mô hình.................................................................................................... 95
Hình 3. 30: Lưu lượng bùn cát lơ lửng tại mặt cắt MC 1 .................................................... 95
Hình 3. 31: Lưu lượng bùn cát lơ lửng tại mặt cắt MC 3 .................................................... 96
Hình 3. 32: Lưu lượng bùn cát lơ lửng tại mặt cắt MC 2 .................................................... 97
Hình 3. 33: Hướng vận chuyển bùn cát dọc bờ trong mùa gió đông bắc ............................ 99
Hình 3. 34: Hướng vận chuyển bùn cát dọc bờ trong mùa gió tây nam ............................ 100
Hình 3. 35: Thông lượng bùn cát dọc bờ hàng năm qua các mặt cắt ................................ 100
Hình 3. 36: Phạm vi các ô tính cân bằng bùn cát khu vực Hiệp Thạnh ............................. 102
Hình 3. 37: Phạm vi các ô tính cân bằng bùn cát khu vực Trường Long Hòa – Đông Hải104
Hình 3. 38: Phân bố hạt trầm tích D50 thiết lập trong phần mềm Arcgis ......................... 107
Hình 3. 39: Trường dòng chảy khi triều dâng và rút thiết lập trong Arcgis ...................... 108
Hình 3. 40: Sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn cát vùng ven biển Trà Vinh trong
MGĐB ............................................................................................................... 109
Hình 3. 41: Sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn cát vùng ven biển Trà Vinh trong
MGTN ............................................................................................................... 110
Hình 3. 42: Mặt cắt ngang đới bờ biển ............................................................................. 111
Hình 3. 43: Sơ họa mặt cắt ngang đới bờ biển Trà Vinh ................................................... 112
Hình 3. 44: Bản đồ đồng bằng sông Cửu Long ................................................................. 113
Hình 3. 45: Diễn biến bồi xói bờ biển Trà Vinh sau 1 năm – kịch bản hiện trạng và vị trí
các điểm trích xuất kết quả ................................................................................ 116
Hình 3. 46: Diễn biến bồi xói bờ biển Trà Vinh sau 1 năm – Các kịch bản ...................... 117
Hình 3. 47: Sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ điểm Sx với kịch bản hiện trạng, NBD 13 – 23
cm ...................................................................................................................... 118
Hình 3. 48: Sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ điểm Sx với kịch bản hiện trạng, bùn cát giảm
20 – 30% ............................................................................................................ 118
Hình 3. 49: Sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ điểm Sb với kịch bản hiện trạng, NBD 13 – 23
cm ...................................................................................................................... 120
Hình 3. 50: Sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ điểm Sb với kịch bản hiện trạng, bùn cát giảm
20 – 30% ............................................................................................................ 120
Hình 3. 51: Sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ điểm So với kịch bản hiện trạng, NBD 13 – 23
cm ...................................................................................................................... 120
Hình 3. 52: Sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ điểm So với kịch bản hiện trạng, bùn cát giảm
20 – 30% ............................................................................................................ 121
Hình 3. 53: Hoa sóng vào mùa gió đông bắc tại các vị trí trích xuất ................................. 126
x
Hình 3. 54: Vị trí các khu vực sạt lở trọng điểm và định hướng bố trí công trình chỉnh trị132
Hình 3. 55: Ví dụ về dạng công trình hàng rào cừ tràm ở Cà Mau ................................... 133
Hình 3. 56: Hình ảnh rừng ngập mặn (trái) và rừng phòng hộ phi lao (phải) tại khu vực
ven biển Trà Vinh .............................................................................................. 134
Hình 3. 57: Vị trí bờ biển xã Hiệp Thạnh .......................................................................... 134
Hình 3. 58: Vị trí các đoạn bờ biển xã Hiệp Thạnh ........................................................... 135
Hình 3. 59: Sơ đồ minh họa cho các thông số tính toán .................................................... 136
Hình 3. 60: Sơ đồ bố trí công trình chỉnh trị bờ biển xã Hiệp Thạnh, tỉnh Trà Vinh ....... 138
Hình 3. 61: Trường dòng chảy khu vực xã Hiệp Thạnh khi triều dâng ............................. 138
Hình 3. 62: Trường dòng chảy và mực nước khu vực xã Hiệp Thạnh khi triều rút ......... 139
Hình 3. 63: Vị trí điểm trích xuất dòng chảy (cách đê 50m) ............................................. 139
Hình 3. 64: Hoa dòng chảy tại điểm P ứng với các kịch bản HT, KB1, KB2, KB3 thời
kỳ gió mùa Đông Bắc (1/1/2011÷ 27/1/2011) .................................................. 139
Hình 3. 65: Trường sóng mùa gió đông bắc khu vực bờ biển xã Hiệp Thạnh ................. 140
Hình 3. 66: Vị trí các mặt cắt để xem xét sự thay đổi sóng trong khu vực được kè mỏ
hàn chữ T bảo vệ ............................................................................................... 140
Hình 3. 67: Chiều cao sóng tại mặt cắt 3 (trái) và mặt cắt 4 (phải) thời điểm 19:00 ngày
18/1/2011 (mùa Đông Bắc) ............................................................................... 141
Hình 3. 68: So sánh lưu lượng bùn cát lơ lửng tại mặt cắt MC1 giữa 2 phương án .......... 141
Hình 3. 67: So sánh lưu lượng bùn cát lơ lửng tại mặt cắt MC2 giữa 2 phương án .......... 142
Hình 3. 70: Mức độ bồi tụ tại mặt cắt 3 (trái) và mặt cắt 4 (phải) sau 1 tháng .................. 142
Hình 3. 71: Diễn biến bồi xói khu vực bờ biển xã Hiệp Thạnh phương án có công trình
sau 1 tháng tính toán (1-23/1/2011, mùa gió đông bắc) .................................... 143
xi
MỞ ĐẦU
0.1. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN
Trong những năm gần đây, tình trạng bờ biển và hệ thống đê bị sạt lở
nghiêm trọng, xảy ra trên phạm vi rộng lớn đối với hầu như tất cả các tỉnh ven
biển ĐBSCL, ảnh hưởng đáng kể tới sự phát triển kinh tế của các ngành liên
quan đến khai thác tổng hợp dải ven biển. Đặc điểm diễn biến của các dải ven
biển có xu thế rất khác nhau tùy thuộc vào địa chất ven biển, các yếu tố từ đại
dương, yếu tố tác động từ sông, tác động của con người,… Việc nghiên cứu sâu
các vấn đề về cơ chế động lực – vận chuyển bùn cát khu vực ven biển tỉnh Trà
Vinh, phục vụ công tác chỉnh trị và bảo vệ bờ biển nhằm đáp ứng các yêu cầu
thực tiễn sau:
0.1.1. Yêu cầu về phòng chống sạt lở
Bờ biển tỉnh Trà Vinh nằm ở vị trí rất đặc biệt, kẹp giữa 2 cửa sông (cửa
Cung Hầu-Cổ Chiên và cửa Định An) có diễn biến đường bờ khá phức tạp, xen
lẫn bồi, xói. Nhiều khu vực bị xói lở với tốc độ nhanh trong những thập niên gần
đây gây mất đất và rừng phòng hộ ven biển.
Tài liệu hiện trạng bờ biển tỉnh Trà Vinh theo kết quả điều tra, khảo sát
thực hiện trong những năm từ 2010 đến 2012 [1], năm 2014 [3] và theo thu thập
thực địa phục vụ luận án cho thấy rằng, trên toàn dải bờ biển sự bồi tụ, ổn định
và xói lở diễn ra so le nhau tại nhiều vị trí. Các khu vực chiếm ưu thế về bồi tụ là
khu vực cửa sông, cửa rạch như khu vực cửa Cung Hầu – vị trí sông Bến Chùa,
vị trí cửa Vàm Láng Nước, cửa Định An và Hố Tàu. Các khu vực xẩy ra hiện
tượng xói lở mạnh như khu vực ấp Bào xã Hiệp Thạnh, khu vực Ba Động xã
Trường Long Hòa và khu vực xã Dân Thành (Hình 0.1).
Tổng thể hiện trạng xói bồi bờ biển tỉnh Trà Vinh trong mùa gió Đông
Bắc, Tây Nam được thể hiện trên Hình 0.1 - 0.2 và thống kê chi tiết trong bảng
1
0.1 - 0.2.
Hình 0. 1: Thực trạng xói bồi bờ biển Trà Vinh mùa gió Đông Bắc
Bảng 0. 1: Hiện trạng xói bồi bờ biển tỉnh Trà Vinh mùa gió Đông Bắc
Đoạn bờ lở Đoạn bờ bồi Địa phận xã Vị trí
km Mức độ
A -F Hiệp Thạnh (8,5 km) 2,5 Trung bình
G-M Trường Long Hòa (13,5 km)
Dân Thành (5 km) N-Q
Đông Hải (19 km) R-X km Mức độ 3 3 3 2,5 5 2,5 1,5 Nhẹ Nặng Trung bình Nặng Trung bình Nhẹ Trung bình Bờ ổn định km 4 2,5
2
Trung bình 4 7 Trung bình 5,5 Trung bình 23 km còn lại (9km thuộc xã Mỹ Long và Mỹ Long Nam, 14 km thuộc xã Long Vĩnh): Bờ biển ở trạng thái ổn định
Hình 0. 2: Thực trạng xói bồi bờ biển Trà Vinh mùa gió Tây Nam
Bảng 0. 2: Hiện trạng xói bồi bờ biển tỉnh Trà Vinh mùa gió Tây Nam
Đoạn bờ lở Đoạn bờ bồi Địa phận xã Vị trí km Mức độ km Mức độ Bờ ổn định km
A-B 9 Mỹ Long và Mỹ Long Nam (9km)
2,5 Trung bình
Hiệp Thạnh (8,5 km) C-H
I-M Trường Long Hòa (13,5 km)
Dân Thành (5 km) N-P
3 2 Trung bình Trung bình Đông Hải (19 km) Q-R
Long Vĩnh (14km) S-T 3 4,5 5 1 1 Nặng Nặng Trung bình Nhẹ Nhẹ 7 13 18 Trung bình
Các mức độ sạt lở - bồi tụ được chia như sau:
Mức độ sạt lở: Nặng: sạt lở từ 10 – 20 m/năm; Trung bình: sạt lở từ 5 –
10 m/năm; Nhẹ: sạt lở từ 1 – 5 m/năm;
3
Mức độ bồi tụ: Mạnh: bồi tụ từ 20 – 50 m/năm; Trung bình: bồi tụ từ 5 –
20 m/năm; Nhẹ: bồi tụ từ 1 – 5 m/năm;
Những đoạn bờ biển có xu thế ổn định hoặc bồi tụ như sau:
- Đoạn bờ biển gồm thị trấn Mỹ Long và xã Mỹ Long Nam;
- Đoạn bờ biển thuộc xã Hiệp Thạnh - Duyên Hải từ vàm Thâu Râu chạy
dài đến Vàm Láng Nước;
- Đoạn từ ấp Nhà Mát xã Trường Long Hòa kéo dài trên phạm vi khoảng
8km đến giáp khu du lịch biển Ba Động là đoạn có xu thế bồi tụ và ổn định;
- Đoạn bờ biển thuộc xã Đông Hải - Duyên Hải, trong hàng chục năm trở lại đây, hiện tượng bồi tụ diễn ra phổ biến và có hệ thống. Hiện nay, dọc bờ biển
kéo dài khoảng 19km có bãi biển trải rộng, rừng cây phòng hộ mới trồng đang
phát triển tốt;
- Xã Long Vĩnh được dãy rừng bần tự nhiên bảo vệ, bờ biển ổn định.
Những đoạn bờ biển đang bị sạt lở trong cả hai mùa gió đông bắc và tây
nam như sau:
- Đoạn bờ biển thuộc ấp Chợ xã Hiệp Thạnh có chiều dài khoảng 2,5km hiện nay mức độ xói lở ngày càng tăng đặc biệt nghiêm trọng khi triều dâng cao;
- Đoạn bờ biển thuộc ấp Bầu, xã Hiệp Thạnh kéo dài trên phạm vi 3km đang xảy ra hiện tượng sạt lở rất mạnh, tốc độ sạt lở ngày càng tăng trong vài
năm gần đây;
- Đoạn bờ biển 1,2km thuộc ấp Nhà Mát xã Trường Long Hoà có hiện
tượng sạt lở trung bình.
- Đoạn bờ biển thuộc ấp Cồn Trứng xã Trường Long Hoà - Duyên Hải kéo dài từ khu du lịch biển Ba Động đến giáp phạm vi xã Dân Thành với chiều dài
5km, hiện tượng sạt lở đang xảy ra mạnh, mặc dù mức độ xói lở càng gần với địa
phận xã Dân Thành càng giảm;
4
- Xã Dân Thành - Duyên Hải có chiều dài 5km, tại đoạn ấp Láng Cháo kéo dài xuống ấp Mù U dài khoảng 2,5km thường bị sạt lở hàng năm từ 10-15m,
đoạn bờ biển tiếp theo của xã Dân Thành hiện nay có dãy rừng phi lao, rừng
mắm đã bảo vệ bờ biển không còn bị sạt lở.
Nhận xét chung: Đối với những đoạn bờ biển có diễn biến xói lở trong cả
hai mùa gió đông bắc và tây nam, tình trạng này đã diễn ra hàng chục năm và trở
nên đặc biệt nghiêm trọng trong thời gian gần đây. Xét về mặt quy luật tự nhiên,
việc bờ biển “tiến” hoặc ‘lùi” chỉ là một giai đoạn trong quá trình biến đổi đường
bờ dưới tác động của sóng và dòng chảy. Tuy nhiên, đối với vấn đề kinh tế - xã
hội của một địa phương (tỉnh Trà Vinh) đây là một vấn đề quan trọng. Cùng với
đà phát triển về dân số và kinh tế, các vùng đất ven biển đã được sử dụng để làm
đất canh tác, xây dựng các khu du lịch, xây dựng nhà máy nhiệt điện,... Tình
trạng sạt lở bờ biển nghiêm trọng trong thời gian qua đã làm mất đi hàng trăm
héc ta đất canh tác ven biển, ảnh hưởng đến đời sống và sinh kế người dân, đồng
thời thu hẹp quỹ đất của tỉnh và phạm vi lãnh thổ của đất nước.
0.1.2. Yêu cầu về bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn
Hình 0. 3: Diễn biến BBTV từ 1989 - 2012 qua phân tích ảnh viễn thám [1]
Rừng ngập mặn/ phòng hộ là tấm lá chắn bảo vệ vùng ven biển, có tác
dụng giảm sóng, hạn chế xói lở bờ biển, lắng đọng lượng bùn cát từ nơi khác do
sóng và dòng chảy mang tới. Kết quả nghiên cứu diễn biến bờ biển Trà Vinh
trong những năm gần đây cho thấy diện tích đất ven biển, bao gồm chủ yếu là
5
rừng ngập mặn và phòng hộ giảm đáng kể, đặc biệt tại một số khu vực trọng
điểm như xã Hiệp Thạnh, Trường Long Hòa, Dân Thành [1] (xem hình 0.3).
Chính vì vậy việc khôi phục và phát triển rừng ngập mặn cho dải ven biển đặc
biệt là những khu vực đang xói lở là rất cần thiết.
0.1.3. Yêu cầu bảo vệ môi trường ven biển
Rừng ngập mặn mang lại các giá trị về sinh thái - môi trường và dịch vụ
to lớn cho đời sống: là vườn ươm và phát triển của nhiều loài thủy hải sản; là nơi
cư trú và làm tổ của nhiều loài chim, động vật ở nước, thú quý hiếm; cung cấp
dược liệu, chất đốt, nguyên liệu cho công nghiệp; là lá phổi xanh hấp thụ khí
các-bon-nic điều tiết nhiệt độ và khí hậu... Một số khu bãi biển có lợi thế để phát
triển du lịch, dịch vụ đang bị sóng và dòng chảy gây xói lở nghiêm trọng có
nguy cơ làm thiệt hại không chỉ cơ sở hạ tầng mà còn ảnh hưởng đến chủ trương
phát triển kinh tế của tỉnh Trà Vinh tại các khu vực này (xem hình 0.1. về tình
trạng xói lở tại khu du lịch bãi biển Ba Động).
0.1.4. Yêu cầu về công trình chỉnh trị và bảo vệ ổn định bờ biển
Hình 0. 4: Kè Hiệp Thạnh (trái) và khu vực xói lở phía trước và sau kè (phải)
Một số khu vực xói lở trọng điểm của tỉnh Trà Vinh đã được xây dựng
kè bê tông bảo vệ bờ trực tiếp. Tuy nhiên, sau khi kè đã xây dựng diễn biến xói
lở với mức độ nghiêm trọng tiếp tục xảy ra ở các khu vực lân cận (xem hình
0.4).
Từ những kết quả thực tế nói trên cho thấy rằng, việc nghiên cứu sâu các
vấn đề về cơ chế động lực – vận chuyển bùn cát khu vực ven biển tỉnh Trà Vinh,
6
phục vụ công tác chỉnh trị và bảo vệ bờ biển là rất cần thiết.
0.2. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN
Nghiên cứu về bờ biển cần chú trọng đến 3 đặc trưng cơ bản của môi
trường đới bờ biển là: (i) Thủy động lực (chủ yếu là sóng, triều và dòng chảy);
(ii) Vận chuyển bùn cát (phù sa lơ lửng và trầm tích đáy); (iii) Hình thái (diễn
biễn bồi và xói của bờ biển). Những đặc trưng nói trên là các vấn đề mấu chốt và
khó khăn nhất trong nghiên cứu để chỉnh trị và xây dựng công trình bảo vệ bờ
biển.
Bờ biển Trà Vinh có vị trí nằm kẹp giữa hai cửa sông lớn của sông Mê
Công (Cung Hầu – Cổ Chiên và Định An – Trần Đề). Những yếu tố tác động lên
cơ chế hoạt động của 3 đặc trưng cơ bản trong môi trường đới bờ biển Trà Vinh
là: dòng chảy-chuyển tải bùn cát từ sông Mê Công, dòng chảy biển, sóng, gió,
thủy triều, địa chất vùng bờ, khí hậu vùng nhiệt đới gió mùa, tác động của con
người, biến đổi khí hậu,… Đây là những vấn đề thiên văn, địa lý hấp dẫn nhưng
lại rất phức tạp trong mô phỏng bằng các phương trình toán học và cơ học (mô
hình vật lý). Cùng với bề dày phát triển của khoa học nghiên cứu về động lực
sông biển, việc khám phá các quy luật cơ bản của các yếu tố kể trên đã hoàn
thiện về cơ bản, kèm theo đó là sự phát triển mạnh mẽ của các phương pháp
nghiên cứu. Trong đó phương pháp mô hình toán được xem là nổi trội nhờ vào
khả năng tính toán của máy tính, đặc biệt khi thực hiện nghiên cứu đối với vùng
rộng lớn như toàn dải bờ biển Trà Vinh và giải quyết các bài toán giả định.
Luận án sẽ sử dụng phương pháp mô hình toán nghiên cứu sự ảnh hưởng
của các yếu tố đến toàn bộ quá trình động lực – vận chuyển bùn cát và những
biến đổi về mặt hình thái, để từ đó xây dựng được cơ sở khoa học nhằm chỉnh trị
và ổn định bờ biển Trà Vinh.
Trên cơ sở mô hình đã thiết lập, luận án xây dựng các kịch bản, nghiên
cứu mức độ ảnh hưởng của sự suy giảm lượng phù sa sông Mê Công và sự gia
tăng mực nước biển (BĐKH) đến xu thế biến đổi cao trình địa hình đáy một số
7
khu vực đặc biệt ven biển Trà Vinh.
0.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
- Mô phỏng diễn biến về thủy hải văn, thủy lực nhằm làm sáng tỏ các yếu tố
động lực ảnh hưởng đến sự biến động đường bờ và xu thế phát triển bờ
biển tỉnh Trà Vinh.
- Xác lập các cơ sở khoa học để định hướng các giải pháp chỉnh trị nhằm ổn
định vùng bờ biển tỉnh Trà Vinh.
0.4. CẤU TRÚC VÀ NỘI DUNG LUẬN ÁN
Cấu trúc luận án gồm các phần cơ bản sau:
- Mở đầu
- Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu về xói mòn bờ biển và các
giải pháp bảo vệ.
- Chương II: Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu.
- Chương III: Kết quả nghiên cứu về chế độ thủy thạch động lực phục vụ
chỉnh trị bờ biển Trà Vinh.
- Kết luận và kiến nghị.
0.5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
1. Luận án đã đánh giá một cách tổng hợp, có hệ thống các yếu tố động
lực chính tác động gây thay đổi hình thái khu vực bờ biển Trà Vinh.
2. Luận án đã xác lập được xu thế biến động địa hình đáy theo thời gian
dưới tác động gia tăng mực nước biển và suy giảm bùn cát từ sông ra. Đề xuất
8
được giải pháp chỉnh trị hợp lý.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VỀ XÓI MÒN BỜ BIỂN VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI VỀ XÓI LỞ
BỜ BIỂN
Vùng ven biển (gần cửa sông) là nơi tương tác giữa các yếu tố đến từ
sông, từ biển, từ con người, từ vĩ mô đến vi mô, từ nội sinh đến ngoại sinh, từ
thường xuyên đến đột xuất. Mỗi khi có sự thay đổi một hoặc các thành phần
trong hệ thống thì sẽ kéo theo nhiều sự thay đổi của các thành phần khác nhằm
thiết lập một sự cân bằng mới. Trong những năm gần đây, dưới sự tác động của
các yếu tố như nước biển dâng cao, các hoạt động kinh tế xã hội của con người ở
vùng ven biển được đẩy mạnh,… đã làm cho quá trình bồi tụ – xói lở diễn biến
phức tạp về cả quy mô lẫn cường độ. Do đó, các hoạt động khoa học- công nghệ
trong lĩnh vực nghiên cứu về bờ biển luôn phải đối mặt với những vấn đề khó
khăn, phức tạp mà mặc dầu nó đã thật sự phát triển vào đầu thế kỷ XXI, ở trình
độ hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại chưa thể giải quyết được thỏa đáng.
1.1.1. Nguyên nhân và cơ chế xói lở/bồi lắng của bờ biển bùn có rừng ngập
mặn
a) Các yếu tố động lực tác động lên vùng bờ biển
Diễn biến của các dải bờ biển phụ thuộc nhiều vào các yếu tố thủy động
lực tác động trực tiếp lên nó. Có rất nhiều các yếu tố tác động như sóng, thủy
triều, gió, dòng ven bờ, dòng chảy từ sông,… làm biến đổi hình thái bờ biển theo
thời gian, sự biến đổi hình thái này đôi khi làm cản trở các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội của con người. Vì vậy, từ thời cổ đại con người đã có những giải
pháp nhằm chỉnh trị các tác động này. Dấu tích của các công trình cảng và đê
chắn sóng xây dựng tại cửa sông Nile vào khoảng 2500 năm trước Công nguyên
[16] cho thấy rằng từ rất sớm con người đã quan tâm nghiên cứu các yếu tố thủy
9
thạch động lực vùng ven bờ.
Tuy nhiên, phải đến đầu thế kỷ XX các kết quả nghiên cứu về lĩnh vực
cửa sông ven biển mới bắt đầu thăng hoa. Những nghiên cứu ban đầu đã xây
dựng nên các cơ sở lý thuyết cơ bản, phương pháp luận khoa học từ đó định
danh được các yếu tố tác động gây nên diễn biến bờ biển, cửa sông và khái quát
hóa được quá trình diễn biến của chúng bằng các phương trình toán học.
- Nghiên cứu tác động của sóng đến diễn biến bờ biển. Sóng được tạo nên
bởi gió và sự thay đổi trong áp suất khí quyển. Đối với hình thái ven biển và
thiết kế bảo vệ bờ biển sóng ngắn là một trong những thông số quan trọng nhất.
Sóng ngắn có chu kỳ ít hơn khoảng 20 giây [18]. Sóng ngắn có thể chia thành
sóng gió (gần bờ) và sóng lừng [55]:
+ Sóng gió (wind waves): Đây là những sóng tạo ra và chịu ảnh hưởng
của trường gió địa phương. Sóng gió bình thường tương đối dốc (cao và ngắn)
và không đều. Sóng gió tạo ra sự vận chuyển bùn cát từ bờ ra ngoài khơi.
+ Sóng lừng (swell waves): Đây là sóng tự do, được hình thành sau khi
gió ngừng thổi hoặc sóng gió truyền đi đến thủy vực khác không có gió. Sóng
lừng có xu hướng hình thành mặt cắt ven biển.
- Nghiên cứu tác động của thủy triều đến diễn biến bờ biển: Triều thiên
văn là hiện tượng dao động lên xuống theo chu kỳ của nước trên trái đất do
chịu ảnh hưởng của lực hấp dẫn từ các thiên thể (chủ yếu là của mặt trăng và
thứ đến là của mặt trời) [18] [55]. Biến đổi mực nước gây ra bởi thủy triều
thiên văn tạo ra các dòng thủy triều. Dòng thủy triều quan trọng nhất liên quan
đến hình thái ven biển là dòng chảy được tạo ra trong các cửa triều, nơi mà
dòng chảy bị ép vào một khu vực hẹp. Vận tốc dòng thủy triều mạnh có thể đạt
từ 1 – 3 m/s [64] [73].
- Nghiên cứu ảnh hưởng của nước biển dâng đến diễn biến bờ biển. Có 2
dạng nước biển dâng cơ bản:
+ Nước biển dâng dài hạn do biến đổi khí hậu: Ủy ban liên chính phủ về
10
biến đổi khí hậu đã đưa ra kết luận rằng trong suốt 100 năm qua, mực nước
biển trung bình đã tăng từ 10 đến 25 cm, thay đổi theo từng vùng khác nhau.
Mực nước biển dâng sẽ làm tăng nguy cơ ngập lụt của các vùng trũng thấp, làm
thay đổi chế độ vận chuyển bùn cát vùng cửa sông ven biển [18]. Tất cả các
yếu tố này sẽ dẫn đến những biến đổi cực đoan của bờ biển. Ngoài ra, sự lún
của mặt đất ở vùng ven biển cũng có thể coi như là một hình thức nước biển
dâng lên tương đối và sẽ gây ra xói mòn ở phần trên của mặt cắt bờ biển. Lún
có thể là một hiện tượng tự nhiên nhưng cũng có thể do các tác động của con
người (như bơm hút nước ngầm, dầu khí,...) [55].
+ Nước biển dâng tức thời do sự kiện bão: Năm 1962 Bruun đặt ra giả
thiết mực nước biển dâng là một nguyên nhân gây ra sự xói mòn bờ biển [28],
và năm 1988 ông phát triển định luật Bruun, đưa ra công thức tính toán độ xói
mòn bờ biển dựa trên độ dâng mặt nước và độ dốc bờ biển [29]. Lý thuyết này
của ông được nhiều nhà khoa học ủng hộ và sử dụng nó như một công cụ quản
lý ven biển cho nhiều cộng đồng và quốc gia (ví dụ Leatherman, 1991, 2001;
Leatherman et al, 1994, 2000. Nicholls và Leatherman, 1994; Nicholls et al.,
1994) [51]. Tuy nhiên, năm 2004 J. Andrew đã chứng minh định luật Bruun bỏ
qua các yếu tố quan trọng về địa chất và hải dương học, do đó kết quả dự báo là
không chính xác và khẳng định không thể dự đoán bờ biển rút lui do mực nước
biển tăng một cách chính xác mà phải xét đến trong một tổng thể ảnh hưởng
của nhiều yếu tố tác động [47].
- Nghiên cứu về sự tương tác ảnh hưởng giữa nước biển dâng và thủy
triều lên diễn biến bờ biển có Friendich T.C. năm 1990 đã sử dụng mô hình
toán để dự đoán tác động ban đầu của tăng mực nước biển lên sự biến dạng
thủy triều trong hệ thống, kết hợp với các kết quả mô hình hóa số được sử dụng
để suy ra mô hình vận chuyển bùn cát đáy và xu hướng chung của sự phát triển
cửa sông [42]. Những năm gần đây, nhờ sự phát triển của các công cụ mô hình
toán, việc tính toán các kịch bản nước biển dâng đã trở nên dễ dàng hơn với
khoảng thời gian dự báo dài hơn. Dissanayake D. M. P. K. năm 2012 sử dụng
11
mô hình số Delft3D xem xét các kịch bản bao gồm cả nước biển dâng và sự sụt
lún tại địa phương trong suốt thời gian nghiên cứu 110 năm. Kết quả tính toán
cho thấy rằng, sự gia tăng mực nước biển sẽ làm gia tăng tình trạng ngập lụt và
gia tăng hiện tượng xói mòn các vùng đồng bằng ngập triều [38].
- Nghiên cứu tác động của dòng chảy từ sông đến diễn biến bờ biển: Dòng
chảy từ sông đổ ra biển là một yếu tố động lực quan trọng, nhiều khi là quyết
định trong quá trình diễn biến vùng cửa sông, ven biển. Những đặc tính của
dòng chảy sông phải được xác định từ số liệu của trạm thủy văn cuối cùng
trước địa điểm có ảnh hưởng của sóng triều. Dòng chảy từ sông là một dòng
chảy không ổn định, chuyển động trong một lòng dẫn phức tạp nên có kết cấu
nội bộ vừa rối, vừa có dòng thứ cấp mang bùn cát. [17].
- Ngoài ra, yếu tố nước dâng, nước hạ trong gió bão và tác động của lực
Coriolis cũng là các yếu tố quan trọng tác động lên chế độ thủy động lực vùng
cửa sông ven biển. Lực Coriolis là lực quán tính sinh ra do tác dụng tự quay
của trái đất. Cấp độ của lực Coriolis rất nhỏ, trong nhiều vấn đề cơ học khác có
thể bỏ qua, nhưng đối với cửa sông ảnh hưởng triều do vùng nước rộng lớn, lực
Coriolis có thể làm xuất hiện độ dốc ngang đáng kể. Ở vùng cửa sông có chiều
rộng 5km, chênh lệch mực nước hai bờ là 8cm [17] [49] [54] [52]... Đến
khoảng những năm 60, công trình nghiên cứu của K.N. Fedorop đã kết luận
rằng lực Coriolis có thể bỏ qua đối với vùng bờ có độ nước sâu dưới 20m [17].
Trong số liệu thực đo về dòng chảy tại một vùng biển nào đó, thông
thường là kết quả tổng hợp của dòng chảy triều và dòng chảy phi triều. Dòng
phi triều bao gồm dòng do gió và dòng ven do sóng. Tại các vùng biển gần các
cửa sông lớn còn chịu ảnh hưởng rõ rệt của dòng chảy sông. Thông thường gộp
chung các loại dòng phi triều ở ven bờ gọi là dòng dư [7].
Hoàn lưu dòng ven bờ là một thành phần dòng chảy do dòng biển ven bờ
và ngoài bờ hợp thành, như hình 1.1 thể hiện.
Dòng ngoài bờ là một loại dòng cận hải, thường tồn tại ở lân cận đới sóng
12
vỡ và vùng biển có độ sâu lớn ngoài đó, chảy song song với đường bờ, thông
thường không có quan hệ sóng, mà thường do tác dụng của thủy triều, gió và sự
phân bố của các khối nước.
Dòng ven bờ là dòng chảy của đới sóng vỡ và lân cận, chủ yếu do tác
dụng của sóng mà có, bao gồm: (i) Dòng dọc bờ (chuyển động song song với
bờ biển, chuyển tải khối nước vào bờ); (ii) Dòng ngang bờ (nước chảy từ bờ ra
biển).
Dòng chảy gần bờ xảy ra sau khi sóng vỡ là một trong những vấn đề cơ
bản nhất của động lực học ven bờ biển. Loại dòng chảy này có liên quan trực
tiếp đến chuyển động bùn cát ven bờ và diễn biến bờ biển.
Hình 1. 1: Sơ đồ dòng mặt của dòng ngoài bờ và hệ thống dòng ven bờ
(chiều dài mũi tên biểu thị thị trị số lưu tốc tương đối) [7]
b) Quá trình vận chuyển bùn cát ven biển
Vận chuyển bùn cát nói chung được nghiên cứu từ rất sớm như ở Trung
Quốc cổ đại, Hy Lạp và Đế quốc La Mã. Nghiên cứu bằng phương pháp lý
thuyết và thực nghiệm sớm nhất được thực hiện bởi nhà khoa học DuBuat
(1734-1809) người Pháp. Ông xác định vận tốc dòng chảy gây ra xói mòn đáy,
13
trong đó có xem xét đến sự khác nhau của vật liệu đáy. DuBuat đã phát triển
khái niệm ma sát trượt [76]. Dupuit (1804-1866) người Pháp mô tả về chuyển
động dọc theo đáy và chuyển động lơ lửng của trầm tích [78]. Công thức suất
chuyển cát đáy đầu tiên dựa vào độ dốc và độ sâu được DuBoys (1847-1924)
người Pháp đề xuất, ông khái quát quá trình vận chuyển như chuyển động của
các hạt trầm tích trong một loạt các lớp [77].
Đến khoảng năm 1900, mô hình biến đổi đáy đầu tiên được Fargue (1827-
1910) người Pháp [79] xây dựng. Cơ sở nghiên cứu vận chuyển trầm tích trong
các máng thí nghiệm được bắt đầu bởi Engels (1854-1945) người Đức [82].
Năm 1914, lý thuyết vận chuyển trầm tích được viết bởi Forchheimer
(1852-1933), ông phát triển phương trình tính ứng suất trượt đáy tới hạn (bắt
đầu chuyển động của một hạt) theo chiều dọc của đáy dốc [80]. Năm 1936,
Shields có một đóng góp quan trọng liên quan đến ứng suất trượt đáy tới hạn
cho sự khởi đầu chuyển động của các hạt trầm tích. Các đường cong được đề
xuất gọi là đường cong “Shields” [81].
Các nghiên cứu đầu tiên liên quan đến động lực học chất lỏng và vận
chuyển bùn cát được thực hiện bởi Bagnold năm 1936, 1937 [27]. Đến năm
1950, Einstein và các cộng sự nhờ vào sự phát triển của năng lực tính toán, biến
các mô hình toán vận chuyển bùn cát thành một chủ đề quan trọng trong lĩnh
vực khoa học ven biển [40]. Năm1967, Robert P. Apmann và Ralph R. Rumer
nghiên cứu quá trình phát tán các hạt trầm tính do khuếch tán rối trong dòng
chảy bất đồng nhất dựa trên mô hình toán. Thí nghiệm được tiến hành trong
một máng dài với 3 lớp trầm tích. Hệ số khuếch tán được xác định là một hàm
của đặc trưng trầm tích và vận tốc dòng chảy [26].
Một trong những nghiên cứu đầu tiên liên quan đến điều kiện bùn lỏng
được thực hiện bởi Einstein và Chien năm 1955, hai quá trình kết bông và cố
kết đáy đã được nghiên cứu. Tác giả đã nhận định rằng độ mặn tối thiểu 1‰ là
giới hạn khởi đầu cho quá trình kết bông [41].
14
Tuy nhiên, gần cuối thế kỷ XX đến ngày nay, việc nghiên cứu các quá
trình động lực - vận chuyển trầm tích đã có những bước phát triển cao hơn: đó
là xây dựng các mô hình vật lý, mô hình toán. Đi tiên phong trong nghiên cứu
vấn đề này là những nhà nghiên cứu ở các nước phát triển như Mỹ, Hà Lan,
Đan Mạch, Nhật Bản. Các kết quả nghiên cứu được khái quát hóa mang tính
phương pháp luận, viết thành các “cẩm nang” sử dụng. Có thể kể ra một số
những kết quả nghiên cứu đã được khái quát hóa thành sách. Đó là nghiên cứu
của Horikawa K. năm 1978 về động lực gần bờ và các quá trình bờ, trong đó
bao gồm cả các lý thuyết cơ bản, đo đạc và các mô hình dự báo [46] [45]; của
Richard S. năm 1997 về “Động lực cát biển”, đây là sách hướng dẫn cho các
ứng dụng thực tiễn, các nguyên lý vận chuyển trầm tích trong sông, cửa sông
hình phễu và biển ven bờ” [61]; hay của Leo C. Van Rijn qua các năm 1990,
1993, 1998, 2005,... về các nguyên lý vận chuyển trầm tích ở sông, cửa sông và
ven biển dưới tác động của sóng, dòng chảy, thủy triều,... là nguyên nhân hình
thành nên các đặc trưng hình thái ven biển [13] [66] [65] [68]. Trong nghiên
cứu của Van Rijn năm 1993, các kết quả thí nghiệm ứng suất phân giới của
chuyển động sóng được so sánh với giá trị của đường cong Shields cho thấy
đường cong Shields cũng khá thích hợp với chuyển động sóng. Trước đó, có 3
bài báo của Van Rijn năm 1984 cũng đã trình bày kết quả sử dụng mô hình
toán học mô phỏng quá trình vận chuyển trầm tích đáy, trầm tích lơ lửng trong
các điều kiện dòng chảy khác nhau. Từ đó xây dựng nên các biểu thức đơn giản
mô tả mối quan hệ giữa nồng độ bùn cát với đường kính hạt, chiều cao bước
nhảy và tốc độ hạt, sử dụng như là một điều kiện biên trong toán học mô hình
trầm tích lơ lửng và dự đoán sự hình thành bờ biển và các bãi bồi dựa vào các
dữ liệu về chiều sâu dòng chảy và tổng lượng chuyển tải bùn cát [69] [70] [71].
Vận chuyển bùn cát ven biển dưới tác động của dòng chảy và sóng là
nguyên nhân chính dẫn đến xói mòn và bồi tụ ven biển. Về hướng di chuyển
vận chuyển bùn cát ở bờ biển có thể chia thành hai loại: vận chuyển bùn cát
vuông góc với bờ (vào và xa bờ) và vận chuyển bùn cát dọc bờ. Vận chuyển
bùn cát vuông góc với bờ gây ra thay đổi hình thái ngắn hạn, trong khi vận
15
chuyển dọc bờ biển gây ra những thay đổi dài hạn của hình thái một vùng ven
biển [18].
- Vận chuyển bùn cát dọc bờ: Khi sóng tiến vào vùng nước nông ven bờ,
sóng sẽ vỡ ở độ sâu nước bằng 1,28 đến 1,5 lần chiều cao sóng. Khi sóng vỡ,
năng lượng sóng biến thành lực làm di chuyển khối nước, tạo thành dòng chảy
[17]. Trong quá trình sóng vỡ những nhiễu động liên quan gây ra một số trầm
tích đáy biển ở dạng lơ lửng. Những trầm tích lơ lửng này, cộng với một số các
lớp trầm tích dưới đáy
biển sau đó được vận
chuyển dọc theo bờ cùng
với dòng chảy dọc bờ,
chúng đạt lớn nhất ở
đường sóng vỡ [64].
Hình 1. 2: Vận chuyển bùn cát dọc bờ [18]
- Vận chuyển bùn cát vuông góc với bờ: Tại một bờ biển thẳng, sóng trực
giao vào bờ tạo ra vận chuyển nước tổng theo hướng sóng. Điều này dẫn đến
nước vật trong vùng sóng vỡ, hiện tượng này có thể tăng lên trong những trận
bão do gió thổi. Khi dòng chảy hướng vào đất liền (ở bề mặt) cân bằng với
dòng hướng ra biển (phía dưới đáy) mặt cắt cân bằng của bãi biển được hình
thành [32] [33]. Dưới tác động của sóng, nếu mặt cắt không phải ở trạng thái
cân bằng, phần trên của mặt cắt sẽ bị xói mòn và vật liệu lắng đọng ở phần
dưới dẫn đến làm phẳng mặt cắt. Khi mặt cắt đạt tới cân bằng, tốc độ xói mòn
gần như bằng không [30] [18]. Định luật Bruun cũng đã được phát triển dựa
trên nguyên lý này
[29].
Hình 1. 3: Sự thay đổi mặt cắt bờ biển do một sự kiện bão [18]
Về tính chất
16
hạt có thể chia bùn cát ven biển thành hai loại: bùn cát kết dính (bùn) và bùn
cát rời (cát).
Hình 1. 4: Bùn (trái) và cát (phải) [10]
- Nguyên tắc vận chuyển bùn: Bùn cấu thành từ các hạt phù sa mịn
(đường kính hạt <0,063mm) kết dính, có nguồn gốc từ các hệ sinh thái rừng
ngập mặn, từ các bãi triều và phù sa lơ lửng từ các sông. Bùn thường được tìm
thấy tại các khu vực được che chắn và được bảo vệ bởi tác động của sóng và
dòng chảy mạnh. Bùn có tốc độ rơi trong nước nhỏ, chủ yếu vận chuyển trong
trạng thái lơ lửng, do đó nó được dòng chảy tải đi qua các khoảng cách dài
trước khi kịp rơi lên đáy thủy vực. Mặt khác, theo nghiên cứu của Van Olphen
năm 1963, hạt sét có cấu trúc hình đĩa và trên mặt có phủ các hạt khoáng tích
điện âm. Trong nước, chúng hút các ion dương, tạo ra lớp mây các phần tử ion
dương bao quanh các hạt sét, nên chúng đẩy nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu năm
1986 của Krone và Burt bổ sung rằng, trong nước mặn các hạt lại kết tụ với
nhau mặc dù có lực đẩy nhau (kết bông). Sự kết tụ sẽ gia tăng khi hàm lượng
bùn cát lơ lửng gia tăng, vì các hạt có cơ hội gặp nhau nhiều hơn. Tính kết dính
của chúng dẫn đến quá trình keo tụ thành các khối (flocs) có tốc độ rơi lớn hơn
nhiều so với tốc độ rơi của mỗi hạt bùn. Đó là phương thức bồi đáy của bùn tại
các khu vực các hạt bùn riêng rẽ không thể rơi tới đáy và đọng lại lên đáy. Quá
trình kết keo và phân rã các khối floc phụ thuộc nồng độ bùn cát và tính chất
xáo trộn rối của dòng chảy. Trầm tích hạt mịn sau khi lắng, bị tung ngược trở
lại vào trạng thái lơ lửng và di chuyển là do tác động của sóng và dòng chảy
17
[61] [10] [55] [68].
- Nguyên tắc vận chuyển cát: Các hạt cát rời, không kết dính (dưới đây
gọi tắt là cát), có đường kính >0,063mm tồn tại rời rạc trong mọi trạng thái: di
chuyển theo dòng nước, bồi lấp lên đáy lòng dẫn hay bị bứt từ đáy lòng dẫn và
cuốn theo dòng nước. Đặc biệt các hạt cát có đường kính lớn không thể tồn tại
lâu ở trạng thái lơ lửng trong dòng nước. Do đó, dòng vận chuyển cát thô chủ
yếu là dòng di đẩy, vì nó tồn tại chủ yếu trong lớp nước sát đáy lòng dẫn, các
hạt cát vận chuyển gần đáy trong trạng thái nhảy [10]. Nếu thay đổi điều kiện
thủy động lực học, sự vận chuyển cát sẽ phản ứng với điều này ngay lập tức,
trong khi sự vận chuyển bùn cát mịn sẽ chỉ phản ứng chậm. Đây gọi là hiệu
ứng trễ [67]. Ngược lại với bùn, hầu hết việc vận chuyển cát diễn ra trong môi
trường sóng
thống trị. Trong
các kênh thủy
triều tại các cửa
sông và cửa thủy
triều, sự vận
chuyển cát chủ
yếu bị chi phối
bởi dòng triều
[61].
Hình 1. 5: Quá trình vận chuyển bùn cát [18]
c) Nguyên nhân và cơ chế xói lở/bồi lắng của bờ biển bùn có rừng ngập
mặn
Phổ biến trong các vùng nhiệt đới là các dải bờ biển có rừng ngập mặn
với nhiều loài cây phong phú. Rừng ngập mặn có vai trò quan trọng đối với
môi trường tự nhiên cũng như đời sống kinh tế - xã hội của con người. Ngày
nay, hệ thống rừng ngập mặn trên toàn thế giới đang chịu áp lực suy giảm
nghiêm trọng. Việc suy thoái rừng ngập mặn đã có ảnh hưởng lớn đến sự ổn
18
định của đường bờ biển.
Năm 2006, Gegar Prasetya [43] đã tổng hợp các yếu tố tác động đến quá
trình xói lở/bồi tụ bờ biển trong đó bao gồm các yếu tố tự nhiên và các tác động
của con người như thể hiện trên hình 1.6.
Hình 1. 6: Sơ đồ nguyên nhân của xói lở, bồi tụ bờ biển (dịch từ [43])
Năm 2013, Winterwerp [48] công bố một kết quả nghiên cứu quan trọng,
phân tích các nguyên nhân gây xói mòn dọc theo bờ biển rừng ngập mặn, và
đưa ra các lý giải cho hiện tượng khó khăn/không phục hồi được các bờ biển
này. Nghiên cứu này dựa trên các công trình ở Thái Lan, Guyana và Suriname
của Anh, Indonesia, Philippines và miền Nam Trung Quốc, trong đó nhấn
mạnh nguyên nhân chính của hiện tượng xói lở là do “mất cân bằng bùn cát”.
Quá trình “mất cân bằng bùn cát” xảy ra như một “vòng lặp tiếp nối” từ việc
ảnh hưởng của các tác động phát triển xã hội của con người, đến những nỗ lực
phục hồi rừng ngập mặn bằng các giải pháp công trình cứng bao chặt bờ biển
(coastal squeeze),...
Nghiên cứu đã chứng minh, việc áp dụng các kỹ thuật “cứng” bao kín một
đoạn bờ biển ở trong hoặc ở rìa rừng ngập mặn như đê, kè chắn sóng,... đã làm
trầm trọng hơn tình trạng xói lở dọc theo bờ biển. Các công trình này ảnh
hưởng đến quá trình cân bằng bùn cát trong khu vực rừng ngập mặn theo hai
19
cách:
- Dòng chảy phù sa mịn trên bờ giảm do kết quả của giảm dòng nước trên
bờ;
- Chiều cao sóng gần các cấu trúc như vậy tăng lên do phản ánh của cấu
trúc đó, gây ra sự lùng sục cục bộ ở phạm vi phía trước của cấu trúc.
Quá trình xói mòn ở một quy mô lớn hơn tiếp tục diễn ra khi nền đáy dần
dần bị lõm xuống làm tăng cường các hiệu ứng sóng hơn nữa.
1.1.2. Các công trình bảo vệ bờ biển
Những biện pháp bảo vệ bờ biển phụ thuộc vào đường bờ của đất liền
trong việc chống lại những ảnh hưởng mang tính phá hủy của biển. Những bờ
biển bị xói lở có thể được bảo vệ bằng các công trình có chức năng hấp thu
năng lượng sóng và dòng chảy. Các công trình điều chỉnh hướng dòng chảy có
thể được áp dụng trong mục đích phát triển bãi bồi, rừng ngập mặn,… Tuy
nhiên, trạng thái cân bằng của bờ biển sẽ bị thay đổi ngay sau khi có bất kỳ tác
động (xây dựng công trình) vào chế độ thủy động lực ven biển và một trạng
thái cân bằng mới sẽ được thiết lập. Việc xây dựng các công trình chống xói ở
khu vực này hoàn toàn có thể dẫn đến xói lở các khu vực lân cận, nhiều khi là
nghiêm trọng hơn. Do đó, đối với các công trình bảo vệ bờ lớn trên thế giới,
trước khi được đưa vào xây dựng thường được tính toán các yếu tố động lực
một cách kỹ lưỡng và có kiểm định trên các mô hình vật lý.
Von Lieberman (nhà khoa học người Đức) [18] đã phân loại các dạng
công trình chống xói mòn bờ biển, bao gồm: các công trình dọc bờ và các công
trình vuông góc với bờ.
- Các công trình dọc bờ: ( tường chắn sóng, đê, kè) bảo vệ bờ biển hoặc
các đụn cát chống xói mòn gây ra bởi dòng chảy và sóng. Gồm hai loại:
+ Đê phá sóng tách rời: là một cấu trúc song song với bờ biển, được xây
dựng trong đới sóng vỡ để bảo vệ bờ biển thông qua giảm chiều cao sóng tới và
gây bồi khu vực giữa tường và bờ. Thông số quan trọng đặc trưng đê chắn sóng
20
tách rời là chiều dài của đê chắn sóng (LB) và khoảng cách của đê chắn sóng đến
bờ biển (x). Nếu tỷ lệ (LB/x) < 0,6 ÷ 0,7, bãi bồi nhô ra có dạng “salient”; nếu
(LB/x) >0,9 ÷ 1, bãi bồi nhô ra có dạng “tombolo”. Tuy nhiên, các thông số khác
ngoài LB và x cũng ảnh hưởng đến hình dạng bồi lắng.
Hình 1. 7: Các dạng tích tụ bùn cát phát triển sau khi xây dựng đê chắn sóng [18]
Đê chắn sóng khác nhau về vị trí (nước sâu/nông), kiểu xây dựng (đánh
đắm, theo chiều đứng, nổi) và hiệu quả (phát triển salients hay tombolos). Mặt
cắt ngang của các dạng đê phá sóng có thể ở dạng đá đổ (các thông số thiết kế
có thể tính toán theo công thức của Hudson hoặc Van der Meer [30]), hoặc
dạng ống Geotubes bằng vải địa kỹ thuật (các thông số tính toán theo nghiên
cứu và cách tiếp cận của Pilarczyk [59] [60]), hoặc các vật liệu địa phương thân
thiện với môi trường (ví dụ như hàng rào tre được thiết kế tại Vĩnh Tân, Sóc
Trăng, Việt Nam [24]), …
+ Kè: được xây dựng liền với bờ biển, thường là bao bọc kín một đoạn bờ
biển, bảo vệ bờ khỏi bị xói mòn trước tác động của sóng bão và dòng chảy. Kè
biển luôn được xây dựng như là công trình mái nghiêng, thiết kế mặt kè có thể
cấu tạo từ các loại sau: đá đổ rối, đá hộc lát khan, đá xây vữa, tấm bê tông đúc
sẵn, các loại thảm. Ngoài ra, kè cũng có thể xây dựng gồm các túi chứa đầy cát
vải địa kỹ thuật (Geotubes, Stabiplage). Ngày nay, các giải pháp gia cố mái kè
bằng các tấm bê tông đúc sẵn được sử dụng khá phổ biến với các hình dạng
phong phú được thiết kế nhằm tăng khả năng hấp thu năng lượng sóng và giảm
sóng leo, các liên kết linh hoạt, dễ dàng thi công và sửa chữa, tính thẩm mĩ
cao,… Các dạng bản bê tông đúc sẵn có thể chia làm hai loại là tấm lát độc lập
21
và tấm lát liên kết mảng.
+ Tường chắn sóng: là một cấu trúc tách rời vùng đất và nước, được thiết
kế để ngăn chặn xói mòn bờ biển và thiệt hại khác do tác động của sóng và nước
dâng do bão [18]. Tường chắn sóng có các cấu tạo như: đá xây, tường cừ thép –
BTCT, thùng chìm BTCT, tường góc BTCT hoặc kết hợp với các kè mái nghiêng
và các khối bê tông dị hình.
- Các công trình vuông góc với bờ: Thường gọi là mỏ hàn, được sử dụng
để làm gián đoạn vận chuyển bùn cát dọc bờ, nó không có tác dụng ngăn bùn cát
trong chuyển động bùn cát vuông góc với bờ. Diễn biến bờ biển quanh mỏ hàn
phụ thuộc vào lưu lượng và hướng vận chuyển của dòng bùn cát dọc bờ. Đường
bờ mới có xu hướng vuông góc với sóng tới chủ đạo. Cát bị giữ lại tại phía
thượng lưu của mỏ hàn (theo hướng chuyển động của dòng bùn cát) đồng nghĩa
với việc thiếu cát phía hạ lưu, dẫn đến mất cân bằng tải cát [6]. Nếu tác động của
các mỏ hàn là quá mạnh, xói mòn sau công trình sẽ xảy ra.
Mỏ hàn thường được xây dựng từ bờ biển cho tới một khoảng cách ra
biển, thường được thiết kế để vượt qua một phần của khu vực sóng vỡ. Mỏ hàn
thường được xây dựng thành nhóm và khoảng cách giữa hai mỏ hàn (Sn) phải
được xác định để hiệu quả bảo vệ là đủ lớn đảm bảo tránh được xói mòn do dòng
chảy và sóng. Sổ tay kỹ thuật bờ biển [44] cung cấp một số các gợi ý cho việc
tính toán chiều dài hợp lý của các mỏ hàn. Mặt cắt các mỏ hàn có các dạng:
tường đơn, mỏ hàn khung, mỏ hàn tròn, mỏ hàn tròn đỉnh rộng và mỏ hàn phẳng,
ngoài ra có thể
được gia cố thêm
bởi đá hộc, đá
xây, cừ BTCT, các
khối bê tông dị
hình,…
22
Hình 1. 8: Quy trình tính toán khoảng cách giữa các mỏ hàn [18]
Ngoài các giải pháp công trình, kỹ thuật phục hồi bờ biển còn áp dụng các
giải pháp phi công trình như trồng rừng ngập mặn. Winterwerp (2013) [48] đã
chỉ ra hầu hết các nỗ lực để khôi phục rừng ngập mặn thường thất bại hoàn toàn
hoặc không đạt được mục tiêu đã nêu do một số nguyên nhân sau: chọn sai loài,
khí hậu bất lợi, điều kiện địa điểm, tính chất trầm tích và yếu tố thủy văn, cũng
như thiếu khâu quản lý hậu kỳ và giám sát,... Trong số này, sự xói lở bờ biển
được cho là một trong những yếu tố chính gây nên việc phục hồi không thành
công.
Nhóm nghiên cứu này đề xuất “một chiến lược” để phục hồi
xói mòn bờ biển rừng ngập mặn, trong đó yêu cầu về “hình thái động học”
được kết hợp. Đây là một cách tiếp cận mới trong lĩnh vực nghiên cứu về nước
ở Hà Lan, còn được gọi là “lai tạo kỹ thuật” (hybrid-engineering) hoặc “xây
dựng với thiên nhiên” (building with nature).
Chiến lược này chứa các yếu tố sau:
1. Khôi phục dòng chảy trên bờ của trầm tích mịn bằng cách khôi phục
vùng bãi triều. Điều này có thể được thực hiện bằng cách tạo “vùng đệm”,
trong đó thủy triều tới có thể tự do chảy.
2. Tăng cường bẫy trầm tích tốt trên bãi bồi một một cách tự nhiên. Trong
đó chú trọng yếu tố: giảm dòng chảy dọc bờ, giảm vận chuyển bùn cát dọc bờ
ra khỏi khu vực cần phục hồi;
3. Giảm chiều cao sóng tác động lên khu vực cần phục hồi;
4. Khôi phục các điều kiện thủy văn, nếu bị xáo trộn (ví dụ: phục hồi các
ao nuôi trồng thủy sản ở bìa rừng trở lại rừng ngập mặn, hoặc loại bỏ một phần
đê - kè biển đã xây dựng bao chặt bờ biển);
23
5. Trồng các loài cây ngập mặn thích hợp tại các vị trí thích hợp.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU XÓI LỞ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG VIỆT NAM
1.2.1. Một số nghiên cứu của tác giả nước ngoài
Trong lĩnh vực nghiên cứu về diễn biến bờ biển ĐBSCL thì các nghiên
cứu của nước ngoài thường là những công trình tính toán chung về động lực
học, sóng,… bao hàm cho toàn biển Đông Nam Bộ. Có thể kể đến những công
trình tính toán thủy triều và hoàn lưu gió của K. Wyrtki (1961); các công trình
tính toán phân bố các sóng triều chính của K.T Bogdanov (1963), U. N
Xecgayev (1964), Robinson (1983), T. Yanagi và Takao (1997); các công trình
tính toán về hoàn lưu của T. Pohlmann (1987); các công trình của nhà khoa học
Trung quốc Duan Yi-hong Qin Zeng-hao, Li Yong-ping (1997) và Đài Loan
Yu et al. (2006) về chế độ thủy động lực 3 chiều ở vùng biển Đông. Tuy nhiên,
các kết quả nghiên cứu này đa phần có tính chất giới thiệu, ít tập trung vào một
khu vực cụ thể và hầu như không có các nghiên cứu về vận chuyển bùn cát
[10].
1.2.2. Các công trình nghiên cứu kết hợp của tác giả nước ngoài và trong
nước
Nhóm tác giả Wolanski, Nguyễn Hữu Nhân (1998) đã dựa vào các kết
quả đo đạc, lấy mẫu nước từ thực tế, phân tích hình ảnh để nghiên cứu cơ chế
vận chuyển và bồi lấp bùn cát mịn tại cửa Định An, sông Hậu và chỉ ra rằng, các
cửa này bị bồi lắng do bùn cát bơm từ biển vào cuối mùa mưa trong sự tồn tại
của nêm mặn và kết bông [75]. Năm 2005, nhóm nghiên cứu trên cũng đã đưa ra
một bức tranh toàn cảnh về sự biến đổi các yếu tố thủy động lực và vận chuyển
bùn cát vùng cửa sông ĐBSCL qua mùa mưa và mùa khô dưới tác động của lưu
lượng nước sông Mê Công và lượng phù sa mà nó mang ra biển. Lưu lượng sông Mê Công thay đổi theo mùa, thường là 2.100 m3/s trong tháng 4 (mùa dòng chảy thấp) và 40.000 m3/s trong tháng 9 (mùa dòng chảy cao). Ngoài ra, nghiên cứu còn có sự so sánh lượng phù sa sông Mê Công vận chuyển là 160.106 tấn/năm
24
bằng với sông Mississippi, bằng 85% của sông Dương Tử và nó lớn hơn so với
sông Amazon là 12% [74]. Các kết quả nghiên cứu này đề cập đến quá trình thủy
động lực và vận chuyển bùn cát vùng cửa sông Mê Công, tuy nhiên chưa đề cập
cụ thể và chi tiết đến vùng bờ biển Trà Vinh.
Nghiên cứu về những thay đổi dài hạn của đường bờ biển Trà Vinh và
các tỉnh lân cận phải kể đến các kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả người Nhật
(Toru Tamura, Tanabe, Tateishi, Kobayashi, Saito,…) kết hợp với các nhà khoa
học trong nước (Nguyễn Văn Lập, Tạ Thị Kim Oanh) sử dụng phương pháp
phân tích nhiệt huỳnh quang thạch anh (OSL) và phân tích tuổi tuyệt đối của các
lớp trầm tích trong các mũi khoan dọc theo các tuyến trong hai tỉnh Bến Tre, Trà
Vinh đề xuất do băng hà tan từ 12000 trước hiện tại (BP) đến 5500 năm BP, mực
nước biển ở ĐBSCL đã dâng từ -70 mét đến +3,5 mét so với mực nước biển hiện
nay. Từ 5000 năm BP trở lại, mực nước biển rút về mực nước biển hiện tại. Sự
hạ thấp mực nước biển dẫn đến việc hình thành một mực nước biển mới, sau mỗi
giai đoạn như thế thì có một bờ biển mới được hình thành và cuối cùng hình
thành nên những vạt cồn cát chạy song song với bờ biển hiện tại mà người ta
thấy ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (hình 1.9 và 1.10) [63] [62] [57] [14] [8].
Các kết quả nghiên cứu
này phác họa rõ nét lịch sử
phát triển dải bờ biển Trà
Vinh nhưng ít đề cập đến
các tác động do sóng, dòng
chảy và vận chuyển bùn
cát dọc bờ - nguyên nhân
gây ra các biến đổi ngắn
hạn (bồi/xói) bờ biển Trà
Vinh.
25
Hình 1. 9: Tuổi các giồng phân tích bằng phương pháp nhiệt huỳnh quang thạch anh từ Vàm Láng (Tiền Giang) đến Duyên Hải (Trà Vinh) [63]
Hình 1. 10: Quá trình hình thành và phát triển của các tỉnh giữa sông Tiền và sông Hậu từ 3500 năm trước hiện tại [63] (Đường màu đen là các đường bờ biển hình thành qua các thời kỳ)
Hình 1. 11: Xu thế tích tụ trầm tích và vận chuyển trầm tích [13]
Nguyễn Trung Thành và nnk. [13], năm 2011 đã công bố kết quả nghiên
cứu từ đề tài hợp tác Việt Nam-CHLB Đức “Nghiên cứu tiến hóa đới ven biển
đồng bằng Sông Cửu Long và vùng thềm lục địa kế cận trong Holocen hiện đại
phục vụ phát triển bền vững” (2008 – 2009). Nhóm nghiên cứu đã phân tích các
mẫu trầm tích thu thập được thuộc phần châu thổ ngầm từ cửa Cung Hầu đến
26
bán đảo Cà Mau và sử dụng mô hình Mike 21 để tính toán thủy động lực. Kết
quả nghiên cứu về động lực dòng chảy ven bờ cho thấy sự chiếm ưu thế của
dòng chảy ven bờ về phía tây nam vào mùa đông dưới ảnh hưởng của gió mùa
đông bắc, từ đó khẳng định được sự chiếm ưu thế của quá trình vận chuyển trầm
tích dọc bờ về phía tây nam trong mùa này. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cung cấp
thông tin về dạng trầm tích ven biển Trà Vinh là vùng cát tích tụ chiếm ưu thế
(Hình 1. 11). Đây là nghiên cứu cho toàn bộ đới ven biển ĐBSCL nên không tập
trung chi tiết vào dải bờ biển Trà Vinh.
Giai đoạn gần đây có sự đầu tư với quy mô lớn của Tổ chức Hợp tác
Quốc tế Nhật Bản (JICA) vào dự án “Thích ứng với biến đổi khí hậu cho phát
triển bền vững Nông nghiệp và Nông thôn các tỉnh ven biển ĐBSCL” thực hiện
từ năm 2011 – 2013. Một số chuyên đề trong dự án này do Hoàng Văn Huân,
Nguyễn Hữu Nhân (Viện Kỹ thuật Biển) thực hiện đã sử dụng phần mềm Mike
21/3 FM để tính toán chế độ thủy động lực, sóng và diễn biến bồi/xói cho toàn
bộ khu vực ven biển ĐBSCL, bao
hàm cả bờ biển Trà Vinh [4]. Lưới
tính cho vùng nghiên cứu có phạm
vi rộng lớn bao gồm biển Đông và
Tây Việt Nam, kích thước lưới
được chia nhỏ dần khi vào các khu
vực gần bờ (xem hình 1.12). Tuy
nhiên, việc toàn bộ lưới chia là tam
giác sẽ làm gia tăng khối lượng tính
toán (thời gian) của máy tính và
cũng chưa có các phân tích chi tiết
về chế độ thủy động lực và vận
chuyển bùn cát cho riêng vùng bờ
biển Trà Vinh.
27
Hình 1. 12: Lưới tính vùng nghiên cứu của dự án JICA [4].
Dự án EU- AFD năm 2017 do cơ quan phát triển Pháp kết hợp với Viện
KHTL miền Nam [23], là dự án nghiên cứu về quá trình xói lở vùng ven biển
ĐBSCL và tập trung nhiều vào vùng ven biển Gò Công và U Minh. Ưu điểm của
nghiên cứu này là với nguồn kinh phí lớn nên dữ liệu khảo sát rất phong phú, các
mô hình mô phỏng sóng, dòng chảy, vận chuyển bùn cát được kiểm định chi tiết,
lưới tính được chia rất mịn cho vùng trọng điểm (nhỏ hơn 2 -3 lần bước sóng),
các kết quả tính toán có tin cậy cao và xây dựng được bộ cơ sở dữ liệu phong
phú cho các dự án sau. Ưu điểm thứ 2 là dự án kết hợp tính toán nhiều mô hình
hiện đại như TELEMAC-2D, SYSIPHE, MIKE 21/3 FM,…Tuy nhiên, dự án
vẫn chú trọng phân tích nhiều đến diễn biến hình thái (bồi/xói) mà chưa phân
tích kỹ đến quá trình cân bằng bùn cát đối với mỗi đoạn bờ biển.
1.2.3. Các công trình nghiên cứu của tác giả trong nước
Các nghiên cứu gần đây có liên quan đến lĩnh vực và phạm vi nghiên
cứu của luận án, có thể kể đến:
Nguyễn Địch Dỹ (2010) nghiên cứu địa chất-địa mạo vùng cửa sông và
khu vực đới bờ 4 tỉnh ven biển ĐBSCL gồm Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh và
Sóc Trăng. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích tuổi tuyệt đối của các
lớp trầm tích trong các mũi khoan địa chất, xây dựng được bản đồ mặt cắt địa
chất các tỉnh ven biển [8].
Tham khảo mặt cắt địa chất ven biển Trà Vinh (Hình 1.13) cho thấy lớp
trầm tích phần trên cùng (mới nhất) của vùng biển ven bờ Trà Vinh có nguồn gốc
3) (Trầm tích nguồn gốc sông): Nhìn chung thành
chủ yếu từ sông – biển, gồm 3 loại [8]:
- Trầm tích aluvi (aQ2
3b): Thành phần trầm tích chủ yếu là bột
phần trầm tích chủ yếu là bột-sét xen lẫn cát hạt mịn.
- Trầm tích sông - đầm lầy (abQ2
sét màu xám đen chứa tàn tích thực vật.
- Trầm tích nguồn gốc hỗn hợp sông - biển (amQ23b): Thành phần trầm
28
tích chủ yếu là cát pha sét.
Nhìn nhận một cách tổng quan, vùng bờ biển gần cửa Cung Hầu, Định
An và một số cửa rạch nhỏ cắt ngang bờ biển Trà Vinh có trầm tích (lớp trên)
nguồn gốc chủ yếu từ sông với thành phần thạch học chủ yếu là bột sét (aQ23,
abQ23b) thích hợp cho các giống cây rừng ngập mặn phát triển. Các phần còn lại
của bờ biển Trà Vinh có trầm tích nguồn gốc hỗn hợp sông - biển với thành phần
thạch học là cát pha sét, thích hợp cho rừng phi lao phòng hộ phát triển. Các kết
quả nghiên cứu về đặc điểm địa chất ven biển Trà Vinh có ý nghĩa trong việc
thiết lập đặc điểm lớp trầm tích đáy trong các mô hình tính toán thủy động lực –
bùn cát và trong việc định hướng các giải pháp bảo vệ bờ biển bằng trồng rừng
ngập mặn hoặc rừng phi lao phòng hộ.
Hình 1. 13: Mặt cắt địa chất ven biển Trà Vinh [8]
Nguyễn Hữu Nhân (2011) nghiên cứu về sự biến dạng của các yếu tố
triều trên biển ven bờ và các cửa sông Nam Bộ do nước biển dâng. Dựa trên các
chuỗi số liệu triều thực đo dọc bờ biển Nam Bộ và dự báo bằng mô hình toán,
ông đưa ra một số kết luận về sự dịch chuyển pha triều và biên độ triều trước ảnh
hưởng của nước biển dâng [11].
Vũ Duy Vĩnh và nnk. [19] năm 2014 đã công bố kết quả nghiên cứu áp
dụng mô hình toán học 3 chiều (3D) - để nghiên cứu, đánh giá biến động địa
29
hình ở vùng ven bờ châu thổ sông Mê Công. Mô hình được thiết lập (dựa trên hệ
thống mô hình Delft3D) với 4 lớp độ sâu theo hệ tọa độ Sigma, lưới tính của mô
hình được xây dựng gồm lưới chi tiết ở phía trong và lưới tính thô ở phía ngoài
(Hình 1.14). Theo đó, do ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều nên
dòng trầm tích bị giữ lại nhiều ở vùng cửa sông ven bờ tạo thành các bãi bồi
ngay tại các cửa.
Trong khoảng 10 km
từ bờ ra, xu thế bồi tụ
đáy chiếm ưu thế
trong mùa mưa. Vào
mùa khô, quá trình xói
mang trầm tích ở dải
ven bờ và các bãi bồi
ở cửa sông di chuyển
về phía Tây Nam của
vùng ven bờ châu thổ.
Hình 1. 14: Lưới tính của mô hình trong nghiên cứu của Vũ Duy Vĩnh [19]
Kết quả nghiên cứu về sự phân bố trầm tích lơ lửng tại các cửa sông (hình
1.15) cho thấy, vào mùa mưa sự phát tán của trầm tích lơ lửng từ lục địa ra phía
ngoài biển mạnh mẽ hơn hẳn so với mùa khô. Tải lượng trầm tích lơ lửng được
ghi nhận lớn nhất tại cửa Định An (trong các cửa sông Mê Công), thể hiện rõ nét
30
vào thời điểm mùa mưa.
Trên cơ sở mô hình đã thiết lập, Vũ Duy Vĩnh tiếp tục nghiên cứu về sự
Hình 1. 15: Phân bố trầm tích lơ lửng (kg/m3) tầng mặt vùng ven bờ Châu thổ sông Mê Công (mùa khô: a- triều lên; b- triều xuống; mùa mưa: c- triều lên; d- triều xuống) [19]
ảnh hưởng của nước biển dâng đối với đặc điểm biến động địa hình các cửa sông
Mê Công (2015) [72]. Các kịch bản chạy bao gồm kịch bản hiện trạng, kịch bản
dự báo mực nước biển dâng 25 cm và 50 cm (kịch bản phát thải trung bình - B2)
trong mùa lũ và mùa cạn. Kết quả phân tích sự thay đổi địa hình các mặt cắt cửa
sông (hình 1.16) cho thấy sự dâng cao mực nước biển do biển đổi khí hậu làm
hạn chế sự phát tán của dòng trầm tích về phía biển mà chỉ tập trung di chuyển
quanh các cửa sông. Kết quả là làm tăng tốc độ bồi tại các bãi bồi khu vực phía
ngoài các cửa sông phía nam của vùng ven bờ châu thổ sông Mê Công. Trong
nghiên cứu cũng phân tích “tác động của sự dâng cao mực nước đến địa hình đáy
vùng cửa sông ven biển rất khác nhau và phụ thuộc vào các điều kiện địa hình,
31
động lực và điều kiện vận chuyển trầm tích của mỗi khu vực”.
Hình 1. 16: Biến động địa hình (cm) khu vực cửa Trần Đề và Cung Hầu sau 1 tháng [72]
Đây là nghiên cứu tương đối chi tiết và đầy đủ về chế độ thủy động lực,
vận chuyển bùn cát và ảnh hưởng của NBD đến khu vực ven biển Nam Bộ [19]
[72]. Tuy nhiên, luận án nhận thấy còn một số khoảng trống cần được phát triển
nghiên cứu như sau: (i) Việc thiết lập lưới mô hình toàn bộ là tứ giác trực giao sẽ
khó khăn khi mô tả địa hình các khu vực gần bờ, (ii) Nghiên cứu chưa xét đến
ảnh hưởng của NBD tới địa hình đáy cửa Định An và ven biển Trà Vinh.
Đề tài độc lập cấp nhà nước của Nguyễn Hữu Nhân (2015) [10] sử dụng
mô hình Mike 21 F/M nghiên cứu về nguyên nhân, cơ chế hình thành các bãi bồi
Cà Mau. Không dừng lại ở vùng ven biển Cà Mau, lưới tính cho vùng nghiên
cứu mở rộng của đề tài bao trùm toàn bộ vùng biển Đông và biển Tây Việt Nam,
các kết quả tính toán của đề tài đã cung cấp bộ số liệu vô cùng phong phú về
trường sóng, dòng chảy, vận chuyển bùn cát, chế độ bồi xói,... đã được kiểm
định chặt chẽ với số liệu thực tế mang lại độ tin cậy và chính xác cao. Ngoài ra,
tác giả còn đề xuất một quy luật diễn biến địa hình đáy vùng bờ biển Cà Mau
phụ thuộc vào thời gian (Hình 1.17). Đây là một hướng nghiên cứu mới, chưa
32
được áp dụng tính toán đối với các khu vực ven biển ĐBSCL, bao gồm vùng ven
biển Trà Vinh.
Hình 1. 17: Các quy luật diễn biến địa hình đáy phổ biến tại vùng bồi tụ ven biển Cà Mau [10]
Trên đây là một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu về các vấn đề
liên quan đến diễn biến bờ biển
ĐBSCL, bao gồm cả bờ biển Trà
Vinh. Ngoài ra, còn nhiều nghiên cứu
của các nhà khoa học trong và ngoài
nước, cũng như các Trường đại học,
viện nghiên cứu cùng chuyên ngành
mà luận án chưa thể liệt kê hết được.
1.3. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU XÓI LỞ BỜ BIỂN TRÀ VINH
1.3.1. Kết quả nghiên cứu của tác giả nước ngoài
Công trình nghiên cứu cho riêng bờ biển Trà Vinh không nhiều. Nghiên
cứu về những thay đổi ngắn hạn của bờ biển Trà Vinh, thời gian gần đây nhất
(09/2017) có công bố của nhóm tác giả (Anthony, Dussouillez,
Dolique, Besset, Brunier, Nguyen V. L., Goichot). Các kết quả đo đạc địa hình,
sóng và dòng chảy có độ phân giải cao đã được tiến hành từ năm 2010 đến năm
2012 tại bãi biển Ba Động, Trà Vinh. Nghiên cứu ghi nhận sự đảo chiều hướng
sóng đại dương để đáp ứng với gió mùa tây nam và gió mùa đông bắc tại khu
vực biển đông. Trong mùa dòng chảy thấp, bãi biển được đặc trưng bởi sóng gió
mùa đông bắc và dòng chảy dọc bờ biển vận chuyển bùn cát về phía tây nam.
Dòng chảy dọc bờ thấp hơn về phía đông bắc được tạo ra bởi sóng gió mùa tây
nam trong mùa chảy dòng chảy cao. Điều này dẫn đến hiện tượng xói lở nghiêm
trọng khu vực bãi biển Ba Động trong mùa gió đông bắc [25]. Kết quả nghiên
cứu bằng phương pháp đo đạc thực địa luôn có độ tin cậy cao, nhưng do yếu tố
33
kinh tế, vùng nghiên cứu chỉ gồm một phần nhỏ của bờ biển Trà Vinh và số liệu
quan trắc cũng khó liên tục.
1.3.2. Kết quả nghiên cứu trong nước
Một số nghiên cứu có phạm vi gần với khu vực bờ biển Trà Vinh gồm
có: (i) Phạm Sơn Hải (2004) – Viện nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt đã sử dụng
phương pháp đánh dấu phóng xạ nghiên cứu cơ chế vận chuyển nguồn gốc bùn
cát gây bồi lắng cửa Định An và phát hiện ra cơ chế sàng lắc trong chuyển động
bùn cát dọc theo luồng tầu dưới tác dụng của sóng và dòng chảy [15]; (ii) Vũ
Kiên Trung (2009) sử dụng mô hình toán nghiên cứu về sự hình thành các bãi
bồi ven biển khu vực từ cửa Tiểu đến cửa Định An và đề xuất các giải pháp khai
thác [20].
Các nghiên cứu chuyên sâu cho riêng vùng bờ biển Trà Vinh phải kể đến
Hoàng Văn Huân (2008, 2013, 2014) [1] [2] [3]. Trong đó, tiêu biểu nhất là đề
tài cấp nhà nước “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp Khoa học Công nghệ dự
báo, phòng chống biển lấn đoạn bờ biển tỉnh Trà Vinh và vùng phụ cận” [1] đã
nghiên cứu về các vấn đề: (i) khảo sát thực địa diễn biến đường bờ qua mùa gió
Đông bắc – Tây Nam; (ii) khảo sát một số vị trí địa hình, sóng, dòng chảy, nồng
độ bùn cát lơ lửng để phục vụ tính toán mô hình; (iii) sử dụng ảnh viễn thám
phân tích diễn biến đường bờ giai đoạn từ 1989 – 2012; (iiii) sử dụng mô hình
toán đánh giá tổng hợp các yếu tố thủy động lực ven bờ, diễn biến bồi xói có xét
đến kịch bản bão và NBD; (iiiii) đề xuất các giải pháp phòng chống xói lở cho
các khu vực trọng điểm.
Các kịch bản đều được tính toán tốc độ dòng chảy, chiều cao sóng, diễn
biến bồi/xói để so sánh. Kết quả dự báo đối với kịch bản bão cấp 12 là: sạt lở bờ
biển sẽ tăng đáng kể, bồi lấp cửa sông sẽ tăng khá mạnh và ngưỡng cạn tại các
cửa sông sẽ di chuyển sâu vào bên trong các nhánh sông. Kết quả dự báo đối với
kịch bản NBD =15cm (năm 2020): không ảnh hưởng nhiều đến quá trình sạt lở
34
do nó không ảnh hưởng nhiều đến giá trị dòng chảy và sóng [1].
Đề tài [1] cũng đã phân tích các yếu tố tác động đến quá trình xói lở - bồi
tụ bờ biển Trà Vinh, được phân làm ba nhóm: (i) yếu tố nội sinh gồm: cấu tạo địa
chất vùng bờ, hướng đường bờ; (ii) yếu tố ngoại sinh gồm: tác động của dòng
chảy biển, tác động của gió, sóng, thủy triều, nước biển dâng,… (iii) yếu tố nhân
sinh gồm: xây dựng các công trình thủy điện trên thượng nguồn sông Mê Công,
xây dựng các công trình vùng ven biển và các hoạt động khai thác cát.
Một số điểm lưu ý trong đề tài trên là:
- Đề tài đã tính toán các yếu tố thủy động lực (sóng, dòng chảy, thủy
triều) và diễn biến hình thái bờ biển (quá trình bồi/xói) nhưng chưa đề cập, phân
tích đến sự khác biệt của dòng vận chuyển bùn cát ven bờ giữa 2 mùa gió Đông
bắc và Tây Nam (yếu tố cơ bản gây ra những thay đổi ngắn hạn của đường bờ).
- Kịch bản NBD 15cm vào năm 2020 là kịch bản cũ, cần được cập nhật
mới theo dự báo của Bộ TNMT năm 2016. Nghiên cứu chỉ tập trung phân tích về
dòng chảy và sóng, chưa có kết quả trích xuất cao trình địa hình đáy để so sánh
chi tiết giữa các kịch bản hiện trạng và NBD. Ngoài ra, đề tài chỉ xây dựng 1
kịch bản NBD =15cm, cần bổ sung thêm kịch bản khác để thấy rõ xu thế biến
động địa hình đáy phụ thuộc vào mức độ dâng cao của mực nước biển.
- Việc xây dựng các công trình thủy điện trên thượng nguồn sông Mê
Công làm giảm đáng kể lượng phù sa, dẫn tới làm nghiêm trọng hơn tình trạng
xói lở bờ biển Trà Vinh trong thời gian qua. Nhưng, trong nghiên cứu chưa có
tính toán cụ thể mức độ ảnh hưởng của sự suy giảm lượng phù sa sông Mê Công
đến xu thế biến động địa hình đáy khu vực ven biển Trà Vinh.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU DIỄN BIẾN BỜ BIỂN
Từ tổng hợp các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước đã được liệt kê
ở phần trên, luận án nhận thấy những phương pháp sau đây được sử dụng khá
rộng rãi trong nghiên cứu về chế độ thủy động lực và diễn biến bờ biển hiện nay:
Phương pháp nghiên cứu trên mô hình thực tế 1-1: Nhằm đánh giá
35
định tính và định lượng các đặc trưng động lực vùng cửa sông ven biển thông
qua khảo sát, điều tra và đo đạc thực địa khu vực cửa sông, ven biển theo các
mùa trong một số năm để so sánh, đánh giá diễn biến và để bổ sung số liệu đầu
vào cho việc áp dụng mô hình toán, thiết lập mô hình vật lý,... Đây là phương
pháp được sử dụng sớm nhất, hiện nay đã được nâng cấp nhờ hiện đại hóa, chính
xác hóa các thiết bị đo, như máy đo lưu tốc, lưu lượng ADCP, máy định vị vệ
tinh DGPS, thiết bị đo sóng, đo bùn cát, đo độ mặn,... Tuy nhiên mức độ chính
xác của phương pháp này hoàn toàn phụ thuộc vào số liệu đo đạc, mà độ chính
xác của số liệu đo là do phương pháp đo, thiết bị đo và ảnh hưởng của các yếu tố
thời tiết.
Phương pháp thống kê: Với phương pháp này một số yếu tố tự nhiên
ảnh hưởng đến các vùng bờ biển được phân tích nghiên cứu nhằm xác định quy
luật thống kê để áp dụng vào các nghiên cứu đề xuất định hướng các giải pháp
khoa học công nghệ.
Phương pháp mô hình vật lý: Các nghiên cứu về diễn biến xói lở, bồi
tụ cửa sông, bờ biển bằng mô hình vật lý tập trung đi sâu phân tích trường dòng
chảy và các tác động của công trình xây dựng. Do tính chất phức tạp của các quá
trình thủy động lực hình thái ở cửa sông, bờ biển mà các nghiên cứu trên mô
hình vật lý có những hạn chế về phạm vi không gian nghiên cứu cũng như thời
đoạn nghiên cứu. Nghiên cứu trên mô hình vật lý bằng mô hình lòng động có xét
tới vận chuyển bùn cát và biến đổi lòng dẫn chỉ có thể thực hiện được một số rất
ít phòng thí nghiệm tiên tiến trên thế giới như phòng thí nghiệm biển của Hiệp
hội kỹ thuật Quân đội Mỹ, phòng thí nghiệm biển của Đại học Hanover, Đức,
hay phòng thí nghiệm thủy lực của Deltares (trước kia là Viện thủy lực Delft, Hà
Lan).
Ở Việt Nam, các cơ sở nghiên cứu thí nghiệm trên mô hình vật lý vẫn
còn rất ít, cũ kỹ, lạc hậu, hoặc là mới chỉ đang bắt đầu được trang bị các thiết bị
hiện đại để phục vụ cho các nghiên cứu phức tạp về sóng, triều,... Một số cơ sở
thí nghiệm về lĩnh vực này hiện vẫn đang hoạt động ở nước ta hiện nay có: khu
36
thí nghiệm trường Đại học Xây dựng (C6 Bách Khoa), phòng thí nghiệm Công
ty Tư vấn Xây dựng đường thủy (thuộc TEDI), phòng thí nghiệm của Viện Điện
lực... Ngoài ra, một số khu thí nghiệm mới đã được xây dựng như: phòng thí
nghiệm trọng điểm Quốc gia về động lực học Sông – Biển (2001-2007), cơ sở
thí nghiệm phòng chống thiên tai Hòa Lạc với tổng diện tích 25ha (2010), phòng
thí nghiệm Sông - Biển Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam (2011).
Phương pháp mô hình toán: Mô hình toán dùng để mô phỏng và xác
định các quy luật liên quan đến diễn biến bờ biển như vận chuyển bùn cát, quá
trình diễn biến đường bờ, diễn biến mực nước, thủy triều và sóng biển. Với sự
phát triển của các phương pháp tính và sự tiến bộ vượt bậc của ngành công nghệ
thông tin, đã mở ra cơ hội cho hướng nghiên cứu các diễn biến bằng mô hình
toán. Các công cụ nghiên cứu xói lở, bồi tụ, dịch chuyển cửa sông, bờ biển bằng
mô hình toán động lực hình thái 2 chiều, 3 chiều mô phỏng diễn biến hình thái
của các cửa sông, lạch triều ngày càng được hoàn thiện và cho phép mô phỏng
chi tiết hơn, sát thực hơn với các hiện tượng diễn biến trong tự nhiên và thời
đoạn mô phỏng dài hơn.
Để nghiên cứu diễn biến vùng cửa sông, ven biển, hiện nay các mô hình
đang được sử dụng là (i)- các mô hình tính sóng; (ii)- các mô hình tính thủy lực
và (iii)- các mô hình tính vận chuyển bùn cát và biến đổi đường bờ.
Các mô hình toán nhiều chiều, bao gồm cả 2 chiều và 3 chiều, tính toán
thủy động lực – vận chuyển bùn cát bờ biển hiện đại trên thế giới có thể kể tới là:
ROMS, DELFT3D (Deltares), ECOM-SED (Hydroqual), MIKE (DHI), CH3D
(quân đội Mỹ), STORMSED, SEDTRANS, TELEMAC,…
Phương pháp giải đoán ảnh viễn thám: Khai thác thông tin viễn thám
đa thời gian và thông tin địa lý với sự trợ giúp của hệ thống máy tính được cài
đặt các phần mềm xử lý ảnh và bản đồ, để nghiên cứu rất có hiệu quả các vấn đề
diễn biến đường bờ, diễn biến cồn bãi, phân bố hàm lượng bùn cát, lưu hướng
dòng chảy sông biển v.v... Tư liệu viễn thám hiện nay rất đa dạng về chủng loại
và tính năng, hiện nay đang được sử dụng khá rộng rãi ở nhiều cơ quan chuyên
37
ngành nước ta. Nguồn tư liệu ảnh chủ yếu là các ảnh vệ tinh LANDSAT, SPOT
và ADEOS – AVNIR. Tuy vậy, việc phân tích viễn thám mới chỉ tiến hành cho
việc diễn biến đường bờ mà chưa có nghiên cứu sâu hơn như về phân bố độ đục,
chuyển động bùn cát, lưu tốc, trạng thái chảy như ở các nước tiên tiến.
Phương pháp đánh dấu phóng xạ: nghiên cứu chuyển động bùn cát
vùng cửa sông, ven biển. Về nguyên tắc, kỹ thuật đánh dấu dựa trên các đặc
trưng xác định được của chất đánh dấu để suy ra các đặc trưng của chất nghiên
cứu, với giả thiết là chất đánh dấu có cùng đặc trưng động lực của chất nghiên
cứu. Sau khi bơm chất đánh dấu vào môi trường nghiên cứu, theo dõi dịch
chuyển của chất đánh dấu bằng cách xác định hướng và tọa độ tâm khối lượng
của đám mây phóng xạ, từ đó xác định được vận tốc di đẩy của hạt và bề dày
vận chuyển trung bình của lớp di đẩy.
1.5. NHẬN XÉT CHUNG
1.5.1. Những thành tựu đã đạt được
a) Thành tựu về khoa học cơ bản
Mảng nghiên cứu các quá trình động lực - vận chuyển bùn cát cửa sông
ven biển
- Hoàn thiện về việc khám phá các quy luật cơ bản của các yếu tố động lực,
quá trình chuyển động và lắng đọng bùn cát, đặc biệt trong môi trường nước mặn
ở vùng cửa sông ven biển.
- Tập hợp các kết quả nghiên cứu thành các khái quát hóa mang tính
phương pháp luận, viết thành các “cẩm nang” sử dụng trong lĩnh vực nghiên cứu
về cửa sông và bờ biển.
- Phát triển cao hơn về phương pháp tính, trong đó đặc biệt là cải thiện khả
năng mô phỏng thực tế của các mô hình vật lý, nâng cao khả năng tính toán của
các mô hình toán, sử dụng các ảnh viễn thám chất lượng cao nghiên cứu diễn
biến bờ biển.
Mảng nghiên cứu các công trình bảo vệ bờ biển
38
- Hoàn thiện các lý thuyết cơ bản về kỹ thuật xây dựng công trình bảo vệ
bờ biển.
- Phát triển đa dạng về công nghệ và vật liệu nhằm làm tăng hiệu quả bảo
vệ và giảm thiểu kích thước công trình chỉnh trị.
b) Thành tựu nghiên cứu về bờ biển Trà Vinh
- Lịch sử phát triển dải bờ biển Trà Vinh và những kết cấu trầm tích cơ
bản.
- Mô phỏng các yếu tố tác động đến quá trình động lực - vận chuyển bùn
cát khu vực bờ biển Trà Vinh bằng mô hình toán.
- Sự khác biệt về hàm lượng bùn cát sông Mê Công trong mùa lũ và mùa
cạn ảnh hưởng rõ rệt đến sự bồi tụ các bãi bồi khu vực cửa sông.
- Hướng gió mùa đông bắc và tây nam có ảnh hưởng lớn đến hướng sóng
và dòng chảy ven bờ.
- Sự dâng cao mực nước biển (BĐKH) làm tăng tốc độ bồi tại các bãi bồi
khu vực phía ngoài các cửa sông giáp với bờ biển Trà Vinh do dòng trầm tích bị
hạn chế phát tán về phía biển mà chỉ tập trung di chuyển quanh các cửa sông.
- Sử dụng ảnh viễn thám phân tích diễn biến đường bờ giai đoạn từ 1989 –
2015.
- Đề xuất các giải pháp phòng chống xói lở bờ biển.
1.5.2. Những vấn đề tồn tại
Qua phân tích tổng quan luận án nhận thấy rằng: (i) chưa có nghiên cứu
độc lập - chuyên sâu của các chuyên gia quốc tế về vùng biển ven bờ Trà Vinh;
(ii) các kết quả nghiên cứu có giá trị khoa học cao của các chuyên gia quốc tế về
khu vực này đều có kết hợp với các nhà khoa học kinh nghiệm trong nước; (iii)
kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước có liên quan hoặc thực hiện
trực tiếp đối với vùng biển ven bờ Trà Vinh đã đạt được những thành tựu đáng
kể, bao trùm nhiều vấn đề và sát với thực tế. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số
39
vấn đề trong mảng nghiên cứu về bờ biển Trà Vinh:
a) Về nghiên cứu cơ bản
- Các kết quả nghiên cứu về thủy động lực còn phân tán, rời rạc, cần được
tổng quát hóa dưới dạng sơ đồ - bản đồ để thuận tiện cho các công trình nghiên
cứu tiếp theo sử dụng.
- Vấn đề vận chuyển bùn cát dọc bờ, cân bằng bùn cát chưa được nghiên
cứu chi tiết đối với khu vực bờ biển Trà Vinh.
- Kết quả nghiên cứu về sự dâng cao mực nước biển (BĐKH) làm tăng tốc
độ bồi tại các bãi bồi khu vực phía ngoài các cửa sông, nhưng chưa xét đến
những biến động đối với địa hình dải ven biển.
- Chưa có tính toán, phân tích chi tiết bằng số liệu và hình ảnh về mức độ
ảnh hưởng của sự suy giảm lượng phù sa sông Mê Công do xây dựng các công
trình trên thượng nguồn đến xu thế biến động lớp bồi tụ khu vực ven biển Trà
Vinh.
- Chưa có nghiên cứu về quy luật diễn biến địa hình đáy phụ thuộc vào thời
gian cho vùng biển ven bờ Trà Vinh.
- Vấn đề hình thái bờ biển Trà Vinh chưa được phân tích tổng quát trên
phương diện mặt cắt và mặt bằng.
b) Về phương pháp nghiên cứu
- Việc phân tích ảnh viễn thám mới chỉ tiến hành cho việc diễn biến đường
bờ mà chưa có nghiên cứu sâu hơn như về phân bố độ đục, chuyển động bùn cát,
lưu tốc, trạng thái dòng chảy,... như ở các nước tiên tiến.
- Chưa có công trình nghiên cứu bằng mô hình vật lý đối với khu vực dải
bờ biển Trà Vinh vì đây là khu vực rộng lớn, nhiều cơ chế tác động.
- Kết quả nghiên cứu bằng phương pháp đo đạc thực địa chỉ gồm một phần
bờ biển Trà Vinh và số liệu quan trắc cũng khó liên tục.
- Chưa có nghiên cứu sử dụng mô hình toán 3 chiều (3D) để tính toán các
yếu tố thủy động lực và vận chuyển bùn cát cho vùng biển ven bờ Trà Vinh.
40
- Các giải pháp chỉnh trị đã thực hiện hoặc được đề xuất thiên nhiều về tính
thụ động, chưa đáp ứng được hiệu quả như mong muốn về vấn đề bảo vệ và phát
triển bền vững vùng biển ven bờ Trà Vinh.
1.6. ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.6.1. Vấn đề nghiên cứu
Từ tổng kết các vấn đề nêu trên, nhận thấy rằng đối với lĩnh vực nghiên
cứu về diễn biến bờ biển, đặc biệt là đối với bờ biển Trà Vinh ở nước ta còn
nhiều vấn đề cần được đi sâu làm sáng tỏ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận
án, NCS lựa chọn nghiên cứu các vấn đề sau:
- Nghiên cứu những đặc điểm riêng của chế độ thủy động lực và cơ chế vận
chuyển bùn cát ven bờ vùng biển Trà Vinh, từ đó tập hợp các kết quả tính toán
thành “Sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn cát vùng biển ven bờ Trà Vinh”.
- Nghiên cứu hình thái đường bờ biển Trà Vinh và xây dựng quan hệ
đường giữa chiều dày bồi lắng theo thời gian, có xem xét đến ảnh hưởng của sự
suy giảm phù sa sông Mê Công và nước biển dâng.
- Xây dựng cơ sở khoa học để chỉnh trị và ổn định bờ biển Trà Vinh.
1.6.2. Phạm vi nghiên cứu
Quá trình thủy động lực, vận chuyển bùn cát và diễn biến hình thái của
một dải bờ biển là hệ quả của nhiều tác nhân bao gồm: chế độ dòng chảy – bùn
cát trong sông mùa lũ và mùa kiệt, chế độ hải văn - sóng – gió biển khơi, kết cấu
vùng bờ,... Do vậy, phạm vi vùng nghiên cứu sẽ được thiết lập đủ lớn để xét đến
đầy đủ tác động của các tác nhân nói trên. Vấn đề này sẽ được đề cập kỹ hơn
trong chương II, mục 2.3. Xây dựng mô hình tính toán.
Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ tập trung phân tích kỹ hơn đến
vùng bờ bãi biển tỉnh Trà Vinh có chiều dài 65km tính từ phía Bắc về phía Nam
lần lượt bao gồm các xã Mỹ Long Nam, Hiệp Thạnh, Trường Long Hòa, Dân
41
Thành, Đông Hải và Long Vĩnh (Hình 1.18).
Hình 1. 18: Bản đồ vị trí vùng nghiên cứu (được khoanh tròn)
1.7. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong nội dung chương này, luận án đã tổng hợp được các thành tựu
nghiên cứu cơ bản trên thế giới trong lĩnh vực nghiên cứu về diễn biến bờ biển:
(i) ảnh hưởng của các yếu tố thủy động lực như: sóng, thủy triều, nước biển
dâng, dòng chảy từ sông,… lên sự thay đổi hình thái bờ biển; (ii) quá trình vận
chuyển bùn cát ven biển; (iii) các công trình bảo vệ bờ biển; (iv) các phương
pháp nghiên cứu về diễn biến bờ biển hiện nay.
Luận án cũng đã phân tích những thành tựu và vấn đề còn tồn tại trong
các nghiên cứu về diễn biến bờ biển Trà Vinh, từ đó đề xuất hướng nghiên cứu
42
cụ thể.
CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Qua phân tích tổng quan các nghiên cứu về diễn biến bờ biển trên thế
giới, khu vực ĐBSCL và Trà Vinh cho thấy, xu thế nghiên cứu tiên tiến hiện nay
là sử dụng phương pháp mô hình toán.
2.1. PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN MÔ HÌNH TÍNH TOÁN
2.1.1. Giới thiệu phương pháp mô hình toán
Lựa chọn phần mềm
Phương pháp nghiên cứu
chính được lựa chọn để giải
Chuẩn bị dữ liệu
quyết các vấn đề đặt ra nghiên
Xây dựng mô hình
cứu của luận án là phương pháp
mô hình toán. Các bước thực
hiện trong nghiên cứu bài toán
Hiệu chỉnh mô hình (calibration)
diễn biến bờ biển bằng mô hình
toán số thể hiện trên hình 2.1.
Hình 2. 1: Các bước thực hiện
Chứng minh độ chính xác của kết quả (validation)
trong nghiên cứu bài toán diễn
Tính toán các phương án và Xử lý kết quả
biến bờ biển bằng mô hình toán
Viết báo cáo
2.1.2. Lựa chọn phần mềm
Việc lựa chọn mô hình
thực hiện nội dung nghiên cứu được dựa theo những tiêu chuẩn cơ bản liệt kê
trong tài liệu [21] để làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá. Các mô hình được
lựa chọn để so sánh là các mô hình được sử dụng rộng rãi hiện nay trên thế giới
như: ROMS (Regional Ocean Modeling System), POM (Pinceton Ocean Model,
Princeton University), TELEMAC 2D và 3D, DELFT 3D, MIKE 21C (DHI,
Denmark, 2009), MIKE 21/3 coupled model FM (DHI, Denmark, 2009, 2012).
43
Việc phân tích, lựa chọn mô hình thể hiện trong bảng 2.1.
Bảng 2. 1: Phân tích lựa chọn phần mềm
Yêu cầu
Phân tích
STT
Tiêu chuẩn
Mô hình thỏa mãn
Tất cả mô hình
1 Độ tin cậy của mô hình
Các mô hình được lựa chọn so sánh đều đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới nên có thể hoàn toàn tin tưởng về học thuật.
Các module cấu thành mô hình chọn phải có lõi học thuật bảo đảm, được công nhận trên thế giới và ở Việt Nam
ROMS, TELEMA C,
2 Khả năng của mô hình
DELFT 3D, MIKE 21/3 FM
Mô hình chọn phải tích hợp được tính liên tục, liên kết và liên thông giữa tính toán thủy động lực (HD), phổ sóng (SW), vận chuyển bùn cát (M-ST) và bồi xói tại khu vực nghiên cứu là vùng nước rất nông với dòng không ổn định 2 chiều ngang.
- POM: được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu hoàn lưu biển sâu không thích hợp để nghiên cứu cho vùng biển nông vùng nghiên cứu. - TELEMAC: tích hợp đủ các thành phần HD, SW, ST, MT và bồi xói. - MIKE 21C: không thích hợp vì thiếu module SW. - MIKE 21/3 FM, DELFT 3D: tích hợp đủ các thành phần HD, SW, ST, MT và bồi xói trong một hệ thống liên kết, trong đó sự tương tác qua lại giữa chúng được tính đến.
MIKE 21/3 FM
3 Hiệu quả của mô hình
Mô hình cho phép thiết lập lưới tính linh hoạt là tổ hợp các phần tử tam giác (cho các khu vực đường bờ đáy phức tạp) và phần tứ giác (cho các khu vực khác) đảo đảm tính linh hoạt tối ưu, có độ tin cậy cần thiết và giảm thiểu thời gian chạy mô hình.
- Thuận tiện khi sử dụng. - Đáp ứng các yêu cầu tính toán.
MIKE 21C, DELFT 3D, MIKE 21/3 FM
4 Lựa chọn giữa mô hình đóng gói và mã nguồn mở
- ROMS: chỉ thiết lập lưới tứ giác trực giao thuần chủng không đủ độ mềm dẻo để đưa các nhánh sông nhỏ tại các sông Mê Công vào lưới tính tổng thể. - TELEMAC: lưới tính chỉ sử dụng các phần tử thuần chủng tam giác. - DELFT 3D: lưới tính thuần chủng các tứ giác trực giao nên chưa đủ linh hoạt. - MIKE 21C: lưới tính thuần chủng các tứ giác trực giao. - MIKE 21/3 FM: lưới tính linh hoạt do có sự kết hợp giữa các phần tử tam giác và tứ giác. - Mô hình mã nguồn mở (ROMS, POM, TELEMAC): sử dụng khi có nhu cầu thay đổi (phát triển) thuật toán để thực hiện các yêu cầu đặc biệt của bài toán hay địa điểm cụ thể. Khó khăn: yêu cầu kỹ năng lập trình, chi phí để phát triển, kiểm định và bảo trì. - Mô hình đóng gói (DELFT 3D, MIKE 21C, MIKE 21/3 FM): dễ dàng sử dụng, đáp ứng đủ các yêu cầu tính toán.
44
STT
Yêu cầu
Phân tích
Tiêu chuẩn
Mô hình thỏa mãn
5 Giá thành của mô hình
Chi phí thấp nhất cho việc sử dụng mô hình phục vụ học tập và nghiên cứu.
ROMS, POM, TELEMA C,
MIKE 21C, MIKE 21/3 FM
- Ngoại trừ các phần mềm có mã nguồn mở, các phần mềm thủy lực thương mại đều có giá thành tương đối cao, vượt ra ngoài khả năng chi trả của người làm luận án. - Viện Kỹ thuật Biển là cơ quan đào tạo thực hiện luận án này có giấy phép bản quyền sử dụng phần mềm Mike 21.
Các mô hình kể trên đều thỏa mãn.
Tất cả mô hình
Sử dụng giao diện Window, tương thích với nhiều phần mềm Hệ thống thông tin địa lý (GIS), nhập được số liệu đầu vào từ nhiều nguồn.
6 Khả năng nối kết các với phương tiện tính toán khác
NCS đã có thời gian tiếp xúc và sử dụng phần mềm Mike 21 cho công việc.
7 Tính sẵn về
MIKE 21C, MIKE 21/3 FM
có nguồn nhân sự
Nhân sự có khả năng sử dụng tốt phần mềm lựa chọn để phục vụ nghiên cứu.
Tóm lại, luận án sẽ lựa chọn mô hình Mike 21/3 FM để tính toán các vấn
đề nghiên cứu vì phần mềm này thỏa mãn các tiêu chí đưa ra.
2.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA MÔ HÌNH TÍNH TOÁN
Để nghiên cứu diễn biến vùng cửa sông, ven biển bằng mô hình toán cần
thiết phải mô phỏng được các hiện tượng tự nhiên bằng các phương trình toán
học: (i) Mô phỏng dòng chảy vùng nước nông (Hydrodynamic - HD); (ii) Tính
toán sóng (Spectral Wave – SW); (iii) Mô phỏng quá trình vận chuyển bùn cát và
biến hình lòng dẫn (Mud and sand transport – MT và ST).
2.2.1. Mô phỏng dòng chảy vùng nước nông [34]
Đối với dòng chảy vùng cửa sông và ven biển (vùng nước nông) chúng
ta có thể sử dụng các mô hình toán 2 chiều hoặc 3 chiều. Trong mô hình 2 chiều,
thành phần vận tốc theo phương thẳng đứng vô cùng nhỏ được bỏ qua và áp suất
trên thuỷ trực được xấp xỉ coi là phân bố theo quy luật thuỷ tĩnh. Dòng chảy
nước nông được mô tả bởi hệ phương trình:
45
- Phương trình liên tục mô tả quy luật bảo toàn vật chất:
(2.1)
- Phương trình chuyển động mô tả quy luật bảo toàn động lượng theo phương x:
(2.2)
- Phương trình động lượng theo phương y:
(2.3)
Trong đó: biến thời gian (s);
ngang (m); các tọa độ Decartes trên mặt phẳng nằm các thành phần vận tốc trung bình chiều sâu theo phương x và y
(m/s), tham số Coriolis (s-1); gia tốc trọng trường (m/s2); độ dâng mặt
nước so với mốc cao độ, còn gọi là mực nước (m); d độ sâu cột nước khi mực
nước bằng 0; là độ sâu cột nước tổng cộng; khối lượng riêng của
nước (kg/m3); Pa áp suất khí quyển (Pa/m); S độ lớn lưu lượng của các nguồn nước đổ vào miền mô phỏng (m3/s); vận tốc dòng nước chảy từ nguồn vào là các thành phần của ứng suất bức xạ miền mô phỏng (m/s);
sóng lên đơn vị thể tích nước theo các phương x và y (N/m2) (có thể được đưa
vào từ module tính phổ sóng); A là hệ số nhớt rối ngang; , là các thành
phần ứng suất gió trên mặt biển (N/m2); , là các thành phần ứng suất ma
sát đáy (N/m2); là các thành phần nội ứng suất (N/m2); (tỷ lệ thuận với
hệ số nhớt rối ngang A và vận tốc ).
(2.4)
46
Ứng suất ma sát đáy được xác định bởi:
- là khối lượng riêng của nước; là vận tốc trung
Trong đó: bình đẳng sâu cột nước; là hệ số ma sát đáy, xác định theo hệ số Chezy C,
hay hệ số nhám Manning M, qua các công thức: hoặc
Ứng suất gió tác động lên mặt cột nước được xác định bởi
là vận tốc gió trên độ cao 10m so với mặt nước trung bình;
công thức thực nghiệm: . Trong đó:
- là mật độ không khí; là hệ số ma sát gió lên mặt nước.
Hệ số ma sát gió có thể xác định theo công thức kinh nghiệm của Wu
(1980, 1994) đề xuất: (2.5)
Trong đó: - là hệ số kinh nghiệm (
); - là trị số vận tốc gió 10m trên mặt nước.
Hình 2. 2: Vị trí các điểm tính trên lưới so le trong hệ tọa độ x,y [34] [trong đó, p,q(x, y, t) = (uh,vh) là thông lượng dòng chảy theo phương x và y (m3/s/m)]
2.2.2. Tính toán sóng [37]
a) Mật độ tác động sóng (wave
action density)
Mật độ tác động sóng (phổ
sóng) là đại lượng thay đổi theo thời gian (t), vị trí (x,y) và là một hàm của hai
thông số pha sóng: tần số góc tương đối ( ) và hướng sóng ( ). Do đó, N là
hàm của . Mật độ tác động sóng (N) phụ thuộc vào mật độ năng
lượng sóng (E) theo công thức:
(2.6)
Với, tần số góc ;
47
Trong đó: gia tốc trọng trường (m/s2); d Độ sâu nước (m); (2.7) là vector vận tốc
dòng chảy (m/s); , f là tần số sóng); là tần số góc tuyệt đối ( là số
sóng, tỷ lệ nghịch với bước sóng ( , là bước sóng);
b) Phương trình bảo toàn tác động sóng:
Trong hệ tọa độ Decartes nằm ngang, phương trình bảo toàn tác động
sóng có dạng: (2.8)
Trong đó: là mật độ tác động sóng; biến thời gian (s);
các tọa độ Decartes trên mặt phẳng nằm ngang (m); là là vận tốc
lan truyền sóng trong không gian pha bốn chiều (m/s); S là số hạng
nguồn của phương trình cân bằng năng lượng; là toán tử vi phân trong không
gian bốn chiều.
c) Tốc độ lan truyền sóng
được cho bởi các công thức: Bốn tốc độ lan truyền sóng
(2.9)
(2.10)
(2.11)
Trong đó: ; s là tọa độ trong trục có hướng là hướng
là toán ; m là tọa độ trong trục có hướng vuông góc với trục tọa độ s;
sóng tử vi phân hai chiều trong không gian (x,y).
d) Số hạng năng lượng nguồn (the energy source term)
Trong đó:
mô tả sự phát sinh năng lượng sóng bởi gió;
Số hạng năng lượng nguồn (S) được tính theo công thức sau:
(2.12) mô tả sự phát sinh
năng lượng sóng từ tác động qua lại của các sóng phi tuyến; sự tiêu hao năng
lượng do sóng bạc đầu; sự tiêu hao năng lượng do ma sát đáy; sự
48
tiêu hao năng lượng do hiện tượng vỡ sóng nước sâu.
2.2.3. Mô phỏng quá trình vận chuyển bùn cát và biến hình lòng dẫn
Chuyển động của bùn cát tồn tại dưới 2 hình thức: di chuyển dưới đáy
và lơ lửng trong dòng nước. Có sự khác biệt lớn trong cơ chế chuyển động của
bùn cát giữa 2 loại vật liệu là cát rời và bùn kết dính. Đối với vật liệu rời, bùn cát
chuyển động bằng cách lăn hoặc nhảy cóc trong tầng sát đáy. Trong khi đó đối
với vật liệu kết dính, dòng bùn cát chính là dòng chảy trong lòng dẫn. Việc tính
toán bài toán vận chuyển bùn cát và biến hình lòng dẫn vì vậy thường được tách
riêng cho 2 loại vật liệu này. Ngoài ra, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau của
các nhà khoa học quốc tế trong phương pháp luận về quá trình vận chuyển và
lắng đọng bùn cát đã được phân tích trong chuyên đề [12], ở đây chỉ đề cập đến
các công thức được sử dụng bởi một trong các mô hình toán hiện đại trên thế
giới (mô hình Mike 21/3 FM) để thuận tiện cho việc theo dõi.
Bảng 2. 2: Phân loại bùn cát mịn [35]
Loại bùn cát Kích thước hạt Khả năng kết bông
Đất sét (bùn kết dính) < 4μm Cao
Phù sa (bùn kết dính) 4-63 μm Trung bình
Cát mịn 63-125 μm Rất thấp/không kết bông
a) Vận chuyển bùn [35]
Sự vận chuyển bùn (trong bài toán mô hình dòng chảy 2 chiều) được mô
phỏng bởi phương trình bảo toàn vật chất:
(2.13)
Trong đó: biến thời gian (s);
ngang (m); các tọa độ Decartes trên mặt phẳng nằm các thành phần vận tốc trung bình chiều sâu theo phương x và y
(m/s); h độ sâu nước (m); S Số hạng nguồn bùn do xói hoặc bồi
49
(deposition/erosion term) (kg/m3/s); Nồng độ bùn cát lơ lửng trung bình chiều sâu (kg/m3); QL Lưu lượng nguồn trên một đơn vị diện tích (source discharge per
unit horizontal area) (m3/s/m2); CL Nồng độ bùn cát lơ lửng tại nguồn vào (kg/m3); Dx, Dy Hệ số khuếch tán rối (m2/s).
(2.14) Sự bồi tụ (SD) biểu thị bằng công thức:
Trong đó: Ws – tốc độ lắng (m/s), cb – nồng độ bùn cát (kg/m3), pd – xác suất bồi trên đáy (probability of deposition) được tính bằng: , Với, - ứng suất đáy (N/m2), - ứng suất đáy tới hạn bồi (N/m2).
Sự xói lở (SE) được tính riêng cho từng loại lớp đáy (đối với mô hình đa
lớp đáy gồm lớp bùn lỏng ở phía trên và lớp bùn chặt ở dưới). Xem hình 2.11.
)
Đối với lớp bùn chặt, ( , . Trong đó: E – khả năng xói của đáy (erodibility of bed) (kg/m2/s), - ứng suất đáy tới hạn xói (N/m2), n – cường độ xói.
Đối với lớp bùn lỏng, [ ( ) ] , , với – hệ số ( √ ) (2.15)
Mô phỏng hình thái lòng dẫn
Mô hình biến đổi hình thái cập nhật địa hình lòng dẫn theo tốc độ bồi và
xói cho mỗi bước thời gian (nested) và được tính bằng phương trình:
batn+1 = batn + nested n
(2.16) Ở đây: batn là địa hình tại bước thời gian hiện hành; batn+1 là địa hình
tại bước kế tiếp; n là bước thời gian.
Cập nhật địa hình đáy (cho đáy 1 lớp và bùn 1 thành phần): Lượng bồi – SE)Δt; Khối lượng lớp đáy M đã được tính; tụ lên đáy tính bằng: ND = Σ(SD
Nếu xói đang xảy ra (ND < 0) và M+ND <0, thì cần phải điều chỉnh tốc độ xói
và bồi sao cho M+ND=0. Tiếp theo, bề dày và tỷ trọng lớp đáy sẽ được cập nhật
như sau:
(2.17)
b) Vận chuyển cát [36]
50
Dòng vận chuyển cát là tổng lượng bùn cát lơ lửng qs và dòng cát di đẩy
trên đáy qb [tính theo công thức Engelund và Fredsøe (1976)]:
qt = qb + qs = S (2.18)
Dòng cát di đẩy trên đáy qb:
Hướng vận chuyển bùn cát đáy: (2.19)
;
Trong đó, - thông số Shields và
- giá trị tới hạn của thông số Shields Hướng vận chuyển bùn cát đáy theo hướng chính của dòng chảy:
(2.20) Hướng vận chuyển bùn cát đáy theo hướng vuông góc với hướng chính của dòng
(2.21)
chảy: Dòng cát di đẩy trên đáy theo hướng chính của dòng chảy:
(2.22) Dòng cát di đẩy trên đáy theo hướng vuông góc với hướng chính của dòng chảy:
(2.23)
, với - Gia tốc trọng trường - Khối lượng
Trong đó, d50 -Đường kính trung bình của hạt cát (m); (m/s2); - Hướng tức thời của dòng chảy; riêng của cát (kg/m3), - Khối lượng riêng của nước biển (kg/m3);
Dòng cát lơ lửng qs:
(2.24)
Nồng độ bùn cát (c) theo thời gian được tính từ phương trình tính chảy rối sau:
- Tốc độ lắng; Trong đó, εs - Hệ số khuếch tán rối;
(2.25) Dòng cát lơ lửng qs:
Trong đó, D - Độ sâu nước; d - Đường kính của hạt cát; T - Chu kỳ sóng; U1 – vận tốc tức thời của dòng tổng hợp.
Mô phỏng hình thái lòng dẫn
51
Phương trình liên tục vận chuyển cát được mô tả như sau:
(2.26)
Trong đó: n Độ rỗng đáy; z - cao trình đáy; t - thời gian; Sx - Dòng vận chuyển
cát tổng hợp theo phương x; Sy - Dòng vận chuyển cát tổng hợp theo phương y;
ΔS Số hạng nguồn bùn cát (bổ sung vào hoặc bị chìm xuống).
Cập nhật địa hình:
Các phương trình 2.1, 2.2, 2.3, 2.8, 2.13, 2.18,… là các phương trình vi
phân đạo hàm riêng, nói chung không giải được bằng phương pháp giải tích. Do
đó, người ta đã giải các hệ phương trình này bằng phương pháp số với lược đồ
sai phân hữu hạn hoặc thể tích hữu hạn bằng cách chia miền tính thành các ô
lưới. Việc quy định cách chia lưới và phương pháp giải phương trình thuộc về
lựa chọn của các đơn vị xây dựng phần mềm mô hình toán và phải đảm bảo điều
kiện ổn định Courant – Friedrichs – Lewy (CFL).
Trong toán học, điều kiện CFL được trình bày trong các nghiên cứu của
Richard Courant, Kurt Friedrichs và Hans Lewy năm 1928 là điều kiện cần cho
hội tụ khi giải số các phương trình vi phân đạo hàm riêng [34].
Với bài toán hai chiều, điều kiện CFL được cho như sau:
(2.27)
Trong đó: bước thời gian tính toán (s); kích thước lưới chia (m);
các thành phần vận tốc
các tọa độ Decartes trên mặt phẳng nằm ngang (m); trung bình chiều sâu theo phương x và y (m/s); gia tốc trọng trường (m/s2); là độ sâu cột nước (m).
2.2.4. Phương pháp xây dựng bản đồ
Các kết quả của mô hình mới chỉ cho ta bức tranh mô phỏng thuỷ động
lực, sóng, phân bố bùn cát dưới dạng hình ảnh, số liệu. Số liệu thô này chỉ thể
hiện được một số ít thông tin cần đề cập mà chưa mang được giá trị tổng hợp,
52
đầy đủ thông tin hữu ích cần thiết trên một bản đồ, sơ đồ.
Từ các kết quả tính toán về chế độ dòng chảy, sóng, phân bố bùn cát,…,
luận án sử dụng phần mềm ARCGIS để chồng xếp các lớp dữ liệu, từ đó xây
dựng nên sơ đồ phân bố
Thu thập dữ liệu trầm tích đáy và hướng
dòng chảy chủ đạo gió mùa Chọn lọc và xử lý dữ liệu
đông bắc – tây nam ven
biển Trà Vinh. Phân tích chuẩn hoá dữ liệu
Quy trình tiến hành xây Nhập và quản lý dữ liệu dựng sơ đồ thủy động lực
vùng nghiên cứu bằng
phương pháp GIS được thể Kết quả từ tính toán mô hình Dữ liệu GIS đã được cập nhật
hiện trong hình 2.3. Xử lý và phân tích dữ liệu bằng công cụ GIS Hình 2. 3: Qui trình xây
dựng sơ đồ thủy động lực Xuất và trình bày kết quả sơ đồ thủy động lực
bằng phương pháp GIS
2.3. XÂY DỰNG MÔ HÌNH TÍNH TOÁN
2.3.1. Cơ sở số liệu
a) Số liệu địa hình
Số liệu địa hình đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong tính toán mô
phỏng số nhưng cũng yêu cầu nguồn kinh phí rất lớn từ đo đạc khảo sát. Do miền
tính toán rộng lớn, các số liệu được lấy từ nhiều nguồn tin cậy khác nhau. Riêng
vùng ven biển Trà Vinh số liệu được tham khảo từ kết quả thực đo của đề tài [1],
đây là nguồn số liệu quan trọng giúp cho các kết quả tính toán thêm chính xác và
sát với thực tế. Các số liệu ở vùng xa hơn được lấy vào các thời điểm khác nhau,
sai số này là chấp nhận được đối với phạm vi luận án NCS và phù hợp với các
công trình nghiên cứu khác hiện nay về diễn biến bờ biển.
Địa hình vùng ven biển Trà Vinh được lấy từ kết quả thực đo vào năm
53
2011.
Hình 2. 4: Phạm vi địa hình đo đạc trên cạn và dưới nước thu thập cho VNC
Vùng cửa sông Soài Rạp, cửa Tiểu, cửa Đại, Hàm Luông và vùng ven bờ
Gò Công, Cần Giờ, vịnh Gành Rái, địa hình được lấy từ kết quả khảo sát bình đồ
tỉ lệ 1/5.000 trong các năm 2008, 2009, và 2010 trong khuôn khổ các dự án điều
tra cơ bản thực hiện bởi Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam (Viện KHTLMN,
2010a, 2010b) và Viện Kỹ thuật Biển (Viện KTB, 2009).
Đối với các vùng ven bờ từ Tp. HCM đến Kiên Giang thì lấy theo địa hình
trong bản đồ tỉ lệ 1/100.000 của Hải quân xuất bản năm 1982.
Địa hình tại các vùng khác của biển Đông được lấy từ GEBCO của Trung
tâm dữ liệu hải dương học Anh Quốc có độ phân giải 30″ × 30″.
b) Số liệu trường gió
Số liệu trường gió được sử dụng từ kết quả mô hình khí hậu toàn cầu
CFSR (Climate Forecast System Reanalysis) của Trung tâm dự báo môi trường
thuộc Cơ quan quản lý đại dương và khí quyển Mỹ (NCEP/NOAA). Đây là kết
quả trường gió thu được từ mô phỏng “hồi tính” (reanalysis) bao gồm việc hiệu
chỉnh mô hình sử dụng các số liệu thực đo từ các hệ thống các trạm quan trắc hải
văn toàn cầu nên có độ tin cậy cao. Số liệu trường gió này có bước thời gian là 3 giờ và bước lưới là 0.5o × 0.5o. Đây là bộ số liệu rất tốt phục vụ nghiên cứu khí
hậu sóng gió.
54
c) Số liệu sóng
Mô hình vùng nghiên cứu cần số liệu sóng tại 3 biên mở ra biển Đông của
miền tính toán (Hình 2.8). Số liệu này được trích xuất từ mô hình tính toán cho
toàn biển đông (được xây dựng, kiểm định và công bố kết quả nghiên cứu trên
bài báo số 2 trong Danh mục các công trình đã công bố của NCS). Đây là chuỗi
số liệu thông số sóng thay đổi theo thời gian (Δt =60 phút) và theo vị trí các điểm
trên biên, các biến số chính: hướng sóng tới, chu kỳ sóng tới, độ cao sóng có
nghĩa.
Số liệu quan trắc
sóng và dòng chảy tại 3 vị
trí đo đạc năm 2011 và
năm 2014 như hình 2.5
được sử dụng vào mục
đích hiệu chỉnh và kiểm
định mô hình MIKE21C
SW.
Hình 2. 5: Vị trí các trạm đo năm 2011 và năm 2014.
d) Số liệu thủy văn
Số liệu lưu lượng tại các trạm thủy văn Mỹ Thuận, Cần Thơ và số liệu
mực nước tại các trạm Nhà Bè, Thị Vải (Hình 2.8) là tài liệu thực đo theo giờ,
chuỗi số liệu cho toàn năm 2011 phục vụ tính toán và tháng 8/2014 phục vụ kiểm
định mô hình.
Số liệu mực nước tại 3 biên mở ra biển Đông của miền tính toán (Hình
2.8) cũng được trích xuất từ mô hình tính toán cho toàn biển đông (được xây
dựng, kiểm định và công bố kết quả nghiên cứu trên bài báo số 2 trong Danh mục
các công trình đã công bố của NCS). Đây là chuỗi số liệu mực nước thay đổi
55
theo thời gian và theo vị trí các điểm trên biên.
Số liệu mực nước, lưu lượng tại trạm Cổ Chiên (đo năm 2011) và trạm đo
mực nước ven bờ năm 2014 được sử dụng vào mục đích hiệu chỉnh và kiểm định
mô hình (xem hình 2.5).
e) Số liệu bùn cát
Số liệu về hàm lượng phù sa lơ lửng
tại trạm Mỹ Thuận, Cần Thơ, Nhà Bè, Thị
Vải (Hình 2.8) là tài liệu thực đo, phục vụ
làm biên đầu vào cho mô hình. Do các mặt
cắt này cách rất xa bờ biển Trà Vinh, nên ta
có thể dùng số liệu bình quân ngày.
Số liệu bùn cát lơ lửng quan trắc tại
các điểm lấy mẫu năm 2011 và 2014 để
hiệu chỉnh và kiểm định mô hình. Vị trí các
điểm lấy mẫu năm 2011 và năm 2014 được
thể hiện trên hình 2.6 và 2.7.
Hình 2. 6: Vị trí các điểm lấy mẫu bùn cát lơ lửng, bùn cát đáy năm 2011
Hình 2. 7: Vị trí các điểm lấy mẫu bùn cát lơ lửng, bùn cát đáy năm 2014
2.3.2. Thiết lập mô hình toán
số
a) Xác định miền tính toán
Ảnh hưởng đến diễn biến bờ biển Trà Vinh ngoài các yếu tố tác động từ
sông Mê Công, sóng – dòng chảy biển Đông,... còn có ảnh hưởng của hệ thống
sông Sài Gòn – Đồng Nai. Vì vậy, luận án chọn miền tính toán đủ lớn để bao trọn
những yếu tố có thể ảnh hưởng đến bờ biển Trà Vinh và đảm bảo giảm thiểu ảnh
56
hưởng do các sai số tính toán từ các biên mở tới vùng nghiên cứu chính, cũng
như tối ưu nhất về mặt thời gian chạy mô hình. Phạm vi không gian miền tính
toán như sau (xem hình 2.8):
- Các biên mở phía sông gồm: (1) Mỹ Thuận (sông Tiền); (2) Cần Thơ
(sông Hậu); (3) Nhà Bè và (4) Thị Vải. Vị trí các biên này được lựa chọn trùng
với vị trí các trạm thủy văn hiện có để thuận tiện cho việc thu thập số liệu thực đo
về mực nước và lưu lượng;
- Các biên mở phía biển Đông gồm: (1) biên phía Bắc (mũi Long Hải –
Vũng Tàu); (2) biên phía Nam (gần cửa sông Mỹ Thanh - tỉnh Sóc Trăng); (3)
biên phía Đông (cách bờ biển Trà Vinh khoảng 40 km);
- Các ranh giới còn lại của miền tính toán là các đường bờ biển, bờ sông
hiện hữu được xác định tọa độ từ Google Earth và định dạng là các biên đóng
(không có sự giao thoa của mực nước, lưu lượng, thông lượng bùn cát,...).
b) Thiết lập lưới tính và dữ liệu đầu vào tại các biên mở (Hình 2.8)
- Lưới tính được tạo ra bằng công cụ Mesh Generator, là sự kết hợp giữa
lưới tam giác và lưới tứ giác. Với mục đích mô phỏng tương đối chính xác địa
hình thực tế và tối ưu nhất về mặt thời gian chạy mô hình, lưới được chia theo
quy tắc: lưới tam giác để mô phỏng địa hình có đường bờ phức tạp, kích thước
lưới tăng dần từ lưới chi tiết (VNC chính) đến lưới thô (xa VNC). Số ô lưới
khoảng 13.000 (ô) với kích thước lưới nhỏ nhất khoảng 50m và kích thước lớn
57
nhất khoảng 2500m. Tổng số nút lưới khoảng 12.000 (nút).
Thị Vải
Nhà Bè
Mỹ Thuận
Biên phía Bắc
Cần Thơ
Trà Vinh
Độ sâu (m)
Trên
Biên phía Đông
Biên phía Nam
Dưới
Hình 2. 8: Lưới tính, địa hình đáy biển và ba đoạn biên mở của miền tính
- Mô phỏng địa hình: cơ sở dữ liệu về địa hình được gán cho các nút lưới
bao gồm thông số về tọa độ và cao trình đáy.
- Mô phỏng tác động từ sông Mê Công: hai biên mở Mỹ Thuận và Cần
Thơ được khai báo dữ liệu về lưu lượng dòng chảy và hàm lượng phù sa lơ lửng.
- Mô phỏng tác động từ hệ thống sông Sài Gòn – Đồng Nai: hai biên mở
Nhà Bè và Thị Vải được khai báo dữ liệu về mực nước và hàm lượng phù sa lơ
lửng.
- Mô phỏng tác động từ biển Đông: 03 biên mở biên phía Bắc, biên phía
Đông và biên phía Nam được khai báo dữ liệu về mực nước và các thông số
58
sóng.
- Mô phỏng chế độ gió: khai báo số liệu trường gió biển Đông trong năm
2011 (nguồn gốc các dữ liệu đã được nhắc tới trong phần “cơ sở số liệu”).
- Mô phỏng các công trình bảo vệ bờ và hiện trạng kênh chính tại thời
điểm tính toán: Năm 2011, tại bờ biển Trà Vinh có 2 công trình là kè bảo vệ bờ
biển xã Hiệp Thạnh (dài 1,3km) và kè bảo vệ bờ biển ấp Cồn Trứng, xã Trường
Long Hòa (dài
1,5km), các vị trí
Kè xã Hiệp Thạnh
này được mô
phỏng là các biên
Kênh Quan Chánh Bố
cứng, giới hạn
Kè xã Trường Long Hòa
dòng chảy và tác
động sóng; Hệ
thống kênh Quan
Kênh Tắt (đang đào dở)
Chánh Bố và kênh
Tắt (đang đào dở,
đến năm 2016 mới
thông dòng) (Hình
2.9).
Hình 2. 9: Mô phỏng các công trình bảo vệ bờ và kênh chính trên lưới tính
c) Bộ thông số mô hình cơ bản
Các module sử dụng đồng thời trong mô hình MIKE 21/3 Coupled model
FM bao gồm (xem hình 2.10):
- Module thủy động lực học (Hydrodynamic – HD) để xác định trường
dòng chảy và cao độ mặt nước;
- Module phổ sóng (Spectral Wave – SW) để xác định trường sóng và ứng
suất tán xạ sóng;
- Module vận chuyển bùn, cát mịn và bồi xói (Mud transport – MT) để mô
phỏng quá trình diễn biến hình thái do vận chuyển bùn cát mịn (đường kính hạt
59
<0,063mm);
- Module vận chuyển cát rời (Sand transport – ST) để mô phỏng quá trình
diễn biến hình thái do vận chuyển cát rời (có đường kính hạt >0,063mm).
Trình tự các bước cân chỉnh mô hình như sau: (1) Cân chỉnh các thông số
module HD; (2) Cân chỉnh các thông số module SW; (3) Cân chỉnh thông số các
module tính M-ST và bồi xói. Riêng bước thứ 3 được chia ra làm 2 bước nhỏ:
1. Bước 1, cân chỉnh
module MT liên quan đến
bùn cát lơ lửng kết dính và
đáy trầm tích là bùn.
2. Bước 2, cân chỉnh
cả module MT và ST thông
qua kết quả mô phỏng bồi
xói.
Hình 2. 10: Các module sử dụng trong mô hình Mike 21/3 FM
Bảng 2. 3: Các thông số thiết lập trong mô hình Mike 21/3 FM
Điều kiện STT Thông số
1 Thời gian mô phỏng
Từ ngày 1/1/2011 đến ngày 31/12/2011.
10 giây
2 Bước thời gian tính toán 3 Hệ số nhám Manning (M)(1)
file hệ số nhám theo địa hình miền tính toán, giá trị thay đổi từ 20÷45 (m1/3/s ) tùy thuộc vào đặc trưng địa hình từng khu vực.
0,28 (Smagorinsky formulation) 4 Hệ số nhớt rối(2)
0,0013 5 Hệ số ma sát gió
6
Tính chất của bùn cát khi nằm trong trong khối nước được mô tả bởi các tham số (3):
60
- Sự kết bông (tạo thành các flocs) bắt đầu khi nồng độ ≥ 0,01 kg/m3 và ngưng khi nồng độ ≥ 3,0 kg/m3; - Tốc độ rơi các flocs: 15.10-4 m/s;
- Tỷ trọng khô là 2650 kg/m3; - Hệ số khuyếch tán bằng 50% hệ số nhớt rối ngang.
7 Đáy lòng dẫn
8
Thông số cơ bản của lớp bùn nhão chảy ở phía trên (lớp 1)(3)
9
Thông số cơ bản của lớp bùn chặt ở phía dưới (lớp 2): được thiết lập là các files theo toàn miền tính toán, giá trị thay đổi tùy thuộc vào đặc trưng địa chất từng khu vực(3).
10 Điều kiện ban đầu về bề dày lớp đáy Đáy lòng dẫn vùng nghiên cứu được chia ra làm hai lớp: lớp bùn nhão chảy ở phía trên (lớp 1) và lớp bùn chặt ở phía dưới (lớp 2). - Hệ số xói: 5.10-5 kg/m2/s - Ứng suất xói: 0,1 N/m2 - Mật độ: 180kg/m3 - Hệ số xói: từ 2,2 ÷ 5,7.10-5 (kg/m2/s). - Ứng suất xói: từ 0,25 ÷ 0,35 (N/m2). - Mật độ: từ 350 ÷ 650 (kg/m3). - Lớp 1: 0m;
lòng dẫn.
- Lớp 2: file “bề dày lớp bùn chặt” theo toàn miền tính toán, giá trị thay đổi từ 0,1 ÷ 1,7 (m), tùy thuộc vào đặc trưng địa chất từng khu vực. Xem hình 2.11.
11 Đường kính hạt d50 (cát rời)
file đường kính hạt d50 theo địa hình miền tính toán, giá trị thay đổi từ 0,07 ÷ 0,2 (mm) tùy thuộc vào đặc trưng địa chất từng khu vực.
12 Độ rỗng (lớp cát rời) 0,4
- Ảnh hưởng của dòng chảy và mực nước lên sóng được xử lý bằng cách
chạy đồng thời mô hình thủy lực HD với mô hình sóng SW;
- Module vận chuyển và bồi xói bùn cát mịn kết dính MT và cát rời ST tích
hợp đồng thời với module thủy lực và module phổ sóng.
Ghi chú:
- (1): Hệ số nhám M có trị số 43÷45 trên vùng biển sâu; giảm dần 36÷20
trên vùng nước cạn, sông rạch, rừng ngập mặn, cỏ biển,... Vùng sát bờ không có
61
cây và phủ bùn nhão, trị số M đạt khoảng 35÷40. Hệ số M tại các vùng có cây
rừng ngập mặn có bộ rễ phát triển, M đạt 20÷25. Tại các nhánh sông chính và biển
ven bờ với đáy là bùn và có độ sâu nằm trong khoảng 3÷5m, hệ số M = 35÷40; Tại
vùng rừng ngập mặn, vùng ngập nước bán thời gian, đáy là cát có độ sâu <3m, hệ
số M = 20÷35 (Kết quả này là khá tương đồng với các nghiên cứu trước [9] [10]
[23]).
- (2): Hệ số nhớt rối tính theo công thức Smagorinsky (1964) dạng:
với hệ số β tối ưu là 0,28 và A hạn chế trong khoảng 0,5÷100,0 m2/s ( [9] [10]).
- (3): Các thông số liên quan đến tính chất bùn cát được tham khảo từ
nhiều đề tài, dự án đã thực hiện cho vùng nghiên cứu và ĐBSCL [9] [10] [75],
cũng như được hiệu chỉnh, kiểm định kỹ lưỡng từ kết quả thực đo, và cho thấy sự
tương đồng tốt với nghiên cứu của Nicolas Gratiot (2017) đối với vùng cửa Định
An [58].
- Các thông số khác cũng được tham khảo từ kinh nghiệm của nhiều đề tài
trước, kết quả đo đạc thực tế và cân chỉnh nhiều lần để đạt được kết quả phù hợp
nhất với thực tế.
Nước
Kết bông/ Lắng
Bồi đáy Cao độ địa hình Tái lơ lửng
Xói đáy Lớp bùn nhão
Lớp bùn chặt
Bề dày lớp bùn chặt Bề dày lớp bồi tụ
62
Hình 2. 11: Quá trình bồi/xói đáy trong mô hình “đa lớp bồi tụ” (lớp bùn nhão và lớp bùn chặt)
2.3.3. Kết quả hiệu chỉnh – kiểm định mô hình
Miền nghiên cứu được thiết lập đã được hiệu chỉnh các thông số như trong
bảng 2.3 và đạt được các tiêu chí sau:
- Tốc độ tính toán đạt tối ưu để bảo đảm tính khả thi và tiến độ nghiên
cứu, bảo đảm thông số CFL ≤ 1 (công thức 2.27) trong mọi trường hợp tính toán;
- Mô hình được hiệu chỉnh và kiểm định thông qua việc so sánh giá trị
tính toán với giá trị thực đo của mực nước, lưu lượng dòng chảy, lưu tốc dòng
chảy, chiều cao sóng có nghĩa, chu kỳ sóng, nồng độ bùn cát lơ lửng. Các số liệu
thực đo có được từ dự án điều tra cơ bản cũng như từ một số đề tài do Hoàng
Văn Huân chủ nhiệm vào năm 2011 (từ 13/09/2011 đến 16/9/2011) và năm 2014
( từ 11/08/ 2014 đến 14/08/2014) [1] [3]. Chi tiết kết quả hiệu chỉnh và kiểm định
mô hình thể hiện trong phụ lục 1.
Tóm lại, việc hiệu chỉnh và kiểm định các thông số mô hình thủy lực, mô
hình tính toán sóng và bùn cát đã được thực hiện cẩn thận, tận dụng tối đa các
điều kiện hiện có. Kết quả bước nghiên cứu này có ý nghĩa then chốt cho việc
tính toán toán dòng chảy, tính toán sóng và vận chuyển bùn cát cho các phương
án trên vùng nghiên cứu.
2.3.4. Các kịch bản tính toán
Để phục vụ tính toán các nội dung nghiên cứu, luận án xây dựng 05 kịch
bản chạy như sau:
- Kịch bản 1: Tính toán dự báo chế độ thủy động lực (dòng chảy, sóng) và
diễn biến bồi xói hiện trạng.
- Kịch bản 2: Tính toán dự báo chế độ thủy động lực (dòng chảy, sóng) và
diễn biến bồi xói có xem xét đến yếu tố NBD 13cm.
- Kịch bản 3: Tính toán dự báo chế độ thủy động lực (dòng chảy, sóng) và
63
diễn biến bồi xói có xem xét đến yếu tố NBD 23cm.
- Kịch bản 4: Tính toán dự báo chế độ thủy động lực (dòng chảy, sóng) và
diễn biến bồi xói có xem xét đến yếu tố suy giảm lượng bùn cát sông Mê
Công 20% (so với năm 2011).
- Kịch bản 5: Tính toán dự báo chế độ thủy động lực (dòng chảy, sóng) và
diễn biến bồi xói có xem xét đến yếu tố suy giảm lượng bùn cát sông Mê
Công 30% (so với năm 2011).
Trong đó:
“Kịch bản 1” để nghiên cứu các yếu tố thủy động lực và vận chuyển bùn
cát khu vực bờ biển Trà Vinh trong điều kiện thực tế, với các số liệu và các biên
đầu vào đã được thuyết minh cụ thể trong phần “Thiết lập mô hình toán số”.
Các kịch bản 2,3,4,5 để phục vụ mục tiêu nghiên cứu “xây dựng quan hệ
đường giữa chiều dày bồi lắng theo thời gian, chế độ phù sa sông Mê Công và
nước biển dâng”.
a) Cơ sở xây dựng các kịch bản
Đánh giá tác động do biến đổi khí hậu toàn cầu đến diễn biến BBTV
Dưới ảnh hưởng của BĐKH, hiện tượng mực nước biển dâng cao sẽ tác
động đến diễn biến ven biển các tỉnh ĐBSCL, trong đó có Trà Vinh. Các kịch
bản về mực nước biển dâng được lấy theo tài liệu về kịch bản BĐKH đã được
công bố của Bộ TNMT năm 2016.
Bảng 2. 4: Kịch bản nước biển dâng xét cho toàn khu vực biển Đông (Kịch bản BĐKH 2016 của Bộ TNMT)
Với: - PCP8.5: Kịch bản nồng độ khí nhà kính cao;
64
- PCP6.0: Kịch bản nồng độ khí nhà kính trung bình cao;
- PCP4.5: Kịch bản nồng độ khí nhà kính trung bình thấp; - PCP2.6: Kịch bản nồng độ khí nhà kính thấp.
Luận án lựa chọn 2 kịch bản mực nước biển dâng cho năm 2030 và 2050
lần lượt là 13cm và 23cm (đối với kịch bản RCP6.0).
Đánh giá tác động của con người do xây dựng đập thủy điện trên dòng
chính sông Mê Công đến diễn biến bờ biển Trà Vinh
Việc xây dựng các đập thuỷ điện trên dòng chính sông Mê Công đã tác
động trực tiếp, làm giảm đáng kể lượng bùn cát cung cấp cho vùng hạ du, trong
đó có vùng cửa sông, ven biển Trà Vinh. Theo nghiên cứu của Lu và Siew (2005)
[53] (xem hình 2.12), sau khi đập Manwan trên dòng chính sông Mê Công ở
Trung Quốc đi vào vận hành năm 1993 đã làm giảm lượng phù sa phía hạ lưu
một cách rất rõ rệt. Tuy đã được bù đắp bằng phù sa từ các phần lưu vực khác
phía hạ lưu, nhưng số liệu quan trắc cho thấy hàm lượng phù sa trung bình tại các
trạm Tân Châu, Châu Đốc, Cần Thơ, Mỹ Thuận đã giảm đến 20 – 30%. Kết quả
này cũng đã được trích dẫn tại nhiều tài liệu nghiên cứu trong nước [1] [5]. Một
số kết quả nghiên cứu khác về sự suy giảm nguồn cung bùn cát từ sông Mê Công
thể hiện trong Phụ lục 3.
Hình 2. 12: Thay đổi nồng độ bùn cát lơ lửng trung bình tháng tại các trạm Cần Thơ và Mỹ Thuận trước và sau khi đập Manwan đi vào vận hành năm 1993. Đường nằm ngang biểu thị nồng độ bùn cát lơ lửng trung bình [53]
Thời gian gần đây, thủy điện Pak Beng (Lào), là một trong chuỗi 11 bậc
65
thang thủy điện, dự kiến xây dựng trên dòng chính sông Mê Công. Khi công
trình này đi vào hoạt động, rất có thể hàm lượng phù sa trung bình tại các trạm
Tân Châu, Châu Đốc, Cần Thơ, Mỹ Thuận sẽ tiếp tục giảm đi từ 20 – 30% so với
hiện tại. Do đó, luận án xây dựng 2 kịch bản suy giảm lượng phù sa sông Mê
Công (được tính qua 2 trạm Mỹ Thuận và Cần Thơ, giảm 20% và 30% so với
năm 2011).
b) Cách đưa biên đầu vào cho các kịch bản (xem hình 2.8)
- Đối với kịch bản NBD 13cm và 23cm: dữ liệu mực nước tại 03 biên mở phía biển Đông (gồm biên phía Bắc, biên phía Nam, biên phía Đông) được cộng
số học lên 13cm và 23cm tương ứng với các kịch bản. Các điều kiện khác về
sóng, gió biển Đông, mực nước, lưu lượng, hàm lượng phù sa tại các biên mở
phía sông được giữ nguyên.
- Đối với kịch bản suy giảm lượng bùn cát sông Mê Công 20% và 30%: dữ liệu hàm lượng phù sa lơ lửng năm 2011 tại 02 biên mở phía sông Mê Công
(gồm Mỹ Thuận và Cần Thơ) được tính giảm đi 20 và 30% tương ứng với các
kịch bản. Các điều kiện khác về mực nước, sóng, gió biển Đông, mực nước, lưu
lượng, tại các biên mở phía sông và hàm lượng phù sa tại biên Thị Vải, Nhà Bè
được giữ nguyên.
2.4. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương này, luận án đã trình bày các lý thuyết cơ bản trong khoa
học mô phỏng quá trình thủy động lực và vận chuyển bùn cát ven biển; trình bày
cụ thể và chi tiết các phương pháp được lựa chọn sử dụng cho luận án; cơ sở số
liệu; trình tự cách thiết lập và tiến hành nghiên cứu các vấn đề của luận án.
Để thuận tiện cho việc theo dõi, các bước thực hiện nội dung luận án
66
được tóm tắt trong sơ đồ dưới dây:
Một số mô hình mô phỏng
Chuỗi số liệu tại các biên đầu vào
Đánh giá và lựa chọn mô hình
Số liệu khí tượng thủy văn, hải văn
Số liệu địa hình
Lựa chọn vấn đề nghiên cứu + Phương pháp nghiên cứu
Mô hình chọn để mô phỏng
Các kịch bản tính toán khác nhau. Có xem xét đến BĐKH – NBD và sự suy giảm phù sa sông Mê Công
Khai thác số liệu tính toán từ mô hình
(1) - Cơ chế thủy động lực.
Phương pháp xây dựng bản đồ
- Quá trình vận chuyển bùn cát ven bờ. - Sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn cát ven biển.
(2) - Đặc trưng hình thái bờ biển, diễn biến xói lở, bồi tụ.
Nghiên cứu tổng quan
- Xây dựng quan hệ đường giữa chiều dày bồi lắng theo
thời gian.
(3) Cơ sở khoa học chỉnh trị bảo vệ bờ biển.
67
Hình 2. 13: Sơ đồ các bước thực hiện nội dung nghiên cứu
CHƯƠNG III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ CHẾ ĐỘ THỦY THẠCH
ĐỘNG LỰC PHỤC VỤ CHỈNH TRỊ BỜ BIỂN TRÀ VINH
3.1. NGHIÊN CỨU CƠ CHẾ THỦY ĐỘNG LỰC VÀ VẬN CHUYỂN
BÙN CÁT VEN BỜ
3.1.1. Yếu tố tác động từ sông Mê Công
Sông Mê Công là nguồn cung cấp phù sa – nguyên liệu chính tạo ra
ĐBSCL và các bãi bồi cửa sông, ven biển. Hàng năm có khoảng 150-200 triệu
tấn phù sa được sông Mê Công vận chuyển đến vùng ĐBSCL. Một phần lượng
phù sa mịn đi ra biển qua các cửa sông Mê Công. Một phần trong số này bồi lắng
tại các cửa sông (trong đó có 2 cửa lớn là Cung Hầu – Cổ Chiên và Định An –
Trần Đề) và biển ven bờ Nam Bộ. Một phần khác được dòng chảy ven bờ Biển
Đông Nam Bộ vận chuyển xuống cực Nam của tổ quốc và vòng qua biển Tây
vào mùa gió Đông Bắc [13].
Từ kết quả chạy mô hình kịch bản hiện trạng năm 2011, luận án trích xuất
kết quả về lưu lượng dòng chảy và vận chuyển bùn cát tại các cửa sông Mê Công
để so sánh và đánh giá, bao gồm: cửa Tiểu, cửa Đại, Hàm Luông, Cổ Chiên,
Cung Hầu, Định An và Trần Đề (xem hình 3.1 và bảng 3.1).
Bảng 3. 1: Tọa độ của các mặt cắt cửa sông Mê Công
UTM-48
Mép trái Mép phải STT Tên
1.
Cửa Tiểu
EE NN EE NN
2.
Cửa Đại
692.450,2 1.135.501,5 691.637,6 1.133.887,9
3.
Cửa Ba Lai
691.254,9 1.128.421,0 690.483,0 1.126.180,6
4.
Cửa Hàm Luông
685.772,7 1.110.680,7 684.670,0 1.109.667,4
5.
Cửa Cổ Chiên
679.036,3 1.102.868,0 678.801,3 1.099.754,2
6.
Cửa Cung Hầu
670.812,0 1.090.207,4 669.397,5 1.088.873,7
68
666.916,9 1.087.369,9 665.002,0 1.085.269,5
7.
Cửa Định An
8.
Cửa Trần Đề
643.140,8 1.061.343,6 641.603,3 1.058.882,9
634.948,4 1.051.478,4 632.498,4 1.050.637,1
Hình 3. 1: Vị trí trích xuất kết quả lưu lượng dòng chảy và lưu lượng bùn cát
a) Kết quả về phần bố lưu lượng giữa các cửa sông
Kết quả trích xuất về lưu lượng dòng chảy tại các cửa sông Mê Công được
thể hiện trong bảng 3.2 và hình 3.2.
Bảng 3. 2: Lưu lượng dòng chảy lớn nhất tại các cửa sông Mê Công (năm 2011)
Đơn vị: m3/s
Tháng
Tiểu
Đại
Ba Lai
Tên cửa sông Cổ Chiên
Hàm Luông
Cung Hầu
Định An
Trần Đề
1 2 3 4 5 6
5.447,6 16.449,0 3.233,7 18.894,1 17.710,8 14.976,2 35.977,2 19.786,1 6.076,7 17.480,5 3.572,5 20.234,1 18.637,8 16.572,9 36.720,8 21.425,8 6.172,4 17.388,8 3.376,4 19.715,5 18.053,7 16.020,8 35.049,4 19.383,1 5.731,1 15.396,5 2.929,7 18.733,4 16.617,4 14.637,5 33.370,7 18.468,6 5.440,0 16.108,8 2.956,6 19.094,1 16.703,5 14.414,4 30.868,5 16.948,5 5.191,1 14.765,5 2.801,7 18.734,9 16.519,9 13.846,1 30.099,5 16.535,4
69
7 8 9 10 11 12
6.674,5 18.082,4 3.359,6 22.851,1 19.692,5 17.226,2 32.995,2 18.407,6 7.249,5 19.280,9 3.793,3 24.010,9 20.617,2 18.075,7 37.088,8 21.156,7 8.497,6 21.767,7 5.283,7 26.155,1 20.839,0 18.643,4 37.929,4 21.098,2 7.448,9 19.996,3 3.689,5 23.030,9 21.057,3 18.650,1 37.772,2 21.356,3 7.010,1 19.194,5 3.592,0 22.255,1 20.116,3 17.724,8 33.540,6 18.724,1 6.566,5 18.335,9 3.463,1 21.238,3 18.863,0 16.632,6 37.003,1 21.146,3
40000
35000
30000
Cửa Tiểu
Cửa Đại
25000
Lưu lượng dòng chảy lớn nhất tại các cửa sông Mê Công
s / 3 m
Cửa Ba Lai
20000
, g n ợ ư
Cửa Hàm Luông
l
15000
Cửa Cổ Chiên
u ư L
Cửa Cung Hầu
10000
Cửa Định An
5000
Cửa Trần Đề
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10 11 12
Tháng
Hình 3. 2: Lưu lượng dòng chảy lớn nhất tại các cửa sông Mê Công trong 12 tháng
Theo hình trên có thể thấy lưu lượng (lớn nhất) chảy qua 8 cửa sông Mê
Công có thể chia làm 3 nhóm: (i) nhóm 1 ở mức thấp: bao gồm cửa Tiểu và cửa
Ba Lai có giá trị lưu lượng lớn nhất dao động trong khoảng từ 3.000 – 8.000 m3/s; (ii) nhóm 2 ở mức trunh bình: bao gồm cửa Đại, Hàm Luông, Cổ Chiên,
Cung Hầu và Trần Đề có giá trị lưu lượng lớn nhất dao động trong khoảng từ 14.000 – 25.000 m3/s; (iii) nhóm 3 ở mức cao có cửa Định An, có giá trị lưu lượng lớn nhất dao động trong khoảng từ 30.000 – 38.000 m3/s.
Bờ biển tỉnh Trà Vinh nằm giữa 2 cửa sông lớn của sông Mê Công là
Định An và Cung Hầu – Cổ Chiên. Có thể gộp lưu lượng của 2 cửa Cổ Chiên và
Cung Hầu vì 2 cửa này chỉ cách nhau 1 cù lao nhỏ. Khi so sánh lưu lượng hợp
bởi 2 cửa sông Cung Hầu – Cổ Chiên và lưu lượng tại cửa Định An cho thấy sự
70
tương đồng về giá trị (Bảng 3.3 và hình 3.3).
Bảng 3. 3: Bảng so sánh lưu lượng dòng chảy lớn nhất tại cửa Định An và
tổng Cung Hầu – Cổ Chiên (năm 2011)
Đơn vị: m3/s
Tên cửa sông
STT
Tháng
Cổ Chiên Cung Hầu
Định An
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12
17.710,8 18.637,8 18.053,7 16.617,4 16.703,5 16.519,9 19.692,5 20.617,2 20.839,0 21.057,3 20.116,3 18.863,0
14.976,2 16.572,9 16.020,8 14.637,5 14.414,4 13.846,1 17.226,2 18.075,7 18.643,4 18.650,1 17.724,8 16.632,6
Tổng Cung Hầu – Cổ Chiên 32.687,0 35.210,7 34.074,5 31.254,9 31.117,9 30.366,0 36.918,7 38.692,9 39.482,4 39.707,4 37.841,1 35.495,6
35.977,2 36.720,8 35.049,4 33.370,7 30.868,5 30.099,5 32.995,2 37.088,8 37.929,4 37.772,2 33.540,6 37.003,1
So sánh lưu lượng dòng chảy lớn nhất các cửa sông Trà Vinh
45.000
40.000
35.000
s / 3 m
30.000
25.000
, g n ợ ư
l
Tổng Cung Hầu + Cổ Chiên
20.000
u ư L
15.000
Cửa Định An
10.000
5.000
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Tháng
Hình 3. 3: Biểu đồ so sánh lưu lượng dòng chảy lớn nhất tại cửa Định An và tổng Cung Hầu – Cổ Chiên.
b) Kết quả về phần bố bùn cát giữa các cửa sông
Kết quả trích xuất về lưu lượng bùn cát tại các cửa sông Mê Công được
71
thể hiện trong bảng 3.4 và hình 3.4.
Bảng 3. 4: Lưu lượng bùn cát lớn nhất tại các cửa sông Mê Công (năm 2011)
Đơn vị: kg/s
Tháng Đại Tiểu Ba Lai Định An
106,8 131,8 139,3 Cung Hầu 526,0 1.121,9 499,9 1.636,2 495,0 1.295,8
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tên cửa sông Trần Cổ Hàm Đề Chiên Luông 668,8 556,3 439,2 88,7 381,4 779,5 619,1 517,6 96,4 430,3 520,0 709,0 635,1 77,8 422,3 576,1 2.493,4 2.200,5 6.417,4 1.630,8 276,2 1.015,2 2.443,0 332,8 1.479,7 3.154,1 2.791,5 7.022,4 2.291,5 1.461,1 3.254,6 556,1 1.945,0 2.676,5 2.529,2 6.234,7 3.147,1 753,5 2.687,5 512,9 1.532,3 3.160,9 2.597,3 6.046,7 2.864,9 424,0 2.490,2 2.020,4 3.700,8 860,5 1.676,8 4.125,4 3.557,9 7.421,1 3.596,1 2.770,3 4.255,0 1.535,1 2.072,1 4.168,0 4.009,5 8.131,3 4.055,3 494,8 311,3 427,2 411,8 981,5 435,5 1.131,6 459,6 448,3 700,3 589,1 474,2 323,3 258,0 24,9 967,3 598,9 834,6 592,9 558,1 416,3 510,9 409,5 339,1
9000
8000
7000
Cửa Tiểu
6000
Cửa Đại
5000
Cửa Ba Lai
Cửa Hàm Luông
4000
Lưu lượng bùn cát lớn nhất tại các cửa sông Mê Công
s / g k , t á c n ù b g n ợ ư
Cửa Cổ Chiên
3000
l
Cửa Cung Hầu
u ư L
2000
Cửa Định An
1000
Cửa Trần Đề
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10 11 12
Tháng
Hình 3. 4: Lưu lượng bùn cát lớn nhất tại các cửa sông Mê Công trong năm 2011
Biểu đồ cho thấy, các tháng mùa lũ (từ tháng IV – IX) hàm lượng phù sa
trong nước đổ về các cửa sông Mê Công tăng đột biến. Lượng phù sa này sẽ bồi
đắp cho các bờ biển ĐBSCL, trong đó có bờ biển Trà Vinh. Đặc biệt, lượng phù
72
sa chuyển tải qua cửa Định An luôn lớn nhất so với các cửa sông còn lại.
Khi tính tổng hàm lượng phù sa của 2 cửa Cung Hầu và Cổ Chiên cho
thấy một kết quả khá tương đồng với hàm lượng phù sa chuyển qua cửa Định An
(Bảng 3.5 và Hình 3.5).
Bảng 3. 5: Bảng so sánh lưu lượng bùn cát lớn nhất tại cửa Định An và tổng Cung Hầu – Cổ Chiên (năm 2011)
Đơn vị: kg/s
Tên cửa sông
STT Tháng Định An Cổ Chiên Cung Hầu
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 556,3 619,1 635,1 2.493,4 3.154,1 2.676,5 3.160,9 4.125,4 4.168,0 700,3 589,1 474,2 526,0 499,9 495,0 2.200,5 2.791,5 2.529,2 2.597,3 3.557,9 4.009,5 510,9 409,5 339,1 Tổng Cung Hầu – Cổ Chiên 1.082,3 1.119,1 1.130,1 4.693,9 5.945,6 5.205,7 5.758,2 7.683,3 8.177,5 1.211,3 998,5 813,3 1.121,9 1.636,2 1.295,8 6.417,4 7.022,4 6.234,7 6.046,7 7.421,1 8.131,3 967,3 598,9 834,6
So sánh lưu lượng bùn cát lớn nhất các cửa sông Trà Vinh
9.000
8.000
7.000
6.000
5.000
4.000
Tổng Cung Hầu + Cổ Chiên Cửa Định An
3.000
s / g k , t á c n ù b g n ợ ư
l
2.000
u ư L
1.000
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Tháng Hình 3. 5: Biểu đồ so sánh lưu lượng bùn cát lớn nhất tại cửa Định An và tổng Cung Hầu – Cổ Chiên
73
Như vậy, có thể thấy lượng nước và lượng phù sa sông Mê Công đến vùng
bờ biển Trà Vinh luôn chiếm ưu thế hơn so với các vùng bờ biển lân cận (Tiền
Giang, Bến Tre, Sóc Trăng). Đặc biệt vào mùa lũ, lượng nước và lượng phù sa
sông Mê Công lớn hơn rất nhiều so với mùa kiệt. Điều này sẽ làm tăng tác động
dòng nước sông Mê Công lên chế độ thuỷ lực và vận chuyển bùn cát vùng bờ
biển Trà Vinh.
3.1.2. Yếu tố triều biển Đông
Biên độ triều là yếu tố ảnh hưởng lớn đến hình thái và kết cấu đới bờ.
Hình 3.6 thể hiện dao động mực nước tại 1 điểm ven biển Trà Vinh trong thời
đoạn 1 năm 2011. Vị trí điểm T6 thể hiện trên Bảng 3.7 và hình 3.13.
Hình 3. 6: Dao động mực nước tại điểm T6 ven biển Trà Vinh năm 2011
74
Hình 3. 7: Dao động mực nước tại điểm T6 tháng 4/2011
Hình 3. 8: Dao động mực nước tại điểm T6 tháng 9/2011
Các hình 3.6, 3.7, 3.8 cho thấy, bờ biển Trà Vinh chịu chi phối bởi chế độ
bán nhật triều không đều, độ lớn triều (khoảng cách từ chân triều đến đỉnh triều)
đạt từ 2m÷4m trong ngày. Quy luật lên xuống của thủy triều được đặc trưng bởi
5 kiểu dao động chính với chu kì ½ ngày, 1 ngày, ½ tháng, 6 tháng và 12 tháng.
Mực nước trung bình triều thấp là (-)1,3m, mực nước trung bình triều cao là
(+)1,8m. Đây là mức dao động triều lớn, do vậy ảnh hưởng của thủy triều lên chế
độ thuỷ lực vùng biển ven bờ Trà Vinh là rất lớn. Tốc độ dòng chảy tại các thời
điểm triều dâng, triều rút sẽ được kết hợp phân tích trong phần 3.1.3 (dòng chảy
ven bờ).
Ngoài ra, số liệu tính toán lưu tốc dòng chảy tại điểm T6 được phân tích
thành 2 thành phần u, v theo phương trục x, y, sau đó tiến hành phân tích điều
hoà để xây dựng nên elip dòng triều của 4 sóng triều chính M2, S2, K1 và O1.
75
Xem hình 3.9, 3.10.
Hình 3. 9: Kết quả tính toán dòng triều của 4 sóng chính tại điểm T6 tháng 4/2011
Hình 3. 10: Kết quả tính toán dòng triều của 4 sóng chính tại điểm T6 tháng 9/2011
3.1.3. Yếu tố dòng chảy
a) Dòng chảy tổng hợp
Vùng ven biển tỉnh Trà Vinh nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa
76
nên chế độ dòng chảy hàng năm bị chi phối bởi gió mùa với các hướng chính là
Đông Bắc (gió mùa Đông Bắc) và Tây Nam (gió mùa Tây Nam). Bảng 3.6 thể
hiện thời gian thịnh hành gió mùa biển Đông giữa các tháng trong năm.
Bảng 3. 6: Phân bố gió mùa hàng năm ở biển Đông
Mùa mưa (Mùa lũ)
III Chuyển tiếp IV V VI VII VIII IX XI
Mùa khô (Mùa kiệt) II I Gió mùa Đông Bắc Chuyển tiếp Gió mùa Tây Nam Chuyển tiếp X Chuyển tiếp Mùa khô (Mùa kiệt) XII Gió mùa Đông Bắc
Dòng chảy mùa gió đông bắc
Mùa gió mùa đông bắc bắt đầu từ giữa tháng X đến giữa tháng IV năm
sau. Khoảng thời gian này trùng với thời điểm mùa khô trong năm, dòng chảy từ
sông Mê Công nhỏ, giảm dần từ tháng XII năm trước cho đến tháng IV năm sau.
Ngược lại, ảnh hưởng của biển sẽ tăng dần tỷ lệ và trở thành là yếu tố áp đảo vào
thời gian cuối mùa kiệt (giữa tháng IV), nước mặn và bùn cát từ biển xâm nhập
sâu vào trong các nhánh sông Tiền, sông Hậu. Do vậy, để đại diện cho chế độ
dòng chảy mùa gió đông bắc luận án lựa chọn thời điểm tháng IV để trích xuất
các giá trị hướng dòng chảy, trường vận tốc và mực nước (Hình 3.11 và 3.12).
Hình 3.11 và 3.12 cho thấy, tốc độ dòng chảy tại các vị trí ven bờ biển Trà
Vinh khi triều dâng lớn hơn khi triều rút. Tốc độ dòng chảy tại các vị trí gần cửa
sông khi triều dâng và rút có giá trị gần như tương đương nhau (khoảng <1m/s).
Khi dòng chảy biển xuất phát từ hướng Đông Bắc kết hợp với dòng triều lên (đặc
biệt là khi có gió bão) sẽ có sức mạnh tàn phá mạnh mẽ đến vùng bờ biển. Chính
vì vậy, dòng chảy gió mùa đông bắc khi triều dâng được coi là có vai trò chi phối
77
sự biến động bờ biển Trà Vinh trong mùa này.
Hình 3. 11: Trường dòng chảy và cao độ mặt nước vào GMĐB khi triều dâng
78
Hình 3. 12: Trường dòng chảy và cao độ mặt nước vào GMĐB khi triều rút
Dòng chảy mùa gió tây nam
Hình 3. 13: Trường dòng chảy và cao độ mặt nước vào GMTN khi triều dâng
79
Hình 3. 14: Trường dòng chảy và cao độ mặt nước vào GMTN khi triều rút
Vào mùa gió Tây Nam trùng với thời kỳ mùa mưa (từ tháng V đến tháng
X) dòng chảy từ sông đổ ra biển với lưu lượng rất lớn mang theo một lượng lớn
phù sa bồi lấp cho vùng bờ biển Trà Vinh.
So sánh hình 3.13 và 3.14 cho thấy, tốc độ dòng chảy khi triều dâng
(khoảng < 1m/s) nhỏ hơn nhiều so với dòng chảy khi triều rút (khoảng >1 m/s).
Khi triều rút, tốc độ dòng chảy tại các cửa sông gấp từ 3÷4 lần tại các vị trí ven
bờ. Với lượng phù sa dồi dào, tốc độ dòng chảy ven bờ nhỏ đã tạo ra xu thế bồi
tụ là chủ yếu cho vùng biển ven bờ Trà Vinh vào mùa gió Tây Nam (Chỉ riêng
đoạn bờ biển xã Hiệp Thạnh và Trường Long Hòa vẫn bị xói). Do đó, có thể coi
dòng chảy từ sông khi triều rút là dòng chảy chủ đạo, có tính chất chi phối sự
biến động bờ biển Trà Vinh trong mùa này.
Tốc độ dòng chảy tổng hợp khi hướng gió và hướng truyền triều trùng
nhau sẽ tăng lên (ví dụ: gió mùa đông bắc khi triều dâng và gió mùa tây nam khi
triều rút). Tốc độ của dòng triều lớn có thể gây ra xói khi nó vượt ứng suất tới
hạn xói đáy và bờ, mặt khác tăng mức độ xáo trộn các khối nước, bào mòn các
chi tiết địa hình, gây sạt lở bờ và đáy. Càng lùi vào bên trong, tỷ trọng của dòng
triều càng giảm.
Để so sánh chi tiết hơn tốc độ dòng chảy vào mùa gió đông bắc khi triều
dâng và mùa gió tây nam khi
triều rút, luận án lựa chọn 11
vị trí ven bờ (cách bờ từ 500-
800m) như bảng 3.7 và hình
3.15 để trích xuất kết quả từ
mô hình.
80
Hình 3. 15: Vị trí các điểm trích xuất kết quả vận tốc dòng chảy vùng nghiên cứu
Hệ tọa độ
UTM
Phút giây
Tên điểm
Độ sâu nước trung bình (m)
E
N
E
N
670579.551
1078768.940
106°33'18.420"
9°45'19.685"
T1
2,6
672703.821
1076302.050
106°34'27.744"
9°43' 59.071"
T2
2,9
673046.446
1073424.010
106°34'38.546"
9°42'25.343"
T3
2,7
674485.467
1070477.440
106°35'25.303"
9°40'49.218"
T4
2,6
672977.921
1065543.650
106°34'35.103"
9°38' 8.858"
T5
3,5
670373.976
1061226.580
106°33'9.052"
9°35' 48.729"
T6
3,8
668181.181
1058348.540
106°31'56.716"
9°34'15.371"
T7
4,5
665440.187
1056498.370
106°30'26.562"
9°33' 15.542"
T8
4,6
658914.900
1053634.900
106°26'52.18"
9°31'43.25"
T9
4,8
T10
653252.600
1053088.800
106°23'46.43"
9°31'26.23"
3,4
T11
648649.100
1055880.800
106°21'15.83"
9°32'57.71"
3,6
Bảng 3. 7: Tọa độ các điểm trích xuất giá trị vận tốc dòng chảy
So sánh vận tốc dòng chảy giữa các vị trí
1,2
1
0,8
s / m
0,6
, c ố t n ậ V
0,4
GM Đông Bắc khi triều dâng GM Tây Nam khi triều rút
0,2
0
T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7
T8
T9
T10
T11
Hình 3. 16: Biểu đồ so sánh giá trị dòng chảy lớn nhất tại các vị trí
Hình 3.16 cho thấy, trong điều kiện bình thường, ở cả 2 trường hợp
(GMĐB triều dâng và GMTN triều rút), tốc độ dòng chảy tại những vị trí gần
cửa sông như Hiệp Thạnh, Đông Hải cao hơn dòng chảy các vị trí ven bờ như
Trường Long Hòa, Dân Thành trung bình từ 0,1 – 0,3 m/s. Điều này cho thấy,
81
dòng chảy do thủy triều ra vào các cửa sông, đặc biệt là 2 cửa sông Cung Hầu và
Định An, chiếm ưu thế trong số các yếu tố tự nhiên chi phối chế độ thủy động lực
học khu vực ven biển Trà Vinh.
Giá trị vận tốc dòng chảy tại các vị trí vào gió mùa tây nam khi triều rút đa
phần nhỏ hơn dòng chảy vào gió mùa đông bắc khi triều dâng. Tuy nhiên, có một
số vị trí gần cửa sông (như T1, T2 – cửa Cung Hầu, T4 – cửa sông Bến Giá, T11
– cửa Định An) giá trị dòng chảy mùa gió tây nam cao hơn, do vào mùa này dòng
nước lũ từ sông lớn.
Tổng hợp lại, vận tốc dòng chảy tại các vị trí cách mép bờ biển Trà Vinh
khoảng 600m có giá trị dao động trong khoảng từ 0,2 – 0,6 m/s.
Hiện tượng dòng chảy khi triều dâng vào mùa gió tây nam có
hướng đông bắc
Hình 3.13 cho thấy dòng chảy vào mùa gió tây nam khi triều dâng có
hướng từ phía đông bắc. Để giải thích cho hiện tượng này, luận án trích xuất 3
hình ảnh như dưới đây để so sánh và phân tích:
- Hình 3.14 là thời điểm 20h ngày 28/9/2011, thể hiện hình ảnh trường dòng
chảy khi kết thúc một pha triều xuống.
- Hình 3.17 là thời điểm 21h ngày 28/9/2011, thể hiện hình ảnh trường dòng
chảy khi bắt đầu pha triều lên. Đây là khoảng thời gian cuối mùa gió tây nam.
- Hình 3.18 là thời điểm 1h ngày 8/5/2011, thể hiện hình ảnh trường dòng
chảy khi bắt đầu pha triều lên. Đây là khoảng thời gian đầu mùa gió tây nam.
Các hình 3.17 và 3.18 cho thấy trong pha triều dâng, toàn bộ dòng chảy từ
biển Đông đổ về hướng các cửa sông Mê Công, tạo ra 2 xu thế triều chính: dòng
triều từ phía tây nam và dòng triều từ phía đông bắc. Trong đó, khi đến bờ biển
Trà Vinh, dòng triều phía đông bắc sớm pha hơn, kết quả là tạo ra xu thế dòng
chảy khi triều dâng vào mùa gió tây nam có hướng đông bắc. Các xùng xoáy
(hình 3.18) được tạo nên từ sự giao thoa giữa các dòng chảy từ trong sông, từ
phía đông bắc và phía tây nam là nguyên nhân hình thành nên các ngưỡng cạn
82
phía cửa sông.
Mực nước (m) Trên
Dưới
Bước thời gian 6494 của 8745.
Mực nước (m) Trên
Dưới
Bước thời gian 3042 của 8745.
Hình 3. 17: Trường dòng chảy vào cuối mùa gió tây nam khi triều bắt đầu dâng
83
Hình 3. 18: Trường dòng chảy vào đầu mùa gió tây nam khi triều bắt đầu dâng
Mực nước (m) Trên
Dưới
Bước thời gian 65 của 203.
Hình 3. 19: Trường dòng chảy biển Đông đầu vào gió mùa nam tây khi triều dâng
Hình 3. 20: Trường dòng chảy biển Đông vào cuối mùa gió tây nam khi triều dâng
Một kết quả
tính toán khác của
người làm luận án
và nhóm nghiên
cứu Viện Kỹ
Thuật Biển đối với
trường dòng chảy
toàn vùng biển
Đông cho thấy
hình ảnh rõ nét
hơn về 2 hướng dòng triều lên từ phía đông bắc và tây nam (xem hình 3. 19 và
3.20). Có thể hình dung dòng chảy biển Đông đổ về các cửa sông Mê Công
84
tương tự như dòng chảy qua một “cái phễu”.
b) Dòng chảy ven bờ do sóng, gió
Trong thành phần của dòng chảy tổng hợp khu vực cửa sông ven biển,
thành phần dòng chảy do sóng, gió không chiếm nhiều tỉ lệ. Tuy nhiên chúng lại
có vai trò quan trọng ảnh hưởng đến xu thế tái phân phối bùn cát ở khu vực này.
Dòng chảy do gió (dòng trôi) chịu chi phối của hai hệ thống gió mùa đông
bắc và tây nam. Dòng chảy do sóng (dòng ven bờ) hình thành trong đới sóng vỡ.
Khi sóng vỡ, năng lượng sóng biến thành lực làm di chuyển khối nước tạo thành
dòng chảy. Hướng của dòng ven bờ phụ thuộc vào hướng truyền sóng ngoài vùng
nước sâu (trùng với hướng gió mùa) [17].
Hình 3. 21: Sự tương tác, tổ hợp giữa các loại dòng chảy tại điểm T6
Trong nghiên cứu này, dòng ven được tính toán là hiệu của kết quả mô
phỏng dòng chảy có bao gồm tác động của sóng, gió, thủy triều và mô phỏng chỉ
xét đến yếu tố thủy triều. Giữa dòng triều và dòng ven bờ có sự cộng hưởng hoặc
triệt tiêu lẫn nhau tùy thuộc vào pha triều và thời kỳ thịnh hành gió mùa (hình
3.21). Kết hợp hướng dòng ven bờ và hướng dòng triều ở khu vực Trà Vinh đã
được phân tích ở phần trên, có thể đưa ra nhận xét sau:
- Vào mùa gió đông bắc, dòng triều lên từ phía ĐB-> TN cùng với dòng
ven bờ chảy từ ĐB->TN, dẫn đến dòng tổng hợp tăng khi triều lên và giảm khi
85
triều xuống.
- Vào mùa gió tây nam, dòng triều lên từ phía ĐB-> TN ngược với dòng
ven bờ chảy từ TN->ĐB, dẫn đến dòng tổng hợp giảm khi triều lên và tăng khi
triều xuống.
Xu thế này
thể hiện rất rõ ở
khu vực giữa bờ, ít
bị ảnh hưởng của
dòng chảy trong
sông. Xem tổ hợp
dòng chảy tại điểm
T6 trên hình 3.21.
Hình 3. 22: Vận tốc dòng ven (dòng dư) tại các vị trí
Xác đinh vai trò của dòng ven do sóng và dòng do gió đối với xu thế tái
phân phối bùn cát ở khu vực ven biển là điều quan trọng. Các quá trình chính là
việc kết hợp của bồi lắng bùn cát từ các sông vào mùa hè, bùn cát tái lơ lửng do
sóng (với sự tham gia của thủy triều) vào mùa đông và vận chuyển tiếp về phía
Nam của bùn cát lơ lửng, chủ yếu bởi dòng do gió gây ra. Như vậy, sông đóng
vai trò nguồn cung bùn cát, sóng/gió đóng vai trò phân bổ bùn cát qua lại và do
vậy gây xói, bồi đoạn bở biển. Dòng dư thường chảy dọc bờ từ Đông Bắc sang
Tây Nam và vào biển Tây. Kết quả mô phỏng dòng chảy do sóng, gió (không có
thủy triều – mực nước tĩnh) vào mùa đông (hình 3.23) cho chúng ta quan sát
được phạm vi của dòng dư có thể là một khoảng rộng ngang bờ >6km. Quá trình
vận chuyển bùn cát dọc bờ do đó cũng có thể nằm trong toàn bộ phạm vi này
thay vì chỉ giới hạn trong đới sóng vỗ (nhỏ hơn bề rộng 1 km). Mặc dù trên hình
3.23, chúng ta vẫn quan sát được dòng ven có vận tốc lớn đáng kể trong đới sóng
vỗ (0,1 m/s). Do khúc xạ, các sóng đến bờ với một góc nghiêng nhỏ, sẽ tạo ra
dòng chảy trong đới sóng vỗ. Vấn đề phạm vi vận chuyển bùn cát dọc bờ sẽ được
86
tiếp tục xem xét ở phần sau.
Hình 3. 23: Dòng dư gió mùa đông bắc
Ngoài ra, đối với khu vực có biên độ triều lớn như bờ biển đông ĐBSCL
bao gồm Trà Vinh ảnh hưởng của dòng triều là đáng kể. Thủy triều và gió tạo ra
một trường vận tốc với giá trị tức thời nhiều thay đổi so với dòng dư (hình 3.24),
điều này giải thích rằng việc vận chuyển bùn cát lơ lửng có thể khác nhau chứ
không phải chỉ bởi dòng dọc bờ. Đặc biệt, hình ảnh dòng tức thời trong pha triều
lên đều có hướng gần như vuông góc với đường bờ có thể là lời giải cho giả định
dòng triều đóng vai trò quan trọng trong việc mang bùn cát vào bờ.
Nghiên cứu của AFD [23] khẳng định, mặc dù lượng nước chảy về phía
bờ lúc triều lên tương đương với dòng chảy ra ngoài khơi khi triều xuống, nhưng
dòng triều ngang bờ biển có xu hướng thúc đẩy vận chuyển bùn cát về phía bờ và
87
bồi lắng trong khi sóng có xu hướng gây xói lở.
Hình 3. 24: Trường vận tốc tức do thời dòng triều thuần đơn trong pha triều lên
3.1.4. Yếu tố sóng biển
Như đã nói ở trên, sóng là tác động chính gây ra bùn cát tái lơ lửng. Sóng
khu vực nghiên cứu bị chi phối bởi hướng gió trong mùa gió đông bắc và tây
nam. Hình 3.25 và 3.26 thể hiện trường sóng và chiều cao sóng hai mùa, cho
thấy:
- Về hướng sóng: Hướng của sóng biển khơi trùng với hướng gió ĐB và
TN. Do hiệu ứng khúc xạ sóng, khi tiến vào vùng nước nông, hướng sóng có
khuynh hướng trực giao với đường đẳng sâu. Vì vậy sóng ở các khu vực gần bờ
có hướng nằm trong cung Đông Đông BắcĐôngĐông Nam vào mùa gió
đông bắc và hướng Tây NamNam Tây NamNamĐông Nam vào mùa gió
88
tây nam.
Hình 3. 25: Trường sóng và chiều cao sóng vào thời điểm gió mùa đông bắc
89
Hình 3. 26: Chiều cao sóng vào thời điểm gió mùa tây nam
- Về chiều cao sóng: Chiều cao sóng gió mùa đông bắc cao hơn hẳn trong
gió mùa tây nam. Do hiệu ứng sóng vỡ, chiều cao sóng giảm dần từ ngoài khơi
vào khu vực gần bờ.
Để so sánh cụ thể chiều cao sóng giữa hai mùa gió, luận án trích xuất các
giá trị tại vị trí các điểm như trên hình 3.15 và bảng 3.7, kết quả thể hiện trên
hình 3.27.
Hình 3. 27: Biểu đồ so sánh giá trị chiều cao sóng trung bình tại các vị trí
Biển đồ cho thấy:
- Chiều cao sóng gió mùa tây nam bé (bằng khoảng ½ độ cao sóng trong
mùa gió đông bắc). Điều này góp phần hình thành nên xu hướng bồi tụ là chủ
yếu đối với bờ biển Trà Vinh trong gió mùa tây nam.
- Do ảnh hưởng của hướng sóng tới, vào mùa gió đông bắc, các vị trí ở nửa
bờ phía bắc có chiều cao sóng cao hơn tại các vị trí ở nửa bờ phía nam. Điều này
có xu hướng ngược lại vào mùa gió tây nam.
- Giá trị chiều cao sóng tại các vị trí gần 2 cửa sông Cung Hầu và Định An
thấp hơn so với chiều cao sóng tại khu vực ven biển (Trường Long Hòa, Dân
Thành) trung bình từ 0,3-0,6m. Điều này có thể bao gồm cả 2 lý do: (i) Dòng
chảy từ các nhánh sông Mê Công có hướng tác động ngược với hướng sóng khu
vực gần bờ, do đó làm giảm độ cao sóng khu vực cửa sông; (ii) Phụ thuộc vào độ
90
dốc địa hình đáy.
Sóng từ vùng biển ngoài khơi truyền vào bờ biển, do đáy biển nông dần,
khi độ sâu nước chỉ bằng khoảng 1,3 lần chiều cao sóng, sóng sẽ biến hình, hình
thành sóng đổ (sóng vỡ), giải phóng năng lượng. Năng lượng sóng được giải
phóng tác dụng lên đáy biển, đào xới vật chất đáy biển, mang chúng đi rồi lại tái
trầm tích ở một nơi khác, gây ra xói lở hoặc bồi tụ bờ biển [7].
Để xác định phạm vi dải sóng vỡ, sơ đồ cao độ địa hình đáy biển Trà Vinh
được xuất từ mô hình Mike 21 như trên hình 3.28. Hình 3.28 cho thấy, địa hình
đáy biển khu vực Trà Vinh tồn tại một “vách ngầm” (đáy địa hình có độ dốc rất
lớn từ cao trình (-6) ÷ (-20)m). Trong quá trình lan truyền vào bờ sóng vỡ khi bị
hạn chế về độ sâu nước, tại vị trí vách ngầm độ sâu nước bị suy giảm một cách
đột ngột. Phần phía trong của vách ngầm này là vùng địa hình “sườn nghiêng
nước nông” (clinoform) có tác động đến sự suy giảm của sóng và xói liên quan
đến ma sát đáy. Đây là đặc trưng riêng của khu vực Trà Vinh và cũng là đặc
trưng chung của khu vực bờ đông ĐBSCL. Điều này cũng đã được nhắc đến
trong nghiên cứu của AFD [23].
Trên biển khơi Đông Nam bộ, độ cao sóng trong mùa gió đông bắc là
1,5m6m và trong mùa gió tây nam là 13m. Sóng có độ cao dưới 1m thường
bị vỡ trên vùng biển ven bờ độ sâu <3m. Các sóng lớn (độ cao >3m) thường vỡ ở
khoảng cách xa bờ 610km (đường cao trình - 8m), khi đi vào khu vực nước
nông này. Đây là một trong các yếu tố tự nhiên rất quan trọng giúp giảm chiều
cao sóng tới (đặc biệt trong điều kiện gió bão), góp phần làm giảm sạt lở bờ biển
tại Trà Vinh. Tuy nhiên tại một số vị trí ở Hiệp Thạnh, Trường Long Hòa bị xói
khá mạnh mẽ bởi các đợt sóng tác động trực tiếp, đặc biệt vào gió mùa đông bắc
và một số nguyên nhân khác sẽ được phân tích tiếp trong phần sau. Như vậy,
luận án đặt ra nghi vấn, vùng đại dương có liên quan đến xói lở sẽ là toàn bộ khu
vực phía trong của vách ngầm này (clinoform).
Bảng 3.8 thể hiện các hoa sóng được vẽ từ kết quả tính toán theo mùa gió
91
đông bắc và tây nam đối với các vị trí như trên hình 3.28 (từ S1 – S7).
Hiệp Thạnh
Trường Long Hòa
Dân Thành
Độ sâu (m)
Trên
Đông Hải
Vách ngầm
Dưới
Hình 3. 28: Cao độ địa hình khu vực ven biển TV và vị trí trích xuất hoa sóng
Bảng 3. 8: Tổng hợp các hoa sóng tại khu vực ven biển Trà Vinh
Điểm Mùa gió đông bắc Mùa gió tây nam Vị trí
S1
Cách bờ 1km
92
S2
S3
S4
Cách bờ 5km S5
S6
S7
Cách bờ 10 km
Các hoa sóng cũng thể hiện rõ xu thế: chiều cao sóng trong mùa gió đông
bắc cao hơn mùa gió tây nam; các vị trí giữa bờ có chiều cao sóng cao hơn khu
93
vực gần cửa sông; hướng sóng ở ngoài khơi trùng với hướng gió; vào khu vực
gần bờ hướng sóng có xu thế vuông góc với đường đẳng sâu; trong phạm vi cách
bờ 5km chiều cao sóng đa phần < 1,5m.
3.1.5. Chế độ vận chuyển bùn cát và trữ lượng
a) Vận chuyển bùn cát dọc bờ
Vận chuyển bùn cát là một chu trình lặp đi lặp lại của sự tái lơ lửng và bồi
lắng, vì vậy nồng độ bùn cát đo đạc được dọc theo bờ (có thể nhận thấy rõ thông
qua các ảnh vệ tinh và kết quả từ mô hình trên hình 12, 13 – Phụ lục 1) chủ yếu
là kết quả của việc tái lơ lửng do ứng suất đáy gây ra bởi sóng trên những vùng
sườn nghiêng nước nông (clinoform), là khu vực phía trong của vách ngầm (đã
được nhắc đến ở trên). Bởi vậy, để đánh giá toàn bộ thông lượng bùn cát dọc bờ,
các mặt cắt (vuông góc với bờ) cần được thiết lập có độ rộng ra tới ngoài khu vực
vách ngầm (từ 6 -> 10km). Tuy nhiên, luận án này sử dụng cách tiếp cận mới
hơn, xem xét quá trình vận chuyển bùn cát dọc bờ thông qua kết quả chuyển tải
lưu lượng bùn cát tại 03 mặt cắt ven bờ MC 1, MC 2 và MC 3 (hình 3.29), độ
rộng mỗi mặt cắt là 2km từ mép bờ ra biển.
Khoảng cách 2km được lựa chọn trên cơ sở sau:
- Yếu tố sóng: trong phạm vi khoảng 5km, chiều cao sóng khu vực ven Trà
Vinh đa phần <1,5m, các đợt sóng này sẽ vỡ ở độ sâu <3m. Theo sơ đồ địa hình
ven biển hình 3.28, phạm vi này nằm trong khoảng 2km cách bờ.
- Ngoài ra, khoảng cách 2km cũng là phạm vi phù hợp nếu có đề xuất xây
dựng công trình nhằm mục đích can thiệp vào quá trình vận chuyển bùn cát dọc
bờ.
- Phục vụ cho việc xem xét quá trình vận chuyển bùn cát ngang bờ (ở phần
sau), từ đó làm cơ sở cho đề xuất giải pháp công trình phù hợp.
Tọa độ vị trí các mặt cắt thể hiện trong bảng 3.9, với MC1 và MC3 lần
lượt là vị trí đầu và cuối phạm vi bờ biển nghiên cứu, đoạn bờ biển từ MC1 đến
94
MC2 là phạm vi bờ biển xảy ra nhiều biến động trong năm.
Hình 3. 29: Vị trí
Hướng vận chuyển bùn cát tương ứng với giá trị “-“ trong đồ thị.
các mặt cắt và
hướng vận
Hướng vận chuyển bùn cát tương ứng với giá trị “+“ trong đồ thị.
chuyển bùn cát
tương ứng với giá
trị trích xuất từ
mô hình
Bảng 3. 9: Tọa độ các mặt cắt trích xuất kết quả chuyển tải lưu lượng bùn cát
UTM-48
1.
2.
3.
MC 1 MC 2 MC 3
Sát bờ Xa bờ STT Tên mặt cắt Ghi chú vị trí EE NN NN
EE 669588.4 1078335.1 670329.3 1080134.0 Cổ Chiên 672716.3 1067021.3 674645.4 1066508.5 Bến Giá 650283.7 1053664.9 650174.1 1051764.4 Định An
Kết quả chuyển tải bùn cát qua các mặt cắt được thể hiện trong các hình
3.30, 3.31, 3.32 dưới đây.
Hình 3. 30: Lưu lượng bùn cát lơ lửng tại mặt cắt MC 1
Quan sát đồ thị 3.30 kết hợp với hướng vận chuyển bùn cát qua mặt cắt
95
MC1 trên mặt bằng có thể thấy: các giá trị mang dấu “-” trong đồ thị tương
đương với hướng vận chuyển bùn cát theo chiều mũi tên màu vàng; các giá trị
mang dấu “+” tương đương với hướng vận chuyển bùn cát theo chiều mũi tên
màu xanh.
So sánh các giá trị “-” trong đồ thị hình 3.30 thấy rằng: vào mùa gió tây
nam (mùa lũ – từ tháng V - X) lượng bùn cát theo dòng nước từ trong sông đi
qua mặt cắt MC1 lớn gấp 1,5 ÷ 2 lần các tháng mùa gió đông bắc (mùa cạn - từ
tháng XI đến tháng IV năm sau).
Hình 3. 31: Lưu lượng bùn cát lơ lửng tại mặt cắt MC 3
Quan sát đồ thị 3.31 kết hợp với hướng vận chuyển bùn cát qua mặt cắt
MC3 trên mặt bằng có thể thấy: các giá trị mang dấu “-” trong đồ thị tương
đương với hướng vận chuyển bùn cát theo chiều mũi tên màu vàng; các giá trị
mang dấu “+” tương đương với hướng vận chuyển bùn cát theo chiều mũi tên
màu xanh.
So sánh các giá trị “+” trong đồ thị hình 3.31 thấy rằng: vào mùa gió tây
nam (mùa lũ – từ tháng V đến tháng X) lượng bùn cát theo dòng nước từ trong
sông qua mặt cắt MC3 lớn hơn nhiều so với các tháng mùa gió đông bắc (mùa
cạn - từ tháng XI đến tháng IV năm sau).
Khác với hình 3.30 và 3.31, hình 3.32 tại mặt cắt MC2 cho thấy sự khác
biệt rõ rệt về xu thế vận chuyển bùn cát ven bờ giữa hai mùa gió đông bắc và tây
nam. Vào thời kỳ gió mùa đông bắc, các giá trị lưu lượng bùn cát mang dấu “-“
là chủ yếu tương đương với hướng vận chuyển bùn cát theo chiều mũi tên màu
96
vàng, cho thấy sự vận chuyển bùn cát dọc bờ về phía tây nam chiếm ưu thế rõ
rệt. Điều này có thể dẫn đến sự thiếu hụt bùn cát đáng kể ở khu vực xã Hiệp
Thạnh, Trường Long Hòa và khu vực lân cận trong mùa này, gây ra sự xói lở.
Tuy nhiên quá trình xói lở/ bồi lắng cần được xem xét trên phương diện đầy đủ
hơn, cân đối giữa dòng bùn cát dọc bờ và ngang bờ. Điều này sẽ được xem xét
trong phần tính cân bằng bùn cát cho từng đoạn bờ biển ở phần sau.
Có một điều đáng lưu ý ở hình 3.30 và 3.31 là vào thời kỳ mùa gió đông
bắc (trùng với thời kỳ mùa kiệt), dòng chảy và nguồn bùn cát từ các sông đổ ra là
thấp nhất, nhưng lưu lượng bùn cát lơ lửng chuyển qua các mặt cắt ven biển
MC1 và MC3 thì vẫn khá dồi dào so với trong mùa gió tây nam. Đây là những
minh chứng cho nhận định là sóng gây ra bởi gió mùa đông bắc đào xới và làm
tái lơ lửng phần lớn bùn cát được bồi tụ ven biển trong mùa gió tây nam. Phần
lớn lượng bùn cát tái lơ lửng này theo dòng chảy ven bờ vận chuyển về phía Nam
(như trong hình 3.32), một phần bùn cát theo dòng triều ngược vào các cửa sông
và gây ra bồi lắng tại các cửa sông.
Hình 3. 32: Lưu lượng bùn cát lơ lửng tại mặt cắt MC 2
Để phân tích kỹ hơn xu thế của dòng vận chuyển bùn cát ven bờ, luận án
tính toán thông lượng bùn cát dọc bờ chuyển tải qua từng mặt cắt (2km) theo
97
mùa và trong năm. Trong đó, giá trị “lưu lượng bùn cát” tại mỗi mặt cắt (đo bằng
kg/s) được trích từ mô hình trong khoảng thời gian 1 năm (từ ngày 2/1/2011 đến
31/12/2011, bỏ qua ngày đầu tiên). Bước thời gian xuất kết quả là 1 giờ, do vậy
giá trị này được coi là giá trị trung bình trong 1 giờ (cột 1 bảng 3.10). Mỗi giá trị
lưu lượng bùn cát (kg/s) được nhân với thời gian 1 giờ (tương đương 3.600s – cột
2) để ra tổng lượng vận chuyển bùn cát qua mặt cắt trong một giờ (cột 3). Tính
tổng tất cả các giá trị của cột 3 (tính cho 1 năm là 8.721 giá trị) sẽ được tổng
lượng vận chuyển bùn cát qua mặt cắt trong 1 năm.
Một đoạn tính toán (1 ngày) đối với mặt cắt MC1 được thể hiện như trong
bảng 3.10 dưới đây.
Lưu lượng bùn cát
Tổng lượng vận chuyển bùn cát/giờ
TT
Ngày
Giờ
(kg/s)
(kg)
Thời gian tương đương 1 giờ (s)
(1)
(2)
(3) = (1) x (2)
Tổng lượng vận chuyển bùn cát /ngày (W) (Tấn) (5) = sum (4) (1÷24)
Bảng 3. 10: Tổng lượng vận chuyển bùn cát qua mặt cắt MC1 trong 1 ngày
1.985
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19
0:00 3/1/2011 1:00 3/1/2011 2:00 3/1/2011 3:00 3/1/2011 4:00 3/1/2011 5:00 3/1/2011 6:00 3/1/2011 7:00 3/1/2011 8:00 3/1/2011 3/1/2011 9:00 3/1/2011 10:00 3/1/2011 11:00 3/1/2011 12:00 3/1/2011 13:00 3/1/2011 14:00 3/1/2011 15:00 3/1/2011 16:00 3/1/2011 17:00 3/1/2011 18:00
125,09 54,38 -59,32 -119,39 -189,10 -315,30 -444,60 -478,47 -394,51 -20,55 109,48 266,61 526,67 784,10 820,43 256,22 -82,55 -161,70 -167,93
450.331,20 195.767,28 -213.567,84 -429.796,80 -680.770,80 -1.135.090,80 -1.600.563,60 -1.722.502,80 -1.420.243,20 -73.962,36 394.135,20 959.810,40 1.896.022,80 2.822.745,60 2.953.540,80 922.381,20 -297.178,20 -582.116,40 -604.548,00
Tổng lượng vận chuyển bùn cát /giờ (Tấn) (4) = (3)/1000 450,33 195,77 -213,57 -429,80 -680,77 -1.135,09 -1.600,56 -1.722,50 -1.420,24 -73,96 394,14 959,81 1.896,02 2.822,75 2.953,54 922,38 -297,18 -582,12 -604,55
3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600 3.600
98
3.600 3.600 3.600 3.600 3.600
-176,07 -106,75 42,35 118,28 164,07
-633.848,40 -384.314,40 152.454,24 425.800,80 590.659,20
3/1/2011 19:00 3/1/2011 20:00 3/1/2011 21:00 3/1/2011 22:00 3/1/2011 23:00
-633,85 -384,31 152,45 425,80 590,66
20 21 22 23 24 Ghi chú: - Giá trị W mang dấu “+” tương đương với chiều vận chuyển bùn cát qua mặt cắt đang xét theo chiều mũi tên màu xanh trên hình 3.25. - Giá trị W mang dấu “-” tương đương với chiều vận chuyển bùn cát qua mặt cắt đang xét theo chiều mũi tên màu vàng trên hình 3. 25.
Bảng 3. 11: Kết quả tính toán thông lượng bùn cát dọc bờ qua các mặt cắt Đơn vị: tấn/năm
Mặt cắt Thông lượng bùn cát dọc bờ (độ rộng mặt cắt 2km) Tính cho năm 2011 Mùa gió tây nam Cả năm Mùa gió đông bắc
W1 = - 99.921 MC1 W1ĐB = 70.368 W1TN = -170.289
MC2 W2ĐB = -1.251.666 W2TN = -294.831
W2 = - 1.546.497 W3 = 13.269.489 MC3 W3ĐB = -875.859 W3TN = 14.145.348
Từ kết quả tính toán
thông lượng bùn cát dọc bờ
như trong bảng 3.11 có thể
xây dựng nên sơ đồ hướng
vận chuyển bùn cát dọc bờ
trong mùa gió đông bắc và
tây nam như trong hình 3.33
và 3.34.
Hình 3. 33: Hướng
vận chuyển bùn cát dọc bờ
trong mùa gió đông bắc
Như đã phân tích ở phần trên, vào MGĐB, dòng vận chuyển bùn cát dọc
bờ bao gồm một phần nhỏ đi vào các cửa sông (MC1), phần lớn vận chuyển về
99
phía nam (MC2 và MC3).
Hình 3. 34: Hướng vận
chuyển bùn cát dọc bờ
trong mùa gió tây nam
Vào MGTN, nguồn
bùn cát dồi dào từ sông
cung cấp cho BBTV qua
cửa Cung Hầu – Cổ Chiên
(phía bắc – MC1) và cửa
Định An (phía nam-MC2).
Dòng bùn cát ven bờ qua
MC2 cũng có chiều về
phía nam, luận án đưa ra một số lý giải như sau:
- MC2 cách cửa sông Cung Hầu – Cổ Chiên 10km và cách MC1 13km
(MC1 nằm trong khu vực cửa sông, chiều dài toàn bộ bờ biển từ MC1 đến MC3
khoảng 45km), do vậy khu vực này cũng được bổ sung bùn cát từ sông. Có thể
nhận thấy rõ hiện tượng này thông qua ảnh vệ tinh và kết quả từ mô hình trên
hình 12– Phụ lục 1.
- Mặc dù vào MGTN, dòng ven sóng sẽ đi lên phía bắc nhưng chiều cao
sóng mùa này nhỏ, đồng nghĩa với việc dòng ven sóng sẽ yếu hơn trong MGĐB
và sẽ chỉ tác động nhiều lên
nửa bờ phía nam.
- Dòng chảy khi triều
lên trong MGTN vẫn có
hướng từ phía đông bắc,
điều này có thể ảnh hưởng
đến dòng bùn cát từ phía
nam đi lên.
100
Hình 3. 35: Thông lượng bùn cát dọc bờ hàng năm qua các mặt cắt
Kết quả tính toán với thời lượng 1 năm như sau (kết hợp xem hình 3.35):
Giá trị W1 và W2 mang dấu “-” cho thấy quá trình vận chuyển bùn cát dọc bờ
chiếm ưu thế về phía tây nam trên đoạn bờ biển giữa mặt cắt MC 1 và MC2.
Trong khi đó, giá trị W3 mang dấu “+” cho thấy rằng qua mặt cắt MC3, hàng
năm bờ biển Trà Vinh được bổ sung một lượng vô cùng lớn bùn cát ven biển
(13.269.489 tấn/năm). Đây là đặc điểm riêng lợi thế cho Trà Vinh, vì theo nghiên
cứu mới nhất của AFD [23] khi đánh giá thông lượng bùn cát dọc bờ hàng năm
đối với dải bờ biển phía đông ĐBSCL, xu thế chung là bùn cát đi về phía nam.
b) Vận chuyển bùn cát dọc bờ, ngang bờ và trữ lượng
Do vùng bờ biển là một vùng rộng lớn, dưới tác động đa chiều của các yếu
tố thủy lực, hướng vận chuyển bùn cát cũng rất phức tạp, trong đó hai hướng chủ
đạo là vận chuyển bùn cát dọc bờ và vuông góc với bờ. Luận án chia BBTV
thành hai khu vực để đánh giá kỹ hơn vấn đề này, bao gồm khu vực xói lở trọng
điểm (xã Hiệp Thạnh) và khu vực Trường Long Hòa – Đông Hải.
Khu vực bờ biển Hiệp Thạnh được chia thành 3 vùng khép kín (1, 2, 3)
giới hạn bởi các mặt cắt vuông góc với bờ (MC1, MC-N1, MC-N2, MC-N3) và
song song với bờ (MC-D1, MC-D2, MC-D3, MC-D4) như hình 3.36 và bảng
3.12. Trong đó, mặt cắt MC-D4 là cửa sông Bến Giá, được thiết lập để đánh giá
lượng bùn cát bổ sung cho vùng bờ biển này từ sông Bến Giá. Với các tính tương
tự phần trên, kết quả tính toán tổng lượng vận chuyển bùn cát qua các mặt cắt
trong một năm thể hiện trên hình 3.36, trữ lượng bùn cát tại mỗi vùng thể hiện
trên bảng 3.13. Xu thế chung của quá trình này là vận chuyển bùn cát dọc bờ về
phía tây nam và lượng bùn cát vận chuyển vuông góc với bờ cũng rất lớn. Cụ thể
như sau:
- Vùng 1: Do nằm ở khu vực cửa sông rộng, dòng chảy mạnh, lượng bùn
cát bổ sung nhỏ hơn nhiều so với lượng bùn cát mất đi, dẫn đến xói lở mạnh.
Lượng bùn cát thiếu hụt do cả 2 nguyên nhân: tải bùn cát dọc bờ và ngang bờ đều
101
rất lớn.
- Vùng 2: Lượng bùn cát bổ sung (từ vùng 1 chuyển sang vùng 2) lớn hơn
lượng bùn cát mất đi, dẫn đến hiện tượng xói mạnh ở phần đầu (MC-N1) và bồi
nhẹ ở phần cuối (MC-N2).
- Vùng 3: Lượng bùn cát bổ sung (từ vùng 2 chuyển sang vùng 3 và từ cửa
sông Bến Giá - MC-D4) lớn hơn lượng bùn cát mất đi, dẫn đến hiện tượng bồi ở
khu vực này.
Bảng 3. 12: Tọa độ các mặt cắt của ô tính cân bằng bùn cát khu vực hiệp Thạnh
UTM-48
1.
2.
3.
4.
Sát bờ Xa bờ STT Tên mặt cắt EE NN EE NN
669588.4 1078335.1 670329.3 1080134.0 671755.2 1077057.8 673347.2 1078327.6 672232.2 1074612.6 674228.3 1074946.9 672766.1 1072138.4 674716.5 1072445.5
5.
6.
7.
8.
MC 1 MC-N1 MC-N2 MC-N3 MC-D1 MC-D2 MC-D3 MC-D4
Phía bắc Phía nam
670329.3 1080134.0 673347.2 1078327.6 673347.2 1078327.6 674228.3 1074946.9 674228.3 1074946.9 674716.5 1072445.5 672262.9 1072852.3 672761.0 1072179.0 Độ rộng mặt cắt (km) 2 2 2 2 3,5 3,5 2,5 0,86
102
Hình 3. 36: Phạm vi các ô tính cân bằng bùn cát khu vực Hiệp Thạnh
Bảng 3. 13: Phân tích trữ lượng bùn cát khu vực Hiệp Thạnh
Đơn vị: tấn/năm
STT Kết luận
Khu vực Hiệp Thạnh Vùng 1 Trữ lượng vào 99.922 Trữ lượng ra 3.838.621 Trữ lượng cân bằng -3.738.699 Xói mạnh 1
Vùng 2 1.702.938 1.257.421 445.516 Bồi 2
Vùng 3 937.048 723.709 213.339 Bồi 3
Kết quả tính toán tương tự về trữ lượng bùn cát đối với khu vực Trường
Long Hòa – Đông Hải thể hiện trên hình 3.37 và bảng 3.14. Có thể nhận xét như
sau:
- Xuất hiện độ dốc về lưu lượng tải sa bồi dọc bờ. Vấn đề thiếu hụt bùn cát
do vận chuyển bùn cát dọc bờ chỉ xảy ra ở ô số 4. Các ô 5,6 lượng bùn cát vận
chuyển dọc bờ giảm dần, lượng đi vào lớn hơn lượng đi ra.
- Lượng vận chuyển bùn cát ngang bờ đóng vai trò quan trọng đến diễn biến
xói lở, bồi tụ từng đoạn bờ biển và diễn biến giữa chúng cũng rất khác nhau. Ô
4,5,6 bùn cát bị mang ra xa khỏi bờ, ô 7,8 bùn cát có xu thế bổ sung cho bờ biển.
- Kết quả cân bằng bùn cát giữa các ô cho thấy xu thế xói từ nhẹ đến vừa ở
phía bắc và bồi nhiều ở phía nam.
- Đặc biệt, tại khu vực xói lở mạnh, đã được xây dựng công trình kè bảo vệ
bờ trực tiếp như kè xã hiệp Thạnh và kè xã Trường Long Hòa xuất hiện tình
trạng tải lượng bùn cát ngang bờ rất lớn (MC-D1 và MC–D6).
Bảng 3. 14: Phân tích trữ lượng bùn cát khu vực Trường Long Hòa – Đông Hải Đơn vị: tấn/năm
STT Kết luận Trữ lượng vào Trữ lượng ra Trữ lượng cân bằng
Khu vực Trường Long Hòa – Đông Hải
1 Vùng 4 326.006 2.385.352 -2.059.346 Xói
2 Vùng 5 1.546.497 1.566.071 -19.574 Xói
3 Vùng 6 285.523 337.829 -52.307 Xói
4 Vùng 7 8.117.875 - 8.117.875 Bồi nhiều
103
5 Vùng 8 29.143.768 4.870.882 24.272.886 Bồi nhiều
Hình 3. 37: Phạm vi các ô tính cân bằng bùn cát khu vực Trường Long Hòa – Đông Hải
Bảng 3. 15: Tọa độ các mặt cắt của ô tính cân bằng bùn cát khu vực Trường Long Hòa – Đông Hải
UTM-48
1.
2.
3.
4.
5.
6.
MC-N3 MC 2 MC-N4 MC-N5 MC-N6 MC 3
Sát bờ Xa bờ STT Tên mặt cắt EE NN EE NN
672766.1 1072138.4 674716.5 1072445.5 672716.3 1067021.3 674645.4 1066508.5 669529.1 1061371.6 671229.4 1060068.6 664416.1 1056677.1 665492.0 1054917.4 657634.7 1053925.1 658147.1 1052001.7 650283.7 1053664.9 650174.1 1051764.4
7.
8.
9.
10.
11.
Phía bắc Phía nam
104
MC-D5 MC-D6 MC-D7 MC-D8 MC-D9 674716.5 1072445.5 674645.4 1066508.5 674645.4 1066508.5 671229.4 1060068.6 671229.4 1060068.6 665492.0 1054917.4 665492.0 1054917.4 658147.1 1052001.7 658147.1 1052001.7 650174.1 1051764.4 Độ rộng mặt cắt (km) 2 2 2 2 2 2 6,0 7,2 7,8 7,9 8,0
Từ kết quả nghiên cứu này có thể khẳng định:
- Quá trình vận chuyển bùn cát dọc bờ chiếm ưu thế về phía tây nam trên
phần lớn đoạn bờ biển phía bắc.
- Xuất hiện độ dốc về lưu lượng tải sa bồi dọc bờ, do vậy diễn biến và
nguyên nhân dẫn đến xói lở, bồi tụ của mỗi đoạn bờ biển là khác nhau.
- Quá trình vận chuyển bùn cát ngang bờ đóng vai trò quan trọng trong việc
phát triển đường bờ.
- Hai khu vực xói lở mạnh là vùng 1 (Hiệp Thạnh) và vùng 4 (Trường Long
Hòa) đều do nguyên nhân tải bùn cát dọc bờ và ngang bờ rất lớn.
- Hai khu vực xói lở nhẹ là vùng 5,6 (Trường Long Hòa, Dân Thành) không
phải do nguyên nhân bùn cát dọc bờ mà do tải bùn cát ngang bờ.
- Các công trình kè bảo vệ bờ trực tiếp (xã hiệp Thạnh và Trường Long
Hòa) dường như là nguyên nhân làm tăng đột biết tải lượng bùn cát ngang bờ.
Điều này phù hợp với nghiên cứu của Winterwerp [48], AFD [23] khi khẳng định
các giải pháp công trình cứng bao chặt bờ biển (coastal squeeze) làm trầm trọng
hơn tình trạng xói lở bờ biển.
- Xét về mặt tổng thể, trên toàn dải bờ biển Trà Vinh lượng phù sa bồi đắp
được tăng lên hàng năm. Điều này phù hợp với hiện tượng bờ biển Trà Vinh
được bồi dần ra biển qua nhiều thời kỳ (theo kết quả nghiên cứu [63] [62] [57]
[14] [8] thể hiện trên hình 1.9 và 1.10).
- Những quá trình trao đổi bùn cát ngang bờ cho thấy sự biến đổi đường bờ
thực tế là kết quả tích hợp của xói /bồi trên toàn bộ vùng đồng bằng nước nông
(rộng khoảng từ 6->10km tính từ vách ngầm) không phải chỉ riêng trong đới
sóng vỗ hay bãi triều (ít hơn 1 km). Phù hợp với nghiên cứu của AFD [23].
3.1.6. Cơ chế thủy động lực và vận chuyển bùn cát
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu trên đây, có thể đưa ra kết luận về cơ
chế thủy động lực và vận chuyển bùn cát khu vực bờ biển Trà Vinh như sau: Vào
mùa gió tây nam, dòng chảy từ sông Mê Công mang bùn cát bồi tụ cho dải bờ
105
biển Trà Vinh; sau đó, vào mùa gió đông bắc, lượng bùn cát này dưới tác động
của sóng có chiều cao lớn bị đào xới và làm tái lơ lửng. Phần lớn lượng bùn cát
tái lơ lửng này theo dòng chảy ven bờ vận chuyển về phía Nam, một phần bùn
cát theo dòng triều ngược vào các cửa sông và gây ra bồi lắng tại các cửa sông.
Sự xói lở chủ yếu là kết quả của tái lơ lửng do sóng và dòng vận chuyển do gió
xảy ra trên toàn bộ vùng sườn nghiêng nước nông (clinoform) dọc theo bờ biển
(rộng khoảng từ 6->10 km ngang bờ).
Trong đó, đặc điểm cụ thể của các yếu tố tác động như sau:
- Cơ chế sóng: (i) Hướng của sóng biển khơi trùng với hướng gió mùa ĐB
và TN, khi tiến vào vùng nước nông, hướng sóng có khuynh hướng trực giao với
đường đẳng sâu; (ii) Khu vực nửa bờ phía bắc bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn
nửa bờ phía nam bởi tác động của sóng lớn trong mùa gió đông bắc; (iii) Chiều
cao sóng tại các vị trí gần cửa sông luôn thấp hơn các điểm giữa bờ do cấu trúc
địa hình đáy và tác động của dòng chảy từ trong sông.
- Cơ chế dòng chảy: 3 yếu tố chi phối mạnh đến chế độ dòng chảy khu vực
ven biển Trà Vinh là: dòng chảy sông Mê Công trong mùa mưa và mùa khô, chế
độ triều bán nhật triều với độ lớn triều từ 2 - 4m/ngày, chế độ khí hậu gió mùa
đông bắc và tây nam. Có một số đặc điểm cơ bản sau:
+ Tác động của chế độ dòng chảy và hàm lượng phù sa sông Mê Công
trong mùa mưa và mùa khô đối với bờ biển Trà Vinh có thể coi là lớn nhất so với
các khu vực bờ biển lân cận;
+ Trường vận tốc dòng chảy lớn nhất khi hướng truyền triều trùng với
hướng gió mùa, cụ thể, dòng chảy vào mùa gió đông bắc khi triều dâng và mùa
gió tây nam khi triều rút;
+ Các vị trí gần cửa sông luôn có vận tốc dòng chảy lớn hơn các điểm giữa
bờ;
+ Dòng chảy khi triều dâng (đặc biệt trong mùa gió đông bắc) có ảnh
106
hưởng đáng kể đối với diễn biến xói lở bờ biển;
+ Hướng dòng chảy khi triều dâng vào mùa gió đông bắc và tây nam đều
xuất phát từ phía đông bắc, điều này góp phần làm cho nửa bờ biển phía bắc có
diễn biến xói lở phức tạp cả trong cả hai mùa.
- Cơ chế vận chuyển bùn cát: Hình 3.32-33 chứng minh xu hướng vận
chuyển bùn cát dọc bờ về phía tây nam chiếm ưu thế trong mùa gió đông bắc.
Hình 3.36, 37 cho thấy, quá trình vận chuyển bùn cát ngang bờ đóng vai trò quan
trọng trong việc phát triển đường bờ, lượng phù sa từ sông Mê Công qua cửa
Định An bồi đắp cho bờ biển Trà Vinh hàng năm là rất lớn.
Các yếu tố trên tác động qua lại lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến diễn
biến dải bờ biển Trà Vinh, điều này được phân tích rõ trong mục “3.3.1. Các quá
trình xói lở”.
3.1.7. Sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn cát vùng bờ biển Trà Vinh
Để xây dựng sơ đồ thủy động lực vùng BBTV, các kết quả tính toán từ
phần mềm Mike 21 được nhập vào phần mềm Arcgis thành các “lớp” dữ liệu:
1. File đường kính hạt d50 (trầm tích đáy) theo địa hình miền tính toán (đã
được thiết lập và kiểm định trong phần mềm Mike 21) được nhập vào phần mềm
Arcgis như hình 3.38 (trái) với độ phân giải chi tiết về kích thước hạt. Sử dụng
công cụ phân chia nhóm dữ liệu, các đặc trưng đường kính hạt d50 được chia làm
3 nhóm: bùn lẫn cát mịn (đường kính hạt d50 từ 0,07 – 0,08mm); cát rời hạt nhỏ
(đường kính hạt d50 từ 0,08 – 0,12mm); cát hạt to (đường kính hạt d50 >
0,12mm) và có phân bố như hình 3.38 (phải).
107
Hình 3. 38: Phân bố hạt trầm tích D50 thiết lập trong phần mềm Arcgis
2. Kết quả tính toán về trường dòng chảy được nhập vào phần mềm Arcgis.
Các thời điểm lựa chọn đặc trưng cho hướng và tốc độ dòng chảy tổng hợp là khi
triều dâng và rút trong mùa gió đông bắc và mùa gió tây nam (hình 3.11, 3.12,
3.13, 3.14), được chuyển dữ liệu vào phần mềm Arcgis như hình 3.39.
Hình 3. 39: Trường dòng chảy khi triều dâng và rút thiết lập trong Arcgis
3. Kết quả tính toán về dao động mực nước triều (hình 3.7, 3.8) được thể
hiện trên sơ đồ, cung cấp các thông tin về: đặc trưng dao động triều (bán nhật
triều không đều), độ lớn triều (từ 2-4m), mực nước trung bình triều thấp là (-
)1,3m, mực nước trung bình triều cao là (+)1,8m.
4. Các kết quả vẽ hoa sóng tại các vị trí cách bờ khoảng 1km (như bảng
3.8) cũng được đưa vào thể hiện trên sơ đồ, cung cấp các thông tin về chiều cao
sóng, hướng sóng chủ đạo theo mùa gió tại khu vực ven biển Trà Vinh.
5. Kết quả tính toán về hướng vận chuyển bùn cát ven bờ trong mùa gió
đông bắc và tây nam (hình 3.33 và 3.34) cũng được thể hiện trên sơ đồ.
“Sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn cát vùng biển ven bờ Trà
Vinh” được xây dựng theo hai thời đoạn trong năm là MGĐB và TN (hình 3.40
và 3.41). Kết quả thiết lập sơ đồ cho thấy rằng, hầu hết các yếu tố đặc trưng thủy
– thạch động lực đã được thể hiện trên sơ đồ như: sóng, dòng chảy, triều, phân bố
trầm tích đáy và hướng vận chuyển bùn cát ven bờ theo mùa gió. So với các kết
quả nghiên cứu thủy động lực trước đây thường chỉ được thể hiện dưới dạng báo
cáo với rất nhiều hỉnh ảnh riêng lẻ, sơ đồ thủy động lực cho thấy những ưu điểm
108
nhất định về sự đơn giản, đẹp mắt, cung cấp thông tin cơ bản.
109
Hình 3. 40: Sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn cát vùng ven biển Trà Vinh trong MGĐB
110
Hình 3. 41: Sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn cát vùng ven biển Trà Vinh trong MGTN
3.2. NGHIÊN CỨU HÌNH THÁI BỜ BIỂN TRÀ VINH
3.2.1. Đặc trưng hình thái bờ biển Trà Vinh
a) Mặt cắt ngang bãi biển
Theo tài liệu [7], do mực nước biển luôn biến động, địa hình lục địa cũng
rất phức tạp, nên ranh giới giữa mặt biển và lục địa không đơn giản là một nét vẽ
có tính quy ước trên các loại bản đồ địa lý, cũng không phải là đường mép nước
(tức thời) ta thấy trên các ảnh viễn thám hay trên bản đồ Google Earth. Vì vậy,
cần hiểu “bờ biển” theo nội hàm khoa học của địa mạo học. Theo đó, thuật ngữ
“đới bờ biển” được dùng thay cho thuật ngữ “bờ biển”. Định nghĩa về đới bờ
biển như sau: “Đới bờ biển là không gian tương tác giữa biển và lục địa, là một
vùng mà ở đó xảy ra mối tương tác rất phức tạp giữa các quyển của trái đất:
thủy quyển, thạch quyển, khí quyển và sinh quyển, trong đó có vai trò của con
người, tạo ra một môi
trường cơ học biến
động không ngừng
theo không gian và
thời gian”. Hình 3.42
là hình vẽ biểu thị mặt
cắt ngang đới bờ biển.
Hình 3. 42: Mặt cắt
ngang đới bờ biển [7].
Địa hình ở Trà Vinh mang tính chất đồng bằng ven biển với các giồng cát,
chạy liên tục theo hình vòng cung và song song với bờ biển. Càng về phía biển,
các giồng này càng cao và càng lớn. Sơ đồ biểu thị mặt cắt ngang đới bờ biển Trà
Vinh (hình 3.43) được xây dựng từ các thông tin đã được tính toán ở phần trước
như:
- Địa hình ven biển Trà Vinh dưới nước (hình 3.28);
- Mặt bằng khảo sát địa hình trên cạn và các mặt cắt đại diện (xem phụ lục
111
2);
- Mực nước trung bình triều thấp là (-)1,3m, mực nước trung bình triều cao
là (+)1,8m (Mục 3.1.2);
- Các sóng ngoài khơi biển Đông có chiều cao > 3m thường vỡ ở khoảng
cách xa bờ 610km (đường cao trình - 8m) (Mục 3.1.4).
Hình 3. 43: Sơ họa mặt cắt ngang đới bờ biển Trà Vinh
Trong đó:
- Khu vực bãi sau: là khu vực thềm cao nằm trên mực nước đỉnh triều. Bãi
sau là vùng bãi mà sóng gió và sóng triều thông thường không tác dụng
đến được (ngoại trừ sóng do gió bão lớn). Phía trong của vách bờ là các
cồn cát ven biển.
- Khu vực bãi trước: là khu vực có dao động lên xuống của mực nước thủy
triều cộng thêm chiều cao sóng leo. Phần trên của bãi trước có độ dốc
tương đối lớn, phần dưới thoải hơn.
- Khu vực sườn bờ ngầm (bãi ngầm): là khu vực ngập hoàn toàn dưới mực
nước biển. Giới hạn trong của sườn bờ ngầm là mực nước trung bình triều
thấp, giới hạn ngoài là nơi bắt đầu có sóng vỡ (sóng bạc đầu).
Với sơ họa mặt cắt ngang như hình 3.43 có thể thấy địa hình ven biển
112
(phần ngập nước) của Trà Vinh thuộc dạng khá thoải, điều này giúp giảm đáng
kể chiều cao sóng ngoài khơi khi tiến vào bờ. Diễn biến xói lở vùng ven biển Trà
Vinh xảy ra có liên quan đến ma sát đáy ảnh hưởng đến toàn bộ vùng đồng bằng
nước nông này (rộng khoảng 6->10km).
Trong các phần khác của luận án này, vẫn sử dụng thuật ngữ “bờ biển”
với ý nghĩa của “đới bờ biển”.
b) Mặt bằng bờ biển
Xét về mặt hình thái, các dạng bờ biển và các dạng cửa sông có mối liên
hệ mật thiết với nhau. Bờ biển tỉnh Trà Vinh nằm trong vùng châu thổ sông Mê
Công (Mê Công delta), các khu vực cửa sông mang tính chất hỗn hợp khi có lợi
thế về nguồn bùn cát trong lưu vực tương đối phong phú nhưng lại chịu chi phối
mạnh bởi các yếu tố sóng và triều của biển Đông.
Hình 3. 44: Bản đồ
đồng bằng sông Cửu
Long
Nhìn trên bản
đồ ĐBSCL (hình
3.44) có thể thấy, bờ
biển Trà Vinh nằm
kẹp giữa hai cửa
thoát lớn của sông
Tiền và sông Hậu là
Cung Hầu – Cổ
Chiên và Định An.
Các kết quả tính
toán về chế độ thủy động lực và vận chuyển bùn cát cho thấy rằng:
- Hai cửa sông Cung Hầu – Cổ Chiên và Định An có lưu lượng dòng chảy
và lưu lượng bùn cát tương đương nhau và lớn nhất trong tất cả các cửa sông Mê
113
Công. Bờ biển tỉnh Trà Vinh nằm kẹp giữa 2 cửa sông này nên chịu yếu tố tác
động từ sông Mê Công mạnh hơn so với các vùng bờ biển lân cận (xem mục
3.1.1).
- Theo xu thế chung của các dải bờ biển ĐBSCL, sự vận chuyển bùn cát
dọc bờ về phía tây nam chiếm ưu thế trong mùa gió đông bắc. Tuy nhiên, xét
theo chế độ toàn năm, bờ biển Trà Vinh hàng năm được bồi đắp một lượng phù
sa rất lớn từ sông Mê Công, đặc biệt qua cửa Định An (xem mục 3.1.5).
Ngoài ra, theo kết quả nghiên cứu của [63] thể hiện trên hình 1.9 và 1.10
cho thấy, qua nhiều thời kỳ phát triển bờ biển Trà Vinh luôn có xu thế lồi ra phía
biển.
Những điều này lý giải một phần nào hiện tượng bờ biển Trà Vinh đặc
biệt có xu thế nhô hẳn ra ngoài biển Đông hơn các vùng bờ biển lân cận (xem
hình 3.44). Tuy nhiên, vấn đề này còn phải tiếp tục nghiên cứu sâu thêm.
3.2.2. Kết quả mô phỏng chế độ bồi xói vùng bờ biển Trà Vinh cho các kịch
bản
Các kịch bản tính toán xây dựng trong mô hình đã được thuyết minh chi
tiết ở mục 2.3.4. Sau đây là kết quả mô phỏng chế độ bồi xói vùng bờ biển Trà
Vinh cho các kịch bản.
Kịch bản hiện trạng
Kết quả tính toán diễn biến bồi xói khu vực bờ biển Trà Vinh sau 1 năm
(2011) đối với kịch bản hiện trạng thể hiện trên hình 3.43. Kết quả tính toán này
phù hợp với xu thế diễn biến bồi xói như thực tế khảo sát đã trình bày trong mục
0.1.1.
Khu vực xã Hiệp Thạnh: Nhìn chung hiện tượng bồi xói xảy ra xen kẽ.
Tuy nhiên khu vực phía Bắc hiện tượng xói xảy ra nhiều hơn so với khu vực phía
Nam. Đặc biệt tại khu vực ấp Bào diễn biến xói lở bãi biển (hạ thấp cao trình) ở
đây khá lớn trung bình 0,3m/năm, diễn biến mép bờ biển cao nhất có thể đến 20
114
– 30 m/năm. Khu vực này chịu sự chi phối chế độ dòng chảy thủy triều vào ra
cửa sông Cung Hầu với vận tốc dòng chảy trung bình vào khoảng 0,6 m/s, cộng
thêm chịu tác động trực tiếp từ sóng có chiều cao trung bình 0,6 – 0,7 m. Sóng
biển tác động trực tiếp đã phá vỡ kết cấu bờ, bào mòn thành chân bờ bãi biển,
chuyển các dạng kết cấu bờ và đáy chủ yếu là bùn sét cát mịn thành dạng lơ lửng,
một phần được vận chuyển đi ra xa cũng như được vận chuyển xuống phía Nam
bởi dòng chảy xen bờ.
Trong khi đó, đoạn từ Vàm Thâu Râu đến bờ Bắc cửa sông Bến Giá hiện
tượng bồi chiếm ưu thế với tốc độ 2 m/năm hoặc ổn định. Sông Bến Giá bắt
nguồn từ một nhánh sông Hậu (gần cửa Định An) và đổ ra biển tại vị trí ranh giới
giữa xã Hiệp Thạnh và Trường Long Hòa. Với lượng phù sa bổ sung cho bờ biển
khu vực này, cộng với yếu tố dòng chảy từ sông làm giảm bớt tác động của sóng
biển đã giúp cho khu vực này có diễn biến bồi tụ.
Đối với xã Trường Long Hòa và Dân Thành: Nhìn chung khu vực này
hiện tượng xói lở bờ biển chỉ xảy ra một số khu vực cục bộ như một đoạn nhỏ
khoảng 1,2 km tại ấp Nhà Mát, với hiện tượng hạ thấp cao trình đáy biển từ 0,3 –
0,5 m/năm. Khu vực này có địa hình bờ biển nhô hẳn ra phía biển so với các khu
vực lân cận, hướng đường bờ gần như vuông góc với hướng sóng tới và dòng
triều dâng trong mùa gió đông bắc, đây có lẽ là nguyên nhân gây ra xói lở ở khu
vực này.
Ngoài ra đoạn từ khu du lịch Ba Động đến cuối xã Trường Long Hòa và
cả xã Dân Thành, hiện tượng sạt lở bờ biển tăng dần. Chiều cao sóng tại khu vực
này cao hơn các vị trí khác, đặc biệt là vào gió mùa Đông Bắc độ cao sóng trung
bình là >0,7 m, do khu vực ven bờ tại đây có địa hình sâu hơn các vị trí khác, cho
nên sóng từ ngoài khơi truyền vào đến gần tận tới bờ mới có hiện tượng sóng vỡ,
do vậy xói lở ở đây diễn biến phức tạp.
Đối với xã Đông Hải: Hiện tượng bồi chi phối mạnh tại khu vực này với
tốc độ nâng lên của cao trình đáy trung bình từ 0,5 – 1 m/năm. Bên cạnh đó cũng
có một số khu vực xảy ra hiện tượng xói lở như đoạn giáp với xã Dân Thành
115
cũng như khu vực cuối thuộc ấp Động Cao. Tuy nhiên bản chất 2 khu vực sạt lở
trên là khác nhau. Tại khu vực giáp với xã Dân Thành vì đây là khu vực có địa
hình đáy bờ biển sâu hơn khu vực khác, cho nên năng lượng sóng không bị tiêu
hao nhiều ở ngoài xa, do vậy chiều cao sóng tại khu vực này cao hơn các vị trí về
phía Nam, tác động đến diễn biến xói tại đây. Còn khu vực thuộc ấp Động Cao bị
ảnh hưởng dòng chảy của sông Hậu chảy qua cửa Định An, nên tốc độ dòng chảy
Mức độ bồi / xói
Trên
Hiệp Thạnh
Trường Long Hòa
Dân Thành
Đông Hải
Dưới
khu vực này khá lớn so với các vị trí khác, trung bình từ 0,5 – 0,7m/s.
Hình 3. 45: Diễn biến bồi xói bờ biển Trà Vinh sau 1 năm – kịch bản hiện
trạng và vị trí các điểm trích xuất kết quả
Các kịch bản khác
Kết quả tính toán diễn biến bồi xói khu vực bờ biển Trà Vinh sau 1 năm
đối với các kịch bản khác thể hiện trên hình 3.46. Nhìn chung, hiện tượng bồi xói
bị ảnh hưởng bởi NBD = 13 cm, 23 cm, bùn cát sông Mê Công giảm 20%, 30%
không có sự thay đổi nhiều so với kịch bản hiện trạng, chỉ tăng xói – giảm bồi
116
nhẹ.
Kịch bản NBD 13cm Kịch bản NBD 23cm
Kịch bản bùn cát giảm 20% Kịch bản bùn cát giảm 30%
Hình 3. 46: Diễn biến bồi xói bờ biển Trà Vinh sau 1 năm – Các kịch bản
Để phân tích kỹ hơn về sự khác biệt giữa độ bồi xói giữa các kịch bản,
luận án trích xuất kết quả về sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ tại 03 điểm tiêu biểu
khu vực bờ biển Trà Vinh với các kịch bản khác nhau để so sánh. Vị trí của 3
điểm xem xét thể hiện trên bảng 3.16 và hình 3.45. Không gian lớp bồi tụ ven
117
biển đã được thuyết minh trong bảng 2.3 và hình 2.11.
Bảng 3. 16: Tọa độ các điểm trích xuất giá trị thay đổi bề dày lớp bồi tụ
Hệ tọa độ UTM STT Tên điểm Đặc điểm
1 2 3 Sx Sb So Xói nhiều Bồi nhiều Ổn định E 671329.1167 672460.0955 673458.0181 N 1077742.6050 1074017.0276 1070091.8657
3.2.3. Xây dựng quan hệ đường giữa chiều dày bồi lắng theo thời gian tại
một số khu vực đặc trưng bờ biển Trà Vinh
Giá trị thay đổi bề dày lớp bồi tụ (Total bed thickness changes) được trích
xuất từ kết quả chạy mô hình, lấy giá trị vào ngày cuối cùng của tháng, kí hiệu là
“S”, đơn vị là “mét”. Kết quả trích xuất các giá trị về sự thay đổi bề dày lớp bồi
tụ tại 03 điểm Sx – xói nhiều, Sb – bồi nhiều, So - ổn định của khu vực bờ biển
Trà Vinh với các kịch bản
khác nhau được thể hiện
trong bảng 3.17.
Hình 3. 47: Sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ điểm Sx với kịch bản hiện trạng, NBD 13 – 23 cm
Điểm xói nhiều – Sx
118
Hình 3. 48: Sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ điểm Sx với kịch bản hiện trạng, bùn cát giảm 20 – 30%
Bảng 3. 17: Giá trị bề dày lớp bồi tụ tại các điểm Sx, Sb, So tương ứng với các kịch bản
Sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ (mét)
Thời gian
Hiện trạng
Nước biển dâng 13 cm Nước biển dâng 23 cm
tháng
Sx
Sb
So
Sx
Sb
So
Sx
Sb
So
Hàm lượng phù sa sông Mê Công giảm 20% So Sb Sx
Hàm lượng phù sa sông Mê Công giảm 30% So Sb Sx
-0,049 -0,098 -0,164 -0,236 -0,272 -0,277 -0,296 -0,307 -0,300 -0,297 -0,297 -0,304
0,054 0,108 0,172 0,226 0,272 0,305 0,345 0,412 0,496 0,601 0,676 0,750
0,012 0,030 0,044 0,058 0,075 0,081 0,088 0,097 0,110 0,132 0,151 0,165
-0,062 0,035 -0,118 0,070 -0,177 0,110 -0,239 0,145 -0,292 0,177 -0,315 0,207 -0,338 0,228 -0,348 0,272 -0,351 0,335 -0,359 0,392 -0,366 0,437 -0,379 0,478
0,005 0,017 0,024 0,034 0,051 0,058 0,063 0,071 0,078 0,081 0,089 0,099
-0,067 0,034 -0,135 0,061 -0,222 0,091 -0,289 0,119 -0,324 0,149 -0,348 0,173 -0,368 0,202 -0,378 0,244 -0,384 0,302 -0,392 0,355 -0,401 0,401 -0,418 0,445
0,005 0,013 0,018 0,025 0,038 0,043 0,049 0,050 0,062 0,067 0,078 0,089
-0,056 -0,106 -0,159 -0,211 -0,272 -0,293 -0,314 -0,329 -0,328 -0,332 -0,337 -0,347
0,032 0,062 0,101 0,133 0,162 0,183 0,209 0,251 0,300 0,362 0,406 0,449
0,005 0,015 0,019 0,028 0,043 0,048 0,053 0,059 0,064 0,076 0,088 0,097
-0,055 -0,114 -0,188 -0,262 -0,296 -0,315 -0,334 -0,341 -0,341 -0,343 -0,348 -0,358
0,032 0,058 0,087 0,113 0,143 0,165 0,192 0,234 0,279 0,338 0,382 0,425
0,005 0,012 0,017 0,023 0,035 0,040 0,045 0,051 0,057 0,069 0,081 0,092
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Hình 3.47 và 3.48 cho thấy, nước biển dâng cao và hàm lượng bùn cát sông Mê Công giảm đều làm gia tăng mức độ xói
mòn tại khu vực bờ biển Trà Vinh, quá trình xói phù hợp với thực tế. Những tháng đầu năm (tháng I – V) là vào thời gian cuối
của mùa gió đông bắc, lượng phù sa trong sông đổ về kém dồi dào, sóng tác động mạnh đã làm quá trình xói diễn ra mạnh mẽ.
Các tháng tiếp theo vào mùa gió tây nam, nguồn phù sa dồi dào, sóng và dòng chảy ôn hòa hơn, quá trình xói chậm lại. Đến
119
tháng XII, diễn biến xói tăng dần và sẽ trở nên mạnh mẽ vào nửa đầu năm sau.
Điểm bồi nhiều – Sb
Hình 3. 49: Sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ điểm Sb với kịch bản hiện trạng, NBD 13 – 23 cm
Hình 3. 50: Sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ điểm Sb với kịch bản hiện trạng, bùn cát giảm 20 – 30%
Điểm ổn định – So
120
Hình 3. 51: Sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ điểm So với kịch bản hiện trạng, NBD 13 – 23 cm
Hình 3. 52: Sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ điểm So với kịch bản hiện trạng, bùn cát giảm 20 – 30%
Bảng 3. 18: Mức độ thay đổi bề dày lớp bồi tụ so với kịch bản hiện trạng (%)
Điểm
Sx Sb So
NBD 13 cm -3,7 -12,7 -3,1
NBD 23 cm -6,9 -15,3 -4,2
Giá trị trung bình (%) Phù sa giảm 20% -1,6 -14,7 -3,7
Phù sa giảm 30% -3,3 -16,4 -4,3
Ước tính NBD 10 cm -2,9 -8,2 -2,1
Ước tính phù sa giảm 10% -0,9 -6,4 -1,7
Các hình 3.49 – 3.52 và bảng 3.18 cho thấy, NBD làm tăng mức độ xói
(hoặc giảm độ bồi tụ) khu vực ven biển. Trong đó ảnh hưởng mạnh nhất đến các
điểm bồi nhiều, ước tính trung bình NBD lên 10cm sẽ giảm bồi đi 8,2% (so với
kịch bản hiện trạng). Các điểm đang xói lở bị ảnh hưởng ít hơn, ước tính trung
bình NBD lên 10cm sẽ tăng mức độ xói lên khoảng 2,9%. Nếu mỗi năm, mực
nước biển tăng lên 1cm thì xói tăng thêm 0,29%. Mức tăng này là không đáng kể
đối với sự xói lở do tác động của chế độ thủy thạch động lực hiện trạng (một năm
xói 30cm - hình 3.47).
Cũng theo bảng 3.18, sự suy gảm phù sa sông Mê Công làm tăng mức độ
xói (hoặc giảm độ bồi tụ) khu vực ven biển. Sự ảnh hưởng mạnh nhất đến các
điểm bồi nhiều, ước tính trung bình phù sa giảm 10% sẽ giảm bồi đi 6,4%. Các
điểm đang xói lở bị ảnh hưởng ít hơn hẳn, ước tính trung bình phù sa giảm 10%
sẽ tăng mức độ xói lên khoảng 0,9%. Điều này cho thấy, mức độ tăng xói ít hơn
121
nhiều so với mức độ suy giảm phù sa sông và mức tăng này là không lớn so với
sự xói lở do tác động của chế độ thủy thạch động lực hiện trạng (một năm xói
30cm).
Nhận xét chung
Các đồ thị (hình 3.47 - 3.52) cho thấy ý nghĩa về mặt biểu diễn xu thế làm
tăng mức độ xói (hoặc giảm độ bồi tụ) tại khu vực ven bờ biển Trà Vinh dưới tác
động của sự gia tăng mực nước biển do BĐKH và sự suy giảm lượng phù sa sông
Mê Công do xây dựng các công trình trên thượng nguồn. Các tác động này là
không lớn so với sự xói lở do tác động của chế độ thủy thạch động lực hiện trạng.
Đối với nguyên nhân do suy giảm lượng phù sa sông Mê Công, xu thế
này là điều dễ hiểu. Theo nhiều tài liệu nghiên cứu đã có, vùng đồng bằng sông
Cửu Long được hình thành từ những trầm tích phù sa của sông Mê Công. Lượng
phù sa sông Mê Công giảm, dẫn đến lượng bùn cát cung cấp cho khu vực ven
biển giảm đi, từ đó làm tăng mức độ xói và giảm độ bồi tụ khu vực ven biển Trà
Vinh.
Với ảnh hưởng của sự gia tăng mực nước biển dâng đến biến động địa
hình dải ven biển, cần có mối liên hệ với các kết quả nghiên cứu trước đây để
cho thấy bức tranh toàn cảnh.
Các kết quả nghiên cứu liên quan cho thấy tác động của sự dâng cao mực
nước đến địa hình đáy vùng cửa sông ven biển rất khác nhau và phụ thuộc vào
các điều kiện địa hình, động lực và điều kiện vận chuyển trầm tích của mỗi khu
vực [42]. Theo Dronkers (1998), sự dâng cao mực nước biển gây ra sự tích lũy
trầm tích (tăng độ bồi) ở các bãi triều thấp để phục hồi trạng thái cân bằng động
bị thay đổi do dâng cao mực nước. Sự tích lũy trầm tích này sẽ làm hạn chế di
chuyển trầm tích ra xa các nguồn phát tán [39]. Nhưng, D. M. P. K. Dissanayake
và nnk. [38] đã nghiên cứu về mối liên hệ giữa hình thái ven biển trong khoảng
thời gian 110 năm với 3 kịch bản nước biển dâng: (i) Hiện trạng; (ii) NBD 0,2m
122
đến năm 2100 so với năm 1990 và lún mặt đất 0,15m; (iii) NBD 0,7m đến năm
2100 so với năm 1990 và lún mặt đất 0,15m. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng
mực nước biển càng dâng cao sẽ làm gia tăng mức độ xói mòn ven biển.
Ở vùng ven bờ châu thổ sông Mê Công, Vũ Duy Vĩnh đã nghiên cứu sự
ảnh hưởng do dâng cao mực nước biển (BĐKH) đến biến động địa hình tại một
số mặt cắt phía ngoài các cửa sông chính [72], cho thấy rằng sự dâng cao mực
nước biển làm tăng tốc độ bồi ở các cửa sông phía nam (Trần Đề, Cung Hầu,
Hàm Luông). Điều này có thể giải thích là do sự dâng cao mực nước biển làm
hạn chế sự phát tán của dòng trầm tích về phía biển mà chỉ tập trung di chuyển
quanh các cửa sông. Kết quả là làm tăng tốc độ bồi tại các bãi bồi khu vực phía
ngoài các cửa sông phía nam của vùng ven bờ châu thổ sông Mê Công.
Việc dòng bùn cát bị giữ lại ở các cửa sông do nước biển dâng cao đã làm
giảm lượng bùn cát cung cấp cho khu vực ven biển, dẫn đến xu thế làm tăng mức
độ xói (hoặc giảm độ bồi tụ) tại khu vực ven bờ biển Trà Vinh như trong kết quả
nghiên cứu của luận án.
Ngoài ra, việc nước biển cao hơn sẽ dẫn đến hiện tượng sóng tiến vào bờ
có chiều cao lớn hơn (do sóng vỡ và giải phóng năng lượng ở phạm vi độ sâu
ngập nước bằng khoảng 1,3 lần chiều cao sóng) và điều này cũng góp phần làm
tăng mức độ xói (hoặc giảm độ bồi tụ) tại khu vực ven biển.
3.3. NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHỈNH
TRỊ
3.3.1. Các quá trình xói lở
Dựa trên các tính toán kỹ lưỡng từ mô hình, với nhiều kịch bản và các
phân tích chuyên sâu, luận án đã xem xét lại một số quá trình xói lở quan trọng.
Ở một mức độ nào đó, luận án đã đóng góp các kết quả mới so với các nghiên
cứu trước đây (về vai trò của các tác nhân) và ở mặt khác, là xem xét lại các quan
điểm hiện tại (về các giải pháp bảo vệ).
Những phân tích dưới đây cho phép chúng ta ước tính được một phần thay
123
đổi bờ biển do sự phân bố lại trầm tích tự nhiên bởi sóng và dòng chảy, và một
phần từ các nguồn khác (sự thiếu hụt nguồn cung bùn cát từ sông, biến đổi khí
hậu,…) và sự ảnh hưởng của các công trình bảo vệ bờ hiện tại. Từ đó, đánh giá
được mức độ quan trọng của các tác động, làm cơ sở cho đề xuất các giải pháp
bảo vệ bờ phù hợp.
Xác định vùng đại dương có liên quan đến xói lở
Các phân tích ở phần trên của luận án về đặc trưng địa hình đáy, phạm vi
sóng vỡ, sự phân bố bùn cát ven biển theo không gian và các quá trình trao đổi
bùn cát ngang bờ cho thấy, sự xói lở chủ yếu là kết quả của tái lơ lửng do sóng và
dòng vận chuyển do gió xảy ra trên một sườn dốc ngầm (clinoform) nông dọc
theo bờ biển (rộng khoảng 6->10 km ngang bờ), thay vì giới hạn trong vùng
nước nông ven bờ (ít hơn 1 km).
Sự thiếu hụt nguồn cung bùn cát từ sông
Bùn cát từ sông là nguồn gốc tiến triển của ĐBSCL, việc giảm nguồn
cung cấp này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hình thái của ĐBSCL, bao gồm Trà
Vinh. Mục tiêu của luận án không phải là đánh giá ngân sách bùn cát tổng hợp
của toàn bộ sông Mê Công đổ về đồng bằng, cũng không phải đánh giá mức độ
suy giảm bùn cát sông Mê Công (do nhiều nguyên nhân: đập thủy điện, khai thác
cát,…) đến toàn bộ quá trình thay đổi hàm lượng phù sa khu vực trong sông và
cửa sông. Ở đây, luận án chỉ xem xét ảnh hưởng của suy giảm phù sa sông đến sự
thay đổi địa hình tại khu vực ven biển, làm cơ sở so sánh đối với các tác nhân
khác.
Kết quả tính toán cho thấy, mức độ tăng xói ít hơn nhiều so với mức độ
suy giảm nguồn cung bùn cát từ sông và mức tăng này là không lớn so với sự xói
lở do tác động của chế độ thủy thạch động lực hiện trạng (một năm xói 30cm).
Mực nước biển dâng cao do BĐKH
Sự nóng lên toàn cầu có thể không đáng kể trong tình hình hiện tại vì tác
động của nó vẫn còn rất thấp so với sự xói lở do tác động của chế độ thủy thạch
124
động lực hiện trạng (theo tính toán ở mục 3.2.3).
Tuy nhiên, trong tài liệu hiện tại, quá trình này được coi là một nguy cơ
nghiêm trọng gây lũ lụt và sạt lở bờ biển, cần được đánh giá tốt hơn trong tương
lai.
Động lực học gần bờ
Sóng là yếu tố quan trọng hàng đầu trong các yếu tố động lực vùng biển
nông, các đặc trưng sóng và dòng chảy sinh ra do sóng có ảnh hưởng nhiều nhất
đến diễn biến của bờ biển. Khi sóng tiến vào vùng nước nông ven bờ, sóng sẽ vỡ
ở độ sâu nước bằng 1,28 đến 1,5 lần chiều cao sóng. Trong quá trình sóng vỡ
những nhiễu động liên quan gây ra một số trầm tích đáy biển ở dạng lơ lửng.
Những trầm tích lơ lửng này cộng với một số các lớp trầm tích dưới đáy biển,
một phần bị sóng cuốn ra xa phía bờ, phần bùn cát còn lại bị dòng chảy ven bờ
chuyển đi, đến một vị trí khác, nếu tại vị trí nào đó vận tốc dòng chảy yếu dần thì
bùn cát bắt đầu bồi lắng. Hướng chuyển bùn, cát dọc bờ tuỳ thuộc vào hướng
dòng chảy ven bờ, có liên quan mật thiết đến mùa khí tượng trong năm.
a) Sóng:
Các thông số cơ bản của sóng ảnh hưởng đến diễn biến bờ biển là hướng
sóng, chiều cao sóng và vùng sóng vỡ.
Hướng sóng vùng ven biển Trà Vinh bị chi phối bởi chế độ khí hậu gió
mùa Đông Bắc và Tây Nam, các hướng sóng chủ đạo đã được thống kê ở phần
3.1.4 và thể hiện trên hình 3.40 và 3.41: Sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn
cát vùng biển ven bờ Trà Vinh. Vào mùa gió đông bắc, nửa bờ phía bắc sẽ bị tác
động trực diện bởi hướng sóng tới (hướng sóng gần như vuông góc với đường bờ
tại các điểm T2, T4, T5, T6 – hình 3.53); vào mùa gió tây nam thì nửa bờ phía
nam lại bị tác động trực diện.
Trong thời gian gió mùa Đông Bắc, khu vực nửa bờ phía bắc (từ xã Hiệp
Thạnh đến cuối xã Trường Long Hòa và đầu xã Dân Thành) thường xuyên hứng
chịu tác động mạnh của sóng biển, bao gồm hướng sóng trực diện và chiều cao
125
sóng lớn từ 0,6 – 1,4 m. Trong đó, hơn 50% các con sóng có chiều cao từ 0,6 –
1m có hướng Đông đông bắc, Đông và Đông đông nam. Lực xung kích do sóng
biển đã trực tiếp phá vỡ kết cấu bờ, chuyển kết cấu bờ chủ yếu là bùn sét cát mịn
sang dạng lơ lửng và theo dòng ven bờ vận chuyển đi xa, gây ra hiện tượng xói
lở ở khu vực này. Một điều đáng chú ý là địa hình đáy biển khu vực xã Hiệp
Thạnh và nửa đầu xã Trường Long Hòa có dạng khá thoải (xem hình 3.26), nên
vùng sóng vỡ rộng hơn các khu vực khác, làm nhiễu động và tái lơ lửng trầm tích
đáy ở phạm vi rộng hơn. Cho nên, xói ở khu vực này bao gồm cả xói bề mặt (kết
cấu bờ) và xói đáy.
Hình 3. 53: Hoa sóng
vào mùa gió đông bắc
tại các vị trí trích xuất
Trong thời
gian gió mùa Tây
Nam, chủ yếu khu
vực bờ biển phía Nam
(từ cuối xã Dân
Thành và xã Đông
Hải) là chịu sự tác
động của sóng bởi
hướng sóng trực diện,
tuy nhiên chiều cao sóng mùa này không lớn, trung bình chỉ từ 0,2 – 0,5 m, còn
các khu vực phía Bắc ven biển tỉnh Trà Vinh, chiều cao sóng trung bình chỉ từ
0,1 – 0,4m.
Do vậy, xét đến tác động của sóng, khu vực nửa bờ phía bắc bị ảnh hưởng
nghiêm trọng hơn và cần thiết phải có giải pháp giảm thiểu chiều cao sóng tới ở
khu vực này.
Ngoài ra, do đặc điểm địa hình, khu vực ven biển Trà Vinh tồn tại một
vách ngầm cách bờ khoảng từ 6-10km nên các con sóng lớn ngoài khơi bắt đầu
126
vỡ ở khu vực này, điều này giúp làm giảm nguy hại do tác động sóng đối với bờ
biển Trà Vinh, đặc biệt trong điều kiện gió, bão cấp cao. Tuy nhiên, sau phạm vi
vách ngầm đáy địa hình lại khá thoải khiến cho các con sóng có chiều cao >1m
tiến sát vào bờ và vỡ ở phạm vi < 2km cách bờ. Địa hình đáy khu vực giữa bờ
(cuối xã Trường Long Hòa và Dân Thành) dốc hơn nhiều so với khu vực bờ phía
bắc, nên mặc dù trong mùa gió đông bắc, vị trí này cũng có chiều cao sóng lớn
nhất (>0,8m). Hiện tượng sạt lở ở khu vực này chủ yếu là xói bề mặt do tác động
của sóng có chiều cao sóng lớn, nên cũng cần có giải pháp giảm thiểu chiều cao
sóng tới ở khu vực này.
b) Dòng chảy:
- Vùng bờ biển Trà Vinh nằm giữa 2 cửa sông lớn của sông Mê Công nên
đặc biệt bị chi phối bởi dòng chảy do thủy triều vào ra các cửa sông (Cung Hầu –
Cổ Chiên và Định An). Các tác động này đối với bờ biển Trà Vinh có thể coi là
lớn nhất so với các khu vực bờ biển lân cận và chiếm ưu thế trong các yếu tố tự
nhiên chi phối chế độ thủy động lực học khu vực ven biển Trà Vinh.
- Độ lớn triều (từ 2m÷4m trong ngày) cộng thêm chế độ dòng chảy sông
Mê Công khác biệt rõ rệt giữa mùa mưa và mùa khô là các yếu tố làm cho vận
tốc dòng chảy ra vào tại các cửa sông khi triều dâng và rút có thể đạt tới 1,3 m/s.
Vùng bờ biển đoạn giáp cửa Cung Hầu thuộc ấp Chợ, ấp Bầu của xã Hiệp Thạnh
bị ảnh hưởng bởi dòng chảy của sông Tiền cũng như triều vào ra cửa Cung Hầu.
- Trường dòng chảy khi triều rút có giá trị vận tốc cao nhất vào mùa gió
tây nam do dòng nước lũ từ sông Mê Công đổ về kết hợp với hướng triều rút
trùng với hướng gió mùa (từ phía tây nam thổi tới). Đặc điểm rõ rệt ở thời điểm
này là giá trị vận tốc tại khu vực cửa sông khá lớn (từ 1 – 1,3m/s) nhưng giá trị
vận tốc tại các vị trí ven bờ thì không cao (từ 0,2 – 0,5 m/s), hướng dòng chảy
không tác động trực diện lên bờ biển, hướng dòng chảy dọc bờ có xu thế mang
bùn cát từ sông bổ sung cho bờ biển Trà Vinh. Do vậy, đối với diễn biến xói lở
bờ biển, dòng chảy khi triều rút có thể coi là không nghiêm trọng (xem hình 3.40
127
và 3.41: Sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn cát vùng biển ven bờ Trà Vinh).
- Trường dòng chảy khi triều dâng có giá trị vận tốc cao nhất vào mùa gió
đông bắc do thời điểm này dòng chảy trong sông Mê Công nhỏ và hướng triều
dâng trùng với hướng gió mùa (từ phía đông bắc thổi tới). Đặc điểm nổi bật thời
điểm này là giá trị vận tốc tại khu vực cửa sông nhỏ hơn trong mùa gió tây nam,
nhưng giá trị vận tốc tại các vị trí ven bờ thì cao hơn trong mùa gió tây nam (từ
0,3 – 0,6 m/s), hướng dòng chảy tác động về phía bờ biển, hướng dòng chảy dọc
bờ có xu thế mang bùn cát ra khỏi khu vực bờ biển Trà Vinh. Do vậy, dòng chảy
khi triều dâng có ảnh hưởng đáng kể đối với diễn biến xói lở bờ biển.
- Với bờ biển Trà Vinh, hướng dòng triều dâng vào mùa gió đông bắc và
tây nam đều xuất phát từ phía đông bắc, điều này góp phần làm cho dải bờ biển
phía bắc có diễn biến xói lở phức tạp cả trong mùa gió tây nam (đặc biệt là khu
vực bờ biển xã Hiệp Thạnh).
Dòng vận chuyển bùn cát
Các quá trình chính là việc kết hợp của bồi lắng bùn cát từ các sông vào
mùa hè, bùn cát tái lơ lửng do sóng (với sự tham gia của thủy triều) vào mùa
đông và vận chuyển tiếp về phía Nam của bùn cát lơ lửng, chủ yếu bởi dòng do
gió gây ra. Đối với khu vực có biên độ triều lớn như bờ biển đông ĐBSCL, ảnh
hưởng của dòng triều là rất đáng kể. Mặc dù lượng nước chảy về phía bờ lúc
triều lên tương đương với dòng chảy ra ngoài khơi khi triều xuống, nhưng dòng
triều ngang bờ biển có xu hướng thúc đẩy vận chuyển bùn cát về phía bờ và bồi
lắng trong khi sóng có xu hướng gây xói lở [23].
a) Vận chuyển bùn cát dọc bờ:
- Hướng vận chuyển bùn cát dọc bờ theo hướng của dòng chảy ven bờ.
- Dòng chảy sông Mê Công có sự khác biệt rõ rệt về hàm lượng phù sa
trong mùa mưa và mùa khô, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến diễn biến xói lở và
bồi tụ dải ven biển Trà Vinh.
- Vào thời điểm mùa gió tây nam (cũng là mùa mưa), lượng nước và bùn
cát từ các sông cung cấp cao, hướng dòng chảy chủ đạo có tính chất chi phối diễn
128
biến bờ biển Trà Vinh trong mùa này là khi triều rút. Dòng bùn cát theo dòng
chảy dọc bờ có xu thế bổ sung cho bờ biển Trà Vinh nên hiện tượng bồi tụ xảy ra
nhiều trong thời gian này.
- Vào thời điểm mùa gió đông bắc (cũng là mùa khô), lượng nước và bùn
cát từ các sông cung cấp cho vùng nghiên cứu thấp. Sóng gây ra bởi gió mùa
đông bắc với mức độ tác động mạnh đã đào xới và làm tái lơ lửng phần lớn bùn
cát được bồi tụ ven biển trong mùa gió tây nam. Phần lớn lượng bùn cát tái lơ
lửng này theo dòng chảy ven bờ vận chuyển về phía Nam, một phần bùn cát theo
dòng triều ngược vào các cửa sông và gây ra bồi lắng tại các cửa sông.
- Xét theo chế độ toàn năm, bờ biển Trà Vinh được bồi đắp một lượng phù
sa rất lớn từ sông Mê Công, đặc biệt qua cửa Định An.
- Xuất hiện độ dốc về lưu lượng tải sa bồi dọc bờ, do vậy diễn biến và
nguyên nhân dẫn đến xói lở, bồi tụ của mỗi đoạn bờ biển là khác nhau.
b) Vận chuyển bùn cát ngang bờ:
Quá trình vận chuyển bùn cát ngang bờ chịu ảnh hưởng của khí hậu gió
mùa, có vai trò lấy đi bùn cát bờ biển trong sóng gió mùa đông bắc và đem bùn
cát vào bờ trong sóng gió mùa tây nam. Kết quả tính toán trong mục 3.1.5b. đã
cho thấy vai trò quan trọng của dòng vận chuyển bùn cát ngang bờ, ảnh hưởng
đến xu thế bồi, xói của từng đoạn bờ biển.
- Đối với BBTV xu thế chung là lượng bùn cát bị mang ra xa khỏi bờ, chỉ
riêng khu vực nửa bờ phía nam (gần cửa Định An) bùn cát được bổ sung vào bờ.
- Suất tải bùn cát ngang bờ là khác nhau giữa các đoạn bờ biển. Những
khu vực có chiều cao sóng lớn và có công trình cứng (coastal squeeze) như kè
bảo vệ bờ trực tiếp (tại xã hiệp Thạnh và xã Trường Long Hòa) xuất hiện tình
trạng tải lượng bùn cát ngang bờ rất lớn.
Căn cứ vào bài toán cân bằng quỹ bùn cát cho từng đoạn bờ biển Trà Vinh
như trong mục 3.1.5b., hình 3.36-37 có thể kết luận về xu thế xói lở như sau:
- Hai khu vực xói lở mạnh là vùng 1 (Hiệp Thạnh) và vùng 4 (Trường
129
Long Hòa) đều do nguyên nhân tải bùn cát dọc bờ và ngang bờ rất lớn.
- Hai khu vực xói lở nhẹ hơn là vùng 5,6 (Trường Long Hòa, Dân Thành)
không phải do nguyên nhân bùn cát dọc bờ mà do tải bùn cát ngang bờ.
Ảnh hưởng của công trình cứng (coastal squeeze) xây dựng xung
quanh vị trí mép nước
Nghiên cứu của Winterwerp [48], AFD [23] đã chứng minh, các công
trình này ảnh hưởng đến quá trình cân bằng bùn cát trong khu vực rừng ngập
mặn theo hai cách:
- Dòng chảy phù sa mịn trên bờ giảm do kết quả của giảm dòng nước trên
bờ;
- Chiều cao sóng gần các cấu trúc như vậy tăng lên do phản ánh của cấu
trúc đó, gây ra sự lùng sục cục bộ ở phạm vi phía trước của cấu trúc.
Quá trình xói mòn ở một quy mô lớn hơn tiếp tục diễn ra khi nền đáy dần
dần bị lõm xuống làm tăng cường các hiệu ứng sóng hơn nữa.
Kết quả tính toán của luận án cũng cho thấy, các công trình kè bảo vệ bờ
trực tiếp tại xã hiệp Thạnh (vùng 1- hình 3.36) và Trường Long Hòa (vùng 5-
hình 3.37) dường như là nguyên nhân làm tăng đột biết tải lượng bùn cát ngang
bờ.
Do vậy, các công trình cứng bao chặt bờ biển trước hết là không thể hạn
chế quá trình vận chuyển bùn cát ngang bờ, dọc bờ hoặc là bẫy trầm tích, sau
nữa là làm trầm trọng hơn tình trạng xói lở bờ biển.
3.3.2. Đề xuất giải pháp chỉnh trị
a) Nguyên lý thiết kế
Trên phạm vi địa phương, xói mòn và bồi tụ bờ biển phụ thuộc vào sự cân
bằng giữa sự lắng đọng trầm tích và tác động của sóng và dòng chảy. Việc nuôi
bãi có thể phần nào bù đắp lại sự mất cân bằng này, do vậy nên ưu tiên các
dạng công trình có hiệu quả trong việc giữ lại trầm tích, đảm bảo sự ra vào của
130
thủy triều, vì thuỷ triều là tác động chính chịu trách nhiệm về trao đổi bùn cát.
Ngoài ra, cần đảm bảo cân bằng giữa việc giảm sóng năng lượng cao bất
lợi và ngăn chặn các dòng có lợi. Trường hợp xói lở nghiêm trọng và sóng cao,
chẳng hạn như ở Hiệp Thạnh, Trường Long Hòa, giảm sóng là ưu tiên hàng
đầu. Lý tưởng nhất, nên kết hợp biện pháp công trình và phi công trình.
Vì vậy, việc thiết kế các công trình bảo vệ bờ biển nên nhằm giảm thiểu
các hiệu ứng phá hoại của sóng trong khi cho phép sự bồi tụ nhờ vào việc kết
hợp với thủy triều.
b) Đề xuất giải pháp chỉnh trị
Bờ biển Trà Vinh có một số khu vực sạt lở trọng điểm cần có giải pháp
chỉnh trị tại các xã Hiệp Thạnh, Trường Long Hòa và Dân Thành như trên hình
3.54, đặc điểm và nguyên nhân xói lở tại mỗi khu vực thể hiện trong bảng 3.19.
Bảng 3. 19: Đặc điểm và nguyên nhân xói lở tại các khu vực trọng điểm
Khu vực 1
Khu vực 2 Khu vực Trường Long Hòa (Vùng 5)
Đặc điểm xói lở
Nguyên nhân xói lở
tác
Khu vực 3 Khu vực Dân Thành và đoạn đầu Đông Hải (Vùng 6) Xói lở nhẹ, hình thức xói lở bề mặt là chủ yếu, bãi biển bị hạ thấp 0,1m/năm và biển lấn tốc độ 2m/năm. (1) Thiếu hụt nguồn bùn cát do dòng vận chuyển bùn cát ngang bờ. (2) Sóng có độ cao lớn.
131
Vị trí Khu vực Hiệp Thạnh (Vùng 1 và đoạn đầu vùng 4) Xói lở mạnh, bao gồm xói đáy và xói bờ, bãi biển hạ thấp 0,3m/năm và biển tốc độ lấn 20m/năm. (1) Thiếu hụt nguồn bùn cát do dòng vận chuyển bùn cát dọc bờ và ngang bờ. (2) Sóng MGĐB động trực diện (3) Ảnh hưởng của công trình cứng: kè xã Hiệp Thạnh. Công trình có khả năng giảm chiều cao sóng tới và hạn chế vận chuyển bùn cát dọc và ngang bờ. Yêu cầu chỉnh trị Xói lở mạnh, hình thức xói lở bề mặt là chủ yếu, bãi biển hạ thấp 0,15m/năm và biển lấn tốc độ 10m/năm. (1) Thiếu hụt nguồn bùn cát do dòng vận chuyển bùn cát ngang bờ. (2) Sóng có độ cao lớn (>0,8m). (3) Ảnh hưởng của công trình cứng: kè xã Trường Long Hòa. Công trình có khả năng giảm chiều cao sóng tới và hạn chế vận chuyển bùn cát ngang bờ. Công trình có khả năng giảm chiều cao sóng tới và hạn chế vận chuyển bùn cát ngang bờ.
Khu vực 1: Mỏ hàn chữ T
Khu vực 3:
Hàng rào tre/cừ tràm
Khu vực 2: Đê phá sóng
Hình 3. 54: Vị trí các khu vực sạt lở trọng điểm và định hướng bố trí công trình
chỉnh trị
Giải pháp chỉnh trị tổng hợp cho bờ biển Trà Vinh bao gồm (hình 3.54):
- Khu vực 1: Sử dụng công trình bảo vệ bờ chủ động với thiết kế mỏ hàn
dạng chữ T. Công trình này hoạt động theo nguyên lý: tác động vào dòng bùn cát
dọc và ngang bờ, giảm sóng và giữ lại bùn cát sau kè.
- Khu vực 2: Sử dụng công trình bảo vệ bờ chủ động với thiết kế đê phá
sóng tách rời. Đây là một cấu trúc song song với bờ biển, được xây dựng trong
đới sóng vỡ để bảo vệ bờ biển thông qua giảm chiều cao sóng tới và gây bồi khu
vực giữa tường và bờ.
- Khu vực 3: Sử dụng công trình dạng hàng rào rỗng bằng tre hoặc cừ
tràm. Trong điều kiện bình thường, hàng rào loại này như một sự bổ sung rất hiệu
quả cho việc trồng rừng ngập mặn, vì nó thúc đẩy sự bồi lắng bởi keo tụ và lắng
đọng trong vùng nước tĩnh. Quan trọng hơn là, việc thi công các đê chắn sóng
bằng bê tông có thể rườm rà và tốn kém, giải pháp hàng rào mềm được thiết lập
132
trong các vùng nước nông, do đó tiết kiệm chi phí hơn và việc thực thi cũng dễ
dàng hơn, lại thân thiện với môi trường. Dạng công trình này đã được thử nghiệm
hiệu quả ở U Minh,
Kiên Giang.
Hình 3. 55: Ví dụ về
dạng công trình hàng
rào cừ tràm ở Cà
Mau
Các dạng công trình này thỏa mãn các yếu tố trong “chiến lược phục hồi
bờ biển” của Winterwerp [48], đã được trình bày ở trang 23.
Ngoài ra, khi các khu vực sạt lở trọng điểm đã được bảo vệ, cần kết hợp
các “giải pháp mềm – trồng rừng ven biển” nhằm làm tăng hiệu quả bảo vệ, phát
triển bền vững dải bờ biển Trà Vinh. Điều kiện để các dải rừng ven biển phát
triển tốt là: bãi bồi ổn định; sóng, dòng chảy không tác động mạnh; giống cây
trồng phù hợp với địa hình, thổ nhưỡng. Sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn
cát vùng biển ven bờ Trà Vinh (Hình 3.40-41) cung cấp thông tin về đặc điểm
thổ nhưỡng cơ bản thích hợp với từng loại cây trồng. Cụ thể, dải bờ biển Trà
Vinh có sự phân bố của 2 loại thành phần thạch học có nguồn gốc và đặc trưng
khác hẳn nhau:
+ Khu vực gần các cửa sông lớn như Cổ Chiên, Định An và các cửa rạch
nhỏ có sự phân bố của trầm tích phù sa có nguồn gốc từ sông với thành phần
thạch học chủ yếu là bùn có đường kính hạt mịn (<0,08mm) thích hợp cho rừng
ngập mặn phát triển, các giống cây phù hợp có thể là: cây mắm, cây đước,…
+ Các phần còn lại của bờ biển Trà Vinh có trầm tích nguồn gốc hỗn
hợp sông - biển với thành phần thạch học chủ yếu là cát - cát pha sét có đường
133
kính hạt thô (>0,12mm) thích hợp cho rừng phi lao phòng hộ phát triển.
Hình 3. 56: Hình ảnh rừng ngập mặn (trái) và rừng phòng hộ phi lao (phải) tại khu vực ven biển Trà Vinh
3.4. GIẢI PHÁP CHỈNH TRỊ BẢO VỆ BỜ BIỂN TRÀ VINH KHU VỰC
HIỆP THẠNH
3.4.1. Giới thiện khu vực bờ biển xã Hiệp Thạnh
Đoạn bờ biển xã Hiệp Thạnh dài
khoảng 8,2 km, nằm ở phía ngoài cửa sông
Cung Hầu - Cổ Chiên. Đây là đoạn bờ liên
tục được giới hạn ở phía trên bởi sông Bến
Chùa và phía dưới bởi rạch Bến Giá.
Hình 3. 57: Vị trí bờ biển xã Hiệp Thạnh
Dựa vào mức độ xói lở có thể chia đoạn bờ biển xã Hiệp Thạnh thành 3
đoạn như sau (hình 3.58):
- Đoạn giáp cửa Cung Hầu có chiều dài 2,5 km, mức độ xói lở trung bình:
từ điểm A (669448-E, 1078472-N) đến điểm B (671556-E, 1077456-N).
- Đoạn ấp Bầu có chiều dài 3km, mức độ xói lở rất mạnh: từ điểm C
(671556-E, 1077456-N) đến điểm D (672154-E, 1074607-N). Trên đoạn bờ biển
này có 1,3km đã được xây dựng kè bê tông bảo vệ bờ trực tiếp, ngoài khu vực
đoạn kè đã xây dựng thì khu vực trước (phía Bắc) và phía sau kè (phía Nam)
mức độ xói lở là rất nghiêm trọng (xem hình 0.4).
- Đoạn phía Nam từ vàm Thâu Râu đến bờ Bắc vàm Láng Nước (cửa rạch
Bến Giá) có chiều dài 3 km, bờ biển có xu thế ổn định: từ điểm E (672145-E,
134
1074523-N) đến điểm F (671956-E, 1072049-N).
Hình 3. 58: Vị trí các đoạn bờ biển xã Hiệp Thạnh
3.4.2. Lựa chọn phương án bố trí tổng thể công trình
Từ thực tế khảo sát cho thấy, công trình kè đã xây dựng thực hiện tốt chức
năng bảo vệ bờ tại vị trí đoạn bờ có công trình. Tuy nhiên, tại khu vực lân cận
tình trạng sạt lở là rất nghiêm trọng. UBND tỉnh Trà Vinh đã có kế hoạch xây
dựng kè bảo vệ trực tiếp trên đoạn bờ trước và sau kè hiện có dựa trên tình hình
cấp bách và nhu cầu phân kỳ đầu tư với nguồn vốn không quá lớn. Theo phân
tích của luận án, nếu công trình tiếp theo được xây dựng có thể xảy ra trường hợp
sau:
- Tình trạng bờ biển bị bê tông hóa hoàn toàn;
- Sự thiếu hụt bùn cát dưới tác dụng của sóng, dòng chảy và hướng vận
chuyển bùn cát dọc bờ, ngang bờ về lâu dài sẽ làm xói đáy, ảnh hưởng trước mắt
đến kết cấu chân công trình và sau đó là ảnh hưởng sự bền vững của toàn bộ
công trình;
- Ảnh hưởng của dạng công trình cứng xây dựng xung quanh vị trí mép
nước sẽ gây nên tình trạng xói lở ở quy mô trầm trọng hơn.
Do vậy, luận án đề xuất phương án chỉnh trị bờ biển Trà Vinh (đoạn bờ
135
biển xã Hiệp Thạnh) nhằm mục đích hạn chế bớt lượng bùn cát thiếu hụt do dòng
chảy dọc bờ, ngang bờ và triết giảm năng lượng sóng tiến vào bờ dưới dạng mỏ
hàn kết hợp đê giảm sóng chữ T.
a. Xác định cao trình đỉnh đê
Tùy thuộc vào mức độ gây bồi tạo bãi và yêu cầu triết giảm sóng sau công
trình mà xác định cao trình đỉnh đê giảm sóng là đê nhô hay đê ngầm. Cao trình
đỉnh đê giảm sóng xác định theo TCVN 9901- 2014.
Cao trình đỉnh đê nhô xác định theo công thức sau:
Zd=ZTp+1/2Hs+S (3.1)
Trong đó:
+ ZTp là cao độ mực nước tương ứng tần suất mực nước thiết kế P = 10%;
+ S là độ lún bao gồm lún do nền đê giảm sóng và lún do bản thân đê giảm sóng.
Lún do nền bao gồm lún tức thời và lún theo thời gian trong vòng 10 năm.
+ Hs là chiều cao sóng tại chân công trình.
b. Xác định bố trí mặt bằng công trình
Khoảng cách giữa bờ và đê giảm sóng được xác định theo Tiêu chuẩn
quốc gia công trình thủy lợi yêu cầu thiết kế đê biển (TCVN 9901: 2014).
Khoảng cách giữa đê giảm sóng và
bờ khoảng từ 1 đến 1.5 lần chiều dài
sóng nước sâu. Tham số sóng nước
sâu (chiều cao sóng - Hs (m), chu kỳ
sóng - Tp (s)) được lấy từ kết quả
tính toán từ mô hình toán đã được
kiểm định cho khu vực nghiên cứu.
(m) (3.2)
Hình 3. 59: Sơ đồ minh họa cho các thông số tính toán
Từ đó sẽ tính toán được chiều dài sóng nước sâu:
136
Khoảng cách từ đê giảm sóng đến bờ là: ( ) (m) (3.3)
Chiều dài đê giảm sóng: ( ) (m) (3.4)
Khoảng hở giữa 2 đê chắn sóng liên tiếp: ( ) (m) (3.5)
Bảng 3. 20: Các thông số thiết kế công trình gây bồi tạo bãi
Thông số tính toán Nguồn số liệu
Theo TCVN 9901- 2014 (đê nhô) V 10%
Cấp công trình Tần suất thiết kế Mực nước thiết kế ZTp (m) 1,70
0,8
Chiều cao sóng thiết kế trước đê Hs (m) Độ lún giả định S (m) Chiều cao sóng nước sâu (m) Chu kỳ sóng nước sâu Tp (s) Chiều dài sóng nước sâu Ls,0 (m) Cao trình đê giảm sóng Zd (m) Khoảng cách từ đê tới bờ X (m) Chiều dài đê giảm sóng L (m) Khoảng cách hở giữa 2 đê G (m) 0,4 6,5 9,3 137,7 +2,5 138- 207 207- 621 41- 138 Phụ lục B TCVN 9901: 2014 Sơ đồ thủy động lực Hình 3.38 Kết quả tính sóng từ mô hình Mike 21/3 F/M Tính theo công thức (3.2) Tính theo công thức (3.1) Tính theo công thức (3.3) Tính theo công thức (3.4) Tính theo công thức (3.5)
Bảng 3. 21: Các kịch bản bố trí công trình chỉnh trị
Mô tả kịch bản Khoảng cách từ đê tới bờ X (m) Cao trình đỉnh đê (m)
Tên kịch bản HT Hiện trạng Chiều dài Khoảng cách đê giảm giữa 2 đê G (m) sóng L (m) (Đã tính trong mục 3.1)
KB1 300 400 130 +2.0
KB2 300 400 80 +2.0
137
KB3 300 400 50 +2.0 Bố trí 4 mỏ hàn chữ T Bố trí 4 mỏ hàn chữ T Bố trí 4 mỏ hàn chữ T
Sơ đồ bố trí
công trình thiết lập
trong mô hình
Mike 21/3 F/M thể
hiện trên hình bên.
Hình 3. 60: Sơ đồ
bố trí công trình
chỉnh trị bờ biển
Hiệp Thạnh
xã Hiệp Thạnh,
tỉnh Trà Vinh
3.4.3. Phân tích hiệu quả của hệ thống công trình chỉnh trị
a) Hiệu quả giảm vận tốc dòng chảy khu vực ven bờ
Kết quả tính toán chế độ dòng chảy khu vực xã Hiệp Thạnh khi triều dâng
(hình 3.61) và khi triều rút (hình 3.62) cho thấy tốc độ dòng chảy trong phạm vi
công trình giảm đáng kể. Tốc độ dòng chảy tại mép ngoài công trình dao động
trong khoảng từ 0,3-0,5m/s, trong khi tại khu vực ven bờ chỉ còn từ 0,08-0,2m/s.
Điều này giúp làm giảm đáng kể mức độ xói đáy và bờ.
Hình 3. 61:
Trường dòng
chảy khu vực xã
Hiệp Thạnh khi
triều dâng (Kịch
138
bản 1)
Hình 3. 62: Trường dòng chảy và mực nước khu vực xã Hiệp Thạnh khi triều rút (Kịch bản 1)
Tọa độ điểm P (UTM-48): (x,y) = (672078.41, 1077090.19)
Hình 3. 63: Vị trí điểm trích xuất dòng chảy (cách đê 50m)
139
Hình 3. 64: Hoa dòng chảy tại điểm P ứng với các kịch bản HT, KB1, KB2, KB3 thời kỳ gió mùa Đông Bắc (1/1/2011÷ 27/1/2011)
Hoa dòng chảy trích xuất tại vị trí P đối với 4 kịch bản tính toán như trên
hình 3.64 cho thấy, công trình mỏ hàn chữ T đã làm giảm lưu tốc tại điểm P một
cách đáng kể xét cả về cường độ cũng như thời gian duy trì vận tốc lớn. Giá trị
vận tốc giảm dần từ KB 1 đến KB 3 cho thấy khoảng cách giữa các đê càng nhỏ
thì hiệu quả giảm vận tốc dòng chảy tại khu vực bờ cần bảo vệ càng tốt.
b) Hiệu quả giảm chiều cao sóng
Hình 3. 65:
Trường sóng mùa
gió đông bắc khu
vực bờ biển xã Hiệp
Thạnh (Kịch bản 1)
Kết quả tính
toán đối với trường
sóng mùa gió đông
bắc (thời điểm sóng
tác động mạnh nhất
đến bờ biển xã Hiệp
Thạnh) trên hình 3.65 cho thấy, bờ biển khu vực này được bảo vệ tốt khỏi tác
động của sóng bởi hệ thống mỏ hàn chữ T. Tính từ mép ngoài của công trình
chiều cao sóng giảm liên tục từ 0,7m, cho đến khi vào khu vực gần bờ chỉ còn
0,1 – 0,3m.
Để so sánh kỹ hơn về hiệu quả giảm chiều cao sóng giữa các phương án,
kết quả tính toán được trích xuất tại các mặt cắt như hình 3.66, khoảng cách giữa
mặt cắt 3 tới đê là 50m, mặt cắt 4
nằm giữa khoảng hở của mỏ hàn.
140
Hình 3. 66: Vị trí các mặt cắt để xem xét sự thay đổi sóng trong khu vực được kè mỏ hàn chữ T bảo vệ
Hình 3. 67: Chiều cao sóng tại mặt cắt 3 (trái) và mặt cắt 4 (phải) thời điểm 19:00 ngày 18/1/2011 (mùa Đông Bắc)
Biểu đồ chiều cao sóng tại mặt cắt 3, 4 trong thời kỳ gió mùa Đông Bắc
giữa các phương án (hình 3.67) cho thấy, chiều cao sóng tại cả hai mặt cắt sau
khi xây dựng công trình giảm đáng kể so với khi chưa xây dựng công trình.
Khoảng cách giữa các đê (G) càng nhỏ thì hiệu quả giảm sóng càng cao. Trong
nghiên cứu này, hiệu quả giảm sóng của kịch bản 3 (G = 50m) là cao nhất so với
các kịch bản G = 80m (KB2) và G = 130m (KB1).
c) Hiệu quả giảm vận chuyển bùn cát dọc bờ
Hình 3. 68: So sánh lưu lượng bùn cát lơ lửng tại mặt cắt MC1 giữa 2 phương án
Kết quả chuyển
tải lưu lượng bùn cát
dọc bờ được trích xuất
tại 02 mặt cắt MC 1,
MC 2 như trên hình 3.29 để thuận tiện cho việc so sánh phương án có công trình
(mỏ hàn) với khi chưa có công trình (đã được tính toán trong mục 3.1.5). Các
kịch bản công trình đều có khoảng cách từ đê tới bờ (X) là 300 m, hiệu quả giảm
vận chuyển bùn cát dọc bờ là tương đương nhau, do vậy trên hình 3.68 và 3.69
chỉ thể hiện 2 phương án: chưa có công trình và có công trình. Kết quả tính toán
cho thấy, các công trình mỏ hàn tác động vào quá trình vận chuyển bùn cát dọc
141
bờ và làm giảm đáng kể sự vận chuyển bùn cát dọc bờ.
Hình 3.69 cho thấy, do mặt cắt MC2 ở khá xa bờ biển Hiệp Thạnh, nên
tuy lưu lượng bùn cát dọc bờ đã giảm nhưng xu thế vận chuyển bùn cát dọc bờ về
phía tây nam trong mùa gió đông bắc (1-27/1/2011) vẫn chiếm ưu thế. Để hạn
chế tình trạng này, cần
có phương án công
trình mỏ hàn chữ T
bảo vệ đoạn bờ bị xói
tại khu vực gần cửa
sông Bến Giá, xã
Trường Long Hòa như
đã đề xuất trong phần
3.3.2 – hình 3.54.
Hình 3. 69: So sánh lưu lượng bùn cát lơ lửng tại mặt cắt MC2 giữa 2 phương án
d) Diễn biến hình thái
Kết quả tính toán diễn biến hình thái dải ven biển xã Hiệp Thạnh (khu vực
có công trình) trong 1 tháng vào mùa gió đông bắc (tháng 1/2011) thể hiện trên
hình 3.70 và 3.71 cho thấy, với hiệu quả giảm vận tốc dòng chảy, giảm chiều cao
sóng và giảm sự thiếu hụt bùn cát ven biển của công trình đã hạn chế được hiện
trượng xói lở và tạo ra xu thế bồi tụ trên dải bờ biển xã Hiệp Thạnh và trong
phạm vi 300m từ mép bờ ra biển. Về hiệu quả gây bồi giữa các phương án có thể
thấy, phương án KB1 (G=130m) có mức độ bồi tụ kém nhất, xét về tổng thể tích
bồi tụ phương án KB3 (G=50m) mang lại hiệu quả bồi tụ tốt hơn cả.
142
Hình 3. 70: Mức độ bồi tụ tại mặt cắt 3 (trái) và mặt cắt 4 (phải) sau 1 tháng
Hình 3. 71: Diễn biến bồi xói khu vực bờ biển xã Hiệp Thạnh phương án có công trình sau 1 tháng tính toán (1-23/1/2011, mùa gió đông bắc)
3.4.4. Nhận xét chung
Tổng hợp các phân tích về hiệu quả của công trình ở phần trên có thể thấy:
- Về hiệu quả giảm vận chuyển bùn cát dọc bờ: tương đương nhau giữa 3
phương án KB1, KB2 và KB3;
- Về hiệu quả giảm vận tốc dòng chảy và chiều cao sóng: KB3 (G = 50m)
là tốt nhất;
143
- Về hiệu quả gây bồi bờ biển: KB3 (G=50m) là tốt nhất.
Nhược điểm của kịch bản KB3 so với kịch bản KB2 là khoảng hở giữa
các đê nhỏ hơn, qui mô công trình lớn hơn nên giá thành cao hơn, khả năng lún
công trình nhiều hơn (điều này còn phụ thuộc vào vật liệu xây dựng công trình).
Như vậy xét về mặt hiệu quả công trình thì kịch bản KB3 nên được lựa
chọn. Từ đó, luận án đề xuất dạng công trình bảo vệ đoạn bờ biển xói lở xã Hiệp
Thạnh là mỏ hàn chữ T với các thông số chính: cao trình đỉnh là +2.0 ÷ 2.4m,
khoảng hở giữa các đê G = 50m để phát huy tối ưu hiệu quả giảm sóng, giảm vận
tốc dòng chảy ven bờ và gây bồi tạo bãi phát triển rừng phòng hộ ven biển.
3.5. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 trình bày các kết quả nghiên cứu của luận án, các vấn đề đặt
ra nghiên cứu đã được giải quyết cơ bản. Trong đó, có thể chia làm hai nhóm kết
quả:
a) Nhóm kết quả khẳng định lại nghiên cứu của các đề tài trước về vùng
nghiên cứu:
- Sự phân lưu dòng chảy giữa các nhánh sông Mê Công;
- Các đặc điểm triều, dòng chảy và sóng trong MGĐB và MGTN;
b) Nhóm kết quả nghiên cứu mới của luận án:
- Lý giải hiện tượng dòng chảy khi triều dâng vào mùa gió tây nam có
hướng đông bắc, các tính toán về dòng ven bờ;
- Địa hình đáy biển khu vực Trà Vinh tồn tại một “vách ngầm” giảm sóng
(Hình 3.28) giới hạn vùng đại dương có liên quan đến xói lở;
- Làm sáng tỏ cơ chế vận chuyển bùn cát ven bờ vùng nghiên cứu, có xem
xét đến yếu tố cân bằng bùn cát;
- Xây dựng được “Sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn cát vùng biển
ven bờ Trà Vinh” đặc trưng cho mùa gió đông bắc và tây nam.
- Xây dựng được hình vẽ sơ họa mặt cắt ngang đới bờ biển Trà Vinh,
đồng thời nhận diện và đưa ra một số lý giải ban đầu về hình dạng mặt bằng của
BBTV.
144
- Phân tích diễn biến bồi xói với kịch bản tính toán. Đường quan hệ giữa
chiều dày bồi lắng theo thời gian cho thấy, các ảnh hưởng từ sự gia tăng mực
nước biển do BĐKH và sự suy giảm lượng phù sa sông Mê Công do xây dựng
các công trình trên thượng nguồn có xu thế làm tăng mức độ xói (hoặc giảm độ
bồi tụ) tại khu vực ven bờ biển Trà Vinh. Tuy nhiên ảnh hưởng này là không
đáng kể so với mức độ xói lở do chế độ thủy động lực hiện trạng.
- Khẳng định sự ảnh hưởng của các công trình cứng tới diễn biến xói lở
bờ biển.
- Đưa ra được giải pháp chỉnh trị bền vững cho từng khu vực bờ biển Trà
145
Vinh.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. KẾT LUẬN
1. Luận án đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến trường thủy động lực
và vận chuyển bùn cát khu vực biển ven bờ Trà Vinh. Các kết quả tính toán chỉ
ra rằng:
- Sóng: (i) Khu vực nửa bờ phía bắc bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn nửa
bờ phía nam bởi tác động của sóng lớn trong mùa gió đông bắc; (ii) Tồn tại vách
ngầm giảm sóng tại vị trí cách bờ khoảng từ 6 (giữa bờ) - 10km (bờ phía bắc và
nam); (iii) Chiều cao sóng tại các vị trí gần cửa sông luôn thấp hơn các điểm giữa
bờ do cấu trúc địa hình đáy và tác động của dòng chảy từ trong sông.
- Dòng chảy: 3 yếu tố chi phối mạnh đến chế độ dòng chảy khu vực ven
biển Trà Vinh là: dòng chảy sông Mê Công trong mùa mưa và mùa khô, chế độ
triều bán nhật triều với độ lớn triều (từ 2 - 4m/ngày), chế độ khí hậu gió mùa
đông bắc và tây nam. Có một số đặc điểm cơ bản sau:
+ Tác động của chế độ dòng chảy và hàm lượng phù sa sông Mê Công
trong mùa mưa và mùa khô đối với bờ biển Trà Vinh có thể coi là lớn nhất so với
các khu vực bờ biển lân cận;
+ Trường vận tốc dòng chảy lớn nhất khi hướng truyền triều trùng với
hướng gió mùa, cụ thể, dòng chảy vào mùa gió đông bắc khi triều dâng và mùa
gió tây nam khi triều rút;
+ Các vị trí gần cửa sông luôn có vận tốc dòng chảy lớn hơn các điểm
giữa bờ;
+ Dòng chảy khi triều dâng (đặc biệt trong mùa gió đông bắc) có ảnh
hưởng đáng kể đối với diễn biến xói lở bờ biển;
+ Hướng dòng chảy khi triều dâng vào mùa gió đông bắc và tây nam đều
xuất phát từ phía đông bắc, điều này góp phần làm cho nửa bờ biển phía bắc có
diễn biến xói lở phức tạp cả trong cả hai mùa.
- Cơ chế vận chuyển bùn cát: Hình 3.32-33 chứng minh xu hướng vận
146
chuyển bùn cát dọc bờ về phía tây nam chiếm ưu thế trong mùa gió đông bắc.
Hình 3.36, 37 cho thấy, quá trình vận chuyển bùn cát ngang bờ đóng vai trò quan
trọng trong việc phát triển đường bờ, lượng phù sa từ sông Mê Công qua cửa
Định An bồi đắp cho bờ biển Trà Vinh hàng năm là rất lớn.
- Luận án đã xây dựng được sơ đồ thủy động lực và vận chuyển bùn cát
vùng biển ven bờ Trà Vinh theo mùa gió đông bắc và tây nam (hình 3.40-41),
nhằm tập hợp các thông tin cơ bản như: hướng và vận tốc dòng chảy lớn nhất khi
triều dâng và rút, biên độ và dao động triều trong tháng, hướng và chiều cao sóng
các vị trí trọng điểm theo mùa gió, hướng vận chuyển bùn cát ven bờ theo mùa
gió và sự phân bố của các thành phần thạch học cơ bản phục vụ định hướng phát
triển rừng ngập mặn hoặc rừng phi lao phòng hộ.
2. Dựa trên các kết quả đã tính toán về trường thủy động lực và địa hình
khu vực ven biển, luận án đã xây dựng được hình vẽ sơ họa mặt cắt ngang đới bờ
biển Trà Vinh (Hình 3.43), đồng thời nhận diện và đưa ra một số lý giải ban đầu
về hình dạng mặt bằng của BBTV có xu thế nhô hẳn ra ngoài biển Đông hơn các
vùng bờ biển lân cận. Tuy nhiên, vấn đề này còn phải tiếp tục nghiên cứu sâu
thêm.
3. Luận án đã tính toán diễn biến bồi xói với kịch bản hiện trạng (hình
3.45) cho thấy các khu vực xói chi phối nhiều là Hiệp Thạnh, Trường Long Hòa,
Dân Thành, khu vực xu hướng bồi chủ đạo là Đông Hải. Kết quả trích xuất từ mô
hình về sự thay đổi bề dày lớp bồi tụ tại 3 điểm tiêu biểu khu vực bờ biển Trà
Vinh (Sx – xói nhiều, Sb – bồi nhiều, So - ổn định) với các kịch bản khác nhau
(hiện trạng, nước biển dâng 13cm và 23 cm, suy giảm bùn cát sông Mê Công
20% và 30% - so với năm 2011) và xây dựng được đường quan hệ giữa chiều
dày bồi lắng theo thời gian (Hình 3.47- 52). Các ảnh hưởng từ sự gia tăng mực
nước biển do BĐKH và sự suy giảm lượng phù sa sông Mê Công do xây dựng
các công trình trên thượng nguồn có xu thế làm tăng mức độ xói (hoặc giảm độ
bồi tụ) tại khu vực ven bờ biển Trà Vinh.
4. Kết quả tính toán từ mô hình đã chỉ ra: trong mùa dòng chảy thấp (mùa
khô), bãi biển được đặc trưng bởi sóng gió mùa đông bắc và dòng chảy dọc bờ
147
biển vận chuyển bùn cát về phía tây nam, kết hợp với dòng bùn cát ra xa bờ gây
nên sự thiếu hụt bùn cát khu vực ven biển, đặc biệt đối với nửa bờ phía bắc. Từ
kết quả này, luận án đưa ra định hướng cho lựa chọn loại công trình để chỉnh trị
và ổn định đường bờ biển tỉnh Trà Vinh là: (i) Khu vực Hiệp Thạnh sử dụng
dạng công trình mỏ hàn chữ T có khả năng giảm sóng từ xa và hạn chế vận
chuyển bùn cát dọc bờ; (ii) Khu vực Trường Long Hòa sử dụng dạng công trình
đê giảm sóng xa bờ; (iii) Khu vực Dân Thành và đoạn đầu Đông Hải sử dụng
công trình dạng hàng rào rỗng bằng tre/cừ tràm.
5. Luận án đã ứng dụng kết quả nghiên cứu để định hướng bố trí không
gian công trình chỉnh trị bờ biển Trà Vinh vào khu vực xã Hiệp Thạnh và xác
định được khoảng cách giữa các đê giảm sóng tốt nhất là 50m.
4.2. KIẾN NGHỊ
Do các số liệu đầu vào cho mô hình như địa tầng trầm tích (chiều dày các
lớp, sự phân bố thành phần hạt,...) cũng như số liệu bùn cát ở biên thượng lưu
còn hạn chế nên kết quả mô phỏng vận chuyển bùn cát, diễn biến bồi xói bờ biển
có ý nghĩa trong việc phân tích đánh giá xu thế nhiều hơn mặt định lượng. Mặc
dù còn có một số hạn chế như trên nhưng kết quả mô phỏng đã giúp làm rõ chế
độ thủy động lực học, cơ chế diễn biến bồi xói từ đó xác định được các yếu tố
gây ra xói lở bờ biển cho từng tiểu khu vực.
Các kết quả trong luận án này mới chỉ xét đến các điều kiện thực tế trong
khoảng thời gian của năm 2011 và 2014. Vì vậy các kết quả phân tích tính toán ở
trên chỉ mang tính chất đại diện cho các khoảng thời gian này.
Cần có những hướng nghiên cứu tiếp theo như sau:
- Kết quả nghiên cứu về sự nhô ra của BBTV trong luận án mới chỉ là
những lý giải bước đầu, theo tác giả nhận thấy nếu có điều kiện nghiên cứu sâu
thêm có thể quan tâm đến phương pháp sử dụng ảnh viễn thám, quan sát quá
trình hình thành đường bờ biển Trà Vinh qua nhiều thời kỳ.
- Nghiên cứu đánh giá sự ảnh hưởng của hệ thống kênh Tắt và các công
trình chỉnh trị quanh cửa kênh Tắt sau khi đi vào hoạt động (năm 2016) đến chế
148
độ thủy động lực và vận chuyển bùn cát khu vực BBTV.
- Nghiên cứu tác động tổng hợp của việc xây dựng các công trình trên
thượng nguồn sông Mê Công và nước biển dâng đến diễn biến ven biển khu vực
149
Trà Vinh.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Hoàng Văn Huân, Nguyễn Thị Phương Thảo. Một số vấn đề cơ bản trong thiết kế cấu trúc chân đế của các trạm điện bằng sức gió đặt ở ven biển –Tạp chí Khoa học và Công nghệ thủy lợi – Viện KHTL Việt Nam. Năm 2012. ISSN: 1859-4255.
2. Hoàng Văn Huân, Phan Mạnh Hùng, Nguyễn Thị Phương Thảo. SOME INITIAL RUDIMENT RESULTS ON HYDRODYNAMIC - WAVE - DEPOSITION/EROSION PROCESSES IN THE COASTAL SOUTHERN VIETNAM – Hội thảo: The 14th Asian Congress of Fluid Mechanics (14 ACFM), Ha Noi. Năm 2013. ISBN: 978-604-913-145-5
3. Hoàng Văn Huân, Nguyễn Thế Biên, Nguyễn Thị Phương Thảo. Biến động đường bờ tại vùng biển tỉnh Trà Vinh – những nguyên nhân cơ bản - Tạp chí Hội nghị Cơ học thủy khí 2013. ISSN: 1859-4182.
4. Hoàng Văn Huân, Phạm Văn Tùng, Nguyễn Thị Phương Thảo, Mai Đức Trần. Nguyên nhân ngập úng ở thành phố Nha Trang – Tuyển tập công trình Hội nghị khoa học Cơ học thủy khí 2013. ISSN: 1859-4182.
5. Nguyễn Thị Phương Thảo, Hoàng Văn Huân. Ứng dụng các mô hình toán nghiên cứu về thủy động lực và vận chuyển bùn cát vùng cửa sông ven biển – Tuyển tập công trình Hội nghị khoa học Cơ học thủy khí 2015. ISSN: 1859- 4182.
6. Hoàng Văn Huân, Nguyễn Thị Phương Thảo. Bước đầu xác định nguyên nhân gây ra các biến động của chế độ thủy thạch động lực biển ven bờ Trà Vinh – Tuyển tập công trình Hội nghị khoa học Cơ học thủy khí 2016. ISSN: 1859-4182.
7. Nguyễn Thị Phương Thảo. Đánh giá lợi ích kinh tế từ lũ vùng Đồng bằng sông Cửu Long - Kỷ yếu hội nghị khoa học công nghệ lần thứ 3 “Quản lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và môi trường hướng đến tăng trưởng xanh”. Năm 2016. ISBN: 978-604-73-4719-3.
8. Nguyễn Thị Phương Thảo, Hoàng Văn Huân. Ảnh hưởng chế độ thủy thạch động lực vùng ven biển đến đặc trưng hình thái đường bờ biển tỉnh Trà Vinh - Hội nghị Cơ học thủy khí năm 2017. ISSN: 1859-4182.
9. Nguyễn Thị Phương Thảo, Hoàng Văn Huân. Xây dựng mối liên hệ giữa sự biến đổi bề dày bãi bồi ven biển Trà Vinh với chế độ phù sa sông Mê Công và nước biển dâng - Tạp chí Khoa học và Công nghệ Thủy lợi - Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam. ISSN 1859–4255.
150
10. Nguyễn Thị Phương Thảo, Hồ Trọng Tiến. Mô phỏng ảnh hưởng của nước biển dâng do biến đổi khí hậu đến biến động của chế độ thủy động lực và hình thái vùng ven bờ biển Trà Vinh - Tạp chí Môi trường (Tổng cục môi trường). ISSN 1859–042X.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
[1] Hoàng Văn Huân, "Nghiên cứu đề xuất các giải pháp Khoa học Công nghệ dự báo, phòng chống biển lấn đoạn bờ biển tỉnh Trà Vinh và vùng phụ cận," thuộc Đề tài cấp nhà nước., 2010-2013.
[2] Hoàng Văn Huân, "Nghiên cứu đề xuất cơ sở khoa học và giải pháp bảo vệ bờ biển
tỉnh Trà Vinh," thuộc Viện Kỹ Thuật Biển., 2008.
[3] Hoàng Văn Huân, Nghiên cứu ứng dụng công nghệ giảm sóng thân thiện với môi
trường phục vụ phòng chống sạt lở trên địa bàn tỉnh trà Vinh., 2014.
[4] Hoàng Văn Huân, "Nghiên cứu, đánh giá diễn biến rủi ro bồi xói vùng ven bờ, cửa sông ĐBSCL," thuộc Thích ứng với biến đổi khí hậu cho phát triển bền vững Nông nghiệp và Nông thôn các tỉnh ven biển ĐBSCL.: Viện Kỹ Thuật Biển - Viện KHTL Việt Nam, 2012.
[5] Lê Mạnh Hùng, Nguyễn Duy Khang, Lê Thanh Chương, "Xói lở, bồi tụ bờ biển Nam Bộ từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Kiên Giang - Nguyên nhân và các giải pháp bảo vệ," trong Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy lợi.: Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, 2009.
[6] Lương Phương Hậu, "Giáo trình Công trình kỹ thuật bờ biển," trong Giải pháp gia
cố bờ - Công trình ngăn cát, giảm sóng, tôn tạo bãi biển.
[7] Lương Phương Hậu, Nguyễn Ngọc Quỳnh và Nguyễn Thành Trung, Công trình
phòng hộ và tôn tạo bờ biển. Hà Nội, Việt Nam: Nhà xuất bản nông nghiệp, 2016.
[8] Nguyễn Địch Dỹ, "Nghiên cứu biến động cửa sông và môi trường trầm tích
Holocen - hiện đại vùng ven biển châu thổ Sông Cửu Long, phục vụ phát triển bền vững kinh tế - xã hội," thuộc Viện địa chất. Hà Nội, 2010.
[9] Nguyễn Hữu Nhân, "Chuyên đề: Nghiên cứu chế độ thủy thạch động lực học ven biển tỉnh Trà Vinh và dự báo tốc độ bồi xói bằng phương pháp mô hình toán," thuộc Đề tài nhà nước “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp Khoa học Công nghệ dự báo, phòng chống biển lấn đoạn bờ biển tỉnh Trà Vinh và vùng phụ cận”., 2013.
[10] Nguyễn Hữu Nhân, "Nghiên cứu cơ chế hình thành và phát triển vùng bồi tụ ven bờ biển và các giải pháp KHCN để phát triển bền vững về KT-XH vùng biển Cà Mau," thuộc Đề tài độc lập cấp Nhà Nước: ĐTĐL.2011.T/43., 2015.
[11] Nguyễn Hữu Nhân, "Nghiên cứu sự biến dạng của các yếu tố triều trên biển ven bờ và các cửa sông Nam Bộ do nước biển dâng," thuộc Viện Kỹ Thuật Biển-Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam., 2011.
[12] Nguyễn Thị Phương Thảo, "Ứng dụng các mô hình toán nghiên cứu về thủy động
lực và vận chuyển bùn cát ven biển," Chuyên đề nghiên cứu sinh.
151
[13] Nguyễn Trung Thành và nnk., "Xu hướng vận chuyển tích tụ trầm tích trên phần
châu thổ ngầm ven bờ biển đông bằng sông Mê Kông," trong Tạp chí các khoa học về trái đất., 2011, pp. 607-615.
[14] Nguyễn Văn Lập, Tạ Thị Kim Oanh, "Môi trường trầm tích Pleistocen muộn –
Holocen vùng Cà Mau," trong Tạp chí Các khoa học về trái đất., 2004.
[15] Phạm Sơn Hải, "Nghiên cứu giải pháp KHCN chống sa bồi ổn định luồng tầu Định An phục vụ nhu cầu vận chuyển hàng hóa," thuộc Đề tài KHCN cấp nhà nước., 2004.
[16] Phạm Thu Hương, "Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải pháp ổn định cửa Đà Rằng, tỉnh Phú Yên," Luận án tiến sĩ kỹ thuật. Hà Nội: Đại học thủy lợi, 2012.
[17] Phạm Văn Giáp và Lương Phương Hậu, "Chỉnh trị cửa sông ven biển," Nhà xuất
bản xây dựng. Hà Nội, 1996.
[18] Thorsrorrsten; Đinh Công Sản; Klaus Schmitt, Bảo vệ bờ biển ở Đồng bằng Sông
Cửu Long.: GIZ, 2013.
[19] Vũ Duy Vĩnh và nnk., "Mô phỏng đặc điểm biến động địa hình vùng cửa sông ven
bờ sông Mê Kông," trong Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14, Số 3A., 2014, pp. 30-41.
[20] Vũ Kiên Trung, Nghiên cứu đề xuất giải pháp tổng hợp khai thác bền vững các bãi
bồi ven biển khu vực từ cửa Tiểu đến cửa Định An., 2009.
[21] Vũ Văn Nghị, "Tiêu chuẩn lựa chọn mô hình," trong Mô hình toán thủy văn. TP.
HCM: Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, 2016, pp. 62 - 63.
[22] Tập đoàn HDR, Englewood, Colorado, Hoa Kỳ and Tập đoàn DHI, Đan Mạch,
Nghiên cứu tác động của các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mê Công.: Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016.
Tài liệu tiếng Anh
[23] AGENCE FRANÇAISE DE DÉVELOPPEMENT (AFD), EUROPEAN UNION
(EU), and SOUTHERN INSTITUTE OF WATER RESOURCES RESEARCH (SI, "Erosion processes in the Lower Mekong Delta Coastal Zones and measures for protecting Go-Cong and Phu-Tan," AFD-SIWRR 2016, Dec. 2017.
[24] Albers, T., Von Lieberman, N. , "Current and Erosion Modelling
Survey.Management of Natural Resources in the Coastal Zone of Soc Trang Province, Vietnam," in GIZ., 2011.
[25] Anthony, E. J.; Dussouillez, P.; Dolique, F. and Besset, M.; Brunier, G.; Nguyen, V. L.; Goichot, M, "Morphodynamics of an eroding beach and foredune in the
152
Mekong River delta: Implications for deltaic shoreline change," Continental Shelf Research, vol. 147, pp. 155-164, Sep. 2017.
[26] Apmann, R.P. and Rumer, R.R., "Diffusion of sediment in a non-uniform flow
field," Civil Eng. report 16, 1967.
[27] Bagnold, R. A., "The Movement of Desert Sand," Lodon, vol. 157, pp. 594-620,
1936.
[28] P. Bruun, Sea-level rise as a cause of shore erosion.: Proceedings of the American Society of Civil Engineers. Journal of the Waterways and Harbors Division 88, 1962.
[29] P. Bruun, The Bruun Rule of erosion by sea-level rise: a discussion of large-scale two- and three-dimensional usages.: Journal of Coastal Research 4, 627– 648., 1988.
[30] CEM, "Coastal engineering manual," in Coastal & Hydraulics laboratory.
http://chl.erdc.usace.army.mil/chl.aspx?p=s&a=articles;104: U.S. Army Corps of Engineers, 2002.
[31] Claudia K., Ian C., and Marthe R., "Understanding the impact of hydropower developments in the context of upstream–downstream relations in the Mekong river basin," Sustainability Science. ISSN 1862-4065, Oct. 2012.
[32] Dean, R.G. , "Coastal Sediment Processes: Toward Engineering," in Proceedings of Coastal Sediments.. New Orleans: American Society of Civil Engineers, 1987, ch. 1, pp. 1-24.
[33] Dean, R.G. , "Equilibrium Beach Profiles: Characteristics and Applications," in
Journal of Coastal Research., 1991, pp. 53-84.
[34] DHI (2012), "Mike 21/3 Coupled Model FM. Hydrodynamic and transport
module.," Scientific documentation.
[35] DHI (2012), "Mike 21/3 Coupled Model FM. Mud transport module," Scientific
documentation.
[36] DHI (2012), "Mike 21/3 Coupled Model FM. Sand transport module," Scientific
documentation.
[37] DHI (2012), "Mike 21/3 Coupled Model FM. Spectral wave module," Scientific
documentation.
[38] Dissanayake, D. M. P. K., Ranasinghe, R. W. M. R. J. B., and and Roelvink, J. A., "The morphological response of large tidal inlet/basin systems to relative sea level rise," in Climatic change., 2012, ch. 113(2), pp. 253-276.
[39] Dronkers, J., "Morphodynamics of the Dutch delta," Physics of Estuaries and
Coastal Seas, pp. 297-304, 1998.
153
[40] Einstein, H.A., "The bed-load function for sediment transportation in open channel flows," United states department of agriculture Washington, D.C., p. 89, 1950.
[41] Einstein, H.A. and Chien N., "Effects of heavy sediment concentration near the bed
on velocity and sediment distribution," Univ. of Calif., Berkeley, 1955.
[42] Friedrichs, C. T., Aubrey, D. G., and Speer, P. E., "Impacts of relative sea-level rise on evolution of shallow estuaries," in Residual currents and long-term transport. Springer New York, 1990, pp. 105-122.
[43] Gegar Prasetya, The role of coastal forests and trees in protecting against coastal
erosion. Indonesia: Agency for the Assessment and Application of Technology, 2006.
[44] Herbich, J.B., "Handbook of Coastal Engineering," in McGrawhill Engineering
Handbook. ISBN 9780071344029. USA, 1999.
[45] Horikawa, K., Coastal Engineering, 402nd ed. Tokyo: Univ. of Tokyo Press,
1978b.
[46] Horikawa, K., "Nearshore current treatments and their applications to engineering problems," in Proc. 4th Conf. on Port and Ocean Eng. in Arctic Conditions.: Memorial Univ. of Newfoundland, 1978a, pp. 84-114.
[47] G. Coopera, Orrin H. Pilkey J. Andrew, Sea-level rise and shoreline retreat: time to abandon the Bruun Rule.: Global and Planetary Change 43, 157–171, 2004.
[48] J. C. Winterwerp, P. L. A. Erftemeijer, and N. Suryadiputra, "Defining eco-
morphodynamic requirements for rehabilitating eroding mangrove-mud coasts," Wetlands, vol. 33, pp. 515–526, March 2013.
[49] K. L. Mcinnes, K. J. E. Walsh, G. D. Hubbert, and T. Beer, "Impact of Sea-level Rise and Storm Surges on a Coastal Community," in Natural Hazards., October 2003, pp. 187-207.
[50] Kondolf G. M., Rubin Z. K., and Minear J. T., "Dams on the Mekong: Cumulative sediment starvation," Water Resources Research, pp. 5158–5169, June 2014.
[51] S.P., Zhang, K., Douglas, B.C. Leatherman, "Sea-level rise shown to drive coastal
erosion," in EOS 81, 55– 57., 2000.
[52] B. Lehnert, "Magnetohydrodynamic Waves Under the Action of the Coriolis
Force," in Astrophysical Journal., 1954, p. 647.
[53] Lu X.X. and Siew R.Y., "Water discharge and sediment flux changes over the past decades in the Lower Mekong River: possible impacts of the Chinese dams," Hydrology and Earth System Sciences, pp. 181–195, March 2006.
[54] M. Bondesanf and G. B. Castiglioni, "Coastal Areas at Risk from Storm Surges and Sea-Level Rise in Northeastern Italy," in Journal of Coastal Research., Autumn,
154
1995, pp. 1354-1379.
[55] Mangor,K., "Shoreline Managemnet guidelines," in DHI water & Environment.,
2004.
[56] Matti K. and Olli V., "Sediment-related impacts due to upstream reservoir trapping,
the Lower Mekong River," Geomorphology, pp. 275 – 293, Oct. 2006.
[57] Nguyen Van Lap, T.T. Kim Oanh, Masaaki Tateishi, "Late Holocene depositional
environments and coastal evolution of the Mekong River Delta, Southern Vietnam," in Journal of Asian Earth Sciences., 2000, ch. 18(4), pp. 427-439.
[58] Nicolas Gratiot, Audrey Bildstein, and Tran Tuan Anh, "Sediment flocculation in the Mekong River estuary, Vietnam, an important driver of geomorphological changes," Elsevier, pp. 260–268, Sep. 2017.
[59] Pilarczyk, K.W, "Geosynthetics and geosystems in hydraulic and coastal
engineering," in Taylor & Francis. USA, 1999.
[60] Pilarczyk, K.W., "Alternative Systems for Coastal Protection – An Overview," in Proceedings of the International Conference on Estuaries and Coasts, Z. Han, Ed. Hangzhou, China: Zhejiang Institute of Hydraulics and Estuary, 2003, pp. 409-419.
[61] Richard Soulsby, "Dynamics of Marine Sands – A Manual for Practical Applications," in Thomas Telford Publications. London, UK, 1997.
[62] Ta, T. K. O., Nguyen, V. L., Tateishi, M. and Kobayashi, I., Tanabe, S., and Saito, Y., "Holocene delta evolution and sediment discharge of the Mekong River, southern Vietnam," in Quaternary Science Reviews., 2002, ch. 21(16), pp. 1807- 1819.
[63] Tamura T., Saito Y.i, Nguyen V. Lap, Ta T.K. Oanh, "Origin and evolution of
interdistributary delta plains; insights from Mekong river delta geology," vol. 40, no.4, pp. 303-36, 2012.
[64] The Open University, "Waves, tides and shallow-water processes," in Elsevier.
ISBN:978-0-08-036372-1., 2006.
[65] Van Rijn, L.C., Principles of Coastal Morphology., 1998.
[66] Van Rijn, L.C., Principles of Fluid Flow and Surface Waves in Rivers, Estuaries,
Seas and Oceans., 1990.
[67] Van Rijn, L.C., "Principles of Sediment Transport in Rivers, Estuaries and Coastal
Seas," in Aqua Publications. The Netherlands, 1993.
[68] Van Rijn, L.C., "Principles of sedimentation and erosion engineering in rivers, estuaries and coastal seas," in Aqua Publications. The Netherlands, 2005.
[69] Van Rijn, L.C., "Sediment Transport, Part I: Bed Load Transport," Journal of
Hydraulic Engineering, vol. 110, No. 10, 1984a.
155
[70] Van Rijn, L.C., "Sediment Transport, Part II: Suspended Load Transport," Journal
of Hydraulic Engineering, vol. 110, No. 11, 1984b.
[71] Van Rijn, L.C., "Sediment Transport, Part III: Bed Forms and Alluvial
Roughness," Journal of Hydraulic Engineering, vol. 110, No. 12, 1984c.
[72] Vu Duy Vinh, Tran Dinh Lan, Tran Anh Tu and Nguyen Thi Kim Anh,
"Simulation of the impact of sea level rise on morphological change in the coastal region of Mekong river," in Journal of Marine Science and Technology., 2015.
[73] Wang, Z. B., Jeuken, C., and De Vriend, H. J., "Tidal asymmetry and residual
sediment transport in estuaries: a literature study and application to the Western Scheldt," in Deltares (WL)., 1999.
[74] Wolanski, Nguyen Huu Nhan, "Oceangraphy of Mekong River Estuary," in Mega-
deltas of Asia -Geological evalution and human impact, Chen Z., Saito Y. Goodbred S.L., Ed. Beijing: China Ocean Press, 2005, pp. 113-115.
[75] Wolanski, Nguyen Huu Nhan, Spagnol S., "The fine Sediment Dynamics In
Mekong River Estuary in Dry Season," in J. Coastal Research. USA, 1998, ch. Vol.14, No2, pp. 3-19.
Tài liệu tiếng nước ngoài khác
[76] BUAT, P.L.G. du, "Principes d'Hydraulique, vérifiés par un grand nombre
d'expériences faites par ordre du gouvernement. ('Hydraulic Principles, verified by a large number of experiments.') ," Imprimerie de Monsieur, pp. Paris, France, 1779.
[77] DuBoys,M.P., "Etudes du regime et l'action exercée par les eaux sur un lit a fond de graviers indefinement affouilable," Annals des Ponts et Chaussées, 1879.
[78] Dupuit,J., "Études théoriques et pratiques sur le mouvement des eaux: dans les canaux découverts et a travers les terrains perméables," Dunod, vol. 298, 1863.
[79] Fargue, L., "Etude sur la corrélation entre la configuration du lit et la profondeur
d'eau dans les rivières à fond mobile," Dunod, 1867.
[80] Forchheimer, P., "Hydraulik," BG Teubner. Berlin, 1914.
[81] Shields, A., "Anwendung der Aehnlichkeitsmechanik und der Turbulenzforschung
auf die Geschiebebewegung," Mitteilungen der Preussischen Versuchsanstalt fur Nassexbau nd Schiffbau. Berlin, 1936.
[82] Engels, H., "Untersuchungen über die Bettausbildung gerader oder schwach
gekrümmter Fluszstrecken mit beweglicher Sohle," Verlag von Wilhelm Ernst u. Sohn, 1905.
156
PHỤ LỤC 1
KẾT QUẢ HIỆU CHỈNH – KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH
Để đánh giá sự phù hợp giữa số liệu thực đo và số liệu tính toán từ mô
hình có thể dựa vào bình phương hệ số tương quan (R2) theo công thức:
Trong đó, Xtd là số liệu thực đo của quá trình cần hiệu chỉnh; Xtt là số liệu
mô phỏng bằng mô hình.
Ý nghĩa của các giá trị R2 như sau:
- R2 ≤ 0,5: số liệu tính không phù hợp với số liệu thực đo;
- 0,5 < R2 < 0,7: Sự phù hợp giữa chúng là chấp nhận được;
- 0,7< R2 < 0,85: Sự phù hợp giữa chúng là khá tốt;
- 0,85 < R2 < 0,95: Sự phù hợp giữa chúng là tốt;
- R2 > 0,95: Sự phù hợp giữa chúng là rất tốt.
a. Kết quả hiệu chỉnh mô hình
Mô hình được hiệu chỉnh từ ngày 13/09/2011 đến ngày 16/9/2011 tại trạm
Cổ Chiên, trạm đo sóng 1 và trạm đo sóng 2, trạm đo bùn cát M13, M16 và M18
(Vị trí các trạm thể hiện trên hình 2.3 và 2.4). Kết quả hiệu chỉnh mực nước, lưu
lượng dòng chảy, vận tốc dòng chảy, chiều cao sóng có nghĩa, chu kỳ sóng và
157
bùn cát lơ lửng được trình bày trong các hình từ Hình 1 đến Hình 13.
Hình 1: Mực nước thực đo và mực nước tính toán trạm Cổ Chiên
Hình 2: Lưu lượng dòng chảy thực đo và tính toán qua mặt cắt Cổ Chiên
158
Hình 3: Đánh giá tương quan giữa số liệu thực đo và tính toán giá trị mực nước và lưu lượng tại trạm Cổ Chiên
Hình 4: Vận tốc dòng chảy thực đo và tính toán theo trục Tây -> Đông (trục
Hình 5: Vận tốc dòng chảy thực đo và tính toán theo trục Nam -> Bắc (trục y) trung bình độ sâu tại trạm sóng 1.
x) trung bình độ sâu tại trạm sóng 1.
159
Hình 6: Đánh giá tương quan giữa số liệu thực đo và tính toán giá trị lưu tốc dòng chảy theo trục x và y tại trạm 1
Hình 7: So sánh kết quả tính toán và thực đo độ cao sóng có nghĩa tại trạm
sóng 1 (R2 = 0,68)
Hình 8: So sánh kết quả tính toán và thực đo chu kỳ sóng đỉnh phổ sóng tại trạm sóng 1 (R2 = 0,65)
Nhìn chung, so với việc hiệu chỉnh các mô hình mô phỏng thủy động lực
học (dòng chảy, sóng), việc hiệu chỉnh và kiểm định mô hình mô phỏng vận
chuyển bùn cát vùng nghiên cứu thường khó khăn hơn nhiều. Các công thức kinh
nghiệm về quá trình vận chuyển bùn cát bao gồm rất nhiều các tham số liên quan
160
đến đặc điểm của các lớp trầm tích như phân bố bề dày của các lớp trầm tích,
thành phần hạt trầm tích đáy, bùn cát lơ lửng, ứng suất đáy tới hạn xói/bồi, ...
Tuy nhiên, các số liệu khảo sát thực đo thì rất hạn chế, thưa trong phân bố không
gian và thời gian nên những tham số trên lại phải xem xét như thông số hiệu
chỉnh mô hình.
Trong nghiên cứu này, bên cạnh việc hiệu chỉnh mô hình bằng các số liệu
nồng độ bùn cát lơ lửng tại một số trạm quan trắc ở cửa sông ven biển, việc hiệu
chỉnh mô hình còn được thực hiện bằng việc so sánh kết quả tính toán mô hình
về phân bố bùn cát ven biển với phân bố độ đục trên ảnh vệ tinh.
Mẫu bùn cát lơ lửng được lấy 1 lần/ngày/1 vị trí, do vậy số liệu đo từ thực
tế được coi là số liệu trung bình ngày (ngày khảo sát 14/9/2011). Vì số liệu đo đạc ít nên không thể đánh giá bằng hệ số R2.
161
Hình 9: Nồng độ bùn cát lơ lửng tính toán và thực đo tại trạm 13
Hình 10: Nồng độ bùn cát lơ lửng tính toán và thực đo tại trạm 16
Hình 11: Nồng độ bùn cát lơ lửng thực đo và tính toán tại trạm 18
Hình ảnh phân bố độ đục nước trên ảnh vệ tinh Landsat và các kết quả mô
phỏng nồng độ bùn cát lơ lửng (SSC) bằng module MT tại một số thời điểm trên
hình 12 và 13 đều cho thấy: module MT mô phỏng khá tốt bức tranh phân bố
không gian và xu thế vận chuyển bùn cát lơ lửng tại vùng nghiên cứu. Đây là
bằng chứng nâng cao độ tin cây của module MT và các cơ sở dữ liệu nhập kèm
162
theo, bao gồm cả bộ các thông số mô hình đã được cân chỉnh.
Trà Vinh
163
Hình 12: So sánh kết quả mô phỏng nồng độ bùn cát lơ lửng và phân bố độ đục trên ảnh vệ tinh vào mùa gió tây nam trong kỳ triều rút (9h ngày 29/9/2011)
Trà Vinh
164
Hình 13: So sánh kết quả mô phỏng nồng độ bùn cát lơ lửng và phân bố độ đục trên ảnh vệ tinh vào mùa gió đông bắc trong kỳ triều dâng (15h ngày 24/12/2011)
b. Kết quả kiểm định mô hình
Mô hình được kiểm định từ ngày 11/08/2014 đến 14/08/2014 tại trạm đo
mực nước (A), trạm đo dòng chảy và sóng (B), trạm đo bùn cát M1_2 và M3_2.
Kết quả kiểm định mô hình được trình bày trong các hình từ Hình 14 đến Hình
21.
Hình 14: So sánh kết quả mực nước tính toán và mực nước thực đo tại trạm A (R2 = 0,85)
165
Hình 15: Vận tốc dòng chảy thực đo và tính toán theo trục Tây -> Đông (trục x) trung bình độ sâu tại trạm B (R2 = 0,76)
Hình 16: Vận tốc dòng chảy thực đo và tính toán theo trục Nam -> Bắc (trục y) trung bình độ sâu tại trạm B (R2 = 0,72)
166
Hình 17: Chiều cao sóng có nghĩa thực đo và tính toán tại trạm sóng B (R2 = 0,62)
Hình 18: Chu kỳ sóng thực đo và tính toán tại trạm sóng B (R2 = 0,65)
Hình 19: Hướng sóng thực đo và tính toán tại trạm sóng B (R2 = 0,63)
Mẫu bùn cát lơ lửng được lấy 1 lần/ngày/1 vị trí, do vậy số liệu đo từ thực
167
tế được coi là số liệu trung bình ngày (ngày khảo sát 13/8/2014).
Hình 20: Nồng độ bùn cát lơ lửng thực đo và tính toán tại trạm M1_2
168
Hình 21: Nồng độ bùn cát lơ lửng thực đo và tính toán tại trạm M3_2
PHỤ LỤC 2
- 1 -
ĐỊA HÌNH KHU VỰC BỜ BIỂN TRÀ VINH
- 2 -
- 3 -
PHỤ LỤC 3
TÀI LIỆU CHỨNG MINH
BÙN CÁT BỊ GIỮ LẠI Ở THƯỢNG NGUỒN DO XÂY DỰNG
ĐẬP THỦY ĐIỆN TRÊN SÔNG MÊ CÔNG
Theo quy ước, lưu vực sông Mê Công được chia thành hai tiểu lưu vực:
lưu vực thượng nguồn sông Mê Công (24% diện tích) và lưu vực hạ lưu sông Mê
Công (76% diện tích). Năm
2005, Lu và Siew [53], tiến hành
đánh giá ảnh hưởng của việc đập
Manwan trên dòng chính sông
Mê Công ở Trung Quốc đi vào
vận hành năm 1993 đến chế độ
thủy văn, dòng chảy và nguồn
bùn cát phía hạ lưu. Nghiên cứu
đã sử dụng các tài liệu công bố
trước đó của Ủy hội sông Mê
Công để so sánh với kết quả đo
đạc thực tế về mực nước, lưu
lượng, nồng độ bùn cát lơ lửng
(Suspended Sediment
Concentration - SSC).
Hình 1: Bản đồ khu vực hạ lưu sông Mê Công và vị trí các trạm đo được
sử dụng để so sánh mực nước và phù sa (Trong đó có 3 trạm Tân Châu, Mỹ
Thuận, Cần Thơ thuộc Việt Nam) [53].
Kết quả cho thấy, sau khi đập Manwan (Trung Quốc) đi vào vận hành đã
làm tăng sự biến động mực nước và đặc biệt làm giảm lượng phù sa phía hạ lưu
một cách rất rõ rệt. Số liệu quan trắc cho thấy hàm lượng phù sa trung bình tại
- 1 -
các trạm Tân Châu, Cần Thơ, Mỹ Thuận đã giảm đến 20 – 30% (hình 2).
Hình 2: Hàm lượng phù sa lơ lửng tại các trạm đo trên hạ lưu sông Mê Công
trước và sau khi đập Man an (Trung uốc) đi vào hoạt động năm 1993 [53]
Năm 2006, nghiên cứu của Matti K. và Olli V. [56] cho thấy, tại Trung
Quốc, sau đập Manwan còn có đập Dachaoshan đi vào hoạt động năm 2003 và
một số đập khác đang (hoặc đã được đề xuất) xây dựng theo thống kê trong bảng
sau.
Bảng 1: Hệ thống các đập (đã xây dựng và đề xuất) trên thượng lưu sông Mê
Công ở Vân Nam (Trung uốc) [56]
Nghiên cứu này đánh giá chi tiết những ảnh hưởng do xây dựng đập thủy
điện trên thượng nguồn Mê Công đến những thay đổi về thủy văn, đặc biệt là lưu
lượng bùn cát và địa mạo ở hạ lưu sông Mê Công. Theo đó, tải bùn cát lơ lửng bị
kẹt lại ở mỗi hồ chứa được xây dựng ở thượng lưu có thể tính theo công thức
kinh nghiệm của Brune, gọi là “Hiệu suất bẫy bùn cát (TE)”. Đập Dachaoshan,
- 2 -
có TE = 66%; trong khi các đập Xiaowan và Nuozhadu hiện đang được xây
dựng, có TE = 92%, về cơ bản bẫy tất cả các trầm tích. Toàn bộ tám tầng các đập
có tổng hiệu suất bẫy bùn cát TE = 94%. Lưu lượng trầm tích từ thượng lưu đang
giảm nghiêm trọng do trầm tích bị giữ lại bởi các con đập. Điều này có khả năng
sẽ tăng xói mòn bờ hạ lưu và có tác động tiêu cực đến năng suất hệ sinh thái [56].
Nghiên cứu của Claudia K. và nnk. [31] cũng khẳng định, tổn thất trầm
tích do xây dựng đập thủy điện trên thượng nguồn dự kiến sẽ làm trầm trọng hơn
tình trạng xói lở bờ biển và xâm nhập mặn ở ĐBSCL - một khu vực vốn đã bị đe
dọa bởi mực nước biển dâng.
Năm 2014, G. M. Kondolf và nnk. [50] tính toán hiệu suất bẫy bùn cát bởi
các đập thủy điện với 3 kịch
bản khác nhau về số lượng
đập được xây dựng trên dòng
chính và phụ của sông Mê
Công. Trong đó, kịch bản
nguy hiểm nhất là khi tất cả
các đập đi vào hoạt động (đã
xây dựng và dự kiến hoàn
thành đến năm 2020), tổng
cộng là 38 cái. Kết quả tính
toán cho thấy, 96% tải trầm
tích sẽ bị kẹt lại trước khi đến
ĐBSCL (so với trước năm
1990). Điều này quả thật là
một vấn nạn lớn đối với nước
ta.
Hình 4: Tác động tích lũy trầm tích ở thượng lưu với kịch bản tất cả các đập
được đề xuất sẽ đi vào hoạt động. 96% tổng lượng trầm tích của sông sẽ bị mắc
- 3 -
kẹt trước khi đến ĐBSCL (so với trước năm 1990) [50]
Gần đây nhất, năm 2016, Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố kết quả
nghiên cứu tác động tổng hợp của các công trình thủy điện sông Mê Công đến
vùng hạ lưu [22]. Các kịch bản tính toán thể hiện trong bảng 3, với điều kiện nền
của năm 2008.
Kết quả tính toán cho thấy, tổng lượng bùn cát lơ lửng tại Tân Châu, Châu
Đốc giảm từ 57% đến 64% cho cả 3 Kịch bản. Các kịch bản tính toán của nghiên
cứu này là tính với trường hợp bất lợi nhất khi tất cả các đập trên dòng chính
(hoặc cả dòng phụ) trên sông Mê Công đi vào hoạt động. Đây là kịch bản cho
tương lai xa vì hiện tại chỉ có thủy điện Pak Beng sắp được xây tại nước Lào
(1/11 đập dự kiến), do vậy kết quả tính toán cho thấy một mức ảnh hưởng
nghiêm trọng đến khu vực hạ lưu sông Mê Công ở nước ta.
- 4 -
Bảng 3: Các kịch bản phát triển thủy điện [22]