BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
ĐẶNG TIẾN TRƯỜNG
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM
HÌNH THÁI NÃO BỘ VÀ ĐA HÌNH GEN TRONG
BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI – 2019
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
ii
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
ĐẶNG TIẾN TRƯỜNG NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM
HÌNH THÁI NÃO BỘ VÀ ĐA HÌNH GEN TRONG
BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT
Chuyên ngành: Khoa học Y sinh
Mã số: 9720101
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
1. PGS. TS. TRẦN HẢI ANH
2. PGS. TS. NGUYỄN DUY BẮC
HÀ NỘI – 2019
HỌC VIỆN QUÂN Y
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi với sự hướng dẫn
khoa học của tập thể cán bộ hướng dẫn.
Các kết quả nêu trong luận án là trung thực và được công bố một phần
trong các bài báo khoa học. Luận án chưa từng được công bố.
Tác giả
Đặng Tiến Trường
iv
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn những người thầy, người hướng dẫn
khoa học, đã tận tình giúp đỡ, trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu
khoa học trong quá trình học tập và thực hiện luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Bộ môn-khoa-Bệnh viện đã tạo mọi điều
kiện, hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới lãnh đạo các cơ sở đào tạo và cơ
sở hợp tác nghiên cứu đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện
nghiên cứu này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các bệnh nhân và gia đình của họ
đã giúp tôi có được số liệu trong luận án này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Bố, Mẹ, Vợ, Con và gia
đình luôn ở bên cạnh động viên, giúp đỡ tôi trong cuộc sống, trong học tập và
công tác.
Nghiên cứu sinh
Đặng Tiến Trường
v
MỤC LỤC
Trang phụ bìa ii iii Lời cam đoan iv Lời cảm ơn Mục lục v viii Danh mục các chữ, ký hiệu viết tắt trong luận án ix Danh mục các bảng Danh mục các hình xii ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1 Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................... 3 1.1. Bệnh tâm thần phân liệt ........................................................................... 3 1.1.1. Những khái niệm chung về tâm thần phân liệt .................................. 3 1.1.2. Bệnh sinh bệnh tâm thần phân liệt ..................................................... 4 1.2. Hình thái đại não và những liên quan trong bệnh tâm thần phân liệt ...... 6 1.2.1. Hình thái đại thể và kích thước của đại não ....................................... 6 1.2.2. Các rãnh và đường phân chia bán cầu đại não ................................... 7 1.2.3. Các thùy và các hồi của bán cầu đại não .......................................... 10 1.2.4. Vỏ não .............................................................................................. 13 1.2.5. Đặc điểm hình thái não bộ ở bệnh nhân tâm thần phân liệt ............. 18 1.3. Biến đổi một số gen trong bệnh tâm thần phân liệt ............................... 24 1.3.1. Gen DISC1 và các đa hình trong bệnh tâm thần phân liệt ............... 25 1.3.2. Gen COMT và các đa hình trong bệnh tâm thần phân liệt ............... 28 1.4. Nghiên cứu hình thái não và gen trong tâm thần phân liệt ở Việt Nam 30 Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 32 2.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 32 2.1.1. Nghiên cứu hình thái não bộ ............................................................ 32 2.1.2. Nghiên cứu đa hình gen.................................................................... 33 2.1.3. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân nghiên cứu ..................................... 33 2.1.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu .................................................... 36 2.2. Thiết bị và vật liệu nghiên cứu .............................................................. 36 2.2.1. Thiết bị nghiên cứu hình thái não..................................................... 36 2.2.2. Vật liệu, hóa chất và thiết bị nghiên cứu gen ................................... 36
vi
2.3. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 38 2.3.1. Phương pháp nghiên cứu hình thái não ............................................ 39 2.3.2. Phương pháp nghiên cứu đa hình gen .............................................. 44 2.3.3. Xử lý số liệu ..................................................................................... 48 2.4. Đạo đức trong nghiên cứu ..................................................................... 49 Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 50 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ........................................... 50 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu hình thái não ................................................. 50 3.1.2. Đối tượng nghiên cứu đa hình gen ................................................... 50 3.2. Đặc điểm hình thái não ở các đối tượng nghiên cứu ............................. 51 3.2.1. Thể tích các cấu trúc não chung ....................................................... 51 3.2.2. Thể tích và độ dày chất xám vỏ não thùy trán ................................. 54 3.2.3. Thể tích và độ dày chất xám vỏ não thùy thái dương ...................... 61 3.2.4. Thể tích và độ dày chất xám vỏ não ở các phần của hồi đai ............ 67 3.2.5. Thể tích các nhân xám ...................................................................... 68 3.2.6. Thể tích các phần của thể chai ......................................................... 69 3.3. Đặc điểm đa hình một số gen của đối tượng nghiên cứu ...................... 70 3.3.1. Đặc điểm đa hình rs821616 gen DISC1 ........................................... 70 3.3.2. Đặc điểm đa hình rs4680 gen COMT ............................................... 74 Chương 4. BÀN LUẬN .................................................................................. 78 4.1. Về tuổi và giới của đối tượng nghiên cứu ............................................. 78 4.1.1. Về tuổi và giới của nhóm nghiên cứu hình thái não ........................ 78 4.1.2. Về tuổi và giới của nhóm nghiên cứu gen ....................................... 79 4.2. Về hình thái não trong tâm thần phân liệt ............................................. 79 4.2.1. Về hình thái não chung trong bệnh tâm thần phân liệt .................... 80 4.2.2. Về hình thái thùy trán trong bệnh tâm thần phân liệt ....................... 85 4.2.3. Về hình thái thùy thái dương trong bệnh tâm thần phân liệt.. ......... 89 4.2.4. Về hình thái hồi đai trong bệnh tâm thần phân liệt .......................... 92 4.2.5. Về hình thái một số cấu trúc dưới vỏ trong bệnh tâm thần phân liệt .................................................................................................................... 93 4.2.6. Về hình thái thể chai trong bệnh tâm thần phân liệt ........................ 94 4.3. Về đa hình gen trong bệnh tâm thần phân liệt ....................................... 95 4.3.1. Về đa hình rs821616 gen DISC1 trong bệnh tâm thần phân liệt ..... 95
vii
4.3.2. Về đa hình rs4680 gen COMT trong bệnh tâm thần phân liệt ....... 101 KẾT LUẬN ................................................................................................... 106 1. Đặc điểm hình thái não ở bệnh nhân tâm thần phân liệt ........................ 106 2. Đặc điểm đa hình gen DISC1 và COMT trong bệnh tâm thần phân liệt 107 KIẾN NGHỊ .................................................................................................. 108 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ...........................................................................................109 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 110 PHỤ LỤC 1 ................................................................................................... 123 PHỤ LỤC 2 ................................................................................................... 131
viii
DANH MỤC CÁC CHỮ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
TT Phần viết tắt Phần viết đầy đủ
1 ANCOVA Analysis of covariance
Phân tích hiệp phương sai
Catechol-O-methyl transferase 2 COMT
Disrupted in schizophrenia 1 3 DISC1
N-Methyl-D-aspartic acid hay N-Methyl-D-aspartate 5 NMDA
6 TTPL Tâm thần phân liệt
7 RNA Ribonucleic acid
Axít Ribonucleic
8 SNPs Single-nucleotide polymorphisms
Đa hình đơn
9 GABA Gamma-Aminobutyric acid
Axít Gamma-Aminobutyric
10 5-HT 5-hydroxytryptamine receptors
Thụ thể 5-hydroxytryptamin
11 CT Computed Tomography
Chụp cắt lớp vi tính
12 MRI Magnetic resonance imaging
Chụp cộng hưởng từ
13 HF Hypocampal formation
Phức hợp hải mã
Prefrontal cortex 14 PFC
Vỏ não trán trước
15 DLPFC Dorsolateral prefrontal cortex
Vùng lưng ngoài của vỏ não trán trước
16 NC Não chung
ix
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
2.1 Cặp mồi xuôi-ngược sử dụng trong PCR cho rs821616 gen DISC1 và 37
rs4680 gen COMT
45 2.2 Chu trình nhiệt PCR cho khuếch đại đoạn gen DISC1 và COMT
47 2.3 Chu trình nhiệt BigDye
50 3.1 Tuổi và giới của hai nhóm nghiên cứu hình thái não
51 3.2 Tuổi và giới của hai nhóm nghiên cứu đa hình gen
52 3.3 Thể tích các cấu trúc não chung ở hai nhóm nghiên cứu
53 3.4 Thể tích não chung của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo
tuổi, giới và thể tích nội sọ
3.5 Thể tích khối chất trắng, chất xám não bộ của hai nhóm nghiên cứu 54
sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
3.6 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não của hồi trán trên 55
của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích
nội sọ
3.7 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi trán giữa của 55
hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
3.8 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi trán dưới của 56
hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
3.9 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi ổ mắt của hai 57
nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
3.10 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não của hồi trước 58
trung tâm của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và
thể tích nội sọ
3.11 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não của hồi cạnh 58
trung tâm của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và
thể tích nội sọ
x
Bảng Tên bảng Trang
3.12 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não cực trán của hai 59
nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
3.13 Thể tích thùy trán và vỏ não trán trước của hai nhóm nghiên cứu sau 60
hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
3.14 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não thùy đảo của hai 60
nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
3.15 Thể tích não, chất trắng, độ dày chất xám vỏ não hồi thái dương trên, 61
giữa, dưới của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới
và thể tích nội sọ
3.16 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi thái dương 62
giữa của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể
tích nội sọ
3.17 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi thái dương 62
dưới của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể
tích nội sọ
3.18 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi thái dương 63
ngang của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể
tích nội sọ
3.19 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi cạnh hải mã 64
của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích
nội sọ
3.20 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não nội khứu hai 64
nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
3.21 Thể tích chất xám ở hải mã và hạnh nhân của hai nhóm nghiên cứu 65
sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
3.22 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não cực thái dương 66
hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
xi
Bảng Tên bảng Trang
3.23 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não của hồi thoi của 66
hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
3.24 Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não các phần ở hồi 67
đai của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể
tích nội sọ
3.25 Thể tích các nhân xám dưới vỏ não của hai nhóm nghiên cứu sau 68
hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
3.26 Thể tích các phần của thể chai của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu 69
chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
3.27 Tần suất các alen của đa hình rs821616 ở hai nhóm nghiên cứu 72
3.28 Phân bố kiểu gen của đa hình rs821616 ở hai nhóm nghiên cứu 73
3.29 Phân bố kiểu gen của đa hình rs821616 ở nam hai nhóm nghiên cứu 73
3.30 Phân bố kiểu gen của đa hình rs821616 ở nữ hai nhóm nghiên cứu 73
3.31 Tần suất các alen của đa hình rs4680 ở hai nhóm nghiên cứu 73
3.32 Phân bố kiểu gen của đa hình rs4680 ở hai nhóm nghiên cứu 72
3.33 Phân bố kiểu gen của đa hình rs4680 ở nam hai nhóm nghiên cứu 76
3.34 Phân bố kiểu gen của đa hình rs4680 ở nữ hai nhóm nghiên cứu 76
xii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình Tên hình Trang
1.1. Các rãnh ở mặt ngoài (A) và mặt trong (B) bán cầu đại não 8
1.2. Các thùy ở mặt ngoài (A) và mặt trong (B) bán cầu đại não 10
1.3. Hình ảnh các bó kết nối qua thể chai trên cộng hưởng từ khuếch 14
tán (A) và phân chia thể chai theo khu vực kết nối trong não (B)
2.1. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu đặc điểm hình thái não bộ và đa hình 39
gen trong bệnh TTPL
2.2. Hình ảnh MRI sọ não theo ba chiều trên phần mềm Mango 40
2.3. Các bước xử lý dữ liệu trên phần mềm FreeSurfer 42
2.4. Vị trí các hồi và phần của hồi ở mặt ngoài (A), mặt trong (B) bán 43
cầu đại não và vị trí một số nhân xám dưới vỏ (C)
3.1. Hình ảnh điện di đoạn gen DISC1 khuếch đại chứa đa hình 70
rs821616 trên gel agarose ở nhóm TTPL (A) và nhóm chứng (B)
3.2. Các đỉnh đồng hợp tử TT màu đỏ, AA màu lục và dị hợp tử AT 71
của các mẫu ứng với ba kiểu gen (vị trí các mũi tên đỏ) của đa
hình rs821616 ở đối tượng nghiên cứu
3.3. Hình ảnh điện di đoạn gen COMT khuếch đại chứa đa hình rs4680 74
trên gel agarose ở nhóm TTPL (A) và nhóm chứng (B)
3.4. Các đỉnh đồng hợp tử AA màu lam, GG màu đen và dị hợp tử AG 75
của các mẫu (vị trí các mũi tên) ứng với ba kiểu gen của đa hình
rs4680 ở đối tượng nghiên cứu
4.1. Hình ảnh minh họa phân tích đa hình rs821616 gen DISC1 98
4.2. Hình ảnh minh họa phân tích đa hình đa hình rs4680 gen COMT 100
PL1.1. Hình ảnh não chung sau khi loại bỏ toàn bộ da, xương, màng não 123
PL1.2 Hình ảnh minh họa xác định danh giới các hồi, thùy, các nhân 123
xám, các não thất, các phần của thân não
PL1.3 Hình ảnh phân tách chất xám, chất trắng của các bán cầu đại não 124
xiii
Tên hình
Trang 124 Hình PL1.4 Khối chất xám của bán cầu đại não
PL1.5 Xác định chất xám và chất trắng các hồi của các thùy não của bán 125
cầu đại não
125 PL1.6 Hình ảnh tái tạo bán cầu đại não sau khi phân tích
126 PL2.1 Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs821616 của các mẫu
có vị trí A1 đến vị trí H6 trên plate nhóm bệnh
PL2.2 Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs821616 của các mẫu 126
có vị trí A7 đến vị trí H12 trên plate nhóm bệnh
PL2.3 Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs821616 của các mẫu 127
có vị trí A1 đến vị trí H6 trên plate nhóm chứng
PL2.4 Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs821616 của các mẫu 127
có vị trí A7 đến vị trí H12 trên plate nhóm chứng
PL2.5 Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs821616 của các mẫu 128
bệnh và chứng còn lại
PL2.6 Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs4680 của các mẫu 128
có vị trí A1 đến vị trí H6 trên plate nhóm bệnh
PL2.7 Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs4680 của các mẫu 129
có vị trí A7 đến vị trí H12 trên plate nhóm bệnh
PL2.8 Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs4680 của các mẫu 129
có vị trí A1 đến vị trí H6 trên plate nhóm chứng
PL2.9 Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs4680 của các mẫu 130
có vị trí A7 đến vị trí H12 trên plate nhóm chứng (marker 1kb,
sản phẩm 178bp)
PL2.10 Kết quả khuếch đại gen DISC1 và COMT nhóm bệnh và chứng 130
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tâm thần phân liệt (TTPL) là một bệnh lý loạn thần nặng, tiến triển từ
từ, làm biến đổi nhân cách người bệnh một cách sâu sắc. Hiện nay trên thế giới
có khoảng 70 triệu người mắc bệnh TTPL, chiếm khoảng 1% dân số thế giới
và hàng năm tăng thêm 0,15% dân số [1], [2]. Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh
TTPL là 0,3 – 0,8% và hàng năm tăng thêm 0,1 – 0,15% dân số [1].
Cơ chế bệnh sinh của TTPL vẫn còn nhiều khía cạnh chưa sáng tỏ [2].
Những hiểu biết về bệnh qua các nghiên cứu về hình thái bệnh học của não,
điện sinh lý thần kinh, tuần hoàn não, quá trình hoá sinh và miễn dịch học trong
não… vẫn là các giả thuyết phản ánh một khía cạnh nào đó của quá trình phát
sinh và tiến triển của bệnh [2], [3]. Những nghiên cứu trên thế giới cho thấy có
những thay đổi cả ở mức độ phân tử trong cơ chế hoạt động thần kinh ở các đối
tượng TTPL và có cả những thay đổi ở mức độ đại thể, như thay đổi về hình
thái, kích thước của não bộ [2], [3].
Những nghiên cứu về biến đổi ở mức phân tử, di truyền và gen trong
bệnh TTPL đã được đề cập từ khá sớm [4], [5], [6], [7]. Đặc biệt, biến đổi gen
trong bệnh TTPL đã được nhiều nghiên cứu tập trung đánh giá trên nhiều khía
cạnh như xác định sự liên quan giữa biến đổi gen và bệnh, sự tương tác giữa
các gen trong bệnh TTPL, sự liên quan của các gen với triệu chứng của bệnh
[2], [8], [9]. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu chưa có sự thống nhất về nhiều khía
cạnh, đặc biệt về chủng tộc và quần thể nghiên cứu [9], [10], [11], [12].
Ở Việt Nam, có nhiều nghiên cứu về TTPL, nhưng hầu hết quan tâm tới
mô tả các triệu chứng lâm sàng, tiến triển và điều trị bệnh. Các nghiên cứu về
bệnh nguyên và bệnh sinh của bệnh TTPL còn hạn chế. Gần đây, nhờ hệ thống
chụp cộng hưởng từ (Magnetic Resonance Imaging, MRI) được trang bị có độ
phân giải tốt hơn, một số nhóm nghiên cứu đã tiến hành các phân tích trên hình
2
ảnh MRI não ở một số bệnh lý thoái hóa thần kinh, như Alzhiemer, đã cho thấy
có sự giảm thể tích não [13]. Một số nghiên cứu đã đề cập tới đặc điểm hình
thái thùy trán, đồi thị, thể chai, não thất, hải mã [14], [15], [16], hay nghiên cứu
về biến đổi nồng độ của một chất dẫn truyền thần kinh [17] ở các bệnh nhân
TTPL. Tuy nhiên, các nghiên cứu đó cũng mới chỉ giới hạn ở một số cấu trúc,
chưa khảo sát được ở nhiều vùng để có thể tìm hiểu những mối liên quan về
hình thái và rối loạn chức năng trong TTPL, như rối loạn tư duy hay các triệu
chứng hoang tưởng, ảo giác cũng như các rối loạn liên quan tới nhận thức, cảm
xúc và trí nhớ với những khu vực não nhất định trong bệnh TTPL. Hơn nữa,
những nghiên cứu về biến đổi di truyền trong bệnh TTPL có đề cập tới vai trò
của những gen [3] như DISC1 (disrupted-in-schizophrenia 1) [6], [7], [8], [9]
và COMT (catechol-O-methyltransferase) [4], [5], nhưng chưa có công bố về
đặc điểm đa hình các gen này trong bệnh nhân TTPL ở Việt Nam.
Do vậy, đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái não bộ và đa hình
gen trong bệnh tâm thần phân liệt” được tiến hành với các mục tiêu sau:
1. Xác định một số đặc điểm hình thái não bộ qua hình ảnh cộng hưởng từ ở
bệnh nhân tâm thần phân liệt người Việt.
2. Xác định một số điểm đa hình của gen DISC1 và COMT ở bệnh nhân
tâm thần phân liệt người Việt.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Bệnh tâm thần phân liệt
1.1.1. Những khái niệm chung về tâm thần phân liệt
Thuật ngữ “Schizophrenia” bắt nguồn từ chữ Hy Lạp “Schizo” có nghĩa
là “chia tách” và “phrenia” có nghĩa là “tâm hồn”, ghép lại để chỉ tâm thần phân
liệt (TTPL) [1]. Năm 1911, Bleuler đã phát hiện ra những đặc điểm cơ bản nhất
của bệnh và đưa ra thuật ngữ “tâm thần phân liệt” có nghĩa là sự chia cắt về
mặt tâm thần. Thuật ngữ này được giới khoa học chấp nhận và sử dụng cho đến
ngày nay (theo [18]). Đây là một bệnh loạn thần nặng tiến triển từ từ, có khuynh
hướng mạn tính, căn nguyên hiện nay chưa rõ ràng, làm cho người bệnh dần
tách khỏi cuộc sống bên ngoài, thu dần vào thế giới bên trong, làm cho tình
cảm trở nên khô lạnh dần, khả năng làm việc, học tập ngày càng sút kém, có
những hành vi, ý nghĩ kỳ dị, khó hiểu [1].
Bệnh khá phổ biến, theo Tổ chức Y tế Thế giới tỷ lệ người mắc bệnh
TTPL là 0,6–1,5% dân số, không phân biệt chủng tộc, màu da, nền văn hoá.
Bệnh chủ yếu khởi phát ở lứa tuổi trẻ từ 15–25 tuổi, là lứa tuổi học tập và lao
động, tỷ lệ mắc ở nam và nữ là tương tự [1], [2].
Bệnh có các rối loạn đặc trưng như rối loạn tư duy, rối loạn cảm xúc và
hành vi. Các triệu chứng cho chẩn đoán TTPL gồm hoang tưởng, ảo giác, ngôn
ngữ thiếu mạch lạc, các rối loạn hành vi vận động và triệu chứng âm tính (như:
cảm xúc cùn mòn, vô cảm, thu hẹp quan hệ xã hội, thu mình, suy giảm thích
thú, tư duy và ngôn ngữ nghèo nàn) [1], [2], [19], [20].
4
1.1.2. Bệnh sinh bệnh tâm thần phân liệt
TTPL được nghiên cứu từ những thế kỷ trước [3], [18], [21]. Ngày nay,
nhiều khía cạnh của bệnh, cơ chế bệnh sinh và nguyên nhân được làm sáng tỏ
phần nào. Bệnh nguyên và bệnh sinh bị chi phối bởi nhiều yếu tố trong hai
nhóm lớn là di truyền [6] và yếu tố môi trường [2], [3]. Tuy nhiên, cơ chế bệnh
sinh để giải thích cho các triệu chứng, tiến triển của bệnh vẫn còn nhiều mâu
thuẫn, tồn tại trong nhiều thuyết khác nhau từ gen [2], [3], [6] tới chuyển hóa
[22], [23] và hình thái não bộ [2], [18], [21].
1.1.2.1. Thuyết về gen di truyền
Các bệnh nhân rối loạn tâm thần thường có yếu tố di truyền liên quan
đến TTPL hoặc các bệnh tâm thần khác như rối loạn nhân cách dạng phân liệt
[2], [3], [6]. Người có mối quan hệ càng gần gũi về huyết thống với bệnh nhân
tâm thần thì nguy cơ bị bệnh TTPL càng cao. Các cặp sinh đôi cùng trứng thì
tỷ lệ này là 50%. Tỷ lệ này cao hơn bốn lần so với những cặp sinh đôi không
cùng trứng. Những người bệnh được nhận là con nuôi, tỷ lệ bệnh TTPL trong
số cha, mẹ, anh, chị, em... nuôi của họ không khác so với tỷ lệ trong quần thể
chung [2], [3]. Tuy nhiên gen di truyền không phải là yếu tố duy nhất trong
bệnh sinh TTPL. Các yếu tố sinh học hoặc xã hội có thể đóng vai trò là yếu tố
thúc đẩy hoặc ngăn chặn sự xuất hiện bệnh.
1.1.2.2. Thuyết về hoá thần kinh
Thuyết dopamin: thuyết này cho rằng các triệu chứng TTPL là do hoạt
động quá mức của hệ dopamin, có thể do chính sự quá mức dopamin hoặc do
tăng nhạy cảm với dopamin bởi tăng số lượng các thụ thể dopamin [2], [22],
[23], [24]. Giả thuyết này căn cứ vào những phát hiện rằng tất cả các thuốc an
thần là các chất đối vận của thụ thể dopamin D2 và các chất làm giải phóng
dopamin như amphetamin có thể gây ra triệu chứng loạn thần hoang tưởng [25].
5
Tuy nhiên giả thuyết vẫn còn những điều khó giải thích, như: i) các thuốc an
thần đều có tác dụng rõ trên hệ dopamin làm ảnh hưởng tới các nghiên cứu có
các đối tượng dùng thuốc, và ii) vì có nhiều loại trong họ thụ thể dopamin làm
tăng đáng kể các vị trí có khả năng rối loạn và các cơ chế từ đó có thể dẫn tới
TTPL [2], [24], [25].
Thuyết 5-Hydroxytryptamine (5-HT; serotonin): thuyết về serotonin
trong TTPL đã được đề xuất từ lâu vì chất gây ảo giác LSD là một chất đồng
vận của serotonin. Vai trò của thụ thể 5-HT1A và 5-HT2A được quan tâm nhiều.
Giảm biểu hiện của thụ thể 5-HT2A ở vỏ não trán và tăng số lượng các thụ thể
5-HT1A ở vỏ não được quan sát thấy trong TTPL [2], [23], [24]. Các giả thuyết
để giải thích cho sự liên quan của serotonin trong TTPL bao gồm những thay
đổi trong vai trò phát triển thần kinh của nó, giảm hoạt hóa của vỏ não trán do
thụ thể 5-HT2A điều biến và các tương tác giữa serotonin và dopamin.
Thuyết glutamat: Phencyclidin và các chất đối kháng không cạnh tranh
khác của dưới nhóm thụ thể glutamat NMDA (N-methyl-D-aspartate) gây ra
dấu hiệu loạn thần rất giống với TTPL, điều này đã dẫn tới giả thuyết về rối
loạn chức năng hệ glutamat trong TTPL [2], [23]. Có nhiều bằng chứng về sự
bất thường ở các chỉ số glutamat trước và sau synap. Tuy nhiên, bản chất của
sự bất thường thuộc hệ glutamat trong TTPL không đơn giản. Các cơ chế giải
thích cho sự liên quan của hệ glutamat trong TTPL hướng vào sự tương tác của
nó với dopamin, những dạng độc tế bào do hưng phấn và sự bất thường trong
phát triển của các đường liên hệ vỏ não [2], [23], [24].
1.1.2.3. Thuyết về hình thái học của não
Nghiên cứu hình thái bệnh học là nghiên cứu một trong những mắt xích cơ
bản về bệnh sinh của quá trình bệnh lý nói chung [2], [3]. Để nghiên cứu hình thái
bệnh học hệ thống thần kinh trung ương, bao gồm cả TTPL, nhiều phương pháp
6
được sử dụng như: giải phẫu bệnh học, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ,
chụp cộng hưởng từ chức năng [2], [3], [14], [15], [18], [21], [26].
Trong các nghiên cứu giải phẫu bệnh ở bệnh nhân TTPL và qua chụp
MRI não, người ta nhận thấy có sự suy giảm chức năng cùng với sự thay đổi
cấu trúc của vùng vỏ não trán [27], [28], [29], [30], [31], [32]. Nghiên cứu hình
ảnh và giải phẫu não cũng cho thấy nhiều vùng khác có sự biến đổi trên các
bệnh nhân TTPL, như não thất [33], thùy thái dương [34], [35], [36], [37], [38],
[39], [40], [41]. Ở những người TTPL, các cấu trúc dưới vỏ như đồi thị, các
hạch nền, hay cả tiểu não cũng thấy có thay đổi [18], và cấu trúc liên quan tới
trí nhớ như vùng hải mã thấy có sự thay đổi về hình thái [42], [43] và cả ở góc
độ phân tử [7], [44], [45].
1.2. Hình thái đại não và những liên quan trong bệnh tâm thần phân liệt
1.2.1. Hình thái đại thể và kích thước của đại não
Đại não là phần lớn nhất của não người, chiếm 85% trọng lượng toàn
não bộ, gồm hai bán cầu nối với nhau bởi các mép liên bán cầu và trùm kín
gian não ở giữa. Đại não được coi là trung khu của các hoạt động thần kinh cấp
cao, như trí tuệ, nhận thức, trí nhớ, tình cảm… [46], [47].
Đại não hình trứng, đầu to ở sau, có ba mặt là ngoài, trong và dưới và ba
cực là trán, thái dương và chẩm. Bán cầu trái và phải ngăn cách bởi khe dọc
giữa. Ở mặt dưới, khe ngang hay khe Bichat hình móng ngựa ôm quanh phía
sau trung não, lách sâu giữa đại não và gian não. Trong quá trình phát triển,
kích thước của não tăng lên rất nhanh, chất xám của vỏ đại não phát triển mạnh
hơn so với chất trắng ở trong sâu, nên vỏ não phải cuộn và gấp nếp làm tăng
diện tích lên ba lần, tạo nên các hồi và các thùy, ngăn cách nhau bởi các rãnh,
nông sâu khác nhau. Hai phần ba bề mặt vỏ não được dấu kín trong thành các
rãnh. Những phần vỏ não nằm cuộn ở giữa các rãnh nông được gọi là những
7
hồi não và những phần lớn hơn được ngăn cách bởi rãnh sâu và hằng định hơn
được gọi là các thùy não. Các rãnh gian thùy được gọi tên theo vị trí và hình
thể trên mỗi bán cầu như các rãnh trung tâm, bên, đỉnh chẩm, rãnh đai và dưới
đỉnh. Các rãnh gian hồi, được gọi tên theo vị trí tương đối và hình thể của mỗi
thùy. Các rãnh lớn chia mỗi bán cầu đại não thành sáu thùy gồm trán, thái
dương, đỉnh, chẩm, đảo và thùy viền [46], [47], [48].
Đại não có trọng lượng trung bình 1100 g ở nam và 1000 g ở nữ, chiếm
khoảng 2% trọng lượng cơ thể. Ở người Việt Nam, não người chết sau khi mổ
tử thi nặng trung bình 1442 g, tỷ lệ trọng lượng so với cân nặng toàn thân
khoảng 1/37 [47]. Trọng lượng não có thể khác nhau nhưng không phải là căn
cứ đánh giá trí tuệ của con người [46], [47].
1.2.2. Các rãnh và đường phân chia bán cầu đại não
Các rãnh và mốc phân chia bán cầu đại não ở mặt ngoài (Hình 1.1A) gồm:
Rãnh trung tâm (central sulcus) hay rãnh Rolando: từ gần giữa bờ trên
bán cầu, hơi lệch về phía sau, chạy chếch xuống dưới và ra trước, tận hết ở góc
giữa rãnh bên và rãnh lên của nó. Rãnh trung tâm là mốc quan trọng phân chia
thùy trán và thùy đỉnh.
Rãnh bên (lateral sulcus) hay rãnh Sylvius: từ mặt dưới bán cầu, vòng
quanh bờ dưới ngoài (ở chỗ nối ¼ trước với ¾ sau) để chạy ra mặt ngoài, rồi đi
chếch lên trên và ra sau, tới chỗ nối ⅓ giữa và ⅓ sau của bán cầu. Rãnh bên rất
sâu, được tạo nên do sự phát triển phôi thai rất mạnh của phần trán và thái
dương, ôm quanh và bọc kín thùy đảo. Rãnh bên phân tách các thùy trán, đỉnh
và thái dương.
Rãnh đỉnh chẩm ngoài (parieto-occipital sulcus): phần ở mặt ngoài bán
cầu hay rãnh thẳng góc ngoài, là đoạn đầu rất ngắn của rãnh, xuất hiện ở bờ
8
trên bán cầu, trước cực chẩm bán cầu khoảng 5 cm. Rãnh đỉnh chẩm ngăn cách
thùy đỉnh và thùy chẩm.
Khuyết trước chẩm (preoccipital notch): là điểm lõm ở bờ dưới ngoài
bán cầu, điểm giới hạn giữa thùy chẩm và thùy thái dương.
Đường thái dương đỉnh ngoài (lateral parieto-temporal line): là đường
tưởng tượng, nằm dọc, phân chia thùy thái dương, thùy đỉnh và thùy chẩm, nối
giữa rãnh đỉnh chẩm ngoài ở trên và khuyết trước chẩm ở dưới.
Đường thái dương chẩm (temporo-occipital line): là đường tưởng tượng,
nằm ngang, phân chia thùy đỉnh và thùy thái dương, nối từ vị trí cuối cùng của
rãnh bên đến điểm giữa của đường thái dương đỉnh ngoài.
Các rãnh chia mặt ngoài thành thùy trán, thùy đỉnh, thùy thái dương, thùy
chẩm. Ngoài ra có thùy đảo nằm sâu ở trong đáy rãnh bên.
A B
* Nguồn: theo Debowski và Knipe (2016) [48]
Hình 1.1. Các rãnh ở mặt ngoài (A) và mặt trong (B) bán cầu đại não.
Các rãnh phân giới ở mặt trong vỏ bán cầu đại não (Hình 1.1B) gồm:
Đoạn đầu của rãnh trung tâm: là rãnh đã được mô tả ở mặt ngoài, lấn
vào mặt trong một đoạn ngắn, ở bờ trên bán cầu.
9
Rãnh đỉnh chẩm (parieto-occipital sulcus): có một đoạn đầu rất ngắn đã
được mô tả ở mặt ngoài bán cầu, và phần lớn của rãnh ở mặt trong bán cầu, bắt
đầu từ bờ trên bán cầu cách cực chẩm khoảng 5 cm, chạy chếch xuống dưới và
ra trước, tận hết ở ngang mức đầu sau của thể chai.
Rãnh cựa (calcarine sulcus): chạy ngang từ phía sau bờ trên bán cầu đến
lồi sau thể chai.
Rãnh đai (cingulate sulcus): bắt đầu từ dưới phần gối thể chai lên trên,
cách đều thể chai và bờ trên bán cầu; tới gần đầu sau thể chai thì quặt lên trên
và tận hết ở bờ trên bán cầu.
Rãnh dưới đỉnh (sub parietal sulcus): tiếp tục đường đi của rãnh đai khi
rãnh này quặt lên bờ trên, đi đến ngang mức đầu sau của thể chai.
Rãnh thể chai (callosal sulcus): ôm sát xung quanh thể chai.
Các rãnh phân giới ở mặt dưới của bán cầu đại não gồm [46]:
Đoạn đầu của rãnh bên (lateral sulcus): là thung lũng sâu và rộng gồm
hai phần. Phần tư trước là mặt dưới của thùy trán; phần tư sau là mặt dưới của
thùy thái dương và thùy chẩm.
Ở mặt dưới của thùy thái dương có các rãnh gồm: rãnh chẩm thái dương
(occipito-temporal sulcus): chạy từ trước ra sau tới tận mặt dưới của thùy chẩm;
rãnh bên phụ (collateral sulcus): nằm phía trong của rãnh chẩm thái dương
phân chia hồi cạnh hải mã và hồi thái dương chẩm.
Ở mặt dưới của thùy trán gồm các rãnh: rãnh ổ mắt ngoài; các rãnh ổ mắt
hình chữ H (orbital sulci), rãnh khứu (olfactory sulcus) hay rãnh ổ mắt trong.
10
1.2.3. Các thùy và các hồi của bán cầu đại não
Bán cầu đại não được phân chia bởi các rãnh và mốc ở mặt ngoài và mặt trong
thành các thùy có kích thước khác nhau (Hình 1.2) [46], [47], [48].
A B
* Nguồn: theo Debowski và Knipe (2016) [48]
Hình 1.2. Các thùy ở mặt ngoài (A) và mặt trong (B) bán cầu đại não.
Thùy trán (frontal lobe): chiếm phần trước của bán cầu đại não, được
giới hạn bởi mặt ngoài nằm trước rãnh trung tâm và trên rãnh bên, mặt trong
nằm trên rãnh đai và mặt dưới nằm tựa trên trần ổ mắt (Hình 1.2, màu vàng).
Thùy trán có đầu trước được gọi là cực trán của bán cầu đại não. Mặt ngoài
của thùy trán có rãnh trước trung tâm, rãnh trán trên và trán dưới chia thùy trán
thành hồi trước trung tâm, trán trên, trán giữa và hồi trán dưới. Hồi trán dưới được
các chẽ của rãnh bên chia thành ba phần gồm phần nắp ở trên, phần tam giác ở
giữa và phần ổ mắt ở dưới. Mặt trong có hồi trán trong do hồi trán trên lấn vào, và
hồi cạnh trung tâm do hồi trước trung tâm lấn vào. Mặt dưới nằm trên trần ổ mắt,
được chia thành các phần tương ứng với các hồi trán trên và giữa bởi các rãnh ổ
mắt ngoài, rãnh hình chữ H và rãnh ổ mắt trong. Rãnh ổ mắt trong hay rãnh khứu
có dải khứu và thùy khứu nằm. Thùy trán rất phát triển ở người, chiếm tới 30%
11
diện tích của bộ não và khoảng 41% thể tích vỏ não mới [47], [48]. Thùy trán có
nhiều vùng khác nhau về giải phẫu và chức năng.
Thùy đỉnh (parietal lobe): nằm ở giữa rãnh trung tâm ở trước, rãnh bên
ở dưới và rãnh đỉnh chẩm ở sau (Hình 1.2, màu đồng). Mặt ngoài có rãnh sau
trung tâm và rãnh trong thùy đỉnh chia thùy thành hồi sau trung tâm, tiểu thùy
đỉnh trên và tiểu thùy đỉnh dưới. Tiểu thùy đỉnh này có hồi trên bờ uốn cong ở
trên đầu trên rãnh bên, và hồi góc, uốn quanh ở trên đầu sau rãnh thái dương
trên. Mặt trong có hồi cạnh trung tâm sau, do hồi sau trung tâm lấn vào và hồi
tiền chêm do thùy đỉnh trên lấn vào, giới hạn ở giữa rãnh đỉnh chẩm, phần quặt
lên của rãnh đai và rãnh dưới đỉnh. Thùy đỉnh chiếm khoảng 25% thể tích bán
cầu đại não và 19% thể tích vỏ não mới.
Thùy chẩm (occipital lobe): chiếm đầu sau bán cầu đại não (Hình 1.2,
màu lam). Thùy được giới hạn ở mặt ngoài bởi một đường từ rãnh đỉnh chẩm
đến khuyết trước chẩm, ở mặt trong bởi rãnh đỉnh chẩm luôn hiện rất rõ và mặt
dưới bởi một đường tưởng tượng đi từ khuyết trước chẩm đến đầu trước dưới
của rãnh đỉnh chẩm. Đầu sau của thùy là cực chẩm của bán cầu đại não. Mặt
ngoài có một tập hợp ba hồi không đều được gọi là hồi chẩm 1, 2 và 3. Khó xác
định giới hạn giữa hồi chẩm 2 với hồi chẩm 1 ở sau rãnh đỉnh chẩm, và với hồi
chẩm 3 ở sau khuyết trước chẩm. Mặt trong có một rãnh quan trọng là rãnh cựa,
đi ngang từ cực chẩm đến đầu trước dưới rãnh đỉnh chẩm. Rãnh cựa giới hạn
với rãnh đỉnh chẩm, hồi chêm hay hồi chẩm 6. Dưới rãnh cựa là hồi lưỡi hay
hồi chẩm 5. Mặt dưới, hồi lưỡi lấn xuống mặt dưới, liên tiếp ở phía trước với
hồi cạnh hải mã. Hồi chẩm 4 cũng liên tiếp ở trước với hồi thái dương 4. Các
vùng phân tích thị giác có vai trò quan trọng ở thùy chẩm. Thùy chẩm chiếm
khoảng 18% thể tích vỏ não mới.
Thùy thái dương (temporal lobe): nằm ở dưới rãnh bên, kéo dài từ cực
thái dương tới thùy chẩm; ngăn cách với thùy chẩm:
12
Ở mặt ngoài bởi một đường đi từ khuyết trước chẩm đến đầu trên rãnh
đỉnh chẩm, ở mặt dưới bởi một đường đi từ khuyết trước chẩm tới đầu trước
dưới rãnh đỉnh chẩm (Hình 1.2, màu lục). Mặt ngoài có hai rãnh thái dương
trên và dưới chia thùy này thành ba hồi là hồi thái dương trên, giữa và dưới.
Ở mặt trong và dưới gồm có cực thái dương, vỏ não nội khứu, hồi cạnh
hải mã và hồi thoi. Cực thái dương ở đầu trước của thùy thái dương. Cực thái
dương kéo dài đến vỏ não nội khứu. Giới hạn trong và ngoài lần lượt là mặt
trong của thùy thái dương và rãnh thái dương trên và dưới.
Vỏ não nội khứu được giới hạn ở phía trước và phía sau lần lượt là cuối
phần trước của rãnh bên phụ và cuối phần sau của hạnh nhân; ở phía trong là
mặt trong của thùy thái dương và giới hạn ngoài là rãnh bên phụ.
Hồi thoi được giới hạn ở trước là phần trước của rãnh bên phụ; giới hạn
trong và ngoài lần lượt là rãnh bên phụ và rãnh chẩm thái dương.
Hồi cạnh hải mã được giới hạn ở trước và sau lần lượt là vỏ não nội khứu
và phía sau của hải mã. Giới hạn trong và ngoài được xác định lần là mặt trong
của thùy thái dương và ở ngoài là rãnh bên phụ.
Ngoài ra, mặt trên của thùy thái dương nằm sâu trong rãnh bên, còn có
vài hồi nhỏ, ngắn, ngăn cách nhau bởi những rãnh chếch, gọi là các hồi thái
dương ngang trước và sau. Các hồi đó là vỏ não thính giác ở người. Thùy thái
dương chiếm khoảng 22% thể tích vỏ não mới.
Thùy đảo (insular cortex): nằm sâu trong đáy của rãnh bên bán cầu, phải
cắt hoặc tách rộng hai bờ rãnh mới có thể nhìn thấy. Các phần của các thùy ở hai
bờ rãnh đậy lên thùy đảo, được gọi là các nắp thùy đảo: nắp trán, nắp đỉnh, nắp
thái dương. Hình thái của thùy đảo gần giống với thùy tam giác, bao quanh bởi
rãnh vòng thùy đảo. Đỉnh thùy tương ứng với ngưỡng cửa dẫn tới chất thủng trước
ở mặt dưới của bán cầu. Bề mặt của thùy có những rãnh chếch tỏa từ đỉnh đến đáy,
13
chia thùy thành hai hồi đảo dài và ba hồi đảo ngắn. Rãnh dài nhất và sâu nhất ngăn
cách các hồi đảo dài với các hồi đảo ngắn gọi là rãnh trung tâm đảo.
Thùy đảo chiếm khoảng 2% diện tích bề mặt vỏ não. Thùy đảo được cho
là đóng vai trò trong cảm giác vị giác và tích hợp thị giác-thăng bằng và ngôn
ngữ, và hơn nữa nó quan trọng trong chức năng thần kinh tự chủ [46], [48].
Thùy viền (limbic lobe): là một cấu trúc tổng hợp hình móng ngựa, gồm
các hồi ở sát bờ trong nhất, bờ viền của mặt trong bán cầu đại não, tạo thành
một vòng khép kín ôm xung quanh thể chai và ẩn vào bán cầu. Bắt đầu từ phía
dưới mỏ thể chai, thùy viền gồm diện dưới chai, hồi đai, hồi cạnh hải mã và hải
mã [46], [48].
Hồi đai là hồi ôm xung quanh thể chai, nằm giữa rãnh đai và rãnh dưới
đỉnh ở trên, rãnh thể chai ở dưới. Phần trước hồi vòng qua gối thể chai xuống
dưới mỏ thể chai, gọi là diện dưới chai, và trước mảnh tận cùng, gọi là hồi cạnh
tận, rồi tận hết ở chất thủng trước. Phần sau hồi vòng xuống dưới lồi thể chai
và liên tiếp với hồi cạnh hải mã của thùy thái dương bởi một chỗ thắt hẹp gọi
là eo hồi đai.
Hồi cạnh hải mã là hồi ở trong nhất của mặt dưới thùy thái dương 5, đầu
trước quặp lại thành mỏm móc. Hồi được giới hạn ở trong bởi rãnh hải mã, ở
ngoài bởi rãnh khứu và rãnh bên phụ. Rãnh khứu ở trước, ngăn cách mỏm móc
với hồi thái dương chẩm trong.
1.2.4. Vỏ não
Vỏ não là phần lớn nhất của đại não, đóng vai trò trung tâm trong các chức
năng cấp cao như trí tuệ, bao hàm khả năng sử dụng ngôn ngữ, tư duy, trí tưởng tượng
và khả năng phán đoán, trí nhớ, chú ý [47], [48]. Phần lớn vỏ não bao bởi chất xám,
ở trong có chất trắng và nhiều cấu trúc dưới vỏ.
1.2.4.1. Chất xám vỏ não
14
Chất xám vỏ não là phần cao cấp nhất của hệ thần kinh, tập trung dày
đặc các thân neuron, tạo nên bề mặt của mỗi bán cầu đại não. Tổng diện tích
vỏ não khoảng 2500 cm2. Tuy nhiên chỉ có ⅓ diện tích ở trên bề mặt cuộn não,
phần còn lại ẩn sâu trong thành các rãnh. Chiều dày của vỏ não cũng thay đổi,
từ 4,5 mm ở hồi trước trung tâm đến 1,5 mm ở đáy của rãnh cựa [49] và trung
bình từ 2 đến 4 mm. Vỏ não chứa khoảng 20 tỷ neuron, chiếm 19% số neuron
của toàn bộ não. Các neuron có kích thước và hình dạng khác nhau và ở vỏ não
gồm năm loại chính gồm tế bào tháp, tế bào sao, tế bào thoi, tế bào martinoti
và tế bào ngang của Cajal. Các tế bào này xếp thành sáu lớp, chồng lên nhau.
Ngoài ra, vỏ não cũng có kiểu xếp lớp theo chiều thẳng đứng, tạo nên những
cột neuron thẳng đứng đường kính khoảng 0,5 mm qua suốt chiều dày của vỏ
não. Sự xếp lớp thẳng đứng rõ ở thùy đỉnh, thùy chẩm, thùy thái dương và
không thấy nhiều ở thùy trán.
1.2.4.2. Chất trắng của các bán cầu đại não
A B
* Nguồn: theo Hofer và Frahm (2006) [50]
Hình 1.3. Hình ảnh các bó kết nối qua thể chai trên cộng hưởng từ khuếch tán (A) và phân chia thể chai theo khu vực kết nối trong não (B).
Chất trắng của não gồm các sợi trục được bọc myelin, tạo nên các đường
liên hệ của vỏ não. Các đường liên hệ cơ bản của vỏ não đã được biết khá rõ,
tuy nhiên về chi tiết của chúng, vốn rất phức tạp, mới chỉ biết một phần. Các
đường liên hệ gồm các sợi tới, các sợi liên hệ nội bộ và các sợi đi [49]. Các sợi
kết nối hai bán cầu tạo thành thể chai. Bằng phương pháp cộng hưởng từ khuếch
15
tán (diffusion tensor magnetic resonance imaging, DTI), Hofer và Frahm (2006)
[50] đã xác định các kết nối qua thể chai (Hình 1.3A) và chia nó theo trục trước
sau thành năm phần là: phần mỏ và gối thể chai (I); phần trước (II), phần giữa
(III), phần sau của thân thể chai (IV) và phần lồi thể chai (V) (Hình 1.3B).
1.2.4.3. Các diện chức năng của vỏ não và các chức năng thần kinh cấp cao
* Diện chức năng của vỏ não.
Các tín hiệu chính là cảm giác, vận động và liên hợp được xử lý và tổng
hợp trong một số vùng của vỏ não. Các diện cảm giác nhận và xử lý các thông
tin cảm giác, chủ yếu nằm ở nửa sau bán cầu, sau rãnh trung tâm; các diện vận
động, khởi động các cử động cơ, chủ yếu nằm ở phần trước bán cầu, trước rãnh
trung tâm; các diện liên hợp, liên quan đến các chức năng tổng hợp phức tạp
hơn như trí nhớ, xúc cảm, lý luận, phán đoán, trí tuệ… chiếm các vùng còn lại,
là phần lớn nhất của não.
Các diện cảm giác gồm các diện cảm giác nguyên thủy và diện cảm giác
liên hợp. Diện cảm giác nguyên thủy gồm diện cảm giác thân thể thuộc hồi sau
trung tâm; Diện thị giác nguyên thủy nằm ở mặt trong của thùy chẩm, dọc theo
hai mép của rãnh cựa, nhận các thông tin thị giác; Diện thính giác nguyên thủy
nằm ở phần trên của thùy thái dương, thuộc mặt trên của hồi thái dương trên,
nhận tín hiệu về âm thanh; Diện vị giác nguyên thủy nằm ở đáy hồi sau trung
tâm, trên rãnh bên, nhận xung động về vị giác; Diện khứu giác nguyên thủy
nằm ở mặt dưới trong thùy thái dương, nhận các xung động về khứu giác. Bên
cạnh mỗi diện cảm giác nguyên thủy, diện cảm giác thứ phát nhận các tín hiệu
từ nội đồi và diện cảm giác nguyên thủy cũng được đề cập như diện cảm giác
thân thể thứ phát, diện thính giác thứ phát và diện thị giác thứ phát. Trong đó,
diện thính giác nguyên thủy và thứ phát nằm liên tiếp nhau ở mặt trên của hồi
thái dương trên. Diện thính giác thứ phát xác định phân biệt rõ âm thanh là tiến
16
nói, âm nhạc hay tiếng động [46]. Kích thích vào diện thính giác gây ra ảo thanh
được mô tả trong các báo cáo của Penfield [56], [109]. Vì vậy, các nghiên cứu
về biến đổi của diện thính giác được tập trung nghiên cứu trong TTPL vì triệu
chứng ảo thanh là tiêu chuẩn quyết định trong chẩn đoán TTPL.
Các diện vận động cũng bao gồm diện vận động nguyên thủy và diện
liên hợp vận động. Các diện liên hiệp vận động gồm diện trước vận động, diện
tiếng nói Broca và diện trán cử động mắt.
Các diện liên hợp gồm cả các diện liên hợp cảm giác, diện liên hợp vận
động, và các diện liên hợp tổng hợp chung. Các diện liên hợp cảm giác và diện
liên hợp vận động đã được trình bày ở trên. Các diện liên hợp còn lại gồm diện
liên hợp tổng hợp chung; diện ngôn ngữ; diện hiểu tiếng nói.
* Chức năng cao cấp của vỏ não
Vỏ não được coi là trung tâm của các chức năng thần kinh cấp cao. Các
cấu trúc khác của não như đồi thị, thể vân, các hạch nền và tiểu não cũng góp
phần vào các chức năng đó. Vỏ não có thể chia thành các vùng chức năng về
cảm giác, vận động, nhận thức, liên quan tới những quá trình phức tạp như học
tập, trí nhớ, ngôn ngữ... [48], [49]. Tuy những hoạt động thần kinh cấp cao
thường có sự phân tán về các trung khu, vẫn có một số hoạt động có tính định
khu, như hoạt động ngôn ngữ với bán cầu trội hay hoạch định kế hoạch với vỏ
não trán.
Bán cầu kiểm soát ngôn ngữ là bán cầu trội với đa số là bán cầu đại não
trái [46], [47]. Khoảng 95% các tổn thương não ảnh hưởng đến ngôn ngữ thấy
ở bán cầu não trái. Hầu hết những người thuận tay phải và khoảng một nửa số
người thuận tay trái có trung khu liên quan ngôn ngữ ở vỏ não trái. Như vậy,
bán cầu não phải ở đa số là bán cầu không trội đối với hoạt động ngôn ngữ.
17
Vỏ não trán trước được cho là có vai trò trọng yếu trong hoạch định kế
hoạch hoạt động tương lai, gắn với những nét trí tuệ nổi bật của loài người như
phán đoán, khả năng lo xa, ý thức mục đích, ý thức trách nhiệm và ý thức ứng
xử xã hội. Tổn thương vỏ não trán trước ảnh hưởng tới những chức năng cấp
cao của não, như mô tả việc một nam công nhân xây dựng đường tầu ở Vermont
năm 1948 bị thanh sắt đâm xuyên từ mắt sang bên đỉnh ở bên đối diện, phá hủy
toàn bộ vỏ não trán trước và những triệu chứng hậu quả của tổn thương đó, như
mất tinh thần trách nhiệm và sự đúng mực trong cư xử xã hội, thiếu khả năng
phán đoán và đặt kế hoạch hành động [51]. Biểu hiện của tổn thương của vỏ
não trán trước như mất tinh thần trách nhiệm và sự đúng mực trong cư sử xã
hội cũng gặp trong TTPL. Vì vậy, biến đổi vỏ não trán trước cũng được tập
trung nghiên cứu nhiều trong TTPL.
1.2.4.4. Một số nhân xám của não
Ở bán cầu đại não, đám chất xám tập trung lại, trong lòng bán cầu được
gọi là các nhân hạch nền. Nhân nền gồm thể vân, nhân trước tường và phức
hợp hạnh nhân. Thể vân gồm nhân đuôi, nhân bèo sẫm, nhân cầu nhạt, nhân
vân bụng [46].
Nhân đuôi (caudate nucleus): nằm ngay ở phía trên ngoài đồi thị, uốn
cong hình chữ C gần khép kín, mở ra trước và xuống dưới, gồm phần đầu, thân
và đuôi.
Nhân bèo: nằm ở phía ngoài đồi thị và nhân đuôi, có hình thấu kính lồi
hai mặt, hơi kéo dài theo chiều trước sau. Mặt ngoài lồi nhẹ, liên quan lần lượt
từ sâu ra nông với bao ngoài, nhân trước tương, bao ngoài cung và vỏ thùy đảo.
Mặt trong lồi mạnh, như một đỉnh tháp hướng vào trong, liên quan với bao
trong và qua bao trong với nhân đuôi và đồi thị. Nhân bèo gồm hai phần: phần
18
ngoài lớn, màu nâu, gọi là bèo sẫm (putamen), ngăn cách bởi lá tủy ngoài với
phần trong nhỏ, màu xám, tái nhạt, gọi là cầu nhạt (globus pallidus).
Nhân vân bụng (nucleus accumbens): ở vùng trước dưới của não, là phần
dưới của chỗ tiếp nối giữa nhân bèo sẫm và đầu nhân đuôi, nằm đè lên các nhân
vách và nhân dải chéo dọc. Các nhân này nằm tựa lên nền vách trong suốt.
Hạnh nhân (amygdala): gồm nhóm nhân nằm ở vỏ não của móc hải mã.
Gần cực trước trong của thùy thái dương, và sát trước đầu tận của đuôi nhân
đuôi. Về mặt chức năng nó liên quan với hạ đồi và được coi như một phần của
hệ viền.
Hải mã (hippocampus): là phần đã lộn vào trong lòng thùy thái dương,
và nằm trên nền sừng thái dương của não thất bên. Nhìn trên nền sừng thái
dương, hải mã là một lồi trắng, uốn cong hình sừng bò; đầu trước phình rộng
tiếp giáp với chất trắng thùy thái dương ở ngoài móc hải mã; đầu sau với diềm
hải mã liên tiếp với trụ sau thể vòm.
1.2.5. Đặc điểm hình thái não bộ ở bệnh nhân tâm thần phân liệt
TTPL có liên quan tới sự thay đổi cấu trúc của não bộ và quá trình hóa
sinh trong não ở giai đoạn cấp tính [2], [3]. Sự thay đổi hình thái não bộ tìm
thấy ở 50% số bệnh nhân [2], [3], [25]. Những nghiên cứu sử dụng test thần
kinh tâm lý và công nghệ hình ảnh của não như cộng hưởng từ chức năng để
đánh giá sự thay đổi về chức năng trong hoạt động của não bộ đã cho thấy sự
thay đổi xuất hiện phổ biến nhất ở thùy trán, thùy thái dương và hồi hải mã [18],
[21], [52]. Những thay đổi như giảm thể tích não bộ - nhưng ít hơn trong bệnh
Alzheimer - được thấy ở vỏ não thùy trán và thùy thái dương, chúng gắn với sự
sút giảm về nhận thức liên quan tới bệnh TTPL [52].
Các nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu sự thay đổi của não bộ trong bệnh
TTPL được bắt đầu từ 1976, khi nghiên cứu trên cắt lớp vi tính (computed
19
topography, CT) thấy sự giãn của các não thất bên ở bệnh nhân TTPL (theo
[2]). Nghiên cứu trên cộng hưởng từ hạt nhân trong TTPL được thực hiện đầu
tiên vào năm 1984 bởi Smith và cs. [26] và đo các chỉ số của toàn bộ não bộ
trên hình ảnh MRI để khảo sát sự liên quan hình thái não với một số triệu chứng
lâm sàng đặc trưng được Andreasen và cs. thực hiện lần đầu vào năm 1986 [27].
Nhiều nghiên cứu cho thấy sự giãn não thất ở bệnh nhân TTPL trên hình
ảnh CT và MRI [18], [21]. Shenton và cs. (2001) đã tổng kết 55 nghiên cứu
MRI ở bệnh TTPL, có 80% nghiên cứu khẳng định có giãn não thất bên, 73%
khẳng định giãn não thất ba và có sự thay đổi cấu trúc của hồi thái dương giữa
gồm hạnh nhân, hải mã, hồi cạnh hải mã và các cấu trúc vỏ não thái dương cùng
một số bằng chứng cho thấy sự thay đổi ở thùy trán, đáng chú ý nhất là vỏ não
trán trước [18]. Các vùng khác của não cũng có sự thay đổi, như ở thùy đỉnh
(60% các nghiên cứu), đặc biệt là hồi đỉnh dưới, trong đó có hồi trên viền và
hồi góc [18], [21]. Những nghiên cứu gần đây cho thấy sự thay đổi của não bộ
theo thời gian, đặc biệt là ngay sau khi khởi phát bệnh. Những thay đổi này
diễn ra trước khi xuất hiện các triệu trứng đầu tiên [2]. Tuy nhiên những loại
rối loạn nào ở não xuất hiện trong bệnh TTPL, tổn thương tiến triển hay không
tiến triển? Hơn nữa, nếu những tổn thương ở não tiến triển tăng dần theo thời
gian thì liệu TTPL có phải là một bệnh thoái hóa thần kinh hay không? Những
câu hỏi này là những hướng nghiên cứu tiếp theo cần phải giải đáp.
Cho tới nay, có rất nhiều nghiên cứu hình ảnh MRI trên bệnh nhân TTPL
mạn tính, sử dụng các thiết bị máy mới với từ lực mạnh hơn, phương pháp mới
trong xác định hình dạng, độ dày của vỏ não [50], [52], [53]. Từ chỗ phần lớn các
nghiên cứu trên MRI tập trung vào tìm hiểu sự thay đổi của chất xám [18], [21],
cũng đã có không ít những quan tâm tới chất trắng trong TTPL [50], [53]. Các
nghiên cứu nhìn chung cho thấy rằng có sự thay đổi khối chất xám ở một số vùng
20
của não như vỏ não trán trước, thùy thái dương, thùy đỉnh và thùy chẩm, và cũng
thấy thay đổi ở chất trắng và ở các khoang chứa dịch não tủy… [18], [21], [53].
1.2.5.1. Thể tích não chung và não thất
Thể tích não chung: theo Shenton, từ 1801 Pinel và sau đó là Kretchmer
(1925) đã tìm hiểu về kích thước của não trong một số bệnh lý tâm thần kinh
[18]. Những quan tâm ban đầu dựa trên giả thuyết về sự liên quan kích thước
não và bệnh lý tâm thần, điều kiện kinh tế xã hội, chỉ số thông minh và sút giảm
nhận thức. Gần đây, một số nhà nghiên cứu cho rằng kích thước não bộ nhỏ có
thể liên quan tới các biến chứng trong thai kỳ hoặc sự thay đổi về sự phát triển
thần kinh hoặc cả hai yếu tố đó, tuy nhiên diễn dịch những phát hiện này chưa
rõ ràng [18].
Thể tích toàn bộ não được tính có quan tâm tới tỷ lệ kích thước của
não/kích thước của đầu khi thấy kích thước của não nhỏ, đặc biệt khi tính kích
thước các vùng của não [18]. Phương pháp xác định kích thước của não gồm
đo thể tích các thành phần trong sọ (chất xám, chất trắng và dịch não tủy), cũng
như xác định khối chất xám, chất trắng có thể bao gồm hoặc không bao gồm
tiểu não. Hầu hết các nghiên cứu không thấy sự khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm
bệnh và nhóm chứng. Tuy nhiên sự biến động về tỷ lệ kích thước đầu/kích
thước não bộ ở quần thể và những yếu tố nhiễu như tuổi, giới tính, dinh dưỡng
cần được xét tới cẩn trọng [18].
Thể tích não thất: nghiên cứu cắt lớp vi tính của Johnstone và cs. (1976)
là nghiên cứu hình ảnh đầu tiên chỉ ra rằng có sự tăng thể tích não thất ở nhóm
TTPL so với ở nhóm chứng [33]. Nhiều nghiên cứu sau đó đều thấy có tăng về
thể tích các não thất ở bệnh nhân TTPL [18], [21]. Shenton và cs. (2001) tổng
kết thấy 75% các nghiên cứu trên hình ảnh cắt lớp vi tính khẳng định có tăng
thể tích của não thất bên [18]. Tuy nhiên, sự tăng thể tích não thất bên không
21
đặc hiệu đối với bệnh TTPL, do cũng gặp ở nhiều bệnh khác như Alzheimer,
não úng thủy, múa giật Huntington, hay trong việc sử dụng các phác đồ hóa
chất và corticosteroid [18], [21]. Tuy nhiên, giãn não thất bên cũng có thể là
dấu hiệu giảm mô não ở những vùng xung quanh hoặc phát triển chậm. Do vậy,
giãn não thất bên được các nhà nghiên cứu TTPL quan tâm. Một số nghiên cứu
khác không thấy sự giãn não thất bên nhưng thấy giãn sừng thái dương của não
thất bên, và chủ yếu ở bên trái. Một số nghiên cứu khác khẳng định có sự giảm
thể tích của mỏm móc, hồi hải mã và tăng thể tích của sừng thái dương của não
thất bên [18], [21].
Về não thất ba, 73% nghiên cứu cho thấy có sự thay đổi thể tích của não
thất ba (theo [21]) và cũng có những báo cáo không thấy sự thay đổi của não
thất này [40], [54] ở bệnh nhân TTPL. Đối với não thất bốn, phần lớn báo cáo
(80%) không thấy thay đổi [18] và số ít hơn lại cho thấy có sự thay đổi về kích
thước trong TTPL [55]. Gần não thất ba là vùng đồi thị, vì vậy, có thể tăng thể
tích não thất ba có liên quan tới sự giảm thể tích của đồi thị trong bệnh TTPL.
Hơn nữa, sự phong phú về sự kết nối của đồi thị với các khu vực khác của não
làm cho đồi thị được đánh giá là vùng có nhiều biến đổi trong bệnh TTPL. Đồi
thị là vị trí quyết định của bệnh lý, sự thay đổi về nhận thức và lâm sàng trong
TTPL. Giãn não thất ba có thể do sự phát triển bất thường của đồi thị hoặc sự
thoái hóa thần kinh [18].
1.2.5.2. Thùy thái dương
Kraepelin cho rằng ảo giác và ảo thanh ở bệnh TTPL là do sự thay đổi
bất thường của thùy thái dương (theo [18]). Nghiên cứu đầu tiên phân tích hồi
thái dương trên dựa trên phim MRI được thực hiện bởi Barta và cs. (1990) [31].
Nghiên cứu của Shenton và cs. tập trung phân tích sự biến đổi của thùy thái
dương, đặc biệt là hồi thái dương trên gồm hồi Heschl và trung tâm ngôn ngữ
cũng như cấu trúc của hồi thái dương giữa [18]. Thể tích thùy thái dương nhỏ
22
hơn trong TTPL ở 55% và không có sự khác biệt ở 45% các nghiên cứu (theo
[18]). Thể tích của toàn bộ thùy thái dương chỉ có thể cung cấp được một số
thông tin nhất định trong bệnh học của TTPL so với sự thay đổi thể tích của
những cấu trúc đặc hiệu ở thùy thái dương, như các hồi thái dương giữa và trên.
Hồi thái dương giữa là cấu trúc bao gồm phức hợp hạnh nhân – hải mã
và hồi cạnh hải mã. Một số nghiên cứu tiến hành đo các cấu trúc này một cách
riêng biệt. Những cấu trúc này được xác định là có chức năng khác nhau, cả hai
cấu trúc này có liên quan tới bệnh sinh của TTPL [18], [21].
Hồi thái dương trên là phần vỏ não của thùy thái dương ngay phía dưới rãnh
bên. Dọc theo mặt trên của hồi thái dương trên là hồi Heschl, là vùng vỏ não thính
giác. Nghiên cứu kích thích điện ở phần trước của hồi thái dương trên gây ra ảo
thanh phức tạp và giảm trí nhớ từ [56]. Những kết quả này tương tự như triệu
chứng quyết định của bệnh TTPL (suy giảm khả năng nhớ từ, rối loạn tư duy và
ảo thanh). Do vậy vùng não này được đặc biệt quan tâm của các nhà nghiên cứu
về TTPL. Những nghiên cứu đầu tiên trên hình ảnh MRI não cho thấy thể tích của
hồi thái dương trên bên trái giảm thể tích, kết quả này đã khẳng định những phát
hiện giảm thể tích hồi thái dương trên ở tử thi bị TTPL mà trước đó không nhận
được sự quan tâm đáng kể của các nhà nghiên cứu (theo [18]).
Về sự tương quan với các vùng não khác như sự giảm thể tích của hải
mã, hạch nhân, hồi cạnh hải mã và hồi thái dương trên có sự liên quan với nhau
là một điểm đáng chú ý [18], [40], cho thấy các vùng não này có sự liên quan
về chức năng với giảm thể tích. Nestor và cs. (1993) thấy có sự liên quan giữa
giảm khả năng nhớ từ ngữ, khái niệm trừu tượng và phân loại hóa với sự giảm
thể tích ở cả hồi cạnh hải mã và phần sau của hồi thái dương trên, được cho là
do có sự rối loạn hệ thống ngôn ngữ ở bệnh TTPL [39].
23
1.2.5.3. Thùy trán
Sự quan tâm tới những biến đổi của thùy trán trong bệnh TTPL xuất phát
từ những quan sát về sự sút giảm trong nhận thức và lệch lạc trong cư xử liên quan
với kích thước của thùy trán bị tổn thương [28], [51]. Các nghiên cứu cấu trúc não
bằng MRI cho những kết quả trái ngược. Trong số 50 nghiên cứu hình ảnh MRI,
60% báo cáo có sự bất thường ở thùy trán, trong khi đó 20% nghiên cứu không
thấy có bất thường [18]. Hầu hết các nghiên cứu chỉ đo toàn bộ thùy trán. Thực tế,
vỏ não vùng trán có sự biệt hóa cao về chức năng và ở những vùng khác nhau của
thùy trán có chức năng khác nhau và chuyên biệt. Vì vậy, nếu các nhà nghiên cứu
cố gắng đánh giá các vùng nhỏ hơn và đặc hiệu hơn ở thùy trán sẽ làm sáng tỏ
những thay đổi nhỏ của các vùng chức năng ở thùy trán.
Wible và cs. (1995) đã tiến hành đo vỏ não của toàn bộ thùy trán và cho
thấy không có sự khác biệt giữa bệnh nhân TTPL và nhóm chứng. Tuy nhiên ở
nhóm bệnh, có sự liên quan giữa các triệu chứng âm tính và sự giảm thể tích của
vỏ não trán trước bên trái [28]. Phân tích những phân vùng nhỏ hơn của thùy trán,
Buchanan và cs. (1998) cho thấy sự giảm thể tích của chất trắng ở não trán trước
bệnh nhân TTPL [29], Goldstein và cs. (1999) báo cáo hồi trán giữa giảm từ 7 đến
15% thể tích [30], còn Gur và cs. (2000) thấy giảm thể tích vỏ não hồi trán trước
khoảng 9% ở nam và 11% ở nữ [31]. Trong khi khẳng định không có sự khác nhau
giữa nhóm TTPL và nhóm chứng ở vỏ não trán trước, Baare và cs. (1999) vẫn lưu
ý có sự liên quan giữa giảm thể tích chất xám ở vỏ não trán trước bên trái và phải
với sự giảm trí nhớ từ và trí nhớ hình ảnh [32].
Vỏ não trán trước là vùng tân não phức tạp và phát triển nhất ở não người,
có đường hướng tâm và ly tâm tới các vùng khác của vỏ não, cũng như hệ
limbic và các nhân nền – những vùng não có vai trò điều hòa quan trọng ở tất
cả đặc điểm đặc trưng trong hoạt động của con người.
24
1.2.5.4. Một số biến đổi ở khối chất xám, chất trắng và cấu trúc vi thể
Tanskanen và cs. (2010) nghiên cứu trên các đối tượng cùng độ 33–35
tuổi, phát hiện thấy giảm thể tích khối chất xám ở nhóm TTPL so với ở nhóm
chứng. Ở thùy trán, kết quả cho thấy giảm khối chất xám ở cả hai bên ở vỏ não
trán trước, vùng tiền vận động và vỏ não vận động (hồi trán trên, giữa dưới và
hồi trước trung tâm) và thấy cả ở cả thùy đảo, và hồi đai [57]. Nghiên cứu tổng
hợp về hình ảnh MRI cấu trúc của Olabi và cs. (2011) cho thấy có sự giảm của
cả khối chất xám và chất trắng của não và của thùy trán, giảm thể tích chất trắng
của thùy đỉnh, thùy thái dương và tăng thể tích cả hai não thất bên. Những thay
đổi này diễn tiến qua thời gian [58].
Một số nghiên cứu vi thể về cấu trúc của não cho thấy có sự thay đổi của
một số chất như synapsin hay synap SNAP-25 – là những protein ở màng trước
synap SNAP-25 liên quan trong phát triển, kết gắn các bọc synap và xuất ngoại
bào – nồng độ của chúng giảm đi ở vùng hải mã trên những bệnh nhân TTPL,
gợi ý rằng giảm hoạt động chức năng của synap ở vùng hải mã có thể liên quan
trong bệnh sinh TTPL [44], [45]. Sự giảm mật độ của các lưới sợi (lưới sợi
phần lớn gồm các sợi trục không myelin, sợi nhánh và các nhánh của các tế bào
đệm, chúng tạo nên vùng đậm synap nhưng ít thân tế bào), đặc biệt liên quan
tới các lưới sợi neuron liên hợp ở vỏ não trán được giả thiết có vai trò trong
bệnh học TTPL [23]. Số lượng tế bào thưa nhánh ở một số vùng như ở CA4 –
phần sau của vùng hải mã – giảm ở não người TTPL [42]. Những phát hiện về
vi thể này ủng hộ lý thuyết rằng chỉ một thay đổi nhỏ trong cấu trúc hay vòng
liên hệ ở não cũng có thể gây ảnh hưởng lớn tới chức phận của não và cũng cho
những gợi ý chung hướng với những nghiên cứu về gen trong bệnh lý thần kinh
nói chung, TTPL nói riêng.
25
1.3. Biến đổi một số gen trong bệnh tâm thần phân liệt
Những nghiên cứu về biến đổi ở mức phân tử, di truyền trong bệnh TTPL
đã được đề cập từ khá sớm [4], [5], [6], [7] và được quan tâm trên nhiều khía
cạnh, như xác định sự liên quan giữa biến đổi gen và bệnh, sự tương tác giữa
các gen trong bệnh TTPL, sự liên quan của các gen với triệu chứng của bệnh
[2], [8], [9]. Nhiều nghiên cứu về biến đổi di truyền trong bệnh TTPL có đề cập
tới vai trò của các gen COMT [4], [5] và DISC1 [6], [7], [8], [9] và các protein
do chúng mã hóa.
1.3.1. Gen DISC1 và các đa hình trong bệnh tâm thần phân liệt
1.3.1.1. Gen DISC1 và tâm thần phân liệt
Gen DISC1 mã hóa cho protein DISC1 có cấu trúc xoắn α bất thường,
gây khó khăn cho nghiên cứu về gen này ở những động vật không xương sống
[59]. Protein DISC1 góp phần quan trọng vào sự phát triển thần kinh và sự
trưởng thành của não bộ [10]. Protein này điều hòa quá trình hình thành và phát
triển của hệ thống thần kinh gồm sự tái tạo, biệt hóa, di chuyển của tế bào thần
kinh, cấu trúc não, vận chuyển nội bào, dẫn truyền qua synap, biểu hiện mạnh
mẽ ở hệ thần kinh trung ương, đặc biệt là vùng hồi hải mã và vỏ não [10], [60].
Gen DISC1 có tất cả 13 exon [7], [61]. DISC1 được tìm thấy ở các loài
nhân thực nhưng không tìm được ở nấm, giun tròn và côn trùng hai cánh trong
đó có ruồi giấm. DISC1 là một gen phổ biến trong cơ chế bệnh sinh của bệnh
TTPL. DISC1 nằm ở một điểm ngắt sau khi xảy ra chuyển đoạn cân bằng trên
nhiễm sắc thể số 1, được phát hiện lần đầu từ 1990 trong một gia đình người
Scotland mắc các triệu chứng tâm thần [59]. Từ đó đến nay, các bằng chứng về
sự liên quan giữa DISC1 với các bệnh về thần kinh như trầm cảm, tự kỷ, rối
loạn lưỡng cực và hội chứng Asperger ngày càng tăng thêm. Nhiều đột biến
thay đổi axít amin do các đa hình ở DISC1 có liên quan tới các chứng bệnh tâm
26
thần kinh, như Callicot và cs. (2005) đã tìm thấy những bằng chứng về mối liên
hệ giữa các kiểu alen của nhiều đa hình trên DISC1 với TTPL, trong đó đa hình
rs821616 cho tín hiệu mạnh nhất [7]. Tuy nhiên những sự liên quan của các đột
biến này với TTPL chưa có sự thống nhất [8], [9], [10]. Còn nhiều vấn đề đặt
ra liên quan tới câu hỏi “liệu các đa hình ở DISC1 có thực sự liên quan tới căn
bệnh này?” [59].
1.3.1.2. Đa hình rs821616 và tâm thần phân liệt
Rs821616 là một đột biến sai nghĩa phổ biến của DISC1, liên quan tới
nguy cơ mắc bệnh TTPL [7], [62]. Vị trí của đa hình này là tại exon số 11 của
gen DISC1 nằm trên nhiễm sắc thể số 1 ở người [61]. Vị trí biểu diễn trên cơ
sở dữ liệu ngân hàng gen (NBCI) là: 1:232008852. Vị trí của rs821616 có
nucleotit T thay thế cho nucleotit ban đầu là A và tần suất alen T là 0,2502/1253.
Đa hình này gây ra sự thay thế amin serin bằng cystein tại vị trí 704 của protein
DISC1, nên rs821616 còn được gọi là S704C hoặc Ser704Cys [62], [63]. Trình
tự của chuỗi axit nhân trên gen DISC1 chứa rs821616 là:
5’-TGGAGCTGTAGGC{A/T}CTGGATAAGCAATCGACAAGC-3’
Nhiều nghiên cứu cho thấy có sự liên quan của rs821616 với bệnh TTPL,
triệu chứng lâm sàng, tính kháng thuốc và biến đổi hình thái não. Callicott và
cs. (2005) nghiên cứu ở người da trắng thấy alen T của rs821616 làm tăng nguy
cơ bị bệnh TTPL và giảm thể tích hồi hải mã [7]. Các nghiên cứu ở người châu
Á cũng cho thấy sự liên quan của đa hình rs821616 tại exon 11 của gen DISC1
tới bệnh TTPL, trong các quần thể nghiên cứu ở cả Trung Quốc [8], [9] và Nhật
Bản [64].
Gong và cs. (2014) cho thấy đa hình rs821616 là một trong ba đa hình
phổ biến ở DISC1 liên quan TTPL ở quần thể người da trắng và người Hán-
Trung Quốc (hai đa hình còn lại là rs6675281 và rs3738401) [8], đồng thời tìm
27
thấy sự khác biệt giữa tần số alen A của rs821616 trong quần thể người da trắng
(0,300) và người châu Á (0,068), gợi ý rằng sự biến đổi này có thể có vai trò
khác biệt trong việc mắc bệnh TTPL ở các quần thể chủng tộc khác nhau [65].
Một nghiên cứu khác ở người Hán trên nhiều đa hình của của gen DISC1 (gồm
rs821616, rs821597, rs4658971 và rs843979) cho thấy rs821616 là một trong
hai đa hình có tín hiệu mạnh liên hệ với bệnh TTPL (đa hình thứ hai là
rs821579) [8]. Các phân tích liên kết gen cũng của các đa hình trên, cho thấy
một số tổ hợp gen liên quan với TTPL, đặc biệt là những tổ hợp có chứa
rs821616 [8]. Các phát hiện trên cung cấp thêm những chứng cứ chứng minh
DISC1 là một gen nguy cơ mắc TTPL trong quần thể người Hán Trung Quốc
và chỉ ra xu hướng cộng hợp của các đa hình mà trong đó rs821616 đóng vai
trò trung tâm [8], [9].
Nhiều kết quả nghiên cứu khác cho thấy đa hình rs821616 liên quan đến
triệu chứng của bệnh TTPL, như với mức độ nặng của các triệu chứng dương
tính ở một số ảo giác tại thời điểm khởi phát bệnh ở người da trắng [66]. Những
cá thể kiểu gen đồng hợp của alen serin có những biểu hiện trầm trọng hơn so
với những người mang alen cystein [66]. Trên bệnh nhân loạn thần cùn mòn
cảm xúc, các cá thể có kiểu gen đồng hợp alen A (rs821616) có khả năng cải
thiện hoạt động vận động tốt hơn so với những người mang alen T [67]. Ở
những người khỏe mạnh mang Cys704 của kiểu gen rs821616 liên quan với sự
giảm thể tích và chất xám của hồi đai [64] so với ở những người khỏe mạnh
mang kiểu gen đồng hợp Ser704 [64]. Giảm chất trắng cũng thấy ở những người
mang alen Cys [67], [68]. Nghiên cứu các biến thể cắt ghép gen DISC1 trong
sao mã cho thấy rs821616 liên quan tới biểu hiện của các nhóm mRNA thay
thế, cụ thể là với nhóm mRNA bị thiếu exon 3 và nhóm mRNA khác bị thiếu
exon 7-8 (ký hiệu lần lượt là Δ3 và Δ7Δ8, chúng mã hóa cho protein DISC1 bị
cắt xén), biểu hiện của chúng tăng nhiều trong phát triển của thai kỳ và có nhiều
28
ở vùng hải mã của những người TTPL [69]. Các cá thể mang kiểu gen TT (Cys)
tăng biểu hiện của Δ3 và Δ7Δ8 mRNA so với ở những cá thể có mang alen A
(Ser). Dấu hiệu này quan sát rõ nhất ở nhóm người Mỹ gốc Phi, trong đó kiểu
gen TT có biểu hiện Δ7Δ8 mRNA mạnh hơn kiểu gen AA hoặc AT; tuy nhiên,
điều này lại không tìm thấy ở nhóm người da trắng [69].
Tuy nhiên, có những nghiên cứu cho kết quả khác. Kim và cs. (2008)
nghiên cứu trên người Hàn Quốc lại không thấy sự liên quan của đa hình
rs821616 với TTPL, nhưng thấy có sự liên quan của đa hình này với việc kém
tập trung của nhóm bệnh nhân TTPL [12]. Luo và cs. (2016) thấy 17 đa hình ở
vùng hoạt hóa và vùng không dịch mã trên DISC1 cũng không liên quan với
mắc bệnh TTPL trên người Hán [10]. Norlelawati và cs. (2015) xác định 11
kiểu gen của các đa hình DISC1, gồm cả rs821616, đã không tìm ra được mối
liên hệ nào giữa rs821616 với căn bệnh TTPL ở cả chủng người Mã Lai và
Trung Quốc ở Malaysia [11], nhưng lại phát hiện được hai đa hình là rs4658971
và rs1538979 có liên quan tới TTPL và cũng cung cấp thêm bằng chứng về sự
liên quan của giới tính với sự tiến triển của TTPL, trong đó rs2509382 có liên
quan tới TTPL ở nam giới Mã Lai [11].
1.3.2. Gen COMT và các đa hình trong bệnh tâm thần phân liệt
1.3.2.1. Gen COMT và bệnh tâm thần phân liệt
Gen COMT mã hóa enzym COMT liên quan tới quá trình chuyển hóa và
bất hoạt các chất dẫn truyền thần kinh nhóm catecholamin và các thuốc gốc
catechol [4], [5]. Một gen COMT mã hóa cho hai dạng enzyme là dạng hòa tan
(S-COMT) được tìm thấy trong bào tương của tế bào và dạng bám vào màng tế
bào (MB-COMT) có kích thước lớn hơn 50 axit amin kỵ nước ở đầu N-tận.
Gen này có vùng liên quan TTPL trên nhiễm sắc thể 22; có chứa mất
đoạn quan trọng 22q11.2; liên quan đến chuyển hóa catecholamin – nhóm chất
29
dẫn truyền thần kinh liên quan đến rối loạn tâm thần và điều trị tâm thần [4],
[5], [70]. COMT cho thấy tín hiệu liên kết quan trọng [67]. Các nghiên cứu gen
COMT cũng cho thấy sự thay đổi ở đa hình Val108/158Met (rs4680) liên quan
tới rối loạn tâm thần và cũng có tương tác với các yếu tố nguy cơ về môi trường
như sử dụng chất kích thích cần sa [71], [72], [73].
1.3.2.2. Đa hình rs4680 và bệnh tâm thần phân liệt
Đa hình rs4680 (thay thế GA) làm valin thay thế methionin (Val/Met)
ở vị trí 158 (Val158Met) cho dạng enzym bám màng MB-COMT) và ở vị trí
108 (Val108Met) cho dạng hòa tan S-COMT ngắn hơn [4], [5]. Sự thay đổi
trình tự axit amin của enzym làm hoạt động của enzym giảm bốn lần và thay
đổi tính chịu nhiệt của nó. Vai trò của enzym COMT khác nhau ở các vùng não.
Kênh vận chuyển dopamin từ khe synap trở về màng trước synap ở vùng trán
trước rất ít nên COMT đóng vai trò chủ yếu trong điều hòa hoạt động dopamin
ở thùy trán. Điểm đa hình (Val/Met) của gen COMT làm tăng hoạt động enzym
COMT lên, do vậy làm giảm hoạt động của hệ dopaminergic và hoạt động của
thùy trán, và như vậy tác động lên COMT có thể làm thay đổi hoạt động của hệ
dopaminergic [6].
Nghiên cứu gần đây của Papaleo và cs. (2014) trên chuột và người thấy
đa hình rs4680 ảnh hưởng lên chức năng vỏ não trán trước có tương tác với một
gen khác (DTNBP1) mà cũng ảnh hưởng đến cơ chế truyền tín hiệu của
dopamin [74]. Đồng hợp tử alen Met ở rs4680 làm tăng gấp đôi khả năng dính
sử dụng cần sa trong đời sống so với ở đối tượng đồng hợp tử Val và cũng lưu
ý tới những yếu tố môi trường khác cũng tác động tới mối liên hệ này [73].
Phân tích tổng hợp hơn 48 nghiên cứu trên quần thể ở người da trắng châu Âu
và người châu Á, Okochi và cs. (2009) thấy không có sự liên quan của tần số
kiểu gen của đa hình rs4680 với bệnh TTPL [75]. Tính dị hợp tử của đa hình
rs4680 (dưới các dạng G/A, GG/GA+AA) cho thấy có sự liên quan giữa rs4680
30
với bệnh TTPL. Phân tích để làm rõ vai trò của chủng tộc với mối liên quan
này, họ thấy có mối liên quan trên đối tượng người da trắng mà không tìm thấy
mối liên quan trên nhóm người Nhật châu Á. Điều này cho thấy sự phân bố
khác nhau của các alen ở đa hình rs4680 ở các quần thể khác nhau [73]. Costas
và cs. (2011) phân tích trên 51 nghiên cứu cho thấy vai trò bảo vệ của dị hợp
tử rs4680, và vai trò này mạnh hơn ở quần thể khu vực Tây Nam Âu [76].
Những khác biệt trong đánh giá vai trò của các đa hình gen COMT với mắc
TTPL có yếu tố chủng tộc cũng thấy ở những nghiên cứu khác [77], [78].
Đa hình rs4680 có liên quan với bệnh sinh TTPL, ảnh hưởng tới mức độ
tín hiệu dopamin quá thấp hay quá cao đều có thể là yếu tố nguy cơ của bệnh
[76], [79]. Đa hình rs4680 ở COMT tương tác với rs1344706 ở ZNF804A ảnh
hưởng thể tích chất xám ở vỏ não trán trước ở người khỏe mạnh [80], kiểu gen
Val/Val của đa hình rs4680 liên quan đến sự tăng các lỗi trong bài đánh giá về
màu sắc, chú ý và xử lý thông tin [81] và các đa hình của COMT liên quan tới
TTPL và điều biến hoạt động nhận thức ở cả người TTPL và bình thường [82].
1.4. Nghiên cứu hình thái não và gen trong tâm thần phân liệt ở Việt Nam
TTPL là một trong những nguyên nhân tàn phế hàng đầu, thường khởi
phát ở độ tuổi trẻ, để lại hậu quả nặng nề cho bệnh nhân, gia đình và xã hội.
Trên thế giới những nghiên cứu tìm hiểu thay đổi về hình thái não bộ và đặc
điểm gen trong TTPL đã được quan tâm ở nhiều góc độ. Tuy nhiên ở Việt Nam
bệnh TTPL được quan tâm nhiều về dịch tễ học và các đặc điểm lâm sàng.
Cũng đã có một số nghiên cứu bước đầu đánh giá đặc điểm hình thái não trong
TTPL, nhưng các nghiên cứu mới chỉ đề cập được ở một số vùng hạn chế [14],
[15], [16]. Những đánh giá bao quát và đi sâu về liên quan từng khu vực chức
năng đặc hiệu tới rối loạn chức năng cấp cao cũng như những nghiên cứu về
đặc điểm di truyền và đa hình gen, bao gồm DISC1 và COMT ở người Việt,
đều còn đang bỏ ngỏ. Thêm nữa, cả những nghiên cứu về đặc điểm hình thái
31
não và về gen trong bệnh TTPL trên thế giới vẫn cho những kết quả còn dị biệt.
Bởi vậy, hướng nghiên cứu về những vấn đề này trên người Việt Nam là mới
mẻ và cần thiết.
Nghiên cứu hình thái não không xâm lấn bằng sử dụng hình ảnh cộng
hưởng từ là động lực và mục tiêu trong nghiên cứu của chúng tôi. Trong giai
đoạn trước đây, một số nghiên cứu MRI trong nước với hệ thống công cụ phân
tích có nhiều bước thực hiện thủ công, đòi hỏi nhiều thời gian cho chuẩn bị và
phân tích [13], [14], [15]. Đặt mục tiêu cho nghiên cứu hình thái trên hình ảnh
MRI tối giản các bước tính thủ công và hướng tới phân tích số lượng lớn đối
tượng với tính thuần nhất và độ tin cậy cao, chúng tôi đã thiết lập hệ thống phân
tích với cấu hình bộ phận xử lý của máy tính mạnh và các thuật toán được lập
trình hướng mục tiêu nghiên cứu dựa trên phần mềm FreeSurfer. Đây là phần
mềm được xây dựng nhờ sự hợp tác của Viện công nghệ Massachusetts và Đại
học Y Havard, được nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới sử dụng và công bố
[83], [84]. Phần mềm gồm nhiều công cụ giúp xác định giải phẫu vỏ não và cấu
trúc dưới vỏ não dựa trên atlas. Ở vỏ não, các công cụ mô hình hóa ranh giới
giữa chất trắng và chất xám vỏ não cũng như những vùng lồi trên bề mặt. Khi
các bề mặt này đã được xác định, các cấu trúc giải phẫu có thể đo được, bao
gồm cả độ dày vỏ não, diện tích bề mặt, độ cong và bề mặt bình thường tại mỗi
điểm trên vỏ não [85], [86]. Độ chính xác của phương pháp xác định độ dày
dùng chương trình phần mềm này được so sánh với phương pháp mô học trên
in vivo cũng đã được kiểm chứng [86] và cho thấy đây là công cụ tốt để phân
tích dữ liệu lớn và khách quan.
32
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
225 người được đưa vào nghiên cứu, gồm 112 được chẩn đoán TTPL và
113 người không bị TTPL. 215 người được thu thập mẫu máu nghiên cứu gen và
80 người đủ tiêu chuẩn được chụp MRI. Các đối tượng cho các nội dung nghiên
cứu hình thái não và đa hình gen được mô tả cụ thể trong mục 2.1.1 và 2.1.2.
2.1.1. Nghiên cứu hình thái não bộ
Mục tiêu của nghiên cứu này là so sánh thể tích vùng não của hai nhóm
độc lập, nhóm TTPL và nhóm chứng. Chúng tôi sử dụng công thức tính cỡ mẫu
phục vụ kiểm định hai giá trị trung bình của hai nhóm nghiên cứu, như sau:
Trong đó: n1=n2=n: cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu cần có; S: độ lệch chuẩn
của nghiên cứu trước đó S=(S1+S2)/2; µ1 - µ2: khoảng sai lệch mong muốn giữa
hai tham số quần thể; α: mức ý nghĩa thống kê, lấy 0,01; β: mức sai lầm loại 2
cho phép; và Z (α, β): giá trị Z thu được từ bảng tương ứng α=0,05 và β=0,01.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi lấy chỉ số “thể tích hồi trán trên” là
vùng não thuộc vỏ não trán trước, được quan tâm làm giá trị đại diện để tính cỡ
mẫu. Dựa trên kết quả nghiên cứu của Venkatasubramanian và cs. (2008) [87],
các thông số có giá trị như sau: µ1 - µ2 = 24,18 – 21,96 = 2,22; S= (S1 + S2)/2 =
(2,44+2,65)/2 = 2,545; α = 0,05; β=0,01. Thay vào công thức trên cho kết quả
28 đối tượng là tối thiểu ở mỗi nhóm.
33
80 đối tượng cho nghiên cứu hình thái não bộ và được chia vào hai nhóm:
nhóm TTPL 39 bệnh nhân (được chẩn đoán TTPL thể paranoid theo tiêu chuẩn
DSM-IV, tại Khoa Tâm thần, Bệnh viện Quân y 103, thuận tay phải) và nhóm
chứng 41 người tình nguyện (được xác định không mắc bệnh TTPL hoặc các
bệnh tâm thần, thần kinh mãn tính, thuận tay phải). Các đối tượng được chụp
MRI sọ não theo quy trình (trong phần Phương pháp nghiên cứu). Dữ liệu hình
ảnh được lưu trong đĩa CD-ROM phục vụ phân tích hình thái não.
2.1.2. Nghiên cứu đa hình gen
215 đối tượng được phân tích gen để đánh giá đặc điểm đa hình gen
DISC1 và COMT ở bệnh nhân TTPL người Việt. Trong quá trình phân tích có
một số mẫu bị loại do tín hiệu phân tích không đạt yêu cầu để xác định kiểu
gen của các đa hình. Đối tượng phân tích gen gồm hai nhóm: nhóm TTPL 112
bệnh nhân (chẩn đoán TTPL theo tiêu chuẩn DSM-IV tại Khoa Tâm thần, Bệnh
viện Quân y 103) và nhóm chứng với 113 người tình nguyện (không có các
bệnh lý liên quan TTPL và bệnh lý thần kinh mạn tính khác, tại Bệnh viện Quân
y 103). Các đối tượng nghiên cứu gen được thu thập 2 ml máu tĩnh mạch chống
đông bằng EDTA và bảo quản ở -200C tới khi sử dụng.
2.1.3. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân nghiên cứu
2.1.3.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt
Các bệnh nhân TTPL được chẩn đoán theo tiêu chuẩn DSM-IV, tiêu
chuẩn cụ thể như sau [19]: Có đủ tiêu chuẩn của nhóm A, B, E.
Nhóm A. Có hai hoặc hơn trong số các triệu chứng sau, mỗi triệu chứng
phải biểu hiện rõ ràng trong thời gian một tháng (hoặc ít hơn nếu được điều trị tốt).
1. Hoang tưởng.
2. Ảo giác.
34
3. Ngôn ngữ thanh xuân.
4. Hành vi căng trương lực hoặc hành vi thanh xuân rõ.
5. Triệu chứng âm tính.
Ghi chú: chỉ cần một triệu chứng duy nhất trong tiêu chuẩn A nếu các
hoang tưởng là kỳ dị hoặc các ảo thanh là giọng nói bình phẩm về hành vi hoặc
suy nghĩ của bệnh nhân hoặc có hai hay nhiều hơn tiếng nói nói chuyện với nhau.
Nhóm B. Mất chức năng xã hội và nghề nghiệp trong một thời gian đủ
dài sau khi khởi phát bệnh, một hay nhiều lĩnh vực chính như việc làm, quan
hệ với mọi người hoặc tự chăm sóc bản thân giảm sút so với trước khi bị bệnh
Nhóm C. Độ dài các dấu hiệu tiếp theo của tổn thương bền vững ít nhất
6 tháng (hoặc ít hơn nếu điều trị thành công), các triệu chứng đáp ứng tiêu
chuẩn A (triệu chứng của pha hoạt động) và các triệu chứng của pha tiền triệu
hoặc di chứng. Trong giai đoạn tiền triệu hoặc di chứng này các dấu hiệu tổn
thương có thể chỉ là một triệu chứng âm tính hoặc hai hay nhiều hơn các triệu
chứng trong tiêu chuẩn A với hình thức nhẹ.
Nhóm D. Không phải là rối loạn phân liệt cảm xúc và rối loạn cảm xúc.
Rối loạn phân liệt cảm xúc và rối loạn cảm xúc đã được loại trừ, hoặc là không
có trầm cảm điển hình, hưng cảm hay pha trộn nào xuất hiện đồng thời với các
triệu chứng ở pha hoạt động, độ dài toàn bộ của chúng phải ngắn hơn khi so
sánh với độ dài của pha hoạt động và di chứng.
Nhóm E. Không phải là một rối loạn do thuốc hoặc bệnh tổn thương
thực thể. Rối loạn không phải là hậu quả trực tiếp của ma túy hoặc một bệnh
cơ thể.
Nhóm F. Liên quan với rối loạn chậm phát triển bền vững nếu tồn tại
một tiền sử tự kỷ hoặc rối loạn chậm phát triển bền vững khác, chẩn đoán TTPL
35
chỉ đặt ra khi hoang tưởng hoặc ảo giác rõ ràng được biểu hiện trong thời gian
ít nhất là một tháng (có thể ít hơn nếu được điều trị thành công) [1].
Hiện nay, DSM-V đã được đưa ra [20]. DMS-V không phân TTPL thành
các thể như DSM -IV và chẩn đoán TTPL không sự khác biệt lớn so với DSM-IV.
2.1.3.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán TTPL thể Paranoid theo DSM-IV
Đặc điểm chính của TTPL thể Paranoid là hiện diện của các hoang tưởng
bị hại và hoang tưởng tự cao. Các bệnh nhân TTPL Paranoid thường lớn tuổi hơn
các bệnh nhân thể căng trương lực và thể thanh xuân khi họ mắc bệnh (thường
mắc vào cuối những năm 20 hoặc 30 tuổi). Bệnh nhân TTPL thể Paranoid ít thuyên
giảm các triệu chứng về tâm thần, đáp ứng cảm xúc và hành vi so với các thể khác.
Chẩn đoán thể này phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau [1], [19]:
- Sự bận tâm, lo lắng với một hay nhiều hơn các hoang tưởng hoặc
thường xuyên có ảo giác thính giác.
- Những triệu chứng sau không được nổi bật: rối loạn ngôn ngữ, hành vi
căng trương lực, hoặc cảm xúc cùn mòn hay không thích hợp.
2.1.3.3. Tiêu chuẩn loại trừ
Loại trừ đối tượng nghiên cứu mắc các bệnh làm ảnh hưởng tới thể tích
não bộ như u não, Alzheimer…, các đối tượng phụ thuộc các chất kích thích
như rượu, bia, thuốc lá, thuốc gây nghiện khác và loại trừ các đối tượng không
hợp tác trong quá trình nghiên cứu.
2.1.3.4. Tiêu chuẩn chọn nhóm chứng
Chọn những người không mắc bệnh TTPL hoặc những rối loạn dạng tâm
thần khác (hiện tại và tiền sử), không có bất thường về hộp sọ, không có tiền sử
hoặc hiện tại không mắc các bệnh lý gây tổn thương thần kinh trung ương như
Alzheimer, u não, tai biến mạch máu não, và hợp tác trong quá trình nghiên cứu.
36
2.1.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Các đối tượng được đưa vào nghiên cứu theo các tiêu chuẩn lựa chọn các
nhóm và tiêu chuẩn loại trừ đã mô tả ở phần trên. Đối tượng bệnh được đăng
ký từ Khoa Tâm thần và chụp cộng hưởng từ được thực hiện tại Khoa Chẩn
đoán Hình ảnh, Bệnh viện Quân y 103. Các phân tích về gen và hình ảnh não
bộ được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu Y Dược học Quân sự và những
bộ môn liên quan, Học viện Quân y. Các nghiên cứu tiến hành trong giai đoạn
từ 2011 - 2017.
2.2. Thiết bị và vật liệu nghiên cứu
Thiết bị và vật liệu nghiên cứu gồm hai nhóm. Nhóm thiết bị phục vụ
nghiên cứu hình thái não và nhóm thiết bị phục vụ nghiên cứu đa hình gen.
2.2.1. Thiết bị nghiên cứu hình thái não
Nghiên cứu hình thái não sử dụng các hình ảnh chụp trên hệ thống máy
chụp cộng hưởng từ 1,5 Tesla (hãng Philips, Hà Lan) tại Khoa Chẩn đoán Hình
ảnh, Bệnh viện Quân y 103. Dữ liệu dạng tập hình được sao lưu trên các đĩa DVD
để xử lý phân tích sau. Phân tích dữ liệu hình ảnh cộng hưởng từ thực hiện trên hệ
thống gồm các máy tính có cấu hình bộ xử lý mạnh, các ổ cứng lưu trữ dung lượng
lớn và card đồ họa (GeForce 2Gb, Gigabyte), được cài đặt các gói phần mềm
chuyên dụng FreeSurfer (phiên bản 5.3; http://surfer.nmr.mgh.harvard.edu) và
Mango (phiên bản 4.0.1; http://www.uthscsa.edu/).
2.2.2. Vật liệu, hóa chất và thiết bị nghiên cứu gen
Các thiết bị, hoá chất cho phân tích gen đáp ứng cho hoạt động tách chiết,
khuếch đại gen, tinh sạch sản phẩm, điện di và cho giải trình tự gen.
2.2.2.1 Vật liệu và hóa chất nghiên cứu gen
Vật liệu và hoá chất nghiên cứu đa hình gen cụ thể ở các bước như sau:
37
Hoá chất cho tách chiết ADN: cồn tuyệt đối (Meck, Đức); bộ kit tách DNA
tổng QIAGEN Blood Mini kit (QIAGEN, Đức); nước tinh khiết (Invitrogen, Mỹ).
Hoá chất cho khuếch đại vùng gen quan tâm: Dream Tag polymerase và
dNTPs (Thermo Fisher Scientific, Mỹ); primer (mồi) (Bảng 2.1) (IDT, Mỹ);
nước tinh khiết dùng trong sinh học phân tử (Invitrogen, Mỹ).
Hóa chất dùng trong điện di và soi gel agarose: Agarose (Sigma Aldrich,
Mỹ); TBE 10X (Scharlab, Tây Ban Nha); loading dye và thang chuẩn DNA
(1kb) (Thermo Fisher Scientific, Mỹ); Ethidium Bromide (ICN Biomedicals,
Inc., Đức); giấy paraffin (Bemis, Mỹ).
Hoá chất tinh sạch sản phẩm PCR: DNA Clean & Concentrator™-5
(Zymo research, Mỹ); nước tinh khiết (Invitrogen, Mỹ).
Hoá chất cho giải trình tự gen: Bộ kit giải trình tự Bigdye Terminator
3.1 (Applied Biosystems, Mỹ); primer xuôi của các cặp primer khuếch đại các
đoạn trình tự tương ứng (IDT, Mỹ); nước tinh khiết (Invitrogen, Mỹ); cồn tuyệt
đối (Meck, Đức); EDTA (Sigma Aldrich, Mỹ); HIDI Formamide, Buffer 5X,
POP4 và mao quản 36 cm (Applied Biosystems, Mỹ).
Bảng 2.1. Cặp mồi xuôi-ngược sử dụng trong PCR cho rs821616 gen DISC1 và rs4680 gen COMT
Kích thước sản Tên mồi Trình tự 5'-3' phẩm (bp)
E11F TGACCAGCTGACTTTTAGCC 488
E11R AAGTTTATATGCTCAATGGGAAGC
COMT F GGGCCTACTGTGGCTACTCA 178
COMT R GGCCCTTTTTCCA GGTCTGACA
Để khuếch đại đoạn trình tự dài 488 bp chứa đa hình rs821616 của gen
DISC1 và đoạn trình tự 178 bp chứa đa hình rs4680 của gen COMT, chúng tôi
38
sử dụng hai cặp mồi xuôi-ngược được thiết kế theo báo cáo của Nakata và cs.
(2009) [69], như trên Bảng 2.1.
2.2.2.2 Thiết bị nghiên cứu gen
Sử dụng các tủ lạnh lưu trữ mẫu máu, DNA và các sản phẩm PCR ở các
điều kiện -80oC, -20oC, 4oC và bộ pipet 1 kênh, 8 kênh cùng các thiết bị chuyên
dụng cho các hoạt động tách chiết, điện di, tinh sạch và giải trình tự.
Thiết bị dùng trong tách chiết DNA: máy lắc mẫu máu - Titer plate shaker
(Barnstead/Lab-Line, Mỹ); máy ly tâm lạnh - Mikro 22R (Heltich, Đức); máy
lắc vortex – Rotamixer (IKA, Mỹ); máy ủ ổn nhiệt - Thermomixer comfort
(Eppendorf, Đức); máy đo mật độ quang - Nanodrop ND-1000 (ThermoFisher
Scientific, Mỹ); máy cô đặc mẫu DNA - SpeedVac concentration
(ThermoFisher Scientific, Mỹ).
Thiết bị dùng trong PCR: máy lắc nhỏ để trộn – MS3 digital (IKA, Mỹ);
máy ly tâm nhỏ quay lắng – E-centrifuge (Wealtec, Mỹ); máy PCR -
Vapoprotect (Eppendorf, Đức).
Thiết bị dùng trong điện di và soi gel: cân điện tử - TE612 (Sartorius,
Đức); lò vi sóng (Sharp, Nhật Bản); máy điện di (Scie-plas, Anh); máy chụp
ảnh gel - Chemidoc XRS (Bio-Rad, Mỹ).
Thiết bị cho tinh sạch sản phẩm PCR: máy ly tâm Eppendorf 5810R
(Eppendorf, Đức); hệ thống máy giải trình tự 3130 XL và máy PCR ABI 9700
(Applied Biosystems, Mỹ).
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu kiểu cắt ngang có phân tích, với các nội dung về
phân tích hình ảnh MRI đánh giá hình thái não và nghiên cứu các đa hình gen
39
được sơ đồ hóa trên Hình 2.1. Chi tiết về phương pháp kỹ thuật trong các nội
dung nghiên cứu được mô tả trong các mục tiếp theo.
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu hình thái não
2.3.1.1. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ não
Nguyên lý hoạt động của MRI: MRI sử dụng một từ trường mạnh và một
hệ thống phát các xung có tần số vô tuyến để điều khiển hoạt động điện từ của
nhân nguyên tử, là nhân nguyên tử hydro có trong phân tử nước của cơ thể,
nhằm bức xạ năng lượng dưới dạng các tín hiệu có tần số vô tuyến. Các tín hiệu
này sẽ được một hệ thống thu nhận và xử lý điện toán để tạo ra hình ảnh của
đối tượng.
Hình 2.1. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu đặc điểm hình thái não bộ và đa hình
gen trong bệnh TTPL. (Số lượng đối tượng cho từng nghiên cứu để trong ngoặc)
40
Thu nhận hình ảnh: hình ảnh chụp cộng hưởng từ được thu nhận bằng
hệ thống máy MRI 1,5 Tesla (Philips, Anh). Chuỗi xung 3D, T1-weighted với
các thông số cụ thể như sau: lát cắt 1 mm theo thiết diện đứng dọc (sagittal),
thời gian lặp (repetition time, TR) 15 ms, thời gian âm dội (time to echo, TE)
5ms, góc quay lưới từ trường (Flip angle) 30o, trường thị cảm (FOV) là 256 và
kích thước ảnh là 256 x 256 điểm ảnh. Hình ảnh sẽ bị loại bỏ khi tín hiệu nhiễu
do rung hoặc phát hiện có tổn thương đại thể bởi bác sĩ chuyên khoa chẩn đoán
hình ảnh. Dữ liệu hình ảnh của từng bệnh nhân được lưu trong đĩa CD-ROM
để phục vụ phân tích.
2.3.1.2. Phân tích hình ảnh cộng hưởng từ não
Hình 2.2. Hình ảnh MRI sọ não theo ba chiều trên phần mềm Mango.
Tất cả dữ liệu hình ảnh sau khi được thu thập được chuyển đổi sang dạng
tệp nén (định dạng file.nii.gz) bằng phần mềm Mango v.4.0.1. Dữ liệu của mỗi
bệnh nhân được mã hóa thành ký hiệu, từ subj001 đến hết. Các dữ liệu hình
ảnh không đạt yêu cầu vì không lấy được hết tổ chức vùng đầu và vùng cổ (tối
thiểu hết đốt sống cổ 2), bị nhiễu hay phát hiện tổn thương não về mặt đại thể
41
sẽ bị loại khỏi mẫu nghiên cứu. Hình ảnh MRI sọ não theo ba chiều dựng trên
phần mềm Mango đạt yêu cầu cho phân tích tiếp được minh họa trên Hình 2.2.
Các tệp dữ liệu sau khi được chuyển đổi về dạng nén được mã hoá tiếp dưới
dạng Subjxx.nii.gz để phân tích với gói phần mềm FreeSurfer 5.3 [88], [89], [90],
[91]. Sau khi dữ liệu được nạp vào phần mềm, toàn bộ quá trình phân tích được
xử lý bởi gói câu lệnh, qua các bước [92], [93], [94], [95], [96] (Hình 2.3).
Dữ liệu hình ảnh, nhật ký toàn bộ quá trình phân tích, dữ liệu về các chỉ số
đều được lưu trữ trong thư mục riêng. Thông tin trong các file.txt chứa kết quả
phân tích về thể tích cấu trúc não dưới vỏ và thể tích chất xám, chất trắng, não
chung và thể tích nội sọ và trong các file.aparc.stats.txt chứa kết quả phân tích của
hai bán cầu đại não gồm thể tích chất xám, chất trắng, độ dày chất xám vỏ não của
các hồi, các vùng chức năng của não. Các chỉ số thể tích của nhân xám dưới vỏ
được để đơn vị là mm3. Các chỉ số thể tích các vùng khác được quy đổi thành cm3
bằng cách lấy giá trị tính toán bởi phần mềm (mm3) chia cho 1000.
2.3.1.3. Chỉ tiêu nghiên cứu hình thái não
Các thể tích chung: thể tích nội sọ (ICV), thể tích não chung, thể tích não
không bao gồm não thất, thể tích bán cầu đại não chung, thể tích bán cầu đại
não trái, phải; thể tích các não thất bên, ba và bốn; thể tích dịch não tủy; thể
tích thân não; thể tích tiểu não; chất xám bán cầu vỏ não (phải, trái); chất trắng
vỏ não (phải, trái); chất xám dưới vỏ; chất xám toàn bộ vỏ não. (Xem thêm các
Hình PL1.1–1.6 ở phụ lục 1)
42
Bước 1: Nhập dữ liệu Bước 3: Xác định các tổ Bước 2: Hiệu chỉnh
T1. chức não. chuyển động, hiệu chỉnh
trục AC-PC và loại bỏ tổ
chức không phải chất não.
Bước 4: Chuẩn hóa Bước 5: Xác định vùng Bước 6: Xác định vùng vỏ
cường độ tín hiệu hình chất trắng. não theo Atlas tham chiếu.
ảnh.
Bước 7: Xác định thể Bước 8: Ký hiệu các vùng Bước 9: Xác định các chỉ
tích bề mặt. vỏ não và tính toán thể số về thể tích, độ dày… của
tích các vùng. các vùng não quan tâm.
Hình 2.3. Các bước xử lý dữ liệu trên phần mềm FreeSurfer.
43
Đặc điểm hình thái các vùng: thể tích chất xám, chất trắng và độ dày chất
xám vỏ não của các vùng, các thùy và hồi ở bán cầu đại não (vị trí các thùy và
hồi ở mặt ngoài và mặt trong bán cầu được đối chiếu với Atlas và tham khảo,
như trên các Hình 2.4A và B):
- Thùy trán: các hồi trán trên, giữa, dưới, hồi trước trung tâm, tiểu thùy
cạnh trung tâm, hồi ổ mắt, cực trán; vỏ não trán trước gồm hồi trán trên, giữa,
dưới, hồi ổ mắt, cực trán.
- Thùy thái dương: hồi thái dương trên, giữa, dưới; hồi thái dương ngang;
hồi cạnh hải mã; vỏ não nội khứu; cực thái dương và hồi thoi.
- Hồi đai: với các phần mỏ, đuôi trước, eo và phần sau.
- Thùy đảo.
- Thể chai: gồm phần mỏ và gối thể chai (I); phần trước (II), phần giữa
(III), phần sau của thân thể chai (IV) và phần lồi thể chai (V).
A C B
Hình 2.4. Vị trí các hồi và phần của hồi ở mặt ngoài (A), mặt trong
(B) bán cầu đại não và vị trí một số nhân xám dưới vỏ (C).
*Nguồn: theo Bjornebekk và cs. (2010) [97]
44
Thể tích các nhân xám: đồi thị (phải, trái); hạnh nhân (phải, trái); nhân
bèo sẫm (phải, trái); nhân bụng vân; hải mã; nhân cầu nhạt, nhân đuôi. (Tham
khảo vị trí các nhân dưới vỏ trên Hình 2.4C).
Các cấu trúc tương ứng với số trên Hình 2.4A: hồi trán trên (1); các
phần của hồi trán giữa (2, 3); các phần của hồi trán dưới (4, 5, 6); phần trong
hồi ổ mắt (9); hồi thái dương trên (11); hồi thái dương giữa (13); hồi thái
dương dưới (14); cực thái dương (15).
Trên Hình 2.4B: các phần của hồi đai: phần mỏ (8), phần đuôi trước
(7), phần eo (22) và phần sau (23); hồi trán trên (1); hồi ổ mắt (9); cực thái
dương (10).
Trên Hình 2.4C: nhân đuôi (1), nhân bèo (2) và hải mã (3)
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu đa hình gen
2.3.2.1. Tách chiết DNA
Mẫu máu được lấy từ bệnh viện về được chuyển vào các ống lưu trữ và
được bảo quản ở tủ lạnh -20oC. Chuẩn bị tách chiết DNA, mẫu máu được lấy
ra rã đông ở nhiệt độ phòng. DNA của bệnh nhân được tách bằng bộ kit
QIAGEN Blood Mini kit của hãng QIAgen. Quy trình tách chiết DNA thực
hiện theo hướng dẫn của nhà sản xuất được tóm tắt như sau: cho 20 µl QIAGEN
Protease K vào ống Ependoft 1,5 ml sạch; thêm 200 µl mẫu máu; thêm 200 µl
Buffer AL, lắc trong 15 giây; ủ ở 56oC, lắc 560 vòng/phút, trong 10 phút; ly
tâm ngắn để cho mẫu trên nắp rơi xuống dưới; thêm 200 µl cồn tuyệt đối, lắc
15 giây. Sau lắc, ly tâm ngắn để mẫu dính trên nắp rơi xuống; Cẩn thận chuyển
hỗn hợp trên vào cột lọc (đặt trong một ống 2 ml), không làm ướt thành cột lọc.
Đóng nắp và ly tâm 8000 vòng/phút trong 1 phút. Chuyển cột lọc sang 1 ống 2
ml sạch; cẩn thận mở cột lọc và thêm 500 µl Buffer AW1; đóng nắp; ly tâm
8000 vòng/phút trong 1 phút. Đặt cột lọc vào 1 ống mới; bỏ ống thải trước đi
45
cùng với dịch lọc; cẩn thận mở nắp cột lọc và thêm 500 µl Buffer AW2. Đóng
nắp và ly tâm ở tốc độ cao nhất 14000 vòng/phút trong 3 phút; chuyển cột lọc
vào ống 1,5 ml. Cẩn thận mở nắp cột lọc, thêm vào 200 µl Buffer AE. Ủ ở nhiệt
độ phòng trong 1 phút và ly tâm ở tốc độ 8000 vòng/phút trong 1 phút. Dịch
lọc thu được trong ống 1,5 ml chứa DNA, xác định nồng độ và lưu trữ ở -20oC
để sử dụng cho các ứng dụng tiếp theo.
2.3.2.2. Nhân gen PCR
Vùng trình tự chứa đa hình rs821616 của gen DISC1 và vùng trình tự
chứa đa hình rs4680 của gen COMT được khuếch đại bởi phản ứng PCR, sử
dụng thành phần phản ứng và chu trình nhiệt cụ thể như trên Bảng 2.2.
Bắt đầu
Tách mạch Gắn mồi Kéo dài Kết thúc Bảo quản
95
95
58
72
72
11
Nhiệt độ (độ C)
Thời gian
15 phút
45 giây
45 giây
45 giây
5 phút
+∞
Số chu kỳ
1
32
1
1
Bảng 2.2. Chu trình nhiệt PCR cho khuếch đại đoạn gen DISC1 và COMT
DNA được dùng làm khuôn cho phản ứng PCR. Thành phần chính trong
phản ứng PCR với thể tích 50 µl gồm: 5 µl Dream Taq Buffer (10X), 2 ul primer
(mỗi loại); 0,2 ul Dream Taq polymerase; 0,4 ul dNTPs (0,2 mM); 100-150 ng
DNA template; nước tinh khiết vừa đủ.
2.3.2.3. Kỹ thuật điện di trên gel agarose
Sử dụng gel agarose 2% trong môi trường đệm TBE 0,5X với thời gian
60 phút ở điện thế 100V, nhuộm Ethidium Bromide trong 10 phút, theo quy trình:
- Đổ gel agarose 2%: hòa tan 2 g agarose trong 100 ml TBE 0,5X, đun
sôi cho agarose hòa tan hoàn toàn. Để nguội xuống khoảng 40oC đến 50oC, đổ
vào khay gel điện di có cài sẵn các răng lược thích hợp. Sau khoảng 30 phút
46
trong nhiệt độ phòng, khi gel đã đông cứng, đặt vào bể điện di, đổ đệm TBE
0,5X ngập cách mặt gel từ 1–2 mm, gỡ lược ra.
- Tra mẫu: mỗi giếng tra 10 μl sản phẩm PCR (đã pha với Loading dye
trên giấy parafin theo tỷ lệ 1 dye: 5 mẫu).
- Chạy điện di: tiến hành điện di với dòng điện một chiều có hiệu điện
thế là 110 V trong thời gian khoảng 30 phút.
- Chụp gel: bản gel được lấy ra khỏi khay và ngâm trong dung dịch
Ethidium Bromide 10 μg/mL trong khoảng 10 phút, rửa sạch bản gel bằng nước
cất. Chụp gel bằng máy soi gel Bio–Rad.
- Đánh giá kết quả dựa trên thang DNA chuẩn.
2.3.2.4. Kỹ thuật giải trình tự gen
- Tinh sạch sản phẩm PCR: sản phẩm PCR được tinh sạch bằng bộ kit
tinh sạch của hãng Zymo research, phục vụ cho phản ứng giải trình tự. Các
bước tiến hành được tóm tắt như sau: bổ sung dung dịch DNA Binding Buffer
vào tube 1,5 ml chứa dung dịch DNA theo tỷ lệ Buffer : DNA = 5/1, sau đó
trộn đều nhẹ bằng máy vortex; chuyển hỗn hợp lên cột lọc Zymo-Spin™
Column đựng trong một chiếc ống thải; ly tâm 30 giây ở vận tốc 12000
vòng/phút. Loại bỏ dung dịch bên trong ống thải; bổ sung 200 µl DNA Wash
Buffer lên trên cột lọc. Ly tâm 30 giây ở vận tốc 12000 vòng/phút. Lặp lại bước
rửa cột này thêm 1 lần; bổ sung ≥ 25 µl DNA Elution Buffer hoặc nước tinh
sạch lên trên lõi cột lọc và ủ ở nhiệt độ phòng trong 1 phút. Chuyển cột lọc vào
1 ống 1,5 ml và ly tâm 30 giây ở 12000 vòng/phút; Dịch thu được chứa DNA
tinh sạch, bảo quản ở -20o C tới khi sử dụng.
- Thực hiện phản ứng chạy Bigdye: để giải trình tự, phải tiến hành tạo ra
các đoạn DNA có kích thước hơn kém nhau 1 nucleotit, có gắn màu huỳnh
47
quang ở nucleotit cuối cùng được mã hoá đặc hiệu màu cho từng nucleotit bằng
bộ kit Bigdye Terminator 3.1 của hãng ABI (Mỹ).
Thành phần cho phản ứng Bigdye gồm: nước tinh sạch 12 µl, Ready
Reaction Premix (0,5 X) 4 µl, Bigdye Sequencing Buffer (0,5 X) 2 µl, mồi
xuôi (3,2 pmol) 1 µls, sản phẩm PCR (5–20 ng) 1 µl, tổng thể tích phản ứng là
20 µl. Thực hiện theo chu trình nhiệt BigDye (Bảng 2.3).
Bắt đầu
Tách mạch
Gắn mồi
Kéo dài
Bảo quản
Nhiệt độ
95
95
60
60
4
(độ C)
Thời gian
5 phút
30 giây
10 giây
4 phút
+∞
Số chu kỳ
1
50
1
Bảng 2.3. Chu trình nhiệt BigDye
- Tinh sạch sau chạy phản ứng Bigdye: tinh sạch sau chạy Bigdye bằng
cồn/EDTA nhằm loại bỏ toàn bộ các dNTP, primer, muối dư thừa của phản ứng
chạy Bigdey để có được các đoạn trình tự đã được gắn huỳnh quang đưa vào
điện di để xác định trình tự. Các bước tinh sạch được tiến hành theo quy trình
của hãng ABI, tóm tắt như sau: lấy đĩa 96 giếng ra khỏi máy và quay; bổ sung
5 µl dung dịch EDTA 125 mM vào mỗi giếng với đảm bảo là EDTA chạm tới
đáy giếng; bổ sung 60 µl ethanol 100% vào mỗi giếng; bọc đĩa lại bằng giấy
nhôm và lật ngược 4 lần; ủ ở nhiệt độ phòng 15 phút; ly tâm ở tốc độ 5000
vòng/phút trong 30 phút hoặc 4000 vòng/phút trong 45 phút; lật ngược đĩa, rồi
quay giảm ở tốc độ 1000 vòng/phút; bổ sung 60 µl ethanol 70% vào mỗi giếng;
ly tâm 4oC ở tốc độ 4000 vòng/phút trong 15 phút; lật ngược đĩa và quay ở tốc
độ 1000 vòng/phút trong 1 phút; để mở nắp ở nhiệt độ phòng trong 60 phút để
cồn và nước bốc hơi hết.
- Giải trình tự trên hệ thống ABI 3130 XL: sau khi tinh sạch, bổ sung 10
µl Hi-Di Formamide vào mỗi giếng; tiến hành biến tính ở 95oC trong 5 phút,
48
sau đó là 4oC; nạp đĩa vào máy giải trình tự động ABI 3130XL, sử dụng mao
quản 36 cm và POP4.
- Phân tích trình tự thu được: bằng phần mềm Seqscape 2.6 và Bioedit.
- Sàng lọc dữ liệu giải trình tự: loại bỏ các mẫu tín hiệu không đạt yêu cầu.
- Xác định kiểu gen của đa hình rs821616 và rs4680.
2.3.3. Xử lý số liệu
Kết quả nghiên cứu sau khi phân tích được lưu trữ dưới dạng tệp Excel.
Các số liệu được tính toán về giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, sử dụng thuật
toán phù hợp tính toán so sánh thống kê giữa các chỉ số thu được ở hai nhóm
bệnh nhân TTPL và nhóm chứng bằng sử dụng phần mềm STATA 12.0.
Các biến liên tục được kiểm định đặc điểm phân phối chuẩn; các chỉ số
tuân theo phân bố chuẩn sẽ được kiểm định sự khác biệt bằng kiểm định t-
student giữa 2 nhóm độc lập; các biến liên tục không tuân theo phân bố chuẩn
được kiểm định phi tham số Mann-Whitney với α = 0,05. Các biến phân loại
được đánh giá bằng kiểm định χ2 hoặc Fisher’s exact. Mức xác định sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê trong các kiểm định là 0,05.
Từ góc độ ảnh hưởng có thể của tuổi, giới và thể tích nội sọ với các chỉ
số hình thái-thể tích não [21], [87], trong nghiên cứu này phân tích hiệp phương
sai (Analysis of covariance, ANCOVA) được sử dụng để khảo sát sự ảnh hưởng
của TTPL đối với các chỉ số hình thái não trong nhóm TTPL và nhóm chứng
và kiểm soát được các yếu tố khả thể nêu trên. Kết quả xác định đặc điểm hình
thái não được khảo sát bằng mô hình hồi quy, có hiệu chỉnh các yếu tố tuổi,
giới và thể tích nội sọ. Trong đó, chỉ số về hình thái não là biến phụ thuộc,
nhóm nghiên cứu là biến độc lập; tuổi, giới và thể tích nội sọ là các hiệp biến.
Quan sát ảnh hưởng của các hiệp biến với các chỉ số hình thái não thể hiện trên
các bảng trong phần Kết quả với chỉ số F cùng giá trị p thể hiện mức ý nghĩa
49
của sự khác biệt giữa nhóm TTPL và nhóm chứng sau khi đã hiệu chỉnh tính
tới các hiệp biến ở các đối tượng nghiên cứu.
Kiểm định Hardy-Weinberg đối với sự phân bố kiểu gen của các đa hình
được thực hiện cho cả đa hình rs821616 và rs4680.
2.4. Đạo đức trong nghiên cứu
Tất cả các đối tượng nghiên cứu và người giám hộ đều được giải thích
cụ thể, rõ ràng về mục đích, nội dung nghiên cứu để tự nguyện tham gia và hợp
tác tốt trong quá trình nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu có quyền từ chối tham
gia nghiên cứu bất kỳ thời điểm nào trong quá trình nghiên cứu.
Các thông tin thu thập được đảm bảo giữ bí mật và chỉ phục vụ cho mục
đích nghiên cứu này. Các đối tượng nghiên cứu đều được giải thích chu đáo
trước khi thực hiện các kỹ thuật không và ít xâm lấn là chụp MRI và lấy 2 ml
máu tĩnh mạch trong nghiên cứu gen.
50
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm tuổi và giới của đối tượng nghiên cứu hình thái não và nghiên
cứu đa hình gen được trình bày trên các Bảng 3.1 và 3.2.
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu hình thái não
Đối tượng nghiên cứu hình thái não gồm 80 đối tượng, trong đó nhóm
bệnh có 39 người mắc TTPL và 41 tình nguyện không mắc ở nhóm chứng. Đặc
điểm tuổi và giới của hai nhóm này được trình bày trên Bảng 3.1.
Bảng 3.1. Tuổi và giới của hai nhóm nghiên cứu hình thái não
Giới (n, %) Nhóm nghiên cứu Tuổi (năm) (X ± SD) Nam Nữ
TTPL (n = 39) 26 (54,17) 13 (40,63) 32,74 ± 10,13
Chứng (n = 41) 22 (45,83) 19 (59,38) 34,54 ± 11,64
p = 0,46 χ2 = 1,41; p = 0,23
Kết quả trên Bảng 3.1 cho thấy ở các đối tượng nghiên cứu hình thái não
không có sự khác biệt về tuổi giữa hai nhóm (p = 0,46). Tỷ lệ nam giới ở nhóm
TTPL nghiên cứu hình thái não là 54,17% và ở nhóm chứng là 45,83, tỷ lệ nữ
giới ở nhóm TTPL nghiên cứu hình thái não là 40,63% và ở nhóm chứng là
59,38%, không có sự khác biệt (p = 0,23). Như vậy, nhóm chứng và nhóm
TTPL nghiên cứu hình thái não không có sự khác biệt cả về tuổi và giới.
3.1.2. Đối tượng nghiên cứu đa hình gen
Đặc điểm tuổi và giới tính của các đối tượng nghiên cứu đa hình gen gồm
đa hình rs821616 trên gen DISC1 và đa hình rs4680 trên gen COMT được trình
bày trên Bảng 3.2.
51
Bảng 3.2. Tuổi và giới của hai nhóm nghiên cứu đa hình gen
Giới (n, %) Tuổi (năm) Nhóm nghiên cứu (X ± SD) Nam Nữ
TTPL (n = 100) 34,58 ± 11,64 61 (61,00) 39 (39,00)
Chứng (n = 101) 32,91 ± 6,44 63 (62,38) 38 (37,62)
p = 0,21 χ2 = 0,04; p = 0,84
Kết quả trên Bảng 3.2 cho thấy ở các đối tượng nghiên cứu đa hình gen,
tuổi trung bình của nhóm TTPL là 32,74 tuổi, của nhóm chứng là 34,54, không
có sự khác biệt giữa hai nhóm (p = 0,21). Tỷ lệ nam giới ở nhóm TTPL là
61,00% và ở nhóm chứng là 63,00%, tỷ lệ nữ giới ở nhóm TTPL là 39,00% và
ở nhóm chứng là 37,62%, không có sự khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu (p
= 0,84). Như vậy cũng không có sự khác biệt về tuổi và giới giữa hai nhóm cho
nghiên cứu gen.
3.2. Đặc điểm hình thái não ở các đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm hình thái não ở đối tượng nghiên cứu được đánh giá trên các
chỉ tiêu gồm thể tích toàn bộ, thể tích chất trắng, độ dầy chất xám vỏ não của
các hồi não và các thùy.
3.2.1. Thể tích các cấu trúc não chung
Kết quả về đặc điểm hình thái não chung của các nhóm nghiên cứu được
trình bày trên các Bảng 3.3–3.5.
Kết quả ở Bảng 3.3 cho thấy có sự giảm thể tích não chung (NC) không
gồm não thất, tỷ lệ thể tích não chung gồm não thất/thể tích nội sọ (ICV), thể
tích não chung không gồm não thất, thể tích thân não ở nhóm TTPL so với ở
nhóm chứng. Nhưng không có sự khác biệt về thể tích tiểu não hai bên, thể tích
tiểu não phải, thể tích tiểu não trái, thể tích dịch não tủy và thể tích nội sọ giữa
hai nhóm.
52
Bảng 3.3. Thể tích các cấu trúc não chung ở hai nhóm nghiên cứu
p Thể tích cấu trúc não (cm3) TTPL (n = 39) (X ± SD) Chứng (n = 41) (X ± SD)
Não chung gồm não thất 0,028 1153,40 ± 111,56 1208,51 ± 108,51
NC gồm não thất /ICV 0,037 0,78 ± 0,06 0,80 ± 0,03
NC không gồm não thất 0,015 1131,59 ± 108,04 1191,95 ± 109,59
Thân não 0,013 2,21 ± 2,23 2,33 ± 2,58
Tiểu não 0,240 108,66 ± 12,90 111,73 ± 10,25
Tiểu não trái 0,290 53,41 ± 5,95 54,72 ± 4,99
Tiểu não phải 0,210 55,25 ± 7,07 57,01 ± 5,41
Não thất bên 0,012 14,67 ± 5,97 11,07 ± 6,62
Não thất bên (trái) 0,005 8,03 ± 3,26 5,88 ± 3,46
Não thất bên (phải) 0,036 6,64 ± 2,80 5,19 ± 3,26
Não thất ba 0,000 1,12 ± 0,34 0,80 ± 0,34
Não thất bốn 0,170 1,66 ± 0,46 1,52 ± 0,49
0,230 Dịch não tủy (CSF) 1,09 ± 0,26 1,123 ± 0,29
ICV 0,370 1491,53 ± 154,82 1520,36 ± 131,14
Cũng trên Bảng 3.3 cho thấy có sự tăng thể tích não thất bên bán cầu
phải và trái, cả hai bên và não thất ba ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p =
0,05); nhưng không có sự khác biệt về thể tích não thất bốn giữa hai nhóm
nghiên cứu.
Thể tích não chịu ảnh hưởng của tuổi, giới và thể tích nội sọ. Phân tích
ANCOVA nhằm loại bỏ sự ảnh hưởng của yếu tố giới tính, tuổi và thể tích nội
sọ đối với các chỉ số hình thái não để thấy được sự tác động của yếu tố bệnh
TTPL đối với não bộ. Sự ảnh hưởng của tuổi, giới tính và thể tích nội sọ được
đánh giá và thể hiện trên các bảng tiếp theo là chỉ số F, còn giá trị p thể hiện
mức ý nghĩa của sự khác biệt của nhóm TTPL và nhóm chứng sau khi đã hiệu
53
chỉnh sự khác biệt về tuổi, giới tính và thể tích nội sọ giữa hai nhóm nghiên
cứu, bằng sử dụng kiểm định ANCOVA.
Bảng 3.4. Thể tích não chung của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi,
giới và thể tích nội sọ
p F(4, 75) Thể tích cấu trúc não (cm3) TTPL (n = 39) (X ± SD) Chứng (n = 41) (X ± SD)
Não chung gồm não thất 1153,40 ± 111,56 1208,51 ± 108,51 51,0 0,002
NC không gồm não thất 1131,59 ± 108,04 1191,95 ± 109,59 50,2 0,001
Thân não 15,2 0,020 2,21 ± 2,23 2,33 ± 2,58
Tiểu não 10,2 0,155 108,66 ± 12,90 111,73 ± 10,25
Tiểu não trái 9,3 0,194 53,41 ± 5,95 54,72 ± 4,99
Tiểu não phải 10,5 0,137 55,25 ± 7,07 57,01 ± 5,41
Não thất bên 3,8 0,005 14,67 ± 5,97 11,07 ± 6,62
Não thất bên (trái) 4,37 0,013 8,03 ± 3,26 5,88 ± 3,46
Não thất bên (phải) 3,1 0,013 6,64 ± 2,80 5,19 ± 3,26
Não thất ba 8,8 0,000 1,12 ± 0,34 0,80 ± 0,34
Não thất bốn 2,61 0,125 1,66 ± 0,46 1,52 ± 0,49
Dịch não tủy (CSF) 11,9 0,033 1,123 ± 0,29 1,09 ± 0,26
Kết quả trên Bảng 3.4 cho thấy các chỉ số thể tích não thất, não chung
không gồm não thất, thân não, não thất bên, não thất ba ở nhóm TTPL giảm rõ
so với ở nhóm chứng, với p đều < 0,05. Thể tích tiểu não, tiểu não trái, tiểu não
phải và não thất bốn không có sự khác biệt giữa hai nhóm, với p đều > 0,05. Có
sự giảm thể tích não thất ba và tăng thể tích dịch não tủy ở nhóm TTPL so với
ở nhóm chứng (p < 0,05).
54
Bảng 3.5 thể hiện thể tích khối chất xám và trắng cả ở vỏ não và dưới vỏ
ở hai nhóm nghiên cứu có hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ.
Bảng 3.5. Thể tích khối chất trắng, chất xám não bộ của hai nhóm nghiên cứu sau
hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
p F(4, 75) Thể tích cấu trúc não (cm3) TTPL (n = 39) (X ± SD) Chứng (n = 41) (X ± SD)
28,5 0,113 Tổng chất xám vỏ não 438,70 ± 49,83 454,94 ± 52,70
Chất xám vỏ não trái 27,6 0,114 218,61 ± 25,00 226,77 ± 26,21
Chất xám vỏ não phải 29,1 0,115 220,09 ± 24,89 228,17 ± 26,55
38,4 0,000 Tổng chất trắng vỏ não 498,03 ± 57,05 537,52 ± 51,69
Chất trắng vỏ não trái 37,1 0,000 248,33 ± 28,63 266,67 ± 26,21
39,2 0,000 Chất trắng vỏ não phải 249,71 ± 28,49 270,85 ± 28,90
Chất xám dưới vỏ 23,2 0,709 58,75 ± 5,30 59,42 ± 5,52
Chất xám toàn bộ não 32,17 0,083 606,16 ± 62,21 626,34 ± 63,50
Kết quả trên Bảng 3.5 cho thấy thể tích khối chất trắng vỏ não bên trái,
bên phải và hai bên giảm ở bệnh nhân TTPL so với ở nhóm chứng (p < 0,001).
Song thể tích chất xám toàn bộ não, thể tích chất xám vỏ não bên phải và bên
trái, và thể tích chất xám dưới vỏ không có sự khác biệt giữa hai nhóm nghiên
cứu (p > 0,05).
3.2.2. Thể tích và độ dày chất xám vỏ não thùy trán
Kết quả đánh giá thể tích não và độ dày chất xám vỏ não các hồi của thuỳ
trán được trình bày trên các Bảng 3.6–3.13. Phân tích kết quả thể tích và độ dày
chất xám vỏ não của hồi trán trên được hiệu chỉnh theo tuổi và giới được trình
bày trên Bảng 3.6.
Kết quả trên bảng này cho thấy có sự giảm thể tích hồi trán trên bên trái,
phải, thể tích chất trắng bên trái và giảm độ dày chất xám vỏ não của hồi trán
trên hai bên ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p < 0,05), nhưng không khác
55
biệt về thể tích chất trắng bên phải của hồi trán trên giữa hai nhóm nghiên cứu
(p = 0,063).
Bảng 3.6. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não của hồi trán trên của
hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Chứng (n = 41) TTPL (n = 39) Hồi trán trên p F(4, 75) (X ± SD) (X ± SD)
21,91 ± 2,75 23,55 ± 2,85 17,46 0,003 Bên trái
19,6 ± 2,21 20,98 ± 2,15 22,72 0,001 Chất trắng bên trái
Thể tích (cm3) 21 ± 2,46 22,36 ± 3,12 15,82 0,017 Bên phải
19,1 ± 2,35 20,02 ± 2,24 17,06 0,063 Chất trắng bên phải
2,66 ± 0,17 2,79 ± 0,14 8,64 0,000 Bên trái
Bên phải 2,65 ± 0,15 2,79 ± 0,16 10,01 0,000 Độ dày chất xám vỏ não (mm)
Kết quả về thể tích, độ dày chất xám vỏ não của hai phần hồi trán giữa
(được chia thành phần trước và sau) được trình bày trên Bảng 3.7.
Bảng 3.7. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi trán giữa của hai
Hồi trán giữa
p
F(4, 75)
TTPL (n = 39) (X ± SD)
Chứng (n = 41) (X ± SD)
29,69 ± 4,7
31,37 ± 4,15
23,5 0,035
Phần trước
5,31 ± 0,30
5,58 ± 0,29
10,3 0,000
Chất trắng phần trước
Thể tích (cm3)
12,05 ± 2,28
12,5 ± 2,34
14,3 0,484
Phần sau
4,83 ± 0,30
4,96 ± 0,25
8,39 0,033
Chất trắng phần sau
5,8
2,15 ± 0,15
2,25 ± 0,14
0,003
Phần trước bên trái
2,13 ± 0,16
2,27 ± 0,13
12,7 0,000
Phần trước bên phải
2,42 ± 0,16
2,50 ± 0,14
5,94 0,084
Phần sau bên trái
Độ dày chất xám vỏ não (mm)
2,41 ± 0,16
2,47 ± 0,14
7,28 0,045
Phần sau bên phải
nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
56
Kết quả trên Bảng 3.7 cho thấy ở nhóm TTPL có giảm thể tích não phần
trước, chất trắng phần trước và phần sau của hồi trán giữa, giảm độ dày chất
xám vỏ não ở phần trước cả hai bên và phần sau bên phải so với ở nhóm chứng
(p < 0,05). Tuy nhiên, thể tích phần sau của hồi trán giữa và độ dày chất xám
vỏ não phần sau bên trái không có sự khác biệt giữa hai nhóm (p > 0,05).
Kết quả về thể tích và độ dày chất xám vỏ não của ba phần của hồi trán
dưới (phần nắp, phần ổ mắt và phần tam giác) được trình bày trên Bảng 3.8.
Bảng 3.8. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi trán dưới của hai
nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
TTPL (n = 39) Chứng (n = 41) Hồi trán dưới p (X ± SD) (X ± SD) F(4, 75)
8,63 ± 1,56 9,31 ± 1,82 10,8 0,196 Phần nắp
7,56 ± 1,37 8,17 ± 1,68 14,32 0,241 Chất trắng phần nắp
4,30 ± 0,82 4,47 ± 0,59 12,47 0,143 Phần ổ mắt
2,39 ± 0,35 18,47 0,011 Chất trắng phần ổ mắt 2,22 ± 0,46 Thể tích (cm3) 7,46 ± 1,13 7,88 ± 1,38 9,86 0,129 Phần tam giác
6,74 ± 1,07 7,27 ± 1,05 8,91 0,029 Chất trắng phần tam giác
2,44 ± 0,16 2,50 ± 0,19 7,2 0,107 Phần nắp trái
2,42 ± 0,17 2,52 ± 0,20 6,97 0,015 Phần nắp phải
2,9 2,49 ± 0,20 2,59 ± 0,25 0,028 Phần ổ mắt trái
3,5 2,49 ± 0,25 2,49 ± 0,25 0,943 Phần ổ mắt phải
Độ dày chất xám vỏ não (mm) 2,28 ± 0,18 2,31 ± 0,19 2,67 0,405 Phần tam giác trái
2,27 ± 0,16 2,37 ± 0,14 9,41 0,003 Phần tam giác phải
Từ Bảng 3.8 cho thấy thể tích chất trắng phần ổ mắt, phần tam giác và
độ dày chất xám vỏ não phần nắp bên phải, phần ổ mắt bên trái, phần tam giác
bên phải giảm ở nhóm bệnh TTPL so với nhóm chứng (p < 0,05). Song thể tích
57
não phần nắp phần ổ mắt, phần tam giác và thể tích chất trắng phần nắp; độ dày
chất xám vỏ não phần nắp bên trái, phần ổ mắt bên phải, phần tam giác bên trái
không có sự khác biệt giữa hai nhóm (p > 0,05).
Hồi ổ mắt của thuỳ trán gồm hai phần: phần ổ mắt ngoài và phần ổ mắt
trong. Kết quả xác định thể tích và độ dày chất xám vỏ não của các phần hồi ổ
mắt được trình bày ở Bảng 3.9.
Bảng 3.9. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi ổ mắt của hai
nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
TTPL (n = 39) Chứng (n = 41) Hồi ổ mắt p F(4, 75) (X ± SD) (X ± SD)
13,91 ± 2,13 14,05 ± 1,85 19,8 0,845 Phần ngoài
4,93 ± 0,31 5,01 ± 0,32 4,4 0,235 Chất trắng phần ngoài
9,8 ± 1,30 10,59 ± 1,4 27,0 0,001 Phần trong Thể tích (cm3)
4,63 ± 0,32 4,81 ± 0,30 5,4 0,006 Chất trắng phần trong
2,48 ± 0,16 2,60 ± 0,21 4,2 0,007 Phần ngoài bên trái
2,45 ± 0,19 2,40 ± 0,18 5,1 0,381 Phần ngoài bên phải
2,33 ± 0,16 2,44 ± 0,16 7,5 0,001 Phần trong bên trái
Độ dày chất xám vỏ não (mm) 2,31 ± 0,23 2,37 ± 0,18 2,2 0,095 Phần trong bên phải
Kết quả phân tích trên Bảng 3.9 cho thấy thể tích não phần trong và thể tích
chất trắng của phần trong hồi ổ mắt giảm ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p
lần lượt là 0,001 và 0,006). Thể tích não, thể tích chất trắng của phần ngoài hồi ổ
mắt không có sự khác biệt giữa hai nhóm (p lần lượt là 0,845 và 0,235).
Độ dày chất xám vỏ não của phần ngoài bên trái và phần trong bên trái
của hồi ổ mắt giảm ở nhóm bệnh TTPL so với ở nhóm chứng (p lần lượt là
0,007 và 0,001). Nhưng độ dày chất xám vỏ não của phần ngoài và phần trong
bên phải không khác biệt giữa hai nhóm (p lần lượt là 0,381 và 0,095).
58
Kết quả phân tích một số đặc điểm hình thái của hồi trước trung tâm
được trình bày trên Bảng 3.10.
Bảng 3.10. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não của hồi trước trung
tâm của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
TTPL (n = 39) Chứng (n = 41) Hồi trước trung tâm p F(4, 75) (X ± SD) (X ± SD)
Bên trái 12,20 ± 1,50 12,06 ± 1,69 16,6 0,471
Chất trắng bên trái 14,5 ± 1,83 15,65 ± 1,76 13,4 0,006
Bên phải 12,11 ± 1,56 12,16 ± 1,65 15,2 0,838 Thể tích (cm3)
Chất trắng bên phải 14,95 ± 2,04 15,75 ± 2,03 10,29 0,141
Chất xám vỏ não trái 2,26 ± 0,16 2,21 ± 0,18 7,74 0,094
Độ dày (mm) Chất xám vỏ não phải 2,26 ± 0,14 2,24 ± 0,17 4,86 0,496
Kết quả phân tích của hồi trước trung tâm trên bảng 3.10 cho thấy thể tích chất
trắng bên trái giảm ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p = 0,006), nhưng không
thấy sự khác biệt về thể tích não hai bên, thể tích chất trắng bên phải và độ dày chất
xám vỏ não hai bên giữa hai nhóm nghiên cứu (đều với p > 0,05).
Kết quả hình thái não của hồi cạnh trung tâm trình bày trong Bảng 3.11.
Bảng 3.11. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não của hồi cạnh trung
TTPL (n = 39)
Chứng (n = 41)
Hồi cạnh trung tâm
p
F(4, 75)
(X ± SD)
(X ± SD)
3,6
3,31 ± 0,53
3,19 ± 0,43
0,621
Bên trái
3,29
3,83 ± 0,69
4,16 ± 0,6
0,043
Chất trắng bên trái
4,2
3,57 ± 0,56
3,41 ± 0,55
0,228
Bên phải
Thể tích (cm3)
6,8
4,81 ± 0,81
5,17 ± 0,83
0,033
Chất trắng bên phải
3,19
2,17 ± 0,16
2,15 ± 0,17
0,694
Chất xám vỏ não trái
Độ dày (mm)
5,2
2,18 ± 0,16
2,13 ± 0,18
0,119
Chất xám vỏ não phải
tâm của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
59
Kết quả trên Bảng 3.11 cho thấy giảm thể tích chất trắng bên trái và bên
phải ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p lần lượt là 0,043 và 0,033). Tuy
nhiên không có sự khác biệt về thể tích não hai bên và độ dày chất xám vỏ não
hai bên của hồi cạnh trung tâm giữa hai nhóm (đều với p > 0,05).
Kết quả về đặc điểm hình thái của cực trán được trình bày trên Bảng 3.12.
Bảng 3.12. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não cực trán của hai
TTPL (n = 39)
Chứng (n = 41)
Cực trán
p
F(4, 75)
(X ± SD)
(X ± SD)
1,9
0,76 ± 0,18
0,80 ± 0,15
0,265
Bên trái
6,7
0,24 ± 0,06
0,28 ± 0,07
0,002
Chất trắng bên trái
Thể tích (cm3)
3,0
1,05 ± 0,18
1,11 ± 0,18
0,111
Bên phải
1,7
0,35 ± 0,08
0,39 ± 0,08
0,036
Chất trắng bên phải
1,6
2,62 ± 0,38
2,77 ± 0,30
0,088
Chất xám vỏ não trái
Độ dày (mm)
2,2
2,62 ± 0,28
2,77 ± 0,33
0,022
Chất xám vỏ não phải
nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Từ đây thấy giảm thể tích chất trắng hai bên và độ dày chất xám vỏ não bên
phải cực trán ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p < 0,05); không khác biệt về
thể tích não hai bên và độ dày chất xám vỏ não bên trái giữa hai nhóm (p > 0,05).
Kết quả về thể tích toàn bộ thuỳ trán và vỏ não trán trước trên Bảng 3.13.
Thể tích vỏ não trán trước là thể tích thuỳ trán loại bỏ thể tích vùng hồi
trước trung tâm và hồi cạnh trung tâm. Kết quả về thể tích của thùy trán và vỏ
não trán trước trên Bảng 3.13 cho thấy có giảm thể tích vỏ não trán trước hai
bên ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p < 0,05), giảm thể tích của thùy trán
bên trái ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p = 0,037). Tuy nhiên, không có
sự khác biệt về thể tích thùy trán bên phải giữa hai nhóm (p = 0,051).
60
Bảng 3.13. Thể tích thùy trán và vỏ não trán trước của hai nhóm nghiên cứu sau
TTPL (n = 39)
Chứng (n = 41)
Thùy trán (cm3)
p
F(4, 75)
(X ± SD)
(X ± SD)
Thể tích thùy trán hai bên
161,59 ± 18,97 168,80 ± 20,73
30,7 0,041
Thể tích thùy trán bên trái
81,15 ± 9,87
85,04 ± 10,81
29,7 0,037
Thể tích thùy trán bên phải
80,44 ± 9,19
83,75 ± 10
30,5 0,051
Thể tích vỏ não trán trước hai bên 138,72 ± 16,93 146,61 ± 18,48
32,4 0,010
Thể tích vỏ não trán trước bên trái 69,79 ± 8,95
74,27 ± 9,64
31,9 0,006
Thể tích vỏ não trán trước bên phải 68,93 ± 8,06
72,34 ± 8,89
31,9 0,018
hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Kết quả về thể tích, chất trắng và độ dày chất xám của vỏ não thùy đảo
ở các đối tượng nghiên cứu được trình bày trên Bảng 3.14.
Bảng 3.14. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não thùy đảo của hai
TTPL (n = 39)
Chứng (n = 41)
Thùy đảo
p
F(4, 75)
(X ± SD)
(X ± SD)
Bên trái
6,84 ± 0,93
6,68 ± 0,67
10,78 0,181
Chất trắng bên trái
9,09 ± 0,20
9,06 ± 0,85
14,95 0,615
Thể tích (cm3)
Bên phải
7,17 ± 1,04
7,15 ± 1,09
17,93 0,701
Chất trắng bên phải
9,7 ± 1,42
9,93 ± 1,16
19,28 0,545
Chất xám bên trái
2,96 ± 0,17
2,98 ± 0,16
4,18 0,687
Độ dày (mm)
Chất xám bên phải
2,91 ± 0,16
2,94 ± 0,19
2,26 0,404
nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Kết quả trên Bảng 3.14 cho thấy không có sự khác biệt về thể tích não
cũng như độ dày chất xám vỏ não của thuỳ đảo ở từng bên cũng như ở cả hai
bên giữa hai nhóm nghiên cứu (đều với p > 0,05).
61
3.2.3. Thể tích và độ dày chất xám vỏ não thùy thái dương
Kết quả phân tích đặc điểm hình thái thùy thái dương (về thể tích não,
chất trắng và độ dày chất xám) và đặc điểm ở các hồi của thùy này trên hai
nhóm đối tượng nghiên cứu có hiệu chỉnh theo tuổi và giới được trình bày trên
các Bảng 3.15–3.23.
Bảng 3.15. Thể tích não, chất trắng, độ dày chất xám vỏ não hồi thái dương trên,
TTPL (n = 39)
Chứng (n = 41)
Hồi thái dương trên
p
F(4, 75)
(X ± SD)
(X ± SD)
Bên trái
10,59 ± 1,45
11,56 ± 1,48
14,91
0,001
Chất trắng bên trái
8,30 ± 1,10
9,00 ± 1,19
19,42
0,002
Thể tích (cm3)
Bên phải
10,55 ± 1,46
11,06 ± 1,34
16,46
0,125
Chất trắng bên phải
7,37 ± 1,00
7,82 ± 0,92
22,4
0,025
Chất xám bên trái
2,44 ± 0,17
2,52 ± 0,15
3,1
0,050
Độ dày (mm)
Chất xám bên phải
2,50 ± 0,18
2,56 ± 0,18
5,3
0,204
giữa, dưới của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Kết quả phân tích của hồi thái dương trên ở Bảng 3.15 cho thấy có sự giảm
thể tích của hồi thái dương trên bên trái, thể tích chất trắng bên trái, thể tích chất
trắng bên phải ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p lần lượt là 0,001; 0,002 và
0,025). Tuy nhiên, không có sự khác biệt về thể tích hồi thái dương trên bên phải
và độ dày chất xám vỏ não hai bên giữa hai nhóm nghiên cứu (p > 0,05).
Kết quả phân tích của hồi thái dương giữa được trình bày trên Bảng 3.16.
Từ Bảng 3.16 cho thấy có sự giảm thể tích hồi thái dương giữa bên trái ở
nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p = 0,03). Không có sự khác biệt về thể tích
hồi thái dương bên phải, thể tích chất trắng hai bên giữa hai nhóm nghiên cứu
(đều với p > 0,05). Có giảm độ dày chất xám vỏ não bên trái ở nhóm TTPL so
62
với ở nhóm chứng (p = 0,003), song không có sự khác biệt về độ dày chất xám
vỏ não ở bên phải của hồi thái dương giữa của hai nhóm nghiên cứu (p = 0,078).
Bảng 3.16. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi thái dương giữa
TTPL (n = 39)
Chứng (n = 41)
Hồi thái dương giữa
p
F(4, 75)
(X ± SD)
(X ± SD)
Bên trái
9,98 ± 1,66
10,76 ± 1,88
13,6
0,030
Chất trắng bên trái
6,30 ± 0,99
6,36 ± 0,92
9,8
0,918
Thể tích (cm3)
Bên phải
11,10 ± 1,91
11,61 ± 1,82
10,8
0,305
Chất trắng bên phải
6,75 ± 0,98
7,05 ± 0,98
17,4
0,239
Chất xám bên trái
2,58 ± 0,19
2,70 ± 0,17
7,2
0,003
Độ dày (mm)
Chất xám bên phải
2,58 ± 0,20
2,66 ± 0,20
4,5
0,078
của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Kết quả về thể tích não và độ dày chất xám vỏ não của hồi thái dương
dưới được trình bày ở Bảng 3.17.
Bảng 3.17. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi thái dương dưới
TTPL (n = 39)
Chứng (n = 41)
Hồi thái dương dưới
p
F(4, 75)
(X ± SD)
(X ± SD)
10,71 ± 1,59
10,83 ± 1,5
5,1
0,780
Bên trái
7,10 ± 1,15
7,67 ± 1,00
12,1
0,016
Chất trắng bên trái
Thể tích (cm3)
10,23 ± 1,8
10,52 ± 2,13
6,7
0,523
Bên phải
6,57 ± 1,03
6,95 ± 0,77
20,47
0,070
Chất trắng bên phải
3,45 ± 0,37
3,35 ± 0,39
1,88
0,481
Chất xám bên trái
Độ dày (mm)
Chất xám bên phải
3,58 ± 0,39
3,51 ± 0,36
3,96
0,106
của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
63
Kết quả ở bảng này cho thấy sự giảm thể tích chất trắng hồi thái dương dưới bên
trái ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p = 0,016) nhưng không có sự khác biệt
về thể tích não hai bên, thể tích chất trắng của hồi thái dương dưới bên phải và độ
dày chất xám vỏ não hai bên giữa hai nhóm nhóm nghiên cứu (p > 0,05).
Kết quả phân tích những đặc điểm hình thái của hồi thái dương ngang ở hai nhóm
đối tượng nghiên cứu có hiệu chỉnh theo tuổi và giới được trình bày trên Bảng 3.18
cho thấy thể tích chất trắng của hồi thái dương ngang bên trái giảm ở nhóm TTPL
so với ở nhóm chứng (p = 0,009). Thể tích của hồi thái dương ngang hai bên và thể
tích chất trắng bên phải không có sự khác biệt giữa hai nhóm (đều với p > 0,05).
Bảng 3.18. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi thái dương
TTPL (n = 39)
Chứng (n = 41)
Hồi thái dương ngang
p
F(4, 75)
(X ± SD)
(X ± SD)
Bên trái
1,01 ± 0,20
1,04 ± 0,20
7,6
0,594
Chất trắng bên trái
0,95 ± 0,17
1,05 ± 0,17
7,9
0,009
Thể tích (cm3)
Bên phải
0,77 ± 0,15
0,84 ± 0,16
10,1
0,053
Chất trắng bên phải
0,64 ± 0,10
0,67 ± 0,13
3,1
0,358
Chất xám vỏ não trái
2,44 ± 0,17
2,52 ± 0,15
1,2
0,053
Độ dày (mm)
Chất xám vỏ não phải
2,50 ± 0,18
2,56 ± 0,18
0,6
0,531
ngang của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Trên Bảng 3.18 cho thấy về độ dày chất xám vỏ não của hồi thái dương
ngang hai bên không có sự khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu (p > 0,05).
Kết quả về hình thái của hồi cạnh hải mã được trình bày trên Bảng 3.19.
Kết quả trên Bảng 3.19 cho thấy thể tích khối chất trắng hai bên và độ dày
chất xám vỏ não bên trái của hồi cạnh hải mã giảm ở nhóm TTPL so với ở nhóm
chứng (p là 0,006; 0,001 và 0,06). Không khác biệt về thể tích hồi cạnh hải mã
hai bên và độ dày chất xám vỏ não bên phải giữa hai nhóm nghiên cứu (p > 0,05).
64
Bảng 3.19. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não hồi cạnh hải mã của
TTPL (n = 39)
Chứng (n = 41)
Hồi cạnh hải mã
p
F(4, 75)
(X ± SD)
(X ± SD)
Bên trái
1,82 ± 0,33
1,97 ± 0,35
4,7
0,041
Chất trắng bên trái
1,67 ± 0,30
1,88 ± 0,38
6,9
0,006
Thể tích (cm3)
Bên phải
1,73 ± 0,30
1,88 ± 0,32
3,5
0,071
Chất trắng bên phải
1,75 ± 0,26
1,94 ± 0,30
9,5
0,001
Chất xám vỏ não trái
2,18 ± 0,28
2,38 ± 0,29
4,7
0,005
Độ dày (mm)
Chất xám vỏ não phải
2,21 ± 0,26
2,33 ± 0,27
4,7
0,117
hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Kết quả về hình thái vùng vỏ não nội khứu được trình bày trên Bảng 3.20.
Bảng 3.20. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não nội khứu của hai
TTPL (n = 39)
Chứng (n = 41)
Vỏ não nội khứu
p
F(4, 75)
(X ± SD)
(X ± SD)
Bên trái
1,84 ± 0,46
1,88 ± 0,36
8,4
0,796
Chất trắng bên trái
0,97 ± 0,32
1,08 ± 0,26
5,1
0,169
Thể tích (cm3)
Bên phải
1,52 ± 0,38
1,73 ± 0,32
5,6
0,022
Chất trắng bên phải
0,71 ± 0,19
0,79 ± 0,16
2,5
0,121
Chất xám vỏ não trái
2,93 ± 0,36
2,97 ± 0,32
1,0
0,561
Độ dày (mm)
Chất xám vỏ não phải
3,10 ± 0,40
3,19 ± 0,40
1,4
0,331
nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Kết quả trên Bảng 3.20 cho thấy thể tích của vỏ não nội khứu bên phải
giảm ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p = 0,022) và không có khác biệt về
thể tích não của vỏ não nội khứu bên trái, thể tích chất trắng của vỏ não nội khứu
hai bên và độ dày chất xám vỏ não hai bên giữa hai nhóm nghiên cứu (p > 0,05).
65
Kết quả về thể tích hải mã và hạnh nhân được trình bày trên Bảng 3.21.
Bảng 3.21. Thể tích chất xám ở hải mã và hạnh nhân của hai nhóm nghiên cứu sau
p
F(4, 75)
Thùy thái dương (mặt trong)
TTPL (n = 39) (X ± SD)
Chứng (n = 41) (X ± SD)
Hải mã
0,002
13,3
Bên trái
4,13 ± 0,53
4,47 ± 0,48
0,008
10,1
Bên phải
4,16 ± 0,45
4,41 ± 0,40
Thể tích (mm3)
0,002
13,3
Hai bên
8,29 ± 0,93
8,88 ± 0,85
Hạnh nhân
Bên trái
1,40 ± 0,21
1,46 ± 0,18
7,2
0,093
0,015
15,1
Bên phải
1,45 ± 0,20
1,56 ± 0,23
Thể tích (mm3)
0,028
12,1
Hai bên
2,85 ± 0,40
3,02 ± 0,39
hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Ở hồi hải mã có sự giảm thể tích ở từng bên và cả hai bên ở nhóm TTPL
so với ở nhóm chứng (p lần lượt là 0,002, 0008 và 0,002). Ở hạnh nhân, thể
tích hạnh nhân bên phải giảm ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p = 0,015),
nhưng không thấy sự khác biệt về thể tích hạnh nhân bên trái giữa hai nhóm (p
= 0,093). Tuy nhiên, thể tích hạnh nhân toàn phần vẫn giảm ở nhóm TTPL so
với ở nhóm chứng (p = 0,028).
Kết quả phân tích thể tích và độ dày chất xám vỏ não của cực thái dương
của thuỳ thái dương được trình bày trên Bảng 3.22.
Kết quả trên Bảng 3.22 cho thấy không có sự khác biệt về thể tích não,
thể tích chất trắng và độ dày chất xám vỏ não của cực thái dương giữa hai nhóm
nghiên cứu (đều với p > 0,05).
66
Bảng 3.22. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não cực thái dương hai
TTPL (n = 39)
Chứng (n = 41)
Cực thái dương
p
F(4, 75)
(X ± SD)
(X ± SD)
Bên trái
2,53 ± 0,37
2,5 ± 0,38
4,6
0,489
Chất trắng bên trái
0,84 ± 0,16
0,86 ± 0,11
5,2
0,909
Thể tích (cm3)
Bên phải
2,36 ± 0,5
2,28 ± 0,43
5,3
0,272
Chất trắng bên phải
0,77 ± 0,19
0,799 ± 0,17
7,2
0,386
Chất xám vỏ não trái
3,45 ± 0,37
3,35 ± 0,39
1,7
0,274
Độ dày (mm)
Chất xám vỏ não phải
3,58 ± 0,39
3,51 ± 0,36
0,6
0,360
nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Kết quả phân tích thể tích và độ dày chất xám vỏ não của hồi thoi của
thuỳ thái dương được trình bày trên Bảng 3.22.
Bảng 3.23. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não của hồi thoi của hai
Hồi thoi
p
F(4, 75)
TTPL (n = 39) (X ± SD)
Chứng (n = 41) (X ± SD)
Bên trái
8,76 ± 1,54
9,96 ± 1,53
12,9
0,001
Chất trắng bên trái
7,23 ± 0,93
7,93 ± 1,07
17,2
0,000
Thể tích (cm3)
Bên phải
8,27 ± 1,33
9,09 ± 1,58
9,3
0,016
Chất trắng bên phải
7,03 ± 0,96
7,66 ± 0,88
14,7
0,000
Chất xám vỏ não trái
2,33 ± 0,15
2,45 ± 0,15
6,9
0,001
Độ dày (mm)
Chất xám vỏ não phải
2,32 ± 0,16
2,43 ± 0,18
6,2
0,016
nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Kết quả phân tích đặc điểm hình thái của hồi thoi (thể tích chất trắng,
chất xám) ở hai nhóm đối tượng nghiên cứu được trình bày trên Bảng 3.23. Kết
67
quả cho thấy có giảm thể tích não, thể tích chất trắng và độ dày chất xám vỏ
não hai bên hồi thoi ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (đều với p < 0,01).
3.2.4. Thể tích và độ dày chất xám vỏ não ở các phần của hồi đai
Hồi đai được cho là cấu trúc não có vai trò quan trọng trong hoạt động nhận
thức, trí nhớ và cảm xúc, cấu trúc gồm phần mỏ, phần đuôi trước, phần eo và phần
sau. Kết quả phân tích các phần của hồi đai được trình bày trên Bảng 3.24.
Bảng 3.24. Thể tích não, chất trắng và độ dày chất xám vỏ não các phần ở hồi đai
Hồi đai
p
F(4, 75)
Phần đuôi trước
TTPL (n = 39) (X ± SD) 3,67 ± 0,72
Chứng (n = 41) (X ± SD) 3,99 ± 0,84
8,9
0,048
Chất trắng đuôi trước
8,88 ± 1,1
9,32 ± 1,74
15,0
0,167
Phần mỏ trước
4,48 ± 0,81
4,65 ± 0,87
12,7
0,347
Chất trắng mỏ trước
4,84 ± 0,68
4,73 ± 0,55
10,7
0,279
Thể tích (cm3)
Phần eo
4,84 ± 0,76
5 ± 0,7
10,4
0,545
Chất trắng phần eo
7,38 ± 1,16
7,32 ± 0,84
17,6
0,258
Phần sau
5,81 ± 0,98
6,09 ± 0,91
13,3
0,233
Chất trắng phần sau
8,9 ± 0,96
9,17 ± 0,98
18,2
0,243
Phần đuôi trước trái
2,54 ± 0,25
2,60 ± 0,26
1,1
0,272
Phần đuôi trước phải
2,46 ± 0,26
2,48 ± 0,25
0,4
0,578
Phần mỏ trước trái
2,75 ± 0,23
2,78 ± 0,26
1,5
0,009
Phần mỏ trước phải
2,80 ± 0,24
2,70 ± 0,27
1,1
0,180
Phần eo trái
2,30 ± 0,14
2,42 ± 0,23
3,0
0,009
Độ dày chất xám vỏ não ở các phần (mm)
Phần eo phải
2,20 ± 0,15
2,33 ± 0,23
4,0
0,005
Phần sau trái
2,32 ± 0,16
2,35 ± 0,15
3,6
0,499
Phần sau phải
2,28 ± 0,20
2,37 ± 0,18
3,7
0,119
của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Kết quả trên Bảng 3.24 cho thấy có sự giảm thể tích phần đuôi trước hồi
đai và giảm độ dày chất xám vỏ não ở phần mỏ trước trái, phần eo hai bên ở
nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p > 0,05). Tuy nhiên, không có sự khác biệt
68
về thể tích và độ dày chất xám vỏ não của các phần còn lại của thể trai giữa hai
nhóm nghiên cứu (p > 0,05).
3.2.5. Thể tích các nhân xám
Tuy phân tích tổng thể tích chất xám dưới vỏ không thấy sự khác biệt giữa
hai nhóm nghiên cứu (Bảng 3.5), nhưng điều đó không cho thấy hết những đặc
điểm từng cấu trúc chất xám dưới vỏ, do chúng gồm nhiều nhân có vai trò khác
nhau. Vì vậy, nghiên cứu này phân tích xác định những nhân có chức năng trong
nhận thức, trí nhớ và cảm xúc. Kết quả phân tích được trình bày trên Bảng 3.25.
Bảng 3.25. Thể tích các nhân xám của hai nhóm nghiên cứu sau hiệu chỉnh theo
Thể tích các nhân (mm3)
p
F(4, 75)
TTPL (n = 39) (X ± SD)
Chứng (n = 41) (X ± SD)
Đồi thị bên trái
8,61 ± 1,06
9,10 ± 1,00
19,9
0,015
Đồi thị bên phải
7,38 ± 0,76
7,60 ± 0,88
14,6
0,187
Đồi thị hai bên
15,99 ± 1,74
16,71 ± 1,80
19,9
0,038
Nhân đuôi trái
3,77 ± 0,50
3,55 ± 0,48
8,6
0,013
Nhân đuôi phải
3,72 ± 0,50
3,45 ± 0,51
8,3
0,004
Nhân đuôi hai bên
7,49 ± 0,98
7,00 ± 0,96
9,1
0,006
Nhân bèo sẫm trái
5,36 ± 0,61
5,31 ± 0,78
4,1
0,543
Nhân bèo sẫm phải
5,13 ± 0,62
4,87 ± 0,59
11,5
0,011
Nhân bèo sẫm
10,49 ± 1,18
10,18 ± 1,33
7,1
0,125
Nhân vân bụng trái
0,50 ± 0,09
0,56 ± 0,10
5,6
0,004
Nhân vân bụng phải
0,45 ± 0,08
0,49 ± 0,10
9,8
0,013
Nhân vân bụng hai bên
0,96 ± 0,16
1,05 ± 0,18
9,7
0,002
Nhân cầu nhạt trái
1,50 ± 0,24
1,36 ± 0,26
4,9
0,009
Nhân cầu nhạt phải
1,56 ± 0,23
1,55 ± 0,22
6,5
0,537
Nhân cầu nhạt
3,06 ± 0,44
2,91 ± 0,46
6,1
0,060
tuổi, giới và thể tích nội sọ
69
Kết quả phân tích các nhân xám cho thấy thể tích nhân đuôi hai bên tăng,
thể tích đồi thị bên trái, nhân vân bụng hai bên, nhân bèo sẫm phải, nhân cầu nhạt
bên trái giảm ở nhóm bệnh TTPL so với ở nhóm chứng (p > 0,05). Tuy nhiên,
không có sự khác biệt về thể tích đồi thị bên phải, thể tích nhân bèo sẫm bên trái
và nhân cầu nhạt giữa hai nhóm nghiên cứu (p > 0,05).
3.2.6. Thể tích các phần của thể chai
Bảng 3.26. Thể tích các phần của thể chai của hai nhóm nghiên cứu sau
TTPL (n = 39)
Chứng (n = 41)
p
F(4, 75)
Thể tích các phần thuộc thể chai (mm3)
(X ± SD)
(X ± SD)
Phần V
923,15 ± 166,12 944,15 ± 134,17
2,1
0,931
Phần IV
438,31 ± 144,22 465,51 ± 106,71
2,1
0,295
Phần III
477,34 ± 134,55 605,90 ± 175,04
6,4
0,000
Phần II
493,85 ± 132,20 583,11 ± 143,65
6,0
0,006
Phần I
867,24 ± 146,41 874,52 ± 147,16
3,7
0,700
Thể chai
3154,28 ± 84,65 3386,72 ± 93,99
5,8
0,037
hiệu chỉnh theo tuổi, giới và thể tích nội sọ
Thể chai là khối chất trắng lớn nhất của hệ thần kinh trung ương, kết nối
hai bán cầu đại não. Mỗi phần thể chai chứa các sợi nối vùng đặc hiệu khác
nhau, nên được phân chia thành năm phần [50]. Kết quả phân tích từng phần
được trình bày trên Bảng 3.26.
Kết quả trên Bảng 3.26 cho thấy có sự giảm thể tích thể chai toàn bộ, giảm
thể tích thể trai của phần II và phần III ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p <
0,05) và các vùng còn lại của thể chai không có sự khác biệt (p > 0,05).
70
3.3. Đặc điểm đa hình một số gen của đối tượng nghiên cứu
Kết quả xác định đặc điểm đa hình rs821616 của gen DISC1 và rs4680
của gen COMT được xác định bằng phương pháp giải trình tự trực tiếp. Các đa
hình được xác định kiểu gen và phân tích mối liên quan với tình trạng bệnh TTPL.
3.3.1. Đặc điểm đa hình rs821616 gen DISC1
Kết quả khuếch đại đoạn gen DISC1 chứa đa hình rs821616 được minh
họa trên Hình 3.1.
B A
Hình 3.1. Hình ảnh điện di đoạn gen DISC1 khuếch đại chứa đa hình
rs821616 trên gel agarose ở nhóm TTPL (A) và nhóm chứng (B).
Kết quả điện di trên Hình 3.1. cho thấy các băng sản phẩm rõ nét, không
có đốm vết, kích thước phù hợp với tính toán lý thuyết là 488 bp, cho thấy phản
ứng khuếch đại chuỗi đã nhân thành công sản phẩm. Cường độ các băng sản
phẩm cho thấy lượng DNA sản phẩm đủ để tiến hành giải trình tự trực tiếp.
(Xem thêm các Hình PL2.1–2.5 ở phụ lục 1).
71
Kết quả giải trình tự xác định kiểu gen của đa hình rs821616 được minh
họa trên Hình 3.2. Có ba kiểu gen của đa hình rs821616 được xác định, thể hiện
trên hình. Ở mẫu SC84, ở vị trí đa hình rs821661 xuất hiện hai đỉnh màu lục và
màu đỏ tương ứng với alen A và alen T. Như vậy, mẫu SC84 có kiểu gen dị
hợp tử AT. Ở mẫu SC43, chỉ có một đỉnh màu đỏ (T) cho thấy SC43 có kiểu
gen đồng hợp tử TT. Ở mẫu SC35, chỉ xuất hiện một đỉnh màu lục (A) nên mẫu
SC35 có kiểu gen đồng hợp tử AA.
Hình 3.2. Các đỉnh đồng hợp tử TT màu đỏ, AA màu lục và dị hợp tử AT của các mẫu ứng với ba kiểu gen (vị trí các mũi tên đỏ) của đa hình rs821616 ở đối tượng nghiên cứu.
Khi thực hiện giải trình tự và phân tích kiểu gen của đa hình rs821616
trên các mẫu, có 24 mẫu tín hiệu giải trình tự bị nhiễu, không xác định kiểu gen
gồm 12 mẫu thuộc nhóm TTPL và 12 mẫu thuộc nhóm chứng. Số mẫu xác định
kiểu gen của rs821616 ở nhóm TTPL là 100 và ở nhóm chứng là 101 mẫu.
Trước khi tiến hành phân tích mối liên quan của đa hình với tình trạng bệnh, sự
phân bố đa hình rs821616 được kiểm định về việc tuân luật cân bằng Hardy-
72
Weinberg, để đánh giá sự di truyền của đa hình trong mẫu nghiên cứu có ngẫu
nhiên hay không. Kết quả kiểm định cân bằng Hardy-Weinberg của đa hình
rs821616 ở nhóm bệnh và nhóm chứng đều cho thấy sự phân bố của đa hình
rs821616 tuân theo cân bằng này (p > 0,05) và sự di truyền của đa hình trong
các nhóm nghiên cứu là ngẫu nhiên.
Kết quả phân tích tần suất các alen và liên quan của sự phân bố alen với
kiểu gen của đa hình rs821616 gen DISC1 được trình bày trên Bảng 3.27 và 3.28.
Tần suất alen (n)
Nhóm nghiên cứu
Số alen
A
T
TTPL (n = 100)
200
0,94 (188)
0,06 (12)
Chứng (n = 101)
202
0,90 (182)
0,10 (20)
χ2 = 2,09; p = 0,15
Bảng 3.27. Tần suất các alen của đa hình rs821616 ở hai nhóm nghiên cứu
Kết quả trên Bảng 3.27 cho thấy tần suất alen A ở nhóm TTPL là 0,94;
ở nhóm chứng là 0,9; tần suất alen T ở nhóm TTPL và nhóm chứng lần lượt là
0,06 và 0,10; không có sự khác biệt về sự phân bố các alen của đa hình rs821616
giữa nhóm TTPL và nhóm chứng với p > 0,05.
Kết quả về sự phân bố kiểu gen của đa hình rs821616 trên gen DISC1
được trình bày trên Bảng 3.28.
Kết quả trên Bảng 3.28 cho thấy có 3 kiểu gen ở cả hai nhóm nghiên cứu
là đồng hợp tử AA, đồng hợp tử TT và dị hợp tử AT. Sự phân bố của ba kiểu
gen ở nhóm TTPL lần lượt là 89,00; 10,00% và 1%; ở nhóm chứng lần lượt là
80,2%; 0% và 19,8%; không có sự khác biệt về sự phân bố kiểu gen của đa
hình rs821616 giữa hai nhóm nghiên cứu (p = 0,074).
73
Số lượng kiểu gen (%)
Nhóm nghiên cứu
n (%)
TT
AA
AT
1 (1,00)
TTPL
100 (100)
89 (89,00)
10 (10,00)
0 (0,00)
Chứng
101 (100)
81 (80,20)
20 (19,80)
1
Tổng
201
170
30
p = 0,074
Bảng 3.28. Phân bố kiểu gen của đa hình rs821616 ở hai nhóm nghiên cứu
Phân bố kiểu gen của đa hình rs821616 gen DISC1 theo giới ở hai nhóm
nghiên cứu được trình bày trên các Bảng 3.29 và 3.30.
Số lượng kiểu gen (%)
Nhóm nghiên cứu
n (%)
TT
AA
AT
0 (0)
TTPL
61 (100)
56 (91,80)
5 (8,20)
0 (0)
Chứng
63 (100)
52 (82,54)
11 (17,46)
0
Tổng
124
108
16
χ2 = 2,37; p = 0,124
Bảng 3.29. Phân bố kiểu gen của đa hình rs821616 ở nam hai nhóm nghiên cứu
Kết quả trên Bảng 3.29 cho thấy không có sự khác biệt về sự phân bố
kiểu gen của đa hình rs821616 ở nam giữa hai nhóm nghiên cứu (p = 0,124).
Số lượng kiểu gen (%)
Nhóm nghiên cứu
n (%)
AA
AT
TT
TTPL
39 (100)
33 (84,62)
5 (12,82)
1 (2,56)
Chứng
38 (100)
29 (76,32)
9 (23,68)
0 (0,00)
Tổng
62
77
14
1
χ2 = 2,39; p = 0,30
Bảng 3.30. Phân bố kiểu gen của đa hình rs821616 ở nữ hai nhóm nghiên cứu
74
Kết quả trên Bảng 3.30 cho thấy không có sự khác biệt về sự phân bố
kiểu gen của đa hình rs821616 ở nữ giữa hai nhóm nghiên cứu (p = 0,30).
3.3.2. Đặc điểm đa hình rs4680 gen COMT
A B
Hình 3.3. Hình ảnh điện di đoạn gen COMT khuếch đại chứa đa hình
rs4680 trên gel agarose ở nhóm TTPL (A) và nhóm chứng (B).
Kết quả khếch đại đoạn gen COMT chứa đa hình rs4680 được minh họa
trên Hình 3.3. Hình ảnh điện di đoạn gen trên Hình 3.3 cho thấy các băng sản
phẩm rõ nét, không có đốm vết, kích thước là 178 bp phù hợp với tính toán lý
thuyết cho đoạn gen. Điều này cho thấy sản phẩm khuếch đại đặc hiệu đạt và
lượng DNA sản phẩm đủ để tiến hành giải trình tự trực tiếp. (Xem thêm các
Hình PL2.6–2.10 ở phụ lục 1).
Kết quả giải trình tự và xác định kiểu gen của đa hình rs4680 được thể
hiện trên Hình 3.4. Giải trình tự xác định được ba kiểu gen của đa hình rs4680,
là AA, AG và GG. Ở mẫu thứ nhất, ở vị trí đa hình có một đỉnh tín hiệu màu
lam, tương ứng với đồng hợp tử AA. Ở mẫu thứ hai có hai đỉnh, một màu lam
75
(A) và một màu đen (G), tương ứng với dị hợp tử AG. Ở mẫu thứ ba có một
đỉnh màu đen, là đồng hợp tử GG.
Hình 3.4. Các đỉnh đồng hợp tử AA màu lam, GG màu đen và dị hợp tử AG của các mẫu (vị trí các mũi tên) ứng với ba kiểu gen của đa hình rs4680 ở đối tượng nghiên cứu.
Quá trình khuếch đại và giải trình tự đoạn gen COMT có chứa đa hình
rs4680, có 22 mẫu tín hiệu giải trình tự bị nhiễu, không xác định kiểu gen. Trong
đó, nhóm TTPL có 10 mẫu và nhóm chứng có 12 mẫu. Số mẫu xác định kiểu
gen đa hình rs4680 của nhóm TTPL và nhóm chứng lần lượt là 102 và 101 mẫu.
Tương tự như đa hình rs821616 của gen DISC1, trước khi tiến hành phân
tích mối liên quan của đa hình với tình trạng bệnh, đa hình rs4680 được kiểm
định về việc tuân luật cân bằng Hardy-Weinberg. Kết quả kiểm định của đa
hình rs4680 ở nhóm bệnh và nhóm chứng lần lượt là χ2 = 0,07 và χ2 = 0,22, cho
76
thấy tuân theo cân bằng Hardy-Weinberg (p > 0,05) và sự phân bố của đa hình
rs4680 là ngẫu nhiên trong các nhóm nghiên cứu.
Kết quả phân tích tần suất các alen và mối liên quan của sự phân bố alen
với kiểu gen của đa hình rs4680 gen COMT được trình bày trên Bảng 3.31 và 3.32.
Tần suất alen (n)
Nhóm nghiên cứu
Số alen
G (Val)
A (Met)
Chứng (n = 101)
202
72,78 (147)
27,22 (55)
TTPL (n = 102)
204
75,49 (154)
24,51 (50)
χ2 = 0,39; p = 0,53
Bảng 3.31. Tần suất các alen của đa hình rs4680 ở hai nhóm nghiên cứu
Kết quả trên bảng 3.31 cho thấy tần suất alen A, G ở nhóm TTPL lần
lượt là 24,51% và 75,49%; ở nhóm chứng lần lượt là 27,22% và 72,78%; không
có sự khác biệt giữa hai nhóm (p = 0,39). Như vậy, không có sự khác biệt về
sự phân bố các alen của đa hình rs4680 giữa hai nhóm.
Kết quả phân tích về sự phân bố kiểu gen của đa hình rs4680 thuộc gen
COMT được trình bày trên Bảng 3.32.
Số lượng kiểu gen (%)
n (%)
Nhóm nghiên cứu
AA (Met/Met) GG (Val/Val)
AG (Met/Val)
TTPL
102 (100)
7 (6,86)
59 (57,84)
36 (35,30)
Chứng
101 (100)
8 (7,92)
54 (53,47)
39 (38,61)
Tổng
203
15
113
75
χ2 = 0,403; p = 0,818
Bảng 3.32. Phân bố kiểu gen của đa hình rs4680 ở hai nhóm nghiên cứu
77
Kết quả trên Bảng 3.32 cho thấy sự xuất hiện của cả ba kiểu gen của đa
hình rs4680 trong hai nhóm nghiên cứu. Sự phân bố của kiểu gen AA, GG và
AG ở nhóm TTPL lần lượt là 6,86%, 57,84% và 35,30%; ở nhóm chứng lần
lượt là 7,92%, 53,47% và 38,61%. Như vậy, không có sự khác biệt về sự phân
bố kiểu gen của đa hình rs4680 giữa nhóm TTPL và nhóm chứng.
Phân bố theo giới của kiểu gen của đa hình rs4680 gen COMT ở hai nhóm
nghiên cứu được trình bày trên các Bảng 3.33 và 3.34.
Số lượng kiểu gen (%)
n (%)
Nhóm nghiên cứu
AA
GG
AG
TTPL
61 (100)
5 (8,20)
31 (50,82)
25 (40,98)
Chứng
63 (100)
6 (9,52)
34 (53,97)
23 (36,51)
Tổng
11
65
48
124
χ2 = 0,28; p = 0,87
Bảng 3.33. Phân bố kiểu gen của đa hình rs4680 ở nam hai nhóm nghiên cứu
Kết quả trên Bảng 3.33 cho thấy không có sự khác biệt về sự phân bố
kiểu gen ở nam giữa hai nhóm nghiên cứu (p = 0,87).
Số lượng kiểu gen (%)
n (%)
Nhóm nghiên cứu
AA
GG
AG
TTPL
39 (100)
2 (5,13)
26 (66,67)
11 (28,21)
Chứng
38 (100)
2 (5,26)
20 (52,63)
16 (42,11)
Tổng
4
46
27
77
χ2 = 1,69; p = 0,43
Bảng 3.34. Phân bố kiểu gen của đa hình rs4680 ở nữ hai nhóm nghiên cứu
Kết quả trên Bảng 3.34 cho thấy không có sự khác biệt về sự phân bố
kiểu gen ở nữ giữa hai nhóm nghiên cứu (p = 0,43).
78
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. Về tuổi và giới của đối tượng nghiên cứu
Tỷ lệ mắc bệnh TTPL ở nam có xu hướng thường gặp hơn ở nữ giới. Khởi
phát thường trong độ tuổi 20 đến 39 [1], [2]. Tuy nhiên, khởi phát và tiến triển ở
hai giới khác nhau. Hai phần ba số bệnh nhân nam và 30% bệnh nhân nữ phải
điều trị trong bệnh viện lần đầu tiên trước 25 tuổi. Khởi phát ở nam thường sớm
hơn ở nữ - từ 20 đến 28 tuổi - trong khi ở nữ từ 26 đến 32 tuổi. Ở nữ giới, thời
điểm khởi phát bệnh cao ở tuổi trung niên sau 40 tuổi chiếm 3% đến 10% số
bệnh nhân nữ. 90% số bệnh nhân TTPL được điều trị ở độ tuổi từ 15 đến 45 tuổi.
Bệnh nhân khởi phát trước 10 tuổi và sau 60 tuổi rất hiếm gặp [1].
4.1.1. Về tuổi và giới của nhóm nghiên cứu hình thái não
Ở nhóm đối tượng nghiên cứu đặc điểm hình thái não, không có sự khác
biệt về tuổi và cơ cấu giới tính giữa nhóm bệnh và nhóm chứng (Bảng 3.1).
Điều này ủng hộ cho giả thuyết về những thay đổi về hình thái não bộ tìm ra
trong nghiên cứu này là do những biến đổi thứ phát hoặc nguyên phát của bệnh
lý này hơn là do yếu tố tuổi và giới. Tỷ lệ nam trong nhóm TTPL nhiều hơn nữ,
dù số lượng của mẫu chưa lớn, cũng phần nào cho thấy cùng xu hướng dịch tễ
của bệnh về góc độ giới tính.
Tuổi trung bình của nhóm TTPL trong nghiên cứu là 32,74 ± 10,13,
thuộc khoảng tuổi trung bình giữa độ tuổi thanh niên và trung niên ở cả nam và
nữ. Tuổi của nhóm nghiên cứu cũng nằm trong khoảng tuổi khởi phát thông
thường ở cả hai giới [1], [2], [3].
79
4.1.2. Về tuổi và giới của nhóm nghiên cứu gen
Ở nhóm đối tượng nghiên cứu gen, tuổi ở nhóm TTPL là 34,58 ± 11,64
và 32,91 ± 6,44 ở nhóm chứng, không có sự khác biệt về tuổi giữa hai nhóm
(Bảng 3.2). Tỷ lệ giới tính nam là 61% và nữ là 39% ở nhóm TTPL, tỷ lệ nam
là 62,38% và nữ là 37,62% ở nhóm chứng, không có sự khác biệt giữa hai nhóm.
Cũng như ở nhóm nghiên cứu hình thái não, tỷ lệ nam TTPL cũng trong xu thế
cao hơn nữ.
Tuy có các nghiên cứu đề cập sự ảnh hưởng hạn chế của giới tính đối với
bệnh TTPL [1], nhưng cũng có những đánh giá cho thấy sự ảnh hưởng của các
gen đối với bệnh TTPL khác nhau giữa nam và nữ [11]. Vì vậy, sự tương đồng
về cơ cấu giới tính giữa hai nhóm nghiên cứu đã góp phần loại bỏ ảnh hưởng
nếu có do khác biệt về tỷ lệ giới tính trong phân tích ảnh hưởng của các gen
trong bệnh TTPL.
4.2. Về hình thái não trong tâm thần phân liệt
TTPL là bệnh lý tâm thần nặng, được đặc trưng bởi sự suy giảm về nhận
thức và cảm xúc [2], [3], [98]. Thay đổi về cấu trúc não bộ có thể thấy ở hầu
hết bệnh nhân TTPL ở giai đoạn mạn tính [18], [21], [99]. Sự thay đổi về thể
tích não đã và đang được quan tâm trong nghiên cứu bệnh sinh của TTPL. Các
nghiên cứu đã và đang phân tích cả những biến đổi về cấu trúc toàn bộ não, xác
định sự thay đổi ở những vùng não đặc hiệu liên quan tới những rối loạn, triệu
chứng đặc trưng trong TTPL, nhằm tìm hiểu rõ hơn về cơ chế bệnh sinh, triệu
chứng lâm sàng và các thuốc điều trị bệnh lý này, cũng như những khía cạnh
dịch tễ khác của bệnh [2], [25], [99], [100], [101].
Nhiều nghiên cứu cho thấy, thể tích não chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu
tố, đặc biệt rõ là tuổi, giới tính và thể tích nội sọ [27], [87], [98], [99]. Các yếu
tố này là những yếu tố tác động đến thể tích não, độ dày chất xám vỏ não, làm
80
ảnh hưởng tới sự khách quan trong quá trình nghiên cứu sự chính xác của việc
xác định tác động của bệnh lý đối với đặc điểm hình thái não. Các nghiên cứu
khắc phục điều này bằng nhiều phương pháp, trong đó phân tích ANCOVA
(hiệp phương sai) được sử dụng nhiều [87]. Trong phương pháp này, yếu tố cần
nghiên cứu là biến phụ thuộc; biến độc lập là yếu tố tác động lên biến phụ thuộc
cần nghiên cứu; hiệp biến là các yếu tố tác động lên biến phụ thuộc cùng với
biến độc lập. Phương pháp này giúp hiệu chỉnh các hiệp biến và loại bỏ sự tác
động khác nhau của hiệp biến giữa hai nhóm nghiên cứu. Trong nghiên cứu
này, biến phụ thuộc là các chỉ số hình thái não; biến độc lập là tình trạng
bệnh/không bệnh; hiệp biến là tuổi, giới tính và thể tích nội sọ. Sử dụng phân
tích ANCOVA để kiểm soát sự ảnh hưởng khác biệt của các yếu tố tuổi, giới
tính và thể tích nội sọ cho thấy rõ sự ảnh hưởng chỉ của tình trạng bệnh đối với
các chỉ số hình thái não bộ [87].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, việc loại bỏ sự ảnh hưởng của các yếu
tố nhiễu được áp dụng cả ở giai đoạn thiết kế và thu thập mẫu, phản ánh qua
việc không có sự khác biệt về tuổi và giới giữa hai nhóm nghiên cứu. Đồng
thời, phương pháp phân tích ANCOVA được áp dụng để hiệu chỉnh yếu tố tuổi,
giới và thể tích nội sọ của hai nhóm. Nhờ vậy, loại bỏ yếu tố nhiễu và đánh giá
chính xác sự ảnh hưởng của tình trạng TTPL đối với sự thay đổi hình thái não
bộ trong nghiên cứu.
4.2.1. Về hình thái não chung trong bệnh tâm thần phân liệt
4.2.1.1. Đặc điểm thể tích nội sọ, não thất, não chung
Hộp sọ là một khung xương vững chắc, ổn định sau khi trưởng thành; thể
tích hộp sọ hầu như ít bị ảnh hưởng trong các bệnh lý có thay đổi về cấu trúc và
thể tích não như Alzheimer, teo não sinh lý… Trong các nghiên cứu về hình thái
não bộ, thể tích nội sọ là một trong những chỉ số đại diện cho hộp sọ cần phải
đưa vào tính toán để kiểm soát sự ảnh hưởng của kích thước đầu [18], [87].
81
Trong nghiên cứu hiện tại thể tích nội sọ của nhóm bệnh và nhóm chứng
là tương đương (Bảng 3.3, ICV ở nhóm bệnh là 1491,53 ± 154,82 cm3 và ở
nhóm chứng là 1520,36 ± 131,14 cm3, p = 0,370). Thể tích nội sọ không khác
biệt giữa hai nhóm trong nghiên cứu là cơ sở cho việc đánh giá sự thay đổi về
đặc điểm hình thái não ở nhóm bệnh so với nhóm chứng được rõ ràng hơn.
Cùng với tuổi và giới, thể tích nội sọ là những hiệp biến trong phân tích hiệp
phương sai, góp phần tập trung làm rõ những liên hệ của yếu tố bệnh với những
thay đổi nếu có chỉ là của các cấu trúc não, mà không bị phân tán bởi những
yếu tố khác.
Giảm thể tích não toàn bộ, thân não, sự giãn rộng của não thất bên hai
bên, não thất ba và thể tích dịch não tủy ở nhóm TTPL so với nhóm chứng
(Bảng 3.3, 3.4) trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhiều kết quả của
nhiều nghiên cứu trước đây [3], [26], [58], [100], [102]. Harrison và cs. (2003)
báo cáo về sự giảm khối lượng não toàn bộ ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng,
giảm ở nam khoảng 3% và 3,7% ở nữ giới [102]. Tỷ lệ giảm thể tích não toàn
bộ tương tự cũng được nêu trong các báo cáo của Olabi và cs. (2000) [58]; cùng
với giảm thể tích não toàn bộ là sự giãn rộng của não thất bên và não thất ba ở
bệnh nhân TTPL. Sự giãn rộng của các não thất bên ở bệnh nhân TTPL cũng
thấy ngay trong nghiên cứu trên CT đầu tiên [26]. Phân tích tổng hợp kết quả
của 317 nghiên cứu trên 18.000 đối tượng nghiên cứu, Haijma và cs. (2013)
tìm thấy sự giảm của thể tích não toàn bộ và sự giãn rộng các não thất ở bệnh
nhân TTPL so với ở nhóm chứng [100]. Van Os và Kapur (2009) khi bàn luận
về bệnh TTPL có đề cập tới sự thay đổi cấu trúc hình thái của não bộ và quá
trình hóa sinh trong não ở giai đoạn cấp tính; sự thay đổi hình thái não bộ tìm
thấy ở 50% số bệnh nhân [3].
Tuy nhiên trong một số nghiên cứu tổng hợp cho thấy bên cạnh những
phát hiện có khác biệt, cũng hiện hữu những kết quả không có sự khác biệt về
82
thể tích não toàn bộ giữa nhóm TTPL và nhóm chứng [18], [21]. Phân tích 50
nghiên cứu hình ảnh MRI của Shenton và cs. (2001) cho thấy 11 nghiên cứu
(22%) tìm thấy sự khác biệt về thể tích não chung và có tới 39 nghiên cứu (78%)
không thấy sự khác biệt giữa nhóm TTPL và nhóm chứng [18]. Sự khác biệt
trong phân tích tổng hợp đó so với những nghiên cứu gần đây có thể do hạn chế
về công nghệ của các hệ thống MRI. Hầu hết các nghiên cứu được tổng hợp
trong nghiên cứu của Shenton và cs. (2001) sử dụng các hệ thống MRI cũ, có độ
phân giải thấp [18] và thêm nữa là độ dày lát cắt khá lớn, từ 0,5 đến 1 cm. Điều
này có thể dẫn tới sai số trong quá trình đo và không thể chỉ ra sự khác biệt về
thể tích ở khoảng vài % về thể tích não toàn bộ giữa hai nhóm nghiên cứu. Các
phân tích sau này của Haijma và cs. (2012) [100] hay của Olabi và cs. (2011)
[58] tổng hợp các nghiên cứu gần đây hơn. Những nghiên cứu này đã sử dụng
các hệ thống MRI có từ lực 1,5 Tesla và lớn hơn, với độ dày lát cắt mỏng hơn
rất nhiều, từ 1–2 mm. Với độ phân giải cao hơn, chi tiết hơn nên có thể phát hiện
được những khác biệt nhỏ hơn. Trong phân tích tổng hợp muộn hơn sau này của
nhóm Shenton và cs. (2010) [21] có nêu ra nguyên nhân những hạn chế có thể
đã làm không phát hiện được những thay đổi nhỏ trong các nghiên cứu được đề
cập trước đây [18]. Sử dụng hệ thống MRI có lực từ 1,5 Tesla trở lên trong nghiên
cứu hình thái não bộ cũng được chỉ ra và khuyến cáo [21].
Não thất là những khoang trống trong não chứa dịch não tủy. Thể tích
não thất giãn rộng gặp trong nhiều bệnh lý như bệnh Alzheimer, não úng thủy
và các bệnh thoái hóa thần kinh khác, khi đó tổ chức não bị teo bị thay thế bởi
dịch não tủy [21]. Giãn não thất cũng có thể là dấu hiệu giảm mô não ở những
vùng xung quanh hoặc phát triển chậm. Trong tổng kết của Shenton và cs.
(2010) đa số nghiên cứu cho thấy giảm thể tích não trên bệnh nhân TTPL, đồng
thời có giãn não thất bên, giãn sừng thái dương của não thất bên và chủ yếu ở
bên trái [21]. Điều này phù hợp với kết quả của chúng tôi, có giảm thể tích não,
83
giãn não thất và não thất bên bên trái (8,03 ± 3,26 cm3) giãn nhiều và rõ ràng
hơn so với bên phải (6,64 ± 2,80 cm3) (Bảng 3.3).
Ở não thất ba, kết quả của chúng tôi cho thấy sự giãn rộng ở nhóm TTPL
(1,12 ± 0,34 cm3) so với ở nhóm chứng (0,80 ± 0,34 cm3), tương đồng với kết
quả của Becker và cs. [36]. Tuy nhiên, Shenton và cs. (1992) [40], Roy và cs.
(1998) [54] không thấy sự thay đổi của não thất ba.
Đồi thị gần não thất ba, vì vậy, giãn rộng não thất ba có thể có liên quan
tới giảm thể tích của đồi thị trong bệnh TTPL. Giãn não thất ba có thể do sự
phát triển bất thường hoặc sự thoái hóa thần kinh của đồi thị [18]. Kết quả giảm
thể tích đồi thị (Bảng 3.25) phù hợp với giả thuyết này.
Ở não thất bốn, một số báo cáo cho thấy không có sự thay đổi về kích
thước của não thất bốn, như kết quả của chúng tôi (Bảng 3.3), nhưng Keshavan
và cs. (1998) lại cho rằng có sự thay đổi về kích thước của não thất bốn [55].
Chúng tôi không thấy sự khác biệt về thể tích của tiểu não hai bên giữa hai
nhóm nghiên cứu, tương đồng với các kết quả được công bố trước đây [18], [58],
Sự tăng thể tích dịch não tủy trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả
của Olabi và cs. (2011) [58] và nghiêng về giả thuyết do sự giảm thể tích não.
Nhiều nghiên cứu trước đây không đưa ra được nhiều bằng chứng về sự
thay đổi của não bộ theo thời gian. Những nghiên cứu gần đây cho rằng sự thay
đổi của não bộ diễn ra theo thời gian, đặc biệt là ngay sau khi khởi phát bệnh
[2], [18], [21]. Những thay đổi này có thể đã diễn ra trước khi xuất hiện các
triệu chứng đầu tiên (ví dụ, trong giai đoạn tiền triệu) [2]. Một số tác giả cho
rằng kích thước não bộ nhỏ có thể liên quan tới các biến chứng của thời kỳ
mang thai hoặc sự thay đổi về sự phát triển thần kinh [18], [21], [23], [45], hoặc
cả hai yếu tố đó, tuy nhiên vẫn cần những nghiên cứu để làm sáng tỏ [58], [102].
84
Bên cạnh những yếu tố đã được lưu ý có thể ảnh hưởng tới các chỉ số
trong nghiên cứu thể tích-hình thái não bộ (biến động tỷ lệ kích thước đầu/kích
thước não bộ ở quần thể, những yếu tố nhiễu như tuổi và giới tính), một số yếu
tố về điều kiện kinh tế xã hội, chỉ số thông minh và thiểu năng trí tuệ cũng được
đề cập tới khi nhìn vào sự khác biệt trong kết quả giữa các nghiên cứu [21],
[87]. Do chúng tôi đã đặt các điểm lưu ý trên trong phân tích, nên những phát
hiện về giảm thể tích não chung và giãn rộng của não thất trong TTPL trong
nghiên cứu hiện tại, tuy vừa có tương đồng với [21], [26], [58], [100], [102] và
cũng có cả chưa tương đồng với [18], [36] kết quả ở những nghiên cứu khác,
chúng vẫn cho thấy sự tin cậy trong phản ánh tập trung yếu tố bệnh lý với hình
thái não bộ.
4.2.1.2. Đặc điểm thể tích của chất xám và chất trắng của não
Tuy có giảm về thể tích não chung ở đối tượng bệnh, song các cấu trúc
làm nên vỏ não và các đường liên hệ có thay đổi song hành không là câu hỏi
được quan tâm tiếp trong nghiên cứu của chúng tôi. Xác định tổng thể tích khối
chất xám và chất trắng của não bộ (Bảng 3.5) cho thấy giảm rõ thể tích chất
trắng vỏ não hai bên ở nhóm TTPL (498,03 ± 57,05 cm3) so với ở nhóm chứng
(537,52 ± 51,69 cm3) (p < 0,001), song không có sự khác biệt về thể tích chất
xám trong toàn bộ não, thể tích chất xám dưới vỏ và thể tích chất xám của bán
cầu đại não giữa hai nhóm nghiên cứu, dù xu hướng ở nhóm TTPL có ít hơn (p
> 0,05). Trong các nghiên cứu trước đây Olabi và cs. về thể tích não [58] và
Harrison và cs. về khối lượng não [102] cũng đưa ra những kết quả tương tự.
Trong những nghiên cứu MRI khác vẫn cho thấy có sự thay đổi khối chất xám
ở một số vùng của não như vỏ não trán trước, thùy thái dương, thùy đỉnh và
thùy chẩm, cũng như thay đổi tổng thể tích khối chất xám, chất trắng [21], [101].
Giảm của cả khối chất xám và chất trắng của não ở bệnh nhân TTPL không chỉ
xảy ra ở giai đoạn muộn của bệnh mà cả từ thời kỳ khởi phát bệnh [58].
85
Giảm thể tích chất trắng được cho là có liên quan tới sự thay đổi cấu trúc
vi thể và phát triển của neuron, synap hay mạng lưới sợi [42], [44], [45]. Nghiên
cứu vi thể về cấu trúc não cho thấy có sự thay đổi của một số chất liên quan
hoạt động phát triển cấu trúc tế bào thần kinh hay giảm số lượng tế bào thưa
nhánh ở một số vùng có liên quan tới trí nhớ và học tập của não người như vùng
hải mã [42], giảm mật độ của các lưới sợi, đặc biệt liên quan tới các lưới sợi
neuron liên hợp ở vỏ não trán [23]. Những phát hiện này cho thấy một số cơ
chất có thể liên quan tới sự kiến tạo của lưới chất trắng được giả thiết có vai trò
trong bệnh học TTPL. Tuy hiện tại chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu về cấu
trúc vi thể, chúng tôi cũng suy nghĩ tới giả thuyết về thay đổi của các hệ chất-
lưới nêu trên (và có thể còn hơn nữa các yếu tố) với giảm thể tích chất trắng,
và có thể chỉ từ thay đổi nhỏ đó cũng có thể gây ảnh hưởng lớn tới chức phận
của não do ảnh hưởng tới chất trắng – trọng yếu của các liên hệ trong não. Thêm
nữa, tuy hiện chưa thấy sự thay đổi trong tổng chất xám toàn bộ não, nhưng
phân tích ở các cấu trúc khu biệt vẫn cho thấy thay đổi về độ dày chất xám (hồi
trán trên, Bảng 3.6), về thể tích chất xám (hải mã, hạnh nhân, Bảng 3.21) ở
những cấu trúc cũng liên quan tới các hoạt động thần kinh phức tạp (trí nhớ, ra
quyết định hành động, xúc cảm – thường có biểu hiện sút giảm trong TTPL) –
gợi ý rằng những nghiên cứu định khu về chất xám vẫn không thừa trong nghiên
cứu TTPL.
4.2.2. Về hình thái thùy trán trong bệnh tâm thần phân liệt
Thuỳ trán chiếm hai phần ba não người, đảm nhiệm nhiều chức năng,
tham gia nhiều quá trình liên quan tới vận động, chú ý, nhận thức, cảm xúc và
ra quyết định… [103]. Sự quan tâm tới những biến đổi của thùy trán trong bệnh
TTPL xuất phát từ những quan sát về sự thiểu năng trong nhận thức và lệch lạc
trong cư xử liên quan với kích thước thùy trán bị tổn thương [28], [51].
86
Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành phân tích đặc điểm hình thái não trán
ở từng vùng chức năng chuyên biệt khác nhau, gồm hồi trán trên, hồi trán giữa,
hồi trán dưới, hổi ổ mắt, hồi trước trung tâm, hồi cạnh trung tâm, vỏ não trán
trước (Hình 2.4); các thể tích của các vùng nhỏ và độ dày chất xám, thể tích khối
chất trắng được phân tích và đánh giá (Bảng 3.6–3.13) và điểm lại sau đây:
Hồi trán trên: thể tích hồi trán trên bên trái, bên phải, thể tích chất trắng
bên trái ở nhóm TTPL giảm so với ở nhóm chứng, nhưng không thấy khác biệt
về thể tích chất trắng bên phải của hồi trán trên giữa hai nhóm. Độ dày chất
xám vỏ não hồi trán trên ở cả hai bên giảm so với ở nhóm chứng.
Hồi trán giữa, hồi trán dưới, hồi ổ mắt, cực trán: có giảm thể tích chất
xám và chất trắng ở một số vùng não như thể tích não phần trước, chất trắng
phần trước và phần sau của hồi trán giữa, giảm độ dày chất xám vỏ não ở phần
trước cả hai bên và phần sau của hồi trán giữa; giảm thể tích chất trắng phần ổ
mắt, phần tam giác và độ dày chất xám vỏ não phần nắp bên phải, phần ổ mắt
bên trái, phần tam giác bên phải của hồi trán dưới; giảm thể tích não phần trong
và thể tích chất trắng của phần trong hồi ổ mắt; giảm thể tích chất trắng cả hai
bên; giảm độ dày chất xám vỏ não bên phải của cực trán so với ở nhóm chứng
(chi tiết xem Bảng 3.7–3.9).
Hồi trước trung tâm và hồi cạnh trung tâm: là các vùng vỏ não có chức
năng điều chỉnh các hoạt động vận động. Các chỉ số về thể tích não toàn bộ và
độ dày chất xám vỏ não không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Thể tích chất
trắng bên trái của hồi trước trung tâm và thể tích chất trắng hai bên của hồi cạnh
trung tâm ở nhóm TTPL giảm so với ở nhóm chứng.
Các hồi trán trên, hồi trán giữa, hồi trán dưới, hồi ổ mắt, cực trán là những
vùng thuộc vỏ não trán trước. Tổng hợp trong nghiên cứu cho thấy các vùng
này ở đối tượng TTTPL có sự giảm về độ dày chất xám vỏ não, giảm thể tích
87
não, giảm tổng thể tích não ở vùng vỏ não trán trước cả hai bên so với ở nhóm
chứng. Wible và cs. (1995) [28] đã tiến hành đo vỏ não của toàn bộ thùy trán ở
lát cắt dày 1,5 mm, không thấy sự khác biệt trong các chỉ số chất xám và chất
trắng giữa bệnh nhân TTPL và nhóm chứng, nhưng thấy thể tích chất xám ở
vùng vỏ não trán trước bên trái có liên quan tới sự giảm thể tích của phức hợp
hạch nhân – hải mã bên trái, thùy thái dương trên bên trái và cạnh hải mã trái ở
nhóm TTPL. Những phát hiện này cho thấy rằng, những sự khác nhau ở vỏ não
trán trước có thể quá nhỏ để có thể xác định. Vỏ não trán trước được xác định
có vai trò quan trọng trong chức năng nhận thức, cảm xúc, trí nhớ. Vỏ não trán
trước là chiếm phần lớn thùy trán, ngoại trừ hồi trước trung tâm, hồi cạnh trung
tâm và vùng tiền vận động. Vùng này cũng chiếm tới 30% tân não ở người, có
các kết nối đến và đi tới nhiều vùng khác của vỏ não, cũng như các cấu trúc
dưới vỏ và hạch nền [18], [103].
Kết quả phân tích đặc điểm hình thái não các vùng nhỏ hơn thuộc thuỳ
trán cho thấy có sự khác nhau về sự thay đổi ở các vùng đảm nhiệm các chức
năng khác nhau. Những vùng phụ trách chức năng vận động của thuỳ trán như
tiểu thuỳ cạnh trung tâm và hồi trước trung tâm không thấy có sự thay đổi có ý
nghĩa về đặc điểm hình thái của hồi trước trung tâm và tiểu thùy cạnh trung tâm
ngoài thể tích chất trắng bên trái. Ngược lại, các vùng chức năng như hồi trán
trên, giữa, dưới, hồi ổ mắt và cực trán có liên quan tới hoạt động nhận thức thấy
có những sự khác biệt đáng kể giữa nhóm bệnh và nhóm chứng. Kết quả cho
thấy có sự giảm thể tích hồi trán trên, giảm thể tích chất trắng của hồi trán giữa,
thể tích chất trắng phần tam giác của hồi trán dưới thể tích phần trong của hồi
ổ mắt và thể tích chất trắng của cực trán. Điều này cho thấy có sự thay đổi thể
tích không đồng đều của vỏ não trán trước cũng như thuỳ trán. Điểm đáng chú
ý là hầu hết độ dày chất xám của các khu vực khác nhau của vỏ não trán trước
giảm so với nhóm chứng. Sự giảm độ dày của chất xám vỏ não rất rõ ở hồi trán
88
trên ở cả hai bên; ở phần trước của hồi trán giữa; một số vị trí của hồi trán dưới
như vùng phần nắp bên phải, phần ổ bên trái và phần tam giác bên phải; độ dày
chất xám vỏ não của hồi ổ mắt bên trái. Điều này cho thấy sự thay đổi của thể
tích của vỏ não trán tập trung chủ yếu vào sự giảm độ dày của chất xám vỏ não.
Điều này cũng thể hiện rõ khi so sánh thể tích vỏ não trán trước.
Khi nghiên cứu phân tích các vùng nhỏ hơn của thuỳ trán Buchanan và
cs. (1998) cho thấy giảm thể tích của chất trắng ở bệnh nhân TTPL [29],
Goldstein và cs. (1999) báo cáo hồi trán giữa giảm từ 7 đến 15% thể tích [30],
còn Gur và cs. (2000) cho thấy giảm thể tích vỏ não hồi trán trước khoảng 9%
ở nam và 11% ở nữ [31]. Trái lại, Baare và cs. (1999) [32] không tìm thấy sự
khác biệt giữa nhóm TTPL và nhóm chứng ở vỏ não trán trước; mặc dù vậy,
nghiên cứu này vẫn lưu ý có sự liên quan giữa giảm thể tích chất xám ở vỏ não
trán trước bên trái và phải với sự giảm trí nhớ từ và trí nhớ hình ảnh.
Thể tích não toàn bộ của thùy đảo, thể tích chất trắng và độ dày chất xám
vở não của thùy đảo không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Trong nghiên cứu
của Walton và cs. (2017) không thấy sự thay đổi của thể tích thùy đảo ở nhóm
TTPL [104], còn Honea và cs. (2005) [105] lại thấy giảm thể tích chất xám của
thùy đảo bên trái ở nhóm TTPL [105] và Tanskanen và cs. (2010) thấy giảm
thể tích chất xám thùy đảo hai bên ở nhóm TTPL [57].
Từ kết quả của các nghiên cứu phân tích các cấu trúc phân vùng nhỏ ở
thùy trán của các nghiên cứu của các tác giả trước đây [29], [30], [31], [32],
[57], [104], [105] và của chúng tôi gợi ý tới khía cạnh kỹ thuật phục vụ mục
đích nghiên cứu. Baare và cs. sử dụng hệ thống máy MRI 0,5 Tesla với độ dày
lát cắt là 1,2 mm [32]. Việc sử dụng hệ thống MRI 0,5 Tesla, với từ lực nhỏ
hơn nhiều so với hệ thống 1,5 Tesla, làm giảm độ phân giải của ảnh phân tích,
làm giảm mức độ chi tiết của hình ành và bởi vậy có thể không cho thấy sự thay
đổi nhỏ của thể tích não trong TTPL, như phản ánh trong kết quả của Baare và
89
cs. không thấy ở những cấu trúc nhỏ thùy trán trên bệnh nhân TTPL. Độ mạnh
của từ trường ở các hệ thống MRI ảnh hưởng tới độ phân giải của hình ảnh
MRI và kết quả nghiên cứu đã được nêu ra trong đánh giá của Shenton và cs.
(2010) [21]. Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành trên hệ thống MRI 1,5
Tesla, với độ dày lát cắt là 1 mm x 1mm x 1mm. Với lực từ lớn, độ dày của lát
cắt nhỏ giúp tăng độ chính xác của kết quả đo và phát hiện được sự thay đổi
nhỏ của độ dày và thể tích não trong TTPL.
4.2.3. Về hình thái thùy thái dương trong bệnh tâm thần phân liệt
Thuỳ thái dương được nghiên cứu rất sớm trong bệnh TTPL do triệu
chứng điển hình của TTPL là ảo thanh được cho là có nguyên nhân ở hồi thái
dương. Southard (1915) cũng lưu ý về bất thường của thùy thái dương khi phẫu
tích não bộ của bệnh nhân TTPL sau khi chết và đặc biệt nhấn mạnh sự thay
đổi về giải phẫu đại thể ở vùng vỏ não của thùy thái dương trái, liên quan tới
triệu chứng ảo thanh trong TTPL (theo [18]). Nghiên cứu hiện tại phân tích đặc
điểm hình thái não của thùy thái dương với các phân vùng hồi thái dương trên,
giữa, dưới, hồi thái dương ngang, hồi cạnh hải mã, vỏ não nội khứu, hải mã,
hạnh nhân và cực thái dương (Hình 2.4; Bảng 3.15–3.23).
4.2.3.1. Đặc điểm hình thái các hồi của thuỳ thái dương ở mặt ngoài bán cầu
Phân tích các cấu trúc của mặt ngoài của hồi thái dương cho thấy có sự
giảm thể tích của hồi thái dương trên bên trái, thể tích chất trắng bên trái, thể
tích chất trắng bên phải của hồi thái dương trên; giảm thể tích hồi thái dương
giữa bên trái; giảm độ dày chất xám vỏ não bên trái của hồi thái dương giữa;
giảm thể tích chất trắng hồi thái dương dưới bên trái ở nhóm TTPL so với ở
nhóm chứng. Tuy nhiên, không có sự khác biệt về thể tích hồi thái dương trên
bên phải và độ dày chất xám vỏ não hai bên của hồi thái dương trên; thể tích
hồi thái dương giữa bên phải, thể tích chất trắng hai bên, độ dày chất xám vỏ
90
não ở bên phải của hồi thái dương giữa; thể tích não hai bên, thể tích chất trắng
bên phải và độ dày chất xám vỏ não hai bên của hồi thái dương dưới.
Giảm thể tích của hồi thái dương trên bên trái và thể tích chất trắng của
hồi thái dương trên bên phải ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p<0,05) thấy
trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhiều kết quả nghiên cứu trước đây
trên hình ảnh MRI não. Các kết quả nghiên cứu này cho thấy thể tích của hồi
thái dương trên bên trái giảm thể tích, kết quả này đã khẳng định những phát
hiện giảm thể tích hồi thái dương trên ở tử thi bị TTPL mà trước đó được cho
là không có căn cứ [18], [21]. Barta và cs. (1990) đưa ra báo cáo đầu tiên rằng
thể tích hồi thái dương trên (phần trước) giảm 11% có tương quan với ảo thanh
[34]; Shenton và cs. (1992) báo cáo kết quả giảm 15% thể tích hồi thái dương
trên bên trái (phía sau) có tương quan với rối loạn tư duy, hoang tưởng [40].
Sau này, Barta và cs. (1997) [115], Holinger và cs. (1999) [36] và Marsh và cs.
(1997) [106] cũng đưa ra khẳng định tương tự như của Shenton và cs. (1992)
[40]. Giảm thể tích chất xám của hồi thái dương trên ở bệnh nhân TTPL cũng
thấy trong nghiên cứu của Hirayasu và cs. (1998) [38], Velakoulis và cs. (1999)
[43] và giảm thể tích khối chất xám ở hồi thái dương trên ở bệnh nhân rối loạn
nhân cách dạng tâm thần không được điều trị của Dickey và cs. (1999) [107].
Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu còn cho thấy sự biến đổi của hồi thái dương trên
có liên quan tới những triệu chứng trong TTPL [37], [108]. Flaum và cs. (1995)
tìm thấy các triệu chứng tâm thần dương tính có liên quan với sự giảm thể tích
hồi thái dương trên [108], còn Holinger và cs. (1999) thấy giảm thể tích của hồi
thái dương trên bên phải ở những bệnh nhân nam giới thuận tay trái [37]. Tuy
không phải tất cả, nhưng nhìn chung là có nhiều nghiên cứu cho thấy có giảm
thể tích thùy thái dương trên trong TTPL và có một số liên quan tới những rối
loạn chức năng được cho là điều khiển qua hồi này, và những khác biệt trong
phương pháp phân tích hình ảnh (độ dày lát cắt, từ lực) giữa các nghiên cứu có
91
thể góp phần cho sự không đồng nhất về kết quả [41]. Hồi thái dương trên là
phần vỏ não của thùy thái dương ngay phía dưới rãnh Sylvius, có hồi Heschl’s
- là vùng vỏ não thính giác - dọc theo mặt trên, và ở phía sau hơn về trái là vùng
Wernicke (vùng 41 và 42 của Brodman) - là vùng ngôn ngữ [41], [109]. Những
nghiên cứu cho thấy sự thay đổi của hồi thái dương trên dường như có tính đặc
trưng cho bệnh TTPL. Nhận định về sự thay đổi của hồi thái dương trên liên
quan tới những rối loạn trong TTPL phù hợp với các nghiên cứu kích thích các
vùng não thuộc hồi thái dương trên [109], [110] và cũng có cơ sở về định khu
giải phẫu [41], [109]. Kích thích điện ở phần trước của thùy thái dương trên
gây ra ảo thanh phức tạp và rối loạn trí nhớ từ [109] và rối loạn tư duy xuất hiện
ở bệnh nhân động kinh khi được kích thích ở phần sau của hồi thái dương trên
[110]. Những biểu hiện rối loạn khi bị kích thích vùng này tương tự các triệu
chứng quyết định trong bệnh TTPL, như suy giảm khả năng nhớ từ, rối loạn tư
duy và ảo thanh. Do vậy vùng não này được đặc biệt quan tâm của các nhà
nghiên cứu về TTPL.
Ở hồi thái dương giữa, có giảm thể tích toàn bộ và độ dày chất xám vỏ
não bên trái, nhưng không thấy khác biệt của chất trắng vỏ não bên trái và cấu
trúc ở bên phải, cho thấy có sự thay đổi của chất xám của hồi thái dương giữa
ở bệnh TTPL. Hồi thái dương giữa bao gồm cả hải mã, hạnh nhân và hồi cạnh
hải mã. Thay đổi về đặc điểm hình thái của hồi thái dương giữa trong nghiên
cứu của chúng tôi bao gồm giảm thể tích khối chất trắng hai bên, giảm độ dày
chất xám vỏ não bên trái của hồi cạnh hải mã giảm; giảm thể tích hải mã hai
bên và giảm thể tích hạnh nhân bên phải ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng.
Phát hiện về sự giảm thể tích ở hồi thái dương giữa và giảm thể tích của các
cấu trúc hải mã, hạnh nhân, hồi cạnh hải mã và cả sự giãn rộng của não thất
bên (Bảng 3.4) trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các kết quả của
nhiều nghiên cứu trước đây trên giải phẫu bệnh cũng như hình ảnh MRI [18],
92
[43], [57], [105]. Giảm thể tích của hải mã và hạnh nhân không chỉ xuất hiện ở
những bệnh nhân mạn tính mà diễn ra ở giai đoạn đầu của bệnh TTPL [43],
song hành cùng với sự giảm của thể tích não tăng dần theo thời gian bị bệnh
[57]. Sự biến đổi khác nhau về thể tích hải mã và hạnh nhân giữa hai bán cầu
đại não cũng đã được nêu ra từ khá lâu [18]. Theo tổng hợp của Shenton và cs.
(2001) [18], phần lớn trong số 49 nghiên cứu chỉ ra rằng giảm thể tích phức
hợp hải mã-hạnh nhân chủ yếu ở bên trái [18], tương tự như trong kết quả của
chúng tôi - giảm nhiều hơn ở bên trái so với ở bên phải. Nestor và cs. (1993)
[39] chú ý tới sự liên quan giữa giảm khả năng nhớ từ, khái niệm trừu tượng và
phân loại hóa và sự giảm thể tích ở cả hồi cạnh hải mã và phần sau của hồi thái
dương trên. Nestor và cs. luận giải những kết quả vừa nêu cho thấy sự rối loạn
hệ thống ngôn ngữ trong TTPL.
Các cấu trúc của hồi thái dương trên và hồi thái dương giữa có sự tương
quan với sự giảm thể tích của hải mã, hạnh nhân, hồi cạnh hải mã là một điểm
đáng chú ý [40], cho thấy các vùng não này có sự liên quan về thay đổi chức
năng với thay đổi cấu trúc - như giảm thể tích [39].
4.2.4. Về hình thái hồi đai trong bệnh tâm thần phân liệt
Không có sự khác biệt về thể tích các phần của hồi đai giữa hai nhóm
trong nghiên cứu của chúng tôi, tuy nhiên độ dày chất xám vỏ não phần eo của
hồi đai hai bên ở nhóm TTPL giảm hơn so với ở nhóm chứng. Một số nghiên
cứu cũng đã công bố sự thay đổi thể tích của hồi đai trong TTPL và ở một số
nghiên cứu khác lại không thấy [18]. Điều này có thể do sự thay đổi còn phụ
thuộc vào thời gian biến đổi, như sự giảm dần theo thời gian của thể tích não
trong TTPL dẫn tới bắt đầu thể hiện bằng giảm độ dày chất xám rồi mới tới giảm
thể tích của vỏ não vùng này [111]. Hồi đai là vùng vỏ não nối giữa hệ thống
limbic và tân não, được phân chia thành bốn phần gồm phần mỏ, phần đuôi trước,
phần sau và phần eo [97] (Hình 2.4). Các phần của hồi đai tham gia nhiều chức
93
năng khác nhau như cảm xúc, nhận thức, chú ý và trí nhớ, cảm giác đau và hoạt
động vận động [111]. Chúng tôi cho rằng với sự phân chia của hồi đai về cấu
trúc và sự tham gia các hoạt động thần kinh của các phần hồi đai cũng đa dạng,
có thể dẫn tới sự thay đổi mang tính chất phân đoạn – liên quan tới những liên
hệ và chức năng của phần – như đã thấy trong kết quả của chúng tôi.
4.2.5. Về hình thái một số nhân xám trong bệnh tâm thần phân liệt
Tuy phân tích tổng thể tích chất xám dưới vỏ không thấy sự khác biệt
giữa hai nhóm nghiên cứu (Bảng 3.5), nhưng điều đó không cho thấy hết những
đặc điểm từng cấu trúc chất xám trong đó có một số nhân xám dưới vỏ, do
chúng gồm nhiều nhân có vai trò khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu này phân tích
xác định những nhân có chức năng trong nhận thức, trí nhớ và cảm xúc. Kết
quả phân tích được trình bày trên Bảng 3.25
Các cấu trúc dưới vỏ gồm nhiều nhân khác nhau, không phải nhân nào
cũng đóng vai trò trong hoạt động nhận thức và cảm xúc. Vì vậy, nghiên cứu này
tiến hành phân tích từng nhân xám dưới vỏ tập trung xác định những nhân có
chức năng trong hoạt động nhận thức, trí nhớ và cảm xúc (Bảng 3.25). Tuy phân
tích tổng thể tích chất xám dưới vỏ không thấy sự khác biệt giữa hai nhóm nghiên
cứu (Bảng 3.5), nhưng phân tích chi tiết tới từng nhóm nhân dưới vỏ cho thấy
thể tích đồi thị bên trái, thể tích nhân vân bụng hai bên, nhân bèo sẫm phải và
nhân cầu nhạt bên trái giảm ở nhóm bệnh TTPL; không có sự khác biệt về thể
tích đồi thị bên phải, thể tích nhân bèo sẫm bên trái và nhân cầu nhạt phải giữa
hai nhóm nghiên cứu, nhưng thể tích nhân đuôi hai bên tăng ở nhóm TTPL.
Đồi thị gồm các nhân, đóng vai trò là trạm trung gian, nhận tín hiệu từ
nhiều vùng não khác nhau, cũng như thể lưới hoạt hóa, hệ limbic. Đồi thị cũng
đóng vai trò là trung tâm xử lý và lọc thông tin từ các tín hiệu cảm giác. Các
chức năng này xuất phát từ sự kết nối hỗ trợ giữa các nhân bụng trước và nhân
94
lưng trong của đồi thị và vỏ não trán trước. Giảm thể tích đồi thị có thể ảnh
hưởng tới liên hệ, sàng lọc thông tin và hoạt hóa vỏ não.
Các nhân hạch nền gồm nhân đuôi, nhân bèo xẫm, nhân bèo nhạt được
tập trung nghiên cứu trong TTPL vì: i) đây là sự kéo dài của hệ dopamin tới thể
vân (nhân đuôi, nhân bèo xẫm và nhân vân bụng); ii) các thuốc điều trị hiệu
quả TTPL tác động lên các thụ thể dopamin; và iii) vai trò quan trọng của các
cấu trúc này trong nhận thức, cảm giác và quá trình vận động [18].
Tăng thể tích của nhân đuôi hai bên cũng được báo cáo trong những
nghiên cứu tổng hợp về MRI trước đây, tuy nhiên, một số nghiên cứu khác cũng
công bố sự giảm thể tích của một số cấu trúc của các nhân nền, như nhân đuôi
và thể lưới ở bệnh nhân TTPL [18], [41]. Trong các nghiên cứu tìm thấy thể
tích nhân hạch nền tăng, một phát hiện quan trọng ở các đối tượng này là sử
dụng các thuốc loạn thần [18]. Điều này cho thấy việc sử dụng liều cao thuốc
chống loạn thần làm tăng kích thước của nhân đuôi, trong đó thuốc an thần điển
hình gây tăng thể tích các nhân nền và các thuốc an thần không điển hình không
gây ảnh hưởng này [112]. Phát hiện về thay đổi của những cấu trúc dưới vỏ ở
nhóm bệnh TTPL, đặc biệt là tăng thể tích nhân đuôi hai bên, một cấu trúc
thuộc hạch nền, gợi ý cho những nghiên cứu quan tâm tới sự liên hệ giữa hình
thái của những cấu trúc não với điều trị.
4.2.6. Về hình thái thể chai trong bệnh tâm thần phân liệt
Thể chai là khối chất trắng lớn nhất được cấu trúc bởi các sợi trục được
bao bọc myelin, tạo thành các đường liên hệ kết nối giữa hai bán cầu đại não.
Dựa trên các kết nối của thể chai xác định bằng cộng hưởng từ khuếch tán chia
nó theo trục trước sau thành năm phần, là: phần mỏ và gối thể chai (I); phần
trước (II), phần giữa (III), phần sau của thân thể chai (IV) và phần lồi thể chai
(V) (Hình 1.3B) [50]. Phần I kết nối giữa hai vỏ não trán trước, phần II kết nối
giữa hai vùng tiền vận động, phần III kết nối giữa hai vùng vận động, phần IV
95
kết nối giữa hai vùng sau trung tâm và phần V kết nối phần còn lại của thùy
đỉnh, thùy thái dương và thùy chẩm giữa hai bán cầu (Hình 1.3A) [50].
Kết quả phân tích thể chai trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thể
tích của phần II và III giảm ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng; các phần khác
còn lại của thể chai (phần I, phần IV và phần V) không có sự khác biệt giữa hai
nhóm. Giảm thể tích của các phần II và III, là tập hợp các kết nối giữa hai vùng
tiền vận động và vùng vận động của thuỳ trán, phù hợp với sự giảm của thể tích
chất trắng tại các cấu trúc này, đối với hồi trước trung tâm cũng như hồi cạnh
trung tâm. Sự phù hợp này còn thấy ở cả các khu vực của hồi trán trên, hồi trán
giữa và hồi trán dưới (Bảng 3.6 , 3.7).
Giảm hoạt động xử lý thông tin ở bệnh nhân TTPL có liên quan tới những
bất thường của quá trình trao đổi thông tin giữa hai bán cầu – vai trò chủ yếu
do thể chai đảm nhiệm. Các nghiên cứu trên xác cho thấy thể chai dày hơn ở
bệnh nhân TTPL so với nhóm chứng. Trong số 27 nghiên cứu thể chai có 17
nghiên cứu cho kết quả dương tính và 10 nghiên cứu không thấy có sự khác
biệt giữa hai nhóm. Sự khác biệt này có thể do sự khác nhau giữa các phương
pháp đo và ước lượng thể tích của vùng dẫn tới có sự không thuần nhất về kết
quả của các nghiên cứu [18].
4.3. Về đa hình gen trong bệnh tâm thần phân liệt
4.3.1. Về đa hình rs821616 gen DISC1 trong bệnh tâm thần phân liệt
Gen DISC1 mã hóa protein DISC1, protein này góp phần quan trọng vào
sự phát triển thần kinh và sự trưởng thành của não bộ, gồm sự tái tạo, biệt hóa,
di chuyển của tế bào thần kinh, cấu trúc não, vận chuyển nội bào, dẫn truyền
qua synap, biểu hiện mạnh mẽ ở hệ thần kinh trung ương, đặc biệt là vùng hồi
hải mã và vỏ não [60].
96
Đoạn gen DISC1 488 bp chứa đa hình rs821616 được khuếch đại thành
công để tiến hành giải trình tự trực tiếp xác định kiểu gen của đa hình này (Hình
3.1). Có ba kiểu gen của đa hình rs821616 được xác định là AA, AT và TT.
Sau giải trình tự, dữ liệu được phân tích trên phần mềm SeqScape 2.6 (Hình
4.1. A: đỉnh màu lục; T: đỉnh màu đỏ; xem Hình 3.2). Trình tự phân tích trên
phần mềm này được so sánh với trình tự tham chiếu. Trên hình, trình tự của
mỗi mẫu là một hàng, các mẫu có trình tự phù hợp với trình tự tham chiếu được
thể hiện bằng các dấu chấm. Các mẫu có kiểu gen dị hợp tử A/T được ký hiệu
bằng chữ W. Bên cạnh việc phần mềm tự động xác định kiểu gen dựa trên các
đỉnh tín hiệu của dữ liệu, chúng tôi cũng kiểm tra từng đỉnh tại các vị trí của đa
hình rs821616, để đảm bảo tính chính xác của việc xác định kiểu gen tự động.
Đặc biệt với các mẫu có kiểu gen dị hợp tử xuất hiện đồng thời hai đỉnh tín hiệu
của các nucleotit A và T, nhằm loại trừ việc xác định kiểu gen không đúng do
tín hiệu bị nhiễu. Có 12 mẫu thuộc nhóm TTPL và 12 mẫu thuộc nhóm chứng
có tín hiệu giải trình tự bị nhiễu không xác định được kiểu gen hoặc khuếch đại
nhiều lần không thành công đã bị loại trước khi tiến hành các bước phân tích
tiếp theo. Vì vậy, số mẫu xác định được kiểu gen của rs821616 ở nhóm TTPL
và nhóm chứng lần lượt là 100 và 101 mẫu (Bảng 3.28).
Sự di truyền của đa hình rs821616 ở gen DISC1 ở cả nhóm bệnh và nhóm
chứng đều tuân theo cân bằng Hardy-Weinberg, cho thấy sự di truyền đa hình
này ở hai nhóm nghiên cứu không chịu ảnh hưởng của các yếu tố đột biến và
hôn nhân cận huyết. Tần suất alen A ở nhóm TTPL là 0,98, ở nhóm chứng là
0,9; tần suaát alen T ở nhóm TTPL và nhóm chứng lần lượt là 0,06 và 0,1;
không có sự khác biệt về tần suất các alen của đa hình rs821616 giữa nhóm
TTPL và nhóm chứng.
Sự phân bố kiểu gen của đa hình rs821616 ở nhóm TTPL và nhóm chứng
được đều có sự xuất hiện của cả ba kiểu gen đồng hợp tử AA, TT và dị hợp tử
97
AT trong quần thể nghiên cứu. Sự phân bố kiểu gen AA, TT và AT ở nhóm
TTPL là 89%; 1% và 10%; ở nhóm chứng lần lượt là 80,2%; 0% và 19,8%;
không có sự khác biệt giữa nhóm TTPL và nhóm chứng. Tổng hợp các kết quả
trên cho thấy không có sự khác biệt về tần suất alen và sự phân bố kiểu gen của
đa hình rs821616 giữa hai nhóm nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
phù hợp với các kết quả nghiên cứu đa hình rs821616 và TTPL trước đây [11],
[12]. Norlelawati và cs. (2015) [11] đã xác định kiểu gen của 11 đa hình trong
đó có rs821616, ở cả tộc người Mã Lai và Trung Quốc, nhưng chỉ phát hiện được
hai đa hình là rs4658971 và rs1538979 có liên quan tới TTPL, mà không tìm ra
được mối liên hệ nào giữa rs821616 với căn bệnh này. Kim và cs. (2008) [12]
nghiên cứu 303 bệnh nhân TTPL Hàn Quốc và 300 người khỏe mạnh, không
thấy sự liên quan của đa hình rs821616 với bệnh TTPL, tuy nhiên lại phát hiện
được sự liên quan giữa đa hình này với kém khả năng tập trung ở nhóm TTPL.
Ratta-Apha và cs. (2013) [113] nghiên cứu trên 503 bệnh nhân (243 nam, 260
nữ) và 511 bệnh chứng khỏe mạnh (225 nam, 286 nữ) ở Nhật Bản, xác định kiểu
gen của các đối tượng, cũng không tìm thấy sự liên hệ giữa rs821616 với TTPL.
Trong nỗ lực tiếp theo, nhóm đã tiến hành một phân tích tổng hợp từ nghiên cứu
của họ kết hợp với bốn nghiên cứu khác cũng ở Nhật Bản, và kết quả cũng không
cho thấy mối liên quan nào giữa rs821616 với TTPL. Nhóm cũng thực hiện hóa
mô miễn dịch DISC1 với mẫu từ vỏ não trán trước của đối tượng TTPL và chứng,
cho thấy giảm biểu hiện protein DISC1 ở nhóm TTPL, nhưng đa hình rs821616
(Ser704Cys) không ảnh hưởng tới hóa miễn dịch DISC1. Các kết quả này cung
cấp thêm bằng chứng rằng đa hình này không phải là cơ sở bệnh nguyên TTPL
ở người Nhật Bản [113].
98
Hình 4.1. Hình ảnh minh họa phân tích đa hình rs821616 gen DISC1.
99
Trái lại cũng có nhiều nghiên cứu cho thấy có sự liên quan của rs821616
với bệnh TTPL được công bố trước đây [7], [8]. Một nghiên cứu khác cũng ở
người Hán của Qu và cs. (2007) [8] trên nhiều đa hình của của gen DISC1 (gồm
rs821616, rs821597, rs4658971 và rs843979) lại cho thấy rs821616 là một
trong hai đa hình có tín hiệu mạnh liên hệ với bệnh TTPL. Các phân tích liên
kết gen cũng của các đa hình trên cho thấy một số tổ hợp gen liên quan với
TTPL, đặc biệt là những tổ hợp có chứa rs821616. Như vậy, đa hình rs821616
có thể đóng vai trò quan trọng trong sự tương tác với các đa hình khác liên quan
tới tính dễ mắc bệnh TTPL. Callicott và cs. (2005) [7] xác định mối liên quan
của nhiều đa hình thấy rs821616 có tín hiệu mạnh nhất liên quan tới bệnh TTPL.
Đa hình rs821616 thuộc exon số 11 của gen DISC1 nằm trên nhiễm sắc
thể số 1 ở người, có nucleotit T thay thế cho A và tần xuất alen, gây ra sự thay
thế Serin bằng Cystein tại vị trí 704 của protein DISC1, nên rs821616 còn được
gọi là S704C hoặc Ser704Cys [62], [63]. Sự thay đổi protein này có thể là
nguyên nhân làm thay đổi hoạt tính của protein DISC1 trong quá hình hoạt
động và phát triển của hệ thống thần kinh trung ương. Điều đó có thể có liên hệ
tới kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy có sự liên quan của rs821616 với
triệu chứng lâm sàng [66], [67] và biến đổi hình thái não [64], [68]. Vanzquez
và cs. (2015) [67] thấy liên quan của đa hình rs821616 với mức độ nặng của
các triệu chứng dương tính ở một số biểu hiện ảo giác tại thời điểm khởi phát
bệnh ở người da trắng. Những cá thể kiểu gen đồng hợp của alen Serin sẽ có
những biểu hiện trầm trọng hơn so với những người mang alen Cystein [66].
Trên bệnh nhân loạn thần cùn mòn cảm xúc cho thấy cá thể có kiểu gen đồng
hợp alen A (rs821616) có khả năng cải thiện các hoạt động vận động tốt hơn so
với những người mang alen T. Tìm hiểu về rs821616 với sự thay đổi hình thái
não, Hashimoto và cs. (2006) [64] thấy những khác biệt về kiểu gen của
rs821616 với sự giảm thể tích của hồi đai, giảm thể tích chất xám phía trước
100
hồi đai, hồi đai sau; sự giảm rõ ràng chất trắng; tất cả đều được tìm thấy ở
những người khỏe mạnh mang Cys704 khi so sánh với những người khỏe mạnh
khác mang kiểu gen đồng hợp Ser704. Li và cs. (2013) [68] cũng thấy sự giảm
hàm lượng chất não trắng ở những người mang alen Cys.
Cũng có những nghiên cứu quan tâm tới rs821616 và tính kháng thuốc
điều trị ở bệnh nhân TTPL, như của Mouafak và cs. (2011) [62] ở cả người
Pháp da trắng và ở người Nhật Bản của Hotta và cs. (2011) [114]. Tuy nhiên
các nghiên cứu này đều cho thấy liên hệ âm tính của rs821616 với tính kháng
thuốc ở cả các chủng tộc ở Âu và Á.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhiều kết quả nghiên cứu
trên chủng tộc người châu Á như Malaysia [11], Hàn Quốc [12], Nhật Bản
[113] và không phù hợp với một số nghiên cứu trong đó có cả các nghiên cứu
trên chủng tộc người châu Âu [7] và châu Á [8]. Điều này có thể do sự phân bố
khác nhau về tần số các alen của đa hình này trên các chủng tộc người khác
nhau, ở các khu vực khác nhau, dẫn tới có sự dị biệt trong kết quả. Minh chứng
cho giả thuyết này là kết quả của Gong và cs. (2014) [53] tìm thấy sự khác biệt
giữa tần số alen A của rs821616 trong quần thể người da trắng (0,300) và người
châu Á (0,068), cho thấy sự phân bố khác nhau các alen của rs821616 trên
những quần thể người khác nhau. Đây có thể là nguyên nhân của sự khác nhau
về sự ảnh hưởng của đa hình này ở các chủng tộc hay quần thể.
Tóm lại, các kết quả nghiên cứu đã phần nào cho thấy vai trò của
rs821616 trong bệnh sinh của TTPL. Nghiên cứu này là nghiên cứu mở đầu ở
Việt Nam về đa hình rs821616 và bệnh TTPL đã không tìm thấy sự liên quan
giữa đa hình và TTPL. Tuy nhiên, nghiên cứu mở đầu của chúng tôi có thể bị
ảnh hưởng bởi cỡ mẫu chưa đủ lớn và sự phân tầng di truyền. Vì vậy, cần có
những nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để làm rõ hơn sự liên quan của các đa
hình với TTPL, trong đó có rs821616. Bên cạnh đó, các nghiên cứu đánh giá
101
vai trò của các đa hình nói chung với các khía cạnh khác nhau của TTPL vẫn
là lĩnh vực đang được để mở.
4.3.2. Về đa hình rs4680 gen COMT trong bệnh tâm thần phân liệt
Gen COMT (Catechol-O-methyl transferase) mã hóa cho protein có chức
năng xúc tác - enzym COMT - liên quan tới quá trình thoái hóa các chất dẫn
truyền thần kinh nhóm catecholamine. Nghiên cứu đa hình trên gen này tập
trung vào một đa hình quyết định đến hoạt tính của enzyme COMT, đa hình
Val158Met (rs4680).
Tương tự như đa hình rs821616, nghiên cứu đa hình rs4680 được thực
hiện qua các công đoạn gồm khuếch đại đoạn gen chứa đa hình, giải trình tự
gen, phân tích dữ liệu bằng phần mềm Seqcape 2.6. Kết quả khuếch đại đoạn
gen COMT chứa đa hình rs4680 với các băng sản phẩm 178 bp, đủ kích thước,
chất lượng và số lượng để thực hiện phương pháp giải trình tự trực tiếp. Giải
trình tự trực tiếp xác định được ba kiểu gen của đa hình rs821616 là đồng hợp
tử AA, đồng hợp tử GG và dị hợp tử AG (Hình 4.2. A: đỉnh màu lam; G: đỉnh
màu đen; xem Hình 3.4). Tương tự quy trình xác định kiểu gen của đa hình
rs821616, Quá trình xác định kiểu gen của rs4680 có 10 mẫu thuộc nhóm TTPL
và 12 mẫu thuộc nhóm chứng không xác định được kiểu gen do các nguyên
nhân khác nhau, nên số mẫu xác định được kiểu gen của rs4680 nhóm TTPL
và nhóm chứng lần lượt là 102 và 101. Sự phân bố kiểu gen của đa hình rs4680
ở nhóm bệnh và nhóm chứng thấy có tuân theo cân bằng Hardy-Weinberg, cho
thấy sự di truyền của đa hình này không bị ảnh hưởng bởi yếu tố hôn nhân cận
huyết và đột biến. Không có khác biệt về tần suất các alen và sự phân bố kiểu
gen của đa hình rs4680 giữa nhóm bệnh và nhóm chứng, cũng như không thấy
sự liên quan của đa hình rs4680 với TTPL ở cả giới nam và giới nữ trong nghiên
cứu của chúng tôi.
102
Hình 4.2. Hình ảnh minh họa phân tích đa hình đa hình rs4680 gen COMT.
103
Kết quả về đa hình rs4680 và TTPL của chúng tôi phù hợp với các nghiên
cứu trước đây trên người châu Á như Nhật Bản [75], Trung Quốc [115]. Nghiên
cứu tổng hợp trên người châu Á cũng thấy kết quả tương tự [116]. Gonzalez-
Castro và cs. (2016) nghiên cứu tổng hợp với 32.816 đối tượng, tìm thấy sự liên
quan của đa hình rs4680 với bệnh TTPL trên toàn bộ quần thể dân số. Tuy
nhiên, khi đánh giá trên quần thể người châu Âu với người châu Á riêng biệt
thấy có sự khác biệt: đa hình rs4680 chỉ liên quan với bệnh TTPL ở người châu
Âu và không có sự liên quan ở người châu Á [115]. Kết quả nghiên cứu này
cũng phù hợp với những khẳng định của Okochi và cs. (2009) về sự liên quan
của đa hình này và TTPL ở người châu Âu và không thấy có ở người châu Á
[75]. Tuy nhiên, Costas và cs. (2011) [76] phân tích tổng hợp với số lượng
nghiên cứu lớn hơn, gồm 51 nghiên cứu, với hướng phân tích tập trung vào
mức độ ưu thế quá mức của COMT, điều này chưa được phân tích trong nghiên
cứu trước đây của Okochi và cs. [76], lại cho thấy đa hình rs4680 có tính nhạy
cảm với mắc rối loạn tâm thần ở điều kiện quá mức, tức nồng độ dopamin quá
thấp hay quá cao đều có thể là yếu tố nguy cơ của bệnh. Kết quả của một số
nghiên cứu mới đây cũng cho thấy kết quả không thống nhất ở một số chủng
tộc khác nhau [77], [78].
Đa hình rs4680 (G>A) làm Valine được thay bằng methionin (Val/Met)
ở vị trí 158 (Val158Met) ở dạng enzym bám màng (MB-COMT) và ở vị trí 108
(Val108Met) là dạng hòa tan ngắn hơn (S-COMT) 50 axít amin. Đa hình này
làm thay đổi trình tự axit amin của enzym, hoạt động của enzym giảm xuống 4
lần quá trình thoái hóa của dopamin ở khe synap do hoạt động của COMT.
Vai trò của COMT khác nhau tại các vùng não khác nhau. Kênh vận
chuyển dopamin từ khe synap trở về màng trước synap ở vùng trán trước rất ít
nên COMT đóng vai trò chủ yếu trong điều hòa hoạt động dopamin ở thùy trán.
Điểm đa hình (Val/Met) của gen COMT làm tăng hoạt động enzym COMT lên,
104
do vậy làm giảm hoạt động của hệ dopaminergic và hoạt động của thùy trán.
Bởi COMT và đa hình rs4680 tham gia vào các hoạt động thần kinh thông qua
việc ảnh hưởng tới các hệ chất truyền đạt thần kinh, nên nghiên cứu về đa hình
này được cho là có ý nghĩa về khía cạnh tìm hiểu cơ chế bệnh sinh của TTPL
[80], [117].
Suy giảm hoạt động trí tuệ, nhận thức trong TTPL được cho là liên quan
với những bất thường của chất trắng và những thay đổi dạng thoái hóa của
myelin ở vỏ não. Poletti và cs. (2016) [117] cho rằng đa hình rs4680
(Val158Met) có thể ảnh hưởng tới sự liên hệ giữa những chức năng nhận thức
và siêu cấu trúc chất trắng ở những bệnh nhân TTPL. Poletti và cs. (2016) đã
tìm thấy mối liên quan của đa hình rs4680 kiểu gen Val/Val với cấu trúc vi thể
của chất trắng [117]. Các phát hiện này ủng hộ giả thuyết về vai trò quan trọng
của myelin hóa với hoạt động nhận thức, nhấn mạnh tới những đặc điểm cấu
trúc chất trắng như những đặc điểm sinh thần kinh cho hoạt động nhận thức.
Xu và cs. (2017) [80] lại đặt vấn đề về tương tác của các gen và đa hình với
COMT có thể ảnh hưởng tới thể tích chất xám vỏ não, và đã thấy sự tương tác
của đa hình rs4680 gen COMT và rs1344706 gen ZNF804A tới sự giảm thể tích
chất xám ở vỏ não trán trước ở người khỏe mạnh [80]. Nkam và cs. (2017) [81]
cũng cho thấy kiểu gen Val/Val của đa hình rs4680 liên quan đến sự tăng các
lỗi trong các bài đánh giá. Matsuzaka và cs. (2017) [81] thấy các đa hình của
COMT liên quan tới TTPL và điều hòa hoạt động nhận thức ở cả bệnh nhân
TTPL và người bình thường. Trong hướng tìm hiểu mối liên quan của đa hình
rs4680 với triệu chứng tâm thần, Vercammen và cs. (2014) [79] tìm thấy tăng
alen của rs4680 liên quan tới giảm hoạt động của hồi trán trước, còn Mao và
cs. (2016) [115] thấy liên quan của đa hình này với triệu chứng âm tính ở người
Hán Trung Quốc.
105
Kết quả của các nghiên cứu cho thấy có sự liên quan của COMT tới cơ
chế bệnh sinh của bệnh TTPL. Tuy nhiên, các kết quả vẫn chưa có sự thống
nhất ở các chủng tộc khác nhau, giữa các nghiên cứu khác nhau và giữa những
cách tiếp cận khác nhau. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi hiện tại không thấy
sự liên quan của đa hình rs4680 với bệnh TTPL ở người Việt Nam, có thể cũng
phù hợp chung với những phát hiện ở người châu Á trong nhiều nghiên cứu
trước đây [75], [115], [116]. Tuy nhiên, các đánh giá về sự liên quan của đa
hình gen và các sự biến đổi hình thái não để tìm ra cơ chế và sự ảnh hưởng của
đa hình rs4680 nói riêng và các đa hình khác trong bệnh TTPL cần tiếp tục
được nghiên cứu sâu hơn, về từng khía cạnh, từ cơ chế bệnh sinh tới triệu chứng,
từ cấu trúc tới những hoạt động chức năng.
106
KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu chúng tôi rút ra những kết luận về đặc điểm hình
thái não và đa hình gen DISC1 và COMT ở bệnh nhân TTPL người Việt, như sau:
1. Đặc điểm hình thái não ở bệnh nhân tâm thần phân liệt
- Thể tích não chung: giảm thể tích não toàn bộ, thân não, giảm thể tích
chất trắng vỏ não hai bên và sự giãn rộng của não thất bên hai bên, não thất ba
và thể tích dịch não tủy ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p < 0,05).
- Thùy trán: giảm thể tích hồi trán trên bên trái, bên phải, thể tích chất
trắng bên trái; thể tích chất xám và chất trắng ở một số vùng não như thể tích
não phần trước, chất trắng phần trước và phần sau của hồi trán giữa, giảm độ
dày chất xám vỏ não ở phần trước cả hai bên và phần sau của hồi trán giữa;
giảm thể tích chất trắng phần ổ mắt, phần tam giác và độ dày chất xám vỏ não
phần nắp bên phải, phần ổ mắt bên trái, phần tam giác bên phải của hồi trán
dưới; giảm thể tích não phần trong và thể tích chất trắng của phần trong hồi ổ
mắt; giảm thể tích chất trắng cả hai bên; giảm độ dày chất xám vỏ não bên phải
của cực trán ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p < 0,05). Không có sự khác
biệt về thể tích não và độ dày chất xám vỏ não của hồi trước trung tâm và hồi
cạnh trung tâm giữa hai nhóm nghiên cứu. Tổng thể tích não ở vùng vỏ não
trán trước giảm cả hai bên ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng.
- Thùy thái dương: giảm thể tích của hồi thái dương trên bên trái, thể tích
chất trắng bên trái, thể tích chất trắng bên phải của hồi thái dương trên; giảm
thể tích hồi thái dương giữa bên trái; giảm độ dày chất xám vỏ não bên trái của
hồi thái dương giữa; giảm thể tích chất trắng hồi thái dương dưới bên trái ở
nhóm TTPL so với ở nhóm chứng (p < 0,05). Giảm thể tích khối chất trắng hai
bên, độ dày chất xám vỏ não bên trái của hồi cạnh hải mã giảm ở nhóm TTPL
107
so với ở nhóm chứng; giảm thể tích thể tích hải mã hai bên và giảm thể tích
hạnh nhân bên phải ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng.
- Hồi đai, nhân dưới vỏ và thể trai: không có sự khác biệt về thể tích các
phần của hồi đai giữa hai nhóm. Tuy nhiên độ dày chất xám vỏ não của phần
eo của hồi đai hai bên giảm hơn so với nhóm chứng; thể tích nhân đuôi hai bên
tăng, thể tích đồi thị bên trái, thể tích nhân vân bụng hai bên, nhân bèo sẫm
phải, nhân cầu nhạt bên trái giảm ở nhóm bệnh TTPL so với ở nhóm chứng (p
< 0,05); thể tích phần II và III thể chai giảm ở nhóm TTPL so với ở nhóm chứng
(p < 0,01).
2. Đặc điểm đa hình gen DISC1 và COMT trong bệnh tâm thần phân liệt
- Sự di truyền của đa hình rs821616 của gen DISC1 và đa hình rs4680 của
gen COMT tuân theo luật cân bằng Hardy-Weinberg ở cả nhóm TTPL và chứng.
- Tần suất các alen của đa hình rs821616 ở nhóm TTPL là 0,94 (A) và
0,06 (T); ở nhóm chứng là 0,9 (A) và 0,1 (T); Sự phân bố của ba kiểu gen AA,
TT và AT ở nhóm TTPL lần lượt là 89%; 1% và 10%; Ở nhóm chứng lần lượt
là 80,2%; 0% và 19,8%; không có sự khác biệt về sự phân bố kiểu gen và tần
số alen giữa hai nhóm nghiên cứu (p > 0,05). Không có sự khác biệt về sự phân
bố kiểu gen giữa hai nhóm nghiên cứu ở nữ giới và ở nam giới.
- Tần suất alen A, G ở nhóm TTPL lần lượt là 50 (24,51%) và 154
(75,49%); ở nhóm chứng lần lượt là 55 (27,22%) và 147 (72,78%); Sự phân bố
của kiểu gen AA, GG và AG ở nhóm TTPL lần lượt là 6,86%, 57,84 và 35,3%;
Ở nhóm chứng lần lượt là 7,92%; 53,47% và 38,61%. Không khác biệt về tần
suất alen và sự phân bố kiểu gen của đa hình rs4680 giữa nhóm TTPL và nhóm
(p > 0,05). Không có sự khác biệt về sự phân bố kiểu gen giữa hai nhóm nghiên
cứu ở nữ giới và ở nam giới.
108
KIẾN NGHỊ
Qua quá trình nghiên cứu, tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:
- Do có nhiều khó khăn về kinh tế, thời gian và kỹ thuật, vì vậy cỡ mẫu
của nghiên cứu còn hạn chế cả về nghiên cứu hình thái não và gen. Các nghiên
cứu tiếp theo cần có cỡ mẫu lớn hơn, phân tích trên nhiều gen hơn và có thể
phân tích toàn hệ gen.
- Đánh giá phân tích hình thái não trong nghiên cứu của chúng tôi tập
trung vào độ dày vỏ não, thể tích chất xám và thể tích chất trắng. Việc tìm hiểu
sự liên hệ của các vùng có sự biến đổi về hình thái não là cần thiết. Kỹ thuật
DTI là kỹ thuật phù hợp để có thể đánh giá có hay không sự thay đổi số lượng
các axon giữa các vùng này.
109
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Dang Tien Truong, Nguyen Duy Bac, Pham Minh Dam, Tran Hai Anh
(2017). No association between rs821616 of disc1 gene and susceptibility to
schizophrenia in a vietnamese population, Journal of Military Pharmaco-
medicine, 42 (7): 48-52.
2. Dang Tien Truong, Nguyen Duy Bac, Tran Hai Anh, Tran Ngoc Anh
(2017). Gray and white matter reduction in schizophrenia patients”, Journal of
Military Pharmaco-medicine, 42 (9): 656-661.
3. Dang Tien Truong, Nguyen Duy Bac, Pham Minh Dam, Tran Hai Anh
(2017). “Val158Met polymophism in the catechol-o-methyltransferase gene
and schizophrenia in a Vietnamese population, Journal of 108 – Clinical
medicine and pharmacy, 12 (9): 1-5.
110
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Quang Huy (2017). Tâm thần phân liệt. Trong: Giáo trình Tâm thần học, (Cao Tiến Đức và Bùi Quang Huy, biên soạn). Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội: 178–200.
2. Harrison P.J. (1999). The neuropathology of schizophrenia. A critical review
of the data and their interpretation. Brain, 122( Pt 4): 593–624.
3. Van Os J., Kapur S. (2009) Schizophrenia. Lancet, 374(9690): 635–645.
a
4. Lachman H.M., Papolos D.F., Saito T., et al. (1996). Human catechol-O- methyltransferase pharmacogenetics: description of functional polymorphism and its potential application to neuropsychiatric disorders. Pharmacogenetics, 6(3), 243–250.
5. Li T., Sham P.C., Vallada H., et al. (1996). Preferential transmission of the high activity allele of COMT in schizophrenia. Psychiatric Genetics, 6(3), 131–133.
6. Owen M.J., Williams N.M., O'Donovan M.C. (2004). The molecular genetics of schizophrenia: new findings promise new insights. Molecular Psychiatry, 9(1): 14–27.
7. Callicott J.H., Straub R.E., Pezawas L., et al. (2005). Variation in DISC1 affects hippocampal structure and function and increases risk for schizophrenia. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America, 102(24): 8627–8632.
8. Qu M., Tang F., Yue W., et al. (2007). Positive association of the Disrupted- in-Schizophrenia-1 gene (DISC1) with schizophrenia in the Chinese Han population. American journal of medical genetics, 144B(3): 266–270.
9. Luo X., Jin C., Zhou Z., et al. (2015). New findings support the association of DISC1 genetic variants with susceptibility to schizophrenia in the Han Chinese population. Psychiatry Research, 228(3): 966–968.
10. Luo X., Jin C., Zhou Z., et al. (2016). Association study of DISC1 genetic variants with the risk of schizophrenia. Psychiatric Genetics, 26(3):132–135.
111
11. Norlelawati A.T., Kartini A., Norsidah K., et al. (2015). Disrupted-in- Schizophrenia-1 SNPs and Susceptibility to Schizophrenia: Evidence from Malaysia. Psychiatry Investigation, 12(1): 103–111.
12. Kim H.J., Park H.J., Jung K.H., et al. (2008). Association study of polymorphisms between DISC1 and schizophrenia in a Korean population. Neuroscience Letters, 430(1): 60–63.
13. Nguyễn Giang Hòa, Nguyễn Duy Bắc, Nguyễn Minh Hải và cs. (2011). Biến đổi khoảng cách liên móc và thể tích vùng hải mã trên phim cộng hưởng từ sọ não ở bệnh nhân Alzheimer. Tạp chí Sinh lý học Việt Nam, 2(15): 15–21.
14. Phạm Thị Nguyên, Đặng Tiến Trường, Phạm Minh Đàm và cs. (2013). Nghiên cứu thể tích thùy trán và thể tích đồi thị trên phim cộng hưởng từ ở bệnh tâm thần phân liệt. Tạp chí Sinh lý học Việt Nam, 17(02): 20–25.
15. Vũ Đức Vượng, Nguyễn Lê Chiến, Trần Hải Anh và cs. (2013). Nghiên cứu thể tích thể chai, não thất trên phim cộng hưởng từ ở bệnh nhân tâm thần phân liệt. Tạp chí Sinh lý học Việt Nam, 14(2): 14–19.
16. Đỗ Xuân Tĩnh, Nguyễn Thành Lê, Cao Tiến Đức (2014). Nghiên cứu thay đổi kích thước, thể tích hải mã ở bệnh nhân tâm thần phân liệt. Tạp chí Y Dược học Quân sự, 5, 132–139.
17. Nguyễn Thanh Bình (2010). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và nồng độ Dopamine huyết tương ở bệnh nhân tâm thần phân liệt thể paranoid, Luận án tiến sỹ Y học, Học viện Quân y.
18. Shenton M.E., Dickey C.C., Frumin M., et al. (2001). A review of MRI
findings in schizophrenia. Schizophrenia Research, 49(1-2): 1–52.
19. American Psychiatric Association (1994). Pervasive Developmental Disorders. In: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fourth Edition. Washington, DC, American Psychiatric Association, pp 65–78.
112
20. American Psychiatric Association (2013). Schizophrenia spectrum and other psychotic disorders. In: Diagnostic and statistical manual of mental disorders, Fifth Edition. Arlington, VA, 87–122. 13.
21. Shenton M.E., Whitford T.J., Kubicki M. (2010). Structural neuroimaging in schizophrenia: from methods to insights to treatments. Dialogues in clinical neuroscience, 12(3): 317–332.
22. Abi-Dargham A., Grace A.A. (2011), Dopamine and schizophrenia. In: Schizophrenia, 3rd ed. (eds. Weinberger D.R., Harrison P.J.): 413–432, Wiley-Blackwell, Oxford, UK. 16.
23. Selemon L.D., Goldman-Rakic P.S. (1999). The reduced neuropil hypothesis: a circuit based model of schizophrenia. Biological Psychiatry, 45(1): 17–25.
24. Carlsson A., Waters N., Holm-Waters S., et al. (2001), Interactions between monoamines, glutamate, and GABA in schizophrenia: new evidence, Annual Reviews of Pharmacology and Toxicology 41, 237–260.
25. Jorgensen K.N., Nesvag R., Gunleiksrud S., et al. (2016). First- and second- generation antipsychotic drug treatment and subcortical brain morphology in schizophrenia. European archives of psychiatry and clinical neuroscience, 266(5): 451–460.
26. Smith R.C., Calderon M., Ravichandran G.K., et al. (1984). Nuclear magnetic resonance in schizophrenia: a preliminary study. Psychiatry Research, 12(2): 137–147.
27. Andreasen N., Nasrallah H.A., Dunn V., et al. (1986). Structural abnormalities in the frontal system in schizophrenia. A magnetic resonance imaging study. Archives of General Psychiatry, 43(2): 136–144.
28. Wible C.G., Shenton M.E., Hokama H., et al. (1995). Prefrontal cortex and schizophrenia. A quantitative magnetic resonance imaging study. Archives of General Psychiatry, 52(4): 279–288.
113
29. Buchanan R.W., Vladar K., Barta P.E., et al. (1998). Structural evaluation of the prefrontal cortex in schizophrenia. American Journal of Psychiatry, 155(8): 1049–1055.
30. Goldstein J.M., Goodman J.M., Seidman L.J., et al. (1999). Cortical abnormalities in schizophrenia identified by structural magnetic resonance imaging. Archives of general psychiatry, 56(6): 537–547.
31. Gur R.E., Cowell P.E., Latshaw A., et al. (2000). Reduced dorsal and orbital prefrontal gray matter volumes in schizophrenia. Archives of general psychiatry, 57(8): 761–768.
32. Baare W.F., Hulshoff Pol H.E., Hijman R., et al. (1999). Volumetric analysis of frontal lobe regions in schizophrenia: relation to cognitive function and symptomatology. Biological psychiatry, 45(12): 1597–1605.
33. Johnstone E.C., Crow T.J., Frith C.D., et al. (1976). Cerebral ventricular size and cognitive impairment in chronic schizophrenia. Lancet, 2(7992): 924–926.
34. Barta P.E., Pearlson G.D., Powers R.E., et al. (1990). Auditory in
temporal gyral volume hallucinations and smaller superior schizophrenia. American Journal of Psychiatry, 147(11): 1457–1462.
35. Barta P.E., Pearlson G.D., Brill L.B., 2nd, et al. (1997). Planum temporale asymmetry reversal in schizophrenia: replication and relationship to gray matter abnormalities. American Journal of Psychiatry, 154(5): 661–667.
36. Becker T., Elmer K., Mechela B., et al. (1990). MRI findings in medial European schizophrenia. lobe structures
temporal in neuropsychopharmacology, 1(1): 83–86.
37. Holinger D.P., Shenton M.E., Wible C.G., et al. (1999). Superior temporal gyrus volume abnormalities and thought disorder in left-handed schizophrenic men. The American Journal of Psychiatry, 156(11): 1730–1735.
38. Hirayasu Y., Shenton M.E., Salisbury D.F., et al. (1998). Lower left temporal lobe MRI volumes in patients with first-episode schizophrenia compared with psychotic patients with first-episode affective disorder and
114
normal subjects. The American Journal of Psychiatry, 155(10): 1384– 1391.
39. Nestor P.G., Shenton M.E., McCarley R.W., et al.
(1993). Neuropsychological correlates of MRI temporal lobe abnormalities in schizophrenia. American Journal of Psychiatry, 150(12): 1849–1855.
40. Shenton M.E., Kikinis R., Jolesz F.A., et al. (1992). Abnormalities of the left temporal lobe and thought disorder in schizophrenia. A quantitative magnetic resonance imaging study. The New England Journal of Medicine, 327(9): 604–612.
41. Pearlson G.D. (1997). Superior temporal gyrus and planum temporale in Neuro- Progress selective review. in a
schizophrenia: Psychopharmacology & Biological Psychiatry, 21(8): 1203–1229.
42. Schmitt A., Steyskal C., Bernstein H.G., et al. (2009). Stereologic investigation of the posterior part of the hippocampus in schizophrenia. Acta Neuropathologica, 117(4): 395–407.
43. Velakoulis D., Pantelis C., McGorry P.D., et al. (1999). Hippocampal volume in first-episode psychoses and chronic schizophrenia: a high- resolution magnetic resonance imaging study. Archives of General Psychiatry, 56(2): 133–141.
44. Fatemi S.H., Earle J.A., Stary J.M., et al. (2001). Altered levels of the synaptosomal associated protein SNAP-25 in hippocampus of subjects with mood disorders and schizophrenia. Neuroreport, 12(15): 3257–3262.
45. Vawter M.P., Thatcher L., Usen N., et al. (2002). Reduction of synapsin in the hippocampus of patients with bipolar disorder and schizophrenia. Molecular Psychiatry, 7(6): 571–578.
46. Trịnh Văn Minh (2010). Hệ Thần kinh - Hệ nội tiết. Trong: Giải phẫu người,
tập 3, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 179–197.
47. Vũ Đức Mối (2002). Giải phẫu Học, Đầu mặt cổ - thần kinh, Nhà xuất Bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
115
48. M., Knipe Debowski Cerebral H.
hemisphere, https://radiopaedia.org/articles/ cerebral-hemisphere, accessed on October 17, 2016 (with images adapte from ‘Atlas and text-book of human anatomy’, Eds. J. Sobotta and J. P. McMurrich, 1908).
49. Carpenter M.B. (1985). Core text of neuroanatomy. (3rd ed.). Baltimore:
Williams & Wilkins Co.
50. Hofer S., Frahm J. (2006). Topography of the human corpus callosum tensor tractography using diffusion
revisited--comprehensive fiber magnetic resonance imaging. Neuroimage, 32(3): 989–994.
51. Damasio H., Grabowski T., Frank R., et al. (1994). The return of Phineas Gage: clues about the brain from the skull of a famous patient. Science, 264(5162): 1102–1105.
52. Green M.F. (2006). Cognitive impairment and functional outcome in schizophrenia and bipolar disorder. Journal of Clinical Psychiatry, 67(Suppl 9): 3–8.
53. Kubicki M., Niznikiewicz M., Connor E., et al. (2009). Relationship between white matter integrity, attention, and memory in schizophrenia: a diffusion tensor imaging study. Brain Imaging and Behavior, 3(2): 191–201.
54. Roy P.D., Zipursky R.B., Saint-Cyr J.A., et al. (1998). Temporal horn enlargement is present in schizophrenia and bipolar disorder. Biological Psychiatry, 44(6): 418–422.
55. Keshavan M.S., Haas G.L., Kahn C.E., et al. (1998). Superior temporal gyrus and the course of early schizophrenia: progressive, static, or reversible? Journal of Psychiatric Research, 32(3-4): 161–167.
56. Penfield W. (1959). The interpretive cortex; the stream of consciousness in the
human brain can be electrically reactivated. Science, 129(3365): 1719–1725.
57. Tanskanen P., Ridler K., Murray G.K., et al. (2010). Morphometric brain abnormalities in schizophrenia in a population-based sample: relationship to duration of illness. Schizophrenia Bulletin, 36(4): 766–777.
116
58. Olabi B., Ellison-Wright I., McIntosh A.M., et al. (2011). Are there progressive brain changes in schizophrenia? A meta-analysis of structural magnetic resonance imaging studies. Biological Psychiatry, 70(1): 88–96.
59. Sanchez-Pulido L., Ponting C.P. (2011). Structure and evolutionary history
of DISC1. Human Molecular Genetics, 20(R2): R175–181.
60. Palo O.M., Antila M., Silander K., et al. (2007). Association of distinct allelic haplotypes of DISC1 with psychotic and bipolar spectrum disorders and with underlying cognitive impairments. Human Molecular Genetics, 16(20): 2517–2528.
61. Zhou X., Geyer M.A., Kelsoe J.R. (2008). Does disrupted-in-schizophrenia
(DISC1) generate fusion transcripts? Molecular Psychiatry, 13(4): 361–363.
62. Mouaffak F., Kebir O., Chayet M., et al. (2011). Association of Disrupted in Schizophrenia 1 (DISC1) missense variants with ultra-resistant schizophrenia. The Pharmacogenomics Journal, 11(4): 267–273.
63. Raznahan A., Lee Y., Long R., et al. (2011). Common functional polymorphisms of DISC1 and cortical maturation in typically developing children and adolescents. Molecular Psychiatry, 16(9): 917–926.
64. Hashimoto R., Numakawa T., Ohnishi T., et al. (2006). Impact of the DISC1 Ser704Cys polymorphism on risk for major depression, brain morphology and ERK signaling. Human molecular genetics, 15(20): 3024–3033.
65. Gong X., Lu W., Kendrick K.M., et al. (2014). A brain-wide association study of DISC1 genetic variants reveals a relationship with the structure and functional connectivity of the precuneus in schizophrenia. Human Brain Mapping, 35(11): 5414–5430.
66. Vazquez-Bourgon J., Mata I., Roiz-Santianez R., et al. (2014). A Disrupted- is Associated with Clinical in-Schizophrenia 1 Gene Variant Symptomatology in Patients with First-Episode Psychosis. Psychiatry Investigation, 11(2): 186–191.
117
67. Vazquez-Bourgon J., Ayesa-Arriola R., Fatjo-Vilas M., et al. (2015). Effect of DISC1 polymorphisms on the long-term course of neurocognitive deficits in non-affective psychosis. European psychiatry, 30(7): 861–867.
68. Li Y., Liu B., Hou B., et al. (2013). Less efficient information transfer in Cys-allele carriers of DISC1: a brain network study based on diffusion MRI. Cerebral Cortex, 23(7): 1715–1723.
69. Nakata K., Lipska B.K., Hyde T.M., et al. (2009). DISC1 splice variants are upregulated in schizophrenia and associated with risk polymorphisms. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America, 106(37): 15873–15878.
70. Gothelf D., Law A.J., Frisch A., et al. (2014). Biological effects of COMT haplotypes and psychosis risk in 22q11.2 deletion syndrome. Biological psychiatry, 75(5): 406–413.
71. Henquet C., Rosa A., Krabbendam L., et al. (2006). An experimental study of catechol-o-methyltransferase Val158Met moderation of delta-9- tetrahydrocannabinol-induced effects on psychosis and cognition. Neuropsychopharmacology, 31(12): 2748–2757.
72. Henquet C., Krabbendam L., de Graaf R., et al. (2006). Cannabis use and expression of mania in the general population. Journal of Affective Disorders, 95(1-3): 103–110.
73. Costas J., Sanjuan J., Ramos-Rios R., et al. (2011). Interaction between COMT haplotypes and cannabis in schizophrenia: a case-only study in two samples from Spain. Schizophrenia Research, 127(1-3): 22–27.
74. Papaleo F., Burdick M.C., Callicott J.H., et al. (2014). Epistatic interaction between COMT and DTNBP1 modulates prefrontal function in mice and in humans. Molecular Psychiatry, 19(3): 311–316.
75. Okochi T., Ikeda M., Kishi T., et al. (2009). Meta-analysis of association between genetic variants in COMT and schizophrenia: an update. Schizophrenia Research, 110(1-3): 140–148.
118
76. Costas J., Sanjuan J., Ramos-Rios R., et al. (2011). Heterozygosity at catechol-O-methyltransferase Val158Met and schizophrenia: new data and meta-analysis. Journal of Psychiatric Research, 45(1): 7–14.
77. de Castro-Catala M., Barrantes-Vidal N., Sheinbaum T., et al. (2015). COMT-by-sex interaction effect on psychosis proneness. BioMed research international, 2015, 829237.
78. Zhang F., Liu C., Chen Y., et al. (2012). No association of catechol-O- methyltransferase polymorphisms with schizophrenia in the Han Chinese population. Genetic Testing and Molecular Biomarkers, 16(9): 1138–1141.
79. Vercammen A., Weickert C.S., Skilleter A.J., et al. (2014). Common to produce a in dopamine-related genes combine polymorphisms 'schizophrenia-like' prefrontal hypoactivity. Translational Psychiatry, 4, e356.
80. Xu Q., Xiong Y., Yuan C., et al. (2017). ZNF804A rs1344706 interacts with COMT rs4680 to affect prefrontal volume in healthy adults. Brain Imaging and Behavior, 12(1): 13–19.
81. Nkam I., Ramoz N., Breton F., et al. (2017). Impact of DRD2/ANKK1 and COMT Polymorphisms on Attention and Cognitive Functions in Schizophrenia. PLoS One, 12(1): e0170147.
82. Matsuzaka C.T., Christofolini D., Ota V.K., et al. (2017). Catechol-O- methyltransferase (COMT) polymorphisms modulate working memory in individuals with schizophrenia and healthy controls. Revista Brasileira de Psiquiatria, 39(4): 302–308.
83. Fischl B., van der Kouwe A., Destrieux C., et al. (2004). Automatically parcellating the human cerebral cortex. Cerebral Cortex, 14(1): 11–22.
84. Fischl B., Salat D.H., van der Kouwe A.J., et al. (2004). Sequence- independent segmentation of magnetic resonance images. Neuroimage, 23(Suppl 1): S69–84.
85. Fischl B. (2012). FreeSurfer. Neuroimage, 62(2): 774–781.
119
86. Cardinale F., Chinnici G., Bramerio M., et al. (2014). Validation of FreeSurfer-estimated brain cortical thickness: comparison with histologic measurements. Neuroinformatics, 12(4): 535–542.
87. Venkatasubramanian G., Jayakumar P.N., Gangadhar B.N., et al. (2008). Automated MRI parcellation study of regional volume and thickness of prefrontal cortex (PFC) in antipsychotic-naive schizophrenia. Acta Psychiatr Scand, 117(6): 420–431.
88. Desikan R.S., Segonne F., Fischl B., et al. (2006). An automated labeling system for subdividing the human cerebral cortex on MRI scans into gyral based regions of interest. Neuroimage, 31(3): 968–980.
89. Dale A.M., Fischl B., Sereno M.I. (1999). Cortical surface-based analysis.
I. Segmentation and surface reconstruction. Neuroimage, 9(2): 179–194.
90. Velasco-Annis C., Akhondi-Asl A., Stamm A., et al. (2018). Reproducibility of Brain MRI Segmentation Algorithms: Empirical Comparison of Local MAP PSTAPLE, FreeSurfer, and FSL-FIRST. Journal of neuroimaging, 28(2): 162–172.
91. Perlaki G., Horvath R., Nagy S.A., et al. (2017). Comparison of accuracy between FSL's FIRST and Freesurfer for caudate nucleus and putamen segmentation. Scientific Reports, 7(1): 2418.
92. Potvin O., Dieumegarde L., Duchesne S., et al. (2017). Freesurfer cortical normative data for adults using Desikan-Killiany-Tourville and ex vivo protocols. Neuroimage, 156, 43–64.
93. Chung S., Wang X., Lui Y.W. (2017). Influence of T1-Weighted Signal Intensity on FSL Voxel-Based Morphometry and FreeSurfer Cortical Thickness. AJNR. American journal of neuroradiology, 38(4): 726–728.
94. Backhausen L.L., Herting M.M., Buse J., et al. (2016). Quality Control of Structural MRI Images Applied Using FreeSurfer-A Hands-On Workflow to Rate Motion Artifacts. Frontiers in neuroscience, 10: 558.
95. Potvin O., Mouiha A., Dieumegarde L., et al. (2016). FreeSurfer subcortical
normative data. Data Brief, 9: 732–736.
120
96. Schoemaker D., Buss C., Head K., et al. (2016). Hippocampus and amygdala volumes from magnetic resonance images in children: Assessing accuracy of FreeSurfer and FSL against manual segmentation. Neuroimage, 129: 1–14.
97. Bjornebekk A., Westlye L.T., Walhovd K.B., et al. (2010). Everyday memory: self-perception and structural brain correlates in a healthy elderly population. Journal of the International Neuropsychological Society, 16(6): 1115–1126.
98. Benedetti F., Radaelli D., Poletti S., et al. (2011). Emotional reactivity in chronic schizophrenia: structural and functional brain correlates and the influence of adverse childhood experiences. Psychological Medicine, 41(3): 509–519.
99. Kim G.W., Kim Y.H., Jeong G.W. (2017). Whole brain volume changes and its correlation with clinical symptom severity in patients with schizophrenia: A DARTEL-based VBM study. PLoS One, 12(5): e0177251.
100. Haijma S.V., Van Haren N., Cahn W., et al. (2013). Brain volumes in schizophrenia: a meta-analysis in over 18 000 subjects. Schizophrenia bulletin, 39(5): 1129–1138.
101. Tanskanen P., Haapea M., Veijola J., et al. (2009). Volumes of brain, grey and white matter and cerebrospinal fluid in schizophrenia in the Northern Finland 1966 Birth Cohort: an epidemiological approach to analysis. Psychiatry Research, 174(2): 116–120.
102. Harrison P.J., Freemantle N., Geddes J.R. (2003). Meta-analysis of brain
weight in schizophrenia. Psychiatry Research, 64(1): 25–34.
103. Chayer C., Freedman M. (2001). Frontal lobe functions. Current
neurology and neuroscience reports, 1(6): 547–552.
104. Walton E., Hibar D.P., van Erp T.G.M., et al. (2018). Prefrontal cortical thinning links to negative symptoms in schizophrenia via the ENIGMA consortium. Psychological medicine, 48(1): 82–94.
121
105. Honea R., Crow T.J., Passingham D., et al. (2005). Regional deficits in in schizophrenia: a meta-analysis of voxel-based brain volume morphometry studies. The American journal of psychiatry, 162(12): 2233– 2245.
106. Marsh L., Harris D., Lim K.O., et al. (1997). Structural magnetic resonance imaging abnormalities in men with severe chronic schizophrenia and an early age at clinical onset. Archives of General Psychiatry, 54(12): 1104–1112.
107. Dickey C.C., McCarley R.W., Voglmaier M.M., et al. (1999). Schizotypal personality disorder and MRI abnormalities of temporal lobe gray matter. Biological psychiatry, 45(11): 1393–1402.
108. Flaum M., O'Leary D.S., Swayze V.W., 2nd, et al. (1995). Symptom dimensions and brain morphology in schizophrenia and related psychotic disorders. Journal of Psychiatric Research, 29(4): 261–276.
109. Penfield W., Perot P. (1963). The Brain's Record of Auditory and Visual Experience. A Final Summary and Discussion. Brain, 86, 595–696.
110. Haglund M.M., Ojemann G.A., Hochman D.W. (1992). Optical imaging of epileptiform and functional activity in human cerebral cortex. Nature, 358(6388): 668–671.
111. Koo M.S., Levitt J.J., Salisbury D.F., et al. (2008). A cross-sectional and longitudinal magnetic resonance imaging study of cingulate gyrus gray matter volume abnormalities in first-episode schizophrenia and first-episode affective psychosis. Archives of general psychiatry, 65(7): 746–760.
112. Borgwardt S.J., Smieskova R., Fusar-Poli P., et al. (2009). The effects of antipsychotics on brain structure: what have we learnt from structural imaging of schizophrenia? Current pharmaceutical design, 15(22): 2535–2549.
113. Ratta-Apha W., Hishimoto A., Mouri K., et al. (2013). Association analysis of the DISC1 gene with schizophrenia in the Japanese population and DISC1 immunoreactivity in the postmortem brain. Neuroscience Research, 77(4): 222–227.
122
treatment-resistant schizophrenia (TRS). Progress
114. Hotta Y., Ohnuma T., Hanzawa R., et al. (2011). Association study between Disrupted-in-Schizophrenia-1 (DISC1) and Japanese patients with in Neuro- Psychopharmacology & Biological Psychiatry, 35(2): 636–639.
115. Mao Q., Tan Y.L., Luo X.G., et al. (2016). Association of catechol-O- methyltransferase Val108/158 Met genetic polymorphism with schizophrenia, P50 sensory gating, and negative symptoms in a Chinese population. Psychiatry Research, 242, 271–276.
116. Gonzalez-Castro T.B., Hernandez-Diaz Y., Juarez-Rojop I.E., et al. (2016). The Role of a Catechol-O-Methyltransferase (COMT) Val158Met Genetic Polymorphism in Schizophrenia: A Systematic Review and Updated Meta-analysis on 32,816 Subjects. Neuromolecular medicine, 18(2): 216–231.
117. Poletti S., Mazza E., Bollettini I., et al. (2016). The COMT Val158Met polymorphism moderates the association between cognitive functions and white matter microstructure in schizophrenia. Psychiatric Genetics, 26(5): 193–202
123
PHỤ LỤC 1
1. Hình ảnh kết quả phân tích hình thái não bộ trên phần mềm Freeview của FreeSurfer 5.3
Hình PL1.1. Hình ảnh não chung sau khi loại bỏ toàn bộ da, xương, màng não.
Hình PL1.2. Hình ảnh minh họa xác định danh giới các hồi, thùy, các nhân xám, các não thất, các phần của thân não.
124
Hình PL1.3. Hình ảnh phân tách chất xám, chất trắng của các bán cầu đại não.
Hình PL1.4. Khối chất xám của bán cầu đại não.
125
Hình PL1.5. Xác định chất xám và chất trắng các hồi của các thùy não của bán cầu đại não.
Hình PL1.6. Hình ảnh tái tạo bán cầu đại não sau khi phân tích.
126
2. Hình ảnh minh họa kết quả phân tích đa hình gen DISC1 và COMT
2.1. Kết quả khuếch đại các đoạn chứa đa hình rs821616 của gen DISC1
Hình PL2.1. Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs821616 của các mẫu có vị trí A1 đến vị trí H6 trên plate nhóm bệnh.
Hình PL2.2. Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs821616 của các mẫu có vị trí A7 đến vị trí H12 trên plate nhóm bệnh.
127
Hình PL2.3. Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs821616 của các mẫu có vị trí A1 đến vị trí H6 trên plate nhóm chứng.
Hình PL2.4. Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs821616 của các mẫu có vị trí A7 đến vị trí H12 trên plate nhóm chứng.
128
Hình PL2.5. Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs821616 của các mẫu bệnh và chứng còn lại.
2.2. Kết quả khuếch đại các đoạn chứa đa hình rs4680 của gen COMT
Hình PL2.6. Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs4680 của các mẫu có vị trí A1 đến vị trí H6 trên plate nhóm bệnh.
129
Hình PL2.7. Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs4680 của các mẫu có vị trí A7 đến vị trí H12 trên plate nhóm bệnh.
Hình PL2.8. Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs4680 của các mẫu có vị trí A1 đến vị trí H6 trên plate nhóm chứng.
130
Hình PL2.9. Kết quả khuếch đại đoạn gen chứa đa hình rs4680 của các mẫu có vị trí A7 đến vị trí H12 trên plate nhóm chứng (marker 1kb, sản phẩm 178bp)
Hình PL2.10. Kết quả khuếch đại gen DISC1 và COMT nhóm bệnh và chứng.
131
PHỤ LỤC 2
DANH SÁCH ĐỐI TƯỢNG THAM GIA NGHIÊN CỨU