
3
kích thước 100 kDa với chức năng như là RNA polymerase. Tiểu phần nhỏ chứa RNA2
trên đó chứa hai vùng bảo tồn cao là T2 (870 bp) và T4 (420 bp) (Nishizawa và cs, 1997)
1.5. Một số biện pháp phòng bệnh hoại tử thần kinh cho cá mú
Hiện nay chưa có loại vắc-xin nào đạt được hiệu quả phòng bệnh hoại tử thần
kinh. Vì vậy những biện pháp đảm bảo vệ sinh, tránh các nguồn lây nhiễm vẫn được coi
như là biện pháp chủ yếu để tránh gây thiệt hại lớn cho nghề nuôi cá mú.
1.6. Kháng nguyên tái tổ hợp và tình hình sử dụng vắc-xin phòng bệnh cho cá
1.6.1. Kháng nguyên tái tổ hợp của tác nhân gây bệnh
Kháng nguyên tái tổ hợp là kháng nguyên (protein miễn dịch) được sản xuất bằng
kỹ thuật di truyền. Trên thế giới, việc sử dụng kháng nguyên tái tổ hợp để sản xuất vắc-
xin kiểm soát một số bệnh nguy hiểm cho cá nuôi đã được nghiên cứu từ những năm
1980. Việc ứng dụng công nghệ sinh học để sản xuất ra số lượng lớn kháng nguyên bằng
con đường tái tổ hợp đã giúp tiết kiệm chi phí sản xuất, an toàn với cá nuôi. Công nghệ
DNA tái tổ hợp được sử dụng để sản xuất kháng nguyên phòng bệnh do vi rút cho cá đã
và đang phát triển rất mạnh mẽ
1.6.2. Tình hình sử dụng vắc-xin phòng bệnh cho cá trên thế giới
Hiện trên thế giới có một số loại vắc-xin vô hoạt sử dụng để phòng bệnh do vi rút
gây ra như hoại tử tuyến tụy (IPNV), hoại tử cơ quan tạo máu (IHNV), nhiễm trùng xuất
huyết (VHSV), vi rút đường máu cá chép vào mùa xuân (SVCV). Tuy nhiên, khi nuôi
cấy vi rút trên tế bào thường chi phí cao, khả năng tinh khiết khó. Gần đây, sử dụng công
nghệ DNA tái tổ hợp để sản xuất vắc-xin protein từ vi rút phòng bệnh cho cá rất khả thi
và đưa lại hiệu quả kinh tế cao (Christie và cs, 1997; Lorenzen và cs, 2005) [26][43].
1.6.3. Tình hình sử dụng vắc-xin phòng bệnh cho cá tại Việt Nam
Năm 1996 - 1998, Bùi Quang Tề và cs đã chế tạo vắc-xin từ vi khuẩn Aeromonas
hydrophila để phòng bệnh cho cá trắm cỏ, vắc-xin có tỷ lệ bảo hộ từ 90 đến 100% (Bùi
Quang Tề và cs, 2006) [7]. Năm 2003, Vũ Dũng Tiến đã chế tạo vắc-xin từ sự kết hợp
giữa kháng nguyên ngoại bào và nội bào của vi khuẩn Aeromonas hydrophila để phòng
bệnh cho cá trắm cỏ, vắc-xin có hiệu quả tốt với tỷ lệ bảo hộ đạt 100% (Vũ Dũng Tiến
và cs, 2003) [9]. Năm 2003 - 2005 đề tài KC-06-20NN đã chế tạo được vắc-xin phòng
bệnh xuất huyết hoại tử nội tạng cho cá tra và cá basa. Vắc-xin đảm bảo được chỉ tiêu
an toàn trên cá thí nghiệm, tỷ lệ bảo hộ đạt từ 90 - 100% (Bùi Quang Tề và cs, 2006) [7].
Năm 2006 - 2007, Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản II đã triển khai đề tài
nghiên cứu tạo vắc-xin phòng bệnh gan thận mủ do vi khuẩn Edwardsiella ictaluri trên
cá tra (Pangasianodon hypothalmus) nuôi công nghiệp ở đồng bằng Sông Cửu Long. Kết
quả bước đầu cho thấy khả năng đáp ứng miễn dịch ở cá tra đối với vi khuẩn E. ictaluri
qua hàm lượng kháng thể có trong máu cá đạt cao.
Từ năm 2011, Phạm Thị Tâm và cs đã tiến hành nghiên cứu sản xuất vắc-xin
phòng bệnh hoại tử thần kinh cho cá mú nuôi công nghiệp. Sản phẩm từ đề tài là vắc-xin
vô hoạt bằng formalin nồng độ 0,03% ở 4oC trong thời gian 5 ngày; lựa chọn được chất
bổ trợ là dầu Montanique ISA70 có khả năng tăng kích thích sản sinh đáp ứng miễn dịch
phù hợp với cá mú trong điều kiện thí nghiệm. Vắc-xin đã có tác dụng phòng bệnh cho
cá mú, hiệu lực bảo vệ trên 83% cá giống, an toàn 100%, có độ vô trùng tuyệt đối (Phạm
Thị Tâm và cs, 2015) [6].