BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ -----------------------------

Nguyễn Thị Thu Hiền NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ

ẢNH HƯỞNG CỦA KÍCH DỤC TỐ ĐẾN KHẢ NĂNG SINH SẢN

CỦA CẦY VÒI HƯƠNG (Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777)

TRONG ĐIỀU KIỆN NUÔI NHỐT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ -----------------------------

Nguyễn Thị Thu Hiền NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ

ẢNH HƯỞNG CỦA KÍCH DỤC TỐ ĐẾN KHẢ NĂNG SINH SẢN

CỦA CẦY VÒI HƯƠNG (Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777)

TRONG ĐIỀU KIỆN NUÔI NHỐT

Chuyên ngành: Công nghệ sinh học

Mã số: 9 42 02 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS. TS. Nguyễn Thanh Bình

2. PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Thảo

Thành phố Hồ Chí Minh – 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan:

Luận án này là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của

PGS. TS. Nguyễn Thanh Bình và PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Thảo.

Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất

kỳ công trình nào khác.

Những trích dẫn và tài liệu tham khảo trong luận án có nguồn gốc xác thực.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng 09 năm 2019

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thu Hiền

ii

LỜI CẢM ƠN

Luận án này được hoàn thành tại Viện Sinh học Nhiệt đới, Học viện Khoa học

và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Trong quá trình nghiên

cứu, tác giả đã nhận được nhiều sự giúp đỡ quý báu của Thầy Cô, các nhà khoa học,

đồng nghiệp, bạn bè và gia đình.

Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc và kính trọng nhất tới PGS. TS. Nguyễn Thanh

Bình và PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Thảo - những người Thầy đã tận tâm hướng dẫn

khoa học, luôn động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt thời

gian thực hiện luận án.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm

Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Ban lãnh đạo Viện Sinh học Nhiệt đới, tập thể cán

bộ của Học viện và Viện đã quan tâm, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong

suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn Trung tâm Ứng dụng công nghệ sinh học Tỉnh Đồng

Nai, Trang trại động vật hoang dã Thanh Long, Trung tâm Công nghệ chăn nuôi-Phân

viện chăn nuôi Nam Bộ về sự ủng hộ cơ sở, vật chất trong việc thực hiện luận án; BS

thú y Đỗ Đức Thiện đã giúp đỡ thu thập mẫu trong quá trình nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn tới Trường Đại học Thủ Dầu Một, Khoa Khoa học

Tự nhiên và các đồng nghiệp đã ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời

gian làm nghiên cứu sinh.

Tôi xin chân thành cảm ơn Quỹ phát triển khoa học trường Đại học Thủ Dầu

Một đã tài trợ kinh phí cho hai đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở để thực hiện luận

án này.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè và những người thân

đã luôn quan tâm, khích lệ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................ii

MỤC LỤC ................................................................................................................ iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................ vii

DANH MỤC CÁC BẢNG ......................................................................................... ix

DANH MỤC CÁC HÌNH ........................................................................................... x

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của luận án .................................................................................... 1

2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án ......................................................................... 2

3. Nội dung nghiên cứu của luận án ......................................................................... 2

4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án .............................................. 2

5. Tính mới của luận án ........................................................................................... 3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ....................................................................................... 4

1.1. Sơ lược về cầy vòi hương ............................................................................. 4

1.1.1. Phân loại ................................................................................................ 4

1.1.2. Đặc điểm ngoại hình .............................................................................. 4

1.1.3. Tập tính và sinh sản ............................................................................... 5

1.1.4. Phân bố .................................................................................................. 5

1.1.5. Tình hình nuôi cầy vòi hương ................................................................ 5

1.2. Tình hình nghiên cứu về cầy vòi hương ............................................................ 6

1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ........................................................... 6

1.2.1.1. Nghiên cứu về tập tính, phân bố và hiện trạng loài trong tự nhiên .... 6

1.2.1.2. Nghiên cứu về đặc điểm giải phẫu, sinh lý-sinh hóa máu ................. 9

1.2.1.3. Nghiên cứu về tính đa dạng di truyền và phát sinh loài .................. 11

1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ......................................................... 13

1.3. Tổng quan về PMSG và HCG ......................................................................... 15

1.3.1. Cấu trúc, chức năng của PMSG ........................................................... 15

iv

1.3.1.1. Nguồn gốc và cấu trúc của PMSG (eCG) ....................................... 15

1.3.1.2. Vai trò của eCG trong ngựa cái ...................................................... 16

1.3.1.3. Hoạt động sinh học của eCG.......................................................... 17

1.3.1.4. Ứng dụng của PMSG ..................................................................... 17

1.3.2. Cấu trúc, chức năng của HCG .............................................................. 19

1.3.2.1. Nguồn gốc và cấu trúc của HCG .................................................... 19

1.3.2.2. Chức năng của HCG ...................................................................... 19

1.3.3. Tình hình sử dụng kích dục tố PMSG và HCG trong hỗ trợ sinh sản .... 20

1.4. Tổng quan về estrogen và progesterone .......................................................... 25

1.4.1. Cấu trúc và chức năng của estrogen .......................................................... 25

1.4.2. Cấu trúc và chức năng của progesterone .................................................... 25

1.4.3. Xác định con đường chuyển hoá và bài tiết hormone estrogen và

progesterone ...................................................................................................... 26

1.4.4. Phương pháp ly trích steroid ................................................................ 27

1.4.5. Xác định động thái sinh sản dựa vào đánh giá steroid trong phân ......... 28

CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................. 33

2.1. Địa điểm, thời gian nghiên cứu ....................................................................... 33

2.2. Chuồng trại, thức ăn, nước uống ..................................................................... 33

2.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu ............................................................ 34

2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của cầy vòi hương trong điều kiện

nuôi nhốt ............................................................................................................ 34

2.3.1.1. Vật liệu .......................................................................................... 34

2.3.1.2. Chỉ tiêu khảo sát ............................................................................ 34

2.3.1.3. Phương pháp xác định khối lượng và kích thước các chiều đo ....... 35

2.3.1.4. Phương pháp nghiên cứu tốc độ sinh trưởng .................................. 35

2.3.1.5. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm sinh sản ................................... 35

2.3.2. Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí – sinh hóa máu, nước tiểu của cầy vòi

hương trong điều kiện nuôi nhốt ........................................................................ 36

2.3.2.1. Vật liệu .......................................................................................... 36

2.3.2.2. Chỉ tiêu khảo sát ............................................................................ 36

v

2.3.2.3. Phương pháp thu mẫu và phân tích máu ........................................ 37

2.3.3. Nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng hormone sinh dục của cầy vòi hương

cái trong điều kiện nuôi nhốt .............................................................................. 38

2.3.3.1. Vật liệu .......................................................................................... 38

2.3.3.2. Chỉ tiêu khảo sát ............................................................................ 38

2.3.3.3. Phương pháp thu mẫu và chiết xuất phân……………………… 39

2.3.3.4. Phương pháp xét nghiệm hormone ................................................ 40

2.3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của kích thích tố sinh dục (PMSG, hCG) đến khả

năng sinh sản của cầy vòi hương cái .................................................................. 41

2.3.4.1. Vật liệu .......................................................................................... 41

2.3.4.3. Loại hormone sinh sản sử dụng ………………………………….. 42

2.3.4.2. Chỉ tiêu khảo sát ............................................................................ 41

2.3.4.4. Các công thức tiêm hormone sinh sản ............................................ 42

2.3.4.5. Bố trí thí nghiệm............................................................................ 42

2.3.4.6. Quy trình tiêm ............................................................................... 42

2.3.4.7. Phương pháp xác định sự thay đổi hormone................................... 42

2.4. Xử lí số liệu. ........................................................................................... 43

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................................. 44

3.1. Kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh học ............................................................ 44

3.1.1. Đặc điểm hình thái, dinh dưỡng và một số tập tính của cầy vòi hương

trong điều kiện nuôi nhốt .................................................................................. 44

3.1.2. Đặc điểm sinh trưởng của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt… 46

3.1.2.1. Tăng trưởng khối lượng ................................................................. 46

3.1.2.2. Tăng trưởng chiều dài thân đầu ...................................................... 47

3.1.2.3. Tăng trưởng chiều dài đuôi……………………………………… 48

3.1.2.4. Tăng trưởng vòng ngực ................................................................. 49

3.1.3. Đặc điểm sinh sản của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt……… 50

3.1.3.1. Tuổi thành thục sinh dục và biểu hiện động dục............................. 51

3.1.2.2. Hoạt động giao phối, tỉ lệ mang thai và thời gian mang thai........... 53

vi

3.1.3.3. Số cầy sinh ra trên lứa, tỉ lệ sống sót, đặc điểm con sơ sinh và tuổi cai

sữa ..................................................................................................................... 55

3.2. Kết quả nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí – sinh hóa máu, nước tiểu của cầy vòi

hương trong điều kiện nuôi nhốt ............................................................................ 58

3.2.1. Một số chỉ tiêu sinh lí máu của cầy vòi hương theo giới tính ................ 58

3.2.2. Một số chỉ tiêu sinh lí máu của cầy vòi hương theo tuổi ....................... 60

3.2.3. Các chỉ số sinh hóa máu của cầy vòi hương ......................................... 62

3.2.4. Một số chỉ tiêu sinh hóa nước tiểu của cầy vòi hương theo giới tính .... 65

3.2.5. Một số chỉ tiêu sinh hóa nước tiểu của cầy vòi hương theo tuổi............ 68

3.3. Kết quả nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng hormone sinh dục của cầy vòi hương

cái trong điều kiện nuôi nhốt ................................................................................. 70

3.3.1. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone trong phân cầy vòi hương

không mang thai ................................................................................................ 70

3.3.2. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone trong phân cầy vòi hương

mang thai ........................................................................................................... 74

3.3.3. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone trong phân cầy vòi hương

mang thai giả ..................................................................................................... 77

3.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của kích thích tố sinh dục (PMSG, HCG) đến khả

năng sinh sản của cầy vòi hương cái ...................................................................... 79

3.4.1. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone sau khi tiêm kích dục tố

.......................................................................................................................... 79

3.4.2. Thời gian xuất hiện các biểu hiện và kéo dài động dục ......................... 85

3.4.3. Kết quả sử dụng các công thức hormone lên một số chỉ tiêu sinh sản ... 87

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................... 91

1. Kết luận ............................................................................................................. 91

2. Kiến nghị ........................................................................................................... 92

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ .......................................................... 93

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 94

vii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Diễn giải tiếng Anh Diễn giải tiếng Việt

ASC Ascorbic acid Axit Ascorbic

ALT Alanin amino transferase Enzyme chuyển hoá

Alanin

ALP Alkaline phosphatase Alkaline Enzym

phosphatase

AST Aspartate transaminase Enzyme chuyển hoá

Aspartate

BUN Blood urea nitrogen Nitơ u rê trong máu

CP Corpus leteum Hoàng thể

CTAB Cetyltrimethyl ammonium bromide Cetyltrimethyl ammonium

bromide

ECG Equine chorionic Gonadotropin Gonadotropin màng đệm ở

ngựa

EDTA Ethylene diamine tetra acetic acid Ethylene diamine tetra

acetic acid

EIA Enzyme Immune Assay Xét nghiệm miễn dịch

enzyme

ELISA Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay Xét nghiệm miễn dịch liên

E2 Estradiol kết với enzyme Estradiol

Follicle Stimulating Hormone Hormone kích thích nang FSH

trứng

GnRH Gonadotropin-Releasing Hormone Hormone giải phóng

Gonadotropin

HCT Hematocrit Dung tích hồng cầu

HCG Human Chorionic Gonadotropin Gonadotropin màng đệm ở

người

viii

Hemoglobin Hemoglobin HGB

High Performance Liquid Sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC

Chromatography

International Unit Đơn vị quốc tế IU

Luteinizing Hormone Hormone Luteinizing LH

MCV Mean corpuscular volume Thể tích trung bình hồng

cầu

MCH Mean corpuscular hemoglobin Lượng hemoglobin trung

bình trong một hồng cầu

MCHC Mean corpuscular hemoglobin Nồng độ hồng cầu trung

concentration bình

MPV Mean platelet volume Thể tích trung bình tiểu

cầu

PCR Polymerase Chain Reaction Phản ứng chuỗi

polymerase

Plateletcrit Dung tích bạch cầu PCT

Pregnant Mare's Serum Gonadotropin Huyết thanh ngựa chửa

Progesterone Progesterone PMSG P4

Platelet distribution width Độ phân bố tiểu cầu PDW

Platelet Tiểu cầu PTL

Radio Immuno Assay Xét nghiệm miễn dịch RIA

phóng xạ

Red blood cells Hồng cầu RBC

Red cell distribution width Độ phân bố hồng cầu RDW

Specific gravity Tỷ trọng nước tiểu SG

White blood cells Bạch cầu WBC

ix

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2. 1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm theo dõi các chỉ số sinh trưởng ............................ 35

Bảng 2. 2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm theo dõi các chỉ số sinh lí - sinh hoá máu, nước tiểu

.………………………………………………………………………………………. 37

Bảng 2. 3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm theo dõi các chỉ số nội tiết estradiol và progesterone

……………………………………………………………………………………….. 38

Bảng 2. 4. Dữ liệu của 12 cá thể cầy cái được thu mẫu trong nghiên cứu ................. 39

Bảng 2. 5. Sơ đồ bố trí thí nghiệm tiêm kích dục tố ................................................... 42

Bảng 3. 1. Tốc độ tăng trưởng khối lượng của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi ... 46

Bảng 3. 2. Tốc độ tăng trưởng chiều dài thân đầu của cầy vòi hương trong điều kiện

nuôi ........................................................................................................................... 48

Bảng 3. 3. Tốc độ tăng trưởng chiều dài đuôi của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi

................................................................................................................................. 49

Bảng 3. 4. Tốc độ tăng trưởng vòng ngực của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi .... 50

Bảng 3. 5. Tuổi thành thục sinh dục của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt..... 51

Bảng 3. 6. Tỉ lệ và thời gian mang thai ở cầy vòi hương............................................ 54

Bảng 3 .7. Số cầy vòi hương con sinh ra trên lứa và tỉ lệ sống sót ............................. 55

Bảng 3. 8. Một số chỉ số sinh lí máu của cầy vòi hương theo giới tính ...................... 59

Bảng 3. 9. Các chỉ số sinh lí máu của cầy vòi hương theo nhóm tuổi ........................ 61

Bảng 3. 10. Các chỉ số sinh hoá máu của cầy vòi hương theo giới tính ...................... 63

Bảng 3. 11. Các chỉ số sinh hoá máu của cầy vòi hương theo tuổi ............................. 64

Bảng 3. 12. Các chỉ số sinh hoá nước tiểu của cầy vòi hương theo giới tính .............. 66

Bảng 3. 13. Các chỉ số sinh hoá nước tiểu của cầy vòi hương theo nhóm tuổi ........... 68

Bảng 3. 14. Phạm vi, đỉnh và chu kỳ của P4 và E2 trong thời kỳ không mang thai ở cầy

vòi hương .................................................................................................................. 70

Bảng 3. 15. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương sau thụ tinh ............... 75

Bảng 3. 16. Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố của Nhóm 1 87

Bảng 3. 17. Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố của Nhóm 2 88

Bảng 3. 18. Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố của Nhóm 3 89

Bảng 3. 19. Tổng hợp kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố .... 90

x

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1. 1. Cấu trúc tuyến tính của các gonadotropin ở động vật có vú.. .................... 16

Hình 1. 2. Cấu trúc của HCG .................................................................................... 19

Hình 1. 3. Cấu trúc hoá học của Estron, Estradiol và Estriol ..................................... 25

Hình 1. 4. Cấu trúc hoá học của progesterone ........................................................... 26

Hình 3. 1. Cầy vòi hương (P. hermaphroditus) trong điều kiện nuôi ......................... 44

Hình 3. 2. Cầy vòi hương ăn hạt cà phê ..................................................................... 45

Hình 3. 3. Cầy vòi hương ăn dưa hấu ........................................................................ 45

Hình 3. 4. Cơ quan sinh dục của cầy vòi hương đực trưởng thành ............................. 52

Hình 3. 5. Cơ quan sinh dục của cầy vòi hương cái trưởng thành .............................. 52

Hình 3. 6. Cầy vòi hương nuôi theo từng ô chuồng, xen kẽ ....................................... 53

Hình 3. 7. Cầy vòi hương được ghép đôi theo cặp đực và cái trong mùa sinh sản ...... 53

Hình 3. 8. Cầy vòi hương mẹ và cầy con 10 ngày tuổi .............................................. 57

Hình 3. 9. Cầy vòi hương sau khi cai sữa (3 tháng) ................................................... 57

Hình 3. 10. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F1) 72

Hình 3. 11. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F3) 72

Hình 3. 12. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F5) 73

Hình 3. 13. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F6) 73

Hình 3. 14. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F8) 74

Hình 3. 15. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F11)

................................................................................................................................. 74

Hình 3. 16. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F2, mang thai

vào 6/2017) ............................................................................................................... 76

Hình 3. 17. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F4, mang thai

vào 4/2017) ............................................................................................................... 76

Hình 3. 18. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F7, mang thai

2 lần vào 4/2017 và 1/2018) ...................................................................................... 77

Hình 3. 19. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F9, mang thai

vào 2/2017) ............................................................................................................... 77

xi

Hình 3. 20. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai giả (presumed

pseudopregnancy – F10) ........................................................................................... 78

Hình 3. 21. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai giả (presumed

pseudopregnancy – F12) ........................................................................................... 79

Hình 3. 22. Sự thay đổi hàm lượng Estradiol ở cầy vòi hương Nhóm 1 sau khi tiêm kích

dục tố ........................................................................................................................ 82

Hình 3. 23. Sự thay đổi hàm lượng Progesterone ở cầy vòi hương Nhóm 1 sau khi tiêm

kích dục tố ................................................................................................................ 83

Hình 3. 24. Sự thay đổi hàm lượng Estradiol ở cầy vòi hương Nhóm 2 sau khi tiêm kích

dục tố ........................................................................................................................ 83

Hình 3. 25. Sự thay đổi hàm lượng Progesterone ở cầy vòi hương Nhóm 2 sau khi tiêm

kích dục tố ................................................................................................................ 84

Hình 3. 26. Sự thay đổi hàm lượng Estradiol ở cầy vòi hương Nhóm 3 sau khi tiêm kích

dục tố ........................................................................................................................ 84

Hình 3. 27. Sự thay đổi hàm lượng Progesterone ở cầy vòi hương Nhóm 3 sau khi tiêm

kích dục tố ................................................................................................................ 85

Hình 3. 28. Thời gian xuất hiện và thời gian kéo dài động dục sau khi tiêm kích dục tố

................................................................................................................................. 86

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận án

Cầy vòi hương -Paradoxurus hermaphroditus (Pallas, 1777) thuộc họ Cầy

(Viverridae), bộ ăn thịt (Carnivora). Loài thú này phân bố ở Nam Trung Quốc, Ấn Độ,

Lào, Malaysia, Myanmar, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Campuchia [1]; Nepal,

Singapore [2], Sri Lanka, Việt Nam và phân bố rải rác ở một số nơi khác trên thế giới

[3]. Đây là loài thú ăn tạp, thức ăn chủ yếu là các loại quả, và có vai trò quan trọng trong

phát tán hạt giống trong rừng [4, 5, 6]. Ở Việt Nam, cầy vòi hương phân bố rộng trên

toàn quốc [7].

Cầy vòi hương là loài thú quý hiếm trong nhóm IIB, được ưu tiên bảo vệ và thực

thi công ước về buôn bán quốc tế động, thực vật hoang dã nguy cấp. Việc săn bắt và sử

dụng cầy vòi hương với nhiều mục đích khác nhau như lấy thịt, da, lông, hương liệu;

sử dụng trong sản xuất “cà phê chồn”; mặt khác, sinh cảnh bị mất hoặc phân mảnh đang

làm cạn kiệt loài này trong tự nhiên [2, 8]. Bảo tồn, lưu giữ nguồn gen là một trong

những giải pháp khẩn cấp, thường xuyên và lâu dài [9]. Để bảo tồn bền vững nguồn gen

giống vật nuôi, việc khai thác và phát triển nguồn gen là giải pháp hữu hiệu [10]. Hiện

nay, ở Việt Nam đã gây nuôi cầy vòi hương nhằm phát triển kinh tế và góp phần giữ

gìn sự đa dạng sinh học [11]. Tuy nhiên, chưa có những nghiên cứu toàn diện và có hệ

thống về các đặc điểm sinh học của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi, làm cơ sở khoa

học cho quá trình thuần hoá, hoàn thiện quy trình kĩ thuật nhân nuôi hiệu quả, góp phần

bảo tồn bền vững loài.

Trong công tác quản lí con giống, việc tăng năng suất sinh sản của chúng rất cần

được chú ý. Sự kết hợp PMSG và HCG với liều lượng hợp lí đã gây bài noãn, kích thích

sinh sản hiệu quả trên nhiều đối tượng: chuột [12, 13], lợn [14], bò [15]. Ở Việt Nam,

có các công trình nghiên cứu ảnh hưởng của hormone sinh dục đến khả năng sinh sản

của bò, lợn [16, 17, 18, 19]. Kết quả nghiên cứu bước đầu về tác động của PMSG và

HCG trên thú hoang dã cho thấy tăng hiệu quả sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt [20,

21]. Do đó, việc nghiên cứu ảnh hưởng của kích dục tố lên khả năng sinh sản của cầy

vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt là có cơ sở và rất cần thiết; nhằm cải thiện thành

2

tích sinh sản, nâng cao hiệu quả chăn nuôi để vừa khai thác, vừa bảo tồn ngoại vi (ex-

situ conservation) loài động vật hoang dã quý hiếm này.

Từ những lí do cấp thiết trên, đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và

ảnh hưởng của kích dục tố đến khả năng sinh sản của cầy vòi hương (Paradoxurus

hermaphroditus Pallas, 1777) trong điều kiện nuôi nhốt” được thực hiện.

2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án

- Xác định được các đặc điểm sinh học và một số chỉ tiêu sinh lí-sinh hóa máu,

nước tiểu của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt.

- Đánh giá sự thay đổi hormone sinh dục của cầy vòi hương cái và tác động của

kích dục tố lên khả năng sinh sản của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt nhằm bảo

tồn loài theo hướng phát triển số lượng.

3. Nội dung nghiên cứu của luận án

- Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học (hình thái, dinh dưỡng, tập tính, sinh

trưởng, sinh sản) của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt.

- Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí – sinh hóa máu, nước tiểu của cầy vòi hương

trong điều kiện nuôi nhốt.

- Nghiên cứu sự thay đổi hormone sinh dục của của cầy vòi hương cái trong điều

kiện nuôi nhốt.

- Nghiên cứu hiệu quả tác động của kích thích tố sinh dục (PMSG, HCG) đến sự

sinh sản của cầy vòi hương cái.

4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án

4.1. Ý nghĩa khoa học

- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo có giá trị trong giảng dạy,

nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi thú hoang dã, đặc

biệt là cầy vòi hương.

- Tạo tiền đề cho các nghiên cứu tương tự trên các loài động vật hoang dã khác

trong điều kiện nuôi.

- Cơ sở khoa học cho việc ứng dụng công nghệ sinh học trên thú hoang dã.

4.2. Ý nghĩa thực tiễn

3

- Đề tài góp phần vào sự bảo tồn đa dạng sinh học (giá trị về kinh tế và giá trị tài

nguyên môi trường), bảo tồn và phát triển nguồn gen cầy vòi hương tại Việt Nam.

- Làm phong phú thêm một vật nuôi mới phục vụ phát triển chăn nuôi, tăng thu

nhập cho người chăn nuôi, góp phần vào sự phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền

vững ở nước ta.

- Góp phần hoàn thiện quy trình kỹ thuật nhân nuôi, tăng thành tích sinh sản của

cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt.

- Cung cấp dữ liệu tư vấn quan trọng giúp tăng hiệu quả bảo tồn, lưu giữ và khai

khác bền vững cầy vòi hương- một nguồn tài nguyên quý giá.

5. Tính mới của luận án

- Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về

đặc điểm sinh học (ngoại hình, dinh dưỡng, sinh trưởng, sinh sản, sinh lý- sinh hoá máu

và nước tiểu) của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt ở Việt Nam.

- Là công trình nghiên cứu đầu tiên đánh giá về sự thay đổi các chỉ số nội tiết

sinh dục của cầy vòi hương bằng phương pháp không xâm lấn nhằm xác định thời kì

động dục và ảnh hưởng của kích dục tố lên khả năng sinh sản của cầy vòi hương trong

điều kiện nuôi nhốt.

4

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1. Sơ lược về cầy vòi hương

1.1.1. Phân loại

Vị trí phân loại của Cầy vòi hương trong hệ thống phân loại động vật [3, 7]:

Ngành: Động vật có dây sống (Chordata)

Lớp: Thú (Mammalia)

Bộ: Ăn thịt (Carnivora)

Họ: Cầy (Viverridae)

Giống: Paradoxurus

Loài: Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777

Tên đồng nghĩa (Symnonyms): Paradoxurus lignicolor Miller, 1903;

Paradoxurus musangus Raffles, 1821; Paradoxurus philippinensis Jourdan, 1837;

Viverra hermaphrodita Pallas, 1777 [3], Paradoxurus cochinesis Schwarz, 1911 [7].

Tên thường gọi (Common names): Common Palm Civet, Mentawai Palm Civet.

Tên tiếng Việt: cầy vòi hương, cầy vòi đốm [7].

1.1.2. Đặc điểm ngoại hình

Cầy vòi hương trưởng thành nặng khoảng từ 2 đến 5 kg. Chiều dài thân khoảng

từ 480 đến 700 mm, đuôi dài từ 400 đến 660 mm. Khuôn mặt dài nhọn đặc trưng của

họ cầy. Các gờ mấu ở xương sọ khá phát triển. Mấu sau mắt dài. Xương trán tương đối

bằng. Eo sau mắt thắt nhỏ (nhỏ hơn gian mắt). Mấu bên xương chẩm dính với mặt sau

bầu nhĩ tạo thành đế khá lớn. Răng nhỏ thấp, gờ nhai tù. Răng trước hàm số 1 rất nhỏ,

có thể mất. Đế bàn chân lớn, đế bàn chân sau có thùy kéo dài để bám lúc leo trèo. Khác

với cầy hương, tuyến xạ của con đực nằm ngay trước tinh hoàn, lộ ra ngoài; tuyến xạ

của cầy vòi hương nằm sâu phía trong mông, phân bố hai bên hậu môn mà không lộ ra

ngoài [7, 11]. Cả cầy đực và cái của loài này đều có mùi hương đáy chậu dưới đuôi của

chúng. Tuyến này nằm trong một túi dưới da bụng, được sử dụng để phun trong phòng

vệ, đánh dấu lãnh thổ và giao tiếp với những cá thể khác của loài [3, 7].

5

1.1.3. Tập tính và sinh sản

Cầy vòi hương chủ yếu sống ở rừng, thường đi đơn. Sinh hoạt kiếm ăn đêm,

ngày ngủ. Vào mùa khan hiếm thức ăn, cầy vòi hương cũng có thể kiếm ăn vào ban

ngày. Cầy vòi hương là loài ăn tạp, thức ăn tự nhiên bao gồm cả thực vật (thành phần

thức ăn chủ yếu gồm các loại quả chín kỹ, nhằn vỏ, nuốt hạt) lẫn động vật (gồm côn

trùng, cua, ốc) chiếm tỷ lệ ít, tuy nhiên loài này thường ăn thực vật nhiều hơn động vật

[4, 7].

Cầy vòi hương sinh sản quanh năm và thường tập trung vào các thời điểm tháng

4, 5, 6 và tháng 10, 11, 12. Mỗi lứa 2 - 4 con [3, 7, 11, 22].

1.1.4. Phân bố

Cầy vòi hương phân bố ở các khu vực như Ấn Độ, Nepal, Bangladesh, Bhutan,

Myanmar, Sri Lanka, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Brunei, Lào, Campuchia, Việt

Nam, Trung Quốc, Philippines và các quần đảo Sumatra, Java, Kalimantan, Bawean và

Siberut của Indonesia. Chúng được du nhập đến Irian Jaya, quần đảo Sunda, Maluku,

Sulawesi và Nhật Bản. Riêng ở Việt Nam, loài này phân bố rộng trên toàn quốc, kể cả

ở Côn Đảo, Phú Quốc [3, 7]. Cầy vòi hương thường sinh sống ở các khu rừng nguyên

sinh, kể cả rừng thứ sinh nhưng với mật độ thấp. Loài thú này cũng được tìm thấy tại

các khu vườn ở ngoại ô, nơi có nhiều trái cây chín.

1.1.5. Tình hình nuôi cầy vòi hương

Cầy vòi hương được nuôi ở Ấn Độ, Sri Lanka, Mianmar, Nam Trung Quốc, Thái

Lan, Malaysia, Lào và Campuchia. Việc nuôi cầy vòi hương sản xuất cà phê chồn hiện

nay được thực hiện nhiều tại Indonesia với thương hiệu nổi tiếng Kopi Luwak [23].

Ở Việt Nam, việc nuôi cầy vòi hương để sản xuất cà phê chồn được thực hiện ở

một số tỉnh có diện tích trồng cà phê lớn: Đắk Lắk, Lâm Đồng. Trong đó Đắk Lắk là

tỉnh có nhiều cơ sở nuôi cầy vòi hương để sản xuất cà phê chồn có quy mô lớn nhất cả

nước. Nhiều địa phương nuôi chủ yếu để cung cấp giống và thịt như Bắc Giang, Nam

Định, Hà Nội, Thanh Hóa, Trà Vinh, Đắk Lắk, Long An, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí

Minh [11].

6

1.2. Tình hình nghiên cứu về cầy vòi hương

1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

1.2.1.1. Nghiên cứu về tập tính, phân bố và hiện trạng loài trong tự nhiên

Cầy vòi hương (P. hermaphroditus) đã được nghiên cứu ở Vườn Quốc gia

Chitwan Royal- Nepal, nhằm xác định hoạt động hàng ngày và thay đổi tập tính dinh

dưỡng theo mùa. Năm cá thể trưởng thành (hai cái và ba đực) được bắt và gắn với thiết

bị để theo dõi. Mỗi con được theo dõi trong 12 tháng liên tiếp cả đêm lẫn ngày. Kết quả

nghiên cứu cho thấy, loài thú này hoạt động ban đêm nhiều hơn ban ngày. Trong 193

dạ dày cầy vòi hương được thu thập, có 84,5% dạ dày tìm thấy có hạt của các loại trái

cây. Vào tháng tư, khi không có quả chín, cầy thay đổi chế độ ăn từ trái cây sang ăn các

loài động vật không xương sống và động vật có xương sống kích thước nhỏ. Cầy vòi

hương cũng được cho là ăn mật hoa và nhựa từ thân của cây Vallaris solanacea. Tập

tính ăn động vật và hoạt động chủ yếu về đêm cho thấy cầy vòi hương rất dễ bị ăn thịt

bởi các loài động vật ăn thịt cỡ lớn [4].

Cầy vòi hương có khả năng ăn hạt cà phê tuy nhiên không thể tiêu hóa được hoàn

toàn quả cà phê, nó chỉ tiêu hóa được phần thịt quả cà phê, rồi thải ra ngoài phần hạt

cứng không tiêu hóa được. Những hạt này có hương rất khác biệt và hiếm có nên được

chế biến thành một loại cà phê cao cấp và được gọi là “cà phê chồn” [1, 4].

Một báo cáo của viện nghiên cứu ở Triều Tiên vào năm 1997, về thói quen ăn

uống của cầy vòi hương, đã liệt kê các loại thức ăn mà loài sử dụng bao gồm: nhóm

động vật hữu nhũ nhỏ, các loài thuộc lớp chim, bò sát, lưỡng cư, cá, giáp xác, côn trùng,

giun đất và hoa quả. Trong đó, 4 nhóm thức ăn chính của cầy vòi hương là côn trùng,

giun đất, hoa quả, và loài hữu nhũ [24].

Cầy vòi hương có lối sống đơn lẻ, trừ một thời gian ngắn vào mùa giao phối.

Chúng sống trên cạn và trên cây, hoạt động mạnh về đêm vào giữa buổi tối muộn đến

sau nửa đêm [5]. Nakabayashi et al. (2012) đã tiến hành nghiên cứu các tương tác xã

hội giữa cầy vòi hương đực, giữa cầy đực và cái. Các quan sát được hỗ trợ bởi ống

nhòm và đèn pha có bộ lọc màu để đảm bảo ánh sáng không chiếu trực tiếp vào động

vật theo dõi. Chiều cao của cây và các vị trí của động vật theo dõi được đo bằng máy

đo khoảng cách laser. Giới tính được xác định bằng cách quan sát bộ phận sinh dục

7

ngoài. Thông tin từ kết quả quan sát cho thấy rằng hoạt động kiếm ăn chung ở cầy vòi

hương ít phổ biến [25].

Cầy vòi hương đánh dấu mùi và phản ứng khứu giác qua các chất tiết khác nhau

của tuyến đáy chậu, nước tiểu và phân. Sáu hình thức của hành vi đánh dấu mùi hương

đã được mô tả. Các hoạt động và tỷ lệ hình thức của hành vi đánh dấu khác nhau ở con

đực và con cái. Hành vi đánh dấu bằng cách kéo các tuyến đáy chậu và để lại chất tiết

trên bề mặt là phổ biến nhất được quan sát ở cả hai giới. Các phản ứng khứu giác cũng

thay đổi theo thời gian và phụ thuộc vào giới tính và loại chất bài tiết [26].

Spaan et al. (2014) đã đặt camera quan sát để nghiên cứu theo dõi về sự phân bố

và tập tính của cầy vòi hương trong tự nhiên. Kết quả cho thấy, chúng thường xuyên di

chuyển trên cây, di chuyển theo đường ống nước hay các cấu trúc nhân tạo khác nhau

và đôi khi di chuyển trên mặt đất. Ngoài ra, cầy cũng sử dụng hệ thống ống thoát nước

và mái nhà để ngủ. Cầy vòi hương có thể sử dụng đường ống và các con đường nhân

tạo khác để di chuyển, màng giữa các ngón chân của chúng giúp tăng diện tích tiếp xúc

giữa mặt dưới của bàn chân với bề mặt chất nền. Hơn nữa, sự giảm thấp của trọng lực

sẽ tăng cường sự an toàn của chúng khi đi bộ dọc theo các chất nền không ổn định hoặc

mỏng [27].

Về tầm quan trọng của cầy vòi hương trong việc phát tán hạt, Nakashima và

Sukor (2010) đã tiến hành nghiên cứu tại khu bảo tồn động vật hoang dã Tabin, trên

đảo Borneo của Malaysia [6]. Các tác giả đã ước tính và dự đoán rằng khoảng cách phát

tán hạt của cầy vòi hương xa hơn so với khỉ, và là một bộ phận tham gia phát tán tiềm

năng các loại hạt giống có kích thước lớn trong rừng. Kết quả quan sát cho thấy, khi ăn

cầy vòi hương thường nuốt hạt giống, thời gian lưu giữ hạt giống trung bình của cầy

hương là 2,6 giờ. Thời gian này là lâu hơn: 75 giây so với khỉ đuôi dài và 156 giây so

với khỉ đuôi lợn. Việc theo dõi các hoạt động của cầy vòi hương đã chứng minh rằng

chúng đã đi vài trăm mét trong thời gian kiếm ăn. Các ước tính trung bình khoảng cách

phát tán hạt là 216 m. Ở một nghiên cứu khác, Nakashima et al. (2010) cũng đã sử dụng

kỹ thuật phân tử để vượt qua những khó khăn trong việc phân biệt giữa các loài qua

mẫu phân của chúng [28]. Các mẫu phân thu thập đã được đưa vào túi nhựa và lưu trữ

trong tủ đông ở -200C. Hạt có trong phân được sàng lọc qua lưới nylon 2 mm. Chiều

dài và chiều rộng hạt được đo với thước kẹp có đơn vị đo micromet. Sau đó, hạt được

8

trồng vào chậu đất và tưới nước hàng ngày, tối thiểu là sáu tháng để đánh giá khả năng

phát triển hạt giống và xác định loài. Để xác định các loài động vật trong các mẫu phân

thu được, nhóm tác giả đã chiết xuất DNA từ khoảng 200 mg của mẫu phân. Tổng cộng

111 mẫu phân (79,1%) từ 139 mẫu phân thu thập được phân tích trình tự DNA. Kết quả

cho thấy thành phần của phân cầy chủ yếu bao gồm hạt giống (92% các mẫu phân),

động vật gặm nhấm (6,3%), động vật nhiều chân (5,5%), cua (4,5%), côn trùng (4,5%),

chim (0,9%), ốc (0,9%), và hoa (0,9%). Các tần số xuất hiện của các mẫu phân có chứa

hạt của cầy không thay đổi đáng kể trong những tháng khác nhau (χ2 = 10.0, P> 0,05).

Hạt giống thuộc 30 loài thực vật khác nhau đã được xác định. Trong nghiên cứu này,

tác giả đã chứng minh rằng cầy vòi hương có thể nuốt và phát tán các loại hạt giống có

kích thước lớn không tương xứng với khối lượng cơ thể của chúng và do đó đóng một

vai trò quan trọng phát tán xa cho các loại hạt giống trong rừng. Do vậy, chúng ta cần

phải bảo tồn loài này để duy trì sự ổn định của hệ sinh thái, đặc biệt là ở các khu vực

rừng bị suy thoái, khó tái sinh [28].

Về thực trạng của loài trong tự nhiên, nhiều công bố cho thấy cầy vòi hương bị

săn bắt và giảm số lượng đáng kể. Theo Shepherd (2012); Marcus et al. (2012); Chua

et al. (2012) có đủ bằng chứng để chỉ ra rằng trên phạm vi rộng lớn loài này là một

trong những loài phổ biến nhất đã bị săn bắt ở Phillipines, Myanmar, Thái Lan, Việt

Nam, Lào [2, 8, 29]. Các khảo sát cho thấy rằng gần đây đã giảm số lượng của loài này

ở khu vực Đông Nam Á. Iseborn (2012) đã xác định độ phong phú của cầy vòi hương

ở khu bảo tồn động vật hoang dã Phnom Samkos và Khu bảo tồn Veun Sai-Siem Pang-

Campuchia, công bố chắc chắn gặp phải P. hermaphroditus ở cả hai nơi, nhưng mật độ

thấp [1].

Một nghiên cứu khác góp phần bảo tồn loài được thực hiện bởi Nakashima et al.

(2013). Kết quả cho thấy, đối với cả cầy đực và cái, việc sử dụng không gian sống phần

lớn bị ảnh hưởng bởi sự phân bố sẵn có của các loại quả. Vào các mùa không có trái

cây trong rừng, cầy vòi hương thường đến các vườn trồng cây ăn quả ở bên ngoài khu

vực phân bố. Mặt khác, những khu vực sẵn có chỗ ngủ cho cầy vào ban ngày như cây

cọ hoặc dương xỉ cũng có ảnh hưởng đến mô hình phân bố khác nhau của cầy vòi hương.

Nghiên cứu chỉ ra rằng, độ sẵn có của trái cây và các vị trí ngủ thích hợp có thể là yếu

9

tố quan trọng cho sự sống sót của cầy vòi hương và nên cần được chú ý bảo tồn hoặc

khôi phục để bảo tồn cầy vòi hương trong tự nhiên [30].

1.2.1.2. Nghiên cứu về đặc điểm giải phẫu, sinh lí - sinh hóa máu

Về đặc điểm giải phẫu, Guraya (1979; 1981) đã mô tả đặc điểm hình thái học và

cấu tạo của buồng trứng cầy vòi hương [31, 32]. Rung-ruangkijkrai et al. (2006) mô tả

đặc điểm cấu tạo hệ tuần hoàn, trong đó có mô hình động mạch vành và cung động

mạch chủ của cầy vòi hương [33]. Tim của cầy vòi hương có hình bầu dục và tương tự

tim của mèo. Mô hình phân nhánh của động mạch vành được gọi là song phương loại

vành tương tự như của ngựa, lợn, người và khỉ. Patil et al. (2016) đã nghiên cứu cấu tạo

giải phẫu hệ bài tiết của cầy vòi hương [34]. Nghiên cứu sử dụng thận của một cá thể

cầy vòi hương trưởng thành bị bắt ở miền nam Ấn Độ. Các tác giả đã cân khối lượng

và đo kích thước của thận, sau đó chụp ảnh để kiểm tra mạng lưới mao dẫn hiện diện

trên bề mặt. Kết quả cho thấy hệ tiết niệu của P. hermaphroditus cũng giống như các

loài động vật có vú khác bao gồm thận, niệu quản, bàng quang và niệu đạo. Thận cấu

tạo đơn giản, hình hạt đậu và được bao phủ bởi một màng collagen mỏng. Thận nằm ở

thành sau của khoang bụng, bên dưới phúc mạc và gần như tương đương nhau về kích

thước và khối lượng. Thận phải có khối lượng 6,19 gram với kích thước 31x19x11 mm,

thận trái nặng 6,20 gram và kích thước 29x21x12 mm. Nghiên cứu cũng đã mô tả cấu

tạo hiển vi của cấu trúc nang Bowman, hệ thống các ống lượn gần dày đặc, quai Henle

và sự hiện diện của chùm vi ống dày đặc ở bề mặt của các tế bào biểu mô cột tạo điều

kiện thuận lợi cho việc hấp thụ lại glucose, phosphate, các khoáng chất khi chất lọc đi

qua nó.

Để tìm hiểu cơ chế sản xuất hormone steroid của tinh hoàn, Sasaki et al. (2008)

đã kiểm tra các thụ thể enzyme và steroid trong tinh hoàn và tuyến đáy chậu của cầy

vòi hương [35]. Các tinh hoàn và tuyến đáy chậu thu được từ cầy vòi hương đực bị bắt

ở đảo Sumatra, Indonesia được sử dụng trong nghiên cứu này. Các mẫu mô đã được cố

định trong dịch Bouin, phần paraffin được cắt lát dày 4 µm, sau đó nhuộm hóa mô miễn

dịch bằng hematoxylin và eosin (HE). Để phát hiện sự có mặt của enzyme steroidogenic

(P450scc) và các thụ thể steroid (AR, ERα, ERβ), các lát cắt được nhuộm màu bằng

cách sử dụng phương pháp avidin-biotin peroxidase (ABC). Trong tất cả các mẫu, chỉ

10

trong tế bào chất của tế bào Leydig, các phản ứng miễn dịch cho P450scc được phát

hiện. Các nhuộm miễn dịch tích cực cho AR đã được xác định có mặt trong các tế bào

Sertoli, các tế bào Leydig, và các tế bào myoid, nhưng không có ở tế bào mầm. Ở con

trưởng thành, ERα đã được phát hiện chỉ có trong các tế bào Leydig, trong khi phản

ứng miễn dịch cho ERβ đã được ghi nhận. Trong nghiên cứu này, P450scc đã được phát

hiện trong các tế bào Leydig của cầy vòi hương. P450scc là chất chủ yếu trong con

đường tổng hợp testosterone từ cholesterol. Ở cầy vòi hương, testosterone được tổng

hợp trong các tế bào Leydig, và điều chỉnh các chức năng của các tế bào Sertoli, các tế

bào Leydig, và các tế bào myoid qua AR. Testosterone tiết ra từ tinh hoàn có thể thúc

đẩy sự bài tiết từ apocrine và tuyến bã nhờn. ERα của tinh hoàn cầy vòi hương đã được

xác định chỉ có trong các tế bào Leydig, và ERβ đã được phát hiện chỉ có trong tế bào

mầm.

Các chỉ số sinh lí, cấu trúc, hình thái các tế bào máu của cầy vòi hương đã được

nghiên cứu trên bốn cá thể cầy được nuôi ở vườn thú Khaokeaw Open Zoo, Thái Lan

[36]. Kết quả cho thấy, không có ký sinh trùng trong tất cả các mẫu máu ở cầy vòi

hương được nghiên cứu. Hồng cầu tương đối đồng đều về kích thước, đường kính trung

bình là 4,3 µm. Bạch cầu đa nhân trung tính có các hạt nhân nhỏ liên kết chặt chẽ, có

nhiều hạt, phát hiện rõ bằng kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM). Bạch cầu đa nhân

trung tính bắt màu mạnh mẽ với Sudan B đen (SBB) và peroxidase (PO) nhưng âm tính

với alpha-naphthyl acetate esterase (ANAE) và '-glucuronidase (`G). Quan sát bằng

kính hiển vi điện tử quét (SEM) đã cho thấy nhiều vi lông và một số vi lỗ trên bề mặt

tế bào bạch cầu. Bạch cầu ái toan chứa nhiều vòng hạt khúc xạ lớn màu đỏ và bắt màu

mạnh mẽ tích cực với SBB và PO, nhưng âm tính với ANAE và 'G. Bạch cầu ưa kiềm

âm tính với SBB và PO, nhưng bắt màu tích cực với ANAE và bắt màu vừa với `G. Qua

SEM, bề mặt của tế bào basophil trơn với các đường viền hạt nhỏ. Về siêu cấu trúc,

chúng chứa các hạt electron dày, nhỏ, đồng nhất và ít hơn so với nhóm bạch cầu ái toan.

Lympho bào âm tính với SBB và PO, nhưng có 2 mẫu phản ứng với ANAE và 'G. Bạch

cầu đơn nhân âm tính với SBB, PO và 'G nhưng phản ứng vừa phải với ANAE. Các hạt

bạch cầu ái toan có cấu trúc tròn, kích thước lớn là những đặc trưng của bạch cầu ở cầy

vòi hương. Kết quả của nghiên cứu là cơ sở để thực hiện các phản ứng nhuộm màu cũng

như quan sát cấu trúc hiển vi và siêu hiển vi của tế bào máu trên loài này. Tuy nhiên,

11

về chỉ số trung bình của các loại tế bào máu thì với 4 cá thể nên số liệu chưa đáng tin

cậy.

Ahmad et al. (2017) thực hiện một nghiên cứu khác về các chỉ số sinh lí, sinh

hóa máu khảo sát trên 33 cá thể cầy vòi hương được giải cứu trước khi đưa trở lại môi

trường tự nhiên ở Singapore [37]. Có sự khác biệt đáng kể theo độ tuổi (P <0,05) về

hàm lượng hemoglobin, số lượng hồng cầu, nồng độ globulin tổng số và protein huyết

thanh. Cầy vòi hương trưởng thành có các giá trị này cao hơn so với với cầy chưa trưởng

thành. Thể tích trung bình hồng cầu (MCV), alkaline phosphatase (ALP) và nồng độ

phốt pho cao hơn đáng kể (P <0,05) ở cầy non so với cầy trưởng thành. Hemoglobin,

tổng số hồng cầu (RBC) và thể tích khối tiểu cầu (PCV) của cầy trưởng thành là cao

hơn đáng kể (P <0,05) so với cầy non. Thể tích hồng cầu (MCV) của cầy non có cao

hơn giá trị so với cầy trưởng thành (P <0,05). Tuy nhiên, ở nghiên cứu này, độ tuổi của

cầy được phỏng đoán dựa theo cân nặng và các chỉ số huyết học chưa được theo dõi

theo giới tính. Vì vậy, các đặc điểm sinh lí máu của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi

nhốt theo độ tuổi và theo giới tính cần được tiếp tục nghiên cứu; làm cơ sở cho việc

đánh giá tình trạng sức khỏe, góp phần chẩn đoán và điều trị bệnh của cầy vòi hương

trong điều kiện nuôi hiệu quả.

1.2.1.3. Nghiên cứu về tính đa dạng di truyền và phát sinh loài

Phân tích tính đa dạng di truyền của họ cầy (Viverridae), phát sinh loài bộ ăn thịt

(Carnivora) lần đầu tiên được khám phá bởi Yu và Zhang (2005) bằng cách giải trình

tự DNA [38]. Nhóm tác giả đã sử dụng hai gen ti thể đầy đủ (ND2 và ND4) và gen nhân

beta-fibrinogen intron 7. Việc kết hợp (ND5, cytb, 12S, và 16SrRNA) và hai gen nhân

(IRBP và TTR) chuỗi locus cũng được kết hợp để tái tạo lại phát sinh loài của 14 loài

thuộc họ cầy có quan hệ họ hàng.

Patou et al. (2008) đã tiến hành giải mã trình tự của hai gen ti thể (Cytochrome

b và ND2) và hai gen nhân (một đoạn không mã hóa: intron 7 của β-frinogen và một

đoạn mã hóa: exon 1 của IRBP). Nhóm tác giả kết luận, việc bổ sung các dữ liệu DNA

nhân, đặc biệt là các β -fibrinogen intron 7, đóng vai trò trọng yếu trong giải thích việc

phát sinh loài của hai giống Hemigalinae và Paradoxurinae [39].

12

Tiếp tục nghiên cứu về chủng loại phát sinh loài, Patou et al. (2010) sử dụng dữ

liệu phân tử, các đặc điểm của răng và hàm để nghiên cứu sự đa dạng di truyền và hình

thái của các loài trong chi Paradoxurus; tập trung vào loài cầy bản địa Paradoxurus

hermaphroditus (Carnivora, Viverridae) [40]. Veron et al. (2015) đã nghiên cứu sự đa

dạng di truyền của chi Paradoxurus bằng cách sử dụng hai gen ti thể (cytochrome b,

khu vực kiểm soát CR) và một gen nhân (intron 7 của β-fibrinogen) đánh dấu [41].

Nhóm tác giả đã sử dụng mẫu từ 85 cá thể thuộc loài P. hermaphroditus (bao gồm 20

mẫu vật bảo tàng) và một đại diện của mỗi loài khác trong chi Paradoxurus:

Paradoxurus jerdoni và Paradoxurus zeylonensis để phân tích trình tự DNA. Mặt khác,

nhóm tác giả kiểm tra đặc điểm hàm và răng từ các mẫu vật; so sánh sự biến đổi về hình

thái với các dữ liệu phân tử. Phân tích phát sinh loài cho thấy rằng P. hermaphroditus

là cận ngành. Nhóm tác giả nhận thấy có ba dòng phân phối chính: (1) Ấn Độ, phía nam

Trung Quốc, đảo Hải Nam và khu vực Đông Dương; (2) ở bán đảo Malaysia, Java,

Sumatra; và (3) ở Borneo, Philippines và quần đảo Mentawai. Quan sát hình thái học

cũng tương đồng với ba dòng phân tử. Theo kết quả nghiên cứu này thì cầy vòi hương

ở Việt Nam nằm trong nhánh (1), theo đề nghị thuộc loài: P. hermaproditus (Indian

palm civet).

Một số nghiên cứu khác liên quan đến khả năng sản xuất “cà phê chồn” của cầy

vòi hương cũng được chú ý. Cầy vòi hương tiêu hóa trái cà phê và thải ra hạt cà phê,

nông dân thu thập, rửa, rang và đã một trở thành một thức uống đặc biệt [42]. Quá trình

lên men tự nhiên xảy ra trong hệ tiêu hóa của cầy vòi hương đã làm ra sự khác biệt. Sản

xuất cà phê chồn bắt đầu khi các hạt cà phê được thu thập trong tự nhiên từ phân của

những con cầy, như là một phương tiện để đánh dấu lãnh thổ của mình. Sau khi qua

đường tiêu hóa của cầy vòi hương, hạt cà phê giữ nguyên hình dạng và còn bao phủ một

ít thịt quả. Sau khi được thu gom, rửa kỹ lưỡng và loại bỏ các phần bao bên ngoài; đồng

thời quá trình rang xay sẽ loại bỏ những vi khuẩn còn sót. Marcone (2004) đã xem xét

các quá trình trong đó các axit trong dạ dày của cầy và các enzyme tiêu hóa bao phủ và

lên men hạt cà phê [23]. Nghiên cứu cho thấy enzyme tiêu hóa nội sinh của cầy vòi

hương thấm vào hạt cà phê. Các enzyme phân giải protein phá vỡ các protein của cà

phê, tạo ra peptide ngắn hơn và nhiều axit amin tự do. Các protein này cũng được tham

gia vào các phản ứng không enzyme về sau bằng cách rang. Một phân tích bằng mũi

13

điện tử về các hợp chất dễ bay hơi có vai trò trong tạo hương vị của cà phê. Kết quả cho

thấy rằng có sự khác biệt đáng kể về hương và vị giữa cà phê chồn và cà phê thường.

Nhóm tác giả kết luận rằng, enzyme trong hệ tiêu hóa cầy đã làm cấu trúc protein bị

thay đổi, làm giảm vị đắng và có khả năng ảnh hưởng đến hương vị [23].

Tóm lại, các nghiên cứu về cầy vòi hương trên thế giới chủ yếu công bố các đặc

điểm sinh học của loài này trong điều kiện tự nhiên. Các nghiên cứu tập trung vào các

tập tính, đặc điểm sinh lí máu của loài này trong tự nhiên, về tính đa dạng di truyền và

sự phát sinh loài. Như vậy, chưa có công bố nào về đặc điểm sinh học (sinh trưởng, sinh

sản, chu kì động dục), cũng như việc sử dụng kích dục tố nhằm tăng khả năng sinh sản

của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Các nghiên cứu trong nước chủ yếu đề cập đến lợi ích kinh tế của loài và một số

đặc điểm sinh học trong tự nhiên. Cầy vòi hương là một loài có giá trị kinh tế cao, thịt

thơm ngon. Tuyến xạ (xạ hương) của cầy vòi hương được sử dụng trong sản xuất mỹ

phẩm cao cấp. Xạ của cầy vòi hương cũng là một vị thuốc vô cùng quý trong y học cổ

truyền và được sử dụng như xạ hương của hươu xạ [7]. Đây cũng là loài có khả năng

nhân nuôi tốt cùng với các loài thú khác thuộc họ cầy (Viverridae) ở Việt Nam [22].

Cầy vòi hương thuộc nhóm động vật ăn tạp, có tập tính kiếm ăn vào ban đêm.

Thức ăn chủ yếu là những loại quả chín của các loài cây mọc trong tự nhiên và các loài

gặm nhấm, côn trùng mà chúng săn bắt được [7, 11]. Có khá nhiều tài liệu đề cập đến

sinh học, sinh thái và tập tính của cầy vòi hương trong tự nhiên. Đây chính là thông tin

cơ sở để xây dựng chuồng trại, chăm sóc và nuôi dưỡng trong điều kiện nuôi nhốt. Cầy

vòi hương là loài thích trái cây mềm và chúng lựa chọn rất kỹ các trái cây để ăn. Chúng

cũng ăn quả cà phê song chỉ chọn những quả chín mọng, có vị ngọt, hương thơm. Về

phía thức ăn động vật, cầy vòi hương thường ăn những côn trùng như rắn, bọ hung, giun

đất, chuột, trứng chim. Về thức ăn có nguồn gốc thực vật, chúng ăn những loại trái cây

chín có vị ngọt như nhãn, mít, chuối, đu đủ [7, 11].

Cầy vòi hương có kiểu hình bộ máy tiêu hóa của loài ăn tạp: dạ dày phát triển,

gồm có 4 vùng: vùng thượng vị, vùng đường cong lớn, vùng trung vị và vùng hạ vị.

Đây là kiểu hình vừa tiêu hóa thức ăn tinh vừa tiêu hóa thức ăn xanh tùy theo khẩu

14

phần. Trong điều kiện hoang dã, nguồn thức ăn không ổn định về chất lượng và số

lượng, nên bộ máy tiêu hóa đa dạng là một lợi thế. Với tập tính kiếm ăn vào ban đêm,

thường là đầu hôm đến giữa đêm nên thời gian tiêu hóa thức ăn chủ yếu vào ban đêm,

giảm hoạt động vào ban ngày. Chính vì thế, nếu thuần hóa và chăn nuôi dạng sinh thái,

nên cho ăn bữa ăn chính vào buổi chiều tối, tốt nhất là sau 6 giờ chiều nhằm không làm

thay đổi tập tính vốn có của loài này [11].

Roberton (2007) đã nghiên cứu đặc điểm sinh học của cầy vòi hương hoang dã

tại Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức quan sát một số đặc điểm

sinh học, đánh giá thực trạng, phân bố của loài và đưa ra những cảnh báo về việc bảo

tồn loài này trong điều kiện hoang dã [43]. Đặng Huy Huỳnh và cs. (2010) đã mô tả khá

chi tiết về đặc điểm phân bố và đặc điểm sinh học của loài này ở Việt Nam. Theo Đặng

Huy Huỳnh, cầy vòi hương còn có các tên gọi khác là cầy vòi đen, cầy vòi đốm, chồn

ngận hương, chồn mướp; hên moóng meo (Tày); nhển moòng, nhển củn (Thái); cui

vằng (Mường); đèn bảo minh, đền tây diền (Dao). Cầy vòi hương có tuyến xạ phát triển

và thường tỏa mùi thơm khi hoạt động. Tuyến xạ của cầy vòi hương nằm sâu phía trong

mông, phân bố hai bên hậu môn mà không lộ ra ngoài; khác với cầy hương (Viverricula

india), tuyến xạ của con đực nằm ngay trước tinh hoàn, lộ ra ngoài [7].

Tập tính của cầy vòi hương (P. hermaphroditus) cơ bản gần giống cầy vòi mốc

(Paguma larvata). Cầy vòi hương chủ yếu sống ở rừng, chúng sống cả ở rừng nguyên

sinh và rừng thứ sinh. Cầy vòi hương thường trú ẩn trong các bọng và tán cây, sinh hoạt

kiếm ăn vào ban đêm, ban ngày ngủ. Loài này thường hoạt động chủ yếu trên cây ít khi

xuống đất. Cầy sống đơn, chỉ ghép đôi trong mùa sinh sản [7]. Cầy vòi hương thuộc bộ

thú ăn thịt nhưng loài này thường ăn thực vật nhiều hơn động vật. Trong điều kiện nuôi

nhốt, cầy ăn tạp, kể cả rau, thịt, cá, cơm, canh [7, 11].

Cầy vòi hương động dục vào các tháng 2 – 4, đẻ con vào tháng 5 – 6, mỗi lứa 2

– 4 con. Thời gian chửa 60 – 63 ngày. Tuổi thọ của cầy vòi hương trong điều kiện tự

nhiên khoảng 14 năm. Trong điều kiện nuôi, có cá thể sống tới 22 năm 5 tháng [7]. Cầy

vòi hương sống ở rừng cây gỗ núi đất, núi đá và cả rừng ngập nước ven biển hay rừng

tràm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Loài này không đào hang ở và không có chỗ ở cố

định [7, 22].

15

Tóm lại, các nghiên cứu trong nước về cầy vòi hương còn khá ít, chủ yếu là công

bố về đặc điểm phân loại và phân bố của loài này trong tự nhiên, chưa có những nghiên

cứu mang tính hệ thống về các đặc điểm sinh học của cầy vòi hương trong điều kiện

nuôi, các kỹ thuật đánh giá về chu kì sinh sản và sử dụng kích dục tố nhằm tăng số

lượng đàn trong điều kiên nuôi nhốt.

1.3. Tổng quan về PMSG và HCG

1.3.1. Cấu trúc, chức năng của PMSG

1.3.1.1. Nguồn gốc và cấu trúc của PMSG (eCG)

Equine Chorionic Gonadotropin (eCG) là một hormone được sản xuất trong

màng đệm sinh dục của ngựa cái mang thai, thường được gọi là huyết thanh ngựa chửa

(Pregnant Mare's Serum Gonadotropin -PMSG). PMSG tiết ra từ nội mạc tử cung của

ngựa cái từ ngày thứ 40 đến ngày 130 thai kỳ, có bản chất là một kích thích tố

glycoprotein, gồm có hai tiểu đơn vị là alpha và beta. Các tiểu đơn vị alpha là chung

cho tất cả các hormone glycoprotein (LH, FSH, TSH). Các tiểu đơn vị beta là đặc trưng

theo loài [44] .

Trong những nghiên cứu đầu tiên, huyết thanh từ những con ngựa mang thai

được tiêm vào động vật thí nghiệm đã kích thích sự tăng trưởng buồng trứng. Thành

phần hoạt tính sinh học của kích thích tố này được đặt tên là gonadotropin huyết thanh

mang thai (PMSG) để phản ánh sự xuất hiện trong tháng thứ 2-5 của thai kỳ. Một thời

gian sau đó, chất đóng vai trò kích thích buồng trứng này đã được xác định có mặt trong

tử cung ngựa, dẫn đến gợi ý rằng nó có nguồn gốc từ bào thai [44]. Các nghiên cứu vào

đầu những năm 1970 đã xác nhận rằng, nguồn gốc của hormone này là từ các tế bào

chorionic bào thai xâm nhập biểu mô tử cung để tạo thành các lớp nội mạc tử cung.

Phát hiện này đã dẫn đến việc đổi tên hormone PMSG thành gonadotropin chorionic

(eCG) [44]. Phân tích protein đã chứng minh rằng eCG được tổng hợp và tiết ra tương

tự như gonadotropin tuyến yên (FSH, LH), nó được chuyển hóa sau khi được glycosyl

hóa [45]. Giải trình tự axit amin cho thấy cấu trúc chính của eCGß giống hệt với LHß.

Cả hai hiển thị một phần mở rộng đầu cuối carboxyl của 30 axit amin, và đuôi này được

glycosyl hóa mạnh (Hình 1.1). Các nghiên cứu sau đó đã chứng minh rằng chúng là hai

sản phẩm của một gen đơn [46]. Sự glycosyl hóa đã phân biệt chúng, vì chuỗi LH được

16

bổ sung với oligosaccharides sialyl hóa và sulfat, trong khi các dạng sialyl hóa chiếm

ưu thế trong phân tử eCGß glycosyl hoá mạnh hơn [47]. Sự khác biệt này, đặc biệt là

sự gắn kết của axit sialic, dẫn tới một trong những tính chất quan trọng nhất là thời gian

bán rã sinh học kéo dài của PMSG, dài hơn sáu lần so với LH [48].

Màng đệm bắt đầu phát triển trong giai đoạn phôi sớm trong tuần thứ 7 của thai

kỳ và bắt đầu xâm nhập nội mạc tử cung để tạo thành các ống nội mạc tử cung. Vào

thời gian này, eCG có thể được phát hiện trong huyết thanh của ngựa. Trong một mô

hình chung, đỉnh eCG tồn tại ở ngày thứ 70-80 của thai kỳ [44].

Hình 1. 1. Cấu trúc tuyến tính của các gonadotropin ở động vật có vú [44].

1.3.1.2. Vai trò của eCG trong ngựa cái

Các thụ thể LH của ngựa cho thấy tương đồng cao với các thụ thể LH ở động vật

có vú khác, cũng như khả năng liên kết LH từ các loài khác [49]. Trong khi eCG tương

tác độc quyền với thụ thể LH ở ngựa, nó chỉ hiển thị một phần nhỏ hoạt động như LH

[50]. Tuy nhiên, eCG liên kết với hoàng thể ngựa trong thời gian mang thai sớm, có thể

cung cấp hỗ trợ nội tiết tố để duy trì thai kỳ. Vào khoảng ngày thứ 40 của thai kỳ, các

cấu trúc hoàng thể xuất hiện trong buồng trứng, trùng hợp với sự bắt đầu bài tiết eCG

từ các ống nội mạc tử cung. Đây có thể là kết quả của sự rụng trứng bổ sung, vì sự khởi

đầu của chúng đã được chứng minh là đi kèm với sự xuất hiện của noãn bào trong buồng

trứng và có sự gia tăng đồng thời progesterone trong máu. Mối quan hệ thời gian giữa

hai sự kiện này cho thấy eCG có thể gây ra sự rụng trứng bổ sung và hỗ trợ nội tiết tố

đủ để tiếp tục mang thai [44]. Khi sự sản xuất eCG giảm đáng kể kéo theo sự gia tăng

đồng thời tần suất hư thai trong thời gian mang thai sớm [51].

17

1.3.1.3. Hoạt động sinh học của eCG

Như đã nói ở trên, eCG có thể hoạt động như hormone LH ở ngựa, mặc dù ít

mạnh hơn eLH [50]. Vai trò đáng chú ý của eCG đã được khai thác trong nhiều bối

cảnh thử nghiệm và thương mại, là khả năng thể hiện hoạt động hormone kích thích

nang trứng (FSH) ở các loài khác ngựa. Cơ sở sinh học cho hiện tượng này vẫn chưa

được hiểu đầy đủ, giải thích chủ yếu dựa trên hoạt động kép của yếu tố quyết định cấu

trúc của eCG hoặc của các thụ thể LH và FSH ở các loài không phải là ngựa.

Một trong những đặc điểm của eCG là độ dài bán rã của nó. Khi tiêm vào chuột,

eCG hiển thị thời gian bán rã vượt quá 5 giờ; trong khi ở cừu, giá trị này là 21 giờ. Ở

gia súc, thời gian bán rã được ước tính là 45,6 giờ [44]. Cơ sở cho sự kéo dài này là do

sự glycosyl hóa mạnh, bao gồm khoảng 45% trọng lượng phân tử của nó [52]. Cả hai

chuỗi được glycosyl hóa tại các liên kết asparagine (N-glycosyl hoá) và serine-threonine

(O-glycosyl hóa) và phần mở rộng C-terminal của chuỗi β được glycosyl hóa mạnh,

trong đó các chuỗi carbohydrate chứa axit sialic, tạo ra thời gian bán rã dài [48]. Loại

bỏ axit sialic khỏi eCG làm giảm thời gian bán rã, và khi loại bỏ 80% thì giảm thời gian

bán rã xuống dưới 60 phút [48]. Tuy nhiên, mô hình glycosyl hóa eCG không chỉ quyết

định sự tồn tại của nó trong huyết thanh mà còn hoạt động sinh học của nó trong mô

đích [48, 53]. Vì cấu trúc có khả năng liên kết với các thụ thể, đặc biệt trong thụ thể của

FSH, là cơ sở cho hoạt động kép (vai trò như LH và FSH) của eCG. Hiệu ứng này được

tăng cường bởi thời gian bán rã kéo dài của nó.

1.3.1.4. Ứng dụng của PMSG

PMSG thường được sử dụng phối hợp với progestogen để gây rụng trứng trong

chăn nuôi trước khi thụ tinh nhân tạo. PMSG có xu hướng được sử dụng rộng rãi vì nó

có thời gian bán rã dài. Ngoài ra, nó còn kích thích sự trưởng thành của ống sinh tinh

và sự sinh tinh ở thú đực [44].

Việc sử dụng PMSG phổ biến nhất là khai thác hoạt động giống FSH của nó

trong việc kích thích động dục ở động vật chưa trưởng thành. Khi tuổi thành thục của

lợn có thể thay đổi, nó đã trở thành tiêu chuẩn cho ngành công nghiệp thực hành để thúc

đẩy tuổi thành thục ở lợn với sự kết hợp PMSG liều thấp (400-500 IU) để gây ra sự

phát triển nang trứng và 100-200 IU HCG để gây rụng trứng. Điều trị ở lợn chưa trưởng

18

thành dẫn đến biểu hiện của động dục ở 90% trong vòng 6 ngày [54]. Điều trị bằng

PMSG ít được sử dụng hơn để gây dậy thì ở động vật nhai lại, mặc dù nó đã được sử

dụng thành công trong cừu [55].

Trong quá trình chuyển phôi, PMSG được sử dụng để kích thích buồng trứng ở

động vật cho phôi. Thời gian bán rã dài của nó tạo ra lợi thế của sự siêu nạp bằng

phương pháp tiêm đơn, vì nó có khuynh hướng kích thích buồng trứng, dẫn đến tạo

nhiều nang và năng suất của phôi khả thi rất cao [56]. Tuy nhiên, ở một số trường hợp,

chất lượng phôi giảm cũng đã được quy cho hoạt động LH của PMSG, vì nó có thể gây

ra sự tái phát sớm của giảm phân trong tế bào trứng [57]. Một chiến lược được sử dụng

để giải quyết những vấn đề này là quản lý antiserum PMSG tại một thời điểm sau khi

điều trị bằng PMSG [58]. Điều trị với antiserum sau 60 giờ sau khi tiêm PMSG tăng

gấp đôi cả số lượng trứng rụng và số lượng phôi chuyển giao [58]. Các biến thể gần đây

về chủ đề siêu kích thích đã bao gồm thay thế FSH tuyến yên với liều thấp PMSG (200

IU) vào hai ngày cuối cùng của giao thức siêu kích thích [59]. Cách tiếp cận này đã

chứng tỏ có lợi trong việc tăng số lượng phôi chuyển giao.

Việc sử dụng PMSG trong các giao thức đồng bộ hóa đã cho phép cố định thời

gian thụ tinh ở bò [60], cừu [61] và gây động dục đồng pha ở bò cái nhận phôi [62]. Đối

với thụ tinh vào thời gian cố định, việc điều trị dựa trên liều thấp PMSG (300 IU) sau

khi tiêm prostaglandin (PGF2a) hoặc progesterone để đồng bộ hóa đã được áp dụng cho

bò Zebu (Bos indicus) với kết quả khác nhau [63]. Sử dụng PMSG tỏ ra thuận lợi trong

việc tăng tỷ lệ mang thai trong thời gian chuyển phôi cố định, độc lập với giao thức

được sử dụng để gây động dục đồng pha [62].

Như đã mô tả ở trên, PMSG hiển thị cả hoạt động của FSH và LH, và được biết

rằng cả hai kích thích tố này là cần thiết cho sự trưởng thành và rụng trứng của nang

trứng ở động vật có vú. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, điều trị này làm tăng tần suất

rụng trứng và dẫn đến progesterone tuần hoàn tăng cao. Nhưng ở một số nghiên cứu

khác, tăng progesterone không tương quan với tăng tỷ lệ mang thai [64]. Tuy nhiên,

trong một số giao thức, sự tăng tổng hợp progesterone do PMSG gây ra đã dẫn đến

thành công trong thai kỳ được cải thiện [65]. Hiện nay, cơ chế duy nhất được biết đến

19

để cải thiện khả năng sinh sản với điều trị liều thấp PMSG là sự tăng cường chức năng

của hoàng thể.

1.3.2. Cấu trúc, chức năng của HCG

1.3.2.1. Nguồn gốc và cấu trúc của HCG

Human chorionic gonadotropin (HCG) là một nội tiết tố glycoprotein được sản

xuất trong thời kỳ mang thai bởi phôi thai đang phát triển và sau này bởi hợp bào

(syncytiotrophoblast, một phần của nhau thai). Vai trò của nó là để ngăn chặn sự tiêu

hủy thể vàng (corpus luteum) của buồng trứng và do đó duy trì tiết progesterone, quan

trọng đối với bào thai [66]. HCG là một glycoprotein gồm 244 axit amin có khối lượng

phân tử của 36,7 kDa. Kích thước của nó là 75 × 35 × 30 A0 (7,5 × 3,5 × 3 nm), bao

gồm tiểu đơn vị β có 145 amino acid và tiểu đơn vị α có 92 amino acid. Có 2

oligosaccharides liên kết với N trên tiểu đơn vị α của HCG và 2 oligosaccharides liên

kết N trên tiểu đơn vị beta của HCG. Ngoài ra còn có 4 oligosaccharides liên kết O trên

Hình 1. 2. Cấu trúc của HCG [68]

vùng peptide C-terminal của tiểu đơn vị β của HCG (Hình 1.2) [67].

1.3.2.2. Chức năng của HCG

HCG có nhiều chức năng: thúc đẩy sản xuất progesterone bởi các tế bào luteal

corpus; thúc đẩy sự hình thành mạch máu trong mạch máu tử cung; thúc đẩy sự hợp

nhất của tế bào bạch cầu và sự biệt hoá để tạo ra các tế bào lympho bào; gây cản trở bất

kỳ hoạt động miễn dịch hoặc đại thực bào nào của mẹ trên các tế bào nhau thai xâm

20

nhập; gây tăng trưởng tử cung song song với sự phát triển của bào thai; ngăn chặn bất

kỳ sự co thắt tử cung trong quá trình mang thai; gây ra sự tăng trưởng và sự biệt hoá

của dây rốn; báo hiệu nội mạc tử cung về việc cấy ghép; hoạt động trên thụ thể trong

não của mẹ gây ra chứng tăng sinh, và dường như thúc đẩy sự tăng trưởng của các cơ

quan bào thai trong thai kỳ [66].

HCG tương tác với các thụ thể LHCG và thúc đẩy sự duy trì thể vàng trong thời

gian đầu của thai kỳ, để tiết ra hormone progesterone. Progesterone làm dày thêm hệ

thống mạch máu và mao mạch trên màng tử cung giúp duy trì sự phát triển của bào thai.

HCG có thể đẩy lùi các tế bào miễn dịch của thú mẹ, bảo vệ bào thai trong ba tháng đầu

tiên [67].

HCG có tác dụng giống một hormone luteinizing mạnh (LH), có hiệu lực trong

kéo dài thời gian tồn tại của hoàng thể (CL). HCG làm tăng tổng hợp progesterone, gây

rụng trứng trong suốt chu kỳ động dục, thúc đẩy sự hình thành của lutea corpora khi áp

dụng trong giai đoạn hoàng thể sớm; làm thay đổi động lực sóng nang, tăng tần số của

chu kỳ nang trội. Theo Rensis et al. (2010), do HCG tác động lên các tế bào buồng

trứng độc lập với hormone của tuyến yên và tác động của nó kéo dài lâu hơn so với LH

sản xuất nội sinh; nên việc sử dụng HCG lợi thế hơn gonadotropin-releasing hormone

(GnRH) và có thể được nhắm mục tiêu vào quần thể vật nuôi [69].

Nghiên cứu cho thấy có ít nhất 4 biến thể của HCG, mỗi loại được tạo ra bởi các

tế bào khác nhau với các chức năng sinh học riêng biệt. Tất cả các phân tử đều có

chung chuỗi amino acid HCGβ. Đây là các phân tử thúc đẩy sản xuất progesterone bởi

các tế bào hoàng thể buồng trứng và có nhiều chức năng sinh học khác nhau [66, 67].

Các chức năng HCG tăng đường huyết để thúc đẩy sự phát triển của các tế bào tế bào

lympho bào và sự xâm nhập của các tế bào này; xảy ra trong sự cấy ghép của thai kỳ;

sự tăng trưởng và xâm lấn của các tế bào ung thư.

1.3.3. Tình hình sử dụng kích dục tố PMSG và HCG trong hỗ trợ sinh sản

Các nghiên cứu sử dụng điều trị bằng gonadotrophin huyết thanh của ngựa mang

thai (PMSG) và gonadotropin màng đệm ở người (HCG) hoặc một mình hoặc kết hợp

đã được đánh giá dựa trên trọng lượng buồng trứng và tử cung; sự phát triển nang trứng,

rụng trứng và số lượng trứng rụng đã được tiến hành từ rất sớm. Lunn và Bell (1968)

21

đã công bố sự kết hợp cả PMSG và HCG có khả năng gây rụng trứng. Sự kiện này có

liên quan với sự kích thích tử cung nhưng thường xảy ra trong trường hợp không đánh

dấu sự gia tăng trọng lượng buồng trứng hoặc xuất huyết nang. Tác dụng của PMSG và

HCG gây rụng trứng trên một phạm vi rộng của cả hai liều lượng kích thích tố. Với liều

thấp của PMSG số lượng trứng tạo ra là độc lập với liều HCG.

Corbin và McCabe (2002) đã kiểm tra phản ứng của các nhóm chuột khác nhau

để đề xuất phương pháp điều trị nội tiết tố gây siêu rụng trứng. Chuột cái chưa trưởng

thành Sprague Dawley (SD), FBN1, và F344 (30 đến 35 ngày tuổi) đã được sử dụng

cho nghiên cứu này. Động vật từ mỗi dòng được phân thành bốn nhóm của phương

pháp điều trị nội tiết tố như sau: 1) 30 IU PMSG, sau 52 giờ với 25 IU HCG ; 2) 15 IU

PMSG, sau 52 giờ với 7,5 IU HCG; 3) 1.0 IU FSH mỗi ngày qua kim tiêm Alzet trong

60 giờ; 4) 1.0 IU FSH và 54 giờ tiếp theo là 10 mg LH. Hiệu quả của phương pháp điều

trị nội tiết tố được đánh giá qua các tiêu chí: tỉ lệ giao phối, tỉ lệ rụng trứng, tổng số

trứng rụng ở mỗi con cái và tỉ lệ thụ tinh. Nghiên cứu đã chứng minh rằng, điều trị bằng

PMSG + HCG là một phương pháp hiệu quả gây phản ứng siêu rụng trứng ở hầu hết

các tiêu chí kiểm tra. Kết quả của nhóm tác giả cũng cho thấy, các chủng chuột khác

nhau có nhiều mức độ nhạy cảm và phản ứng với các giao thức khác nhau của hormone

siêu rụng trứng [12]. Đây chính là cơ sở khoa học để thực hiện nghiên cứu nhằm xác

định liều lượng sử dụng kích dục tố thích hợp trên các đối tượng khác, trong đó có cầy

vòi hương.

Tương tự hướng nghiên cứu này, nhằm đánh giá hiệu quả của việc sử dụng

PMSG thay thế cho FSH, Popova et al. (2002) đã thực hiện các giao thức gây siêu rụng

trứng bằng cách sử dụng tiêm đơn PMSG hoặc FSH được so sánh ở chuột Sprague-

Dawley (SD) chưa trưởng thành. Các tiêu chí theo dõi bao gồm: tổng số trứng thu được,

tỉ lệ thụ tinh, phôi phát triển in vitro, độ nhạy của các hợp tử trong việc đưa DNA ngoại

lai vào nhân và sự phát triển trong cơ thể của chúng sau khi cấy ghép vào ống dẫn trứng

của cá thể nhận. Những con chuột SD cái được kích thích bằng 15 IU PMSG hoặc FSH

10 mg sau khi tiêm HCG ở liều 20 và 30 IU cho mỗi cá thể. Kết quả của nghiên cứu

này chứng minh rằng việc điều trị trên chuột SD chưa trưởng thành của PMSG có hiệu

quả tương đương như điều trị bằng FSH, và do đó thích hợp hơn cho công nghệ chuột

chuyển gen do chi phí thấp hơn và dễ xử lý hơn [70].

22

Để xác định liều lượng điều trị nhằm thực hiện tối ưu hóa siêu rụng trứng ở

chuột, Cornejo-Corte et al. (2006) đã tiến hành nghiên cứu nhằm sản xuất một số lượng

lớn các phôi có chất lượng tốt phù hợp để phát triển các tế bào gốc phôi chuột (RES).

Nhóm tác giả đánh giá động học rụng trứng của ba chủng chuột: Wistar, Fisher và

ACI/N. Động vật thí nghiệm được điều trị bằng 50 IU PMSG, và 50 IU HCG sau 50

giờ. Tiếp theo, nhóm tác giả đánh giá các đường cong đáp ứng liều của PMSG và HCG

ở chuột Wistar để có được số lượng cao nhất của phôi. Các thông số đánh giá cho khả

năng siêu rụng trứng là: tỉ lệ phần trăm của chuột cái đã giao phối, tỉ lệ chuột cái mang

thai và số lượng trung bình của phôi thu được trên mỗi con. Kết quả của những thí

nghiệm chỉ ra rằng sự kết hợp liều tốt nhất là 50IU cho mỗi loại hormone. Thí nghiệm

sau đó, chuột Wistar được thiết kế để thử nghiệm mà trong bốn phương pháp điều trị

nội tiết tố kết hợp (30/30, 30/50, 50/30, 50/50 IU PMSG/HCG) để tạo ra số lượng phôi

đạt chất lượng nhiều nhất. Chất lượng phôi được đánh giá theo các tiêu chí: phôi phát

triển đồng nhất, hình thái phôi thai, sự sống của phôi trong tử cung và phôi trong ống

nghiệm có khả năng cấy ghép. Kết quả của những thí nghiệm cho thấy 30/50 IU

PMSG/HCG là liều điều trị tạo ra chất lượng phôi tốt nhất [13]. Đây chính là cơ sở để

lựa chọn liều lượng trong điều trị đối với cầy vòi hương.

Schilling và Cern (2008) đã công bố kết quả về điều trị để gây động dục ở lợn

nái hậu bị với tỉ lệ 400 IU PMSG và 200 IU HCG. Năm thí nghiệm đã được thực hiện

tại một trang trại nuôi lợn công nghiệp Nam Tư với hơn 2.500 lợn nái giống Landrace

Thụy Điển. Có 93 đến 100% lợn được điều trị động dục 3-7 ngày sau tiêm. Trong các

động vật kiểm soát động dục không được quan sát trước 6 tháng tuổi; 33% cho thấy các

triệu chứng động dục từ 6 đến 6,5 tháng. Tỷ lệ thụ thai của động vật thí nghiệm là rất

cao: hơn 80% của các lợn nái được thụ tinh được hình thành ở chu kỳ đầu tiên gây ra

(82,1% của tất cả các loài động vật được điều trị, 76,7% đẻ sau khi điều trị sáu tháng (ở

chu kỳ đầu tiên) và 80% sau khi tiêm 5,5 tháng (ở chu kỳ thứ hai,) so với 23,3 và 40%

của nhóm đối chứng. Tác giả khẳng định, sự kết hợp PMSG và HCG có thể sử dụng

trong kích thích sinh sản ở lợn nái, tỷ lệ thụ thai cao, tổn thất sau khi sinh thấp, thời kỳ

cho con bú ngắn, tỷ lệ thụ thai cao sau khi cai sữa sớm và lợi nhuận cao hơn do có thể

gây động dục sớm, thụ tinh và đẻ đồng loạt trong các nhóm lớn hơn của vật nuôi [14].

23

Đánh giá mô tả việc sử dụng lâm sàng của HCG để cải thiện năng suất sinh sản

của bò sữa được Rensis et al. (2010) thực hiện. Nhóm tác giả mô tả những phát triển

trong việc sử dụng điều trị của HCG và nghiên cứu giải quyết những lợi ích của việc

đưa HCG trong các phát đồ gây động dục và đồng bộ hóa rụng trứng [15]. Nghiên cứu

của tác giả dựa trên kết quả về phát hiện trước đó liên quan đến phản ứng buồng trứng

khi dùng HCG để điều trị, có thể được giải thích dưới hiểu biết của những tiến bộ trong

ứng dụng lâm sàng của HCG.

Luo et al. (2011) đã kiểm tra phạm vi trọng lượng và liều lượng hormone khác

nhau để xác định các giao thức gây siêu rụng trứng cho 6 chủng chuột thường được sử

dụng trong kỹ thuật di truyền: C57BL/6N HSD, B6 (Cg) -Tyrc-2J/J, B6D2F1/HSD,

FVB/NHsd, BALB/cAnNCr, và CRL: CD1 (ICR). Chuột từ mỗi dòng được chia thành

các nhóm dựa trên trọng lượng, tương ứng với 3, 4, 5 và 6 tuần tuổi. Chuột được điều

trị bằng 5 IU PMSG và 5 IU HCG. Nhóm tác giả kết luận rằng, phản ứng để gây siêu

rụng trứng có thể được tối ưu hóa dựa trên dòng chuột, trọng lượng, và liều lượng và

thời gian tiêm hormone [71].

Ở Việt Nam, Trần Tiến Dũng (2004) đã sử dụng kết hợp hormone sinh sản

PMSG và HCG để điều trị hiện tượng chậm động dục lại sau đẻ ở lợn nái ngoại trên hai

giống Yorkshire và Landrace. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỉ lệ lợn nái động dục sau

đẻ chiếm 80%, thời gian động dục, tỉ lệ thụ thai, số con trên lứa của những con nái khỏi

bệnh đều đạt yêu cầu. Với phác đồ điều trị PMSG 3.000 đvc/nái, nếu động dục tiêm tiếp

HCG 1.000 đvc/nái cho kết quả tốt với thời gian động dục lại sau đẻ 5,8 ngày, tỉ lệ thụ

thai 91,67%, số son sinh ra trên lứa 9,8 con [72]. Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Thanh

Bình (2009) đã đánh giá ảnh hưởng của liệu pháp hormone bằng cách đặt vòng PRID

(chứa progesterone) đến khả năng điều trị rối loạn sinh sản ở bò cái sinh sản kém, kết

quả cho thấy quy trình đạt hiệu quả tốt [16]. Đỗ Văn Thu và cs. (2013) đã sử dụng kết

hợp PMSG và Prosolvin (PGF2α) để gây động dục hàng loạt kết hợp với thụ tinh nhân

tạo nhằm nâng cao năng suất và chất lượng đàn bò trên hai giống bò vàng và bò lai

Sind. Với quy trình tiêm bò hai mũi PGF2α (2 ml) cách nhau 11 ngày kết hợp tiêm

PMSG (500 IU) ở mũi thứ hai, xác định tỉ lệ thụ thai bằng phương pháp khám thai qua

trực tràng. Kết quả cho thấy rằng cho tỉ lệ động dục là 84,9%, tỉ lệ thụ thai 82,88% và

tỉ lệ đẻ đạt 93,52%. Để gây siêu bài noãn trên bò, Hoàng Nghĩa Sơn và cs. (2013) đã sử

24

dụng PMSG với liều 2500 IU để đối sánh với sử dụng FSH (200 mg). Kết quả nghiên

cứu cho thấy, số thể vàng và số phôi thu được ở nhóm điều trị bằng PMSG ít hơn so với

nhóm sử dụng FSH; tuy nhiên cao hơn so với các nghiên cứu trước đó. Nhóm tác giả

cũng chỉ ra rằng, việc kết hợp siêu âm buồng trứng để xác định giai đoạn nang trứng để

lựa chọn thời điểm và phương pháp xử lí tối ưu để kích thích bằng hormone nhằm thu

được lượng trứng và phôi tốt nhất trong phương pháp tạo trứng, phôi in vivo [18].

Nguyễn Ngọc Tấn và Bùi Ngọc Hùng (2017) đã đánh giá hiệu quả của các liệu pháp

điều trị bằng hormone khác nhau trên bò chậm gieo tinh. Kết quả của liệu pháp đặt vòng

CIDR (chứa progesterone) 7 ngày, kết hợp hormone GnGH và PGF2α để gây động dục

và rụng trứng có hiệu quả đối với bò cái sữa [17].

Tuy các liệu pháp điều trị trong mỗi nghiên cứu đều được mô tả khá chi tiết, song

nhìn chung chủ yếu được thực hiện trên nhóm vật nuôi truyền thống là lợn và bò, chưa

có nghiên cứu nào được thực hiện trên động vật hoang dã được thuần dưỡng. Mở đầu

cho hướng nghiên cứu sử dụng kích dục tố nhằm cải thiện thành tích sinh sản của động

vật hoang dã trong điều kiện nuôi nhốt, Nguyễn Thanh Bình (2015) đã đánh giá ảnh

hưởng của HCG và PMSG đến kết quả sinh sản của cầy vòi hương (Paradoxurus

hermaproditus). Kết quả cho thấy, việc sử dụng kích dục tố có cải thiện đáng kể khả

năng sinh sản của cầy vòi hương ở các chỉ tiêu số con mang thai và số con sinh ra trên

lứa. Điều này có ý nghĩa trong việc tăng số lượng cầy trong điều kiện nuôi nhốt, là cơ

sở khoa học đáng tin cậy để tiếp tục thực hiện các nghiên cứu tiếp theo đánh giá ảnh

hưởng của việc sử dụng kích dục tố trên loài này [20]. Một nghiên cứu trương tự đã

được thực hiện trên dúi mốc lớn (Rhizomys pruinosus) cũng cho thấy tăng hiệu quả sinh

sản trong điều kiện nuôi nhốt [21]. Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa được lặp lại và thực

hiện trên nhiều nghiệm thức khác nhau, tác giả cũng chưa đánh giá được những thay

đổi tập tính sinh sản (biểu hiện động dục) sau khi tiêm, sự thay đổi hormone cũng như

cấu trúc giải phẫu của tử cung, âm đạo trên động vật thí nghiệm.

Như vậy, việc sử dụng kết hợp PMSG và HCG với liều lượng và thời gian thích

hợp có tác dụng trong việc kích thích gây bài noãn, tăng cường khả năng sinh sản ở thú

cái. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ đánh giá hiệu quả việc sử dụng kích dục tố dựa trên

thành tích sinh sản, chưa có đánh giá sự thay đổi động thái hormone trước và sau điều

trị, chưa mô tả những thay đổi lâm sàng trước và sau khi tiêm kích dục tố. Mặt khác,

25

các nghiên cứu về việc sử dụng kích dục tố để cải thiện thành tích sinh sản trên động

vật hoang dã trong điều kiện nuôi nhốt còn khá khiêm tốn. Đây chính là cơ sở khoa học

và sự cần thiết cho việc nghiên cứu sử dụng PMSG và HCG trên cầy vòi hương.

1.4. Tổng quan về estrogen và progesterone

1.4.1. Cấu trúc và chức năng của estrogen

Estrogen là hormone steroid được sản xuất chủ yếu bởi buồng trứng, một số

lượng ít hơn được sản xuất bởi vỏ thượng thận, nhau thai và tinh hoàn. Estrogen giúp

kiểm soát và phát triển giới tính, bao gồm những thay đổi về thể chất liên quan đến tuổi

thành thục sinh dục. Nó cũng ảnh hưởng đến quá trình rụng trứng, cho con bú sau khi

mang thai, các tình trạng tâm lý và quá trình lão hóa. Estrogen tồn tại tự nhiên trong cơ

thể ở 3 dạng: estron (E1), 17β-estradiol (E2), và estriol (E3) (Hình 1.3). Trong đó 17β-

estradiol là estrogen được bài tiết nhiều nhất và có tác dụng sinh học mạnh nhất. Còn

estriol là estrogen yếu nhất, nó là dạng chuyển hóa của 17β-estradiol và estrone [73].

Hình 1. 3. Cấu trúc hoá học của Estron, Estradiol và Estriol

1.4.2. Cấu trúc và chức năng của progesterone

Progesterone (viết tắt là P4) là một hormone steroid nội sinh, chứa 4 vòng

hydrocacbon liền nhau, chứa gốc ceton và các nhóm chức năng oxi hoá cùng 2 nhánh

methyl (Hình 1.4). Progesterone được sản xuất bởi thể vàng, nhau thai và một phần nhỏ

bởi tuyến thượng thận; có vai trò quan trọng trong chu kỳ kinh nguyệt và duy trì phát

triển bào thai. Trong khi mang thai, progesterone cũng kích thích sự phát triển của tuyến

26

vú. Hoàng thể tổng hợp progesterone từ cholesterone, qua gan nó bị thoái hóa và biến

thành pregnandione và đào thải qua nước tiểu [73].

Hình 1. 4. Cấu trúc hoá học của progesterone

Progesterone làm phát triển và gây nhiều biến đổi trong dạ con để chuẩn bị đón

trứng thụ tinh; tạo điều kiện thuận lợi cho phôi và thai phát triển bằng cách làm cho cơ

dạ con phát triển, mềm, không co bóp; làm cho niêm mạc dạ con phát triển dày lên, các

tuyến dạ con dài ra, ngoằn ngoèo như hình ren thêu, kìm hãm hiện tượng động dục và

sự rụng trứng. Lúc mang thai nếu thiếu progesterone thì thai không phát triển được, nên

progesterone được gọi là hormone an thai. Nếu trứng không được thụ thai thì thể vàng,

nơi tiết ra progesterone sẽ thoái hóa đi, quá trình chuẩn bị để đón trứng đến làm tổ đều

ngừng lại [73].

1.4.3. Xác định con đường chuyển hoá và bài tiết hormone estrogen và

progesterone

Hormone steroid được tổng hợp bởi một loạt các mô, nổi bật nhất là tuyến thượng

thận và tuyến sinh dục. Tiền thân từ cholesterol được tổng hợp trong tế bào từ acetate,

từ các thành phần este-cholesterol trong các giọt lipid của tế bào hoặc từ sự hấp thu của

lipoprotein tỉ trọng thấp chứa cholesterol [73].

Hormone gắn phóng xạ (progesterone, estrogen, androgens, cortisol) đã được sử

dụng để xác định con đường bài tiết, thời gian bài tiết và loại chất chuyển hóa các chất

steroid trong nước tiểu và phân ở các loài vật nuôi (domestic) và không phải vật nuôi

(non-domestic). Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng steroid chuyển hóa trong gan, bài tiết

vào ruột chủ yếu là thông qua mật, một tỷ lệ nhỏ của steroid được tiết ra thông qua niêm

mạc của ruột già [74].

Con đường bài tiết có thể thay đổi đáng kể giữa các loài, cũng như giữa các

steroid trong cùng một loài. Thời gian chậm trễ (delay time) giữa steroid trong huyết

27

tương và sự xuất hiện của chúng trong các mẫu nước tiểu khá ngắn (dưới 5 giờ), nhưng

các chất chuyển hóa steroid phân có thời gian trễ đáng kể tương ứng với thời gian cần

thiết cho việc đi vào mật, ruột và trực tràng [75]. Thời gian trễ (lag time) của steroid

phân khoảng 12-24 giờ ở động vật nhai lại và khoảng 24 đến trên 48 giờ ở những động

vật tiêu hóa qua manh tràng (ngựa, lợn, tê giác, voi) [76]. Ở những loài không thuộc

động vật nhai lại, nghiên cứu về tốc độ tiêu hóa của thức ăn có thể ước tính thời gian

trễ của các chất chuyển hóa steroid qua phân. Đường đi của thức ăn ở động vật nhai lại

dài hơn thời gian di chuyển của steroid phân, vì steroid phải qua mật trước khi vào ruột.

Thời gian trễ còn bị ảnh hưởng bởi khả năng tiêu hóa của loại thức ăn và tốc độ của quá

trình tiêu hóa. Tuy nhiên, lượng steroid phóng xạ cuối cùng thải ra trong phân của cừu

ở các nhóm hạn chế hay tăng cường dinh dưỡng là tương tự [77].

Các loại sản phẩm cuối cùng chuyển hóa của steroid trong phân được xác định

bằng phương pháp sắc ký (HPLC) hoặc xét nghiệm miễn dịch (RIA hoặc ELISA).

Steroid phóng xạ 14C được đưa vào cơ thể qua con đường truyền vào tĩnh mạch. Phân

được thu thập ngay sau khi bài tiết, nước tiểu được lấy mẫu qua ống thông tiểu cố định

ở con cái và sau khi tiểu tiện tự nhiên ở con đực [78]. Kết quả nghiên cứu cho thấy các

chất steroid có chứa phóng xạ trong huyết tương kết hợp nhanh chóng và bài tiết vào

mật và nước tiểu. Ở hầu hết các loài, steroid trong phân chứa một tỉ lệ steroid tự do cao

hơn các steroid liên hợp. Việc xác định con đường, thời gian và sản phẩm bài tiết steroid

phân ngày càng được mở rộng danh sách các loài: cừu [77]; ngựa, lợn [79], khỉ đầu chó

[80], mèo nhà [81]. Về bản chất, những nghiên cứu này chỉ ra rằng estrogen trong phân

chứa chủ yếu là oestrone, oestradiol-17α và -17β. Oestrogen là sản phẩm cuối cùng của

sự trao đổi chất steroid. Như vậy, các hợp chất trong huyết tương và phân cũng tương

tự nhau. Ngược lại, progesterone được chuyển hóa mạnh mẽ trước khi đào thải qua phân

và một số nghiên cứu cho thấy rằng các chất chuyển hóa phân của nó bao gồm các chất

chuyển hóa từ 5α và 5β -pregnan (pregnaned- iones, mono và dihydroxylated pregnans)

[76].

1.4.4. Phương pháp ly trích steroid

Steroid có thể chiết xuất theo phương pháp ethanol [82, 83] hoặc methanol [84,

85]. Các mẫu phân được thu thập từ 2-3 lần mỗi tuần (12 tháng). Các mẫu trong thời

28

gian giữa thời kỳ mang thai được thu thập một lần/tuần hoặc hai tuần một lần. Các mẫu

phân tươi (5 g) được thu gom đặt vào một túi nhựa và bảo quản (-200C) cho đến khi

phân tích. Sau khi giải đông, 0,5 g được cân và được đặt trong một lọ thủy tinh có chứa

4 ml đệm chiết dung dịch (20% methanol hoặc ethanol). Mẫu được đặt trên máy lắc

trong 18 giờ ở nhiệt độ phòng. Các chất lỏng này được chiết vào một ống nghiệm và ly

tâm (400 vòng, 15 phút). Sau khi ly tâm, khoảng 1 ml dung dịch nổi được chiết vào ống

eppendorf được dán nhãn và lưu trữ đông lạnh (-200C) cho đến khi sử dụng. Phần còn

lại được đưa trở lại vào lọ thuỷ tinh và được sấy khô để xác định trọng lượng khô của

phân. Dung dịch này sẽ được sử dụng trực tiếp cho phân tích ELISA [86, 87], HPLC

[88] hoặc RIA [89]. Gần đây, phương pháp sử dụng petroleum ether cho chiết xuất

progesterone và estrogen được sử dụng [90]. Nghiên cứu cho thấy phương pháp này có

tương quan cao (r=0,923) với chiết xuất ethanol và tiết kiệm thời gian ly trích hơn.

Nhiều nghiên cứu để trả lời câu hỏi sự thay đổi chế độ ăn uống và dao động hàm

lượng nước giữa các mẫu phân có ảnh hưởng đến nồng độ steroid trong phân hay không.

Shideler et al. (1993) và Wasser et al. (1993) đã kết luận rằng việc lập chỉ mục các

steroid phân không cần thiết [80, 91]. Tuy nhiên, ở một số loài như động vật ăn thịt và

voi, việc đông khô các mẫu phân trước khi phân tích và biểu hiện nồng độ steroid trên

mỗi gram phân khô là thuận lợi [92, 93]. Hơn nữa, những thay đổi đáng kể theo mùa

trong chế độ ăn uống của động vật thả rông không ảnh hưởng đáng kể đến lượng định

lượng steroid phân [93]. Ngoài ra, việc loại bỏ chất dịch ra khỏi phân không làm thay

đổi cấu trúc steroid, vì nồng độ steroid giữa mẫu phân đông lạnh và phân lỏng có mối

tương quan cao [94].

1.4.5. Xác định động thái sinh sản dựa vào đánh giá steroid trong phân

Kiến thức về sinh học sinh sản của các loài động vật là rất quan trọng để quản lý

bền vững. Đánh giá chính xác tình trạng nội tiết là một trong những yếu tố quan trọng

nhất để tăng hiệu quả các chương trình hỗ trợ sinh sản. Sự nỗ lực trong các kỹ thuật hỗ

trợ sinh sản (thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm hoặc chuyển phôi) phụ thuộc

vào kiến thức về sinh lí sinh sản của một loài nhất định [76]. Đặc biệt, trong thụ tinh

nhân tạo, thời gian chính xác của việc thụ tinh là yếu tố giới hạn chính, sẽ dễ dàng hơn

nếu chu kì động dục có thể được xác định.

29

Phân tích hormone steroid của tuyến sinh dục là một điểm quan trọng đánh giá

tình trạng sinh lí sinh sản của vật nuôi. Kích dục tố trong huyết thanh là sự phản ánh

chính xác nhất của hoạt động sinh dục, tuy nhiên các kỹ thuật để thu thập thông tin này

qua huyết thanh có thể ảnh hưởng đến phúc lợi động vật (animal welfare) và khá tốn

kém. Lấy mẫu máu lặp lại nhiều lần sẽ gây stress, ảnh hưởng đến vấn đề sức khỏe của

động vật và khó khăn để thực hiện trong điều kiện hiện trường, nhất là động vật hoang

dã. Thậm chí việc lặp lại lấy mẫu máu để đo các steroid có thể là không thực tế ở các

loài động vật có kích thước nhỏ, lấy mẫu gây can thiệp và thậm chí dẫn đến các con vật

bị giết chết [76].

Phương pháp không xâm lấn (non-invasive) dễ thực hiện và cho kết quả chính

xác là lựa chọn thay thế tốt hơn. Mặc dù có thể thu thập mẫu nước tiểu và phân để đánh

giá tình trạng sinh sản ở động vật được nuôi nhốt, nhưng khó khăn trong việc thu thập

nước tiểu đối với các động vật thả rông đã hạn chế việc sử dụng chúng trong việc điều

tra. Vì vậy, mẫu phân là sự lựa chọn hiệu quả nhất cho mục đích này. Phương pháp đo

lưu lượng các chất chuyển hóa steroid trong phân để đánh giá trạng thái nội tiết của

động vật đã được đi tiên phong vào cuối những năm 1970 ở chim, đầu những năm 1980

ở động vật có vú và đã được nghiên cứu trong các thập kỷ qua với số lượng ngày càng

tăng của các loài [76, 78]. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy mô hình tương tự trong huyết

thanh là kích thích tố trong phân, việc sử dụng các mẫu phân như một công cụ không

xâm lấn được sử dụng rộng rãi để giám sát hoạt động sinh dục. Theo Kumar et al.

(2013), vấn đề thông tin không rõ ràng về tình trạng sinh sản của động vật cái đã được

giải quyết nhờ phương pháp phân tích hormone steroid phân để đánh giá các hoạt động

nội tiết [95]. Đánh giá estrogen trong phân đã được sử dụng như chỉ số đáng tin cậy ở

con vật mang thai ở một số động vật móng guốc [96, 97, 98, 99] và một số loài linh

trưởng [91, 100]. Chúng cũng được sử dụng để xác định khoảng thời gian trước khi

rụng trứng ở động vật ăn thịt [88]. Phân tích chất chuyển hóa progesterone trong phân

đã được sử dụng thành công để theo dõi chức năng thể vàng và mang thai, hư thai, tính

chu kì động dục và các liệu pháp điều trị trong một danh sách mở rộng của nhiều loài.

Trong hầu hết các nghiên cứu về xác định estrogen phân, các kháng thể estrogen

tổng đối với các oestron không kết hợp (unconjugated) hoặc kháng thể estrogen cụ thể

30

với oestradiol-17α hoặc -17/β được sử dụng [95]. Đánh giá chu kì buồng trứng qua

estrogen phân được áp dụng thành công ở nhiều loài hoang dã như trâu [101], khỉ

macca- Macaca fascicularis [91]; voi châu Á [102]; mèo báo Tsushima -Prionailurus

bengalensis euptilurus [103]; sóc Sinsin - Chinchilla lanigera [104]; gấu Bắc Cực -

Ursus maritimus [105].

Tuy nhiên, việc xác định estrogen trong phân cho mục đích chẩn đoán mang thai

tỏ ra ít hiệu quả ở tê giác đen và hươu cao cổ [106]. Xác định đỉnh estrogen trong các

mẫu phân không thành công ở nai, hươu và ở bò [106]. Nguyên nhân có thể do nồng độ

estrogen trong huyết tương thấp (chỉ 1pg/ml) và con đường bài tiết estrogen chủ yếu ở

một số loài móng guốc thông qua nước tiểu [75]. Do đó, các khoảng trống khảo nghiệm

do việc đo đạc nồng độ trong phân quá thấp. Để phân tích đáng tin cậy đỉnh estrogen

của cơ thể trong các mẫu phân, cần phải có các quy trình khử trùng và làm sạch nghiêm

ngặt hơn của mẫu và độ nhạy của kỹ thuật xét nghiệm.

Trái ngược với các loài động vật có móng guốc, estrogen ở động vật ăn thịt chủ

yếu được thải vào phân. Xác định sự gia tăng estrogen trước khi sinh của cá mút và các

loài chó đã chứng tỏ đây là chỉ số đáng tin cậy của sự rụng trứng [75, 76]

Nhằm mô tả chu kỳ buồng trứng của hổ Bengal (Panthera tigris tigris), hổ

Sumatra (Panthera tigris sumatrae.), báo đốm (Panthera onca), và mèo cá

(Prionailurus viverrinus); Putranto et al. (2006) đã nghiên cứu chu kỳ buồng trứng bằng

cách giám sát những thay đổi của progesterone (P4) và estradiol-17β (E2) trong phân.

Phát hiện của nhóm tác giả về chu kỳ động dục của hổ Bengal (28,2 ± 3,4 ngày), con

lai hổ Bengal và Siberia (29,3 ± 2,0 ngày), hổ Siberia (24,9 ± 1,3 ngày), báo đốm (66,4

± 10,1 ngày), mèo rừng (18,4 ± 1,6 ngày). Các tác giả kết luận rằng, việc đánh giá của

các hormone steroid phân là hữu ích cho sự hiểu biết các hoạt động của buồng trứng ở

những động vật này [87]. Tiếp đó, nhóm tác giả Putranto et al. (2011) đã công bố nghiên

cứu về xác định không xâm lấn của các chất chuyển hóa hormone, sự kiện tuyến sinh

dục và tình trạng sinh sản của hổ cái bị nuôi nhốt. Mục đích của nghiên cứu là để theo

dõi tình trạng sinh sản của loài hổ Siberia cái (Panthera tigris altaica) bằng cách đánh

giá hoạt động buồng trứng và mang thai qua những thay đổi nội tiết trong phân; xác

định sự tồn tại của progesterone (P4) và những loại chất chuyển hóa P4 thải vào phân.

31

Các kết quả cho thấy, trong hoạt động buồng trứng tự nhiên, E2 thay đổi theo chu kỳ

trung bình là 27,0 ngày. Tuy nhiên, chu kỳ không được thể hiện trong thành phần P4

của hổ không mang thai. Ngược lại, P4 trong phân hổ mang thai tăng lên đáng kể sau

khi giao phối, cao hơn khoảng 2 đến 6 lần so với giá trị trung bình. Kết quả HPLC cho

thấy đỉnh (peak) được phát hiện chủ yếu ở phần 63- 64 phút (chất chuyển hóa) và phần

85 phút (chất không chuyển hóa) trong phân của con hổ mang thai. Tuy nhiên, P4 chỉ

được phát hiện một lượng nhỏ trong phân [88].

Những nghiên cứu về chu kỳ buồng trứng bằng phân tích steroid phân liên tiếp

được công bố ở nhiều loài động vật hoang dã trong những năm gần đây. Morden et al.

(2011) đã thu thập mẫu máu và phân từ 2 tuần lộc (Rangifer tarandus) (Kaamanen,

Phần Lan và Svalbard, Na Uy) để điều tra tính khả thi của việc sử dụng các chất chuyển

hóa progesterone trong phân; để giúp đánh giá tình trạng sinh sản, giới tính, và các cấu

trúc tuổi của quần thể. Nhóm tác giả xem xét mối quan hệ giữa progesterone huyết

tương và nồng độ progesterone chất chuyển hóa phân; đồng thời cũng đánh giá mức độ

sai khác của chất chuyển hóa progesterone phân giữa con non, một năm tuổi, trưởng

thành; giữa con cái mang thai và không có thai. Các tác giả đã tiến hành định lượng các

chất chuyển hóa phân progesterone (sử dụng enzyme nghiệm miễn dịch ELISA) và

progesterone huyết tương (sử dụng xét nghiệm miễn dịch radio RIA) của con cái và con

đực ở các độ tuổi khác nhau từ 2 đàn. Kết quả cho thấy, ở cả hai nhóm, mức độ chất

chuyển hóa progesterone phân có phản ánh nồng độ progesterone huyết tương. Tuy

nhiên, biên độ của progesterone trong phân ở tuần lộc Phần Lan là rộng hơn nhiều so

với tuần lộc ở Svalbard; điều này có thể do sự khác biệt trong chế độ ăn uống hoặc tình

trạng cơ thể. Nghiên cứu cũng cho thấy, có một sự khác biệt đáng kể nồng độ chất

chuyển hóa progesterone phân giữa con non, con một năm tuổi và con trưởng thành.

Tuy nhiên, không thể phân biệt giới tính ở con trưởng thành không mang thai, hoặc con

non của cả hai giới. Do đó, xác định giới tính có thể phải dựa trên việc sử dụng các kỹ

thuật DNA. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy, xác định nồng độ hormone kết hợp

với các kỹ thuật ADN phân có thể cung cấp các thông tin dân số quan trọng và là một

công cụ có giá trị cho việc theo dõi quần thể tuần lộc rừng bị đe dọa [107].

Sử dụng chỉ thị sinh học chức năng buồng trứng để nâng cao hiệu quả sinh sản

của động vật hoang dã trong điều kiện nuôi nhốt cũng đã được áp dụng. Monica et al.

32

(2014) đã sử dụng chỉ thị sinh học tiết niệu của chức năng buồng trứng và bổ sung

altrenogest để nâng cao thành công trong nuôi sinh sản Tê giác Ấn Độ (Rhinoce

rosunicornis). Phân tích hormone tiết niệu đã được tiến hành trên hai tê giác Ấn Độ cái

trưởng thành được nuôi nhốt ít biểu hiện hành vi động dục. Mô hình và nồng độ hợp

chất estrogen (EC) và các chất chuyển hóa progesterone (PDG) của mỗi cá thể trong

giai đoạn nang trứng và thể vàng được thiết lập. Sau khi phân tích nội tiết sơ bộ, các

mẫu nước tiểu đã được vận chuyển đến cơ sở phân tích để xác minh khi mỗi con cái đã

giảm hẳn estrogen. Thời gian động dục và ngày sinh sản sau đó đã được dự đoán. Con

cái được giới thiệu với các mẫu phân tươi hàng ngày của tê giác đực trong suốt giai

đoạn nang trứng để kích thích hành vi động dục. Cả hai con cái sau khi giao phối được

phân tích hormone. Mang thai được chẩn đoán bằng cách phân tích nội tiết hoặc siêu

âm trực tràng. Những kết quả này chứng minh rằng một chiến lược quản lý khoa học là

dựa trên chỉ thị sinh học tiết niệu của chức năng buồng trứng [99].

Ở Việt Nam, Chung Anh Dũng và cs. (2001) đã sử dụng khám trực tràng kết hợp

kỹ thuật RIA để kiểm tra progesterone trong máu giúp chẩn đoán, phân biệt u hoàng thể

và u nang noãn chính xác nhằm giúp lựa chọn phương pháp điều trị chậm động dục trên

bò hiệu quả hơn [108]. Các nghiên cứu khác nhằm xác định động thái của progesterone

chủ yếu sử dụng kỹ thuật ELISA trên mẫu huyết thanh [16, 17].

Như vậy, ở các loài động vật hoang dã với cấu trúc dân số hạn chế, xác định

hormone sinh dục không xâm lấn sẽ là một phương pháp hữu dụng đối với các nhà khoa

học trong đánh giá sự thay đổi nội tiết sinh dục, xác định chu kỳ buồng trứng; đồng thời

tìm hiểu và giám sát động thái sinh dục của chúng để cải thiện khả năng sinh sản trong

điều kiện nuôi.

33

CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Địa điểm, thời gian nghiên cứu

2.1.1. Địa điểm

- Trung tâm Ứng dụng Công nghệ sinh học (CNSH) ở xã Xuân Đường, huyện

Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

- Trang trại Động vật hoang dã Thanh Long, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí

Minh.

- Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm Đại học Thủ Dầu Một.

- Trung tâm Công nghệ Sinh học Chăn nuôi - Phân viện chăn nuôi Nam Bộ.

2.1.1. Thời gian

- Từ tháng 5 năm 2016 đến tháng 03 năm 2019.

2.2. Chuồng trại, thức ăn, nước uống

- Chuồng trại: Trại được bao quanh bằng tường bao chắc chắn; cao 2,5 m nhằm

tránh cho cầy thoát ra, tránh được gió lùa trực tiếp, hạn chế ánh sáng. Nền tráng xi măng

với độ dốc giúp thoát nước tiểu và nước trong quá trình dọn vệ sinh. Mỗi ô chuồng có

kích thước 1 x 1 x 1,2 m; được xây bằng tường gạch cao 0,5 m bên dưới, bên trên bằng

lưới kẽm (tại Đồng Nai), hoặc toàn bộ bằng lưới kẽm (tại Thủ Đức). Bên trong chuồng

đặt rổ nhựa hoặc ống gốm cho cầy nằm. Đến giai đoạn sinh sản thì lót vải mềm vào rổ

làm ổ cho cầy.

Chuồng trại được rửa sạch bằng vòi nước hằng ngày. Công tác vệ sinh sát trùng

được tiến hành 1 tháng/lần. Dung dịch sát trùng được sử dụng là BESTAQUAM-SR.

Mỗi ô chuồng được gắn kí hiệu trên cửa, để mỗi cá thể cầy vòi hương được theo

dõi trong suốt quá trình nghiên cứu.

- Thức ăn và nước uống: Bữa chính là cháo được nấu với các thành phần khác

nhau như cá, nội tạng, đầu gà. Bữa phụ là trái cây các loại; chủ yếu là chuối, đu đủ, dưa

hấu. Cầy được cho ăn 2 bữa/ ngày đêm, gồm 1 bữa chính (khoảng 18 giờ) và 1 bữa phụ

(khoảng 11 – 12 giờ trưa). Khẩu phần hàng ngày cho mỗi cá thể cầy có khối lượng 3 kg

là: năng lượng trao đổi (ME): 450 Kcal, protein thô (CP): 18 gr, Lipid: 3 gr, chất khô

34

(DM) 105 gr. Nước uống được đặt trong chuồng để cầy tự uống. Chén nước được vệ

sinh hằng ngày và thay nước 1 lần/ngày.

Việc chăm sóc và nuôi dưỡng cầy vòi hương tuân theo các thủ tục được nêu

trong hướng dẫn chăm sóc và sử dụng động vật thí nghiệm trong nghiên cứu và giảng

dạy [11, 78].

2.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của cầy vòi hương trong điều kiện

nuôi nhốt

2.3.1.1. Vật liệu

Nghiên cứu sinh trưởng: Chọn 64 cá thể (32 đực, 32 cái) theo dõi về các chỉ tiêu

tăng trưởng liên tục từ 3 đến 24 tháng tuổi.

Nghiên cứu sinh sản: Tiến hành theo dõi trên 32 cầy vòi hương cái, 34 cầy vòi

hương đực trước độ tuổi thành thục sinh dục; 42 cầy vòi hương cái đã trưởng thành sinh

dục, đang giai đoạn sinh sản.

Tất cả cầy đều được nuôi cùng một chế độ chăm sóc, dinh dưỡng. Mỗi cá thể

được gắn kí hiệu trên ô chuồng để được theo dõi trong suốt quá trình nghiên cứu.

2.3.1.2. Chỉ tiêu khảo sát

- Đặc điểm ngoại hình, một số tập tính thích nghi của cầy vòi hương trong điều

kiện nuôi nhốt: hoạt động, đặc điểm dinh dưỡng.

- Một số chỉ tiêu sinh trưởng của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt: khối

lượng; dài thân, đầu; dài đuôi; vòng ngực.

- Một số chỉ tiêu sinh sản của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt: Tuổi

thành thục sinh dục và biểu hiện động dục. Tỉ lệ mang thai, thời gian mang thai. Số cầy

vòi hương sinh ra trong mỗi lứa (con/lứa), mùa sinh sản. Đặc điểm con sơ sinh. Tỉ lệ

con non sống sau khi sinh (sau 24 giờ, sau 48 giờ, sau một tuần, sau một tháng và cai

sữa). Tuổi cai sữa.

- Một số chỉ tiêu sinh sản trên cầy vòi hương đực: tuổi thành thục, tuổi phối

giống, hành vi tính dục đực trong điều kiện nuôi nhốt.

35

2.3.1.3. Phương pháp xác định khối lượng và kích thước các chiều đo

Đo kích thước: chiều dài thân, đầu (HB), chiều dài đuôi (T), vòng ngực (C) và

cân khối lượng cơ thể (W) theo Đặng Huy Huỳnh và cs. (2010) [7]:

Chiều dài thân, đầu (HB): Đo từ mút mũi đến bờ lỗ hậu môn.

Chiều dài đuôi (T): Đo từ bờ lỗ sau hậu môn đến mút đuôi, trừ chóp lông đuôi.

Vòng ngực (C): Đo vòng quanh ngực, sát mép của hai chân trước.

Khối lượng cơ thể (W): Cân toàn bộ con vật.

Cầy được cân và đo 30 ngày một lần vào 7-8 giờ sáng. Cân bằng cân đồng hồ

Nhơn Hòa (5kg) với mức sai số là 20g; đo bằng thước dây (đơn vị cm).

Bố trí thí nghiệm: Theo phương pháp bố trí ngẫu nhiên.

Bảng 2. 1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm theo dõi các chỉ số sinh trưởng

Theo giới tính Chỉ tiêu khảo sát

Đực Cái

Khối lượng cơ thể (W) n=32 n=32

Chiều dài thân, đầu (HB) n=32 n=32

Vòng ngực (C) n=32 n=32

Chiều dài đuôi (T) n=32 n=32

2.3.1.4. Phương pháp nghiên cứu tốc độ sinh trưởng

Sinh trưởng tuyệt đối (A): A= V2– V1/t2 – t1

Sinh trưởng tương đối (R%): R (%) = 2 (V2– V1) x 100 / (V1 + V2)

Trong đó: V1, V2 là giá trị khối lượng (kích thước) khảo sát ở thời điểm t1, t2.

2.3.1.5. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm sinh sản

- Phương pháp thực nghiệm: theo dõi trực tiếp và gắn camera theo dõi vào

chuồng nuôi. Các thông số được thu nhận và ghi chép cho từng cá thể thí nghiệm.

- Phương pháp phỏng vấn: Thực hiện phỏng vấn trực tiếp người chăn nuôi về

một số đặc điểm sinh sản của cầy vòi hương (biểu hiện động dục, biểu hiện trước khi

đẻ, thời gian mang thai, mùa sinh sản trong điều kiện nuôi, tập tính chăn sóc con non).

36

2.3.2. Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí – sinh hóa máu, nước tiểu của cầy vòi

hương trong điều kiện nuôi nhốt

2.3.2.1. Vật liệu

Vật liệu nghiên cứu gồm 186 mẫu máu, 248 mẫu nước tiểu thu từ 62 cá thể cầy

vòi hương (30 đực, 32 cái). Cầy vòi hương không bị bệnh, con cái không mang thai.

2.3.2.2. Chỉ tiêu khảo sát

- Một số chỉ tiêu sinh lí máu: số lượng hồng cầu (RBC-Red blood cells),

Hemoglobin (HGB), dung tích hồng cầu (HCT-Hematocrit), thể tích trung bình hồng

cầu (MCV -Mean corpuscular volume), lượng hemoglobin trung bình trong một hồng

cầu (MCH-Mean corpuscular hemoglobin), nồng độ hồng cầu trung bình (MCHC-Mean

corpuscular hemoglobin concentration), độ rộng phân bố hồng cầu (RDW-Red cell

distribution width), tiểu cầu (PTL -Platelet), thể tích trung bình tiểu cầu (MPV -Mean

platelet volume), độ rộng phân bố tiểu cầu (PDW -Platelet distribution width), dung tích

bạch cầu (PCT -Plateletcrit).

- Một số chỉ tiêu sinh hóa máu: Protein tổng (g/L), Globulin (g/L), Albumin

(g/L), Glucose (mmol/L), Blood urea nitrogen- BUN (mmol/L); Creatinine (µmol/L);

Aspartate transaminase- AST (U/L); Alanin amino transferase-ALT (U/L); Alkaline

phosphatase- ALP (U/L), Na (mmol/L), K (mmol/L), Ca (mmol/L), P (mmol/L), Cl

(mmol/L).

- Một số chỉ tiêu sinh lí - sinh hóa nước tiểu: Urobilinogen (µmol/L), Glucose

(mmol/L), Billirubin (µmol/L), Ketone (mmol/L), Tỷ trọng (Specific Gravity), Hồng

cầu (Ery/µL), pH, Protein (g/L), Nitrite, Bạch cầu (Leukocytes- Leu/µL), Ascorbic acid

(mmol/L), K (mmol/L), Na (mmol/L), Cl (mmol/L).

Tất cả các chỉ tiêu được theo dõi trong tình trạng sức khỏe bình thường. Cầy vòi

hương được xem là bình thường dựa vào theo dõi lâm sàng, không có các biểu hiện

bệnh lý và bất thường trong ăn uống, hoạt động.

37

Bố trí thí nghiệm:

Bảng 2. 2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm theo dõi các chỉ số sinh lí - sinh hoá máu, nước tiểu

Theo giới tính Theo độ tuổi

Chỉ tiêu khảo sát Đực Cái 3-<12 tháng >12 tháng

(N=30) (N=32) (N=31) (N=31)

Các chỉ tiêu sinh lí máu n=90 n=96 n=92 n=94

Các chỉ tiêu sinh hoá máu n=90 n=96 n=92 n=94

Các chỉ tiêu sinh lí nước tiểu n=120 n=128 n=124 n=124

Ghi chú: N: Số cá thể cầy vòi hương được theo dõi; n: tổng số mẫu được phân tích.

Các chỉ tiêu sinh hoá nước tiểu n=120 n=128 n=124 n=124

2.3.2.3. Phương pháp thu mẫu và phân tích máu

-Thu mẫu: Mẫu máu được lấy qua tĩnh mạch gốc đuôi vào 8-10 giờ sáng, khi

chưa cho ăn. Cầy vòi hương được cố định trong túi lưới, vệ sinh gốc đuôi bằng cồn,

dùng xilanh 3 ml (kim tiêm cỡ 25 Gx1) tiến hành lấy 1,5-2 ml máu/cá thể.

-Phân tích các chỉ số sinh lí máu: Sau khi lấy máu, mẫu được đưa nhanh vào ống

chống đông (EDTA-K2), lắc nhẹ, bảo quản và chuyển đến phòng thí nghiệm để nghiên

cứu các chỉ tiêu sinh lí. Tất cả các chỉ tiêu sinh lí máu được thực hiện trên máy phân

tích huyết học hoàn toàn tự động Mindray BC 2800 Vet; tại trung tâm Công nghệ Sinh

học chăn nuôi, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

-Phân tích các chỉ tiêu sinh hoá máu: Sau khi lấy máu, mẫu vật được chuyển

nhanh vào các ống không có chất chống đông máu, được ly tâm ở 3000 vòng/phút trong

10 phút (Roto x 32®-Hettich). Huyết thanh được thu thập và giữ ở -200C cho đến khi

phân tích. Các thông số sinh hóa máu được đo bằng máy phân tích hóa học (Abaxis

Vetscan 2, Union City, CA, USA); tại trung tâm xét nghiệm Medilab, thành phố Thủ

Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

2.3.2.4. Phương pháp thu mẫu và phân tích nước tiểu

- Chuồng đặc dụng thu nước tiểu: Sàn thứ 1 bằng thép không gỉ (để thuận lợi thu

nước tiểu), mặt sàn thứ 2 bằng lưới sắt không gỉ dây lưới cách nhau 0,5 cm (cách mặt

sàn thứ 1 khoảng 10 cm).

- Phương pháp thu mẫu: Mẫu nước tiểu thu từ mặt sàn thép không gỉ của chuồng

38

đặc dụng bằng xilanh; đựng nước tiểu trong lọ khô, tối màu và sạch, có dán nhãn ghi

chú ngày giờ thu mẫu và kí hiệu cá thể. Mẫu nước tiểu được thu thập vào 18-20 giờ

(theo dõi trực tiếp và thu mẫu ngay sau khi cầy bài tiết), 1 lần/tuần trong 1 tháng (cho

mỗi cá thể).

- Xét nghiệm các chỉ tiêu sinh hoá: Mẫu nước tiểu không quay ly tâm. Lắc kỹ

mẫu trước khi thử nghiệm. Việc xét nghiệm hoàn tất trong vòng 1 giờ sau khi thu nhận

mẫu, các chỉ tiêu sinh hóa được đo trên máy phân tích tự động (Teco TC-101, Teco

diagnostics, USA).

- Phân tích Na+, K+ và Cl- được đo từ dung dịch thu được sau khi ly tâm mẫu

nước tiểu ở 3000 vòng/phút trong 10 phút (Roto x 32®-Hettich) và được thực hiện trên

máy đo chọn lọc ion (model Roche 9180, Roche Diagnostics, Thụy Sĩ).

2.3.3. Nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng hormone sinh dục của cầy vòi hương

cái trong điều kiện nuôi nhốt

2.3.3.1. Vật liệu

Tổng số 2.635 mẫu phân được thu thập từ 12 cá thể cầy vòi hương cái trưởng

thành trong 16 tháng (Bảng 2.4). Tất cả các cá thể được coi là khoẻ mạnh dựa trên lịch

sử theo dõi lâm sàng và không có thai khi bắt đầu nghiên cứu.

2.3.3.2. Chỉ tiêu khảo sát

Sự thay đổi các chỉ số nội tiết sinh dục: estradiol (E2), progesterone (P4) của cầy

vòi hương cái trưởng thành trong các trường hợp: không mang thai, mang thai và mang

thai giả.

Bố trí thí nghiệm:

Bảng 2 3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm theo dõi các chỉ số nội tiết estradiol và progesterone

Cầy vòi hương không Cầy vòi hương Cầy vòi hương

mang thai mang thai mang thai giả Chỉ tiêu khảo sát

(N=6) (N= 4) (N=2)

Estradiol (E2) n=1.316 n=873 n=446

Ghi chú: N: Số cá thể cầy vòi hương được theo dõi; n: tổng số mẫu phân.

Progesterone (P4) n=1.316 n=873 n=446

39

2.3.3.3. Phương pháp thu mẫu và chiết xuất phân Các mẫu phân được thu thập vào khoảng 18-20 giờ, 3 ngày một lần trong 16

tháng. Mẫu phân (5 g) được thu thập vào túi nhựa (kích thước 200 x 140 x 0.04 mm;

Uni Pack Mark Series-G, Seisan Nippon Co., Tokyo, Japan) và được bảo quản ở -200C

cho đến khi phân tích. Sau khi rã đông, 0,2 g được cân và đặt vào bình thủy tinh chứa

2 ml methanol 90%. Sau khi lắc 30 phút (trên máy lắc HS 260 -IKA, Đức), mẫu được

ly tâm ở 1.700 vòng trong 20 phút (trên máy EAB 20, Đức). Sau khi ly tâm, khoảng 1

ml dung dịch được chiết vào lọ eppendorf 1,5 ml và đông lạnh ở -200C cho đến khi sử

dụng. Phần còn lại được cho vào lọ thủy tinh và sấy khô để xác định trọng lượng khô

của phân [109].

Bảng 2.4. Dữ liệu của 12 cá thể cầy cái được thu mẫu trong nghiên cứu

Tuổi* Cân nặng* Chiều dài* Số mẫu

Kí hiệu (Tháng) thân (cm) phân (kg)

F1 18 67,41 210 3,17

F2 24 68,64 224 3,32

F3 31 68,72 210 3,43

F4 36 69,26 208 3,56

F5 40 69,18 227 3,51

F6 33 68,34 224 3,33

F7 30 68,22 210 3,28

F8 32 68,41 231 3,55

F9 32 68,45 231 3,48

F10 32 68,56 230 3,38

F11 27 67,68 214 3,25

Ghi chú: * Tuổi, cân nặng và chiều dài cơ thể khi bắt đầu nghiên cứu

F12 27 67,72 216 3,27

40

2.3.3.4. Xét nghiệm hormone

Lượng P4 và E2 được xác định với hệ thống xử lý ELISA Dynex DS2 hoàn toàn

tự động (Dynex, USA). Bộ KIT ELISA Progesterone (DRG International, Inc., Đức) và

Estradiol (DRG International, Inc., Đức).

Quy trình xét nghiệm ELISA được cài đặt sẵn trên máy Dynex DS2, mỗi lần

- Nhỏ 25 µL của chất chuẩn (0; 0.3; 1.25; 2.5; 5; 15; 40 ng/mL), chất chứng và

chạy bao gồm một đường cong chuẩn, gồm các bước:

các mẫu bằng các đầu côn tiêu hao mới vào các giếng tương ứng.

- Ủ trong 5 phút ở nhiệt độ phòng.

- Nhỏ 200 µL Enzyme liên hợp vào từng giếng.

- Trộn kỹ hỗn hợp (lắc) trong 10 giây.

- Ủ trong 60 phút ở nhiệt độ phòng.

- Rửa sạch các giếng 3 lần bằng dung dịch rửa (400 uL mỗi giếng).

- Thêm 200 µl dung dịch chất nền vào từng giếng.

- Ủ trong 15 phút ở nhiệt độ phòng.

- Ngừng các phản ứng enzyme bằng cách thêm 100 µL dung dịch dừng phản ứng

vào từng giếng.

- Xác định độ hấp thụ (OD) của từng giếng ở 450 ± 10 nm với một đầu đọc khay

vi giếng.

- Tính toán kết quả: Xây dựng một đường cong chuẩn bằng cách vẽ độ hấp thụ

trung bình thu được từ mỗi chất chuẩn so với nồng độ của nó; giá trị độ hấp thụ trên

trục dọc (Y) và nồng độ trên trục ngang (X). Sử dụng giá trị độ hấp thụ trung bình cho

từng mẫu để xác định nồng độ tương ứng từ đường cong chuẩn. Nồng độ của các mẫu

có thể được đọc trực tiếp từ đường cong tiêu chuẩn này. Trường hợp mẫu có nồng độ

cao hơn so với chất chuẩn có nồng độ cao nhất phải được pha loãng thêm. Để tính toán

nồng độ, hệ số pha loãng này được tính đến.

Tất cả các mức độ hormone được biểu thị bằng microgam trên gam phân khô

(µg/g df). Độ dài của chu kỳ buồng trứng được tính bằng số ngày giữa hai đỉnh của E2

41

kế tiếp nhau (không quá 50 ngày). Hàm lượng E2 và P4 cực đại (đỉnh-peak) được xác

định là những giá trị lớn hơn trung bình của tất cả các giá trị còn lại từ mỗi cá thể cầy

vòi hương [88].

2.3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của kích thích tố sinh dục (PMSG, HCG) đến khả

năng sinh sản của cầy vòi hương cái

2.3.4.1. Vật liệu

Tổng số 54 cầy vòi hương cái trưởng thành, sau khi khảo sát được phân thành 3

nhóm:

- Nhóm 1: Cầy tơ chậm lên giống lần đầu (sau 24 tháng tuổi chưa thấy biểu hiện

động dục); n=14.

- Nhóm 2: Cầy cái chậm động dục lại (sau khi sinh 12 tháng chưa thấy biểu hiện

động dục lại); n=15.

- Nhóm 3: Cầy sinh sản hiệu quả thấp (1 lứa/năm; số con trên lứa ít, từ 1-2

con/lứa); n=25.

2.3.4.2. Chỉ tiêu khảo sát

- Sự thay đổi các chỉ số nội tiết sinh dục: estradiol (E2), progesterone (P4) sau

khi tiêm PMSG và HCG (từ 2 ngày trước khi tiêm (ngày -2) đến ngày tiêm (ngày 0) và

8 ngày sau điều trị.

- Thời gian xuất hiện động dục và thời gian kéo dài động dục của cầy vòi hương

cái sau khi tiêm PMSG và HCG.

- Tỉ lệ cầy vòi hương cái động dục (số con động dục/tổng số con được điều trị).

- Tỉ lệ cầy vòi hương cái mang thai (số con mang thai/ tổng số con được điều

trị).

- Số cầy vòi hương sơ sinh trung bình trên ổ.

- Khối lượng trung bình của con sơ sinh.

- Tỉ lệ cầy vòi hương còn sống trên ổ sau 24 giờ và sau 1 tháng (số con còn sống/

tổng số con được sinh ra).

42

2.3.4.3. Loại hormone sinh sản sử dụng

Hỗn hợp PMSG/HCG (tỉ lệ 2:1): tên thương mại là Gestavet (Vương quốc Anh).

Mỗi lọ chứa 400 IU PMSG /200 IU HCG khô lạnh và lọ chứa 5 ml dung môi cho dung

dịch tiêm.

2.3.4.4. Các công thức tiêm hormone sinh sản

Lô đối chứng (ĐC): Không tiêm

Lô thí nghiệm 1 (CT1): 20 IU PMSG + 10 IU HCG

Lô thí nghiệm 2 (CT2): 30 IU PMSG + 15 IU HCG

Lô thí nghiệm 3 (CT3): 40 IU PMSG + 20 IU HCG

Thí nghiệm được thực hiện tất cả các công thức đối với cầy ở 3 nhóm. Mỗi lô thí

nghiệm có từ 3 cầy trở lên. Cơ sở lựa chọn liều tiêm dựa vào kết quả nghiên cứu của

Nguyễn Thanh Bình (2015) trên cầy vòi hương [20] và hướng dẫn sử dụng của chế

phẩm Gestavet.

2.3.4.5. Bố trí thí nghiệm

Cầy cái trong mỗi nhóm được xếp vào các ô chuồng nuôi xen kẽ với con đực,

mỗi ô chuồng gắn bảng tên để theo dõi trong suốt quá trình thí nghiệm. Cầy được bố trí

vào các công thức thí nghiệm theo phương pháp bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên.

Bảng 2. 5. Sơ đồ bố trí thí nghiệm tiêm kích dục tố

Lô thí nghiệm ĐC CT1 CT2 CT3

Nhóm 1 (n=14) 3 4 4 3

Nhóm 2 (n=15) 3 4 4 4

Nhóm 3 (n=25) 3 7 7 8

2.3.4.6. Quy trình tiêm

Các con cái được chích bắp (IM) vào lúc 8 giờ sáng, không tính đến chu kỳ động

dục. Việc sử dụng kích dục tố và ghép đôi thực hiện vào khoảng tháng 2 đến tháng 4,

phù hợp với mùa sinh sản của cầy trong tự nhiên [7]. Sau 24 giờ sau khi tiêm hỗn hợp

PMSG và HCG, cầy cái được ghép đôi với con đực khoẻ mạnh trong thời gian 3-4 ngày.

Theo dõi các biểu hiện động dục và xác định có sự giao phối.

2.3.4.7. Phương pháp xác định sự thay đổi hormone

Quy trình thu mẫu, chiết xuất phân, xét nghiệm hormone được thực hiện tương

43

tự 2.3.3.3. và 2.3.3.4.

2.3.4.8. Phương pháp xác định động dục

- Phương pháp quan sát (mắt thường, camera): theo dõi sự thay đổi hành vi của

cầy vòi hương cái theo sau khi tiêm kích dục tố theo thời gian. Dữ liệu về hành vi được

thu thập bằng cách quan sát 2 lần/1 ngày (từ ngày bắt đầu tiêm (ngày 0) và đến ngày 8

sau tiêm).

Ngày xuất hiện động dục được định nghĩa là ngày mà lần đầu thấy các biểu hiện

khác thường ghi nhận như sau: cầy cái ăn ít hoặc bỏ ăn, phát tiếng kêu nhiều lần, đi lại

thường xuyên quanh chuồng (kể cả ban ngày), quan sát kĩ thấy tiểu tiện nhiều lần, có

thể có chất dịch màu vàng đục tiết ra ở cơ quan sinh dục ngoài. Trong khoảng thời gian

cầy cái động dục, các cầy đực thường chồm lên thành chuồng và quan sát về ô chuồng

của con cái đang lên giống [7, 11].

- Phương pháp lâm sàng: theo dõi sự mang thai và sinh con của cầy vòi hương

cái.

2.4. Xử lí số liệu

Các tham số thống kê: giá trị trung bình cộng (X̅ ); độ lệch chuẩn (SD); hệ số

biến thiên CV (%); kiểm định t-test; phân tích ANOVA một nhân tố với mức ý nghĩa

α=0,05; được xử lí bằng phần mềm MS-Excel 2013.

44

PHẦN 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh học

3.1.1. Đặc điểm hình thái, dinh dưỡng và một số tập tính của cầy vòi hương trong

điều kiện nuôi

Về hình thái, cầy vòi hương (cầy) trong điều kiện nuôi cũng có những đặc điểm

đặc trưng của loài như trong điều kiện tự nhiên. Bộ lông màu xám mốc hoặc hung mốc,

mút lông phớt đen; dọc sống lưng, sườn có đốm màu nâu đen hoặc thường tạo thành ba

sọc chạy dọc sống lưng từ vai đến gốc tai. Đuôi có vệt không rõ hoặc màu đen ở phần

gốc đuôi, phần mút đuôi thường có màu đen, tuy nhiên ở một số cá thể có thể màu trắng;

phần mũi, má, tai, phần dưới đùi và bốn vó chân có màu đen; bụng xám [3, 7]. Khi cầy

còn non, sọc đốm nâu màu đen chưa rõ ràng, lông thô. Càng lớn dần bộ lông càng mượt

và đốm màu nâu đen càng rõ ràng. Mặt có 2-3 đốm sáng ở trán hoặc cạnh mắt. Những

đặc điểm hình thái này chứng tỏ loài đang được nuôi nhốt và nghiên cứu chính là loài

Paradoxurus hermaproditus.

Hình 3. 1. Cầy vòi hương (P. hermaphroditus) trong điều kiện nuôi

Về đặc điểm dinh dưỡng, chúng tôi đã khảo sát thực tế và tiến hành cho cầy vòi

hương ăn các loại thức ăn khác nhau. Tuy thuộc bộ ăn thịt, nhưng cầy vòi hương là loài

ăn tạp. Kết quả khảo sát cho thấy, cầy ăn được nhiều loại trái cây. Loại trái cây ưa thích

của cầy là chuối. Trong chăn nuôi, tùy theo mùa vụ có thể thay đổi nguồn thức ăn khác

45

nhau. Ở các loại rau, cầy vòi hương không ăn rau sống mà phải qua chế biến (nấu chung

với cháo) chúng mới sử dụng. Như vậy, vào mùa không có trái cây chín, có thể bổ sung

thêm thức ăn có nguồn gốc từ thực vật qua cháo rau. Về nguồn thức ăn động vật, cầy

đặc biệt thích ăn các loại thịt, cá, trứng. Kết quả khảo sát cho thấy, cầy ăn được hầu hết

các loại thức ăn có nguồn gốc từ động vật được thử nghiệm như: thịt các loại (heo, bò,

gà), cá, trứng, tôm, cua, ốc. Cầy ăn được cả thịt sống và chín. Tuy nhiên, để đảm bảo

sức khoẻ cho cầy, cần nấu chín các nguồn thức ăn động vật trước khi cho cầy sử dụng.

Trong điều kiện nuôi, để tiết kiệm chi phí, đảm bảo nguồn cung cấp, đồng thời phù hợp

với nhu cầu dinh dưỡng của cầy, cháo nấu với đầu gà hoặc cơm trộn với đầu gà xay đã

nấu chín là loại thức ăn phù hợp và được sử dụng phổ biến. Theo Đặng Huy Huỳnh và

cs. (2010); Duckworth (2016), cầy vòi hương là động vật ăn tạp, hầu hết các thức ăn

mà con người ăn chúng đều ăn được [7, 110].

Hình 3. 2. Cầy vòi hương ăn hạt cà phê Hình 3. 3. Cầy vòi hương ăn dưa hấu

Về tập tính hoạt động, cầy chủ yếu hoạt động ban đêm, ngày ngủ. Các hoạt động

bài tiết chủ yếu thực hiện vào đầu của pha hoạt động chiều tối. Cầy có tập tính bảo vệ

lãnh thổ rất cao. Khi thả ghép con khác vào chung ô chuồng, chúng sẽ cắn nhau. Cầy

chỉ chịu ghép đôi khi con cái có biểu hiện động dục. Điều này chứng tỏ trong điều kiện

nuôi nhốt, cầy vẫn còn giữ tập tính sống đơn độc của loài [7]. Ban đêm, cầy đực tiết xạ

hương, có thể dễ dàng nhận biết mùi xạ hương do cầy tiết ra trong khu vực chuồng trại,

đặc biệt trong mùa sinh sản.

46

3.1.2. Đặc điểm sinh trưởng của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt

3.1.2.1. Tăng trưởng khối lượng

Kết quả khảo sát tốc độ tăng trưởng khối lượng của 64 cầy vòi hương được thể

hiện ở bảng 3.1.

Bảng 3. 1. Tốc độ tăng trưởng khối lượng của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi

Đực (n=32) (1)

Cái (n=32) (2)

Tháng

A

A

X̅ 1

tuổi

(g/con/

(g/con/

SD Cv(%)

R (%)

SD Cv(%)

R (%)

P

X̅ 1 (g)

X̅ 2 (g)

-X̅ 2

ngày)

ngày)

3

782

118,5

15,15

727

82,7

11,38

55

>0,05

6

1.152

126,1

10,95

4,11a

38,26a

975

125,3

12,85

2,76b

29,14b

177

<0,05

9

1.735

109,1

6,29

6,48

40,39

1.456

117,8

8,09

5,34

39,57

279

<0,05

12

2.644

113,5

4,29

10,10

41,52

2.225

113,7

5,11

8,54

41,78

419

<0,05

15

3.245

128,1

3,95

6,68

20,41

2.848

120,7

4,24

6,92

24,56

397

<0,05

18

3.533

108,5

3,07

3,20

8,50

3.175

118,9

3,74

3,63

10,86

358

<0,05

21

3.743

116,3

3,11

2,33

5,77

3.335

84,7

2,54

1,78

4,92

408

<0,05

24

3.925

105,2

2,68

2,02

4,75

3.516

93

2,63

2,01

5,28

409

<0,05

5,14

20,22

4,71

21,16

Ghi chú: X̅ : Giá trị trung bình khối lượng, SD: độ lệch chuẩn, Cv: hệ số biến thiên, A: Sinh trưởng

tuyệt đối, R: Sinh trưởng tương đối. Các ký tự khác nhau trong cùng một hàng (với từng chỉ tiêu tương

ứng) thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05) theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05.

Bảng 3.1 cho thấy, khối lượng cầy vòi hương được theo dõi có tốc độ tăng trưởng

không đồng đều qua các giai đoạn tháng tuổi, điều này phù hợp với quy luật sinh trưởng

theo giai đoạn. Tốc độ tăng trưởng khối lượng có xu hướng tăng dần từ 3-12 tháng tuổi,

sau đó chậm dần từ 12-24 tháng tuổi. Giai đoạn có tốc độ tăng trưởng cao nhất là từ

tháng 9-12 với mức tăng trưởng tuyệt đối trung bình của mỗi cá thể đực là 10,1

g/con/ngày, sinh trưởng tương đối R%= 41,52%; các chỉ số này tương ứng ở giới cái là

8,54 g/con/ngày và R% là 41,78%. Tốc độ tăng khối lượng nhanh nhất ở giai đoạn này

phù hợp với quy luật ở giai đoạn thành thục sinh dục động vật có tốc độ tăng trưởng

mạnh. Trong tự nhiên, tuổi thành thục sinh dục của cầy đực khoảng 9-11 tháng tuổi, ở

47

cầy cái từ 11 – 12 tháng tuổi [3]. Sau 15 tháng tuổi, khi gần đạt khối lượng tối đa, tốc

độ tăng trưởng của cầy chậm lại (tăng dưới 4 g/con/ngày, trung bình 50-120

g/con/tháng). Khối lượng cầy trưởng thành trong tự nhiên đạt khối lượng từ 3 đến 5 kg

[7]; 2 – 5 kg, trung bình 3,2 kg [1, 110]

Tốc độ tăng khối lượng trung bình từ 3-24 tháng tuổi ở con đực là 5,14

g/con/ngày, R% = 20,22% và ở con cái là 4,71 g/con/ngày, R% = 24,27% (cho mỗi giai

đoạn 3 tháng). Tốc độ tăng trưởng khối lượng ở hầu hết các giai đoạn không có sự khác

biệt ở hai giới (P>0,05), trừ giai đoạn 3-6 tháng tuổi tốc độ tăng trưởng khối lượng ở

con đực có xu hướng nhanh hơn (P<0,05).

Bảng 3.1 cũng cho thấy, khối lượng trung bình ở con đực cao hơn so với con cái

ở giai đoạn từ 6 đến 24 tháng tuổi và khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Điều này

cũng phù hợp với quy luật chung, ở con đực thường có cân nặng cao hơn so với con cái

cùng độ tuổi.

Trong giai đoạn 3-6 tháng tuổi, hệ số biến thiên ở cả giới đực và cái dao động từ

10,9 – 15,2%; nằm trong khoảng tính trạng có độ ổn định trung bình (CV < 10% - 20%).

Từ giai đoạn 9-24 tháng tuổi, hệ số CV dao động từ 2,6- 8,1%; lúc này tính trạng khối

lượng có độ ổn định cao (CV < 10%). Có thể trong điều kiện nuôi, từ giai đoạn này cầy

đã thích nghi với điều kiện chuồng trại sau khi tách mẹ và chế độ nuôi dưỡng đồng đều

nên ít có sự biến động về tăng trọng giữa các cá thể.

3.1.2.2. Tăng trưởng chiều dài thân đầu

Kết quả khảo sát tốc độ tăng trưởng chiều dài thân đầu của cầy vòi hương thể

hiện qua bảng 3.2 cho thấy, tốc độ tăng trưởng chiều dài thân đầu của cầy vòi hương có

xu hướng chậm dần qua các tháng tuổi. Giai đoạn tăng trưởng chiều dài thân đầu nhanh

nhất ở giai đoạn 3-6 tháng với mức tăng trưởng tuyệt đối 2,87 cm/con/tháng; tăng trưởng

tương đối R% = 19,46% (cho giai đoạn 3 tháng) ở con đực và 2,57 cm/con/tháng; tăng

trưởng tương đối R% = 18,15% ở con cái. Sau tháng thứ 15, khi chiều dài thân đầu gần

đạt giới hạn tốt đa của loài thì sự tăng trưởng ở giai đoạn từ 18-24 tháng rất ít (0,10-

0,76 cm/con/tháng). Tốc độ tăng chiều dài thân đầu gần như không có sự khác biệt

thống kê giữa giới đực và giới cái (P>0,05). Ở cầy vòi hương, chiều dài thân đầu là một

trong các chỉ tiêu phân loại [7] và đây cũng là chỉ tiêu đánh giá chất lượng con giống

48

[11]. Trong tự nhiên, cầy có chiều dài thân đầu trung bình đạt từ 40 - 56 cm [7], 43-71

cm, trung bình 54 cm [1, 3, 110].

Bảng 3. 2. Tốc độ tăng trưởng chiều dài thân đầu của cầy vòi hương trong điều kiện

nuôi

Đực (n=32) (1)

Cái (n=32) (2)

Tháng

A

A

X̅ 1

X̅ 2

X̅ 1 -

tuổi

(cm/con/

(cm/con/

SD Cv%

R%

SD Cv%

R%

P

(cm)

(cm)

X̅ 2

tháng)

tháng)

3

39,89 0,38

0,95

38,67

0,32

0,83

1,22 >0,05

6

48,49 0,44

0,91

2,87

19,46

46,39

0,46

0,99

2,57

18,15

2,10 >0,05

9

56,27 0,46

0,82

2,59

14,85

53,24

0,53

1,00

2,28

13,75

3,03 <0,05

12

62,55 0,55

0,88

2,09

10,57

59,01

0,55

0,93

1,92

10,28

3,54 <0,05

15

68,92 0,45

0,65

2,12

9,69

65,12

0,54

0,83

2,04

9,84

3,80 <0,05

18

70,36 0,77

1,09

0,48

2,07

67,41

0,31

0,46

0,76

3,46

2,95 <0,05

21

71,33 0,41

0,57

0,32

1,37

68,68

0,29

0,42

0,42

1,87

2,65 <0,05

24

71,62 0,41

0,57

0,10

041

69,03

0,30

0,43

0,12

0,51

2,59 <0,05

1,51

8,35

1,45

8,27

Ghi chú: X̅ : Giá trị trung bình chiều dài thân, SD: độ lệch chuẩn, Cv: hệ số biến thiên, A: Sinh trưởng

tuyệt đối, R: Sinh trưởng tương đối.

Nhìn chung, giữa cá thể đực và cái có chỉ số tăng trưởng chiều dài thân đầu gần

bằng nhau, dao động trung bình 1,45-1,51 cm/con/tháng, R% từ 8,27-8,35% (cho giai

đoạn 3 tháng). Hệ số biến thiên CV từ 0,42 - 1,09%, thuộc nhóm có độ ổn định cao (CV

< 10%). Khi xét riêng chiều dài thân đầu trung bình giữa hai giới, bảng 3.2 cho thấy,

cầy vòi hương đực có chiều dài thân đầu lớn hơn cầy cái ở tất cả các tháng tuổi, nhưng

sự khác biệt chỉ có ý nghĩa thống kê ở giai đoạn từ 9-24 tháng tuổi (P<0,05).

3.1.2.3. Tăng trưởng chiều dài đuôi

Kết quả khảo sát tốc độ tăng trưởng chiều dài đuôi của cầy vòi hương được thể

hiện ở bảng 3.3. Kết quả cho thấy, tốc độ tăng trưởng chiều dài đuôi của cầy vòi hương tăng

tương đối đồng đều qua các giai đoạn tháng tuổi, tuy nhiên, tăng nhanh hơn ở giai đoạn 6-12

tháng tuổi (R% từ 8-10,14%). Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (A) trung bình là 0,95

49

cm/con/tháng, tốc độ tăng trưởng tương đối (R%) là 6,21% (ở con đực) và A=0,93

cm/con/tháng, R% = 6,20% (ở con cái). Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng và chiều dài đuôi

trung bình qua các giai đoạn tháng tuổi không có sự khác biệt đáng kể giữa hai giới (P>0,05).

Hệ số biến thiên của chiều dài đuôi giữa các cá thể nghiên cứu nằm trong khoảng 1,39 % -

3,40%, có độ ổn định cao (CV < 10%). Chiều dài đuôi là một trong các chỉ tiêu phân loại

ở bộ ăn thịt [7]. Trong tự nhiên, theo Đặng Huy Huỳnh và cs. (2010) cầy có chiều dài đuôi

trung bình từ 40 đến 56 cm [7], theo Duckworth et al. (2016) là 40-60 cm [110]

Bảng 3. 3. Tốc độ tăng trưởng chiều dài đuôi của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi

Đực (n=32) (1)

Cái (n=32) (2)

Tháng

A

A

X̅ 1

X̅ 2

X̅ 1 -

tuổi

(cm/con

(cm/con

SD Cv%

R%

SD Cv%

R%

P

(cm)

(cm)

X̅ 2

/tháng)

/tháng)

3

36,44 0,93

2,55

36,02

1,18

3,28

0,42

>0,05

6

38,24 0,95

2,48

0,60

4,82

37,68

1,28

3,40

0,55

4,50

0,56

>0,05

9

41,45 0,91

2,20

1,07

8,06

40,82

1,18

2,89

1,05

8,00

0,63

>0,05

12

45,36 0,91

2,01

1,30

9,01

44,68

1,33

2,98

1,29

9,03

0,68

>0,05

15

48,64 0,91

1,87

1,09

6,98

48,19

1,34

2,78

1,17

7,56

0,45

>0,05

18

51,37 0,87

1,69

0,91

5,46

50,88

1,22

2,40

0,90

5,43

0,49

>0,05

21

54,25 0,80

1,47

0,96

5,45

53,57

1,25

2,33

0,90

5,15

0,68

>0,05

24

56,31 0,78

1,39

0,69

3,73

55,62

1,03

1,85

0,68

3,75

0,69

>0,05

0,95

6,21

0,93

6,20

Ghi chú: X̅ : Giá trị trung bình chiều dài đuôi, SD: độ lệch chuẩn, Cv: hệ số biến thiên, A: Sinh trưởng

tuyệt đối, R: Sinh trưởng tương đối.

3.1.2.4. Tăng trưởng vòng ngực

Kết quả theo dõi về chiều đo vòng ngực của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi

được thể hiện qua bảng 3.4. Kích thước vòng ngực là một trong các chỉ tiêu quan trọng

đánh giá chất lượng con giống, chiều đo này chịu ảnh hưởng của phẩm chất giống và

chế độ chăm sóc nuôi dưỡng [11]. Vòng ngực cũng là một trong các chỉ tiêu phân loại

ở bộ ăn thịt [7]. Kết quả theo dõi cho thấy, tốc độ tăng trưởng vòng ngực cao ở giai

đoạn 3 - 12 tháng tuổi và đạt cao nhất ở giai đoạn 9 tháng tuổi (A=1,27 cm/con/tháng,

50

R=15,07% ở con đực và A=1,06 cm/con/tháng, R=13,21% ở con cái). Điều này phù

hợp với quy luật tốc độ tăng trưởng vòng ngực nhanh ở giai đoạn thành thục về tính ở

động vật. Tuổi thành thục sinh dục của cầy vòi hương ở giai đoạn 9-12 tháng tuổi [110].

Bảng 3. 4. Tốc độ tăng trưởng vòng ngực của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi

Đực (n=32) (1)

Cái (n=32) (2)

Tháng

A

A

X̅ 1 -

tuổi

(cm/con

(cm/con

Sx Cv%

Rw%

Sx Cv%

Rw%

P

(cm)

(cm)

X̅ 2

/tháng)

/tháng)

3

21,21 0,92

4,34

20,83

0,81

3,89

0,38 >0,05

6

23,43 0,83

3,54

0,74

9,95

22,56

0,71

3,15

0,58

7,97

0,87 >0,05

9

27,25 0,75

2,75

1,27

15,07

25,75

0,70

2,72

1,06

13,21

1,50 <0,05

12

29,36 0,93

3,17

0,70

7,45

27,64

0,70

2,53

0,63

7,08

1,72 <0,05

15

29,87 0,92

3,08

0,17

1,72

28,24

0,74

2,62

0,20

2,15

1,63 <0,05

18

30,32 0,90

2,97

0,15

1,50

28,68

0,66

2,30

0,15

1,55

1,64 <0,05

21

30,54 0,86

2,82

0,07

0,72

28,93

0,82

2,83

0,08

0,87

1,61 <0,05

24

30,66 0,85

2,77

0,04

0,39

29,12

0,78

2,68

0,06

0,65

1,54 <0,05

0,45

5,26

0,39

4,78

Ghi chú: X̅ : Giá trị trung bình vòng ngực, SD: độ lệch chuẩn, Cv: hệ số biến thiên, A: Sinh trưởng

tuyệt đối, R: Sinh trưởng tương đối.

Tốc độ tăng trưởng vòng ngực ít có sự khác biệt ở hai giới (P>0,05). Khi so sánh

vòng ngực trung bình, bảng 3.4 cho thấy, chỉ số này ở con đực luôn cao hơn ở con cái.

Sự khác biệt không đáng kể (P>0,05) ở giai đoạn từ 3-6 tháng tuổi; từ 9-24 tháng tuổi

sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Trung bình mỗi tháng vòng ngực cầy vòi

hương tăng 0,45 cm (ở con đực) và 0,39 cm (ở con cái). Tốc độ tăng trưởng vòng ngực

ở con đực nhanh hơn, tương quan với sự tăng khối lượng ở con đực cao hơn so với con

cái cùng lứa tuổi. Điều này cũng phù hợp với quy luật tăng trưởng chung ở đa số động

vật thuộc lớp thú. Hệ số biến thiên của tính trạng này dao động từ 2,30 -4,34%, thể hiện

tính trạng có độ ổn định cao (CV <10%).

51

3.1.3. Đặc điểm sinh sản của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt

3.1.3.1. Tuổi thành thục sinh dục và biểu hiện động dục

Kết quả theo dõi tuổi thành thục sinh dục của cầy vòi hương (32 cầy cái, 34 cầy

đực) trong điều kiện nuôi nhốt tại địa điểm nghiên cứu được thể hiện qua bảng 3.5.

Chỉ tiêu theo dõi

Cái (n=32) Tỉ l ệ (%)

Số con

Số con

Đực (n=34) Tỉ l ệ (%)

Khối lượng trung bình (kg)

Biểu hiện thành thục

Khối lượng trung bình (kg) 1,84 2,45 2,56 2,61 2,86

0 12,50 15,63 28,13 18,75 9,38

2,38 2,43 2,51 2,58 2,62

Độ tuổi (tháng) 9 10 11 12 13 14

2 9 14 6 3 0

5,88 26,47 41,18 17,65 8,82 0,00

Độ tuổi (tháng) 9 10 11 12 13 14

0 4 5 9 6 3

0

0

24-30

15,63

3,26

5

Chưa biểu hiện động dục X̅ SD

11,96a 1,22

2,50 0,08

10,97b 1,03

2,52 0,04

Bảng 3. 5. Tuổi thành thục sinh dục của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt

Ghi chú: Các ký tự khác nhau trong cùng một hàng thì sự sai khác có ý nghĩa thống

kê (P<0,05).

Bảng 3.5 cho thấy, cầy vòi hương cái có biểu hiện động dục ở giai đoạn 10 – 14

tháng tuổi, với cân nặng trung bình 2,38- 2,62 kg. Cầy vòi hương cái biểu hiện thành

thục chiếm tỷ lệ nhiều nhất ở 12 tháng tuổi (28,13%). Tuổi thành thục trung bình là

11,96 tháng; với cân nặng trung bình là 2,50 kg. Trong tự nhiên, sau khoảng ba tháng

cầy vòi hương được xem là phát triển đầy đủ nhưng chúng không có khả năng hoạt

động giao phối cho đến khi chúng được khoảng một năm tuổi [110]. Theo Nelson (2013)

cầy vòi hương động dục trong độ tuổi từ 11 – 12 tháng tuổi [111]. Có 15,63% số cầy

theo dõi có tuổi từ 24-30 tháng, cân nặng trên 3 kg, được chăm sóc và sinh trưởng bình

thường nhưng không biểu hiện động dục hoặc biểu hiện không rõ ràng để được ghi

nhận, ghép đôi giao phối nhiều lần không thành công. Từ đó cho thấy, tuổi thành thục

của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt tương đương với thời gian thành thục ngoài

tự nhiên (11-12 tháng) [7]. Tuy nhiên, vẫn có một số cá thể cầy vòi hương cái trên 24

52

tháng tuổi vẫn chưa hoặc không biểu hiện động dục. Vì vậy, cần có những nghiên cứu

tiếp theo để có biện pháp tác động đến khả năng động dục nhằm cải thiện khả năng sinh

sản của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt.

Biểu hiện động dục được ghi nhận như sau: vào thời gian động dục, cầy vòi

hương cái thường ăn ít hoặc bỏ ăn, phát tiếng kêu, đi lại thường xuyên quanh chuồng,

quan sát kĩ thấy tiểu tiện nhiều lần. Ngoài ra, trong giai đoạn này nếu quan sát sẽ thấy

chất dịch màu vàng đục tiết ra ở cơ quan sinh dục ngoài. Trong khoảng thời gian cầy

vòi hương cái động dục, các cầy đực trong trại thường chồm lên thành chuồng và quan

sát về ô chuồng của con cái đang lên giống. Thời gian cầy vòi hương cái động dục kéo

dài trong khoảng từ 2 - 3 ngày. Tuy nhiên, cầy chủ yếu hoạt động vào ban đêm nên rất

khó phát hiện động dục nếu không được theo dõi thường xuyên.

Hình 3. 4. Cơ quan sinh dục của cầy vòi Hình 3. 5. Cơ quan sinh dục của cầy

hương đực trưởng thành vòi hương cái trưởng thành

Ở cầy vòi hương đực, khi thành thục sinh dục biểu hiện có thể quan sát được

thông qua việc bìu lọt ra khỏi kẽ bẹn, người nuôi có thể tiến hành quan sát để kiểm tra.

Kết quả theo dõi tuổi thành thục của 34 cầy vòi hương đực ở bảng 3.5 cho thấy, cầy vòi

hương đực bắt đầu thành thục ở 9 tháng tuổi (5,88%). Tuổi có tỷ lệ thành thục sinh sản

ở cầy đực nhiều nhất là 11 tháng tuổi (41,18%), tuổi thành thục trung bình là 10,97

tháng, sớm hơn so với cầy cái khoảng 1 tháng (P<0,05). Kết quả này cũng phù hợp với

tuổi thành thục của cầy vòi hương đực trong tự nhiên khoảng 9-11 tháng tuổi [111].

53

3.1.2.2. Hoạt động giao phối, tỉ lệ mang thai và thời gian mang thai

Trong tự nhiên, theo Grassman (1998) và Nakabayashi et al. (2012) cầy vòi

hương có lối sống đơn độc, trừ một thời gian ngắn vào mùa giao phối, hoạt động chủ

yếu về đêm ở giữa buổi tối muộn đến sau nửa đêm [5, 25]; theo Đặng Huy Huỳnh và

cs. (2010) cầy chỉ ghép đôi trong mùa sinh sản [7]. Trong điều kiện nuôi, nếu ghép đôi

không đúng thời điểm động dục của cầy cái, chúng sẽ cắn nhau. Sau khi cầy vòi hương

cái động dục và đủ điều kiện sinh sản người chăn nuôi tiến hành ghép đôi. Sau khi cho

cầy đực vào chung chuồng, cầy vòi hương cái thường chạy vòng quanh chuồng trong

khoảng thời gian ngắn. Nếu cầy cái có các biểu hiện phản ứng mạnh như cắn lại con

đực thì cần tách chuồng ngay, có thể thay đổi con đực khác. Trong điều kiện nuôi, hoạt

động giao phối có thể diễn ra ban ngày hoặc ban đêm, nhưng chủ yếu là ban đêm.

Hình 3. 7. Cầy vòi hương được ghép Hình 3. 6. Cầy vòi hương nuôi theo từng ô

đôi theo cặp đực và cái trong mùa sinh chuồng, xen kẽ đực và cái.

sản.

Trong thời gian nghiên cứu, theo dõi kết quả sinh sản của 42 cầy vòi hương cái,

với 84 lượt ghép đôi, tỉ lệ mang thai và thời gian mang thai được trình bày ở bảng 3.6.

Bảng 3.6 cho thấy, có sự khác nhau đáng kể về tỉ lệ mang thai ở hai địa điểm

nghiên cứu. Tại Trung tâm Ứng dụng Công nghệ sinh học Đồng Nai vào khoảng từ

tháng 2 đến tháng 4, chọn ra những con cái giống có độ tuổi trên 12 tháng và cân nặng

trung bình trên 2 kg đã từng có biểu hiện động dục trước đó và tiến hành ghép đôi hàng

loạt. Cho con đực giống vào chung một chuồng với cầy cái (theo từng đôi một) trong

khoảng thời gian 1 tuần, sau đó tách riêng và theo dõi cầy cái trong thời gian tiếp theo.

54

Nếu cầy chưa mang thai thì tiến hành ghép đôi lại, khi cầy cái đã mang thai thì tách cầy

vào khu chuồng sinh sản để thuận tiện chăm sóc và theo dõi. Việc ghép đôi hàng loạt

thực hiện vào khoảng tháng 2 đến tháng 4, phù hợp với thời gian động dục của cầy sống

trong thiên nhiên [7]; tuy nhiên, tỉ lệ mang thai chưa cao, chỉ đạt 46,67%.

Bảng 3. 6. Tỉ lệ và thời gian mang thai ở cầy vòi hương

Số lượng cầy Số lượng cầy Tỉ lệ Thời gian mang Địa điểm ghép đôi (n=84) mang thai (con) mang thai (%) thai (ngày)

Đồng Nai 30 14 46,67a 61,2

Thủ Đức 54 42 77,78b 60,8

X̅ 66,67 60,9

SD 1,3

Ghi chú: các ký tự trong cùng một cột khác nhau thì sự khác nhau có ý nghĩa thống

kê (P<0,05).

Tại trang trại Động vật hoang dã Thanh Long - Thành phố Hồ Chí Minh, khi

quan sát thấy cầy vòi hương cái có biểu hiện lên giống, tiến hành cho con đực giống

vào chung ô chuồng con cái để ghép đôi giao phối. Sau khi giao phối xong sẽ tách

chuồng và tiến hành theo dõi, nếu cầy cái chưa mang thai và động dục lại thì cho giao

phối lại. Tỉ lệ mang thai của cầy vòi hương cái tại đây khá cao, khoảng 77,78%, cao

hơn 31,11% so với tỉ lệ mang thai của cầy tại Đồng Nai (P<0,05). Như vậy, có thể do

kỹ thuật ghép đôi giao phối đã ảnh hưởng đến tỉ lệ mang thai của cầy ở hai địa điểm.

Bảng 3.6 cũng cho thấy, tỉ lệ mang thai trung bình của cầy vòi hương trong điều

kiện nuôi nhốt chưa cao (66,67%), công tác nhân giống gặp nhiều hạn chế, chưa đáp

ứng được nhu cầu về con giống nên giá thành còn cao. Việc phối giống đúng thời điểm

cầy cái đang trong thời gian động dục có ảnh hưởng lớn đến tỉ lệ mang thai của cầy. Vì

vậy, cần tiếp tục nghiên cứu về các tập tính sinh sản, theo dõi động thái hormone sinh

dục của cầy vòi hương, đánh giá chính xác về chu kì động dục để có thể tiến hành ghép

đôi đúng lúc nhằm tăng tỉ lệ mang thai, cải thiện năng suất sinh sản trong điều kiện

nuôi. Nội dung nghiên cứu này được thực hiện ở phần 3.3.

55

Thời gian mang thai trung bình của cầy vòi hương là 60,9 ngày; không có sự sai

khác đáng kể về thời gian mang thai của cầy ở hai trang trại (P>0,05) và tương đương

với thời gian mang thai của cầy trong tự nhiên, khoảng 2 tháng [111], từ 60-63 ngày

[7].

Mùa sinh sản: trong 56 lứa đẻ được quan sát, thời gian đẻ diễn ra ở tất cả các

mùa trong năm, tuy nhiên, thời gian có số lứa đẻ cao là tháng 1-3 (21,12%), cao nhất là

tháng 4-6 (42,85%);chiếm tỉ lệ ít hơn là tháng 7-9 (16,07%) và tháng10-12 (19,64%).

Kết quả này phù hợp với mùa sinh sản của cầy vòi hương trong tự nhiên, mùa động dục

chủ yếu là tháng 2-4 [7].

3.1.3.3. Số cầy sinh ra trên lứa, tỉ lệ sống sót, đặc điểm con sơ sinh và tuổi cai

sữa

Sau khi cầy vòi hương cái mang thai tiến hành tách cầy cái ra khu vực chuồng

nuôi sinh sản. Kết quả theo dõi số cầy non sinh ra trên lứa, đặc điểm con sơ sinh và tỉ

lệ sống sót của 56 lứa đẻ theo dõi được trình bày ở bảng 3.7.

Khối lượng (X̅

, gr)

Số con sống sót (con / tỉ lệ %)

Địa điểm

Số cầy mẹ (con) n=56

Số con sinh ra (con)

Sau khi sinh

Sau 24h

Sau 48h

Sau 1 tuần

Sau 1 tháng

Khi cai sữa

Con sơ sinh

Khi cai sữa

22

20

20

17

17

17

96,93

585,36

Đồng Nai (n= 14)

84,62

76,92 76,92

65,38

65,38

65,38

4 6 3 1

X̅ 1 Sx

96,93 7,45

585,36 26,85

107

101

97

93

92

92

94,57

592,65

Thủ Đức (n=42)

6 15 14 7

100,00

94,39 90,65

86,92

85,98

85,98

X̅ 2 Sx X̅

1 2 3 4 1,86a 0,77 1 2 3 4 2,55b 0,92 2,38

96,15 90,03 87,22

81,53

80,83

80,83

94,57 6,27 95,16

59142 19,38 590,83

Bảng 3 .7. Số cầy vòi hương con sinh ra trên lứa và tỉ lệ sống sót

Ghi chú: các ký tự trong cùng một cột khác nhau thì các khác nhau có ý nghĩa thống

kê (P<0,05). Thời gian cai sữa là 45 ngày.

56

Bảng 3.7 cho thấy, cầy đẻ mỗi lứa từ 1 – 4 con. Ở Đồng Nai, có số con trên lứa

trung bình 1,86 ± 0,77 con, thấp hơn so với ở Thủ Đức 2,55 ± 0,92 con (P<0,05). Số

con trên lứa trung bình của cả 56 lứa được theo dõi là 2,38 con. Trong tự nhiên, theo

Đặng Huy Huỳnh và cs. (2010), cầy đẻ 2-4 con [7]; theo Nelson (2013) là 2-5 con, trung

bình 3,4 con/ lứa [111]. Trong số cầy vòi hương được theo dõi, chưa ghi nhận trường

hợp đẻ 5 con/lứa.

Như vậy, số con trên lứa của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi tương đương

với ngoài tự nhiên, tuy nhiên, trung bình chung thì thấp hơn. Theo kinh nghiệm chăn

nuôi tại trang trại ở Thủ Đức, việc ghép đôi được tiến hành vào ngày thứ 2 của giai đoạn

động dục (kéo dài 2-3 ngày) nên có số con trên lứa cao hơn, có thể thời điểm ghép đôi

có ảnh hưởng đến số con sinh ra.

Số con sống sót sau khi sinh chịu ảnh hưởng bởi điều kiện nuôi dưỡng và chăm

sóc, mặt khác, cầy vòi hương có nguồn gốc từ động vật hoang dã nên dễ bị tác động từ

các yếu tố môi trường sống. Trong giai đoạn nuôi con, nếu có những tác động bất thường

về tiếng ồn hoặc người lạ xuất hiện sẽ gây stress cho cầy mẹ, hoặc do tập tính bảo vệ

con mà cầy mẹ có thể dùng miệng gắp con gây thương tích và thậm chí chết con non.

Kết quả bảng 3.7 cũng cho thấy, có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ sống sót của hai địa

điểm nghiên cứu. Tại Đồng Nai, tỉ lệ sống sót đến khi cai sữa là 65,38%, đã xảy ra 2

trường hợp cầy mẹ ăn con non sau khi sinh trong quá trình nghiên cứu. Ở trang trại

động vật hoang dã Thanh Long, tỉ lệ sống sót sau khi sinh khá ổn định. Sau khi cai sữa

và tách chuồng, số lượng cầy non vẫn ổn định. Tỉ lệ sống sót khi cai sữa đạt 85,98%.

Qua đó cho thấy, tuy cầy đã được thuần dưỡng, nhưng trong điều kiện nuôi cần tránh

những tác động có ảnh hưởng đến bản năng tự vệ và tập tính hoang dã của cầy; nhất là

trong giai đoạn sinh sản, cần lưu ý hạn chế cho người lạ vào khu vực nuôi nhốt.

Trước khi đẻ 1 – 4 ngày, cầy cái thở mạnh, bụng phình to, vú sưng đỏ, có thể cắn

phá chuồng, biểu hiện khó chịu. Qua theo dõi thời gian ghép đôi và dự tính thời gian đẻ

(thời gian mang thai khoảng 60 ngày), người chăn nuôi tiến hành chuẩn bị chuồng cho cầy

sinh sản trước ngày sinh từ 7-10 ngày. Đặt vào chuồng nuôi cái khay hoặc rổ (thường được

làm bằng nhựa) đủ diện tích cho mẹ con cầy sinh hoạt thoải mái. Chiều cao của khay trung

bình từ 15 – 20 cm, nếu thấp quá cầy con sẽ dễ bò ra ngoài, quá cao sẽ gây khó khăn cho

57

cầy mẹ khi ra vào. Lót vải khô và sạch để giữ ấm cho cầy non sau khi sinh. Sau khi sinh,

do tập tính tự vệ và bản năng chăm sóc con cầy mẹ hung dữ hơn, cầy mẹ rất quan tâm đến

vệ sinh cho cầy con, thường hay liếm và làm sạch ổ đẻ.

Cầy vòi hương sơ sinh có vành tai còn dính sát vào da đầu, mắt khép kín và lông

màu đen sẫm bao phủ cơ thể. Cầy sơ sinh rất nhỏ, yếu chưa thể đứng vững được, có

khối lượng trung bình 95,16 gram. Theo Nelson (2013), cầy sơ sinh chỉ nặng khoảng

80 gram [111], theo Đặng Huy Huỳnh và cs. (2010) cầy con nặng khoảng 250 gram [7].

Sau thời gian 7-10 ngày, vành tai cầy mở ra, từ 12 – 15 ngày cầy sẽ mở mắt. Sau khi

mở mắt, cầy con di chuyển nhiều hơn, có thể bò ra khỏi ổ; vì vậy, cần lưu ý mắt lưới

của sàn chuồng cần có kích thước đủ nhỏ để tránh cầy con bị lọt sàn rơi xuống đất.

Hình 3. 8. Cầy vòi hương mẹ và cầy con 10 ngày Hình 3. 9. Cầy vòi hương sau khi cai

tuổi sữa sữa (3 tháng)

Thời gian cai sữa: Trong điều kiện nuôi, quan sát cho thấy, cầy con khoảng 25-

30 ngày tuổi đã tìm đến dụng cụ đựng thức ăn và liếm thức ăn của cầy mẹ. Nếu không

tách con, khoảng 50-60 ngày cầy mẹ có biểu hiện tránh không cho con bú. Thông

thường, qua 45 ngày sau khi sinh, tiến hành tách bầy, cầy vòi hương non được mang ra

chuồng riêng để cai sữa mẹ. Khối lượng trung bình khi cai sữa vào 45 ngày tuổi là

590,83 gram. Trong thời gian này, cho cầy non ăn cháo loãng, cần theo dõi đến sức

khỏe và sự sinh trưởng của cầy thường xuyên.

58

3.2. Kết quả nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí – sinh hóa máu, nước tiểu của cầy

vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt

3.2.1. Một số chỉ tiêu sinh lí máu của cầy vòi hương theo giới tính

Kết quả nghiên cứu các chỉ số sinh lí của 186 mẫu máu từ 62 cá thể cầy vòi

hương trưởng thành (30 đực, 32 cái) được trình bày qua bảng 3.8.

Bạch cầu: Bạch cầu là thành phần quan trọng tham gia vào hệ miễn dịch của cơ

thể. Số lượng bạch cầu có thể biến động theo trạng thái cơ thể. Sự tăng giảm bạch cầu

liên quan đến các trạng thái bệnh của cơ thể, khi bị nhiễm khuẩn thì số lượng bạch cầu

tăng [73, 112]. Số lượng bạch cầu (WBC) trung bình là 12,32 x 109/L, có sự khác biệt

đáng kể giữa con đực (11,61 x 109/L) và con cái (12,97 x 109/L) (P<0,05).

Số lượng bạch cầu trong nghiên cứu này cao hơn đáng kể so với kết quả của

Salakij et al. (2007), với 4 cá thể được theo dõi thì chỉ số này là 6,262 x 109/L [36]. Tuy

nhiên, lại khá tương đồng với nghiên cứu của Ahmad et al. (2017), dao động từ 3,55-

20,33 x 109/L [37]. Công thức bạch cầu (Lymphocyte, Monocyte, Gran) không có sự

khác biệt đáng kể giữa cá thể đực và cái. Kết quả cho thấy số lượng có biên độ dao động

và tỉ lệ từng loại trong công thức bạch cầu phù hợp với kết quả của nhóm tác giả Ahmad

et al. (2017) (Lymphocyte: 1,05-8,26 x 109/L; Monocyte: 0,06-1,33 x 109/L; Gran:

2,38-14,82 x 109/L) [37].

Hồng cầu: Chỉ số hồng cầu trong máu thể hiện sức sống và phản ánh tình trạng

sức khỏe của con vật. Khi số lượng hồng cầu cao và ổn định chứng tỏ vật nuôi sinh

trưởng tốt và thích nghi với điều kiện nuôi [73].

Bảng 3.8 cho thấy, số lượng hồng cầu (RBC) trung bình là 11,06 x 1012/L, ở con

đực (9,89 x 1012/L) thấp hơn so với con cái (11,99 x 1012/L), tuy nhiên sự khác biệt này

là không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Chỉ số này thấp hơn so với nhóm cầy được

nghiên cứu ở Thái Lan (13,3 x 1012/L) [36]. Điều này có thể giải thích, do nghiên cứu

trước đó chỉ mới tiến hành trên 4 cá thể, cỡ mẫu ít nên giá trị trung bình chưa có tính

đại diện. Kết quả trong nghiên cứu này có biên độ rộng hơn (7,5 - 17,6 x 1012/L), nhưng

khá tương đồng với số lượng hồng cầu của nghiên cứu trên 33 cá thể cầy ở Singapore

với biên độ dao động từ 9,16 - 16,25 x 1012/L [37].

59

Đực (n= 30)

Cái (n= 32)

Chung (n= 62)

Chỉ số

X̅ ± SD

X̅ ± SD

X̅ ± SD

Min

Max

7,9

WBC (109/L)

11,61 ± 2,13a

12,97 ± 3,49b

12,32 ± 2,98

20,8

1,5

Lympho (109/L)

4,99 ± 2,22a

6,12 ± 2,38b

5,57 ± 2,36

8,9

0,1

Mono (109/L)

0,46 ± 0,14

0,53 ± 0,23

0,48 ± 0,19

1,2

2,1

Gran (109/L)

6,17 ± 1,81

6,12 ± 2,38

6,26 ± 2,00

10,7

Lympho (%)

41,94 ± 15,44

46,39 ± 13,99

44,24 ± 14,82

16,5

73,2

Mono (%)

4,07 ± 1,47

3,87 ± 1,42

3,96 ± 1,44

1,2

9,8

Gran (%)

54,00 ± 15,57

49,75 ± 13,98

51,80 ± 14,86

21,6

80,7

RBC (1012/L)

9,89 ± 2,95

11,99 ± 2,72

11,06 ± 2,88

7,5

17,6

HGB (g/L)

121,98 ± 13,19

119,58 ± 16,07

120,74 ± 14,74

92

149

HCT (%)

21,70 ± 4,54

37,25 ± 7,34

29,74 ± 9,92

13,7

45,2

MCV (fL)

36,75 ± 3,2

31,99 ± 2,49

34,31 ± 3,72

27,8

39,9

6,4

MCH (pg)

13,56 ± 4,84

10,47 ± 2,58

11,96 ± 4,12

27,1

2,1

MCHC (g/dL)

5,87 ± 1,41

3,32 ± 0,72

4,55 ± 1,68

9,4

RDW (%)

16,99 ± 0,46

17,15 ± 0,87

17,29 ± 1,08

14,7

19,8

PTL (109/L)

340,02 ± 93,08

332,73 ± 83,85

336,25 ± 88,14

218

712

MPV (fL)

6,54 ± 0,80

6,73 ± 0,8

6,64 ± 0,8

5,2

10,1

PDW

14,09 ± 0,76

14,22 ± 0,75

14,15 ± 0,75

12

15,3

PCT (%)

0,21 ± 0,05

0,21 ± 0,04

0,21 ± 0,04

0,1

0,3

Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một cột thì sự khác nhau có ý nghĩa thống kê

(P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. RBC (Red blood cells), HGB (Hemoglobin),

HCT (Hematocrit), MCV (Mean corpuscular volume), MCH (Mean corpuscular hemoglobin), MCHC

(Mean corpuscular hemoglobin concentration), RDW (Red cell distribution width), PTL (Platelet),

MPV (Mean platelet volume), PDW (Platelet distribution width), PCT (Plateletcrit).

Bảng 3. 8. Một số chỉ số sinh lí máu của cầy vòi hương theo giới tính

Hàm lượng hemoglobin trung bình là 120,74 gr/L, với biên độ dao động từ 92-

149 gr/L. Chỉ số này không có sự khác biệt đáng kể (P>0,05) giữa con đực (121,98

gr/L) và con cái (119,58 gr/L). Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu trước đó

60

của Salakij et al. (2007) (139 gr/L) [36] và của Ahmad et al. (2017) (85- 167 gr/L) [37].

Thể tích trung bình của hồng cầu (MCV) là 34,31 fL phù hợp với kết quả nghiên cứu

của Salakij et al. (2007) (32,3 fL) ) [36] và cao hơn của Ahmad et al. (2017) (27,91-

29,8 fL) [37]. Các chỉ số tỉ lệ thể tích hồng cầu trên thể tích máu toàn phần (HCT), trung

bình huyết sắc tố trên một hồng cầu (MCH), nồng độ trung bình của huyết sắc tố trong

một thể tích máu (MCHC) và độ phân bố hồng cầu (RDW) sự khác biệt không có ý

nghĩa thống kê giữa cá thể đực và cái (P>0,05) và có sự tương quan giữa kết quả của

nghiên cứu này với các nghiên cứu trước đó trên cầy vòi hương [36, 37].

Tiểu cầu: Bảng 3.8 cho thấy, số lượng tiểu cầu (PTL) chung là 336,25 x 109/L.

Số lượng này ở cá thể đực (340,02 x 109/L) cao hơn cá thể cái (332,73 x 109/L), tuy

nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Tiểu cầu có chức năng chính

tham gia vào quá trình đông máu, số lượng không ổn định mà dao động tùy theo trạng

thái cơ thể [73]. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Salakij et al. (2007)

trên nhóm cầy được nghiên cứu ở Thái Lan (403,5 x 109/L) [36], nhưng biên độ thấp

hơn đáng kể so với nghiên cứu của Ahmad et al. (2017) trên cầy được giải cứu ở

Singapore (130-1.921 109/L) [40]. Điều này có thể lí giải, những cá thể cầy ở Singapore

sau khi bị bắt trước khi giải cứu trả về tự nhiên đã có cơ chế phản vệ làm tăng sinh tiểu

cầu. Các chỉ số thể tích trung bình của tiểu cầu (MDV), độ phân bố tiểu cầu (PDW), thể

tích khối tiểu cầu (PCT) sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa cá thể đực và cái

(P>0,05), và có độ ổn định hơn (biên độ hẹp hơn) so với nghiên cứu của Ahmad et al.

(2017) [40].

3.2.2. Một số chỉ tiêu sinh lí máu của cầy vòi hương theo tuổi

Tuổi có ảnh hưởng đến các chỉ số huyết học trên thú [113, 114]. Cầy vòi hương

có tuổi thành thục về tính trung bình ở 11-12 tháng tuổi. Chúng tôi theo dõi các chỉ số

sinh lí máu theo 2 nhóm tuổi: Sau cai sữa và trước thành thục sinh dục (3-<12 tháng),

nhóm trưởng thành (>12 tháng). Kết quả nghiên cứu các chỉ số sinh lí của 180 mẫu máu

từ 60 cá thể cầy vòi hương theo nhóm tuổi được trình bày qua bảng 3.9.

Công thức bạch cầu là một trong các cơ sở để chẩn đoán và điều trị bệnh. Bảng

3.9 cho thấy, số lượng bạch cầu (WBC) trong một đơn vị thể tích máu không có sự khác

biệt đáng kể. Tuy nhiên, trong công thức bạch cầu thì số lượng và tỉ lệ các loại

61

Lymphocyte và Monocyte có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi

(P<0,05).

3-<12 tháng (n= 31)

>12 tháng (n=31)

Chỉ số

X̅ ± SD

X̅ ± SD

WBC (109/L)

13,92 ± 3,11

10,72 ± 1,74

Lympho (109/L)

6,33 ± 1,84a

4,82 ± 2,59b

Mono (109/L)

0,51 ± 0,21a

0,45± 0,18b

Gran (109/L)

7,08 ± 1,96

5,26 ± 1,72

Lympho (%)

45,47 ± 8,19a

43,00 ± 19,31b

Mono (%)

3,69 ± 1,09a

4,24 ± 1,69b

Gran (%)

50,84 ± 8,42

52,76 ±19,31

RBC (1012/L)

12,43 ± 2,97a

9,52 ± 2,27b

HGB (g/L)

120,80 ± 14,84

120,68 ± 14,76

HCT (%)

32,80 ± 11,14a

26,68 ± 7,43b

MCV (fL)

32,63 ± 3,54

36,02 ± 3,08

MCH (pg)

10,29 ± 2,71

13,63 ± 4,62

MCHC (g/dL)

4,29 ± 1,99

4,82 ± 1,26

RDW (%)

16,99 ± 0,95a

17,59 ± 1,11b

PTL (109/L)

313,80 ± 51,47a

358,70 ± 109,52b

MPV (fL)

6,45 ± 0,48a

6,83 ± 0,99b

PDW

14,17± 0,73

14,08 ± 0,82

PCT (%)

0,21 ± 0,05

0,21 ± 0,04

Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một cột thì sự khác nhau có ý nghĩa

thống kê (P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. RBC (Red blood cells), HGB

(Hemoglobin), HCT (Hematocrit), MCV (Mean corpuscular volume), MCH (Mean corpuscular

hemoglobin), MCHC (Mean corpuscular hemoglobin concentration), RDW (Red cell distribution

width), PTL (Platelet), MPV (Mean platelet volume), PDW (Platelet distribution width), PCT (Plateletcrit).

Bảng 3. 9. Các chỉ số sinh lí máu của cầy vòi hương theo nhóm tuổi

62

Số lượng và tỷ lệ giữa các thành phần trong công thức bạch cầu thay đổi theo

nhóm tuổi và tùy thuộc vào trạng thái bệnh của cơ thể [73]. Số lượng và tỷ lệ bạch cầu

Lymphocyte trong nghiên cứu này cao hơn so với kết quả nghiên cứu trên nhóm cầy ở

Thái Lan và Singapore [36, 37], có thể là do đặc điểm thích nghi đã tăng cường khả

năng miễn dịch trong điều kiện nuôi nhốt.

Số lượng hồng cầu (RBC) có xu hướng giảm theo nhóm tuổi, sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê giữa nhóm 3-<12 tháng tuổi (12,43 x 1012/L) và nhóm >12tháng tuổi

(9,52 x 1012/L) (P<0,05). Kết quả này phù hợp với sinh lí của con vật, số lượng hồng

cầu biến đổi theo nhóm tuổi và ở cá thể còn non số lượng hồng cầu trên cùng một thể

tích máu nhiều hơn [73], và cũng phù hợp với nhận định trên nghiên cứu ở một số vật

nuôi khác [113, 114]. Tuy nhiên, so với kết quả của Ahmad et al. (2017) thì có sự sai

khác, số lượng hồng cầu trong nghiên cứu của nhóm tác giả này ở con trưởng thành cao

hơn con chưa trưởng thành (P<0,05) [37]. Điều này do sự xác định tuổi trên cầy, nhóm

tác giả dựa vào cân nặng làm cơ sở, do đó các cá thể được theo dõi có thể được phân

loại theo tuổi chưa chính xác.

Bảng 3.9 cũng cho thấy, độ phân bố hồng cầu (RDW) có xu hướng tăng dần qua

các nhóm tuổi và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) giữa nhóm 3-<12 tháng

tuổi (16,99%) và nhóm >12tháng tuổi (17,59%).

Các chỉ số lượng hemoglobin (HGB), thể tích trung bình hồng cầu (MCV), nồng

độ trung bình của huyết sắc tố trong một thể tích máu (MCHC), thể tích trung bình của

tiểu cầu (MDV), độ phân bố tiểu cầu (PDW) và thể tích khối tiểu cầu (PCT) không có

sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm tuổi được nghiên cứu (P>0,05). Kết quả này phù

hợp với nhận định của Ahmad et al. (2017) [37].

Số lượng tiểu cầu có xu hướng tăng qua các nhóm tuổi, ở nhóm 3-<12 tháng tuổi

có số lượng tiểu cầu trung bình 313,80 x 109/L, thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với

nhóm tuổi >12 tháng (358,70 x 109/L).

3.2.3. Các chỉ số sinh hóa máu của cầy vòi hương

Các chỉ tiêu sinh hóa máu của cầy vòi hương theo giới tính được thể hiện trong

bảng 3.10.

63

Đực (n= 30)

Cái (n= 32)

Chung (n= 62)

Chỉ số

X̅ ± SD

X̅ ± SD

X̅ ± SD

Min

Max

Total Protein (g/L)

73,56 ±7,34a

64,18 ±6,62b

68,87±5,38

63,00

83,00

Globulin (g/L)

32,43±5,12a

26,51±4,13b

29,47±5,47

16,00

47,00

Albumin (g/L)

41,26±7,07a

37,74±6.23b

39,5±6,56

25,00

51,00

Glucose (mmol/L)

8,54±2,05

7,16±2,12

7,85±2.16

4,20

11,50

BUN (mmol/L)

3,74±2,45

3,62±1,61

3,68±2,36

3,50

8,20

Creatinine

53,26±14.21

49,32±10.34

51,29±12,73

36,00

88,00

(µmol/L)

AST (U/L)

10,58±1.06

10,52±1.51

10,55±1.59

6,00

19,00

ALT (U/L)

17,25±1.24

14,82±1.19

16,04±1.52

5,00

26,00

ALP (U/L)

37,42±11,01

32,36±12,06

34,89±11,57

15,00

76,00

Na (mmol/L)

144,28 ± 5.32

141,36 ± 5.38

142,82 ± 5.34

139,00

145,0

K (mmol/L)

4,67±0,74

4,35±0,52

4,56±0,64

3,50

4,60

Ca (mmol/L)

2,79±0,38

2,68±0,28

2,74±0,32

2,53

2,98

P (mmol/L)

2,32±0,32a

1,49±0,29b

1,91 ±0,30

1,22

3,23

Cl (mmol/L)

108,21±0,91

107,56±0,89

107,89±0,91

101,00

112,0

Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một cột thì sự khác nhau có ý nghĩa thống kê

(P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. BUN = Blood urea nitrogen, AST= Aspartate

transaminase, ALT= Alanin amino transferase, ALP= Alkaline phosphatase.

Bảng 3. 10. Các chỉ số sinh hoá máu của cầy vòi hương theo giới tính

Bảng 3.10 cho thấy, tổng lượng protein huyết thanh (TP), globulin, albumin và

phospho ở cầy đực cao hơn ở cầy cái và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P <0,05).

Giới tính ảnh hưởng đến các thông số sinh lý máu trên cầy, ảnh hưởng đến một số chỉ

số sinh hóa máu ở động vật khác, phản ánh sự trao đổi chất ở con đực cao hơn ở con

cái [115, 116]. Như được thể hiện trong bảng 3.10, các thông số sinh hóa máu ở cả

nhóm cầy đực và cái được nghiên cứu đều nằm trong phạm vi bình thường đã báo cáo

trong nghiên cứu trước đây [37]. Tuy nhiên, biên độ của hầu hết các chỉ số trong nghiên

cứu này là hẹp hơn. Điều này có thể được giải thích, trong điều kiện nuôi dưỡng và dinh

64

dưỡng tương đối đồng đều, các chỉ số sinh hoá máu ổn định hơn. Mặt khác, có sự khác

biệt đáng kể về chỉ số ALT so với nghiên cứu trước đây ở Singapore [37]. Thông

thường, ALT trong máu của động vật là 40-100 UI/L, phạm vi của con số này có thể

thay đổi do một số yếu tố như tuổi tác, giới tính. Ở thỏ, trung bình ALT là 7,0-7,2 UI/L

[117]; ở chó sói, ALT ở con đực là 70,1 UI/L và ở con cái là 66,1 UI/L [115].

Các thông số sinh hóa máu được theo dõi ở hai nhóm tuổi: chưa thành thục (3-

<12 tháng) và trưởng thành (> 12 tháng), kết quả được thể hiện trong bảng 3.11.

3-<12 tháng (n= 31)

>12 tháng (n=31)

Chỉ số

X̅ ± SD

X̅ ± SD

Total Protein (g/L)

63,45±5,43a

74,29 ±5,72b

Globulin (g/L)

25,72±4,46a

33,22±6,12b

Albumin (g/L)

36,44 ±6,06a

42,56 ±7,27b

Glucose (mmol/L)

9,42±2,43a

6,28±2,22b

BUN (mmol/L)

3,94±2,06

3,42±2,55

Creatinine (µmol/L)

49,13±11,29

53,45±13,36

AST (U/L)

9,72±1,41

11,38±1,62

ALT (U/L)

13,24±1,45a

18,84±1,67b

ALP (U/L)

48,42±11,78a

21,36±10,52b

Na (mmol/L)

140,45±4,88

145,19±5,73

K (mmol/L)

4,43± 0,53

4,69 ± 0,77

Ca (mmol/L)

2,55±0,26a

2,93±0,45b

P (mmol/L)

2,23±0,36a

1,59±0,22b

Cl (mmol/L)

96,86±0,87a

118,92±0,92b

Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một cột thì sự khác nhau có ý nghĩa

thống kê (P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. BUN = Blood urea nitrogen, AST= Aspartate transaminase, ALT= Alanin amino transferase, ALP= Alkaline phosphatase

Bảng 3. 11. Các chỉ số sinh hoá máu của cầy vòi hương theo tuổi

65

Xét về độ tuổi, tổng lượng protein huyết thanh (TP), globulin, albumin, alanine

aminotransferase (ALT), canxi và chlorine ở cầy trưởng thành (> 12 tháng) cao hơn

đáng kể so với ở cầy chưa thành thục (P <0,05). Hàm lượng glucose, phosphatase kiềm

(ALP) và hàm lượng phốt pho ở cầy non cao hơn đáng kể so với cầy trưởng thành (P

<0,05). Sự phân bố của phốt pho ở cầy non cao hơn ở cá thể trưởng thành, phản ánh sự

phát triển xương, chuyển hoá cũng như tăng hấp thu phosphate do tăng trưởng nội tiết

ở cầy non [37, 117]. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu khác về các chỉ số

sinh hóa ở động vật thuộc lớp thú [113, 114, 118].

Sự hiểu biết về các thông số sinh hóa của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi sẽ

cung cấp dữ liệu quan trọng cho việc chăm sóc và theo dõi sức khoẻ để tăng cường hỗ

trợ cho việc bảo tồn loài này.

3.2.4. Một số chỉ tiêu sinh hóa nước tiểu của cầy vòi hương theo giới tính

Kết quả nghiên cứu các chỉ số sinh hóa của 244 mẫu nước tiểu từ 62 cá thể cầy

vòi hương (30 đực, 32 cái) được trình bày qua bảng 3.12.

Urobilinogen là sản phẩm được tạo thành từ sự thoái hóa của bilirubin. Nó được

thải ra ngoài cơ thể theo phân, chỉ một lượng nhỏ urobilinogen có trong nước tiểu.

Urobilinogen có trong nước tiểu có thể là dấu hiệu của bệnh về gan. Chỉ số cho phép ở

người và thú là 3,5-17 mmol/L [73, 112]. Ở cầy vòi hương, chỉ số urobilinogen trung

bình là 10,54 µmol/L, có sự khác biệt thống kê (P<0,05) giữa con đực (10,14 µmol/L)

và con cái (11,18 µmol/L).

Glucose được tái hấp thu và thường không có trong nước tiểu của người và động

vật khỏe mạnh, tuy nhiên một lượng nhỏ glucose trong nước tiểu cũng có thể tìm thấy

ở vật nuôi khi hoạt động quá mạnh hoặc stress [112]. Trong nghiên cứu này, có 228/240

mẫu (90,9%) là âm tính, có 22/240 mẫu (9,1%) có chỉ số glucose là 5 mmol/L, giá trị

trung bình của cả 240 mẫu nước tiểu được nghiên cứu là 0,46 mmol/L, sự khác biệt trị

số glucose giữa con đực (0,52 mmol/L) và con cái (0,41 mmol/L) có ý nghĩa thống kê

(P<0,05). Sự gia tăng nồng độ glucose trong nước tiểu ở một số con đực có thể là do

hoạt động nhiều hơn hoặc do stress. Thông thường, một lượng glucose thấp có thể tìm

thấy trong nước tiểu ở chó, mèo, thỏ khỏe mạnh khi có các yếu tố căng thẳng khác nhau.

Theo Özkan el al. (2012), chỉ số bình thường ở thỏ là 0,31-0,38 mmol/L [117].

66

Đực (n= 30)

Cái (n= 32)

Chung (n= 62)

Chỉ số

X̅ ± SD

X̅ ± SD

X̅ ± SD

Min Max

Urobilinogen (µmol/L)

10,14 ±1,22

11,18 ±1,52

10,66±1,38

3,5

70

Glucose (mmol/L)

0,52±0,19a

0,41±0,12b

0,47±0,19

0

5

Billirubin (µmol/L)

0,45±0,07

0,37±0,06

0,41±0,06

0

2

Ketone (mmol/L)

0,14±0,02

0,16±0,02

0,15±0,02

0

1,5

Specific Gravity

1,02±0,01

1,02±0,01

1.02±0,01

1

1,03

Blood (Ery/µL)

neg

neg

neg

neg

neg

pH

7,54±0,06

7,52±0,56

7,53±0,59

6

9

Protein (g/L)

17,01±1,24

14,88±1,19

15,95±1,22

0

30

Nitrite

Neg

neg

neg

neg

neg

Leukocytes (Leu/µL)

4,82 ± 0,32

4,36 ± 0,38

4,59 ± 0,34

0

500

Ascorbic acid (mmol/L)

0,17±0,04

0,15±0,02

0,16±0,04

0

2,4

K (mmol/L)

179,14±59,38

179,36±53,28

179,25±56,3

32,3

320,8

Na (mmol/L)

75,12±13,02a

78,49±15,09b

76,81 ±14,17

45,5

124,7

Cl (mmol/L)

152,18±48,41

154,87±37,26

153,53±43,13

54,5

302,5

Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một cột thì sự khác nhau có ý nghĩa thống kê

(P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. Neg=Negative (âm tính).

Bảng 3. 12. Các chỉ số sinh hoá nước tiểu của cầy vòi hương theo giới tính

Ketone xuất hiện trong nước tiểu bất cứ khi nào cơ thể phân hủy lượng mỡ dư

thừa để đáp ứng nhu cầu về năng lượng. Điều này xảy ra thường xuyên nhất trong bệnh

đái tháo đường, nhưng cũng có thể tìm thấy ở những con vật khỏe mạnh trong suốt thời

gian nhịn ăn hoặc đói [73, 112]. Trong nghiên cứu này, 67,1% mẫu xét nghiệm là âm

tính; chỉ số Ketone trung bình là 0,15 ASC và không có sự khác nhau đáng kể giữa giới

đực và cái.

Theo Nguyễn Đình Giậu và cs. (2010), Bilirubin được sản xuất trong gan và

thường được bài tiết trong mật. Giá trị bình thường ở người và động vật là 6,8-17

µmol/L. [73]. Theo Padma (2012), số lượng bilirubin bất thường trong nước tiểu có

liên quan đến bệnh gan hoặc sự hủy hoại hồng cầu và cần được điều tra [112]. Trong

67

nghiên cứu này, giá trị bilirubin trung bình là 0,41 µmol/L và sự khác biệt không có ý

nghĩa thống kê (P>0,05) giữa giới đực (0,45 µmol/L) và giới cái (0,37 µmol/L).

Tỷ trọng nước tiểu (SG-Specific gravity) là chỉ số đánh giá nước tiểu loãng hay

cô đặc, thử nghiệm này phản ánh nồng độ ion trong nước tiểu và giá trị này thường thay

đổi trong ngày, phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng thiếu hay nhiều nước. Thận khỏe

mạnh thường sản xuất nước tiểu có mật độ cao (cô đặc), trong khi nước tiểu pha loãng

có thể báo hiệu bệnh cơ bản. Nếu con vật thải nước tiểu pha loãng trong thời gian dài

thì có thể có bệnh về thận hoặc chuyển hoá cơ bản và cần có thêm các xét nghiệm khác

[73, 112]. Tỷ trọng nước tiểu bình thường ở người và hầu hết các loài thú là 1,01-1,02

[73]. Ở nghiên cứu này, SG của cầy vòi hương trung bình là 1,02 và không có sự khác

nhau ở hai giới.

Hồng cầu (BLO –Blood) thường được tìm thấy trong nước tiểu một lượng nhỏ

khi được lấy bằng cách lấy nang hay catheter, nhưng một số lượng lớn hồng cầu trong

nước tiểu có thể do các điều kiện như sỏi bàng quang, nhiễm trùng, các vấn đề đông

máu, chấn thương [73]. Trong nghiên cứu này, tất cả các mẫu đều âm tính về chỉ số

Blood.

Tế bào bạch cầu (LEU -Leukocytes) trong nước tiểu cho biết có viêm nhiễm

đường tiết niệu, giá trị này tăng lên cho thấy có viêm nhiễm trong hệ tiết niệu, và thường

là do nhiễm khuẩn. Ở cầy vòi hương, trong nghiên cứu này có giá trị LEU trung bình là

4,63 Leu/µL, với biên độ dao động rộng từ 0-500 Leu/µL và không có sự khác biệt

thống kê ở hai giới. Tuy nhiên, chỉ có 1 mẫu có kết quả xét nghiệm là 500 Leu/µL và 2

mẫu có 125 Leu/µL, ba cá thể này được thu thập mẫu nước tiểu ở những lần sau đó đều

cho kết quả LEU âm tính. Có 92,08% mẫu nước tiểu âm tính về chỉ số LEU.

Độ pH cho biết tính axit hoặc kiềm của nước tiểu, có thể thay đổi theo chế độ ăn

uống, nhưng cũng có thể báo hiệu sự hiện diện của nhiễm trùng hoặc bệnh trao đổi chất

[73, 112]. Ở cầy vòi hương, trong nghiên cứu này, pH dao động từ 6 đến 9, trung bình

là 7,53 và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa giới đực (7,54) và giới cái

(7,52). Theo Nguyễn Đình Giậu và cs. (2010), nước tiểu thông thường của mèo và chó

có pH từ acide nhẹ đến tính kiềm [73]. Biên độ dao động rộng của pH nước tiểu của

cầy vòi hương (6-9) có thể là thay đổi theo chế độ ăn. Nếu ăn nhiều rau thì nước tiểu có

68

khi pH trung tính hoặc hơi kiềm; chế độ ăn nhiều thịt, pH nước tiểu càng về acide [73].

Cần có thêm nghiên cứu về ảnh hưởng của chế độ ăn đến các chỉ số sinh hóa nước tiểu

trên cầy vòi hương.

Nitrite (NIT) có mặt trong nước tiểu do vi khuẩn gây nhiễm trùng đường niệu

tạo ra enzyme nitrate reductase có thể chuyển nitrate niệu thành nitrite [73, 112]. Do

đó, nếu như tìm thấy nitrite trong nước tiểu có nghĩa là có nhiễm trùng đường niệu.

Trong nghiên cứu hiện tại, nitrit trong nước tiểu của cả 240 mẫu thu được từ 60 con cầy

đều âm tính.

Ascorbic acid (ASC): sự xuất hiện vitamin C trong nước tiểu là sự đào thải bình

thường khi lượng vitamin cung cấp nhiều hơn so với nhu cầu. Tuy nhiên, nếu ASC cao

có thể là dấu hiệu giúp phát hiện trong viêm nhiễm thận, đường tiết niệu, sỏi đường tiết

niệu [112]. Ở cầy vòi hương, ASC trung bình là 0,16 mmol/L và không có sự khác biệt

có ý nghĩa thống kê ở hai giới.

Các ion K+, Na+, Cl- trong nước tiểu cung cấp thông tin quan trọng về chức năng

thận và sự mất cân bằng điện giải ở động vật. Trong nghiên cứu này, nước tiểu của cầy

vòi hương có nồng độ K+ trung bình là 179,25 mmol/L, nồng độ Cl- trung bình là 153,53

mmol/L và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa con đực và con cái. Nồng

độ Na+ trung bình là 76,82 mmol/L; giữa con đực đực (75,12 mmol/L) và con đực cái

(78,49 mmol/L) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Hàm lượng K+, Na+ trong

nước tiểu phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng. Ở thú, K+ trung bình là 0,15%, Na+ là

0,35% [73]. Cần có những nghiên cứu tiếp theo về ảnh hưởng của chế độ nuôi dưỡng

và bệnh lý đến các chỉ số sinh hóa nước tiểu trên cầy.

3.2.5. Một số chỉ tiêu sinh hóa nước tiểu của cầy vòi hương theo tuổi

Kết quả theo dõi các chỉ số sinh hóa nước tiểu theo 2 nhóm tuổi: sau cai sữa và

trước thành thục sinh dục (3-<12 tháng), nhóm trưởng thành (>12tháng) được trình bày

ở bảng 3.13.

69

3-<12 tháng (n= 31)

>12 tháng (n=31)

Chỉ số

X̅ ± SD

X̅ ± SD

Khối lượng (g)

1.735±109,1a

3.335 ±84,7b

Dài thân (mm)

56,27±0,46a

71,62±0,41b

Urobilinogen (µmol/L)

10,44 ±1,06

10,88 ±1,27

Glucose (mmol/L)

Nega

0,47±0,22b

Billirubin (µmol/L)

0,46±0,06

0,35±0,05

Ketone (mmol/L)

0,13±0,02

0,17±0,03

Specific Gravity

1,02±0,01

1,02±0,01

Blood (Ery/µL)

neg

neg

7,55±0,17

7,51±0,52

pH

16,01±1,27

15,88±1,31

Protein (g/L)

neg

neg

Nitrite

Leukocytes (Leu/µL)

3,82 ± 0,12a

5,35 ± 0,37b

Ascorbic acid (mmol/L)

0,15±0,03

0,17±0,05

173,23±43,12

185,27±51,25

K (mmol/L)

69,86±11,07a

83,75±16,32b

Na (mmol/L)

149,58±43,42

157,47±32,24

Cl (mmol/L)

Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một cột thì sự khác nhau có ý nghĩa thống kê

(P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. Neg=Negative.

Bảng 3. 13. Các chỉ số sinh hoá nước tiểu của cầy vòi hương theo nhóm tuổi

Nghiên cứu cho thấy, các chỉ số Urobilinogen, Ketone, Ascorbic acid và Cl- có

xu hướng tăng theo độ tuổi tuổi, trong khi đó các chỉ số Billirubin, tỷ trọng, pH, protein

có xu hướng giảm dần, tuy nhiên, sự thay đổi này khác biệt không có ý nghĩa thống kê

(P>0,05).

Các chỉ số Glucose, Leukocytes, Na+ có xu hướng tăng theo độ tuổi và sự sai

khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Riêng chỉ số Glucose, tất cả các mẫu được xét

nghiệm ở độ tuổi 3-<12 tháng đều âm tính. Theo Nguyễn Đình Giậu và cs. (2010), thành

70

phần nước tiểu có thể thay đổi theo độ tuổi, chế độ dinh dưỡng và chế độ hoạt động

nhiều hay ít [73]. Ở cầy vòi hương, trong nghiên cứu này, thành phần sinh hóa của nước

tiểu ít có sự thay đổi theo độ tuổi.

3.3. Kết quả nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng hormone sinh dục của cầy vòi

hương cái trong điều kiện nuôi nhốt

3.3.1. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone trong phân cầy vòi hương

không mang thai

Sự thay đổi của hàm lượng estradiol (E2) và progesterone (P4) ở cầy không mang

thai trong nghiên cứu này được thể hiện trong bảng 3.14.

Bảng 3. 14. Phạm vi, đỉnh và chu kỳ của P4 và E2 trong thời kỳ không mang thai ở

Hormone

Chung (µg/g df)

Đỉnh (µg/g df)

Chu kì (ngày)

Min-Max

X̅ ± SD

Min-Max

X̅ ± SD

Min-Max

X̅ ± SD

E2

0,05-7,01

1,07±0,84

1,13-7,01

3,22 ± 0,64

26,8-33,1

28,6± 2,29

P4

0,15-12,32

1,72±2,16

6,03-12,32

7.26 ± 1,11

26,6-31,3

27,8 ± 2,80

cầy vòi hương

3.4.1.1. Estradiol trong phân ở cầy không mang thai

Estradiol (E2) là estrogen chủ yếu và có hoạt tính sinh học tiết ra từ cả tế bào

gốc và các tế bào hạt của các nang trứng phát triển [95]. Nồng độ E2 phân trong cầy

không mang thai dao động từ 0,05 đến 7,01 µg/g df, trung bình 1,07 ± 0,84 µg/g df và

đỉnh là 3,22 ± 0,64 µg/g df. Mặc dù, sự thay đổi hàm lượng estradiol của cầy vòi hương

chưa từng được công bố, song các giá trị estradiol trong phân ở một số loài động vật

khác đã được sử dụng rộng rãi để theo dõi hoạt động sinh dục của chúng. Theo Putranto

(2011), ở một số loài thuộc bộ ăn thịt (Carnivora), hàm lượng E2 của loài hổ Siberi dao

động từ 0,39 đến 0,49 µg/g, trung bình E2 của hổ Bengal là 0,45 µg/g, và của hổ Sumatra

là 2,36 µg/g [88].

Trong nghiên cứu này, tổng số đỉnh (peak) của E2 trung bình ở từng cầy vòi hương

riêng lẻ là 14-16 lần trong 16 tháng (Hình 3.1-3.6). Sự thay đổi nồng độ E2 cho thấy có

tính chu kỳ. Thời gian của mỗi chu kỳ dao động từ 26,8-33,1 ngày; trung bình là 28,6

71

± 2,29 ngày. Giai đoạn này có thể so sánh với (27,0 ngày) của hổ Siberia [88] và hổ

Bengal (29.3 ngày) [87]; nhưng khác với mèo (21 ngày) hoặc báo (10 -20 ngày) [119].

Putranto (2011) cho rằng bài tiết E2 trong phân có lẽ song song với sự tăng trưởng nang

và sự thay đổi đáng kể có tính chu kỳ của E2 trong phân cho thấy sự thay đổi thường

xuyên của chu kỳ buồng trứng [88]. Hình 3.10- 3.15 cũng cho thấy, trung bình từ 26,8-

33,1 ngày có một đỉnh của E2. Tuy nhiên, trong suốt thời gian theo dõi, ở mỗi cá thể

chỉ có từ 2-3 chu kì có đỉnh E2 cao vượt trội (hơn 4 µg/g df). Những đỉnh này phân bố

vào các tháng 2-5 hoặc 9-12. Điều này cũng phù hợp với mùa sinh sản của cầy trong tự

nhiên là tháng 2-4 và 10-12 [7].

3.3.1.2. Progesterone trong phân ở cầy vòi hương không mang thai

Progesterone (P4) là một hormone steroid chủ yếu được tiết ra chủ yếu từ hoàng

thể (CL) điều hòa chu kỳ động dục và duy trì thai ở tất cả các động vật có vú. Vỏ thượng

thận và nhau thai cũng tiết ra một lượng progesterone nhất định trong một số giai đoạn

sinh lý nhất định [95].

Trong nghiên cứu này, các chất chuyển hóa progesterone trong phân của cầy cái

không mang thai có mức dao động từ 0,15 đến 12,32 µg/g với trung bình chung là 1,72

± 2,16 µg/g (Bảng 3.15). Theo Putranto (2011), mức progesterone phân của hổ Siberia

dao động từ 0,27 đến 38,19 µg/g và của hổ Sumatra dao động từ 0,09 đến 18,52 µg/g,

và hàm lượng này ở Bengal Tigers là 36,05 µg/g [88].

Hàm lượng progesterone ở cầy vòi hương cũng thay đổi theo thời gian. Đỉnh

progesterone phân bố từ 6,03-12,32 (µg/g) với trung bình 7,26 ± 1,11 (µg/g). Chu kỳ

thay đổi mức progesterone dao động từ 26,6 đến 31,0 ngày với trung bình 27,8 ± 2,80

ngày.

Chúng tôi cũng nhận thấy rằng, trong cùng một chu kỳ, đỉnh E2 thường xảy ra

3-5 ngày trước đỉnh của P4 (Hình 3.10- 3.15). Theo Brown (2011), có bốn giai đoạn

của chu kỳ động dục: giai đoạn trước động dục, giai đoạn động dục, giai đoạn sau động

dục và giai đoạn nghỉ ngơi (proestrus, estrus, diestrus and anestrus). Giai đoạn động dục

đi kèm với sự phát triển nang trứng và nồng độ đỉnh của estradiol. Trong thời kì sau

động dục, một hoặc nhiều thể vàng sản xuất progesterone duy trì một mức độ cao trong

một thời gian dài [88].

72

Biểu đồ sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F1,

F3, F5, F6, F8, F11) được thể hiện qua các hình 3.10- 3.15.

F1 E2

P4

7

14

6

12

5

10

4

8

3

6

2

4

) f d g / g µ ( l o i d a r t s E

) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P

1

2

0

0

1

2

4

3

11

12

5

6

7

8

9

1

2

3

4

10 2017 2018 Tháng

Hình 3. 10. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F1)

F3

E2

P4

7

12

6

10

5

8

4

6

3

4

2

) f d g / g µ ( e n o r e r s e g o r P

) f d g / g µ ( l o i d a r t s E

2

1

0

0

1

3

10 11

12

4

5

6

7

8

9

1

2

3

4

2 2017 2018 Tháng

Hình 3. 11. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F3)

73

F5

E3

P4

12

5

10

4

8

3

6

2

4

) f d g / g µ ( l o i d a r t s E

) f d g / g µ ( e n o r e r s e g o r P

1

2

0

0

1

7

6

5

4

3

10 11

12

8

9

1

2

3

4

2 2017 2018 Tháng

Hình 3. 12. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F5)

F6

E4

P4

12

7

6

10

5

8

4

6

3

4

2

) f d g / g µ ( e n o r e r s e g o r P

) f d g / g µ ( l o i d a r t s E

2

1

0

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10 11

12

1

2

3

4

2017 2018 Tháng

Hình 3. 13. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F6)

74

F8

E2

P4

7

10

6

8

5

6

4

3

4

2

) f d g / g µ ( l o i d a r t s E

2

) f d g / g µ ( e n o r e r s e g o r P

1

0

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10 11

12

1

2

3

4

2017 2018 Tháng

Hình 3. 14. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F8)

F11

E2

P4

8

10

7

8

6

5

6

4

4

3

2

) f d g / g µ ( l o i d a r t s E

2

) f d g / g µ ( e n o r e r s e g o r P

1

0

0

3

2

10 11

12

4

5

6

7

8

9

1

2

3

4

1 2017 2018 Tháng

Hình 3. 15. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương không mang thai (F11)

3.3.2. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone trong phân cầy vòi hương

mang thai

Trong nghiên cứu này, 12 cá thể cầy vòi hương cái được cho giao phối với cầy vòi

hương đực theo hình thức ghép đôi từng cặp riêng rẻ. Tuy nhiên, chỉ có 4 con mang

thai, 6 con không mang thai, và 2 con được cho là mang thai giả. Mang thai và mang

thai giả được theo dõi dựa vào ghi chép về thời gian giao phối và thời gian đẻ. Cá thể

75

được xem là mang thai giả khi có sự thay đổi nội tiết, tăng hormone P4 sau khi giao

phối, nhưng theo dõi không mang thai, sau giao phối hai tháng không có sự đẻ con.

Thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy cái sau khi thụ tinh được trình bày trong bảng 3.15.

Không mang thai (n=6)

Mang thai (n=4)

Mang thai giả (n=2)

Hormone

(µg/g)

Min-Max

Min-Max

Min-Max

X̅ ± SD

X̅ ± SD

X̅ ± SD

0,27-10,72

2,12±1,86a

6,21-23,12

15,17±5,22b

8,02-11,47

9,73±1,73c

P4

0,18-6,18

1,14±0,78a

0,22-1,05

0,74±0,23b

0,35-1,99

1,34±0,57a

E2

Bảng 3 15. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương sau thụ tinh

Lưu ý: Sự khác biệt về các ký tự (a, b, c) trong cùng một hàng, sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê (P <0,05), theo T-test với mức ý nghĩa α = 0,05.

Trong thời gian mang thai, mức P4 trong phân của cầy vòi hương dao động từ

6,21 đến 23,12 µg/g; trung bình là 15,17 ± 5,22 µg/g. Giá trị này cao hơn từ 5 đến 7 lần

(X̅ = 6,3 lần) (P <0.05) so với giai đoạn không mang thai và sau thụ tinh. Ở những cá

thể có mang thai, P4 tăng đáng kể trong khoảng thời gian từ 60 đến 63 ngày sau khi thụ

tinh. (Hình 3.16-3.19). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu về đặc điểm sinh sản cho

thấy thời gian mang thai trung bình của cầy hương là 60,9 ngày.

Trong các nghiên cứu trước đây, đỉnh của mức P4 trong phân của hổ Siberia ở

giai đoạn mang thai là 24.29 µg/g và của hổ Bengal mang thai là 104.17 µg/g, cao gấp

2 đến 6 lần giá trị trung bình của P4 ở cùng một cá thể trong giai đoạn không mang thai

[88]. Theo Brown et al. (2011), hormone steroid P4 đóng một vai trò quan trọng trong

việc duy trì sự mang thai của động vật có vú [119].

Nồng độ E2 của một cá thể cầy vòi hương trong thời gian mang thai tương đối

thấp hơn so với các giai đoạn khác. Fecal E2 dao động từ 0,22 đến 1,05 µg/g, trung bình

là 0,74 ± 0,23 µg/g. Sau khi sinh con, E2 tăng lên và đánh dấu sự phục hồi của hoạt

động buồng trứng từ 25-30 ngày sau sinh (Hình 3.16-3.19). Ngược lại, ở những cá thể

mang thai, có sự thay đổi E2 không đáng kể (khoảng 0,35-1,99 µg/g) so với những cá

thể không mang thai (P> 0,05) và thấp hơn rõ rệt so với thời kỳ mang thai (P <0,05).

Kết quả này tương tự như kết quả quan sát thấy ở mèo, báo và hổ; sự bài tiết estrogen

trong phân không được quan sát thấy trong quá trình mang thai [119].

76

F2 E2

P4

30

8

)

7

25

6

20

5

15

4

3

) f d g / g µ ( l o i d a r t s E

10

) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P

2

5

1

0

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10 11

12

1

2

3

4

2017 2018 Tháng

Hình 3. 16. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F2, mang

thai vào 6/2017)

F4

E4

P4

7

25

6

20

5

15

4

3

10

) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P

) f d g / g µ ( l o i d a r t s E

2

5

1

0

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10 11

12

1

2

3

4

2017 2018 Tháng

Hình 3. 17. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F4, mang

thai vào 4/2017)

77

F7

E2

P4

7

25

6

20

5

15

4

3

10

2

) f d g / g µ ( l o i d a r t s E

5

) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P

1

0

0

1

3

4

10 11

12

1

4

5

6

9

8

2

7

3

2 2017 2018 Tháng

Hình 3. 18. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F7, mang thai

2 lần vào 4/2017 và 1/2018)

F9

E3

P4

6

25

5

20

4

15

3

10

2

) f d g / g µ ( l o i d a r t s E

5

1

) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P

0

0

1

4

3

10 11

12

8

2

6

7

9

5

1

3

4

2 2017 2018 Tháng

Hình 3. 19. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai (F9, mang

thai vào 2/2017)

3.3.3. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone trong phân cầy vòi hương

mang thai giả

Trong số 12 cầy vòi hương được cho ghép đôi giao phối, có 2 cá thể sau thụ tinh

2-3 ngày đã có sự thay đổi hàm lượng P4, nhưng sau quá trình theo dõi thì không có sự

sinh con, những cá thể này được xem là mang thai giả (presumed pseudopregnancy). Ở

78

những cá thể này, cũng có những thay đổi đáng kể hàm lượng P4 sau khi thụ tinh, nhưng

thời gian thay đổi chỉ từ 26-30 ngày (Hình 3.18; 3.19). Mức P4 trong phân ở giai đoạn

này dao động từ 8,02 đến 11,47 µg/g; trung bình là 9,73 ± 1,73 µg/g. Giá trị này cao

hơn đáng kể so với các cá thể cầy vòi hương không mang thai nhưng thấp hơn đáng kể

so với những con vật có thai (P <0,05). Trong các nghiên cứu khác, theo Putranto

(2011), ở mèo rừng (leopard cats), báo đốm (clouded leopards), báo tuyết (snow

leopards) và báo gêpa (cheetahs) đã được báo cáo là tăng hàm lượng P4 trong thời gian

mang thai giả [88]. Do đó, chỉ số để phân biệt giữa thai kỳ và mang thai giả là cả thời

gian và mức độ tăng của P4 trong phân. Như vậy, hàm lượng P4 trong phân của cầy vòi

hương cái có thể được sử dụng để phân biệt giữa không mang thai, thai kỳ và mang thai

giả. Theo Brown (2011), để quản lý sinh sản ở các loài hoang dã, về mặt kỹ thuật có thể

chẩn đoán có thai dựa trên mức progesterone trong phân cao và duy trì ở độ dài thời

gian dài so với mức bình thường của giai đoạn không mang thai [119].

F10

E2

P4

5

14

12

4

10

3

8

6

2

) g / g µ ( l o i d a r t s E

4

) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P

1

2

0

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

1

2

3

4

2017 2018 Tháng

Hình 3. 20. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai giả (presumed

pseudopregnancy – F10)

79

F12

E2

P4

12

7

6

10

5

8

4

6

3

4

2

) f d g / g µ ( l o i d a r t s E

2

1

) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P

0

0

1

4

3

10 11

12

2

5

6

9

1

3

8

7

4

2 2017 2018 Tháng

Hình 3. 21. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vòi hương mang thai giả (presumed

pseudopregnancy – F12)

3.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của kích thích tố sinh dục (PMSG, HCG) đến

khả năng sinh sản của cầy vòi hương cái

3.4.1. Sự thay đổi hàm lượng estradiol và progesterone sau khi tiêm kích dục tố

Để điều tra sự khác biệt trong nồng độ nội tiết giữa các con cầy vòi hương đã

điều trị bằng các công thức tiêm khác nhau và không điều trị, phân tích nồng độ hormone

E2 và P4 đã được lặp lại từ ngày -2 (trước khi tiêm kích dục tố 2 ngày) đến ngày 8 sau

điều trị. Kết quả phân tích này nghiên cứu tác động của việc điều trị lên động thái nội

tiết sinh sản của buồng trứng trong từng nhóm cầy thí nghiệm và là chỉ báo cho việc

cầy có rụng trứng hay không.

Kết quả theo dõi sự thay đổi E2 và P4 của nhóm 1 (cầy chậm lên giống lần đầu)

được thể hiện ở hình 3.22 và 3.23. Ở hình 3.22 cho thấy, hàm lượng E2 trong phân của

cầy ở các nghiệm thức bắt đầu tăng lên ở ngày thứ 1 sau khi tiêm, tăng đạt đỉnh vào

ngày thứ 2 và sau đó giảm dần từ ngày thứ 3. Thời gian chậm trễ (lag time) giữa E2

trong phân và trong huyết thanh ở các loài thuộc bộ ăn thịt (Carnivora) trung bình từ 5-

12 giờ [88, 119]. Như vậy, sự thay đổi hàm lượng E2 trong máu đã tăng lên trước đó,

chứng tỏ có sự ảnh hưởng của PMSG và HCG đến hormone sinh dục của cầy vòi hương

vào khoảng 12 giờ sau khi tiêm. Hàm lượng E2 trung bình ngày thứ 2 khi đạt đỉnh ở

công thức 1 là 2,59 µg/g df, nghiệm thức 2 là 2,69 µg/g df và nghiệm thức 3 là 3,16

80

µg/g df; trong đó cao nhất là ở nghiệm thức 3. Như vậy, khi liều điều trị cao hơn (40 IU

PMSG) làm tăng lượng hormone sinh dục ở nhóm cầy được điều trị (P<0,05). Trong

khi đó ở lô đối chứng, hàm lượng E2 trong phân có thay đổi qua các ngày; tuy nhiên,

sự thay đổi này không đáng kể (P>0.05). Đến ngày thứ 8, hàm lượng hormone trong

phân ở tất cả các nghiệm thức giảm đạt gần với giá trị trước khi tiêm kích dục tố (ngày

-2 và ngày -1).

Hình 3.22 cũng cho thấy, ở những con cầy đã sử dụng kích dục tố, sự gia tăng

E2 đã được phát hiện từ ngày 1 đến 2, và có xu hướng giảm nhanh từ ngày 3 đến ngày

5, sau ngày 5 hàm hượng E2 tiếp tục giảm chậm. Theo Cavalieri et al. (2003), ở bò, khi

kích thích trực tiếp tuyến yên bằng GnRH và điều trị bằng eCG, nồng độ E2 từ ngày 0

đến 10 sau điều trị có sự thay đổi. Nồng độ E2 tăng đáng kể giữa ngày 0 và 4, giữa các

ngày 4 và 10 nồng độ E2 ít hơn ở những con bò không rụng trứng so với những con bò

đã rụng trứng [120].

Tương tự ở nhóm 1, sự thay đổi E2 ở nhóm 2 và nhóm 3 thể hiện ở hình 3.24 và

hình 3.26 cũng cho thấy, hàm lượng E2 trong phân cũng đạt đỉnh ở ngày thứ 2 sau khi

tiêm, sau đó giảm dần. Trong đó, ở cả nhóm cầy chậm động dục lại (nhóm 2) và nhóm

cầy sinh sản bình thường điều trị nhằm gây động dục hàng loạt (nhóm 3) đều có hàm

lượng E2 trong phân cao nhất ở CT3. E2 trung bình của nhóm 2 ở CT3 là 2,86 µg/g df,

cao hơn so với CT1 (2,60 µg/g df) và CT2 (2,54 µg/g df); của nhóm 3 ở CT3 là 4,86

µg/g df, cao hơn so với CT1 (3,20 µg/g df) và CT2 (3,63 µg/g df). Một nghiên cứu trên

bò cũng cho thấy có sự tương tác ngày (P <0,001) đối với nồng độ E2 giữa các ngày 0

và 4. Điều trị bằng kích dục tố làm tăng nồng độ E2 từ ngày 0,5 đến 4 (P <0,05); nồng

độ E2 trong huyết tương đạt đến đỉnh điểm từ 0,5 đến 1 ngày sau khi tiêm và sau đó

giảm dần nhưng vẫn lớn hơn đáng kể so với bò không được điều trị vào ngày thứ 4.

Nồng độ E2 lớn hơn vào ngày thứ 4 và thấp vào ngày 7 và 8 (P <0,05) ở bò được điều

trị [120].

Kết quả ở hình 3.23, 3.25, và 3.27 cho thấy sự thay đổi P4 ở các nhóm cầy thí

nghiệm bắt đầu tăng vào ngày thứ 1 và đạt đỉnh vào ngày thứ 3 hoặc thứ 4 sau khi tiêm

kích dục tố, và chậm hơn sau khi đạt đỉnh của E2 từ 1 đến 2 ngày. Ở nhóm 1, hàm lượng

P4 đạt đỉnh ở tất cả các công thức vào ngày thứ 4, trung bình P4 ở CT1 là 6,70 µg/g df,

81

CT2 là 7,89 µg/g df và CT3 là 11,11 µg/g df. Có sự cao hơn đáng kể hàm lượng P4

trong phân của nhóm cầy được tiêm theo CT3 so với hai công thức còn lại (P<0,05).

Trong khi đó, ở nhóm 2, P4 trung bình ở các công thức ở CT1 là 7,67 µg/g df; CT2 là

6,03 µg/g df và ở CT3 là 8,60 µg/g df. Ở nhóm 3, CT1 có P4 đạt đỉnh vào ngày thứ 4

sau khi điều trị kích dục tố (6,23 µg/g df), còn CT2 và CT3 đạt đỉnh vào ngày thứ 4 lần

lượt là 7,58 và 8,14 µg/g df.

Phân tích thống kê cho thấy sự thay đổi P4 giữa các công thức ở các nhóm cầy

thí nghiệm đều có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Ở tất cả các nhóm thí

nghiệm đều cho thấy sự tăng hàm lượng P4 có xu hướng cao hơn ở CT3. Có thể, hàm

lượng kích dục tố đưa vào cơ thể cao hơn đã làm tăng hàm lượng nội tiết sinh dục của

cầy thí nghiệm. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng điều trị làm tăng tần suất

rụng trứng nhiều và dẫn đến progesterone tuần hoàn tăng cao, nhưng tăng progesterone

không tương quan với tỷ lệ mang thai tăng [64]. Kameyama et al. (2004), tiến hành

nghiên cứu trên động vật thí nghiệm (loài Mongolian gerbil) cho thấy ở những con cái

được điều trị bằng PMSG một mình biểu hiện chậm trong đáp ứng rụng trứng khi so

sánh với những con cái kết hợp được điều trị bằng PMSG và HCG. Các con cái được

tiêm PMSG và HCG ở khoảng thời gian 54 giờ đã được quan sát thấy đáp ứng rụng

trứng 24 giờ sau khi tiêm HCG [121].

Sau khi đạt đỉnh vào ngày 3 hoặc 4, ở tất cả các nhóm cầy thí nghiệm có P4 trong

phân duy trì ở nồng độ cao từ 3-4 ngày, sau đó giảm thấp vào ngày thứ 7-8 sau khi tiêm.

Trên bò, khi sử dụng kích dục tố để cải thiện thành tích sinh sản đã cho thấy có sự tương

tác đáng kể giữa P4 và ngày sau điều trị (P <0,001). Điều trị bằng P4 dẫn đến nồng độ

P4 trong huyết tương cao hơn từ ngày 0,5 đến 1,5. Nồng độ P4 tương tự nhau giữa các

bò cho mỗi lần điều trị vào các thời điểm khác giữa các ngày 0 và 4. Có một ảnh hưởng

đáng kể của ngày lên nồng độ P4 (P <0,001) giữa các ngày 4 và 10. Nồng độ P4 trung

bình ở tất cả các nhóm điều trị giảm từ ngày thứ 4 đến ngày 7 và sau đó giảm xuống

thấp ở ngày thứ 8 (P <0,05) [120].

Việc sử dụng PMSG (eCG) phổ biến nhất là khai thác hoạt động FSH của nó

trong việc kích thích động dục ở động vật chưa trưởng thành [44]. PMSG hiển thị cả

hoạt động của FSH và LH, và cả hai kích thích tố này là cần thiết cho sự trưởng thành,

82

rụng trứng của động vật có vú. Tuy nhiên, trong một số giao thức, sự tăng tổng hợp

progesterone do eCG gây ra đã dẫn đến thành công trong thai kỳ được cải thiện [65].

Do cấu trúc tương tự LH, HCG liên kết với cùng một receptor như LH. Trong

liệu pháp gonadotropin, HCG được sử dụng để thúc đẩy các giai đoạn trưởng thành

nang cuối cùng và sự tiến triển của noãn ở giai đoạn I (giai đoạn mụn mầm) bước vào

giai đoạn hoàn tất quá trình phân bào giảm nhiễm lần thứ nhất (metaphase II). Quá trình

giảm phân đòi hỏi khoảng 36 giờ để hoàn thành; một vài giờ sau đó, rụng trứng xảy ra

[66]. Nồng độ HCG làm tăng sự hiện diện của các thụ thể của progesterone

(progesterone receptor) và prostaglandin endoperoxide synthase-2 (PGS-2) ba giờ sau

khi tiêm HCG do đó làm tăng đáng kể lượng progesterone so với trường hợp không sử

dụng HCG. Progesterone làm cho các tế bào hạt cumulus tăng sinh mạnh mẽ, đồng thời

tác động đến thành cơ bản của nang bị vỡ và gây ra hiện tượng rụng trứng. Lượng HCG

trong nang sẽ giảm dần theo thời gian từ khi tiêm vào cơ thể, vì vậy quá trình rụng trứng

có thể chậm lại hoặc không xảy ra nếu sự kích thích sản xuất E2 chưa đạt đỉnh. Khi sử

dụng HCG ở nồng độ phù hợp (20 IU ở CT1 hoặc 15 IU ở CT3) thì hàm lượng HCG

Nhóm 1

3.50

3.00

2.50

2.00

1.50

1.00

0.50

) f d g / g µ ( l o i d a r t s E

0.00

-2

-1

0

1

5

6

7

8

2 4 3 Ngày thí nghiệm

CT1

CT2

CT3

ĐC

trong nang được duy trì ở nồng độ tối ưu gây rụng trứng [44].

Hình 3. 22. Sự thay đổi hàm lượng Estradiol ở cầy vòi hương Nhóm 1 sau khi tiêm

kích dục tố

83

Nhóm 1

) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P

12.00 11.00 10.00 9.00 8.00 7.00 6.00 5.00 4.00 3.00 2.00 1.00 0.00

-2

-1

0

1

5

6

7

8

2 4 3 Ngày thí nghiệm

CT1

CT2

CT3

ĐC

Hình 3. 23. Sự thay đổi hàm lượng Progesterone ở cầy vòi hương Nhóm 1 sau khi tiêm

Nhóm 2

)

3.50

3.00

2.50

2.00

1.50

f d g / g µ ( l o i d a r t s E

1.00

l a c e F

0.50

0.00

-2

-1

0

1

5

6

7

8

2 4 3 Ngày thí nghiệm

CT1

CT2

CT3

ĐC

kích dục tố

Hình 3. 24. Sự thay đổi hàm lượng Estradiol ở cầy vòi hương Nhóm 2 sau khi tiêm

kích dục tố

84

Nhóm 2

) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P

10.00 9.00 8.00 7.00 6.00 5.00 4.00 3.00 2.00 1.00 0.00

-2

-1

0

1

5

6

7

8

2 4 3 Ngày thí nghiệm

CT1

CT2

CT3

ĐC

Hình 3. 25. Sự thay đổi hàm lượng Progesterone ở cầy vòi hương Nhóm 2 sau khi tiêm

Nhóm 3

6.00

5.00

4.00

3.00

) g / g µ ( l o i d a r t s E

2.00

l a c e F

1.00

0.00

-2

-1

0

1

5

6

7

8

2 4 3 Ngày thí nghiệm

CT1

CT2

CT3

ĐC

kích dục tố

Hình 3. 26. Sự thay đổi hàm lượng Estradiol ở cầy vòi hương Nhóm 3 sau khi tiêm

kích dục tố

85

Nhóm 3

) f d g / g µ ( e n o r e t s e g o r P

9.00 8.00 7.00 6.00 5.00 4.00 3.00 2.00 1.00 0.00

-2

-1

0

1

5

6

7

8

2 4 3 Ngày thí nghiệm

CT1

CT2

CT3

ĐC

Hình 3. 27. Sự thay đổi hàm lượng Progesterone ở cầy vòi hương Nhóm 3 sau khi tiêm

kích dục tố

3.4.2. Thời gian xuất hiện các biểu hiện và kéo dài động dục

Kết quả theo dõi thời gian xuất hiện các biểu hiện động dục và kéo dài động dục

trên các nhóm cầy thí nghiệm được thể hiện qua hình 3.28.

Ở tất cả các nhóm thí nghiệm, thời gian xuất hiện động dục trung bình từ 1,1

ngày (CT3 ở nhóm 2) đến 2,6 ngày (CT1 ở nhóm 2 và nhóm 3) sau khi tiêm kích dục

tố. Trong đó, CT3 luôn có thời gian xuất hiện động dục sớm nhất (từ 1-1,5 ngày). Thời

gian xuất hiện động dục có tương quan chặt chẽ với thời gian xuất hiện đỉnh của E2

(R=0,82).

Thời gian kéo dài động dục ở tất cả các công thức từ 2,9 đến 3,9 ngày; trong đó

thời gian ngắn nhất là ở CT1 và dài nhất là ở CT3. Thời gian này dài hơn so với thời

gian biểu hiện động dục ở cầy không tiêm kích dục tố vào mùa sinh sản (từ 2-3 ngày).

Phân tích thống kê cho thấy, sự khác biệt về thời gian xuất hiện động dục và thời gian

kéo dài động dục giữa các công thức trong từng nhóm cầy thí nghiệm có ý nghĩa thống

kê (P<0,05). CT3 luôn có thời gian xuất hiện động dục sớm nhất và thời gian kéo dài

động dục lâu nhất. Ở cầy vòi hương, nếu ghép đôi không đúng thời điểm động dục

chúng sẽ cắn nhau gây thương tích. Do vậy, đây chính là lưu ý quan trọng trong chăn

nuôi cầy để ghép đôi kịp thời sau khi điều trị.

86

Tương quan chặt của sự thay đổi hàm lượng E2 và biểu hiện động dục ở cầy sau

khi tiêm kích dục tố có thể giải thích: do vai trò của PMSG tương tự FSH trong việc

kích thích và phát triển nang trứng bằng cách gắn kết với các thụ thể protein G được

biểu hiện riêng trên các tế bào hạt (GC), và chức năng tương tự LH đóng vai trò quan

trọng trong việc thúc đẩy quá trình tạo ra steroid và phát triển trứng [66]. Dưới tác dụng

của PMSG có vai trò tương tự LH và FSH làm trứng chín; sau đó HCG có vai trò như

LH kích thích sự rụng trứng, thúc đẩy sự tổng hợp và phóng thích hormone buồng trứng

(estrogen và progesrerone). Sự thay đổi E2, tăng cao đạt đỉnh sẽ kích thích sự phát triển

cơ trơn thành tử cung, tăng cường lớp biểu mô tuyến của tử cung để sẵn sàng đón nhận

trứng thụ tinh, mức độ kích dục gia tăng và kéo theo biểu hiện động dục [44]. Theo

Murphy (2012), nhiều nghiên cứu cho thấy HCG dùng một mình trong giai đoạn nang

trứng không thúc đẩy phát triển nang trứng và rụng trứng, do đó chỉ ra rằng HCG không

có tác dụng khi không có FSH. Ngược lại, một số thử nghiệm đã chứng minh rằng

gonadotropin chiết xuất từ máu của ngựa mang thai (PMSG) gây ra đáp ứng buồng

trứng, nhưng nỗ lực gây rụng trứng tạo ra kết quả không phù hợp [44]. Do vậy, sự kết

hợp PMSG và HCG trong nghiên cứu này đã tăng hiệu ứng cả về tăng hàm lượng E2,

y à g N

4.0 3.5 3.0 2.5 2.0 1.5 1.0 0.5 0.0

CT1

CT2 CT3

CT1

CT2 CT3

CT1

CT2 CT3

Nhóm 1

Nhóm 2

Nhóm 3

Thời gian xuất hiện động dục sau tiêm

Thời gian kéo dài động dục

Hình 3. 28. Thời gian xuất hiện và thời gian kéo dài động dục sau khi tiêm kích dục tố

xuất hiện động dục sớm và kéo dài thời gian động dục, đặc biệt ở CT3.

87

3.4.3. Kết quả sử dụng các công thức hormone lên một số chỉ tiêu sinh sản

Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố được trình bày qua

Bảng 3. 16. Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố của Nhóm 1

Đơn vị

Lô thí nghiệm n

Số cầy động dục

Số cầy mang thai

Con Tỉ lệ % Con Tỉ lệ %

ĐC 3 0 0,00 0 0,00

CT1 4 3 75,00a 2 50,00a

CT 2 4 3 75,00a 2 50,00a

CT 3 3 3 100,00b 2 66,67b

Con/lứa

1,67±0,47a

2,33±0,47b

3,21±0,53c

(g)

97±2,16

95,67±2,62

93±1,63

Số con non/ lứa (X̅ ± SD) Khối lượng con sơ sinh (X̅ ± SD)

Tỉ lệ sống sót sau 48 giờ

(%)

80,00a

85,71b

83,33b

Tỉ lệ sống sót sau 1 tháng

(%)

80,00a

85,71b

80,00a

Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b) trong cùng một hàng thì sự khác nhau có ý nghĩa thống kê

(P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. SL: số lượng, TL: Tỉ lệ, ĐC: đối chứng, CT1:

Công thức 1, CT2: Công thức 2, CT3: Công thức 3.

bảng 3.16-3.19.

Bảng 3.16-3.19 cho thấy, tỉ lệ cầy động dục tăng so với đối chứng ở tất cả các

nhóm cầy thí nghiệm. Ở nhóm 1 và nhóm 2 có tỉ lệ động dục là 75% (CT1 và CT2), cao

nhất là 100% ở CT3. Tỉ lệ động dục ở nhóm 3 lần lượt là 85,71% (CT1 và CT2), 87,5%

(CT3), cao hơn đáng kể so với lô đối chứng (33,33%). Theo dõi tỉ lệ cầy mang thai so

với số cầy điều trị được ghép đôi giao phối cho thấy, ở CT1 và CT2 có tỉ lệ tương đương

nhau (nhóm 1 là 50%, nhóm 2 là 75% và nhóm 3 là 71,43%). Tỉ lệ cầy mang thai cao

nhất ở CT3 với tỉ lệ lần lượt là 66,67% (nhóm 1), 100% (nhóm 2) và 75,0% (nhóm 3).

Như vậy, tỉ lệ cầy động dục và cầy mang thai ở CT3 luôn cao hơn so với các công thức

còn lại (P<0,05). So với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thanh Bình (2015), tỉ lệ cầy

mang thai trong nghiên cứu này cao hơn so với lô thí nghiệm với liều tiêm 10 IU PMSG

và 10 IU HCG (33,3%); thấp hơn ở CT1, CT2, tương đương ở CT3 so với lô thí nghiệm

có liều tiêm 20 IU PMSG và 20 IU HCG (tỉ lệ mang thai là 100%) [20]. Điều này có

88

thể giải thích, nhóm 1 và nhóm 2 là hai đối tượng chậm động dục lần đầu và chậm động

dục lại cần điều trị. Trong khi đó, đối tượng trong nghiên cứu trước đó là nhóm cầy

bình thường về mặt sinh sản. Khi so sánh với tỉ lệ cầy mang thai trong điều kiện nuôi

mà không sử dụng kích dục tố (66,67%) thì kết quả trong nghiên cứu này đều tương

Bảng 3. 17. Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố của Nhóm 2

Đơn vị

Lô thí nghiệm n

Số cầy động dục

Số cầy mang thai

ĐC 3 0 0,00 0 0,00

Số con non/ lứa (X̅ ± SD) Khối lượng con sơ sinh (X̅ ± SD)

CT1 4 3 75,00a 3 75,00a 3,25 ±0.83a 97,25±3,11

Con Tỉ lệ % Con Tỉ lệ % Con/lứa (g)

CT 2 4 3 75,00a 3 75,00a 3,5±0.5b 95,75±0,83

CT 3 4 4 100,00b 4 100,00b 3,75±0,83c 94,25±2,59

Tỉ lệ sống sót sau 48 giờ

(%)

88,89a

90,00a

100,00b

Tỉ lệ sống sót sau 1 tháng

(%)

88,89a

80,00b

81,82b

Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b, c) trong cùng một hàng thì sự khác nhau có ý nghĩa

thống kê (P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. SL: số lượng, TL: Tỉ lệ, ĐC: đối chứng, CT1: Công thức 1, CT2: Công thức 2, CT3: Công thức 3.

đương hoặc cao hơn đáng kể.

Kết quả theo dõi số con sinh ra trên lứa cho thấy, trong tất cả các nhóm thí

nghiệm, số con trên lứa thấp nhất ở CT1 (1,67 con/lứa ở nhóm 1; 3,25 con/lứa ở nhóm

2 và 3,2 con/lứa ở nhóm 3) và cao nhất ở CT3 (3,21 con/lứa ở nhóm 1; 3,75 con/lứa ở

nhóm 2 và 3,5 con/lứa ở nhóm 3). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả theo dõi về

hàm lượng hormone E2 và P4 sau khi tiêm kích dục tố. Liều tiêm với PMSG cao hơn

làm tăng sự sản xuất hormone và lượng trứng rụng, nên tăng số con sinh ra. Số con trên

lứa trung bình ở tất cả các công thức đều cao hơn vượt bậc so với lô đối chứng, và cao

hơn đáng kể so với tỉ lệ sinh trong điều kiện nuôi khi không sử dụng kích dục tố (2,38

con/lứa), tương đương so với tỉ lệ sinh ngoài tự nhiên (cầy đẻ 2-4 con) [7], theo Nelson

(2013) là 2-5 con, trung bình 3,4 con/ lứa [111]. Kết quả này cũng tương đương so với

kết quả nghiên cứu trước đây (3-4 con/lứa) [20]. Như vậy, việc sử dụng kết hợp PMSG

và HCG đã cải thiện đáng kể số con sinh ra, đặc biệt ở CT3.

89

Về khối lượng con sơ sinh trong tất cả các lô thí nghiệm trung bình từ 94,02 đến

97,25 gr/cá thể; không khác nhau đáng kể giữa các nhóm và các công thức (P>0,05);

cao hơn so với nghiên cứu trước (82-87 gr/cá thể) [20], tương đương với khối lượng

con sơ sinh trong điều kiện nuôi khi không sử dụng kích dục tố (95,16 gr/cá thể). Như

vậy, liều lượng kích dục tố ở các công thức trong nghiên cứu này không ảnh hưởng đến

Bảng 3. 18. Kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố của Nhóm 3

Đơn vị

Lô thí nghiệm n

Số cầy động dục

Số cầy mang thai

Con Tỉ lệ % Con Tỉ lệ %

ĐC 3 1 33,33a 1 33,33a

CT1 7 6 85,71b 5 71,43b

CT 2 7 6 85,71b 5 71,43b

CT 3 8 7 87,50c 6 75,00c

Con/lứa

2±0a

3,2±0,75b

3,4±0,75b

3,5±0,96b

(g)

95,5±0

94,2±1,72

95,75±3.71

94,8±3,35

Số con non/ lứa (X̅ ± SD) Khối lượng con sơ sinh (X̅ ± SD)

Tỉ lệ sống sót sau 48 giờ

(%)

100,00a

90,91b

83,33c

86,67b

Tỉ lệ sống sót sau 1 tháng

(%)

81,82b

81,82b

86,67b

100,00a

Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b, c) trong cùng một hàng thì sự khác nhau có ý nghĩa

thống kê (P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. SL: số lượng, TL: Tỉ lệ, ĐC: đối

chứng, CT1: Công thức 1, CT2: Công thức 2, CT3: Công thức 3.

khối lượng con sơ sinh.

Kết quả theo dõi tỉ lệ sống sót cho thấy, ở lô đối chứng chỉ có 1 cầy mẹ ở Nhóm

3 mang thai, sinh con có tỉ lệ sống sót đạt 100%, cao hơn so với tất cả các công thức thí

nghiệm. Giữa các nhóm và các công thức tiêm không có sự khác nhau đáng kể về tỉ lệ

sống của cầy sau 48 giờ và sau 1 tháng tuổi (P>0,05). Kết quả này cũng tương đương

với tỉ lệ sống sót sau một tuần (86,7%) của nghiên cứu trước đây [20]. Tỉ lệ sống sót

sau một tháng cao hơn so với cầy sinh sản tự nhiên trong điều kiện nuôi (80,83%). Như

vậy, việc sử dụng kích dục tố không làm ảnh hưởng đáng kể đến tỉ lệ sống sót của cầy

sơ sinh.

90

Bảng 3. 19. Tổng hợp kết quả theo dõi hiệu quả sinh sản sau khi tiêm kích dục tố

Đơn vị

Lô thí nghiệm n

Số cầy động dục

Số cầy mang thai

CT1 15 12 80,00b 10 66,67b

CT 3 15 14 93,33d 12 86,67d

Con Tỉ lệ % Con Tỉ lệ %

CT 2 14 12 85,71c 10 71,43c

ĐC 9 1 11,11a 1 11,11a

3,41± 0,66c

2±0a

3,04± 0,47b

Con/lứa

3,53± 0,90c

Số con non/ lứa (X̅ ± SD)

96,15± 2,14

95,72± 2,17

94,02± 3,35

Khối lượng con sơ sinh (X̅ ± SD)

(g)

95,5±0

Tỉ lệ sống sót sau 48 giờ

100,00a

86,60b

86,35b

90,00b

(%)

Tỉ lệ sống sót sau 1 tháng

100,00a

83,57b

(%)

82,57b

82,83b

Ghi chú: Sự khác nhau của các ký tự (a, b,c, d) trong cùng một hàng thì sự khác nhau có ý nghĩa

thống kê (P<0,05), theo kiểm định T-test với mức ý nghĩa α=0,05. SL: số lượng, TL: Tỉ lệ, ĐC: đối chứng, CT1: Công thức 1, CT2: Công thức 2, CT3: Công thức 3.

91

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

1.1. Đặc điểm sinh học của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt

- Luận án đã mô tả đặc điểm hình thái, dinh dưỡng, một số tập tính; xác định

được tốc độ tăng trưởng của cầy vòi hương ở giai đoạn 3-24 tháng tuổi. Tốc độ tăng

khối lượng trung bình là 5,14 g/con/ngày (đực) và 4,71 g/con/ngày (cái); tăng trưởng

chiều dài thân đầu trung bình là 1,51 cm/con/tháng (đực) và 1,45 cm/con/tháng (cái).

Tốc độ tăng trưởng các chỉ tiêu nhanh nhất ở thời kì 6-12 tháng.

- Cầy cái có tuổi thành thục sinh dục trung bình là 11,96 tháng và ở cầy đực là

10,97 tháng. Thời gian mang thai trung bình 60,9 ngày. Số cầy vòi hương sinh ra trong

mỗi lứa từ 1-4 con, trung bình 2,38 con/lứa. Cầy sơ sinh nặng trung bình 95,16 gram.

Tỉ lệ sống sót khi cai sữa đạt 80,83%.

1.2. Các chỉ tiêu sinh lí – sinh hóa máu, nước tiểu của cầy vòi hương

- Các chỉ số sinh lí và sinh hoá máu ở cầy vòi hương theo nhóm tuổi và theo giới

tính đã được xác định. Số lượng hồng cầu trung bình là 11,06 x 1012/L, hàm lượng

hemoglobin 120,74 gr/L. Số lượng bạch cầu trung bình là 12,32 x 109/L; công thức bạch

cầu: Lymphocyte 44,24%, Monocyte 3,96%, Gran 51,8%. Số lượng tiểu cầu trung bình

là 336,25 x 109/L.

- Đã xác định các chỉ số sinh hoá nước tiểu của cầy vòi hương: bạch cầu (4,63

Leu/µL); nitrit (âm tính); hồng cầu (âm tính); Protein (15,94 g/L); Glucose (0,46

mmol/L); thể Keton (0,15 mmol/L); Bilirubin (0,41 µmol/L); tỷ trọng trung bình (SG)

là 1,02; pH là 7,53; Urobilinogen (UBG) là 0,1 µmol/L; K+ là 179,25 mmol/L, Cl- là

153,53 mmol/L, Na+ là 76,82 mmol/L.

1.3. Sự thay đổi hormone sinh dục của của cầy vòi hương cái trong điều kiện

nuôi nhốt

- Sự thay đổi hormone estradiol và progesterone trong phân của cầy vòi hương

khác nhau ở giai đoạn không mang thai và mang thai. Ở cầy cái không mang thai, nồng

độ Estradiol dao động từ 0,05-7,01 µg/g df; sự thay đổi có tính chu kỳ, trung bình mỗi

92

chu kì là 28,6 ngày. Đỉnh của estradiol là 3,22 ± 0,64 µg/g df; tương ứng với thời gian

xuất hiện các biểu hiện động dục.

- Ở giai đoạn mang thai, hàm lượng progesterone trong phân cao, trung bình là

15,17 µg/g df; có thể dùng chỉ tiêu này làm chỉ thị xác định sự mang thai ở cầy vòi

hương.

1.4. Tác động của kích thích tố sinh dục (PMSG, HCG) đến sự sinh sản của cầy

vòi hương cái.

- Sau khi tiêm PMSG và HCG, hàm lượng hormone estradiol và progesterone

thay đổi; estradiol tăng đạt đỉnh ở ngày thứ 2, progesterone đạt đỉnh ở ngày thứ 4. Thời

gian xuất hiện động dục sau khi tiêm từ 1-2 ngày, kéo dài từ 3-4 ngày.

- Hiệu quả sinh sản của cầy vòi hương được cải thiện sau khi điều trị kết hợp

PMSG và HCG. Liều tiêm 40 IU PMSG /20 IU HCG cho hiệu quả sinh sản cao nhất.

Tỉ lệ động dục, tỉ lệ mang thai, số con sinh ra trên lứa tăng. Kích dục tố không ảnh

hưởng đáng kể đến khối lượng con sơ sinh và tỉ lệ sống sót.

2. Kiến nghị

- Tiếp tục nghiên cứu các chỉ số sinh lí, sinh hoá máu và nước tiểu của cầy vòi

hương trong các trường hợp bệnh lý.

- Phân tích hormone trong phân là một phương pháp hữu ích để xác nhận thời kỳ

động dục, mang thai, không mang thai hoặc mang thai giả ở cầy vòi hương. Có thể sử

dụng phương pháp này trên các động vật hoang dã khác trong điều kiện nuôi nhốt.

- Cần kết hợp sử dụng siêu âm buồng trứng và quan sát tế bào âm đạo để đóng

góp thêm vào các kỹ thuật trợ hỗ sinh sản trên cầy vòi hương trong điều kiện nuôi.

93

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Thanh Bình, Một số

đặc điểm sinh trưởng của cầy vòi hương (Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777)

trong điều kiện nuôi nhốt, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Tự nhiên và Công

nghệ, 2017, 33 (1S), 207-213

2. Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Phuong Thao, Nguyen Thanh Binh, Study on

hematological parameters of common palm civets (Paradoxurus hermaphroditus

3. Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Yến Nhi, Nguyễn Thị Thanh Thảo, Nguyễn Thanh

Bình, Ảnh hưởng của một số khẩu phần thức ăn đến khả năng sản xuất cà phê chồn nguyên

liệu của cầy vòi hương trong điều kiện nuôi nhốt, Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, 2017, Số 2

(33), 161-169.

Pallas, 1777) in captivity. Journal of biotechnology, 2017, 15(3A): 71-76.

4. Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Thanh Bình, Một số

đặc điểm sinh sản của cầy vòi hương (Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777) trong

điều kiện nuôi nhốt, Kỉ yếu Hội nghị khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh

vật lần thứ 7, 2017, 694-701.

5. Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Thanh Bình, Ảnh

hưởng của chế độ ăn đến khả năng sản xuất cà phê chồn nguyên liệu của Cầy vòi hương

(Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777) trong điều kiện nuôi nhốt. Kỉ yếu hội nghị

Khoa học toàn quốc Chăn nuôi - Thú y, 2017, 283-289

6. Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Phuong Thao, Nguyen Thanh Binh, A non-

invasive technique to monitor reproductive hormone levels in common palm civets,

Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777. Academia Journal of Biology, 2018, 40(3):

74–81. https://doi.org/10.15625/2615-9023/v40n3.12654.

7. Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Phuong Thao and Nguyen Thanh Binh, Blood

and urinary biochemical parameters of the Commom Palm Civets (Paradoxurus

hermaphroditus, Pallas 1777) in captivity, Journal of Animal Husbandry Sciences and

Technics, 2018, 235, 90-96.

94

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] T. Iseborn, L. D. Rogers, B. Rawson and K. A. I. Nekaris, Sightings of Common

Palm Civets Paradoxurus hermaphroditus and of other civet species at Phnom

Samkos Wildlife Sanctuary and Veun Sai–Siem Pang Conservation Area,

[2] C. R. Shepherd, Observations of small carnivores in Jakarta wildlife markets,

Cambodia, Small Carnivore Conservation, 2012, 46.

Indonesia, with notes on trade in Javan Ferret Badger Melogale orientalis and

on the increasing demand for Common Palm Civet Paradoxurus hermaphroditus

[3] J. W. Duckworth, Small carnivores in Laos: a status review with notes on

for civet coffee production, Small Carnivore Conservation, 2012, 47.

ecology, behaviour and conservation, Small Carnivore Conservation, 1997, 16,

[4] A. Joshi, J. Smith and F. Cuthbert, Influences of Food Distribution and Predation

1–21.

Pressures on Spacing Behavior in Palm Civets, Journal of Mammology, 1995,

[5] J. L. Grassman, Movements and fruit selection of two Paradoxurinae species in

76 (4), 1205-1212.

a dry evergreen forest in Southern Thailand, Small Carnivore Conservation,

[6] Nakashima, J. A. Sukor, Importance of Common Palm Civets (Paradoxurus

1998, 19, 25–29.

hermaphroditus) as a long-distance disperser for large-seeded plants in

[7] Đặng Huy Huỳnh, Phạm Trọng Ảnh, Lê Xuân Cảnh, Nguyễn Xuân Đặng, Hoàng

degraded forests, Tropics, 2010, 18, 221–229.

Minh Khiên và Đặng Huy Phương, Thú rừng – Mammalia Việt Nam, hình thái

và sinh học sinh thái một số loài, tập II, NXB Khoa học tự nhiên và Công nghệ,

[8] A. H. C Marcus, K. P. L. Kelvin and H. S. L. Celine, The diversity and status of

2010, Hà Nội.

the civets (Viverridae) of Singapor, Small Carnivore Conservation, 2012, 47, 32-

37.

95

[9] FAO, Global Plan of Action for Animal Genetic Resources and the Interlaken

[10] Nguyễn Văn Đức, Vietnam animal Genetic Resources convervation and

Declaration, 2007, Rome.

exploitation, In 9th Vietnamese-Hungarian Inter conference Reseach for

[11] Nguyễn Lân Hùng, Nguyễn Khắc Tích, Nghề nuôi cầy hương, NXB Nông

developing sustainable agriculture, 2016, Tra Vinh Uni.

[12] T.J. Corbin, JG. McCabe, Strain variation of immature female rats in response

Nghiệp, 2010, Hà Nội.

[13] M. A. Cornejo-Corte, C. Sa ´nchez-Torres, J. C. Va ´zquez-Chagoya, H. M. Sua

to various, 2002, 41 (2), 18-23.

´rez-Go ´mez, Garrido-Farin and M A. Meraz-R, Rat embryo quality and

production efficiency are dependent on gonadotrophin dose in superovulatory

[14] E. Schilling, F. Cerne, Induction and Synchronization of Estrus in Prepuberal

treatments, Laboratory Animals, 2006, 40, 87–95.

Gilts and Anestrous Sows by a PMSG/HCG-Compound, Vet Rec, 2008, 91(20),

[15] F. D. Rensis, F. López- Gatius, I. Garcia-Ispierto and M. Techakumpu, Clinical

471–474.

use of human chorionic gonadotropin in dairy cows: an update, Theriogenology,

[16] Nguyen Van Thanh and Nguyen Thanh Binh, Effects of hormone therapeutics on

2010, 73 (8), 1001-1008.

ability of treatment of reproductive confusion in failure reproduction dairy cows

at Binh Duong province-Viet Nam, Asian Reproductive Biotechnology Society,

[17] Nguyễn Ngọc Tấn, Bùi Ngọc Hùng, Ứng dụng hormone xử lý bò chậm gieo tinh

2009, 62.

khu vực thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương, Khoa học kỹ thuật chăn nuôi,

[18] Hoàng Nghĩa Sơn, Nguyễn Văn Hạnh, Quản Xuân Hữu và Lê Thị Châu, Tác

2017, 21 (6), 67-72.

động của trạng thái buồng trứng lên kết quả siêu bài noãn bò, Tạp chí sinh học,

2013, 35 (2), 243-247.

96

[19] Đỗ Văn Thu, Đoàn Việt Bình, Lê Văn Ty, Lê Thị Huệ và Trần Đăng Khôi, Ứng

dụng kỹ thuật gây động dục đồng loạt kết hợp thụ tinh nhân tạo nhằm nâng cao

[20] Nguyễn Thanh Bình, Ảnh hưởng của kích dục tố hCG và PMSG đến kết quả sinh

năng suất và chất lượng đàn bò, Tạp chí sinh học, 2013, 35 (1), 110-115.

sản của cầy vòi hương Paradoxurus hermaproditus trong điều kiện nuôi nhốt,

[21] Nguyễn Thanh Bình, Ảnh hưởng của kích dục tố hCG và PMSG đến một số thành

Tạp chí KHKT Thú y, 2015, 17 (8), 54-57.

tích sinh sản trên dúi mốc lớn (Rhizomys pruinosus Blyth, 1851) trong điều kiện

[22] Nguyễn Xuân Đặng, Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái và khả năng nhân

nuôi nhốt, Tạp chí Khoa học kỹ thuật chăn nuôi, 2016, XXII (203), 72-77.

nuôi một số loài cầy (họ Viverridae) ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Sinh học,

[23] M. F. Marcone, Composition and properties of Indonesian palm civet coffee

1994.

(Kopi Luwak) and Ethiopian civet coffee, Food Research International, 2004, 37,

[24] C. Shun-An, L. Ling-Ling, Food habits of three carnivore species (Viverricula

(2), 901-912.

indica, Herpestes urva, and Melogale moschata) in Fushan Forest, Northern

[25] M. Nakabayashi, H. Bernard and Y. Nakashima, An observation of several

Taiwan, Journal of Zoology, 1997, 243 (1), 71-79.

Common Palm Civets Paradoxurus hermaphroditus at a fruiting tree of

Endospermum diadenum in Tabin Wildlife Reserve, Sabah, Malaysia: comparing

feeding patterns of frugivorous carnivorans, Small Carnivore Conservation,

[26] Rozhnov, The role of different types of excretions in mediated chemo-

2012, 47, 42–45.

communication of common palm civet, Paradoxurus hermaphroditus Pallas,

[27] D. Spaan, M. Williams, Wirdateti, G. Semiadi and K. A. I. Nekaris, Use of raised

1777 (Mammalia, Carnivora), NCBI, 2003, 6, 698-705.

plastic water-pipes by Common Palm Civet (Paradoxurus hermaphroditus) for

97

habitat connectivity in an anthropogenic environment in West Java, Indonesia,

[28] Y. Nakashima, E. Inoue, M. I. Murayama and J. A. Sukor, High Potential of a

Small Carnivore Conservation, 2014, 51, 85-87.

Disturbance-Tolerant Frugivore, the Common Palm Civet Paradoxurus

hermaphroditus (Viverridae), as a Seed Disperser for Large-Seeded Plants,

[29] A. H. Chua., K. P. Kelvin, Lim and H. S. Celine Low, The diversity and status of

Mammal Study, 2010, 35 (3), 209-215.

the civets (Viverridae) of Singapore Marcus, Small Carnivore Conservation,

[30] Y. Nakashima, M. Nakabayashi and J. Abd.sukor, Space use, habitat selection,

2012, 47, 1–10.

and day-beds of the common palm civet (Paradoxurus hermaphroditus) in

human-modified habitats in Sabah, Borneo, Journal of Mammalogy, 2013, 94-

[31] S. Guraya, Morphology of the civet cat (Paradoxurus hermaphroditus) ovary

95).

[32] S. Guraya, Histochemical observations on the civet cat (Paradoxurus

during the follicular phase, 1979, 84 (4), 321-336.

hermaphroditus) ovary during the period of follicular activity, 1981, 86 (1-2),

[33] T. Rung-ruangkijkrai, W. Klomkleaw and P. Prachammuang, Arteries of the

71.

heart of a common palm civet (Paradoxurus hermaphroditus), Proceeding of

[34] K. G. Patil, K. S. Janbandhu, V. A. Shende, A. V. Ramteke and M. K. Patil,

AZWMP, 2006, 27.

Adaptations in the kidney of Palm Civet, Paradoxurus hermaphroditus, Int. J. of

[35] M. Sasaki, J. Yamada, B. Teguh, H .Endo, J. Kimura, T. Tsubota, Y. Hayashi

Life Sciences, 2016, 4 (2), 198-202.

and N. Kitamura, Immunohistochemical localization of the steroidogenic enzyme

and steroid receptors in the testis and perineal gland of the common palm civet

(Paradoxurus hermaphroditus), The 2nd Congress of the AAVA

MORPHOLOGY, 2008, 3 (1), 59.

98

[36] C. Salakij, J. Salakij, N. Narkkong, D. Tongthainun, K. Prihirunkit and S. Itara,

Hematology, Cytochemistry and Ultrastructure of Blood Cells in Common Palm

Civet (Paradoxurus hermaphroditus), Kasetsart J. (Nat. Sci.), 2007, 41, 705 –

[37] A A. Ahmad, P. Jayarajah, G. W. Yee Han, S. Jocelyn, W. Yin OH and A.

716.

Rasedee, Hematology and serum biochemistry parameters for rescued common

palm civets (Paradoxurus hermaphroditus) in different age groups, The Journal

[38] L. Yu and Y.P. Zhang, Phylogenetic studies of pantherine cats (Felidae) based

of Veterinary Medical Science, 2017, 79 (6), 1134–1137.

on multiple genes, with novel application of nuclear b-fibrinogen intron 7 to

[39] M. L. Patoua, R. Debruyneb, A. P. Jenningsa, A. Zubaidd, J. J. Rovie-Ryane and

carnivores, Molecular Phylogenetics and Evolution, 2005, 35, 483–495.

G. Verona, Phylogenetic relationships of the Asian palm civets (Hemigalinae &

Paradoxurinae, Viverridae, Carnivora, Molecular Phylogenetics and Evolution,

[40] M. L. Patou, A. Wilting, P. Gaubert, J. A. Esselstyn, C. Cruaud, A. P. Jennings,

2008, 47, 883–892.

J. Fickel and G. Veron, Evolutionary history of the Paradoxurus palm civets – a

new model for Asian biogeography, Journal of Biogeography, 2010, 37, 2077–

[41] G. Veron, M. Patou, M. Toth, M. Goonatilake and A. P. Jennings, How many

2097.

species of Paradoxurus civets are there? New insights from India and Sri Lanka,

[42] AFS D. Silva, VPR. Minim, JBP Chaves, PC Stringheta and MM Ribeiro,

J Zoolog Syst Evol Res, 2015, 53, 161—174.

Evaluation of the bitter taste of the drink coffee (Coffea arabica L.) by analyzing

[43] Roberton, The Status and Conservation of Small Carnivores in Vietnam, PhD

organic intensity time, Food Science Technology, 2004, 24, 468–472.

thesis, University of East Anglia School of Biological Sciences Centre for

Ecology, 2007.

99

[44] B. Murphy, Equine chorionic gonadotropin: an enigmatic but essential tool,

[45] W.T. Jr Moore, D.N. Ward, Pregnant mare serum gonadotropin. Rapid

Anim Reprod, 2012, 9 (3), 223-230.

chromatographic procedures for the purification of intact hormone and isolation

[46] G.B. Sherman, M.W. Wolfe, T.A. Farmerie, C.M. Clay, D.S. Threadgill, D.C.

of subunits, J Biol Chem, 1980, 255, 6923-6929.

Sharp and J.H. Nilson, A single gene encodes the beta-subunits of equine

luteinizing hormone and chorionic gonadotropin, Mol Endocrinol, 1992, 6, 951-

[47] T. Matsui, H. Sugino, H. Miura, G.R. Bousfield, D.N. Ward, K. Titani and T.

959.

Mizuochi, Beta-subunits of equine chorionic gonadotropin and lutenizing

hormone with an identical amino acid sequence have different asparagine-linked

[48] S.D. Martinuk, A.W. Manning, W.D. Black and B.D. Murphy, Effects of

oligosaccharide chains, Biochem Biophys Res Commun, 1991, 174, 940-945.

carbohydrates on the pharmacokinetics and biological activity of equine

[49] M. Saint-Dizier, F. Foulon-Gauze, F. Lecompte, Y .Combarnous and M.

chorionic gonadotropin in vivo, Biol Reprod, 1991, 45, 598-604.

Chopineau, The additional N-glycosylation site of the equine LH/CG receptor is

not responsible for the limited cyclic AMP pathway activation by equine

chorionic gonadotropin relative to luteinizing hormone, Reprod Biol, 2011, 11,

[50] M. Saint-Dizier, F. Foulon-Gauze, F. Lecompte, Y .Combarnous and M.

157-164.

Chopineau, Cloning and functional expression of the equine luteinizing

[51] M. Boeta, L. Zarco, Endocrine alterations around the time of abortion in mares

hormone/chorionic gonadotrophin receptor, J Endocrinol, 2004, 183, 551-559.

[52] R.L. Matteri, D.M. Baldwin, B.L. Lasley and H. Papkoff, Biological and

impregnated with donkey or horse semen, Anim Reprod Sci, 2010, 121, 124-130.

immunological properties of zebra pituitary gonadotropins: comparison with

horse and donkey gonadotropins, Biol Reprod, 1987, 36, 1134-1141.

100

[53] B.D. Murphy, S.D. Martinuk, Equine chorionic gonadotropin, Endocr Rev, 1991

[54] A. Bartlett, S.J. Pain, P.E. Hughes, P. Stott and W.H. Wettere, The effects of

12, 27-44.

PG600 and boar exposure on oestrus detection and potential litter size following

mating at either the induced (pubertal) or second oestrus, Anim Reprod Sci,

[55] M.N. Sawalha, R.T. Kridli, K.I. Jawasreh and C.A. Meza- Herrera, The use of

2009, 114, 219-227.

melatonin and progestagen-eCG to initiate reproductive activity in prepuberal

[56] M.M. Bevers, S.J. Dieleman, H.T. van Tol, D.M. Blankenstein and J. V. D.

Awassi ewe lambs, Trop Anim Health Prod, 2011, 43, 1345-1350.

Broek, Changes in pulsatile secretion patterns of LH, FSH, progesterone,

androstenedione and oestradiol in cows after superovulation with PMSG, J

[57] D. Monniaux, J.C. Mariana and W.R. Gibson, Action of PMSG on follicular

Reprod Fertil , 1989, 87, 745- 754.

[58] A. Gonzalez, H. Wang, T.D. Carruthers, B.D. Murphy and R.J. Mapletoft,

populations in the heifer, J Reprod Fertil, 1984, 70, 243-253.

Superovulation in the cow with pregnant mare serum gonadotrophin: effects of

dose and antipregnant mare serum gonadotrophin serum, Can Vet J, 1994, 35,

[59] M.C. Mattos, M.R. Bastos, M.M. Guardieiro, J.O. Carvalho, M.M. Franco, G.B.

158-162.

Mourao, C.M. Barros and R. Sartori, Improvement of embryo production by the

replacement of the last two doses of porcine follicle- stimulating hormone with

equine chorionic gonadotropin in Sindhi donors, Anim Reprod Sci, 2011, 125,

[60] M.F. Sá Filho, J.R. Torres-Junior, L. Penteado, L.U. Gimenes, R.M. Ferreira, H.

119-123.

Ayres, E..PL.A. Castro, J.N. Sales and P.S. Baruselli, Equine chorionic

gonadotropin improves the efficacy of a progestin-based fixed-time artificial

insemination protocol in Nelore (Bos indicus) heifers, Anim Reprod Sci, 2010,

118, 182-187.

101

[61] G. Martemucci, A.G. D'Alessandro, Synchronization of oestrus and ovulation by

short time combined FGA, PGF(2alpha), GnRH, eCG treatments for natural

[62] G.A. Bo, L.C. Peres, L.E. Cutaia, D. Pincinato, P.S. Baruselli and R.J. Mapletoft,

service or AI fixed-time, Anim Reprod Sci, 2011, 123, 32-39.

Treatments for the synchronisation of bovine recipients for fixed-time embryo

transfer and improvement of pregnancy rates, Reprod Fertil Dev, 2011, 24, 272-

[63] C.C. Dias, F.S. Wechsler, M.L. Day and J.L. Vasconcelos, Progesterone

277.

concentrations, exogenous equine chorionic gonadotropin, and timing of

prostaglandin F(2alpha) treatment affect fertility in postpuberal Nelore heifers,

[64] M.F. Nogueira, D.S. Melo, L.M. Carvalho, E.J. Fuck, L.A. Trinca and C.M.

Theriogenology, 2009, 72, 378-385.

Barros, Do high progesterone concentrations decrease pregnancy rates in

embryo recipients synchronized with PGF2alpha and eCG?, Theriogenology,

[65] P.S. Baruselli, R.M. Ferreira, M.F. Sá Filho, L.F.T. Nasser, C.A. Rodrigues and

2004, 61, 1283-1290.

G.A. Bo, Bovine embryo transfer recipient synchronisation and management in

[66] R.B. Lea ̃ o, S.C. Esteves, Gonadotropin therapy in assisted reproduction: an

tropical environments, Reprod Fertil Dev, 2010, 22, 67-74.

evolutionary perspective from biologics to biotech, Clinics, 2014, 69 (4), 279-

[67] A. C. Laurence, New discoveries on the biology and detection of human chorionic

293.

[68] A. C. Laurence, Biological functions of hCG and hCG-related molecules,

gonadotropin, Reproductive Biology and Endocrinology, 2009, 7-8.

[69] F. D. Rensis, F. López- Gatius, I. Garcia-Ispierto and M. Techakumpu, Clinical

Reproductive Biology and Endocrinology, 2010, 8-102.

use of human chorionic gonadotropin in dairy cows: an update, Theriogenology,

2010, 73 (8), 1001-1008.

102

[70] E. Popova, A Krivokharchenko, D. Ganten and M. Bader, Comparison between

PMSG- and FSH-induced superovulation for the generation of transgenic rats,

[71] C. Luo, J. Zuñiga, E. Edison, S. Palla, W. Dong and J. P. Thornburg,

Mol Reprod Dev, 2002, 63 (2), 177-82.

Superovulation Strategies for 6 Commonly Used Mouse Strains, J Am Assoc Lab

[72] Trần Tiến Dũng, Kết quả ứng dụng hormone sinh sản điều trị hiện tựơng chậm

Anim Sci, 2011, 50 (4), 471–478.

[73] Nguyễn Đình Giậu, Nguyễn Chi Mai và Trần Thị Việt Hồng, Sinh lí người và

động dục lại sau đẻ ở lợn nái, Tạp chí KHKT Nông nghiệp, 2004, 2 (1), 66-72.

động vật, NXB Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, Thành phố Hồ

[74] V.M. Shille; M.A. Haggerty, C. Shackleton and B.L. Lasley, Metabolites of

Chí Minh.

estradiol in semm, bile, intestine and feces of the domestic cat (Felis catus),

[75] R. Palme, P. Fischer, H. Schildorfer and M.N. Ismail, Excretion of infused “14

Theriogenology, 1990, 34, 779-794.

C-steroid hormones via faeces and urine in domestic Iivestock, Anim. Reprod.

[76] F. Schwarzenberger, E. Mostl; R. Palme and E. Bamberg, Fecal steroid analysis

Sci., 1996, 43, 43-63.

for noninvasive monitoring of reproductive status in farm, wild and zoo animals,

[77] N.R. Adams, LA. Abordi, J.R. Briegel and M.R. Sanders, Effect of diet on the

Animal reproduction science, 1996, 42 (1-4), 515-526.

[78] R. Palme, Measuring Faecal steroids: guidelines for practical application, Ann.

clearance of estradiol-17ß in the ewe, Biol. Reprod., 1994, 51, 668-674.

[79] R. Palme, A. Holzmann and T. Mitterer, Measuring fecal estrogens for the

N.Y. Acad. Sci., 2005, 1046, 75-80.

[80] S.K. Wasser, S.L. Monfort, J. Southers and D.E. Wildt, Excretion rates and

diagnosis of cryptorchidism in horses, Theriogenology, 1994, 42, 1381 - 1387.

metabolites of oestradiol and progesterone in baboon (Papio cytwcephalus

cynocephalus) faeces, J. Reprod. Fertil., 1994, 101, 213-220.

103

[81] L.H. Graham, J.L. Brown, Cortisol metabolism in the domestic cat and

implications for develop- ing a non-invasive measure of adrencortical ac- tivity

[82] S.A. Hattab, A.K. Kadom, R. Palme and E. Bamberg, Effect of Crestar on estrus

in non-domestic felids, Zoo Biology, 1996, 15, 71-82.

synchronization and the relationship between faecal and plasma concentrations

[83] M. C. E. F. a. C. O. A. Capezzuto, Correlation between serum and fecal

of progesterone in buffalo cows, Theriogenology, 2000, 54, 1007-1017.

concentrations of reproductive steroids throughout gestation in goats, Anim.

[84] F. Schwarzenberger, E. Möstl, E. Bamberg, Pammer and O. Schmehlik,

Reprod, 2008, 103, 78-86.

Concentrations of progestagens and oestrogens in the faeces of pregnant

Lipizzan, Trotter and Thoroughbmd mares, J. Reprod. Fert., Suppl., 1991, 44,

[85] N. Isobe, M.Akita, T. Nakao, H. Yamashiro and H. Kubota, Pregnancy diagnosis

489-499.

based on the faecal progesterone concentration in beef and dairy heifers and beef

[86] F. Schwarzenberger, W. Rietschel, J. Vahala, D. Holeckova, P. Thomas, J.

cows, Anim Reprod. Sci., 2005, 90, 211-218.

Maltzan, K. Baumgartner and W. Schaftenaar, Assessment of ovarian cycle by

fecal progesterone and estradiol-17 β in exotic cat, Gen C Endoc, 2000, 119(3),

[87] H.D. Putranto, S. Kusuda, Y. Mori and K.O. Inagaki, Assessment of ovarian cycle

300-307.

by fecal progesterone and estradiol-17 β in exotic cat, Proceedings of AZWMP

[88] H. D. Putranto, A non-invasive identification of hormone metabolites, gonadal

Chulalongkorn Uni. Fac. of Vet. Sc., 2006, 26-29.

event and reproductive status of captive female tigers, Biodiversitas, 2011, 12

[89] S. Fujita, F. Mitsunaga, H. Sugiura and K. Shimizu, Measurement of urinary and

(3), 131-135.

fecal steroid metabolites during the ovarian cycle in captive and wild Japanese

macaques, Macaca fuscata, Am J Primatol., 2001, 53 (4), 167-176.

104

[90] B. Biancani, L. Da Dalt, G. Lacave, S. Romagnoli and G. Gabai, Measuring fecal

progestogens as a tool to monitor reproductive activity in captive female

[91] S. E. Shideler, A. M. Ortuño, F. M. Morán, E. A. Moorman and B. L. Lasley,

bottlenose dolphins (Tursiops truncatus), Theriogenology, 2009, 72, 1282–1292.

Simple extraction and enzyme immunoassays for estrogen and progesterone

metabolites in the feces of Macaca fascicularis during non-conceptive and

[92] J.L. Brown, S.K. Wasser, D.E. Wildt and L.H. Graham, Comparative aspects of

conceptive ovarian cycles, Biol Reprod, 1993, 48 (6), 1290-1298.

steroid hormone metabolism and ovarian activity in felids, measured non

[93] K. Wasser, S.L. Monfort, J. Southers and D.E. Wildt, Excretion rates and

invasively in faeces, Biol. Reprod., 1994, 51, 776-786.

metabolites of oestradiol and progesterone in baboon (Papio cynocephalus

[94] T. E. Ziegler, G. Scheffler, D.J. Wittwer, N. Schultz-Darken, C.T. Snowdon and

cynocephalus) faeces, J. Reprod. Fertil, 1994, 101, 213-220.

D.H. Abbott, Metabolism of reproductive steroids during the ovarian cycle in

two species of Callitrichids, Sanguinus oedipus and Callithrix jacchus, and

estimation of the ovulatory period from fecal steroids, Biol. Reprod, 1996, 54,

[95] A. Kumar, S. Mehrotra, SS. Dangi, G. Singh, S. Chand, L. Singh, AS. Mahla, S.

91-99.

Kumar and K. Nehra, Faecal steroid metabolites assay as a non-invasive

[96] H. Amer, G. Shawki and R. Ismail, Ovarian and endocrine changes during

monitoring of reproductive status in animals, Vet World, 2013, 6 (1), 59-63.

oestrus and early pregnancy in Arabian mares, The Internet Journal of

[97] E. Macchi, C. A. Starvaggi, P. Badino, R. Odore, F. Re, L. Bevilacqua and A.

Veterinary Medicine, 2007, 4 (1), 1-7.

Malfatti, Seasonality of reproduction in wild boar (Sus scrofa) assessed by fecal

[98] H. Ncube, P. Duncan, , S. Grange, E.Z. Cameron, F. Barnier and A. Ganswindt,

and plasmatic steroids, Theriogenology, 2010, 73, 1230–1237.

Pattern of faecal 20-oxopregnane and oestrogen concentrations during

105

pregnancy in wild plains zebra mares, General and Comparative Endocrinology,

[99] D. W. G. L. R. T. a. P. L. N. A. S. Monica, Use of urinary biomakers of ovarian

2011, 172, 358–362.

funtion and altrenogest supplementation to enhance captive breeding success in

[100] H. Maheshwari, L. Sjahfirdi, P. Astuti and B. Purwantara, Fecal steroid profile

the Indian rhinoceros (Rhinoceros unicornis), Zoo Biol, 2014, 33, 83-88.

of female Javan gibbons (Hylobates moloch) maintained in pairing-typed cage,

[101] J. Arunji, Non-invasive monitoring of buffalo estrous cycle, M. V. Sc. Thesis,

Hayati Journal of Biosciences, 2010, 17, 43-49.

[102] N.M. Czekala, E.A MacDonald, K. Steinman, S. Walker, N.M. Garrigues, D.

2008.

Olson and J.L. Brown, Estrogen and LH dynamics during the follicular phase of

[103] I. Adachi, S. Kusuda, E. Nagao, Y. Taira, M. Asano, T. Tsubota and O. Doi,

the estrous cycle in the Asian elephant, Zoo Biol., 2003, 22, 27–36.

Fecal steroid metabolites and reproductive monitoring in a female Tsushima

leopard cat (Prionailurus bengalensis euptilurus), Theriogenology, 2010, 74 (8),

[104] J.M. Busso, M.F. Ponzio, F.D.M. Cuneo and R.D. Ruiz, Reproduction in

1499-1503.

chinchilla (Chinchilla lanigera): current status of environmental control of

gonadal activity and advances in reproductive techniques, Theriogenology,

[105] E. Curry, M.A. Stoops and T.L Roth, Non invasive detection of candidate

2012, 78, 1–11.

pregnancy protein biomarkers in the feces of captive polar bears (Ursus

[106] F. Schwarzenberger, R. Palme, E. Bamberg and Mostl, A review of fecal

maritimus), Theriogenology, 2012, 78 (2), 308-314.

progesterone metabolite analysis for noninvasive monitoring of reproductive

[107] C-J. C. Morden, Fecal hormone as a non-invasive population monitoring method

function in mammals, Zeitschrift fur Saugetierkunde, 1997, 62, 214-221.

for Reindeer, Journal of Wildlife Management, 2011, 75 (6), 1426-1435.

106

[108] Chung Anh Dzung, Le Xuan Cuong, Vuong Ngoc Long, Dinh Van Cai, Dang

Phuoc Chung and Pham Ho Hai, Constraints on efficiency of artificial

insemination and effect of nutrition on reproductive performance of dairy cattle

in smallholder farms, Proceeding of IAEA Final Research Co-ordination

[109] C. Frederick, R. Kyes, K. Hunt, D. Collins, B. Durrant and S.K. Wasser, Method

Meeting in Uppsala, 2001, 67-78.

of estrus detection and correlates of reproductive cycle in the sun bear (Helarctos

[110] J.W. Duckworth, P. Widmann, C. Custodio, J.C. Gonzalez, A. Jennings and G.

malayanus), Theriogennology, 2010, 74, 1121-1135.

Veron, "Paradoxurus hermaphroditus" IUCN Red List of Threatened Species,

[111] J. Nelson, Paradoxurus hermaphroditus, Animal Diversity Web, Accessed May

International Union for Conservation of Nature, 2017, Version 2017.3.

[112] P. B. Sanghani, Human anatomy and physiology, Tata McGraw Hill, 2012, New

23, 2017 at http://animaldiversity.org/accounts/Paradoxurus hermaphroditus.

[113] S. Meliani, B. Benallou, A. Hamdi and S. Boubdelii, Influence of Age on

York, Hoa Kỳ.

Haematological Parameters in Post-Partum Pure Bred Arabian Mares Raised in

[114] Đỗ Văn Thu, Nguyễn Văn Bộ, Đoàn Việt Bình, Nguyễn Ngọc Hưng, Trần Xuân

Tiaret Algeria, J Microb Biochem Technol, 2014, 7, 8-10.

Khôi, Lê Thị Huệ và Nguyễn Thị Thịnh, Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lý-sinh

hóa huyết học giống chó Bắc Hà và H’Mong nuôi cách ly, Tạp chí sinh học, 2015,

[115] J.A. Junior, N. Songsasen, F.C. Azevedo, J.P. Santos, R.C. Paula, F.H.G.

37 (4), 503-508.

Rodrigues, M.D. Rodden, D.E. Wildt and R.G. Morato, Hematology and blood

chemistry parameters differ in free-ranging maned wolves (Chrysocyon

brachyurus) living in the Serra Da Canastra National Park versus adjacent

farmlands, Brazil J Wildl Dis., 2009, 45, 81-90.

107

[116] M.K. Rostal, A.L. Evans, E.J. Solberg and J.M. Arnemo, Hematology and serum

chemistry reference ranges for free-ranging moose (Alces alces) in Norway, J

[117] C. Özkan, A. Kaya and Y. Akgül, Normal values of haematological and some

Wildl Dis., 2012, 48, 548-559.

biochemical parameters in serum and urine of New Zealand White rabbits,

[118] P. Rui, Ma Z.J., Zhang X.Z., Li P.G., Gao G.P., Yang Z.Z. and Zhang J.H.,

World Rabbit Sci., 2012, 20, 253-259.

Hematology and serum biochemistry values in adult racoon dogs and foxes in

Changli farms of Hebei province, China, Afr J Microbiol Res., 2011, 5, 4667-

[119] J. Brown, Female reproductive cycles of wild female felids, Animal Reproduction

4672.

[120] J. Cavalieri, G. Hepworth, K.I. Parker, P.J. Wright and K.L. Macmillan, Effect of

Science, 2011, 124, 155–162.

treatment with progesterone and oestradiol when starting treatment with an

intravaginal progesterone releasing insert on ovarian follicular development and

hormonal concentrations in Holstein cows, Animal Reproduction Science, 2003,

[121] Y. Kameyama, K. Arai and Y. Ishijima, Interval between PMSG Priming and

76, 177–193.

hCG Injection in Superovulation of the Mongolian Gerbil, J. Mamm. Ova Res,

2004, 21, 105-109.

a

PHỤ LỤC

Hình 1. Trang trại nuôi cầy vòi hương tại Trung tâm

Hình 2. Trang trại động vật hoang dã Thanh Long,

ứng dụng CNSH tỉnh Đồng Nai

Thủ Đức-Thành phố Hồ Chí Minh

Hình 3. Cầy chui vào ống

Hình 4. Cầy ngủ vào ban ngày Hình 12. Cầy ngủ vào ban ngày

b

Hình 5. Cầy đang ăn cháo

Hình 6. Cầy đang ăn chuối

Hình 7. Chuẩn bị thức ăn cho cầy

Hình 8. Cầy đang giao phối.

c

Hình 9. Máy phân tích máu tự động Mindray BC-2800

Hình 10. Bộ KIT ELISA

Hình 11. Phiếu xét nghiệm nước tiểu

Hình 12. Phiếu xét nghiệm hormone

d

Hình 13. Phân tích mẫu phân tại phòng thí nghiệm trường

Hình 14. Dò tìm tĩnh mạch gốc đuôi.

Đại học Thủ Dầu Một

Hình 15. Mẫu phân được thu thập, lưu trữ và ly trích

Hình 16. Lấy mẫu máu tại tĩnh mạch gốc đuôi.