BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN QUÂN Y
NGUYỄN THÀNH QUANG
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI PHẠM TỘI Ở ĐỐI TƢỢNG RỐI LOẠN CẢM XÚC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN QUÂN Y
NGUYỄN THÀNH QUANG
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI PHẠM TỘI Ở ĐỐI TƢỢNG RỐI LOẠN CẢM XÚC Chuyên ngành: Khoa học thần kinh Mã số : 9720159
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. Bùi Quang Huy PGS.TS. Ngô Ngọc Tản
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thành Quang
LỜI CẢM ƠN
Với tất cả tấm lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin chân thành cảm ơn:
- Đảng ủy, Ban Giám đốc và Phòng sau đại học Học viện Quân y đã cho
phép và tạo mọi điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu
của tôi.
- Đảng ủy, Ban lãnh đạo Viện Pháp y Tâm thần Trung ƣơng Biên Hòa đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu
.
- PGS.TS Bùi Quang Huy, Chủ nhiệm Khoa Tâm thần Bệnh viện 103, ngƣời
thầy đã trực tiếp hƣớng dẫn và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành
luận án này.
- PGS.TS Ngô Ngọc Tản, Nguyên chủ nhiệm Bộ môn Tâm thần và Tâm lý Y
học Học viện Quân y, ngƣời thầy đã trực tiếp hƣớng dẫn, sửa chữa, đóng góp
cho tôi nhiều ý kiến quí báu để tôi hoàn thiện luận án này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- Ban chủ nhiệm và toàn thể các thầy cô Bộ môn Tâm thần và Tâm lý Y
học- Học viện Quân y đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và lời cám ơn chân thành tới:
- Gia đình, Ngƣời thân và các bạn bè đồng nghiệp yêu quí đã luôn bên
cạnh tôi, động viên và hết lòng giúp đỡ tôi trong học tập và hoàn thành luận
án này.
Hà Nội, ngày 01 tháng 7năm 2019
Nguyễn Thành Quang
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục biểu đồ
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................... 3
1.1. Đặc điểm về rối loạn cảm xúc ................................................................ 3
1.1.1. Khái niệm về rối loạn cảm xúc .................................................................. 3
1.1.2. Bệnh sinh của rối loạn cảm xúc ................................................................ 3
1.1.3. Đặc điểm lâm sàng của rối loạn cảm xúc ............................................... 15
1.2. Hành vi phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc .................................. 31
1.2.1. Khái niệm hành vi phạm tội và tội phạm ............................................... 31
1.2.2. Tình hình nghiên cứu phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc ............. 33
1.2.3. Đặc điểm hành vi phạm tội trong rối loạn cảm xúc .............................. 37
1.3. Một số yếu tố liên quan, thúc đẩy hành vi phạm tội ở đối tƣợng rối
loạn cảm xúc ....................................................................................... 42
1.3.1. Giới tính và tuổi ........................................................................................ 42
1.3.2. Tiền sử phạm tội và sang chấn tâm lý .................................................... 43
1.3.3. Lạm dụng chất và tác động của môi trƣờng ........................................... 43
1.3.4. Rối loạn nhân cách ranh giới ................................................................... 43
1.3.5. Rối loạn kiểm soát xung động ................................................................. 44
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............. 45
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu........................................................................... 45
2.1.1. Đối tƣợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu......................................... 45
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn đối tƣợng ...................................................................... 45
2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ .................................................................................... 45
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................... 46
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu .................................................................................. 46
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu .................................................................................. 46
2.2.3. Công cụ nghiên cứu lâm sàng ................................................................. 47
2.2.4. Phƣơng pháp thu thập thông tin và đánh giá các số liệu nghiên cứu ... 57
2.2.5. Các biến số nghiên cứu ............................................................................ 62
2.3. Phƣơng pháp phân tích và xử lý số liệu ............................................... 63
2.3.1. Phân tích số liệu ........................................................................................ 63
2.3.2. Xử lý số liệu .............................................................................................. 63
2.4. Đạo đức trong nghiên cứu .................................................................... 64
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................... 66
3.1. Đặc điểm chung của đối tƣợng nghiên cứu ......................................... 66
3.2. Đặc điểm lâm sàng rối loạn cảm xúc ở đối tƣợng nghiên cứu ............ 70
3.2.1. Một số đặc điểm về nhân cách và thể bệnh của rối loạn cảm xúc ....... 70
3.2.2. Đặc điểm lâm sàng rối loạn trầm cảm ở đối tƣợng nghiên cứu ........... 72
3.2.3. Đặc điểm lâm sàng rối loạn hƣng cảm ở đối tƣợng nghiên cứu .......... 81
3.3. Đặc điểm về hành vi phạm tội ở đối tƣợng nghiên cứu ....................... 85
3.4. Các yếu tố liên quan đến thúc đẩy hành vi phạm tội ở đối tƣợng rối
loạn cảm xúc ....................................................................................... 92
CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN .............................................................................. 97
4.1. Đặc điểm chung nhóm đối tƣợng nghiên cứu ...................................... 97
4.1.1. Đặc điểm về tuổi và giới .......................................................................... 97
4.1.2. Đặc điểm về trình độ học vấn .................................................................. 98
4.1.3. Đặc điểm về nghề nghiệp......................................................................... 98
4.1.4. Đặc điểm về tình trạng hôn nhân ............................................................ 99
4.1.5. Đặc điểm về môi trƣờng sống ................................................................. 99
4.1.6. Tiền sử của đối tƣợng .............................................................................100
4.2. Đặc điểm lâm sàng rối loạn cảm xúc nhóm đối tƣợng nghiên cứu. .. 101
4.2.1. Nhân cách tiền bệnh lý ở các đối tƣợng nghiên cứu ...........................101
4.2.2. Phân loại các rối loạn cảm xúc ở nhóm đối tƣợng nghiên cứu ..........101
4.2.3. Đặc điểm lâm sàng nhóm đối tƣợng có giai đoạn trầm cảm ..............102
4.2.4. Đặc điểm lâm sàng của giai đoạn hƣng cảm ........................................114
4.3. Đặc điểm hành vi phạm tội của đối tƣợng rối loạn cảm xúc ............. 121
4.3.1. Các hành vi phạm tội gặp trong nhóm nghiên cứu..............................121
4.3.2. Địa điểm xảy ra vụ án ............................................................................122
4.3.3. Phân bố hành vi phạm tội theo nhóm bệnh ..........................................122
4.3.4. Số lần phạm tội .......................................................................................123
4.3.5. Thời điểm mắc bệnh của các đối tƣợng có hành vi phạm tội .............123
4.3.6. Phân bố thời gian khi mắc bệnh và thời điểm phạm tội ở đối tƣợng
rối loạn cảm xúc .....................................................................................124
4.3.7. Phƣơng tiện gây án .................................................................................124
4.3.8. Số phƣơng tiện gây án ............................................................................125
4.3.9. Hậu quả của hành vi phạm tội ...............................................................126
4.3.10. Số ngƣời thiệt hại trong các vụ án.......................................................126
4.3.11. Quan hệ giữa ngƣời bị hại đối tƣợng gây án ......................................126
4.3.12. Năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của đối tƣợng ................127
4.3.13. Cơ quan trƣng cầu giám định ..............................................................128
4.4. Các yếu tố liên quan thúc đẩy hành vi phạm tội ................................ 128
4.4.1. Các yếu tố bệnh lý và ngoại lai .............................................................128
4.4.2. Các giai đoạn bệnh khác nhau trong thời gian phạm tội .....................129
4.4.3. Mối liên quan giữa ngƣời bị hại với các hình thức phạm tội .............130
4.4.4. Mối liên quan giữa giới tính và hình thức phạm tội ............................130
4.4.5. Mối liên quan giữa lứa tuổi và hành vi phạm tội .................................131
4.4.6. Mối liên quan giữa rối loạn loạn thần với các hình thức phạm tội ở
đối tƣợng rối loạn cảm xúc ...................................................................131
KẾT LUẬN ................................................................................................... 133
NHỮNG HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI .............................................................. 135
KIẾN NGHỊ .................................................................................................. 136
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................. 137
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Phần viết tắt Phần viết đầy đủ
( yếu tố dinh dƣỡng thần kinh của não)
1 BDNF Brain-derived neurotrophic factor
2 BN Bệnh nhân
3 DSM-IV Diagnostic and Statiscal manual of Mental disorders.
4th Edition (Số tay thống kê và chẩn đoán rối loạn tâm thần
lần thứ 4)
4 DSM-5
Diagnostic and Statiscal manual of Mental disorders. 5th Edition (Số tay thống kê và chẩn đoán rối loạn tâm thần
lần thứ 5)
5 HPA (Trục hạ đồi tiền yên thƣợng thận)
6 ICD- 10
International Classification of Disseases and related Health problems. 10th Edition (Bảng phân loại bệnh quốc
tế lần thứ 10)
8 GABA γ- aminobutyric acide
9 MRI Magnetic resonance imaging
(Chụp cộng hƣởng từ hạt nhân)
10 n Số lƣợng
11 RLKS Rối loạn khí sắc (Mood disorders)
12 RLCXLC Rối loạn cảm xúc lƣỡng cực (Bipolar disorders)
13 RLCX Rối loạn cảm xúc (Affective disorders)
14 RLTT Rối loạn tâm thần (Mental disorders)
15 SSRI Selective Serotonin Reuptake Inhibitor
(Ức chế tái hấp thu chọn lọc Serotonin)
16 TC Triệu chứng
17 WHO World Health Organization (Tổ chức y tế thế giới)
DANH MỤC BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
3.1. Phân nhóm tuổi của đối tƣợng nghiên cứu ........................................... 66
3.2. Trình độ học vấn của đối tƣợng nghiên cứu ......................................... 67
3.3. Nghề nghiệp của đối tƣợng nghiên cứu ................................................ 67
3.4. Tiền sử gia đình của đối tƣợng nghiên cứu .......................................... 69
3.5. Tiền sử bản thân của đối tƣợng nghiên cứu .......................................... 70
3.6. Nhân cách tiền bệnh lý của rối loạn cảm xúc ....................................... 70
3.7. Các trạng thái rối loạn cảm xúc ở đối tƣợng nghiên cứu ...................... 71
3.8. Thái độ tiếp xúc của đối tƣợng rối loạn trầm cảm ................................ 72
3.9. Các triệu chứng chủ yếu ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm ...................... 73
3.10. Các triệu chứng phổ biến ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm ..................... 73
3.11. Các rối loạn cảm xúc ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm ........................... 74
3.12. Các rối loạn cảm giác, tri giác ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm .................. 74
3.13. Các triệu chứng ảo giác ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm ....................... 75
3.14. Các rối loạn hình thức tƣ duy ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm ................... 75
3.15. Các rối loạn nội dung tƣ duy ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm ............... 76
3.16. Các rối loạn hoạt động ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm ......................... 76
3.17. Các rối loạn cơ thể ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm ............................... 77
3.18. Các rối loạn lo âu ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm ................................. 78
3.19. Kết quả khảo sát mức độ lo âu theo test ZUNG ở đối tƣợng rối loạn
trầm cảm ................................................................................................ 78
3.20. Các rối loạn giấc ngủ ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm ........................... 79
3.21. Các rối loạn trí nhớ ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm .............................. 79
3.22. Các rối loạn chú ý ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm ................................ 80
3.23. Kết quả khảo sát test Beck ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm ................... 80
3.24. Thái độ tiếp xúc ở đối tƣợng rối loạn hƣng cảm................................... 81
Bảng Tên bảng Trang
3.25. Các triệu chứng cơ bản ở đối tƣợng rối loạn hƣng cảm ....................... 81
3.26. Các triệu chứng cảm xúc ở đối tƣợng rối loạn hƣng cảm ..................... 82
3.27. Các rối loạn cảm giác, tri giác ở đối tƣợng rối loạn hƣng cảm ............ 82
3.28. Các rối loạn tƣ duy ở đối tƣợng rối loạn hƣng cảm .............................. 83
3.29. Các rối loạn hành vi ở đối tƣợng rối loạn hƣng cảm ............................ 83
3.30 Các triệu chứng cơ thể ở đối tƣợng hƣng cảm ...................................... 84
3.31. Các hành vi phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc ............................. 85
3.32. Phân bố các hành vi phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc ................ 86
3.33. Số lần phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc ...................................... 87
3.34. Phân bố thời gian khi mắc bệnh và thời điểm phạm tội ở đối tƣợng rối
loạn cảm xúc ......................................................................................... 87
3.35. Phân bố thời gian khi mắc bệnh và thời điểm phạm tội theo trạng thái
rối loạn cảm xúc .................................................................................... 88
3.36. Phƣơng tiện gây án ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc ................................ 88
3.37. Hậu quả của hành vi phạm tội ở đối tượng rối loạn cảm xúc ............. 89
3.38. Mối quan hệ giữa ngƣời bị hại với đối tƣợng gây án ........................... 90
3.39. Cơ quan trưng cầu giám định ở đối tượng rối loạn cảm xúc .............. 91
3.40. Một số yếu tố bệnh lý và ngoại lai thúc đẩy hành vi phạm tội ............ 92
3.41. Mối liên quan giữa ngƣời bị hại với các hình thức phạm tội ở đối tƣợng
rối loạn cảm xúc .................................................................................... 94
3.42. Mối liên quan giữa giới tính với các hình thức phạm tội ở đối tƣợng rối
loạn cảm xúc ......................................................................................... 95
3.43. Mối liên quan giữa lứa tuổi với các hình thức phạm tội ở đối tƣợng rối
loạn cảm xúc ......................................................................................... 95
3.44. Mối liên quan giữa rối loạn loạn thần với các hình thức phạm tội ở đối
tƣợng rối loạn cảm xúc ......................................................................... 96
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 3.1. Giới tính của đối tƣợng nghiên cứu ...................................................... 66
3.2. Tình trạng hôn nhân của đối tƣợng nghiên cứu .................................... 68
3.3. Môi trƣờng sống của đối tƣợng nghiên cứu .......................................... 68
3.4. Phân loại bệnh theo ICD-10 (1992) ở đối tƣợng nghiên cứu ............... 71
3.5. Mức độ rối loạn trầm cảm ở đối tƣợng nghiên cứu .............................. 72
3.6. Mức độ hƣng cảm theo test YMRS ...................................................... 85
3.7. Địa điểm thƣờng xẩy ra phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc .......... 86
3.8. Số lƣợng phƣơng tiện sử dụng gây án trên nạn nhân ở đối tƣợng rối
loạn cảm xúc ......................................................................................... 89
3.9. Số ngƣời bị thiệt hại trong các vụ án do đối tƣợng rối loạn cảm xúc
gây ra ..................................................................................................... 90
3.10. Năng lực nhận thức và điều khiển hành vi ở đối tƣợng rối loạn cảm
xúc ......................................................................................................... 91
3.11. Mối liên quan giữa tình trạng của bệnh và thời điểm phạm tội của
đối tƣợng rối loạn cảm xúc ................................................................... 93
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn cảm xúc hay còn gọi là rối loạn khí sắc, là một nhóm rối loạn
tâm thần thƣờng gặp nhất, bao gồm trầm cảm, rối loạn lƣỡng cực, loạn khí
sắc, khí sắc chu kì...
Rối loạn trầm cảm chiếm tỷ lệ từ 15-25% dân số, hay gặp ở những
ngƣời trung niên (35-60 tuổi), nữ nhiều gấp 3 lần nam. Còn tỷ lệ của rối loạn
cảm xúc lƣỡng cực là khoảng 1% dân số, nam với nữ là nhƣ nhau và thƣờng
khởi phát ở lứa tuổi trẻ (20-25 tuổi). [1].
Bệnh cảnh lâm sàng của rối loạn cảm xúc rất đa dạng, không đồng
nhất, kéo dài, tùy thuộc là rối loạn cảm xúc lƣỡng cực hoặc rối loạn trầm cảm.
Với rối loạn cảm xúc lƣỡng cực thì bệnh nhân có thể có giai đoạn hƣng cảm
hoặc giai đoạn trầm cảm, còn với rối loạn trầm cảm thì bệnh nhân sẽ chỉ có
các giai đoạn trầm cảm [1].
Các triệu chứng lâm sàng của các rối loạn cảm xúc chịu ảnh hƣởng sâu
sắc của các sang chấn tâm lý từ môi trƣờng sống, chịu tác động mạnh mẽ của
lạm dụng rƣợu, ma túy và các chất kích thích khác [2].
Hành vi phạm tội là hành vi thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm.
Hành vi phạm tội, đặc biệt là hành vi bạo lực ở các đối tƣợng rối loạn cảm
xúc đã làm cho xã hội phải quan tâm và gây ra một sự kỳ thị rất lớn đối với
các đối tƣợng rối loạn cảm xúc.
Kaplan H. I. và cộng sự (1997) cho rằng hành vi phạm tội ở những
ngƣời bị rối loạn cảm xúc là phổ biến hơn so với ngƣời bình thƣờng và so với
những ngƣời bị các loại rối loạn tâm thần khác [3].
Theo Sadock B.J. và cộng sự (2015), hành vi phạm tội của rối loạn cảm
xúc có thể gặp ở cả giai đoạn trầm cảm và giai đoạn hƣng cảm. Tác giả cho
rằng các yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội của đối tƣợng rối loạn cảm xúc là
lạm dụng rƣợu, ma túy và các yếu tố tác động từ môi trƣờng xung quanh [4].
2
Trong pháp y tâm thần, ngƣời ta nhận thấy có nhiều đối tƣợng rối loạn
cảm xúc gây ra các hành vi phạm tội. Các hành vi này bao gồm trộm cắp,
cƣớp giật, gian lận tài chính, gây hấn, đánh ngƣời, cố ý gây thƣơng tích, giết
ngƣời và giết ngƣời rồi tự sát. Hậu quả của các hành vi này không những gây
ra các tổn thất về ngƣời và của mà còn gây ra những hoang mang cho xã hội.
Nghiên cứu về các triệu chứng của bệnh, các phƣơng thức gây án và
các yếu tố liên quan đến hành vi phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc là rất
quan trọng. Các kết quả nghiên cứu này sẽ giúp cho ngành pháp y tâm thần,
các cơ quan tố tụng (công an, tòa án, viện kiểm sát) quản lý, giám sát và điều
trị bắt buộc những đối tƣợng rối loạn cảm xúc phạm tội, qua đó làm giảm
những nguy cơ phạm tội ở các đối tƣợng này khi sống trong cộng đồng.
Trên thế giới đã có nhiều tác giả nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng,
hình thức gây án, tính chất phạm tội và các yếu tố liên quan đến phạm tội ở
đối tƣợng rối loạn cảm xúc. Ở Việt Nam, chúng tôi chƣa ghi nhận một công
trình nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống nào về lĩnh vực này mà chỉ là các
thông báo lẻ tẻ có tính chất thống kê mà thôi. Vì vậy, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố liên
quan đến hành vi phạm tội ở đối tượng rối loạn cảm xúc” với các mục tiêu
sau:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng ở các đối tƣợng rối loạn cảm xúc có hành
vi phạm tội.
2. Phân tích các hình thức gây án và tính chất của hành vi phạm tội ở
đối tƣợng rối loạn cảm xúc.
3. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến hành vi phạm tội ở đối tƣợng
rối loạn cảm xúc.
3
CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm về rối loạn cảm xúc
1.1.1. Khái niệm về rối loạn cảm xúc
Rối loạn cảm xúc là một nhóm bệnh, bao gồm giai đoạn trầm cảm, giai
đoạn hƣng cảm, rối loạn trầm cảm tái diễn, rối loạn cảm xúc lƣỡng cực, loạn
khí sắc và khí sắc chu kỳ. Ngoài ra, cả hai hệ thống phân loại bệnh của Tổ
chức Y tế Thế giới (ICD-10, năm 1992, phiên bản sửa đổi và bổ sung năm
2016) và Hội tâm thần học Hoa Kỳ (DSM- IV năm 1994) đều có mục rối loạn
cảm xúc do một bệnh thực tổn hoặc một chất [5].
DSM-5 (2013) căn cứ vào sự có mặt hay không của cơn hƣng cảm, tách
các rối loạn cảm xúc thành hai nhóm: trầm cảm và các rối loạn liên quan, rối
loạn lƣỡng cực và các rối loạn liên quan. Cụ thể các rối loạn đó nhƣ sau:
- Rối loạn trầm cảm và loạn khí sắc
- Rối loạn lƣỡng cực 1, rối loạn lƣỡng cực 2 và khí sắc chu kỳ
- Rối loạn cảm xúc do một chất
- Rối loạn cảm xúc do một bệnh cơ thể [1].
1.1.2. Bệnh sinh của rối loạn cảm xúc
1.1.2.1. Rối loạn trầm cảm
* Vai trò của gen di truyền
Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã thấy rằng khi một cặp sinh đôi
cùng trứng một ngƣời bị trầm cảm, thì ngƣời kia cũng có nguy cơ bị trầm cảm
rất cao. Theo Kaplan H. I. và cộng sự (1997) thì tỷ lệ này là 76%, còn theo
Gelder M. và cộng sự (2011) thì tỷ lệ này dao động từ 72-80% tùy thuộc vào
từng nghiên cứu. Còn với các cặp sinh đôi khác trứng hay anh chị em ruột thì
tỷ lệ nguy cơ bị rối loạn trầm cảm là rất thấp (khoảng 19% và 18%) [3], [6].
4
Nhiều tác giả đã cho rằng yếu tố gen di truyền tuy quan trọng, nhƣng
không phải là tất cả mà còn chịu sự tác động của môi trƣờng thuận lợi hay
không. Mặc dù có bộ gen di truyền là hoàn toàn giống nhau, nhƣng tỷ lệ cùng
bị rối loạn cảm xúc ở các cặp sinh đôi cùng trứng không phải là 100%. Trong
số các cặp sinh đôi cùng trứng lớn lên ở các môi trƣờng cách biệt, khi một
ngƣời bị trầm cảm thì ngƣời kia cũng phát triển rối loạn tƣơng tự với tỷ lệ
67% [3], [6].
Theo Cao Tiến Đức và cộng sự (2016), nguy cơ bị trầm cảm tăng cao ở
một ngƣời có họ hàng mức độ 1 là ngƣời nghiện rƣợu. Rối loạn loạn khí sắc
cũng phổ biến hơn ở những ngƣời có quan hệ họ hàng mức độ 1 với bệnh
nhân rối loạn trầm cảm chủ yếu hoặc rối loạn cảm xúc lƣỡng cực so với dân
số chung [7].
Theo Bùi Quang Huy và cộng sự (2016), nguyên nhân gây ra rối loạn
trầm cảm không phải là do một gen duy nhất mà là nhiều gen cùng chịu trách
nhiệm theo một cơ chế tổ hợp gen phức tạp [2].
Các nghiên cứu gần đây cho thấy các gen gây ra trầm cảm có thể nằm ở
nhiễm sắc thể 2q33-34, 3p, 12q, 15q và 18q... [8], [9]. Chính các gen gây
bệnh này đƣợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác khiến cho rối loạn
trầm cảm có tính chất gia đình. Các gen gây ra trầm cảm này sẽ đƣợc hoạt
hóa khi gặp yếu tố môi trƣờng thuận lợi khiến rối loạn trầm cảm chủ yếu
xuất hiện [10].
Một số nghiên cứu đã phát hiện ra tác động qua lại của gen vận chuyển
serotonin (5-HTT) với các sang chấn tâm lý trong cuộc sống. Nguy cơ bị trầm
cảm rất cao ở ngƣời có một hoặc hai alen ngắn của gen 5-HTT bị sang chấn
tâm lý. Các nghiên cứu khác đã phát hiện ra gen Gen GR và FKBP5 cũng có
vai trò gây ra trầm cảm khi tƣơng tác với các sự kiện gây sang chấn tâm lý
trong cuộc sống. Bệnh trầm cảm có thể là hậu quả của các sự tác động qua lại
giữa yếu tố gen di truyền và sang chấn tâm lý trong cuộc sống [11].
5
Một nhóm giả thuyết khác cho rằng ảnh hƣởng của bộ gen BDNF
(brain-derived neurotrophic factor) là rất rõ ràng trong bệnh sinh của trầm
cảm. Gen BDNF chi phối việc sản xuất ra protein BDNF, là chất cung cấp
dinh dƣỡng cho các tế bào thần kinh của não. Ngƣời ta còn nhận thấy gen
BDNF có vai trò trong các hành vi tự sát ở bệnh nhân trầm cảm [12].
Một số nghiên cứu cho rằng yếu tố môi trƣờng và thuốc chống trầm
cảm có ảnh hƣởng rõ rệt đến gen BDNF và sự vận chuyển serotonin ở não, vì
thế chúng có vai trò quan trọng trong khởi phát của rối loạn trầm cảm chủ yếu
và trong quá trình điều trị rối loạn này [13].
Caspi A. và cộng sự (2003) đã tìm thấy mối tƣơng tác giữa gen và môi
trƣờng (GxE), qua đó có thể giải thích lý do tại sao yếu tố sang chấn tâm lý có
thể gây ra trầm cảm chủ yếu ở một số ngƣời, nhƣng không gây ra bệnh ở
những ngƣời khác [14]. Điều này còn tùy thuộc vào một biến thể allen của
gen vận chuyển serotonin (5-HTTLPR)[15], [16], [17].
Một nghiên cứu tiến hành năm 2008 cho thấy có mối tƣơng tác giữa
BDNF và quá trình vận chuyển serotonin. Biến thể của BDNF là Val66Met
đƣợc cho là nguyên nhân gây giảm đáp ứng của serotonin nên có tác dụng bảo
vệ con ngƣời khỏi bị trầm cảm [18].
Tuy nhiên, những phát hiện khi nghiên cứu tƣơng tác gen – môi trƣờng
cho thấy rằng các mô hình gen BDNF hiện tại của trầm cảm là quá đơn giản
[14], [19].
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy có nhiều gen chi phối một số rối loạn
tâm thần, bao gồm cả trầm cảm, rối loạn lƣỡng cực cũng nhƣ các rối loạn cảm
xúc khác [20].
Ngƣời bị rối loạn cảm xúc thƣờng có sự rối loạn trong nhịp sinh học của
họ. Nghiên cứu về di truyền phân tử gần đây đã cho thấy các gen điều tiết
đồng hồ sinh học liên quan đến rối loạn cảm xúc. Các gen cốt lõi của đồng hồ
sinh học là CRY1, CRY2 cũng nhƣ TTC1, liên quan chặt chẽ đến trầm cảm.
6
Sự liên quan giữa CRY2 với trầm cảm xuất hiện vào mùa đông. Các nghiên
cứu về gen di truyền của rối loạn lƣỡng cực I đã chứng minh rằng
gen CRY2 có vai trò quan trọng điều tiết đồng hồ sinh học trong rối loạn
lƣỡng cực [21].
Nhƣ vậy, chúng ta có thể thấy rằng nhiều gen tƣơng tác với nhau theo
những cách đặc biệt có thể gây ra bệnh trầm cảm, vì thế chúng mang tính di
truyền trong gia đình. Tuy nhiên, các nhà khoa học đến nay vẫn chƣa xác định
chính xác đƣợc đâu là gen “trầm cảm”.
* Vai trò của chất dẫn truyền thần kinh
Trong số 30 loại chất dẫn truyền thần kinh đã đƣợc xác định, ngƣời ta
đã phát hiện ra mối liên quan giữa lâm sàng trầm cảm với vai trò của ba chất
dẫn truyền thần kinh chính: serotonin, noradrenaline và dopamine. Chức năng
chính của ba chất dẫn truyền thần kinh này là điều chỉnh cảm xúc, phản ứng
với sang chấn tâm lý, giấc ngủ, sự thèm ăn và ham muốn tình dục [22].
Theo Cao Tiến Đức và cộng sự (2016), các giả thuyết về vai trò của các
chất dẫn truyền thần kinh trong rối loạn cảm xúc dựa trên những tác động của
các thuốc chống trầm cảm trong điều trị rối loạn trầm cảm. Các loại thuốc này
điều chỉnh nồng độ các chất dẫn truyền thần kinh trong não nên đã tạo ra hiệu
quả điều trị [7].
Đến nay, vai trò của các chất dẫn truyền thần kinh trong rối loạn trầm
cảm cũng chƣa hoàn toàn rõ ràng. Ngƣời ta đã thấy rằng rất nhiều ngƣời bị
trầm cảm có nồng độ chất dẫn truyền thần kinh noradrenaline thấp. Việc sử
dụng của một số thuốc chống trầm cảm có thể làm tăng nồng độ noradrenaline
trong não làm giảm các triệu chứng trầm cảm. Tuy nhiên, có một số ngƣời bị
trầm cảm lại có nồng độ noradrenaline trong não cao [23].
Nồng độ chất dẫn truyền thần kinh là rất nhỏ, chúng chỉ có ở những
khu vực nhất định trong não và mất đi rất nhanh chóng sau khi đƣợc sử dụng.
Do đó chúng ta không thể đƣợc đo lƣờng trực tiếp các chất này. Các nhà
7
nghiên cứu chỉ có thể đo lƣờng đƣợc chất chuyển hóa của chúng và có thể
đƣợc tìm thấy trong máu, nƣớc tiểu và dịch não tủy. Bằng cách đo chất
chuyển hóa, các nhà nghiên cứu có thể đạt đƣợc một sự hiểu biết về những
thay đổi hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh trong não bộ [24].
Năm 2011, Gelder M. và cộng sự cho rằng các nhà nghiên cứu chƣa
hiểu sự thay đổi nồng độ của các chất dẫn truyền thần kinh gây trầm cảm hay
ngƣợc lại, trầm cảm gây ra thay đổi nồng độ các chất dẫn truyền thần kinh.
Các nhà nghiên cứu tin rằng hành vi của chúng ta có thể ảnh hƣởng đến các
chất dẫn truyền thần kinh trong não và ngƣợc lại, các chất này có thể ảnh
hƣởng đến hành vi của chúng ta [6].
Nghiên cứu trên các bệnh nhân trầm cảm ở Úc cho thấy điểm trầm cảm
tăng trên trắc nghiệm Beck liên quan đến hiện tƣợng giảm tryptophan huyết
tƣơng và giảm hấp thu Fructose. Tryptophan tham gia sinh tổng hợp serotonin
(5-hydroxytryptamine). Còn hiện tƣợng kém hấp thu fructose đƣợc nhận thấy
ở những bệnh nhân trầm cảm có rối loạn chuyển hóa tryptophan. [25].
Các nhà nghiên cứu đã thống nhất rằng hầu hết các thuốc chống trầm
cảm làm tăng nồng độ chất dẫn truyền thần kinh serotonin ở khe synap.
Chúng cũng làm tăng nồng độ của hai chất dẫn truyền thần kinh khác là
noradrenaline và dopamine. Vì thế, ngƣời ta đƣa ra giả thuyết về vai trò của
monoamine, cho rằng sự thiếu hụt một số chất dẫn truyền thần kinh là nguyên
nhân gây ra trầm cảm. Những ngƣời ủng hộ giả thuyết này khuyên nên lựa
chọn các thuốc chống trầm cảm dựa trên cơ chế tác động của chúng đến các
triệu chứng nổi bật nhất. Ví dụ nhƣ các bệnh nhân lo lắng nhiều nên đƣợc
điều trị với SSRIs hoặc ức chế tái hấp thu noradrenaline, còn những bệnh
nhân với sự mất năng lƣợng và mất các hứng thú trong cuộc sống thì đƣợc
điều trị bằng các loại thuốc ức chế tái hấp thu noradrenaline và các loại thuốc
chống trầm cảm mới [26].
8
Trong hơn hai thập kỷ qua, nhiều nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rất
nhiều hạn chế của giả thuyết monoamine. Các nghiên cứu chuyên sâu đã
không tìm thấy bằng chứng thuyết phục về những rối loạn chức năng của một
hệ thống monoamine chuyên biệt ở những bệnh nhân rối loạn trầm cảm chủ
yếu [27]. Một số thuốc chống trầm cảm không tác động trên hệ thống
monoamine vẫn có tác dụng chống trầm cảm. Một số thuốc gây suy giảm
nồng độ monoamine nhƣng không gây ra trầm cảm ở những ngƣời khỏe mạnh
và cũng không làm trầm trọng thêm các triệu chứng ở bệnh nhân trầm cảm.
Giả thuyết monoamine đã đƣợc đơn giản hóa quá mức khi công bố [26], [28].
Một nhánh của giả thuyết monoamine cho rằng monoamine oxidase
(MAO-A), một loại enzyme chuyển hóa monoamine, có thể hoạt động quá
mức ở những ngƣời bị trầm cảm, dẫn đến giảm nồng độ monoamine [29],
[30]. Nhƣng sự giảm hoạt động của MAO-A có liên quan với các triệu chứng
trầm cảm chỉ quan sát thấy ở thanh thiếu niên bị ngƣợc đãi. Điều này cho thấy
rằng cả hai yếu tố sinh học (gen MAO) và tâm lý rất quan trọng trong sự phát
triển của rối loạn trầm cảm [31], [32].
* Vai trò hệ thống dưới đồi – tiền yên – thượng thận
Một hƣớng nghiên cứu nguyên nhân của trầm cảm tập trung vào hệ
thống nội tiết. Hệ thống dƣới đồi – tiền yên – thƣợng thận là một chuỗi các
tuyến nội tiết đƣợc kích hoạt trong quá trình phản ứng của cơ thể đối với các
loại stress khác nhau. Ngƣời ta thấy hệ thống dƣới đồi – tiền yên – thƣợng
thận tăng hoạt động ở những ngƣời bị trầm cảm, hệ thống dƣới đồi – tiền yên
– thƣợng thận làm tăng corticosteroid trong máu dẫn tới giảm serotonin, ức
chế hoạt động thụ thể 5HT-1A và làm giảm hoạt tính của serotonin ở vùng hải
mã. Các loại thuốc làm giảm hoạt động của hệ thống dƣới đồi – tiền yên –
thƣợng thận đôi khi có hiệu quả trong việc làm giảm các triệu chứng của trầm
cảm [33], [34].
9
Năm 2011, Gelder M. cho rằng trong trầm cảm nồng độ các hormone
có liên quan chặt chẽ đến những thay đổi hóa học trong não. Hệ thống nội tiết
đƣợc kết nối với não bộ thông qua vùng dƣới đồi, chúng kiểm soát nhiều hoạt
động của cơ thể nhƣ giấc ngủ, sự ngon miệng và ham muốn tình dục. Vùng
dƣới đồi cũng điều chỉnh hoạt động của tuyến yên, còn tuyến yên kiểm soát
sự tiết hormon của các tuyến khác. Vùng dƣới đồi sử dụng một số chất dẫn
truyền thần kinh có liên quan với trầm cảm, các chất dẫn truyền thần kinh này
cũng tham gia quản lý hệ thống nội tiết. Serotonin, noradrenaline và
dopamine đều có một vai trò nhất định trong việc kiểm soát chức năng của
các tuyến nội tiết. Trầm cảm có thể là triệu chứng của một rối loạn tồn tại
trong các cơ quan sản xuất hormone. Các thay đổi này có liên quan tới biến
đổi di truyền do stress [6].
* Các bất thường về cấu trúc não
+ Nhân Raphe: các nhân raphe là một nhóm các nhân nhỏ ở phía trên
thân não, nằm tại đƣờng giữa của não. Chúng là khu vực duy nhất sản sinh ra
serotonin trong não. Có một số bằng chứng cho thấy có những bất thƣờng
bệnh lý thần kinh trong các nhân raphe ở trầm cảm [35].
+ Vùng mái bụng (Ventral tegmental area - VTA): vùng mái bụng
phóng thích chất dẫn truyền thần kinh dopamine đến nhân accumbens. Thuốc
gây nghiện thƣờng làm tăng tác dụng của dopamine trong hệ thống này, trong
khi các loại thuốc chống phóng thích dopamine gây ra mất quan tâm thích
thú, hay gặp ở ngƣời bị trầm cảm [36].
+ Nhân suprachiasmatic : là trung tâm điều khiển “đồng hồ sinh học”
của cơ thể. Nhân suprachiasmatic kiểm soát chu kỳ thức ngủ cũng nhƣ một số
nhịp điệu sinh học khác, nhƣ thay đổi nhiệt độ cơ thể. Rối loạn chu kỳ này là
một triệu chứng rất quan trọng của trầm cảm, đặc biệt là trầm cảm u sầu [16].
+ Nhân accumbens: tiếp xúc lâu dài với các yếu tố gây stress làm giảm
phóng thích dopamin trong nhân accumbens [36].
10
+ Vỏ não cingulate phía trƣớc: phần phía trƣớc của vỏ não cingulate, có
hình “cổ áo” xung quanh thể trai. Nó bao gồm khu vực 24, 32 và 33 của
Brodmann, đóng một vai trò quan trọng trong một loạt các chức năng tự động
nhƣ: điều chỉnh huyết áp và nhịp tim cũng nhƣ các chức năng nhận thức:
chẳng hạn nhƣ phê phán, phán đoán, sáng tạo và ra quyết định. Ở những
ngƣời bị trầm cảm vỏ não Cingulate phía trƣớc tăng hoạt động hơn so với
những ngƣời không bị trầm cảm [37].
+ Khu vực Brodmann 25, còn đƣợc gọi là Subgenual cingulate, có hoạt
động trao đổi chất quá mức ở các bệnh nhân trầm cảm kháng trị. Khu vực này
có hoạt động vận chuyển serotonin rất mạnh mẽ và đƣợc xem nhƣ là bộ điều
hành cho một mạng lƣới rộng lớn liên quan đến các khu vực nhƣ vùng dƣới
đồi và thân não. Vùng này ảnh hƣởng đến những thay đổi trong sự thèm ăn
và giấc ngủ, các hạch hạnh nhân và thùy đảo ảnh hƣởng đến khí sắc và lo
âu. Vùng dƣới đồi đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành trí
nhớ và một số phần của thùy trán chịu trách nhiệm cho lòng tự trọng. Rối
loạn trong hoạt động của khu vực này có vai trò quan trọng trong phát sinh
ra trầm cảm [37].
* Neuroplasticity ( Tính mềm dẻo, linh hoạt thần kinh)
Trƣớc, trong và sau giai đoạn trầm cảm, có sự thay đổi rõ ràng về kích
thƣớc ở một số vùng não. Pittenger C. và Duman R.S. đã thiết lập sự hội tụ
của ba hiện tƣợng trong trầm cảm và kết luận rằng phá vỡ neuroplasticity là
một đặc điểm cơ bản của trầm cảm và thuốc chống trầm cảm có thể đảo
ngƣợc hiện tƣợng này [33], [38].
* Một số yếu tố khác
Nhiều tác giả cho rằng các yếu tố khác nhƣ viêm, corticoid, hóc môn
tuyến giáp… có một số vai trò nhất định trong bệnh sinh của trầm cảm. Tuy
nhiên, Sadock B.J. và cộng sự (2015) cho rằng các yếu tố này là hậu quả của
trầm cảm chứ không phải là nguyên nhân gây ra trầm cảm [24].
11
* Các giả thuyết tâm lý
+ Giả thuyết nhận thức: các nhà lý thuyết nhận thức hành vi cho rằng
trầm cảm là hậu quả của quá trình nhận thức không thích nghi đƣợc với thế
giới xung quanh.
+ Giả thuyết xã hội học: mọi ngƣời hoạt động với nhau trong các nhóm,
bao gồm bối cảnh văn hóa trong đó mọi ngƣời sống, cũng nhƣ những yếu tố
stress xã hội mà con ngƣời gặp phải nhƣ là một phần của cuộc sống. Các khía
cạnh xã hội học của trầm cảm chịu ảnh hƣởng và cũng ảnh hƣởng đến các
khía cạnh sinh học và tâm lý khác của cuộc sống con ngƣời.
+ Giả thuyết về môi trƣờng: thiên tai nhƣ sự tàn phá của cơn bão, sóng
thần, động đất, cũng nhƣ các thảm họa khác do chính con ngƣời tạo ra nhƣ
chiến tranh, bắt cóc, tra tấn, hãm hiếp… có thể đóng góp vào sự nhạy cảm của
một ngƣời dễ bị tổn thƣơng gây ra trầm cảm [10].
1.1.2.3. Rối loạn cảm xúc lưỡng cực
* Giả thuyết về gen di truyền
Theo Kaplan H. I. và cộng sự (1994), các nghiên cứu trên các cặp sinh
đôi cho thấy giai đoạn hƣng cảm của rối loạn cảm xúc lƣỡng cực có tỷ lệ phù
hợp cao ở các cặp sinh đôi cùng trứng (từ 46-92%) (một ngƣời bị rối loạn cảm
xúc lƣỡng cực thì ngƣời kia cũng bị bệnh), tỷ lệ này ở các cặp sinh đôi khác
trứng thấp hơn nhiều (23%). Nếu bố hoặc mẹ bị rối loạn cảm xúc lƣỡng cực
thì nguy cơ bị bệnh của con cái là 15-25%. Các thành viên cùng huyết thống
mức độ 1 của các bệnh nhân có rối loạn lƣỡng cực I có tỷ lệ cao rối loạn
lƣỡng cực I (4% - 24%), còn tỷ lệ rối loạn lƣỡng cực II thì thấp hơn (1% -
5%) [3].
Mortensen P.B. và cộng sự (2003) thấy các thành viên cùng huyết
thống mức độ 1 của các bệnh nhân có rối loạn lƣỡng cực có nguy cơ bị bệnh
gấp 13,63 lần so với dân số chung [39].
12
Nghiên cứu liên kết gen về rối loạn lƣỡng cực đã cho thấy kết quả có
nhiều gene, nhiều khu vực có bằng chứng cho mối liên kết, đặc biệt với nhiễm
sắc thể 13q14-32, Xp22, Xq26-28 [40].
Khi nghiên cứu về vai trò của các gen liên quan đến serotonin
(SLC6A4 và TPH2), dopamine (DRD4 và SLC6A3), glutamate (DAOA và
DTNBP1) và tế bào tăng trƣởng (NRG1, Disc1 và BDNF), ngƣời ta nhận thấy
rằng các gen riêng biệt có khả năng gây ra một số khác biệt nhỏ trong bệnh
sinh của rối loạn cảm xúc lƣỡng cực [41], [42].
Một số khu vực khác cũng có khả năng chứa các gen gây bệnh rối loạn
cảm xúc lƣỡng cực là 1q42 [42].
Hai gen lõi đồng hồ sinh học là CRY1 và CRY2 cùng với gen TTC1,
liên quan đến loạn khí sắc, CRY2 còn liên quan với trầm cảm và với rối loạn
lƣỡng cực I [21].
Một nghiên cứu thực hiện trên 57 phả hệ ngƣời Israel và Hoa kỳ cho
thấy một mối liên quan giữa khu vực 2p13-16 với bệnh rối loạn cảm xúc
lƣỡng cực theo một mô hình di truyền điển hình [43].
Có nghiên cứu đã chứng minh mối liên kết giữa khu vực p14 và p16 ở
nhiễm sắc thể 4p với bệnh sinh của rối loạn cảm xúc lƣỡng cực; Một phân
tích khác cũng đã tìm thấy mối liên quan giữa vùng 4q35 với bệnh sinh của
bệnh rối loạn cảm xúc lƣỡng cực [17].
Trong một nghiên cứu khác, các tác giả tin rằng nhiễm sắc thể số 6
cũng chứa nhiều gen gây ra bệnh rối loạn cảm xúc lƣỡng cực, còn nhiễm sắc
thể 8q thì có liên quan đến rối loạn lƣỡng cực theo mô hình hẹp [44], [45].
Trên các nhiễm sắc thể khác, ngƣời ta đã tìm thấy bằng chứng về gen di
truyền gây ra rối loạn cảm xúc lƣỡng cực, cụ thể nhƣ nhiễm sắc thể số 16,
nhiễm sắc thể 21 và 22 [46], [47]. Một nghiên cứu đã chứng minh có mối liên
quan giữa vị trí 18q22-23 với bệnh sinh của rối loạn cảm xúc lƣỡng cực.
13
Ngoài ra, nhiều tác giả cũng nhận thấy có bằng chứng về mối liên hệ ở các gia
đình có bệnh nhân rối loạn cảm xúc lƣỡng cực có loạn thần với vị trí 22q12
[43], [48]. Nhiễm sắc thể 11 cũng đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và họ
đã tìm ra mối liên hệ không đồng nhất giữa nhiễm sắc thể này với bệnh sinh
của rối loạn lƣỡng cực [49], [50].
Bên cạnh đó, một số tác giả đã chứng minh có mối liên hệ giữa khu vực
11p15.5 và Xp11.3 của nhiễm sắc thể giới tính X với bệnh rối loạn cảm xúc
lƣỡng cực [50].
Khi nghiên cứu về vai trò của gen di truyền trong bệnh sinh của rối
loạn lƣỡng cực, ngƣời ta phát hiện ra rất nhiều gen liên quan đến hệ thống
serotonin, dopamine và norepinephrine (noradrenaline). Tuy nhiên, với tất cả
các gen này đều không phát hiện đƣợc mối liên quan rõ ràng đến bệnh sinh
của rối loạn lƣỡng cực khi kiểm tra đa hình thái trên gen của bệnh nhân [51]
Tuy nhiên, đã có bằng chứng cho thấy gen điều khiển catechol-o-
methyl transferase (một enzyme chuyển hóa monoamines) có liên quan đến
rối loạn cảm xúc lƣỡng cực [52], [53].
Đối với rối loạn trầm cảm, ngƣời ta đã nhận thấy vai trò của yếu tố dinh
dƣỡng thần kinh có nguồn gốc từ não. Nhƣng nhiều nghiên cứu gần đây đã
cho thấy Val66Met có tác động nhỏ nhƣng có ý nghĩa trên rối loạn lƣỡng cực
[54]. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều cho rằng yếu tố BDNF-LCPR có liên
quan với rối loạn lƣỡng cực theo một cơ chế phức tạp [55].
Ngoài ra, nhiều tác giả nhận thấy G72/G30 (chất hoạt hóa acid D-
amino oxidase), có liên quan đến rối loạn cảm xúc lƣỡng cực. Ngƣời ta đã
chứng minh rằng DAOA/G30 ảnh hƣởng rõ ràng đến các giai đoạn của rối
loạn cảm xúc lƣỡng cực [56], [57].
Một số nhà nghiên cứu đã chứng tỏ gen Neuregulin (NRG1) và gen
DISC1có ảnh hƣởng đến rối loạn cảm xúc lƣỡng cực [58], [42].
14
* Giả thuyết về chất dẫn truyền thần kinh
Một giả thuyết phổ biến về bệnh sinh của rối loạn cảm xúc lƣỡng cực là
rối loạn chất dẫn truyền thần kinh trong não. Nếu thực sự rối loạn cảm xúc
lƣỡng cực có nguồn gốc sinh học, thì có thể nguyên nhân là do rối loạn chất
dẫn truyền thần kinh [3].
Tuy nhiên, nhiều tác giả cho rằng vai trò của chất dẫn truyền thần kinh
nhƣ noradrenalin và serotonin là không rõ ràng trong bệnh sinh giai đoạn
hƣng cảm của rối loạn cảm xúc lƣỡng cực. Ngƣời ta có đƣợc một số bằng
chứng sau:
+ Nồng độ noradrenaline trong huyết tƣơng và chất chuyển hóa trong
nƣớc tiểu giảm thấp hơn bình thƣờng ở những bệnh nhân trầm cảm. Ngƣợc
lại, ở bệnh nhân hƣng cảm nồng độ của noradrenaline tăng lên [59].
+ Theo Sadock B. J. (2007), bằng chứng quan trọng chứng minh vai trò
của serotonin ở những bệnh nhân rối loạn lƣỡng cực xuất phát từ nghiên cứu
của các thụ thể serotonin. Một số nghiên cứu đã cho thấy sự gia tăng mật độ
của thụ thể serotonin 2 trong tiểu não của bệnh nhân trầm cảm. Giảm mật độ
của các thụ thể serotonin 1A cũng thấy trong một số khu vực của não ở những
bệnh nhân bị rối loạn cảm xúc lƣỡng cực trong giai đoạn trầm cảm tƣơng tự
nhƣ trong trầm cảm chủ yếu [24], [59].
+ Dopamine đóng vai quan trọng trong việc tạo ra hƣng phấn cảm xúc
ở con ngƣời. Ngƣời ta đã phát hiện sự giảm nồng độ của acid homovanillic,
một chất chuyển hóa chính của dopamine, trong dịch não tủy. Các nhà tâm
thần đã thừa nhận rằng bất thƣờng dopamine có liên quan đến sự xuất hiện
của các giai đoạn hƣng cảm mức độ nặng, còn noradrenalin có liên quan đến
hƣng cảm nhẹ [24], [59].
Nhiều nghiên cứu cho thấy nồng độ dopamin trong dịch não tủy tăng
trong giai đoạn hƣng cảm của rối loạn cảm xúc lƣỡng cực [60].
15
* Các giả thiết khác
+ Nguyên nhân tâm lý và môi trƣờng: đến nay, hầu hết các tác giả đều
thống nhất rằng bệnh sinh của rối loạn cảm xúc là do rối loạn về gen di truyền
dƣới sự tác động của môi trƣờng thuận lợi. Nhiều bằng chứng cho thấy các
yếu tố môi trƣờng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của rối loạn
lƣỡng cực và các yếu tố tâm lý xã hội cá nhân có thể tƣơng tác với các
khuynh hƣớng di truyền [28]. Ngƣời ta nhận thấy những đứa trẻ mất ngƣời
nuôi dƣỡng trƣớc 1 tuổi có nguy cơ bị rối loạn lƣỡng cực tăng gấp 4,05 lần
[39].
+ Những bất thƣờng trong cấu trúc và chức năng của một số khu vực
não có thể là nền tảng của rối loạn lƣỡng cực. Nghiên cứu phân tích tổng hợp
về MRI cấu trúc trong rối loạn lƣỡng cực cho thấy một sự gia tăng thể tích
của các não thất bên, cầu não và gia tăng tỷ lệ chất trắng [59].
+ Có thể trong rối loạn lƣỡng cực, các giai đoạn đầu xảy ra là hậu quả
của stress, nhƣng bệnh sẽ dễ tái phát. Bệnh nhân có hệ dƣới đồi – tiền yên –
thƣợng thận tăng hoạt động, nồng độ cortisol toàn thân cao. Hơn nữa, các
bệnh nhân có mức độ nhạy cảm tăng, chẳng hạn nhƣ ngƣời thân mức độ một,
đã đƣợc chứng minh là đã tăng mức cortisol cơ sở. Nhƣ vậy, sự bất thƣờng
của trục hệ dƣới đồi – tiền yên – thƣợng thận dƣờng nhƣ là một thuộc tính cơ
bản gây ra tổn thƣơng cho các rối loạn cảm xúc
1.1.3. Đặc điểm lâm sàng của rối loạn cảm xúc
1.1.3.1. Đặc điểm lâm sàng của rối loạn trầm cảm điển hình
* Các triệu chứng chủ yếu
+ Khí sắc giảm: đây là triệu chứng quan trọng, gặp ở hầu hết các bệnh
nhân trầm cảm. Triệu chứng này đƣợc bệnh nhân và những ngƣời xung quanh
nhận thấy rõ ràng. Tuy nhiên, khoảng 50 % bệnh nhân không công nhận mình
có triệu chứng khí sắc giảm [61].
16
Triệu chứng khí sắc giảm phải tồn tại hầu hết thời gian trong ngày, diễn
ra hàng ngày .
Các bệnh nhân có thể than phiền rằng không còn nhiệt tình, nói rằng
họ cảm thấy buồn hoặc trống rỗng, vô vọng... Bệnh nhân cũng có thể nói rằng
họ luôn trong tình trạng lo âu, hoặc dƣờng nhƣ là quá khó chịu, thậm chí vô
cảm. Bệnh nhân dƣờng nhƣ mau nƣớc mắt, nét mặt của bệnh nhân rất đơn
điệu, luôn buồn bã, các nếp nhăn giảm nhiều thậm trí mất hết nếp nhăn, điều
này xác định sự hiện diện của khí sắc trầm cảm. Một số ngƣời bệnh than
phiền các biểu hiện cơ thể nhiều hơn là cảm giác buồn. Nhiều bệnh nhân lại
có trạng thái tăng kích thích (bệnh nhân hay cáu gắt, dễ nổi cáu với các kích
thích rất nhỏ từ bên ngoài).
Triệu chứng này không giống nhau hoàn toàn ở các nhóm bệnh nhân
khác nhau về độ tuổi. Trẻ em và ngƣời vị thành niên thƣờng biểu hiện khí sắc
kích thích hơn là khí sắc giảm [62].
Còn ngƣời cao tuổi khí sắc giảm là triệu chứng rất bền vững, thƣờng đi
kèm với cảm xúc buồn rầu vô hạn, mặc cảm tội lỗi và ý tƣởng nghi bệnh [4].
Cảm giác tuyệt vọng hay bi quan cũng nhƣ sự gia tăng bực bội, bứt rứt
cũng là triệu chứng của giai đoạn trầm cảm chủ yếu [63].
ICD-10F (2016) và DSM-IV (1994) đánh giá cao vai trò của triệu
chứng này và xếp nó vào triệu chứng chính bắt buộc phải có trong tiêu chuẩn
chẩn đoán trầm cảm [62], [64].
+ Mất hứng thú hoặc sở thích cho hầu hết các hoạt động: Mất hứng thú
hoặc sở thích gần nhƣ luôn biểu hiện ở một mức độ nhất định. Hầu hết thời
gian trong ngày và gần nhƣ mỗi ngày, sự quan tâm hay hứng thú bị giảm sút
rõ ràng trong hầu hết các hoạt động. Ngƣời bị trầm cảm có xu hƣớng mất
quan tâm đến những điều mà trƣớc đây họ tìm thấy thú vị. Hoạt động tình dục
không còn thú vị với bệnh nhân và họ mất hẳn ham muốn tình dục. Bạn bè và
gia đình của những ngƣời bị trầm cảm có thể nhận thấy rằng bệnh nhân không
17
còn quan tâm gì tới bạn bè, lãng quên hay không làm các hoạt động mà những
việc này trƣớc đó đã từng là nguồn gốc của sự hứng thú [1].
Sadock B.J. và cộng sự (2015) cho rằng mất hứng thú và sở thích có
liên quan chặt chẽ với ý nghĩ về cái chết, sự liên quan này mang tính tỷ lệ
thuận, ngƣời bệnh thấy cuộc sống rất vô nghĩa và muốn kết thúc cuộc đời của
họ [4].
Kaplan H.I. và cộng sự (1994) cho rằng triệu này rất hay gặp nhƣng tần
số ít hơn triệu chứng khí sắc giảm [61]. Dan J.S. và cộng sự cho rằng triệu
chứng này có tầm quan trọng chỉ sau triệu chứng giảm khí sắc [65].
* Các triệu chứng phổ biến
+ Giảm sút năng lƣợng và mệt mỏi: gần nhƣ mỗi ngày bệnh nhân than
phiền rằng họ cảm thấy luôn mệt mỏi, kiệt sức và mất hết năng lƣợng
[62]. Bệnh nhân có thể thấy mệt mỏi dù không có tham gia vào bất kỳ hoạt
động thể lực nào. Công việc hàng ngày đối với họ ngày càng trở nên khó
khăn. Bệnh nhân thấy rằng công việc hàng ngày trƣớc đây họ vẫn làm, bây
giờ trở thành gánh nặng [1].
Cảm giác mệt mỏi thƣờng tăng lên vào buổi sáng và giảm đi một chút
vào buổi chiều. Tuy nhiên, một số bệnh nhân lại có triệu chứng mệt mỏi và có
cảm giác mất năng lƣợng về buổi chiều. Khi trầm cảm nặng lên thì bệnh nhân
sẽ có cảm giác mệt mỏi, mất năng lƣợng suốt ngày [61]. Triệu chứng mệt mỏi
về buổi chiều hay đi kèm với triệu chứng ngủ nhiều và ăn nhiều. Khi triệu
chứng giảm sút năng lƣợng xuất hiện rõ ràng thì bệnh nhân hầu nhƣ không thể
làm đƣợc việc gì [2].
Theo ICD-10 (2016) triệu chứng này đƣợc coi là một triệu chứng
chính cùng với hai triệu chứng chính khác là khí sắc giảm và mất hứng thú,
sở thích. Tuy nhiên, DSM-IV (1994) thì chỉ cho là một trong các triệu
chứng phổ biến [66].
18
+ Thay đổi trong ăn uống, sự thèm ăn và trọng lƣợng: mặc dù những
ngƣời bị trầm cảm không ăn kiêng, nhƣng 95% số bệnh nhân có giảm trọng
lƣợng đáng kể. Họ giảm hoặc mất sự thèm ăn, giảm đáng kể cảm giác ăn ngon
miệng. Một tỷ lệ nhỏ (5%) số bệnh nhân trầm cảm lại có hiện tƣợng tăng cảm
giác ngon miệng và thèm ăn, họ ăn nhiều và tăng cân .
Các tác giả đều thống nhất rằng triệu chứng mất cảm giác ngon miệng
là phổ biến trong rối loạn trầm cảm. Một số ngƣời không bao giờ cảm thấy
đói, có thể trong thời gian dài mà họ không muốn ăn, hoặc ăn rất ít thức ăn,
trong các trƣờng hợp nặng bệnh nhân nhịn ăn hoàn toàn. Do vậy, bệnh nhân
thƣờng sút cân nhanh chóng. Ở trẻ em, triệu chứng này có thể biểu hiện là các
cháu không tăng trọng lƣợng theo dự kiến [62].
DSM- IV (1994) cho rằng bệnh nhân đƣợc coi là sút cân nếu họ mất 1
kg trọng lƣợng cơ thể trong 1 tháng hoặc hơn 500gr trong 1 tuần mặc dù
không thực hiện chế độ ăn kiêng nào.
Ngƣợc lại, khoảng 5% số bệnh nhân trầm cảm tăng cảm giác ngon
miệng, ăn một số lƣợng thức ăn nhiều hơn và có thể tăng trọng lƣợng đáng kể
và trở thành béo phì. Họ có xu hƣớng thèm một số loại thực phẩm nhƣ kẹo
ngọt hoặc tinh bột. Những ngƣời bị rối loạn cảm xúc theo mùa thƣờng thèm
các thực phẩm giàu carbohydrate. Tăng cân thƣờng kết hợp với trầm cảm
không điển hình. Dan J.S. và cộng sự thấy có mối liên quan giữ triệu chứng
ăn nhiều và ngủ nhiều trong rối loạn trầm cảm. Hiện tƣợng này đƣợc gọi dó là
“trầm cảm có yếu tố không đặc trƣng” [65].
+ Rối loạn giấc ngủ: triệu chứng rối loạn giấc ngủ rất thƣờng gặp trong
trầm cảm, biểu hiện là bệnh nhân mất ngủ hoặc ngủ nhiều. Mất ngủ là loại
phổ biến nhất của rối loạn giấc ngủ cho những ngƣời đang bị trầm cảm điển
hình (chiếm 95% số trƣờng hợp). Các bệnh nhân thƣờng có mất ngủ giữa
giấc, hoặc mất ngủ cuối giấc. Mất ngủ đầu giấc cũng có thể xuất hiện. Mất
19
ngủ đầu giấc hay gặp ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi, ngƣợc lại các bệnh nhân cao
tuổi lại hay gặp mất ngủ cuối giấc [60], [67].
Mất ngủ thƣờng là biểu hiện ban đầu của trầm cảm [61]. Mất ngủ gây
xáo trộn, ảnh hƣởng nghiêm trọng đến cuộc sống, sinh hoạt và lao động của
ngƣời bệnh, làm giảm sút khả năng lao động và tăng mệt mỏi [64], [68].
Mất ngủ là triệu chứng gây khó chịu rất nhiều cho bệnh nhân, chính là
lý do chủ yếu khiến bệnh nhân phải đi khám bệnh. Mất ngủ thƣờng đƣợc gắn
liền với bệnh trầm cảm u sầu [2].
Hiếm gặp hơn, một số bệnh nhân biểu hiện ngủ nhiều, dƣới hình thức
một giai đoạn ngủ đêm dài hoặc tăng độ dài ngủ ban ngày. Ngay cả khi ngủ
nhiều, bệnh nhân vẫn cảm thấy mệt mỏi và chậm chạp trong ngày. Ngủ nhiều
tác động xấu đến hoạt động hàng ngày của bệnh nhân. Theo Thƣ viện Y khoa
Quốc gia Hoa Kỳ, những ngƣời bị rối loạn cảm xúc theo mùa có thể ngủ
nhiều hơn trong những tháng mùa đông. Ngủ nhiều thƣờng đƣợc gắn liền với
trầm cảm không điển hình [62].
Ngủ nhiều là không phổ biến nhƣ chứng mất ngủ và 40% số ngƣời thể
hiện ngủ nhiều chỉ một thời gian nhất định [69].
Ngủ nhiều thƣờng phối hợp với triệu chứng ăn nhiều. Các bệnh nhân
này thƣờng đáp ứng điều trị tốt với thuốc chống trầm cảm IMAO [2],[67].
+ Rối loạn hoạt động tâm thần vận động: hầu nhƣ mọi ngày ngƣời khác
có thể thấy rằng hoạt động của bệnh nhân là bị kích động (kích động tâm thần
vận động) hoặc rất lờ đờ chậm chạp (chậm chạp tâm thần vận động). Nếu một
ngƣời bị kích động, bệnh nhân ngồi không yên, có thể đi lại liên tục trong
phòng, tay không yên có thể nhổ tóc, lục lọi quần áo và đồ đạc. Bệnh nhân
trầm cảm có một tƣ thế khom lƣng xuống, không có các cử động tự phát, mắt
nhìn xuống, tránh ánh mắt của ngƣời tiếp xúc. Họ có xu hƣớng di chuyển
chậm chạp, có thể đi lại rất chậm, không dám nhìn mọi ngƣời, ngồi khúm
núm trong hàng giờ và nói chậm, nói ít [69].
20
Nhiều bệnh nhân bị trầm cảm đã giảm tần suất và số lƣợng của lời
nói; họ trả lời các câu hỏi với các từ đơn điệu và chậm phản ứng với câu
hỏi. Khi khám bệnh có thể phải chờ 2 đến 3 phút cho một phản ứng với
một câu hỏi [61].
Các triệu chứng ức chế vận động hay gặp ở trầm cảm cổ điển và hay
xuất hiện ở ngƣời cao tuổi. Các kích động vận động hay gặp ở ngƣời trẻ
tuổi [2].
Để chẩn đoán, kích động hoặc chậm chạp tâm thần vận động phải đến
mức độ nặng có thể đƣợc quan sát thấy bởi những ngƣời khác, báo cáo chủ quan của bệnh nhân không đƣợc tính vào các tiêu chuẩn triệu chứng này [62].
Trên lâm sàng, ở bệnh nhân trầm cảm các triệu chứng chậm chạp tâm
thần vận động xuất hiện giống với bệnh nhân tâm thần phân liệt căng trƣơng lực. Thực tế này đƣợc ghi nhận trong DSM-IV TR (2000) [61].
+ Khó suy nghĩ, tập trung hoặc ra quyết định: các bệnh nhân khó ra
quyết định hoặc có trở ngại về suy nghĩ hoặc tập trung chú ý, đặc biệt là ở
trƣờng học hoặc nơi làm việc. Bệnh nhân trầm cảm thƣờng xuyên trải nghiệm
tiêu cực, suy nghĩ bi quan, rối loạn trí nhớ liên quan chặt chẽ với mất tập
trung là rất phổ biến, kém tập trung chú ý nên khả năng ghi nhận thông tin của
bệnh nhân giảm sút, kết quả là khả năng ghi nhớ giảm rất nhiều. Ở mức độ
nhẹ, chúng có thể xuất hiện dƣới dạng phân tán chú ý nhẹ hoặc than phiền
khó nhớ [4].
Bệnh nhân không thể tập trung chú ý do đó rất khó khăn để tham gia
vào các hoạt động hàng ngày; Điều này gây khó khăn đáng kể đối với những
ngƣời tham gia vào các hoạt động đòi hỏi trí tuệ, nhƣ học tập và làm việc, đặc
biệt trong các lĩnh vực phức tạp [1].
Đặc biệt bệnh nhân nhớ các sự việc gây khó chịu và các thất bại trong
đời sống, trong khi các sự kiện khác lại đƣợc ghi nhớ rất kém [7].
21
Rối loạn trí nhớ thƣờng là giảm trí nhớ gần. Bệnh nhân có thể quên mình
vừa làm gì (không nhớ mình đã ăn sáng cái gì, mình đã bỏ chùm chìa khoá ở
đâu...); Trong khi trí nhớ xa (ngày sinh, quê quán, các sự việc đã xảy ra lâu trong
quá khứ...) vẫn còn duy trì tƣơng đối tốt trong một thời gian dài [2].
Vào khoảng 50% đến 75% các bệnh nhân trầm cảm có rối loạn nhận
thức, các trƣờng hợp rối loạn nhận thức trầm trọng đƣợc gọi là mất trí giả [61].
Ở trẻ em triệu chứng này thƣờng thể hiện bằng giảm sút sự tập trung
chú ý; Còn ở ngƣời cao tuổi có giai đoạn trầm cảm điển hình, khó nhớ có thể
là than phiền chính và có thể bị nhầm với mất trí. [2].
+ Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi: bệnh nhân trầm cảm có quan điểm
tiêu cực về thế giới xung quanh và chính mình. Nội dung tƣ duy của họ
thƣờng là suy nghĩ nghiền ngẫm về sự mất mát, cảm giác tội lỗi, tự sát và cái
chết [61].
Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi là rất hay gặp trong giai đoạn trầm cảm
điển hình. Bệnh nhân cho rằng mình là kẻ vô dụng, không làm nên trò trống
gì. Họ luôn nghĩ mình đã làm hỏng mọi việc, trở thành gánh nặng cho gia
đình và xã hội. Thậm trí bệnh nhân có mặc cảm tội lỗi liên quan đến các sai
lầm nhỏ trƣớc đây. Nhiều bệnh nhân giải thích một cách sai lầm các hiện
tƣợng thông thƣờng hàng ngày nhƣ là khiếm khuyết của họ.
Trong trầm cảm nặng cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi có thể trở thành
hoang tƣởng Cotard, bệnh nhân cho rằng mình "thật sự" đã chết, cơ thể thối
rữa, hay máu và các cơ quan nội tạng không còn nữa, mình có tội, các tội lỗi
gây thảm họa cho gia đình và thế giới xắp sụp đổ hoang tàn đến nơi [7].
Một số tác giả nhận thấy có mối liên quan có ý nghĩa giữa cảm giác vô
dụng và tội lỗi của bệnh nhân với ý tƣởng và hành vi tự sát, cảm giác vô dụng
và tội lỗi càng nặng thì ý định tự sát càng mãnh liệt [70];
Chính cảm giác này khiến bệnh nhân muốn nhanh chóng kết thúc cuộc
sống bằng cách tự sát và từ chối điều trị [2].
22
+ Ý nghĩ về cái chết hoặc ý định tự sát tái diễn và hành vi tự sát:
khoảng 2/3 các bệnh nhân trầm cảm có ý tƣởng, hành vi tự sát và 10% đến
15% tự sát thành công. Những ngƣời mới nhập viện gần đây do tự sát hoặc ý
tƣởng tự sát có nguy cơ cao tự sát thành công hơn những ngƣời chƣa bao giờ
nhập viện do có ý tƣởng tự sát [61].
Chúng ta cần lƣu ý rằng có đến 75% trong tất cả các trƣờng hợp tự sát
có nguyên nhân là trầm cảm điển hình và ý tƣởng và hành vi tự sát có thể gặp
trong bất cứ mức độ trầm cảm nào [4].
Tuy nhiên, nhiều tác giả khác nhận thấy tình trạng trầm cảm càng nặng
ý tƣởng và hành vi tự sát càng phổ biến hơn [71], [72].
Một số nghiên cứu cũng cho thấy ý tƣởng và hành vi tự sát cũng ảnh
hƣởng bởi các yếu tố môi trƣờng sống, các stress tâm lý xã hội và tuổi tác.
Các yếu tố làm tăng ý tƣởng và hành vi tự sát là tuổi già, nghèo đói, cô đơn,
không có sự trợ giúp thỏa đáng, các bệnh lý cơ thể và nghiện chất kèm theo
[73], [74].
Mật độ và cƣờng độ của ý định tự sát có thể rất khác nhau. Một số bệnh
nhân tự sát ít nghiêm trọng có thể ý định tự sát mới chỉ ập đến (chỉ 1 - 2 phút
trƣớc đó) mà trƣớc đó bệnh nhân chƣa hề nghĩ đến cái chết. Trƣờng hợp nặng
hơn, ý nghĩ tự sát tái diễn (1 hoặc 2 lần/tuần), họ có thể cân nhắc kỹ càng
trƣớc khi hành động. Một số bệnh nhân tự sát có thể lập kế hoạch, chuẩn bị
các công cụ (ví dụ: vũ khí hoặc chất độc) để sử dụng cho hành vi tự sát, có thể
xác định chỗ và thời điểm mà họ sẽ chỉ có một mình để có thể tự sát thành
công.
Tự sát có thể gặp ở trầm cảm nhẹ, vừa và nặng. Không thể dự đoán một
cách chính xác đƣợc bệnh nhân trầm cảm có cố gắng tự sát hay không và khi
nào tự sát. Động cơ tự sát của bệnh nhân trầm cảm là mong muốn cao độ
chấm dứt một trạng thái cảm xúc đau khổ, sự tra tấn đang hành hạ cơ thể bệnh
nhân [2].
23
Bệnh nhân bị rối loạn trầm cảm có nguy cơ cao tự sát khi họ bắt đầu cải
thiện và lấy lại năng lƣợng cần thiết để lập kế hoạch và thực hiện một vụ tự
sát (tự sát nghịch lý). Không nên cung cấp cho một bệnh nhân bị trầm cảm số
lƣợng lớn các thuốc chống trầm cảm khi xuất viện [61].
Trong lâm sàng, triệu chứng này là một cấp cứu tâm thần, các tác giả
đều khẳng định bệnh nhân cần phải đƣợc nhập viện theo dõi điều trị nội trú,
và liệu pháp sốc điện là hiệu quả nhất trong điều trị [75].
* Một số biểu hiện khác
+ Các triệu chứng loạn thần trong trầm cảm: bệnh nhân trầm cảm có
hoang tƣởng hoặc ảo giác đƣợc cho là có một giai đoạn trầm cảm nặng với
các triệu chứng loạn thần. Trong rối loạn trầm cảm có loạn thần, khoảng 90%
các triệu chứng loạn thần là hoang tƣởng, do đó trầm cảm nặng có triệu chứng
loạn thần còn đƣợc gọi là “trầm cảm hoang tƣởng” [61].
Trong trầm cảm có thể gặp nhiều loại ảo giác, nhƣng ảo thanh thô sơ
thƣờng hay gặp nhất [4]. Hoang tƣởng hoặc ảo giác phù hợp với khí sắc trầm
cảm đƣợc gọi là phù hợp với khí sắc và ngƣợc lại.
Sự phân loại các triệu chứng loạn thần có ý nghĩa tiên lƣợng bệnh.
Trầm cảm nặng có triệu chứng loạn thần không phù hợp khí sắc có tiên lƣợng
xấu, tỷ lệ khỏi bệnh hoàn toàn sau điều trị của rối loạn trầm cảm nặng có triệu
chứng loạn thần phù hợp khí sắc là 47% còn bệnh nhân trầm cảm nặng có
triệu chứng loạn thần không phù hợp khí sắc là 18% [4], [2].
+ Các triệu chứng rối loạn cơ thể kèm theo: cả hai hệ thống chẩn đoán
đều chỉ ra một loạt các triệu chứng trầm cảm đƣợc đƣợc cho là có ý nghĩa đặc
biệt đƣợc gọi là hội chứng cơ thể (ICD-10) hoặc rối loạn cơ thể (DSM-IV)
các triệu chứng này đáp ứng tốt với các thuốc chống trầm cảm, theo ICD-10
hội chứng cơ thể chỉ đƣợc biệt định cho giai đoạn trầm cảm nhẹ và trung
bình; Chúng đƣợc thừa nhận là có mặt trong hầu hết các trƣờng hợp trầm cảm
nặng. Trong ICD-10 có tiêu chuẩn chẩn đoán riêng. Tuy nhiên, các nghiên
24
cứu cho thấy các triệu chứng chủ yếu là các triệu chứng đau mơ hồ, không
tƣơng xứng với các tổn thƣơng thực tổn. Cụ thể là đau vùng thƣợng vị, đau
vùng trƣớc tim, đau khớp, đau đầu, đau vùng sinh môn, rối loạn kinh nguyệt
(ở phụ nữ)... Ngoài các triệu chứng cơ thể nêu trên trong rối loạn trầm cảm
còn có các triệu chứng nổi bật là các rối loạn thần kinh thực vật nhƣ mạch
nhanh, ra mồ hôi trộm, có các cơn nóng bừng, lạnh buốt, thở nhanh, nôn, trào
ngƣợc dạ dày, đi ngoài táo, lỏng thất thƣờng, đái dắt, các rối loạn cảm giác đa
dạng. Trong một số trƣờng hợp các triệu chứng này chiếm ƣu thế che lấp các
triệu chứng trầm cảm [76].
Một số tác giả mô tả triệu chứng cơ thể phổ biến nhất trong rối loạn
trầm cảm là triệu chứng đau: Đau đầu, ống tiêu hóa, tim, xƣơng khớp, cơ, tiết
niệu, sinh dục... các cảm giác đau này có tính chất mơ hồ, lúc thì đau ở vị trí
này lúc lại ở vị trí khác và bệnh nhân khó xác định rõ ràng vị trí [2], [7].
Theo ICD 10 phiên bản năm 2016 nếu chỉ có 1 giai đoạn trầm cảm duy
nhất thì đƣợc chẩn đoán là giai đoạn trầm cảm (F32-), Nếu có từ 2 giai đoạn
trầm cảm trở lên phải chuyển thành chẩn đoán rối loạn trầm cảm tái diễn
(F33-) [64].
1.1.3.2. Đặc điểm lâm sàng của giai đoạn hưng cảm và rối loạn cảm xúc lưỡng
cực
* Giai đoạn hưng cảm
+ Triệu chứng chủ yếu: khí sắc tăng trong một giai đoạn hƣng cảm biểu
hiện là hƣng phấn, phấn khích và vui sƣớng quá mức. Khí sắc tăng đƣợc nhận
thấy bởi những ngƣời xung quanh. Khí sắc tăng biểu hiện bền vững hầu nhƣ
cả ngày, bệnh nhân mất khả năng tự phê phán trong quan hệ với mọi ngƣời,
trong quan hệ tình dục và trong nghề nghiệp [60].
Khí sắc tăng đƣợc coi là một triệu chứng quan trọng của giai đoạn hƣng
cảm, bệnh nhân có thể bị kích thích, đặc biệt khi mong muốn của ngƣời bệnh
không đƣợc thoả mãn. Khí sắc của bệnh nhân có thể là không ổn định (thay
25
đổi giữa hƣng phấn và kích thích) đƣợc ngƣời thân của bệnh nhân nhận thấy
thƣờng xuyên [60].
Biểu hiện lâm sàng của hƣng cảm cổ điển là khoái cảm, nhƣng họ cũng
có thể bị khó chịu, đặc biệt là khi hƣng cảm đã có mặt một thời gian. Khả
năng chịu đựng sự thất bại của họ thấp, có thể dẫn đến cảm giác tức giận và
thù địch. Bệnh nhân hƣng cảm có thể biểu hiện cảm xúc không ổn định,
chuyển từ vui vẻ đến khó chịu và đến trầm cảm chỉ trong vài phút hoặc vài
giờ [61].
+ Các triệu chứng phổ biến
- Tự cao: theo Sadock B.J. và cộng sự (2015), bệnh nhân đề cao mình
quá mức bình thƣờng, nếu nhẹ thì bệnh nhân giảm sự tự phê bình, nặng
hơn thì bệnh nhân tự đề cao mình rõ ràng, và có thể đạt đến mức độ hoang
tƣởng [4].
Khả năng phán xét của bệnh nhân hƣng cảm suy giảm nhiều. Bệnh
nhân dễ dàng ra quyết định cho các vấn đề quan trọng nhƣ đầu tƣ, mua sắm,
học hành của con cái... mà không hề cân nhắc [77].
Khi ý tƣởng tự cao ở mức độ nặng, chúng có thể phát triển thành hoang
tƣởng tự cao. Bệnh nhân cho rằng mình có nhiều tài năng, có khả năng đặc
biệt nhƣ có mối liên hệ với chúa trời hoặc với một số nhân vật chính trị nổi
tiếng, các lãnh tụ tôn giáo hoặc các nghệ sỹ lớn [60].
- Giảm nhu cầu ngủ: giảm nhu cầu ngủ có ở hầu hết các bệnh nhân
trong giai đoạn hƣng cảm và gần nhƣ hằng định. Bệnh nhân thức dậy sớm
hơn bình thƣờng vài giờ, nhƣng không hề thấy mệt mỏi, trái lại họ tự cảm
thấy tràn trề sức sống (ví dụ nhƣ cảm giác đã thoải mái, đƣợc nghỉ ngơi chỉ
sau 3 hoặc 4 giờ ngủ) [65].
Khi rối loạn giấc ngủ quá nặng, bệnh nhân có thể thức vài ngày không
cần ngủ mà không cảm thấy mệt mỏi gì. Tƣ duy dồn dập cũng cản trở khả
năng để đi vào giấc ngủ [78], [79].
26
- Nói nhiều, nói nhanh: theo Cao Tiến Đức và cộng sự (2016), trong
giai đoạn hƣng cảm, bệnh nhân thƣờng có áp lực phải nói, giọng của họ to,
nói nhanh và khi đã nói thì khó làm họ ngừng lại. Bệnh nhân có thể nói không
ngừng suốt cả ngày, họ nói về mọi chủ đề. Thƣờng họ đang nói về chủ đề này,
họ nhảy ngay sang chủ đề khác [7].
Bệnh nhân nói chuyện quá nhiều và nói rất nhanh. Họ nhƣ có áp lực
phải nói, họ nhanh chóng chuyển chủ đề từ chuyện này sang chuyện kia, triệu
chứng này đƣợc gọi là duy phi tán [65].
Ngôn ngữ của bệnh nhân đƣợc đặc trƣng là đùa cợt, chơi chữ và xấc láo
để mua vui. Bệnh nhân có thể trở thành ngƣời nói năng hời hợt, đại khái, biểu
hiện qua nét mặt và lối diễn đạt. Họ luôn gây ồn ào bằng cách nói về một nội
dung nào đó, thay đổi luật lệ lựa chọn từ. Nếu bệnh nhân cáu giận, cuộc thảo
luận có thể bị biến thành đả kích hoặc bình luận theo hƣớng bi kịch hoá [60].
Bệnh nhân hƣng cảm không thể bị gián đoạn trong khi họ đang nói, và
họ thƣờng bực bội do can thiệp của những ngƣời xung quanh. Bài phát biểu
của họ thƣờng bị xáo trộn. Nặng hơn, tƣ duy liên quan lỏng lẻo, khả năng tập
trung mất dần, tƣ duy bị phi tán và từ mới xuất hiện. Trong cơn hƣng cảm
kích động cấp tính, ngôn ngữ có thể hoàn toàn rời rạc và không thể phân biệt
với tâm thần phân liệt [79].
- Vui vẻ quá mức: bệnh nhân luôn biểu hiện thái độ vui mừng quá mức
với bất kỳ sự vật hiện tƣợng nào xảy ra xung quanh. Họ thể hiện nét mặt vui
sƣớng, thái độ hân hoan, nói cƣời huyên thuyên. Bệnh nhân thƣờng ca hát,
đọc thơ, diễn kịch một cách say sƣa mà không cần biết ngƣời xung quanh có
muốn thƣởng thức hay không [7].
Do nói liên tục, họ gây ồn ào và phiền toái cho những ngƣời xung
quanh, đặc biệt vào giờ làm việc hoặc giờ ngủ. Tuy nhiên, nếu bị phản đối, họ
có thể chuyển thái độ nhanh chóng từ vui vẻ quá mức sang nổi cáu và gây sự
với những ngƣời phản đối [80].
27
- Ý nghĩ nhanh: ý nghĩ của bệnh nhân có thể tăng nhanh về tốc độ,
nhƣng các ý nghĩ này vẫn có mối liên kết với nhau. Một số bệnh nhân có
giai đoạn hƣng cảm cho rằng các ý nghĩ của họ xuất hiện chồng chéo đan
xen lẫn nhau giống nhƣ chúng ta theo dõi đồng thời 2 hoặc 3 chƣơng trình
vô tuyến [60].
Khi bệnh nhân có bùng nổ về ý nghĩ, họ nói rất nhanh, chuyển đột ngột
từ chủ đề này sang chủ đề khác. Khi triệu chứng này của bệnh nhân quá nặng
nề, ngôn ngữ của họ trở thành hỗn loạn và mất phù hợp [61].
- Phân tán chú ý: hầu hết tác giả đều cho rằng tƣ duy dồn dập làm cho
bệnh nhân dễ bị phân tâm bởi các tác nhân kích thích không quan trọng. Việc
này làm cho bệnh nhân giảm tập trung chú ý, tƣ duy hoàn toàn chế ngự ngƣời
bệnh làm cho họ không thể nhận thấy bất cứ việc gì bên ngoài dòng tƣ duy
của họ [79].
Bùi Quang Huy và cộng sự (2009) cho rằng, bệnh nhân mất khả năng
tập trung chú ý rất rõ ràng vào một công việc nếu có các kích thích từ bên
ngoài. Do đó họ thƣờng can thiệp vào mọi việc xung quanh, gây ồn ào, nói
chuyện quá to hoặc di chuyển đồ đạc trong phòng. Nhìn chung, bệnh nhân
không có khả năng phân biệt giữa các vấn đề chủ yếu và các vấn đề không
quan trọng khác [60].
- Tăng hoạt động ƣa thích: bệnh nhân thƣờng tăng hoạt động trong
nghề nghiệp, trong các hoạt động chính trị, tôn giáo. Họ có thể mua sắm rất
nhiều, vƣợt xa khả năng chi trả của họ [4].
Bệnh nhân có giai đoạn hƣng cảm luôn nghĩ về tình dục và luôn mong
muốn quan hệ tình dục, vì vậy họ có thể dễ dàng nhận lời quan hệ tình dục
với ngƣời không quen biết [5].
Bệnh nhân có thể tham gia vào hoạt động không phù hợp với tính cách
của họ. Họ luôn làm phiền ngƣời khác nhƣ quấy rầy hàng xóm, ngƣời quen
biết, gọi điện cho bạn thậm trí gọi điện cho ngƣời lạ bất cứ giờ nào trong đêm,
nhƣng họ không cho rằng mình quấy rầy, làm phiền đến ngƣời khác [5].
28
Bệnh nhân có thể hoạt động liên tục nhƣ đi đi, lại lại, nói chuyện với
nhiều ngƣời (ví dụ: vừa nói chuyện với một ngƣời vừa gọi điện cho ngƣời
khác). Một số bệnh nhân viết nhiều lá thƣ cho nhiều ngƣời bạn, cho những
ngƣời nổi tiếng hoặc cho phƣơng tiện thông tin đại chúng [61].
Các triệu chứng bùng nổ khí sắc, lạc quan không căn cứ, tự cao và giảm
khả năng phê phán thƣờng đƣợc coi là nguyên nhân dẫn đến bất cẩn trong các
hoạt động, có các hành vi có hại nhƣ là mua sắm quá nhiều, lái xe ẩu, hoạt
động tình dục nguy hiểm, lạm dụng ma túy, cờ bạc quá mức, đầu tƣ trong
buôn bán không hiệu quả hoặc các hoạt động phạm pháp [7].
Những hành vi này có thể làm tăng căng thẳng trong mối quan hệ cá
nhân, dẫn đến các khó khăn trong công việc và làm tăng nguy cơ vi phạm
pháp luật. Bệnh nhân có nguy cơ xung đột cao khi tham gia vào các hoạt động
hoặc có thể gây hại cho bản thân và những ngƣời xung quanh [78], [81].
+ Các triệu chứng hay gặp khác
- Loạn thần: giai đoạn hƣng cảm nặng với các hoang tƣởng đƣợc gọi là
hƣng cảm có loạn thần. Các triệu chứng loạn thần có thể là các hoang tƣởng
phù hợp với khí sắc (tự cao, cho rằng mình có nhiều tài năng), hiếm hơn, bệnh
nhân có các hoang tƣởng không phù hợp với khí sắc (bị hại, bị theo dõi). Ảo
giác trong giai đoạn hƣng cảm có loạn thần thƣờng là ảo thanh thô sơ [5].
Hoang tƣởng có thể gặp ở 75% của tất cả các bệnh nhân hƣng cảm mức
độ nặng. Hoang tƣởng phù hợp với khí sắc thƣờng liên quan đến sự giàu có,
khả năng phi thƣờng, hay quyền lực lớn. Hoang tƣởng và ảo giác không phù
hợp với khí sắc cũng xuất hiện trong giai đoạn hƣng cảm. Tính ra, khoảng
50% số bệnh nhân rối loạn lƣỡng cực, giai đoạn hƣng cảm có hoang tƣởng
hoặc ảo giác. Điều này có thể dẫn đến hành vi bạo lực, do đó cần phải cho
bệnh nhân nhập viện điều trị nội trú theo chuyên khoa tâm thần [77], [82].
Khi có hoang tƣởng tự cao, bệnh nhân cảm không thể kiểm soát đƣợc
hành vi của mình, nhƣ thể họ đã đƣợc "chọn" và đang tiến hành một nhiệm vụ
đặc biệt [82].
29
- Kiểm soát xung động: khoảng 75% của tất cả các bệnh nhân hƣng
cảm có hành vi gây hấn, tấn công hay đe dọa ngƣời khác. Bệnh nhân hƣng
cảm cũng có thể có ý tƣởng, hành vi tự sát và hành vi giết ngƣời, nhƣng tỉ lệ
của những hành vi này là thấp [61].
- Đánh giá và nhận thức: do bệnh nhân hƣng cảm mất hoặc giảm khả
năng phê phán, họ có thể vi phạm pháp luật về tình dục, tài chính. Mặc dù
bệnh nhân hƣng cảm còn chút hiểu biết về rối loạn hành vi của họ, nhƣng họ
không thể tự kiềm chế đƣợc [60].
- Tính tin cậy: Cao Tiến Đức và cộng sự (2016) nhấn mạnh, bệnh nhân
hƣng cảm có tiếng là không đáng tin cậy trong thông tin của họ. Bởi vì nói
dối và dối trá rất phổ biến ở bệnh nhân [7].
- Triệu chứng cơ thể: theo Sadock B. J. (2007), một số bệnh nhân hƣng
cảm cũng có triệu chứng cơ thể, nhƣ ra mồ hôi, tăng nhịp tim và giảm cân.
Đôi mắt của ngƣời bệnh có thể "rộng" hay "mở", hiếm khi nhấp nháy [4]
Trong giai đoạn toàn phát của hƣng cảm, bệnh nhân sẽ cảm thấy mọi
việc làm của họ là hoàn hảo, không gây ra hậu quả tiêu cực và họ không cần
phải kiềm chế trong việc theo đuổi những mục tiêu [4], [83].
* Giai đoạn hưng cảm nhẹ: hƣng cảm nhẹ là một dạng nhẹ hơn của
hƣng cảm, có các tiêu chuẩn tƣơng tự nhƣ hƣng cảm. Tuy nhiên, các triệu
chứng của hƣng cảm nhẹ ít gây ra sự sụt giảm về chức năng xã hội hoặc nghề
nghiệp hoặc các chức năng quan trọng khác [81].
Bệnh nhân không bao giờ có các triệu chứng loạn thần và không cần
phải nhập viện tâm thần [65].
Nhìn chung các chức năng hoạt động có thể tăng lên thực sự trong các
giai đoạn hƣng cảm nhẹ và đƣợc coi nhƣ là cơ chế bảo vệ chống lại trầm
cảm. Giai đoạn hƣng cảm nhẹ hiếm khi tiến triển thành giai đoạn hƣng cảm
thật sự [84].
30
Những ngƣời bị hƣng cảm nhẹ kéo dài không đƣợc điều trị ổn định có
nguy cơ phát triển thành hƣng cảm [85].
Một số tác giả còn khẳng định, bệnh nhân hƣng cảm nhẹ tăng tính sáng
tạo. Có những "giai đoạn" hay "trạng thái" hƣng cảm khác, về cơ bản là hƣng
cảm nhẹ, giống nhƣ đặc điểm của hƣng cảm nhẹ, có thể liên quan đến việc
tăng sự sáng tạo, trí thông minh và tham vọng trong khi những ngƣời khác
cáu kỉnh hoặc hình thành khả năng phán đoán kém. Hƣng cảm nhẹ có thể gây
nên cảm giác tốt hơn cho cho bệnh nhân. Do đó, ngay cả khi gia đình và bạn
bè nhận ra khí sắc thay đổi, các bệnh nhân sẽ luôn từ chối bất cứ điều gì mà
ngƣời khác cho đó là sai [79].
Các giai đoạn hƣng cảm nhẹ có thể tiếp diễn sau một giai đoạn trầm
cảm, nhƣng nhiều trƣờng hợp, bệnh nhân không có các giai đoạn trầm cảm
trƣớc đó. Thông thƣờng, các triệu chứng diễn tiến trong một vài tuần đến vài
tháng [84].
Nếu hƣng cảm chỉ xảy ra một giai đoạn duy nhất thì đƣợc chẩn đoán
là giai đoạn hƣng cảm ( F30-) còn có từ 2 giai đoạn hƣng cảm hoặc có giai
đoạn trầm cảm hoặc hỗn hợp trƣớc đó thì đƣợc chẩn đoán rối loạn lƣỡng
cực (F31-) [64].
* Giai đoạn trầm cảm: Biểu hiện của giai đoạn trầm cảm của rối loạn
cảm xúc lƣỡng cực giống nhƣ trong trầm cảm điển hình.
* Giai đoạn hỗn hợp: trong bệnh cảnh rối loạn lƣỡng cực, bệnh nhân có
thể có một giai đoạn hỗn hợp, nghĩa là bệnh nhân có các triệu chứng của cả
hƣng cảm và trầm cảm cùng xảy ra một lúc. Bệnh nhân trong giai đoạn hỗn
hợp có thể có các triệu chứng hƣng cảm nhƣ những ý nghĩ vĩ đại, trong khi đó
họ lại có các triệu chứng trầm cảm nhƣ cảm giác tội lỗi quá nhiều hoặc cảm
thấy muốn tự sát [4].
Giai đoạn hỗn hợp đƣợc coi là có nguy cơ cao đối với hành vi tự sát vì
bệnh nhân hay tuyệt vọng, kết hợp với khó kiểm soát xung động. Rối loạn lo
31
âu đồng hành xảy ra thƣờng xuyên trong giai đoạn hỗn hợp hơn trong giai
đoạn trầm cảm hoặc giai đoạn hƣng cảm. Các bệnh nhân thƣờng có xu hƣớng
lạm dụng rƣợu và ma túy [86].
Trong giai đoạn hỗn hợp, các triệu chứng của trầm cảm và hƣng cảm có
thể xuất hiện đồng thời, nhƣng cũng có thể luân phiên, thay thế nhau trong
một thời gian rất ngắn (sáng trầm cảm, chiều hƣng cảm) [60].
1.2. Hành vi phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc
1.2.1. Khái niệm hành vi phạm tội và tội phạm
Bộ luật Hình sự số: 100 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa 13 ban hành ngày 21 tháng 12 năm 2015/QH13. Bộ luật này
đƣa khái niệm hành vi phạm tội và tội phạm tại điều 8 của bộ luật hình sự, cụ thể
nhƣ sau:
- Hành vi phạm tội là hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm. Hành vi phạm tội phải có đầy đủ những dấu hiệu về chủ thể, mặt chủ
quan và mặt khách quan của cấu thành tội phạm.
- Tội phạm đƣợc định nghĩa và có các đặc điểm dƣới đây.
(1) Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ
luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa.
(2) Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
đƣợc quy định trong bộ luật này, tội phạm đƣợc phân thành tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng.
32
(3) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho
xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù.
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù. Tội phạm rất
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mƣời lăm năm tù. Tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mƣời lăm năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình.
(4) Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhƣng tính chất nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và đƣợc xử lý
bằng các biện pháp khác.
- Tình trạng có hay không có năng lực trách nhiệm hình sự tại điều
21 đƣợc quy định nhƣ sau: Ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự. Các cơ quan tố tụng hình sự có thể quyết định đƣa đi
bắt buộc chữa bệnh
- Ngƣời phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhƣng đã
lâm vào tình trạng nhƣ trên trƣớc khi bị kết án, thì cũng đƣợc áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, ngƣời đó có thể phải chịu trách
nhiệm hình sự ( điều 49) [87].
Nhƣ vậy các hành vi phạm tội, nhƣng đƣợc thực hiện bởi những
ngƣời dƣới 14 tuổi hoặc những ngƣời không có năng lực nhận thức và điều
khiển hành vi và nhƣ vậy không có năng lực trách nhiệm hình sự là không
phải tội phạm.
Xác định năng lực nhận thức và điều khiển hành vi phải dựa trên 2 tiêu
chuẩn: tiêu chuẩn y học là vấn đề chẩn đoán bệnh tật, can phạm có bị bệnh
33
tâm thần hay không, bệnh có trƣớc trong hay sau khi gây án, bệnh gì nặng hay
nhẹ. Tiêu chuẩn pháp luật: trong lúc gây án ngƣời bệnh có nhận thức đƣợc
hành vi của mình là sai phạm về đạo đức, pháp luật hay không và có hay
không có khả năng điều khiển, kìm chế hành vi phạm tội của họ [88].
1.2.2. Tình hình nghiên cứu phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc
1.2.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Rối loạn tâm thần nói chung và các rối loạn cảm xúc nói riêng có liên
quan rất nhiều đến các hành vi phạm tội. Ngƣời ta thấy rằng tỷ lệ đối tƣợng bị
bệnh tâm thần ở các tù nhân cao hơn so với dân số chung .
Khảo sát quốc gia về sức khỏe Tâm thần và An sinh năm 2007 tại Hoa
Kỳ đã thu thập đƣợc nhiều thông tin về tỷ lệ rối loạn tâm thần ở những ngƣời
đã bị giam giữ. Tỷ lệ mắc bất kỳ rối loạn tâm thần nào ở những ngƣời đã từng
bị giam giữ lớn hơn ở những ngƣời không bị giam giữ. Có 41% rối loạn tâm
thần trong 12 tháng cao hơn gấp hai lần những ngƣời chƣa từng bị giam giữ
(19%). Những ngƣời từng bị giam giữ tỷ lệ mắc các rối loạn sử dụng chất cao
gần gấp 5 lần (23% so với 5%). Tỷ lệ mắc các rối loạn cảm xúc cao hơn gấp
ba lần (69% so với 19%), tỉ lệ rối loạn lo âu gần gấp đôi (28% so với 14%).
Hơn nữa, tỷ lệ các bệnh tâm thần chủ yếu nhƣ tâm thần phân liệt và trầm cảm
cao hơn từ ba đến năm lần trong nhà tù so với dân số chung [89].
Modestin J. (2002) nghiên cứu trên 179 đối tƣợng nam giới và 99 đối
tƣợng nữ giới rối loạn cảm xúc tại Thụy sỹ cho thấy 37% đối tƣợng nam giới
có các giai đoạn trầm cảm ngắn hoặc tái diễn, số còn lại là trầm cảm chủ yếu.
Trong số các đối tƣợng này 40% nam giới và 7% nữ giới có hành vi phạm
tội. Các tội phạm thƣờng gặp ở nam giới là hành vi bạo lực (3%), tội về tình
dục (3%), phá hủy tài sản (17%), phạm tội về an toàn giao thông (24%),
phạm tội về ma túy (10%), phạm các tội khác (17%); tỷ lệ tƣơng ứng ở nữ
giới là 1%,1%, 3%, 2% và 3% [90].
34
Shaw J. và cộng sự (2006) đánh giá các triệu chứng tại thời điểm gây
án bằng cách xem xét báo cáo của các bác sĩ tâm thần ở toà án, thấy rằng 5%
ngƣời phạm tội bị loạn thần và 6% bị trầm cảm tại thời điểm gây án. Hầu hết
những ngƣời bị loạn thần tại thời điểm gây án đã tiếp xúc với dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ tâm thần trƣớc đó, ngƣợc lại những ngƣời bị trầm cảm tại thời
điểm gây án thì chƣa bao giờ tiếp xúc, chủ yếu là do trầm cảm không đƣợc
phát hiện trong cộng đồng (có thể đƣợc phát hiện trong một số trƣờng hợp
hiếm, dẫn tới giết ngƣời) [91].
Swanson J.W. và cộng sự (1990) phân tích dữ liệu từ khảo sát trong
lĩnh vực dịch tễ học của Hoa Kỳ, sử dụng phƣơng pháp tự báo cáo để đánh
giá sự liên quan giữa phạm tội bạo lực và rối loạn tâm thần trong số 10.059
ngƣời lớn sống ở cộng đồng. Hành vi phạm tội bạo lực ở ngƣời bệnh trầm
cảm, rối loạn lƣỡng cực và tâm thần phân liệt cao hơn gấp 5 lần so với ngƣời
không có bệnh (10,66 -12,69% so với 2,05%) [92].
Trong tổng số tù nhân tại New South Wale có 60% nữ và 44% tù
nhân nam đƣợc chẩn đoán có rối loạn tâm thần, bao gồm loạn thần và các
rối loạn cảm xúc [93].
Một nghiên cứu về hành vi tấn công ngƣời khác ở các đối tƣợng bị
bệnh tâm thần nặng so với dân số chung tại Anh cho thấy nam giới có hành vi
phạm tội bạo lực ít nhất 1 lần trƣớc 46 tuổi, có tỷ lệ cao gấp 3 đến 4 lần so với
dân số chung (35%-40% so với 8,7%-11,4%) còn ở nữ giới, tỷ lệ này gấp 9
lần (11,8% so với 1,3%); Nghiên cứu cũng cho thấy 49% đối tƣợng nam giới
và 39% đối tƣợng nữ giới có hành vi tấn công ngƣời khác trong vòng 6 tháng
trƣớc đó; Vấn đề sử dụng ma túy phổ biến ở các đối tƣợng này và họ hay tái
phạm tội [94].
Nghiên cứu về rối loạn tâm thần và bạo lực trên 1136 đối tƣợng cho
thấy các bệnh nhân rối loạn cảm xúc có tỷ lệ phạm tội bạo lực cao hơn các
35
bệnh nhân tâm thần phân liệt (28,5% trầm cảm, 22% rối loạn lƣỡng cực và
14,8% tâm thần phân liệt) [95].
Brennan P.A. và cộng sự (2000) nghiên cứu trên 358100 trƣờng hợp ở
Hà Lan theo dõi trong 44 năm, có ghi nhận tất cả các lần nhập viện và bị bắt
giữ của các đối tƣợng bị bệnh tâm thần nặng. Tác giả nhận thấy 5,2% nam
giới và 0,5% nữ giới bị rối loạn cảm xúc có loạn thần, 1,3% nam và 2,8% nữ
bị tâm thần phân liệt đã bị bắt vì phạm tội bạo lực. Dƣờng nhƣ rối loạn cảm
xúc có loạn thần là yếu tố nguy cơ lớn gây bạo lực ở nữ giới. So sánh với tỷ lệ
cơ bản trong dân số chung, sự hiện diện của rối loạn cảm xúc loạn thần làm
tăng nguy cơ bạo lực gấp 4 lần ở nữ giới và 2 lần ở nam giới [96].
Nghiên cứu Dunedine theo dõi từ khi sinh (916 ngƣời) cho thấy cả hai
giai đoạn trầm cảm và giai đoạn hƣng cảm đều có liên quan với phạm tội bạo
lực [97].
Một nghiên cứu về bạo lực trong số các đối tƣợng tâm thần tiến hành ở
Israel cho thấy các rối loạn loạn thần và các rối loạn lƣỡng cực liên quan có ý
nghĩa với hành vi bạo lực [98].
Nghiên cứu chuyên đề của Taylor P. Và cộng sự về bệnh tâm thần trên
các bị cáo nam giới, phân chia các bệnh tâm thần thành rối loạn loạn thần và
bệnh tâm căn cho thấy 1,2% nam giới bị rối loạn cảm xúc có loạn thần và tất
cả đều bị kết án về tội bạo lực [99].
Một nghiên cứu lớn có hệ thống cho thấy 10% tù nhân nam giới và
12% tù nhân nữ giới ở các nƣớc phƣơng tây bị trầm cảm nặng, còn các bệnh
loạn thần đƣợc xem xét riêng biệt (xấp xỉ 4% tù nhân) [100].
Văn phòng nghiên cứu thống kê về tù nhân ở nƣớc Anh và xứ Wales
cũng xem xét chẩn đoán trong phân loại mở rộng về loạn thần và bệnh tâm
căn và thấy rối loạn cảm xúc có loạn thần chiếm 1-2% tù nhân. Chứng cứ về
một giai đoạn trầm cảm đƣợc thấy ở 17% nam giới và 21% nữ giới bị bắt tạm
giam [101].
36
Một nghiên cứu ở các tù nhân tạm giam ở nƣớc Anh cũng phân biệt
giữa rối loạn cảm xúc có hoặc không có loạn thần và thấy 0,7% tù nhân bị rối
loạn cảm xúc có loạn thần và 2,3% bị rối loạn cảm xúc nặng không có loạn
thần [102].
Một nghiên cứu ở Hoa kỳ phỏng vấn tù nhân nam giới cho thấy tỷ lệ
tâm thần phân liệt, trầm cảm nặng và hƣng cảm cao gấp 2 đến 3 lần so với tỷ
lệ tƣơng ứng trong nhân dân, kể cả khi đã điều chỉnh tƣơng đƣơng về độ tuổi
và nhân chủng học [103].
Năm 1990 Colline J. J. và cộng sự khảo sát 1.140 tù nhân phạm tội giết
ngƣời đã cho thấy có bằng chứng liên quan trực tiếp giữa chẩn đoán cả đời về
rối loạn loạn khí sắc với tiền sử bị tù hoặc hoãn thi hành án do cƣớp giật cũng
nhƣ các rắc rối về luật pháp do đánh nhau từ tuổi 18 [104].
Trong một nghiên cứu khác của Pliszka S. R. và cộng sự năm 2000, tại
một trại giáo dƣỡng cho thấy một tỷ lệ cao rối loạn cảm xúc (42%) ở trẻ em vị
thành niên phạm tội; trong đó 20% là có rối loạn hƣng cảm, 20% rối loạn
trầm cảm chủ yếu và 2% rối loạn cảm xúc lƣỡng cực. Có một tỷ lệ cao những
ngƣời này kết hợp với nghiện chất và rối loạn nhân cách [105].
Modestin J. và cộng sự (2005) tiến hành khảo sát 261 đối tƣợng nam
giới, tất cả đƣợc chẩn đoán rối loạn cảm xúc lƣỡng cực, trầm cảm chủ yếu,
trầm cảm ngắn và loạn khí sắc. Khi so sánh với nhóm chứng bị bệnh tâm thần
phân liệt, các tác giả nhận thấy tỷ lệ phạm tội ở nhóm nghiên cứu là 42%,
trong khi ở nhóm chứng là 31% [106].
Nhƣ vậy các nghiên cứu ở nhiều nơi trên thế giới cũng cho kết quả rất
khác biệt về tỷ lệ tội phạm trong rối loạn cảm xúc, tính chất tội phạm cũng rất
khác nhau tùy thuộc vào văn hoá, xã hội và luật pháp của các quốc gia.
1.2.2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, chƣa có nhiều công trình nghiên cứu về tình hình phạm
tội ở các đối tƣợng rối loạn cảm xúc.
37
Nghiên cứu 248 đối tƣợng tới giám định trong 7 năm của Phan Ngọc
Hà cho thấy rối loạn cảm xúc có 20 ngƣời (chiếm 8%) [107].
Trong một tổng kết 30 năm Giám định pháp y tâm thần tại Bệnh viện
Tâm thần Trung ƣơng 2, số lƣợng giám định là 1232 đối tƣợng thì trong đó
các rối loạn cảm xúc chiếm 4,1%. Các nghiên cứu của một số các tổ chức
giám định Pháp y Tâm thần ở nƣớc ta cho thấy phạm tội có rối loạn cảm xúc
chiếm tỷ lệ khoảng 6 đến 8% [108], [109], [110].
Tuy nhiên, các nghiên cứu này chỉ khảo sát chung về các rối loạn tâm
thần nên chƣa đi sâu làm rõ hình thức, hậu quả phạm tội, cũng nhƣ đặc điểm
lâm sàng ở nhóm đối tƣợng rối loạn cảm xúc.
1.2.3. Đặc điểm hành vi phạm tội trong rối loạn cảm xúc
1.2.3.1. Đặc điểm hành vi phạm tội trong giai đoạn trầm cảm
* Hành vi bạo lực
Hành vi bạo lực là bất kỳ hành vi nào của một cá nhân đe dọa hoặc
thực sự gây tổn hại hoặc gây thƣơng tích cho ngƣời khác hoặc phá hủy tài
sản. Hành vi bạo lực thƣờng bắt đầu bằng các mối đe dọa bằng lời nói nhƣng
theo thời gian leo thang có liên quan đến gây tổn hại về thể chất.
Hành vi phạm tội bạo lực bao gồm giết ngƣời, ngộ sát, tấn công ngƣời
khác, các hành vi phạm tội về tình dục, cƣớp của, đốt phá và các mối đe dọa
bất hợp pháp khác.
Theo Kaplan H.I. (1994), các trạng thái cảm xúc, đặc biệt bực bội
và cáu kỉnh đóng vai trò quan trọng trong hành vi gây hấn, tấn công ngƣời
khác [3].
Ngay từ những năm 60 của thế kỉ trƣớc, ngƣời ta đã nhận thấy có sự
liên quan giữa giảm chức năng hệ thống serotoninergic và gây hấn. Có lẽ mối
liên quan này đƣợc thông qua rối loạn kiểm soát xung động, điều hoà cảm xúc
và chức năng xã hội khác của đối tƣợng [111].
38
Ngƣời ta nhận thấy có nhiều yếu tố liên quan đến hành vi hung hăng ở
các đối tƣợng rối loạn cảm xúc. Đó là số lần gây hấn trong quá khứ, các triệu
chứng loạn thần, các triệu chứng trầm cảm hoặc hƣng cảm, sự tuân thủ điều
trị bằng thuốc, sự hỗ trợ của xã hội và tình trạng lạm dụng rƣợu, ma túy [112].
Có khoảng 1/6 số đối tƣợng hƣng - trầm cảm có hành vi tự sát, nhƣng
chỉ có 6/100.000 có hành vi bạo lực đối với ngƣời khác. Thƣờng đối tƣợng bị
hại là các thành viên trong gia đình nhƣ: chồng có hành vi bạo lực đối với vợ
và con cái hoặc mẹ đối với con cái. Hình ảnh lâm sàng điển hình là các triệu
chứng trầm cảm với hoang tƣởng cho mình là vô dụng, tự buộc tội, ý nghĩ tự
sát dai dẳng, từ đó dẫn đến hành vi giết các thành viên gần gũi trong gia đình
sau đó tự sát của đối tƣợng [3].
* Trầm cảm và giết người
Theo Sadock B.J. (2007), trầm cảm và giết ngƣời thƣờng có các đặc
điểm sau:
+ Không phổ biến (tỷ lệ hàng năm 0,2 - 0,3/100.000 ngƣời/năm).
+ Thủ phạm là nam thanh niên ghen tuông tình dục, các bà mẹ bị trầm
cảm, ngƣời cao tuổi bị ốm đau tuyệt vọng.
+ Nạn nhân là bạn tình nữ, họ hàng hoặc hàng xóm [24].
* Trầm cảm và giết người - tự sát
Giết ngƣời – tự sát là tình trạng một ngƣời giết ngƣời khác (thƣờng là
vợ chồng hoặc họ hàng) và sau đó tự sát. Trong hầu hết các trƣờng hợp (95%)
đối tƣợng là nam giới, họ giết một hoặc nhiều ngƣời rồi tự sát sau một thời
gian ngắn. Giết ngƣời – tự sát thƣờng liên quan đến trầm cảm. Nghiên cứu
cho thấy 75% các trƣờng hợp giết ngƣời rồi tự sát bị trầm cảm [113].
Ở nƣớc Anh và xứ Wales, ngƣời ta ƣớc tính giết ngƣời rồi tự sát chiếm
khoảng 0,01% tất cả các tội giết ngƣời [114].
Theo trung tâm chính sách về bạo lực của Hoa kỳ hầu hết những kẻ giết
ngƣời trong vụ giết ngƣời – tự sát là nam giới (90%). Công cụ phổ biến nhất
39
trong các vụ giết ngƣời – tự sát là việc sử dụng súng. Các nạn nhân phổ biến
nhất của giết ngƣời – tự sát là những ngƣời có quan hệ gần gũi với đối tƣợng,
ví dụ nam giới giết vợ hoặc bạn gái của mình [115].
Hành vi phạm tội này thƣờng là kết quả của các sự cố trong các mối
quan hệ của họ (72%). Ngƣời ta nhận thấy, 94% nữ giới bị giết bởi ngƣời có
quan hệ gần gũi của họ. Khoảng 69% vụ giết ngƣời – tự sát có từ 3 nạn nhân
trở lên, thủ phạm là nam giới trong gia đình. Họ giết vợ, con hoặc các thành
viên khác trong gia đình, rồi sau đó tự sát. Trong nhiều trƣờng hợp thủ phạm
đang bị trầm cảm và có các vấn đề khó khăn về tài chính hay các vấn đề
khác. Các đối tƣợng này cho rằng tốt hơn hết là mọi thành viên trong gia đình
chết với anh ta, còn hơn là sống để đối phó với các vấn đề này [115].
Hầu hết các vụ giết ngƣời - tự sát (80%) xảy ra trong nhà của nạn nhân
và có đến 84% các nạn nhân là ngƣời thân của đối tƣợng. Nơi có nhiều khả
năng nhất xảy ra các vụ giết ngƣời - tự sát là trong phòng ngủ, nhà của đối
tƣợng hoặc của nạn nhân. Trẻ em thƣờng là nạn nhân và nhân chứng cho giết
ngƣời - tự sát.
Ngƣời cao tuổi hiếm khi phạm tội giết ngƣời – tự sát. Năm 2009, chỉ có
6,5% đối tƣợng phạm tội giết ngƣời là 55 tuổi trở lên. Tuy nhiên, tự sát lại
chiếm tỷ lệ cao trong độ tuổi này với 31,6% nạn nhân tự sát là từ 55 tuổi trở
lên [115].
Một nghiên cứu ở Hà Lan cho thấy sử dụng súng là cách thức thƣờng
gặp nhất để giết ngƣời rồi tự sát và 23% tự sát không thành công [116].
Một nghiên cứu khác lại cho thấy nam giới lớn tuổi bị trầm cảm là
nhóm có nguy cơ đặc biệt giết ngƣời - tự sát, nhất là khi họ có tiền sử về bạo
lực gia đình. Nạn nhân của các đối tƣợng này thƣờng là ngƣời đƣợc đối tƣợng
đó quan tâm chăm sóc. Xung đột hôn nhân là một yếu tố quan trọng trong một
số vụ giết ngƣời - tự sát trong gia đình. [117].
40
* Trầm cảm và giết trẻ em
Trong số 6144 ngƣời bị kết tội giết ngƣời ở Anh và xứ Wales trong 10
năm, có 297 vụ giết con và 45 vụ giết con rồi tự sát. Số thủ phạm là bố của
đứa trẻ là 195 (66%) trƣờng hợp. Các đối tƣợng phạm tội giết trẻ em là nữ
giới trong tiền sử có nhiều rối loạn tâm thần hơn nam giới (66% so với 27%)
và tại thời điểm phạm tội (53% so với 23%). Các rối loạn tâm thần của các
đối tƣợng này thƣờng là rối loạn cảm xúc [118]
Hiện tƣợng giết con rất thƣờng gặp trong bối cảnh trầm cảm sau sinh và
đƣợc chia làm giết trẻ sơ sinh (đứa bé bị giết trong vòng ngày đầu tiên của
cuộc sống) và giết trẻ em (đứa trẻ bị giết sau hoặc trong sinh nhật lần thứ nhất
của nó). Động cơ giết ngƣời của những nữ giới giết con thƣờng có 2 loại:
ngƣời mẹ giết trẻ sơ sinh là những ngƣời bị rối loạn loạn thần và có các khó
khăn về mặt xã hội, lạm dụng chất. Những ngƣời mẹ bị trầm cảm nặng
thƣờng có tiền sử tự huỷ hoại cơ thể và có tỷ lệ tự sát cao sau khi phạm tội
giết trẻ em [119].
* Trộm cắp trong cửa hàng
Các đối tƣợng trầm cảm đƣợc coi là có liên quan với hành vi ăn cắp
trong cửa hàng lặp đi lặp lại. Trộm cắp trong cửa hàng hay gặp nhất ở các đối
tƣợng trầm cảm nặng (27%), rối loạn cảm xúc lƣỡng cực (21%), trong khi chỉ
có tỷ lệ nhỏ (9%) là trộm cắp bệnh lý [120] .
* Các biểu hiện phạm tội khác
+ Đốt phá.
+ Đối tƣợng tự sát bằng cách tự thiêu nên có thể gây ra hoả hoạn.
+ Phạm tội tình dục tối thiểu ở nam giới.
+ Tự huỷ hoại cơ thể (thƣờng liên quan với phụ thuộc rƣợu, lạm dụng
ma tuý và rối loạn nhân cách) [ 121].
41
1.2.3.2. Đặc điểm phạm tội trong giai đoạn hưng cảm
Các rối loạn hƣng cảm và hƣng cảm nhẹ thƣờng gặp trong pháp y tâm
thần. Theo Sadock B. J. và cộng sự (2015), đối tƣợng rối loạn lƣỡng cực có
khuynh hƣớng bạo lực nhiều nhất trong các giai đoạn hƣng cảm hoặc giai
đoạn hỗn hợp. Ở các đối tƣợng này có sự kết hợp giữa niềm tin không có thật
và rối loạn kiểm soát hành vi nặng nề [24].
* Hành vi bạo lực
Tỷ lệ hành vi bạo lực xảy ra trƣớc khi nhập viện ở đối tƣợng hƣng cảm
hoặc tâm thần phân liệt là giống nhau. Cả hai rối loạn này dƣờng nhƣ gây bạo
lực nhiều hơn so với các đối tƣợng đối tƣợng có rối loạn tâm thần khác [92].
Fazel S. và cộng sự (2002) cho rằng, nguy cơ tội phạm bạo lực ở ngƣời
lạm dụng ma túy hoặc rƣợu lớn hơn những ngƣời không lạm dụng chúng 6-8
lần. Nguy cơ tội phạm bạo lực trong số những ngƣời bị rối loạn lƣỡng cực kết
hợp với lạm dụng chất đồng diễn cao hơn những ngƣời khác 6-7 lần [100].
Một số nghiên cứu cho thấy chỉ dƣới 50% những ngƣời bị rối loạn
lƣỡng cực có tiền sử hành vi bạo lực. Đối tƣợng rối loạn lƣỡng cực trong giai
đoạn hƣng cảm hoặc giai đoạn hỗn hợp dễ bị kích động có thể dẫn tới hành vi
gây hấn. Trong giai đoạn trầm cảm các đối tƣợng này có nguy cơ bạo lực chỉ
với một kích thích nhỏ, ngay cả trong giai đoạn khí sắc tƣơng đối ổn định.
Đối tƣợng rối loạn lƣỡng cực có nguy cơ gây ra hành vi gây hấn cao hơn nếu
có rối loạn nhân cách thể ranh giới kèm theo [104].
* Các tội phạm nhỏ
Ở đối tƣợng có hƣng cảm nhẹ, các hành vi phạm tội hay gặp là say
rƣợu, có hành vi bạo lực tối thiểu và đe doạ bạo lực, lừa đảo, nói dối, ngụy tạo
các văn bản để lừa các tổ chức cơ quan, hành vi tình dục không phù hợp, quấy
rầy gây khó chịu cho ngƣời khác.
42
* Các tội phạm nghiêm trọng
Các đối tƣợng bị hƣng cảm cũng phạm những tội rất nghiêm trọng.
Trong 100 đối tƣợng hƣng cảm phạm tội bị giam giữ, có 13% phạm tội
nghiêm trọng nhƣ gây chết ngƣời do lái xe mạo hiểm, phóng hoả và hiếp dâm.
Do đối tƣợng có sự gia tăng hoạt động quá mức, có ý tƣởng hoặc hoang tƣởng
tự cao nên họ dễ đầu tƣ mạo hiểm, không đúng khả năng, kết hợp với việc tạo
ra các văn bản giả mạo lừa dối các tổ chức cơ quan gây thất thoát tài chính
nặng nề cho xã hội [3].
1.3. Một số yếu tố liên quan, thúc đẩy hành vi phạm tội ở đối tƣợng rối
loạn cảm xúc
1.3.1. Giới tính và tuổi
Rối loạn cảm xúc ở nữ giới thƣờng gặp hơn nam giới trong pháp y tâm
thần. Một nghiên cứu ở Hoa Kỳ trong hơn 22 năm thấy rằng 10% nữ giới và
0,3% nam giới phạm tội đƣợc chẩn đoán rối loạn cảm xúc [121]. Tƣơng tự,
nhiều nghiên cứu đã thiết lập một tỷ lệ cao rối loạn cảm xúc ở tù nhân là nữ
giới. Trong số 1272 tù nhân nữ giới ở Mỹ cho thấy, rối loạn trầm cảm chủ yếu
là rối loạn tâm thần nặng hay gặp nhất, chiếm 16,9% [122].
Một nghiên cứu ở Anh trên các bị cáo nữ giới xác định 1% bị rối loạn
cảm xúc có loạn thần và 13,9% có rối loạn cảm xúc nặng. Trong các nữ giới
bị rối loạn cảm xúc nặng thì khoảng 1/3 bị điều tra về tội bạo lực. Điều này
gợi ý là rối loạn cảm xúc có thể đặc biệt quan trọng đối với hành vi bạo lực ở
nữ giới [123].
Rối loạn cảm xúc ở trẻ vị thành niên cũng có liên quan đến hành vi bạo
lực. Một tỷ lệ cao rối loạn cảm xúc (42%) đƣợc thấy trong số trẻ vị thành niên
ở một trung tâm giam giữ thanh thiếu niên [105].
Trẻ vị thành niên bị hƣng cảm có tỷ lệ cao về lạm dụng chất gây
nghiện, sự bực bội ở các trẻ em này thƣờng gây ra bạo lực. Hành vi bạo lực ở
các trẻ em này rất hiếm khi đƣợc chuẩn bị trƣớc và ít có mục tiêu [124].
43
1.3.2. Tiền sử phạm tội và sang chấn tâm lý
Theo Sadock B. J. (2007), một đối tƣợng rối loạn cảm xúc có nguy cơ
phạm tội cao nếu họ có tiền án bạo lực. Nguy cơ này rất cao nếu họ là những
ngƣời gần đây có hành vi bạo lực đã gây ra hậu quả pháp lý bất kỳ nào đó [4].
Tiền sử sang chấn tâm lý thời thơ ấu có một mối quan hệ độc đáo với
rối loạn cảm xúc, cụ thể là sang chấn tâm lý thời thơ ấu làm tăng gấp bốn lần
nguy cơ bị rối loạn trầm cảm và tăng gấp 2,6 lần nguy cơ bị rối loạn lƣỡng
cực. Các đối tƣợng này thƣờng có bệnh khởi phát sớm, có hành vi tự sát và
lạm dụng chất. Sang chấn tâm lý thời thơ ấu liên quan với tăng gây hấn ở
ngƣời lớn bị rối loạn cảm xúc nói chung [125].
1.3.3. Lạm dụng chất và tác động của môi trƣờng
Đối với những đối tƣợng rối loạn cảm xúc, sử dụng rƣợu và ma túy có
một mối liên quan chặt chẽ đến nguy cơ phạm tội bạo lực. Ngƣời bệnh càng
lạm dụng rƣợu và ma túy thì càng có nguy cơ phạm tội bạo lực. Những bệnh
nhân mắc bệnh tâm thần và lạm dụng chất gây nghiện có khả năng gây hấn cao
hơn 73% so với những ngƣời không lạm dụng chất có hoặc không mắc bệnh
tâm thần. Hơn nữa, những bệnh nhân có rối loạn sử dụng chất và rối loạn nhân
cách đồng diễn có khả năng thực hiện hành vi bạo lực cao hơn 240% so với
bệnh nhân mắc bệnh tâm thần mà không có vấn đề lạm dụng chất.
Tình trạng tác động của các yếu tố môi trƣờng lên đối tƣợng rối loạn
cảm xúc cũng có nguy cơ cao gây ra hành vi phạm tội. Các hành vi kích động
tâm thần vận động rất dễ bị tác động của yếu tố môi trƣờng. Chúng tác động
đến cả số lƣợng và cƣờng độ của hành vi bạo lực [126].
1.3.4. Rối loạn nhân cách ranh giới
Các triệu chứng của rối loạn lƣỡng cực thƣờng trùng với các triệu
chứng của rối loạn nhân cách thể ranh giới. Rối loạn nhân cách thể ranh giới
đồng diễn thƣờng gắn liền với tiền sử sang chấn thời thơ ấu, gây ra tăng nguy
cơ bạo lực ở những đối tƣợng có rối loạn lƣỡng cực, đặc biệt là tỷ lệ tự sát
tăng lên 3 lần [127].
44
1.3.5. Rối loạn kiểm soát xung động
Đây là một nhóm cụ thể các hành vi xung động đã đƣợc chấp nhận nhƣ
là rối loạn tâm thần theo DSM-IV TR. Tuy nhiên, có thể gặp rối loạn kiểm
soát xung động trong nhiều loại rối loạn tâm thần khác [128].
Những phát hiện trong nghiên cứu gần đây đã khiến một số nhà nghiên
cứu cho rằng các rối loạn kiểm soát xung động là một phần của "phổ rối loạn
cảm xúc" vì chung có một số bất thƣờng về chất dẫn truyền thần kinh. Chất
dẫn truyền thần kinh đƣợc coi là liên quan đến gây hấn xung động là
serotonin (giảm nồng độ), catecholamine (tăng nồng độ) và GABA (tăng nồng
độ) trong dịch não tủy [129].
Các hành vi xung động thƣờng là hành vi bạo lực, hành vi tình dục,
hành vi cờ bạc, gây cháy, trộm cắp và hành vi tự ngƣợc đãi. Xung động gây
hấn (trái với gây hấn có tính toán) thƣờng kết hợp với rối loạn lƣỡng cực và
các rối loạn cảm xúc khác [129].
45
CHƢƠNG 2 ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
2.1.1. Đối tƣợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu gồm 83 đối tƣợng đƣợc chẩn đoán là rối loạn
cảm xúc có phạm tội hình sự, ở lứa tuổi từ 20 – 69 tuổi, đƣợc các cơ quan tố
tụng hình sự đƣa tới theo dõi, điều trị nội trú và giám định pháp y tâm thần từ
tháng 02/2012 đến tháng 1/2018. Nghiên cứu đƣợc tiến hành tại Viện pháp y
tâm thần Trung ƣơng Biên Hòa.
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn đối tƣợng
+ Các đối tƣợng nghiên cứu đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn
cảm xúc theo ICD - 10 thuộc các mục: F30, F31, F32 và F33
+ Đối tƣợng đƣợc đƣa tới giám định do cơ quan tố tụng hình sự nhƣ
Công an, Viện kiểm sát và Tòa án.
+ Hồ sơ trƣng cầu giám định do cơ quan tố tụng hình sự cung cấp
phải đƣợc ghi chép rõ ràng và có đầy đủ các thông tin về bệnh tật và tội phạm.
+ Thời gian đối tƣợng nằm theo dõi điều trị nội trú và giám định là từ
2 – 6 tuần
2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ
Không đƣa vào nhóm nghiên cứu các đối tƣợng có bệnh cơ thể nặng
nhƣ suy tim, bệnh suy chức năng gan, thận, sa sút tâm thần không có khả
năng hợp tác nghiên cứu.
Không đƣa vào nhóm nghiên cứu các đối tƣợng có các bệnh có biểu
hiện rối loạn cảm xúc khác nhƣ rối loạn cảm xúc thực tổn, rối loạn cảm xúc
do sử dụng chất, tâm thần phân liệt, rối loạn phân liệt cảm xúc, rối loạn stress
sau sang chấn, rối loạn sự thích ứng, rối loạn trầm cảm lo âu hỗn hợp.
46
Không đƣa vào nhóm nghiên cứu các đối tƣợng không hợp tác hoặc
không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
+ Sử dụng phƣơng pháp mô tả tiến cứu, kết hợp hồi cứu với nghiên cứu
tài liệu đƣợc cung cấp bởi các cơ quan trƣng cầu giám định, tiền sử cá nhân
và gia đình của đối tƣợng.
+ Phân tích các triệu chứng lâm sàng rối loạn cảm xúc, tính chất và các
yếu tố liên quan đến hành vi phạm tội.
+ Làm các trắc nghiệm tâm lý liên quan với từng đối tƣợng.
+ Có mẫu bệnh án thống nhất theo mục tiêu nghiên cứu.
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng công thức “ƣớc tính tỷ lệ trong một quần thể” để
tính cỡ mẫu theo công thức sau:
Công thức tính:
p (1 – p)
n = Z2
1 – α / 2 ------------
d 2
Trong đó:
n: cỡ mẫu nghiên cứu nhỏ nhất phải có
Z: hệ số tin cậy 95% (=1,96)
α: xác suất sai lầm loại 1
p: theo Fazel S. và cộng sự (2002) tỷ lệ có hành vi bạo lực trong số tù
nhân là 26% và Nguyễn Văn Thọ (2009) tỷ lệ các yếu tố liên quan thúc đẩy
hành vi phạm tội trong pháp y tâm thần là từ 16,76% đến 25,5% [100], [130].
Chúng tôi chọn p = 0,25 (25%).
d: khoảng sai số không mong muốn. Ở đây chúng tôi chọn là 10% (d= 0,10).
47
Thay vào công thức ta có: 1,962(0,25.0,75)
n = --------------------- = 72,03 0,1 2
Nhƣ vậy cỡ mẫu tối thiểu là 73 đối tƣợng. Nhóm nghiên cứu chọn 83
đối tƣợng.
2.2.3. Công cụ nghiên cứu lâm sàng
2.2.3.1 Chẩn đoán, phân loại bệnh tâm thần và xếp loại các hành vi phạm tội.
* Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn cảm xúc theo ICD–10
Tiêu chuẩn chẩn đoán cho giai đoạn hưng cảm (F30-)
Tất cả các phân mục của thể loại này chỉ sử dụng cho một giai đoạn
duy nhất. Các cơn hƣng cảm nhẹ hoặc hƣng cảm ở những ngƣời đã có một
hoặc nhiều giai đoạn rối loạn cảm xúc trƣớc đó (trầm cảm, hƣng cảm nhẹ,
hƣng cảm hoặc hỗn hợp) phải đƣợc mã hóa là rối loạn cảm xúc lƣỡng cực
(F31.-)
F30.0. Giai đoạn hƣng cảm nhẹ
Một rối loạn đặc trƣng bởi một khí sắc hơi tăng dai dẳng, tăng cƣờng
năng lƣợng và hoạt động, và thƣờng là một cảm giác hài lòng về sức khỏe,
hoạt động thể chất và tinh thần. Tăng giao tiếp xã hội, khả năng nói chuyện,
bảo mật quá mức, tăng ham muốn và giảm nhu cầu ngủ là phổ biến, nhƣng
không đến mức gây đổ vỡ sự nghiệp hoặc từ chối xã hội. Sự cáu kỉnh, quá tự
tin và hành vi nhạt nhẽo có thể thay thế cho tăng giao tiếp xã hội. Các rối loạn
về khí sắc và hành vi không đi kèm với ảo giác hay hoang tƣởng.
F30.1 Hƣng cảm không có triệu chứng loạn thần
A. Khí sắc phải tăng chủ đạo hoặc cáu kỉnh và hoàn toàn không bình
thƣờng đối với ngƣời bệnh. Sự thay đổi khí sắc phải chiếm ƣu thế và duy trì
đƣợc trong vòng ít nhất 1 tuần (trừ khi nó quá trầm trọng đến nỗi cần phải
nhập viện).
48
B. Ít nhất 3 trong các dấu hiện sau phải có mặt (4 nếu khi sắc chỉ là
kích thích) dẫn đến rối loạn trầm trọng hoạt động chức năng cá nhân trong
cuộc sống hàng ngày:
1. Tăng hoạt động hoặc đứng ngồi không yên
2. Nói nhiều (tƣ duy dồn dập)
3. Các ý nghĩ thay đổi rất nhanh hoặc có trải nghiệm chủ quan về tƣ
duy phi tán.
4. Mất sự kiềm chế về mặt xã hội, gây ra hành vi không phù hợp với
hoàn cảnh.
5. Giảm nhu cầu ngủ
6. Tự cao hoặc ý tƣởng khuếch đại
7. Phân tán hoặc thay đổi liên tục trong hoạt động hoặc trong các kế
hoạch
8. Có hành vi ngông cuồng hoặc liều lĩnh mà đối tƣợng không nhận
thấy những nguy cơ của chúng, ví dụ tiêu pha hoang phí, đầu tƣ bừa bãi, lái
xe liều lĩnh.
9. Tăng hoạt động tình dục hoặc phô trƣơng tình dục.
C. Không có các ảo giác hoặc hoang tƣởng, mặc dù rối loạn tri giác có
thể xảy ra (ví dụ tăng thính lực, đánh giá màu sắc đặc biệt sinh động).
D. Nhóm các rối loạn để loại trừ thƣờng đƣợc đặt ra nhất. Giai đọan
này không thể gắn với việc sử dụng chất tác động tâm thần (F10 – F19) hoặc
với bất kỳ một rối loạn tâm thần thực tổn nào (trong nhóm F00 – F09).
F30.2 Hƣng cảm với các triệu chứng loạn thần
A. Giai đoạn này đáp ứng các tiêu chuẩn đối với hƣng cảm không có
triệu chứng loạn thần (F30.1) với ngoại trừ tiêu chuẩn C.
B. Giai đọan này không đáp ứng đồng thời các tiêu chuẩn đối với bệnh
tâm thần phân liệt (F20.0 – F20.3) hoặc rối loạn phân liệt cảm xúc thể hƣng
cảm (F25.0).
49
C. Các hoang tƣởng hoặc ảo giác xuất hiện, ngoài những loại đã đƣợc
liệt kê nhƣ là những hoang tƣởng ảo giác điển hình của tâm thần phân liệt
trong tiêu chuẩn G1 (1), b, c và d đối với mục F20.0 – F20.3 (có nghĩa là các
hoang tƣởng nằm ngoài những loại hoàn toàn không thể có đƣợc hoặc không
phù hợp về mặt văn hóa và không phải là các ảo giác thảo luận với nhau hoặc
đƣa ra những lời bình phẩm liên tục). Các ví dụ thƣờng gặp nhất là những
hoang tƣởng tự cao, hoang tƣởng liên hệ, hoang tƣởng có nội dung tình dục
hoặc hoang tƣởng bị hại.
D. Nhóm các bệnh để loại trừ thƣờng là: giai đoạn này không thể gắn
với việc sử dụng chất tác động tâm thần (F10 – F19) hoặc với bất kỳ một rối
loạn tâm thần thực tổn nào (trong nhóm F00 – F09)
Một chữ số thứ năm có thể đƣợc sử dụng để biệt định liệu các ảo giác
hoặc các hoang tƣởng có phù hợp hay không phù hợp với khí sắc.
F30.20 Có các triệu chứng loạn thần phù hợp với khí sắc (nhƣ là hoang
tƣởng tự cao hoặc những ảo thanh bảo với đối tƣợng rằng anh hoặc chị ta có
những quyền lực siêu nhân).
F30.21 Có các triệu chứng loạn thần không phù hợp với khí sắc (nhƣ là
các ảo thanh nói với đối tƣợng về những chủ đề không có ý nghĩa cảm xúc
đặc biệt hoặc những hoang tƣởng liên hệ hoặc bị truy hại).
F30.8 Các giai đoạn hƣng cảm khác
F30.9 Giai đoạn hƣng cảm, không xác định
Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn cảm xúc lưỡng cực( F31-)
Hiện tại đang có một giai đoạn rối loạn cảm xúc hƣng cảm hoặc trầm
cảm.
Đã có ít nhất một giai đoạn rối loạn cảm xúc khác trong quá khứ đáp
ứng các tiêu chuẩn đối với giai đoạn hƣng cảm hoặc hƣng cảm nhẹ (F30.-),
giai đoạn cảm xúc hỗn hợp (F38.00).
F31.0 Rối loạn cảm xúc lƣỡng cực, hiện tại giai đoạn hƣng cảm nhẹ
50
F31.1 Rối loạn cảm xúc lƣỡng cực, hiện tại giai đoạn hƣng cảm không
có các triệu chứng loạn thần
F31.2 Rối loạn cảm xúc lƣỡng cực, hiện tại giai đoạn hƣng cảm có các
triệu chứng loạn thần
Một chữ số thứ năm đƣợc sử dụng để biệt định liệu các triệu chứng
loạn thần có phù hợp hay không phù hợp với khí sắc:
F31.20 Có các triệu chứng loạn thần phù hợp khí sắc.
F31.21 Có các triệu chứng loạn thần không phù hợp khí sắc.
F31.3 Rối loạn cảm xúc lƣỡng cực, hiện tại giai đoạn trầm cảm nhẹ
hoặc vừa
Một chữ số thứ năm đƣợc sử dụng để biệt định sự hiện diện của “hội
chứng cơ thể”:
F31.30 Không có hội chứng cơ thể
F31.31 Có hội chứng cơ thể.
F31.4 Rối loạn cảm xúc lƣỡng cực, hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng
không có các triệu chứng loạn thần
F31.5 Rối loạn cảm xúc lƣỡng cực, hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng có
các triệu chứng loạn thần.
Một chữ số thứ năm đƣợc sử dụng để biệt định các triệu chứng loạn
thần có phù hợp hay không phù hợp với khí sắc:
F31.50 Có các triệu chứng loạn thần phù hợp khí sắc
F31.51 Có các triệu chứng loạn thần không phù hợp khí sắc
F31.6 Rối loạn cảm xúc lƣỡng cực, hiện tại giai đoạn hỗn hợp
F31.7 Rối loạn cảm xúc lƣỡng cực, hiện đang thuyên giảm
F31.8 Rối loạn cảm xúc lƣỡng cực khác
F31.9 Rối loạn cảm xúc lƣỡng cực, không xác định
Tiêu chuẩn chẩn đoán giai đoạn trầm cảm (F32-)
F32. Giai đoạn rối loạn trầm cảm điển hình bao gồm:
51
+ Có ít nhất 2 trong 3 triệu chứng chủ yếu là:
a/ Khí sắc trầm cảm.
b/ Mất mọi quan tâm và thích thú.
c/ Giảm năng lƣợng dẫn đến mệt mỏi và giảm hoạt động.
+ Có ít nhất 3 triệu chứng phổ biến khác là:
a/ Giảm tập trung chú ý.
b/ Giảm tự trọng và lòng tự tin.
c/ Những ý tƣởng bị tội và không xứng đáng.
d/ Nhìn tƣơng lai ảm đạm và bi quan.
e/ Có ý tƣởng và hành vi tự sát.
f/ Rối loạn giấc ngủ.
g/ ăn không ngon miệng.
Nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán giai đoạn trầm cảm là:
+ Thời gian tồn tại ít nhất là 2 tuần, nhƣng có thể ngắn hơn nếu các
triệu chứng trầm cảm nặng một cách không bình thƣờng, khởi phát nhanh.
+ Những chẩn đoán loại trừ thƣờng gặp nhất. Giai đoạn này không thể
gắn với việc sử dụng chất tác động tâm thần (F10 – F19) hoặc bất cứ rối loạn
tâm thần thực tổn nào (trong nhóm F00 – F09)
Hội chứng cơ thể (Somatic Syndrome)
Một số triệu chứng trầm cảm đƣợc đánh giá rộng rãi là có ý nghĩa đặc
biệt trên lâm sàng và ở đây đƣợc gọi là “Cơ thể: Somatic”. Để đánh giá hội
chứng cơ thể bốn trong số các triệu chứng sau phải có mặt:
a/ Mất những quan tâm thích thú trong các hoạt động mà khi bình
thƣờng vẫn làm đối tƣợng hứng thú.
b/ Thiếu các phản ứng cảm xúc đối với những sự kiện hoặc những hành
động mà khi bình thƣờng vẫn gây ra những phản ứng cảm xúc.
c/ Tỉnh dậy vào lúc sáng sớm hơn 2 giờ hoặc sớm hơn giờ thức dậy
thƣờng ngày.
52
d/ Trầm cảm nặng lên vào buổi sáng.
e/ Có bằng chứng khách quan về sự chậm chạp tâm thần vận động hoặc
kích động (đƣợc nhận thấy hoặc do ngƣời khác kể lại).
f/ Giảm nhiều cảm giác ngon miệng.
g/ Sụt cân (5% hoặc nhiều hơn trọng lƣợng cơ thể trong tháng trƣớc đó)
h/ Giảm đáng kể hƣng phân tình dục.
Trong bảng phân loại các rối loạn tâm thần và hành vi: nguyên tắc chỉ
đạo chẩn đoán và mô tả lâm sàng nhƣ ICD - 10, sự hiện diện hoặc vắng mặt
của hội chứng cơ thể không biệt định cho những giai đoạn trầm cảm nặng, bởi
vì chúng thừa nhận là có mặt trong hầu hết các trƣờng hợp. Tuy nhiên, đối với
các mục đích nghiên cứu có thể nên cho phép việc mã hoá sự vắng mặt của
hội chứng cơ thể với những giai đoạn trầm cảm nặng.
Mức độ nặng của trầm cảm:
F32.0 Giai đoạn trầm cảm nhẹ: Trầm cảm nhẹ: có 5-6 triệu chứng (vừa
đủ chẩn đoán trầm cảm), các chức năng xã hội, nghề nghiệp bị ảnh hƣởng
nhƣng chƣa trầm trọng.
F32.00 Không có hội chứng cơ thể.
F32.01 Có hội chứng cơ thể.
F32.1 Giai đoạn trầm cảm vừa: Trầm cảm vừa: có 7-8 triệu chứng, các
chức năng xã hội nghề nghiệp bị ảnh hƣởng rất rõ ràng.
F32.00 Không có hội chứng cơ thể.
F32.01 Có hội chứng cơ thể.
F32.2 Giai đoạn trầm cảm nặng không có các triệu chứng loạn thần:
Trầm cảm nặng: có 9-10 triệu chứng, các chức năng xã hội, nghề nghiệp của
đối tƣợng bị ảnh hƣởng trầm trọng.
F32.3 Giai đoạn trầm cảm nặng có triệu chứng loạn thần: Một giai đoạn
trầm cảm nhƣ đƣợc mô tả trong F32.2, nhƣng với sự hiện diện của ảo giác, ảo
tƣởng, chậm chạp tâm thần vận động hoặc sững sờ nghiêm trọng ảnh hƣởng
53
rất nặng đến các hoạt động xã hội ; có thể có nguy hiểm đến tính mạng nhƣ
tự sát, mất nƣớc hoặc chết đói. Ảo giác và hoang tƣởng có thể có hoặc không
phù hợp với khí sắc
F32.30 Giai đoạn trầm cảm nặng có các triệu chứng loạn thần phù hợp
khí sắc (có nghĩa là các hoang tƣởng bị tội, nghi bệnh, cảm thấy mình không
còn giá trị hoặc có thảm họa đang ập đến, các ảo thanh phỉ báng hoặc kết tội
đối tƣợng).
F32.31 Giai đoạn trầm cảm nặng có các triệu chứng loạn thần không
phù hợp khí sắc (có nghĩa là các hoang tƣởng bị truy hại hoặc liên hệ và các
ảo giác không có nội dung cảm xúc).
F32.8 Các giai đoạn trầm cảm khác
F32.9 Giai đoạn trầm cảm, không xác định
Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn trầm cảm tái diễn (F33-)
Một rối loạn đặc trƣng bởi các giai đoạn trầm cảm lặp đi lặp lại nhƣ
đƣợc mô tả cho giai đoạn trầm cảm (F32.-), không có bất kỳ tiền sử nào về
các giai đoạn độc lập của tăng khí sắc và tăng năng lƣợng (hƣng cảm). Tuy
nhiên, có thể có những giai đoạn ngắn hƣng cảm nhẹ ngay sau một giai đoạn
trầm cảm, đôi khi do điều trị chống trầm cảm. Các dạng nghiêm trọng hơn của
rối loạn trầm cảm tái diễn (F33.2 và F33.3) có nhiều điểm chung với các khái
niệm trƣớc đây nhƣ trầm cảm hƣng cảm, melancholia, trầm cảm quan trọng
và trầm cảm nội sinh. Giai đoạn đầu tiên có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi từ thời
thơ ấu đến tuổi già, khởi phát có thể là cấp tính hoặc ngấm ngầm, và thời gian
thay đổi từ vài tuần đến nhiều tháng. Nguy cơ một đối tƣợng bị rối loạn trầm
cảm tái diễn sẽ có một giai đoạn hƣng cảm không bao giờ biến mất hoàn toàn,
tuy nhiên đã có nhiều giai đoạn trầm cảm, chẩn đoán nên đƣợc thay đổi thành
rối loạn cảm xúc lƣỡng cực (F31.-).
54
Những chẩn đoán loại trừ hay gặp nhất. Giai đoạn này không thể gắn
với việc sử dụng chất tác động tâm thần (F10 – F19), hoặc với bất kỳ rối loạn
tâm thần thực tổn nào (trong nhóm F00 – F09)
Bao gồm:
F33.0 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại giai đoạn nhẹ.
F33.00 Không có hội chứng cơ thể.
F33.01 Có hội chứng cơ thể.
F33.1 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại giai đoạn vừa
F33.10 Không có hội chứng cơ thể.
F33.11 Có hội chứng cơ thể.
F33.2 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại giai đoạn nặng không có
triệu chứng loạn thần.
F33.3 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại giai đoạn nặng có triệu chứng
loạn thần
F33.30 Có các triệu chứng loạn thần phù hợp khí sắc
F33.33 Có các triệu chứng loạn thần không phù hợp khí sắc
F33.4 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện đang thuyên giảm
F33.8 Rối loạn trầm cảm tái phát khác
F33.9 Rối loạn trầm cảm tái phát, không xác định
* Chẩn đoán phân biệt:
Dựa vào khám lâm sàng toàn diện và chi tiết, làm các xét nghiệm
thƣờng qui, khi cần thiết làm các xét nghiệm chuyên sâu chúng tôi loại trừ ra
khỏi mẫu nghiên cứu các đối tƣợng không phải là các đối tƣợng rối loạn cảm
xúc nội sinh nhƣ: rối loạn cảm xúc thực tổn, rối loạn cảm xúc do sử dụng
chất, tâm thần phân liệt thể trầm cảm sau phân liệt, rối loạn phân liệt cảm xúc,
rối loạn stress sau chấn thƣơng, rối loạn sự thích ứng, rối loạn trầm cảm lo âu
hỗn hợp...
55
* Hành vi phạm tội của các đối tượng nghiên cứu:
Hành vi phạm tội của các đối tƣợng đƣợc các cơ quan tố tụng ghi rõ
trong quyết định trƣng cầu giám định, chúng tôi xắp xếp lại bao gồm:
Cố ý gây thƣơng tích
Giết ngƣời
Giết ngƣời rồi sau đó tự sát
Trộm cắp
Cƣớp giật
Gây rối ở nơi công cộng
Các hình thức khác: ít gặp trong giám định pháp y tâm thần nhƣ đánh
bài ăn tiền, ghi số đề, đá gà, mại dâm và tổ chức mại dâm, lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, gian lận tài chính, bắt cóc, bắt giữ ngƣời trái pháp luật, gây tai nạn
giao thông, chống phá nhà nƣớc Xã hội chủ nghĩa Việt nam…
2.2.3.2. Bệnh án nghiên cứu chi tiết đáp ứng mục tiêu nghiên cứu
Lập hồ sơ bệnh án theo mẫu bệnh án nghiên cứu với cấu trúc chuyên
biệt phù hợp với mục tiêu nghiên cứu trong đó có khám lâm sàng, cận lâm
sàng chi tiết:
- Ghi nhận đầy dủ chi tiết các hình thức, tính chất phạm tội của từng
đối tƣợng.
- Đảm bảo thu thập đầy đủ các triệu chứng cần thiết giúp chẩn đoán xác
định các rối loạn cảm xúc theo tiêu chuẩn ICD- 10
- Thu thập đƣợc đầy đủ các tham số nghiên cứu đảm bảo để phân tích,
đánh giá theo các mục tiêu nghiên cứu.
2.2.3.3. Khảo sát một số chức năng tâm lý
Chúng tôi sử dụng test YMRS để khảo sát đối tƣợng trong giai đoạn
hƣng cảm, test Zung đánh giá lo âu và test Beck để khảo sát trầm cảm.
56
* Sử dụng thang YMRS để đánh giá hưng cảm:
Thang này gồm 11 câu hỏi, đối tƣợng đƣợc phỏng vấn trực tiếp từ 15
đến 30 phút: điểm đánh giá đƣợc cho tùy theo mức độ:
Tổng số điểm 20 điểm: hƣng cảm nhẹ và 25 điểm: hƣng cảm
* Sử dụng thang tự đánh giá lo âu Zung:
Thang Zung gồm 20 câu hỏi đánh số thứ tự theo hàng từ 1 đến 20 và 4
cột đánh giá mức độ lo âu từ nhẹ đến nặng.
+ Kỹ thuật tiến hành:
- Hƣớng dẫn đối tƣợng thực hiện theo mẫu câu hỏi, mỗi ngƣời trả lời
trên 1 phiếu riêng.
- Sử dụng đồng hồ bấm giây, thời gian khảo sát là 03 phút vào buổi
sáng.
+ Phân tích kết quả: điểm tối đa là 80 điểm
- Không lo âu: 50 điểm
- Lo âu nhẹ: 51 – 60 điểm
- Lo âu vừa: 61 – 70 điểm
- Lo âu nặng: 71 – 80 điểm
* Sử dụng bảng kê trầm cảm Beck:
Bảng kê trầm cảm Beck gồm có 2 mục: Mục lớn đánh số từ 1đến 21
mô tả khả năng đánh giá về các biểu hiện của trạng thái trầm cảm. Mỗi mục
lớn có từ 4 đến 6 mục nhỏ, đánh giá cụ thể trạng thái cảm xúc của đối tƣợng
với 4 mức độ từ 0 đến 3.
+ Kỹ thuật tiến hành:
- Đối tƣợng đƣợc giải thích hƣớng dẫn trƣớc và tiến hành làm test trong
khoảng thời gian từ 10 – 15 phút.
- Nếu đối tƣợng đánh dấu vào 2 – 3 mục nhỏ trong 1 mục lớn thì lấy
kết quả trong mục nhỏ có số điểm cao nhất.
+ Phân tích kết quả: điểm tối đa là 63 điểm
57
- Không trầm cảm: < 14 điểm
- Trầm cảm nhẹ: 14 – 19 điểm
- Trầm cảm vừa: 20 – 29 điểm
- Trầm cảm nặng: 30 điểm
2.2.4. Phƣơng pháp thu thập thông tin và đánh giá các số liệu nghiên cứu
Sau khi nhận hồ sơ tài liệu của cơ quan tố tụng ra quyết định trƣng cầu
giám định cung cấp (Tóm tắt nội dung vụ án, các tài liệu y chứng, lý lịch của
ngƣời phạm tội, biên bản xác minh tại gia đình, địa phƣơng và nơi làm việc
của đối tƣợng…) Các các bác sỹ chuyên khoa tâm thần là giám định viên
pháp y tâm thần nghiên cứu tài liệu đồng thời phỏng vấn đối tƣợng, nếu có
phỏng vấn ngƣời thân của đối tƣợng.
Các đối tƣợng nghiên cứu đƣợc khám lâm sàng, cận lâm sàng ngay sau
khi vào viện bởi giám định viên. Đối tƣợng đƣợc theo dõi, thăm khám hàng
ngày trong suốt thời gian nằm theo dõi giám định (khoảng từ 2 tuần đến 6
tuần) để đánh giá sự tiến triển của các biểu hiện triệu chứng lâm sàng, thu
thập các thông tin.
Để đáp ứng yêu cầu theo các mục tiêu nghiên cứu, nghiên cứu sinh
cùng nghiên cứu tài liệu và khám bệnh với các giám định viên.
* Đặc điểm chung và tiền sử bệnh:
Chúng tôi ghi nhận đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu bao gồm: tuổi,
giới tính, môi trƣờng sồng, nghề nghiệp, trình độ học vấn, dân tộc, tình trạng
hôn nhân của các đối tƣợng nghiên cứu.
Ghi nhận tiền sử gia đình có ngƣời mắc các bệnh tâm thần
Tiền sử bản thân có các bệnh cơ thể trƣớc đó, các chấn thƣơng đặc biệt
là chấn thƣơng sọ não.
Tình trạng rối loạn do sử dụng chất nhƣ nghiện rƣợu, nghiện các chất
ma túy đƣợc chẩn đoán theo tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD10.
58
* Khám lâm sàng nội khoa chung
+ Khám trực tiếp trên từng đối tƣợng, cụ thể là:
- Khám toàn thân: da, niêm mạc, hạch bạch huyết, nhiệt độ cơ thể,
huyết áp.
- Tuần hoàn: nhịp tim bao nhiêu, có đều không, tiếng tim, có tiếng bệnh
lý hay không.
- Hô hấp: quan sát lồng ngực, tần số thở, có hiện tƣợng khó thở hay
không, nghe phổi để phát hiện tiếng rale bệnh lý nếu có.
- Tiêu hóa: bụng có mềm và tham gia nhịp thở tốt hay không, có cổ
chƣớng không, gan và lách có sờ thấy hay không. Ấn các điểm túi mật,
thƣợng vị.. xem có đau không.
- Tiết niệu: khám rung thận, chạm thận, ấn các điểm niệu quản xem có
đau không.
- Thần kinh: khám 12 đôi dây thần kinh sọ não, khám hội chứng thần
kinh khu trú, khám phản xạ gân xƣơng, các phản xạ bệnh lý bó tháp, hội
chứng màng não…
- Nội tiết: khám tuyến giáp, xem có hay không các biểu hiện tăng chức
năng hoặc giảm chức năng tuyến giáp. Có hội chứng cushing? Giảm chức
năng tuyến yên?...
+ Tham khảo các dữ liệu của cơ sở điều trị và quản lý đối tƣợng trƣớc
đó nhƣ các bệnh án cũ, các đơn thuốc cũ.
+ Các xét nghiệm cận lâm sàng nhƣ công thức máu, sinh hóa máu,
nƣớc tiểu thƣờng qui, điện tim, điện não, đo lƣu huyết não, chụp x quang sọ
não, CT scaner , MRI, tess nhanh phát hiện ma túy, làm các xét nghiệm
chuyên sâu khi cần thiết…
* Khám lâm sàng tâm thần:
Xem xét phân tích các rối loạn tâm thần qua hồ sơ tài liệu của cơ quan
trƣng cầu giám định đƣa tới.
59
Phỏng vấn ngƣời nhà, khi cần thiết đi xác minh tại địa phƣơng nơi đối
tƣợng cƣ trú, làm việc để phát hiện các rối loạn tâm thần từ tiền sử đến trƣớc,
trong và sau khi gây án.
Khám trực tiếp trên từng đối tƣợng, quan sát đối tƣợng về nét mặt, cử
chỉ, hành vi, phỏng vấn đối tƣợng để phát hiện các triệu chứng trên các mặt
hoạt động tâm thần.
+ Quan sát: xem ăn mặc có gọn gàng không, có lòe loẹt không, có bẩn
không.
+ Ý thức: có tỉnh táo không, tiếp xúc có đƣợc không, định hƣớng xung
quanh, định hƣớng thời gian và bản thân có đúng không.
+ Tri giác: có tri giác nhầm hay không, có ảo giác không, cụ thể là:
- Ảo thanh bình phẩm.
- Ảo thanh ra lệnh
- Ảo thanh là tiếng ngƣời trò chuyện với đối tƣợng hoặc trò chuyện với
nhau.
- Ảo thị giác
- Ảo xúc giác
- Các loại ảo giác khác
- Tri giác sai thực tại
- Giải thể nhân cách
- Rối loạn cảm giác khác
+ Tƣ duy: về hình thức tƣ duy cần khai thác tốc độ tƣ duy, giọng nói to
hay nhỏ, nội dung đa dạng phong phú hay nghèo nàn…
Về nội dung tƣ duy cần khai thác có ám ảnh không, loại nào (ám ảnh sợ
khoảng trống, ám ảnh sợ bẩn, sợ vật nhọn, nghi bệnh).
Có hoang tƣởng hay không, nếu có thì là loại hoang tƣởng nào?
- Hoang tƣởng tự cao
- Hoang tƣởng giàu sang
60
- Hoang tƣởng bị xâm nhập
- Hoang tƣởng tự buộc tội
- Hoang tƣởng nghi bệnh
- Hoang tƣởng Cortard
- Hoang tƣởng bị hại
- Hoang tƣởng bị theo dõi
- Hoang tƣởng bị chi phối
- Hoang tƣởng liên hệ
- Hoang tƣởng kỳ quái
Có các định kiến hay không?
+ Cảm xúc: quan sát khí sắc, cảm xúc có phù hợp không, có hƣng phấn
cảm xúc hoặc ức chế cảm xúc không? Có khoái cảm hay vô cảm không?
+ Hành vi: có hƣng phấn hoạt động hoặc giảm hoạt động không? Có
hành vi xung động không, có hành vi tự sát không?
+ Chú ý, trí nhớ: chú ý có tốt không hay giảm chú ý, trí nhớ gần, xa của
đối tƣợng tăng hay giảm.
+ Hoạt động bản năng: hoạt động tình dục có bình thƣờng không, ăn
uống có ngon miệng không, ăn nhiều hay ít? Ngủ nhiều hay ngủ ít, mất ngủ
đầu giấc, giữa giấc hay cuối giấc?
+ Hoạt động có ý chí: tăng hay giảm hoạt động. Khả năng học tập , làm
việc và giao tiếp xã hội có suy giảm hay không.
* Thực hiện các trắc nghiệm tâm lý dựa theo chẩn đoán sơ bộ
+ Trắc nghiệm YMRS cho hƣng cảm.
+ Trắc nghiệm BECK cho trầm cảm.
+ Trắc nghiệm Zung cho lo âu.
* Thu thập thông tin về hành vi phạm tội
Thu thập thông tin về hành vi phạm tội dựa trên nghiên cứu hồ sơ tài
liệu của cơ quan tố tụng ra quyết định trƣng cầu giám định cung cấp: Tóm tắt
61
nội dung vụ án, lý lịch của ngƣời phạm tội, các biên bản hỏi cung bị can, bị
hại và các nhân chứng; các biên bản xác minh hiện trƣờng vụ án, biên bản xác
minh tại gia đình, địa phƣơng và nơi làm việc của đối tƣợng.
Phỏng vấn ngƣời bệnh.
Cần chú ý vào các điểm sau:
+ Ghi nhận các tiền án, tiền sự mà đối tƣợng đã thực hiện và bị phạt
hành chính, hoặc đã bị kết án trƣớc đó.
+ Trƣớc trong và sau khi gây án đƣơng sự sinh hoạt ra sao, có biểu hiện
về rối loạn tâm thần, có làm việc, giao tiếp bất thƣờng không?
+ Động cơ gây án ra sao: Đối tƣợng có lên kế hoạch để gây án không?
Có chuẩn bị phƣơng tiện để phạm tội không ...?
+ Loại tội phạm.
+ Số lần phạm tội (ghi nhận lần gây án này và tiền án có trƣớc).
+ Địa điểm phạm tội.
+ Thời gian phạm tội.
+ Công cụ phạm tội.
+ Hậu quả, tác hại của hành vi phạm tội
+ Có yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội hay không?
Để làm rõ các yêu cầu trên. Khi cần thiết yêu cầu cơ quan tố tụng cùng
đi xác minh tại thực địa.
Dựa vào nghiên cứu tài liệu do cơ quan tố tụng hình sự cung cấp, theo
dõi thăm khám đối tƣợng trong thời gian nằm theo dõi, kết hợp với xem xét
các kết quả cận lâm sàng và các trắc nghiệm tâm lý kết luận giám định xác
định rõ:
+ Về y học: trƣớc, trong, sau gây án và hiện tại: có bị bệnh tâm thần
hay không, bệnh gì?
+ Về pháp luật: tại thời điểm gây án: đƣơng sự có, hạn chế hay không
có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.
62
+ Các bệnh khác kèm theo.
* Hoàn thiện bệnh án nghiên cứu
2.2.5. Các biến số nghiên cứu
* Các biến số khảo sát đặc điểm chung ở đối tượng nghiên cứu
+ Đặc điểm về giới
+ Đặc điểm về tuổi lúc gây án, tuổi khởi phát bệnh
+ Đặc điểm về học vấn: mù chữ, tiểu học, trung học cơ sở…
+ Đặc điểm về nghề nghiệp: nông dân, trí thức…
+ Đặc điểm về hôn nhân, dân tộc, nơi ở…
+ Đặc điểm về tiền sử bệnh, tiền án
* Các biến số khảo sát đặc điểm lâm sàng rối loạn cảm xúc
+ Các triệu chứng hƣng cảm hoặc trầm cảm trong rối loạn cảm xúc (các
triệu chứng chủ yếu, các triệu chứng phổ biến, các triệu chứng cơ thể…) để
chẩn đoán theo ICD-10
+ Các rối loạn trong các mặt hoạt động tâm thần của ngƣời bệnh: Các
rối loạn về ý thức, về cảm giác tri giác, về cảm xúc, về tƣ duy, trí nhớ và hành
vi của ngƣời bệnh
+ Các bệnh cơ thể phối hợp.
* Các biến số khảo sát đặc điểm hành vi phạm tội ở đối tượng rối loạn
cảm xúc
+ Loại tội phạm
+ Loại phƣơng tiện phạm tội
+ Số phƣơng tiện sử dụng để phạm tội
+ Địa điểm xảy ra hành vi phạm tội
+ Hậu quả, tác hại của hành vi phạm tội
+ Số ngƣời thiệt hại do hành vi phạm tội của đối tƣợng gây ra
+ Sự liên quan của ngƣời bị hại với đối tƣợng phạm tội
+ Số lần phạm tội
63
+ Giai đoạn bệnh ở thời điểm phạm tội
+ Các yếu tố bệnh lý, ngoại lai liên quan đến hành vi phạm tội
+ Cơ quan trƣng cầu giám định (để đánh giá sự hiểu biết và nhận thức
của các cơ quan tiến hành tố tụng về bệnh tâm thần của các đối tƣợng gây án)
+ Năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của đối tƣợng tại thời điểm
phạm tội.
2.3. Phƣơng pháp phân tích và xử lý số liệu
2.3.1. Phân tích số liệu
+ Thống kê một số yếu tố liên quan đến dịch tễ học của mẫu nghiên
cứu: tuổi, giới, dân tộc, địa chỉ, nghề nghiệp của các đối tƣợng nghiên cứu:
tính tỷ lệ tần suất, trung bình.
+ Thống kê các số liệu thu đƣợc về biểu hiện các rối loạn cảm xúc trên
các đối tƣợng nghiên cứu, tỷ lệ tần suất, so sánh với nhóm chứng.
+ Thống kê các số liệu thu đƣợc về hình thức, phƣơng tiện và hậu quả
tác hại của hành vi phạm tội.
+ Khảo sát mối quan hệ giữa các rối loạn cảm xúc với tính chất hình
thức phạm tội.
+ Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến hành vi phạm tội.
2.3.2. Xử lý số liệu
Các thông tin số liệu đƣợc nhập vào máy vi tính và đƣợc xử lý bằng các
thuật toán thống kê y học. Sử dụng chƣơng trình SPSS 20.0 for Windows.
+ So sánh 2 tỷ lệ (tần suất) quan sát bằng phƣơng pháp các kiểm định:
- Kiểm định khi bình phƣơng: 2
- Kiểm định chính xác của Fisher
- Kiểm định nhị thức: Binomial
- Kiểm định Cochran's Q
+ So sánh các trung bình quan sát bằng:
- t- student
64
2.4. Đạo đức trong nghiên cứu
+ Nghiên cứu áp dụng cho tất cả các đối tƣợng có Quyết định trƣng cầu
giám định Pháp y Tâm thần của Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát hoặc
Tòa án đƣợc chẩn đoán là rối loạn cảm xúc.
+ Đƣợc sự đồng ý cho phép nghiên cứu của Viện Pháp y Tâm thần
Trung ƣơng Biên Hòa
+ Các số liệu nghiên cứu đƣợc giữ bí mật theo qui định lƣu trữ tài liệu,
hồ sơ giám định.
+ Đối tƣợng không phải chi trả thêm bất cứ một chi phí gì trong quá
trình nghiên cứu.
+ Đề cƣơng nghiên cứu đƣợc thông qua bộ môn Tâm thần của Học viện
Quân Y, nơi đăng ký học tập của nghiên cứu sinh.
65
SƠ ĐỒ NGHIÊN CỨU
CÁC CƠ QUAN TỐ TỤNG HÌNH SỰ
GIÁM ĐỊNH PHÁP Y TÂM THẦN
BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU
GIAI ĐOẠN TRẦM CẢM TRẦM CẢM TÁI DIỄN
GIAI ĐOẠN HƢNG CẢM
RỐI LOẠN CẢM XÚC LƢỠNG CỰC
ĐẶC ĐIỂM
TEST TÂM LÝ
LÂM SÀNG
HÀNH VI PHẠM TỘI
PHÂN TÍCH
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
66
CHƢƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của đối tƣợng nghiên cứu
Biểu đồ 3.1. Giới tính của đối tƣợng nghiên cứu
Kết quả ở biểu đồ 3.1 cho thấy số lƣợng đối tƣợng có rối loạn cảm xúc
ở nam giới chiếm tỷ lệ là 63,86% và nữ giới chiếm 36,14%. Tỷ lệ nam giới
cao hơn nữ giới (nam/nữ =2,3/1). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với
p<0,05 (Binomial=53).
Bảng 3.1. Phân nhóm tuổi của đối tƣợng nghiên cứu
Chỉ số thống kê % STT Số lƣợng (n=83) Nhóm tuổi
1 2 3 4 5
20-29 tuổi 30-39 tuổi 40-49 tuổi 50-59 tuổi >59 tuổi Cộng 33,73 25,30 24,10 12,05 4,82 100.00 28 21 20 10 4 83
Tuổi trung bình Nam:34,47±10,96;Nữ:42,17±11,53
Kết quả ở bảng 3.1 cho thấy nhóm tuổi từ 20-29 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (33,73%), tiếp đến là nhóm tuổi 30-39 tuổi chiếm tỷ lệ là 25,30%, nhóm tuổi 40-49 tuổi chiếm 24,10%, nhóm tuổi 50-59 tuổi chiếm 12,05% và nhóm tuổi > 59 tuổi là 4,82%. Tuổi trung bình nam là 34,47±10,96 tuổi và nữ là 42,17±11,53tuổi.
67
Bảng 3.2. Trình độ học vấn của đối tƣợng nghiên cứu
Chỉ số thống kê STT % Trình độ học vấn
1 Không biết chữ 2 Tiểu học 3 Trung học cơ sở 4 Trung học phổ thông 5 Đại học, trung học chuyên nghiệp
Số lƣợng (n=83) 8 25 19 27 4 83 9,64 30,12 22,89 32,53 4,82 100,00
Cộng Kết quả bảng 3.2 cho thấy đối tƣợng nghiên cứu có trình độ học vấn
tiểu học chiếm tỷ lệ là 30,12%, trung học phổ thông (32,53%), trung học cơ
sở chiếm 22,89%, số đối tƣợng không biết chữ chiếm tỷ lệ khá cao (9,64%)
và số đối tƣợng có trình độ đại học, trung học chuyên nghiệp chiếm tỷ lệ thấp
nhất (4,82%).
Bảng 3.3. Nghề nghiệp của đối tƣợng nghiên cứu
Chỉ số thống kê STT % Nghề nghiệp
Số lƣợng (n=83) 11 9 5 5 42 10 1 13,25 10,84 6,02 6,02 50,60 12,05 1,22 1 Nông dân 2 Công nhân 3 Cán bộ, công chức 4 Nghề nghiệp tự do 5 Không nghề nghiệp 6 Kinh doanh, thƣơng mại 7 Học sinh, sinh viên
Cộng 83 100,00
Bảng 3.3 cho thấy đối tƣợng không có nghề nghiệp chiếm tỷ lệ cao
nhất (50,60%), tiếp đến là nông dân (13,25%); kinh doanh, thƣơng mại
(12,05%), công nhân (10,84%), nghề nghiệp tự do (6,02%), cán bộ, công chức
(6,02%) và thấp nhất là đối tƣợng học sinh, sinh viên (1,22%).
68
Biểu đồ 3.2. Tình trạng hôn nhân của đối tƣợng nghiên cứu
Biểu đồ 3.2 cho thấy tỷ lệ đối tƣợng nghiên cứu đã có gia đình sống
cùng vợ hoặc chồng chiếm cao nhất (46,99%), tiếp đến là sống độc thân
(36,15%), ly hôn chiếm 14,46% và chỉ có 2,41% là các trƣờng hợp góa bụa.
Biểu đồ 3.3. Môi trƣờng sống của đối tƣợng nghiên cứu
Biểu đồ 3.3 cho thấy đối tƣợng sống ở vùng nông thôn đồng bằng
chiếm đa số (56,63%), sống ở vùng thành thị chiếm 34,94% và đối tƣợng
sống ở vùng nông thôn miền núi chỉ chiếm 8,43%.
69
Bảng 3.4. Tiền sử gia đình của đối tƣợng nghiên cứu
Chỉ số thống kê STT % Tiền sử gia đình
Số lƣợng (n=83) 76 91,57
8,43 7 1 Không có ngƣời mắc bệnh tâm thần 2 Có ngƣời mắc bệnh tâm thần
n=7
% 57,14 4
14,29 1
28,57 Các loại bệnh 1 Rối loạn cảm xúc lƣỡng cực 2 Trầm cảm điển hình 3 Bệnh khác 2
Phả hệ
% 42,86 n=7 3
14,29 1
14,29 1
28,57 2 1 Bố hoặc mẹ 3 Anh chị em ruột 4 Ông bà nội, ngoại 5 Chú, bác, cô, dì
Bảng 3.4 cho thấy nhóm đối tƣợng nghiên cứu có ngƣời trong gia đình
bị bệnh tâm thần chỉ chiếm có 8,43%, còn đại đa số trong gia đình là không
có (91,57%).
Trong số đối tƣợng rối loạn cảm xúc thì rối loạn lƣỡng cực chiếm
57,14%, trầm cảm chủ yếu chỉ chiếm 14,29%, bệnh khác chiếm 28,57%
Bố hoặc mẹ bị bệnh chiếm 42,86%, anh cị em ruột chiếm 14,29%, ông
bà chiếm 14,29%, cô dì chú bác chiếm 28,57%
70
Bảng 3.5. Tiền sử bản thân của đối tƣợng nghiên cứu
Chỉ số thống kê STT % Tiền sử cá nhân
1 Không có bệnh lý trong quá trình sống 2 Có bệnh lý mắc phải trong quá trình sống
Các loại bệnh
Bệnh nội khoa Bệnh tâm thần
1 2 3 Nghiện rƣợu 4 Nghiện ma tuý 5 Chấn thƣơng sọ não Số lƣợng (n=83) 61 22 n=22 1 5 7 5 4 73,49 26,51 % 4,55 22,73 31,82 22,73 18,18
Kết quả ở bảng 3.5 cho thấy bệnh lý mắc phải trong quá trình sống chỉ
gặp ở 26,51% đối tƣợng nghiên cứu. Trong số đó, nghiện rƣợu chiếm tỷ lệ
cao nhất (31,82%), bệnh tâm thần nhƣ rối loạn nhân cách và nghiện ma túy
(22,73%), chấn thƣơng sọ não (18,18%) các bệnh nội khoa, bệnh thần kinh
khác chỉ chiếm (4,55%). Ngƣợc lại, các đối tƣợng không mắc phải bệnh lý
trong quá trình sống là cao hơn (73,49%).
3.2. Đặc điểm lâm sàng rối loạn cảm xúc ở đối tƣợng nghiên cứu
3.2.1. Một số đặc điểm về nhân cách và thể bệnh của rối loạn cảm xúc
Bảng 3.6. Nhân cách tiền bệnh lý của rối loạn cảm xúc
Chỉ số thống kê STT % p Nhân cách
p<0,01 Số lƣợng (n=83) 78 5 93,98 6,02 1 Nhân cách bình thƣờng 2 Nhân cách không bình thƣờng
Các loại nhân cách
p>0,05
n=5 2 2 1 % 40,00 40,00 20,00
1 Khép kín 2 Bùng nổ 3 Kịch tính
Kết quả bảng 3.6 cho thấy có 5 đối tƣợng có rối loạn nhân cách tiền bệnh
lý chiếm 6,02% và ngƣợc lại không có rối loạn nhân cách tiền bệnh lý là
71
chiếm đại đa số (93,98%). So sánh thấy sự khác biệt rất rõ rệt với p<0,01 (Bi-
nomial = 78,00). Cụ thể thấy các rối loạn nhân cách khép kín và bùng nổ
chiếm tỷ lệ nhƣ nhau (40,00%) và nhân cách kịch tính (20,00%). Sự khác biệt
không có ý nghĩa (p>0,05; 2(2)= 0,40).
Biểu đồ 3.4. Phân loại bệnh theo ICD-10 (1992) ở đối tƣợng nghiên cứu
Kết quả biểu đồ 3.4 cho thấy giai đoạn trầm cảm chiếm tỷ lệ cao nhất
(48,19%), tiếp đến là rối loạn trầm cảm tái diễn (25,30%), rối loạn cảm xúc
lƣỡng cực (24,10%) và giai đoạn hƣng cảm (2,41%). So sánh thấy sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01, 2(3)= 34,83.
Bảng 3.7. Các trạng thái rối loạn cảm xúc ở đối tƣợng nghiên cứu
Chỉ số thống kê STT % p Khí sắc
p < 0,01 Số lƣợng (n=83) 14 69 16,87 83,13 1 Giai đoạn hƣng cảm 2 Giai đoạn trầm cảm
Cộng 83 100,00
Bảng 3.7 cho thấy đối tƣợng giai đoạn trầm cảm chiếm tỷ lệ cao nhất
(83,13%), giai đoạn hƣng cảm chiếm tỷ lệ nhỏ (16,87%). So sánh thấy sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01 (Biomial =69,00).
72
3.2.2. Đặc điểm lâm sàng rối loạn trầm cảm ở đối tƣợng nghiên cứu
Biểu đồ 3.5. Mức độ rối loạn trầm cảm ở đối tƣợng nghiên cứu
Kết quả ở biểu đồ 3.5 cho thấy trong 69 đối tƣợng trầm cảm thì trầm
cảm mức độ nặng là 28 đối tƣợng chiếm tỷ lệ cao nhất (37,68%), tiếp theo là
trầm cảm nặng có loạn thần (36,23%), trầm cảm vừa có 11 đối tƣợng
(15,94%) và ít nhất là trầm cảm nhẹ chiếm 10,15%. So sánh thấy sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p<0,01 2(3)=18,94.
Bảng 3.8. Thái độ tiếp xúc của đối tƣợng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê STT % p Thái độ tiếp xúc
Phủ định, không nói
p<0,01
1 Cởi mở 2 3 Thờ ơ, lãnh đạm 4 Mải mê suy nghĩ 5 Chống đối Số lƣợng (n=69) 3 9 45 10 2 4,35 13,04 65,22 14,49 2,90
Kết quả ở bảng 3.8 cho thấy thái độ tiếp xúc ở đối tƣợng trầm cảm là
thờ ơ, lãnh đạm chiếm tỷ lệ cao nhất (65,22%), tiếp đó là mải mê suy nghĩ
(14,49%), phủ định, không nói (13,04%), thái độ cởi mở (4,36%) và thái độ
chống đối (2,89%). So sánh các số liệu trên thấy có sự khác biệt và có ý nghĩa thống kê (p<0,01; với 2(4)= 91.8).
73
Bảng 3.9. Các triệu chứng chủ yếu ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê Số lƣợng STT % p
p < 0,05
(n=69) 68 52 59 98,55 75,36 85,51 Triệu chứng 1 Khí sắc trầm 2 Mất quan tâm thích thú 3 Mệt mỏi mất năng lƣợng
Bảng 3.9 cho thấy các triệu chứng chủ yếu của trầm cảm gồm khí sắc
trầm chiếm tỷ lệ cao nhất (98,55%), biểu hiện mệt mỏi mất năng lƣợng chiếm
85,51% và mất quan tâm, thích thú đến mọi việc (75,36%). So sánh thấy sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05; với 2(2)=14,85).
Bảng 3.10. Các triệu chứng phổ biến ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê Số lƣợng STT % p Triệu chứng (n=69)
p<0,01
1 Giảm tập trung chú ý 2 Giảm tính tự trọng và lòng tự tin 3 Ý tƣởng bị tội và không xứng đáng 4 Nhìn tƣơng lai ảm đạm và bi quan 5 Ý tƣởng hành và vi tự sát 6 Rối loạn giấc ngủ 7 Mất cảm giác ăn ngon miệng 42 40 5 30 39 69 65 60,87 57,97 7,25 43,48 56,52 100,00 94,20
Bảng 3.10 cho thấy các triệu chứng phổ biến của trầm cảm gồm rối
loạn giấc ngủ chiếm tỷ lên cao nhất (100%), mất cảm giác ngon miệng
(94,20%), tiếp đến là triệu chứng giảm tập trung chú ý (60,87%) giảm tính tự
trọng và lòng tự tin (57,97%), có ý tƣởng và hành vi tự sát (56,52%), nhìn
tƣơng lai ảm đạm và bi quan (43,48%), chiếm tỷ lệ thấp nhất là ý tƣởng bị tội
và không xứng đáng (7,25%). So sánh các số liệu trên thấy sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,01;với 2(5)=88,36).
74
Bảng 3.11. Các rối loạn cảm xúc ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê STT % p
p<0,01
Số lƣợng (n=69) 68 3 1 64 30 12 20 52 13 98,55 4,35 1,45 92,75 43,48 17,39 28,99 75,36 18,84 Triệu chứng 1 Giảm khí sắc 2 Vô cảm 3 Mất cảm giác tâm thần 4 Cảm giác buồn chán 5 Bi quan và mất tự tin 6 Luôn bận tâm, lo lắng 7 Dễ xúc động, mau nƣớc mắt 8 Giảm hứng thú và sở thích 9 Khí sắc dễ bị kích thích
Bảng 3.11 cho thấy triệu chứng giảm khí sắc chiếm tỷ lệ cao nhất
(98,55%), tiếp đến là cảm giác buồn chán (92,75%), giảm hứng thú và sở
thích (75,36%), Các triệu chứng khác chiếm tỷ lệ thấp hơn nhƣ bi quan và
mất tự tin (43,48%), dễ xúc động, mau nƣớc mắt (28,99%), khí sắc dễ bị kích
thích (18,84%) và chỉ có 4 trƣờng hợp vô cảm chiếm 4,35% và 1 trƣờng hợp
mất cảm giác tâm thần (1,45%). Sự khác biệt giữa các triệu chứng là có ý
nghĩa thống kê với Cochran's Q test, p<0,01; 2(8) =556,526.
Bảng 3.12. Các rối loạn cảm giác, tri giác ở đối tượng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê STT % p
p>0,05
p<0,01
Triệu chứng 1 Có rối loạn tri giác 2 Không có rối loạn tri giác 1 Tăng cảm giác 2 Giảm cảm giác 3 Loạn cảm giác bản thể 4 Ảo giác Số lƣợng (n=69) 28 41 1 5 5 19 40,58 59,42 3,57 17,86 17,86 67,86
Kết quả ở bảng 3.12 cho thấy các rối loạn tri giác ở đối tƣợng trầm cảm
chiếm tỷ lệ (40,58%) thấp hơn các đối tƣợng không có rối loạn tri giác
(59,42%). Khi so sánh thì không thấy có sự khác biệt (p>0,05; với Biomial
=28,00).
75
Trong nhóm đối tƣợng có rối loạn tri giác thấy ảo giác chiếm tỷ lệ cao
nhất (67,86%). Tiếp đến loạn cảm giác bản thể (17,86%), giảm cảm giác
(17,86%) và chỉ có 1 đối tƣợng có biểu hiện tăng cảm giác (3,57%). Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với Cochran's Q test, p<0,01; 2(3)= 26,093.
Bảng 3.13. Các triệu chứng ảo giác ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê STT % p Triệu chứng
p<0,01
1 Ảo giác thô sơ 2 Ảo thanh bình phẩm 3 Ảo thanh xui khiến 4 Ảo thanh trò chuyện 3 Ảo thị giác Số lƣợng (n=19) 1 9 5 2 2 5,26 47,36 26,32 10,53 10,53
Kết quả bảng 3.13 các triệu chứng ảo giác ở đối tƣợng rối loạn trầm
cảm thƣờng gặp ảo thanh bình phẩm chiếm tỷ lệ cao nhất (47,36%), ảo thanh
xui khiến chiếm 26,32%, ảo thanh là các tiếng nói trò chuyện với nhau
(10,53%), còn lại ảo thị (10,53%) và ảo giác thô sơ (5,26%). Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với Cochran's Q test, p<0,01
Bảng 3.14. Các rối loạn hình thức tư duy ở đối tượng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê STT % p Triệu chứng Số lƣợng (n=69)
1 Tƣ duy chậm chạp 65 94,20
2 Ít nói, ít giao tiếp 64 92,75 p<0,01 3 Không nói 12 17,39
47 68,12
4 Nói nhỏ, nói chậm, nói thì thào
Bảng 3.14 cho thấy rối loạn hình thức tƣ duy ở đối tƣợng trầm cảm
trong nhóm nghiên cứu chủ yếu là tƣ duy chậm chạp chiếm tỷ lệ cao nhất
(94,20%), tiếp đến là ít nói, ít giao tiếp (92,75%), nói nhỏ, nói chậm và nói thì
thào (68,12%), chiếm tỷ lệ thấp nhất là tình trạng không nói (17,39%). Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với Cochran's Q test, p<0,01; 2(3)=107,068.
76
Bảng 3.15. Các rối loạn nội dung tƣ duy ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê STT % p
Số lƣợng (n=69) 40 57,97 Triệu chứng 1 Ý tƣởng tự ti
39 56,52 2 Ý tƣởng tự sát tái diễn nhiều lần
5 7,25 3 Hoang tƣởng tự buộc tội p<0,01
10 14,49 4 Hoang tƣởng bị truy hại
3 4,35 5 Hoang tƣởng ghen tuông
Kết quả bảng 3.15 thấy có 40 đối tƣợng có ý tƣởng tự ti tái diễn nhiều
lần chiếm tỷ lệ cao nhất (57,97%). Có ý tƣởng tự sát chiếm (56,52%)
Còn hoang tƣởng bị truy hại chiếm (14,49%), hoang tƣởng tự buộc tội
(7,25%), hoang tƣởng ghen tuông (4,35%). So sánh ta thấy có sự khác biệt và có ý nghĩa thống kê với Cochran's Q test, p<0,01; 2(4)=99,507.
Bảng 3.16. Các rối loạn hoạt động ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê STT % p Triệu chứng
p<0,01
Số lƣợng (n=69) 58 63 5 8 10 21 12 84,06 91,30 7,25 11,59 14,49 30,43 17,39 1 Giảm hoạt động, ngồi một chỗ 2 Vận động chậm chạp 3 Bất động 4 Kích động trầm cảm 5 Bồn chồn, đứng ngồi không yên 6 Hành vi tự sát 7 Các hành vi xung động
Bảng 3.16 cho thấy các triệu chứng ức chế vận động ở các đối tƣợng
trong nhóm trầm cảm thƣờng chiếm ƣu thế nhƣ: vận động chậm chạp chiếm
tỷ lệ 91,30%, giảm hoạt động, ngồi một chỗ, nằm lì trên giƣờng (84,06%), 21
đối tƣợng có hành vi tự sát chiếm 30,43%, hành vi xung động (17,39%), kích
động trầm cảm (11,59%), bồn chồn, đứng ngồi không yên (14,49%), bất động
(7,25%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với Cochran's Q test, p<0,01; 2(6)=203,904.
77
Bảng 3.17. Các rối loạn cơ thể ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê Số lƣợng % p STT (n=69) Triệu chứng
1 Đau đầu 51 73,91
2 Rối loạn đau dạng cơ thể 11 15,94
3 Chán ăn, sút cân 65 94,20
4 Táo bón 11 15,94
5 Ra nhiều mồ hôi 6 8,70
6 Hồi hộp, đánh trống ngực 36 52,17 p<0,01 7 Giảm ham muốn tình dục 42 60,87
8 Khô miệng 1 1,45
9 Cơn nóng bừng, lạnh run 4 5,80
10 Huyết áp dao động 1 1,45
11 Buồn nôn 13 18,84
12 Chóng mặt 45 65,22
Kết quả ở bảng 3.17 cho thấy triệu chứng chán ăn, sút cân chiếm tỷ lệ
(94,20%), tiếp theo là đau đầu (73,91%), chóng mặt (65,22%), giảm ham
muốn tình dục (60,87%), các triệu chứng khác ít gặp hơn theo thứ tự là hồi
hộp, đánh trống ngực (52,17%), buồn nôn (18,84%), táo bón (15,94%) rối
loạn đau dạng cơ thể (15,94%), ra nhiều mồ hôi (8,70%), cơn nóng bừng, lạnh
run (5,80%) và khô miệng, huyết áp dao động (1,45%). So sánh thấy sự khác
biệt là có ý nghĩa thống kê với Cochran's Q test, p<0,01; 2 (11) =349,132.
78
Bảng 3.18. Các rối loạn lo âu ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê Số lƣợng STT % p Triệu chứng (n=69)
6 8,70 1 Lo lắng vô cớ
27 39,13 2 Mất khả năng thƣ giãn p<0,01 2 2,90 3 Lo lắng về bệnh tật
2 2,90 4 Lo lắng về tƣơng lai
Bảng 3.18 cho thấy căng thẳng, mất khả năng thƣ giãn chiếm tỷ lệ cao
nhất 39,13%. Các rối loạn lo âu khác ít gặp hơn nhƣ: lo lắng vô cớ (8,70%),
lo lắng về bệnh tật (2,90%), lo lắng về tƣơng lai (2,90%). Sự khác biệt là có ý
nghĩa thống kê với với Cochran's Q test, p<0,01; 2(3)=48,308.
Bảng 3.19. Kết quả khảo sát mức độ lo âu theo test ZUNG ở đối
tƣợng rối loạn trầm cảm
STT Chỉ số thống kê Số lƣợng p % Test ZUNG (n=69)
56 81,16 1 Không lo âu
p<0,01 13 18,84 2 Lo âu nhẹ
69 100,00 Cộng
Bảng 3.19 cho thấy không lo âu chiếm 81,16%, lo âu nhẹ chiếm
18,81%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01
79
Bảng 3.20. Các rối loạn giấc ngủ ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê STT % p Triệu chứng Số lƣợng (n=69)
1 Mất ngủ đầu giấc 43 62,32
2 Mất ngủ giữa giấc 6 8,70
3 Mất ngủ cuối giấc 17 24,64 p<0,01 4 Ngủ không sâu 31 44,93
5 Ác mộng 1 1,45
2 2,90
6 Hoảng hốt khi ngủ
Bảng 3.20 cho thấy hầu hết các đối tƣợng đều có rối loạn giấc ngủ,
thƣờng gặp là: mất ngủ đầu giấc (62,32%), ngủ không sâu (44,93%), mất ngủ
cuối giấc (24,64%) và một tỷ lệ thấp hơn là mất ngủ giữa giấc (8,70%),
hoảng hốt khi ngủ (2,90%) và ác mộng (1,45%). Khi so sánh ta thấy có sự
khác biệt rõ rệt và có ý nghĩa thống kê với Cochran's Q test, p<0,01
2(5)=101,376.
Bảng 3.21. Các rối loạn trí nhớ ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê STT % p Triệu chứng Số lƣợng (n=69)
1 Không có rối loạn trí nhớ 18 26,09 p<0,01 2 Có rối loạn trí nhớ 51 73,91
1 Giảm nhớ 40 78,43
2 Quên ngƣợc chiều 1 1,96 p<0,01
3 Quên xuôi chiều 10 19,61
Bảng 3.21 cho thấy các rối loạn trí nhớ ở đối tƣợng trầm cảm cũng
thƣờng gặp nhƣ: có rối loạn trí nhớ gặp ở 73,91% số đối tƣợng trầm cảm và
chủ yếu là giảm nhớ chiếm 78,43%, quên xuôi chiều (19,61%) và quên ngƣợc
chiều (1,96%). Sự khác biệt ở cả 2 nhóm đều có ý nghĩa thống kê với p<0,01
(Biomial =51,00; và 2(2)=49,06).
80
Bảng 3.22. Các rối loạn chú ý ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê Số lƣợng % p STT Triệu chứng (n=69)
42 60,87 1 Giảm tập trung chú ý
11 15,94 2 Chú ý trì trệ p<0,01
16 23,19 3 Chú ý suy yếu
Kết quả ở bảng 3.22 cho thấy các rối loạn chú ý ở các đối tƣợng trầm
cảm cũng thƣờng gặp và đa dạng nhƣ: giảm tập trung chú ý chiếm tỷ lệ cao
nhất (60,87%), chú ý suy yếu (23,19%) và chú ý trì trệ (15,94%). Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p<0,01, 2(2)=13,18.
Bảng 3.23. Kết quả khảo sát test Beck ở đối tƣợng rối loạn trầm cảm
Chỉ số thống kê Số lƣợng STT % p Kết quả test Beck (n=69)
1 Mức độ nhẹ 3 4,35
2 Mức độ vừa 16 23,19 p<0,01
3 Mức độ nặng 50 72,46
Bảng 3.23 cho thấy trong nhóm nghiên cứu chủ yếu là trầm cảm nặng
có 50/69 đối tƣợng chiếm tỷ lệ cao nhất (72,46%), tiếp theo là trầm cảm vừa
có 16 đối tƣợng chiếm 23,19% và ít nhất là trầm cảm nhẹ (4,35%). Khi so
sánh ta thấy sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,01, 2(2)=51,217.
81
3.2.3. Đặc điểm lâm sàng rối loạn hƣng cảm ở đối tƣợng nghiên cứu
Bảng 3.24. Thái độ tiếp xúc ở đối tƣợng rối loạn hƣng cảm
Chỉ số thống kê Số lƣợng STT % p Triệu chứng
(n=14) 13 92,86 1 Cởi mở p<0,01 1 7,14 2 Chống đối
Bảng 3.24 cho thấy đối tƣợng hƣng cảm trong nhóm nghiên cứu tiếp
xúc thƣờng thân thiện, cởi mở (92,9%), chỉ có (7,1%) kích động chống đối.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01, Binomial =13,000.
Bảng 3.25. Các triệu chứng cơ bản ở đối tƣợng rối loạn hƣng cảm
Chỉ số thống kê STT % p Triệu chứng
p<0,01
1 Khí sắc tăng hay cáu gắt 2 Tăng hoạt động 3 Tƣ duy dồn dập 4 Tƣ duy phi tán 5 Hành vi không phù hợp 6 Giảm nhu cầu ngủ 7 Ý tƣởng tự cao và khuếch đại 8 Chú ý quá chuyển động 9 Có hành vi liều lĩnh 10 Tăng hoạt động tình dục Số lƣợng (n=14) 13 14 14 10 4 14 4 8 3 1 92,86 100,0 100,0 71,43 28,57 100,0 28,57 57,14 21,43 7,14
Kết quả khảo sát các triệu chứng cơ bản của đối tƣợng rối loạn hƣng
cảm ở bảng 3.25 cho thấy tăng hoạt động, tƣ duy dồn dập, giảm nhu cầu ngủ
có ở toàn bộ các đối tƣợng (100%), tăng khí sắc và hay cáu gắt chiếm tỷ lệ rất
cao (92,86%), tƣ duy phi tán (71,43%), ý tƣởng tự cao và khuếch đại, giảm
khả năng tập trung chú ý và hành vi không phù hợp với hoàn cảnh chiếm
(28,57%). Các triệu chứng khác ít gặp hơn nhƣ: có hành vi liều lĩnh (21,43%),
tăng hoạt động tình dục (7,14%) Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với
Cochran's Q test, p<0,01, 2(9) =75,729
82
Bảng 3.26. Các triệu chứng cảm xúc ở đối tƣợng rối loạn hƣng cảm
Chỉ số thống kê Số lƣợng % p STT (n=14) Triệu chứng
1 Tăng khí sắc 13 92,86
2 Khoái cảm 7 50,00 p<0,01 3 Khí sắc dễ bị kích thích 8 57,14
4 Cảm xúc không ổn định 1 7,14
Bảng 3.26 cho thấy tăng khí sắc chiếm tỷ lệ cao nhất (92,86%), tiếp đến
là khí sắc dễ bị khích thích (57,14%), khoái cảm (50,0%) và chiếm tỷ lệ thấp
nhất là cảm xúc không ổn định (7,14%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê
với Cochran's Q test, p<0,01, 2(3)=16,472.
Bảng 3.27. Các rối loạn cảm giác, tri giác ở đối tƣợng rối loạn hƣng cảm
Chỉ số thống kê Số lƣợng STT % p Triệu chứng (n=14)
1 Không có rối loạn tri giác 9 64,29
2 Có rối loạn tri giác 5 35,71 p>0,05 1 Tăng cảm giác 4 80,00
2 Ảo giác 1 20,00
Kết quả ở bảng 3.27 cho thấy không có rối loạn tri giác là chủ yếu
(64,29%) và có rối loạn tri giác chỉ chiếm 35,71% trong nhóm hƣng cảm. So
sánh thấy không có sự khác biệt với p>0,05, Binomial=5,00. Trong đó chủ
yếu là tăng cảm giác (80,00%), chỉ 1 đối tƣợng là có ảo giác (20,00%). Sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê với với Cochran's Q test, p>0,05;
2(1)=1,800.
83
Bảng 3.28. Các rối loạn tƣ duy ở đối tƣợng rối loạn hƣng cảm
Chỉ số thống kê % p STT Triệu chứng
Số lƣợng (n=14) 12 10 85,71 71,43
p<0,01
14 4 7 1 100,00 28,57 50,00 7,14 1 Nói nhiều 2 Tƣ duy phi tán 3 Tƣ duy nhịp nhanh 4 Ý tƣởng tự cao, tự khuếch đại 5 Hoang tƣởng tự cao 6 Hoang tƣởng bị truy hại
Bảng 3.28 cho thấy rối loạn tƣ duy ở đối tƣợng hƣng cảm chủ yếu là
các triệu chứng tƣ duy hƣng phấn nhƣ: tƣ duy nhịp nhanh (100%), nói nhiều
(85,71%) tƣ duy phi tán (71,43%), hoang tƣởng tự cao (50,0%), ý tƣởng tự
cao và khuếch đại (28,57%) và hoang tƣởng bị truy hại chiếm tỷ lệ thấp nhất
(7,14%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với với Cochran's Q test, p<0,01
2(5)=40,00.
Bảng 3.29. Các rối loạn hành vi ở đối tƣợng rối loạn hƣng cảm
Chỉ số thống kê STT % p Triệu chứng
p<0,01
Số lƣợng (n=14) 2 1 14 14 12 1 4 3 3 14,29 7,14 100 100 85,71 7,14 28,57 21,43 21,43 1 Kích động 2 Hoạt động liên tục 3 Tăng động tác 4 Tăng hoạt động 5 Gây ồn ào 6 Tăng hoạt động tình dục 7 Quan hệ xã hội suồng sã 8 Hành vi liều lĩnh,vô trách nhiệm 9 Hành vi xung động
Bảng 3.29 cho thấy các rối loạn hoạt động ở đối tƣợng hƣng cảm là các
triệu chứng hƣng phấn tâm thần vận động nhƣ: tăng hoạt động (100%), tăng
84
động tác (100%), nói nhiều gây ồn ào (85,71%) quan hệ xã hội suồng sã
(28,57%), vô trách nhiệm và hành vi xung động (21,43%). Tỷ lệ thấp nhất là
kích động (14,29%), tăng hoạt động tình dục (7,14%). Sự khác biệt là có ý
nghĩa thống kê với với Cochran's Q test, p<0,01; 2(8)=70,326.
Bảng 3.30 Các triệu chứng cơ thể ở đối tƣợng hƣng cảm
Chỉ số thống kê Số lƣợng % p STT (n=14) Triệu chứng
2 14,29 1 Đau đầu
1 7,14 2 Sút cân
10 71,43 3 Ra nhiều mồ hôi
5 35,71 4 Hồi hộp, đánh trống ngực
7 50,00 5 Tăng ham muốn tình dục p<0,01
4 28,57 6 Khô miệng
1 7,14 7 Huyết áp dao động
2 14,29 8 Dãn mạch ngoại vi
1 7,14 9 Chóng mặt
Bảng 3.30 cho thấy các triệu chứng cơ thể hay gặp ở đối tƣợng hƣng
cảm nhƣ: ra nhiều mồ hôi (71,43%), tăng ham muốn tình dục (50,00%), hồi
hộp, đánh trống ngực (35,71%). Các triệu chứng ít gặp hơn nhƣ: khô miệng
(28,57%), đau đầu và dãn mạch ngoại vi (14,29%), sút cân, huyết áp dao động
và chóng mặt (7,14%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với Cochran's Q test, p<0,01; 2(8)=27,170.
85
Biểu đồ 3.6. Mức độ hƣng cảm theo test YMRS
Biểu đồ 3.6 cho thấy hƣng cảm theo điểm số test YMRS chiếm đa số
(64,29%) còn hƣng cảm nhẹ chiếm 35,71%
3.3. Đặc điểm về hành vi phạm tội ở đối tƣợng nghiên cứu
Bảng 3.31. Các hành vi phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc
STT % p
p< 0,01
Chỉ số thống kê Các loại hành vi 1 Hành vi cố ý gây thƣơng tích 2 Hành vi giết ngƣời 3 Hành vi giết ngƣời sau đó tự sát 4 Hành vi trộm cắp 5 Hành vi cƣớp giật 6 Hành vi gây rối ở nơi công cộng 7 Các hành vi phạm tội khác Số lƣợng (n=83) 14 14 8 6 9 1 31 16,87 16,87 9,64 7,23 10,84 1,20 37,35
Kết quả khảo sát các hành vi phạm tội ở bảng 3.31 cho thấy hành vi
giết ngƣời và hành vi cố ý gây thƣơng tích chiếm tỷ lệ cao nhất 16,87%), tiếp
theo là hành vi cƣớp giật (10,84%), hành vi giết ngƣời sau đó tự sát (9,64%),
hành vi trộm cắp (7,23%), hành vi gây rối ở nơi công cộng (1,21%). Các hành
vi phạm tội khác nhƣ: đánh bạc và tổ chức đánh bạc, ghi số đề, đá gà, gái mại
86
dâm và tổ chức mại dâm… các hành vi này chiếm khoảng 37,35%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01, 2=46,458.
Biểu đồ 3.7. Địa điểm thường xẩy ra phạm tội ở đối tượng rối loạn cảm xúc
Biểu đồ 3.7 cho thấy khu vực sinh hoạt cộng đồng xẩy ra các vụ án
nhiều nhất (54,28%), tiếp theo là khu vực xung quanh hàng xóm (25,30%).
Cuối cùng là khu vực sinh hoạt của gia đình (20,48%). Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,01, 2(2)=16,58.
Bảng 3.32. Phân bố các hành vi phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc
Hƣng cảm Trầm cảm p Chỉ số thống kê Các loại phạm tội ST T n % n %
1 Hành vi cố ý gây thƣơng tích 0 0,00 14 20,29
2 Hành vi giết ngƣời 1 7,14 13 18,84
3 Hành vi giết ngƣời rồi tự sát 0 0,00 8 11,60 p>0,05 4 Hành vi trộm cắp 2 14,29 4 5,80
5 Hành vi cƣớp giật 2 14,29 7 10,14
7 Các hành vi phạm tội khác 9 64,28 23 33,33
Cộng 14 100,00 69 100,00
Bảng 3.32 cho thấy hành vi cố ý gây thƣơng tích, hành vi giết ngƣời và
hành vi giết ngƣời rồi sau đó tự sát giữa nhóm trầm cảm khá cao so với nhóm
87
hƣng cảm. Còn lại hành vi cƣớp giật, hành vi trộm cắp trong nhóm hƣng cảm
lại chiếm tỷ lệ cao hơn. Tuy nhiên sự khác biệt đều không có ý nghĩa thống kê
với p>0,05; Fisher's Exact Test (p từ 0,058 đến 1,00).
Bảng 3.33. Số lần phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc
Chỉ số thống kê STT % p
Số lƣợng (n=83) 74 89,16 1 Số lần phạm tội Phạm tội 1 lần
7 8,43 2 Phạm tội 2 lần p<0,01
2 2,41
3 Trên 3 lần
Bảng 3.33 cho thấy số ngƣời phạm tội 1 lần chiếm tỷ lệ cao nhất
(89,16%) và phạm tội 2 lần (trƣớc lần phạm tội này đã có 1 tiền án) là 8,43%,
phạm tội từ 3 lần trở lên chỉ có 2 ngƣời, chiếm (2,41%). Sự khác biệt là có ý
nghĩa thống kê với p<0,01, 2(2)=116,84.
Bảng 3.34. Phân bố thời gian khi mắc bệnh và thời điểm phạm tội ở
đối tƣợng rối loạn cảm xúc
Chỉ số thống kê STT % p Thời gian phạm tội Số lƣợng (n=83)
1 Mắc bệnh trong thời gian gây án 2 2,41
2 Mắc bệnh sau thời gian gây án 25,30 p<0,01 21
3 Mắc bệnh trƣớc khi gây án 60 72,29
Mắc bệnh trƣớc gây án từ >0-4 năm 35 58,33
Mắc bệnh trƣớc gây án từ>4-9 năm 18 30,00 p<0,01 Mắc bệnh trƣớc gây án từ >9-14 năm 2 3,33
Mắc bệnh trƣớc gây án >14 năm 5 8,33
Kết quả ở bảng 3.34 cho thấy mắc bệnh trong thời gian gây án chiếm tỷ
lệ thấp (2,41%) và mắc bệnh sau thời gian gây án là 25,30%. Còn lại, hầu hết
là mắc bệnh trƣớc khi gây án với các thời gian khác nhau (72,29%). Sự khác
biệt có ý nghĩa với p<0,01, 2(2)=63,21. Cụ thể mắc bệnh trƣớc khi gây án từ
88
0-4 năm chiếm tỷ lệ cao nhất (58,33%), mắc bệnh trƣớc khi gây án từ 5-9 năm
(30,00%), mắc bệnh trƣớc khi gây án từ 10-14 năm (3,33%) và mắc bệnh
trƣớc khi gây án > 14 năm (8,33%). Khi so sánh ta thấy có sự khác biệt rõ rệt
với p<0,01, 2(3)= 45,20.
Bảng 3.35. Phân bố thời gian khi mắc bệnh và thời điểm phạm tội
theo trạng thái rối loạn cảm xúc
Hƣng cảm Trầm cảm
STT
p
%
n
%
n
Chỉ số thống kê Thời gian
1 Mắc bệnh khi gây án 0,00 2 2,90 0
2 Từ > 0-4 năm trƣớc gây án 42,86 29 42,03 p>0,05 6
3 Từ >4-9 năm trƣớc gây án 28,57 14 20,29 4
4 Từ >9-14 năm trƣớc gây án 14,29 0 0,00 p<0,05 2
0,00 5 7,25 0 p>0,05 14,29 19 27,54 2 5 Mắc bệnh trên 14 năm 6 Mắc bệnh sau khi gây án
Bảng 3.35 cho thấy hầu hết đối tƣợng có thời gian từ khi mắc bệnh tới
khi phạm tội theo trạng thái rối loạn hƣng cảm và trầm cảm là 0-4 năm và 4-9
năm. Khi so sánh từng cặp không có sự khác biệt có ý nghĩa (p>0,05 với
Fisher's Exact Test); chỉ có thời gian mắc bệnh từ 10 đến 14 năm là sự khác
biệt có ý nghĩa với p<0,05
Bảng 3.36. Phƣơng tiện gây án ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc
Chỉ số thống kê
STT % p Phƣơng tiện gây án
Phƣơng tiện thô sơ (gậy, gạch, dao…) Sử dụng vật liệu cháy nổ, vũ khí Sử dụng hóa chất
p<0,01
1 2 3 4 Rải truyền đơn, đơn từ và nói xấu chế độ Sử dụng sức mạnh cơ bắp (đánh ngƣời...) 5 Sử dụng các phƣơng tiện gây án khác 6 Cộng Số lƣợng (n=83) 27 2 5 3 23 23 83 32,53 2,41 6,02 3,62 27,71 27,71 100,00
89
Bảng 3.36 cho thấy phƣơng tiện thô sơ nhƣ: gậy, gạch, dao… chiếm tỷ
lệ cao nhất (32,53%), tiếp đến là sử dụng sức mạnh cơ bắp nhƣ: đánh ngƣời,
đấm, đá...(27,71%), sử dụng các phƣơng tiện gây án khác tác động về cơ thể
và tinh thần của nạn nhân (27,71%), sử dụng hóa chất (6,02%), rải truyền
đơn, đơn từ và nói xấu chế độ (3,62%) và sử dụng vật liệu cháy nổ, vũ khí
quân dụng (2,41%). Sự khác biệt về tỷ lệ giữa nhóm sử dụng phƣơng tiện thô
sơ với các nhóm khác là có ý nghĩa thống kê với p<0,01, 2(5)= 48,93.
Biểu đồ 3.8. Số lƣợng phƣơng tiện sử dụng gây án trên nạn nhân ở đối
tƣợng rối loạn cảm xúc
Biểu đồ 3.8 cho thấy chủ yếu là một loại phƣơng tiện sử dụng gây án
chiếm tỷ lệ 98,80% và nhiều loại phƣơng tiện sử dụng gây án chiếm tỷ lệ thấp
hơn (1,20%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê rất rõ rệt với p<0,01, Binomi-
al=82,00.
Bảng 3.37. Hậu quả của hành vi phạm tội ở đối tượng rối loạn cảm xúc
Chỉ số thống kê Số lƣợng STT % p Hậu quả (n=83)
p<0,01
1 Gây chết ngƣời 2 Gây thƣơng tích cho ngƣời 3 Gây thiệt hại về tài sản 4 Gây ảnh hƣởng trật tự an ninh 5 Gây tổn thƣơng về tinh thần
Cộng 20 17 39 6 1 83 24,10 20,48 46,99 7,23 1,20 100,00
90
Kết quả ở bảng 3.37 cho thấy hậu quả của hành vi phạm tội chủ yếu là
gây thiệt hại về tài sản chiếm tỷ lệ cao nhất (46,99%), tiếp đến là gây chết
ngƣời (24,10%), gây thƣơng tích cho ngƣời (20,48%), gây rối ở nơi công
cộng (7,23%) và gây tổn thƣơng về tinh thần (1,20%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p<0,01, 2(4)=52,36.
Biểu đồ 3.9. Số ngƣời bị thiệt hại trong các vụ án do đối tƣợng rối loạn
cảm xúc gây ra
Khảo sát số ngƣời bị thiệt hại trong các vụ án do đối tƣợng rối loại khí
sắc ở biểu đồ 3.9 cho thấy đa số các trƣờng hợp chỉ gây hại cho 1 ngƣời
(59,04%). Số lƣợng vụ án gây hại cho nhiều ngƣời chiếm 40,96%. Sự khác
biệt không có có ý nghĩa thống kê với p>0,05, Binomial=49,00.
Bảng 3.38. Mối quan hệ giữa ngƣời bị hại với đối tƣợng gây án
Chỉ số thống kê STT % p Mối liên quan
p<0,01
Số lƣợng (n=83) 15 23 32 13 18,07 27,71 38,56 15,66 1 Bị hại là ngƣời thân trong gia đình 2 Bị hại là bạn bè, hàng xóm 3 Bị hại là ngƣời không quen biết 4 Bị hại là các cơ quan, tổ chức xã hội
100,00 Cộng 83
Kết quả ở bảng 3.38 cho thấy mối quan hệ giữa ngƣời bị hại với đối
tƣợng gây án có khác nhau, trong đó ngƣời bị hại là ngƣời không quen biết
chiếm tỷ lệ cao nhất (38,55%), tiếp đến ngƣời bị hại là bạn bè và ngƣời hàng
91
xóm (27,71%), ngƣời thân trong gia đình chiếm (18,07%) và cuối cùng là các
cơ quan và tổ chức xã hội (15,66%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,01, 2(3)=10,83.
Biểu đồ 3.10. Năng lực nhận thức và điều khiển hành vi ở đối tƣợng rối
loạn cảm xúc
Biểu đồ 3.10 cho thấy số ngƣời mất năng lực nhận thức và điều khiển
hành vi chiếm tỷ lệ cao nhất (54,22%), số ngƣời còn năng lực nhận thức và
điều khiển hành vi chiếm 25,30%, số ngƣời hạn chế năng lực nhận thức và
điều khiển hành vi và chiếm tỷ lệ thấp nhất (20,48%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p<0,01, 2(2)=16,58.
Bảng 3.39. Cơ quan trưng cầu giám định ở đối tượng rối loạn cảm xúc
Chỉ số thống kê STT % p Cơ quan trƣng cầu Số lƣợng (n=83)
1 Cơ quan công an 54 65,06
2 Viện kiểm sát 2,41 p<0,01 2
3 Tòa án nhân dân 27 32,53
Cộng 83 100,00
Bảng 3.39 cho thấy do cơ quan công an trƣng cầu là cao nhất (65,06%),
tiếp theo là tòa án nhân dân các cấp trƣng cầu (32,53%) và do viện kiểm soát
các cấp trƣng cầu chỉ chiếm 2,41%. Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với
p<0,01, 2(2)= 48,89.
92
3.4. Các yếu tố liên quan đến thúc đẩy hành vi phạm tội ở đối tƣợng rối
loạn cảm xúc
Bảng 3.40. Một số yếu tố bệnh lý và ngoại lai thúc đẩy hành vi phạm tội
Chỉ số thống kê Số lƣợng STT % p Yếu tố bệnh lý (n=83)
1 Có yếu tố bệnh lý chi phối 50 60,24 p>0,05 2 Không có yếu tố bệnh lý chi phối 33 39,76
Yếu tố ngoại lai thúc đẩy
1 Mâu thuẫn trong gia đình 9 10,84
Stress tâm lý - xã hội 2 16 19,28
Khó khăn về tài chính 3 14 16,87
Sử dụng uống rƣợu - bia 4 12,05 p<0,01 10
5 Do sử dụng ma tuý 4 4,82
6 Tiền sử chấn thƣơng thời thơ ấu 2 2,41
7 Các yếu tố thúc đẩy khác 3 3,61
Kết quả ở bảng 3.40 cho thấy 60,24% số đối tƣợng phạm tội là do rối
loạn cảm xúc chi phối và chỉ có 39,76% số đối tƣợng phạm tội là do không do
bệnh lý chi phối. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05 (Biomial
=50,00). Trong các yếu tố ngoại lai thúc đẩy hành vi phạm tội thì yếu tố gây
căng thẳng tâm lý – xã hội chiếm tỷ lệ cao nhất 19,28%, khó khăn về tài chính
(16,87%), sử dụng rƣợu-bia (12,05%), mâu thuẫn trong gia đình (10,84%), do
sử dụng ma túy (4,82%) và tiền sử chấn thƣơng thời thơ ấu (2,41%) và các
yếu tố thúc đẩy khác (3,61%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với
Cochran's Q test p<0,01, 2(6)=169,636.
93
Biểu đồ 3.11. Mối liên quan giữa tình trạng của bệnh và thời điểm phạm
tội của đối tƣợng rối loạn cảm xúc
Biểu đồ 3.11 cho thấy phạm tội trong giai đoạn bệnh đang tiến triển chiếm tỷ lệ cao nhất (68,68%), tiếp đến là giai đoạn không mắc bệnh tại thời điểm phạm tội và sau đó khi bị bắt tạm giam điều tra hoặc tại ngoại mới phát bệnh (25,30%) và giai đoạn bệnh thuyên giảm ổn định chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp (6,02%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p<0,01, 2=46,36.
94
Bảng 3.41. Mối liên quan giữa ngƣời bị hại với các hình thức phạm
tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc
Ngƣời bị hại
Ngƣời không quen biết
Cơ quan, tổ chức xã hội
p
Ngƣời thân trong gia đình
Bạn bè, ngƣời hàng xóm
n=15 % n=23 % n=32 % n=13 %
Hành vi Cố ý gây thƣơng tích
6,67 6 26,09 7 21,88 0 0,00 1
Trộm cắp 6,67 1 4,35 2 6,25 5,38 p>0,05 2 1
Gây rối nơi công cộng 0,00 0 0,00 0 0,00 1 7,69 0
Giết ngƣời 5 33,33 8 34,78 1 3,13 0 0,00
Giết ngƣời rồi tự sát 8 53,33 0 0,00 0 0,00 0 0,00 p<0,01 Cƣớp giật 0,00 0 0,00 8 25,00 1 7,69 0
Hình thức khác 0.00 8 34,78 14 43,75 9 69,23 0
Khảo sát mối liên quan giữa ngƣời bị hại với các hình thức phạm tội ở
bảng 3.41 cho thấy rất đa dạng và khác nhau nhƣng hành vi cố ý gây thƣơng
tích, hành vi trộm cắp và gây rối trật tự nơi công cộng là sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (p>0,05; với Fisher's Exact Test=5,428; 1,822; 4,032).
Còn lại, tội giết ngƣời thì bị hại chủ yếu là ngƣời thân (33,33%) và bạn bè,
hàng xóm (34,78%). Tội giết ngƣời sau đó có hành vi tự sát thì bị hại chủ yếu
là ngƣời thân trong gia đình (53,33%). Tội cƣớp giật bị hại chủ yếu là ngƣời
không quen biết (25,00%). Sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê với các giá
trị khác nhau p<0,01 (Fisher's Exact Test= từ 9,610 đến 25,610). Các hình
thức phạm tội khác bị hại thƣờng gặp là các cơ quan tổ chức xã hội (69,23%),
ngƣời không quen biết (43,75%) và hàng xóm, bạn bè (34,78%). Sự khác biệt
đều có ý nghĩa thống kê với p<0,01, 2(3)= 16,974.
95
Bảng 3.42. Mối liên quan giữa giới tính với các hình thức phạm tội ở
đối tƣợng rối loạn cảm xúc
Giới tính Nam Nữ p Hành vi n=30 %
p>0,05
Cố ý gây thƣơng tích Giết ngƣời Giết ngƣời rồi sau đó tự sát Trộm cắp Cƣớp giật Gây rối ở nơi công cộng Các hình thức khác n=53 10 11 5 3 7 1 16 % 18,87 20,75 9,43 5,66 13,21 1,89 30,20 4 3 3 3 2 0 15 13,33 10,00 10,00 10,00 6,67 0,00 50,00
Kết quả khảo sát ở bảng 3.42 cho thấy các hình thức phạm tội ở nam và
nữ đều không sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p>0,05; với 2 từ 0,418 –
3,213 và Fisher's Exact Test).
Bảng 3.43. Mối liên quan giữa lứa tuổi với các hình thức phạm tội ở
đối tƣợng rối loạn cảm xúc
Lứa tuổi 20-29 30-39 ≥40 Tổng cộng p Hành vi phạm tội
Cố ý gây thƣơng tích
Giết ngƣời
Giết ngƣời rồi tự sát
p<0,01 Trộm cắp
Cƣớp giật
Gây rối ở nơi công cộng
Hình thức khác n % n % n % n % n % n % n % 4 28,57 8 57,14 1 12,50 3 50,00 7 77,78 0 0,00 5 16,13 7 50,00 2 14,29 2 25,00 0 0,00 1 11,11 0 0,00 9 29,03 3 21,43 4 28,57 5 62,50 3 50,00 1 11,11 1 100,00 17 54,84 14 100,00 14 100,00 8 100,00 6 100,00 9 100,00 1 100,00 31 100,00
Bảng 3.43 cho thấy hành vi cố ý gây thƣơng tích thƣờng gặp ở lứa tuổi
30 (50,00%), hành vi cƣớp giật và giết ngƣời thƣờng gặp ở lứa tuổi 20 chiếm
96
tỷ lệ là 77,78% và 57,14% trong nhóm; có hành vi giết ngƣời sau đó tự sát,
gây rối nơi công cộng và các hình thức khác lại gặp chủ yếu ở tuổi ngoài 40
với các tỷ lệ là 62,50%; 100% và 54,84% theo từng nhóm. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,01 (Fisher's Exact Test=23,816)
Bảng 3.44. Mối liên quan giữa rối loạn loạn thần với các hình thức
phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm xúc
Ảo giác p Không loạn thần Hoang tƣởng Hoang tƣởng và ảo giác
n=53 % n=10 % n=10 % n=10 %
gây 10 71,43 1 7,14 2 14,29 7,14 1 Bệnh lý Hành vi Cố ý thƣơng tích
Giết ngƣời 10 71,43 2 14,29 1 7,14 7,14 1
4 50,00 1 12,50 1 12,50 25,00 2 p>0,05 Giết ngƣời rồi tự sát
Trộm cắp 4 66,66 1 16,67 0 0,00 16,67 1
Cƣớp giật 5 55,56 2 22,22 2 22,22 0,00 0
1 100,0 0 0,00 0 0,00 0,00 0 Gây rối ở nơi công cộng
Hình thức khác 19 61,29 3 9,68 4 12,90 16,13 5
Kết quả khảo sát ở bảng 3.44 cho thấy so sánh các số liệu đều có sự
khác biệt, nhƣng các hành vi phạm tội nhƣ: cố ý gây thƣơng tích, giết ngƣời,
giết ngƣời rồi sau đó tự sát, trộm cắp, cƣớp giật và các hình thức phạm tội
khác đều không có ý nghĩa thống kê với p>0,05 (Fisher's Exact Test= 10,025)
97
CHƢƠNG 4 BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung nhóm đối tƣợng nghiên cứu
4.1.1. Đặc điểm về tuổi và giới
Hodgins S. và cộng sự nghiên cứu 205 đối tƣợng phạm tội mắc các
bệnh tâm thần nặng trong đó có 49 đối tƣợng rối loạn cảm xúc cho thấy tuổi
trung bình ở nam giới là 37,2± 11,4 còn nữ là 40,1± 13,3 [94].
Còn tác giả Naidoo S. và cộng sự (2012) cho rằng tuổi các đối tƣợng là
tù nhân và đang chờ xét xử có rối loạn cảm xúc ở Durban, Nam Phi là 30,5 ±
9,0 [131].
Kết quả ở biểu đồ 3.1 và bảng 3.1 cho thấy nhóm tuổi từ 20-29 tuổi
chiếm tỷ lệ cao nhất (33,73%), tiếp đến là nhóm tuổi 30-39 tuổi (25,30%),
nhóm tuổi 40-49 tuổi chiếm 24,10%, nhóm tuổi 50-59 tuổi chiếm 12,05% và
nhóm tuổi > 59 tuổi là 4,82%. Tuổi trung bình nam là 34,47±10,96 tuổi và nữ
là 42,17±11,53tuổi.
Nhƣ vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi về tuổi phù hợp với các tác
giả khác.
Theo Naidoo S. (2012) nghiên cứu trên các tù nhân bị rối loạn cảm xúc
cho thấy, tỷ lệ ở nữ rối loạn cảm xúc có hành vi phạm tội là 4,1% và nam là
95,9%[131].
Dƣơng Văn Lƣơng và cộng sự nghiên cứu trên 607 đối tƣợng phạm tội
bị bệnh tâm thần đƣợc giám định tại Bệnh viện Tâm thần Trung ƣơng I, nhận
thấy tỷ lệ nam gây án gấp 9 lần nữ (90,12% và 9,88%) [132].
Số đối tƣợng nam gây án trong nghiên cứu của chúng tôi (biểu đồ 3.1)
chiếm tỷ lệ 63,86 %, còn nữ chiếm 36,14%. Nhƣ vậy kết quả nghiên cứu của
chúng tôi về giới không phù hợp với các tác giả khác là do chúng tôi chỉ
98
nghiên cứu trên các đối tƣợng rối loạn cảm xúc, trong rối loạn cảm xúc tỷ lệ
nữ cao rất nhiều so với nam .
4.1.2. Đặc điểm về trình độ học vấn
Theo hội tâm thần học Hoa kỳ (2000) rối loạn cảm xúc có thể gặp ở
mọi tầng lớp xã hội, không có sự khác biệt về trình độ văn hóa.
Kết quả bảng 3.2 cho thấy đối tƣợng nghiên cứu có trình độ học vấn
tiểu học chiếm tỷ lệ là 30,12%, trung học phổ thông (32,53%), trung học cơ
sở chiếm 22,89%, số đối tƣợng không biết chữ chiếm tỷ lệ khá cao (9,64%)
và số đối tƣợng có trình độ đại học, trung học chuyên nghiệp chiếm tỷ lệ thấp
nhất (4,81%).
Theo Hodgins S. và cộng sự hầu hết đối tƣợng rối loạn cảm xúc phạm
tội có trình độ học vấn thấp, 50% ở nam và 25% ở nữ chỉ học ở bậc trung học
cơ sở [94].
Chúng tôi cho rằng, mặc dù rối loạn cảm xúc gặp ở mọi tầng lớp xã
hội, mọi loại trình độ văn hóa, tuy nhiên, trình độ học vấn lại là tiền đề của
nghề nghiệp về sau.
4.1.3. Đặc điểm về nghề nghiệp
Theo Dan J. S. và cộng sự (2006), những ngƣời thất nghiệp, nghề
nghiệp không ổn định, nghề nguy hiểm và độc hại có tỷ lệ rối loạn cảm xúc
cao hơn các nhóm nghề nghiệp khác. Tác giả cho rằng nguyên nhân là vì
những ngƣời này luôn phải chịu những yếu tố tâm lý căng thẳng, trƣờng diễn
[65].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở bảng 3.3 cho thấy đối tƣợng không
có nghề nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất (50,60%), tiếp đến là nông dân (13,25%),
kinh doanh, thƣơng mại (12,05%), công nhân (10,84%), nghề nghiệp tự do
(6,02%), cán bộ công chức (6,02%) và thấp nhất là đối tƣợng học sinh sinh
viên (1,21%).
99
Theo Naidoo S. và cộng sự (2012), tỷ lệ đối tƣợng có việc làm tại các
cơ quan là 49,7%, các đối tƣợng làm việc tại nhà là 7,8% và số đối tƣợng
không có việc làm chiếm đến 42,5% [131].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các tác giả khác. Chúng
tôi cho rằng những đối tƣợng không nghề nghiệp, nghề nghiệp không ổn định
nên có thu nhập thấp, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Họ phải chịu nhiều căng
thẳng trong xã hội và gia đình. Chính các căng thẳng này là yếu tố thuận lợi
gây ra các hành vi phạm tội ở những đối tƣợng rối loạn cảm xúc.
4.1.4. Đặc điểm về tình trạng hôn nhân
Rối loạn lƣỡng cực I hay gặp ở những ngƣời độc thân hoặc ly dị do
bệnh khởi phát sớm trƣớc tuổi lập gia đình vì vậy ngƣời bệnh mất cơ hội tạo
mối quan hệ tốt để đi tới kết hôn, mặt khác tỷ lệ ly hôn cao do tình trạng bệnh
họ sinh hoạt bừa bãi gây ra các mâu thuẫn gia đình [60].
Biểu đồ 3.2 cho thấy tỷ lệ đối tƣợng nghiên cứu đã có gia đình sống
cùng vợ hoặc chồng chiếm cao nhất (46,99)%, tiếp đến là sống độc thân
(36,15%), ly hôn chiếm 14,46% và chỉ có 2,41% là các trƣờng hợp góa bụa.
Trong nghiên cứu của Naidoo S. và cộng sự (2012), tỷ lệ đối tƣợng rối
loạn cảm xúc, phạm tội có gia đình 8,8%, độc thân chiếm 87%, tỷ lệ ly hôn
3,6% và góa bụa 0,5% [131].
Sở dĩ có sự khác biệt giữa nghiên cứu của chúng tôi và của Naidoo S. là
do Naidoo S. nghiên cứu trên các tù nhân nói chung, còn chúng tôi chỉ nghiên
cứu trên các đối tƣợng phạm tội, có yêu cầu giám định của cơ quan tố tụng
hình sự.
4.1.5. Đặc điểm về môi trƣờng sống
Biểu đồ 3.3 cho thấy đối tƣợng sống ở vùng nông thôn đồng bằng
chiếm đa số (56,63%), sống ở vùng thành thị chiếm 34,94% và đối tƣợng
sống ở vùng nông thôn miền núi chỉ chiếm 8,43%.
100
Chúng tôi cho rằng, ngƣời dân thành thị có mức sống cao hơn, các điều
kiện kinh tế giáo dục phát triển, trình độ hiểu biết của ngƣời thành phố cũng
khá tốt, nên khi ngƣời trong gia đình bị rối loạn cảm xúc thƣờng đƣợc đƣa đi
điều trị sớm làm giảm nguy cơ phạm tội.
Một cách lý giải khác là ở Việt Nam, khoảng 70% dân số sống ở nông
thôn, do đó tỷ lệ đối tƣợng cƣ trú ở nông thôn có tỷ lệ cao cũng là điều dễ hiểu.
4.1.6. Tiền sử của đối tƣợng
4.1.6.1. Tiền sử gia đình bị bệnh Tâm thần
Rối loạn trầm cảm có tính di truyền ở mức độ trung bình. Những ngƣời
có họ hàng mức độ 1 của đối tƣợng trầm cảm có nguy cơ bị bệnh cao gấp 2
đển 3 lần so với dân số chung [2]
Bảng 3.4 cho thấy nhóm đối tƣợng nghiên cứu trong gia đình có ngƣời
bị bệnh tâm thần chỉ chiếm có 8,43%, còn đại đa số trong gia đình là không
có ngƣời mắc bệnh (91,57%).
Trong số đối tƣợng rối loạn cảm xúc thấy đối tƣợng rối loạn lƣỡng cực
chiếm 57,14%, trầm cảm chủ yếu chỉ chiếm 14,29%.
Tỷ lệ đối tƣợng có họ hàng mức độ 1 cùng bị trầm cảm hoặc rối loạn
lƣỡng cực không cao do các yếu tố di truyền (chiếm vai trò rất quan trọng)
cần phải phối hợp với các yếu tố căng thẳng tâm lý, môi trƣờng sống và xã
hội bất lợi mới gây ra khởi phát rối loạn cảm xúc [60].
4.1.6.2. Tiền sử bản thân ở các đối tượng nghiên cứu
Nhiều tác giả nhƣ Kaplan H. I. và cộng sự (1994), Sadock B. J. và cộng
sự (2007) đã nhấn mạnh rằng các đối tƣợng rối loạn cảm xúc thƣờng hay có
hiện tƣợng lạm dụng chất. Bùi Quang Huy và cộng sự (2010) đã chỉ rõ các
chất đối tƣợng hay lạm dụng là rƣợu, ma túy kích thần nhóm Amphetamin và
ma túy opioid (heroin) [2], [4], [61].
Cũng theo nghiên cứu của ECA, trong số các đối tƣợng bị rối loạn cảm
xúc, 32% có kèm theo các rối loạn sử dụng chất gây nghiện. Với các đối
101
tƣợng trầm cảm chủ yếu, 16,5 % có rối loạn do sử dụng rƣợu và 18 % có rối
loạn do sử dụng ma túy. Trong rối loạn lƣỡng cực, rối loạn sử dụng chất gây
nghiện là đặc biệt phổ biến, tỷ lệ trong cả đời là 56 % [133].
Kết quả ở bảng 3.5 cho thấy bệnh lý mắc phải trong quá trình sống chỉ
là 26,51%. Ngƣợc lại, các đối tƣợng khỏe mạnh, không mắc phải bệnh lý
trong quá trình sống là cao hơn (73,49%).
Trong đó thấy nghiện rƣợu chiếm tỷ lệ cao nhất (31,82%), bệnh tâm
thần và nghiện ma túy (22,73%), chấn thƣơng sọ não (18,18%) và các bệnh
nội khoa, bệnh thần kinh khác (4,55%).
4.2. Đặc điểm lâm sàng rối loạn cảm xúc nhóm đối tƣợng nghiên cứu.
4.2.1. Nhân cách tiền bệnh lý ở các đối tƣợng nghiên cứu
Theo Lokesh S. và cộng sự (2009), nhân cách tiền bệnh lý của đối
tƣợng có ảnh hƣởng đến sự khởi phát và phát triển của rối loạn cảm xúc,
nhƣng không nhiều và không rõ ràng [134].
Những ngƣời có nhân cách bệnh ám ảnh cƣỡng bức, kịch tính và ranh
giới có nguy cơ bị trầm cảm nhiều hơn ngƣời có rối loạn nhân cách chống xã
hội và nhân cách paranoid [2].
Kết quả bảng 3.6 cho thấy có 5 đối tƣợng có rối loạn nhân cách tiền
bệnh lý chiếm 6,02% và ngƣợc lại không có rối loạn nhân cách tiền bệnh lý là
chiếm đại đa số (93,98%).
4.2.2. Phân loại các rối loạn cảm xúc ở nhóm đối tƣợng nghiên cứu
Kết quả biểu đồ 3.4 cho thấy giai đoạn trầm cảm chiếm tỷ lệ cao nhất
(48,19%), tiếp đến là rối loạn trầm cảm tái diễn (25,30%), rối loạn cảm xúc
lƣỡng cực (24,10%) và giai đoạn hƣng cảm (2,41%).
Trong nghiên cứu của James D. J. rối loạn trần cảm chiếm khoảng 16
đến 29,7%, hƣng cảm từ 35,1% đến 54,5% tùy loại tù ở liên bang hay trại
giam ở địa phƣơng [135]. Điều này cho thấy có sự khác biệt rất lớn về tỷ lệ cơ
cấu bệnh rối loạn lƣỡng cực ở các nhà tù nƣớc Mỹ. Điều này có đƣợc có thể
102
do nƣớc Mỹ rất rộng lớn, nhiều dân tộc, đa dạng về văn hóa nên dẫn đến sự
không đồng nhất ở nhà tù các bang.
Số liệu của chúng tôi ở bảng 3.7 cho thấy đối tƣợng rối loạn trẩm cảm
chiếm tỷ lệ cao nhất (83,13%), tiếp theo là rối loạn hƣng cảm (16,87%).
4.2.3. Đặc điểm lâm sàng nhóm đối tƣợng có giai đoạn trầm cảm
4.2.3.1. Phân loại trầm cảm và thái độ tiếp xúc
- Mức độ trầm cảm ở nhóm đối tượng nghiên cứu
Kết quả ở biểu đồ 3.5 cho thấy trong 69 đối tƣợng trầm cảm thì trầm
cảm nặng không loạn thần là 28 đối tƣợng chiếm tỷ lệ cao nhất (37,68%), tiếp
theo là trầm cảm nặng có loạn thần (36,23%). Nhƣ vậy, chúng ta thấy có đến
73,91% số đối tƣợng trầm cảm là trầm cảm mức độ nặng (có hoặc không có
loạn thần).
Điều này phù hợp với nhận định của Sadock B. J. và cộng sự (2007)
khi cho rằng các đối tƣợng trầm cảm càng nặng thì có thể có các xung động
hành vi, dẫn đến khả năng phạm tội cao hơn nhiều so với trầm cảm mức độ
vừa và nhẹ [4].
- Thái độ tiếp xúc
Kết quả ở bảng 3.8 cho thấy thái độ tiếp xúc ở đối tƣợng trầm cảm là
thờ ơ, lãnh đạm chiếm tỷ lệ cao nhất (65,22%), tiếp đó là mải mê suy nghĩ
(14,49%), phủ định, không nói (13,04%).
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, có đến 73,91% số đối tƣợng
trầm cảm là trầm cảm mức độ nặng, do vậy họ khó tiếp xúc, thờ ơ, lãnh
đạm… cũng là phù hợp. Điều này phù hợp với ý kiến của Kaplan H. I. và
cộng sự (1994) khi cho rằng các đối tƣợng trầm cảm nặng thƣờng bị ức chế về
cảm xúc, tƣ duy và hoạt động rất rõ rệt [61].
103
4.2.3.2. Các triệu chứng của giai đoạn trầm cảm
- Các triệu chứng chủ yếu
Bảng 3.9 cho thấy các triệu chứng chủ yếu của trầm cảm gồm khí sắc
trầm chiếm tỷ lệ cao nhất (98,55%), biểu hiện mệt mỏi mất năng lƣợng chiếm
85,51% và mất quan tâm, thích thú đến mọi việc (75,36%). So sánh thấy sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
James D. J. thấy khí sắc giảm hay cảm giác trống rỗng chiếm khoảng
23,7 đến 39,6%, mất quan tâm đến các việc xung quanh chiếm 30,8% đến
36,4% [135].
Khí sắc giảm ở đối tƣợng phải tồn tại hầu nhƣ mọi ngày, đối tƣợng và
những ngƣời xung quanh đều nhận thấy biểu hiện này. Đối tƣợng dƣờng nhƣ
mau nƣớc mắt, nét mặt của đối tƣợng rất đơn điệu, ủ rũ [3].
Triệu chứng khí sắc giảm không chỉ đơn thuần biểu hiện trên nét mặt của
đối tƣợng. Các đối tƣợng thƣờng mô tả cảm xúc trầm là một nỗi đau đớn cảm
xúc, họ thƣờng than phiền rằng không thể khóc đƣợc [62].
Còn ngƣời cao tuổi khí sắc giảm là triệu chứng rất bền vững, thƣờng đi
kèm với cảm xúc buồn rầu vô hạn, mặc cảm tội lỗi và ý tƣởng nghi bệnh [4].
Theo DSM-IV, những ngƣời bị trầm cảm có xu hƣớng mất quan tâm
đến những điều mà trƣớc đây họ tìm thấy thú vị. Hoạt động tình dục không
còn thú vị và thƣờng mất ham muốn tình dục. Bạn bè và gia đình của những
ngƣời bị trầm cảm có thể nhận thấy rằng đối tƣợng không còn quan tâm gì tới
bạn bè, lãng quên hay không làm các hoạt động mà những việc này trƣớc đó
đã từng là nguồn gốc của sự hứng thú [62].
Sadock B.J. và cộng sự (2015) cho rằng triệu chứng mất hứng thú và sở
thích có liên quan chặt chẽ với ý định tự sát. Hai triệu chứng này có liên quan
thuận chặt chẽ với nhau, ngƣời bệnh thấy cuộc sống rất vô nghĩa và muốn kết
thúc cuộc đời của họ [4].
104
Các tác giả khác mô tả rằng, gần nhƣ mỗi ngày đối tƣợng sẽ trải
nghiệm mệt mỏi và mất năng lƣợng, khi triệu chứng này nặng hơn, đối tƣợng
luôn cảm thấy kiệt sức [61].
Đối tƣợng có thể cảm thấy mệt mỏi dù không có tham gia vào bất kỳ
hoạt động thể lực nào, ngày qua ngày nhiệm vụ đối với họ càng trở nên khó
khăn. Việc làm, học hành bị giảm sút rõ rệt [2].
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, đa số đối tƣợng cho biết cảm
giác mệt mỏi thƣờng tăng lên vào buổi sáng và giảm đi một chút vào buổi
chiều. Tuy nhiên, ở các đối tƣợng trầm cảm nặng, họ sẽ cảm thấy mệt mỏi,
mất năng lƣợng suốt ngày.
- Các triệu chứng phổ biến của trầm cảm
Bảng 3.10 cho thấy các triệu chứng phổ biến của trầm cảm gồm rối
loạn giấc ngủ chiếm tỷ lên cao nhất (100%), mất cảm giác ngon miệng
(94,20%), tiếp đến là triệu chứng giảm tập trung chú ý (60,87%) giảm tính tự
trọng và lòng tự tin (57,97%), có ý tƣởng và hành vi tự sát (56,52%), nhìn
tƣơng lai ảm đạm và bi quan (43,48%), chiếm tỷ lệ thấp nhất là ý tƣởng bị tội
và không xứng đáng (7,25%). So sánh các số liệu trên thấy sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,01.
Bùi Quang Huy và cộng sự (2016) cho rằng mất ngủ gặp ở hầu hết các
đối tƣợng trầm cảm. Họ rất thèm ngủ, tìm mọi cách để ngủ đƣợc nhƣng không
có kết quả. Do mất ngủ, họ hay cáu gắt, mệt mỏi, ể oải vào buổi sáng hôm sau
[2].
Mất ngủ gây xáo trộn, ảnh hƣởng nghiêm trọng đến cuộc sống, sinh
hoạt và lao động của ngƣời bệnh, làm giảm sút khả năng lao động và tăng mệt
mỏi [64], [68].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mất ngủ gặp ở 100% số đối tƣợng.
Tuy nhiên, chúng tôi không gặp đối tƣợng nào mất ngủ hoàn toàn và cũng
không có đối tƣợng nào ngủ nhiều.
105
Mặc dù không ăn kiêng, các đối tƣợng trầm cảm vẫn có hiện tƣợng sút
cân. Đối tƣợng mất cảm giác ngon miệng, không muốn ăn, ăn ít nên dẫn đến
sút cân. Họ giảm đáng kể hoặc tăng trọng lƣợng (chẳng hạn nhƣ 5% trọng
lƣợng cơ thể của họ trong một tháng) [24].
Các tác giả đều thống nhất với nhau là triệu chứng mất cảm giác ngon
miệng là phổ biến trong rối loạn trầm cảm, một số ngƣời không bao giờ cảm
thấy đói, có thể trong thời gian dài mà không muốn ăn, có thể quên ăn, hoặc
ăn một lƣợng nhỏ thức ăn là có thể đã đủ, trong các trƣờng hợp nặng đối
tƣợng nhịn ăn hoàn toàn [62].
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 94,20% số đối tƣợng mất cảm giác ăn
ngon miệng, họ ăn rất ít và không có trƣờng hợp nào đối tƣợng ăn quá nhiều.
Theo Kaplan H. I. và cộng sự (1994), khoảng 2/3 các bệnh nhân trầm
cảm có ý định và hành vi tự sát. Khoảng 10% đến 15% số bệnh nhân trầm
cảm sẽ chết do tự sát. Những ngƣời có tiền sử ý định và hành vi tự sát gần đây
có nguy cơ cao tự sát thành công hơn những ngƣời chƣa bao có ý định tự sát
[61]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ các đối tƣợng có ý tƣởng hoặc có
hành vi tự sát là khá cao, chiếm 56,52%.
Mặc dù ý định tự sát là rất phổ biến ở các đối tƣợng trầm cảm, nhƣng
hành vi tự sát thì ít gặp hơn nhiều. Trong nghiên cứu của chúng tôi số đối
tƣợng có hành vi tự sát chiếm tỷ lệ rất cao (36,7%) do mẫu nghiên cứu gồm
các bệnh nhân trầm cảm đã có hành vi phạm tội.
Theo Sadock B. J. và cộng sự (2015), giảm khả năng tập trung chú ý
gặp ở đa số bệnh nhân trầm cảm. Các bệnh nhân này khó ra quyết định hoặc
có trở ngại về suy nghĩ hoặc tập trung chú ý, đặc biệt là ở trƣờng học hoặc nơi
làm việc. Đối tƣợng trầm cảm thƣờng xuyên trải nghiệm tiêu cực, suy nghĩ bi
quan, rối loạn trí nhớ liên quan chặt chẽ với mất tập trung là rất phổ biến, kém
tập trung chú ý nên khả năng ghi nhận thông tin giảm sút, kết quả là khả năng
ghi nhớ giảm rất nhiều [24].
106
Đặc biệt đối tƣợng nhớ các sự việc gây khó chịu và các thất bại trong
đời sống, trong khi các sự kiện khác lại đƣợc ghi nhớ rất kém [7]
Do khó tập chung chú ý, đối tƣợng sẽ có trí nhớ rất kém. Họ thƣờng có
rối loạn về trí nhớ gần trong khi trí nhớ xa còn tƣơng đối tốt. Chính do rối
loạn chú ý và trí nhớ, đối tƣợng giảm khả năng nhận thức [2].
Phần lớn các đối tƣợng trong nghiên cứu của chúng tôi (60,87%) có các
triệu chứng giảm tập trung chú ý, nhƣ vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi
phù hợp với nhận định của các tác giả trên.
Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi là rất hay gặp trong giai đoạn trầm cảm
điển hình. Đối tƣợng cho rằng mình là kẻ vô dụng, không làm nên trò trống
gì. Họ luôn nghĩ mình đã làm hỏng mọi việc, trở thành gánh nặng cho gia
đình và xã hội, mặc cảm tội lỗi liên quan đến các sai lầm nhỏ trƣớc đây.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 7,25% có cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi.
Đối tƣợng càng có ý tƣởng tự buộc tội mạnh mẽ thì ý định và hành vi
tự sát càng nhiều. Tác giả cũng nhận thấy cảm giác vô dụng liên quan chặt
chẽ đến triệu chứng bi quan, chán nản. Các triệu chứng này đƣợc coi là tiền
đề dẫn đến hành vi tự sát của đối tƣợng [2].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 30 đối tƣợng có biểu hiện nhìn
tƣơng lai ảm đạm và bi quan (chiếm 43,48%). Có lẽ cảm xúc buồn rầu đã ảnh
hƣởng sâu sắc đến suy nghĩ của đối tƣợng. Họ luôn cho rằng tƣơng lai của họ
vô cùng bi đát, đen tối.
Theo Sadock B. J. và cộng sự (2015), triệu chứng bi quan chán nản,
tuyệt vọng rất hay gặp ở đối tƣợng trầm cảm. Tác giả nhấn mạnh rằng chính
triệu chứng tuyệt vọng đƣợc coi là một trong những dấu hiệu cảnh báo đối
tƣợng sẽ tự sát trong tƣơng lai gần [24].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các kết quả cũng chứng minh nhận
định của các tác giả trên. Các triệu chứng bi quan, ý nghĩ vô dụng luôn đi kèm
với triệu chứng ý định và hành vi tự sát trên đối tƣợng trầm cảm.
107
Cùng với cảm xúc buồn rầu, mệt mỏi và mất hứng thú đối tƣợng tự
đánh giá thấp bản thân, không còn tin vào chính mình, trở lên suy đồi lòng tự
trọng bị hạ thấp. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 40 đối tƣợng giảm tính tự
trọng và lòng tự tin chiếm 57,97%.
Các tác giả Kaplan H. I. và cộng sự (1994), Sadock B. J. và cộng sự
(2015), Bùi Quang Huy và cộng sự (2010) đều cho rằng đối tƣợng mất hết tự
tin vào bản thân. Họ cho rằng mình hèn kém, yếu đuối nên không thể làm
đƣợc một việc gì, kể các công việc mà trƣớc khi bị bệnh, đối tƣợng vẫn làm
hàng ngày [2], [24], [61].
4.2.3.3. Nhóm triệu chứng rối loạn cảm xúc ở đối tượng trầm cảm
Triệu chứng cảm xúc là các biểu hiện đặc trƣng cho trẩm cảm bắt buộc
phải có theo ICD -10.
Theo Kaplan H. I. và cộng sự (1994), các triệu chứng rối loạn cảm xúc
bao gồm khí sắc giảm hoặc kích thích, buồn, chán nản, bi quan, mất hy vọng,
tự buộc tội, cho rằng mình kém cỏi, tự ty, ngại giao tiếp…[61]
Trong nhiên cứu của chúng tôi ở bảng 3.11 cho thấy triệu chứng giảm
khí sắc chiếm tỷ lệ cao nhất (98,55%), tiếp đến là cảm giác buồn chán
(92,75%), giảm hứng thú và sở thích (75,36%), Các triệu chứng khác chiếm
tỷ lệ thấp hơn nhƣ bi quan và mất tự tin (43,48%), dễ xúc động, mau nƣớc
mắt (28,99%), khí sắc dễ bị kích thích (18,84%) và chỉ có 4 trƣờng hợp vô
cảm chiếm 4,35% và 1 trƣờng hợp mất cảm giác tâm thần (1,45%). Sự khác
biệt giữa các triệu chứng là có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Tỷ lệ đối tƣợng buồn chán là 92,75% mà không có lý do gì cụ thể.
Triệu chứng buồn của các đối tƣợng này rất bền vững, biểu hiện hầu nhƣ suốt
ngày, trong thời gian kéo dài vài tháng. Kết quả này phù hợp với ý kiến của
Cao Tiến Đức và cộng sự (2005) khi cho rằng có đến 9/10 đối tƣợng trầm
cảm là có biểu hiện buồn rất rõ ràng [7].
108
Theo Sadock B. J. và cộng sự (2015), triệu chứng mất quan tâm, thích
thú gặp ở 75% số đối tƣợng trầm cảm. Đối tƣợng mất quan tâm đến hầu hết
các lĩnh vực trong cuộc sống, kể cả ham muốn tình dục [24].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, triệu chứng mất quan tâm, thích thú
gặp ở 75,36% số đối tƣợng. Ngƣời bệnh than phiền không còn hay ít thích thú
với các hoạt động, sinh hoạt hoặc giải trí đã đem lại sự hài lòng thích thú
trƣớc đây. Đối với họ, hoạt động tình dục là một cực hình, họ hầu nhƣ không
còn một chút ham muốn gì về tình dục.
Gelder M.G. và cộng sự (2011) cho rằng khoảng dƣới 50% số đối
tƣợng sẽ có triệu chứng bi quan và mất tự tin rõ ràng. Còn các triệu chứng dễ
khóc, hay cáu gắt chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ [6].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, triệu chứng bi quan, mất tự tin gặp ở
43,48% số đối tƣợng, còn triệu chứng dễ khóc gặp ở 28,99% số đối tƣợng,
triệu chứng dễ cáu gắt chỉ gặp ở 18,84%. Các triệu chứng này làm cho đối
tƣợng luôn bi quan, chán nản, cho rằng mọi hy vọng, mọi cơ hội trong cuộc
sống đều đã bị mình bỏ lỡ, rằng họ sẽ phải ngồi tù suốt đời để trả giá cho các
tội lỗi của họ và rằng họ không bao giờ đƣợc trở về đoàn tụ cùng gia đình.
4.2.3.4. Các triệu chứng rối loạn cảm giác, tri giác
Theo DSM-5 (2013), các triệu chứng rối loạn tri giác chỉ gặp trong
trầm cảm mức độ nặng, có loạn thần. Các rối loạn tri giác của đối tƣợng trầm
cảm có loạn thần có thể là ảo thanh thô sơ, ảo thanh giả là tiếng ngƣời chê bai
đối tƣợng hoặc xui bệnh nhân làm một việc gì đó [1].
Kết quả ở bảng 3.12 cho thấy các rối loạn cảm giác, tri giác ở đối tƣợng
trầm cảm chiếm tỷ lệ (40,58%) thấp hơn các đối tƣợng không có rối loạn cảm
giác, tri giác (59,42%). Khi so sánh thì không thấy có sự khác biệt (p>0,05).
Trong nhóm đối tƣợng có rối loạn cảm giác, tri giác thấy ảo giác chiếm
tỷ lệ cao nhất (67,86%). Tiếp đến loạn cảm giác bản thể (17,86%), giảm cảm
giác (17,86%) và chỉ có 1 đối tƣợng có biểu hiện tăng cảm giác (3,57%). Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
109
Nhƣ vậy các đối tƣợng gây án thƣờng gặp là bị trầm cảm nặng có loạn
thần với ảo giác chiếm tỷ lệ cao.
Kết quả bảng 3.13 các triệu chứng ảo giác ở đối tƣợng rối loạn trầm
cảm thƣờng gặp ảo thanh chiếm tỷ lệ cao nhất (84,21%), nhƣ ảo thanh bình
phẩm, xui khiến, ảo thanh là tiếng ngƣời trò chuyện với bệnh nhân, còn lại ảo
thị giác chiếm 10,53% và ảo giác thô sơ (5,26%). Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p<0,01.
Theo Gelder M.G. và cộng sự (2011), các rối loạn cảm giác hay gặp
trong trầm cảm là đau mơ hồ vùng ngực, đau đầu, đau khớp, đau vùng sinh
dục, vùng thƣợng vị... các triệu chứng này không bền vững, tăng lên khi có
căng thẳng tâm lý và không có tổn thƣơng thực tổn tƣơng ứng. Ngoài ra, họ
còn có các triệu chứng tê ở chi, cảm giác điện chạy ở lƣng, vai, gáy... [6].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, triệu chứng rối loạn cảm giác bản thể
gặp ở 17,86% số đối tƣợng. Họ thƣờng than phiền có cảm giác tê rần, nóng
lạnh hay có cảm giác nhƣ có một luồng điện chạy lên chạy xuống ở lƣng,
vùng vai gáy hay trong các cơ quan nội tạng. Giảm cảm giác chiếm 17,86% ở
các đối tƣợng có cảm xúc ức chế nặng, chỉ có 1 đối tƣợng có biểu hiện tăng
cảm giác. Các triệu chứng này không bền vững và hay di chuyển (nay đau chỗ
này, mai kêu đau ở chỗ khác).
Theo Kaplan H. I. và cộng sự (1994), ảo thanh phức tạp ở đối tƣợng
trầm cảm tuy không phổ biến bằng triệu chứng hoang tƣởng, nhƣng chúng
nguy hiểm vì chi phối hành vi của đối tƣợng, nhất là các ảo thanh ra lệnh [61].
4.2.3.5. Các triệu chứng rối loạn tư duy
Theo Bùi Quang Huy và cộng sự (2016), tƣ duy nhịp chậm gặp ở trên
90% số đối tƣợng trầm cảm. Tác giả cho rằng bệnh nhân thƣờng nói rất chậm,
ngắt quãng, giọng nhỏ, từ khi chúng ta hỏi cho đến khi đối tƣợng trả lời thời
gian rất kéo dài [2].
110
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.14 cho thấy rối loạn hình thức tƣ duy ở
đối tƣợng trầm cảm trong nhóm nghiên cứu chủ yếu là tƣ duy chậm chạp
chiếm tỷ lệ cao nhất (94,20%), tiếp đến là ít nói, ít giao tiếp (92,75%), nói
nhỏ, nói chậm và nói thì thào (68,12%), chiếm tỷ lệ thấp nhất là không nói
(17,39%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với Kaplan H. I. và cộng sự (1994),
bệnh nhân trầm cảm thƣờng có nội dung tƣ duy rất nghèo nàn. Họ hay than
phiền về các triệu chứng cơ thể của họ. Nếu tình trạng ức chế tƣ duy nặng nề,
bệnh nhân có thể không nói [61].
Kết quả bảng 3.15 thấy có 40 đối tƣợng có ý tƣởng tự ti chiếm tỷ lệ cao
nhất (57,97%). Có ý tƣởng tự sát tái diễn nhiều lần chiếm (56,52%), hoang
tƣởng bị truy hại chiếm (14,49%), hoang tƣởng tự buộc tội (7,25%), hoang
tƣởng ghen tuông (4,35%). So sánh ta thấy có sự khác biệt và có ý nghĩa
thống kê với p<0,01.
Tỷ lệ trầm cảm paranoid chiếm tỷ lệ 20-25% tổng số các bệnh nhân
trầm cảm. Trong đó, hoang tƣởng hay gặp hơn và bền vững hơn ảo giác [2].
Theo Kaplan H. I. và cộng sự (1994), số đối tƣợng trầm cảm nặng có
loạn thần chiếm 1/6 số đối tƣợng trầm cảm, nghĩa là khoảng 1% dân số [61].
Bùi Quang Huy và cộng sự (2016) cho rằng hoang tƣởng không phù
hợp với khí sắc có tỷ lệ lui bệnh hoàn toàn chỉ khoảng 18%, còn hoang tƣởng
phù hợp với khí sắc thì tỷ lệ lui bệnh hoàn toàn lên đến 48% [2].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 39 đối tƣợng trầm cảm có ý nghĩ về
cái chết hoặc ý tƣởng tự sát tái diễn (56,52%), đây là nguy cơ dẫn tới hành vi
tự sát ở các đối tƣợng này.
Lewinsohn P.M. và cộng sự cho rằng khoảng 55% số đối tƣợng trầm
cảm thƣờng xuyên có ý nghĩ về cái chết hoặc ý tƣởng tự sát [136].
111
4.2.3.6. Các triệu chứng rối loạn hành vi
Theo Gelder M.G. và cộng sự (2011), vận động chậm chạp, nói chậm,
ít hoạt động là các triệu chứng phổ biến, gặp ở hầu hết các đối tƣợng trầm
cảm. Tác giả cũng lƣu ý khoảng 20% số đối tƣợng trầm cảm lại có kích động
trầm cảm [6].
Bảng 3.16 cho thấy các triệu chứng ức chế vận động ở các đối tƣợng
trong nhóm trầm cảm thƣờng chiếm ƣu thế nhƣ: vận động chậm chạp chiếm
tỷ lệ 91,30%, giảm hoạt động chiếm 84,06%, đối tƣợng có hành vi tự sát
chiếm 30,43%, hành vi xung động (17,39%), kích động trầm cảm (11,59%),
bồn chồn, đứng ngồi không yên (14,49%) và bất động (7,25%). Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Nghiên cứu thực hiện bởi Lewinsohn P.M. và cộng sự trên các đối
tƣợng trầm cảm trƣởng thành trẻ cho thấy chậm chạp vận động chiếm 42,9%
trong khi kích động chiếm khoảng 18,3% [136].
Còn theo Sadock B. J. và cộng sự (2015), khi tình trạng trầm cảm trở
thành rất nặng, đối tƣợng có trạng thái sững sờ, bất động, đƣợc gọi là trầm
cảm có yếu tố căng trƣơng lực [24].
Ý nghĩ tự sát tuy rất phổ biến ở đối tƣợng trầm cảm, đặc biệt là trầm
cảm mức độ nặng. Tác giả cho rằng trong 1 giai đoạn trầm cảm, chỉ khoảng
1/3 số đối tƣợng trầm cảm có hành vi tự sát. Tuy nhiên, hành vi tự sát có thể
lại lặp lại ở các giai đoạn trầm cảm sau [2].
4.2.3.7. Các triệu chứng cơ thể
Khi bàn về các triệu chứng cơ thể của trầm cảm, các tác giả Sadock
B.J. và cộng sự (2007) và Gelder M. G. và cộng sự (2011) đều cho rằng
chúng rất phổ biến và đa dạng, phong phú. Theo các tác giả này, các triệu
chứng cơ thể hay gặp là chán ăn dẫn đến sút cân, các triệu chứng đau nhƣ đau
đầu, đau thƣợng vị, đau khớp, đau ngực trái, giảm hoặc mất ham muốn tình
dục là phổ biến nhất [6], [24].
112
Kết quả ở bảng 3.17 cho thấy triệu chứng chán ăn, sút cân chiếm tỷ lệ
(94,20%), tiếp theo là đau đầu (73,91%), chóng mặt (65,22%), giảm ham
muốn tình dục (60,87%), triệu chứng khác ít gặp hơn là hồi hộp, đánh trống
ngực (52,17%), buồn nôn (18,84%). So sánh thấy sự khác biệt là có ý nghĩa
thống kê với p<0,01.
Chúng tôi còn nhận thấy đối tƣợng đau đầu mơ hồ vùng thái dƣơng
đỉnh. Đau đầu của đối tƣợng thƣờng đi kèm với các căng thẳng tâm lý, với
tình trạng mất ngủ.
Hơn một nửa số đối tƣợng trầm cảm trong nghiên cứu của chúng tôi bị
mất gần hoàn toàn ham muốn tình dục. Kết quả này phù hợp với ý kiến của
Bùi Quang Huy và cộng sự (2016) khi cho rằng đa số đối tƣợng trầm cảm mất
hết các ham muốn tình dục [2].
4.2.3.8. Các rối loạn lo âu
Một nửa đến hai phần ba số ngƣời với trầm cảm trong rối loạn cảm xúc
lƣỡng cực có một rối loạn lo âu đồng hành nhƣ rối loạn ám ảnh cƣỡng bức,
rối loạn hoảng sợ hoặc rối loạn lo âu xã hội…Còn theo DSM-5 (2013),
khoảng 50% số đối tƣợng trầm cảm có rối loạn lo âu phối hợp. Các rối loạn lo
âu thƣờng gặp là lo âu lan tỏa, cơn hoảng sợ kịch phát, ám ảnh sợ khoảng
trống và rối loạn ám ảnh-cƣỡng bức[1], [137].
Bảng 3.18 cho thấy căng thẳng, mất khả năng thƣ giãn chiếm tỷ lệ cao
nhất 39,13%. Các rối loạn lo âu khác ít gặp hơn nhƣ: lo âu vô cớ (8,70%), lo
lắng về bệnh tật (2,90%), lo lắng về tƣơng lai (2,90%). Sự khác biệt là có ý
nghĩa thống kê với p<0,01. Điều này cũng thể hiện trên bảng 3.19 qua điểm
test ZUNG.
Kết quả này phù hợp với ý kiến của Gelder M.G. (2011) khi cho rằng
các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật là biểu hiện cơ thể của tình trạng lo
âu, rất phổ biến ở các đối tƣợng trầm cảm [6].
113
4.2.3.9. Rối loạn giấc ngủ
Theo DSM-IV (1994), hầu hết cá đối tƣợng trầm cảm đều có rối loạn
giấc ngủ. Khoảng 95% số đối tƣợng có rối loạn giấc ngủ là bị mất ngủ, có thể
là mất ngủ đầu giấc, mất ngủ giữa giấc hoặc mất ngủ cuối giấc.
Bảng 3.20 cho thấy hầu hết các đối tƣợng đều có rối loạn giấc ngủ,
thƣờng gặp là: mất ngủ đầu giấc (62,32%), ngủ không sâu (44,93%), mất ngủ
cuối giấc (24,64%) và một tỷ lệ thấp hơn là mất ngủ giữa giấc (8,70%),
hoảng hốt khi ngủ (2,90%) và ác mộng (1,45%). Khi so sánh ta thấy có sự
khác biệt rõ rệt và có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với Lewinsohn P.M. và
cộng sự, tác giả cho rằng mất ngủ đầu giấc 51,1%, mất ngủ giữa giấc chiếm
25,5%, mất ngủ cuối giấc là 18,6% [136].
4.2.3.10. Các rối loạn chú ý và trí nhớ
Theo ICD 10 (1992) và DSM-IV (1994), các rối loạn chú ý và trí nhớ ở
các đối tƣợng trầm cảm thƣờng gặp và đa dạng, thƣờng là mất hay giảm khả
năng tập trung chú ý, do đó đối tƣợng thƣờng hay bỏ dở công việc hoặc
không còn khả năng tập trung để hoàn thành công việc dù là việc không khó
khăn đối với họ [62], [64].
Trong nghiên cứu của chúng tôi ở bảng 3.21 cho thấy các rối loạn trí
nhớ ở đối tƣợng trầm cảm cũng thƣờng gặp nhƣ: có rối loạn trí nhớ gặp ở
73,91% số đối tƣợng trầm cảm và chủ yếu là giảm nhớ chiếm 78,43%, quên
hệ thống (19,61%) và quên ngƣợc chiều (1,96%). Sự khác biệt ở cả 2 nhóm
đều có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Lewinsohn P.M. và cộng sự nhận thấy trong giai đoạn trầm cảm đang
tiến triển, giảm khả năng tập trung chú ý chiếm 91,7% số đối tƣợng [136].
Các đối tƣợng trầm cảm nặng, cao tuổi, tình trạng rối loạn trí nhớ, nhận
thức diễn ra rất trầm trọng, và đƣợc gọi là mất trí giả [138].
114
Trong nghiên cứu của chúng tôi ở bảng 3.22 cho thấy các rối loạn chú ý
ở các đối tƣợng trầm cảm cũng thƣờng gặp và đa dạng nhƣ: giảm tập trung
chú ý chiếm tỷ lệ cao nhất (60,87%), chú ý suy yếu (23,19%) và chú ý trì trệ
(15,94%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
4.2.3.11. Kết quả khảo sát test Beck ở đối tượng rối loạn trầm cảm
Bảng 3.23 cho thấy trong nhóm nghiên cứu chủ yếu là trầm cảm nặng
có 50/69 đối tƣợng chiếm tỷ lệ cao nhất (72,46%), tiếp theo là trầm cảm vừa
có 16 đối tƣợng chiếm 23,19% và ít nhất là trầm cảm nhẹ (4,35%). Khi so
sánh ta thấy sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,01.
Kết quả khảo sát test Beck phù hợp với đặc điểm lâm sàng về độ nặng
của trầm cảm.
Kết quả này phù hợp với ý kiến của Sadock B. J. và cộng sự (2015) khi
cho rằng số điểm test Beck giúp phân chia mức độ trầm cảm và phù hợp với
kết quả nghiên cứu lâm sàng [24].
4.2.4. Đặc điểm lâm sàng của giai đoạn hƣng cảm
4.2.4.1. Thái độ tiếp xúc
Bảng 3.24 cho thấy đối tƣợng hƣng cảm trong nhóm nghiên cứu tiếp
xúc thƣờng thân thiện, cởi mở (92,9%), chỉ có (7,1%) kích động chống đối.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Kết quả này phù hợp với ý kiến của Cao Tiến Đức và cộng sự (2016),
tác giả cho rằng hầu hết các đối tƣợng hƣng cảm đều dễ tiếp xúc. Còn Bùi
Quang Huy và cộng sự (2016) thì bổ xung thêm rằng khoảng 5-10% số đối
tƣợng hƣng cảm vào viện trong trạng thái kích động, họ chống đối, không hợp
tác với nhân viên y tế [7], [60].
4.2.4.2. Các triệu chứng của giai đoạn hưng cảm
Kết quả khảo sát các triệu chứng cơ bản của đối tƣợng rối loạn hƣng
cảm ở bảng 3.25 cho thấy tăng hoạt động, tƣ duy dồn dập, giảm nhu cầu ngủ
có ở toàn bộ các đối tƣợng (100%), tăng khí sắc và hay cáu gắt chiếm tỷ lệ rất
115
cao (92,86%), tƣ duy phi tán (71,43%), ý tƣởng tự cao và khuếch đại, giảm
khả năng tập trung chú ý và hành vi không phù hợp với hoàn cảnh chiếm
(28,57%). Các triệu chứng khác ít gặp hơn nhƣ: có hành vi liều lĩnh (21,43%),
tăng hoạt động tình dục (7,14%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với
p<0,01.
- Khí sắc tăng
Khí sắc tăng là biểu hiện cảm xúc hƣng phấn, phấn khích và vui sƣớng
quá mức các triệu chứng bền vững hầu nhƣ cả ngày, đối tƣợng mất khả năng
tự phê phán trong quan hệ với mọi ngƣời, trong quan hệ tình dục và trong
nghề nghiệp.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hầu hết các đối tƣợng hƣng
cảm trong nhóm nghiên cứu có tăng khí sắc chiếm 92,86%. Các đối tƣợng này
chuyển nhanh chóng từ vui vẻ quá mức sang nổi cáu, gây sự, đánh nhau với
những ngƣời xung quanh khi có các kích thích nhẹ.
Khí sắc tăng đƣợc coi là một triệu chứng quan trọng của giai đoạn hƣng
cảm, nhƣng ở một số đối tƣợng khí sắc có thể bị kích thích, đối tƣợng trở lên
dễ bực bội hay giận dữ với các nguyên nhân nhỏ nhặt, đặc biệt khi mong
muốn của ngƣời bệnh không đƣợc thoả mãn [60].
Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận định trên. Tuyệt đại đa số đối
tƣợng trong giai đoạn hƣng cảm có khí sắc tăng bền vững trong nhiều ngày.
- Tự cao
Đối tƣợng hƣng cảm thƣờng có ý tƣởng tự cao, tăng tự tin quá mức vào
bản thân. Ở mức độ nặng hơn, ý tƣởng tự cao có thể trở thành hoang tƣởng tự
cao. Đối tƣợng cho rằng mình có nhiều tài năng trong các lĩnh vực mà trƣớc
đây đối tƣợng không hề có kinh nghiệm gì. Họ luôn cho rằng mình rất giàu
sang, có nhiều tiền và tài sản [60].
Trong nhóm nghiên cứu có 4 đối tƣợng (chiếm 28,57%) có tự cao và ý
tƣởng khuếch đại. Đối tƣợng cho rằng mình có nhiều tài năng, có khả năng
116
đặc biệt, có mối liên hệ với một số nhân vật chính trị nổi tiếng, các lãnh tụ tôn
giáo...
- Nói quá nhiều, nói nhanh
Trong giai đoạn hƣng cảm, đối tƣợng thƣờng có áp lực phải nói, giọng
của họ to, nói nhanh và khi đã nói thì khó làm họ ngừng lại. Đối tƣợng có thể
nói không ngừng suốt cả ngày, họ nói về mọi chủ đề [7].
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, cả 14 đối tƣợng (chiếm 100%)
có triệu chứng nói quá nhiều và nói nhanh. Họ nói rất nhiều, bắt đầu vào sáng
sớm, sau khi thức giấc. Họ nói liên tục mà không cần để ý những ngƣời khác
có nghe họ nói hay không. Do nói nhiều quá nên giọng họ trở thành khản.
Ngôn ngữ của đối tƣợng đƣợc đặc trƣng là đùa cợt, chơi chữ và xấc láo
để mua vui. Nếu đối tƣợng cáu giận, cuộc thảo luận có thể bị biến thành đả
kích hoặc bình luận theo hƣớng bi kịch hoá [60].
- Phân tán chú ý
Một trong những triệu chứng quan trọng của hƣng cảm là tƣ duy dồn
dập làm cho đối tƣợng dễ bị phân tâm bởi các tác nhân kích thích không
quan trọng. Việc này làm cho đối tƣợng bị phân tâm và giảm tập trung chú
ý, tƣ duy hoàn toàn chế ngự ngƣời bệnh làm cho họ không thể theo kịp thời
gian và đối tƣợng không thể nhận thấy bất cứ việc gì bên ngoài dòng tƣ duy
của họ [79].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 57,14% số đối tƣợng có triệu
chứng chú ý quá chuyển động. Họ không thể tập trung chú ý vào bất cứ một
việc gì quá vài phút.
Nhìn chung, đối tƣợng giảm khả năng phân biệt giữa các vấn đề chủ
yếu và các vấn đề khác ít hoặc không quan trọng [60].
- Giảm nhu cầu ngủ
Theo Mc Kenna B. S. và cộng sự (2012), sự khởi đầu của một giai đoạn
hƣng cảm thƣờng đƣợc báo trƣớc bởi rối loạn giấc ngủ [85].
117
Tác giả Fletcher K. và cộng sự cho rằng, giảm nhu cầu ngủ có ở hầu
hết các đối tƣợng trong giai đoạn hƣng cảm và gần nhƣ hằng định hàng
ngày [78].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả 14 đối tƣợng (chiếm 100%) đều
có giảm nhu cầu ngủ. Đối tƣợng chỉ ngủ 2-3 giờ mỗi ngày, họ đi ngủ rất
muộn, dậy rất sớm nhƣng không hề thấy mệt mỏi, trái lại họ tự cảm thấy tràn
trề sức sống.
Theo Harvey A. G. và cộng sự, triệu chứng tƣ duy dồn dập cản trở khả
năng để đi vào giấc ngủ ở một số đối tƣợng [139].
- Ý nghĩ nhanh
Các ý nghĩ thay đổi rất nhanh hoặc có trải nghiệm chủ quan về tƣ duy
phi tán. Ý nghĩ của đối tƣợng có thể tăng nhanh về tốc độ, nhƣng các ý nghĩ
này vẫn có mối liên kết với nhau, tƣ duy vẫn liên quan.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, triệu chứng ý nghĩ thay đổi rất nhanh
hoặc tƣ duy phi tán gặp ở 10 đối tƣợng, chiếm 71,43%. Các đối tƣợng này
không thể có ý nghĩ kéo dài về một chủ đề nào đó.
Kaplan H. I. và cộng sự (1994), khi đối tƣợng có bùng nổ về ý nghĩ
của đối tƣợng quá nặng nề, ngôn ngữ của họ trở thành hỗn loạn và mất
phù hợp [61].
- Tăng hoạt động, đứng ngồi không yên
Theo Cao Tiến Đức và cộng sự (2016) đối tƣợng luôn hoạt động nhiều
hơn bình thƣờng. Họ can thiệp vào mọi việc xung quanh, gây lộn xộn trong
gia đình và cơ quan [7].
Sadock B. J. và cộng sự (2007) nhấn mạnh, đây là triệu chứng rất phổ
biến và gặp ở hầu hết đối tƣợng có hội chứng hƣng cảm [4].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các đối tƣợng có triệu chứng tăng hoạt
động, đứng ngồi không yên gặp ở tất cả 14 đối tƣợng có hội chứng hƣng cảm,
chiếm 100% số đối tƣợng.
118
- Tăng các hoạt động ưa thích
Tăng các hoạt động ƣa thích bao gồm các hành vi ngông cuồng hoặc
liều lĩnh, sự mất kiềm chế và hành vi không phù hợp, tăng hoạt động tình dục
hoặc phô trƣơng tình dục. Trong nghiên cứu của chúng tôi, các hành vi ngông
cuồng hoặc liều lĩnh gặp ở 21,43% số đối tƣợng.
Sadock B. J. và cộng sự (2007) nhận xét, đối tƣợng thƣờng tăng hoạt
động quá mức cho một mục đích nhƣ nghề nghiệp, chính trị tôn giáo. Họ có
thể mua sắm rất nhiều, vƣợt xa khả năng chi trả của họ. Do giảm khả năng tự
phê phán nên các hành vi của họ dễ trở thành ngông cuồng hoặc liều lĩnh [4].
Tăng hoạt động tình dục hoặc phô trƣơng tình dục gặp ở 1 đối tƣợng,
chiếm 7,14% trong số các đối tƣợng có hội chứng hƣng cảm. Đối tƣợng hƣng
phấn về tình dục mạnh mẽ, luôn tìm cách đƣợc quan hệ tình dục với ngƣời
khác giới một cách bừa bãi.
Bùi Quang Huy và cộng sự (2009) cho rằng, đối tƣợng luôn nghĩ về
tình dục và luôn mong muốn quan hệ tình dục. Vì vậy họ có thể dễ dàng nhận
lời quan hệ tình dục với những ngƣời không quen biết [60].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 4 đối tƣợng mất sự kiềm chế, hành
vi không phù hợp, chiếm 28,57%. Các đối tƣợng này dễ dàng gây sự với
ngƣời khác với những lý do không tƣơng xứng. Cũng vì mất kiềm chế và có
hành vi không phù hợp nên họ dễ dàng tham gia vào các dự án đầu tƣ mạo
hiểm, có tỷ lệ rủi do rất cao, khiến hậu quả về vật chất để lại của họ là rất lớn.
Những hành vi này có thể làm tăng căng thẳng trong mối quan hệ cá
nhân, dẫn đến các vấn đề khó khăn trong công việc và làm tăng nguy cơ đụng
chạm đến thực thi pháp luật. Có nguy cơ xung động cao tham gia vào các hoạt
động có thể gây hại cho bản thân và ngƣời khác [140].
4.2.4.3. Nhóm triệu chứng rối loạn cảm xúc
Bảng 3.26 cho thấy tăng khí sắc chiếm tỷ lệ cao nhất (92,86%), tiếp đến
là khí sắc dễ bị kích thích (57,14%), khoái cảm (50,0%) và chiếm tỷ lệ thấp
119
nhất là cảm xúc không ổn định (7,14%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê
với p<0,01.
Đa số đối tƣợng hƣng cảm có tình trạng khoái cảm xảy ra trong một
quãng thời gian ngắn, khi cơn hƣng cảm đạt đến đỉnh điểm. Tình trạng khoái
cảm này khiến đối tƣợng trở nên phấn khích tột độ [141].
Sadock B. J. và cộng sự (2007) thì khẳng định nhóm các triệu chứng rối
loạn cảm xúc là nền tảng của giai đoạn hƣng cảm [4].
4.2.4.4. Nhóm triệu chứng rối loạn cảm giác, tri giác
Kết quả ở bảng 3.27 cho thấy không có rối loạn cảm giác, tri giác là
chủ yếu (64,29%) và có rối loạn tri giác chỉ chiếm 35,71% trong nhóm hƣng
cảm. So sánh thấy không có sự khác biệt với p>0,05. Trong đó chủ yếu là
tăng cảm giác (80,00%), chỉ 1 đối tƣợng là có ảo giác (20,00%). Sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Kết quả này phù hợp với ý kiến của Kaplan H. I. và cộng sự (1994), tác
giả cho rằng đối tƣợng ở giai đoạn hƣng cảm hiếm khi có rối loạn cảm giác và
tri giác [61].
4.2.4.5. Nhóm triệu chứng rối loạn tư duy
Rối loạn hình thức tƣ duy ở đối tƣợng hƣng cảm là triệu chứng rất dễ
đƣợc đối tƣợng và những ngƣời xung quanh nhận thấy. Trong nhóm nghiên
cứu của chúng tôi ở bảng 3.28 cho thấy rối loạn tƣ duy ở đối tƣợng hƣng cảm
chủ yếu là các triệu chứng tƣ duy hƣng phấn nhƣ: nói nhiều và tƣ duy nhịp
nhanh (100%), tƣ duy phi tán (71,43%), hoang tƣởng tự cao (50,0%), ý tƣởng
tự cao và khuếch đại (28,57%) và hoang tƣởng bị truy hại chiếm tỷ lệ thấp
nhất (7,14%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Đối tƣợng hƣng cảm có áp lực phải nói, họ nói rất nhiều và không thể
ngừng lại đƣợc. Họ nói chƣa xong chuyện này, đã chuyển ngay sang chuyện
khác, từ lúc tỉnh giấc cho đến lúc họ ngủ. Các đối tƣợng hƣng cảm ngủ rất ít
nên có thể coi họ nói suốt cả ngày, ngay cả khi giọng nói đã khản đặc [61].
120
Sadock B. J. và cộng sự (2007) nhấn mạnh, khi hƣng phấn ngôn ngữ
quá mạnh, đối tƣợng dễ chuyển thành kích động ngôn ngữ. Tác giả cho rằng
kích động ngôn ngữ thƣờng hay phối hợp với kích động vận động [4].
4.2.4.6. Các triệu chứng rối loạn hoạt động
Bảng 3.29 cho thấy các rối loạn hoạt động ở đối tƣợng hƣng cảm là các
triệu chứng hƣng phấn tâm thần vận động nhƣ: tăng hoạt động (100%), tăng
động tác (100%), nói nhiều (85,71%) quan hệ xã hội suồng sã (28,57%), liều
lĩnh vô trách nhiệm và hành vi xung động (21,43%). Tỷ lệ thấp nhất là kích
động (14,29%), bồn chồn, đứng ngồi không yên và tăng hoạt động tình dục
(7,14%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Theo Gelder M.G. và cộng sự (2011), đối tƣợng hƣng cảm hầu nhƣ
không chịu ngồi yên lấy vài phút. Họ luôn hoạt động, cử động chân tay, gây
ồn ào cho xung quanh [6].
Sadock B. J. và cộng sự (2015) thì khẳng định gần một nửa số đối
tƣợng hƣng cảm sẽ có các hành động liều lĩnh, vô trách nhiệm, hậu quả của tự
cao và mất khả năng phê phán, kiểm soát bản thân [24].
4.2.4.7. Các triệu chứng cơ thể của giai đoạn hưng cảm
Bảng 3.30 cho thấy các triệu chứng cơ thể hay gặp ở đối tƣợng hƣng
cảm nhƣ: ra nhiều mồ hôi (71,43%), tăng ham muốn tình dục (50,00%), hồi
hộp, đánh trống ngực (35,71%). Các triệu chứng ít gặp hơn nhƣ: khô miệng
(28,57%), đau đầu và dãn mạch ngoại vi (14,29%), sút cân, huyết áp dao động
và chóng mặt (7,14%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p<0,01
Cao Tiến Đức và cộng sự (2016), các đối tƣợng hƣng cảm thƣờng có
tăng ham muốn tình dục, tăng tiết mồ hôi. Họ ăn nhiều nhƣng vẫn sút cân do
hoạt động quá nhiều. Còn theo Bùi Quang Huy và cộng sự, hiện tƣợng tăng
ham muốn tình dục là khá phổ biến ở đối tƣợng hƣng cảm. [7], [60].
Biểu đồ 3.6 cho thấy hƣng cảm theo điểm số test YMRS chiếm đa số
(64,29%) còn hƣng cảm nhẹ chiếm 35,71% kết quả này khá phù hợp với chẩn
đoán lâm sàng
121
4.3. Đặc điểm hành vi phạm tội của đối tƣợng rối loạn cảm xúc
4.3.1. Các hành vi phạm tội gặp trong nhóm nghiên cứu
Nghiên cứu theo dõi từ khi sinh của Dunedine (n=916) sử dụng bảng
phỏng vấn đƣợc chuẩn hoá, các bản tự báo cáo về hành vi phạm tội và các ghi
nhận khi bị kết án để xem xét mối liên quan giữa rối loạn tâm thần và bạo lực.
Cả hai giai đoạn trầm cảm và giai đoạn hƣng cảm đều có liên quan với phạm
tội bạo lực [97]. Các rối loạn lƣỡng cực liên quan có ý nghĩa với bạo lực [98].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các tội phạm trong rối loạn cảm xúc
rất đa dạng, từ những tội rất nghiêm trọng nhƣ giết ngƣời cho đến các tội rất
nhỏ nhƣ trộm cắp, đá gà ăn tiền, tội bạo lực cho tới những tội phi bạo lực.
Kết quả khảo sát các hành vi phạm tội ở bảng 3.31 cho thấy hành vi
giết ngƣời và hành vi cố ý gây thƣơng tích chiếm tỷ lệ cao nhất 16,87%), tiếp
theo là hành vi cƣớp giật (10,84%), hành vi giết ngƣời sau đó tự sát (9,64%),
hành vi trộm cắp (7,23%), hành vi gây rối ở nơi công cộng (1,21%). Các hành
vi phạm tội khác nhƣ: đánh bạc và tổ chức đánh bạc, ghi số đề, đá gà, gái mại
dâm và tổ chức mại dâm… các hành vi này chiếm khoảng 37,35%. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Ngƣời đàn ông giết ngƣời là do cảm giác căng thẳng, giận dữ, bực bội,
ghen tuông, đố kị dẫn đến hành vi bạo lực giết ngƣời. Phụ nữ thƣờng giết con
bằng cách bỏ con vào lu nƣớc, hay quăng con xuống sông hoặc quẳng con
xuống giếng nƣớc.
Đối tƣợng giết ngƣời- tự sát hầu hết là đối tƣợng trầm cảm có loạn
thần. Các triệu chứng loạn thần ở đây là các hoang tƣởng tự buộc tội, cảm
giác vô dụng, thất bại, nghèo đói. Ý định tự sát thƣờng dai dẳng và phát triển
thành hành vi giết các thành viên gần gũi trong gia đình sau đó tự sát.
Ngoài tội giết ngƣời, giết ngƣời rồi tự sát, tội cố ý gây thƣơng tích,
cƣớp giật, các tội trộm cắp, gây rối trật tự công cộng trong nhóm nghiên cứu
của chúng tôi còn gặp các tội khác nhƣ, đánh bài ăn tiền, ghi số đề, đá gà, mại
dâm và tổ chức mại dâm…
122
Nghiên cứu của Fava M. và cộng sự cho thấy rối loạn trầm cảm có liên
quan rất rõ với khuynh hƣớng tấn công, thái độ giận dữ và hành vi thù địch.
Có 48% số đối tƣợng trầm cảm điển hình có hành vi tấn công giận dữ so với
21% ở nhóm chứng không có bệnh [142].
Trong một nghiên cứu khác của Pliszka S. R. và cộng sự năm 2000, tại
một trại giáo dƣỡng cho trẻ em vị thành niên cho thấy 20% trẻ em phạm tội là
có rối loạn hƣng cảm, 20% rối loạn trầm cảm chủ yếu và 2% rối loạn cảm xúc
lƣỡng cực. Có một tỷ lệ cao những ngƣời này kết hợp với nghiện chất và rối
loạn nhân cách [105].
4.3.2. Địa điểm xảy ra vụ án
Biểu đồ 3.7 cho thấy khu vực sinh hoạt cộng đồng xẩy ra các vụ án
nhiều nhất (54,28%) tiếp theo là khu vực xung quanh hàng xóm (25,30%) và
cuối cùng là khu vực sinh hoạt của gia đình (20,48%). Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p< 0,01. Nhƣ vậy, địa điểm xảy ra của các vụ án này thƣờng là
trong gia đình ngƣời bệnh đang sinh sống.
Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với báo cáo của trung tâm chính
sách về bạo lực của Hoa kỳ: khoảng 1.382 ngƣời chết do giết ngƣời -tự sát
trong năm 2011. Hầu hết các vụ giết ngƣời- tự sát xảy ra trong nhà (80%).
Tuy nhiên, đối với các nạn nhân là ngƣời thân tỷ lệ lên đến 84%, dữ liệu cho
thấy nhà của ngƣời phạm tội hoặc của nạn nhân là nơi có khả năng nhất để
giết ngƣời tự sát và sự việc thƣờng xảy ra trong phòng ngủ [115].
4.3.3. Phân bố hành vi phạm tội theo nhóm bệnh
Bảng 3.32 cho thấy hành vi cố ý gây thƣơng tích, giết ngƣời và giết
ngƣời rồi sau đó tự sát giữa nhóm trầm cảm khá cao so với nhóm hƣng cảm.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01 (2(1)=9,00). Còn hành vi cƣớp
giật, hành vi trộm cắp trong nhóm hƣng cảm lại chiếm tỷ lệ cao hơn, hành vi
phạm tội khác giữa đối tƣợng hƣng cảm thấp hơn so với nhóm trầm cảm. Tuy
nhiên sự khác biệt đều không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
123
Theo Sadock B. J. và cộng sự (2007), trầm cảm và giết ngƣời thƣờng
có các đặc điểm sau:
+ Không phổ biến (tỷ lệ hàng năm 0,2 - 0,3/100.000 ngƣời năm).
+ Thủ phạm: nam thanh niên ghen tuông tình dục; các bà mẹ bị trầm
cảm; ngƣời lớn tuổi tuyệt vọng với vợ ốm yếu.
+ Nạn nhân: bạn tình nữ, họ hàng bà con. [4]
Nghiên cứu cho thấy 75% kẻ giết ngƣời bị trầm cảm tại thời điểm gây
án [113].
Ở những phụ nữ trộm cắp trong cửa hàng có 5% bị rối loạn tâm thần
phải điều trị, trong đó hay gặp nhất là bị rối loạn lƣỡng cực, giai đoạn hƣng
cảm và hỗn hợp. Tỷ lệ bạo lực xảy ra trƣớc khi nhập viện ở đối tƣợng hƣng
cảm nhiều hơn so với các đối tƣợng đối tƣợng có chẩn đoán khác [95].
Theo Sadock B. J. và cộng sự (2015), các đối tƣợng này có sự rối loạn
kiểm soát hành vi ở mức độ cao, đƣợc kết hợp với niềm tin không có
thật. Các đối tƣợng có các giai đoạn hƣng cảm có nguy cơ gây bạo lực đặc
biệt cao [24]
4.3.4. Số lần phạm tội
Bảng 3.33 cho thấy qua nghiên cứu tiền án của các đối tƣợng, số ngƣời
phạm tội 1 lần chiếm tỷ lệ cao nhất (89,16%) và phạm tội 2 lần là 8,43%,
phạm tội từ 3 lần trở lên chỉ có 2 ngƣời, chiếm (2,41%). Sự khác biệt là có ý
nghĩa thống kê với p<0,01.
Các đối tƣợng rối loạn cảm xúc có nguy cơ phạm tội cao nếu họ có tiền
án gây bạo lực. Nguy cơ này rất cao nếu họ là những ngƣời gần đây đã có
hành vi bạo lực gây ra một hậu quả pháp lý bất kỳ nào [24].
4.3.5. Thời điểm mắc bệnh của các đối tƣợng có hành vi phạm tội
Một số nghiên cứu cho thấy đa số những ngƣời bị rối loạn cảm xúc có
vài giai đoạn bệnh trong tiền sử của họ. Họ cũng có các hành vi bạo lực trong
các giai đoạn này. Nhƣ vậy, đối tƣợng thƣờng đã bị bệnh nhiều năm trƣớc
thời điểm gây án [104].
124
Kết quả ở bảng 3.34 cho thấy mắc bệnh trong thời gian gây án chiếm tỷ
lệ thấp (2,41%) và mắc bệnh sau thời gian gây án là 25,30%. Còn lại, hầu hết
là mắc bệnh trƣớc khi gây án với các thời gian khác nhau (72,29%). Sự khác
biệt có ý nghĩa với p<0,01. Cụ thể mắc bệnh trƣớc khi gây án từ 0-4 năm
chiếm tỷ lệ cao nhất (58,33%), mắc bệnh trƣớc khi gây án từ >4-9 năm
(30,00%), mắc bệnh trƣớc khi gây án từ >9-14 năm (3,33%) và mắc bệnh
trƣớc khi gây án >14 năm (8,33%). Khi so sánh ta thấy có sự khác biệt rõ rệt
với p<0,01.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng khá phù hợp với Ngô Văn Vinh và cộng
sự (2010) là thời gian từ khi mắc bệnh tới khi gây án cao nhất là từ 1-5 năm
chiếm 74,37% từ 6 đến 10 năm là 11,57 trên 11 năm chiếm tỷ lệ rất ít [143].
4.3.6. Phân bố thời gian khi mắc bệnh và thời điểm phạm tội ở đối tƣợng
rối loạn cảm xúc
Bảng 3.35 cho thấy hầu hết thời gian từ khi mắc bệnh tới khi phạm tội
theo trạng thái rối loạn hƣng cảm và trầm cảm, khi so sánh từng cặp không có
sự khác biệt có ý nghĩa (p>0,05) chỉ có thời gian mắc bệnh từ 10 đến 14 năm
là sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,05.
Theo Sadock B. J. và cộng sự (2015), đối tƣợng rối loạn cảm xúc có thể
có hành vi phạm tội bất cứ lúc nào, không phụ thuộc vào thời gian mang
bệnh, không phụ thuộc cơn trầm cảm hoặc cơn hƣng cảm mà đối tƣợng đang
có[ 24].
4.3.7. Phƣơng tiện gây án
Bảng 3.36 cho thấy nhƣ: gậy, gạch, dao… chiếm tỷ lệ cao nhất
(32,53%), tiếp đến là sử dụng sức mạnh cơ bắp nhƣ: đánh ngƣời, đấm,
đá...(27,71%), sử dụng các phƣơng tiện gây án khác tác động về cơ thể và tinh
thần của nạn nhân (27,71%), sử dụng hóa chất (6,02%), rải truyền đơn, đơn từ
và nói xấu chế độ (3,61%) và sử dụng vật liệu cháy nổ, vũ khí quân dụng
(2,41%) Sự khác biệt về tỷ lệ giữa nhóm sử dụng phƣơng tiện thô sơ với các
nhóm khác là có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
125
Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả khá phù hợp với kết quả của Ngô
Văn Vinh và cộng sự (2010) cho thấy phƣơng tiện thô sơ chiếm 32,83%. Các
hình thức khác chiếm 61,87%, dùng tay chân (2,97%), vũ khí quân dụng vật
liệu cháy nổ (2,33%) [143]. Tuy nhiên trong nghiên cứu này hình thức sử
dụng sức mình rất thấp so với kết quả của chúng tôi, có lẽ trong rối loạn cảm
xúc đối tƣợng thƣờng hành động một cách xung động nên khi không có vũ
khí họ vẫn dùng tay chân để thực hiện hành vi gây án.
Theo trung tâm chính sách về bạo lực của Hoa kỳ có khoảng 1.382
ngƣời chết do giết ngƣời -tự sát trong năm 2011. Thành phần xúc tác phổ biến
nhất trong vụ giết ngƣời- tự sát là việc sử dụng súng. Súng cho phép ngƣời sử
dụng hành động xung động. Súng có khả năng gây chết cao và sẵn có ở Hoa
Kỳ, là vũ khí thƣờng đƣợc sử dụng nhất để giết các nạn nhân và sau đó ngƣời
phạm tội quay súng bắn vào chính mình [115].
Giết con là đứa bé bị giết bởi mẹ của nó trƣớc khi nó đƣợc một tuổi
(sinh nhật lần thứ nhất). Hiện tƣợng này rất thƣờng gặp trong bối cảnh trầm
cảm sau sinh. Đứa trẻ thƣờng bị chết do bị mẹ làm ngạt thở [118].
4.3.8. Số phƣơng tiện gây án
Biểu đồ 3.8 cho thấy chủ yếu là một loại phƣơng tiện sử dụng gây án
chiếm tỷ lệ 98,80% và nhiều loại phƣơng tiện sử dụng gây án chiếm tỷ lệ thấp
hơn (1,20%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê rất rõ rệt với p<0,01.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phƣơng tiện gây án do đối tƣợng rối
loạn cảm xúc thƣờng ít chuẩn bị, mà thƣờng gặp phƣơng tiện gì có sẵn thì sử
dụng phƣơng tiện đó nên thƣờng là một loại phƣơng tiện.
Theo Sadock B. J. và cộng sự (2007), đối tƣợng thƣờng không chuẩn bị
gì trƣớc khi phạm tội. Trong khi phạm tội, họ vớ đƣợc thứ gì thì dùng thứ đó
nên thƣờng chỉ có 1 phƣơng tiện gây án [4].
126
4.3.9. Hậu quả của hành vi phạm tội
Kết quả ở bảng 3.37 cho thấy hậu quả của hành vi phạm tội chủ yếu là
gây thiệt hại về tài sản chiếm tỷ lệ cao nhất (46,99%), tiếp đến là gây chết
ngƣời (24,10%), gây thƣơng tích cho ngƣời (20,48%), gây rối ở nơi công
cộng (7,23%) và gây tổn thƣơng về tinh thần (1,21%). Sự khác biệt là có ý
nghĩa thống kê với p<0,01.
Theo Ngô Văn Vinh và cộng sự (2010) nghiên cứu trên 472 đối tƣợng
giám định cho thấy chết ngƣời 37,5% gây thƣơng tích 20,34%, thiệt hại tài
sản 36,66%, hậu quả khác 5,5%, khá phù hợp với số liệu của chúng tôi[143].
4.3.10. Số ngƣời thiệt hại trong các vụ án
Khảo sát số ngƣời bị thiệt hại trong các vụ án do đối tƣợng rối loại khí
sắc ở biểu đồ 3.9 cho thấy đa số các trƣờng hợp chỉ gây hại cho 1 ngƣời
(59,04%). Số lƣợng vụ án gây hại cho nhiều ngƣời chiếm 40,96%. Sự khác
biệt không có có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Gelder M.G. và cộng sự (2009) cho rằng số ngƣời bị hại có thể là một
hoặc nhiều ngƣời. Lý do là khi gây án, đối tƣợng có thể chỉ nhằm vào một nạn
nhân duy nhất, nhƣng cũng có thể họ nhằm vào một nhóm ngƣời [6].
4.3.11. Quan hệ giữa ngƣời bị hại đối tƣợng gây án
Kết quả ở bảng 3.38 cho thấy quan hệ giữa ngƣời bị hại với đối tƣợng
gây án có khác nhau, ngƣời bị hại là ngƣời không quen biết chiếm tỷ lệ cao
nhất (38,55%), tiếp đến ngƣời bị hại là bạn bè và ngƣời hàng xóm (27,71%),
ngƣời thân trong gia đình chiếm(18,07%),và cuối cùng là các cơ quan và tổ
chức xã hội (15,66%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,05.
Theo Kaplan H.I. và cộng sự (1994), thƣờng đối tƣợng bị hại là các
thành viên trong gia đình chồng đối với vợ và con cái, vợ đối với con cái [61].
Theo báo cáo trung tâm chính sách về bạo lực của Hoa kỳ (2011) các
loại phổ biến nhất của giết ngƣời- tự sát là giữa hai ngƣời có quan hệ gần gũi,
đàn ông giết vợ hoặc bạn gái của mình, thƣờng là kết quả của một sự cố trong
các mối quan hệ của họ (72 %) [115].
127
4.3.12. Năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của đối tƣợng
Qua quá trình thăm khám và theo dõi kỹ lƣỡng tỷ mỉ, dựa trên bệnh lý
trong từng giai đoạn trƣớc, trong và sau khi gây án của ngƣời bệnh, xem xét
các yếu tố bệnh lý chi phối hành vi phạm tội của ngƣời bệnh, nhận thức của
ngƣời bệnh về hành vi phạm tội, có hay không có động cơ phạm tội để kết
luận về năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của ngƣời bệnh tại thời
điểm gây án.
Biểu đồ 3.10 cho thấy số ngƣời mất năng lực nhận thức và điều khiển
hành vi chiếm tỷ lệ cao nhất (54,22%), số ngƣời còn năng lực nhận thức và
điều khiển hành vi chiếm 25,30%, số ngƣời hạn chế năng lực nhận thức và
điều khiển hành vi và chiếm tỷ lệ thấp nhất (20,48%). Sự khác biệt là có ý
nghĩa thống kê với p<0,01. Trong nghiên cứu của chúng tôi, các đối tƣợng
mất năng lực nhận thức và điều khiển hành vi là các đối tƣợng bị các triệu
chứng của bệnh chi phối hành vi phạm tội. Cụ thể là các hoang tƣởng, ảo
giác, triệu chứng bi quan, chán nản, mất hứng thú và sở thích, tình trạng kích
động, giảm hoặc mất khả năng phê phán chi phối hành vi của đối tƣợng. Các
đối tƣợng còn năng lực nhận thức và điều khiển hành vi là các đối tƣợng gây
án trong giai đoạn bệnh ổn định hoặc sau khi gây án mới phát bệnh. Các đối
tƣợng hạn chế năng lực nhận thức và điều khiển hành vi là các đối tƣợng gây
án trong giai đoạn bệnh. Tuy nhiên, hành vi phạm tội không hoàn toàn do
bệnh chi phối, thƣờng do rối loạn cảm xúc làm cho tƣ duy của đối tƣợng quá
nhanh hay chậm chạp kèm theo suy giảm chú ý, khả năng phán đoán, suy luận
và ra quyết định suy giảm nên mới gây ra hành vi phạm tội.
Ngô Văn Vinh và cộng sự (2010) cho thấy tỷ lệ mất năng lực và hạn
chế năng lực chiếm 76,7%, còn có năng lực nhận thức chiếm 23,3% phù hợp
với nghiên cứu của chúng tôi [143].
128
4.3.13. Cơ quan trƣng cầu giám định
Bảng 3.39 cho thấy do cơ quan cảnh sát điều tra trƣng cầu là cao nhất
(65,06%), tiếp theo là tòa án nhân dân các cấp trƣng cầu (32,53%) và do viện
kiểm soát các cấp trƣng cầu chỉ chiếm 2,41%. Sự khác biệt là có ý nghĩa
thống kê với p<0,01.
Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả của Ngô Văn Vinh và
cộng sự (2010), tác giả cho rằng hầu hết các trƣờng hợp trƣng cầu giám định
là của cơ quan cảnh sát điều tra [143]. Điều này cho thấy nhận thức của các
cơ quan tố tụng về bệnh tâm thần rất đƣợc chú trọng. Các rối loạn cảm xúc
nhất là trầm cảm rất khó phát hiện nếu không có kiến thức về tâm thần học,
tuy nghiên các đối tƣợng thƣờng đƣợc phát hiện rất sớm có biểu hiện bất
thƣờng và đƣợc đƣa đi giám định ngay trong giai đoạn tạm giam điều tra.
4.4. Các yếu tố liên quan thúc đẩy hành vi phạm tội
4.4.1. Các yếu tố bệnh lý và ngoại lai
Kết quả ở bảng 3.40 cho thấy 60,24% số đối tƣợng phạm tội là do bệnh
lý chi phối và chỉ có 39,76% số đối tƣợng phạm tội là do không do bệnh lý
chi phối. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Trong các yếu
tố ngoại lai thúc đẩy hành vi phạm tội thì yếu tố gây căng thẳng tâm lý – xã
hội chiếm tỷ lệ cao nhất 19,28%, khó khăn về tài chính (16,87%), sử dụng
rƣợu-bia (12,05%), mâu thuẫn trong gia đình (10,84%), do sử dụng ma túy
(4,82%) và tiền sử chấn thƣơng thời thơ ấu (2,41%) và các yếu tố thúc đẩy
khác (3,61%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Trong cuộc sống gia đình thƣờng xảy ra các mâu thuẫn, các xung đột
giữa các thành viên trong gia đình. Giết ngƣời thƣờng là kết quả của một sự
cố trong các mối quan hệ của vợ chồng, kẻ giết ngƣời trong gia đình đang bị
trầm cảm và có các vấn đề về khó khăn về tài chính hay các vấn đề khác và
cảm thấy gia đình tốt hơn hết là chết với họ hơn là còn sống để đối phó với
các vấn đề đó [115].
129
Trộm cắp ở những đối tƣợng bực bội vì thiếu các cơ hội và thiếu sự
khen thƣởng trong quan hệ gia đình [119].
Sử dụng rƣợu và ma túy có một mối liên quan chặt chẽ đến nguy cơ
phạm tội bạo lực; Ngƣời bệnh càng lạm dụng rƣợu và ma túy thì càng có
nguy cơ phạm tội bạo lực; Lạm dụng chất gây nghiện đồng hành làm tăng
nguy cơ bạo lực ngay cả trong giai đoạn khí sắc khá ổn định [88].
Một số tác giả nhận thấy việc lạm dụng chất đồng hành với các bệnh
tâm thần làm tăng khả năng phạm tội và tái phạm tội hình sự [95], [105].
Ngô Đình Thƣ, và cộng sự trên các đối tƣợng giám định cho thấy yếu
tố chi phối hành vi phạm tội cao nhất là bệnh lý 53,1%; xã hội tác động là
18,4%; gia đình là 14,3%, do rƣợu chi phối là 6,1% [144].
Fazel S. và cộng sự xem xét tất cả các bằng chứng cho thấy rằng nguy
cơ tội phạm bạo lực trong dân số nói chung ở ngƣời lạm dụng ma túy hoặc
rƣợu lớn hơn những ngƣời không 6-8 lần. Nguy cơ tội phạm bạo lực trong số
những ngƣời bị rối loạn lƣỡng cực kết hợp với lạm dụng chất đồng hành đƣợc
nâng lên bởi cùng một tỷ lệ là 6-7 lần [100].
4.4.2. Các giai đoạn bệnh khác nhau trong thời gian phạm tội
Biểu đồ 3.11 cho thấy phạm tội trong giai đoạn bệnh đang tiến triển
chiếm tỷ lệ cao nhất (66,27%), tiếp đến là giai đoạn không mắc bệnh
(27,71%) và giai đoạn bệnh thuyên giảm ổn định chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp
(6,02%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Đối tƣợng hƣng cảm hầu hết tấn công trong giai đoạn bệnh tiến triển
cấp tính [95].
Theo Sadock B. J. và cộng sự (2007), đối tƣợng rối loạn lƣỡng cực có
khuynh hƣớng bạo lực nhiều nhất trong các giai đoạn hƣng cảm hay hỗn hợp.
Khi đó, các đối tƣợng này có sự rối loạn kiểm soát hành vi ở mức độ cao nhất,
đƣợc kết hợp với niềm tin không có thật [4].
130
4.4.3. Mối liên quan giữa ngƣời bị hại với các hình thức phạm tội
Khảo sát mối liên quan giữa ngƣời bị hại với các hình thức phạm tội ở
bảng 3.41 cho thấy rất đa dạng và khác nhau nhƣng hành vi cố ý gây thƣơng
tích, hành vi trộm cắp và gây rối trật tự nơi công cộng là sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Còn lại, tội giết ngƣời thì bị hại chủ yếu là
ngƣời thân (33,33%) và bạn bè, hàng xóm (34,78%). Tội giết ngƣời sau đó có
hành vi tự sát thì bị hại chủ yếu là ngƣời thân trong gia đình (53,33%). Tội
cƣớp giật bị hại chủ yếu là ngƣời không quen biết (25,00%). Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với các giá trị khác nhau p<0,01. Các hình thức phạm tội khác
bị hại thƣờng gặp là các cơ quan tổ chức xã hội (69,23%), ngƣời không quen
biết (43,75%) và hàng xóm, bạn bè (34,78%). Sự khác biệt đều có ý nghĩa
thống kê với p<0,01.
Tội cố ý gây thƣơng tích và tội trộm cắp, cƣớp giật đối tƣợng bị hại có
thể là bất cứ ai nhƣ ngƣời thân, hàng xóm, ngƣời không quen biết hoặc cơ
quan nào đó.
Tội giết ngƣời hay xảy ra với ngƣời thân và hàng xóm của đối tƣợng.
Tội giết ngƣời rồi tự sát hay xảy ra với ngƣời thân của đối tƣợng. Còn tội
cƣớp giật hay xảy ra với ngƣời không quen biết.
Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với ý kiến của nhiều tác giả cho
rằng tội giết ngƣời, giết ngƣời rồi tự sát hay xảy ra với ngƣời thân hoặc hàng
xóm của đối tƣợng, những ngƣời hàng ngày hay tiếp xúc với đối tƣợng [2].
Theo Kaplan H. I. và cộng sự (1994), tội cƣớp giật, gây rối trật tự hay
xảy ra với ngƣời không quan biết hoặc với một cơ quan nhất định [61].
4.4.4. Mối liên quan giữa giới tính và hình thức phạm tội
Kết quả khảo sát ở bảng 3.42 cho thấy các hình thức phạm tội ở nam và
nữ đều không sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05)
Kết quả này phù hợp với ý kiến của Sadock B. J. và cộng sự (2015) khi
cho rằng với hầu hết các hành vi phạm tội, không có sự khác biệt giữa nam và
nữ [24]
131
Theo Swanson J.W.và cộng sự (1990) nguy cơ bạo lực ở đối tƣợng nữ
gấp 4 lần và ở nam gấp 2 lần so với dân số chung. Parsons S. và cộng sự
(2001), thấy các bị cáo nữ có 1% bị rối loạn cảm xúc có loạn thần và 16,9%
có một giai đoạn rối loạn cảm xúc nặng. Trong các phụ nữ bị rối loạn cảm xúc
nặng thì khoảng 1/4 bị điều tra về tội bạo lực [92], [123].
Nhƣ vậy nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận định là rối loạn
cảm xúc có thể đặc biệt quan trọng đối với bạo lực ở phụ nữ.
4.4.5. Mối liên quan giữa lứa tuổi và hành vi phạm tội
Bảng 3.43 cho thấy so sánh các số liệu đều có sự khác biệt, hành vi cố
ý gây thƣơng tích thƣờng gặp ở lứa tuổi 30 (50,00%); giết ngƣời và cƣớp giật
thƣờng gặp ở lứa tuổi 20 (57,14% và 77,78%), hành vi giết ngƣời tự sát, gây
rối trật tự nơi công cộng lại chiếm tỷ lệ cao ở lứa tổi 40 trở lên (62,50% và
100,0%). Sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Nghiên cứu của Phan Ngọc Hà (2007), Ngô Văn Vinh và cộng sự
(2010), Ngô Đình Thƣ và cộng sự đều nhận thấy các loại phạm tội đều gặp ở
mọi nhóm tuổi [107], [143], [144].
Trẻ em vị thành niên bị hƣng cảm và thƣờng phạm tội bạo lực [124].
Một tỷ lệ cao rối loạn cảm xúc (42%) đƣợc thấy trong số trẻ vị thành
niên ở một trung tâm giam giữ thanh thiếu niên là phạm tội bạo lực [105].
4.4.6. Mối liên quan giữa rối loạn loạn thần với các hình thức phạm tội ở
đối tƣợng rối loạn cảm xúc
Kết quả khảo sát ở bảng 3.44 cho thấy so sánh các số liệu đều có sự
khác biệt, nhƣng các hành vi phạm tội nhƣ: cố ý gây thƣơng tích, giết ngƣời,
giết ngƣời rồi sau đó tự sát, trộm cắp, cƣớp giật và các hình thức phạm tội
khác đều không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)
Trong nghiên cứu của chúng tôi các ảo giác làm cho đối tƣợng rất khó
chịu, dễ gây kích động và làm nặng thêm ý tƣởng tự sát, các hoang tƣởng
(chủ yếu là hoang tƣởng tự tội, hoang tƣởng cotard, và hoang tƣởng ghen
132
tuông) thƣờng chi phối hành vi tự sát, hành vi giết ngƣời, giết ngƣời- tự sát và
cố ý gây thƣơng tích. Một số đối tƣợng có hoang tƣởng bị hại, họ tin rằng nạn
nhân là ngƣời hại họ nên họ đánh nạn nhân để tự vệ. Hầu hết các hoang tƣởng
ảo giác này gặp ở các đối tƣợng trầm cảm.
Nhiều tác giả cho rằng hành vi kích động trầm cảm hoặc hƣng cảm
đều rất nguy hiểm, đối tƣợng tấn công ngƣời khác một cách tàn bạo gây
thƣơng tích nặng nề cho cho nạn nhân và thậm chí gây chết ngƣời. Trong
cơn kích động đối tƣợng cũng có thể đập phá, cƣớp giật vô cớ gây ra thiệt
hại nhiều tài sản. Hành vi xung động thƣờng mang tính chất rối loạn kiểm
soát xung động trên nền rối loạn cảm xúc, cũng tham gia rất tích cực có tính
cƣỡng bức vào quá trình phạm tội của đối tƣợng, trong nghiên cứu của
chúng tôi hành vi này chiếm tỷ lệ cao nhất chi phối tội giết ngƣời, tội trộm
cắp và tội cƣớp giật [2], [61].
133
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên 83 đối tƣợng rối loạn cảm xúc, phạm tội hình sự,
đƣợc các cơ quan pháp luật đƣa tới giám định pháp y tâm thần từ tháng
02/2012 đến tháng 01/2018 tại Viện pháp y tâm thần Trung ƣơng Biên Hòa
chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Đặc điểm lâm sàng của đối tƣợng rối loạn cảm xúc có phạm tội
- Giai đoạn trầm cảm: Trầm cảm nặng chiếm đa số (36,23% là nặng có
loạn thần chiếm), ảo thanh gặp ở 24,64%, hoang tƣởng bị truy hại chiếm
14,49%. Hầu hết số đối tƣợng có tất cả các triệu chứng của trầm cảm. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
- Giai đoạn hưng cảm: Các triệu chứng của hƣng cảm đều xuất hiện với
tỷ lệ rất cao, 50% số đối tƣợng có hoang tƣởng tự cao. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p<0,01.
2. Hình thức, tính chất của hành vi phạm tội ở đối tƣợng rối loạn
cảm xúc
- Hành vi phạm tội hay gặp trong giai đoạn trầm cảm là tội cố ý gây
thƣơng tích (20,29%), tội giết ngƣời (18,84%), còn giai đoạn hƣng cảm thì
hay gặp tội trộm cắp (14,29%), tội cƣớp giật (14,29%). Đa số trƣờng hợp
phạm tội lần đầu (89,16%) và gây án ở nơi công cộng (54,28%). Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
- Hầu hết đối tƣợng chỉ sử dụng 1 phƣơng tiện gây án (98,80%), hậu quả
của các vụ án là thiệt hại về tài sản (46,99%), gây chết ngƣời (24,10%), gây
thƣơng tích (20,48%).
- Đa số đối tƣợng chỉ gây hại cho 1 ngƣời (59,04%), các bị hại thƣờng là
ngƣời không quen biết (38,55%), bạn bè và ngƣời hàng xóm (27,71%).
134
- Tội giết ngƣời - tự sát hay xảy ra ở ngƣời thân (53,33%), tội giết ngƣời
hay xảy ra với ngƣời thân (33,33%), bạn bè, hàng xóm (34,78%), tội cƣớp
giật hay xảy ra ở ngƣời không quen biết (25,00%).
- 54,22% đối tƣợng bị mất năng lực nhận thức và điều khiển hành vi và
65,06% đƣợc cơ quan công an điều tra trƣng cầu giám định. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,001.
3. Yếu tố liên quan đến hành vi phạm tội ở đối tƣợng rối loạn cảm
xúc
- Đa số đối tƣợng phạm tội là do yếu tố bệnh lý chi phối (60,24%) và
trong giai đoạn bệnh đang tiến triển (66,27%). Các triệu chứng hoang tƣởng,
ảo giác ảnh hƣởng nhƣ nhau đến các hành vi phạm tội khác nhau (p>0,05).
- Nhóm tuổi 20-30 hay gặp tội cƣớp giật (77,8%) và giết ngƣời
(57,14%). Nhóm tuổi 30-40 hay gặp tội cố ý gây thƣơng tích (50,00%). Còn
nhóm tuổi từ 40 trở lên hay gặp tội giết ngƣời sau đó tự sát (62,50%). Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
- Trong các yếu tố ngoại lai thúc đẩy hành vi phạm tội thì yếu tố gây
căng thẳng tâm lý – xã hội chiếm tỷ lệ cao nhất 19,28%, khó khăn về tài chính
(16,87%), sử dụng rƣợu-bia (12,05%), mâu thuẫn trong gia đình (10,84).
135
NHỮNG HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
Đây là một nghiên cứu đầu tiên về các hành vi phạm tội của bệnh nhân
rối loạn cảm xúc. Do thời gian có hạn của nghiên cứu, số lƣợng đối tƣợng
nghiên cứu cũng chƣa phải là nhiều nên còn một số hạn chế sau:
- Số lƣợng đối tƣợng có hành vi phạm tội bị rối loạn cảm xúc lƣỡng
cực, giai đoạn hƣng cảm chƣa nhiều nên phân tích hành vi phạm tội của các
đối tƣợng này còn khó khăn.
- Cũng do số lƣợng đối tƣợng có hành vi phạm tội bị rối loạn cảm xúc
lƣỡng cực, giai đoạn hƣng cảm còn ít nên nghiên cứu này chƣa thể chỉ ra hết
các các yếu tố ngoại lai thúc đẩy hành vi phạm tội của họ.
136
KIẾN NGHỊ Từ những kết quả nghiên cứu trên chúng tôi có một số kiến nghị nhƣ
sau:
- Cần có thêm các nghiên cứu sâu về hành vi phạm tội của các đối
tƣợng rối loạn cảm xúc nhằm giúp nghành Pháp y Tâm thần có thêm các kiến
thức về mối liên quan giữa hành vi phạm tội của đối tƣợng với các triệu
chứng của rối loạn cảm xúc.
- Cần nghiên cứu thêm về vai trò của các yếu tố ngoại sinh trong việc
thúc đẩy các hành vi phạm tội của các đối tƣợng bị rối loạn cảm xúc, từ đó
góp phần đƣa ra các biện pháp phòng ngừa hành vi phạm tội của các đối
tƣợng này.
- Cần có các buổi tập huấn cho các giám định viên pháp y Tâm thần nói
riêng và các bác sỹ chuyên khoa Tâm thần nói chung về tính chất hành vi
phạm tội của bệnh nhân rối loạn cảm xúc, từ đó có biện pháp điều trị phòng
ngừa thích hợp.
137
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. NguyễnThành Quang, Bùi Quang Huy, Ngô Ngọc Tản, Cao Tiến Đức ( 2017). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng giai đoạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn khí sắc có hành vi phạm tội. Tạp chí Y học Việt Nam (2): 8-11
2. NguyễnThành Quang, Bùi Quang Huy, Ngô Ngọc Tản, Cao Tiến Đức ( 2017). Đặc điểm hành vi phạm tội ở bệnh nhân rối loạn khí sắc đƣợc giám định pháp y tâm thần. Tạp chí Y học Việt Nam (2): 26-27 3. Nguyen Thanh Quang, Bui Quang Huy, Ngo Ngoc Tan (2017). Somes factors related to guilty behaviour in patients with mood disorders. Tạp chí y dược học quân sự (9): 182-187
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American Psychiatry Association (2013). Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, (5th ed). Arlington: American Psychiatric
Publishing. 123–154.
2. Bùi Quang Huy, Đỗ Xuân Tĩnh, Đinh Việt Hùng (2016). Rối loạn
trầm cảm.Nhà xuất bảnY Học, Hà Nội. 182tr
3. Kaplan H.I., Sadock B.J., Grebb J.A. (1997). Synopsis of psychiatry,
(7th ed). William and Wilkins, 642-647.
4. Sadock B.J., Sadock V.A. (2007). Kaplan and Sadock: Synopsis of psy-
chiatry, (10th ed). Williams and Wilkins, 527-542.
5. Bùi Quang Huy, Nguyễn Văn Dũng, Trịnh Văn Anh và cộng sự
(2018). Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, chẩn đoán và điều trị, Nhà xuất
bảnY học, Hà Nội. 7-9.
6. Gelder M.G. Andreasen N.C., Lospez-Ibor J.J., et al. (2011). New
Oxford textbook of psychiary, Volume 2. Indian edition, 1895-1959.
7. Cao Tiến Đức, Bùi Quang Huy, Nguyễn Văn Ngân và cộng sự
(2016). Rối loạn khí sắc. Trong quyển: Bệnh học tâm thần, Nhà xuất
bảnquân đội nhân dân, Hà Nội, 285-355
8. Hodgson K., McGuffin P. (2014). The Genetic Basis of Depression
Current Topics in Behavioral Neurosciences,
doi:10.1007/7854_2012_225 ·
9. Edvardsen J., Torgersen S., Roysamb E., et al. (2009). Unipolar De-
pressive Disorders have a Common Genotype. Journal of Affective Dis-
orders, 117: 30–41.
10. Starr L.R., Hammen C., Brennan P.A., et al. (2012). Serotonin Trans-
porter Gene as a Predictor of Stress Generation in Depression. Journal of
Abnormal Psychology, 121( 4): 810 – 818
11. Lopizzo N., Chiavetto L.B., Cattane N., et al. (2015). Gene–
environment interaction in major depression: focus on experience-
dependent biological systems. Frontiers in Psychiatry doi:
10.3389/fpsyt.2018.00693
12. Pezawas L., Meyer-Lindenberg A., Goldman A.L., et al. (2008). Evi-
dence of biologic epistasis between BDNF and SLC6A4 and implica-
tions for depression. Molecular Psychiatry, 13 (7): 709–716.
13. Baj G., D'Alessandro V., Musazzi L., et al. (2012). Physical Exercise
and Antidepressants Enhance BDNF Targeting in Hippocampal CA3
Dendrites: Further Evidence of a Spatial Code for BDNF Splice Vari-
ants. Neuropsychopharmacology, 37: 1600-1611
14. Caspi A., Sugden K., Moffitt T.E., et al. (2003). Influence of Life
Stress on Depression: Moderation by a Polymorphism in the 5-HTT
Gen, Science 301, 386–389.
15. Caspi A., Hariri A. R., Holmes A., et al. (2010). Genetic Sensitivity to
the Environment: The Case of the Serotonin Transporter Gene and Its
Implications for Studying Complex Diseases and Traits. Am J
Psychiatry, 167(5): 509-527
16. Arango V., Underwood M.D., Boldrini M., et al. (2001). Serotonin 1A
receptors, serotonin transporter binding and serotonin transporter mRNA
expression in the brainstem of depressed suicide vic-
tims. Neuropsychopharmacology, 25(6): 892–903.
17. Badenhop R.F., Moses M.J., Scimone A., et al. (2003). Genetic efine-
ment and physical mapping of a 2.3 Mb probable disease region associ-
ated with a bipolar affective disorder susceptibility locus on chromosome
4q35. Am J Med Genet Part B (Neuropsychiatr Genet), 117B: 23-32.
18. Nierenberg A.A. (2009). The long tale of the short arm of the promoter
region for the gene that encodes the serotonin uptake protein. CNS spec-
trums, 14 (9): 462–463.
19. Ancelin M.L. (2017). 5-HTTLPR × stress hypothesis: is the debate
over?. Molecular Psychiatry, 1 – 2
20. Barnett J.H., Smoller J.W. (2009). The genetics of bipolar disorder.
Neuroscience, 164 (1): 331–343.
21. Charrier A., Olliac B., Roubertoux P., et al. (2017). Clock Genes and
Altered Sleep–Wake Rhythms: Their Role in the Development of Psy-
chiatric Disorders, Int. J. Mol. Sci., 18, 938; doi:10.3390/ijms18050938
22. Castrén E. (2005). Is mood chemistry?, Nature Reviews Neurosci-
ence 6 (3): 241–246.
23. Lacasse J., Leo J. (2005). Serotonin and Depression: A Disconnect be-
tween the Advertisements and the Scientific Literature. PLoS
Med, 2 (12): 1211-1216
24. Sadock B.J., Sadock V.A. (2015). Concise textbook of clinical psychia-
try, Fifth edition, William and Wilkins, 713-717.
25. Ledochowski M., Widner B., Murr C., et al. (2001). Fructose malab-
sorption is associated with decreased plasma tryptophan. Scand J Gas-
troentero, 36 (4): 367–71.
26. Nutt D.J. (2008). Relationship of neurotransmitters to the symptoms of
major depressive disorder. Journal of Clinical Psychiatry, 69: 4–7.
27. Nestler E.J., Barrot M., DiLeone R.J., et al. (2002). Neurobiology of
Depression. Neuron, 34: 13–25
28. Dean J., Keshavan M. (2017). The neurobiology of depression: An in-
tegrated view. Asian Journal of Psychitry, 27: 101–111
29. Huang S.Y., Lin M.T., Lin W.W., et al. (2007). Association of mono-
amine oxidase A (MAOA) polymorphisms and clinical subgroups of ma-
jor depressive disorders in the Han Chinese population. World Journal of
Biological Psychiatry, 10 (4 Pt 2): 544–551.
30. Meyer J.H., Ginovart N., Boovariwala A., et al. (2006). Elevated
monoamine oxidase a levels in the brain: An explanation for the mono-
amine imbalance of major depresson. Archives of General Psychia-
try, 63 (11): 1209–1216.
31. Cicchetti D., Rogosch F.A., Sturge-Apple M.L. (2007). Interactions of
child maltreatment and serotonin transporter and monoamine oxidase A
polymorphisms: depressive symptomatology among adolescents from
low socioeconomic status backgrounds. Dev. Psychopathol, 19 (4):
1161–80.
32. Yu Y.W., Tsai S.J., Hong C.J., et al. (2005). Association study of a
monoamine oxidase a gene promoter polymorphism with major depres-
sive disorder and antidepressant respons. Neuropsychopharmacology, 30
(9): 1719–1723.
33. Krishnan V., Nestler E. (2008). The molecular neurobiology of depres-
sion, Nature 455 (7215): 894–902.
34. Pariante C.M., Lightman S.L. (2008). The HPA axis in major depres-
sion: classical theories and new developments, Trends Neuro-
sci. 31 (9): 464–468
35. Matthews P.R., Harrison P.J. (2012). A morphometric, immunohisto-
chemical, and in situ hybridization study of the dorsal raphe nucleus in
major depression, bipolar disorder, schizophrenia, and suicide. J Affect
Disord, 137 (1-3): 125–134.
36. Scheggi S., Leggio B., Masi F., et al. (2002). Selective modifications in
the nucleus accumbens of dopamine synaptic transmission in rats ex-
posed to chronic stress. J Neurochem, 83 (4): 895–903.
37. Price J.L. Drevets W.C. (2012). Neural circuits underlying the patho-
physiology of mood disorders. Trends in Cognitive Sciences, 16 (1): 61-
71
38. Pittenger C., Duman R. S. (2008). Stress, Depression, and Neuroplas-
ticity: A Convergence of Mechanisms. Neuropsychopharmacolo-
gy, 33 (1): 88–109.
39. Mortensen P.B., Pedersen C.B., Melbye M., et al. (2003). Individual
and familial risk factors for bipolar affective disorders in Denmark. Arch
Gen Psychiatry, 60: 1209-1215
40. Stine O.C., McMahon F.J., Chen L., et al. (1997). Initial genome
screen for bipolar disorder in the NIMH Genetics Initiative pedigrees:
chromosome 2, 11, 13, 14,and X. Am J Med Genet (Neuropsychiatr
Genet), 74: 263-269.
41. Kelsoe J.R., Spence M.A., Loetscher E. et al., (2001). A genome sur-
vey indicates a possible susceptibility locus for bipolar disorder on
chromosome. Proc Natl Acad Sci USA, 98: 585-590.
42. Millar K., Mackie S., Pickard B., et al. (2004). DISC1: progress from
discovery towards an understanding. Am J Med Genet Part B (Neuropsy-
chiatrGenet), 130B: 6.
43. Liu J., Juo S.H., Dewan A., et al. (2003). Evidence for a putative bipo-
lar disorder locus on 2p13-16 and other potential loci on 4q31, 7q34,
8q13, 9q31,10q21-24, 13q32, 14q21 and 17q11-12. Mol Psychiatry, 8:
333 - 342.
44. Dick D.M., Foroud T., Flury L., et al. (2003). Genomewide linkage
analyses of bipolar disorder: a new sample of 250 pedigrees from the
National Institute of Mental Health Genetics Initiative. Am J Hum Genet,
73: 107-114.
45. Segurado R., Detera-Wadleigh S.D., Levison D.F., et al. (2003). Ge-
nome scan meta-analysis of schizophrenia and bipolar disorder, part III:
bipolar disorder. Am J Hum Genet,73: 49-62
46. Dick D.M., Foroud T., Edenberg H.J., et al. (2002). Apparent replica-
tion of suggestive linkage on chromosome 16 in the NIMH Genetics Ini-
tiative bipolar Pedigrees. Am J Med Genet (Neuropsychiatr Genet) ,114:
407-412.
47. Liu J., Juo S.H., Terwilliger J.D., et al. (2001). A follow-up linkage
study supports evidence for a bipolar affective disorder locus on chro-
mosome 21q22. Am J MedGenet, 105: 189- 194.
48. Potash J.B., Zandi P.P., Willour V.L., et al. (2003). Suggestive linkage
to chromosomal regions 13q31 and 22q12 in families with psychotic bi-
polar disorder. Am J Psychiatry, 160: 680 – 686
49. Garner C., Mclnnes L.A., Service S.K., et al. (2001). Linkage analysis
of a complex pedigree with severe bipolar disorder, using a Markov
ChainMonte Carlomethod. Am J Hum Genet, 68: 1061-1064.
50. Zandi P.P., Willour V.L., Huo Y., et al. (2003). Genome scan of a se-
cond wave of NIMH Genetics Initiative bipolar pedigrees: chromosomes
2, 11, 13, 14 and X. Am J Med Genet Part B (Neuropsychiatr Genet),
119b: 69-76
51. Mansour H.A, Talkowski M.E., Wood J. (2005). Serotonin genepoly-
morphisms and bipolar 1 disorder: focus on the serotonin transporter.
Ann Med, 37: 590-602.
52. Craddock N., Owen M.J., O'Donovan M.C. (2006). The catechol-o-
methyl transferase (COMT) gene as a candidate for psychiatric pheno-
types: evidence and lessons. Mol Psychiatry, 11: 446-458.
53. Shifman S., Bronstein M., Sternfeld M., et al. (2004). COMT: a com-
mon susceptibility gene in bipolar disorder ands chizophrenia. Am J Med
Genet (Neuropsychiatr Genet), 128: 61-64
54. Sklar P., Gabriel S.B., Mclnnis M.G., et al. (2002). Family-based as-
sociation study of 76 candidate genes in bipolar disorder: BDNF is a po-
tential risk locus. Brain-derived neurotrophic factor. Mol Psychiatry 7:
579-593
55. Kremeyer B., Herzberg I., Garcia J., et al. (2006). Transmission dis-
tortion of BDNF variants in bipolar disorder type Ipatients from South
American population isolate. Am JMed Genet (Neuropsychiatr Genet),
141: 435-439.
56. Schumacher J., Jamra R.A., Freudenberg J., et al. (2004). Examina-
tion of G72 and D-amino-acid oxidase as genetic risk factors for schizo-
phrenia and bipolar affective disorder. Mol Psychiatry , 9: 203-207.
57. Williams N.M., Green E.K., MacGregor S., et al. (2006). Variation at
the DAOA/G30 locus influences susceptibility to major mood episodes
but not psychosis in schizophrenia and bipolar disorder. Arch Gen Psy-
chiatry, 63: 366-373.
58. Green E.K., Raybould R., Macgregor S., et al. (2005). Operation of
the schizophrenia susceptibility gene, neuregulin 1, across traditional di-
agnostic boundaries to increase risk forbipolar disorder. Arch Gen Psy-
chiatry, 62: 642-648.
59. Berns G. S., Nemeroff C.B. (2003). The Neurobiology of Bipolar Dis-
order. American Journal of Medical Genetics Part C (Semin. Med.
Genet.), 123C:76–84
60. Bùi Quang Huy, Phùng Thanh Hải, Lý Trần Tình (2009). Rối loạn
cảm xúc lưỡng cực, Nhà xuất bảnY học. Hà Nội.
61. Kaplan H.I., Sadock B.J. (1994). Synopsis of psychiatry, six edition,
William and Wilkins, 903- 911
62. American Psychiatric Association (1994). Diagnostic and Statistical
Manual of Mental Disorders, 4th Edition Washington DC.
63. Safer D.J. (2009) Irritable mood and the Diagnostic and Statistical
Manual of Mental Disorders, Child and Adolescent Psychiatry and
Mental Health 3:35 doi:10.1186/1753-2000-3-35
64. World Health Organization (WHO). (2016). “International Statistical
Classification of Diseases and Related Health Problems, 10th revision
(ICD-10) WHO Library Cataloguing-in-Publication Data 299-305
65. Dan J.S., David J.K., Alan F.S. (2006). Mood disorders and sleep. In:
Texbook of mood disorders, The American psychiatric publishing, volum
2: 353- 739
66. Eaton W.W., Anthony J.C., Gallo J., et al. (1997). Natural History of
Diagnostic Interview Schedule/ DSM-IV Major Depression. Arch Gen
Psychiatry, 54(11): 993-999.
67. Bùi Quang Huy (2010). Rối loạn trầm cảm, Nhà xuất bảnY học. Hà
Nội. 134 tr.
68. Nguyễn Văn Thọ, Đặng Quốc Tuyên (2006). Nghiên cứu đặc điểm lâm
sàng của rối loạn trầm cảm với các triệu chứng cơ thể. Thông tin chuyên
ngành Bệnh viện tâm thần trung ương II, (51): 37-42
69. Cao Tiến Đức, Bùi Quang Huy (2017). Giáo trình tâm thần học, Nhà
xuất bản quân đội nhân dân, Hà Nội. Tr 177-193.
70. Takahashi Y. (2001). Depression and Suicide. JMAJ 44(8): 359–363
71. Ngô Ngọc Tản, Cao Tiến Đức (2001). Khảo sát nhu cầu chăm sóc sức
khỏe tâm thần cộng đồng ở xã Vạn Phúc, thị xã Hà Đông, Hà Tây Báo
cáo đề tài khoa học công nghệ cấp bộ, Bệnh viện tâm thần TW1
72. Aaltonen K. , Näätänen P., Heikkinen M., et al. (2016). Differences
and similarities of risk factors for suicidal ideation and attempts among
patients with depressive or bipolar disorders. Journal of Affective Disor-
ders, 193: 318–330
73. Dumais A., Lesage A.D., Phil M., et al. (2005). Risk Factors for Sui-
cide Completion in Major Depression: A Case-Control Study of Impul-
sive and Aggressive Behaviors in Men. Am J Psychiatry, 162:2116–2124
74. Nguyễn Văn Ngân, Ngô Ngọc Tản (2002). Rối loạn tâm thần do các
bệnh thực tổn não. Phần: Rối loạn tâm thần thực tổn , Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 45- 65
75. The Joint Commission (2016). Detecting and treating suicide ideation
in all settings, Sentinel Event Alert 56, https://www.jointcommission.org
76. Trivedi M. H. (2004). The Link Between Depression and Physical
Symptoms. Prim Care Companion J Clin Psychiatry, 6(1):12–16
77. Hanwella R., Silva V. A. (2011). Signs and symptoms of acute mania: a
factor analysis. Hanwella and de Silva BMC Psychiatry 11:137
http://www.biomedcentral.com/1471-244X/11/137
78. Fletcher K., Parker G., Paterson A., at al. (2013). High-risk behaviour
in hypomanic states. J Affect Disord, 150 (1): 50–56.
79. U.S. National Institutes of Health (2008). Bipolar Disorder, NIH Pub-
lication No. 95-3679, 04-29.
80. Ballarat Health Services (1998). Coping With Manic Symtoms, 2nd ed,
New York.
81. Beentjes T.A., Goossens P.J., Poslawsky I.E. (2012). Caregiver burden
in bipolar hypomania and mania: a systematic review. Perspect Psychi-
atr Care, 48(4): 187–197
82. Knowles R., McCarthy-Jones S., Rowse G. (2011). Grandiose delu-
sions: a review and theoretical integration of cognitive and affective per-
spectives. Clin Psychol Rev, 31(4): 684–696.
83. Mansell W., Pedley R. (2008). The ascent into mania: a review of psy-
chological processes associated with the development of manic symp-
toms. Clinical Psychology Review, 28 (3): 494–520
84. Bowins B. (2007). Cognitive regulatory control therapies. Am. J. Psy-
chother, 67 (3): 215–236.
85. McKenna B.S., Eyler L.T. (2012). Overlapping prefrontal systems in-
volved in cognitive and emotional processing in euthymic bipolar disor-
der and following sleep deprivation: a review of functional neuroimaging
studies. Clin Psychol Rev, 32 (7): 650–663
86. Swann A.C., Lafer B., Perugi G., et al. ( 2013). Bipolar mixed states:
an international society for bipolar disorders task force report of symp-
tom structure, course of illness, and diagnosis. Am J Psychiatry, 170 (1):
31–42
87. Quốc hội (2018). Bộ Luật Hình Sự (Bộ Luật Năm 2015, Sửa Đổi, Bổ
Sung Năm 2017) Nhà xuật bản chính trị quốc gia sự thật Hà Nội 495
88. Nguyễn Văn Ngân, Ngô Ngọc Tản (2003). Giám định pháp y tâm thần,
In: Tâm thần học Đại cƣơng và điều trị các bệnh tâm thần – Giáo trình
giảng dạy sau đại học. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 120 –
133.
89. AIHW (2010). The health of Australian prisoners 2009, Canberra: Aus-
tralian Institute of Health and Forensic Psychiatry. ca
90. Modestin J. (2002). Relationship of criminality to andogeneity and anx-
iety in patients with unipolar depression. Psychiatry and Clinical Neuro-
sciences, 56: 153 – 159.
91. Shaw J., Hunt I.M., Flynn S., et al. (2006). Rates of mental disorder in
people convicted of homicide. National clinical survey. British Journal
of Psychiatry, 188: 143- 147.
92. Swanson J.W., Holzer C.E., Ganju V.K., et al. (1990). Violence and
psychiatric disorders in the community: Evidence from the epidemiolog-
ic catchment areaa surveys. Hosp Community Psychiatry, 41: 761-770.
93. Henderson S. (2003) Forensic Psychiatric In NSW: Mental Illness and
the Criminal Justice system, Crime times.
94. Hodgins S., Alderton J., Cree A. (2007). Aggressive behaviour, victimi-
sation and crime among severely mentally ill patients requiring hospitali-
sation. Br. J. Psychiatry, 343-350
95. Stuart H. (2003). Violence and mental illness: an overview. World Psy-
chiatry. 2(2): 121–124
96. Brennan P.A., Mednick S.A., Hodgins S. (2000). Major mental disor-
ders and criminal violence in a Danish birth cohort. Archives of General
Psychiatry, 57: 494–500.
97. Arsenault L., Moffit T., Caspi A., et al. (2000). Mental disorders and
violence in a total birth cohort. Results from the Dunedin
Study. Archives of General Psychiatry, 57: 979–986.
98. Stueve A., Link B.G. (1997). Violence and psychiatric disorders. Re-
sults from an epidemiological study of young adults in Israel. Psychiatric
Quarterly, 68: 327–341.
99. Taylor P.J., Gunn J. (1984). Violence and psychosis I. Risk of violence
among psychotic men. BMJ, 288: 1945–1949.
100. Fazel S., Danesh J. (2002). Serious mental disorder in 23 000 prisoners.
A systematic review of 62 surveys. Lancet, 359: 545–550.
101. Singleton N., Meltzer H., Gatward R., et al. (1998). Psychiatric Mor-
bidity among Prisoners in England and Wales, Office for National Sta-
tistics, TSO
102. Birmingham L., Mason D., Grubin D. (1996). Prevalence of mental disor-
der in remand prisoners. Consecutive case study. BMJ, 313: 1521–4.
103. Teplin L.A. (1990). The prevalence of severe mental disorder among
urban jail detainees. Comparison with the Epidemiologic Catchment Ar-
ea program. American Journal of Public Health, 80: 663–669.
104. Collins J.J., Bailey S.L. (1990). Relationship of mood disorders to vio-
lence. Nerv Ment Dis, 178(1): 44-47.
105. Pliszka S.R., Sherman J.O., Barroaw M.V., at al. (2000). Affective
disorders in juvenile offenders: A preliminary study. Am. J. Psychiatry,
157: 130-132.
106. Modestin J., Wuermle O. (2005). Criminality in men with major mental
disorder with and without comorbid substance abuse. Psychiatry Clin
Neurosci, 59 (1): 25-29.
107. Phan Ngọc Hà (2007). Nghiên cứu đặc điểm hình thái bệnh tâm thần ở
248 trƣờng hợp Giám định tại Tổ chức giám định pháp y tâm thần Thành
phố Đà Nẵng (Từ 1994 – 2001), Nội san Viện Giám định pháp y tâm
thần Trung ương, 57 – 61.
108. Nguyễn Thái Long (2007). Nhận xét rối loạn tâm thần trên 52 trƣờng
hợp GĐPY tâm thần tại BVTT Bắc Giang từ 2000 – 2005. Nội san Viện
Giám định pháp y tâm thần Trung ương, 68 – 70.
109. Nguyễn Thành Quang, Đƣờng khắc Tám (2006). Khảo sát đặc điểm
các đối tƣợng đƣa tới Giám định pháp y tâm thần từ 1975 – 2004 tại
Bệnh viện Tâm thần Trung ƣơng 2, Thông tin chuyên ngàng Bệnh viện
Tâm thần Trung ương 2, (Biên Hòa) , 43 – 49.
110. Dƣơng Văn Lƣơng (2012). Nghiên cứu cơ cấu bệnh tâm thần và một số
yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội trong Giám định pháp y tâm thần, Nội
san Viện Giám định pháp y tâm thần Trung ương, 37-40
111. Krakowski M. (2003). Violence and serotonin. Influence of impulse
control, affect regulation, and social functioning. Journal of Neuropsy-
chiatry and Clinical Neurosciences, 15: 294–305.
112. Belete H., Mulat H., Fanta T., et al. (2016). Magnitude and associated
factors of aggressive behaviour among patients with bipolar disorder at
Amanual Mental Specialized Hospital, outpatient department, Addis Ab-
aba, Ethiopia: crosssectional study. BMC Psychiatry, 16: 443
113. Rosenbaum M. (1990). The role of depression in couples involved in
murder–suicide and homicide. American Journal of Psychiatry, 147:
1036–1039.
114. Barraclough B.M., Harris C.E. (2002). Suicide preceded by murder.
The epidemiology of homicide–suicide in England and Wales 1988–
1992. Psychological Medicine, 32: 577–584.
115. Boomers B. (2012). Murder-Suicide in the United States, Violence Poli-
cy Center.
116. Liem M.C.A., Koenraadt F. (2007). Homicide–suicide in the Nether-
lands. A study of newspaper reports 1992–2005. Journal of Forensic
Psychiatry and Psychology, 18: 482–493.
117. Malphurs J.E., Cohen D. (2005). A statewide case-control study of
spousal homicide–suicide in older persons. American Journal of Geriat-
ric Psychiatry, 13: 211–217.
118. Flynn S. M., Shaw J.J., Abel K. M. (2013). Filicide: Mental Illness in
Those Who Kill Their Children. Plos One 8(4), www.plosone.org
119. Krischer M.K., Stone M.H., Sevecke K., et al. (2007). Motives for ma-
ternal filicide. Results from a study with female forensic pa-
tients. International Journal of Law and Psychiatry, 30: 191–200.
120. Cheng R.S.Y., Lin C., Fok M.L.Y., et al. (2005). Shoplifting in the
Mentally Ill: The role of bipolar affective disorder and mental retarda-
tion. Med. Sci. Law, 45(4): 317-320
121. Herjanic M., Henn F.A., Vanderpearl R.H. (1977). Forensic psychia-
try. Female offenders. American Journal of Psychiatry, 134: 556–558.
122. Teplin L.A., Abram K.M., McClelland G.M. (1996). Prevalence of
psychiatric disorders among incarcerated women. Pretrial jail detainees.
Archives of General Psychiatry, 53: 505–512
123. Parsons S., Walker L., Grubin D. (2001). Prevalence of mental disor-
der in female remand prisons. Journal of Forensic Psychiatry, 12: 194-
202.
124. Weisbrot D.M., Ettinger A.B. (2002). Aggression and violence in
mood disorders. Child and Adolescent Psychiatric Clinics, 11: 649–671.
125. Jaworska-Andryszewska P., Rybakowski J. (2016). Negative experi-
ences in childhood and the development and course of bipolar disorder.
Psychiatr. Pol, 50(5): 989–1000
126. Rueve M.E., Welton R.S. (2008). Violence and Mental Illness. Psychia-
try, 34-48.
127. Carpiniello B., Lai L., Pirarba S., et al. (2011). Impulsivity and ag-
gressiveness in bipolar disorder with co-morbid borderline personality
disorder. Psychiatry Res, 188: 40-44.
128. American Psychiatric Association (2000). Diagnostic and statistical
manual of mental disorders, 4th ed., text revision, Washington DC:
American Psychiatric Association, 301-313
129. Swann A.C. (2003). Neuroreceptor mechanisms of aggression and its
treatment. J Clin Psychiatry, 64 (suppl 4): 26-35.
130. Nguyễn Văn Thọ (2009). Đặc điểm hành vi bạo lực sát thƣơng ngƣời
khác ở các can phạm trong giám định pháp y tâm thần tại phân viện phía
nam, Tài liệu hội thảo và tập huấn giám định pháp y tâm thần toàn quốc
lần thứ năm, 105-114.
131. Naidoo S., Mkize D.L. (2012). Prevalence of mental disorders in a
prison population in Durban, South Africa. Afr J Psychiatry, 15: 30-35
132. Dƣơng Văn Lƣơng, Phạm Hiển, Lƣơng Minh Hoàn ( 2009). Nghiên
cứu cơ cấu bệnh tâm thần và một số yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội
trong Giám định pháp y tâm thần, Nội san Viện Giám định pháp y tâm
thần Trung ương. 56 – 60
133. Regier D.A., Farmer M.E., Rae D.S., et al. (1990). Comorbidity of men-
tal disorders with alcohol and other drug abuse. Results from the Epide-
miologic Catchment Area (ECA) Study. JAMA. 264 (19): 2511-2518
134. Lokesh S., Gupta L.N., Prerana G. (2009). Co-Morbidity of
Personality Disorders and its Impact on Phenomenology and Treatment
Response in Bipolar Disorder Patients. Delhi Psychiatry Journal, 12(2):
234-242
135. James D.J. (2006).Mental health problems of prison and jail inmates,
Departmentof Justice Washington, DC
136. Lewinsohn P.M., Rohde P., Seeley J.R. (1998). Major depressive dis-
order in older adolescents: prevalence, risk factors, and clinical implica-
tions. Clin Psychol Rev. 18(7): 765-94.
137. Maina G., Rosso G., Aguglia A., et al. (2011). Anxiety and bipolar dis-
orders: epidemiological and clinical aspects. Giorn Ital Psicopat,
17:365-375
138. Lamberty G.J., Bieliauskas L.A. (1993). Distinguishing Between De-
pression and Dementia in the Elderly: A Review of Neuropsychological
Findings. Archives of Clinical Neuropsychology, 8:149-170
139. Harvey A. G., Talbot L. S., Gershon A. (2009). Sleep Disturbance in
Bipolar Disorder Across the Lifespan. Clin Psychol (New York), 16(2):
256–277. doi:10.1111/j.1468-2850.2009.01164.x.
140. George P. (2014). DSM-5 and Psychotic and Mood Disorders. Journal
of the American Academy of Psychiatry and the Law, 42: 182–190.
141. Nguyễn Văn Ngân và cộng sự (2005). Tâm thần học, Nhà xuất
bảnquân đội nhân dân, Hà Nội.
142. Fava M., Davidson K., Alpert J.E., at al. (1996). Hostility changes fol-
lowing Antidepressant ticatment: relationship to tress and Negative
thingking. Journal of Psychiatric research, 30: 617 – 726
143. Ngô Văn Vinh, Dƣơng Văn Lƣơng (2010). Phân tích kết quả 472
trƣờng hợp giám định tại viện giám định pháp y tâm thần trung ƣơng,
Nội san Viện Giám định pháp y tâm thần Trung ương. 56 – 60
144. Ngô Đình Thƣ, Tôn Thất Hƣng (2010). Nghiên cứu tỷ lệ các rối loạn
tâm thần và một số yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội ở đối tƣợng tâm
thần giám định nội trú, Nội san Viện Giám định pháp y tâm thần Trung
ương, 62 – 65