BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ -----------------------------
Nguyễn Thị Thu Hiền NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA KÍCH DỤC TỐ ĐẾN KHẢ NĂNG SINH SẢN
CỦA CẦY VÒI HƯƠNG (Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777)
TRONG ĐIỀU KIỆN NUÔI NHỐT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ -----------------------------
Nguyễn Thị Thu Hiền NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA KÍCH DỤC TỐ ĐẾN KHẢ NĂNG SINH SẢN
CỦA CẦY VÒI HƯƠNG (Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777)
TRONG ĐIỀU KIỆN NUÔI NHỐT
Chuyên ngành: Công nghệ sinh học
Mã số: 9 42 02 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. Nguyễn Thanh Bình
2. PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Thảo
Thành phố Hồ Chí Minh – 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Luận án này là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS. TS. Nguyễn Thanh Bình và PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Thảo.
Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Những trích dẫn và tài liệu tham khảo trong luận án có nguồn gốc xác thực.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng 09 năm 2019
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Thu Hiền
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận án này được hoàn thành tại Viện Sinh học Nhiệt đới, Học viện Khoa học
và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Trong quá trình nghiên
cứu, tác giả đã nhận được nhiều sự giúp đỡ quý báu của Thầy Cô, các nhà khoa học,
đồng nghiệp, bạn bè và gia đình.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc và kính trọng nhất tới PGS. TS. Nguyễn Thanh
Bình và PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Thảo - những người Thầy đã tận tâm hướng dẫn
khoa học, luôn động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt thời
gian thực hiện luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Ban lãnh đạo Viện Sinh học Nhiệt đới, tập thể cán
bộ của Học viện và Viện đã quan tâm, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Trung tâm Ứng dụng công nghệ sinh học Tỉnh Đồng
Nai, Trang trại động vật hoang dã Thanh Long, Trung tâm Công nghệ chăn nuôi-Phân
viện chăn nuôi Nam Bộ về sự ủng hộ cơ sở, vật chất trong việc thực hiện luận án; BS
thú y Đỗ Đức Thiện đã giúp đỡ thu thập mẫu trong quá trình nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới Trường Đại học Thủ Dầu Một, Khoa Khoa học
Tự nhiên và các đồng nghiệp đã ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời
gian làm nghiên cứu sinh.
Tôi xin chân thành cảm ơn Quỹ phát triển khoa học trường Đại học Thủ Dầu
Một đã tài trợ kinh phí cho hai đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở để thực hiện luận
án này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè và những người thân
đã luôn quan tâm, khích lệ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................ii
MỤC LỤC ................................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................ vii
DANH MỤC CÁC BẢNG ......................................................................................... ix
DANH MỤC CÁC HÌNH ........................................................................................... x
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của luận án .................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án ......................................................................... 2
3. Nội dung nghiên cứu của luận án ......................................................................... 2
4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án .............................................. 2
5. Tính mới của luận án ........................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ....................................................................................... 4
1.1. Sơ lược về cầy vòi hương ............................................................................. 4
1.1.1. Phân loại ................................................................................................ 4
1.1.2. Đặc điểm ngoại hình .............................................................................. 4
1.1.3. Tập tính và sinh sản ............................................................................... 5
1.1.4. Phân bố .................................................................................................. 5
1.1.5. Tình hình nuôi cầy vòi hương ................................................................ 5
1.2. Tình hình nghiên cứu về cầy vòi hương ............................................................ 6
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ........................................................... 6
1.2.1.1. Nghiên cứu về tập tính, phân bố và hiện trạng loài trong tự nhiên .... 6
1.2.1.2. Nghiên cứu về đặc điểm giải phẫu, sinh lý-sinh hóa máu ................. 9
1.2.1.3. Nghiên cứu về tính đa dạng di truyền và phát sinh loài .................. 11
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ......................................................... 13
1.3. Tổng quan về PMSG và HCG ......................................................................... 15
1.3.1. Cấu trúc, chức năng của PMSG ........................................................... 15
iv
1.3.1.1. Nguồn gốc và cấu trúc của PMSG (eCG) ....................................... 15
1.3.1.2. Vai trò của eCG trong ngựa cái ...................................................... 16
1.3.1.3. Hoạt động sinh học của eCG.......................................................... 17
1.3.1.4. Ứng dụng của PMSG ..................................................................... 17
1.3.2. Cấu trúc, chức năng của HCG .............................................................. 19
1.3.2.1. Nguồn gốc và cấu trúc của HCG .................................................... 19
1.3.2.2. Chức năng của HCG ...................................................................... 19
1.3.3. Tình hình sử dụng kích dục tố PMSG và HCG trong hỗ trợ sinh sản .... 20
1.4. Tổng quan về estrogen và progesterone .......................................................... 25
1.4.1. Cấu trúc và chức năng của estrogen .......................................................... 25
1.4.2. Cấu trúc và chức năng của progesterone .................................................... 25
1.4.3. Xác định con đường chuyển hoá và bài tiết hormone estrogen và
progesterone ...................................................................................................... 26
1.4.4. Phương pháp ly trích steroid ................................................................ 27
1.4.5. Xác định động thái sinh sản dựa vào đánh giá steroid trong phân ......... 28
CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................. 33
2.1. Địa điểm, thời gian nghiên cứu ....................................................................... 33
2.2. Chuồng trại, thức ăn, nước uống ..................................................................... 33
2.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu ............................................................ 34
2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của cầy vòi hương trong điều kiện
nuôi nhốt ............................................................................................................ 34
2.3.1.1. Vật liệu .......................................................................................... 34
2.3.1.2. Chỉ tiêu khảo sát ............................................................................ 34
2.3.1.3. Phương pháp xác định khối lượng và kích thước các chiều đo ....... 35
2.3.1.4. Phương pháp nghiên cứu tốc độ sinh trưởng .................................. 35
2.3.1.5. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm sinh sản ................................... 35
2.3.2. Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí – sinh hóa máu, nước tiểu của cầy vòi
hương trong điều kiện nuôi nhốt ........................................................................ 36
2.3.2.1. Vật liệu .......................................................................................... 36
2.3.2.2. Chỉ tiêu khảo sát ............................................................................ 36
v
2.3.2.3. Phương pháp thu mẫu và phân tích máu ........................................ 37
2.3.3. Nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng hormone sinh dục của cầy vòi hương
cái trong điều kiện nuôi nhốt .............................................................................. 38
2.3.3.1. Vật liệu .......................................................................................... 38
2.3.3.2. Chỉ tiêu khảo sát ............................................................................ 38
2.3.3.3. Phương pháp thu mẫu và chiết xuất phân……………………… 39
2.3.3.4. Phương pháp xét nghiệm hormone ................................................ 40
2.3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của kích thích tố sinh dục (PMSG, hCG) đến khả
năng sinh sản của cầy vòi hương cái .................................................................. 41
2.3.4.1. Vật liệu .......................................................................................... 41
2.3.4.3. Loại hormone sinh sản sử dụng ………………………………….. 42
2.3.4.2. Chỉ tiêu khảo sát ............................................................................ 41
2.3.4.4. Các công thức tiêm hormone sinh sản ............................................ 42
2.3.4.5. Bố trí thí nghiệm............................................................................ 42
2.3.4.6. Quy trình tiêm ............................................................................... 42
2.3.4.7. Phương pháp xác định sự thay đổi hormone................................... 42
2.4. Xử lí số liệu. ........................................................................................... 43
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................................. 44
3.1. Kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh học ............................................................ 44
3.1.1. Đặc điểm hình thái, dinh dưỡng và một số tập tính của cầy vòi hương
trong điều kiện nuôi nhốt .................................................................................. 44
3.1.2. Đặc điểm sinh trưởng của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt… 46
3.1.2.1. Tăng trưởng khối lượng ................................................................. 46
3.1.2.2. Tăng trưởng chiều dài thân đầu ...................................................... 47
3.1.2.3. Tăng trưởng chiều dài đuôi……………………………………… 48
3.1.2.4. Tăng trưởng vòng ngực ................................................................. 49
3.1.3. Đặc điểm sinh sản của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt……… 50
3.1.3.1. Tuổi thành thục sinh dục và biểu hiện động dục............................. 51
3.1.2.2. Hoạt động giao phối, tỉ lệ mang thai và thời gian mang thai........... 53
vi
3.1.3.3. Số cầy sinh ra trên lứa, tỉ lệ sống sót, đặc điểm con sơ sinh và tuổi cai
sữa ..................................................................................................................... 55
3.2. Kết quả nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí – sinh hóa máu, nước tiểu của cầy vòi
hương trong điều kiện nuôi nhốt ............................................................................ 58
3.2.1. Một số chỉ tiêu sinh lí máu của cầy vòi hương theo giới tính ................ 58
3.2.2. Một số chỉ tiêu sinh lí máu của cầy vòi hương theo tuổi ....................... 60
3.2.3. Các chỉ số sinh hóa máu của cầy vòi hương ......................................... 62
3.2.4. Một số chỉ tiêu sinh hóa nước tiểu của cầy vòi hương theo giới tính .... 65
3.2.5. Một số chỉ tiêu sinh hóa nước tiểu của cầy vòi hương theo tuổi............ 68
3.3. Kết quả nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng hormone sinh dục của cầy vòi hương
cái trong điều kiện nuôi nhốt ................................................................................. 70
3.3.1. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone trong phân cầy vòi hương
không mang thai ................................................................................................ 70
3.3.2. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone trong phân cầy vòi hương
mang thai ........................................................................................................... 74
3.3.3. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone trong phân cầy vòi hương
mang thai giả ..................................................................................................... 77
3.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của kích thích tố sinh dục (PMSG, HCG) đến khả
năng sinh sản của cầy vòi hương cái ...................................................................... 79
3.4.1. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone sau khi tiêm kích dục tố
.......................................................................................................................... 79
3.4.2. Thời gian xuất hiện các biểu hiện và kéo dài động dục ......................... 85
3.4.3. Kết quả sử dụng các công thức hormone lên một số chỉ tiêu sinh sản ... 87
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................... 91
1. Kết luận ............................................................................................................. 91
2. Kiến nghị ........................................................................................................... 92
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ .......................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 94
vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Diễn giải tiếng Anh Diễn giải tiếng Việt
ASC Ascorbic acid Axit Ascorbic
ALT Alanin amino transferase Enzyme chuyển hoá
Alanin
ALP Alkaline phosphatase Alkaline Enzym
phosphatase
AST Aspartate transaminase Enzyme chuyển hoá
Aspartate
BUN Blood urea nitrogen Nitơ u rê trong máu
CP Corpus leteum Hoàng thể
CTAB Cetyltrimethyl ammonium bromide Cetyltrimethyl ammonium
bromide
ECG Equine chorionic Gonadotropin Gonadotropin màng đệm ở
ngựa
EDTA Ethylene diamine tetra acetic acid Ethylene diamine tetra
acetic acid
EIA Enzyme Immune Assay Xét nghiệm miễn dịch
enzyme
ELISA Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay Xét nghiệm miễn dịch liên
E2 Estradiol kết với enzyme Estradiol
Follicle Stimulating Hormone Hormone kích thích nang FSH
trứng
GnRH Gonadotropin-Releasing Hormone Hormone giải phóng
Gonadotropin
HCT Hematocrit Dung tích hồng cầu
HCG Human Chorionic Gonadotropin Gonadotropin màng đệm ở
người
viii
Hemoglobin Hemoglobin HGB
High Performance Liquid Sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC
Chromatography
International Unit Đơn vị quốc tế IU
Luteinizing Hormone Hormone Luteinizing LH
MCV Mean corpuscular volume Thể tích trung bình hồng
cầu
MCH Mean corpuscular hemoglobin Lượng hemoglobin trung
bình trong một hồng cầu
MCHC Mean corpuscular hemoglobin Nồng độ hồng cầu trung
concentration bình
MPV Mean platelet volume Thể tích trung bình tiểu
cầu
PCR Polymerase Chain Reaction Phản ứng chuỗi
polymerase
Plateletcrit Dung tích bạch cầu PCT
Pregnant Mare's Serum Gonadotropin Huyết thanh ngựa chửa
Progesterone Progesterone PMSG P4
Platelet distribution width Độ phân bố tiểu cầu PDW
Platelet Tiểu cầu PTL
Radio Immuno Assay Xét nghiệm miễn dịch RIA
phóng xạ
Red blood cells Hồng cầu RBC
Red cell distribution width Độ phân bố hồng cầu RDW
Specific gravity Tỷ trọng nước tiểu SG
White blood cells Bạch cầu WBC
ix
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2. 1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm theo dõi các chỉ số sinh trưởng ............................ 35
Bảng 2. 2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm theo dõi các chỉ số sinh lí - sinh hoá máu, nước tiểu
.………………………………………………………………………………………. 37
Bảng 2. 3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm theo dõi các chỉ số nội tiết estradiol và progesterone
……………………………………………………………………………………….. 38
Bảng 2. 4. Dữ liệu của 12 cá thể cầy cái được thu mẫu trong nghiên cứu ................. 39
Bảng 2. 5. Sơ đồ bố trí thí nghiệm tiêm kích dục tố ................................................... 42
Bảng 3. 1. Tốc độ tăng trưởng khối lượng của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi ... 46
Bảng 3. 2. Tốc độ tăng trưởng chiều dài thân đầu của cầy vòi hương trong điều kiện
nuôi ........................................................................................................................... 48
Bảng 3. 3. Tốc độ tăng trưởng chiều dài đuôi của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi
................................................................................................................................. 49
Bảng 3. 4. Tốc độ tăng trưởng vòng ngực của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi .... 50
Bảng 3. 5. Tuổi thành thục sinh dục của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt..... 51
Bảng 3. 6. Tỉ lệ và thời gian mang thai ở cầy vòi hương............................................ 54
Bảng 3 .7. Số cầy vòi hương con sinh ra trên lứa và tỉ lệ sống sót ............................. 55
Bảng 3. 8. Một số chỉ số sinh lí máu của cầy vòi hương theo giới tính ...................... 59
Bảng 3. 9. Các chỉ số sinh lí máu của cầy vòi hương theo nhóm tuổi ........................ 61
Bảng 3. 10. Các chỉ số sinh hoá máu của cầy vòi hương theo giới tính ...................... 63
Bảng 3. 11. Các chỉ số sinh hoá máu của cầy vòi hương theo tuổi ............................. 64
Bảng 3. 12. Các chỉ số sinh hoá nước tiểu của cầy vòi hương theo giới tính .............. 66
Bảng 3. 13. Các chỉ số sinh hoá nước tiểu của cầy vòi hương theo nhóm tuổi ........... 68
Bảng 3. 14. Phạm vi, đỉnh và chu kỳ của P4 và E2 trong thời kỳ không mang thai ở cầy
vòi hương .................................................................................................................. 70
Bảng 3. 15. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương sau thụ tinh ............... 75
Bảng 3. 16. Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố của Nhóm 1 87
Bảng 3. 17. Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố của Nhóm 2 88
Bảng 3. 18. Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố của Nhóm 3 89
Bảng 3. 19. Tổng hợp kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố .... 90
x
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1. 1. Cấu trúc tuyến tính của các gonadotropin ở động vật có vú.. .................... 16
Hình 1. 2. Cấu trúc của HCG .................................................................................... 19
Hình 1. 3. Cấu trúc hoá học của Estron, Estradiol và Estriol ..................................... 25
Hình 1. 4. Cấu trúc hoá học của progesterone ........................................................... 26
Hình 3. 1. Cầy vòi hương (P. hermaphroditus) trong điều kiện nuôi ......................... 44
Hình 3. 2. Cầy vòi hương ăn hạt cà phê ..................................................................... 45
Hình 3. 3. Cầy vòi hương ăn dưa hấu ........................................................................ 45
Hình 3. 4. Cơ quan sinh dục của cầy vòi hương đực trưởng thành ............................. 52
Hình 3. 5. Cơ quan sinh dục của cầy vòi hương cái trưởng thành .............................. 52
Hình 3. 6. Cầy vòi hương nuôi theo từng ô chuồng, xen kẽ ....................................... 53
Hình 3. 7. Cầy vòi hương được ghép đôi theo cặp đực và cái trong mùa sinh sản ...... 53
Hình 3. 8. Cầy vòi hương mẹ và cầy con 10 ngày tuổi .............................................. 57
Hình 3. 9. Cầy vòi hương sau khi cai sữa (3 tháng) ................................................... 57
Hình 3. 10. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F1) 72
Hình 3. 11. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F3) 72
Hình 3. 12. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F5) 73
Hình 3. 13. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F6) 73
Hình 3. 14. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F8) 74
Hình 3. 15. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F11)
................................................................................................................................. 74
Hình 3. 16. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F2, mang thai
vào 6/2017) ............................................................................................................... 76
Hình 3. 17. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F4, mang thai
vào 4/2017) ............................................................................................................... 76
Hình 3. 18. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F7, mang thai
2 lần vào 4/2017 và 1/2018) ...................................................................................... 77
Hình 3. 19. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F9, mang thai
vào 2/2017) ............................................................................................................... 77
xi
Hình 3. 20. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai giả (presumed
pseudopregnancy – F10) ........................................................................................... 78
Hình 3. 21. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai giả (presumed
pseudopregnancy – F12) ........................................................................................... 79
Hình 3. 22. Sự thay đổi hàm lượng Estradiol ở cầy vòi hương Nhóm 1 sau khi tiêm kích
dục tố ........................................................................................................................ 82
Hình 3. 23. Sự thay đổi hàm lượng Progesterone ở cầy vòi hương Nhóm 1 sau khi tiêm
kích dục tố ................................................................................................................ 83
Hình 3. 24. Sự thay đổi hàm lượng Estradiol ở cầy vòi hương Nhóm 2 sau khi tiêm kích
dục tố ........................................................................................................................ 83
Hình 3. 25. Sự thay đổi hàm lượng Progesterone ở cầy vòi hương Nhóm 2 sau khi tiêm
kích dục tố ................................................................................................................ 84
Hình 3. 26. Sự thay đổi hàm lượng Estradiol ở cầy vòi hương Nhóm 3 sau khi tiêm kích
dục tố ........................................................................................................................ 84
Hình 3. 27. Sự thay đổi hàm lượng Progesterone ở cầy vòi hương Nhóm 3 sau khi tiêm
kích dục tố ................................................................................................................ 85
Hình 3. 28. Thời gian xuất hiện và thời gian kéo dài động dục sau khi tiêm kích dục tố
................................................................................................................................. 86
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Cầy vòi hương -Paradoxurus hermaphroditus (Pallas, 1777) thuộc họ Cầy
(Viverridae), bộ ăn thịt (Carnivora). Loài thú này phân bố ở Nam Trung Quốc, Ấn Độ,
Lào, Malaysia, Myanmar, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Campuchia [1]; Nepal,
Singapore [2], Sri Lanka, Việt Nam và phân bố rải rác ở một số nơi khác trên thế giới
[3]. Đây là loài thú ăn tạp, thức ăn chủ yếu là các loại quả, và có vai trò quan trọng trong
phát tán hạt giống trong rừng [4, 5, 6]. Ở Việt Nam, cầy vòi hương phân bố rộng trên
toàn quốc [7].
Cầy vòi hương là loài thú quý hiếm trong nhóm IIB, được ưu tiên bảo vệ và thực
thi công ước về buôn bán quốc tế động, thực vật hoang dã nguy cấp. Việc săn bắt và sử
dụng cầy vòi hương với nhiều mục đích khác nhau như lấy thịt, da, lông, hương liệu;
sử dụng trong sản xuất “cà phê chồn”; mặt khác, sinh cảnh bị mất hoặc phân mảnh đang
làm cạn kiệt loài này trong tự nhiên [2, 8]. Bảo tồn, lưu giữ nguồn gen là một trong
những giải pháp khẩn cấp, thường xuyên và lâu dài [9]. Để bảo tồn bền vững nguồn gen
giống vật nuôi, việc khai thác và phát triển nguồn gen là giải pháp hữu hiệu [10]. Hiện
nay, ở Việt Nam đã gây nuôi cầy vòi hương nhằm phát triển kinh tế và góp phần giữ
gìn sự đa dạng sinh học [11]. Tuy nhiên, chưa có những nghiên cứu toàn diện và có hệ
thống về các đặc điểm sinh học của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi, làm cơ sở khoa
học cho quá trình thuần hoá, hoàn thiện quy trình kĩ thuật nhân nuôi hiệu quả, góp phần
bảo tồn bền vững loài.
Trong công tác quản lí con giống, việc tăng năng suất sinh sản của chúng rất cần
được chú ý. Sự kết hợp PMSG và HCG với liều lượng hợp lí đã gây bài noãn, kích thích
sinh sản hiệu quả trên nhiều đối tượng: chuột [12, 13], lợn [14], bò [15]. Ở Việt Nam,
có các công trình nghiên cứu ảnh hưởng của hormone sinh dục đến khả năng sinh sản
của bò, lợn [16, 17, 18, 19]. Kết quả nghiên cứu bước đầu về tác động của PMSG và
HCG trên thú hoang dã cho thấy tăng hiệu quả sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt [20,
21]. Do đó, việc nghiên cứu ảnh hưởng của kích dục tố lên khả năng sinh sản của cầy
vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt là có cơ sở và rất cần thiết; nhằm cải thiện thành
2
tích sinh sản, nâng cao hiệu quả chăn nuôi để vừa khai thác, vừa bảo tồn ngoại vi (ex-
situ conservation) loài động vật hoang dã quý hiếm này.
Từ những lí do cấp thiết trên, đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và
ảnh hưởng của kích dục tố đến khả năng sinh sản của cầy vòi hương (Paradoxurus
hermaphroditus Pallas, 1777) trong điều kiện nuôi nhốt” được thực hiện.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
- Xác định được các đặc điểm sinh học và một số chỉ tiêu sinh lí-sinh hóa máu,
nước tiểu của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt.
- Đánh giá sự thay đổi hormone sinh dục của cầy vòi hương cái và tác động của
kích dục tố lên khả năng sinh sản của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt nhằm bảo
tồn loài theo hướng phát triển số lượng.
3. Nội dung nghiên cứu của luận án
- Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học (hình thái, dinh dưỡng, tập tính, sinh
trưởng, sinh sản) của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt.
- Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí – sinh hóa máu, nước tiểu của cầy vòi hương
trong điều kiện nuôi nhốt.
- Nghiên cứu sự thay đổi hormone sinh dục của của cầy vòi hương cái trong điều
kiện nuôi nhốt.
- Nghiên cứu hiệu quả tác động của kích thích tố sinh dục (PMSG, HCG) đến sự
sinh sản của cầy vòi hương cái.
4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
4.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo có giá trị trong giảng dạy,
nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi thú hoang dã, đặc
biệt là cầy vòi hương.
- Tạo tiền đề cho các nghiên cứu tương tự trên các loài động vật hoang dã khác
trong điều kiện nuôi.
- Cơ sở khoa học cho việc ứng dụng công nghệ sinh học trên thú hoang dã.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
3
- Đề tài góp phần vào sự bảo tồn đa dạng sinh học (giá trị về kinh tế và giá trị tài
nguyên môi trường), bảo tồn và phát triển nguồn gen cầy vòi hương tại Việt Nam.
- Làm phong phú thêm một vật nuôi mới phục vụ phát triển chăn nuôi, tăng thu
nhập cho người chăn nuôi, góp phần vào sự phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền
vững ở nước ta.
- Góp phần hoàn thiện quy trình kỹ thuật nhân nuôi, tăng thành tích sinh sản của
cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt.
- Cung cấp dữ liệu tư vấn quan trọng giúp tăng hiệu quả bảo tồn, lưu giữ và khai
khác bền vững cầy vòi hương- một nguồn tài nguyên quý giá.
5. Tính mới của luận án
- Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về
đặc điểm sinh học (ngoại hình, dinh dưỡng, sinh trưởng, sinh sản, sinh lý- sinh hoá máu
và nước tiểu) của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt ở Việt Nam.
- Là công trình nghiên cứu đầu tiên đánh giá về sự thay đổi các chỉ số nội tiết
sinh dục của cầy vòi hương bằng phương pháp không xâm lấn nhằm xác định thời kì
động dục và ảnh hưởng của kích dục tố lên khả năng sinh sản của cầy vòi hương trong
điều kiện nuôi nhốt.
4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Sơ lược về cầy vòi hương
1.1.1. Phân loại
Vị trí phân loại của Cầy vòi hương trong hệ thống phân loại động vật [3, 7]:
Ngành: Động vật có dây sống (Chordata)
Lớp: Thú (Mammalia)
Bộ: Ăn thịt (Carnivora)
Họ: Cầy (Viverridae)
Giống: Paradoxurus
Loài: Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777
Tên đồng nghĩa (Symnonyms): Paradoxurus lignicolor Miller, 1903;
Paradoxurus musangus Raffles, 1821; Paradoxurus philippinensis Jourdan, 1837;
Viverra hermaphrodita Pallas, 1777 [3], Paradoxurus cochinesis Schwarz, 1911 [7].
Tên thường gọi (Common names): Common Palm Civet, Mentawai Palm Civet.
Tên tiếng Việt: cầy vòi hương, cầy vòi đốm [7].
1.1.2. Đặc điểm ngoại hình
Cầy vòi hương trưởng thành nặng khoảng từ 2 đến 5 kg. Chiều dài thân khoảng
từ 480 đến 700 mm, đuôi dài từ 400 đến 660 mm. Khuôn mặt dài nhọn đặc trưng của
họ cầy. Các gờ mấu ở xương sọ khá phát triển. Mấu sau mắt dài. Xương trán tương đối
bằng. Eo sau mắt thắt nhỏ (nhỏ hơn gian mắt). Mấu bên xương chẩm dính với mặt sau
bầu nhĩ tạo thành đế khá lớn. Răng nhỏ thấp, gờ nhai tù. Răng trước hàm số 1 rất nhỏ,
có thể mất. Đế bàn chân lớn, đế bàn chân sau có thùy kéo dài để bám lúc leo trèo. Khác
với cầy hương, tuyến xạ của con đực nằm ngay trước tinh hoàn, lộ ra ngoài; tuyến xạ
của cầy vòi hương nằm sâu phía trong mông, phân bố hai bên hậu môn mà không lộ ra
ngoài [7, 11]. Cả cầy đực và cái của loài này đều có mùi hương đáy chậu dưới đuôi của
chúng. Tuyến này nằm trong một túi dưới da bụng, được sử dụng để phun trong phòng
vệ, đánh dấu lãnh thổ và giao tiếp với những cá thể khác của loài [3, 7].
5
1.1.3. Tập tính và sinh sản
Cầy vòi hương chủ yếu sống ở rừng, thường đi đơn. Sinh hoạt kiếm ăn đêm,
ngày ngủ. Vào mùa khan hiếm thức ăn, cầy vòi hương cũng có thể kiếm ăn vào ban
ngày. Cầy vòi hương là loài ăn tạp, thức ăn tự nhiên bao gồm cả thực vật (thành phần
thức ăn chủ yếu gồm các loại quả chín kỹ, nhằn vỏ, nuốt hạt) lẫn động vật (gồm côn
trùng, cua, ốc) chiếm tỷ lệ ít, tuy nhiên loài này thường ăn thực vật nhiều hơn động vật
[4, 7].
Cầy vòi hương sinh sản quanh năm và thường tập trung vào các thời điểm tháng
4, 5, 6 và tháng 10, 11, 12. Mỗi lứa 2 - 4 con [3, 7, 11, 22].
1.1.4. Phân bố
Cầy vòi hương phân bố ở các khu vực như Ấn Độ, Nepal, Bangladesh, Bhutan,
Myanmar, Sri Lanka, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Brunei, Lào, Campuchia, Việt
Nam, Trung Quốc, Philippines và các quần đảo Sumatra, Java, Kalimantan, Bawean và
Siberut của Indonesia. Chúng được du nhập đến Irian Jaya, quần đảo Sunda, Maluku,
Sulawesi và Nhật Bản. Riêng ở Việt Nam, loài này phân bố rộng trên toàn quốc, kể cả
ở Côn Đảo, Phú Quốc [3, 7]. Cầy vòi hương thường sinh sống ở các khu rừng nguyên
sinh, kể cả rừng thứ sinh nhưng với mật độ thấp. Loài thú này cũng được tìm thấy tại
các khu vườn ở ngoại ô, nơi có nhiều trái cây chín.
1.1.5. Tình hình nuôi cầy vòi hương
Cầy vòi hương được nuôi ở Ấn Độ, Sri Lanka, Mianmar, Nam Trung Quốc, Thái
Lan, Malaysia, Lào và Campuchia. Việc nuôi cầy vòi hương sản xuất cà phê chồn hiện
nay được thực hiện nhiều tại Indonesia với thương hiệu nổi tiếng Kopi Luwak [23].
Ở Việt Nam, việc nuôi cầy vòi hương để sản xuất cà phê chồn được thực hiện ở
một số tỉnh có diện tích trồng cà phê lớn: Đắk Lắk, Lâm Đồng. Trong đó Đắk Lắk là
tỉnh có nhiều cơ sở nuôi cầy vòi hương để sản xuất cà phê chồn có quy mô lớn nhất cả
nước. Nhiều địa phương nuôi chủ yếu để cung cấp giống và thịt như Bắc Giang, Nam
Định, Hà Nội, Thanh Hóa, Trà Vinh, Đắk Lắk, Long An, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí
Minh [11].
6
1.2. Tình hình nghiên cứu về cầy vòi hương
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
1.2.1.1. Nghiên cứu về tập tính, phân bố và hiện trạng loài trong tự nhiên
Cầy vòi hương (P. hermaphroditus) đã được nghiên cứu ở Vườn Quốc gia
Chitwan Royal- Nepal, nhằm xác định hoạt động hàng ngày và thay đổi tập tính dinh
dưỡng theo mùa. Năm cá thể trưởng thành (hai cái và ba đực) được bắt và gắn với thiết
bị để theo dõi. Mỗi con được theo dõi trong 12 tháng liên tiếp cả đêm lẫn ngày. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, loài thú này hoạt động ban đêm nhiều hơn ban ngày. Trong 193
dạ dày cầy vòi hương được thu thập, có 84,5% dạ dày tìm thấy có hạt của các loại trái
cây. Vào tháng tư, khi không có quả chín, cầy thay đổi chế độ ăn từ trái cây sang ăn các
loài động vật không xương sống và động vật có xương sống kích thước nhỏ. Cầy vòi
hương cũng được cho là ăn mật hoa và nhựa từ thân của cây Vallaris solanacea. Tập
tính ăn động vật và hoạt động chủ yếu về đêm cho thấy cầy vòi hương rất dễ bị ăn thịt
bởi các loài động vật ăn thịt cỡ lớn [4].
Cầy vòi hương có khả năng ăn hạt cà phê tuy nhiên không thể tiêu hóa được hoàn
toàn quả cà phê, nó chỉ tiêu hóa được phần thịt quả cà phê, rồi thải ra ngoài phần hạt
cứng không tiêu hóa được. Những hạt này có hương rất khác biệt và hiếm có nên được
chế biến thành một loại cà phê cao cấp và được gọi là “cà phê chồn” [1, 4].
Một báo cáo của viện nghiên cứu ở Triều Tiên vào năm 1997, về thói quen ăn
uống của cầy vòi hương, đã liệt kê các loại thức ăn mà loài sử dụng bao gồm: nhóm
động vật hữu nhũ nhỏ, các loài thuộc lớp chim, bò sát, lưỡng cư, cá, giáp xác, côn trùng,
giun đất và hoa quả. Trong đó, 4 nhóm thức ăn chính của cầy vòi hương là côn trùng,
giun đất, hoa quả, và loài hữu nhũ [24].
Cầy vòi hương có lối sống đơn lẻ, trừ một thời gian ngắn vào mùa giao phối.
Chúng sống trên cạn và trên cây, hoạt động mạnh về đêm vào giữa buổi tối muộn đến
sau nửa đêm [5]. Nakabayashi et al. (2012) đã tiến hành nghiên cứu các tương tác xã
hội giữa cầy vòi hương đực, giữa cầy đực và cái. Các quan sát được hỗ trợ bởi ống
nhòm và đèn pha có bộ lọc màu để đảm bảo ánh sáng không chiếu trực tiếp vào động
vật theo dõi. Chiều cao của cây và các vị trí của động vật theo dõi được đo bằng máy
đo khoảng cách laser. Giới tính được xác định bằng cách quan sát bộ phận sinh dục
7
ngoài. Thông tin từ kết quả quan sát cho thấy rằng hoạt động kiếm ăn chung ở cầy vòi
hương ít phổ biến [25].
Cầy vòi hương đánh dấu mùi và phản ứng khứu giác qua các chất tiết khác nhau
của tuyến đáy chậu, nước tiểu và phân. Sáu hình thức của hành vi đánh dấu mùi hương
đã được mô tả. Các hoạt động và tỷ lệ hình thức của hành vi đánh dấu khác nhau ở con
đực và con cái. Hành vi đánh dấu bằng cách kéo các tuyến đáy chậu và để lại chất tiết
trên bề mặt là phổ biến nhất được quan sát ở cả hai giới. Các phản ứng khứu giác cũng
thay đổi theo thời gian và phụ thuộc vào giới tính và loại chất bài tiết [26].
Spaan et al. (2014) đã đặt camera quan sát để nghiên cứu theo dõi về sự phân bố
và tập tính của cầy vòi hương trong tự nhiên. Kết quả cho thấy, chúng thường xuyên di
chuyển trên cây, di chuyển theo đường ống nước hay các cấu trúc nhân tạo khác nhau
và đôi khi di chuyển trên mặt đất. Ngoài ra, cầy cũng sử dụng hệ thống ống thoát nước
và mái nhà để ngủ. Cầy vòi hương có thể sử dụng đường ống và các con đường nhân
tạo khác để di chuyển, màng giữa các ngón chân của chúng giúp tăng diện tích tiếp xúc
giữa mặt dưới của bàn chân với bề mặt chất nền. Hơn nữa, sự giảm thấp của trọng lực
sẽ tăng cường sự an toàn của chúng khi đi bộ dọc theo các chất nền không ổn định hoặc
mỏng [27].
Về tầm quan trọng của cầy vòi hương trong việc phát tán hạt, Nakashima và
Sukor (2010) đã tiến hành nghiên cứu tại khu bảo tồn động vật hoang dã Tabin, trên
đảo Borneo của Malaysia [6]. Các tác giả đã ước tính và dự đoán rằng khoảng cách phát
tán hạt của cầy vòi hương xa hơn so với khỉ, và là một bộ phận tham gia phát tán tiềm
năng các loại hạt giống có kích thước lớn trong rừng. Kết quả quan sát cho thấy, khi ăn
cầy vòi hương thường nuốt hạt giống, thời gian lưu giữ hạt giống trung bình của cầy
hương là 2,6 giờ. Thời gian này là lâu hơn: 75 giây so với khỉ đuôi dài và 156 giây so
với khỉ đuôi lợn. Việc theo dõi các hoạt động của cầy vòi hương đã chứng minh rằng
chúng đã đi vài trăm mét trong thời gian kiếm ăn. Các ước tính trung bình khoảng cách
phát tán hạt là 216 m. Ở một nghiên cứu khác, Nakashima et al. (2010) cũng đã sử dụng
kỹ thuật phân tử để vượt qua những khó khăn trong việc phân biệt giữa các loài qua
mẫu phân của chúng [28]. Các mẫu phân thu thập đã được đưa vào túi nhựa và lưu trữ
trong tủ đông ở -200C. Hạt có trong phân được sàng lọc qua lưới nylon 2 mm. Chiều
dài và chiều rộng hạt được đo với thước kẹp có đơn vị đo micromet. Sau đó, hạt được
8
trồng vào chậu đất và tưới nước hàng ngày, tối thiểu là sáu tháng để đánh giá khả năng
phát triển hạt giống và xác định loài. Để xác định các loài động vật trong các mẫu phân
thu được, nhóm tác giả đã chiết xuất DNA từ khoảng 200 mg của mẫu phân. Tổng cộng
111 mẫu phân (79,1%) từ 139 mẫu phân thu thập được phân tích trình tự DNA. Kết quả
cho thấy thành phần của phân cầy chủ yếu bao gồm hạt giống (92% các mẫu phân),
động vật gặm nhấm (6,3%), động vật nhiều chân (5,5%), cua (4,5%), côn trùng (4,5%),
chim (0,9%), ốc (0,9%), và hoa (0,9%). Các tần số xuất hiện của các mẫu phân có chứa
hạt của cầy không thay đổi đáng kể trong những tháng khác nhau (χ2 = 10.0, P> 0,05).
Hạt giống thuộc 30 loài thực vật khác nhau đã được xác định. Trong nghiên cứu này,
tác giả đã chứng minh rằng cầy vòi hương có thể nuốt và phát tán các loại hạt giống có
kích thước lớn không tương xứng với khối lượng cơ thể của chúng và do đó đóng một
vai trò quan trọng phát tán xa cho các loại hạt giống trong rừng. Do vậy, chúng ta cần
phải bảo tồn loài này để duy trì sự ổn định của hệ sinh thái, đặc biệt là ở các khu vực
rừng bị suy thoái, khó tái sinh [28].
Về thực trạng của loài trong tự nhiên, nhiều công bố cho thấy cầy vòi hương bị
săn bắt và giảm số lượng đáng kể. Theo Shepherd (2012); Marcus et al. (2012); Chua
et al. (2012) có đủ bằng chứng để chỉ ra rằng trên phạm vi rộng lớn loài này là một
trong những loài phổ biến nhất đã bị săn bắt ở Phillipines, Myanmar, Thái Lan, Việt
Nam, Lào [2, 8, 29]. Các khảo sát cho thấy rằng gần đây đã giảm số lượng của loài này
ở khu vực Đông Nam Á. Iseborn (2012) đã xác định độ phong phú của cầy vòi hương
ở khu bảo tồn động vật hoang dã Phnom Samkos và Khu bảo tồn Veun Sai-Siem Pang-
Campuchia, công bố chắc chắn gặp phải P. hermaphroditus ở cả hai nơi, nhưng mật độ
thấp [1].
Một nghiên cứu khác góp phần bảo tồn loài được thực hiện bởi Nakashima et al.
(2013). Kết quả cho thấy, đối với cả cầy đực và cái, việc sử dụng không gian sống phần
lớn bị ảnh hưởng bởi sự phân bố sẵn có của các loại quả. Vào các mùa không có trái
cây trong rừng, cầy vòi hương thường đến các vườn trồng cây ăn quả ở bên ngoài khu
vực phân bố. Mặt khác, những khu vực sẵn có chỗ ngủ cho cầy vào ban ngày như cây
cọ hoặc dương xỉ cũng có ảnh hưởng đến mô hình phân bố khác nhau của cầy vòi hương.
Nghiên cứu chỉ ra rằng, độ sẵn có của trái cây và các vị trí ngủ thích hợp có thể là yếu
9
tố quan trọng cho sự sống sót của cầy vòi hương và nên cần được chú ý bảo tồn hoặc
khôi phục để bảo tồn cầy vòi hương trong tự nhiên [30].
1.2.1.2. Nghiên cứu về đặc điểm giải phẫu, sinh lí - sinh hóa máu
Về đặc điểm giải phẫu, Guraya (1979; 1981) đã mô tả đặc điểm hình thái học và
cấu tạo của buồng trứng cầy vòi hương [31, 32]. Rung-ruangkijkrai et al. (2006) mô tả
đặc điểm cấu tạo hệ tuần hoàn, trong đó có mô hình động mạch vành và cung động
mạch chủ của cầy vòi hương [33]. Tim của cầy vòi hương có hình bầu dục và tương tự
tim của mèo. Mô hình phân nhánh của động mạch vành được gọi là song phương loại
vành tương tự như của ngựa, lợn, người và khỉ. Patil et al. (2016) đã nghiên cứu cấu tạo
giải phẫu hệ bài tiết của cầy vòi hương [34]. Nghiên cứu sử dụng thận của một cá thể
cầy vòi hương trưởng thành bị bắt ở miền nam Ấn Độ. Các tác giả đã cân khối lượng
và đo kích thước của thận, sau đó chụp ảnh để kiểm tra mạng lưới mao dẫn hiện diện
trên bề mặt. Kết quả cho thấy hệ tiết niệu của P. hermaphroditus cũng giống như các
loài động vật có vú khác bao gồm thận, niệu quản, bàng quang và niệu đạo. Thận cấu
tạo đơn giản, hình hạt đậu và được bao phủ bởi một màng collagen mỏng. Thận nằm ở
thành sau của khoang bụng, bên dưới phúc mạc và gần như tương đương nhau về kích
thước và khối lượng. Thận phải có khối lượng 6,19 gram với kích thước 31x19x11 mm,
thận trái nặng 6,20 gram và kích thước 29x21x12 mm. Nghiên cứu cũng đã mô tả cấu
tạo hiển vi của cấu trúc nang Bowman, hệ thống các ống lượn gần dày đặc, quai Henle
và sự hiện diện của chùm vi ống dày đặc ở bề mặt của các tế bào biểu mô cột tạo điều
kiện thuận lợi cho việc hấp thụ lại glucose, phosphate, các khoáng chất khi chất lọc đi
qua nó.
Để tìm hiểu cơ chế sản xuất hormone steroid của tinh hoàn, Sasaki et al. (2008)
đã kiểm tra các thụ thể enzyme và steroid trong tinh hoàn và tuyến đáy chậu của cầy
vòi hương [35]. Các tinh hoàn và tuyến đáy chậu thu được từ cầy vòi hương đực bị bắt
ở đảo Sumatra, Indonesia được sử dụng trong nghiên cứu này. Các mẫu mô đã được cố
định trong dịch Bouin, phần paraffin được cắt lát dày 4 µm, sau đó nhuộm hóa mô miễn
dịch bằng hematoxylin và eosin (HE). Để phát hiện sự có mặt của enzyme steroidogenic
(P450scc) và các thụ thể steroid (AR, ERα, ERβ), các lát cắt được nhuộm màu bằng
cách sử dụng phương pháp avidin-biotin peroxidase (ABC). Trong tất cả các mẫu, chỉ
10
trong tế bào chất của tế bào Leydig, các phản ứng miễn dịch cho P450scc được phát
hiện. Các nhuộm miễn dịch tích cực cho AR đã được xác định có mặt trong các tế bào
Sertoli, các tế bào Leydig, và các tế bào myoid, nhưng không có ở tế bào mầm. Ở con
trưởng thành, ERα đã được phát hiện chỉ có trong các tế bào Leydig, trong khi phản
ứng miễn dịch cho ERβ đã được ghi nhận. Trong nghiên cứu này, P450scc đã được phát
hiện trong các tế bào Leydig của cầy vòi hương. P450scc là chất chủ yếu trong con
đường tổng hợp testosterone từ cholesterol. Ở cầy vòi hương, testosterone được tổng
hợp trong các tế bào Leydig, và điều chỉnh các chức năng của các tế bào Sertoli, các tế
bào Leydig, và các tế bào myoid qua AR. Testosterone tiết ra từ tinh hoàn có thể thúc
đẩy sự bài tiết từ apocrine và tuyến bã nhờn. ERα của tinh hoàn cầy vòi hương đã được
xác định chỉ có trong các tế bào Leydig, và ERβ đã được phát hiện chỉ có trong tế bào
mầm.
Các chỉ số sinh lí, cấu trúc, hình thái các tế bào máu của cầy vòi hương đã được
nghiên cứu trên bốn cá thể cầy được nuôi ở vườn thú Khaokeaw Open Zoo, Thái Lan
[36]. Kết quả cho thấy, không có ký sinh trùng trong tất cả các mẫu máu ở cầy vòi
hương được nghiên cứu. Hồng cầu tương đối đồng đều về kích thước, đường kính trung
bình là 4,3 µm. Bạch cầu đa nhân trung tính có các hạt nhân nhỏ liên kết chặt chẽ, có
nhiều hạt, phát hiện rõ bằng kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM). Bạch cầu đa nhân
trung tính bắt màu mạnh mẽ với Sudan B đen (SBB) và peroxidase (PO) nhưng âm tính
với alpha-naphthyl acetate esterase (ANAE) và '-glucuronidase (`G). Quan sát bằng
kính hiển vi điện tử quét (SEM) đã cho thấy nhiều vi lông và một số vi lỗ trên bề mặt
tế bào bạch cầu. Bạch cầu ái toan chứa nhiều vòng hạt khúc xạ lớn màu đỏ và bắt màu
mạnh mẽ tích cực với SBB và PO, nhưng âm tính với ANAE và 'G. Bạch cầu ưa kiềm
âm tính với SBB và PO, nhưng bắt màu tích cực với ANAE và bắt màu vừa với `G. Qua
SEM, bề mặt của tế bào basophil trơn với các đường viền hạt nhỏ. Về siêu cấu trúc,
chúng chứa các hạt electron dày, nhỏ, đồng nhất và ít hơn so với nhóm bạch cầu ái toan.
Lympho bào âm tính với SBB và PO, nhưng có 2 mẫu phản ứng với ANAE và 'G. Bạch
cầu đơn nhân âm tính với SBB, PO và 'G nhưng phản ứng vừa phải với ANAE. Các hạt
bạch cầu ái toan có cấu trúc tròn, kích thước lớn là những đặc trưng của bạch cầu ở cầy
vòi hương. Kết quả của nghiên cứu là cơ sở để thực hiện các phản ứng nhuộm màu cũng
như quan sát cấu trúc hiển vi và siêu hiển vi của tế bào máu trên loài này. Tuy nhiên,
11
về chỉ số trung bình của các loại tế bào máu thì với 4 cá thể nên số liệu chưa đáng tin
cậy.
Ahmad et al. (2017) thực hiện một nghiên cứu khác về các chỉ số sinh lí, sinh
hóa máu khảo sát trên 33 cá thể cầy vòi hương được giải cứu trước khi đưa trở lại môi
trường tự nhiên ở Singapore [37]. Có sự khác biệt đáng kể theo độ tuổi (P <0,05) về
hàm lượng hemoglobin, số lượng hồng cầu, nồng độ globulin tổng số và protein huyết
thanh. Cầy vòi hương trưởng thành có các giá trị này cao hơn so với với cầy chưa trưởng
thành. Thể tích trung bình hồng cầu (MCV), alkaline phosphatase (ALP) và nồng độ
phốt pho cao hơn đáng kể (P <0,05) ở cầy non so với cầy trưởng thành. Hemoglobin,
tổng số hồng cầu (RBC) và thể tích khối tiểu cầu (PCV) của cầy trưởng thành là cao
hơn đáng kể (P <0,05) so với cầy non. Thể tích hồng cầu (MCV) của cầy non có cao
hơn giá trị so với cầy trưởng thành (P <0,05). Tuy nhiên, ở nghiên cứu này, độ tuổi của
cầy được phỏng đoán dựa theo cân nặng và các chỉ số huyết học chưa được theo dõi
theo giới tính. Vì vậy, các đặc điểm sinh lí máu của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi
nhốt theo độ tuổi và theo giới tính cần được tiếp tục nghiên cứu; làm cơ sở cho việc
đánh giá tình trạng sức khỏe, góp phần chẩn đoán và điều trị bệnh của cầy vòi hương
trong điều kiện nuôi hiệu quả.
1.2.1.3. Nghiên cứu về tính đa dạng di truyền và phát sinh loài
Phân tích tính đa dạng di truyền của họ cầy (Viverridae), phát sinh loài bộ ăn thịt
(Carnivora) lần đầu tiên được khám phá bởi Yu và Zhang (2005) bằng cách giải trình
tự DNA [38]. Nhóm tác giả đã sử dụng hai gen ti thể đầy đủ (ND2 và ND4) và gen nhân
beta-fibrinogen intron 7. Việc kết hợp (ND5, cytb, 12S, và 16SrRNA) và hai gen nhân
(IRBP và TTR) chuỗi locus cũng được kết hợp để tái tạo lại phát sinh loài của 14 loài
thuộc họ cầy có quan hệ họ hàng.
Patou et al. (2008) đã tiến hành giải mã trình tự của hai gen ti thể (Cytochrome
b và ND2) và hai gen nhân (một đoạn không mã hóa: intron 7 của β-frinogen và một
đoạn mã hóa: exon 1 của IRBP). Nhóm tác giả kết luận, việc bổ sung các dữ liệu DNA
nhân, đặc biệt là các β -fibrinogen intron 7, đóng vai trò trọng yếu trong giải thích việc
phát sinh loài của hai giống Hemigalinae và Paradoxurinae [39].
12
Tiếp tục nghiên cứu về chủng loại phát sinh loài, Patou et al. (2010) sử dụng dữ
liệu phân tử, các đặc điểm của răng và hàm để nghiên cứu sự đa dạng di truyền và hình
thái của các loài trong chi Paradoxurus; tập trung vào loài cầy bản địa Paradoxurus
hermaphroditus (Carnivora, Viverridae) [40]. Veron et al. (2015) đã nghiên cứu sự đa
dạng di truyền của chi Paradoxurus bằng cách sử dụng hai gen ti thể (cytochrome b,
khu vực kiểm soát CR) và một gen nhân (intron 7 của β-fibrinogen) đánh dấu [41].
Nhóm tác giả đã sử dụng mẫu từ 85 cá thể thuộc loài P. hermaphroditus (bao gồm 20
mẫu vật bảo tàng) và một đại diện của mỗi loài khác trong chi Paradoxurus:
Paradoxurus jerdoni và Paradoxurus zeylonensis để phân tích trình tự DNA. Mặt khác,
nhóm tác giả kiểm tra đặc điểm hàm và răng từ các mẫu vật; so sánh sự biến đổi về hình
thái với các dữ liệu phân tử. Phân tích phát sinh loài cho thấy rằng P. hermaphroditus
là cận ngành. Nhóm tác giả nhận thấy có ba dòng phân phối chính: (1) Ấn Độ, phía nam
Trung Quốc, đảo Hải Nam và khu vực Đông Dương; (2) ở bán đảo Malaysia, Java,
Sumatra; và (3) ở Borneo, Philippines và quần đảo Mentawai. Quan sát hình thái học
cũng tương đồng với ba dòng phân tử. Theo kết quả nghiên cứu này thì cầy vòi hương
ở Việt Nam nằm trong nhánh (1), theo đề nghị thuộc loài: P. hermaproditus (Indian
palm civet).
Một số nghiên cứu khác liên quan đến khả năng sản xuất “cà phê chồn” của cầy
vòi hương cũng được chú ý. Cầy vòi hương tiêu hóa trái cà phê và thải ra hạt cà phê,
nông dân thu thập, rửa, rang và đã một trở thành một thức uống đặc biệt [42]. Quá trình
lên men tự nhiên xảy ra trong hệ tiêu hóa của cầy vòi hương đã làm ra sự khác biệt. Sản
xuất cà phê chồn bắt đầu khi các hạt cà phê được thu thập trong tự nhiên từ phân của
những con cầy, như là một phương tiện để đánh dấu lãnh thổ của mình. Sau khi qua
đường tiêu hóa của cầy vòi hương, hạt cà phê giữ nguyên hình dạng và còn bao phủ một
ít thịt quả. Sau khi được thu gom, rửa kỹ lưỡng và loại bỏ các phần bao bên ngoài; đồng
thời quá trình rang xay sẽ loại bỏ những vi khuẩn còn sót. Marcone (2004) đã xem xét
các quá trình trong đó các axit trong dạ dày của cầy và các enzyme tiêu hóa bao phủ và
lên men hạt cà phê [23]. Nghiên cứu cho thấy enzyme tiêu hóa nội sinh của cầy vòi
hương thấm vào hạt cà phê. Các enzyme phân giải protein phá vỡ các protein của cà
phê, tạo ra peptide ngắn hơn và nhiều axit amin tự do. Các protein này cũng được tham
gia vào các phản ứng không enzyme về sau bằng cách rang. Một phân tích bằng mũi
13
điện tử về các hợp chất dễ bay hơi có vai trò trong tạo hương vị của cà phê. Kết quả cho
thấy rằng có sự khác biệt đáng kể về hương và vị giữa cà phê chồn và cà phê thường.
Nhóm tác giả kết luận rằng, enzyme trong hệ tiêu hóa cầy đã làm cấu trúc protein bị
thay đổi, làm giảm vị đắng và có khả năng ảnh hưởng đến hương vị [23].
Tóm lại, các nghiên cứu về cầy vòi hương trên thế giới chủ yếu công bố các đặc
điểm sinh học của loài này trong điều kiện tự nhiên. Các nghiên cứu tập trung vào các
tập tính, đặc điểm sinh lí máu của loài này trong tự nhiên, về tính đa dạng di truyền và
sự phát sinh loài. Như vậy, chưa có công bố nào về đặc điểm sinh học (sinh trưởng, sinh
sản, chu kì động dục), cũng như việc sử dụng kích dục tố nhằm tăng khả năng sinh sản
của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Các nghiên cứu trong nước chủ yếu đề cập đến lợi ích kinh tế của loài và một số
đặc điểm sinh học trong tự nhiên. Cầy vòi hương là một loài có giá trị kinh tế cao, thịt
thơm ngon. Tuyến xạ (xạ hương) của cầy vòi hương được sử dụng trong sản xuất mỹ
phẩm cao cấp. Xạ của cầy vòi hương cũng là một vị thuốc vô cùng quý trong y học cổ
truyền và được sử dụng như xạ hương của hươu xạ [7]. Đây cũng là loài có khả năng
nhân nuôi tốt cùng với các loài thú khác thuộc họ cầy (Viverridae) ở Việt Nam [22].
Cầy vòi hương thuộc nhóm động vật ăn tạp, có tập tính kiếm ăn vào ban đêm.
Thức ăn chủ yếu là những loại quả chín của các loài cây mọc trong tự nhiên và các loài
gặm nhấm, côn trùng mà chúng săn bắt được [7, 11]. Có khá nhiều tài liệu đề cập đến
sinh học, sinh thái và tập tính của cầy vòi hương trong tự nhiên. Đây chính là thông tin
cơ sở để xây dựng chuồng trại, chăm sóc và nuôi dưỡng trong điều kiện nuôi nhốt. Cầy
vòi hương là loài thích trái cây mềm và chúng lựa chọn rất kỹ các trái cây để ăn. Chúng
cũng ăn quả cà phê song chỉ chọn những quả chín mọng, có vị ngọt, hương thơm. Về
phía thức ăn động vật, cầy vòi hương thường ăn những côn trùng như rắn, bọ hung, giun
đất, chuột, trứng chim. Về thức ăn có nguồn gốc thực vật, chúng ăn những loại trái cây
chín có vị ngọt như nhãn, mít, chuối, đu đủ [7, 11].
Cầy vòi hương có kiểu hình bộ máy tiêu hóa của loài ăn tạp: dạ dày phát triển,
gồm có 4 vùng: vùng thượng vị, vùng đường cong lớn, vùng trung vị và vùng hạ vị.
Đây là kiểu hình vừa tiêu hóa thức ăn tinh vừa tiêu hóa thức ăn xanh tùy theo khẩu
14
phần. Trong điều kiện hoang dã, nguồn thức ăn không ổn định về chất lượng và số
lượng, nên bộ máy tiêu hóa đa dạng là một lợi thế. Với tập tính kiếm ăn vào ban đêm,
thường là đầu hôm đến giữa đêm nên thời gian tiêu hóa thức ăn chủ yếu vào ban đêm,
giảm hoạt động vào ban ngày. Chính vì thế, nếu thuần hóa và chăn nuôi dạng sinh thái,
nên cho ăn bữa ăn chính vào buổi chiều tối, tốt nhất là sau 6 giờ chiều nhằm không làm
thay đổi tập tính vốn có của loài này [11].
Roberton (2007) đã nghiên cứu đặc điểm sinh học của cầy vòi hương hoang dã
tại Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức quan sát một số đặc điểm
sinh học, đánh giá thực trạng, phân bố của loài và đưa ra những cảnh báo về việc bảo
tồn loài này trong điều kiện hoang dã [43]. Đặng Huy Huỳnh và cs. (2010) đã mô tả khá
chi tiết về đặc điểm phân bố và đặc điểm sinh học của loài này ở Việt Nam. Theo Đặng
Huy Huỳnh, cầy vòi hương còn có các tên gọi khác là cầy vòi đen, cầy vòi đốm, chồn
ngận hương, chồn mướp; hên moóng meo (Tày); nhển moòng, nhển củn (Thái); cui
vằng (Mường); đèn bảo minh, đền tây diền (Dao). Cầy vòi hương có tuyến xạ phát triển
và thường tỏa mùi thơm khi hoạt động. Tuyến xạ của cầy vòi hương nằm sâu phía trong
mông, phân bố hai bên hậu môn mà không lộ ra ngoài; khác với cầy hương (Viverricula
india), tuyến xạ của con đực nằm ngay trước tinh hoàn, lộ ra ngoài [7].
Tập tính của cầy vòi hương (P. hermaphroditus) cơ bản gần giống cầy vòi mốc
(Paguma larvata). Cầy vòi hương chủ yếu sống ở rừng, chúng sống cả ở rừng nguyên
sinh và rừng thứ sinh. Cầy vòi hương thường trú ẩn trong các bọng và tán cây, sinh hoạt
kiếm ăn vào ban đêm, ban ngày ngủ. Loài này thường hoạt động chủ yếu trên cây ít khi
xuống đất. Cầy sống đơn, chỉ ghép đôi trong mùa sinh sản [7]. Cầy vòi hương thuộc bộ
thú ăn thịt nhưng loài này thường ăn thực vật nhiều hơn động vật. Trong điều kiện nuôi
nhốt, cầy ăn tạp, kể cả rau, thịt, cá, cơm, canh [7, 11].
Cầy vòi hương động dục vào các tháng 2 – 4, đẻ con vào tháng 5 – 6, mỗi lứa 2
– 4 con. Thời gian chửa 60 – 63 ngày. Tuổi thọ của cầy vòi hương trong điều kiện tự
nhiên khoảng 14 năm. Trong điều kiện nuôi, có cá thể sống tới 22 năm 5 tháng [7]. Cầy
vòi hương sống ở rừng cây gỗ núi đất, núi đá và cả rừng ngập nước ven biển hay rừng
tràm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Loài này không đào hang ở và không có chỗ ở cố
định [7, 22].
15
Tóm lại, các nghiên cứu trong nước về cầy vòi hương còn khá ít, chủ yếu là công
bố về đặc điểm phân loại và phân bố của loài này trong tự nhiên, chưa có những nghiên
cứu mang tính hệ thống về các đặc điểm sinh học của cầy vòi hương trong điều kiện
nuôi, các kỹ thuật đánh giá về chu kì sinh sản và sử dụng kích dục tố nhằm tăng số
lượng đàn trong điều kiên nuôi nhốt.
1.3. Tổng quan về PMSG và HCG
1.3.1. Cấu trúc, chức năng của PMSG
1.3.1.1. Nguồn gốc và cấu trúc của PMSG (eCG)
Equine Chorionic Gonadotropin (eCG) là một hormone được sản xuất trong
màng đệm sinh dục của ngựa cái mang thai, thường được gọi là huyết thanh ngựa chửa
(Pregnant Mare's Serum Gonadotropin -PMSG). PMSG tiết ra từ nội mạc tử cung của
ngựa cái từ ngày thứ 40 đến ngày 130 thai kỳ, có bản chất là một kích thích tố
glycoprotein, gồm có hai tiểu đơn vị là alpha và beta. Các tiểu đơn vị alpha là chung
cho tất cả các hormone glycoprotein (LH, FSH, TSH). Các tiểu đơn vị beta là đặc trưng
theo loài [44] .
Trong những nghiên cứu đầu tiên, huyết thanh từ những con ngựa mang thai
được tiêm vào động vật thí nghiệm đã kích thích sự tăng trưởng buồng trứng. Thành
phần hoạt tính sinh học của kích thích tố này được đặt tên là gonadotropin huyết thanh
mang thai (PMSG) để phản ánh sự xuất hiện trong tháng thứ 2-5 của thai kỳ. Một thời
gian sau đó, chất đóng vai trò kích thích buồng trứng này đã được xác định có mặt trong
tử cung ngựa, dẫn đến gợi ý rằng nó có nguồn gốc từ bào thai [44]. Các nghiên cứu vào
đầu những năm 1970 đã xác nhận rằng, nguồn gốc của hormone này là từ các tế bào
chorionic bào thai xâm nhập biểu mô tử cung để tạo thành các lớp nội mạc tử cung.
Phát hiện này đã dẫn đến việc đổi tên hormone PMSG thành gonadotropin chorionic
(eCG) [44]. Phân tích protein đã chứng minh rằng eCG được tổng hợp và tiết ra tương
tự như gonadotropin tuyến yên (FSH, LH), nó được chuyển hóa sau khi được glycosyl
hóa [45]. Giải trình tự axit amin cho thấy cấu trúc chính của eCGß giống hệt với LHß.
Cả hai hiển thị một phần mở rộng đầu cuối carboxyl của 30 axit amin, và đuôi này được
glycosyl hóa mạnh (Hình 1.1). Các nghiên cứu sau đó đã chứng minh rằng chúng là hai
sản phẩm của một gen đơn [46]. Sự glycosyl hóa đã phân biệt chúng, vì chuỗi LH được
16
bổ sung với oligosaccharides sialyl hóa và sulfat, trong khi các dạng sialyl hóa chiếm
ưu thế trong phân tử eCGß glycosyl hoá mạnh hơn [47]. Sự khác biệt này, đặc biệt là
sự gắn kết của axit sialic, dẫn tới một trong những tính chất quan trọng nhất là thời gian
bán rã sinh học kéo dài của PMSG, dài hơn sáu lần so với LH [48].
Màng đệm bắt đầu phát triển trong giai đoạn phôi sớm trong tuần thứ 7 của thai
kỳ và bắt đầu xâm nhập nội mạc tử cung để tạo thành các ống nội mạc tử cung. Vào
thời gian này, eCG có thể được phát hiện trong huyết thanh của ngựa. Trong một mô
hình chung, đỉnh eCG tồn tại ở ngày thứ 70-80 của thai kỳ [44].
Hình 1. 1. Cấu trúc tuyến tính của các gonadotropin ở động vật có vú [44].
1.3.1.2. Vai trò của eCG trong ngựa cái
Các thụ thể LH của ngựa cho thấy tương đồng cao với các thụ thể LH ở động vật
có vú khác, cũng như khả năng liên kết LH từ các loài khác [49]. Trong khi eCG tương
tác độc quyền với thụ thể LH ở ngựa, nó chỉ hiển thị một phần nhỏ hoạt động như LH
[50]. Tuy nhiên, eCG liên kết với hoàng thể ngựa trong thời gian mang thai sớm, có thể
cung cấp hỗ trợ nội tiết tố để duy trì thai kỳ. Vào khoảng ngày thứ 40 của thai kỳ, các
cấu trúc hoàng thể xuất hiện trong buồng trứng, trùng hợp với sự bắt đầu bài tiết eCG
từ các ống nội mạc tử cung. Đây có thể là kết quả của sự rụng trứng bổ sung, vì sự khởi
đầu của chúng đã được chứng minh là đi kèm với sự xuất hiện của noãn bào trong buồng
trứng và có sự gia tăng đồng thời progesterone trong máu. Mối quan hệ thời gian giữa
hai sự kiện này cho thấy eCG có thể gây ra sự rụng trứng bổ sung và hỗ trợ nội tiết tố
đủ để tiếp tục mang thai [44]. Khi sự sản xuất eCG giảm đáng kể kéo theo sự gia tăng
đồng thời tần suất hư thai trong thời gian mang thai sớm [51].
17
1.3.1.3. Hoạt động sinh học của eCG
Như đã nói ở trên, eCG có thể hoạt động như hormone LH ở ngựa, mặc dù ít
mạnh hơn eLH [50]. Vai trò đáng chú ý của eCG đã được khai thác trong nhiều bối
cảnh thử nghiệm và thương mại, là khả năng thể hiện hoạt động hormone kích thích
nang trứng (FSH) ở các loài khác ngựa. Cơ sở sinh học cho hiện tượng này vẫn chưa
được hiểu đầy đủ, giải thích chủ yếu dựa trên hoạt động kép của yếu tố quyết định cấu
trúc của eCG hoặc của các thụ thể LH và FSH ở các loài không phải là ngựa.
Một trong những đặc điểm của eCG là độ dài bán rã của nó. Khi tiêm vào chuột,
eCG hiển thị thời gian bán rã vượt quá 5 giờ; trong khi ở cừu, giá trị này là 21 giờ. Ở
gia súc, thời gian bán rã được ước tính là 45,6 giờ [44]. Cơ sở cho sự kéo dài này là do
sự glycosyl hóa mạnh, bao gồm khoảng 45% trọng lượng phân tử của nó [52]. Cả hai
chuỗi được glycosyl hóa tại các liên kết asparagine (N-glycosyl hoá) và serine-threonine
(O-glycosyl hóa) và phần mở rộng C-terminal của chuỗi β được glycosyl hóa mạnh,
trong đó các chuỗi carbohydrate chứa axit sialic, tạo ra thời gian bán rã dài [48]. Loại
bỏ axit sialic khỏi eCG làm giảm thời gian bán rã, và khi loại bỏ 80% thì giảm thời gian
bán rã xuống dưới 60 phút [48]. Tuy nhiên, mô hình glycosyl hóa eCG không chỉ quyết
định sự tồn tại của nó trong huyết thanh mà còn hoạt động sinh học của nó trong mô
đích [48, 53]. Vì cấu trúc có khả năng liên kết với các thụ thể, đặc biệt trong thụ thể của
FSH, là cơ sở cho hoạt động kép (vai trò như LH và FSH) của eCG. Hiệu ứng này được
tăng cường bởi thời gian bán rã kéo dài của nó.
1.3.1.4. Ứng dụng của PMSG
PMSG thường được sử dụng phối hợp với progestogen để gây rụng trứng trong
chăn nuôi trước khi thụ tinh nhân tạo. PMSG có xu hướng được sử dụng rộng rãi vì nó
có thời gian bán rã dài. Ngoài ra, nó còn kích thích sự trưởng thành của ống sinh tinh
và sự sinh tinh ở thú đực [44].
Việc sử dụng PMSG phổ biến nhất là khai thác hoạt động giống FSH của nó
trong việc kích thích động dục ở động vật chưa trưởng thành. Khi tuổi thành thục của
lợn có thể thay đổi, nó đã trở thành tiêu chuẩn cho ngành công nghiệp thực hành để thúc
đẩy tuổi thành thục ở lợn với sự kết hợp PMSG liều thấp (400-500 IU) để gây ra sự
phát triển nang trứng và 100-200 IU HCG để gây rụng trứng. Điều trị ở lợn chưa trưởng
18
thành dẫn đến biểu hiện của động dục ở 90% trong vòng 6 ngày [54]. Điều trị bằng
PMSG ít được sử dụng hơn để gây dậy thì ở động vật nhai lại, mặc dù nó đã được sử
dụng thành công trong cừu [55].
Trong quá trình chuyển phôi, PMSG được sử dụng để kích thích buồng trứng ở
động vật cho phôi. Thời gian bán rã dài của nó tạo ra lợi thế của sự siêu nạp bằng
phương pháp tiêm đơn, vì nó có khuynh hướng kích thích buồng trứng, dẫn đến tạo
nhiều nang và năng suất của phôi khả thi rất cao [56]. Tuy nhiên, ở một số trường hợp,
chất lượng phôi giảm cũng đã được quy cho hoạt động LH của PMSG, vì nó có thể gây
ra sự tái phát sớm của giảm phân trong tế bào trứng [57]. Một chiến lược được sử dụng
để giải quyết những vấn đề này là quản lý antiserum PMSG tại một thời điểm sau khi
điều trị bằng PMSG [58]. Điều trị với antiserum sau 60 giờ sau khi tiêm PMSG tăng
gấp đôi cả số lượng trứng rụng và số lượng phôi chuyển giao [58]. Các biến thể gần đây
về chủ đề siêu kích thích đã bao gồm thay thế FSH tuyến yên với liều thấp PMSG (200
IU) vào hai ngày cuối cùng của giao thức siêu kích thích [59]. Cách tiếp cận này đã
chứng tỏ có lợi trong việc tăng số lượng phôi chuyển giao.
Việc sử dụng PMSG trong các giao thức đồng bộ hóa đã cho phép cố định thời
gian thụ tinh ở bò [60], cừu [61] và gây động dục đồng pha ở bò cái nhận phôi [62]. Đối
với thụ tinh vào thời gian cố định, việc điều trị dựa trên liều thấp PMSG (300 IU) sau
khi tiêm prostaglandin (PGF2a) hoặc progesterone để đồng bộ hóa đã được áp dụng cho
bò Zebu (Bos indicus) với kết quả khác nhau [63]. Sử dụng PMSG tỏ ra thuận lợi trong
việc tăng tỷ lệ mang thai trong thời gian chuyển phôi cố định, độc lập với giao thức
được sử dụng để gây động dục đồng pha [62].
Như đã mô tả ở trên, PMSG hiển thị cả hoạt động của FSH và LH, và được biết
rằng cả hai kích thích tố này là cần thiết cho sự trưởng thành và rụng trứng của nang
trứng ở động vật có vú. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, điều trị này làm tăng tần suất
rụng trứng và dẫn đến progesterone tuần hoàn tăng cao. Nhưng ở một số nghiên cứu
khác, tăng progesterone không tương quan với tăng tỷ lệ mang thai [64]. Tuy nhiên,
trong một số giao thức, sự tăng tổng hợp progesterone do PMSG gây ra đã dẫn đến
thành công trong thai kỳ được cải thiện [65]. Hiện nay, cơ chế duy nhất được biết đến
19
để cải thiện khả năng sinh sản với điều trị liều thấp PMSG là sự tăng cường chức năng
của hoàng thể.
1.3.2. Cấu trúc, chức năng của HCG
1.3.2.1. Nguồn gốc và cấu trúc của HCG
Human chorionic gonadotropin (HCG) là một nội tiết tố glycoprotein được sản
xuất trong thời kỳ mang thai bởi phôi thai đang phát triển và sau này bởi hợp bào
(syncytiotrophoblast, một phần của nhau thai). Vai trò của nó là để ngăn chặn sự tiêu
hủy thể vàng (corpus luteum) của buồng trứng và do đó duy trì tiết progesterone, quan
trọng đối với bào thai [66]. HCG là một glycoprotein gồm 244 axit amin có khối lượng
phân tử của 36,7 kDa. Kích thước của nó là 75 × 35 × 30 A0 (7,5 × 3,5 × 3 nm), bao
gồm tiểu đơn vị β có 145 amino acid và tiểu đơn vị α có 92 amino acid. Có 2
oligosaccharides liên kết với N trên tiểu đơn vị α của HCG và 2 oligosaccharides liên
kết N trên tiểu đơn vị beta của HCG. Ngoài ra còn có 4 oligosaccharides liên kết O trên
Hình 1. 2. Cấu trúc của HCG [68]
vùng peptide C-terminal của tiểu đơn vị β của HCG (Hình 1.2) [67].
1.3.2.2. Chức năng của HCG
HCG có nhiều chức năng: thúc đẩy sản xuất progesterone bởi các tế bào luteal
corpus; thúc đẩy sự hình thành mạch máu trong mạch máu tử cung; thúc đẩy sự hợp
nhất của tế bào bạch cầu và sự biệt hoá để tạo ra các tế bào lympho bào; gây cản trở bất
kỳ hoạt động miễn dịch hoặc đại thực bào nào của mẹ trên các tế bào nhau thai xâm
20
nhập; gây tăng trưởng tử cung song song với sự phát triển của bào thai; ngăn chặn bất
kỳ sự co thắt tử cung trong quá trình mang thai; gây ra sự tăng trưởng và sự biệt hoá
của dây rốn; báo hiệu nội mạc tử cung về việc cấy ghép; hoạt động trên thụ thể trong
não của mẹ gây ra chứng tăng sinh, và dường như thúc đẩy sự tăng trưởng của các cơ
quan bào thai trong thai kỳ [66].
HCG tương tác với các thụ thể LHCG và thúc đẩy sự duy trì thể vàng trong thời
gian đầu của thai kỳ, để tiết ra hormone progesterone. Progesterone làm dày thêm hệ
thống mạch máu và mao mạch trên màng tử cung giúp duy trì sự phát triển của bào thai.
HCG có thể đẩy lùi các tế bào miễn dịch của thú mẹ, bảo vệ bào thai trong ba tháng đầu
tiên [67].
HCG có tác dụng giống một hormone luteinizing mạnh (LH), có hiệu lực trong
kéo dài thời gian tồn tại của hoàng thể (CL). HCG làm tăng tổng hợp progesterone, gây
rụng trứng trong suốt chu kỳ động dục, thúc đẩy sự hình thành của lutea corpora khi áp
dụng trong giai đoạn hoàng thể sớm; làm thay đổi động lực sóng nang, tăng tần số của
chu kỳ nang trội. Theo Rensis et al. (2010), do HCG tác động lên các tế bào buồng
trứng độc lập với hormone của tuyến yên và tác động của nó kéo dài lâu hơn so với LH
sản xuất nội sinh; nên việc sử dụng HCG lợi thế hơn gonadotropin-releasing hormone
(GnRH) và có thể được nhắm mục tiêu vào quần thể vật nuôi [69].
Nghiên cứu cho thấy có ít nhất 4 biến thể của HCG, mỗi loại được tạo ra bởi các
tế bào khác nhau với các chức năng sinh học riêng biệt. Tất cả các phân tử đều có
chung chuỗi amino acid HCGβ. Đây là các phân tử thúc đẩy sản xuất progesterone bởi
các tế bào hoàng thể buồng trứng và có nhiều chức năng sinh học khác nhau [66, 67].
Các chức năng HCG tăng đường huyết để thúc đẩy sự phát triển của các tế bào tế bào
lympho bào và sự xâm nhập của các tế bào này; xảy ra trong sự cấy ghép của thai kỳ;
sự tăng trưởng và xâm lấn của các tế bào ung thư.
1.3.3. Tình hình sử dụng kích dục tố PMSG và HCG trong hỗ trợ sinh sản
Các nghiên cứu sử dụng điều trị bằng gonadotrophin huyết thanh của ngựa mang
thai (PMSG) và gonadotropin màng đệm ở người (HCG) hoặc một mình hoặc kết hợp
đã được đánh giá dựa trên trọng lượng buồng trứng và tử cung; sự phát triển nang trứng,
rụng trứng và số lượng trứng rụng đã được tiến hành từ rất sớm. Lunn và Bell (1968)
21
đã công bố sự kết hợp cả PMSG và HCG có khả năng gây rụng trứng. Sự kiện này có
liên quan với sự kích thích tử cung nhưng thường xảy ra trong trường hợp không đánh
dấu sự gia tăng trọng lượng buồng trứng hoặc xuất huyết nang. Tác dụng của PMSG và
HCG gây rụng trứng trên một phạm vi rộng của cả hai liều lượng kích thích tố. Với liều
thấp của PMSG số lượng trứng tạo ra là độc lập với liều HCG.
Corbin và McCabe (2002) đã kiểm tra phản ứng của các nhóm chuột khác nhau
để đề xuất phương pháp điều trị nội tiết tố gây siêu rụng trứng. Chuột cái chưa trưởng
thành Sprague Dawley (SD), FBN1, và F344 (30 đến 35 ngày tuổi) đã được sử dụng
cho nghiên cứu này. Động vật từ mỗi dòng được phân thành bốn nhóm của phương
pháp điều trị nội tiết tố như sau: 1) 30 IU PMSG, sau 52 giờ với 25 IU HCG ; 2) 15 IU
PMSG, sau 52 giờ với 7,5 IU HCG; 3) 1.0 IU FSH mỗi ngày qua kim tiêm Alzet trong
60 giờ; 4) 1.0 IU FSH và 54 giờ tiếp theo là 10 mg LH. Hiệu quả của phương pháp điều
trị nội tiết tố được đánh giá qua các tiêu chí: tỉ lệ giao phối, tỉ lệ rụng trứng, tổng số
trứng rụng ở mỗi con cái và tỉ lệ thụ tinh. Nghiên cứu đã chứng minh rằng, điều trị bằng
PMSG + HCG là một phương pháp hiệu quả gây phản ứng siêu rụng trứng ở hầu hết
các tiêu chí kiểm tra. Kết quả của nhóm tác giả cũng cho thấy, các chủng chuột khác
nhau có nhiều mức độ nhạy cảm và phản ứng với các giao thức khác nhau của hormone
siêu rụng trứng [12]. Đây chính là cơ sở khoa học để thực hiện nghiên cứu nhằm xác
định liều lượng sử dụng kích dục tố thích hợp trên các đối tượng khác, trong đó có cầy
vòi hương.
Tương tự hướng nghiên cứu này, nhằm đánh giá hiệu quả của việc sử dụng
PMSG thay thế cho FSH, Popova et al. (2002) đã thực hiện các giao thức gây siêu rụng
trứng bằng cách sử dụng tiêm đơn PMSG hoặc FSH được so sánh ở chuột Sprague-
Dawley (SD) chưa trưởng thành. Các tiêu chí theo dõi bao gồm: tổng số trứng thu được,
tỉ lệ thụ tinh, phôi phát triển in vitro, độ nhạy của các hợp tử trong việc đưa DNA ngoại
lai vào nhân và sự phát triển trong cơ thể của chúng sau khi cấy ghép vào ống dẫn trứng
của cá thể nhận. Những con chuột SD cái được kích thích bằng 15 IU PMSG hoặc FSH
10 mg sau khi tiêm HCG ở liều 20 và 30 IU cho mỗi cá thể. Kết quả của nghiên cứu
này chứng minh rằng việc điều trị trên chuột SD chưa trưởng thành của PMSG có hiệu
quả tương đương như điều trị bằng FSH, và do đó thích hợp hơn cho công nghệ chuột
chuyển gen do chi phí thấp hơn và dễ xử lý hơn [70].
22
Để xác định liều lượng điều trị nhằm thực hiện tối ưu hóa siêu rụng trứng ở
chuột, Cornejo-Corte et al. (2006) đã tiến hành nghiên cứu nhằm sản xuất một số lượng
lớn các phôi có chất lượng tốt phù hợp để phát triển các tế bào gốc phôi chuột (RES).
Nhóm tác giả đánh giá động học rụng trứng của ba chủng chuột: Wistar, Fisher và
ACI/N. Động vật thí nghiệm được điều trị bằng 50 IU PMSG, và 50 IU HCG sau 50
giờ. Tiếp theo, nhóm tác giả đánh giá các đường cong đáp ứng liều của PMSG và HCG
ở chuột Wistar để có được số lượng cao nhất của phôi. Các thông số đánh giá cho khả
năng siêu rụng trứng là: tỉ lệ phần trăm của chuột cái đã giao phối, tỉ lệ chuột cái mang
thai và số lượng trung bình của phôi thu được trên mỗi con. Kết quả của những thí
nghiệm chỉ ra rằng sự kết hợp liều tốt nhất là 50IU cho mỗi loại hormone. Thí nghiệm
sau đó, chuột Wistar được thiết kế để thử nghiệm mà trong bốn phương pháp điều trị
nội tiết tố kết hợp (30/30, 30/50, 50/30, 50/50 IU PMSG/HCG) để tạo ra số lượng phôi
đạt chất lượng nhiều nhất. Chất lượng phôi được đánh giá theo các tiêu chí: phôi phát
triển đồng nhất, hình thái phôi thai, sự sống của phôi trong tử cung và phôi trong ống
nghiệm có khả năng cấy ghép. Kết quả của những thí nghiệm cho thấy 30/50 IU
PMSG/HCG là liều điều trị tạo ra chất lượng phôi tốt nhất [13]. Đây chính là cơ sở để
lựa chọn liều lượng trong điều trị đối với cầy vòi hương.
Schilling và Cern (2008) đã công bố kết quả về điều trị để gây động dục ở lợn
nái hậu bị với tỉ lệ 400 IU PMSG và 200 IU HCG. Năm thí nghiệm đã được thực hiện
tại một trang trại nuôi lợn công nghiệp Nam Tư với hơn 2.500 lợn nái giống Landrace
Thụy Điển. Có 93 đến 100% lợn được điều trị động dục 3-7 ngày sau tiêm. Trong các
động vật kiểm soát động dục không được quan sát trước 6 tháng tuổi; 33% cho thấy các
triệu chứng động dục từ 6 đến 6,5 tháng. Tỷ lệ thụ thai của động vật thí nghiệm là rất
cao: hơn 80% của các lợn nái được thụ tinh được hình thành ở chu kỳ đầu tiên gây ra
(82,1% của tất cả các loài động vật được điều trị, 76,7% đẻ sau khi điều trị sáu tháng (ở
chu kỳ đầu tiên) và 80% sau khi tiêm 5,5 tháng (ở chu kỳ thứ hai,) so với 23,3 và 40%
của nhóm đối chứng. Tác giả khẳng định, sự kết hợp PMSG và HCG có thể sử dụng
trong kích thích sinh sản ở lợn nái, tỷ lệ thụ thai cao, tổn thất sau khi sinh thấp, thời kỳ
cho con bú ngắn, tỷ lệ thụ thai cao sau khi cai sữa sớm và lợi nhuận cao hơn do có thể
gây động dục sớm, thụ tinh và đẻ đồng loạt trong các nhóm lớn hơn của vật nuôi [14].
23
Đánh giá mô tả việc sử dụng lâm sàng của HCG để cải thiện năng suất sinh sản
của bò sữa được Rensis et al. (2010) thực hiện. Nhóm tác giả mô tả những phát triển
trong việc sử dụng điều trị của HCG và nghiên cứu giải quyết những lợi ích của việc
đưa HCG trong các phát đồ gây động dục và đồng bộ hóa rụng trứng [15]. Nghiên cứu
của tác giả dựa trên kết quả về phát hiện trước đó liên quan đến phản ứng buồng trứng
khi dùng HCG để điều trị, có thể được giải thích dưới hiểu biết của những tiến bộ trong
ứng dụng lâm sàng của HCG.
Luo et al. (2011) đã kiểm tra phạm vi trọng lượng và liều lượng hormone khác
nhau để xác định các giao thức gây siêu rụng trứng cho 6 chủng chuột thường được sử
dụng trong kỹ thuật di truyền: C57BL/6N HSD, B6 (Cg) -Tyrc-2J/J, B6D2F1/HSD,
FVB/NHsd, BALB/cAnNCr, và CRL: CD1 (ICR). Chuột từ mỗi dòng được chia thành
các nhóm dựa trên trọng lượng, tương ứng với 3, 4, 5 và 6 tuần tuổi. Chuột được điều
trị bằng 5 IU PMSG và 5 IU HCG. Nhóm tác giả kết luận rằng, phản ứng để gây siêu
rụng trứng có thể được tối ưu hóa dựa trên dòng chuột, trọng lượng, và liều lượng và
thời gian tiêm hormone [71].
Ở Việt Nam, Trần Tiến Dũng (2004) đã sử dụng kết hợp hormone sinh sản
PMSG và HCG để điều trị hiện tượng chậm động dục lại sau đẻ ở lợn nái ngoại trên hai
giống Yorkshire và Landrace. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỉ lệ lợn nái động dục sau
đẻ chiếm 80%, thời gian động dục, tỉ lệ thụ thai, số con trên lứa của những con nái khỏi
bệnh đều đạt yêu cầu. Với phác đồ điều trị PMSG 3.000 đvc/nái, nếu động dục tiêm tiếp
HCG 1.000 đvc/nái cho kết quả tốt với thời gian động dục lại sau đẻ 5,8 ngày, tỉ lệ thụ
thai 91,67%, số son sinh ra trên lứa 9,8 con [72]. Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Thanh
Bình (2009) đã đánh giá ảnh hưởng của liệu pháp hormone bằng cách đặt vòng PRID
(chứa progesterone) đến khả năng điều trị rối loạn sinh sản ở bò cái sinh sản kém, kết
quả cho thấy quy trình đạt hiệu quả tốt [16]. Đỗ Văn Thu và cs. (2013) đã sử dụng kết
hợp PMSG và Prosolvin (PGF2α) để gây động dục hàng loạt kết hợp với thụ tinh nhân
tạo nhằm nâng cao năng suất và chất lượng đàn bò trên hai giống bò vàng và bò lai
Sind. Với quy trình tiêm bò hai mũi PGF2α (2 ml) cách nhau 11 ngày kết hợp tiêm
PMSG (500 IU) ở mũi thứ hai, xác định tỉ lệ thụ thai bằng phương pháp khám thai qua
trực tràng. Kết quả cho thấy rằng cho tỉ lệ động dục là 84,9%, tỉ lệ thụ thai 82,88% và
tỉ lệ đẻ đạt 93,52%. Để gây siêu bài noãn trên bò, Hoàng Nghĩa Sơn và cs. (2013) đã sử
24
dụng PMSG với liều 2500 IU để đối sánh với sử dụng FSH (200 mg). Kết quả nghiên
cứu cho thấy, số thể vàng và số phôi thu được ở nhóm điều trị bằng PMSG ít hơn so với
nhóm sử dụng FSH; tuy nhiên cao hơn so với các nghiên cứu trước đó. Nhóm tác giả
cũng chỉ ra rằng, việc kết hợp siêu âm buồng trứng để xác định giai đoạn nang trứng để
lựa chọn thời điểm và phương pháp xử lí tối ưu để kích thích bằng hormone nhằm thu
được lượng trứng và phôi tốt nhất trong phương pháp tạo trứng, phôi in vivo [18].
Nguyễn Ngọc Tấn và Bùi Ngọc Hùng (2017) đã đánh giá hiệu quả của các liệu pháp
điều trị bằng hormone khác nhau trên bò chậm gieo tinh. Kết quả của liệu pháp đặt vòng
CIDR (chứa progesterone) 7 ngày, kết hợp hormone GnGH và PGF2α để gây động dục
và rụng trứng có hiệu quả đối với bò cái sữa [17].
Tuy các liệu pháp điều trị trong mỗi nghiên cứu đều được mô tả khá chi tiết, song
nhìn chung chủ yếu được thực hiện trên nhóm vật nuôi truyền thống là lợn và bò, chưa
có nghiên cứu nào được thực hiện trên động vật hoang dã được thuần dưỡng. Mở đầu
cho hướng nghiên cứu sử dụng kích dục tố nhằm cải thiện thành tích sinh sản của động
vật hoang dã trong điều kiện nuôi nhốt, Nguyễn Thanh Bình (2015) đã đánh giá ảnh
hưởng của HCG và PMSG đến kết quả sinh sản của cầy vòi hương (Paradoxurus
hermaproditus). Kết quả cho thấy, việc sử dụng kích dục tố có cải thiện đáng kể khả
năng sinh sản của cầy vòi hương ở các chỉ tiêu số con mang thai và số con sinh ra trên
lứa. Điều này có ý nghĩa trong việc tăng số lượng cầy trong điều kiện nuôi nhốt, là cơ
sở khoa học đáng tin cậy để tiếp tục thực hiện các nghiên cứu tiếp theo đánh giá ảnh
hưởng của việc sử dụng kích dục tố trên loài này [20]. Một nghiên cứu trương tự đã
được thực hiện trên dúi mốc lớn (Rhizomys pruinosus) cũng cho thấy tăng hiệu quả sinh
sản trong điều kiện nuôi nhốt [21]. Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa được lặp lại và thực
hiện trên nhiều nghiệm thức khác nhau, tác giả cũng chưa đánh giá được những thay
đổi tập tính sinh sản (biểu hiện động dục) sau khi tiêm, sự thay đổi hormone cũng như
cấu trúc giải phẫu của tử cung, âm đạo trên động vật thí nghiệm.
Như vậy, việc sử dụng kết hợp PMSG và HCG với liều lượng và thời gian thích
hợp có tác dụng trong việc kích thích gây bài noãn, tăng cường khả năng sinh sản ở thú
cái. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ đánh giá hiệu quả việc sử dụng kích dục tố dựa trên
thành tích sinh sản, chưa có đánh giá sự thay đổi động thái hormone trước và sau điều
trị, chưa mô tả những thay đổi lâm sàng trước và sau khi tiêm kích dục tố. Mặt khác,
25
các nghiên cứu về việc sử dụng kích dục tố để cải thiện thành tích sinh sản trên động
vật hoang dã trong điều kiện nuôi nhốt còn khá khiêm tốn. Đây chính là cơ sở khoa học
và sự cần thiết cho việc nghiên cứu sử dụng PMSG và HCG trên cầy vòi hương.
1.4. Tổng quan về estrogen và progesterone
1.4.1. Cấu trúc và chức năng của estrogen
Estrogen là hormone steroid được sản xuất chủ yếu bởi buồng trứng, một số
lượng ít hơn được sản xuất bởi vỏ thượng thận, nhau thai và tinh hoàn. Estrogen giúp
kiểm soát và phát triển giới tính, bao gồm những thay đổi về thể chất liên quan đến tuổi
thành thục sinh dục. Nó cũng ảnh hưởng đến quá trình rụng trứng, cho con bú sau khi
mang thai, các tình trạng tâm lý và quá trình lão hóa. Estrogen tồn tại tự nhiên trong cơ
thể ở 3 dạng: estron (E1), 17β-estradiol (E2), và estriol (E3) (Hình 1.3). Trong đó 17β-
estradiol là estrogen được bài tiết nhiều nhất và có tác dụng sinh học mạnh nhất. Còn
estriol là estrogen yếu nhất, nó là dạng chuyển hóa của 17β-estradiol và estrone [73].
Hình 1. 3. Cấu trúc hoá học của Estron, Estradiol và Estriol
1.4.2. Cấu trúc và chức năng của progesterone
Progesterone (viết tắt là P4) là một hormone steroid nội sinh, chứa 4 vòng
hydrocacbon liền nhau, chứa gốc ceton và các nhóm chức năng oxi hoá cùng 2 nhánh
methyl (Hình 1.4). Progesterone được sản xuất bởi thể vàng, nhau thai và một phần nhỏ
bởi tuyến thượng thận; có vai trò quan trọng trong chu kỳ kinh nguyệt và duy trì phát
triển bào thai. Trong khi mang thai, progesterone cũng kích thích sự phát triển của tuyến
26
vú. Hoàng thể tổng hợp progesterone từ cholesterone, qua gan nó bị thoái hóa và biến
thành pregnandione và đào thải qua nước tiểu [73].
Hình 1. 4. Cấu trúc hoá học của progesterone
Progesterone làm phát triển và gây nhiều biến đổi trong dạ con để chuẩn bị đón
trứng thụ tinh; tạo điều kiện thuận lợi cho phôi và thai phát triển bằng cách làm cho cơ
dạ con phát triển, mềm, không co bóp; làm cho niêm mạc dạ con phát triển dày lên, các
tuyến dạ con dài ra, ngoằn ngoèo như hình ren thêu, kìm hãm hiện tượng động dục và
sự rụng trứng. Lúc mang thai nếu thiếu progesterone thì thai không phát triển được, nên
progesterone được gọi là hormone an thai. Nếu trứng không được thụ thai thì thể vàng,
nơi tiết ra progesterone sẽ thoái hóa đi, quá trình chuẩn bị để đón trứng đến làm tổ đều
ngừng lại [73].
1.4.3. Xác định con đường chuyển hoá và bài tiết hormone estrogen và
progesterone
Hormone steroid được tổng hợp bởi một loạt các mô, nổi bật nhất là tuyến thượng
thận và tuyến sinh dục. Tiền thân từ cholesterol được tổng hợp trong tế bào từ acetate,
từ các thành phần este-cholesterol trong các giọt lipid của tế bào hoặc từ sự hấp thu của
lipoprotein tỉ trọng thấp chứa cholesterol [73].
Hormone gắn phóng xạ (progesterone, estrogen, androgens, cortisol) đã được sử
dụng để xác định con đường bài tiết, thời gian bài tiết và loại chất chuyển hóa các chất
steroid trong nước tiểu và phân ở các loài vật nuôi (domestic) và không phải vật nuôi
(non-domestic). Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng steroid chuyển hóa trong gan, bài tiết
vào ruột chủ yếu là thông qua mật, một tỷ lệ nhỏ của steroid được tiết ra thông qua niêm
mạc của ruột già [74].
Con đường bài tiết có thể thay đổi đáng kể giữa các loài, cũng như giữa các
steroid trong cùng một loài. Thời gian chậm trễ (delay time) giữa steroid trong huyết
27
tương và sự xuất hiện của chúng trong các mẫu nước tiểu khá ngắn (dưới 5 giờ), nhưng
các chất chuyển hóa steroid phân có thời gian trễ đáng kể tương ứng với thời gian cần
thiết cho việc đi vào mật, ruột và trực tràng [75]. Thời gian trễ (lag time) của steroid
phân khoảng 12-24 giờ ở động vật nhai lại và khoảng 24 đến trên 48 giờ ở những động
vật tiêu hóa qua manh tràng (ngựa, lợn, tê giác, voi) [76]. Ở những loài không thuộc
động vật nhai lại, nghiên cứu về tốc độ tiêu hóa của thức ăn có thể ước tính thời gian
trễ của các chất chuyển hóa steroid qua phân. Đường đi của thức ăn ở động vật nhai lại
dài hơn thời gian di chuyển của steroid phân, vì steroid phải qua mật trước khi vào ruột.
Thời gian trễ còn bị ảnh hưởng bởi khả năng tiêu hóa của loại thức ăn và tốc độ của quá
trình tiêu hóa. Tuy nhiên, lượng steroid phóng xạ cuối cùng thải ra trong phân của cừu
ở các nhóm hạn chế hay tăng cường dinh dưỡng là tương tự [77].
Các loại sản phẩm cuối cùng chuyển hóa của steroid trong phân được xác định
bằng phương pháp sắc ký (HPLC) hoặc xét nghiệm miễn dịch (RIA hoặc ELISA).
Steroid phóng xạ 14C được đưa vào cơ thể qua con đường truyền vào tĩnh mạch. Phân
được thu thập ngay sau khi bài tiết, nước tiểu được lấy mẫu qua ống thông tiểu cố định
ở con cái và sau khi tiểu tiện tự nhiên ở con đực [78]. Kết quả nghiên cứu cho thấy các
chất steroid có chứa phóng xạ trong huyết tương kết hợp nhanh chóng và bài tiết vào
mật và nước tiểu. Ở hầu hết các loài, steroid trong phân chứa một tỉ lệ steroid tự do cao
hơn các steroid liên hợp. Việc xác định con đường, thời gian và sản phẩm bài tiết steroid
phân ngày càng được mở rộng danh sách các loài: cừu [77]; ngựa, lợn [79], khỉ đầu chó
[80], mèo nhà [81]. Về bản chất, những nghiên cứu này chỉ ra rằng estrogen trong phân
chứa chủ yếu là oestrone, oestradiol-17α và -17β. Oestrogen là sản phẩm cuối cùng của
sự trao đổi chất steroid. Như vậy, các hợp chất trong huyết tương và phân cũng tương
tự nhau. Ngược lại, progesterone được chuyển hóa mạnh mẽ trước khi đào thải qua phân
và một số nghiên cứu cho thấy rằng các chất chuyển hóa phân của nó bao gồm các chất
chuyển hóa từ 5α và 5β -pregnan (pregnaned- iones, mono và dihydroxylated pregnans)
[76].
1.4.4. Phương pháp ly trích steroid
Steroid có thể chiết xuất theo phương pháp ethanol [82, 83] hoặc methanol [84,
85]. Các mẫu phân được thu thập từ 2-3 lần mỗi tuần (12 tháng). Các mẫu trong thời
28
gian giữa thời kỳ mang thai được thu thập một lần/tuần hoặc hai tuần một lần. Các mẫu
phân tươi (5 g) được thu gom đặt vào một túi nhựa và bảo quản (-200C) cho đến khi
phân tích. Sau khi giải đông, 0,5 g được cân và được đặt trong một lọ thủy tinh có chứa
4 ml đệm chiết dung dịch (20% methanol hoặc ethanol). Mẫu được đặt trên máy lắc
trong 18 giờ ở nhiệt độ phòng. Các chất lỏng này được chiết vào một ống nghiệm và ly
tâm (400 vòng, 15 phút). Sau khi ly tâm, khoảng 1 ml dung dịch nổi được chiết vào ống
eppendorf được dán nhãn và lưu trữ đông lạnh (-200C) cho đến khi sử dụng. Phần còn
lại được đưa trở lại vào lọ thuỷ tinh và được sấy khô để xác định trọng lượng khô của
phân. Dung dịch này sẽ được sử dụng trực tiếp cho phân tích ELISA [86, 87], HPLC
[88] hoặc RIA [89]. Gần đây, phương pháp sử dụng petroleum ether cho chiết xuất
progesterone và estrogen được sử dụng [90]. Nghiên cứu cho thấy phương pháp này có
tương quan cao (r=0,923) với chiết xuất ethanol và tiết kiệm thời gian ly trích hơn.
Nhiều nghiên cứu để trả lời câu hỏi sự thay đổi chế độ ăn uống và dao động hàm
lượng nước giữa các mẫu phân có ảnh hưởng đến nồng độ steroid trong phân hay không.
Shideler et al. (1993) và Wasser et al. (1993) đã kết luận rằng việc lập chỉ mục các
steroid phân không cần thiết [80, 91]. Tuy nhiên, ở một số loài như động vật ăn thịt và
voi, việc đông khô các mẫu phân trước khi phân tích và biểu hiện nồng độ steroid trên
mỗi gram phân khô là thuận lợi [92, 93]. Hơn nữa, những thay đổi đáng kể theo mùa
trong chế độ ăn uống của động vật thả rông không ảnh hưởng đáng kể đến lượng định
lượng steroid phân [93]. Ngoài ra, việc loại bỏ chất dịch ra khỏi phân không làm thay
đổi cấu trúc steroid, vì nồng độ steroid giữa mẫu phân đông lạnh và phân lỏng có mối
tương quan cao [94].
1.4.5. Xác định động thái sinh sản dựa vào đánh giá steroid trong phân
Kiến thức về sinh học sinh sản của các loài động vật là rất quan trọng để quản lý
bền vững. Đánh giá chính xác tình trạng nội tiết là một trong những yếu tố quan trọng
nhất để tăng hiệu quả các chương trình hỗ trợ sinh sản. Sự nỗ lực trong các kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản (thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm hoặc chuyển phôi) phụ thuộc
vào kiến thức về sinh lí sinh sản của một loài nhất định [76]. Đặc biệt, trong thụ tinh
nhân tạo, thời gian chính xác của việc thụ tinh là yếu tố giới hạn chính, sẽ dễ dàng hơn
nếu chu kì động dục có thể được xác định.
29
Phân tích hormone steroid của tuyến sinh dục là một điểm quan trọng đánh giá
tình trạng sinh lí sinh sản của vật nuôi. Kích dục tố trong huyết thanh là sự phản ánh
chính xác nhất của hoạt động sinh dục, tuy nhiên các kỹ thuật để thu thập thông tin này
qua huyết thanh có thể ảnh hưởng đến phúc lợi động vật (animal welfare) và khá tốn
kém. Lấy mẫu máu lặp lại nhiều lần sẽ gây stress, ảnh hưởng đến vấn đề sức khỏe của
động vật và khó khăn để thực hiện trong điều kiện hiện trường, nhất là động vật hoang
dã. Thậm chí việc lặp lại lấy mẫu máu để đo các steroid có thể là không thực tế ở các
loài động vật có kích thước nhỏ, lấy mẫu gây can thiệp và thậm chí dẫn đến các con vật
bị giết chết [76].
Phương pháp không xâm lấn (non-invasive) dễ thực hiện và cho kết quả chính
xác là lựa chọn thay thế tốt hơn. Mặc dù có thể thu thập mẫu nước tiểu và phân để đánh
giá tình trạng sinh sản ở động vật được nuôi nhốt, nhưng khó khăn trong việc thu thập
nước tiểu đối với các động vật thả rông đã hạn chế việc sử dụng chúng trong việc điều
tra. Vì vậy, mẫu phân là sự lựa chọn hiệu quả nhất cho mục đích này. Phương pháp đo
lưu lượng các chất chuyển hóa steroid trong phân để đánh giá trạng thái nội tiết của
động vật đã được đi tiên phong vào cuối những năm 1970 ở chim, đầu những năm 1980
ở động vật có vú và đã được nghiên cứu trong các thập kỷ qua với số lượng ngày càng
tăng của các loài [76, 78]. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy mô hình tương tự trong huyết
thanh là kích thích tố trong phân, việc sử dụng các mẫu phân như một công cụ không
xâm lấn được sử dụng rộng rãi để giám sát hoạt động sinh dục. Theo Kumar et al.
(2013), vấn đề thông tin không rõ ràng về tình trạng sinh sản của động vật cái đã được
giải quyết nhờ phương pháp phân tích hormone steroid phân để đánh giá các hoạt động
nội tiết [95]. Đánh giá estrogen trong phân đã được sử dụng như chỉ số đáng tin cậy ở
con vật mang thai ở một số động vật móng guốc [96, 97, 98, 99] và một số loài linh
trưởng [91, 100]. Chúng cũng được sử dụng để xác định khoảng thời gian trước khi
rụng trứng ở động vật ăn thịt [88]. Phân tích chất chuyển hóa progesterone trong phân
đã được sử dụng thành công để theo dõi chức năng thể vàng và mang thai, hư thai, tính
chu kì động dục và các liệu pháp điều trị trong một danh sách mở rộng của nhiều loài.
Trong hầu hết các nghiên cứu về xác định estrogen phân, các kháng thể estrogen
tổng đối với các oestron không kết hợp (unconjugated) hoặc kháng thể estrogen cụ thể
30
với oestradiol-17α hoặc -17/β được sử dụng [95]. Đánh giá chu kì buồng trứng qua
estrogen phân được áp dụng thành công ở nhiều loài hoang dã như trâu [101], khỉ
macca- Macaca fascicularis [91]; voi châu Á [102]; mèo báo Tsushima -Prionailurus
bengalensis euptilurus [103]; sóc Sinsin - Chinchilla lanigera [104]; gấu Bắc Cực -
Ursus maritimus [105].
Tuy nhiên, việc xác định estrogen trong phân cho mục đích chẩn đoán mang thai
tỏ ra ít hiệu quả ở tê giác đen và hươu cao cổ [106]. Xác định đỉnh estrogen trong các
mẫu phân không thành công ở nai, hươu và ở bò [106]. Nguyên nhân có thể do nồng độ
estrogen trong huyết tương thấp (chỉ 1pg/ml) và con đường bài tiết estrogen chủ yếu ở
một số loài móng guốc thông qua nước tiểu [75]. Do đó, các khoảng trống khảo nghiệm
do việc đo đạc nồng độ trong phân quá thấp. Để phân tích đáng tin cậy đỉnh estrogen
của cơ thể trong các mẫu phân, cần phải có các quy trình khử trùng và làm sạch nghiêm
ngặt hơn của mẫu và độ nhạy của kỹ thuật xét nghiệm.
Trái ngược với các loài động vật có móng guốc, estrogen ở động vật ăn thịt chủ
yếu được thải vào phân. Xác định sự gia tăng estrogen trước khi sinh của cá mút và các
loài chó đã chứng tỏ đây là chỉ số đáng tin cậy của sự rụng trứng [75, 76]
Nhằm mô tả chu kỳ buồng trứng của hổ Bengal (Panthera tigris tigris), hổ
Sumatra (Panthera tigris sumatrae.), báo đốm (Panthera onca), và mèo cá
(Prionailurus viverrinus); Putranto et al. (2006) đã nghiên cứu chu kỳ buồng trứng bằng
cách giám sát những thay đổi của progesterone (P4) và estradiol-17β (E2) trong phân.
Phát hiện của nhóm tác giả về chu kỳ động dục của hổ Bengal (28,2 ± 3,4 ngày), con
lai hổ Bengal và Siberia (29,3 ± 2,0 ngày), hổ Siberia (24,9 ± 1,3 ngày), báo đốm (66,4
± 10,1 ngày), mèo rừng (18,4 ± 1,6 ngày). Các tác giả kết luận rằng, việc đánh giá của
các hormone steroid phân là hữu ích cho sự hiểu biết các hoạt động của buồng trứng ở
những động vật này [87]. Tiếp đó, nhóm tác giả Putranto et al. (2011) đã công bố nghiên
cứu về xác định không xâm lấn của các chất chuyển hóa hormone, sự kiện tuyến sinh
dục và tình trạng sinh sản của hổ cái bị nuôi nhốt. Mục đích của nghiên cứu là để theo
dõi tình trạng sinh sản của loài hổ Siberia cái (Panthera tigris altaica) bằng cách đánh
giá hoạt động buồng trứng và mang thai qua những thay đổi nội tiết trong phân; xác
định sự tồn tại của progesterone (P4) và những loại chất chuyển hóa P4 thải vào phân.
31
Các kết quả cho thấy, trong hoạt động buồng trứng tự nhiên, E2 thay đổi theo chu kỳ
trung bình là 27,0 ngày. Tuy nhiên, chu kỳ không được thể hiện trong thành phần P4
của hổ không mang thai. Ngược lại, P4 trong phân hổ mang thai tăng lên đáng kể sau
khi giao phối, cao hơn khoảng 2 đến 6 lần so với giá trị trung bình. Kết quả HPLC cho
thấy đỉnh (peak) được phát hiện chủ yếu ở phần 63- 64 phút (chất chuyển hóa) và phần
85 phút (chất không chuyển hóa) trong phân của con hổ mang thai. Tuy nhiên, P4 chỉ
được phát hiện một lượng nhỏ trong phân [88].
Những nghiên cứu về chu kỳ buồng trứng bằng phân tích steroid phân liên tiếp
được công bố ở nhiều loài động vật hoang dã trong những năm gần đây. Morden et al.
(2011) đã thu thập mẫu máu và phân từ 2 tuần lộc (Rangifer tarandus) (Kaamanen,
Phần Lan và Svalbard, Na Uy) để điều tra tính khả thi của việc sử dụng các chất chuyển
hóa progesterone trong phân; để giúp đánh giá tình trạng sinh sản, giới tính, và các cấu
trúc tuổi của quần thể. Nhóm tác giả xem xét mối quan hệ giữa progesterone huyết
tương và nồng độ progesterone chất chuyển hóa phân; đồng thời cũng đánh giá mức độ
sai khác của chất chuyển hóa progesterone phân giữa con non, một năm tuổi, trưởng
thành; giữa con cái mang thai và không có thai. Các tác giả đã tiến hành định lượng các
chất chuyển hóa phân progesterone (sử dụng enzyme nghiệm miễn dịch ELISA) và
progesterone huyết tương (sử dụng xét nghiệm miễn dịch radio RIA) của con cái và con
đực ở các độ tuổi khác nhau từ 2 đàn. Kết quả cho thấy, ở cả hai nhóm, mức độ chất
chuyển hóa progesterone phân có phản ánh nồng độ progesterone huyết tương. Tuy
nhiên, biên độ của progesterone trong phân ở tuần lộc Phần Lan là rộng hơn nhiều so
với tuần lộc ở Svalbard; điều này có thể do sự khác biệt trong chế độ ăn uống hoặc tình
trạng cơ thể. Nghiên cứu cũng cho thấy, có một sự khác biệt đáng kể nồng độ chất
chuyển hóa progesterone phân giữa con non, con một năm tuổi và con trưởng thành.
Tuy nhiên, không thể phân biệt giới tính ở con trưởng thành không mang thai, hoặc con
non của cả hai giới. Do đó, xác định giới tính có thể phải dựa trên việc sử dụng các kỹ
thuật DNA. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy, xác định nồng độ hormone kết hợp
với các kỹ thuật ADN phân có thể cung cấp các thông tin dân số quan trọng và là một
công cụ có giá trị cho việc theo dõi quần thể tuần lộc rừng bị đe dọa [107].
Sử dụng chỉ thị sinh học chức năng buồng trứng để nâng cao hiệu quả sinh sản
của động vật hoang dã trong điều kiện nuôi nhốt cũng đã được áp dụng. Monica et al.
32
(2014) đã sử dụng chỉ thị sinh học tiết niệu của chức năng buồng trứng và bổ sung
altrenogest để nâng cao thành công trong nuôi sinh sản Tê giác Ấn Độ (Rhinoce
rosunicornis). Phân tích hormone tiết niệu đã được tiến hành trên hai tê giác Ấn Độ cái
trưởng thành được nuôi nhốt ít biểu hiện hành vi động dục. Mô hình và nồng độ hợp
chất estrogen (EC) và các chất chuyển hóa progesterone (PDG) của mỗi cá thể trong
giai đoạn nang trứng và thể vàng được thiết lập. Sau khi phân tích nội tiết sơ bộ, các
mẫu nước tiểu đã được vận chuyển đến cơ sở phân tích để xác minh khi mỗi con cái đã
giảm hẳn estrogen. Thời gian động dục và ngày sinh sản sau đó đã được dự đoán. Con
cái được giới thiệu với các mẫu phân tươi hàng ngày của tê giác đực trong suốt giai
đoạn nang trứng để kích thích hành vi động dục. Cả hai con cái sau khi giao phối được
phân tích hormone. Mang thai được chẩn đoán bằng cách phân tích nội tiết hoặc siêu
âm trực tràng. Những kết quả này chứng minh rằng một chiến lược quản lý khoa học là
dựa trên chỉ thị sinh học tiết niệu của chức năng buồng trứng [99].
Ở Việt Nam, Chung Anh Dũng và cs. (2001) đã sử dụng khám trực tràng kết hợp
kỹ thuật RIA để kiểm tra progesterone trong máu giúp chẩn đoán, phân biệt u hoàng thể
và u nang noãn chính xác nhằm giúp lựa chọn phương pháp điều trị chậm động dục trên
bò hiệu quả hơn [108]. Các nghiên cứu khác nhằm xác định động thái của progesterone
chủ yếu sử dụng kỹ thuật ELISA trên mẫu huyết thanh [16, 17].
Như vậy, ở các loài động vật hoang dã với cấu trúc dân số hạn chế, xác định
hormone sinh dục không xâm lấn sẽ là một phương pháp hữu dụng đối với các nhà khoa
học trong đánh giá sự thay đổi nội tiết sinh dục, xác định chu kỳ buồng trứng; đồng thời
tìm hiểu và giám sát động thái sinh dục của chúng để cải thiện khả năng sinh sản trong
điều kiện nuôi.
33
CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm, thời gian nghiên cứu
2.1.1. Địa điểm
- Trung tâm Ứng dụng Công nghệ sinh học (CNSH) ở xã Xuân Đường, huyện
Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
- Trang trại Động vật hoang dã Thanh Long, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí
Minh.
- Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm Đại học Thủ Dầu Một.
- Trung tâm Công nghệ Sinh học Chăn nuôi - Phân viện chăn nuôi Nam Bộ.
2.1.1. Thời gian
- Từ tháng 5 năm 2016 đến tháng 03 năm 2019.
2.2. Chuồng trại, thức ăn, nước uống
- Chuồng trại: Trại được bao quanh bằng tường bao chắc chắn; cao 2,5 m nhằm
tránh cho cầy thoát ra, tránh được gió lùa trực tiếp, hạn chế ánh sáng. Nền tráng xi măng
với độ dốc giúp thoát nước tiểu và nước trong quá trình dọn vệ sinh. Mỗi ô chuồng có
kích thước 1 x 1 x 1,2 m; được xây bằng tường gạch cao 0,5 m bên dưới, bên trên bằng
lưới kẽm (tại Đồng Nai), hoặc toàn bộ bằng lưới kẽm (tại Thủ Đức). Bên trong chuồng
đặt rổ nhựa hoặc ống gốm cho cầy nằm. Đến giai đoạn sinh sản thì lót vải mềm vào rổ
làm ổ cho cầy.
Chuồng trại được rửa sạch bằng vòi nước hằng ngày. Công tác vệ sinh sát trùng
được tiến hành 1 tháng/lần. Dung dịch sát trùng được sử dụng là BESTAQUAM-SR.
Mỗi ô chuồng được gắn kí hiệu trên cửa, để mỗi cá thể cầy vòi hương được theo
dõi trong suốt quá trình nghiên cứu.
- Thức ăn và nước uống: Bữa chính là cháo được nấu với các thành phần khác
nhau như cá, nội tạng, đầu gà. Bữa phụ là trái cây các loại; chủ yếu là chuối, đu đủ, dưa
hấu. Cầy được cho ăn 2 bữa/ ngày đêm, gồm 1 bữa chính (khoảng 18 giờ) và 1 bữa phụ
(khoảng 11 – 12 giờ trưa). Khẩu phần hàng ngày cho mỗi cá thể cầy có khối lượng 3 kg
là: năng lượng trao đổi (ME): 450 Kcal, protein thô (CP): 18 gr, Lipid: 3 gr, chất khô
34
(DM) 105 gr. Nước uống được đặt trong chuồng để cầy tự uống. Chén nước được vệ
sinh hằng ngày và thay nước 1 lần/ngày.
Việc chăm sóc và nuôi dưỡng cầy vòi hương tuân theo các thủ tục được nêu
trong hướng dẫn chăm sóc và sử dụng động vật thí nghiệm trong nghiên cứu và giảng
dạy [11, 78].
2.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của cầy vòi hương trong điều kiện
nuôi nhốt
2.3.1.1. Vật liệu
Nghiên cứu sinh trưởng: Chọn 64 cá thể (32 đực, 32 cái) theo dõi về các chỉ tiêu
tăng trưởng liên tục từ 3 đến 24 tháng tuổi.
Nghiên cứu sinh sản: Tiến hành theo dõi trên 32 cầy vòi hương cái, 34 cầy vòi
hương đực trước độ tuổi thành thục sinh dục; 42 cầy vòi hương cái đã trưởng thành sinh
dục, đang giai đoạn sinh sản.
Tất cả cầy đều được nuôi cùng một chế độ chăm sóc, dinh dưỡng. Mỗi cá thể
được gắn kí hiệu trên ô chuồng để được theo dõi trong suốt quá trình nghiên cứu.
2.3.1.2. Chỉ tiêu khảo sát
- Đặc điểm ngoại hình, một số tập tính thích nghi của cầy vòi hương trong điều
kiện nuôi nhốt: hoạt động, đặc điểm dinh dưỡng.
- Một số chỉ tiêu sinh trưởng của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt: khối
lượng; dài thân, đầu; dài đuôi; vòng ngực.
- Một số chỉ tiêu sinh sản của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt: Tuổi
thành thục sinh dục và biểu hiện động dục. Tỉ lệ mang thai, thời gian mang thai. Số cầy
vòi hương sinh ra trong mỗi lứa (con/lứa), mùa sinh sản. Đặc điểm con sơ sinh. Tỉ lệ
con non sống sau khi sinh (sau 24 giờ, sau 48 giờ, sau một tuần, sau một tháng và cai
sữa). Tuổi cai sữa.
- Một số chỉ tiêu sinh sản trên cầy vòi hương đực: tuổi thành thục, tuổi phối
giống, hành vi tính dục đực trong điều kiện nuôi nhốt.
35
2.3.1.3. Phương pháp xác định khối lượng và kích thước các chiều đo
Đo kích thước: chiều dài thân, đầu (HB), chiều dài đuôi (T), vòng ngực (C) và
cân khối lượng cơ thể (W) theo Đặng Huy Huỳnh và cs. (2010) [7]:
Chiều dài thân, đầu (HB): Đo từ mút mũi đến bờ lỗ hậu môn.
Chiều dài đuôi (T): Đo từ bờ lỗ sau hậu môn đến mút đuôi, trừ chóp lông đuôi.
Vòng ngực (C): Đo vòng quanh ngực, sát mép của hai chân trước.
Khối lượng cơ thể (W): Cân toàn bộ con vật.
Cầy được cân và đo 30 ngày một lần vào 7-8 giờ sáng. Cân bằng cân đồng hồ
Nhơn Hòa (5kg) với mức sai số là 20g; đo bằng thước dây (đơn vị cm).
Bố trí thí nghiệm: Theo phương pháp bố trí ngẫu nhiên.
Bảng 2. 1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm theo dõi các chỉ số sinh trưởng
Theo giới tính Chỉ tiêu khảo sát
Đực Cái
Khối lượng cơ thể (W) n=32 n=32
Chiều dài thân, đầu (HB) n=32 n=32
Vòng ngực (C) n=32 n=32
Chiều dài đuôi (T) n=32 n=32
2.3.1.4. Phương pháp nghiên cứu tốc độ sinh trưởng
Sinh trưởng tuyệt đối (A): A= V2– V1/t2 – t1
Sinh trưởng tương đối (R%): R (%) = 2 (V2– V1) x 100 / (V1 + V2)
Trong đó: V1, V2 là giá trị khối lượng (kích thước) khảo sát ở thời điểm t1, t2.
2.3.1.5. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm sinh sản
- Phương pháp thực nghiệm: theo dõi trực tiếp và gắn camera theo dõi vào
chuồng nuôi. Các thông số được thu nhận và ghi chép cho từng cá thể thí nghiệm.
- Phương pháp phỏng vấn: Thực hiện phỏng vấn trực tiếp người chăn nuôi về
một số đặc điểm sinh sản của cầy vòi hương (biểu hiện động dục, biểu hiện trước khi
đẻ, thời gian mang thai, mùa sinh sản trong điều kiện nuôi, tập tính chăn sóc con non).
36
2.3.2. Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí – sinh hóa máu, nước tiểu của cầy vòi
hương trong điều kiện nuôi nhốt
2.3.2.1. Vật liệu
Vật liệu nghiên cứu gồm 186 mẫu máu, 248 mẫu nước tiểu thu từ 62 cá thể cầy
vòi hương (30 đực, 32 cái). Cầy vòi hương không bị bệnh, con cái không mang thai.
2.3.2.2. Chỉ tiêu khảo sát
- Một số chỉ tiêu sinh lí máu: số lượng hồng cầu (RBC-Red blood cells),
Hemoglobin (HGB), dung tích hồng cầu (HCT-Hematocrit), thể tích trung bình hồng
cầu (MCV -Mean corpuscular volume), lượng hemoglobin trung bình trong một hồng
cầu (MCH-Mean corpuscular hemoglobin), nồng độ hồng cầu trung bình (MCHC-Mean
corpuscular hemoglobin concentration), độ rộng phân bố hồng cầu (RDW-Red cell
distribution width), tiểu cầu (PTL -Platelet), thể tích trung bình tiểu cầu (MPV -Mean
platelet volume), độ rộng phân bố tiểu cầu (PDW -Platelet distribution width), dung tích
bạch cầu (PCT -Plateletcrit).
- Một số chỉ tiêu sinh hóa máu: Protein tổng (g/L), Globulin (g/L), Albumin
(g/L), Glucose (mmol/L), Blood urea nitrogen- BUN (mmol/L); Creatinine (µmol/L);
Aspartate transaminase- AST (U/L); Alanin amino transferase-ALT (U/L); Alkaline
phosphatase- ALP (U/L), Na (mmol/L), K (mmol/L), Ca (mmol/L), P (mmol/L), Cl
(mmol/L).
- Một số chỉ tiêu sinh lí - sinh hóa nước tiểu: Urobilinogen (µmol/L), Glucose
(mmol/L), Billirubin (µmol/L), Ketone (mmol/L), Tỷ trọng (Specific Gravity), Hồng
cầu (Ery/µL), pH, Protein (g/L), Nitrite, Bạch cầu (Leukocytes- Leu/µL), Ascorbic acid
(mmol/L), K (mmol/L), Na (mmol/L), Cl (mmol/L).
Tất cả các chỉ tiêu được theo dõi trong tình trạng sức khỏe bình thường. Cầy vòi
hương được xem là bình thường dựa vào theo dõi lâm sàng, không có các biểu hiện
bệnh lý và bất thường trong ăn uống, hoạt động.
37
Bố trí thí nghiệm:
Bảng 2. 2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm theo dõi các chỉ số sinh lí - sinh hoá máu, nước tiểu
Theo giới tính Theo độ tuổi
Chỉ tiêu khảo sát Đực Cái 3-<12 tháng >12 tháng
(N=30) (N=32) (N=31) (N=31)
Các chỉ tiêu sinh lí máu n=90 n=96 n=92 n=94
Các chỉ tiêu sinh hoá máu n=90 n=96 n=92 n=94
Các chỉ tiêu sinh lí nước tiểu n=120 n=128 n=124 n=124
Ghi chú: N: Số cá thể cầy vòi hương được theo dõi; n: tổng số mẫu được phân tích.
Các chỉ tiêu sinh hoá nước tiểu n=120 n=128 n=124 n=124
2.3.2.3. Phương pháp thu mẫu và phân tích máu
-Thu mẫu: Mẫu máu được lấy qua tĩnh mạch gốc đuôi vào 8-10 giờ sáng, khi
chưa cho ăn. Cầy vòi hương được cố định trong túi lưới, vệ sinh gốc đuôi bằng cồn,
dùng xilanh 3 ml (kim tiêm cỡ 25 Gx1) tiến hành lấy 1,5-2 ml máu/cá thể.
-Phân tích các chỉ số sinh lí máu: Sau khi lấy máu, mẫu được đưa nhanh vào ống
chống đông (EDTA-K2), lắc nhẹ, bảo quản và chuyển đến phòng thí nghiệm để nghiên
cứu các chỉ tiêu sinh lí. Tất cả các chỉ tiêu sinh lí máu được thực hiện trên máy phân
tích huyết học hoàn toàn tự động Mindray BC 2800 Vet; tại trung tâm Công nghệ Sinh
học chăn nuôi, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
-Phân tích các chỉ tiêu sinh hoá máu: Sau khi lấy máu, mẫu vật được chuyển
nhanh vào các ống không có chất chống đông máu, được ly tâm ở 3000 vòng/phút trong
10 phút (Roto x 32®-Hettich). Huyết thanh được thu thập và giữ ở -200C cho đến khi
phân tích. Các thông số sinh hóa máu được đo bằng máy phân tích hóa học (Abaxis
Vetscan 2, Union City, CA, USA); tại trung tâm xét nghiệm Medilab, thành phố Thủ
Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
2.3.2.4. Phương pháp thu mẫu và phân tích nước tiểu
- Chuồng đặc dụng thu nước tiểu: Sàn thứ 1 bằng thép không gỉ (để thuận lợi thu
nước tiểu), mặt sàn thứ 2 bằng lưới sắt không gỉ dây lưới cách nhau 0,5 cm (cách mặt
sàn thứ 1 khoảng 10 cm).
- Phương pháp thu mẫu: Mẫu nước tiểu thu từ mặt sàn thép không gỉ của chuồng
38
đặc dụng bằng xilanh; đựng nước tiểu trong lọ khô, tối màu và sạch, có dán nhãn ghi
chú ngày giờ thu mẫu và kí hiệu cá thể. Mẫu nước tiểu được thu thập vào 18-20 giờ
(theo dõi trực tiếp và thu mẫu ngay sau khi cầy bài tiết), 1 lần/tuần trong 1 tháng (cho
mỗi cá thể).
- Xét nghiệm các chỉ tiêu sinh hoá: Mẫu nước tiểu không quay ly tâm. Lắc kỹ
mẫu trước khi thử nghiệm. Việc xét nghiệm hoàn tất trong vòng 1 giờ sau khi thu nhận
mẫu, các chỉ tiêu sinh hóa được đo trên máy phân tích tự động (Teco TC-101, Teco
diagnostics, USA).
- Phân tích Na+, K+ và Cl- được đo từ dung dịch thu được sau khi ly tâm mẫu
nước tiểu ở 3000 vòng/phút trong 10 phút (Roto x 32®-Hettich) và được thực hiện trên
máy đo chọn lọc ion (model Roche 9180, Roche Diagnostics, Thụy Sĩ).
2.3.3. Nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng hormone sinh dục của cầy vòi hương
cái trong điều kiện nuôi nhốt
2.3.3.1. Vật liệu
Tổng số 2.635 mẫu phân được thu thập từ 12 cá thể cầy vòi hương cái trưởng
thành trong 16 tháng (Bảng 2.4). Tất cả các cá thể được coi là khoẻ mạnh dựa trên lịch
sử theo dõi lâm sàng và không có thai khi bắt đầu nghiên cứu.
2.3.3.2. Chỉ tiêu khảo sát
Sự thay đổi các chỉ số nội tiết sinh dục: estradiol (E2), progesterone (P4) của cầy
vòi hương cái trưởng thành trong các trường hợp: không mang thai, mang thai và mang
thai giả.
Bố trí thí nghiệm:
Bảng 2 3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm theo dõi các chỉ số nội tiết estradiol và progesterone
Cầy vòi hương không Cầy vòi hương Cầy vòi hương
mang thai mang thai mang thai giả Chỉ tiêu khảo sát
(N=6) (N= 4) (N=2)
Estradiol (E2) n=1.316 n=873 n=446
Ghi chú: N: Số cá thể cầy vòi hương được theo dõi; n: tổng số mẫu phân.
Progesterone (P4) n=1.316 n=873 n=446
39
2.3.3.3. Phương pháp thu mẫu và chiết xuất phân Các mẫu phân được thu thập vào khoảng 18-20 giờ, 3 ngày một lần trong 16
tháng. Mẫu phân (5 g) được thu thập vào túi nhựa (kích thước 200 x 140 x 0.04 mm;
Uni Pack Mark Series-G, Seisan Nippon Co., Tokyo, Japan) và được bảo quản ở -200C
cho đến khi phân tích. Sau khi rã đông, 0,2 g được cân và đặt vào bình thủy tinh chứa
2 ml methanol 90%. Sau khi lắc 30 phút (trên máy lắc HS 260 -IKA, Đức), mẫu được
ly tâm ở 1.700 vòng trong 20 phút (trên máy EAB 20, Đức). Sau khi ly tâm, khoảng 1
ml dung dịch được chiết vào lọ eppendorf 1,5 ml và đông lạnh ở -200C cho đến khi sử
dụng. Phần còn lại được cho vào lọ thủy tinh và sấy khô để xác định trọng lượng khô
của phân [109].
Bảng 2.4. Dữ liệu của 12 cá thể cầy cái được thu mẫu trong nghiên cứu
Tuổi* Cân nặng* Chiều dài* Số mẫu
Kí hiệu (Tháng) thân (cm) phân (kg)
F1 18 67,41 210 3,17
F2 24 68,64 224 3,32
F3 31 68,72 210 3,43
F4 36 69,26 208 3,56
F5 40 69,18 227 3,51
F6 33 68,34 224 3,33
F7 30 68,22 210 3,28
F8 32 68,41 231 3,55
F9 32 68,45 231 3,48
F10 32 68,56 230 3,38
F11 27 67,68 214 3,25
Ghi chú: * Tuổi, cân nặng và chiều dài cơ thể khi bắt đầu nghiên cứu
F12 27 67,72 216 3,27
40
2.3.3.4. Xét nghiệm hormone
Lượng P4 và E2 được xác định với hệ thống xử lý ELISA Dynex DS2 hoàn toàn
tự động (Dynex, USA). Bộ KIT ELISA Progesterone (DRG International, Inc., Đức) và
Estradiol (DRG International, Inc., Đức).
Quy trình xét nghiệm ELISA được cài đặt sẵn trên máy Dynex DS2, mỗi lần
- Nhỏ 25 µL của chất chuẩn (0; 0.3; 1.25; 2.5; 5; 15; 40 ng/mL), chất chứng và
chạy bao gồm một đường cong chuẩn, gồm các bước:
các mẫu bằng các đầu côn tiêu hao mới vào các giếng tương ứng.
- Ủ trong 5 phút ở nhiệt độ phòng.
- Nhỏ 200 µL Enzyme liên hợp vào từng giếng.
- Trộn kỹ hỗn hợp (lắc) trong 10 giây.
- Ủ trong 60 phút ở nhiệt độ phòng.
- Rửa sạch các giếng 3 lần bằng dung dịch rửa (400 uL mỗi giếng).
- Thêm 200 µl dung dịch chất nền vào từng giếng.
- Ủ trong 15 phút ở nhiệt độ phòng.
- Ngừng các phản ứng enzyme bằng cách thêm 100 µL dung dịch dừng phản ứng
vào từng giếng.
- Xác định độ hấp thụ (OD) của từng giếng ở 450 ± 10 nm với một đầu đọc khay
vi giếng.
- Tính toán kết quả: Xây dựng một đường cong chuẩn bằng cách vẽ độ hấp thụ
trung bình thu được từ mỗi chất chuẩn so với nồng độ của nó; giá trị độ hấp thụ trên
trục dọc (Y) và nồng độ trên trục ngang (X). Sử dụng giá trị độ hấp thụ trung bình cho
từng mẫu để xác định nồng độ tương ứng từ đường cong chuẩn. Nồng độ của các mẫu
có thể được đọc trực tiếp từ đường cong tiêu chuẩn này. Trường hợp mẫu có nồng độ
cao hơn so với chất chuẩn có nồng độ cao nhất phải được pha loãng thêm. Để tính toán
nồng độ, hệ số pha loãng này được tính đến.
Tất cả các mức độ hormone được biểu thị bằng microgam trên gam phân khô
(µg/g df). Độ dài của chu kỳ buồng trứng được tính bằng số ngày giữa hai đỉnh của E2
41
kế tiếp nhau (không quá 50 ngày). Hàm lượng E2 và P4 cực đại (đỉnh-peak) được xác
định là những giá trị lớn hơn trung bình của tất cả các giá trị còn lại từ mỗi cá thể cầy
vòi hương [88].
2.3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của kích thích tố sinh dục (PMSG, HCG) đến khả
năng sinh sản của cầy vòi hương cái
2.3.4.1. Vật liệu
Tổng số 54 cầy vòi hương cái trưởng thành, sau khi khảo sát được phân thành 3
nhóm:
- Nhóm 1: Cầy tơ chậm lên giống lần đầu (sau 24 tháng tuổi chưa thấy biểu hiện
động dục); n=14.
- Nhóm 2: Cầy cái chậm động dục lại (sau khi sinh 12 tháng chưa thấy biểu hiện
động dục lại); n=15.
- Nhóm 3: Cầy sinh sản hiệu quả thấp (1 lứa/năm; số con trên lứa ít, từ 1-2
con/lứa); n=25.
2.3.4.2. Chỉ tiêu khảo sát
- Sự thay đổi các chỉ số nội tiết sinh dục: estradiol (E2), progesterone (P4) sau
khi tiêm PMSG và HCG (từ 2 ngày trước khi tiêm (ngày -2) đến ngày tiêm (ngày 0) và
8 ngày sau điều trị.
- Thời gian xuất hiện động dục và thời gian kéo dài động dục của cầy vòi hương
cái sau khi tiêm PMSG và HCG.
- Tỉ lệ cầy vòi hương cái động dục (số con động dục/tổng số con được điều trị).
- Tỉ lệ cầy vòi hương cái mang thai (số con mang thai/ tổng số con được điều
trị).
- Số cầy vòi hương sơ sinh trung bình trên ổ.
- Khối lượng trung bình của con sơ sinh.
- Tỉ lệ cầy vòi hương còn sống trên ổ sau 24 giờ và sau 1 tháng (số con còn sống/
tổng số con được sinh ra).
42
2.3.4.3. Loại hormone sinh sản sử dụng
Hỗn hợp PMSG/HCG (tỉ lệ 2:1): tên thương mại là Gestavet (Vương quốc Anh).
Mỗi lọ chứa 400 IU PMSG /200 IU HCG khô lạnh và lọ chứa 5 ml dung môi cho dung
dịch tiêm.
2.3.4.4. Các công thức tiêm hormone sinh sản
Lô đối chứng (ĐC): Không tiêm
Lô thí nghiệm 1 (CT1): 20 IU PMSG + 10 IU HCG
Lô thí nghiệm 2 (CT2): 30 IU PMSG + 15 IU HCG
Lô thí nghiệm 3 (CT3): 40 IU PMSG + 20 IU HCG
Thí nghiệm được thực hiện tất cả các công thức đối với cầy ở 3 nhóm. Mỗi lô thí
nghiệm có từ 3 cầy trở lên. Cơ sở lựa chọn liều tiêm dựa vào kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Thanh Bình (2015) trên cầy vòi hương [20] và hướng dẫn sử dụng của chế
phẩm Gestavet.
2.3.4.5. Bố trí thí nghiệm
Cầy cái trong mỗi nhóm được xếp vào các ô chuồng nuôi xen kẽ với con đực,
mỗi ô chuồng gắn bảng tên để theo dõi trong suốt quá trình thí nghiệm. Cầy được bố trí
vào các công thức thí nghiệm theo phương pháp bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên.
Bảng 2. 5. Sơ đồ bố trí thí nghiệm tiêm kích dục tố
Lô thí nghiệm ĐC CT1 CT2 CT3
Nhóm 1 (n=14) 3 4 4 3
Nhóm 2 (n=15) 3 4 4 4
Nhóm 3 (n=25) 3 7 7 8
2.3.4.6. Quy trình tiêm
Các con cái được chích bắp (IM) vào lúc 8 giờ sáng, không tính đến chu kỳ động
dục. Việc sử dụng kích dục tố và ghép đôi thực hiện vào khoảng tháng 2 đến tháng 4,
phù hợp với mùa sinh sản của cầy trong tự nhiên [7]. Sau 24 giờ sau khi tiêm hỗn hợp
PMSG và HCG, cầy cái được ghép đôi với con đực khoẻ mạnh trong thời gian 3-4 ngày.
Theo dõi các biểu hiện động dục và xác định có sự giao phối.
2.3.4.7. Phương pháp xác định sự thay đổi hormone
Quy trình thu mẫu, chiết xuất phân, xét nghiệm hormone được thực hiện tương
43
tự 2.3.3.3. và 2.3.3.4.
2.3.4.8. Phương pháp xác định động dục
- Phương pháp quan sát (mắt thường, camera): theo dõi sự thay đổi hành vi của
cầy vòi hương cái theo sau khi tiêm kích dục tố theo thời gian. Dữ liệu về hành vi được
thu thập bằng cách quan sát 2 lần/1 ngày (từ ngày bắt đầu tiêm (ngày 0) và đến ngày 8
sau tiêm).
Ngày xuất hiện động dục được định nghĩa là ngày mà lần đầu thấy các biểu hiện
khác thường ghi nhận như sau: cầy cái ăn ít hoặc bỏ ăn, phát tiếng kêu nhiều lần, đi lại
thường xuyên quanh chuồng (kể cả ban ngày), quan sát kĩ thấy tiểu tiện nhiều lần, có
thể có chất dịch màu vàng đục tiết ra ở cơ quan sinh dục ngoài. Trong khoảng thời gian
cầy cái động dục, các cầy đực thường chồm lên thành chuồng và quan sát về ô chuồng
của con cái đang lên giống [7, 11].
- Phương pháp lâm sàng: theo dõi sự mang thai và sinh con của cầy vòi hương
cái.
2.4. Xử lí số liệu
Các tham số thống kê: giá trị trung bình cộng (X̅ ); độ lệch chuẩn (SD); hệ số
biến thiên CV (%); kiểm định t-test; phân tích ANOVA một nhân tố với mức ý nghĩa
α=0,05; được xử lí bằng phần mềm MS-Excel 2013.
44
PHẦN 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh học
3.1.1. Đặc điểm hình thái, dinh dưỡng và một số tập tính của cầy vòi hương trong
điều kiện nuôi
Về hình thái, cầy vòi hương (cầy) trong điều kiện nuôi cũng có những đặc điểm
đặc trưng của loài như trong điều kiện tự nhiên. Bộ lông màu xám mốc hoặc hung mốc,
mút lông phớt đen; dọc sống lưng, sườn có đốm màu nâu đen hoặc thường tạo thành ba
sọc chạy dọc sống lưng từ vai đến gốc tai. Đuôi có vệt không rõ hoặc màu đen ở phần
gốc đuôi, phần mút đuôi thường có màu đen, tuy nhiên ở một số cá thể có thể màu trắng;
phần mũi, má, tai, phần dưới đùi và bốn vó chân có màu đen; bụng xám [3, 7]. Khi cầy
còn non, sọc đốm nâu màu đen chưa rõ ràng, lông thô. Càng lớn dần bộ lông càng mượt
và đốm màu nâu đen càng rõ ràng. Mặt có 2-3 đốm sáng ở trán hoặc cạnh mắt. Những
đặc điểm hình thái này chứng tỏ loài đang được nuôi nhốt và nghiên cứu chính là loài
Paradoxurus hermaproditus.
Hình 3. 1. Cầy vòi hương (P. hermaphroditus) trong điều kiện nuôi
Về đặc điểm dinh dưỡng, chúng tôi đã khảo sát thực tế và tiến hành cho cầy vòi
hương ăn các loại thức ăn khác nhau. Tuy thuộc bộ ăn thịt, nhưng cầy vòi hương là loài
ăn tạp. Kết quả khảo sát cho thấy, cầy ăn được nhiều loại trái cây. Loại trái cây ưa thích
của cầy là chuối. Trong chăn nuôi, tùy theo mùa vụ có thể thay đổi nguồn thức ăn khác
45
nhau. Ở các loại rau, cầy vòi hương không ăn rau sống mà phải qua chế biến (nấu chung
với cháo) chúng mới sử dụng. Như vậy, vào mùa không có trái cây chín, có thể bổ sung
thêm thức ăn có nguồn gốc từ thực vật qua cháo rau. Về nguồn thức ăn động vật, cầy
đặc biệt thích ăn các loại thịt, cá, trứng. Kết quả khảo sát cho thấy, cầy ăn được hầu hết
các loại thức ăn có nguồn gốc từ động vật được thử nghiệm như: thịt các loại (heo, bò,
gà), cá, trứng, tôm, cua, ốc. Cầy ăn được cả thịt sống và chín. Tuy nhiên, để đảm bảo
sức khoẻ cho cầy, cần nấu chín các nguồn thức ăn động vật trước khi cho cầy sử dụng.
Trong điều kiện nuôi, để tiết kiệm chi phí, đảm bảo nguồn cung cấp, đồng thời phù hợp
với nhu cầu dinh dưỡng của cầy, cháo nấu với đầu gà hoặc cơm trộn với đầu gà xay đã
nấu chín là loại thức ăn phù hợp và được sử dụng phổ biến. Theo Đặng Huy Huỳnh và
cs. (2010); Duckworth (2016), cầy vòi hương là động vật ăn tạp, hầu hết các thức ăn
mà con người ăn chúng đều ăn được [7, 110].
Hình 3. 2. Cầy vòi hương ăn hạt cà phê Hình 3. 3. Cầy vòi hương ăn dưa hấu
Về tập tính hoạt động, cầy chủ yếu hoạt động ban đêm, ngày ngủ. Các hoạt động
bài tiết chủ yếu thực hiện vào đầu của pha hoạt động chiều tối. Cầy có tập tính bảo vệ
lãnh thổ rất cao. Khi thả ghép con khác vào chung ô chuồng, chúng sẽ cắn nhau. Cầy
chỉ chịu ghép đôi khi con cái có biểu hiện động dục. Điều này chứng tỏ trong điều kiện
nuôi nhốt, cầy vẫn còn giữ tập tính sống đơn độc của loài [7]. Ban đêm, cầy đực tiết xạ
hương, có thể dễ dàng nhận biết mùi xạ hương do cầy tiết ra trong khu vực chuồng trại,
đặc biệt trong mùa sinh sản.
46
3.1.2. Đặc điểm sinh trưởng của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt
3.1.2.1. Tăng trưởng khối lượng
Kết quả khảo sát tốc độ tăng trưởng khối lượng của 64 cầy vòi hương được thể
hiện ở bảng 3.1.
Bảng 3. 1. Tốc độ tăng trưởng khối lượng của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi
Đực (n=32) (1)
Cái (n=32) (2)
Tháng
A
A
X̅ 1
tuổi
(g/con/
(g/con/
SD Cv(%)
R (%)
SD Cv(%)
R (%)
P
X̅ 1 (g)
X̅ 2 (g)
-X̅ 2
ngày)
ngày)
3
782
118,5
15,15
727
82,7
11,38
55
>0,05
6
1.152
126,1
10,95
4,11a
38,26a
975
125,3
12,85
2,76b
29,14b
177
<0,05
9
1.735
109,1
6,29
6,48
40,39
1.456
117,8
8,09
5,34
39,57
279
<0,05
12
2.644
113,5
4,29
10,10
41,52
2.225
113,7
5,11
8,54
41,78
419
<0,05
15
3.245
128,1
3,95
6,68
20,41
2.848
120,7
4,24
6,92
24,56
397
<0,05
18
3.533
108,5
3,07
3,20
8,50
3.175
118,9
3,74
3,63
10,86
358
<0,05
21
3.743
116,3
3,11
2,33
5,77
3.335
84,7
2,54
1,78
4,92
408
<0,05
24
3.925
105,2
2,68
2,02
4,75
3.516
93
2,63
2,01
5,28
409
<0,05
X̅
5,14
20,22
4,71
21,16
Ghi chú: X̅ : Giá trị trung bình khối lượng, SD: độ lệch chuẩn, Cv: hệ số biến thiên, A: Sinh trưởng
tuyệt đối, R: Sinh trưởng tương đối. Các ký tự khác nhau trong cùng một hàng (với từng chỉ tiêu tương
ứng) thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05) theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05.
Bảng 3.1 cho thấy, khối lượng cầy vòi hương được theo dõi có tốc độ tăng trưởng
không đồng đều qua các giai đoạn tháng tuổi, điều này phù hợp với quy luật sinh trưởng
theo giai đoạn. Tốc độ tăng trưởng khối lượng có xu hướng tăng dần từ 3-12 tháng tuổi,
sau đó chậm dần từ 12-24 tháng tuổi. Giai đoạn có tốc độ tăng trưởng cao nhất là từ
tháng 9-12 với mức tăng trưởng tuyệt đối trung bình của mỗi cá thể đực là 10,1
g/con/ngày, sinh trưởng tương đối R%= 41,52%; các chỉ số này tương ứng ở giới cái là
8,54 g/con/ngày và R% là 41,78%. Tốc độ tăng khối lượng nhanh nhất ở giai đoạn này
phù hợp với quy luật ở giai đoạn thành thục sinh dục động vật có tốc độ tăng trưởng
mạnh. Trong tự nhiên, tuổi thành thục sinh dục của cầy đực khoảng 9-11 tháng tuổi, ở
47
cầy cái từ 11 – 12 tháng tuổi [3]. Sau 15 tháng tuổi, khi gần đạt khối lượng tối đa, tốc
độ tăng trưởng của cầy chậm lại (tăng dưới 4 g/con/ngày, trung bình 50-120
g/con/tháng). Khối lượng cầy trưởng thành trong tự nhiên đạt khối lượng từ 3 đến 5 kg
[7]; 2 – 5 kg, trung bình 3,2 kg [1, 110]
Tốc độ tăng khối lượng trung bình từ 3-24 tháng tuổi ở con đực là 5,14
g/con/ngày, R% = 20,22% và ở con cái là 4,71 g/con/ngày, R% = 24,27% (cho mỗi giai
đoạn 3 tháng). Tốc độ tăng trưởng khối lượng ở hầu hết các giai đoạn không có sự khác
biệt ở hai giới (P>0,05), trừ giai đoạn 3-6 tháng tuổi tốc độ tăng trưởng khối lượng ở
con đực có xu hướng nhanh hơn (P<0,05).
Bảng 3.1 cũng cho thấy, khối lượng trung bình ở con đực cao hơn so với con cái
ở giai đoạn từ 6 đến 24 tháng tuổi và khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Điều này
cũng phù hợp với quy luật chung, ở con đực thường có cân nặng cao hơn so với con cái
cùng độ tuổi.
Trong giai đoạn 3-6 tháng tuổi, hệ số biến thiên ở cả giới đực và cái dao động từ
10,9 – 15,2%; nằm trong khoảng tính trạng có độ ổn định trung bình (CV < 10% - 20%).
Từ giai đoạn 9-24 tháng tuổi, hệ số CV dao động từ 2,6- 8,1%; lúc này tính trạng khối
lượng có độ ổn định cao (CV < 10%). Có thể trong điều kiện nuôi, từ giai đoạn này cầy
đã thích nghi với điều kiện chuồng trại sau khi tách mẹ và chế độ nuôi dưỡng đồng đều
nên ít có sự biến động về tăng trọng giữa các cá thể.
3.1.2.2. Tăng trưởng chiều dài thân đầu
Kết quả khảo sát tốc độ tăng trưởng chiều dài thân đầu của cầy vòi hương thể
hiện qua bảng 3.2 cho thấy, tốc độ tăng trưởng chiều dài thân đầu của cầy vòi hương có
xu hướng chậm dần qua các tháng tuổi. Giai đoạn tăng trưởng chiều dài thân đầu nhanh
nhất ở giai đoạn 3-6 tháng với mức tăng trưởng tuyệt đối 2,87 cm/con/tháng; tăng trưởng
tương đối R% = 19,46% (cho giai đoạn 3 tháng) ở con đực và 2,57 cm/con/tháng; tăng
trưởng tương đối R% = 18,15% ở con cái. Sau tháng thứ 15, khi chiều dài thân đầu gần
đạt giới hạn tốt đa của loài thì sự tăng trưởng ở giai đoạn từ 18-24 tháng rất ít (0,10-
0,76 cm/con/tháng). Tốc độ tăng chiều dài thân đầu gần như không có sự khác biệt
thống kê giữa giới đực và giới cái (P>0,05). Ở cầy vòi hương, chiều dài thân đầu là một
trong các chỉ tiêu phân loại [7] và đây cũng là chỉ tiêu đánh giá chất lượng con giống
48
[11]. Trong tự nhiên, cầy có chiều dài thân đầu trung bình đạt từ 40 - 56 cm [7], 43-71
cm, trung bình 54 cm [1, 3, 110].
Bảng 3. 2. Tốc độ tăng trưởng chiều dài thân đầu của cầy vòi hương trong điều kiện
nuôi
Đực (n=32) (1)
Cái (n=32) (2)
Tháng
A
A
X̅ 1
X̅ 2
X̅ 1 -
tuổi
(cm/con/
(cm/con/
SD Cv%
R%
SD Cv%
R%
P
(cm)
(cm)
X̅ 2
tháng)
tháng)
3
39,89 0,38
0,95
38,67
0,32
0,83
1,22 >0,05
6
48,49 0,44
0,91
2,87
19,46
46,39
0,46
0,99
2,57
18,15
2,10 >0,05
9
56,27 0,46
0,82
2,59
14,85
53,24
0,53
1,00
2,28
13,75
3,03 <0,05
12
62,55 0,55
0,88
2,09
10,57
59,01
0,55
0,93
1,92
10,28
3,54 <0,05
15
68,92 0,45
0,65
2,12
9,69
65,12
0,54
0,83
2,04
9,84
3,80 <0,05
18
70,36 0,77
1,09
0,48
2,07
67,41
0,31
0,46
0,76
3,46
2,95 <0,05
21
71,33 0,41
0,57
0,32
1,37
68,68
0,29
0,42
0,42
1,87
2,65 <0,05
24
71,62 0,41
0,57
0,10
041
69,03
0,30
0,43
0,12
0,51
2,59 <0,05
X̅
1,51
8,35
1,45
8,27
Ghi chú: X̅ : Giá trị trung bình chiều dài thân, SD: độ lệch chuẩn, Cv: hệ số biến thiên, A: Sinh trưởng
tuyệt đối, R: Sinh trưởng tương đối.
Nhìn chung, giữa cá thể đực và cái có chỉ số tăng trưởng chiều dài thân đầu gần
bằng nhau, dao động trung bình 1,45-1,51 cm/con/tháng, R% từ 8,27-8,35% (cho giai
đoạn 3 tháng). Hệ số biến thiên CV từ 0,42 - 1,09%, thuộc nhóm có độ ổn định cao (CV
< 10%). Khi xét riêng chiều dài thân đầu trung bình giữa hai giới, bảng 3.2 cho thấy,
cầy vòi hương đực có chiều dài thân đầu lớn hơn cầy cái ở tất cả các tháng tuổi, nhưng
sự khác biệt chỉ có ý nghĩa thống kê ở giai đoạn từ 9-24 tháng tuổi (P<0,05).
3.1.2.3. Tăng trưởng chiều dài đuôi
Kết quả khảo sát tốc độ tăng trưởng chiều dài đuôi của cầy vòi hương được thể
hiện ở bảng 3.3. Kết quả cho thấy, tốc độ tăng trưởng chiều dài đuôi của cầy vòi hương tăng
tương đối đồng đều qua các giai đoạn tháng tuổi, tuy nhiên, tăng nhanh hơn ở giai đoạn 6-12
tháng tuổi (R% từ 8-10,14%). Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (A) trung bình là 0,95
49
cm/con/tháng, tốc độ tăng trưởng tương đối (R%) là 6,21% (ở con đực) và A=0,93
cm/con/tháng, R% = 6,20% (ở con cái). Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng và chiều dài đuôi
trung bình qua các giai đoạn tháng tuổi không có sự khác biệt đáng kể giữa hai giới (P>0,05).
Hệ số biến thiên của chiều dài đuôi giữa các cá thể nghiên cứu nằm trong khoảng 1,39 % -
3,40%, có độ ổn định cao (CV < 10%). Chiều dài đuôi là một trong các chỉ tiêu phân loại
ở bộ ăn thịt [7]. Trong tự nhiên, theo Đặng Huy Huỳnh và cs. (2010) cầy có chiều dài đuôi
trung bình từ 40 đến 56 cm [7], theo Duckworth et al. (2016) là 40-60 cm [110]
Bảng 3. 3. Tốc độ tăng trưởng chiều dài đuôi của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi
Đực (n=32) (1)
Cái (n=32) (2)
Tháng
A
A
X̅ 1
X̅ 2
X̅ 1 -
tuổi
(cm/con
(cm/con
SD Cv%
R%
SD Cv%
R%
P
(cm)
(cm)
X̅ 2
/tháng)
/tháng)
3
36,44 0,93
2,55
36,02
1,18
3,28
0,42
>0,05
6
38,24 0,95
2,48
0,60
4,82
37,68
1,28
3,40
0,55
4,50
0,56
>0,05
9
41,45 0,91
2,20
1,07
8,06
40,82
1,18
2,89
1,05
8,00
0,63
>0,05
12
45,36 0,91
2,01
1,30
9,01
44,68
1,33
2,98
1,29
9,03
0,68
>0,05
15
48,64 0,91
1,87
1,09
6,98
48,19
1,34
2,78
1,17
7,56
0,45
>0,05
18
51,37 0,87
1,69
0,91
5,46
50,88
1,22
2,40
0,90
5,43
0,49
>0,05
21
54,25 0,80
1,47
0,96
5,45
53,57
1,25
2,33
0,90
5,15
0,68
>0,05
24
56,31 0,78
1,39
0,69
3,73
55,62
1,03
1,85
0,68
3,75
0,69
>0,05
X̅
0,95
6,21
0,93
6,20
Ghi chú: X̅ : Giá trị trung bình chiều dài đuôi, SD: độ lệch chuẩn, Cv: hệ số biến thiên, A: Sinh trưởng
tuyệt đối, R: Sinh trưởng tương đối.
3.1.2.4. Tăng trưởng vòng ngực
Kết quả theo dõi về chiều đo vòng ngực của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi
được thể hiện qua bảng 3.4. Kích thước vòng ngực là một trong các chỉ tiêu quan trọng
đánh giá chất lượng con giống, chiều đo này chịu ảnh hưởng của phẩm chất giống và
chế độ chăm sóc nuôi dưỡng [11]. Vòng ngực cũng là một trong các chỉ tiêu phân loại
ở bộ ăn thịt [7]. Kết quả theo dõi cho thấy, tốc độ tăng trưởng vòng ngực cao ở giai
đoạn 3 - 12 tháng tuổi và đạt cao nhất ở giai đoạn 9 tháng tuổi (A=1,27 cm/con/tháng,
50
R=15,07% ở con đực và A=1,06 cm/con/tháng, R=13,21% ở con cái). Điều này phù
hợp với quy luật tốc độ tăng trưởng vòng ngực nhanh ở giai đoạn thành thục về tính ở
động vật. Tuổi thành thục sinh dục của cầy vòi hương ở giai đoạn 9-12 tháng tuổi [110].
Bảng 3. 4. Tốc độ tăng trưởng vòng ngực của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi
Đực (n=32) (1)
Cái (n=32) (2)
Tháng
A
A
X̅
X̅
X̅ 1 -
tuổi
(cm/con
(cm/con
Sx Cv%
Rw%
Sx Cv%
Rw%
P
(cm)
(cm)
X̅ 2
/tháng)
/tháng)
3
21,21 0,92
4,34
20,83
0,81
3,89
0,38 >0,05
6
23,43 0,83
3,54
0,74
9,95
22,56
0,71
3,15
0,58
7,97
0,87 >0,05
9
27,25 0,75
2,75
1,27
15,07
25,75
0,70
2,72
1,06
13,21
1,50 <0,05
12
29,36 0,93
3,17
0,70
7,45
27,64
0,70
2,53
0,63
7,08
1,72 <0,05
15
29,87 0,92
3,08
0,17
1,72
28,24
0,74
2,62
0,20
2,15
1,63 <0,05
18
30,32 0,90
2,97
0,15
1,50
28,68
0,66
2,30
0,15
1,55
1,64 <0,05
21
30,54 0,86
2,82
0,07
0,72
28,93
0,82
2,83
0,08
0,87
1,61 <0,05
24
30,66 0,85
2,77
0,04
0,39
29,12
0,78
2,68
0,06
0,65
1,54 <0,05
X̅
0,45
5,26
0,39
4,78
Ghi chú: X̅ : Giá trị trung bình vòng ngực, SD: độ lệch chuẩn, Cv: hệ số biến thiên, A: Sinh trưởng
tuyệt đối, R: Sinh trưởng tương đối.
Tốc độ tăng trưởng vòng ngực ít có sự khác biệt ở hai giới (P>0,05). Khi so sánh
vòng ngực trung bình, bảng 3.4 cho thấy, chỉ số này ở con đực luôn cao hơn ở con cái.
Sự khác biệt không đáng kể (P>0,05) ở giai đoạn từ 3-6 tháng tuổi; từ 9-24 tháng tuổi
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Trung bình mỗi tháng vòng ngực cầy vòi
hương tăng 0,45 cm (ở con đực) và 0,39 cm (ở con cái). Tốc độ tăng trưởng vòng ngực
ở con đực nhanh hơn, tương quan với sự tăng khối lượng ở con đực cao hơn so với con
cái cùng lứa tuổi. Điều này cũng phù hợp với quy luật tăng trưởng chung ở đa số động
vật thuộc lớp thú. Hệ số biến thiên của tính trạng này dao động từ 2,30 -4,34%, thể hiện
tính trạng có độ ổn định cao (CV <10%).
51
3.1.3. Đặc điểm sinh sản của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt
3.1.3.1. Tuổi thành thục sinh dục và biểu hiện động dục
Kết quả theo dõi tuổi thành thục sinh dục của cầy vòi hương (32 cầy cái, 34 cầy
đực) trong điều kiện nuôi nhốt tại địa điểm nghiên cứu được thể hiện qua bảng 3.5.
Chỉ tiêu theo dõi
Cái (n=32) Tỉ l ệ (%)
Số con
Số con
Đực (n=34) Tỉ l ệ (%)
Khối lượng trung bình (kg)
Biểu hiện thành thục
Khối lượng trung bình (kg) 1,84 2,45 2,56 2,61 2,86
0 12,50 15,63 28,13 18,75 9,38
2,38 2,43 2,51 2,58 2,62
Độ tuổi (tháng) 9 10 11 12 13 14
2 9 14 6 3 0
5,88 26,47 41,18 17,65 8,82 0,00
Độ tuổi (tháng) 9 10 11 12 13 14
0 4 5 9 6 3
0
0
24-30
15,63
3,26
5
Chưa biểu hiện động dục X̅ SD
11,96a 1,22
2,50 0,08
10,97b 1,03
2,52 0,04
Bảng 3. 5. Tuổi thành thục sinh dục của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt
Ghi chú: Các ký tự khác nhau trong cùng một hàng thì sự sai khác có ý nghĩa thống
kê (P<0,05).
Bảng 3.5 cho thấy, cầy vòi hương cái có biểu hiện động dục ở giai đoạn 10 – 14
tháng tuổi, với cân nặng trung bình 2,38- 2,62 kg. Cầy vòi hương cái biểu hiện thành
thục chiếm tỷ lệ nhiều nhất ở 12 tháng tuổi (28,13%). Tuổi thành thục trung bình là
11,96 tháng; với cân nặng trung bình là 2,50 kg. Trong tự nhiên, sau khoảng ba tháng
cầy vòi hương được xem là phát triển đầy đủ nhưng chúng không có khả năng hoạt
động giao phối cho đến khi chúng được khoảng một năm tuổi [110]. Theo Nelson (2013)
cầy vòi hương động dục trong độ tuổi từ 11 – 12 tháng tuổi [111]. Có 15,63% số cầy
theo dõi có tuổi từ 24-30 tháng, cân nặng trên 3 kg, được chăm sóc và sinh trưởng bình
thường nhưng không biểu hiện động dục hoặc biểu hiện không rõ ràng để được ghi
nhận, ghép đôi giao phối nhiều lần không thành công. Từ đó cho thấy, tuổi thành thục
của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt tương đương với thời gian thành thục ngoài
tự nhiên (11-12 tháng) [7]. Tuy nhiên, vẫn có một số cá thể cầy vòi hương cái trên 24
52
tháng tuổi vẫn chưa hoặc không biểu hiện động dục. Vì vậy, cần có những nghiên cứu
tiếp theo để có biện pháp tác động đến khả năng động dục nhằm cải thiện khả năng sinh
sản của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt.
Biểu hiện động dục được ghi nhận như sau: vào thời gian động dục, cầy vòi
hương cái thường ăn ít hoặc bỏ ăn, phát tiếng kêu, đi lại thường xuyên quanh chuồng,
quan sát kĩ thấy tiểu tiện nhiều lần. Ngoài ra, trong giai đoạn này nếu quan sát sẽ thấy
chất dịch màu vàng đục tiết ra ở cơ quan sinh dục ngoài. Trong khoảng thời gian cầy
vòi hương cái động dục, các cầy đực trong trại thường chồm lên thành chuồng và quan
sát về ô chuồng của con cái đang lên giống. Thời gian cầy vòi hương cái động dục kéo
dài trong khoảng từ 2 - 3 ngày. Tuy nhiên, cầy chủ yếu hoạt động vào ban đêm nên rất
khó phát hiện động dục nếu không được theo dõi thường xuyên.
Hình 3. 4. Cơ quan sinh dục của cầy vòi Hình 3. 5. Cơ quan sinh dục của cầy
hương đực trưởng thành vòi hương cái trưởng thành
Ở cầy vòi hương đực, khi thành thục sinh dục biểu hiện có thể quan sát được
thông qua việc bìu lọt ra khỏi kẽ bẹn, người nuôi có thể tiến hành quan sát để kiểm tra.
Kết quả theo dõi tuổi thành thục của 34 cầy vòi hương đực ở bảng 3.5 cho thấy, cầy vòi
hương đực bắt đầu thành thục ở 9 tháng tuổi (5,88%). Tuổi có tỷ lệ thành thục sinh sản
ở cầy đực nhiều nhất là 11 tháng tuổi (41,18%), tuổi thành thục trung bình là 10,97
tháng, sớm hơn so với cầy cái khoảng 1 tháng (P<0,05). Kết quả này cũng phù hợp với
tuổi thành thục của cầy vòi hương đực trong tự nhiên khoảng 9-11 tháng tuổi [111].
53
3.1.2.2. Hoạt động giao phối, tỉ lệ mang thai và thời gian mang thai
Trong tự nhiên, theo Grassman (1998) và Nakabayashi et al. (2012) cầy vòi
hương có lối sống đơn độc, trừ một thời gian ngắn vào mùa giao phối, hoạt động chủ
yếu về đêm ở giữa buổi tối muộn đến sau nửa đêm [5, 25]; theo Đặng Huy Huỳnh và
cs. (2010) cầy chỉ ghép đôi trong mùa sinh sản [7]. Trong điều kiện nuôi, nếu ghép đôi
không đúng thời điểm động dục của cầy cái, chúng sẽ cắn nhau. Sau khi cầy vòi hương
cái động dục và đủ điều kiện sinh sản người chăn nuôi tiến hành ghép đôi. Sau khi cho
cầy đực vào chung chuồng, cầy vòi hương cái thường chạy vòng quanh chuồng trong
khoảng thời gian ngắn. Nếu cầy cái có các biểu hiện phản ứng mạnh như cắn lại con
đực thì cần tách chuồng ngay, có thể thay đổi con đực khác. Trong điều kiện nuôi, hoạt
động giao phối có thể diễn ra ban ngày hoặc ban đêm, nhưng chủ yếu là ban đêm.
Hình 3. 7. Cầy vòi hương được ghép Hình 3. 6. Cầy vòi hương nuôi theo từng ô
đôi theo cặp đực và cái trong mùa sinh chuồng, xen kẽ đực và cái.
sản.
Trong thời gian nghiên cứu, theo dõi kết quả sinh sản của 42 cầy vòi hương cái,
với 84 lượt ghép đôi, tỉ lệ mang thai và thời gian mang thai được trình bày ở bảng 3.6.
Bảng 3.6 cho thấy, có sự khác nhau đáng kể về tỉ lệ mang thai ở hai địa điểm
nghiên cứu. Tại Trung tâm Ứng dụng Công nghệ sinh học Đồng Nai vào khoảng từ
tháng 2 đến tháng 4, chọn ra những con cái giống có độ tuổi trên 12 tháng và cân nặng
trung bình trên 2 kg đã từng có biểu hiện động dục trước đó và tiến hành ghép đôi hàng
loạt. Cho con đực giống vào chung một chuồng với cầy cái (theo từng đôi một) trong
khoảng thời gian 1 tuần, sau đó tách riêng và theo dõi cầy cái trong thời gian tiếp theo.
54
Nếu cầy chưa mang thai thì tiến hành ghép đôi lại, khi cầy cái đã mang thai thì tách cầy
vào khu chuồng sinh sản để thuận tiện chăm sóc và theo dõi. Việc ghép đôi hàng loạt
thực hiện vào khoảng tháng 2 đến tháng 4, phù hợp với thời gian động dục của cầy sống
trong thiên nhiên [7]; tuy nhiên, tỉ lệ mang thai chưa cao, chỉ đạt 46,67%.
Bảng 3. 6. Tỉ lệ và thời gian mang thai ở cầy vòi hương
Số lượng cầy Số lượng cầy Tỉ lệ Thời gian mang Địa điểm ghép đôi (n=84) mang thai (con) mang thai (%) thai (ngày)
Đồng Nai 30 14 46,67a 61,2
Thủ Đức 54 42 77,78b 60,8
X̅ 66,67 60,9
SD 1,3
Ghi chú: các ký tự trong cùng một cột khác nhau thì sự khác nhau có ý nghĩa thống
kê (P<0,05).
Tại trang trại Động vật hoang dã Thanh Long - Thành phố Hồ Chí Minh, khi
quan sát thấy cầy vòi hương cái có biểu hiện lên giống, tiến hành cho con đực giống
vào chung ô chuồng con cái để ghép đôi giao phối. Sau khi giao phối xong sẽ tách
chuồng và tiến hành theo dõi, nếu cầy cái chưa mang thai và động dục lại thì cho giao
phối lại. Tỉ lệ mang thai của cầy vòi hương cái tại đây khá cao, khoảng 77,78%, cao
hơn 31,11% so với tỉ lệ mang thai của cầy tại Đồng Nai (P<0,05). Như vậy, có thể do
kỹ thuật ghép đôi giao phối đã ảnh hưởng đến tỉ lệ mang thai của cầy ở hai địa điểm.
Bảng 3.6 cũng cho thấy, tỉ lệ mang thai trung bình của cầy vòi hương trong điều
kiện nuôi nhốt chưa cao (66,67%), công tác nhân giống gặp nhiều hạn chế, chưa đáp
ứng được nhu cầu về con giống nên giá thành còn cao. Việc phối giống đúng thời điểm
cầy cái đang trong thời gian động dục có ảnh hưởng lớn đến tỉ lệ mang thai của cầy. Vì
vậy, cần tiếp tục nghiên cứu về các tập tính sinh sản, theo dõi động thái hormone sinh
dục của cầy vòi hương, đánh giá chính xác về chu kì động dục để có thể tiến hành ghép
đôi đúng lúc nhằm tăng tỉ lệ mang thai, cải thiện năng suất sinh sản trong điều kiện
nuôi. Nội dung nghiên cứu này được thực hiện ở phần 3.3.
55
Thời gian mang thai trung bình của cầy vòi hương là 60,9 ngày; không có sự sai
khác đáng kể về thời gian mang thai của cầy ở hai trang trại (P>0,05) và tương đương
với thời gian mang thai của cầy trong tự nhiên, khoảng 2 tháng [111], từ 60-63 ngày
[7].
Mùa sinh sản: trong 56 lứa đẻ được quan sát, thời gian đẻ diễn ra ở tất cả các
mùa trong năm, tuy nhiên, thời gian có số lứa đẻ cao là tháng 1-3 (21,12%), cao nhất là
tháng 4-6 (42,85%);chiếm tỉ lệ ít hơn là tháng 7-9 (16,07%) và tháng10-12 (19,64%).
Kết quả này phù hợp với mùa sinh sản của cầy vòi hương trong tự nhiên, mùa động dục
chủ yếu là tháng 2-4 [7].
3.1.3.3. Số cầy sinh ra trên lứa, tỉ lệ sống sót, đặc điểm con sơ sinh và tuổi cai
sữa
Sau khi cầy vòi hương cái mang thai tiến hành tách cầy cái ra khu vực chuồng
nuôi sinh sản. Kết quả theo dõi số cầy non sinh ra trên lứa, đặc điểm con sơ sinh và tỉ
lệ sống sót của 56 lứa đẻ theo dõi được trình bày ở bảng 3.7.
Khối lượng (X̅
, gr)
Số con sống sót (con / tỉ lệ %)
Địa điểm
Số cầy mẹ (con) n=56
Số con sinh ra (con)
Sau khi sinh
Sau 24h
Sau 48h
Sau 1 tuần
Sau 1 tháng
Khi cai sữa
Con sơ sinh
Khi cai sữa
22
20
20
17
17
17
96,93
585,36
Đồng Nai (n= 14)
84,62
76,92 76,92
65,38
65,38
65,38
4 6 3 1
X̅ 1 Sx
96,93 7,45
585,36 26,85
107
101
97
93
92
92
94,57
592,65
Thủ Đức (n=42)
6 15 14 7
100,00
94,39 90,65
86,92
85,98
85,98
X̅ 2 Sx X̅
1 2 3 4 1,86a 0,77 1 2 3 4 2,55b 0,92 2,38
96,15 90,03 87,22
81,53
80,83
80,83
94,57 6,27 95,16
59142 19,38 590,83
Bảng 3 .7. Số cầy vòi hương con sinh ra trên lứa và tỉ lệ sống sót
Ghi chú: các ký tự trong cùng một cột khác nhau thì các khác nhau có ý nghĩa thống
kê (P<0,05). Thời gian cai sữa là 45 ngày.
56
Bảng 3.7 cho thấy, cầy đẻ mỗi lứa từ 1 – 4 con. Ở Đồng Nai, có số con trên lứa
trung bình 1,86 ± 0,77 con, thấp hơn so với ở Thủ Đức 2,55 ± 0,92 con (P<0,05). Số
con trên lứa trung bình của cả 56 lứa được theo dõi là 2,38 con. Trong tự nhiên, theo
Đặng Huy Huỳnh và cs. (2010), cầy đẻ 2-4 con [7]; theo Nelson (2013) là 2-5 con, trung
bình 3,4 con/ lứa [111]. Trong số cầy vòi hương được theo dõi, chưa ghi nhận trường
hợp đẻ 5 con/lứa.
Như vậy, số con trên lứa của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi tương đương
với ngoài tự nhiên, tuy nhiên, trung bình chung thì thấp hơn. Theo kinh nghiệm chăn
nuôi tại trang trại ở Thủ Đức, việc ghép đôi được tiến hành vào ngày thứ 2 của giai đoạn
động dục (kéo dài 2-3 ngày) nên có số con trên lứa cao hơn, có thể thời điểm ghép đôi
có ảnh hưởng đến số con sinh ra.
Số con sống sót sau khi sinh chịu ảnh hưởng bởi điều kiện nuôi dưỡng và chăm
sóc, mặt khác, cầy vòi hương có nguồn gốc từ động vật hoang dã nên dễ bị tác động từ
các yếu tố môi trường sống. Trong giai đoạn nuôi con, nếu có những tác động bất thường
về tiếng ồn hoặc người lạ xuất hiện sẽ gây stress cho cầy mẹ, hoặc do tập tính bảo vệ
con mà cầy mẹ có thể dùng miệng gắp con gây thương tích và thậm chí chết con non.
Kết quả bảng 3.7 cũng cho thấy, có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ sống sót của hai địa
điểm nghiên cứu. Tại Đồng Nai, tỉ lệ sống sót đến khi cai sữa là 65,38%, đã xảy ra 2
trường hợp cầy mẹ ăn con non sau khi sinh trong quá trình nghiên cứu. Ở trang trại
động vật hoang dã Thanh Long, tỉ lệ sống sót sau khi sinh khá ổn định. Sau khi cai sữa
và tách chuồng, số lượng cầy non vẫn ổn định. Tỉ lệ sống sót khi cai sữa đạt 85,98%.
Qua đó cho thấy, tuy cầy đã được thuần dưỡng, nhưng trong điều kiện nuôi cần tránh
những tác động có ảnh hưởng đến bản năng tự vệ và tập tính hoang dã của cầy; nhất là
trong giai đoạn sinh sản, cần lưu ý hạn chế cho người lạ vào khu vực nuôi nhốt.
Trước khi đẻ 1 – 4 ngày, cầy cái thở mạnh, bụng phình to, vú sưng đỏ, có thể cắn
phá chuồng, biểu hiện khó chịu. Qua theo dõi thời gian ghép đôi và dự tính thời gian đẻ
(thời gian mang thai khoảng 60 ngày), người chăn nuôi tiến hành chuẩn bị chuồng cho cầy
sinh sản trước ngày sinh từ 7-10 ngày. Đặt vào chuồng nuôi cái khay hoặc rổ (thường được
làm bằng nhựa) đủ diện tích cho mẹ con cầy sinh hoạt thoải mái. Chiều cao của khay trung
bình từ 15 – 20 cm, nếu thấp quá cầy con sẽ dễ bò ra ngoài, quá cao sẽ gây khó khăn cho
57
cầy mẹ khi ra vào. Lót vải khô và sạch để giữ ấm cho cầy non sau khi sinh. Sau khi sinh,
do tập tính tự vệ và bản năng chăm sóc con cầy mẹ hung dữ hơn, cầy mẹ rất quan tâm đến
vệ sinh cho cầy con, thường hay liếm và làm sạch ổ đẻ.
Cầy vòi hương sơ sinh có vành tai còn dính sát vào da đầu, mắt khép kín và lông
màu đen sẫm bao phủ cơ thể. Cầy sơ sinh rất nhỏ, yếu chưa thể đứng vững được, có
khối lượng trung bình 95,16 gram. Theo Nelson (2013), cầy sơ sinh chỉ nặng khoảng
80 gram [111], theo Đặng Huy Huỳnh và cs. (2010) cầy con nặng khoảng 250 gram [7].
Sau thời gian 7-10 ngày, vành tai cầy mở ra, từ 12 – 15 ngày cầy sẽ mở mắt. Sau khi
mở mắt, cầy con di chuyển nhiều hơn, có thể bò ra khỏi ổ; vì vậy, cần lưu ý mắt lưới
của sàn chuồng cần có kích thước đủ nhỏ để tránh cầy con bị lọt sàn rơi xuống đất.
Hình 3. 8. Cầy vòi hương mẹ và cầy con 10 ngày Hình 3. 9. Cầy vòi hương sau khi cai
tuổi sữa sữa (3 tháng)
Thời gian cai sữa: Trong điều kiện nuôi, quan sát cho thấy, cầy con khoảng 25-
30 ngày tuổi đã tìm đến dụng cụ đựng thức ăn và liếm thức ăn của cầy mẹ. Nếu không
tách con, khoảng 50-60 ngày cầy mẹ có biểu hiện tránh không cho con bú. Thông
thường, qua 45 ngày sau khi sinh, tiến hành tách bầy, cầy vòi hương non được mang ra
chuồng riêng để cai sữa mẹ. Khối lượng trung bình khi cai sữa vào 45 ngày tuổi là
590,83 gram. Trong thời gian này, cho cầy non ăn cháo loãng, cần theo dõi đến sức
khỏe và sự sinh trưởng của cầy thường xuyên.
58
3.2. Kết quả nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí – sinh hóa máu, nước tiểu của cầy
vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt
3.2.1. Một số chỉ tiêu sinh lí máu của cầy vòi hương theo giới tính
Kết quả nghiên cứu các chỉ số sinh lí của 186 mẫu máu từ 62 cá thể cầy vòi
hương trưởng thành (30 đực, 32 cái) được trình bày qua bảng 3.8.
Bạch cầu: Bạch cầu là thành phần quan trọng tham gia vào hệ miễn dịch của cơ
thể. Số lượng bạch cầu có thể biến động theo trạng thái cơ thể. Sự tăng giảm bạch cầu
liên quan đến các trạng thái bệnh của cơ thể, khi bị nhiễm khuẩn thì số lượng bạch cầu
tăng [73, 112]. Số lượng bạch cầu (WBC) trung bình là 12,32 x 109/L, có sự khác biệt
đáng kể giữa con đực (11,61 x 109/L) và con cái (12,97 x 109/L) (P<0,05).
Số lượng bạch cầu trong nghiên cứu này cao hơn đáng kể so với kết quả của
Salakij et al. (2007), với 4 cá thể được theo dõi thì chỉ số này là 6,262 x 109/L [36]. Tuy
nhiên, lại khá tương đồng với nghiên cứu của Ahmad et al. (2017), dao động từ 3,55-
20,33 x 109/L [37]. Công thức bạch cầu (Lymphocyte, Monocyte, Gran) không có sự
khác biệt đáng kể giữa cá thể đực và cái. Kết quả cho thấy số lượng có biên độ dao động
và tỉ lệ từng loại trong công thức bạch cầu phù hợp với kết quả của nhóm tác giả Ahmad
et al. (2017) (Lymphocyte: 1,05-8,26 x 109/L; Monocyte: 0,06-1,33 x 109/L; Gran:
2,38-14,82 x 109/L) [37].
Hồng cầu: Chỉ số hồng cầu trong máu thể hiện sức sống và phản ánh tình trạng
sức khỏe của con vật. Khi số lượng hồng cầu cao và ổn định chứng tỏ vật nuôi sinh
trưởng tốt và thích nghi với điều kiện nuôi [73].
Bảng 3.8 cho thấy, số lượng hồng cầu (RBC) trung bình là 11,06 x 1012/L, ở con
đực (9,89 x 1012/L) thấp hơn so với con cái (11,99 x 1012/L), tuy nhiên sự khác biệt này
là không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Chỉ số này thấp hơn so với nhóm cầy được
nghiên cứu ở Thái Lan (13,3 x 1012/L) [36]. Điều này có thể giải thích, do nghiên cứu
trước đó chỉ mới tiến hành trên 4 cá thể, cỡ mẫu ít nên giá trị trung bình chưa có tính
đại diện. Kết quả trong nghiên cứu này có biên độ rộng hơn (7,5 - 17,6 x 1012/L), nhưng
khá tương đồng với số lượng hồng cầu của nghiên cứu trên 33 cá thể cầy ở Singapore
với biên độ dao động từ 9,16 - 16,25 x 1012/L [37].
59
Đực (n= 30)
Cái (n= 32)
Chung (n= 62)
Chỉ số
X̅ ± SD
X̅ ± SD
X̅ ± SD
Min
Max
7,9
WBC (109/L)
11,61 ± 2,13a
12,97 ± 3,49b
12,32 ± 2,98
20,8
1,5
Lympho (109/L)
4,99 ± 2,22a
6,12 ± 2,38b
5,57 ± 2,36
8,9
0,1
Mono (109/L)
0,46 ± 0,14
0,53 ± 0,23
0,48 ± 0,19
1,2
2,1
Gran (109/L)
6,17 ± 1,81
6,12 ± 2,38
6,26 ± 2,00
10,7
Lympho (%)
41,94 ± 15,44
46,39 ± 13,99
44,24 ± 14,82
16,5
73,2
Mono (%)
4,07 ± 1,47
3,87 ± 1,42
3,96 ± 1,44
1,2
9,8
Gran (%)
54,00 ± 15,57
49,75 ± 13,98
51,80 ± 14,86
21,6
80,7
RBC (1012/L)
9,89 ± 2,95
11,99 ± 2,72
11,06 ± 2,88
7,5
17,6
HGB (g/L)
121,98 ± 13,19
119,58 ± 16,07
120,74 ± 14,74
92
149
HCT (%)
21,70 ± 4,54
37,25 ± 7,34
29,74 ± 9,92
13,7
45,2
MCV (fL)
36,75 ± 3,2
31,99 ± 2,49
34,31 ± 3,72
27,8
39,9
6,4
MCH (pg)
13,56 ± 4,84
10,47 ± 2,58
11,96 ± 4,12
27,1
2,1
MCHC (g/dL)
5,87 ± 1,41
3,32 ± 0,72
4,55 ± 1,68
9,4
RDW (%)
16,99 ± 0,46
17,15 ± 0,87
17,29 ± 1,08
14,7
19,8
PTL (109/L)
340,02 ± 93,08
332,73 ± 83,85
336,25 ± 88,14
218
712
MPV (fL)
6,54 ± 0,80
6,73 ± 0,8
6,64 ± 0,8
5,2
10,1
PDW
14,09 ± 0,76
14,22 ± 0,75
14,15 ± 0,75
12
15,3
PCT (%)
0,21 ± 0,05
0,21 ± 0,04
0,21 ± 0,04
0,1
0,3
Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một cột thì sự khác nhau có ý nghĩa thống kê
(P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. RBC (Red blood cells), HGB (Hemoglobin),
HCT (Hematocrit), MCV (Mean corpuscular volume), MCH (Mean corpuscular hemoglobin), MCHC
(Mean corpuscular hemoglobin concentration), RDW (Red cell distribution width), PTL (Platelet),
MPV (Mean platelet volume), PDW (Platelet distribution width), PCT (Plateletcrit).
Bảng 3. 8. Một số chỉ số sinh lí máu của cầy vòi hương theo giới tính
Hàm lượng hemoglobin trung bình là 120,74 gr/L, với biên độ dao động từ 92-
149 gr/L. Chỉ số này không có sự khác biệt đáng kể (P>0,05) giữa con đực (121,98
gr/L) và con cái (119,58 gr/L). Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu trước đó
60
của Salakij et al. (2007) (139 gr/L) [36] và của Ahmad et al. (2017) (85- 167 gr/L) [37].
Thể tích trung bình của hồng cầu (MCV) là 34,31 fL phù hợp với kết quả nghiên cứu
của Salakij et al. (2007) (32,3 fL) ) [36] và cao hơn của Ahmad et al. (2017) (27,91-
29,8 fL) [37]. Các chỉ số tỉ lệ thể tích hồng cầu trên thể tích máu toàn phần (HCT), trung
bình huyết sắc tố trên một hồng cầu (MCH), nồng độ trung bình của huyết sắc tố trong
một thể tích máu (MCHC) và độ phân bố hồng cầu (RDW) sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê giữa cá thể đực và cái (P>0,05) và có sự tương quan giữa kết quả của
nghiên cứu này với các nghiên cứu trước đó trên cầy vòi hương [36, 37].
Tiểu cầu: Bảng 3.8 cho thấy, số lượng tiểu cầu (PTL) chung là 336,25 x 109/L.
Số lượng này ở cá thể đực (340,02 x 109/L) cao hơn cá thể cái (332,73 x 109/L), tuy
nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Tiểu cầu có chức năng chính
tham gia vào quá trình đông máu, số lượng không ổn định mà dao động tùy theo trạng
thái cơ thể [73]. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Salakij et al. (2007)
trên nhóm cầy được nghiên cứu ở Thái Lan (403,5 x 109/L) [36], nhưng biên độ thấp
hơn đáng kể so với nghiên cứu của Ahmad et al. (2017) trên cầy được giải cứu ở
Singapore (130-1.921 109/L) [40]. Điều này có thể lí giải, những cá thể cầy ở Singapore
sau khi bị bắt trước khi giải cứu trả về tự nhiên đã có cơ chế phản vệ làm tăng sinh tiểu
cầu. Các chỉ số thể tích trung bình của tiểu cầu (MDV), độ phân bố tiểu cầu (PDW), thể
tích khối tiểu cầu (PCT) sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa cá thể đực và cái
(P>0,05), và có độ ổn định hơn (biên độ hẹp hơn) so với nghiên cứu của Ahmad et al.
(2017) [40].
3.2.2. Một số chỉ tiêu sinh lí máu của cầy vòi hương theo tuổi
Tuổi có ảnh hưởng đến các chỉ số huyết học trên thú [113, 114]. Cầy vòi hương
có tuổi thành thục về tính trung bình ở 11-12 tháng tuổi. Chúng tôi theo dõi các chỉ số
sinh lí máu theo 2 nhóm tuổi: Sau cai sữa và trước thành thục sinh dục (3-<12 tháng),
nhóm trưởng thành (>12 tháng). Kết quả nghiên cứu các chỉ số sinh lí của 180 mẫu máu
từ 60 cá thể cầy vòi hương theo nhóm tuổi được trình bày qua bảng 3.9.
Công thức bạch cầu là một trong các cơ sở để chẩn đoán và điều trị bệnh. Bảng
3.9 cho thấy, số lượng bạch cầu (WBC) trong một đơn vị thể tích máu không có sự khác
biệt đáng kể. Tuy nhiên, trong công thức bạch cầu thì số lượng và tỉ lệ các loại
61
Lymphocyte và Monocyte có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi
(P<0,05).
3-<12 tháng (n= 31)
>12 tháng (n=31)
Chỉ số
X̅ ± SD
X̅ ± SD
WBC (109/L)
13,92 ± 3,11
10,72 ± 1,74
Lympho (109/L)
6,33 ± 1,84a
4,82 ± 2,59b
Mono (109/L)
0,51 ± 0,21a
0,45± 0,18b
Gran (109/L)
7,08 ± 1,96
5,26 ± 1,72
Lympho (%)
45,47 ± 8,19a
43,00 ± 19,31b
Mono (%)
3,69 ± 1,09a
4,24 ± 1,69b
Gran (%)
50,84 ± 8,42
52,76 ±19,31
RBC (1012/L)
12,43 ± 2,97a
9,52 ± 2,27b
HGB (g/L)
120,80 ± 14,84
120,68 ± 14,76
HCT (%)
32,80 ± 11,14a
26,68 ± 7,43b
MCV (fL)
32,63 ± 3,54
36,02 ± 3,08
MCH (pg)
10,29 ± 2,71
13,63 ± 4,62
MCHC (g/dL)
4,29 ± 1,99
4,82 ± 1,26
RDW (%)
16,99 ± 0,95a
17,59 ± 1,11b
PTL (109/L)
313,80 ± 51,47a
358,70 ± 109,52b
MPV (fL)
6,45 ± 0,48a
6,83 ± 0,99b
PDW
14,17± 0,73
14,08 ± 0,82
PCT (%)
0,21 ± 0,05
0,21 ± 0,04
Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một cột thì sự khác nhau có ý nghĩa
thống kê (P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. RBC (Red blood cells), HGB
(Hemoglobin), HCT (Hematocrit), MCV (Mean corpuscular volume), MCH (Mean corpuscular
hemoglobin), MCHC (Mean corpuscular hemoglobin concentration), RDW (Red cell distribution
width), PTL (Platelet), MPV (Mean platelet volume), PDW (Platelet distribution width), PCT (Plateletcrit).
Bảng 3. 9. Các chỉ số sinh lí máu của cầy vòi hương theo nhóm tuổi
62
Số lượng và tỷ lệ giữa các thành phần trong công thức bạch cầu thay đổi theo
nhóm tuổi và tùy thuộc vào trạng thái bệnh của cơ thể [73]. Số lượng và tỷ lệ bạch cầu
Lymphocyte trong nghiên cứu này cao hơn so với kết quả nghiên cứu trên nhóm cầy ở
Thái Lan và Singapore [36, 37], có thể là do đặc điểm thích nghi đã tăng cường khả
năng miễn dịch trong điều kiện nuôi nhốt.
Số lượng hồng cầu (RBC) có xu hướng giảm theo nhóm tuổi, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa nhóm 3-<12 tháng tuổi (12,43 x 1012/L) và nhóm >12tháng tuổi
(9,52 x 1012/L) (P<0,05). Kết quả này phù hợp với sinh lí của con vật, số lượng hồng
cầu biến đổi theo nhóm tuổi và ở cá thể còn non số lượng hồng cầu trên cùng một thể
tích máu nhiều hơn [73], và cũng phù hợp với nhận định trên nghiên cứu ở một số vật
nuôi khác [113, 114]. Tuy nhiên, so với kết quả của Ahmad et al. (2017) thì có sự sai
khác, số lượng hồng cầu trong nghiên cứu của nhóm tác giả này ở con trưởng thành cao
hơn con chưa trưởng thành (P<0,05) [37]. Điều này do sự xác định tuổi trên cầy, nhóm
tác giả dựa vào cân nặng làm cơ sở, do đó các cá thể được theo dõi có thể được phân
loại theo tuổi chưa chính xác.
Bảng 3.9 cũng cho thấy, độ phân bố hồng cầu (RDW) có xu hướng tăng dần qua
các nhóm tuổi và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) giữa nhóm 3-<12 tháng
tuổi (16,99%) và nhóm >12tháng tuổi (17,59%).
Các chỉ số lượng hemoglobin (HGB), thể tích trung bình hồng cầu (MCV), nồng
độ trung bình của huyết sắc tố trong một thể tích máu (MCHC), thể tích trung bình của
tiểu cầu (MDV), độ phân bố tiểu cầu (PDW) và thể tích khối tiểu cầu (PCT) không có
sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm tuổi được nghiên cứu (P>0,05). Kết quả này phù
hợp với nhận định của Ahmad et al. (2017) [37].
Số lượng tiểu cầu có xu hướng tăng qua các nhóm tuổi, ở nhóm 3-<12 tháng tuổi
có số lượng tiểu cầu trung bình 313,80 x 109/L, thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm tuổi >12 tháng (358,70 x 109/L).
3.2.3. Các chỉ số sinh hóa máu của cầy vòi hương
Các chỉ tiêu sinh hóa máu của cầy vòi hương theo giới tính được thể hiện trong
bảng 3.10.
63
Đực (n= 30)
Cái (n= 32)
Chung (n= 62)
Chỉ số
X̅ ± SD
X̅ ± SD
X̅ ± SD
Min
Max
Total Protein (g/L)
73,56 ±7,34a
64,18 ±6,62b
68,87±5,38
63,00
83,00
Globulin (g/L)
32,43±5,12a
26,51±4,13b
29,47±5,47
16,00
47,00
Albumin (g/L)
41,26±7,07a
37,74±6.23b
39,5±6,56
25,00
51,00
Glucose (mmol/L)
8,54±2,05
7,16±2,12
7,85±2.16
4,20
11,50
BUN (mmol/L)
3,74±2,45
3,62±1,61
3,68±2,36
3,50
8,20
Creatinine
53,26±14.21
49,32±10.34
51,29±12,73
36,00
88,00
(µmol/L)
AST (U/L)
10,58±1.06
10,52±1.51
10,55±1.59
6,00
19,00
ALT (U/L)
17,25±1.24
14,82±1.19
16,04±1.52
5,00
26,00
ALP (U/L)
37,42±11,01
32,36±12,06
34,89±11,57
15,00
76,00
Na (mmol/L)
144,28 ± 5.32
141,36 ± 5.38
142,82 ± 5.34
139,00
145,0
K (mmol/L)
4,67±0,74
4,35±0,52
4,56±0,64
3,50
4,60
Ca (mmol/L)
2,79±0,38
2,68±0,28
2,74±0,32
2,53
2,98
P (mmol/L)
2,32±0,32a
1,49±0,29b
1,91 ±0,30
1,22
3,23
Cl (mmol/L)
108,21±0,91
107,56±0,89
107,89±0,91
101,00
112,0
Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một cột thì sự khác nhau có ý nghĩa thống kê
(P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. BUN = Blood urea nitrogen, AST= Aspartate
transaminase, ALT= Alanin amino transferase, ALP= Alkaline phosphatase.
Bảng 3. 10. Các chỉ số sinh hoá máu của cầy vòi hương theo giới tính
Bảng 3.10 cho thấy, tổng lượng protein huyết thanh (TP), globulin, albumin và
phospho ở cầy đực cao hơn ở cầy cái và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P <0,05).
Giới tính ảnh hưởng đến các thông số sinh lý máu trên cầy, ảnh hưởng đến một số chỉ
số sinh hóa máu ở động vật khác, phản ánh sự trao đổi chất ở con đực cao hơn ở con
cái [115, 116]. Như được thể hiện trong bảng 3.10, các thông số sinh hóa máu ở cả
nhóm cầy đực và cái được nghiên cứu đều nằm trong phạm vi bình thường đã báo cáo
trong nghiên cứu trước đây [37]. Tuy nhiên, biên độ của hầu hết các chỉ số trong nghiên
cứu này là hẹp hơn. Điều này có thể được giải thích, trong điều kiện nuôi dưỡng và dinh
64
dưỡng tương đối đồng đều, các chỉ số sinh hoá máu ổn định hơn. Mặt khác, có sự khác
biệt đáng kể về chỉ số ALT so với nghiên cứu trước đây ở Singapore [37]. Thông
thường, ALT trong máu của động vật là 40-100 UI/L, phạm vi của con số này có thể
thay đổi do một số yếu tố như tuổi tác, giới tính. Ở thỏ, trung bình ALT là 7,0-7,2 UI/L
[117]; ở chó sói, ALT ở con đực là 70,1 UI/L và ở con cái là 66,1 UI/L [115].
Các thông số sinh hóa máu được theo dõi ở hai nhóm tuổi: chưa thành thục (3-
<12 tháng) và trưởng thành (> 12 tháng), kết quả được thể hiện trong bảng 3.11.
3-<12 tháng (n= 31)
>12 tháng (n=31)
Chỉ số
X̅ ± SD
X̅ ± SD
Total Protein (g/L)
63,45±5,43a
74,29 ±5,72b
Globulin (g/L)
25,72±4,46a
33,22±6,12b
Albumin (g/L)
36,44 ±6,06a
42,56 ±7,27b
Glucose (mmol/L)
9,42±2,43a
6,28±2,22b
BUN (mmol/L)
3,94±2,06
3,42±2,55
Creatinine (µmol/L)
49,13±11,29
53,45±13,36
AST (U/L)
9,72±1,41
11,38±1,62
ALT (U/L)
13,24±1,45a
18,84±1,67b
ALP (U/L)
48,42±11,78a
21,36±10,52b
Na (mmol/L)
140,45±4,88
145,19±5,73
K (mmol/L)
4,43± 0,53
4,69 ± 0,77
Ca (mmol/L)
2,55±0,26a
2,93±0,45b
P (mmol/L)
2,23±0,36a
1,59±0,22b
Cl (mmol/L)
96,86±0,87a
118,92±0,92b
Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một cột thì sự khác nhau có ý nghĩa
thống kê (P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. BUN = Blood urea nitrogen, AST= Aspartate transaminase, ALT= Alanin amino transferase, ALP= Alkaline phosphatase
Bảng 3. 11. Các chỉ số sinh hoá máu của cầy vòi hương theo tuổi
65
Xét về độ tuổi, tổng lượng protein huyết thanh (TP), globulin, albumin, alanine
aminotransferase (ALT), canxi và chlorine ở cầy trưởng thành (> 12 tháng) cao hơn
đáng kể so với ở cầy chưa thành thục (P <0,05). Hàm lượng glucose, phosphatase kiềm
(ALP) và hàm lượng phốt pho ở cầy non cao hơn đáng kể so với cầy trưởng thành (P
<0,05). Sự phân bố của phốt pho ở cầy non cao hơn ở cá thể trưởng thành, phản ánh sự
phát triển xương, chuyển hoá cũng như tăng hấp thu phosphate do tăng trưởng nội tiết
ở cầy non [37, 117]. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu khác về các chỉ số
sinh hóa ở động vật thuộc lớp thú [113, 114, 118].
Sự hiểu biết về các thông số sinh hóa của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi sẽ
cung cấp dữ liệu quan trọng cho việc chăm sóc và theo dõi sức khoẻ để tăng cường hỗ
trợ cho việc bảo tồn loài này.
3.2.4. Một số chỉ tiêu sinh hóa nước tiểu của cầy vòi hương theo giới tính
Kết quả nghiên cứu các chỉ số sinh hóa của 244 mẫu nước tiểu từ 62 cá thể cầy
vòi hương (30 đực, 32 cái) được trình bày qua bảng 3.12.
Urobilinogen là sản phẩm được tạo thành từ sự thoái hóa của bilirubin. Nó được
thải ra ngoài cơ thể theo phân, chỉ một lượng nhỏ urobilinogen có trong nước tiểu.
Urobilinogen có trong nước tiểu có thể là dấu hiệu của bệnh về gan. Chỉ số cho phép ở
người và thú là 3,5-17 mmol/L [73, 112]. Ở cầy vòi hương, chỉ số urobilinogen trung
bình là 10,54 µmol/L, có sự khác biệt thống kê (P<0,05) giữa con đực (10,14 µmol/L)
và con cái (11,18 µmol/L).
Glucose được tái hấp thu và thường không có trong nước tiểu của người và động
vật khỏe mạnh, tuy nhiên một lượng nhỏ glucose trong nước tiểu cũng có thể tìm thấy
ở vật nuôi khi hoạt động quá mạnh hoặc stress [112]. Trong nghiên cứu này, có 228/240
mẫu (90,9%) là âm tính, có 22/240 mẫu (9,1%) có chỉ số glucose là 5 mmol/L, giá trị
trung bình của cả 240 mẫu nước tiểu được nghiên cứu là 0,46 mmol/L, sự khác biệt trị
số glucose giữa con đực (0,52 mmol/L) và con cái (0,41 mmol/L) có ý nghĩa thống kê
(P<0,05). Sự gia tăng nồng độ glucose trong nước tiểu ở một số con đực có thể là do
hoạt động nhiều hơn hoặc do stress. Thông thường, một lượng glucose thấp có thể tìm
thấy trong nước tiểu ở chó, mèo, thỏ khỏe mạnh khi có các yếu tố căng thẳng khác nhau.
Theo Özkan el al. (2012), chỉ số bình thường ở thỏ là 0,31-0,38 mmol/L [117].
66
Đực (n= 30)
Cái (n= 32)
Chung (n= 62)
Chỉ số
X̅ ± SD
X̅ ± SD
X̅ ± SD
Min Max
Urobilinogen (µmol/L)
10,14 ±1,22
11,18 ±1,52
10,66±1,38
3,5
70
Glucose (mmol/L)
0,52±0,19a
0,41±0,12b
0,47±0,19
0
5
Billirubin (µmol/L)
0,45±0,07
0,37±0,06
0,41±0,06
0
2
Ketone (mmol/L)
0,14±0,02
0,16±0,02
0,15±0,02
0
1,5
Specific Gravity
1,02±0,01
1,02±0,01
1.02±0,01
1
1,03
Blood (Ery/µL)
neg
neg
neg
neg
neg
pH
7,54±0,06
7,52±0,56
7,53±0,59
6
9
Protein (g/L)
17,01±1,24
14,88±1,19
15,95±1,22
0
30
Nitrite
Neg
neg
neg
neg
neg
Leukocytes (Leu/µL)
4,82 ± 0,32
4,36 ± 0,38
4,59 ± 0,34
0
500
Ascorbic acid (mmol/L)
0,17±0,04
0,15±0,02
0,16±0,04
0
2,4
K (mmol/L)
179,14±59,38
179,36±53,28
179,25±56,3
32,3
320,8
Na (mmol/L)
75,12±13,02a
78,49±15,09b
76,81 ±14,17
45,5
124,7
Cl (mmol/L)
152,18±48,41
154,87±37,26
153,53±43,13
54,5
302,5
Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một cột thì sự khác nhau có ý nghĩa thống kê
(P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. Neg=Negative (âm tính).
Bảng 3. 12. Các chỉ số sinh hoá nước tiểu của cầy vòi hương theo giới tính
Ketone xuất hiện trong nước tiểu bất cứ khi nào cơ thể phân hủy lượng mỡ dư
thừa để đáp ứng nhu cầu về năng lượng. Điều này xảy ra thường xuyên nhất trong bệnh
đái tháo đường, nhưng cũng có thể tìm thấy ở những con vật khỏe mạnh trong suốt thời
gian nhịn ăn hoặc đói [73, 112]. Trong nghiên cứu này, 67,1% mẫu xét nghiệm là âm
tính; chỉ số Ketone trung bình là 0,15 ASC và không có sự khác nhau đáng kể giữa giới
đực và cái.
Theo Nguyễn Đình Giậu và cs. (2010), Bilirubin được sản xuất trong gan và
thường được bài tiết trong mật. Giá trị bình thường ở người và động vật là 6,8-17
µmol/L. [73]. Theo Padma (2012), số lượng bilirubin bất thường trong nước tiểu có
liên quan đến bệnh gan hoặc sự hủy hoại hồng cầu và cần được điều tra [112]. Trong
67
nghiên cứu này, giá trị bilirubin trung bình là 0,41 µmol/L và sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (P>0,05) giữa giới đực (0,45 µmol/L) và giới cái (0,37 µmol/L).
Tỷ trọng nước tiểu (SG-Specific gravity) là chỉ số đánh giá nước tiểu loãng hay
cô đặc, thử nghiệm này phản ánh nồng độ ion trong nước tiểu và giá trị này thường thay
đổi trong ngày, phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng thiếu hay nhiều nước. Thận khỏe
mạnh thường sản xuất nước tiểu có mật độ cao (cô đặc), trong khi nước tiểu pha loãng
có thể báo hiệu bệnh cơ bản. Nếu con vật thải nước tiểu pha loãng trong thời gian dài
thì có thể có bệnh về thận hoặc chuyển hoá cơ bản và cần có thêm các xét nghiệm khác
[73, 112]. Tỷ trọng nước tiểu bình thường ở người và hầu hết các loài thú là 1,01-1,02
[73]. Ở nghiên cứu này, SG của cầy vòi hương trung bình là 1,02 và không có sự khác
nhau ở hai giới.
Hồng cầu (BLO –Blood) thường được tìm thấy trong nước tiểu một lượng nhỏ
khi được lấy bằng cách lấy nang hay catheter, nhưng một số lượng lớn hồng cầu trong
nước tiểu có thể do các điều kiện như sỏi bàng quang, nhiễm trùng, các vấn đề đông
máu, chấn thương [73]. Trong nghiên cứu này, tất cả các mẫu đều âm tính về chỉ số
Blood.
Tế bào bạch cầu (LEU -Leukocytes) trong nước tiểu cho biết có viêm nhiễm
đường tiết niệu, giá trị này tăng lên cho thấy có viêm nhiễm trong hệ tiết niệu, và thường
là do nhiễm khuẩn. Ở cầy vòi hương, trong nghiên cứu này có giá trị LEU trung bình là
4,63 Leu/µL, với biên độ dao động rộng từ 0-500 Leu/µL và không có sự khác biệt
thống kê ở hai giới. Tuy nhiên, chỉ có 1 mẫu có kết quả xét nghiệm là 500 Leu/µL và 2
mẫu có 125 Leu/µL, ba cá thể này được thu thập mẫu nước tiểu ở những lần sau đó đều
cho kết quả LEU âm tính. Có 92,08% mẫu nước tiểu âm tính về chỉ số LEU.
Độ pH cho biết tính axit hoặc kiềm của nước tiểu, có thể thay đổi theo chế độ ăn
uống, nhưng cũng có thể báo hiệu sự hiện diện của nhiễm trùng hoặc bệnh trao đổi chất
[73, 112]. Ở cầy vòi hương, trong nghiên cứu này, pH dao động từ 6 đến 9, trung bình
là 7,53 và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa giới đực (7,54) và giới cái
(7,52). Theo Nguyễn Đình Giậu và cs. (2010), nước tiểu thông thường của mèo và chó
có pH từ acide nhẹ đến tính kiềm [73]. Biên độ dao động rộng của pH nước tiểu của
cầy vòi hương (6-9) có thể là thay đổi theo chế độ ăn. Nếu ăn nhiều rau thì nước tiểu có
68
khi pH trung tính hoặc hơi kiềm; chế độ ăn nhiều thịt, pH nước tiểu càng về acide [73].
Cần có thêm nghiên cứu về ảnh hưởng của chế độ ăn đến các chỉ số sinh hóa nước tiểu
trên cầy vòi hương.
Nitrite (NIT) có mặt trong nước tiểu do vi khuẩn gây nhiễm trùng đường niệu
tạo ra enzyme nitrate reductase có thể chuyển nitrate niệu thành nitrite [73, 112]. Do
đó, nếu như tìm thấy nitrite trong nước tiểu có nghĩa là có nhiễm trùng đường niệu.
Trong nghiên cứu hiện tại, nitrit trong nước tiểu của cả 240 mẫu thu được từ 60 con cầy
đều âm tính.
Ascorbic acid (ASC): sự xuất hiện vitamin C trong nước tiểu là sự đào thải bình
thường khi lượng vitamin cung cấp nhiều hơn so với nhu cầu. Tuy nhiên, nếu ASC cao
có thể là dấu hiệu giúp phát hiện trong viêm nhiễm thận, đường tiết niệu, sỏi đường tiết
niệu [112]. Ở cầy vòi hương, ASC trung bình là 0,16 mmol/L và không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê ở hai giới.
Các ion K+, Na+, Cl- trong nước tiểu cung cấp thông tin quan trọng về chức năng
thận và sự mất cân bằng điện giải ở động vật. Trong nghiên cứu này, nước tiểu của cầy
vòi hương có nồng độ K+ trung bình là 179,25 mmol/L, nồng độ Cl- trung bình là 153,53
mmol/L và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa con đực và con cái. Nồng
độ Na+ trung bình là 76,82 mmol/L; giữa con đực đực (75,12 mmol/L) và con đực cái
(78,49 mmol/L) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Hàm lượng K+, Na+ trong
nước tiểu phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng. Ở thú, K+ trung bình là 0,15%, Na+ là
0,35% [73]. Cần có những nghiên cứu tiếp theo về ảnh hưởng của chế độ nuôi dưỡng
và bệnh lý đến các chỉ số sinh hóa nước tiểu trên cầy.
3.2.5. Một số chỉ tiêu sinh hóa nước tiểu của cầy vòi hương theo tuổi
Kết quả theo dõi các chỉ số sinh hóa nước tiểu theo 2 nhóm tuổi: sau cai sữa và
trước thành thục sinh dục (3-<12 tháng), nhóm trưởng thành (>12tháng) được trình bày
ở bảng 3.13.
69
3-<12 tháng (n= 31)
>12 tháng (n=31)
Chỉ số
X̅ ± SD
X̅ ± SD
Khối lượng (g)
1.735±109,1a
3.335 ±84,7b
Dài thân (mm)
56,27±0,46a
71,62±0,41b
Urobilinogen (µmol/L)
10,44 ±1,06
10,88 ±1,27
Glucose (mmol/L)
Nega
0,47±0,22b
Billirubin (µmol/L)
0,46±0,06
0,35±0,05
Ketone (mmol/L)
0,13±0,02
0,17±0,03
Specific Gravity
1,02±0,01
1,02±0,01
Blood (Ery/µL)
neg
neg
7,55±0,17
7,51±0,52
pH
16,01±1,27
15,88±1,31
Protein (g/L)
neg
neg
Nitrite
Leukocytes (Leu/µL)
3,82 ± 0,12a
5,35 ± 0,37b
Ascorbic acid (mmol/L)
0,15±0,03
0,17±0,05
173,23±43,12
185,27±51,25
K (mmol/L)
69,86±11,07a
83,75±16,32b
Na (mmol/L)
149,58±43,42
157,47±32,24
Cl (mmol/L)
Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một cột thì sự khác nhau có ý nghĩa thống kê
(P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. Neg=Negative.
Bảng 3. 13. Các chỉ số sinh hoá nước tiểu của cầy vòi hương theo nhóm tuổi
Nghiên cứu cho thấy, các chỉ số Urobilinogen, Ketone, Ascorbic acid và Cl- có
xu hướng tăng theo độ tuổi tuổi, trong khi đó các chỉ số Billirubin, tỷ trọng, pH, protein
có xu hướng giảm dần, tuy nhiên, sự thay đổi này khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(P>0,05).
Các chỉ số Glucose, Leukocytes, Na+ có xu hướng tăng theo độ tuổi và sự sai
khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Riêng chỉ số Glucose, tất cả các mẫu được xét
nghiệm ở độ tuổi 3-<12 tháng đều âm tính. Theo Nguyễn Đình Giậu và cs. (2010), thành
70
phần nước tiểu có thể thay đổi theo độ tuổi, chế độ dinh dưỡng và chế độ hoạt động
nhiều hay ít [73]. Ở cầy vòi hương, trong nghiên cứu này, thành phần sinh hóa của nước
tiểu ít có sự thay đổi theo độ tuổi.
3.3. Kết quả nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng hormone sinh dục của cầy vòi
hương cái trong điều kiện nuôi nhốt
3.3.1. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone trong phân cầy vòi hương
không mang thai
Sự thay đổi của hàm lượng estradiol (E2) và progesterone (P4) ở cầy không mang
thai trong nghiên cứu này được thể hiện trong bảng 3.14.
Bảng 3. 14. Phạm vi, đỉnh và chu kỳ của P4 và E2 trong thời kỳ không mang thai ở
Hormone
Chung (µg/g df)
Đỉnh (µg/g df)
Chu kì (ngày)
Min-Max
X̅ ± SD
Min-Max
X̅ ± SD
Min-Max
X̅ ± SD
E2
0,05-7,01
1,07±0,84
1,13-7,01
3,22 ± 0,64
26,8-33,1
28,6± 2,29
P4
0,15-12,32
1,72±2,16
6,03-12,32
7.26 ± 1,11
26,6-31,3
27,8 ± 2,80
cầy vòi hương
3.4.1.1. Estradiol trong phân ở cầy không mang thai
Estradiol (E2) là estrogen chủ yếu và có hoạt tính sinh học tiết ra từ cả tế bào
gốc và các tế bào hạt của các nang trứng phát triển [95]. Nồng độ E2 phân trong cầy
không mang thai dao động từ 0,05 đến 7,01 µg/g df, trung bình 1,07 ± 0,84 µg/g df và
đỉnh là 3,22 ± 0,64 µg/g df. Mặc dù, sự thay đổi hàm lượng estradiol của cầy vòi hương
chưa từng được công bố, song các giá trị estradiol trong phân ở một số loài động vật
khác đã được sử dụng rộng rãi để theo dõi hoạt động sinh dục của chúng. Theo Putranto
(2011), ở một số loài thuộc bộ ăn thịt (Carnivora), hàm lượng E2 của loài hổ Siberi dao
động từ 0,39 đến 0,49 µg/g, trung bình E2 của hổ Bengal là 0,45 µg/g, và của hổ Sumatra
là 2,36 µg/g [88].
Trong nghiên cứu này, tổng số đỉnh (peak) của E2 trung bình ở từng cầy vòi hương
riêng lẻ là 14-16 lần trong 16 tháng (Hình 3.1-3.6). Sự thay đổi nồng độ E2 cho thấy có
tính chu kỳ. Thời gian của mỗi chu kỳ dao động từ 26,8-33,1 ngày; trung bình là 28,6
71
± 2,29 ngày. Giai đoạn này có thể so sánh với (27,0 ngày) của hổ Siberia [88] và hổ
Bengal (29.3 ngày) [87]; nhưng khác với mèo (21 ngày) hoặc báo (10 -20 ngày) [119].
Putranto (2011) cho rằng bài tiết E2 trong phân có lẽ song song với sự tăng trưởng nang
và sự thay đổi đáng kể có tính chu kỳ của E2 trong phân cho thấy sự thay đổi thường
xuyên của chu kỳ buồng trứng [88]. Hình 3.10- 3.15 cũng cho thấy, trung bình từ 26,8-
33,1 ngày có một đỉnh của E2. Tuy nhiên, trong suốt thời gian theo dõi, ở mỗi cá thể
chỉ có từ 2-3 chu kì có đỉnh E2 cao vượt trội (hơn 4 µg/g df). Những đỉnh này phân bố
vào các tháng 2-5 hoặc 9-12. Điều này cũng phù hợp với mùa sinh sản của cầy trong tự
nhiên là tháng 2-4 và 10-12 [7].
3.3.1.2. Progesterone trong phân ở cầy vòi hương không mang thai
Progesterone (P4) là một hormone steroid chủ yếu được tiết ra chủ yếu từ hoàng
thể (CL) điều hòa chu kỳ động dục và duy trì thai ở tất cả các động vật có vú. Vỏ thượng
thận và nhau thai cũng tiết ra một lượng progesterone nhất định trong một số giai đoạn
sinh lý nhất định [95].
Trong nghiên cứu này, các chất chuyển hóa progesterone trong phân của cầy cái
không mang thai có mức dao động từ 0,15 đến 12,32 µg/g với trung bình chung là 1,72
± 2,16 µg/g (Bảng 3.15). Theo Putranto (2011), mức progesterone phân của hổ Siberia
dao động từ 0,27 đến 38,19 µg/g và của hổ Sumatra dao động từ 0,09 đến 18,52 µg/g,
và hàm lượng này ở Bengal Tigers là 36,05 µg/g [88].
Hàm lượng progesterone ở cầy vòi hương cũng thay đổi theo thời gian. Đỉnh
progesterone phân bố từ 6,03-12,32 (µg/g) với trung bình 7,26 ± 1,11 (µg/g). Chu kỳ
thay đổi mức progesterone dao động từ 26,6 đến 31,0 ngày với trung bình 27,8 ± 2,80
ngày.
Chúng tôi cũng nhận thấy rằng, trong cùng một chu kỳ, đỉnh E2 thường xảy ra
3-5 ngày trước đỉnh của P4 (Hình 3.10- 3.15). Theo Brown (2011), có bốn giai đoạn
của chu kỳ động dục: giai đoạn trước động dục, giai đoạn động dục, giai đoạn sau động
dục và giai đoạn nghỉ ngơi (proestrus, estrus, diestrus and anestrus). Giai đoạn động dục
đi kèm với sự phát triển nang trứng và nồng độ đỉnh của estradiol. Trong thời kì sau
động dục, một hoặc nhiều thể vàng sản xuất progesterone duy trì một mức độ cao trong
một thời gian dài [88].
72
Biểu đồ sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F1,
F3, F5, F6, F8, F11) được thể hiện qua các hình 3.10- 3.15.
F1 E2
P4
7
14
6
12
5
10
4
8
3
6
2
4
) f d g / g µ ( l o i d a r t s E
) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P
1
2
0
0
1
2
4
3
11
12
5
6
7
8
9
1
2
3
4
10 2017 2018 Tháng
Hình 3. 10. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F1)
F3
E2
P4
7
12
6
10
5
8
4
6
3
4
2
) f d g / g µ ( e n o r e r s e g o r P
) f d g / g µ ( l o i d a r t s E
2
1
0
0
1
3
10 11
12
4
5
6
7
8
9
1
2
3
4
2 2017 2018 Tháng
Hình 3. 11. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F3)
73
F5
E3
P4
12
5
10
4
8
3
6
2
4
) f d g / g µ ( l o i d a r t s E
) f d g / g µ ( e n o r e r s e g o r P
1
2
0
0
1
7
6
5
4
3
10 11
12
8
9
1
2
3
4
2 2017 2018 Tháng
Hình 3. 12. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F5)
F6
E4
P4
12
7
6
10
5
8
4
6
3
4
2
) f d g / g µ ( e n o r e r s e g o r P
) f d g / g µ ( l o i d a r t s E
2
1
0
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10 11
12
1
2
3
4
2017 2018 Tháng
Hình 3. 13. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F6)
74
F8
E2
P4
7
10
6
8
5
6
4
3
4
2
) f d g / g µ ( l o i d a r t s E
2
) f d g / g µ ( e n o r e r s e g o r P
1
0
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10 11
12
1
2
3
4
2017 2018 Tháng
Hình 3. 14. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F8)
F11
E2
P4
8
10
7
8
6
5
6
4
4
3
2
) f d g / g µ ( l o i d a r t s E
2
) f d g / g µ ( e n o r e r s e g o r P
1
0
0
3
2
10 11
12
4
5
6
7
8
9
1
2
3
4
1 2017 2018 Tháng
Hình 3. 15. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F11)
3.3.2. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone trong phân cầy vòi hương
mang thai
Trong nghiên cứu này, 12 cá thể cầy vòi hương cái được cho giao phối với cầy vòi
hương đực theo hình thức ghép đôi từng cặp riêng rẻ. Tuy nhiên, chỉ có 4 con mang
thai, 6 con không mang thai, và 2 con được cho là mang thai giả. Mang thai và mang
thai giả được theo dõi dựa vào ghi chép về thời gian giao phối và thời gian đẻ. Cá thể
75
được xem là mang thai giả khi có sự thay đổi nội tiết, tăng hormone P4 sau khi giao
phối, nhưng theo dõi không mang thai, sau giao phối hai tháng không có sự đẻ con.
Thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy cái sau khi thụ tinh được trình bày trong bảng 3.15.
Không mang thai (n=6)
Mang thai (n=4)
Mang thai giả (n=2)
Hormone
(µg/g)
Min-Max
Min-Max
Min-Max
X̅ ± SD
X̅ ± SD
X̅ ± SD
0,27-10,72
2,12±1,86a
6,21-23,12
15,17±5,22b
8,02-11,47
9,73±1,73c
P4
0,18-6,18
1,14±0,78a
0,22-1,05
0,74±0,23b
0,35-1,99
1,34±0,57a
E2
Bảng 3 15. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương sau thụ tinh
Lưu ý: Sự khác biệt về các ký tự (a, b, c) trong cùng một hàng, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (P <0,05), theo T-test với mức ý nghĩa α = 0,05.
Trong thời gian mang thai, mức P4 trong phân của cầy vòi hương dao động từ
6,21 đến 23,12 µg/g; trung bình là 15,17 ± 5,22 µg/g. Giá trị này cao hơn từ 5 đến 7 lần
(X̅ = 6,3 lần) (P <0.05) so với giai đoạn không mang thai và sau thụ tinh. Ở những cá
thể có mang thai, P4 tăng đáng kể trong khoảng thời gian từ 60 đến 63 ngày sau khi thụ
tinh. (Hình 3.16-3.19). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu về đặc điểm sinh sản cho
thấy thời gian mang thai trung bình của cầy hương là 60,9 ngày.
Trong các nghiên cứu trước đây, đỉnh của mức P4 trong phân của hổ Siberia ở
giai đoạn mang thai là 24.29 µg/g và của hổ Bengal mang thai là 104.17 µg/g, cao gấp
2 đến 6 lần giá trị trung bình của P4 ở cùng một cá thể trong giai đoạn không mang thai
[88]. Theo Brown et al. (2011), hormone steroid P4 đóng một vai trò quan trọng trong
việc duy trì sự mang thai của động vật có vú [119].
Nồng độ E2 của một cá thể cầy vòi hương trong thời gian mang thai tương đối
thấp hơn so với các giai đoạn khác. Fecal E2 dao động từ 0,22 đến 1,05 µg/g, trung bình
là 0,74 ± 0,23 µg/g. Sau khi sinh con, E2 tăng lên và đánh dấu sự phục hồi của hoạt
động buồng trứng từ 25-30 ngày sau sinh (Hình 3.16-3.19). Ngược lại, ở những cá thể
mang thai, có sự thay đổi E2 không đáng kể (khoảng 0,35-1,99 µg/g) so với những cá
thể không mang thai (P> 0,05) và thấp hơn rõ rệt so với thời kỳ mang thai (P <0,05).
Kết quả này tương tự như kết quả quan sát thấy ở mèo, báo và hổ; sự bài tiết estrogen
trong phân không được quan sát thấy trong quá trình mang thai [119].
76
F2 E2
P4
30
8
)
7
25
6
20
5
15
4
3
) f d g / g µ ( l o i d a r t s E
10
) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P
2
5
1
0
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10 11
12
1
2
3
4
2017 2018 Tháng
Hình 3. 16. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F2, mang
thai vào 6/2017)
F4
E4
P4
7
25
6
20
5
15
4
3
10
) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P
) f d g / g µ ( l o i d a r t s E
2
5
1
0
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10 11
12
1
2
3
4
2017 2018 Tháng
Hình 3. 17. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F4, mang
thai vào 4/2017)
77
F7
E2
P4
7
25
6
20
5
15
4
3
10
2
) f d g / g µ ( l o i d a r t s E
5
) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P
1
0
0
1
3
4
10 11
12
1
4
5
6
9
8
2
7
3
2 2017 2018 Tháng
Hình 3. 18. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F7, mang thai
2 lần vào 4/2017 và 1/2018)
F9
E3
P4
6
25
5
20
4
15
3
10
2
) f d g / g µ ( l o i d a r t s E
5
1
) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P
0
0
1
4
3
10 11
12
8
2
6
7
9
5
1
3
4
2 2017 2018 Tháng
Hình 3. 19. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F9, mang
thai vào 2/2017)
3.3.3. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone trong phân cầy vòi hương
mang thai giả
Trong số 12 cầy vòi hương được cho ghép đôi giao phối, có 2 cá thể sau thụ tinh
2-3 ngày đã có sự thay đổi hàm lượng P4, nhưng sau quá trình theo dõi thì không có sự
sinh con, những cá thể này được xem là mang thai giả (presumed pseudopregnancy). Ở
78
những cá thể này, cũng có những thay đổi đáng kể hàm lượng P4 sau khi thụ tinh, nhưng
thời gian thay đổi chỉ từ 26-30 ngày (Hình 3.18; 3.19). Mức P4 trong phân ở giai đoạn
này dao động từ 8,02 đến 11,47 µg/g; trung bình là 9,73 ± 1,73 µg/g. Giá trị này cao
hơn đáng kể so với các cá thể cầy vòi hương không mang thai nhưng thấp hơn đáng kể
so với những con vật có thai (P <0,05). Trong các nghiên cứu khác, theo Putranto
(2011), ở mèo rừng (leopard cats), báo đốm (clouded leopards), báo tuyết (snow
leopards) và báo gêpa (cheetahs) đã được báo cáo là tăng hàm lượng P4 trong thời gian
mang thai giả [88]. Do đó, chỉ số để phân biệt giữa thai kỳ và mang thai giả là cả thời
gian và mức độ tăng của P4 trong phân. Như vậy, hàm lượng P4 trong phân của cầy vòi
hương cái có thể được sử dụng để phân biệt giữa không mang thai, thai kỳ và mang thai
giả. Theo Brown (2011), để quản lý sinh sản ở các loài hoang dã, về mặt kỹ thuật có thể
chẩn đoán có thai dựa trên mức progesterone trong phân cao và duy trì ở độ dài thời
gian dài so với mức bình thường của giai đoạn không mang thai [119].
F10
E2
P4
5
14
12
4
10
3
8
6
2
) g / g µ ( l o i d a r t s E
4
) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P
1
2
0
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
1
2
3
4
2017 2018 Tháng
Hình 3. 20. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai giả (presumed
pseudopregnancy – F10)
79
F12
E2
P4
12
7
6
10
5
8
4
6
3
4
2
) f d g / g µ ( l o i d a r t s E
2
1
) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P
0
0
1
4
3
10 11
12
2
5
6
9
1
3
8
7
4
2 2017 2018 Tháng
Hình 3. 21. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai giả (presumed
pseudopregnancy – F12)
3.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của kích thích tố sinh dục (PMSG, HCG) đến
khả năng sinh sản của cầy vòi hương cái
3.4.1. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone sau khi tiêm kích dục tố
Để điều tra sự khác biệt trong nồng độ nội tiết giữa các con cầy vòi hương đã
điều trị bằng các công thức tiêm khác nhau và không điều trị, phân tích nồng độ hormone
E2 và P4 đã được lặp lại từ ngày -2 (trước khi tiêm kích dục tố 2 ngày) đến ngày 8 sau
điều trị. Kết quả phân tích này nghiên cứu tác động của việc điều trị lên động thái nội
tiết sinh sản của buồng trứng trong từng nhóm cầy thí nghiệm và là chỉ báo cho việc
cầy có rụng trứng hay không.
Kết quả theo dõi sự thay đổi E2 và P4 của nhóm 1 (cầy chậm lên giống lần đầu)
được thể hiện ở hình 3.22 và 3.23. Ở hình 3.22 cho thấy, hàm lượng E2 trong phân của
cầy ở các nghiệm thức bắt đầu tăng lên ở ngày thứ 1 sau khi tiêm, tăng đạt đỉnh vào
ngày thứ 2 và sau đó giảm dần từ ngày thứ 3. Thời gian chậm trễ (lag time) giữa E2
trong phân và trong huyết thanh ở các loài thuộc bộ ăn thịt (Carnivora) trung bình từ 5-
12 giờ [88, 119]. Như vậy, sự thay đổi hàm lượng E2 trong máu đã tăng lên trước đó,
chứng tỏ có sự ảnh hưởng của PMSG và HCG đến hormone sinh dục của cầy vòi hương
vào khoảng 12 giờ sau khi tiêm. Hàm lượng E2 trung bình ngày thứ 2 khi đạt đỉnh ở
công thức 1 là 2,59 µg/g df, nghiệm thức 2 là 2,69 µg/g df và nghiệm thức 3 là 3,16
80
µg/g df; trong đó cao nhất là ở nghiệm thức 3. Như vậy, khi liều điều trị cao hơn (40 IU
PMSG) làm tăng lượng hormone sinh dục ở nhóm cầy được điều trị (P<0,05). Trong
khi đó ở lô đối chứng, hàm lượng E2 trong phân có thay đổi qua các ngày; tuy nhiên,
sự thay đổi này không đáng kể (P>0.05). Đến ngày thứ 8, hàm lượng hormone trong
phân ở tất cả các nghiệm thức giảm đạt gần với giá trị trước khi tiêm kích dục tố (ngày
-2 và ngày -1).
Hình 3.22 cũng cho thấy, ở những con cầy đã sử dụng kích dục tố, sự gia tăng
E2 đã được phát hiện từ ngày 1 đến 2, và có xu hướng giảm nhanh từ ngày 3 đến ngày
5, sau ngày 5 hàm hượng E2 tiếp tục giảm chậm. Theo Cavalieri et al. (2003), ở bò, khi
kích thích trực tiếp tuyến yên bằng GnRH và điều trị bằng eCG, nồng độ E2 từ ngày 0
đến 10 sau điều trị có sự thay đổi. Nồng độ E2 tăng đáng kể giữa ngày 0 và 4, giữa các
ngày 4 và 10 nồng độ E2 ít hơn ở những con bò không rụng trứng so với những con bò
đã rụng trứng [120].
Tương tự ở nhóm 1, sự thay đổi E2 ở nhóm 2 và nhóm 3 thể hiện ở hình 3.24 và
hình 3.26 cũng cho thấy, hàm lượng E2 trong phân cũng đạt đỉnh ở ngày thứ 2 sau khi
tiêm, sau đó giảm dần. Trong đó, ở cả nhóm cầy chậm động dục lại (nhóm 2) và nhóm
cầy sinh sản bình thường điều trị nhằm gây động dục hàng loạt (nhóm 3) đều có hàm
lượng E2 trong phân cao nhất ở CT3. E2 trung bình của nhóm 2 ở CT3 là 2,86 µg/g df,
cao hơn so với CT1 (2,60 µg/g df) và CT2 (2,54 µg/g df); của nhóm 3 ở CT3 là 4,86
µg/g df, cao hơn so với CT1 (3,20 µg/g df) và CT2 (3,63 µg/g df). Một nghiên cứu trên
bò cũng cho thấy có sự tương tác ngày (P <0,001) đối với nồng độ E2 giữa các ngày 0
và 4. Điều trị bằng kích dục tố làm tăng nồng độ E2 từ ngày 0,5 đến 4 (P <0,05); nồng
độ E2 trong huyết tương đạt đến đỉnh điểm từ 0,5 đến 1 ngày sau khi tiêm và sau đó
giảm dần nhưng vẫn lớn hơn đáng kể so với bò không được điều trị vào ngày thứ 4.
Nồng độ E2 lớn hơn vào ngày thứ 4 và thấp vào ngày 7 và 8 (P <0,05) ở bò được điều
trị [120].
Kết quả ở hình 3.23, 3.25, và 3.27 cho thấy sự thay đổi P4 ở các nhóm cầy thí
nghiệm bắt đầu tăng vào ngày thứ 1 và đạt đỉnh vào ngày thứ 3 hoặc thứ 4 sau khi tiêm
kích dục tố, và chậm hơn sau khi đạt đỉnh của E2 từ 1 đến 2 ngày. Ở nhóm 1, hàm lượng
P4 đạt đỉnh ở tất cả các công thức vào ngày thứ 4, trung bình P4 ở CT1 là 6,70 µg/g df,
81
CT2 là 7,89 µg/g df và CT3 là 11,11 µg/g df. Có sự cao hơn đáng kể hàm lượng P4
trong phân của nhóm cầy được tiêm theo CT3 so với hai công thức còn lại (P<0,05).
Trong khi đó, ở nhóm 2, P4 trung bình ở các công thức ở CT1 là 7,67 µg/g df; CT2 là
6,03 µg/g df và ở CT3 là 8,60 µg/g df. Ở nhóm 3, CT1 có P4 đạt đỉnh vào ngày thứ 4
sau khi điều trị kích dục tố (6,23 µg/g df), còn CT2 và CT3 đạt đỉnh vào ngày thứ 4 lần
lượt là 7,58 và 8,14 µg/g df.
Phân tích thống kê cho thấy sự thay đổi P4 giữa các công thức ở các nhóm cầy
thí nghiệm đều có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Ở tất cả các nhóm thí
nghiệm đều cho thấy sự tăng hàm lượng P4 có xu hướng cao hơn ở CT3. Có thể, hàm
lượng kích dục tố đưa vào cơ thể cao hơn đã làm tăng hàm lượng nội tiết sinh dục của
cầy thí nghiệm. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng điều trị làm tăng tần suất
rụng trứng nhiều và dẫn đến progesterone tuần hoàn tăng cao, nhưng tăng progesterone
không tương quan với tỷ lệ mang thai tăng [64]. Kameyama et al. (2004), tiến hành
nghiên cứu trên động vật thí nghiệm (loài Mongolian gerbil) cho thấy ở những con cái
được điều trị bằng PMSG một mình biểu hiện chậm trong đáp ứng rụng trứng khi so
sánh với những con cái kết hợp được điều trị bằng PMSG và HCG. Các con cái được
tiêm PMSG và HCG ở khoảng thời gian 54 giờ đã được quan sát thấy đáp ứng rụng
trứng 24 giờ sau khi tiêm HCG [121].
Sau khi đạt đỉnh vào ngày 3 hoặc 4, ở tất cả các nhóm cầy thí nghiệm có P4 trong
phân duy trì ở nồng độ cao từ 3-4 ngày, sau đó giảm thấp vào ngày thứ 7-8 sau khi tiêm.
Trên bò, khi sử dụng kích dục tố để cải thiện thành tích sinh sản đã cho thấy có sự tương
tác đáng kể giữa P4 và ngày sau điều trị (P <0,001). Điều trị bằng P4 dẫn đến nồng độ
P4 trong huyết tương cao hơn từ ngày 0,5 đến 1,5. Nồng độ P4 tương tự nhau giữa các
bò cho mỗi lần điều trị vào các thời điểm khác giữa các ngày 0 và 4. Có một ảnh hưởng
đáng kể của ngày lên nồng độ P4 (P <0,001) giữa các ngày 4 và 10. Nồng độ P4 trung
bình ở tất cả các nhóm điều trị giảm từ ngày thứ 4 đến ngày 7 và sau đó giảm xuống
thấp ở ngày thứ 8 (P <0,05) [120].
Việc sử dụng PMSG (eCG) phổ biến nhất là khai thác hoạt động FSH của nó
trong việc kích thích động dục ở động vật chưa trưởng thành [44]. PMSG hiển thị cả
hoạt động của FSH và LH, và cả hai kích thích tố này là cần thiết cho sự trưởng thành,
82
rụng trứng của động vật có vú. Tuy nhiên, trong một số giao thức, sự tăng tổng hợp
progesterone do eCG gây ra đã dẫn đến thành công trong thai kỳ được cải thiện [65].
Do cấu trúc tương tự LH, HCG liên kết với cùng một receptor như LH. Trong
liệu pháp gonadotropin, HCG được sử dụng để thúc đẩy các giai đoạn trưởng thành
nang cuối cùng và sự tiến triển của noãn ở giai đoạn I (giai đoạn mụn mầm) bước vào
giai đoạn hoàn tất quá trình phân bào giảm nhiễm lần thứ nhất (metaphase II). Quá trình
giảm phân đòi hỏi khoảng 36 giờ để hoàn thành; một vài giờ sau đó, rụng trứng xảy ra
[66]. Nồng độ HCG làm tăng sự hiện diện của các thụ thể của progesterone
(progesterone receptor) và prostaglandin endoperoxide synthase-2 (PGS-2) ba giờ sau
khi tiêm HCG do đó làm tăng đáng kể lượng progesterone so với trường hợp không sử
dụng HCG. Progesterone làm cho các tế bào hạt cumulus tăng sinh mạnh mẽ, đồng thời
tác động đến thành cơ bản của nang bị vỡ và gây ra hiện tượng rụng trứng. Lượng HCG
trong nang sẽ giảm dần theo thời gian từ khi tiêm vào cơ thể, vì vậy quá trình rụng trứng
có thể chậm lại hoặc không xảy ra nếu sự kích thích sản xuất E2 chưa đạt đỉnh. Khi sử
dụng HCG ở nồng độ phù hợp (20 IU ở CT1 hoặc 15 IU ở CT3) thì hàm lượng HCG
Nhóm 1
3.50
3.00
2.50
2.00
1.50
1.00
0.50
) f d g / g µ ( l o i d a r t s E
0.00
-2
-1
0
1
5
6
7
8
2 4 3 Ngày thí nghiệm
CT1
CT2
CT3
ĐC
trong nang được duy trì ở nồng độ tối ưu gây rụng trứng [44].
Hình 3. 22. Sự thay đổi hàm lượng Estradiol ở cầy vòi hương Nhóm 1 sau khi tiêm
kích dục tố
83
Nhóm 1
) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P
12.00 11.00 10.00 9.00 8.00 7.00 6.00 5.00 4.00 3.00 2.00 1.00 0.00
-2
-1
0
1
5
6
7
8
2 4 3 Ngày thí nghiệm
CT1
CT2
CT3
ĐC
Hình 3. 23. Sự thay đổi hàm lượng Progesterone ở cầy vòi hương Nhóm 1 sau khi tiêm
Nhóm 2
)
3.50
3.00
2.50
2.00
1.50
f d g / g µ ( l o i d a r t s E
1.00
l a c e F
0.50
0.00
-2
-1
0
1
5
6
7
8
2 4 3 Ngày thí nghiệm
CT1
CT2
CT3
ĐC
kích dục tố
Hình 3. 24. Sự thay đổi hàm lượng Estradiol ở cầy vòi hương Nhóm 2 sau khi tiêm
kích dục tố
84
Nhóm 2
) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P
10.00 9.00 8.00 7.00 6.00 5.00 4.00 3.00 2.00 1.00 0.00
-2
-1
0
1
5
6
7
8
2 4 3 Ngày thí nghiệm
CT1
CT2
CT3
ĐC
Hình 3. 25. Sự thay đổi hàm lượng Progesterone ở cầy vòi hương Nhóm 2 sau khi tiêm
Nhóm 3
6.00
5.00
4.00
3.00
) g / g µ ( l o i d a r t s E
2.00
l a c e F
1.00
0.00
-2
-1
0
1
5
6
7
8
2 4 3 Ngày thí nghiệm
CT1
CT2
CT3
ĐC
kích dục tố
Hình 3. 26. Sự thay đổi hàm lượng Estradiol ở cầy vòi hương Nhóm 3 sau khi tiêm
kích dục tố
85
Nhóm 3
) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P
9.00 8.00 7.00 6.00 5.00 4.00 3.00 2.00 1.00 0.00
-2
-1
0
1
5
6
7
8
2 4 3 Ngày thí nghiệm
CT1
CT2
CT3
ĐC
Hình 3. 27. Sự thay đổi hàm lượng Progesterone ở cầy vòi hương Nhóm 3 sau khi tiêm
kích dục tố
3.4.2. Thời gian xuất hiện các biểu hiện và kéo dài động dục
Kết quả theo dõi thời gian xuất hiện các biểu hiện động dục và kéo dài động dục
trên các nhóm cầy thí nghiệm được thể hiện qua hình 3.28.
Ở tất cả các nhóm thí nghiệm, thời gian xuất hiện động dục trung bình từ 1,1
ngày (CT3 ở nhóm 2) đến 2,6 ngày (CT1 ở nhóm 2 và nhóm 3) sau khi tiêm kích dục
tố. Trong đó, CT3 luôn có thời gian xuất hiện động dục sớm nhất (từ 1-1,5 ngày). Thời
gian xuất hiện động dục có tương quan chặt chẽ với thời gian xuất hiện đỉnh của E2
(R=0,82).
Thời gian kéo dài động dục ở tất cả các công thức từ 2,9 đến 3,9 ngày; trong đó
thời gian ngắn nhất là ở CT1 và dài nhất là ở CT3. Thời gian này dài hơn so với thời
gian biểu hiện động dục ở cầy không tiêm kích dục tố vào mùa sinh sản (từ 2-3 ngày).
Phân tích thống kê cho thấy, sự khác biệt về thời gian xuất hiện động dục và thời gian
kéo dài động dục giữa các công thức trong từng nhóm cầy thí nghiệm có ý nghĩa thống
kê (P<0,05). CT3 luôn có thời gian xuất hiện động dục sớm nhất và thời gian kéo dài
động dục lâu nhất. Ở cầy vòi hương, nếu ghép đôi không đúng thời điểm động dục
chúng sẽ cắn nhau gây thương tích. Do vậy, đây chính là lưu ý quan trọng trong chăn
nuôi cầy để ghép đôi kịp thời sau khi điều trị.
86
Tương quan chặt của sự thay đổi hàm lượng E2 và biểu hiện động dục ở cầy sau
khi tiêm kích dục tố có thể giải thích: do vai trò của PMSG tương tự FSH trong việc
kích thích và phát triển nang trứng bằng cách gắn kết với các thụ thể protein G được
biểu hiện riêng trên các tế bào hạt (GC), và chức năng tương tự LH đóng vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy quá trình tạo ra steroid và phát triển trứng [66]. Dưới tác dụng
của PMSG có vai trò tương tự LH và FSH làm trứng chín; sau đó HCG có vai trò như
LH kích thích sự rụng trứng, thúc đẩy sự tổng hợp và phóng thích hormone buồng trứng
(estrogen và progesrerone). Sự thay đổi E2, tăng cao đạt đỉnh sẽ kích thích sự phát triển
cơ trơn thành tử cung, tăng cường lớp biểu mô tuyến của tử cung để sẵn sàng đón nhận
trứng thụ tinh, mức độ kích dục gia tăng và kéo theo biểu hiện động dục [44]. Theo
Murphy (2012), nhiều nghiên cứu cho thấy HCG dùng một mình trong giai đoạn nang
trứng không thúc đẩy phát triển nang trứng và rụng trứng, do đó chỉ ra rằng HCG không
có tác dụng khi không có FSH. Ngược lại, một số thử nghiệm đã chứng minh rằng
gonadotropin chiết xuất từ máu của ngựa mang thai (PMSG) gây ra đáp ứng buồng
trứng, nhưng nỗ lực gây rụng trứng tạo ra kết quả không phù hợp [44]. Do vậy, sự kết
hợp PMSG và HCG trong nghiên cứu này đã tăng hiệu ứng cả về tăng hàm lượng E2,
y à g N
4.0 3.5 3.0 2.5 2.0 1.5 1.0 0.5 0.0
CT1
CT2 CT3
CT1
CT2 CT3
CT1
CT2 CT3
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Thời gian xuất hiện động dục sau tiêm
Thời gian kéo dài động dục
Hình 3. 28. Thời gian xuất hiện và thời gian kéo dài động dục sau khi tiêm kích dục tố
xuất hiện động dục sớm và kéo dài thời gian động dục, đặc biệt ở CT3.
87
3.4.3. Kết quả sử dụng các công thức hormone lên một số chỉ tiêu sinh sản
Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố được trình bày qua
Bảng 3. 16. Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố của Nhóm 1
Đơn vị
Lô thí nghiệm n
Số cầy động dục
Số cầy mang thai
Con Tỉ lệ % Con Tỉ lệ %
ĐC 3 0 0,00 0 0,00
CT1 4 3 75,00a 2 50,00a
CT 2 4 3 75,00a 2 50,00a
CT 3 3 3 100,00b 2 66,67b
Con/lứa
1,67±0,47a
2,33±0,47b
3,21±0,53c
(g)
97±2,16
95,67±2,62
93±1,63
Số con non/ lứa (X̅ ± SD) Khối lượng con sơ sinh (X̅ ± SD)
Tỉ lệ sống sót sau 48 giờ
(%)
80,00a
85,71b
83,33b
Tỉ lệ sống sót sau 1 tháng
(%)
80,00a
85,71b
80,00a
Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một hàng thì sự khác nhau có ý nghĩa thống kê
(P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. SL: số lượng, TL: Tỉ lệ, ĐC: đối chứng, CT1:
Công thức 1, CT2: Công thức 2, CT3: Công thức 3.
bảng 3.16-3.19.
Bảng 3.16-3.19 cho thấy, tỉ lệ cầy động dục tăng so với đối chứng ở tất cả các
nhóm cầy thí nghiệm. Ở nhóm 1 và nhóm 2 có tỉ lệ động dục là 75% (CT1 và CT2), cao
nhất là 100% ở CT3. Tỉ lệ động dục ở nhóm 3 lần lượt là 85,71% (CT1 và CT2), 87,5%
(CT3), cao hơn đáng kể so với lô đối chứng (33,33%). Theo dõi tỉ lệ cầy mang thai so
với số cầy điều trị được ghép đôi giao phối cho thấy, ở CT1 và CT2 có tỉ lệ tương đương
nhau (nhóm 1 là 50%, nhóm 2 là 75% và nhóm 3 là 71,43%). Tỉ lệ cầy mang thai cao
nhất ở CT3 với tỉ lệ lần lượt là 66,67% (nhóm 1), 100% (nhóm 2) và 75,0% (nhóm 3).
Như vậy, tỉ lệ cầy động dục và cầy mang thai ở CT3 luôn cao hơn so với các công thức
còn lại (P<0,05). So với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thanh Bình (2015), tỉ lệ cầy
mang thai trong nghiên cứu này cao hơn so với lô thí nghiệm với liều tiêm 10 IU PMSG
và 10 IU HCG (33,3%); thấp hơn ở CT1, CT2, tương đương ở CT3 so với lô thí nghiệm
có liều tiêm 20 IU PMSG và 20 IU HCG (tỉ lệ mang thai là 100%) [20]. Điều này có
88
thể giải thích, nhóm 1 và nhóm 2 là hai đối tượng chậm động dục lần đầu và chậm động
dục lại cần điều trị. Trong khi đó, đối tượng trong nghiên cứu trước đó là nhóm cầy
bình thường về mặt sinh sản. Khi so sánh với tỉ lệ cầy mang thai trong điều kiện nuôi
mà không sử dụng kích dục tố (66,67%) thì kết quả trong nghiên cứu này đều tương
Bảng 3. 17. Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố của Nhóm 2
Đơn vị
Lô thí nghiệm n
Số cầy động dục
Số cầy mang thai
ĐC 3 0 0,00 0 0,00
Số con non/ lứa (X̅ ± SD) Khối lượng con sơ sinh (X̅ ± SD)
CT1 4 3 75,00a 3 75,00a 3,25 ±0.83a 97,25±3,11
Con Tỉ lệ % Con Tỉ lệ % Con/lứa (g)
CT 2 4 3 75,00a 3 75,00a 3,5±0.5b 95,75±0,83
CT 3 4 4 100,00b 4 100,00b 3,75±0,83c 94,25±2,59
Tỉ lệ sống sót sau 48 giờ
(%)
88,89a
90,00a
100,00b
Tỉ lệ sống sót sau 1 tháng
(%)
88,89a
80,00b
81,82b
Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b, c) trong cùng một hàng thì sự khác nhau có ý nghĩa
thống kê (P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. SL: số lượng, TL: Tỉ lệ, ĐC: đối chứng, CT1: Công thức 1, CT2: Công thức 2, CT3: Công thức 3.
đương hoặc cao hơn đáng kể.
Kết quả theo dõi số con sinh ra trên lứa cho thấy, trong tất cả các nhóm thí
nghiệm, số con trên lứa thấp nhất ở CT1 (1,67 con/lứa ở nhóm 1; 3,25 con/lứa ở nhóm
2 và 3,2 con/lứa ở nhóm 3) và cao nhất ở CT3 (3,21 con/lứa ở nhóm 1; 3,75 con/lứa ở
nhóm 2 và 3,5 con/lứa ở nhóm 3). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả theo dõi về
hàm lượng hormone E2 và P4 sau khi tiêm kích dục tố. Liều tiêm với PMSG cao hơn
làm tăng sự sản xuất hormone và lượng trứng rụng, nên tăng số con sinh ra. Số con trên
lứa trung bình ở tất cả các công thức đều cao hơn vượt bậc so với lô đối chứng, và cao
hơn đáng kể so với tỉ lệ sinh trong điều kiện nuôi khi không sử dụng kích dục tố (2,38
con/lứa), tương đương so với tỉ lệ sinh ngoài tự nhiên (cầy đẻ 2-4 con) [7], theo Nelson
(2013) là 2-5 con, trung bình 3,4 con/ lứa [111]. Kết quả này cũng tương đương so với
kết quả nghiên cứu trước đây (3-4 con/lứa) [20]. Như vậy, việc sử dụng kết hợp PMSG
và HCG đã cải thiện đáng kể số con sinh ra, đặc biệt ở CT3.
89
Về khối lượng con sơ sinh trong tất cả các lô thí nghiệm trung bình từ 94,02 đến
97,25 gr/cá thể; không khác nhau đáng kể giữa các nhóm và các công thức (P>0,05);
cao hơn so với nghiên cứu trước (82-87 gr/cá thể) [20], tương đương với khối lượng
con sơ sinh trong điều kiện nuôi khi không sử dụng kích dục tố (95,16 gr/cá thể). Như
vậy, liều lượng kích dục tố ở các công thức trong nghiên cứu này không ảnh hưởng đến
Bảng 3. 18. Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố của Nhóm 3
Đơn vị
Lô thí nghiệm n
Số cầy động dục
Số cầy mang thai
Con Tỉ lệ % Con Tỉ lệ %
ĐC 3 1 33,33a 1 33,33a
CT1 7 6 85,71b 5 71,43b
CT 2 7 6 85,71b 5 71,43b
CT 3 8 7 87,50c 6 75,00c
Con/lứa
2±0a
3,2±0,75b
3,4±0,75b
3,5±0,96b
(g)
95,5±0
94,2±1,72
95,75±3.71
94,8±3,35
Số con non/ lứa (X̅ ± SD) Khối lượng con sơ sinh (X̅ ± SD)
Tỉ lệ sống sót sau 48 giờ
(%)
100,00a
90,91b
83,33c
86,67b
Tỉ lệ sống sót sau 1 tháng
(%)
81,82b
81,82b
86,67b
100,00a
Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b, c) trong cùng một hàng thì sự khác nhau có ý nghĩa
thống kê (P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. SL: số lượng, TL: Tỉ lệ, ĐC: đối
chứng, CT1: Công thức 1, CT2: Công thức 2, CT3: Công thức 3.
khối lượng con sơ sinh.
Kết quả theo dõi tỉ lệ sống sót cho thấy, ở lô đối chứng chỉ có 1 cầy mẹ ở Nhóm
3 mang thai, sinh con có tỉ lệ sống sót đạt 100%, cao hơn so với tất cả các công thức thí
nghiệm. Giữa các nhóm và các công thức tiêm không có sự khác nhau đáng kể về tỉ lệ
sống của cầy sau 48 giờ và sau 1 tháng tuổi (P>0,05). Kết quả này cũng tương đương
với tỉ lệ sống sót sau một tuần (86,7%) của nghiên cứu trước đây [20]. Tỉ lệ sống sót
sau một tháng cao hơn so với cầy sinh sản tự nhiên trong điều kiện nuôi (80,83%). Như
vậy, việc sử dụng kích dục tố không làm ảnh hưởng đáng kể đến tỉ lệ sống sót của cầy
sơ sinh.
90
Bảng 3. 19. Tổng hợp kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố
Đơn vị
Lô thí nghiệm n
Số cầy động dục
Số cầy mang thai
CT1 15 12 80,00b 10 66,67b
CT 3 15 14 93,33d 12 86,67d
Con Tỉ lệ % Con Tỉ lệ %
CT 2 14 12 85,71c 10 71,43c
ĐC 9 1 11,11a 1 11,11a
3,41± 0,66c
2±0a
3,04± 0,47b
Con/lứa
3,53± 0,90c
Số con non/ lứa (X̅ ± SD)
96,15± 2,14
95,72± 2,17
94,02± 3,35
Khối lượng con sơ sinh (X̅ ± SD)
(g)
95,5±0
Tỉ lệ sống sót sau 48 giờ
100,00a
86,60b
86,35b
90,00b
(%)
Tỉ lệ sống sót sau 1 tháng
100,00a
83,57b
(%)
82,57b
82,83b
Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b,c, d) trong cùng một hàng thì sự khác nhau có ý nghĩa
thống kê (P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. SL: số lượng, TL: Tỉ lệ, ĐC: đối chứng, CT1: Công thức 1, CT2: Công thức 2, CT3: Công thức 3.
91
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
1.1. Đặc điểm sinh học của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt
- Luận án đã mô tả đặc điểm hình thái, dinh dưỡng, một số tập tính; xác định
được tốc độ tăng trưởng của cầy vòi hương ở giai đoạn 3-24 tháng tuổi. Tốc độ tăng
khối lượng trung bình là 5,14 g/con/ngày (đực) và 4,71 g/con/ngày (cái); tăng trưởng
chiều dài thân đầu trung bình là 1,51 cm/con/tháng (đực) và 1,45 cm/con/tháng (cái).
Tốc độ tăng trưởng các chỉ tiêu nhanh nhất ở thời kì 6-12 tháng.
- Cầy cái có tuổi thành thục sinh dục trung bình là 11,96 tháng và ở cầy đực là
10,97 tháng. Thời gian mang thai trung bình 60,9 ngày. Số cầy vòi hương sinh ra trong
mỗi lứa từ 1-4 con, trung bình 2,38 con/lứa. Cầy sơ sinh nặng trung bình 95,16 gram.
Tỉ lệ sống sót khi cai sữa đạt 80,83%.
1.2. Các chỉ tiêu sinh lí – sinh hóa máu, nước tiểu của cầy vòi hương
- Các chỉ số sinh lí và sinh hoá máu ở cầy vòi hương theo nhóm tuổi và theo giới
tính đã được xác định. Số lượng hồng cầu trung bình là 11,06 x 1012/L, hàm lượng
hemoglobin 120,74 gr/L. Số lượng bạch cầu trung bình là 12,32 x 109/L; công thức bạch
cầu: Lymphocyte 44,24%, Monocyte 3,96%, Gran 51,8%. Số lượng tiểu cầu trung bình
là 336,25 x 109/L.
- Đã xác định các chỉ số sinh hoá nước tiểu của cầy vòi hương: bạch cầu (4,63
Leu/µL); nitrit (âm tính); hồng cầu (âm tính); Protein (15,94 g/L); Glucose (0,46
mmol/L); thể Keton (0,15 mmol/L); Bilirubin (0,41 µmol/L); tỷ trọng trung bình (SG)
là 1,02; pH là 7,53; Urobilinogen (UBG) là 0,1 µmol/L; K+ là 179,25 mmol/L, Cl- là
153,53 mmol/L, Na+ là 76,82 mmol/L.
1.3. Sự thay đổi hormone sinh dục của của cầy vòi hương cái trong điều kiện
nuôi nhốt
- Sự thay đổi hormone estradiol và progesterone trong phân của cầy vòi hương
khác nhau ở giai đoạn không mang thai và mang thai. Ở cầy cái không mang thai, nồng
độ Estradiol dao động từ 0,05-7,01 µg/g df; sự thay đổi có tính chu kỳ, trung bình mỗi
92
chu kì là 28,6 ngày. Đỉnh của estradiol là 3,22 ± 0,64 µg/g df; tương ứng với thời gian
xuất hiện các biểu hiện động dục.
- Ở giai đoạn mang thai, hàm lượng progesterone trong phân cao, trung bình là
15,17 µg/g df; có thể dùng chỉ tiêu này làm chỉ thị xác định sự mang thai ở cầy vòi
hương.
1.4. Tác động của kích thích tố sinh dục (PMSG, HCG) đến sự sinh sản của cầy
vòi hương cái.
- Sau khi tiêm PMSG và HCG, hàm lượng hormone estradiol và progesterone
thay đổi; estradiol tăng đạt đỉnh ở ngày thứ 2, progesterone đạt đỉnh ở ngày thứ 4. Thời
gian xuất hiện động dục sau khi tiêm từ 1-2 ngày, kéo dài từ 3-4 ngày.
- Hiệu quả sinh sản của cầy vòi hương được cải thiện sau khi điều trị kết hợp
PMSG và HCG. Liều tiêm 40 IU PMSG /20 IU HCG cho hiệu quả sinh sản cao nhất.
Tỉ lệ động dục, tỉ lệ mang thai, số con sinh ra trên lứa tăng. Kích dục tố không ảnh
hưởng đáng kể đến khối lượng con sơ sinh và tỉ lệ sống sót.
2. Kiến nghị
- Tiếp tục nghiên cứu các chỉ số sinh lí, sinh hoá máu và nước tiểu của cầy vòi
hương trong các trường hợp bệnh lý.
- Phân tích hormone trong phân là một phương pháp hữu ích để xác nhận thời kỳ
động dục, mang thai, không mang thai hoặc mang thai giả ở cầy vòi hương. Có thể sử
dụng phương pháp này trên các động vật hoang dã khác trong điều kiện nuôi nhốt.
- Cần kết hợp sử dụng siêu âm buồng trứng và quan sát tế bào âm đạo để đóng
góp thêm vào các kỹ thuật trợ hỗ sinh sản trên cầy vòi hương trong điều kiện nuôi.
93
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Thanh Bình, Một số
đặc điểm sinh trưởng của cầy vòi hương (Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777)
trong điều kiện nuôi nhốt, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ, 2017, 33 (1S), 207-213
2. Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Phuong Thao, Nguyen Thanh Binh, Study on
hematological parameters of common palm civets (Paradoxurus hermaphroditus
3. Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Yến Nhi, Nguyễn Thị Thanh Thảo, Nguyễn Thanh
Bình, Ảnh hưởng của một số khẩu phần thức ăn đến khả năng sản xuất cà phê chồn nguyên
liệu của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt, Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, 2017, Số 2
(33), 161-169.
Pallas, 1777) in captivity. Journal of biotechnology, 2017, 15(3A): 71-76.
4. Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Thanh Bình, Một số
đặc điểm sinh sản của cầy vòi hương (Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777) trong
điều kiện nuôi nhốt, Kỉ yếu Hội nghị khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh
vật lần thứ 7, 2017, 694-701.
5. Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Thanh Bình, Ảnh
hưởng của chế độ ăn đến khả năng sản xuất cà phê chồn nguyên liệu của Cầy vòi hương
(Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777) trong điều kiện nuôi nhốt. Kỉ yếu hội nghị
Khoa học toàn quốc Chăn nuôi - Thú y, 2017, 283-289
6. Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Phuong Thao, Nguyen Thanh Binh, A non-
invasive technique to monitor reproductive hormone levels in common palm civets,
Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777. Academia Journal of Biology, 2018, 40(3):
74–81. https://doi.org/10.15625/2615-9023/v40n3.12654.
7. Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Phuong Thao and Nguyen Thanh Binh, Blood
and urinary biochemical parameters of the Commom Palm Civets (Paradoxurus
hermaphroditus, Pallas 1777) in captivity, Journal of Animal Husbandry Sciences and
Technics, 2018, 235, 90-96.
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] T. Iseborn, L. D. Rogers, B. Rawson and K. A. I. Nekaris, Sightings of Common
Palm Civets Paradoxurus hermaphroditus and of other civet species at Phnom
Samkos Wildlife Sanctuary and Veun Sai–Siem Pang Conservation Area,
[2] C. R. Shepherd, Observations of small carnivores in Jakarta wildlife markets,
Cambodia, Small Carnivore Conservation, 2012, 46.
Indonesia, with notes on trade in Javan Ferret Badger Melogale orientalis and
on the increasing demand for Common Palm Civet Paradoxurus hermaphroditus
[3] J. W. Duckworth, Small carnivores in Laos: a status review with notes on
for civet coffee production, Small Carnivore Conservation, 2012, 47.
ecology, behaviour and conservation, Small Carnivore Conservation, 1997, 16,
[4] A. Joshi, J. Smith and F. Cuthbert, Influences of Food Distribution and Predation
1–21.
Pressures on Spacing Behavior in Palm Civets, Journal of Mammology, 1995,
[5] J. L. Grassman, Movements and fruit selection of two Paradoxurinae species in
76 (4), 1205-1212.
a dry evergreen forest in Southern Thailand, Small Carnivore Conservation,
[6] Nakashima, J. A. Sukor, Importance of Common Palm Civets (Paradoxurus
1998, 19, 25–29.
hermaphroditus) as a long-distance disperser for large-seeded plants in
[7] Đặng Huy Huỳnh, Phạm Trọng Ảnh, Lê Xuân Cảnh, Nguyễn Xuân Đặng, Hoàng
degraded forests, Tropics, 2010, 18, 221–229.
Minh Khiên và Đặng Huy Phương, Thú rừng – Mammalia Việt Nam, hình thái
và sinh học sinh thái một số loài, tập II, NXB Khoa học tự nhiên và Công nghệ,
[8] A. H. C Marcus, K. P. L. Kelvin and H. S. L. Celine, The diversity and status of
2010, Hà Nội.
the civets (Viverridae) of Singapor, Small Carnivore Conservation, 2012, 47, 32-
37.
95
[9] FAO, Global Plan of Action for Animal Genetic Resources and the Interlaken
[10] Nguyễn Văn Đức, Vietnam animal Genetic Resources convervation and
Declaration, 2007, Rome.
exploitation, In 9th Vietnamese-Hungarian Inter conference Reseach for
[11] Nguyễn Lân Hùng, Nguyễn Khắc Tích, Nghề nuôi cầy hương, NXB Nông
developing sustainable agriculture, 2016, Tra Vinh Uni.
[12] T.J. Corbin, JG. McCabe, Strain variation of immature female rats in response
Nghiệp, 2010, Hà Nội.
[13] M. A. Cornejo-Corte, C. Sa ´nchez-Torres, J. C. Va ´zquez-Chagoya, H. M. Sua
to various, 2002, 41 (2), 18-23.
´rez-Go ´mez, Garrido-Farin and M A. Meraz-R, Rat embryo quality and
production efficiency are dependent on gonadotrophin dose in superovulatory
[14] E. Schilling, F. Cerne, Induction and Synchronization of Estrus in Prepuberal
treatments, Laboratory Animals, 2006, 40, 87–95.
Gilts and Anestrous Sows by a PMSG/HCG-Compound, Vet Rec, 2008, 91(20),
[15] F. D. Rensis, F. López- Gatius, I. Garcia-Ispierto and M. Techakumpu, Clinical
471–474.
use of human chorionic gonadotropin in dairy cows: an update, Theriogenology,
[16] Nguyen Van Thanh and Nguyen Thanh Binh, Effects of hormone therapeutics on
2010, 73 (8), 1001-1008.
ability of treatment of reproductive confusion in failure reproduction dairy cows
at Binh Duong province-Viet Nam, Asian Reproductive Biotechnology Society,
[17] Nguyễn Ngọc Tấn, Bùi Ngọc Hùng, Ứng dụng hormone xử lý bò chậm gieo tinh
2009, 62.
khu vực thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương, Khoa học kỹ thuật chăn nuôi,
[18] Hoàng Nghĩa Sơn, Nguyễn Văn Hạnh, Quản Xuân Hữu và Lê Thị Châu, Tác
2017, 21 (6), 67-72.
động của trạng thái buồng trứng lên kết quả siêu bài noãn bò, Tạp chí sinh học,
2013, 35 (2), 243-247.
96
[19] Đỗ Văn Thu, Đoàn Việt Bình, Lê Văn Ty, Lê Thị Huệ và Trần Đăng Khôi, Ứng
dụng kỹ thuật gây động dục đồng loạt kết hợp thụ tinh nhân tạo nhằm nâng cao
[20] Nguyễn Thanh Bình, Ảnh hưởng của kích dục tố hCG và PMSG đến kết quả sinh
năng suất và chất lượng đàn bò, Tạp chí sinh học, 2013, 35 (1), 110-115.
sản của cầy vòi hương Paradoxurus hermaproditus trong điều kiện nuôi nhốt,
[21] Nguyễn Thanh Bình, Ảnh hưởng của kích dục tố hCG và PMSG đến một số thành
Tạp chí KHKT Thú y, 2015, 17 (8), 54-57.
tích sinh sản trên dúi mốc lớn (Rhizomys pruinosus Blyth, 1851) trong điều kiện
[22] Nguyễn Xuân Đặng, Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái và khả năng nhân
nuôi nhốt, Tạp chí Khoa học kỹ thuật chăn nuôi, 2016, XXII (203), 72-77.
nuôi một số loài cầy (họ Viverridae) ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Sinh học,
[23] M. F. Marcone, Composition and properties of Indonesian palm civet coffee
1994.
(Kopi Luwak) and Ethiopian civet coffee, Food Research International, 2004, 37,
[24] C. Shun-An, L. Ling-Ling, Food habits of three carnivore species (Viverricula
(2), 901-912.
indica, Herpestes urva, and Melogale moschata) in Fushan Forest, Northern
[25] M. Nakabayashi, H. Bernard and Y. Nakashima, An observation of several
Taiwan, Journal of Zoology, 1997, 243 (1), 71-79.
Common Palm Civets Paradoxurus hermaphroditus at a fruiting tree of
Endospermum diadenum in Tabin Wildlife Reserve, Sabah, Malaysia: comparing
feeding patterns of frugivorous carnivorans, Small Carnivore Conservation,
[26] Rozhnov, The role of different types of excretions in mediated chemo-
2012, 47, 42–45.
communication of common palm civet, Paradoxurus hermaphroditus Pallas,
[27] D. Spaan, M. Williams, Wirdateti, G. Semiadi and K. A. I. Nekaris, Use of raised
1777 (Mammalia, Carnivora), NCBI, 2003, 6, 698-705.
plastic water-pipes by Common Palm Civet (Paradoxurus hermaphroditus) for
97
habitat connectivity in an anthropogenic environment in West Java, Indonesia,
[28] Y. Nakashima, E. Inoue, M. I. Murayama and J. A. Sukor, High Potential of a
Small Carnivore Conservation, 2014, 51, 85-87.
Disturbance-Tolerant Frugivore, the Common Palm Civet Paradoxurus
hermaphroditus (Viverridae), as a Seed Disperser for Large-Seeded Plants,
[29] A. H. Chua., K. P. Kelvin, Lim and H. S. Celine Low, The diversity and status of
Mammal Study, 2010, 35 (3), 209-215.
the civets (Viverridae) of Singapore Marcus, Small Carnivore Conservation,
[30] Y. Nakashima, M. Nakabayashi and J. Abd.sukor, Space use, habitat selection,
2012, 47, 1–10.
and day-beds of the common palm civet (Paradoxurus hermaphroditus) in
human-modified habitats in Sabah, Borneo, Journal of Mammalogy, 2013, 94-
[31] S. Guraya, Morphology of the civet cat (Paradoxurus hermaphroditus) ovary
95).
[32] S. Guraya, Histochemical observations on the civet cat (Paradoxurus
during the follicular phase, 1979, 84 (4), 321-336.
hermaphroditus) ovary during the period of follicular activity, 1981, 86 (1-2),
[33] T. Rung-ruangkijkrai, W. Klomkleaw and P. Prachammuang, Arteries of the
71.
heart of a common palm civet (Paradoxurus hermaphroditus), Proceeding of
[34] K. G. Patil, K. S. Janbandhu, V. A. Shende, A. V. Ramteke and M. K. Patil,
AZWMP, 2006, 27.
Adaptations in the kidney of Palm Civet, Paradoxurus hermaphroditus, Int. J. of
[35] M. Sasaki, J. Yamada, B. Teguh, H .Endo, J. Kimura, T. Tsubota, Y. Hayashi
Life Sciences, 2016, 4 (2), 198-202.
and N. Kitamura, Immunohistochemical localization of the steroidogenic enzyme
and steroid receptors in the testis and perineal gland of the common palm civet
(Paradoxurus hermaphroditus), The 2nd Congress of the AAVA
MORPHOLOGY, 2008, 3 (1), 59.
98
[36] C. Salakij, J. Salakij, N. Narkkong, D. Tongthainun, K. Prihirunkit and S. Itara,
Hematology, Cytochemistry and Ultrastructure of Blood Cells in Common Palm
Civet (Paradoxurus hermaphroditus), Kasetsart J. (Nat. Sci.), 2007, 41, 705 –
[37] A A. Ahmad, P. Jayarajah, G. W. Yee Han, S. Jocelyn, W. Yin OH and A.
716.
Rasedee, Hematology and serum biochemistry parameters for rescued common
palm civets (Paradoxurus hermaphroditus) in different age groups, The Journal
[38] L. Yu and Y.P. Zhang, Phylogenetic studies of pantherine cats (Felidae) based
of Veterinary Medical Science, 2017, 79 (6), 1134–1137.
on multiple genes, with novel application of nuclear b-fibrinogen intron 7 to
[39] M. L. Patoua, R. Debruyneb, A. P. Jenningsa, A. Zubaidd, J. J. Rovie-Ryane and
carnivores, Molecular Phylogenetics and Evolution, 2005, 35, 483–495.
G. Verona, Phylogenetic relationships of the Asian palm civets (Hemigalinae &
Paradoxurinae, Viverridae, Carnivora, Molecular Phylogenetics and Evolution,
[40] M. L. Patou, A. Wilting, P. Gaubert, J. A. Esselstyn, C. Cruaud, A. P. Jennings,
2008, 47, 883–892.
J. Fickel and G. Veron, Evolutionary history of the Paradoxurus palm civets – a
new model for Asian biogeography, Journal of Biogeography, 2010, 37, 2077–
[41] G. Veron, M. Patou, M. Toth, M. Goonatilake and A. P. Jennings, How many
2097.
species of Paradoxurus civets are there? New insights from India and Sri Lanka,
[42] AFS D. Silva, VPR. Minim, JBP Chaves, PC Stringheta and MM Ribeiro,
J Zoolog Syst Evol Res, 2015, 53, 161—174.
Evaluation of the bitter taste of the drink coffee (Coffea arabica L.) by analyzing
[43] Roberton, The Status and Conservation of Small Carnivores in Vietnam, PhD
organic intensity time, Food Science Technology, 2004, 24, 468–472.
thesis, University of East Anglia School of Biological Sciences Centre for
Ecology, 2007.
99
[44] B. Murphy, Equine chorionic gonadotropin: an enigmatic but essential tool,
[45] W.T. Jr Moore, D.N. Ward, Pregnant mare serum gonadotropin. Rapid
Anim Reprod, 2012, 9 (3), 223-230.
chromatographic procedures for the purification of intact hormone and isolation
[46] G.B. Sherman, M.W. Wolfe, T.A. Farmerie, C.M. Clay, D.S. Threadgill, D.C.
of subunits, J Biol Chem, 1980, 255, 6923-6929.
Sharp and J.H. Nilson, A single gene encodes the beta-subunits of equine
luteinizing hormone and chorionic gonadotropin, Mol Endocrinol, 1992, 6, 951-
[47] T. Matsui, H. Sugino, H. Miura, G.R. Bousfield, D.N. Ward, K. Titani and T.
959.
Mizuochi, Beta-subunits of equine chorionic gonadotropin and lutenizing
hormone with an identical amino acid sequence have different asparagine-linked
[48] S.D. Martinuk, A.W. Manning, W.D. Black and B.D. Murphy, Effects of
oligosaccharide chains, Biochem Biophys Res Commun, 1991, 174, 940-945.
carbohydrates on the pharmacokinetics and biological activity of equine
[49] M. Saint-Dizier, F. Foulon-Gauze, F. Lecompte, Y .Combarnous and M.
chorionic gonadotropin in vivo, Biol Reprod, 1991, 45, 598-604.
Chopineau, The additional N-glycosylation site of the equine LH/CG receptor is
not responsible for the limited cyclic AMP pathway activation by equine
chorionic gonadotropin relative to luteinizing hormone, Reprod Biol, 2011, 11,
[50] M. Saint-Dizier, F. Foulon-Gauze, F. Lecompte, Y .Combarnous and M.
157-164.
Chopineau, Cloning and functional expression of the equine luteinizing
[51] M. Boeta, L. Zarco, Endocrine alterations around the time of abortion in mares
hormone/chorionic gonadotrophin receptor, J Endocrinol, 2004, 183, 551-559.
[52] R.L. Matteri, D.M. Baldwin, B.L. Lasley and H. Papkoff, Biological and
impregnated with donkey or horse semen, Anim Reprod Sci, 2010, 121, 124-130.
immunological properties of zebra pituitary gonadotropins: comparison with
horse and donkey gonadotropins, Biol Reprod, 1987, 36, 1134-1141.
100
[53] B.D. Murphy, S.D. Martinuk, Equine chorionic gonadotropin, Endocr Rev, 1991
[54] A. Bartlett, S.J. Pain, P.E. Hughes, P. Stott and W.H. Wettere, The effects of
12, 27-44.
PG600 and boar exposure on oestrus detection and potential litter size following
mating at either the induced (pubertal) or second oestrus, Anim Reprod Sci,
[55] M.N. Sawalha, R.T. Kridli, K.I. Jawasreh and C.A. Meza- Herrera, The use of
2009, 114, 219-227.
melatonin and progestagen-eCG to initiate reproductive activity in prepuberal
[56] M.M. Bevers, S.J. Dieleman, H.T. van Tol, D.M. Blankenstein and J. V. D.
Awassi ewe lambs, Trop Anim Health Prod, 2011, 43, 1345-1350.
Broek, Changes in pulsatile secretion patterns of LH, FSH, progesterone,
androstenedione and oestradiol in cows after superovulation with PMSG, J
[57] D. Monniaux, J.C. Mariana and W.R. Gibson, Action of PMSG on follicular
Reprod Fertil , 1989, 87, 745- 754.
[58] A. Gonzalez, H. Wang, T.D. Carruthers, B.D. Murphy and R.J. Mapletoft,
populations in the heifer, J Reprod Fertil, 1984, 70, 243-253.
Superovulation in the cow with pregnant mare serum gonadotrophin: effects of
dose and antipregnant mare serum gonadotrophin serum, Can Vet J, 1994, 35,
[59] M.C. Mattos, M.R. Bastos, M.M. Guardieiro, J.O. Carvalho, M.M. Franco, G.B.
158-162.
Mourao, C.M. Barros and R. Sartori, Improvement of embryo production by the
replacement of the last two doses of porcine follicle- stimulating hormone with
equine chorionic gonadotropin in Sindhi donors, Anim Reprod Sci, 2011, 125,
[60] M.F. Sá Filho, J.R. Torres-Junior, L. Penteado, L.U. Gimenes, R.M. Ferreira, H.
119-123.
Ayres, E..PL.A. Castro, J.N. Sales and P.S. Baruselli, Equine chorionic
gonadotropin improves the efficacy of a progestin-based fixed-time artificial
insemination protocol in Nelore (Bos indicus) heifers, Anim Reprod Sci, 2010,
118, 182-187.
101
[61] G. Martemucci, A.G. D'Alessandro, Synchronization of oestrus and ovulation by
short time combined FGA, PGF(2alpha), GnRH, eCG treatments for natural
[62] G.A. Bo, L.C. Peres, L.E. Cutaia, D. Pincinato, P.S. Baruselli and R.J. Mapletoft,
service or AI fixed-time, Anim Reprod Sci, 2011, 123, 32-39.
Treatments for the synchronisation of bovine recipients for fixed-time embryo
transfer and improvement of pregnancy rates, Reprod Fertil Dev, 2011, 24, 272-
[63] C.C. Dias, F.S. Wechsler, M.L. Day and J.L. Vasconcelos, Progesterone
277.
concentrations, exogenous equine chorionic gonadotropin, and timing of
prostaglandin F(2alpha) treatment affect fertility in postpuberal Nelore heifers,
[64] M.F. Nogueira, D.S. Melo, L.M. Carvalho, E.J. Fuck, L.A. Trinca and C.M.
Theriogenology, 2009, 72, 378-385.
Barros, Do high progesterone concentrations decrease pregnancy rates in
embryo recipients synchronized with PGF2alpha and eCG?, Theriogenology,
[65] P.S. Baruselli, R.M. Ferreira, M.F. Sá Filho, L.F.T. Nasser, C.A. Rodrigues and
2004, 61, 1283-1290.
G.A. Bo, Bovine embryo transfer recipient synchronisation and management in
[66] R.B. Lea ̃ o, S.C. Esteves, Gonadotropin therapy in assisted reproduction: an
tropical environments, Reprod Fertil Dev, 2010, 22, 67-74.
evolutionary perspective from biologics to biotech, Clinics, 2014, 69 (4), 279-
[67] A. C. Laurence, New discoveries on the biology and detection of human chorionic
293.
[68] A. C. Laurence, Biological functions of hCG and hCG-related molecules,
gonadotropin, Reproductive Biology and Endocrinology, 2009, 7-8.
[69] F. D. Rensis, F. López- Gatius, I. Garcia-Ispierto and M. Techakumpu, Clinical
Reproductive Biology and Endocrinology, 2010, 8-102.
use of human chorionic gonadotropin in dairy cows: an update, Theriogenology,
2010, 73 (8), 1001-1008.
102
[70] E. Popova, A Krivokharchenko, D. Ganten and M. Bader, Comparison between
PMSG- and FSH-induced superovulation for the generation of transgenic rats,
[71] C. Luo, J. Zuñiga, E. Edison, S. Palla, W. Dong and J. P. Thornburg,
Mol Reprod Dev, 2002, 63 (2), 177-82.
Superovulation Strategies for 6 Commonly Used Mouse Strains, J Am Assoc Lab
[72] Trần Tiến Dũng, Kết quả ứng dụng hormone sinh sản điều trị hiện tựơng chậm
Anim Sci, 2011, 50 (4), 471–478.
[73] Nguyễn Đình Giậu, Nguyễn Chi Mai và Trần Thị Việt Hồng, Sinh lí người và
động dục lại sau đẻ ở lợn nái, Tạp chí KHKT Nông nghiệp, 2004, 2 (1), 66-72.
động vật, NXB Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, Thành phố Hồ
[74] V.M. Shille; M.A. Haggerty, C. Shackleton and B.L. Lasley, Metabolites of
Chí Minh.
estradiol in semm, bile, intestine and feces of the domestic cat (Felis catus),
[75] R. Palme, P. Fischer, H. Schildorfer and M.N. Ismail, Excretion of infused “14
Theriogenology, 1990, 34, 779-794.
C-steroid hormones via faeces and urine in domestic Iivestock, Anim. Reprod.
[76] F. Schwarzenberger, E. Mostl; R. Palme and E. Bamberg, Fecal steroid analysis
Sci., 1996, 43, 43-63.
for noninvasive monitoring of reproductive status in farm, wild and zoo animals,
[77] N.R. Adams, LA. Abordi, J.R. Briegel and M.R. Sanders, Effect of diet on the
Animal reproduction science, 1996, 42 (1-4), 515-526.
[78] R. Palme, Measuring Faecal steroids: guidelines for practical application, Ann.
clearance of estradiol-17ß in the ewe, Biol. Reprod., 1994, 51, 668-674.
[79] R. Palme, A. Holzmann and T. Mitterer, Measuring fecal estrogens for the
N.Y. Acad. Sci., 2005, 1046, 75-80.
[80] S.K. Wasser, S.L. Monfort, J. Southers and D.E. Wildt, Excretion rates and
diagnosis of cryptorchidism in horses, Theriogenology, 1994, 42, 1381 - 1387.
metabolites of oestradiol and progesterone in baboon (Papio cytwcephalus
cynocephalus) faeces, J. Reprod. Fertil., 1994, 101, 213-220.
103
[81] L.H. Graham, J.L. Brown, Cortisol metabolism in the domestic cat and
implications for develop- ing a non-invasive measure of adrencortical ac- tivity
[82] S.A. Hattab, A.K. Kadom, R. Palme and E. Bamberg, Effect of Crestar on estrus
in non-domestic felids, Zoo Biology, 1996, 15, 71-82.
synchronization and the relationship between faecal and plasma concentrations
[83] M. C. E. F. a. C. O. A. Capezzuto, Correlation between serum and fecal
of progesterone in buffalo cows, Theriogenology, 2000, 54, 1007-1017.
concentrations of reproductive steroids throughout gestation in goats, Anim.
[84] F. Schwarzenberger, E. Möstl, E. Bamberg, Pammer and O. Schmehlik,
Reprod, 2008, 103, 78-86.
Concentrations of progestagens and oestrogens in the faeces of pregnant
Lipizzan, Trotter and Thoroughbmd mares, J. Reprod. Fert., Suppl., 1991, 44,
[85] N. Isobe, M.Akita, T. Nakao, H. Yamashiro and H. Kubota, Pregnancy diagnosis
489-499.
based on the faecal progesterone concentration in beef and dairy heifers and beef
[86] F. Schwarzenberger, W. Rietschel, J. Vahala, D. Holeckova, P. Thomas, J.
cows, Anim Reprod. Sci., 2005, 90, 211-218.
Maltzan, K. Baumgartner and W. Schaftenaar, Assessment of ovarian cycle by
fecal progesterone and estradiol-17 β in exotic cat, Gen C Endoc, 2000, 119(3),
[87] H.D. Putranto, S. Kusuda, Y. Mori and K.O. Inagaki, Assessment of ovarian cycle
300-307.
by fecal progesterone and estradiol-17 β in exotic cat, Proceedings of AZWMP
[88] H. D. Putranto, A non-invasive identification of hormone metabolites, gonadal
Chulalongkorn Uni. Fac. of Vet. Sc., 2006, 26-29.
event and reproductive status of captive female tigers, Biodiversitas, 2011, 12
[89] S. Fujita, F. Mitsunaga, H. Sugiura and K. Shimizu, Measurement of urinary and
(3), 131-135.
fecal steroid metabolites during the ovarian cycle in captive and wild Japanese
macaques, Macaca fuscata, Am J Primatol., 2001, 53 (4), 167-176.
104
[90] B. Biancani, L. Da Dalt, G. Lacave, S. Romagnoli and G. Gabai, Measuring fecal
progestogens as a tool to monitor reproductive activity in captive female
[91] S. E. Shideler, A. M. Ortuño, F. M. Morán, E. A. Moorman and B. L. Lasley,
bottlenose dolphins (Tursiops truncatus), Theriogenology, 2009, 72, 1282–1292.
Simple extraction and enzyme immunoassays for estrogen and progesterone
metabolites in the feces of Macaca fascicularis during non-conceptive and
[92] J.L. Brown, S.K. Wasser, D.E. Wildt and L.H. Graham, Comparative aspects of
conceptive ovarian cycles, Biol Reprod, 1993, 48 (6), 1290-1298.
steroid hormone metabolism and ovarian activity in felids, measured non
[93] K. Wasser, S.L. Monfort, J. Southers and D.E. Wildt, Excretion rates and
invasively in faeces, Biol. Reprod., 1994, 51, 776-786.
metabolites of oestradiol and progesterone in baboon (Papio cynocephalus
[94] T. E. Ziegler, G. Scheffler, D.J. Wittwer, N. Schultz-Darken, C.T. Snowdon and
cynocephalus) faeces, J. Reprod. Fertil, 1994, 101, 213-220.
D.H. Abbott, Metabolism of reproductive steroids during the ovarian cycle in
two species of Callitrichids, Sanguinus oedipus and Callithrix jacchus, and
estimation of the ovulatory period from fecal steroids, Biol. Reprod, 1996, 54,
[95] A. Kumar, S. Mehrotra, SS. Dangi, G. Singh, S. Chand, L. Singh, AS. Mahla, S.
91-99.
Kumar and K. Nehra, Faecal steroid metabolites assay as a non-invasive
[96] H. Amer, G. Shawki and R. Ismail, Ovarian and endocrine changes during
monitoring of reproductive status in animals, Vet World, 2013, 6 (1), 59-63.
oestrus and early pregnancy in Arabian mares, The Internet Journal of
[97] E. Macchi, C. A. Starvaggi, P. Badino, R. Odore, F. Re, L. Bevilacqua and A.
Veterinary Medicine, 2007, 4 (1), 1-7.
Malfatti, Seasonality of reproduction in wild boar (Sus scrofa) assessed by fecal
[98] H. Ncube, P. Duncan, , S. Grange, E.Z. Cameron, F. Barnier and A. Ganswindt,
and plasmatic steroids, Theriogenology, 2010, 73, 1230–1237.
Pattern of faecal 20-oxopregnane and oestrogen concentrations during
105
pregnancy in wild plains zebra mares, General and Comparative Endocrinology,
[99] D. W. G. L. R. T. a. P. L. N. A. S. Monica, Use of urinary biomakers of ovarian
2011, 172, 358–362.
funtion and altrenogest supplementation to enhance captive breeding success in
[100] H. Maheshwari, L. Sjahfirdi, P. Astuti and B. Purwantara, Fecal steroid profile
the Indian rhinoceros (Rhinoceros unicornis), Zoo Biol, 2014, 33, 83-88.
of female Javan gibbons (Hylobates moloch) maintained in pairing-typed cage,
[101] J. Arunji, Non-invasive monitoring of buffalo estrous cycle, M. V. Sc. Thesis,
Hayati Journal of Biosciences, 2010, 17, 43-49.
[102] N.M. Czekala, E.A MacDonald, K. Steinman, S. Walker, N.M. Garrigues, D.
2008.
Olson and J.L. Brown, Estrogen and LH dynamics during the follicular phase of
[103] I. Adachi, S. Kusuda, E. Nagao, Y. Taira, M. Asano, T. Tsubota and O. Doi,
the estrous cycle in the Asian elephant, Zoo Biol., 2003, 22, 27–36.
Fecal steroid metabolites and reproductive monitoring in a female Tsushima
leopard cat (Prionailurus bengalensis euptilurus), Theriogenology, 2010, 74 (8),
[104] J.M. Busso, M.F. Ponzio, F.D.M. Cuneo and R.D. Ruiz, Reproduction in
1499-1503.
chinchilla (Chinchilla lanigera): current status of environmental control of
gonadal activity and advances in reproductive techniques, Theriogenology,
[105] E. Curry, M.A. Stoops and T.L Roth, Non invasive detection of candidate
2012, 78, 1–11.
pregnancy protein biomarkers in the feces of captive polar bears (Ursus
[106] F. Schwarzenberger, R. Palme, E. Bamberg and Mostl, A review of fecal
maritimus), Theriogenology, 2012, 78 (2), 308-314.
progesterone metabolite analysis for noninvasive monitoring of reproductive
[107] C-J. C. Morden, Fecal hormone as a non-invasive population monitoring method
function in mammals, Zeitschrift fur Saugetierkunde, 1997, 62, 214-221.
for Reindeer, Journal of Wildlife Management, 2011, 75 (6), 1426-1435.
106
[108] Chung Anh Dzung, Le Xuan Cuong, Vuong Ngoc Long, Dinh Van Cai, Dang
Phuoc Chung and Pham Ho Hai, Constraints on efficiency of artificial
insemination and effect of nutrition on reproductive performance of dairy cattle
in smallholder farms, Proceeding of IAEA Final Research Co-ordination
[109] C. Frederick, R. Kyes, K. Hunt, D. Collins, B. Durrant and S.K. Wasser, Method
Meeting in Uppsala, 2001, 67-78.
of estrus detection and correlates of reproductive cycle in the sun bear (Helarctos
[110] J.W. Duckworth, P. Widmann, C. Custodio, J.C. Gonzalez, A. Jennings and G.
malayanus), Theriogennology, 2010, 74, 1121-1135.
Veron, "Paradoxurus hermaphroditus" IUCN Red List of Threatened Species,
[111] J. Nelson, Paradoxurus hermaphroditus, Animal Diversity Web, Accessed May
International Union for Conservation of Nature, 2017, Version 2017.3.
[112] P. B. Sanghani, Human anatomy and physiology, Tata McGraw Hill, 2012, New
23, 2017 at http://animaldiversity.org/accounts/Paradoxurus hermaphroditus.
[113] S. Meliani, B. Benallou, A. Hamdi and S. Boubdelii, Influence of Age on
York, Hoa Kỳ.
Haematological Parameters in Post-Partum Pure Bred Arabian Mares Raised in
[114] Đỗ Văn Thu, Nguyễn Văn Bộ, Đoàn Việt Bình, Nguyễn Ngọc Hưng, Trần Xuân
Tiaret Algeria, J Microb Biochem Technol, 2014, 7, 8-10.
Khôi, Lê Thị Huệ và Nguyễn Thị Thịnh, Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lý-sinh
hóa huyết học giống chó Bắc Hà và H’Mong nuôi cách ly, Tạp chí sinh học, 2015,
[115] J.A. Junior, N. Songsasen, F.C. Azevedo, J.P. Santos, R.C. Paula, F.H.G.
37 (4), 503-508.
Rodrigues, M.D. Rodden, D.E. Wildt and R.G. Morato, Hematology and blood
chemistry parameters differ in free-ranging maned wolves (Chrysocyon
brachyurus) living in the Serra Da Canastra National Park versus adjacent
farmlands, Brazil J Wildl Dis., 2009, 45, 81-90.
107
[116] M.K. Rostal, A.L. Evans, E.J. Solberg and J.M. Arnemo, Hematology and serum
chemistry reference ranges for free-ranging moose (Alces alces) in Norway, J
[117] C. Özkan, A. Kaya and Y. Akgül, Normal values of haematological and some
Wildl Dis., 2012, 48, 548-559.
biochemical parameters in serum and urine of New Zealand White rabbits,
[118] P. Rui, Ma Z.J., Zhang X.Z., Li P.G., Gao G.P., Yang Z.Z. and Zhang J.H.,
World Rabbit Sci., 2012, 20, 253-259.
Hematology and serum biochemistry values in adult racoon dogs and foxes in
Changli farms of Hebei province, China, Afr J Microbiol Res., 2011, 5, 4667-
[119] J. Brown, Female reproductive cycles of wild female felids, Animal Reproduction
4672.
[120] J. Cavalieri, G. Hepworth, K.I. Parker, P.J. Wright and K.L. Macmillan, Effect of
Science, 2011, 124, 155–162.
treatment with progesterone and oestradiol when starting treatment with an
intravaginal progesterone releasing insert on ovarian follicular development and
hormonal concentrations in Holstein cows, Animal Reproduction Science, 2003,
[121] Y. Kameyama, K. Arai and Y. Ishijima, Interval between PMSG Priming and
76, 177–193.
hCG Injection in Superovulation of the Mongolian Gerbil, J. Mamm. Ova Res,
2004, 21, 105-109.
a
PHỤ LỤC
Hình 1. Trang trại nuôi cầy vòi hương tại Trung tâm
Hình 2. Trang trại động vật hoang dã Thanh Long,
ứng dụng CNSH tỉnh Đồng Nai
Thủ Đức-Thành phố Hồ Chí Minh
Hình 3. Cầy chui vào ống
Hình 4. Cầy ngủ vào ban ngày Hình 12. Cầy ngủ vào ban ngày
b
Hình 5. Cầy đang ăn cháo
Hình 6. Cầy đang ăn chuối
Hình 7. Chuẩn bị thức ăn cho cầy
Hình 8. Cầy đang giao phối.
c
Hình 9. Máy phân tích máu tự động Mindray BC-2800
Hình 10. Bộ KIT ELISA
Hình 11. Phiếu xét nghiệm nước tiểu
Hình 12. Phiếu xét nghiệm hormone
d
Hình 13. Phân tích mẫu phân tại phòng thí nghiệm trường
Hình 14. Dò tìm tĩnh mạch gốc đuôi.
Đại học Thủ Dầu Một
Hình 15. Mẫu phân được thu thập, lưu trữ và ly trích
Hình 16. Lấy mẫu máu tại tĩnh mạch gốc đuôi.