ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------
Nguyễn Tuấn Anh
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI, PHÂN BỐ, VÀ ĐỀ
XUẤT BIỆN PHÁP BẢO TỒN CHO LOÀI THỎ VẰN TRƯỜNG SƠN
NESOLAGUS TIMMINSI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------
Nguyễn Tuấn Anh
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI, PHÂN BỐ, VÀ ĐỀ
XUẤT BIỆN PHÁP BẢO TỒN CHO LOÀI THỎ VẰN TRƯỜNG SƠN
NESOLAGUS TIMMINSI
Chuyên ngành: Khoa học môi trường
Mã số: 8440301.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Lê Đức Minh
Hà Nội – 2019
Lời cảm ơn
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn của tôi, là PGS. TS. Lê
Đức Minh, đã giúp đỡ tôi tận tình trong toàn bộ quá trình học và quá trình thực hiện
luận văn thạc sĩ này. Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo của Khoa Môi trường,
trường Đại học Khoa học tự nhiên nói chung, và các thầy cô giáo của Bộ môn Sinh
thái môi trường nói riêng, đặc biệt là PGS. TS. Trần Văn Thụy, PGS. TS. Nguyễn
Kiều Băng Tâm, Th.S. Nguyễn Thị Thu Hà, đã tạo điều kiện cho tôi trong thời gian
học tập.
Tiếp theo, tôi xin cảm ơn TS. Mary Blair, giám đốc phòng Tin Sinh học, Trung tâm
Bảo tồn đa dạng sinh học, Bảo tàng lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ, và các đồng nghiệp ở
Bảo tàng lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ, đặc biệt là Ned Horning và Peter Galante, đã
giúp đỡ trong thời gian đầu tôi làm quen với các phương pháp mô hình hóa.
Nhiều phần về thực địa và tổng hợp số liệu của luận văn này sẽ không thể thực hiện
được nếu không có sự giúp đỡ tận tình của các anh chị, các đồng nghiệp, bao gồm
anh Nguyễn Văn Thành, Ngô Thị Hạnh, và Nguyễn Thị Thắm ở Đại học Khoa học
tự nhiên Hà Nội, anh Nguyễn Thế Trường An, và anh Andrew Tilker ở Viện nghiên
cứu thú Leibniz, anh Trịnh Đình Hoàng ở Fauna & Flora International Việt Nam,
Santi Xayyasith ở Đại học Quốc gia Lào, anh Trần Văn Bằng ở Viện Sinh thái học
miền Nam, anh Nguyễn Quảng Trường ở Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, chị
Nguyễn Thị Ánh Minh ở Đại học Khoa học tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh, và
nhiều anh em, cán bộ kiểm lâm, và người dẫn đường địa phương ở nhiều khu bảo
tồn trên cả nước.
Hà Nội, 18/06/2019
Nguyễn Tuấn Anh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ..................................................................................... 3
1.1. Tổng quan về đa dạng sinh học ở khu vực dãy Trường Sơn ............................ 3
1.2. Tổng quan về loài Thỏ vằn Trường Sơn ........................................................... 7
1.3. Tổng quan về tình hình khảo sát bẫy ảnh ....................................................... 10
1.4. Tổng quan về Mô hình hóa phân bố loài ........................................................ 14
1.4.1. Sơ lược nghiên cứu mô hình hóa phân bố loài trên thế giới .................... 14
1.4.2. Sơ lược nghiên cứu mô hình hóa phân bố loài ở Việt Nam ..................... 17
1.5. Tổng quan về các khu vực nghiên cứu chính ................................................. 19
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 33
2.1. Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................... 33
2.2. Nội dung nghiên cứu....................................................................................... 34
2.3. Thời gian thực hiện ......................................................................................... 35
2.4. Dụng cụ nghiên cứu chính .............................................................................. 35
2.5. Các phương pháp nghiên cứu chính ............................................................... 36
2.5.1. Phương pháp kế thừa tài liệu .................................................................... 36
2.5.2. Phương pháp phỏng vấn ........................................................................... 36
2.5.3. Phương pháp điều tra thực địa theo tuyến ................................................ 37
2.5.4. Phương pháp điều tra bẫy ảnh .................................................................. 38
2.5.5. Phương pháp mô hình hóa phân bố .......................................................... 40
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................................. 45
3.1. Kết quả điều tra thực địa theo tuyến ............................................................... 45
3.2. Kết quả điều tra bẫy ảnh ................................................................................. 46
3.3. Kết quả mô hình hóa phân bố ......................................................................... 55
3.3.1. Các ghi nhận về phân bố của Thỏ vằn Trường Sơn ................................. 55
3.3.2. Kết quả mô hình phân bố cho loài Thỏ vằn ............................................. 64
3.4. Một số biện pháp bảo tồn cho loài Thỏ vằn Trường Sơn ............................... 74
3.4.1. Các yếu tố chính tác động đến quần thể Thỏ vằn Trường Sơn ................ 74
3.4.2. Các biện pháp bảo tồn quần thể ............................................................... 75
3.4.3. Các biện pháp bảo vệ sinh cảnh ............................................................... 76
3.4.4. Các biện pháp tuyên truyền nâng cao năng lực và nhận thức .................. 77
3.5. Thảo luận ........................................................................................................ 77
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 86
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 97
DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Bản đồ độ cao khu vực dãy Trường Sơn ....................................................... 4
Hình 2. Một loài Nguy cấp, Cầy vằn Bắc (Chrosogale owstoni),
được ghi nhận bằng bẫy ảnh tại khu vực nghiên cứu ................................................ 11
Hình 3. Vị trí bốn khu vực nghiên cứu chính của luận văn,
so với một số khu bảo tồn khác trong khu vực dãy Trường Sơn. ............................. 21
Hình 4. Một khu vực tại Vườn quốc gia Bến En ...................................................... 24
Hình 5. Một khu vực tại khu bảo tồn Sao la Huế ..................................................... 32
Hình 6. Minh họa giá trị AICs dùng để lựa chọn mô hình ....................................... 43
Hình 7. Biểu đồ khung nghiên cứu của luận văn ..................................................... 44
Hình 8. Các tuyến điều tra đã khảo sát ở Vườn quốc gia Bến En ............................ 45
Hình 9. Các tuyến điều tra đã khảo sát ở khu bảo tồn Hin Nam No ........................ 46
Hình 10. Ghi nhận Thỏ vằn bằng bẫy ảnh ở khu bảo tồn Sao la Huế ...................... 48
Hình 11. Đặc điểm sinh thái thời gian trong ngày của Thỏ vằn Trường Sơn .......... 49
Hình 12. Tỉ lệ xuất hiện từ 18h00 đến 22h00 ở các tháng trong năm
của Thỏ vằn Trường Sơn ........................................................................................... 50
Hình 13. Tỉ lệ xuất hiện vào các ngày trong tháng của Thỏ vằn Trường Sơn ......... 51
Hình 14. Tỉ lệ xuất hiện vào các nhóm 5 ngày của Thỏ vằn Trường Sơn ............... 51
Hình 15. Tỉ lệ xuất hiện vào các tháng trong năm của Thỏ vằn Trường Sơn .......... 52
Hình 16. Tỉ lệ xuất hiện vào các tháng trong năm của
Cầy vòi hương (Paradoxurus hermaphroditus) ở khu bảo tồn Sao la Huế .............. 53
Hình 17. Tỉ lệ xuất hiện vào các tháng trong năm của
Chồn bạc má Bắc (Melogale moschata) ở khu bảo tồn Sao la Huế .......................... 53
Hình 18. Tổng hợp các điểm ghi nhận của Thỏ vằn Trường Sơn từ trước tới nay .. 64
Hình 19. Giá trị AUC của mô hình tốt nhất cho
phân bố tiềm năng hiện tại của Maxent .................................................................... 65
Hình 20. Phân bố tiềm năng hiện tại của Thỏ vằn Trường Sơn,
với vị trí của các khu bảo tồn ở khu vực dãy Trường Sơn ........................................ 66
Hình 21. Vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn
ở năm 2050 dưới kịch bản RCP 2,6 và kịch bản RCP 8,5
của mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu BCC-CSM1-1 ............................................ 69
Hình 22. Vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn
ở năm 2050 dưới kịch bản RCP 2,6 và kịch bản RCP 8,5
của mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu MIROC5 .................................................... 70
Hình 23. Vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn
ở năm 2050 dưới kịch bản RCP 8,5 của mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu
BCC-CSM1-1 và phân vùng độ cao ở Việt Nam và Lào .......................................... 72
Hình 24. Vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn
ở năm 2050 dưới kịch bản RCP 8,5 của mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu
MIROC5 và phân vùng độ cao ở Việt Nam và Lào .................................................. 73
Hình 25. Vùng phân bố tiềm năng hiện nay của Thỏ vằn Trường Sơn
so với các vùng có độ cao khác nhau ........................................................................ 78
Hình 26. Vị trí tương đối của vùng phân bố tiềm năng hiện tại của
Thỏ vằn Trường Sơn với hệ thống sông Mã ở phía Bắc và
hệ thống sông Sê San – sông Ba ở phía Nam ........................................................... 82
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Các khu vực điều tra thực địa chính của luận văn ...................................... 20
Bảng 2. Kết quả tổng hợp các ghi nhận về Thỏ vằn từ trước tới này ....................... 55
Bảng 3. Diện tích vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn
trong các kịch bản biến đổi khí hậu khác nhau ......................................................... 71
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
IUCN
Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (International Union for Conservation of Nature)
Cs Cộng sự
Maxent Phần mềm Maximum Entropy
MỞ ĐẦU
Dãy Trường Sơn là một khu vực có mức độ đa dạng sinh học cao, với nhiều loài thú
đặc hữu và quý hiếm, như Sao la (Pseudoryx nghetinhensi), Vooc Hà Tĩnh
(Trachypithecus hatinhensis), Vượn má trắng Nam (Nomascus siki), Lợn rừng
Heude (Sus bucculentus), Mang Trường Sơn (Muntiacus truongsonensis) [76]. Khu
vực này được coi là “mỏ loài mới” của Việt Nam nói riêng, và khu vực Đông
Dương nói chung, với nhiều loài thú được phát hiện hoặc tái phát hiện ở giai đoạn
gần đây, đặc biệt là từ những năm 1990 trở về đây, ví dụ như Mang Trường Sơn
(Muntiacus truongsonensis) [33], Thỏ vằn Trường Sơn (Nesolagus timminsi) [11],
Mang Roosevelt (Muntiacus rooseveltorum) [53]. Tuy nhiên, với mức độ đa dạng
cao như vậy, các loài sinh vật ở Trường Sơn đã và đang chịu ảnh hưởng tiêu cực từ
việc săn bắn trái phép quá mức và phá hủy sinh cảnh.
Tình trạng săn bắn trái phép là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất đối với
các loài: nhiều loài đã trở nên rất khó ghi nhận ngoài tự nhiên do tình trạng sử dụng
bẫy dây phanh với quy mô lớn như Sao la, một số loài khác thậm chí đã bị tuyệt
chủng [76]. Trong đó, loài Thỏ vằn Trường Sơn, vốn mới chỉ được phát hiện từ năm
1996 và chính thức mô tả năm 2001, đã phải đối mặt với những nguy cơ trên. Tuy
nhiên, Thỏ vằn Trường Sơn lại là loài thiếu nhiều thông tin sinh thái quan trọng,
trong đó có đặc điểm phân bố của loài, và chưa có công bố nào về phân bố tiềm
năng và dự báo vùng phân bố của loài này trong bối cảnh biến đổi khí hậu, vốn là
những thông tin rất cần thiết để có thể đề ra các biện pháp bảo tồn phù hợp cho loài.
Vì thế, mục tiêu trước tiên của nghiên cứu này là tổng hợp các thông tin từ các
nghiên cứu trước đây liên quan đến loài Thỏ vằn Trường Sơn, kết hợp với các thông
tin phỏng vấn chuyên gia và phỏng vấn thực tế, để tìm ra những khu vực có tiềm
năng có Thỏ vằn cao mà chưa được ghi nhận thực tế. Mục tiêu thứ hai là tiến hành
khảo sát thực địa, bằng cả phương pháp điều tra theo tuyến và điều tra bẫy ảnh, để
1
thu thập các vùng có Thỏ vằn sinh sống ở các khu vực tiềm năng, và phân tích số
liệu thực địa để tìm ra một số đặc điểm sinh thái của loài, đặc biệt là các đặc điểm
phân bố về thời gian. Mục tiêu thứ ba là sử dụng các kết quả thu được từ những
nghiên cứu trước đây và từ quá trình thực địa để xây dựng mô hình phân bố loài, từ
đó phân tích một số đặc điểm sinh thái về phân bố không gian của Thỏ vằn, đồng
thời đánh giá sự thay đổi về đặc điểm phân bố trong tương lại của Thỏ vằn dưới tác
động của biến đổi khí hậu, để từ đó đề xuất được các biện pháp bảo tồn thích hợp
cho loài và cung cấp cơ sở khoa học cho quy hoạch bảo tồn Thỏ vằn Trường Sơn.
Vì thế, các nội dung nghiên cứu chính của luận văn bao gồm:
(1). Tổng hợp các thông tin từ các nghiên cứu trước đây liên quan đến loài Thỏ vằn
Trường Sơn, kết hợp với các thông tin phỏng vấn chuyên gia và phỏng vấn thực tế,
để tìm ra những khu vực có tiềm năng có Thỏ vằn cao mà chưa được ghi nhận thực
tế.
(2). Tiến hành khảo sát thực địa, bằng cả phương pháp điều tra theo tuyến và điều
tra bẫy ảnh, để thu thập các vùng có Thỏ vằn sinh sống ở một khu vực tiềm năng, và
phân tích số liệu thực địa để tìm ra một số đặc điểm sinh thái của loài, đặc biệt là
các đặc điểm phân bố về không gian và thời gian.
(3). Sử dụng các kết quả thu được từ những nghiên cứu trước đây và từ quá trình
thực địa để xây dựng mô hình phân bố loài, từ đó phân tích một số đặc điểm sinh
thái về phân bố không gian của Thỏ vằn, đồng thời đánh giá sự thay đổi về đặc
điểm phân bố trong tương lại của Thỏ vằn dưới tác động của biến đổi khí hậu, và đề
2
xuất một số biện pháp bảo tồn thích hợp cho Thỏ vằn Trường Sơn.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về đa dạng sinh học ở khu vực dãy Trường Sơn
Dãy Trường Sơn là một trong những dãy núi chính của khu vực Đông Dương, chạy
dọc theo biên giới Việt Nam – Lào (Hình 1). Dãy Trường Sơn là nơi có giá trị đa
dạng sinh học cao, là nơi cư trú của nhiều loài quý hiếm, đặc hữu. Khu vực này còn
được coi là “mỏ loài mới” của Việt Nam và Lào, với rất nhiều loài mới được phát
hiện và mô tả trong những năm gần đây như Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) [83],
Mang lớn (Muntiacus vuquangensis) [73], và Thỏ vằn (Nesolagus timminsi) [11].
Trong ba thập kỷ gần đây, các nỗ lực bảo tồn và khảo sát đa dạng sinh học được
thực hiện nhằm nghiên cứu và bảo vệ giá trị đa dạng sinh học ở nơi đây. Tuy nhiên,
giống như nhiều khu vực ở Đông Nam Á, các loài sinh vật quý hiếm, đặc hữu của
dãy Trường Sơn đang phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng lớn, gây ra bởi tình
3
trạng săn bắt trái phép và phá hủy sinh cảnh trên diện rộng.
Hình 1. Bản đồ độ cao khu vực dãy Trường Sơn
Nhiều nghiên cứu đã nêu bật đặc điểm đa dạng sinh học đặc biệt của Trường Sơn và
các mối đe dọa mà khu vực này đang đối mặt. Diện tích rừng ở cảnh quan này đã bị
suy giảm nhanh chóng trong vòng khoảng 60 năm trở lại đây do rất nhiều nguyên
nhân khác nhau, từ việc chất độc hóa học để phát quang trong chiến tranh; đến quá
trình mở lâm trường, nông trường, và chủ trương khai thác gỗ, chuyển đổi các diện
tích rừng đã bị khai thác và mở rộng các diện tích đất nông nghiệp vào những năm
1980 và 1990; và tình trạng phá rừng trái phép từ những năm 1990 trở lại đây. Kết
4
quả là, rừng nguyên sinh của chỉ còn chiếm tỉ lệ nhỏ trên tổng diện tích rừng của
khu vực [76]. Ở phía bên kia biên giới ở Lào, có một số khu vực vẫn có các cánh
rừng có diện tích lớn chưa bị khai thác quy mô lớn và ít bị tác động của con người,
nhưng các khu rừng này cũng đang phải đối mặt với tình trạng phá rừng và khai
thác khoáng sản ngày càng tăng, và nếu như không có các biện pháp bảo vệ trong
tương lai gần, thì các cánh rừng và đa dạng sinh học ở Lào cũng sẽ bị suy giảm tới
mức như ở Việt Nam [36].
Trong vòng 10 năm trở lại đây, diện tích che phủ rừng ở Việt Nam có tăng nhờ
quyết định đóng cửa rừng của Chính phủ và việc cải thiện thực thi pháp luật đối với
các vi phạm liên quan đến phá rừng trái phép. Tuy nhiên, có một điểm cần phải lưu
ý, rằng một phần đáng kể độ che phủ rừng tăng lên là đến từ việc trồng đơn canh
một số loại cây phục vụ sản xuất, ví dụ như Keo và Bạch đàn, chứ không phải là sự
gia tăng diện tích rừng tự nhiên [51].
Mối đe dọa trực tiếp đầu tiên trong thời điểm hiện tại đối với các loài động vật ở
dãy Trường Sơn là tình trạng săn bắn trái phép để tiêu thụ tại chỗ và cung cấp cho
thị trường buôn bán động vật hoang dã trái phép. Hoạt động săn bắt trái phép đã gây
ra sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật có xương sống ở Việt Nam. Một số loài
tiêu biểu đã tuyệt chủng hoặc tuyệt chủng về mặt chức năng ở Việt Nam gồm có:
Sao la (Pseudooryx nghetinhensis), Hổ (Panthera tigris), Báo (Panthera pardus),
Báo gấm (Neofelis nebulosi), Hươu vàng (Axis porcinus), và Tê giác một sừng
(Rhinoceros sondaicus) – và đây chỉ là một số loài trong rất nhiều loài đã bị tuyệt
chủng trong giai đoạn qua [14, 76].
Săn bắn bằng bẫy bắt dây phanh đang là một trong những phương thức săn bắt phổ
biến nhất hiện nay ở Việt Nam, vì các bẫy dây phanh có giá rất rẻ, khối lượng nhẹ,
dễ vận chuyển với số lượng lớn, tương đối bền bỉ, và dễ dàng được cài đặt. Hơn
nữa, ở Việt Nam hiện nay hầu như không có các quy định pháp luật nào hạn chế
việc mua bán và sử dụng dây phanh, nên những thợ săn có thể mua và mang vật liệu
này vào trong rừng tương đối dễ dàng. Việc bẫy bắt bằng dây phanh hiện tại đang ở
5
mức độ tương đối cao ở một số khu bảo tồn, ví dụ các cán bộ kiểm lâm ở khu bảo
tồn Sao la Huế phá và tịch thu khoảng 10.000 – 12.000 bẫy dây phanh một năm –
và con số này mới chỉ phản ánh một phần của toàn bộ bẫy dây phanh trong rừng
(phỏng vấn Giám đốc Khu bảo tồn Sao la Huế). Kết quả của tình trạng săn bắn trái
phép quá mức là nhiều khu rừng ở Trường Sơn nói riêng và Việt Nam nói chung
đang hứng chịu “hội chứng rừng trống”, nơi có sinh cảnh và hệ sinh thái phù hợp
nhưng hầu như thiếu vắng các loài động vật sinh sống, đặc biệt là các loài thú sống
ở mặt đất, do chúng phải chịu áp lực săn bắn quá lớn [36].
Ở Việt Nam, một số khu bảo tồn đã tiến hành một số chương trình gỡ bỏ bẫy dây
phanh, ví dụ như bộ ba khu bảo tồn liền kề nhau là Vườn quốc gia Bạch Mã – khu
bảo tồn Sao la Huế – khu bảo tồn Sao la Quảng Nam, với sự hỗ trợ của các tổ chức
trong nước và quốc tế chuyên về bảo tồn như WWF Việt Nam, nhưng thậm chí ở
những khu này thì tình trạng đặt và sử dụng bẫy dây phanh vẫn diễn ra khá phổ
biến. Ở Lào, mặc dù dân số nhìn chung là thấp, và có nhiều khu bảo tồn có diện tích
lớn nhưng bẫy bắt bằng dây phanh cũng khá phổ biến, đặc biệt là tại các khu rừng
nằm liền kề với biên giới Việt Nam, khiến các loài động vật hoang dã ngày càng trở
nên quý hiếm [36, 75]. Hơn nữa, với việc thiếu các hoạt động thực thi pháp luật
hiệu quả, các khu rừng biên giới của Lào có thể cũng sẽ phải đối mặt với tình trạng
“rừng trống” như nhiều khu bảo tồn ở Việt Nam [36, 75].
Mặc dù đã có nhiều báo cáo về tác động tiêu cực của săn bắn trái phép đến đa dạng
sinh học nói chung, và đa dạng sinh học ở Việt Nam nói riêng, nhưng đến nay áp
lực săn bắn vẫn còn tương đối phổ biến ở nhiều khu bảo tồn tại Việt Nam và Lào.
Ví dụ, loài Lợn vòi (Tapirus indicus) đã bị coi là tuyệt chủng do không có ghi nhận
trong thời gian dài, hoặc Tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus) đã tuyệt chủng
gần một thập niên [14]. Trong khoảng một thập niên gần đây, một số sáng kiến bảo
tồn đã và đang được thực hiện nhằm cố gắng ngăn chặn các ảnh hưởng tiêu cực từ
săn bắn trái phép đến đa dạng sinh học ở khu vực Trường Sơn. Các giải pháp có thể
kể đến gồm có thành lập mới ba khu bảo tồn (khu bảo tồn Sao la Huế, khu bảo tồn
6
Sao la Quảng Nam, và khu bảo tồn Voi Nông Sơn) và mở rộng diện tích Vườn quốc
gia Bạch Mã. Thêm vào đó, các đội chuyên trách tuần tra bảo vệ rừng và phá gỡ bẫy
dây phanh trên diện rộng, tập trung cho diện tích rừng thuộc hai khu bảo tồn Sao la
của Thừa Thiên Huế và Quảng Nam, đã được thành lập và triển khai như là một
phần của một dự án hợp tác lớn của KfW và WWF – Dự án Sinh khối carbon và Đa
dạng sinh học. Cũng trong dự án này, chương trình Chi trả dịch vụ môi trường rừng
(PFES) đã được tiến hành thực hiện đễ hỗ trợ các cộng đồng dân cư địa phương
quanh các khu bảo tồn và cung cấp một phần kinh phí cho các hoạt động bảo tồn.
Tuy nhiên, do thiếu một bộ dữ liệu nền cơ sở về hiện trạng bảo tồn của các loài và
không có bất cứ một khảo sát có hệ thống nào được thực hiện trước đó, hiệu quả
của các giải pháp bảo tồn trên đối với các loài động vật nguy cấp, quý hiếm, đặc
hữu trong khu vực Trường Sơn vẫn còn chưa được làm sáng tỏ. Các dữ liệu nền là
rất cần thiết để làm cơ sở đánh giá một cách toàn diện các tác động của các hoạt
động bảo tồn khác nhau đến hiện trạng quần thể của các loài, để từ đó có các giải
pháp điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. Các cuộc điều tra thực địa nếu
được tổ chức bài bản và có hệ thống, có phương pháp rõ ràng ở khu vực dãy Trường
Sơn có thể sẽ giúp đánh giá chính xác hơn hiệu quả thực tế của các giải pháp bảo
tồn ở khu vực này.
1.2. Tổng quan về loài Thỏ vằn Trường Sơn
Giống Thỏ vằn (Nesolagus) được phát hiện từ năm 1880, với một loài duy nhất là
Thỏ vằn Sumatra (N. netscheri) ghi nhận ở một số vùng ở phía Nam đảo Sumatra,
Indonesia [77]. Thỏ vằn Sumatra rất khó điều tra theo phương pháp truyền thống, và
từ trước đến giờ mới chỉ thu thập được 12 mẫu bảo tàng của loài. Vì thế, các thông
tin về tập tính sinh thái của loài này rất hạn chế, với một số đặc điểm bao gồm: đây
là loài chỉ hoạt động về đêm, chỉ phân bố ở các cánh rừng nguyên sinh có độ cao từ
7
600 m – 1.200 m ở một số khu vực có diện tích nhỏ phía Nam đảo Sumatra [58].
Đến đầu những năm 1990, cùng với việc các tổ chức quốc tế đầu tư nhiều cho công
tác điều tra đa dạng sinh học ở Đông Dương, đã bắt đầu xuất hiện những báo cáo về
việc có một loài thỏ mới có hình dạng gần giống với Thỏ vằn Sumatra ở Lào. Đến
năm 1996, Robert Timmins và các đồng nghiệp đã thu được một mẫu thỏ vằn tại
một chợ mua bán thực phẩm ở Ban Lak (Bản Lác), Lào, chỉ cách biên giới Việt
Nam – Lào đoạn qua tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình khoảng 30 km. Các kết quả phân
tích ban đầu về hình thái và di truyền cho thấy, loài thỏ này là một loài thú hoàn
toàn mới, đã có thời gian cách ly với loài Thỏ vằn Sumatra lên tới 8 triệu năm [77].
Đến năm 2000, Robert Timmins và cs. đã phát hiện nhiều cá thể của loài thỏ này ở
khu vực rừng giao thoa giữa Việt Nam và Lào ở Nghệ An và Hà Tĩnh [80]. Đến
giữa năm 2000, loài thỏ mới chính thức được mô tả bởi Averianov và cs. dựa trên
một cá thể phát hiện ở huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, và được đặt tên chính thức là
Thỏ vằn Trường Sơn Nesolagus timminsi [11].
Về hình thái bên ngoài, Thỏ vằn Trường Sơn có nhiều đặc điểm giống với Thỏ vằn
Sumatra, ví dụ như các sọc nâu/đen chạy ngang phần lưng/thân, tai và đuôi khá
ngắn, nhưng khác loài Sumatra ở kích thước và cấu trúc xương sọ và các răng [11].
Về một số đặc tính sinh thái về tập tính và phân bố của Thỏ vằn Trường Sơn, đã có
một số nghiên cứu trong và ngoài nước từ năm 2001 đến gần đây. Ví dụ, Đặng
Ngọc Cẩn và cs. (2001) đã thống kê thêm một số khu phân bố của N. timminsi, bao
gồm từ Vườn Quốc gia Pù Mát – Nghệ An đến Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bảng
– Quảng Bình, và thường được tìm thấy ở những nơi có độ cao từ 600 m – 1,200m.
Tác giả cũng đã nhận định săn bắn là một trong những nguy cơ lớn nhất cho loài
[15].
Phạm Trọng Ảnh và cs. (2009) đã tiến hành điều tra thực địa, thu thập một số mẫu
vật thu ở Hương Sơn, Hà Tĩnh và Lệ Thủy, Quảng Bình để xác định đa dạng di
truyền và một số đặc tính sinh học – sinh thái của loài Thỏ vằn Trường Sơn. Các tác
giả đã xác định loài N. timminsi có khoảng cách di truyền lớn so với nhiều loài
8
khác, từ xấp xỉ 19% – 26%. Tuy nhiên các tác giả đã không thực hiện phân tích giữa
Thỏ vằn Trường Sơn và Thỏ vằn Sumatra. Về đặc điểm sinh học – sinh thái, các tác
giả kết luận N. timminsi là loài thú sống về đêm, hoạt động chủ yếu từ 7h tối đến 3h
sáng, với thời gian thường gặp nhất là từ 10h tối đến 2h sáng. Sinh cảnh ưa thích
chính của loài là rừng ẩm thường xanh có độ che phủ nhẹ, rừng thứ sinh hỗn giao
tre nứa, rừng tái sinh sau khai thác có thảm thực vật cây bụi thập và tầng vỏ quyết
[2].
Các tác giả cũng ghi nhận một số trường hợp có người bắt gặp thỏ ra kiếm ăn ở các
nương bãi bỏ hoang hoặc đang canh tác gần rừng. Thỏ vằn thường dễ gặp ở gần khe
suối, mặc dù nước không phải là yếu tố chi phối, mà thảm thực vật cạnh suối là yếu
tố ảnh hưởng quyết định. Loài Thỏ vằn Trường Sơn thường phân bố từ độ cao
500m trở xuống, sống ở các hang nông, dựa vào các hốc cây, hốc đá, bờ hẻm sườn
núi, hó dưới các bụi cây rậm, không đào xuống lòng đất. Thỏ vằn sống một mình,
không kiếm ăn theo đàn trừ trường hợp mẹ con. Các loài săn mồi đe dọa chủ yếu
đến thỏ vằn gồm các loài thú ăn thịt nhỏ như Triết (Mustela sp.), Chồn vàng
(Mertes flavigula), Lỏn tranh (Herpestes jananicus), Cầy đốm (Pronodon
paradicolor), Mèo báo (Prionailurus bengalensis), Báo lửa (Catopumur
temminckii). Thú cạnh tranh chủ yếu của thỏ vằn là loài Thỏ nâu (Lepus pyguensis),
nhưng số lượng Thỏ nâu trong vùng phân bố của thỏ vằn không đáng kể. Các tác
giả cũng đề cập đến việc quan sát được một tổ thỏ vằn có 2 con non khoảng 15 – 20
ngày tuổi vào tháng 8/2003 ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Thỏ vằn được xác định là ăn lá,
cuống lá, ngọn của cây, nhưng ưa thích phần lá và chồi non. Các tác giả cho rằng,
tuy thức ăn của thỏ vằn tương đối đa dạng, gồm nhiều loài và họ, nhưng các khảo
sát thực địa cho thấy các cây thức ăn ưa thích là các loài cây thảo, cây bụi dây leo
thuộc lớp hai lá mầm, cây thuộc lớp một lá mầm rất ít. Các tác giả đã xác định được
thành phần loài thực vật thức ăn của thỏ vằn gồm 44 loài thuộc 6 họ và 16 chi khác
nhau [2].
Andrew Tilker và cs. (2018) đã tiến hành khảo sát thực địa ở 3 tỉnh tiếp giáp với
9
nhau là Thừa Thiên Huế và Quảng Nam (Việt Nam), và Salavan (Lào) dựa vào bẫy
ảnh và đã ghi nhận Thỏ vằn Trường Sơn ở 36 địa điểm khác nhau. Các tác giả cũng
đánh giá ảnh hưởng của một số yếu tố khác nhau, ví dụ như độ che phủ tán, mật độ
cây, đặc điểm sinh cảnh, đặc điểm địa hình và mức độ tác động của con người để từ
đó tính ra mức độ phổ biến của Thỏ vằn Trường Sơn ở một số khu bảo tồn trong
khu vực. Các tác giả cũng kết luận rằng, mức độ tác động của con người là nhân tố
ảnh hưởng chính đến phân bố hiện nay của Thỏ vằn Trường Sơn ở 3 tỉnh được
nghiên cứu, nhiều hơn cả ảnh hưởng từ các nhân tố tự nhiên [79].
1.3. Tổng quan về tình hình khảo sát bẫy ảnh
Khảo sát bẫy ảnh là phương pháp khảo sát không gây hại cho động vật được sử
dụng rộng rãi trong các nghiên cứu gần đây. Phương pháp này đặc biệt thích hợp để
phát hiện các loài quý hiếm, khó phát hiện và khó nghiên cứu bằng các phương
pháp quan sát trực tiếp (Hình 2). Khảo sát bẫy ảnh có lợi thế với khả năng tích lũy
lượng lớn dữ liệu so với nguồn lực về thời gian phải đầu tư, và thích hợp cho các
khảo sát ở các khu vực xa xôi [39, 49, 55, 91]. Kết quả từ nhiều nghiên cứu khác
nhau có sử dụng bẫy ảnh đã cho thấy phương pháp này có thể cung cấp thông tin về
phân bố, tập tính và tương quan giữa loài với các yếu tố con người và tự nhiên. Dữ
liệu từ khảo sát bẫy ảnh còn có thể được sử dụng để tính toán nhiều thông số khác
nhau của quần thể và quần xã, và do đó phương pháp này cũng giúp ích cho các
10
nghiên cứu về biến động quần thể [19].
Hình 2. Một loài Nguy cấp, Cầy vằn Bắc (Chrosogale owstoni), được ghi nhận
bằng bẫy ảnh tại khu vực nghiên cứu
Khảo sát bẫy ảnh đã được phát triển trong một thời gian dài để nghiên cứu các loài
thú có kích thước trung bình và lớn. Đa số khảo sát sử dụng bẫy ảnh đều tập trung
vào các loài thú có tính biểu tượng cao như Hổ (Panthera tigris) hoặc được thiết kế
để nghiên cứu quần xã các loài thú nói chung [16, 47]. Tuy nhiên, gần đây một số
nghiên cứu đã cho thấy bẫy ảnh cũng có thể được sử dụng để thu thập thông tin về
các loài thú nhỏ, đặc biệt là các loài hoạt động nhiều gần mặt đất. Bẫy ảnh có khả
năng ghi nhận từ các loài gặm nhấm, các loài khỉ, cho đến thú ăn thịt nhỏ với hiệu
suất tương đối tốt [22, 37, 46]. Mặc dù các loài này có thể được điều tra bằng
phương pháp khảo sát theo điểm và khảo sát theo tuyến truyền thống, nhưng bẫy
11
ảnh lại có lợi thế rất lớn khi có thể thu thập được nhiều dữ liệu trong khoảng thời
gian dài. Như vậy, dữ liệu thu thập được từ khảo sát bẫy ảnh không chỉ cung cấp
được các thông tin theo không gian mà còn theo thời gian.
Khảo sát đa dạng sinh học bằng bẫy ảnh đã được bắt đầu ứng dụng trên thế giới từ
đầu thế kỷ 20, nhưng đại đa số các cuộc điều tra trước những năm 80 của thế kỷ
trước thường không mang tính thực tiễn cao và rất đắt đỏ, do các máy ảnh thế hệ
đầu phải dùng bột ma-giê cháy cho đèn chiếu (flash), rất nguy hiểm nếu dùng trong
rừng do dễ gây cháy rừng, và dễ bị hỏng do dính ẩm từ điều kiện thời tiết mưa hoặc
sương. Cơ chế kích hoạt chụp ảnh thời kỳ đầu cũng chủ yếu là dùng các loại dây
hoặc bẫy chăng ngang đường di chuyển của các loài động vật, nếu cá thể động vật
đi ngang qua vướng phải dây sẽ kích hoạt máy ảnh. Ngoài ra, các ống kính và cảm
biến máy ảnh thời kỳ đầu cũng tương đối kém, không có bắt nét tự động, không
chụp được ảnh trong điều kiện ánh sáng thiếu, và không chụp được ảnh vật thể di
chuyển quá nhanh, ngoài tầm bắt nét của máy. Thay đổi lớn, mang tính cách mạng
cho việc sử dụng bẫy ảnh đầu tiên trên thế giới, là nghiên cứu dùng bẫy ảnh ghi
nhận các loài động vật ở Australia, bằng cách sử dụng một thiết bị phát tia hồng
ngoại liên tục và một cảm biến thu nhận hồng ngoại. Khi một cá thể động vật đi
ngang qua bẫy ảnh, làm gián đoạn việc thu nhận hồng ngoại của cảm biến, cảm biến
sẽ gửi tín hiệu đến máy ảnh để máy ảnh tự động khởi động và chụp ảnh, đồng thời
cảm biến cũng sẽ gửi tín hiệu đến một đồng hồ điện tử để đồng hồ ghi nhận lại thời
gian của việc chụp ảnh. Nghiên cứu này đã tạo tiền đề quan trọng cho các nghiên
cứu dùng bẫy ảnh để phân tích các đặc điểm sinh thái về không gian và thời gian
của các loài động vật sau này [19].
Việc sử dụng bẫy ảnh trong nghiên cứu đa dạng sinh học vì thế đã trở nên phát triển
và dần phổ biến trong suốt những năm 90, với rất nhiều ứng dụng ở rất nhiều địa
điểm trên toàn thế giới, ví dụ như để tính toán mật độ rắn đuôi chuông ở
Massachusetts, Mỹ; hay để thuyết minh cho việc xây dựng các đường tránh cho
động vật di chuyển khi thiết kế và xây dựng các tuyến đường cao tốc ở Florida, Mỹ;
12
hay để giám sát và ước tính thay đổi quần thể của loài hươu đuôi trắng trong khoảng
thời gian ba năm. Một nghiên cứu ở Ấn Độ đã sử dụng bẫy ảnh để nhận dạng chính
xác từng cá thể Hổ, từ đó tính số lượng hổ còn lại trong tự nhiên ở nhiều khu vực
khác nhau, tạo tiền đề cho việc thành lập khu bảo tồn hổ ở nước này. Một nghiên
cứu ở Nhật đã dùng số liệu từ bẫy ảnh để tính toán mức độ tiêu thụ quả có hạt của
loài Khỉ Nhật Bản, từ đó ước tính mức độ đóng góp của các loài linh trưởng trong
việc phát tán hạt cho các loài cây khác nhau trong rừng. Một nghiên cứu khác ở
Florida, Mỹ, dùng số liệu về tần suất và kích thước các loài ghi nhận được trước và
sau mùa cháy rừng trong nhiều năm liên tục để ước tính về ảnh hưởng của cháy
rừng tự nhiên đến quần xã sinh vật, và từ đó kết luận là cháy rừng tự nhiên hoàn
toàn có thể có tác dụng có lợi cho việc phát triển của quần xã tự nhiên [19].
Trong 20 năm qua, bẫy ảnh đã được sử dụng phổ biến trong các cuộc điều tra thú ở
Việt Nam nói chung, và khu vực Trường Sơn nói riêng. Do các hạn chế kỹ thuật
liên quan đến các loại bẫy ảnh truyền thống trước đây, cũng như do hạn chế về
nguồn kinh phí, lúc đầu chỉ có một số ít máy ảnh được sử dụng trong các nghiên
cứu và do đó chỉ tập trung khảo sát ở các khu vực nhỏ trong một khoảng thời gian
ngắn. Các nghiên cứu này thường chỉ cung cấp dữ liệu về sự hiện diện hoặc vắng
mặt của các loài thú lớn – thường là các loài có tính biểu tượng cao [89]. Trong thời
gian gần đây, những hạn chế về công nghệ đã được khắc phục và các nhà nghiên
cứu có thể mua được những bẫy ảnh đủ tin cậy để hoạt động trong thời gian dài
trong các điều kiện thực địa khắc nghiệt. Các loại bẫy ảnh hiện đại này đã được sử
dụng để điều tra nhiều loài thú khác nhau, cả thú nhỏ và thú lớn, và cả những loài
phổ biến và quý hiếm [37, 52, 90]. Một trong những loài thú hiếm nhất của khu vực
Đông Dương, loài Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) đã được bẫy ảnh ghi nhận lại
sau hơn 15 năm không có thông tin ở khu vực khu bảo tồn Sao la Quảng Nam vào
năm 2013.
Trong nghiên cứu này, khảo sát bẫy ảnh được sử dụng trong một thời gian kéo dài,
xấp xỉ 12 tháng, để cung cấp các dữ liệu trong suốt một năm tại khu vực nghiên
13
cứu, từ đó tìm ra được các đặc điểm sinh thái về phân bố thời gian, từ phân bố theo
các giờ trong ngày, các ngày trong tháng, đến các tháng trong năm. Các bẫy ảnh
được đặt thấp hơn nhiều so với các nghiên cứu trước đó để đảm bảo rằng tập trung
được cho Thỏ vằn Trường Sơn, vốn là một loài thú có kích thước tương đối nhỏ.
Khảo sát được tiến hành trên bốn khu vực thuộc cảnh quan Trường Sơn từ năm
2016 đến năm 2019.
1.4. Tổng quan về Mô hình hóa phân bố loài
1.4.1. Sơ lược nghiên cứu mô hình hóa phân bố loài trên thế giới
Mô hình hóa phân bố loài là một phương pháp phổ biến trong những năm gần đây
trong nghiên cứu sinh thái và được áp dụng để giải quyết nhiều vấn đề khác nhau
trong sinh thái. Các vấn đề phổ biến được giải quyết bằng phương pháp mô hình
hóa bao gồm mô hình hóa phân bố tự nhiên của loài, nhận dạng điểm nóng đa dạng
sinh học, dự đoán đặc điểm phân bố của loài, dự báo thay đổi phân bố của loài dưới
tác động của biến đổi khí hậu, nhận diện các nhánh/loài mới mà các bằng chứng
hình thái/di truyền vẫn chưa đủ rõ, nhận diện các cách ly phân chia loài tự nhiên,
đánh giá về mức độ tiến hóa/bảo tồn của các đặc tính ổ sinh thái, hoặc thay đổi phân
bố của loài dưới tác động của các nhân tố tự nhiên – nhân tạo [10, 21, 35, 57, 63,
70, 71, 87]. Mô hình hóa phân bố loài là phương pháp kết hợp giữa phân tích đặc
tính sinh thái tự nhiên dựa trên điều tra thực địa và các tính toán dự báo dựa trên các
mô hình xác suất thống kê và nhận diện đặc tính. Các thuật toán mô hình hóa phân
bố loài chủ yếu dựa trên nội suy hoặc ngoại suy từ các điểm phân bố dựa trên các
điều tra thực địa, và dựa vào đó để dự báo qua không gian và thời gian, ví dụ như
dự báo phân bố của loài ở những địa điểm hay khu bảo tồn chưa có ghi nhận loài,
hoặc dự báo phân bố của loài ở thời điểm trong tương lai [67, 30, 32].
Hiện nay, có khá nhiều thuật toán mô hình hóa phân bố loài khác nhau được sử
dụng trong các nghiên cứu có liên quan, như BIO-CLIM, hoặc Neural network,
hoặc Boosted Regression Trees. Tuy nhiên, một trong những phương pháp được sử
14
dụng phổ biến nhất hiện nay là Maxent (Maximum Entropy). Được phát triển từ
giai đoạn 2004 – 2005, Maxent sử dụng các số liệu về điểm xuất hiện để xây dựng
một hàm phân bố xác suất trên vùng nghiên cứu, và tính toán giá trị hàm phân bố đó
dựa trên nguyên lý entropy [29, 67]. Thuật toán này được đánh giá cao vì nó có thể
sử dụng toàn bộ số liệu để xây dựng mô hình, mà không yêu cầu các số liệu đầu vào
quá phức tạp. Khi so sánh với một số thuật toán mô hình hóa phổ biến khác, ví dụ
như generalized linear model, generalized additive model, hoặc BIO-CLIM, cũng
như các phương pháp phức tạp khác như Genetic Algorithm for Rule-Set
Production, thì Maxent được coi là có khả năng dự báo tương đối chính xác. Vì thế,
từ năm 2006 đến nay, Maxent được sử dụng rất phổ biến trong việc mô hình hóa
phân bố loài [28, 29, 31, 66].
Một trong những nghiên cứu cơ bản đầu tiên chứng minh khả năng mô hình hóa
phân bố loài tương đối chính xác của Maxent là nghiên cứu của Pearson và cs.
(2007), dùng số liệu điểm ghi nhận tương đối ít ỏi của 13 loài thằn loài đuôi lá ở
Madagascas để kiểm tra khả năng dự đoán các vùng phân bố tiềm năng của các loài.
Các tác giả đã sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau, với nhiều thông số khác nhau
trong Maxent để đánh giá và đề xuất được cách tiếp cận tốt nhất cho những loài
hiếm gặp. Qua nghiên cứu này, các tác giả đã chứng minh được rằng Maxent tương
đối hiệu quả cho các loài quý hiếm, có ít số liệu về điểm xuất hiện (từ 10 – 25
điểm), và đề xuất được phương pháp mô hình hóa cho kết quả phù hợp nhất.
Pearson và cs. (2007) cũng đã so sánh kết quả chạy mô hình Maxent với một
phương pháp rất phổ biến ở thời điểm đó là GARP, dựa trên kết quả của ngưỡng
thấp nhất có thể (lowest presence threshold), và kết luận Maxent có khả năng dự
đoán tốt hơn hẳn GARP trong trường hợp mô hình hóa cho các loài quý hiếm [64].
Ngoài khả năng dự báo phân bố tiềm năng hiện tại của các loài, Maxent còn có khả
năng dự báo thay đổi phân bố và quần thể của các loài trong tương lai. Ví dụ, trong
một nghiên cứu của Ihlow và cs., các tác giả đã sử dụng Maxent để dự báo độ giàu
loài và thay đổi phân bố của nhiều loài rùa trên toàn thế giới dưới tác động của biến
15
đổi khí hậu. Cụ thể, các tác giả đã tổng hợp hơn hai mươi nghìn điểm xuất hiện của
199 loài rùa trên toàn cầu, và sử dụng các kịch bản thay đổi khí hậu khác nhau theo
khuyến nghị của IPCC. Từ đó, các tác giả đã dự báo được các thay đổi đáng kể, chủ
yếu là suy giảm vùng phân bố, của nhiều loài rùa ở giai đoạn 2080, và từ đó, ước
tính được các thay đổi về độ phổ biến và độ giàu loài ở một số khu vực vốn rất quan
trọng cho các loài rùa, và các thay đổi này chủ yếu theo chiều hướng giảm số lượng
loài [44].
Maxent còn có thể sử dụng để hiểu theo về phân bố trong quá khứ của các loài sinh
vât. Ví dụ, Cooper và cs. (2016) đã sử dụng các điểm phân bố hiện tại của loài Hổ
để mô hình hóa phân bố của chúng ở thời kỳ từ cuối thời Pleistocene đến hết thời
Holocene. Từ mô hình, các tác giả kết luận vùng phân bố trong quá khứ của loài Hổ
là từ toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ qua toàn bộ vùng Đông Nam Á, và đến cả vùng
Đông Bắc Siberi. Tuy nhiên, phân bố của Hổ phụ thuộc rất nhiều vào phân bố của
các cánh rừng ở Châu Á, và việc mở rộng và thu hẹp của các cánh rừng này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến việc mở rộng và thu hẹp phân bố của loài Hổ. Vì thế, vùng
phân bố lõi của loài Hổ chủ yếu nằm ở vùng phía Đông của Ấn Độ và khu vực đất
liền của Đông Nam Á. Đồng thời, các tác giả cũng đặt ra giả thuyết về việc phun
trào núi lửa Toba ở Indonesia đã làm ảnh hưởng tương đối lớn đến việc mở rộng
phân bố của Hổ sang các đảo ở khu vực Đông Nam Á [20].
Ngoài việc dự báo phân bố ở hiện tại, tương lai, và quá khứ của các loài, Maxent
còn có thể được dùng để tìm hiểu thêm về lịch sử tiến hóa, đặc biệt cho các nhánh
tiến hóa chưa rõ ràng. Bett và cs. (2012) đã sử dụng số liệu phân bố ở ba nước Việt
Nam – Lào – Cam-pu-chia của ba loài trong nhóm Chà vá Pygathrix, bao gồm Chà
vá chân nâu P. nemaeus, Chà vá chân xám P. cinerea, và Chà vá chân đen P.
nigripes, để chạy mô hình Maxent và kiểm tra tính tương thích về mặt sinh thái của
cả ba loài, và coi đó là một cách để kiểm tra độ gần/xa về mặt tiến hóa giữa ba loài
này. Kết quả từ mô hình đã cho thấy, ba loài Chà vá này có phân bố tách biệt theo
trục Bắc – Nam, và tính tương thích về mặt sinh thái giữa chúng khá thấp, chứng tỏ
16
cả ba loài đã tiến hóa tách biệt với nhau tương đối xa. Đặc biệt, hai loài Chà vá chân
nâu và Chà vá chân xám có tính tương thích về mặt sinh thái thấp, nhưng lại có
vùng phân bố không khác biệt nhiều, đặt ra giả thuyết về việc hai loài này phân tách
nhau chủ yếu từ cách ly ổ sinh thái, chứ không hẳn do cách ly địa lý [12].
Với việc phát triển rất phổ biến của các phần mềm thống kê và GIS miễn phí như R
và QGIS trong những năm gần đây, đã có nhiều nỗ lực để tích hợp phương pháp mô
hình hóa Maxent vào các phần mềm này để tăng tính đơn giản hóa và thuận tiện cho
việc chia sẻ. Hai ví dụ điển hình nhất là gói tiện ích ENMeval và ứng dụng tương
tác người dùng Wallace, được phát triển và chia sẻ hoàn toàn miễn phí, với nhiều
lựa chọn theo quy trình chuẩn được đóng góp và xây dựng theo kết quả những
nghiên cứu chuyên sâu của nhiều nhà khoa học trên thế giới [48, 59].
1.4.2. Sơ lược nghiên cứu mô hình hóa phân bố loài ở Việt Nam
Ở Việt Nam, mô hình hóa phân bố loài đã được sử dụng ở một số nghiên cứu trong
những năm vừa qua để nghiên cứu về đặc tính sinh thái trong phân bố của một số
loài quý hiếm. Ví dụ, Hà Quý Quỳnh và cs. (2009) đã sử dụng phương pháp này để
dự báo phân bố của các sinh cảnh thích hợp cho loài Sao la (Pseudoryx
nghetinhhensis). Các tác giả đã sử dụng các điểm ghi nhận có Sao la trong các
nghiên cứu trước đây, và các số liệu sinh khí hậu của Việt Nam và bản đồ thảm thực
vật rừng cho số liệu đầu vào của mô hình Maxent. Theo đó, các tỉnh Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, và Quảng
Nam là vùng phân bố thích hợp nhất cho loài, với tổng diện tích vào khoảng hơn
một triệu héc-ta. Trong đó, hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế là hai tỉnh phù
hợp nhất, và có 13 khu bảo tồn là nơi còn khả năng có Sao la, bao gồm bốn khu bảo
tồn rất quan trọng trong khu vực: khu bảo tồn Pù Huống, Vườn quốc gia Pù Mát,
Vườn quốc gia Vũ Quang, và Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng [3].
Schingen và cs. (2016) đã sử dụng Maxent để đánh giá mức độ khác biệt về đặc tính
17
sinh thái giữa các quần thể của loài Thằn lằn cá sấu (Shinisaurus crocodilurus) ở
Trung Quốc và Việt Nam, bằng cách sử dụng các điểm phân bố của quần thể Thằn
lằn cá sấu ở Việt Nam, chủ yếu ở hai tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh, và các điểm
của quần thể Thằn lằn cá sấu ở Trung Quốc, để mô hình hóa hai vùng phân bố của
hai quần thể đó. Kết quả cho thấy, vùng phân bố của hai quần thể này hầu như
không trùng nhau, và có một vùng chia cách tương đối lớn giữa hai vùng phân bố
của hai quần thể. Các tác giả sử dụng kết quả từ mô hình, cùng với các kết quả
khác, để từ đó quyết định chia các quần thể Thằn lằn cá sấu ở Việt Nam thành một
phân loài mới [84].
Ngô Ngọc Hải và cs. (2018) đã ứng dụng Maxent trong đánh giá sinh cảnh tiềm
năng của loài Thạch sùng mí Cát Bà (Goniurosaurus catbensis) ở khu vực tỉnh
Quảng Ninh. Bộ số liệu các điểm phân bố của loài, gồm 60 điểm, được sử dụng
cùng với 19 biến sinh khí hậu để đánh giá các sinh cảnh phù hợp với loài ở miền
Bắc Việt Nam. Kết quả cho thấy, loài Thạch sùng mí Cát Bà phân bố ở phần lớn các
đảo ở khu vực vịnh Hạ Long – đảo Cát Bà, và một phần lớn các khu vực bờ biển
tỉnh Quảng Ninh. Đồng thời, các tác giả đưa ra thảo luận về việc các đảo của khu
vực vịnh Hạ Long – đảo Cát Bà bị ảnh hưởng do việc xói mòn của các dãy núi đá
vôi ở trong vịnh Bắc Bộ, và quá trình biển tiến – biển thoái liên tục, với biên độ dao
động của mực nước biển có thể lên tới 50 m, qua các thời kỳ Băng Hà ảnh hưởng
đến việc kết nối – chia cắt các đảo với đất liền, và từ đó ảnh hưởng đến việc trao đổi
quần thể và phân bố của loài đối với các khu vực xung quanh vịnh Hạ Long [38].
Nguyễn Tuấn Anh và cs. (2019) cũng đã sử dụng Maxent để tìm các khu vực phân
bố tiềm năng của loài Chà vá chân nâu (Pygathrix nemaeus) ở Việt Nam [82]. Các
tác giả đã sử dụng các điểm phân bố từ trước đến nay của Chà vá chân nâu và năm
biến môi trường để tìm các khu vực phân bố tiềm năng hiện nay của loài, bao gồm
Vườn quốc gia Vũ Quang và khu bảo tồn Kẻ Gỗ ở Hà Tĩnh, Vườn quốc gia Phong
Nha Kẻ Bàng ở Quảng Bình, khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa và khu bảo tồn Dakrong
ở Quảng Trị, khu bảo tồn Phong Điền và khu bảo tồn Sao la Huế và Vườn quốc gia
18
Bạch Mã ở Thừa Thiên Huế, và khu rừng đặc dụng Bắc Hải Vân – Nam Hải Vân ở
hai tỉnh Thừa Thiên Huế – Quảng Nam, và khu bảo tồn Sơn Trà và khu Bà Nà –
Núi Chúa ở Đà Nẵng, là các khu vực có mức độ phù hợp cao cho phân bố của loài.
1.5. Tổng quan về các khu vực nghiên cứu chính
Các khu vực khảo sát chính (Bảng 1) được xác định dựa trên một số tiêu chí sau:
- Nằm ở gần các vùng được coi là ở vùng giới hạn phân bố của loài Thỏ vằn
Trường Sơn. Do sau khi thống kê và phân tích kết quả các nghiên cứu trước
đây, đã xác định được vùng phân bố chính của thỏ vằn có giới hạn Bắc –
Nam từ Vườn Quốc gia Pù Mát (Nghệ An) đến Khu bảo tồn Sông Thanh
(Quảng Nam), nên học viên xác định nghiên cứu thêm ở Vườn Quốc gia Bến
En (Thanh Hóa) – phía Bắc của Pù Mát. Khu bảo tồn phía Nam của Sông
Thanh là Khu bảo tồn Ngọc Linh, nơi đã có nhiều nghiên cứu về khu hệ
động vật và đều không xác định được có loài Thỏ vằn Trường Sơn ở đây nên
học viên đã loại bỏ.
- Khu bảo tồn chưa có ghi nhận Thỏ vằn Trường Sơn chính thức, và có công
tác bảo vệ tương đối tốt, ví dụ như Khu bảo tồn Sao la Huế (Thừa Thiên
Huế).
- Khu bảo tồn nằm gần các khu đã có ghi nhận Thỏ vằn Trường Sơn, nhưng từ
trước đến giờ chưa có thông tin xác nhận có độ tin cậy cao. Ví dụ, Khu bảo
tồn Hin Nam No (Lào), vốn nằm tiếp giáp ngay phía Nam của Khu bảo tồn
Nakai Nam Theun (Lào), là nơi quan sát được loài Thỏ vằn Trường Sơn
ngoài tự nhiên đầu tiên vào năm 1995. Ban Lak, nơi thu được mẫu N.
19
timminsi đầu tiên, thuộc khu ngoại vi của Nakai Nam Theun.
Bảng 1. Các khu vực điều tra thực địa chính của luận văn
Thời điểm Khu vực điều tra Phương pháp điều tra
điều tra
2016 – 2017 Điều tra bẫy ảnh - Khu bảo tồn Sao la Huế (Thừa
Thiên Huế)
- Khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa
(Quảng Trị)
2018 Điều tra theo tuyến - Vườn quốc gia Bến En (Thanh
Hóa)
2019 Điều tra theo tuyến - Khu bảo tồn Hin Nam No
(Khammoune)
Dù việc khảo sát thực địa của luận văn trải dài trên nhiều khu bảo tồn khác nhau
(Hình 3), với nhiều đặc điểm tự nhiên riêng biệt, nhưng toàn bộ khu vực nghiên
cứu được đặc trưng bởi lượng mưa trung bình hằng năm cao, khoảng trên dưới mức
2.500 mm – 3.000 mm và địa hình rất hiểm trở. Tại các khu vực nghiên cứu này, địa
hình có độ cao trung bình từ 300 m đến trên 500 m và độ dốc trung bình là trên 20
độ. Sinh cảnh ở đây rất đa dạng, gồm nhiều loại thảm thực vật khác nhau, từ rừng
thứ sinh sau khai thác, rừng thường xanh trên đất thấp, cho đến rừng trên núi đá vôi
20
[76].
Hình 3. Vị trí bốn khu vực nghiên cứu chính của luận văn, so với một số khu bảo
tồn khác trong khu vực dãy Trường Sơn.
Vườn Quốc gia Bến En
Về vị trí địa lý, Vườn Quốc gia Bến En là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Thanh Hóa,
Việt Nam, được thành lập năm 1992, với ranh giới tự nhiên phía Bắc giáp xã Hải
Long, Xuân Khang của huyện Như Thanh, phía Đông giáp xã Hải Vân, Xuân Phúc
của huyện Như Thanh, phía Nam giáp xã Xuân Bình, Xuân Hòa của huyện Như
21
Xuân và xã Xuân Thái của huyện Như Thanh, và phía Tây giáp xã Tân Bình, Bình
Lương, Xuân Quỳ, Hóa Quỳ của huyện Như Xuân. Địa hình của Bến En là sự kết
hợp và xen kẽ gữa các địa hình đồi núi, sông hồ. Khu vực ở giữa Vườn là hồ Sông
Mực với các đảo nổi được bao phủ bởi rừng và nhiều sông suối nhỏ, do việc ngăn
đập gây nên. Rừng núi đá vôi nằm ở phía Tây Nam chiếm một tỉ lệ nhỏ trong toàn
bộ diện tích của Bến En. Những khu rừng núi đá còn lại chủ yếu nằm ở vùng đệm,
với vị trí cao nhất của Vườn đạt độ cao 497 m [4, 5].
Về diện tích, tổng diện tích đất tự nhiên là 14.735 ha, trong đó diện tích rừng
nguyên sinh là 8.544 ha. Diện tích đất lâm nghiệp của Vườn quốc gia Bến En chiếm
tỉ lệ lớn nhất trong tổng diện tích đất tự nhiên với khoảng gần 82% tổng diện tích
Vườn. Tiếp theo là diện tích đất phi nông nghiệp, với chủ yếu là diện tích sông hồ,
chiếm khoảng hơn 16%. Diện tích đất nông nghiệp chiếm khoảng hơn 2%, và còn
lại là diện tích đất thổ cư tập trung ở ba xã Xuân Quỳ, Hóa Quỳ, và Tân Bình. Các
kiểu rừng chính ở Vườn quốc gia Bến En bao gồm kiểu rừng nhiệt đới thường xanh
trên núi đá vôi ít bị tác động, thường dễ gặp ở khu vực thung Sen, núi Đàm, sông
Chàng, và cổng trời Đức Lương. Thứ hai là kiểu rừng thường xanh trên núi đá vôi
bị tác động mạnh, với phân bố chủ yếu ở khu vực núi Thủ Lợn, sông Chàng, và khu
Ba Bái – Xuân Thái. Thứ ba là kiểu trảng cây bụi trên núi đá vôi, phân bố ở khu vực
núi Đầu Lớn, Xuân Thái, sông Chàng, và núi Thủ Lớn. Thứ tư là kiểu rừng nhiệt
đới thường xanh trên núi đất ít bị tác động, là kiểu rừng còn lại rất ít tại Bến En do
qua trình khai thác trong quá khứ, hiện chủ yếu phân bố ở khu vực thung Sen, núi
Đàm, sông Chàng, Điện Ngọc, Xuân Bình, và Xuân Thái. Thứ năm là kiểu rừng
nhiệt đới thường xanh trên núi đất bị tác động mạnh, đây là kiểu rừng có thể gặp ở
hầu hệt các tiểu khu thuộc Bến En do quá trình khai thác trước đây. Thứ sáu là kiểu
trảng cỏ cây bụi trên núi đất, phân bố chủ yếu ở khu vực Xuân Thái, Đức Lương,
Xuân Bình, Đồng Thổ, và Xuân Lý. Cuối cùng là kiểu rừng tre nứa xen với cây lá
rộng, là kiểu rừng phân bố rải rác khắp Bến En [4, 5].
Về thổ nhưỡng, khu vực Vườn quốc gia Bến En có bốn loại đất chính, bao gồm một
22
là đất phù sa sông suối có diện tích khoảng 310 ha. Đất có tầng loang lổ, quá trình
ngập nước không thường xuyên trong năm nên bị biến chất. Đất thường có màu nâu
xám, tơi xốp, tầng dày, thành phần cơ giới cát pha hay thịt nhẹ. Hai là đất Feralit
nâu vàng phát triển trên nhóm đá sét có diện tích khoảng 11.500 ha. Đây là loại đất
tốt tầng dày, thành phận cơ giới thịt nặng, phù hợp với nhiều loại cây rừng, có khả
năng giữ ẩm tốt nhưng thoát nước kém. Loại đất này tập trung chủ yếu ở vùng trung
tâm và phía Bắc của Bến En. Ba là đất Feralit vàng nhạt phát triển trên nhóm đá cát
có diện ích khoảng 1.250 ha. Đất có tầng mỏng đến trung bình, thành phần cơ giới
cát pha đến thịt trung bình, khả năng giữ nước kém, thoát nước và thu nhiệt tốt, khả
năng phân giải chất hữu cơ mạnh, đất tương đối nghèo dinh dưỡng. Và cuối cùng là
đất phong hóa trên núi đá vôi có diện tích khoảng gần 1.100 ha. Đất có nhiều mùn,
màu xám đen, thành phần cơ giới nặng, thiếu nước. Nhìn chung, thổ nhưỡng khu
vực Vườn quốc gia Bến En có độ phì tương đối cao, tầng đất trung bình đến dày, là
điều kiện thuận lợi cho các loài thực vật sinh trưởng và phát triển, tạo nên tính đa
dạng sinh học nói chung cho khu vực này [4, 5].
Về khí hậu, khu vực Vườn quốc gia Bến En có gió mùa Đông Bắc từ tháng 11 đến
tháng 3 năm sau, gió Tây Nam từ tháng 4 đến tháng 10, và đôi khi có các đợt gió
Lào từ tháng 6 đến tháng 7. Lượng mưa trong vùng khá cao và phân làm hai mùa rõ
rệt. Mùa mưa từ tháng 5 tới tháng 11 với lượng mưa chiếm khoảng 90% tổng lượng
mưa trong năm, và là nguyên nhân gây ra một số trận lũ. Mùa khô kéo dài từ tháng
12 năm trước đến tháng 4 năm sau, chỉ chiếm khoảng 10% tổng lượng mưa hàng
năm. Tuy nhiên, do có bốc hơi từ khu vực hồ ở trung tâm Vườn quốc gia nên kể cả
vào mùa khô, khu vực này vẫn có độ ẩm tương đối [4, 5].
Về đa dạng sinh học, kết quả các nghiên cứu trước đây đã thống kê được ở Vườn
quốc gia Bến En có 1.417 loài thuộc 712 chi, 191 họ, 76 bộ, 9 lớp và 6 ngành thực
vật bậc cao có mạch (Hình 4). Trong đó 58 loài có trong danh sách đỏ IUCN, 46
loài có tên trong sách đỏ Việt Nam, và 10 loài có tên trong Nghị định 32/2006/NĐ-
CP. Hệ động vật rừng ở Bến En rất phong phú và đa dạng. Kết quả điều tra thống kê
23
được ở Bến En có 102 loài thú, 277 loài chim, 66 loài bò sát, 47 loài Lưỡng cư, 97
loài cá, 728 loài côn trùng và 213 loài động vật đáy và nổi. Khu hệ động vật Bến En
khá phong phú và đa dạng, với 56 loài động vật quí hiếm được ghi trong sách đỏ
Việt Nam, 433 loài trong danh sách đỏ IUCN, và 50 loài trong Nghị định
32/2006/NĐ-CP như: Vượn đen má trắng, Cu li lớn, Cu li nhỏ, Gà lôi, Gấu [4, 5].
Tuy nhiên, từ trước đến nay vẫn chưa có một ghi nhận chính thức nào về loài Thỏ
vằn Trường Sơn ở Bến En.
Hình 4. Một khu vực tại Vườn quốc gia Bến En
Khu bảo tồn Hin Nam No
Về vị trí địa lý, khu bảo tồn Hin Nam No nằm ở huyện Boulapha, tỉnh
Khammouane, Lào, và nằm ngay cạnh Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng của Việt
Nam ở phía Đông, cũng như nằm dưới khu bảo tồn Nakai Nam Theun của Lào ở
24
phía Bắc.
Về diện tích và địa hình, tổng diện tích của khu bảo tồn vào khoảng 82,000 ha với
địa hình chủ đạo là các dãy núi đá dốc xen kẽ các dải núi đá vôi, có độ cao từ 200
đến trên 1.000m. Hin Nam No là một trong hai khu bảo tồn có diện tích núi đá vôi
lớn ở Lào. Con sông chính chảy qua khu bảo tồn, và cũng là ranh giới tự nhiên của
khu bảo tồn, là sông Xe Bangfai. Về mặt địa chất, toàn bộ khu vực Hin Nam No –
Nakai Nam Theun – Phong Nha Kẻ Bàng tạo thành một phần quan trọng của dãy
Trường Sơn.
Về mặt khí hậu, Hin Nam No chỉ bị ảnh hưởng một phần từ khí hậu gió mùa của
Việt Nam, và nhìn chung có đặc điểm tương đối khô so với khí hậu của Vườn quốc
gia Phong Nha Kẻ Bảng ở Việt Nam. Ở khu vực này có hai mùa chính, là mùa mưa
từ tháng sáu đến tháng mười, và mùa khô từ tháng mười một đến tháng năm năm
sau. Nhiệt độ trung bình năm ở đây vào khoảng 26oC, với nhiệt độ trung bình tháng
nhỏ nhất là khoảng 21 oC vào tháng 1, và nhiệt độ trung bình tháng lớn nhất là
khoảng 31 oC vào tháng 4. Lượng mưa trung bình năm vào khoảng 1,503 mm, với
lượng mưa trung bình tháng thấp nhất là 1,1 mm vào tháng 1, và lượng mưa trung
bình tháng lớn nhất là 316,3 mm vào tháng 5 [23, 65].
Về sinh cảnh, sinh cảnh chính và dễ gặp nhất ở Hin Nam No là các kiểu rừng trên
núi đá vôi. Các dãy núi đá vôi phía Bắc của khu bảo tồn chủ yếu là rừng nguyên
sinh thường xanh và bán thường xanh, với các khoảng rừng thứ sinh xen kẽ. Các
khu vực phía Nam lại chủ yếu là các cánh rừng nguyên sinh và thứ sinh trên đất
thấp, xen kẽ với các hệ sinh thái thủy vực dọc theo sông Xe Bangfai.
Về đa dạng sinh học, các nghiên cứu trước đây đã ghi nhận khoảng 536 loài thực
vật ở Hin Nam No, với các loài phổ biến nhất chủ yếu thuộc ba họ Agavaceae,
Arecaceae và Poaceae. Nhiều loài động thực vật quý hiếm cư trú ở khu vực này, ví
dụ như Mang lớn (Muntiacus vuquangensis), Báo gấm (Neofelis nebulosi), Mèo
gấm (Pardofelis marmorata), Sóc đen lớn (Ratufa bicolar), Cu li lớn (Nycticebus
bengalensis), Chà vá chân nâu (Pygathrix nemaeus), Vooc Hà Tĩnh (Trachypithecus
25
hatinhensis), Vượn má trắng Nam (Nomascus siki) [23, 65]. Thỏ vằn Trường Sơn
được phỏng đoán là có xuất hiện ở khu vực này do khoảng cách tương đối gần giữa
Hin Nam No và hai khu vực là Nakai Nam Theun và Phong Nha Kẻ Bàng, tuy
nhiên vẫn chưa hề có ghi nhận chính thức về loài ở đây.
Các mối đe dọa chủ yếu đến đa dạng sinh học trong khu vực bao gồm săn bắn trái
phép và phá hủy sinh cảnh. Việc săn bắn ở Hin Nam No chủ yếu sử dụng súng và
bẫy dây phanh, và nhắm đến các loài có giá trị cao trong cộng đồng địa phương cho
việc cung cấp thực phẩm và thuốc truyền thống, bao gồm Chà vá chân đỏ, Vooc Hà
Tĩnh, Linh dương, Tê tê, và Nhím; và việc phá hủy sinh cảnh chủ yếu do quá trình
di canh di cư, khai thác gỗ, và khai thác lâm sản ngoài gỗ gây ra. Ngoài ra, đã có
một số báo cáo về việc mua bán và trao đổi động vật hoang dã ở trong phạm vi khu
bảo tồn. Cụ thể, ở nhiều bản làng, cứ khoảng một tuần sẽ có một đến hai nhóm
người đi thu mua và trao đổi các mặt hàng thiết yếu cho các sản phẩm động vật
hoang dã, và giá các sản phẩm này, khi bán ở trung tâm thị trấn Lang Khang, thì sẽ
có giá gấp đôi giá thu mua ở trong dân. Ở trong khu bảo tồn, có tổng cộng 22 làng
và khu dân cư chính, với khoảng hơn 7.000 người dân. Các bản làng ở phía Bắc của
khu bảo tồn, ví dụ như các khu vực Ban Dou, Nong Ping, Kha Nyou, Lang Khang,
và Pak Phanang phụ thuộc chủ yếu vào thâm canh lúa nước và khai thác gỗ cho sinh
kế hàng ngày, và thường có thu nhập trung bình ở mức khá so với mặt bằng chung
của khu vực; và các bản làng phía Nam, ví dụ như Thap Lao và Nong Ma phụ thuộc
chủ yếu và canh tác nương rẫy theo hướng di canh, săn bắn động vật hoang dã, và
mua bán phế liệu chiến tranh cho sinh kế của mình, và thường có thu nhập trung
bình ở mức thấp so với mặt bằng chung của khu vực [23, 65].
Các khu vực quan trọng nhất cho bảo tồn đa dạng sinh học ở Hin Nam No bao gồm
thứ nhất là Nam Khoum, là khu vực đồng bằng rộng lớn, vốn có một số lượng lớn
các loài quý hiếm như Chà vá chân nâu, Vooc Hà Tĩnh, và một số loài thú cỡ vừa.
Thứ hai là khu vực Nam Masai, là khu đồng bằng ở gần Nam Khoum và rất gần khu
Nong Ping, với nhiều loài linh trưởng quý hiếm. Thứ ba là khu vực núi Nam Kaloc,
26
nằm ở khu vực Nong Ping và có thể tiếp cận từ hướng Nam Masai, là vùng sống
cho nhiều loài linh trưởng và chim quý hiếm. Thứ tư là khu vực Khoun Ka-arn, là
một khu đồng bằng gần nhiều sông suối khác nhau ở gần Ban Salang, Ban Dou, và
Ban Vangmaneu, và là nơi cư trú và kiếm ăn của rất nhiều loài thú. Thứ năm là khu
vực Pha Nangtok, nằm tương đối sâu trong vùng lõi của Hin Nam No và nằm gần
biên giới Việt Nam – Lào, với nhiều loài thú lớn quý hiếm, bao gồm cả Bò tót. Thứ
sáu là khu vực Kuane Ke, gồm chủ yếu là các dãy núi đá vôi, và là nơi sinh sống
của nhiều loài thú như Chà vá chân nâu, Vooc Hà Tĩnh, và Linh dương. Cuối cùng
là khu Kuane Khing, nằm gần Kuane Ke, và là nơi sống của nhiều loài linh trưởng
[41, 65].
Khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa
Về vị trí địa lý, khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa thuộc địa bàn phía Bắc huyện Hướng
Hóa, Quảng Trị. Khu bảo tồn có diện tích khoảng 25.000 ha. Địa hình khu bảo tồn
Bắc Hướng Hóa chủ yếu là núi thấp của dãy Trường Sơn. với dãy núi cao trên 1.000
m chạy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam dọc ranh giới hai tỉnh Quảng Bình và
Quảng Trị. Về phía Quảng Trị địa hình nâng cao hơn, chia cắt mạnh, độ dốc cao
phổ biến từ 15-25o, có nhiều nơi, nhiều chỗ dốc đứng. Trong khu vực có các đỉnh
cao điển hình như: Động Sa Mù (1.550m) gần đỉnh đèo Sa Mù và Động Voi
Mẹp/Voi Nằm (1.771m) ở phía Đông Nam khu bảo tồn. Trong khu vực ngoài đồi,
núi đất chiếm đa số còn lại có hai dãy núi đá vôi. Ở gần trung tâm là dãy đá vôi
chạy theo hướng Đông – Tây, ranh giới hai xã Hướng Lập và Hướng Việt, gần
trung tâm xã Hướng Việt có dãy núi đá vôi chạy theo hướng Bắc-Nam [7, 56].
Về mặt khí hậu, khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới
gió mùa, có mùa đông lạnh, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 5. Nhiệt độ trung bình
năm vào khoảng từ 24oC – 25 oC, với mùa đông tương đối lạnh và rất ẩm ướt do ảnh
hưởng của gió mùa Đông Bắc, nhiệt độ trung bình trong các tháng này ở vùng đồng
bằng xuống dưới 22 oC, còn trên các vùng có độ cao từ 400 – 500 m trở lên thường
xuống dưới 20 oC và nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất xuống dưới 15oC ở Khe
27
Sanh vào tháng 12 và tháng 1. Ngược lại mùa hè do có sự hoạt động của gió Tây
nên rất nóng và khô. Có tới 3 – 4 tháng (thường từ tháng 1 đến tháng 5) có nhiệt độ
không khí trung bình lớn hơn 25 oC, và tháng nóng nhất thường là tháng 4 hoặc
tháng 5 với nhiệt độ trung bình lên tới 29 oC. Nhiệt độ cao nhất lên tới 39 – 40oC.
Độ ẩm trong các tháng này cũng xuống rất thấp, dưới 30%. Khu vực Bắc Hướng
Hóa có lượng mưa rất lớn, lượng mưa trung bình năm đạt tới 2.400 – 2.800mm
hoặc lớn hơn, và tập trung chủ yếu trong mùa mưa, hai tháng có lượng mưa lớn nhất
là tháng 9 và 11, chiếm tới 45% tổng lượng mưa toàn năm. Mùa mưa bắt đầu từ
tháng 5, kết thúc vào tháng 11, tuy vậy lượng mưa trung bình của tháng 5 ở Khe
Sanh cũng đạt tới 157,4 mm. Độ ẩm không khí trong vùng đạt tới 85 – 90%, trong
mùa mưa độ ẩm lên tới 91% [7, 56].
Về đặc điểm sông suối, do có địa hình có độ dốc lớn nên sông suối xuất phát từ đây
thường ngắn, dốc đổ ra biển theo hướng Đông hoặc Đông Bắc. Trong khu vực có
các hệ thống sông chính, một là phía Đông Bắc giáp với sông Bến Hải, tất cả các
con suối bắt nguồn từ sườn Đông đều chảy vào sông Bến Hải và đổ ra biển Đông ở
Cửa Tùng. Thứ hai là phía Tây Bắc và Nam, là thượng nguồn sông Xê Păng Hiêng
chảy qua Lào vào sông Mê Kông. Ba là phía Đông Nam, bao gồm phía Bắc của
Động Sa Mùi và phía Đông của Động Voi Mẹp, là thượng nguồn của sông Cam Lộ
(gọi là nguồn Rào) và đổ ra biển Đông tại Cửa Việt. Bốn là phía Nam, vốn là hệ
thống suối của sông Rào Quán, là một chi lưu của sông Quảng Trị (Thạch Hãn) [7,
56].
Về sinh cảnh, toàn bộ khu vực được bao phủ bởi các kiểu rừng kín thường xanh. Ở
độ cao dưới 600 m là rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và từ 600m trở lên là
kiểu rừng kín thường xanh á nhiệt đới. Nhưng trải qua các quá trình tác động lâu dài
như đốt nương làm rẫy, khai thác lâm sản, và ảnh hưởng một phần của chiến tranh,
hiện diện tích rừng nguyên sinh ở khu vực Bắc Hướng Hóa cũng không còn nhiều.
Về đa dạng sinh học, các nghiên cứu trước đây đã ghi nhận được 920 loài thực vật
bậc cao có mạch thuộc 518 chi và 130 họ, trong đó có 17 loài quý hiếm được ghi
28
trong sách đỏ Việt Nam và 23 loài được ghi trong danh lục đỏ IUCN. Trong số
những loài thống kê được có 125 loài cây cung cấp gỗ, 161 loài cây làm thuốc, 44
loài cây làm cảnh, và 89 loài cây làm thực phẩm. Về khu hệ động vật, theo các
nghiên cứu trước đây, ở khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa có ổng số 42 loài thú thuộc 17
họ đã được ghi nhận, trong đó có 11 loài có trong danh lục đỏ IUCN. Các loài này
bao gồm Chà vá chân nâu, Voọc Hà Tĩnh, Vượn đen má trắng Nam, Gấu ngựa, Sao
la, Tê tê, Khỉ cộc, Rái cá vuốt bé, Mang lớn, Bò tót, và Sơn dương. Về Thỏ vằn
Trường Sơn, đầu năm 2005, một cá thể Thỏ vằn Trường Sơn được ghi nhận gần
đường đi từ Bắc Hướng Hóa ra Khe Sanh, gần đèo Sa Mù. Giữa năm 2005, nhiều
bộ xương Thỏ vằn được tìm thấy ở một lán bỏ hoang của thợ săn gần khu vực làng
Cuồi – Cợp. Thợ săn địa phương cho biết đã bắt được 4 cá thể Thỏ vằn ở khu vực
này trong giai đoạn tháng 4 năm 2005. Một mẫu Thỏ vằn Trường Sơn được ghi
nhận trong một cuộc điều tra thực địa của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật ở
một nhà thợ săn ở làng Cuội vào tháng 9 năm 2006.
Các mối đe dọa chính đối với khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa bao gồm một là tình
trạng khai thác gỗ trái phép ở những vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là các tiểu khu
rừng phía Đông giáp với lâm trường Bến Hải. Hai là tình trạng săn bắt động vật
hoang dã ở diện rộng, khó kiểm soát. Ba là do khoảng cách tương đối gần giữa khu
bảo tồn Bắc Hướng Hóa và đường Hồ Chí Minh, hiện là tuyến đường tạo thuận lợi
để vận chuyển các sản phẩm khai thác từ rừng. Bốn là, tình trạng thu mua phế liệu
chiến tranh của người dân địa phương, và đây là nguyên nhân gây ra các vụ cháy
rừng hàng năm. Và cuối cùng là việc khai thác vàng và sa khoáng trái phép, gây phá
rừng, phá sinh cảnh, và ô nhiễm nguồn nước ở khu vực [1, 7].
Khu bảo tồn Sao la Huế
Về vị trí địa lý, khu bảo tồn Sao la Huế là khu bảo tồn ở phía Tây Nam của tỉnh
Thừa Thiên Huế, thuộc hai huyện A Lưới và Nam Đông. Về diện tích, tổng diện
tích khu bảo tồn là 15.519,93 ha, gồm 15 tiểu khu. Về địa hình, khu bảo tồn Sao la
29
có địa hình núi thấp và núi trung bình, độ cao thấp dần về hướng Bắc, độ cao thấp
nhất là 120 m, độ cao lớn nhất là 1.232 m. Độ dốc của khu vực khá lớn, độ dốc thấp
nhất 20o, độ dốc cao nhất > 35o. Do địa hình bị phân cắt mạnh và sâu nên thung
lũng thường hẹp và gần như không có thay vào đó là các lòng suối hẹp dốc, nhiều
thác ghềnh.
Về khí hậu, nhiệt độ trung bình năm của khu bảo tồn từ 22 đến 25oC, nhiệt độ thấp
nhất trong năm vào khoảng 11 – 12oC. Lượng mưa trung bình năm ở khu vực
thường từ 3.400 – 3.800 mm. Mưa tập trung vào giai đoạn tháng 9 – 12, với lượng
mưa thường chiếm 80 – 85% tổng lượng mưa cả năm [79, 81].
Về sinh cảnh, các kiểu rừng chính ở khu bảo tồn Sao la Huế bao gồm, một là kiểu
rừng nguyên sinh rậm thường xanh, cây lá rộng chưa bị tác động ở đất thấp. Các
mảnh rừng kiểu này còn sót lại ở khắp xã Thượng Quảng thuộc huyện Nam Đông, ở
xã A Roàng và xã Hương Nguyên thuộc huyện A Lưới. Ở các khu vực này rừng
nguyên sinh vẫn còn giữ được cấu trúc, thành phần loài và đặc trưng bên ngoài. Hai
là kiểu rừng thứ sinh rậm và thưa thường xanh cây lá rộng ở đất thấp, có sự phân bố
rộng ở vùng nghiên cứu, và ước tính che phủ từ 15 đến 55% diện tích ở xã A
Roàng, huyện A Lưới, và xã Thượng Quảng, huyện Nam Đông, Cấu trúc, thành
phần loài và cấu trúc bên ngoài của kiểu rừng này rất giống nhau. Sự phân tầng chỉ
rõ rệt ở rừng thứ sinh già, có tuổi trên 30 – 40 năm. Phần lớn diện tích rừng thứ
sinh có tuổi trẻ hơn và thể hiện sự phân tầng không rõ rệt. Ba là trảng cây bụi thứ
sinh rậm và thưa, với cấu trúc, thành phần loài và cấu trúc bên ngoài rất giống nhau.
Cấu trúc thẳng đứng của trảng cây bụi thứ sinh nói chung rất đơn giản, chỉ gồm tầng
cây bụi và tầng cỏ. Đôi khi nứa có thể tạo thành tầng bổ sung cao hơn, nhưng độ
che phủ của nó thường ít hơn 5 – 10%. Thứ tư là trảng cỏ thưa và các quần xã ráng
thứ sinh, có phân bố rộng ở vùng nghiên cứu, trừ xã A Roàng, huyện A Lưới. Cấu
trúc, thành phần loài và cấu trúc bên ngoài của các quần xã này rất giống nhau. Cấu
trúc thẳng đứng của trảng cỏ và Ráng thứ sinh rất đơn giản, chỉ gồm một tầng cỏ.
Thứ năm là các quần xã rang, thường là các quần xã tiên phong trên đất bị thoái hóa
30
mạnh và bồi tụ trẻ trên sườn núi đá mẹ đang phong hóa. Thành phần loài của các
loại quần xã này rất nghèo, gồm các loài Ráng thông thường với thân leo dài từ 2 -3
mét. Cuối cùng là các quần xã thực vật ở ven suối, chỉ chiếm một diện tích nhỏ, có
thể gặp dọc sông suối lớn được phù sa của các loại đá mẹ granit, đá phiến, và cát
bồi tụ. Ở các vùng đồi núi, các quần xã thực vật loại này thường gặp ở các thung
lũng suối hẹp sát các vách đá lộ đầu. Môi trường sống điển hình của các loài cây
mọc ven suối cũng là các vách đá, có khi cả ở thác rất ẩm, được che bóng [61, 79,
81].
Về giá trị đa dạng sinh học, các nghiên cứu trước đây đã ghi nhận 816 loài thực vật,
thuộc 130 họ thực vật bậc cao có mạch ở khu bảo tồn Sao la Huế. Đồng thời, ở khu
vực này đã ghi nhận 37 loài thú, với 23 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam và 18
loài có tên trong danh lục đỏ IUCN. Riêng với loài Thỏ vằn Trường Sơn, từ đầu
những năm 2000 đã có thông tin phỏng vấn về việc có Thỏ vằn ở khu vực gần khu
bảo tồn Sao la Huế, đặc biệt là khu vực Nam Đông, do vị trí tương đối đối với Vườn
quốc gia Bạch Mã [81]. Tuy nhiên, cho đến trước nghiên cứu này vẫn chưa có ghi
nhận xác thực về Thỏ vằn ở khu vực.
Các mối đe dọa chính lên khu bảo tồn Sao la Huế bao gồm, một là hoạt động khai
thác gỗ. Khai thác gỗ trái phép thường xuyên xảy ra trên địa bàn, chủ yếu nhắm tới
các loài gỗ quý, có giá trị thương mại cao như Lim, Gụ, Huỷnh ... theo phương thức
thủ công. Hoạt động khai thác trái phép trong vùng theo từng nhóm người độc lập,
các nhóm này có cả người từ nơi khác tới. Mỗi nhóm thường có 3-4 người vào rừng
chặt hạ, sơ chế rồi vận chuyển ra khỏi rừng giao cho các đầu nậu. Hai là việc săn
bắn động vật hoang dã trái phép, đặc biệt là vùng rừng khu vực đầu nguồn sông
Hữu Trạch, đang diễn ra phổ biến và trên diện rộng. Trong quá khứ, việc sử dụng
súng để săn bắn động vật rừng rất phổ biến trong khu vực, và làm suy giảm nghiêm
trọng số lượng quần thể của các loài động vật, đặc biệt là các loài linh trưởng và thú
lớn. Trong những năm gần đây, tình trạng săn bắn động vật bằng súng đã giảm đáng
kể, nhưng phương thức săn bắt bằng bẫy dây phanh lại có xu hướng tăng lên. Ba là
31
việc khai thác lâm sản ngoài gỗ. Lượng khai thác quá mức đã làm cho một số loài
sinh vật trong khu bảo tồn không còn khả năng phục hồi. Ngoài ra, khai thác lâm
sản ngoài gỗ là nguyên nhân trực tiếp gây của việc săn bắn và mất đi sinh cảnh sống
của một số loài động vật hoang dã, do việc người dân đóng lán và ở lâu dài trong
rừng để khai thác lâm sản cũng thường xuyên xảy ra (Hình 5). Các loại lâm sản
chính bị khai thác ở đây bao gồm mây, lá nón, mật ong, và măng. Cuối cùng, do
khoảng cách tương đối gần giữa khu bảo tồn và đường Hồ Chí Minh ở xã A Roàng,
Hương Nguyên, nên cũng có một số ảnh hưởng từ con đường này đến khu bảo tồn
[61, 79].
32
Hình 5. Một khu vực tại khu bảo tồn Sao la Huế
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Về cơ bản, mục tiêu nghiên cứu chung của luận văn là tiến hành nghiên cứu để tìm
ra một số đặc điểm sinh thái, phân bố của loài từ các thông tin cơ bản liên quan đến
các quần thể Thỏ vằn Trường Sơn được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, để từ
đó có thể đề xuất các biện pháp bảo tồn phù hợp, giúp cho loài Thỏ vằn Trường Sơn
thoát khỏi nguy cơ suy giảm quần thể hiện nay. Vì thế, về chi tiết, luận văn có ba
mục tiêu nghiên cứu cụ thể, bao gồm:
Mục tiêu trước tiên của nghiên cứu này là tổng hợp các thông tin từ các nghiên cứu
trước đây liên quan đến loài Thỏ vằn Trường Sơn, kết hợp với các thông tin phỏng
vấn chuyên gia và phỏng vấn thực tế, để tìm ra những khu vực có tiềm năng có Thỏ
vằn cao mà chưa được ghi nhận thực tế.
Mục tiêu thứ hai là tiến hành khảo sát thực địa, bằng cả phương pháp điều tra theo
tuyến và điều tra bẫy ảnh, để thu thập các vùng có Thỏ vằn sinh sống ở các khu vực
tiềm năng, và phân tích số liệu thực địa để tìm ra một số đặc điểm sinh thái của loài,
đặc biệt là các đặc điểm phân bố về thời gian.
Mục tiêu thứ ba là sử dụng các kết quả thu được từ những nghiên cứu trước đây và
từ quá trình thực địa để xây dựng mô hình phân bố loài, từ đó phân tích một số đặc
điểm sinh thái về phân bố không gian của Thỏ vằn, đồng thời đánh giá sự thay đổi
về đặc điểm phân bố trong tương lại của Thỏ vằn dưới tác động của biến đổi khí
33
hậu, để từ đó đề xuất được các biện pháp bảo tồn thích hợp cho loài.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Các nội dung nghiên cứu chính của luận văn bao gồm:
Nội dung 1: Tổng hợp các thông tin cơ bản liên quan đến các quần thể Thỏ vằn
Trường Sơn từ nhiều nguồn khác nhau
- Tổng hợp các thông tin từ các nghiên cứu trước đây liên quan đến loài Thỏ vằn
Trường Sơn.
- Tiến hành phỏng vấn chuyên gia và phỏng vấn thực địa, việc phỏng vấn thực địa
được thực hiện trong quá trình khảo sát thực địa, để thu thập thêm các thông tin
chưa công bố về Thỏ vằn Trường Sơn.
- Tổng hợp các nguồn thông tin trên để tìm ra những khu vực có tiềm năng có Thỏ
vằn cao mà chưa được ghi nhận thực tế.
Nội dung 2: Khảo sát thực địa để thu thập thông tin từ một số khu vực tiềm năng, và
phân tích số liệu thực địa để tìm ra một số đặc điểm sinh thái của loài
- Tiến hành khảo sát thực địa bằng phương pháp điều tra theo tuyến tại một số khu
bảo tồn tiềm năng
- Tiến hành khảo sát thực địa bằng phương pháp điều tra bẫy ảnh tại một số khu bảo
tồn tiềm năng
- Tổng hợp và phân tích số liệu thực địa để tìm ra một số đặc điểm sinh thái của Thỏ
vằn Trường Sơn, đặc biệt là các đặc điểm phân bố về thời gian.
Nội dung 3: Xây dựng mô hình phân bố loài, từ đó phân tích một số đặc điểm sinh
thái và đánh giá sự thay đổi phân bố trong tương lai của Thỏ vằn, để từ đó đề xuất
được các biện pháp bảo tồn thích hợp cho loài
- Sử dụng các kết quả thu được từ những nghiên cứu trước đây và từ quá trình thực
địa để xây dựng mô hình phân bố loài, từ đó đưa ra được vùng phân bố tiềm năng
34
hiện tại và trong tương lai của loài Thỏ vằn Trường Sơn.
- Dựa vào kết quả mô hình hóa để phân tích một số đặc điểm sinh thái về phân bố
không gian của Thỏ vằn Trường Sơn, đồng thời đánh giá sự thay đổi về đặc điểm
phân bố trong tương lại của Thỏ vằn dưới tác động của biến đổi khí hậu.
- Dựa vào kết quả nghiên cứu để đề xuất một số biện pháp bảo tồn thích hợp cho
Thỏ vằn Trường Sơn.
2.3. Thời gian thực hiện
Công việc thực địa và phân tích dữ liệu cho nghiên cứu này được thực hiện trong
khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2019. Chi tiết thời gian thực hiện được nêu
dưới đây:
- Các đợt khảo sát thực địa được thực hiện từ 01/2016 đến 03/2019
- Khảo sát thực địa theo tuyến được tiến hành Vườn Quốc gia Bến En (Thanh
Hóa) trong giai đoạn 01/2018 đến 11/2018, và khu bảo tồn Hin Nam No (Lào) trong
giai đoạn 01/2019 đến 03/2019.
- Khảo sát thực địa bằng bẫy ảnh được tiến hành ở khu bảo tồn Sao la Huế
(Thừa Thiên Huế) trong giai đoạn 01/2016 đến 01/2017, và khu bảo tồn Bắc Hướng
Hóa (Quảng Trị) trong giai đoạn 03/2016 đến 03/2017.
- Phân tích số liệu thô bẫy ảnh, bao gồm định loại ảnh, sắp xếp ảnh, và trích
xuất thông tin của các bức ảnh được thực hiện từ 06/2017 đến 06/2018
- Các cuộc phỏng vấn thực địa được thực hiện đồng thời với các cuộc khảo sát
thực địa.
- Xử lý số liệu và hoàn thành luận văn từ 04/2019 đến 09/2019
2.4. Dụng cụ nghiên cứu chính
Các dụng cụ nghiên cứu chính được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn bao
gồm:
35
- Máy định vị GPS Garmin 64s
- Bản đồ, la bàn
- Bẫy ảnh Bushnell Trophy Cam
- Máy ảnh Nikon D7200 với ống kính AFS 18-140 và AFP 70-300
- Phần mềm R phiên bản 3.4.6
- Gói tiện ích camtrapR phiên bản 0.99.9
- Phần mềm ENMTools
- Phần mềm BaseCamp
- Phần mềm ArcGIS phiên bản 10.1
- Phần mềm Maxent phiên bản 3.4.1
2.5. Các phương pháp nghiên cứu chính
2.5.1. Phương pháp kế thừa tài liệu
Các tài liệu có liên quan đến loài Thỏ vằn Trường Sơn, bao gồm bài báo, báo cáo,
tài liệu lưu trữ, mô tả bảo tàng của các nhà khoa học và các viện, cơ quan nghiên
cứu trong và ngoài nước được thu thập và phân tích. Ngoài ra, các nghiên cứu liên
quan đến loài ở các cơ sở dữ liệu trực tuyến, ví dụ như Web of Science, Global
Biodiversity Information Facility, và Google Scholar sử dụng các từ khóa như
“Nesolagus”, “timminsi”, “Striped rabbit” và “thỏ vằn” đã được truy cập và thống
kê. Các vị trí xuất hiện của loài tìm thấy được xem xét kỹ để loại bỏ các điểm có độ
tin cậy thấp, ví dụ như các vị trí chỉ từ kết quả phỏng vấn hay kết quả danh lục,
hoặc mẫu lưu bảo tàng, và được chuyển sang các điểm xuất hiện.
2.5.2. Phương pháp phỏng vấn
Tổng số 37 người đã được phỏng vấn, bao gồm những nhà khoa học đã từng nghiên
cứu về Thỏ vằn Trường Sơn hoặc nghiên cứu về các khu bảo tồn tiềm năng, cán bộ
36
kiểm lâm của các khu bảo tồn, và những người dân địa phương có sinh kế liên quan
đến rừng. Việc lựa chọn người phỏng vấn dựa theo nguyên lý lấy mẫu snowball.
Đầu tiên, một số người đã nghiên cứu hoặc làm việc lâu năm đến các chủ đề liên
quan đến đề tài sẽ được chọn. Sau đó, người được phỏng vấn sẽ được mời giới thiệu
những người phù hợp tiếp theo [78].
Phương pháp phỏng vấn chính là phương pháp bán cấu trúc, với những câu hỏi mở
về kiến thức và ý kiến của người được phỏng vấn về các chủ đề liên quan đến loài
Thỏ vằn Trường Sơn, từ phân bố, tập tính, mức độ hiếm/phổ biến, hiện trạng săn
bắn. Tuy nhiên, do việc phỏng vấn bán cấu trúc nói riêng, và phỏng vấn nói chung,
nếu liên quan đến một loài cụ thể thường dễ bị sai sót trong thông tin cung cấp do
người được phỏng vấn nhận diện sai loài, nên thông thường một số câu hỏi về mô tả
hình thái, kích thước, tập tính phân bố về thời gian của loài sẽ được sử dụng để
kiểm tra độ tin cậy của thông tin ghi nhận được. Phương pháp này đã được áp dụng
trong nhiều nghiên cứu tương tự, và được chứng minh là tương đối hiệu quả trong
nhiều trường hợp cần khai thác thông tin cho công tác bảo tồn [17, 18, 42]. Sau khi
phỏng vấn xong, thông tin sẽ được nhập liệu vào phần mềm SPSS để phân tích định
tính, và xuất định dạng sang R để phân tích định lượng.
2.5.3. Phương pháp điều tra thực địa theo tuyến
Sau khi đã xác định được các khu bảo tồn tiềm năng, các tuyến điều tra ở hai khu
bảo tồn, bao gồm Vườn quốc gia Bến En (Thanh Hóa) và khu bảo tồn Hin Nam No
(Lào), đã được tiến hành thiết lập để thực hiện nghiên cứu phân bố của loài.
Các khu vực tiềm năng trong khu bảo tồn được khảo sát vào ban ngày để xác định
các tuyến điều tra tiềm năng, ví dụ như các tuyến đường mòn, giông núi, ven sông
suối, các tuyến cắt và các điểm mốc được ghi nhận lại trên máy GPS. Phương pháp
điều tra được sử dụng là phương pháp điều tra theo tuyến chuẩn, đã được chỉnh sửa
một số điểm nhỏ để phù hợp với mục tiêu và đối tượng nghiên cứu. Cụ thể, công
37
việc điều tra theo tuyến được tiến hành sau khi mặt trời đã lặn hẳn (19h00 – 20h00),
và kéo dài khoảng 5 – 6 tiếng đồng hồ. Nhóm khảo sát sẽ bao gồm 03 người, bao
gồm hai người dẫn đường đi ở phía sau, và người khảo sát chính (học viên) đi ở
phía trước. Khoảng cách tối thiểu giữa hai người bất kỳ là 20 mét, và tốc độ di
chuyển trong toàn tuyến là khoảng 1 km/giờ. Người khảo sát chính đi trước sẽ sử
dụng một đèn đầu công suất lớn có trang bị tấm lọc đỏ để phát hiện lân quang phát
ra từ mắt Thỏ vằn.
Người khảo sát chính sẽ phải đảm bảo soi đủ các vị trí trước mặt, đặc biệt là các
điểm bị bụi cây hoặc hốc đất, đá che khuất. Hai người dẫn đường đi sau, mỗi người
tập trung vào một bên trái phải, sẽ sử dụng đèn công suất nhỏ để đảm bảo người
khảo sát chính không bỏ sót. Khi phát hiện ra Thỏ vằn Trường Sơn, người khảo sát
chính sẽ lần lượt: 1. Dùng ống nhòm để xác nhận các thông tin về kích thước, số
lượng cá thể, hoạt động, một số đặc điểm hình thái.2. Sử dụng máy ảnh để chụp lại
cá thể Thỏ vằn, đặc biệt là các đặc điểm nhận dạng ở lưng của cá thể. 3. Dùng máy
đo xa để đo khoảng cách từ vị trí người đứng đến vị trí Thỏ vằn, và la bàn để đo góc
phát hiện so với tuyến khảo sát. 4. Dùng GPS để ghi lại vị trí tọa độ phát hiện. 5.
Dùng phổ kế mini để ghi lại các thông tin thời tiết. 6. Viết lại các thông tin ghi nhận
được. 7. Tìm kiếm xung quanh khu vực để phát hiện các cá thể khác. Mỗi khu vực
được khảo sát liên tục trong khoảng 4 – 5 ngày trước khi chuyển sang địa điểm mới.
Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong nhiều nghiên cứu thực địa khác
[24, 25, 60]. Phương pháp điều tra theo tuyến đã được tiến hành ở Vườn quốc gia
Bến En từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 12 2018 với tổng cộng 6 đợt điều tra, mỗi
đợt kéo dài 7 ngày; và được tiến hành ở khu bảo tồn Hin Nam No từ tháng 1 năm
2019 đến tháng 3 năm 2019 với tổng cộng 3 đợt điều tra, mỗi đợt kéo dài 10 ngày.
2.5.4. Phương pháp điều tra bẫy ảnh
Điều tra thực địa bằng bẫy ảnh đã được thực hiện ở hai khu bảo tồn, gồm khu bảo
tồn Sao la Huế, và khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa. Các bước thực hiện cài đặt bẫy ảnh
38
được thực hiện dựa trên quy trình phổ biến cho việc cài đặt bẫy ảnh để điều tra các
loài động vật nhỏ ở các khu vực rừng mưa nhiệt đới. Cụ thể, các bẫy ảnh loại
Bushnell Trophy Cam đã được lắp đặt tại các vị trí phù hợp khác nhau trong các
khu bảo tồn. Tọa độ lắp máy được ghi nhận lại vào GPS, và các thông tin sinh cảnh
được điền vào phiếu ghi nhận địa điểm. Mỗi điểm đặt máy được lựa chọn để tối đa
hóa khả năng ghi nhận các cá thể động vật di chuyển qua; cụ thể như những nơi có
dấu vết thú di chuyển nhiều, không quá rậm rạp, tương đối bằng phẳng, gần nguồn
nước, gần nguồn thức ăn. Mỗi bẫy ảnh được gắn vào một thân cây có đường kính
phù hợp, với vị trí máy cách mặt đất khoảng 20 – 30 cm để tối ưu hóa việc ghi nhận
thú nhỏ.
Bẫy ảnh được cài đặt để chụp tự động theo cảm biến chuyển động liên tục 24
giờ/ngày, với diện tích vùng quét cảm biến là xấp xỉ 6 m2, thời gian chờ giữa các
lần chụp là một giây, và tự ghi lại thời gian chụp ảnh. Các máy chỉ sử dụng đèn lóe
(flash) hồng ngoại, không sử dụng đèn lóe thường, vì ánh đèn lóe thường có thể làm
một số loài hoảng sợ và tạo ra tập tính tránh bẫy ảnh. Các bẫy ảnh được kiểm tra
định kỳ 2 – 3 tháng một lần để lấy dữ liệu và thay pin [1, 19, 79].
Các dữ liệu bẫy ảnh thu thập về được định loại để tìm kiếm các bức ảnh có Thỏ vằn
Trường Sơn, rồi phân chia sang các thư mục loài tương ứng để xử lý trong phần
mềm thống kê R bằng gói tiện ích camtrapR [62]. Tổng số ngày hoạt động được
tính bằng tổng của số ngày hoạt động của từng máy trong khu bảo tồn. Có tổng
cộng gần 300.000 bức ảnh thô đã được thu thập và xử lý. Các bức ảnh không thể
nhận dạng được, ví dụ như bị cháy sáng, thiếu sáng, ảnh trống, hoặc chụp đối tượng
không mong muốn, ví dụ như người dân địa phương, được loại bỏ. Các chỉ số trong
nghiên cứu đa dạng sinh học bằng bẫy ảnh được đưa vào tính toán bao gồm: (i) Chỉ
số phong phú tương đối (Relative abundance index), được tính bằng số lần ghi nhận
của một loài sau 100 ngày hoạt động của các bẫy ảnh. (ii) Mức độ xuất hiện thô
(Naïve occupancy), được tính bằng tỉ lệ giữa số lượng bẫy ảnh có ghi nhận của một
loài trên tổng số bẫy ảnh được cài đặt. (3) Độ trễ lần ghi nhận đầu (Latency to first
39
detection), là số ngày kể từ khi cài đặt máy đến lần ghi nhận đầu tiên của một loài.
Hai chỉ số đầu nếu có giá trị càng lớn sẽ tương ứng với mức độ phổ biến của một
loài càng cao. Chỉ số cuối nếu có giá trị càng lớn sẽ tương ứng với mức phổ biến
của một loài càng thấp. Để loại trừ hiệu ứng chụp ảnh nhiều lần khi các cá thể động
vật di chuyển xung quanh vị trí đặt bẫy ảnh, thời gian gián đoạn được chọn là 30
phút để đảm bảo tính độc lập giữa các lần ghi nhận [34, 50, 72].
Điều tra bẫy ảnh ở khu bảo tồn Sao la Huế được thực hiện từ tháng 01 năm 2016
đến tháng 1 năm 2017 với tổng cộng 16.468 ngày hoạt động, và điều tra ở khu bảo
tồn Bắc Hướng Hóa từ tháng 04 năm 2016 đến tháng 3 năm 2017 với tổng cộng
1.995 ngày hoạt động.
2.5.5. Phương pháp mô hình hóa phân bố
Xử lý số liệu đầu vào
Từ bộ số liệu các điểm ghi nhận của Thỏ vằn Trường Sơn, để giảm thiểu vấn đề
tương quan không gian làm giảm khả năng dự báo của mô hình, gói tiện ích spThin
[9] trong phần mềm R đã được dùng để lọc các điểm ghi nhận trong phạm vi 10 km,
và đã tạo ra bộ số liệu các điểm ghi nhận gồm 27 điểm từ 33 điểm ban đầu.
Các biến môi trường được sử dụng để chạy mô hình là các biến sinh khí hậu với độ
phân giải tốt nhất (30 arcsec) được tải từ cơ sở dữ liệu WorldClim. Có tổng cộng 19
biến sinh khí hậu, mỗi biến đại diện cho một yếu tố sinh khí hậu [40]. Các biến đó
bao gồm:
* BIO1 = Nhiệt độ trung bình năm
* BIO2 = Khoảng nhiệt độ trung bình tháng
* BIO3 = Nhiệt độ ổn đinh
* BIO4 = Mức thay đổi nhiệt độ theo mùa
40
* BIO5 = Nhiệt độ cao nhất của tháng nóng nhất
* BIO6 = Nhiệt độ thấp nhất của tháng lạnh nhất
* BIO7 = Khoảng nhiệt độ trung bình năm
* BIO8 = Nhiệt độ trung bình của mùa mưa
* BIO9 = Nhiệt độ trung bình của mùa khô
* BIO10 = Nhiệt độ trung bình của mùa nóng
* BIO11 = Nhiệt độ trung bình của mùa lạnh
* BIO12 = Lượng mưa trung bình năm
* BIO13 = Lượng mưa của tháng mưa nhiều nhất
* BIO14 = Lượng mưa của tháng mưa ít nhất
* BIO15 = Mức thay đổi lượng mưa theo mùa
* BIO16 = Lượng mưa của mùa mưa
* BIO17 = Lượng mưa của mùa khô
* BIO18 = Lượng mưa của mùa nóng
* BIO19 = Lượng mưa của mùa lạnh
Các điểm xuất hiện được sử dụng để tạo ranh giới nghiên cứu theo nguyên lý đa
giác tối thiểu. Từ đa giác tối thiểu được tạo ra, công cụ tạo vùng đệm trong ArcGIS
được sử dụng để tạo ra ranh giới nghiên cứu có khoảng cách 0,7 độ so với đa giác
tối thiểu. Tất cả 19 biến được hiển thị xuống ranh giới nghiên cứu bằng ArcGIS, và
chuyển sang tệp số để chạy mô hình. Để giảm thiểu mức độ phức tạp của mô hình
nhằm tăng khả năng dự báo cho điều kiện môi trường trong tương lai, 19 biến môi
trường đã được chạy phân tích jackknife để đo mức độ quan trọng của các biến, với
từng biến một bị loại bỏ trong mỗi lần chạy [12, 31]. Đồng thời, hệ số tương quan
Pearson cũng được tính cho từng cặp biến một bằng phần mềm ENMTools, với giá
41
trị r càng lớn nghĩa là cặp biến đó có tính tương quan càng cao, để nhận diện những
cặp biến có độ tương quan cao quá mức (r ≥ |0,75|), và kết quả từ phân tích
jackknife, cũng như đặc tính sinh thái đã biết của loài, đã được sử dụng để giảm 19
biến ban đầu xuống còn 6 biến [86]. Sáu biến cuối cùng bao gồm Mức thay đổi
nhiệt độ theo mùa, Nhiệt độ trung bình của mùa mưa, Nhiệt độ trung bình của mùa
khô, Mức thay đổi lượng mưa theo mùa, Lượng mưa của mùa nóng, Lượng mưa
của mùa lạnh.
Chạy mô hình
Mô hình phân bố loài được xây dựng sử dụng phần mềm Maxent phiên bản 3.4.1
[66]. Maxent không yêu cầu dữ liệu về điểm không ghi nhận của loài, và có khả
năng xây dựng mô hình phân bố tương đối tốt kể cả khi loài có ít điểm ghi nhận [29,
64]. Giá trị regularization multiplier được chọn bằng cách chạy nhiều mô hình với
các tùy chỉnh giống nhau, chỉ khác ở giá trị multiplier được thay đổi từ 0,5 đến 10
với bước nhảy là 0,5 cho mỗi lần chạy, và mô hình có giá trị AUC tốt nhất sẽ được
chọn [12]. Giá trị AUC thay đổi từ 0,5 với mô hình không có khả năng dự đoán
(hay nói cách khác, khả năng dự đoán không khác đoán ngẫu nhiên) cho tới 1,0 cho
mô hình có khả năng dự báo hoàn toàn chuẩn [28, 31]. Sau khi chạy, giá trị
regularization multiplier có giá trị bằng 3,0 đã được chọn cho việc chạy mô hình.
Các tham số khác như ngưỡng hội tụ, loại lớp, … được chọn theo khuyến nghị từ
những người phát triển ra phần mềm Maxent [67].
Phương pháp xây dựng mô hình chính là phương pháp jackknife, được thực hiện
theo hướng dẫn của Pearson và cs. (2007), và là phương pháp đã được chứng minh
là hiệu quả cho những loài có số điểm ghi nhận hạn chế [64]. Theo phương pháp
này, sẽ có n mô hình được tạo ra, với n = số điểm ghi nhận, và trong mỗi lần chạy,
một điểm ghi nhận ngẫu nhiên sẽ được loại bỏ từ bộ số liệu, và mô hình được xây
dựng dựa trên n – 1 điểm còn lại. Độ chính xác và hợp lý của mô hình được đánh
giá dựa trên khả năng của mô hình có dự báo được điểm đã được loại ra từ trước
42
hay không.
Đánh giá mô hình
Để đánh giá mô hình và lựa chọn mô hình tốt nhất, ENMTools được sử dụng để
tính chỉ số AICc (Chỉ số thông tin Akaike đã điều chỉnh), vốn được coi là hiệu quả
cho mô hình có dưới 30 điểm xuất hiện. AUC, AICc (Hình 6), và mức loại bỏ được
dùng song song với nhau để đánh giá và lựa chọn mô hình [86]. Sau khi lựa chọn
xong, ngưỡng xuất hiện 10% được sử dụng để phân biệt giữa vùng thích hợp và
không thích hợp đối với loài [54, 88].
Hình 6. Minh họa giá trị AICs dùng để lựa chọn mô hình
Dự báo phân bố cho tương lai
Để đánh giá khả năng thay đổi phân bố của Thỏ vằn Trường Sơn trong tương lai,
mô hình tốt nhất đã được dùng để chạy lại với các biến sinh khí hậu ở năm 2050 với
độ phân giải 30 arcsecond ở cơ sở dữ liệu WorldClim [40]. Cả mức phát thải thấp
43
nhất (RCP 2,6) và cao nhất (RCP 8,5) ở hai mô hình hoàn lưu toàn cầu là BCC-
CSM1-1 and MIROC5 được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng của các kịch bản phát
thải khí nhà kính khác nhau.
Sau khi tất cả các mô hình đã chạy xong, phần mềm ArcGIS được sử dụng để thành
lập các bản đồ tương ứng.
Tổng hợp khung nghiên cứu của luận văn được trình bày ở Hình 7.
44
Hình 7. Biểu đồ khung nghiên cứu của luận văn
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả điều tra thực địa theo tuyến
Điều tra theo tuyến được thực hiện ở Vườn quốc gia Bến En từ tháng 1 năm 2018
đến tháng 12 2018 với tổng cộng 6 đợt điều tra, mỗi đợt kéo dài 7 ngày, và điều tra
ở khu bảo tồn Hin Nam No từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 3 năm 2019 với tổng
cộng 3 đợt điều tra, mỗi đợt kéo dài 10 ngày.
Kết quả điều tra thực địa theo tuyến ở Vườn quốc gia Bến En cho thấy, không phát
hiện được loài Thỏ vằn Trường Sơn ở khu vực này (Hình 8). Các kết quả phỏng
vấn cán bộ kiểm lâm và người dân địa phương cũng cho kết quả tương tự, khi mọi
người đều không nhận biết và mô tả được loài Thỏ vằn Trường Sơn.
Hình 8. Các tuyến điều tra đã khảo sát ở Vườn quốc gia Bến En
Kết quả điều tra thực địa theo tuyến ở khu bảo tồn Hin Nam No đã ghi nhận được
loài Thỏ vằn Trường Sơn trong phạm vi khu bảo tồn (Hình 9). Các công trình
45
nghiên cứu từ trước đến nay đều chưa có ghi nhận thực tế về loài Thỏ vằn ở khu
vực này, mặc dù đã có một vài công trình đặt ra giả thuyết rằng loài N. timminsi có
thể khá phổ biến ở Hin Nam No [26, 27]. Vì thế, có thể coi đây là ghi nhận có bằng
chứng xác thực đầu tiên về sự xuất hiện của loài Thỏ vằn Trường Sơn ở khu vực
khu bảo tồn Hin Nam No. Kết quả phỏng vấn tuần rừng và người dân địa phương
cũng xác nhận sự có mặt tương đối phổ biến của Thỏ vằn Trường Sơn ở khu vực
này. Ghi nhận này đã được bổ sung vào bảng tổng hợp thông tin các ghi nhận từ
trước đến nay của Thỏ vằn Trường Sơn để làm dữ liệu đầu vào cho mô hình
Maxent.
Hình 9. Các tuyến điều tra đã khảo sát ở khu bảo tồn Hin Nam No
3.2. Kết quả điều tra bẫy ảnh
Điều tra thực địa bằng bẫy ảnh đã được thực hiện ở khu bảo tồn Sao la Huế từ tháng
01 năm 2016 đến tháng 1 năm 2017 với tổng cộng 16.468 ngày hoạt động; và được
thực hiện ở khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa từ tháng 04 năm 2016 đến tháng 3 năm
46
2017 với tổng cộng 1.995 ngày hoạt động.
Kết quả điều tra bẫy ảnh ở khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa cho thấy, không ghi nhận
Thỏ vằn Trường Sơn ở khu vực nghiên cứu. Cụ thể, sau 1.995 ngày hoạt động ở 9
vị trí, tất cả các máy đều không ghi nhận được bất kỳ cá thể Thỏ vằn nào.
Kết quả điều tra bẫy ảnh ở khu bảo tồn Sao la Huế cho thấy, đã ghi nhận được Thỏ
vằn Trường Sơn ở khu vực nghiên cứu. Cụ thể, sau tổng cộng 16.468 ngày hoạt
động, có 12 vị trí đã ghi nhận được Thỏ vằn Trường Sơn với tổng số 145 lần ghi
nhận, đạt tỉ lệ thành công của bẫy ảnh 0,34 (Hình 10). So với một số loài quý hiếm
khác cũng được ghi nhận trong cùng đợt điều tra, Thỏ vằn Trường Sơn xuất hiện
với tần suất khá cao. Ví dụ, Cầy vằn Bắc (Chrotogale owstoni) – loài Nguy cấp –
chỉ được ghi nhận 22 lần ở 6 vị trí, hoặc Tê tê (Manis sp.) – loài Nguy cấp – chỉ
được ghi nhận 5 lần ở 3 vị trí. Để có cơ sở so sánh, thì một số loài phổ biến đều
được ghi nhận rất nhiều, ví dụ như Lợn rừng (Sus scrofa) được ghi nhận 290 lần ở
36 vị trí, hay Chồn bạc má Bắc (Melogale moschata) được ghi nhận 598 lần ở 42 vị
trí, hoặc Cầy vòi hương (Paradoxurus hermaphroditus) được ghi nhận 792 lần ở 41
vị trí.
Các công trình nghiên cứu từ trước đến nay đều chưa có ghi nhận thực tế về loài
Thỏ vằn Trường Sơn ở khu vực này, mặc dù đã có kết quả phỏng vấn cán bộ kiểm
lâm từ năm 2013 xác nhận có loài Thỏ vằn Trường Sơn trong khu bảo tồn, và kết
quả phỏng vấn người dân địa phương từ năm 2001 ở khu vực bên cạnh khu bảo tồn,
thuộc huyện Nam Đông, cũng xác nhận có quần thể N. timminsi ở đây [81]. Vì thế,
cũng có thể tạm coi đây là ghi nhận thực tế có bằng chứng xác thực đầu tiên về sự
xuất hiện của loài Thỏ vằn Trường Sơn ở khu vực khu bảo tồn Sao la Huế. Kết quả
phỏng vấn cán bộ kiểm lâm và tuần rừng địa phương cũng xác nhận sự có mặt
tương đối phổ biến của Thỏ vằn Trường Sơn ở khu vực này, đặc biệt là ở khu vực
tiếp giáp với nước bạn Lào và tỉnh Quảng Nam. Ghi nhận này đã được bổ sung vào
bảng tổng hợp thông tin các ghi nhận từ trước đến nay của Thỏ vằn Trường Sơn để
47
làm dữ liệu đầu vào cho mô hình Maxent.
Hình 10. Ghi nhận Thỏ vằn bằng bẫy ảnh ở khu bảo tồn Sao la Huế
Để phân tích về một số đặc điểm sinh thái của loài Thỏ vằn Trường Sơn, số liệu bẫy
ảnh thực hiện ở khu bảo tồn Sao la Huế được lựa chọn cho nghiên cứu, do thời gian
48
đặt bẫy ảnh là liên tục trong suốt 1 năm, và số lần ghi nhận loài đủ lớn để tiến hành
các phân tích cần thiết, và có thể ghi nhận được tương đối các hiệu ứng ảnh hưởng
do mùa và thời tiết đến loài.
Hình 11. Đặc điểm sinh thái thời gian trong ngày của Thỏ vằn Trường Sơn
Về đặc điểm sinh thái thời gian trong ngày, dựa theo số liệu phân tích có thể thấy rõ
Thỏ vằn Trường Sơn là loài thú chuyên sống về đêm (Hình 11), với tuyệt đại đa số
(144/145) lần ghi lần là từ 18h00 đến 4h00. Chỉ có một lần duy nhất trong suốt một
năm điều tra bẫy ảnh, các máy ảnh ghi nhận được 1 cá thể Thỏ vằn Trường Sơn
xuất hiện lúc 17h58, tức là cũng xấp xỉ 18h00, và thời điểm ghi nhận được thời gian
này là tháng 12, tức là thuộc giai đoạn có thời gian ngày ngắn, đêm dài, và trời
thường tối sớm ở khu vực Thừa Thiên Huế. Ngoài ra, khoảng thời gian từ 23h00
đến 3h00 có thể là thời gian hoạt động thường xuyên nhất của N. timminsi, chiếm
49
tới xấp xỉ 73% tổng số ghi nhận.
Hình 12. Tỉ lệ xuất hiện từ 18h00 đến 22h00 ở các tháng trong năm của Thỏ vằn
Trường Sơn
Với các quãng thời gian sớm hơn, từ 18h00 đến 22h00, xu hướng tương tự cũng
được thể hiện, với số lần ghi nhận ở loài Thỏ vằn Trường Sơn từ tháng 4 đến tháng
10, tức là những tháng có thời gian ngày dài hơn thời gian đêm, và thời gian trời tối
hẳn khá muộn, thường là sau 18h30, chỉ chiếm 25% tổng số ghi nhận trong quãng
thời gian này (Hình 12). Do vậy, học viên giả thuyết là dù Thỏ vằn Trường Sơn là
loài chuyên sống về đêm, như kết quả của các nghiên cứu trước đây cũng như của
nghiên cứu này đã chứng minh, nhưng loài có xu hướng hoạt động nhiều hơn hẳn
vào thời gian khuya muộn từ gần nửa đêm trở đi đến trước khi mặt trời mọc, tức là
50
từ 23h00 đêm hôm trước đến 4h00 hôm sau.
Hình 13. Tỉ lệ xuất hiện vào các ngày trong tháng của Thỏ vằn Trường Sơn
Về đặc điểm sinh thái về thời gian các ngày trong tháng, nếu nhìn vào tỉ lệ ghi nhận
của Thỏ vằn Trường Sơn cho từng ngày trong một tháng bất kỳ, có thể thấy loài này
không có đặc điểm xuất hiện đặc biệt vào bất kỳ ngày nào trong tháng (Hình 13).
Tương tự, nếu gộp các ngày trong tháng vào thành từng chuỗi 5 ngày, loài Thỏ vằn
Trường Sơn vẫn không thể hiện rõ bất kỳ đặc điểm phân bố nào về mặt thời gian
trong tháng (Hình 14).
51
Hình 14. Tỉ lệ xuất hiện vào các nhóm 5 ngày của Thỏ vằn Trường Sơn
Về đặc điểm sinh thái về thời gian phân bố trong năm, có thể thấy rõ là loài Thỏ vằn
Trường Sơn được ghi nhận chủ yếu trong thời gian từ tháng 11 năm trước đến tháng
4 năm sau, và ít được ghi nhận hơn trong thời gina từ tháng 5 đến tháng 10, với tổng
số ghi nhận trong giai đoạn này chỉ chiếm xấp xỉ 18% tổng số ghi nhận (Hình 15).
Hình 15. Tỉ lệ xuất hiện vào các tháng trong năm của Thỏ vằn Trường Sơn
Tuy nhiên, đặc điểm sinh thái này không chỉ được ghi nhận ở Thỏ vằn Trường Sơn.
Tại khu vực nghiên cứu, cũng có hai loài thú ăn thịt nhỏ chuyên sống về đêm được
ghi nhận phổ biến, và được coi là kẻ săn mồi tự nhiên đối với Thỏ vằn Trường Sơn,
là Cầy vòi hương (Paradoxurus hermaphroditus) và Chồn bạc má Bắc (Melogale
moschata) [2], cũng thể hiện những đặc tính sinh thái tương tự, đó là chủ yếu hoạt
động mạnh trong thời gian từ tháng 11 đến tháng 4, và ít được ghi nhận hơn hẳn
trong thời gian từ tháng 5 – 6 đến tháng 9 – 10.
Ví dụ, tổng số lần ghi nhận trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 10 của Cầy
vòi hương chỉ chiếm xấp xỉ 23% tổng số ghi nhận, và tổng số lần ghi nhận trong
khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 10 của Chồn bạc má Bắc chỉ chiếm xấp xỉ
52
30% tổng số ghi nhận (Hình 16, 17). Vì thế, với mùa mưa ở khu vực tập trung vào
tháng 9 – 12, có thể đặt ra giả thuyết về việc hạn chế nguồn thức ăn, tức là việc hạn
chế sinh trưởng của nhiều loài thực vật, của Thỏ vằn Trường Sơn nói riêng, và một
số loài thú ăn cỏ nói chung, trong giai đoạn tháng 4 – 5 đến tháng 9 – 10 hàng năm
ở khu vực nghiên cứu đã dẫn tới việc hạn chế hoạt động trong giai đoạn này của
loài Thỏ vằn Trường Sơn, và điều đó lại dẫn tới việc hạn chế hoạt động cũng vào
giai đoạn này của các loài ăn thịt vốn phụ thuộc vào các loài ăn cỏ đó.
Hình 16. Tỉ lệ xuất hiện vào các tháng trong năm của Cầy vòi hương (Paradoxurus
hermaphroditus) ở khu bảo tồn Sao la Huế
Hình 17. Tỉ lệ xuất hiện vào các tháng trong năm của Chồn bạc má Bắc (Melogale
53
moschata) ở khu bảo tồn Sao la Huế
Về đặc điểm sinh thái phân bố theo độ cao, dựa trên kết quả điều tra theo tuyến và
điều tra theo bẫy ảnh của học viên, có thể khẳng định rằng khác với kết luận của
một số nghiên cứu trước đây, Thỏ vằn Trường Sơn không quá phụ thuộc vào các
khu vực có độ cao tương đối (từ 600 m đến 1.200 m). Cụ thể, các vị trí cài đặt máy
ảnh ở khu bảo tồn Sao la Huế có độ cao từ 142 m – 449 m, và cả 12 vị trí có ghi
nhận N. timminsi bằng bẫy ảnh đều ở mức độ cao tương đối thấp từ 198 m – 380 m,
với độ cao trung bình của 12 vị trí là xấp xỉ 283 m.
Về đặc điểm sinh thái sinh sản, do Thỏ vằn Trường Sơn vừa là loài chuyên sống về
đêm, vừa là loài sống đơn độc, nên hiện đến giờ vẫn chưa có thông tin chính xác về
đặc điểm sinh sản của loài. Tuy nhiên, Abramov và cs. đã ghi nhận sự xuất hiện của
một vài cá thể Thỏ vằn Trường Sơn vào tháng 5 năm 2016, gồm một cá thể trưởng
thành, có thể là cá thể mẹ, và hai con non ở Vườn quốc gia Pù Mát, Nghệ An. Dựa
vào kích thước của con non, các tác giả đã ước tính thời gian sinh sản của N.
timminsi vào khoảng tháng 2 hàng năm [8]. Trong kết quả điều tra bẫy ảnh ở khu
Sao la Huế của học viên, cũng đã ghi nhận một trường hợp duy nhất có hai cá thể
Thỏ vằn Trường Sơn di chuyển cùng lúc với nhau. Hai cá thể được ghi nhận chung
chạy cách nhau khoảng 2 – 4 m, với một cá thể rõ ràng di chuyển cùng cá thể còn
lại. Tất cả các ghi nhận khác đều chỉ có một cá thể N. timminsi trong khung ảnh.
Dựa vào kích thước tương đối tương đồng của hai cá thể, có thể kết luận đây là hai
cá thể trưởng thành hoàn toàn, nên có thể loại bỏ trường hợp con mẹ – con non di
chuyển cùng nhau. Kết hợp với kết luận của Abramov và cs., học viên đặt ra giả
thuyết về mùa sinh sản của Thỏ vằn Trường Sơn diễn ra từ giữa tháng 1 đến giữa
tháng 2, trong đó giai đoạn từ giữa đến cuối tháng 1 là giai đoạn bắt cặp, giao phối,
và mang thai, và giai đoạn sau là giai đoạn mang thai và sinh con non. Tất nhiên, do
số lượng thông tin còn rất hạn chế, nên giả thuyết này cần được kiểm nghiệm nhiều
54
hơn trong các nghiên cứu trong tương lai.
3.3. Kết quả mô hình hóa phân bố
3.3.1. Các ghi nhận về phân bố của Thỏ vằn Trường Sơn
Sau khi tiến hành tổng hợp các thông tin từ các tài liệu nghiên cứu trước đây, thông
tin từ các cuộc phỏng vấn thực địa và phỏng vấn chuyên gia, và thông tin thu được
từ các đợt điều tra thực địa của cá nhân, bảng thông tin (Bảng 2) về các ghi nhận từ
trước tới nay của Thỏ vằn Trường Sơn trên toàn bộ vùng phân bố ở Việt Nam và
Lào (Hình 18) đã được tổng hợp.
Bảng 2. Kết quả tổng hợp các ghi nhận về Thỏ vằn từ trước tới này
STT Quốc gia Năm Mô tả Nguồn (L:
Kế thừa tài
liệu nghiên
cứu; I:
Phỏng vấn,
chia sẻ; F:
Thực địa)
1 Lào 1996 Ghi nhận và xác nhận bằng hình ảnh L [77]
đầu tiên về loài Thỏ vằn Trường Sơn.
Mẫu vật được thu tại một chợ mua
bán động vật hoang dã ở thị trấn Ban
Lak, Lào trong khoảng cuối năm
1995, đầu năm 1996. Khu Ban Lak
nằm ngay ngoài phạm vi quản lý của
khu bảo tồn Nakai Nam Theun, và
chỉ cách biên giới Việt Nam – Lào
55
khoảng 30 km.
2 Việt Nam 2000 Mẫu chuẩn của loài N. timminsi. Thu L [11]
được ở vị trí khoảng 10 km về phía
Nam của làng Nước Sốt, Sơn Kim,
Hương Sơn, Hà Tĩnh. Mẫu được thu
gần một đường đặt bẫy vào tháng 4
năm 2000, ở độ cao 200 m.
3 Việt Nam 2001 Tổng hợp các ghi nhận thực tế của L [15]
Thỏ vằn Trường Sơn ở Việt Nam đến
thời điểm đó của Đặng Ngọc Cẩn và
cs., bao gồm một cá thể thu được từ
bẫy ở Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ
Bàng, và một bộ xương thu được ở
Sơn Hồng, Hương Sơn, Hà Tĩnh.
Ngoài ra, các tác giả cũng đề cập đến
ghi nhận về Thỏ vằn bằng điều tra
bẫy ảnh ở Khe Khắng, Vườn quốc gia
Pù Mát, và kết quả phỏng vấn thợ săn
ở Vườn quốc gia Vũ Quang cũng cho
thấy có thể có Thỏ vằn ở khu vực
này. Tác giả cũng khảo sát lại kết quả
thu thập các mẫu vật của nhóm thỏ,
và kết quả phỏng vấn người dân ở
khu vực Tây Nguyên gồm Kon Tum,
Gia Lai, và Đăk Lăk, và kết luận rằng
có khả năng loài Thỏ vằn Trường
Sơn không sinh sống ở khu vực này.
56
4 Việt Nam 2001 Một bộ xương Thỏ vằn Trường Sơn L [80]
được ghi nhận ở một đường bẫy
phanh ở thung Nam Mạc, xã Sơn
Kim, Hương Sơn, Hà Tĩnh, ở độ cao
khoảng 280 m.
5 Việt Nam 2002 Cuộc điều tra thực địa của Bird Life L [43]
International Việt Nam ghi nhận loài
N. timminsi ở hai địa điểm, là một cá
thể bị dính bẫy phanh ở độ cao
khoảng 200 m thuộc vùng rừng
thường xanh ở Khe Nước Trong, xã
Kim Thủy, Lệ Thủy; và vùng phía
Nam của hai xã là Kim Thủy và
Trường Sơn, Quảng Ninh, Quảng
Bình.
6 Việt Nam 2005 – Đầu năm 2005, một cá thể Thỏ vằn L, I [56]
2006 Trường Sơn được ghi nhận gần
đường đi từ Bắc Hướng Hóa ra Khe
Sanh, gần đèo Sa Mù. Giữa năm
2005, nhiều bộ xương Thỏ vằn được
tìm thấy ở một lán bỏ hoang của thợ
săn gần khu vực làng Cuồi – Cợp.
Thợ săn địa phương cho biết đã bắt
được 4 cá thể Thỏ vằn ở khu vực này
trong giai đoạn tháng 4 năm 2005.
Một mẫu Thỏ vằn Trường Sơn được
ghi nhận trong một cuộc điều tra thực
57
địa của Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật ở một nhà thợ săn ở làng
Cuội vào tháng 9 năm 2006.
7 Lào 2007 WCS Lào ghi nhận một cá thể N. L [45]
timminsi trong một cuộc điều tra bẫy
ảnh thuộc khu vực Thongpae, khu
bảo tồn Nakai Nam Theun, ở tỉnh
Bolikhamsai, Lào
8 Việt Nam 2008 Trong một cuộc khảo sát thực địa vào L [6]
tháng 3 năm 2008, hai cá thể Thỏ vằn
Trường Sơn vừa mới bị săn bởi người
dân địa phương đựa ghi nhận ở thôn
La Tó, xã Húc Nghì, Dakrong, Quảng
Trị. Thông tin từ thợ săn địa phương
cho biết loài này hiếm gặp, chỉ có thể
phát hiện ở một số khu vực nhất định
9 Việt Nam 2006 – Nhiều mẫu vật để phân tích di truyền L [2]
2008 của loài Thỏ vằn Trường Sơn được
thu thập trong một đợt khảo sát, bao
gồm một mẫu sọ thu ở xã Lâm Thủy,
Lệ Thủy, Quảng Bình, và một mẫu
cơ, thu ở xã Sơn Tây, Hương Sơn, Hà
Tĩnh. Ngoài ra, các tác giả cũng có
ghi nhận lại tư liệu về một tổ Thỏ vằn
gồm 2 con non ở khe Thì Lời, xã Sơn
Tây, Hương Sơn, Hà Tĩnh.
58
10 Lào 2009 Trong một đợt khảo sát bẫy ảnh ở L [27]
khu vực Ban Houayhong và Nam
Sangi, tỉnh Savannakhet, Lào,
Duckworth và cs. đã ghi nhận được
nhiều cá thể Thỏ vằn Trường Sơn.
11 Lào 2010 Sở Nông nghiệp và Lâm nghiệp của L [68]
tỉnh Bolikhamxay xác nhận đã ghi
nhận loài Thỏ vằn Trường Sơn bằng
bẫy ảnh ở khu bảo tồn Phou Chom
Voy qua quan sát trực tiếp và bẫy
ảnh.
12 Việt Nam 2010 N. timminsi được ghi nhận trong một L [13]
cuộc khảo sát bẫy ảnh của Fauna &
Flora International, Việt Nam ở Vườn
quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng với số
lượng là hai cá thể. Theo thông tin
phỏng vấn từ thợ săn, Thỏ vằn
Trường Sơn không thực sự phổ biến
ở khu vực, và có tập tính hay bật
nhảy khi gặp vật cản.
13 Việt Nam 2010 Mẫu DNA tách từ vắt (iDNA) đã L [74]
được dùng để xác nhận sự xuất hiện
của Thỏ vằn Trường Sơn ở Vườn
quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng và khu
vực xung quanh. Mẫu DNA của Thỏ
vằn Trường Sơn đã được xác nhận từ
59
4 mẫu vắt.
14 Việt Nam 2016 Abramov và cs. đã ghi nhận sự xuất L [8]
hiện của một vài cá thể Thỏ vằn
Trường Sơn vào tháng 5 năm 2016,
gồm một cá thể trưởng thành, có thể
là cá thể mẹ, và hai con non ở Vườn
quốc gia Pù Mát, Nghệ An. Các cá
thể được phát hiện ở gần bờ suối
thuộc phần rừng nguyên sinh. Các cá
thể Thỏ vằn được ghi nhận là ăn thân
cây nhỏ, khi di chuyển thì thường
tránh những vùng trống trải, và
không có phản ứng bỏ trốn đối với
ánh sáng từ đèn pin. Dựa vào kích
thước của con non, các tác giả đã ước
tính thời gian sinh sản của Thỏ vằn
Trường Sơn vào khoảng tháng 2 hàng
năm.
15 Việt Nam 2014 – Ghi nhận Thỏ vằn Trường Sơn bằng L, F [79]
và Lào 2016 bẫy ảnh của Tilker và cs. từ năm
2014 đến 2016 ở khu vực rừng liền
kề giữa Việt Nam và Lào, là tập hợp
của ba khu bảo tồn, gồm khu bảo tồn
Sao la Huế, khu bảo tồn Sao la
Quảng Nam, Vườn quốc gia Bạch
Mã, và khu bảo tồn Xe Sap, Lào.
16 Việt Nam 2017 Trung tâm bảo tồn Việt Nature ghi L [85]
60
nhận một cá thể Thỏ vằn Trường Sơn
bằng video ở Khe Nước Trong,
Quảng Bình trong một cuộc điều tra
bẫy ảnh.
17 Việt Nam 2005 Vào tháng 12 năm 2005, một cá thể I
Thỏ vằn Trường Sơn đực bị thương
được phát hiện và tịch thu từ một thợ
săn địa phương bởi cán bộ nghiên
cứu của Vườn thú Cologne ở gần
Hang É, Vườn quốc gia Phong Nha
Kẻ Bàng.
18 Việt Nam 2006 Tháng 1 năm 2006, TS. Vũ Ngọc I
Thành, khoa Sinh học, Đại học Khoa
học tự nhiên Hà Nội thu được hai
mẫu sọ của N. timminsi từ thợ săn địa
phương ở huyên Tây Giang, Quang
Nam.
19 Lào 2008 Cuối năm 2009, tổ chức WCS Lào L, I [27]
tiến hành khảo sát thực địa xung quan
khu vực Ban Houayhong, tỉnh
Savannakhet, Lào. Thông tin phỏng
vấn từ thợ săn địa phương cho thấy
Thỏ vằn Trường Sơn khá phổ biến ở
khu vực này.
20 Việt Nam 2010 Vào tháng 5 năm 2010, TS. Nguyễn I
Quảng Trường ở Viện Sinh thái và
61
Tài nguyên sinh vật chụp được ảnh
của một cá thể Thỏ vằn Trường Sơn
bị bắt bởi người dẫn đường địa
phương ở khu bảo tồn Sông Thanh,
Quảng Nam.
21 Việt Nam 2011 Vào tháng 9 năm 2011, TS. Nguyễn I
Quảng Trường ở Viện Sinh thái và
Tài nguyên sinh vật chụp được ảnh
một cá thể Thỏ vằn Trường Sơn ở
Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng.
22 Việt Nam 2013 Vào năm 2013, tổ chức WWF Việt I
Nam và chi cục kiểm lâm địa phương
phát hiện một cá thể Thỏ vằn Trường
Sơn bị bắt làm vật cảnh tại khu bảo
tồn Sông Thanh. Cá thể này sau đó đã
được thả lại vào rừng
23 Việt Nam 2015 Trong một cuộc điều tra thực địa ở I
khu bảo tồn Sao la Quảng Nam, một
nhóm nghiên cứu người Anh đã tìm
thấy một cá thể N. timminsi gần bờ
suối.
24 Lào 2016 Vongkhamheng và cs. đã phỏng vấn I
nhiều người dân địa phương ở khu
vực Nam Kayee, Houay Ping, và Ban
Phonmoung, tỉnh Bolikhamsai, Lào,
và ghi nhận thông tin về có nhiều Thỏ
62
vằn Trường Sơn sinh sống ở khu vực
này. Các thông tin cho thấy, Thỏ vằn
thích sống ở các cánh rừng già tự
nhiên, và đặc biệt ở khu vực giữa
Xaychamphone và Ban Lak.
25 Lào 2017 Vào tháng 9 năm 2017, một nhóm I
nghiên cứu của Nhóm Bảo tồn Saola
đã khảo sát khu vực Khoun Xe Nong
Ma, tỉnh Khammouane, Lào, và quan
sát được một cá thể Thỏ vằn Trường
Sơn
26 Việt Nam 2018 Khảo sát bẫy ảnh từ tháng 6 đến I
tháng 8 ở Vườn quốc gia Phong Nha
Kẻ Bàng đã ghi nhận một số cá thể
Thỏ vằn Trường Sơn.
27 Lào 2019 Khảo sát thực địa ở khu bảo tồn Hin F
Nam No, tỉnh Khammounne, Lào, đã
ghi nhận và chụp ảnh một cá thể N.
63
timminsi ở khu Nọng Ma.
Hình 18. Tổng hợp các điểm ghi nhận của Thỏ vằn Trường Sơn từ trước tới nay
3.3.2. Kết quả mô hình phân bố cho loài Thỏ vằn
Các mô hình Maxent được thực hiện để xây dựng phân bố cho loài Thỏ vằn Trường
64
Sơn đều có các chỉ số đánh giá mô hình ở mức tốt, thể hiện khả năng nhất định
trong việc dự đoán vùng phân bố của Thỏ vằn, với giá trị AUC trung bình đều lớn
hơn 0,8. Mô hình tốt nhất cho phân bố tiềm năng hiện tại có giá trị AUC bằng
0,838, và mức loại bỏ nhỏ hơn 0,1 (Hình 19). Tất cả các mô hình Maxent cuối cùng
đều khá tương đồng trong đặc điểm phân bố chung của Thỏ vằn Trường Sơn, và chỉ
khác biệt ở một số vị trí cụ thể.
Hình 19. Giá trị AUC của mô hình tốt nhất cho phân bố tiềm năng hiện tại của
Maxent
Giá trị regularization multiplier được chọn bằng 3,0 cho mô hình tốt nhất có nghĩa
là mô hình cuối cùng tương đối linh hoạt, có tính tổng quát cao, và phù hợp để sử
dụng dự báo vùng phân bố của Thỏ vằn Trường Sơn trong tương lai. Vì thế, kết quả
về phân bố hiện tại từ mô hình Maxent này nên được hiểu là các vùng “tiềm năng”,
tức là có khả năng có xuất hiện Thỏ vằn Trường Sơn, hơn là các vùng “lõi”, tức là
65
các vùng chắc chắn có Thỏ vằn Trường Sơn.
Hình 20. Phân bố tiềm năng hiện tại của Thỏ vằn Trường Sơn, với vị trí của các
khu bảo tồn ở khu vực dãy Trường Sơn
Dựa trên kết quả mô hình (Hình 20), vùng phân bố tiềm năng hiện tại của Thỏ vằn
Trường Sơn nằm trong các khu vực sau:
Một phần diện tích phía Tây của tỉnh Nghệ An, một phần nhỏ diện tích phía Đông
66
Nam của tỉnh Xiangkhoang, và một phần diện tích phía Đông của tỉnh
Bolikhamxay. Các khu bảo tồn chính nằm ở khu vực này bao gồm khu bảo tồn Pù
Huống (Việt Nam), Vườn quốc gia Pù Mát (Việt Nam), khu bảo tồn Nam Chuane
(Lào), và một phần khu bảo tồn Nakai Nam Theun (Lào). Trong đó, khu bảo tồn
Nam Chuane chưa có ghi nhận chính thức về Thỏ vằn Trường Sơn.
Phần phía Tây tỉnh Hà Tĩnh, và phần phía Đông tỉnh Khammouan. Các khu bảo tồn
chính nằm ở khu vực này bao gồm Vườn quốc gia Vũ Quang (Việt Nam), khu bảo
tồn Kẻ Gỗ (Việt Nam), phần lớn diện tích khu bảo tồn Nakai Nam Theun (Lào), và
khu bảo tồn Hin Nam No (Lào). Trong đó, Vườn quốc gia Vũ Quang và khu bảo
tồn Kẻ Gỗ chưa có ghi nhận chính thức về Thỏ vằn Trường Sơn.
Phần phía Tây của tỉnh Quảng Bình, bao gồm Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bảng.
Phần phía Tây của tỉnh Quảng Trị, và phần phía Đông của tỉnh Savannakhet. Các
khu bảo tồn chính nằm ở khu vực này bao gồm khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa (Việt
Nam), khu bảo tồn Dakrong (Việt Nam), và một phần khu bảo tồn Dong Phou
Vieng (Lào). Trong đó, khu bảo tồn Dong Phou Vieng chưa có ghi nhận chính thức
về Thỏ vằn Trường Sơn.
Phần phía Tây của tỉnh Thừa Thiên Huế, và một phần phía Đông của tỉnh Saravan.
Các khu bảo tồn nằm trong khu vực này bao gồm khu bảo tồn Phong Điền (Việt
Nam), khu bảo tồn Sao la Huế (Việt Nam), Vườn quốc gia Bạch Mã (Việt Nam), và
một phần khu bảo tồn Xe Sap (Lào). Trong đó, khu bảo tồn Phong Điền chưa có ghi
nhận chính thức về Thỏ vằn Trường Sơn.
Phần phía Tây và một phần phía Bắc, đặc biệt là khu vực miền núi giáp với Thừa
Thiên Huế, của tỉnh Quảng Nam, và một phần nhỏ diện tích phía Đông của tỉnh
Xekong. Các khu bảo tồn trong khu vực này bao gồm khu bảo tồn Sao la Quảng
Nam (Việt Nam), khu bảo tồn Sông Thanh (Việt Nam), và một phần nhỏ khu bảo
tồn Ngọc Linh phía Quảng Nam. Trong đó, khu bảo tồn Ngọc Linh chưa có ghi
67
nhận chính thức về Thỏ vằn Trường Sơn.
Tuy nhiên, khi kết hợp thông tin từ kết quả mô hình với thông tin từ kết quả phỏng
vấn, đặc biệt là phỏng vấn chuyên gia, một số khu vực, đặc biệt là các khu bảo tồn,
vẫn chưa có hoặc ít có xác nhận thực địa chắc chắn về việc có loài Thỏ vằn sinh
sống, nhưng từ kết quả mô hình và phỏng vấn thì có khả năng cao có quần thể Thỏ
vằn sinh sống, đã được xác định. Các khu vực đó bao gồm:
Vườn quốc gia Vũ Quang, Hà Tĩnh, Việt Nam: Với khoảng cách tương đối gần giữa
Vườn quốc gia Vũ Quang với các khu vực khác trong tỉnh Hà Tĩnh đã có ghi nhận
loài Thỏ vằn, ví dụ như khu vực Sơn Hồng, Sơn Tây, Sơn Kim, … và kết quả phỏng
vấn người dân địa phương cũng xác nhận có loài này, nên Vũ Quang có thể là nơi
có quần thể N. timminsi tương đối lớn.
Khu bảo tồn Hin Nam No và khu rừng Khoun Xe Nong Ma, tỉnh Khammouane,
Lào: Với khoảng cách từ Hin Na No đến hai khu bảo tồn đều đã có ghi nhận loài
Thỏ vằn Trường Sơn, gồm khu bảo tồn Nakai Nam Theun và Vườn quốc gia Phong
Nha Kẻ Bàng, khu vực này được coi là có tiềm năng rất cao cho việc tìm thấy các
quần thể đáng kể của N. timminsi.
Khu bảo tồn Phong Điền, Thừa Thiên Huế, Việt Nam: Với khoảng cách gần như là
liền kề giữa khu bảo tồn Phong Điền và khu bảo tồn Dakrong, Quảng Trị, thì Phong
Điền có khả năng cao cũng có một số quần thể nhất định của N. timminsi.
Khu bảo tồn Ngọc Linh, Quảng Nam, Việt Nam: Mặc dù chưa có xác nhận thực địa
về loài Thỏ vằn ở đây, tuy nhiên, với khoảng cách từ Ngọc Linh đến khu bảo tồn
Sông Thanh thì khả năng cao loài Thỏ vằn Trường Sơn vẫn có mặt ở một số vùng
có độ cao thấp thuộc Ngọc Linh.
Về thay đổi vùng phân bố của Thỏ vằn Trường Sơn dưới tác động của biến đổi khí
hậu trong tương lai, vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn ở năm 2050
68
dưới kịch bản RCP 2,6 (màu vàng nhạt) và kịch bản RCP 8,5 (màu cam đậm) của
hai mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu là BCC-CSM1-1 (Hình 21) và MIROC5
(Hình 22) được trình bày dưới đây.
Hình 21. Vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn ở năm 2050 dưới kịch
bản RCP 2,6 và kịch bản RCP 8,5 của mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu BCC-
69
CSM1-1
Hình 22. Vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn ở năm 2050 dưới kịch
bản RCP 2,6 và kịch bản RCP 8,5 của mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu MIROC5
Mặc dù các mô hình dự báo về vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn có
phần khác nhau về vị trí cụ thể, nhưng có hai xu hướng rõ rệt cho phân bố trong
tương lai của loài Thỏ vằn Trường Sơn. Xu hướng thứ nhất là, phân bố tiềm năng
trong tương lai của Thỏ vằn Trường Sơn sẽ suy giảm đáng kể so với phân bố tiềm
năng hiện nay. Ví dụ, tổng diện tích phù hợp với loài sẽ giảm ở mức 52,5% ở mô
hình BCC-CSM1-1 với kịch bản RCP 2,6, hoặc ở mức 40,3% ở mô hình BCC-
CSM1-1 với kịch bản RCP 8,5, hoặc ở mức 48,1% ở mô hình MIROC5 với kịch
bản RCP 2,6, hoặc ở mức 66,7% ở mô hình MIROC5 với kịch bản RCP 8,5 (Bảng
3). Xu hướng thứ hai, và cũng có tương đồng với xu hướng thứ nhất, là vùng phân
bố của loài Thỏ vằn Trường Sơn sẽ có xu hướng tập trung hơn vào những khu vực
có chạy dọc theo biên giới Việt Nam – Lào (Hình 23, 24). Các quần thể của N.
timminsi ở các khu vực đi xa hơn về phía nội địa Việt Nam hoặc Lào, ví dụ như các
70
khu gần phía Đông của vùng từ Nghệ An đến Quảng Bình, sẽ có nguy cơ bị chia cắt
và phân mảnh lớn. Vì thế, một khu vực cảnh quan tương đối liền mạch và lớn chạy
theo dãy Trường Sơn, từ Vườn quốc gia Vũ Quang, đến khu bảo tồn Nakai Nam
Theun, đến Phong Nha Kẻ Bàng, Hin Nam No, Xe Sap, hai khu bảo tồn Sao la, và
Sông Thanh, sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và bảo vệ các quần thể
của loài Thỏ vằn Trường Sơn trong tương lai.
Bảng 3. Diện tích vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn trong các kịch
bản biến đổi khí hậu khác nhau
Vùng phân bố theo kịch bản Diện tích (km2)
Vùng phân bố tiềm năng hiện tại 38.356
Vùng phân bố theo kịch bản RCP 2,6 của MIROC5 19.844
Vùng phân bố theo kịch bản RCP 8,5 của MIROC5 12.714
Vùng phân bố theo kịch bản RCP 2,6 của BCC-CSM1-1 18.187
71
Vùng phân bố theo kịch bản RCP 8,5 của BCC-CSM1-1 22.877
Hình 23. Vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn ở năm 2050 dưới kịch
bản RCP 8,5 của mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu BCC-CSM1-1 và phân vùng độ
72
cao ở Việt Nam và Lào
Hình 24. Vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn ở năm 2050 dưới kịch
bản RCP 8,5 của mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu MIROC5 và phân vùng độ cao
73
ở Việt Nam và Lào
3.4. Một số biện pháp bảo tồn cho loài Thỏ vằn Trường Sơn
3.4.1. Các yếu tố chính tác động đến quần thể Thỏ vằn Trường Sơn
Yếu tố chính tác động trực tiếp tới loài quần thể Thỏ vằn Trường Sơn nói riêng, và
đa số các loài động vật hoang dã ở Việt Nam nói chung, là tình trạng săn bắn trái
phép. Ghi nhận từ các nghiên cứu trước đây, cũng như thông tin từ quá trình phỏng
vấn và khảo sát thực địa cho thấy, loài Thỏ vằn Trường Sơn là một trong những loài
hay bị săn bắn ở nhiều khu vực. Do là loài thú di chuyển hoàn toàn trên mặt đất,
Thỏ vằn Trường Sơn khá dễ bị mắc các loại bẫy phanh và bẫy sập, vốn là các loại
bẫy rất phổ biến ở nhiều cánh rừng Việt Nam. Đây cũng có thể là lý do giải thích
một phần việc ghi nhận và điều tra Thỏ vằn Trường Sơn tương đối dễ dàng ở những
khu bảo tồn có chương trình tuần tra bảo vệ và phá bẫy phanh thường xuyên, ví dụ
như Vườn quốc gia Pù Mát hay hai khu bảo tồn Sao la; và việc ghi nhận Thỏ vằn
Trường Sơn tương đối khó khăn ở những khu bảo tồn có vị trí khá tương đồng,
nhưng chưa có hỗ trợ đủ lớn cho chương trình tuần tra bảo vệ, ví dụ như khu bảo
tồn Bắc Hướng Hóa hay khu bảo tồn Phong Điền.
Thông tin về mục đích sử dụng và tiêu thụ đối với các cá thể Thỏ vằn Trường Sơn
bị săn bắn không nhiều, nhưng chủ yếu là để phục vụ nhu cầu thực phẩm tại chỗ.
Kết quả phỏng vấn người dân địa phương ở nhiều khu vực khác nhau đều không
cho thấy có trường hợp thương lái đi thu mua tập trung vào Thỏ vằn. Tuy nhiên,
trường hợp bắt Thỏ vằn Trường Sơn để làm vật nuôi cảnh trong nhà cũng đã được
ghi nhận.
Yếu tố chính tác động gián tiếp tới loài quần thể Thỏ vằn Trường Sơn nói riêng, và
đa số các loài động vật hoang dã ở Việt Nam nói chung, là tình trạng phá hủy sinh
cảnh. Từ các kết quả của các nghiên cứu trước, và các kết quả thực địa cho thấy Thỏ
vằn Trường Sơn không thực sự bị giới hạn phân bố ở các cánh rừng có độ cao tương
đối lớn. Nguyên nhân chính cho việc ít có ghi nhận Thỏ vằn ở các khu rừng thường
74
xanh ẩm ở độ cao thấp có thể là do những khu vực này dễ bị tiếp cận bởi người dân
và đã bị chuyển đổi sang thành đất nương rẫy, đất nông nghiệp, hoặc đất thổ cư từ
khá lâu.
3.4.2. Các biện pháp bảo tồn quần thể
Như đã trình bày ở trên, do việc khó bị phát hiện và ít có nghiên cứu từ trước đến
giờ tập trung cho loài Thỏ vằn Trường Sơn, nên trong một thời gian dài kể từ khi
phát hiện, các thông tin liên quan đến hiện trạng quần thể và tình trạng bảo tồn của
loài tương đối thiếu thốn. Vì thế, trong danh sách đỏ IUCN N. timminsi thường bị
xếp loại Data Deficiency – Thiếu dữ liệu. Đến đầu năm nay, với các thông tin thu
thập từ nhiều nghiên cứu khác nhau, loài đã được chuyển sang mức Endangered –
Nguy cấp. Điều này thể hiện sự công nhận và đồng ý của giới khoa học về tình
trạng các quần thể của loài bị đe dọa và suy giảm bởi hoạt động săn bắn trái phép và
phá hủy sinh cảnh. Trong sách Đỏ Việt Nam, loài Thỏ vằn Trường Sơn đã được liệt
kê và được phân hạng ở mức EN, tức là tương đương với mức của IUCN. Tuy
nhiên, các địa điểm phân bố của loài trong sách Đỏ mới chỉ liệt kê ba địa điểm là Pù
Mát, Hương Sơn, và Phong Nha. Vì thế, biện pháp đầu tiên, theo quan điểm của học
viên, để giúp bảo vệ các quần thể Thỏ vằn Trường Sơn ở Việt Nam, là trong các lần
cập nhật sách Đỏ Việt Nam tiếp theo, các khu vực phân bố mới của N. timminsi,
như đã được liệt kê trong luận văn này, có thể nên được cập nhật và bổ sung, để tạo
cơ sở cho các hoạt động bảo tồn Thỏ vằn ở địa phương.
Thứ hai là, do hoạt động săn bắn, đặc biệt là bằng đặt bẫy phanh, đang là mối đe
dọa trực tiếp chính đến loài Thỏ vằn Trường Sơn, nên việc tăng cường các hoạt
động tuần tra, bảo vệ, phá bẫy của lực lượng kiểm lâm ở các vườn quốc gia, khu
bảo tồn là hoạt động hết sức cần thiết. Tất nhiên, do nguồn lực có hạn, nên ở nhiều
nơi các công tác này chưa được thực hiện nghiêm túc. Vì thế, mô hình sử dụng các
đội tuần rừng cộng đồng (Community Forest Patrol Team), vốn đã và đang được
tiến hành ở nhiều nơi, ví dụ như đội tuần rừng ở khu bảo tồn Vân Long do Trung
tâm Cứu hộ Linh trưởng Cúc Phương giúp đỡ để bảo vệ cho loài Vooc mông trắng,
75
hoặc đội tuần rừng ở Vườn quốc gia Pù Mát do tổ chức Save Vietnam’s Wildlife và
Fauna & Flora Internatinal Việt Nam giúp đỡ để bảo vệ cho các loài thú ăn thịt nhỏ
và linh trưởng, có thể là một mô hình tốt nên được học hỏi và nhân rộng. Việc sử
dụng người địa phương cho các đội tuần rừng vừa giúp tận dụng được kiến thức bản
địa của người dân, vốn là những người gắn bó với rừng và rất thông thuộc cánh
rừng gần nơi mình sinh sống, vừa giúp đóng góp một phần sinh kế cho người dân và
giảm sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên rừng của người dân. Tất nhiên, nguồn
tài chính bền vững cho việc duy trì lâu dài các đội tuần rừng này vẫn là vấn đề lớn
cần giải quyết. Ngoài ra, lực lượng kiểm lâm hoặc hệ thống các khu bảo tồn của
Việt Nam có thể sử dụng số lượng ngày tuần tra/chiều dài tuyến tuần tra, và số
lượng bẫy phá trong năm để đóng góp như một mục tiêu/nhiệm vụ cần hoàn thành
trong năm để tăng cường hiệu quả của công tác tuần tra – bảo vệ rừng.
3.4.3. Các biện pháp bảo vệ sinh cảnh
Việc phá hủy sinh cảnh là nguyên nhân quan trọng thứ hai gây ảnh hưởng đến loài
Thỏ vằn Trường Sơn. Hoạt động phá hủy sinh cảnh không chỉ diễn ra ở các cánh
rừng ngoài khu bảo tồn, mà còn diễn ra ngay trong phạm vi quản lý của các khu bảo
tồn. Các hoạt động gây ảnh hưởng xấu đến sinh cảnh chủ yếu ở vùng phân bố chính
của N. timminsi bao gồm khai thác gỗ, khai thác lâm sản ngoài gỗ, phát nương làm
rẫy, khai thác quặng – mỏ. Vì thế, các chương trình và mô hình tạo và cải thiện sinh
kế cho người dân để giảm thiểu việc phụ thuộc vào rừng cho cuộc sống hàng ngày
là rất cần thiết. Biện pháp đầu tiên, ở mức toàn quốc, có thể là tăng mức chi trả dịch
vụ môi trường rừng đối với người dân so với mức trung bình hiện nay, để tạo thêm
động lực bảo vệ rừng cho người dân, do thực tế cho thấy hiện mức chi trả trung
bình hằng năm là tương đối thấp. Biện pháp thứ hai, ở mức các khu bảo tồn, có thể
là các hoạt động giúp giảm khai thác tài nguyên rừng dựa vào đặc thù của địa
phương, ví dụ như mô hình hỗ trợ trồng cỏ nuôi bò và hỗ trợ bếp giữ nhiệt để giảm
thiểu củi đun đã được thực hiện thí điểm ở khu bảo tồn Vượn Cao Vít Trùng Khánh,
76
hoặc hỗ trợ nuôi ong gần nhà để lấy mật ở Vườn quốc gia Vũ Quang.
3.4.4. Các biện pháp tuyên truyền nâng cao năng lực và nhận thức
Việc tuyên truyền nâng cao năng lực và nhận thức cho công tác bảo tồn loài Thỏ
vằn Trường Sơn có thể được phân chia cho hai nhóm đối tượng khác nhau, một là
những người liên quan trực tiếp đến công tác bảo tồn, bảo vệ rừng, như là các cán
bộ kiểm lâm hoặc tuần rừng địa phương; và hai là những người dân ở các cộng
đồng địa phương. Đối với các cán bộ kiểm lâm và tuần rừng địa phương, công tác
tuyên truyền nâng cao năng lực và nhận thức có thể tập trung vào việc giới thiệu về
loài Thỏ vằn Trường Sơn, đặc điểm nhận dạng, các mối đe dọa chính, biện pháp
cứu hộ khi gặp cá thể Thỏ vằn bị đánh bẫy/bị thương ngoài tự nhiên, các công cụ có
thể sử dụng để giúp theo dõi các quần thể Thỏ vằn tại địa phương, ví dụ như
SMART. Đối với người dân địa phương, công tác tuyên truyền nâng cao năng lực
và nhận thức có thể tập trung vào việc giới thiệu về giá trị đa dạng sinh học của địa
phương và lợi ích của việc bảo tồn, bảo vệ đa dạng sinh học, và các biện pháp giúp
người dân giảm khai thác các nguồn tài nguyên từ rừng.
3.5. Thảo luận
Dựa theo kết quả mô hình hóa, có thể thấy Thỏ vằn Trường Sơn sinh sống ở các
khu vực dọc theo biên giới Việt Nam – Lào. Vùng phân bố tiềm năng hiện tại của
Thỏ vằn bao gồm các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên
Huế, và Quảng Nam của Việt Nam, và các tỉnh Xiengkhoang, Bolikhamxai,
Khammouan, Savannakhet, Saravan, và Sekong của Lào. Từ cả kết quả thực địa và
kết quả mô hình, loài Thỏ vằn Trường Sơn phân bố ở cả hai phía của đèo Hải Vân,
vốn là nơi đóng vai trò quan trọng trong phân chia khí hậu giữa phía Bắc và phía
Nam của Việt Nam, nên có thể thấy loài N. timminsi có khả năng thích nghi tương
đối với những điều kiện khí hậu khác nhau, và không có yêu cầu quá đặc biệt về
mặt khí hậu cho vùng phân bố của loài. Ngoài ra, do việc ghi nhận được loài ở
77
nhiều độ cao khác nhau, bao gồm nhiều điểm có độ cao thấp (nhỏ hơn 600 m),
chúng ta cũng có thể giả sử rằng loài Thỏ vằn Trường Sơn không bị quá phụ thuộc
vào nhiệt độ (vốn có tương quan tương đối với độ cao) cho việc phân bố của loài
(Hình 25).
Hình 25. Vùng phân bố tiềm năng hiện nay của Thỏ vằn Trường Sơn so với các
vùng có độ cao khác nhau
Về giới hạn phân bố cụ thể của loài Thỏ vằn Trường Sơn ở hai phần phía Bắc và
78
phía Nam của vùng phân bố, khu bảo tồn gần nhất đối với giới hạn phân bố phía
Bắc của loài là khu bảo tồn Xuân Liên, Thanh Hóa. Khu bảo tồn Xuân Liên có thể
coi là một trong những khu bảo tồn có giá trị đa dạng sinh học tương đối cao của
Việt Nam, có công tác tuần tra bảo vệ rừng tương đối tốt, và là nơi phát hiện ra
nhiều loài mới cho khoa học. Tuy nhiên, kết quả điều tra từ các nghiên cứu trước,
bằng cả phương pháp điều tra truyền thông và phương pháp phân tích di truyền
cũng đều chưa phát hiện loài Thỏ vằn ở đây. Kết quả điều tra thực địa của học viên
ở Vườn quốc gia Bến En, vốn nằm ở phía Bắc của khu bảo tồn Xuân Liên, cũng cho
kết quả tương tự. Khu bảo tồn có vị trí gần tương đương với Xuân Liên ở Lào là
khu bảo tồn Nam Xam, tỉnh Houaphanh cũng có kết quả tương tự. Vì thế, có thể
tạm coi là ranh giới phân bố phía Bắc của loài Thỏ vằn Trường Sơn chỉ đến tỉnh
Nghệ An, Việt Nam, và vị trí tương đương là tỉnh Xiangkhoang, Lào.
Khu bảo tồn gần nhất đối với giới hạn phân bố phía Nam của Thỏ vằn Trường Sơn
là khu bảo tồn Ngọc Linh, Kon Tum. Khu bảo tồn Ngọc Linh cũng có thể được coi
là một trong những khu bảo tồn quan trọng nhất của khu vực với nhiều loài đặc hữu,
quý hiếm. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu được thực hiện trước đây đều không ghi
nhận được loài Thỏ vằn ở khu vực này [2]. Các nghiên cứu thực địa tương tự ở các
khu vực phía Nam của khu bảo tồn Ngọc Linh, bao gồm Vườn quốc gia Chư Mom
Ray và khu vực xung quanh Bidoup – Langbiang đều cho kết quả tương tự. Khu
bảo tồn có vị trí gần tương đương với Ngọc Linh ở Lào là khu bảo tồn Dong
Ampham, thuộc môt phần tỉnh Xekong, cũng cho kết quả tương tự. Vì thể, có thể
tạm kết luận là ranh giới phân bố phía Nam của loài Thỏ vằn Trường Sơn chỉ đến
tỉnh Quảng Nam, và vị trí tương đương là tỉnh Xekong, Lào.
Về giới hạn phân bố chung của loài, khi so sánh đặc điểm hình thái và di truyền của
Thỏ vằn Trường Sơn với các nhóm Thỏ khác, những nghiên cứu trước đây đã kết
luận Thỏ vằn Trường Sơn là loài thỏ tương đối cổ, có mức độ tiến hóa không đáng
kể trong ít nhất 8 triệu năm qua. Một số nhà khoa học đã đặt ra giả thuyết, dựa trên
các sinh cảnh tìm thấy cả hai loài Thỏ vằn, gồm cả Thỏ vằn Trường Sơn và Thỏ vằn
79
Sumatra, rằng Thỏ vằn Trường Sơn là loài ưa các khu vực rừng thường xanh ẩm
quanh năm. Hiện tại, phân bố chủ yếu của loại sinh cảnh này là dọc theo dãy
Trường Sơn về phía Việt Nam, nghĩa là các vùng đi sâu vào phía Tây của Lào sẽ ít
có khả năng có loài N. timminsi. Sinh cảnh này cũng được coi là sinh cảnh ưa thích
của một số loài thú quý hiếm đặc trưng của khu vực dãy Trường Sơn, ví dụ như loài
Sao la. Tuy nhiên, cũng như Sao la, loài Thỏ vằn Trường Sơn có phân bố gắn với
dãy Trường Sơn. Điều này có thể tạm giải thích bằng giả thuyết, ở giai đoạn
Pliocene và Pleistocene, tức khoảng 8 triệu năm trước – thời gian phân tách hai loài
Thỏ vằn, khu vực Đông Nam Á thường phải chịu những thay đổi khí hậu rất thường
xuyên giữa các kỷ Băng Hà và thời kỳ gian băng. Vì thế, thảm phủ thực vật cũng bị
ảnh hưởng bởi khí hậu, và thường xuyên thay đổi theo điều kiện khí hậu. Ở kỷ Băng
Hà, khí hậu chủ đạo sẽ là lạnh và khô hơn, nên các cánh rừng thường xanh ẩm bị
thu hẹp diện tích, và các loại rừng khô và đồng cỏ sẽ trở nên rất phổ biến. Ngược
lại, ở thời kỳ gian băng, khí hậu chủ đạo sẽ là nóng và ẩm hơn, nên các cánh rừng
thường xanh ẩm sẽ mở rộng về diện tích. Khí hậu ở thời điểm hiện đại của chúng ta
là ở thời kỳ gian băng, và khoảng 100.000 năm trước khu vực Đông Nam Á đang ở
trong kỷ Băng Hà. Vì thế, diện tích các khu rừng thường xanh ẩm ở Đông Nam Á
trong giai đoạn 100.000 năm trước có khả năng lớn là nhỏ hơn diện tích thời điểm
hiện đại khá nhiều [76, 77]. Do vậy, có thể giả thuyết rằng, phân bố phụ thuộc nhiều
vào dãy Trường Sơn của loài Thỏ vằn Trường Sơn nói riêng, và nhiều loài đặc hữu
khác của khu vực nói chung, là phản ánh một phần phân bố của các cánh rừng
thường xanh ẩm trong các kỷ Băng Hà, và vì thế cũng khẳng định một phần cho
quan điểm rằng dãy Trường Sơn là nơi trú ẩn cho nhiều loài sinh vật cổ, đặc hữu, ví
dụ như Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Khướu mỏ dài (Jabouilleia danjoui), và
Trĩ sao (Rheinardia ocellata) [76]. Các khu rừng thường xanh ẩm ở dãy Trường
Sơn thường được tìm thấy dọc theo biên giới Việt Nam – Lào, và phổ biến ở bên
sườn quay về phía Việt Nam hơn là bên sườn phía Lào. Ở Lào, các cánh rừng này
thường phân bố ở gần các rãnh cắt và thung lũng chạy cắt ngang dãy Trường Sơn,
và những rãnh cắt này tạo điều kiện cho gió mùa từ phía Việt Nam xâm nhập đưa
80
ẩm vào. Ở các khu vực khác, gió mùa từ phía Việt Nam thường bị chặn lại bởi dãy
Trường Sơn, nên lượng ẩm đưa vào sâu trong nội địa Lào bị giảm đáng kể [76].
Tuy nhiên, vì thế, ở đây học viên đặt ra câu hỏi là với giả thuyết Thỏ vằn Trường
Sơn là loài ưa các khu vực rừng thường xanh ẩm quanh năm, thì thực tế Thỏ vằn có
phân bố theo các khu vực rừng thường xanh ẩm quanh năm dọc theo dãy Trường
Sơn hay không. Dựa trên kết quả thực địa và kết quả mô hình của học viên, cũng
như kết quả từ những nghiên cứu thực địa của các tác giả khác, học viên xin tạm
đưa ra ý kiến cá nhân đồng ý với giả thuyết này. Hai lý do chính bao gồm:
- Ở Lào, cả kết quả thực địa và kết quả mô hình đều cho thấy Thỏ vằn không
có phân bố ở các khoảng rừng rất rộng lớn, ít bị tác động, nhưng là rừng
thường xanh khô. Hai ví dụ tiêu biểu là hai khu vực, một ở phía Tây khu bảo
tồn Nakai Nam Theun, và một là khu vực Trung và phía Tây khu bảo tồn Xe
Sap. Các dông núi cao dọc theo biên giới Việt Nam – Lào có thể đã khiến khí
hậu phần tiến sâu vào Lào khô hơn hẳn.
- Các loài khác, được coi là đặc hữu của khu vực dãy Trường Sơn, ví dụ như
Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Khướu mỏ dài (Jabouilleia danjoui), cũng
thường được tìm thấy ở các khu vực rừng thường xanh ẩm [76].
Đồng thời với việc bị chi phối phân bố bởi các cánh rừng ẩm thường xanh của dãy
Trường Sơn, học viên cũng tạm đặt ra dấu hỏi đối với ảnh hưởng của các ranh giới
tự nhiên khác đối với phân bố của Thỏ vằn. Ở Việt Nam, đã có nhiều loài có quan
hệ tiến hóa và đặc điểm hình thái tương đối gần gũi, nhưng bị chia cắt bởi các hệ
thống sông lớn. Một ví dụ điển hình là hai loài Vượn đen tuyền Tây Bắc (Nomascus
concolor) và Vượn đen tuyền Đông Bắc (Nomascus nasutus), được coi là bị phân
tách bởi hệ thống sông Hồng [69]. Ở loài Thỏ vằn Trường Sơn, ở trên giới hạn phân
bố phía Bắc của loài là hệ thống sông Mã, và ở dưới giới hạn phân bố phía Nam của
loài là hệ thống sông Sê San và sông Ba (Hình 26). Ở đây, hoàn toàn không thể loại
bỏ ảnh hưởng của các yếu tố khác, ví dụ như, phía Bắc của sông Mã có thể coi là đã
đi vào vùng đồng bằng Bắc Bộ, vốn có những đặc điểm địa hình – địa chất – khí
81
hậu tương đối khác đối với khu vực Trường Sơn, và ở phần hệ thống sông Sê San –
sông Ba đã là khối nâng Kon Tum, là khu vực Tây Nguyên, nên các đặc điểm địa
hình – địa chất – khí hậu cũng sẽ có nhiều điểm khác. Tuy nhiên, học viên vẫn để
giả thuyết về ảnh hưởng, có thể là ảnh hưởng toàn bộ hoặc ảnh hưởng một phần,
của hai hệ thống sông ở hai đầu khu vực phân bố đối với việc hạn chế phân bố của
Thỏ vằn Trường Sơn. Các nghiên cứu sau này có thể làm rõ hơn các đặc điểm địa
chất – địa hình, hoặc các đặc điểm khí hậu – sinh cảnh, là yếu tố quyết định chính
đến đặc điểm phân bố của Thỏ vằn Trường Sơn.
Hình 26. Vị trí tương đối của vùng phân bố tiềm năng hiện tại của Thỏ vằn Trường
Sơn với hệ thống sông Mã ở phía Bắc và hệ thống sông Sê San – sông Ba ở phía
82
Nam
Về độ cao phân bố của loài, các kết quả điều tra trước năm 2010 cho rằng Thỏ vằn
Trường Sơn là loài sống ở độ cao tương đối lớn, phổ biến ở khoảng từ 600 m đến
1.200 m. Tuy nhiên, tập hợp kết quả nghiên cứu thực địa của nhiều người đã cho
thấy Thỏ vằn có thể được ghi nhận ở độ cao từ 198 m – 1,304 m [79]. Việc không
ghi nhận được Thỏ vằn Trường Sơn ở độ cao thấp hơn có thể được giải thích với giả
thuyết rằng các khu vực có độ cao xấp xỉ hoặc cao hơn không đáng kể mực nước
biển dọc theo dãy Trường Sơn ở Việt Nam và Lào thường chịu áp lực săn bắn cao
hơn từ cộng đồng địa phương, cũng như chịu áp lực phá hủy sinh cảnh để chuyển
đổi các diện tích rừng sang thành đất sản xuất và đất ở trong một khoảng thời gian
83
rất dài, dẫn tới hạn chế số lượng các cá thể N. timminsi ở các khu vực này.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Luận văn đã thực hiện việc đi khảo sát thực địa điều tra theo tuyến ở hai khu
bảo tồn là Vườn quốc gia Bến En với tổng cộng 6 đợt điều tra, mỗi đợt kéo
dài 7 ngày, và điều tra ở khu bảo tồn Hin Nam No với tổng cộng 3 đợt điều
tra, mỗi đợt kéo dài 10 ngày. Luận văn đã ghi nhận được loài Thỏ vằn
Trường Sơn trong phạm vi khu bảo tồn Hin Nam No, và có thể coi đây là ghi
nhận có bằng chứng xác thực đầu tiên về sự xuất hiện của loài Thỏ vằn
Trường Sơn ở khu vực khu bảo tồn Hin Nam No.
2. Luận văn đã thực hiện việc đi khảo sát thực địa điều tra theo bẫy ảnh ở hai
khu bảo tồn là khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa với tổng cộng 1.995 ngày hoạt
động của bẫy ảnh, và ở khu bảo tồn Sao la Huế với tổng cộng 16.468 ngày
hoạt động của bẫy ảnh. Luận văn đã ghi nhận được loài Thỏ vằn Trường Sơn
trong phạm vi khu bảo tồn Sao la Huế, và có thể coi đây là ghi nhận có bằng
chứng xác thực đầu tiên về sự xuất hiện của loài Thỏ vằn Trường Sơn ở khu
vực khu bảo tồn Sao la Huế.
3. Kết quả từ bẫy ảnh cho thấy, ở khu bảo tồn Sao la Huế, Thỏ vằn Trường Sơn
được ghi nhận ở 12 vị trí với tổng cộng 145 lần ghi nhận. Về đặc điểm sinh
thái thời gian trong ngày, dựa theo số liệu phân tích có thể thấy rõ Thỏ vằn
Trường Sơn là loài thú chuyên sống về đêm, với tuyệt đại đa số (144/145)
lần ghi lần là từ 18h00 đến 4h00. Ngoài ra, khoảng thời gian từ 23h00 đến
3h00 có thể là thời gian hoạt động thường xuyên nhất của Thỏ vằn, chiếm tới
xấp xỉ 73% tổng số ghi nhận. Về đặc điểm sinh thái về thời gian phân bố
trong năm, có thể thấy rõ là loài Thỏ vằn được ghi nhận chủ yếu trong thời
gian từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, và ít được ghi nhận hơn
trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 10, với tổng số ghi nhận trong giai đoạn
này chỉ chiếm xấp xỉ 18% tổng số ghi nhận.
4. Về đặc điểm sinh thái phân bố theo độ cao, dựa trên kết quả điều tra theo
84
tuyến và điều tra theo bẫy ảnh của học viên, có thể khẳng định rằng khác với
kết luận của một số nghiên cứu trước đây, Thỏ vằn Trường Sơn không quá
phụ thuộc vào các khu vực có độ cao tương đối. Về đặc điểm sinh thái sinh
sản, học viên đặt ra giả thuyết về mùa sinh sản của Thỏ vằn Trường Sơn diễn
ra từ giữa tháng 1 đến giữa tháng 2, trong đó giai đoạn từ giữa đến cuối
tháng 1 là giai đoạn bắt cặp, giao phối, và mang thai, và giai đoạn sau là giai
đoạn mang thai và sinh con non.
5. Kết quả từ mô hình hóa phân bố loài Thỏ vằn Trường Sơn cho thấy, các mô
hình Maxent được thực hiện để xây dựng phân bố cho loài Thỏ vằn Trường
Sơn đều có các chỉ số đánh giá mô hình ở mức tốt, thể hiện khả năng nhất
định trong việc dự đoán vùng phân bố của Thỏ vằn. Dựa trên kết quả mô
hình, vùng phân bố tiềm năng hiện tại của Thỏ vằn Trường Sơn đã được đề
xuất, đặc biệt là các khu bảo tồn, vẫn chưa có hoặc ít có xác nhận thực địa
chắc chắn về việc có loài Thỏ vằn sinh sống, nhưng từ kết quả mô hình và
phỏng vấn thì có khả năng cao có quần thể Thỏ vằn Trường Sơn ở đó.
6. Về thay đổi vùng phân bố của Thỏ vằn Trường Sơn dưới tác động của biến
đổi khí hậu trong tương lai, với hai mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu là
BCC-CSM1-1 và MIROC5, kết quả mô hình cho thấy có hai xu hướng rõ rệt
cho phân bố trong tương lai của loài Thỏ vằn. Một là, phân bố tiềm năng
trong tương lai của Thỏ vằn sẽ suy giảm đáng kể so với phân bố tiềm năng
hiện nay. Hai là, và cũng có tương đồng với xu hướng thứ nhất, là vùng phân
bố của loài Thỏ vằn Trường Sơn sẽ có xu hướng tập trung hơn vào những
khu vực có độ cao lớn, đặc biệt là khu vực có độ cao trên 500 m chạy dọc
theo biên giới Việt Nam – Lào.
7. Luận văn đã đề xuất ba nhóm biện pháp chính để giúp tăng cường công tác
bảo tồn cho loài Thỏ vằn Trường Sơn, bao gồm các biện pháp bảo tồn quần
thể cho Thỏ vằn Trường Sơn, các biện pháp bảo vệ sinh cảnh cho Thỏ vằn
85
Trường Sơn, và các biện pháp tuyên truyền nâng cao năng lực và nhận thức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Tuấn Anh, Lê Đức Minh, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Ngọc Tuấn,
Robert Timmins (2017), " Sử dụng bẫy ảnh để điều tra đa dạng sinh học tại
Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị ", Tạp chí khoa học
Đại học Quốc gia Hà Nội: Các Khoa học Trái Đất và Môi trường, 33(1S), tr.
92–99.
2. Phạm Trọng Ảnh, Đặng Tất Thế, Phạm Đức Tiến, Hồ Thị Loan, Hà Văn
Tuế, Nguyễn Trường Sơn (2009), "Đa dạng di truyền và một số đặc điểm
sinh thái, sinh học của Thỏ vằn Trung Bộ (Nesolagus timminsi) ở Việt Nam",
Báo cáo tại Tuyển tập Hội nghị khoa học toàn quốc về sinh thái và tài
nguyên sinh học lần thứ ba, tr. 1174–1179.
3. Lê Xuân Cảnh, Hà Quý Quỳnh, Lê Minh Hạnh, Trần Thanh Tùng (2009),
"Sử dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS) để xây dựng mô hình phân bố loài,
lấy ví dụ loài Sao la (Pseydoryx nghetinhensis) ở Việt Nam", Tạp chí Khoa
học và Công nghệ, 47(2), tr. 29–37.
4. Hoàng Văn Chính, Đậu Bá Thìn, Trần Minh Hợi, Lê Thị Hương (2017), "Đa
dạng các loài thực vật có tinh dầu ở Vườn quốc gia Bến En, Thanh Hóa",
Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ, 33(1S), tr. 49–53.
5. Trần Ngọc Hải, Đẵng Hữu Nghị, Lê Đình Phương, Tống Văn Hoàng (2016),
"Một số đặc điểm lâm học của loài Vù hương (Cinamomum balansae
Lecomte) tại Vườn quốc gia Bến En ", Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm
nghiệp, 6, tr. 176–185.
6. Nguyễn Đắc Mạnh, Nguyễn Xuân Đặng, Nguyễn Xuân Nghĩa (2009), "Giá
trị bảo tồn của khu hệ thú ở khu bảo tồn thiên nhiên Dakrong, tỉnh Quảng
86
Trị”, Tạp chí Sinh học, 31(4), tr. 42–50.
7. Ngô Kim Thái, Khổng Trung, Ngô Viết Huy, Đặng Huy Phương, Nguyễn
Trường Sơn (2013), "Thành phần loài và giá trị bảo tồn của khu hệ thú khu
bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị", Báo cáo tại Tuyển tập
Hội nghị khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh học lần thứ
năm, tr. 687–695.
Tiếng Anh
8. Abramov A.V., Tikhonov A.N., Orlov N.L. (2016), "Recent record of
Annamite striped rabbit Nesolagus timminsi (Mammalia, Leporidae) from
Vietnam", Russian Journal of Theriology, 15(2), pp. 171–174.
9. Aiello-Lammens M.E., Boria R.A., Radosavljevic A., Vilela B., Anderson
R.P. (2015), "spThin: an R package for spatial thinning of species occurrence
records for use in ecological niche models", Ecography, 38(5), pp. 541–545.
10. Angetter L.S., Lötters S., Rödder D. (2011), "Climate niche shift in invasive
species: The case of the brown anole", Biological Journal of the Linnean
Society, 104(4), pp. 943–954.
11. Averianov A.O., Abramov A. V., Tikhonov A.N. (2000), "A New Species of
Nesolagus (Lagomorpha, Leporidae) from Vietnam with Osteological
Description", Contributions from the Zoological Institute, Russian Academy
of Sciences, 3, pp. 1–22.
12. Bett N.N., Blair M.E., Sterling E.J. (2012), "Ecological Niche Conservatism
in Doucs (Genus Pygathrix)", International Journal of Primatology, 33(4),
pp. 972–988.
13. Bleisch W. V., Dang N.X., Rawson B.M., Ha N.M., Tuoc D., Dat L.T.,
Nghia N.X., Tuan N.N., Dung L.V. (2012), Biodiversity survey of mammal
and gibbon and loris in and around the Phong Nha – Ke Bang National
Park, Fauna & Flora International.
87
14. Brook S.M., van Coeverden de Groot P., Scott C., Boag P., Long B., et al.
(2012), "Integrated and novel survey methods for rhinoceros populations
confirm the extinction of Rhinoceros sondaicus annamiticus from Vietnam",
Biological Conservation, 155, pp. 59–67.
15. Can D.N., Abramov A. V., Tikhonov A.N., Averianov A.O. (2001),
"Annamite striped rabbit Nesolagus timminsi in Vietnam", Acta
Theriologica, 46(4), pp. 437–440.
16. Cheyne S.M., Macdonald D.W. (2011), "Wild felid diversity and activity
patterns in Sabangau peat-swamp forest, Indonesian Borneo", Oryx, 45(1),
pp. 119–124.
17. Clements T., Gilbert M., Rainey H.J., Cuthbert R., Eames J.C., et al. (2013),
"Vultures in Cambodia: Population, threats and conservation", Bird
Conservation International, 23(1), pp. 7–24.
18. Coll M., Piroddi C., Steenbeek J., Kaschner K., Lasram F.B.R., et al. (2010),
"The biodiversity of the Mediterranean Sea: Estimates, patterns, and threats",
PLoS ONE, 5(8), pp. 1–36.
19. Connell A., Nichols J., Karanth K. (2011), Camera Traps in Animal Ecology
Methods and Analyses, Springer.
20. Cooper D.M., Dugmore A.J., Gittings B.M., Scharf A.K., Wilting A.,
Kitchener A.C. (2016), "Predicted Pleistocene-Holocene range shifts of the
tiger (Panthera tigris)", Diversity and Distributions, 22(11), pp. 1199–1211.
21. Cord A., Rodder D. (2011), "Inclusion of habitat availability in species
distribution models through multi-temporal remote-sensing data?",
Ecological Applications, 21(8), pp. 3285–3298.
22. Coudrat C.N.Z., Anne-Isola Nekaris K. (2013), "Modelling niche
differentiation of co-existing, elusive and morphologically similar species: A
case study of four macaque species in Nakai-Nam Theun National Protected
Area, Laos", Animals, 3(1), pp. 45–62.
23. Coudrat C.N.Z., Duckworth J.W., Timmins R.J. (2012), "Distribution and
88
Conservation Status of the Red-Shanked Douc (Pygathrix nemaeus) in Lao
PDR: An Update", American Journal of Primatology, 74(10), pp. 874–889.
24. Coudrat C.N.Z., Rogers L.D., Nekaris K.A.I. (2011), "Abundance of
primates reveals Samkos Wildlife Sanctuary, Cardamom Mountains,
Cambodia as a priority area for conservation", Oryx, 45(03), pp. 427–434.
25. Das N., Nekaris K.A.I., Biswas J., Das J., Bhattacharjee P.C. (2015),
"Persistence and protection of the Vulnerable Bengal slow loris Nycticebus
bengalensis in Assam and Arunachal Pradesh, north-east India", Oryx, 49(1),
pp. 127–132.
26. Duckworth J., Boonratana R., Robichaud W.G., Timmins R.J. (2010), "A
Review of François’ Leaf Monkey Trachypithecus francoisi (sensu lato) in
Lao PDR", Primate Conservation, 25(25), pp. 61–79.
27. Duckworth J.W., Hallam C.D., Phimmachak S., Sivongxay N., Stuart B.L.,
Vongsa O. (2010), A conservation reconnaissance survey of north-east
Vilabouli district, Savannakhet province, Lao PDR, Wildlife Conservation
Society, Vientiane.
28. Elith J., Graham C.H. (2009), "Do they? How do they? WHY do they differ?
on finding reasons for differing performances of species distribution
models", Ecography, 32(1), pp. 66–77.
29. Elith J., Graham C.H., Anderson R.P., Dudík M., Ferrier S., et al. (2006),
"Novel methods improve prediction of species’ distributions from occurrence
data", Ecography, 29(2), pp. 129–151.
30. Elith J., Kearney M., Phillips S. (2010), "The art of modelling range-shifting
species", Methods in Ecology and Evolution, 1(4), pp. 330–342.
31. Elith J., Phillips S.J., Hastie T., Dudík M., Chee Y.E., Yates C.J. (2011), "A
statistical explanation of MaxEnt for ecologists", Diversity and Distributions,
17(1), pp. 43–57.
32. Galante P.J., Alade B., Muscarella R., Jansa S.A., Goodman S.M., Anderson
R.P. (2017), "The challenge of modeling niches and distributions for data-
89
poor species: a comprehensive approach to model complexity", Ecography,
41(5), pp. 726–736.
33. Giao P.M., Tuoc D., Dung V. V., Wikramanayake E.D., Amato G., et al.
(1998), "Description of Muntiacus truongsonensis, a new species of muntjac
(Artiodactyla: Muntiacidae) from Central Vietnam, and implications for
conservation", Animal Conservation, 1(1), pp. 61–68.
34. Gompper M.E., Kays R.W., Ray J.C., Lapoint S.D., Bogan D.A., Cryan J.R.
(2006), "A Comparison of Noninvasive Techniques to Survey Carnivore
Communities in Northeastern North America", Wildlife Society Bulletin,
34(4), pp. 1142–1151.
35. Gotelli N.J., Stanton-Geddes J. (2015), "Climate change, genetic markers
and species distribution modelling", Journal of Biogeography, 42(9), pp.
1577–1585.
36. Gray T.N.E., Hughes A.C., Laurance W.F., Long B., Lynam A.J., et al.
(2018), "The wildlife snaring crisis: an insidious and pervasive threat to
biodiversity in Southeast Asia", Biodiversity and Conservation, 27(4), pp.
1031–1037.
37. Gray T.N.E., Thongsamouth K., Tilker A. (2014), "Recent camera-trap
records of Owston ’ s Civet Chrotogale owstoni and other small carnivores
from Xe Sap National Protected Area , southern Lao PDR", Small Carnivore
Conservation, 51, pp. 29–33.
38. Hai N.N, Tuan L.Q., Truong N.Q., Minh L.D., van Schingen M., Ziegler T.
(2018), "First record of the Cat Ba tiger gecko, Goniurosaurus catbensis
from Ha Long Bay, Quang Ninh provice: Micro habitat selection, potential
distribution and threat evaluation", Amphibian and Reptile Conservation,
13(2), pp. 1–13.
39. Hearn A.J., Ross J., Bernard H., Bakar S.A., Hunter L.T.B., Macdonald
D.W. (2016), "The first estimates of marbled cat Pardofelis marmorata
population density from bornean primary and selectively logged forest",
90
PLoS ONE, 11(3), pp. 1–10.
40. Hijmans R.J., Cameron S.E., Parra J.L., Jones P.G., Jarvis A. (2005), "Very
high resolution interpolated climate surfaces for global land areas",
International Journal of Climatology, 25(15), pp. 1965–1978.
41. Hin Namno National Protected Area (2010), Hin Namno National Protected
Area Co-Management Plan, Department of Forestry, Division of Forest
Resources Conservation.
42. Hines E., Adulyanukosol K., Duffus D., Dearden P. (2005), "Community
perspectives and conservation needs for dugongs (Dugong dugon) along the
andaman coast of Thailand", Environmental Management, 36(5), pp. 654–
664.
43. Hung L.M., Tien P.D., Tordoff A.W., Dung N.D. (2002), A Rapid Field
Survey of Le Thuy and Quang Ninh Districts , Quang Binh Province ,
Vietnam A Rapid Field Survey of Le Thuy and Quang Ninh Districts , Quang
Binh Province, Vietnam, BirdLife International Vietnam Programme.
44. Ihlow F., Dambach J., Engler J.O., Flecks M., Hartmann T., et al. (2012),
"On the brink of extinction? How climate change may affect global
chelonian species richness and distribution", Global Change Biology, 18(5),
pp. 1520–1530.
45. Johnson A., Johnston J. (2007), Biodiversity Monitoring And Enforcement
Project In The Nam Theun 2 Watershed, Wildlife Conservation Society,
Vientiane.
46. Johnson A., Vongkhamheng C., Saithongdam T. (2009), "The diversity,
status and conservation of small carnivores in a montane tropical forest in
northern Laos", Oryx, 43(4), pp. 626–633.
47. Karanth K.U. (1995), "Estimating tiger Panthera tigris populations from
camera-trap data using capture-recapture models", Biological Conservation,
71(3), pp. 333–338.
48. Kass J.M., Vilela B., Aiello-Lammens M.E., Muscarella R., Merow C.,
91
Anderson R.P. (2018), "Wallace: A flexible platform for reproducible
modeling of species niches and distributions built for community expansion",
Methods in Ecology and Evolution, 2018, pp. 1–6.
49. Kawanishi K., Sunquist M.E. (2004), "Conservation status of tigers in a
primary rainforest of Peninsular Malaysia", Biological Conservation, 120(3),
pp. 333–348.
50. Kelly M.J., Holub E.L. (2008), "Camera Trapping of Carnivores: Trap
Success Among Camera Types and Across Species, and Habitat Selection by
Species, on Salt Pond Mountain, Giles County, Virginia", Northeastern
Naturalist, 15(2), pp. 249–262.
51. Khuc Q.V., Tran B.Q., Meyfroidt P., Paschke M.W. (2018), "Drivers of
deforestation and forest degradation in Vietnam: An exploratory analysis at
the national level", Forest Policy and Economics, 90(2018), pp. 128–141.
52. Khwaja H., Buchan C., Wearn O.R., Bahaa-el-din L., Bantlin D., et
al.(2019), "Pangolins in global camera trap data: Implications for ecological
monitoring", Global Ecology and Conservation, 20(2019), pp. 1–14.
53. Le M., Nguyen T. V., Duong H.T., Nguyen H.M., Dinh L.D., et al. (2014),
"Discovery of the Roosevelt’s Barking Deer (Muntiacus rooseveltorum) in
Vietnam", Conservation Genetics, 15(4), pp. 993–199.
54. Liu C., White M., Newell G. (2013), "Selecting thresholds for the prediction
of species occurrence with presence-only data", Journal of Biogeography,
40(4), pp. 778–789.
55. MacKenzie D., Nichols J., Royle A., Pollock K., Bailey L., Hines J. (2006),
Occupancy Estimation and Modeling: Inferring patterns and dynamics of
species occurrence, Academic Press.
56. Mahood S., Hung T. Van. (2008), The Biodiversity of Bac Huong Hoa
Nature Reserve , Quang Tri Province , Vietnam, BirdLife International
Vietnam Programme.
57. Mathai J., Brodie J., Giordano A., Alfred R., Belant J.L., et al. (2016),
92
"Predicted distribution of Hose’s civet Diplogale hosei (Mammalia:
Carnivora: Viverridae) on Borneo", Raffles Bulletin of Zoology, 33, pp. 118–
125.
58. McCarthy J.L., Fuller T.K., McCarthy K.P., Wibisono H.T., Livolsi M.C.
(2012), "Using camera trap photos and direct sightings to identify possible
refugia for the Vulnerable Sumatran striped rabbit Nesolagus netscheri",
Oryx, 46(03), pp. 438–441.
59. Muscarella R., Galante P.J., Soley-Guardia M., Boria R.A., Kass J.M., et al.
(2014), "ENMeval: An R package for conducting spatially independent
evaluations and estimating optimal model complexity for Maxent ecological
niche models", Methods in Ecology and Evolution, 5(11), pp. 1198–1205.
60. Nekaris K.A.I., Blackham G. V., Nijman V. (2008), "Conservation
implications of low encounter rates of five nocturnal primate species
(Nycticebus spp. ) in Asia", Biodiversity and Conservation, 17(4), pp. 733–
747.
61. Nguyen T.Q., Ngo H.N., Pham C.T., Van H.N., Ngo C.D., et al. (2018),
"First population assessment of the asian water dragon (Physignathus
cocincinus Cuvier, 1829) in Thua Thien Hue Province,Vietnam", Nature
Conservation, 26, pp. 1–14.
62. Niedballa J., Sollmann R., Courtiol A., Wilting A. (2016), "camtrapR : an R
package for efficient camera trap data management", Methods in Ecology
and Evolution, 7(12), pp. 1457–1462.
63. Orr M.C., Koch J.B., Griswold T.L., Pitts J.P. (2014), "Taxonomic utility of
niche models in validating species concepts: A case study in Anthophora
(Heliophila) (Hymenoptera: Apidae)", Zootaxa, 3846(3), pp. 411.
64. Pearson R.G., Raxworthy C.J., Nakamura M., Townsend Peterson A. (2007),
"Predicting species distributions from small numbers of occurrence records:
A test case using cryptic geckos in Madagascar", Journal of Biogeography,
34(1), pp. 102–117.
93
65. Phiapalath P. (2009), Distribution, Behavior And Threat Of Red-Shanked
Douc Langur Pygathrix Nemaeus In Hin Namno National Protected Area,
Khammouane Province, Lao PDR, Doctor of Philosophy Dissertation at
Suranaree University of Technology, Thailand.
66. Phillips S.J., Anderson R.P., Dudík M., Schapire R.E., Blair M.E. (2017),
"Opening the black box: an open-source release of Maxent", Ecography,
40(7), pp. 887–893.
67. Phillips S.J., Anderson R.P., Schapire R.E. (2006), "Maximum entropy
modeling of species geographic distributions", Ecological Modelling, 190(3–
4), pp. 231–259.
68. Provincial Agriculture and Forestry Office of Bolikhamxay (2010), Phou
Chom Voy Provincial Protected Area Management Plan 2011 – 2015,
Provincial Conservation Division.
69. Rawson B.M., Insua-Cao P., Ha N.M., Tinh V.N., Duc H.M., et al. (2011),
The Conservation Status of Gibbons in Vietnam, Fauna & Flora International
Conservation International.
70. Rödder D., Lötters S. (2009), "Niche shift versus niche conservatism?
Climatic characteristics of the native and invasive ranges of the
Mediterranean house gecko (Hemidactylus turcicus)", Global Ecology and
Biogeography, 18(6), pp. 674–687.
71. Rödder D., Solé M., Böhme W. (2008), "Predicting the potential
distributions of two alien invasive Housegeckos (Gekkonidae: Hemidactylus
frenatus, Hemidactylus mabouia)", North-Western Journal of Zoology, 4(2),
pp. 236–246.
72. Rovero F., Martin E., Rosa M., Ahumada J.A., Spitale D. (2014),
"Estimating species richness and modelling habitat preferences of tropical
forest mammals from camera trap data", PLoS ONE, 9(7), pp. 1–12.
73. Schaller G.B., Vrba E.S. (1996), "Description of the Giant Muntjac
(Megamuntiacus vuquangensis) in Laos", Journal of Mammalogy, 77(3), pp.
94
675–683.
74. Schnell I.B., Thomsen P.F., Wilkinson N., Rasmussen M., Jensen L.R.D., et
al. (2012), "Screening mammal biodiversity using dna from leeches",
Current Biology, 22(20), pp. 262–263.
75. Schweikhard J., Kasper K., Ebert C.L., Lehmann M., Erbe P., Ziegler T.
(2019), "Investigations into the illegal wildlife trade in central Lao PDR",
TRAFFIC Bulletin, 31(1), pp. 19–25.
76. Sterling E., Hurley M., Le M. (2006), Vietnam: A Natural History, Yale
University Press.
77. Surridge A.K., Timmins R.J., Hewitt G.M., Bell D.J. (1999), "Striped
Rabbits in Southeast Asia", Nature, 400(6746), pp. 726–726.
78. Teddlie C., Yu F. (2007), "Mixed Methods Sampling: A Typology With
Examples", Journal of Mixed Methods Research, 1(1), pp. 77–100.
79. Tilker A., Nguyen A., Abrams J.F., Bhagwat T., Le M., et al. (2018), "A
little-known endemic caught in the South-east Asian extinction crisis: the
Annamite striped rabbit Nesolagus timminsi", Oryx, pp. 1–10
80. Timmins R.J., Cuong T.V. (2001), An assessment of the conservation
importance of the Huong Son (Annamite) Forest, Ha Tinh Province,
Vietnam, based on the results of a field survey for large mammals and birds,
Center for Biodiversity and Conservation, at American Museum of Natural
History.
81. Trai L.T., Long D.T., Ha T.P., Tuan L.N. (2003), Hunting and Collecting
Practices in the Central Truong Son Landscape Hunting and Collecting
Practices in the Central Truong Son Landscape, WWF Indochina
Programme Central Truong Son Conservation Initiative.
82. Anh N.T., Minh L.D., Hung P.V., Duyen V.T. (2019), "Modeling the Red-
shanked Douc (Pygathrix nemaeus) distribution in Vietnam using Maxent",
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, 35(3), pp. 61–
71.
95
83. Dung V.V., Giao P.M., Chinh N.N., Tuoc D., Arctander P., MacKinnon J.
(1993), "A new species of living bovid from Vietnam", Nature, 363(6428),
pp. 443–445.
84. van Schingen M., Minh L.D.., Hanh N.T., Cuong P.T., Quynh H.Q., et al.
(2016), "Is there more than one Crocodile Lizard? An Integrative Taxonomic
Approach Reveals Vietnamese and Chinese Shinisaurus crocodilurus
Represent Separate Conservation and Taxonomic Units", Der Zoologische
Garten, 85(5), pp. 240–260.
85. Viet Nature Conservation Center (2018), 2017 Progress Report to Selective
Asia, Hanoi.
86. Warren D.L., Seifert S.N. (2011), "Ecological niche modeling in Maxent: the
importance of model complexity and the performance of model selection
criteria", Ecological Applications, 21(2), pp. 335–342.
87. Warren R., Vanderwal J., Price J., Welbergen J.A., Atkinson I., et al. (2013),
"Quantifying the benefit of early climate change mitigation in avoiding
biodiversity loss", Nature Climate Change, 3(7), pp. 678–682.
88. West A.M., Kumar S., Brown C.S., Stohlgren T.J., Bromberg J. (2016),
"Field validation of an invasive species Maxent model", Ecological
Informatics, 36, pp. 126–134.
89. Whitfield J. (1998), "A saola poses for the camera", Nature, 396(6710), pp.
410–410.
90. Willcox D., Bull R., Nhuan N. Van., Phuong T.Q. (2016), "Small carnivore
records from the U Minh Wetlands , Vietnam", Small Carnivore
Conservation, 55, pp. 4–25.
91. Zurell D., Berger U., Cabral J.S., Jeltsch F., Meynard C.N., et al. (2010),
"The virtual ecologist approach: Simulating data and observers", Oikos,
96
119(4), pp. 622–635.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Mẫu phiếu phỏng vấn thực địa
Ngày giờ phỏng vấn:
Địa điểm:
Tọa độ GPS:
Kinh độ: Vĩ độ:
Độ cao: Thời tiết:
Người phỏng vấn:
Tên file ghi âm:
Họ tên người được phỏng vấn:
Giới tính: Tuổi: Dân tộc:
Nghề nghiệp:
1. Anh/chị có biết/gặp những loài thú nào trong khu vực này? Tên địa phương
và mô tả hình dáng cơ bản? Tập trung vào Thỏ vằn Trường Sơn (Kích thước, sọc
vằn, thời gian gặp)
2. Địa điểm bắt gặp Thỏ vằn Trường Sơn trước kia? Tên địa phương? Tên và
mô tả địa điểm? Có ai sống gần đó hoặc hay đi đến khu vực đó không?
Với mỗi địa điểm, mô tả kỹ: Số lần/tần suất nhìn thấy Thỏ vằn, số lượng cá thể nhìn
thấy mỗi lần, có phân biệt được con đực/cái không (số lượng, tỉ lệ), con mới sinh,
con non …, biến động quần thể Thỏ vằn trong khoảng giai đoạn 5 – 10 năm, các
hoạt động và tương tác giữa chúng, tương tác của chúng khi phát hiện ra người. Tại
97
sao khu vực đó bây giờ không còn Thỏ vằn nữa?
3. Địa điểm bắt gặp Thỏ vằn Trường Sơn bây giờ? Tên địa phương? Tên và mô
tả địa điểm? Có ai sống gần đó hoặc hay đi đến khu vực đó không?
Với mỗi địa điểm, mô tả kỹ: Số lần/tần suất nhìn thấy Thỏ vằn, số lượng cá thể nhìn
thấy mỗi lần, có phân biệt được con đực/cái không (số lượng, tỉ lệ), con mới sinh,
con non …, biến động quần thể Thỏ vằn trong khoảng giai đoạn 5 – 10 năm, các
hoạt động và tương tác giữa chúng, tương tác của chúng khi phát hiện ra người.
4. Số lượng Thỏ vằn Trường Sơn ở những nơi vẫn còn bắt gặp được Thỏ vằn
(dự đoán thử số lượng Thỏ vằn trong khu vực đó? So sánh với số lượng Thỏ vằn
trong quá khứ?
5. Anh/chị có biết Thỏ vằn Trường Sơn ăn gì không? Mô tả hình dáng, tên gọi
địa phương, những địa điểm có nhiều.
6. Anh/chị đã bao giờ nghe thấy tiếng Thỏ vằn kêu? Mô tả lại tiếng kêu của
THỏ vằn
7. Bây giờ còn ai săn Thỏ vằn Trường Sơn không? Gần đây có ai mới bắt được
Thỏ vằn không?
Ngày xưa người ta có săn Thỏ vằn nhiều không? Mô tả cho từng giai đoạn cụ thể
Trước 1980:
98
1980-1990:
1990-2000:
2000-2010:
2010- 2019:
8. Ngày xưa một người đi săn thì bắt được bao nhiêu Thỏ vằn? Bây giờ? Số
lượng trung bình, và số lượng cao nhất bị bắt trong một lần săn?
Trong ngày:
Trong tuần:
Trong tháng:
Trong mùa săn (Mùa săn ở đây thường vào những tháng nào):
9. Cách phổ biến nhất người đi săn hay dùng để bắt Thỏ vằn?
Súng (quân dụng, tự chế)
Bẫy dây phanh
Bẫy sập
Cách khác:
10. Người ta bắt Thỏ vằn về để làm gì?
Làm thuốc
Lấy thịt
Nấu cao
Bán (Giá bán thường là bao nhiêu):
99
Mục đích khác:
11. (Nếu câu trên là dùng làm thuốc) Thỏ vằn có thể dùng để chữa các loại bệnh
100
tật gì, ai là người nên sử dụng? Tại sao lại dùng Thỏ vằn để chữa bệnh đó?
Phụ lục 2: Một số ảnh trong quá trình nghiên cứu
Hình 1. Phỏng vấn tuần rừng và người dẫn đường địa phương trong quá trình điều
tra thực địa
101
Hình 2. Điều tra theo tuyến với cán bộ kiểm lâm ở Vườn quốc gia Bến En
Hình 3. Chuẩn bị vị trí để cài đặt bẫy ảnh ở khu bảo tồn Sao la Huế
Hình 4. Một vị trí còn dấu vết của các nhóm khai thác gỗ trái phép bị phát hiện
102
trong quá trình thực địa