ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

LƯƠNG NGỌC MINH NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC TÍNH SINH VẬT, HÓA

HỌC CỦA VI KHUẨN PASTEURELLA MULTOCIDA

GÂY BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU, BÒ TẠI BA

HUYỆN THUỘC TỈNH QUẢNG NINH

VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ THÚ Y

Thái Nguyên - 2020

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

LƯƠNG NGỌC MINH

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC TÍNH SINH VẬT, HÓA

HỌC CỦA VI KHUẨN PASTEURELLA MULTOCIDA

GÂY BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU, BÒ TẠI BA

HUYỆN THUỘC TỈNH QUẢNG NINH

VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

Ngành: THÚ Y

Mã số ngành: 8.64.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ THÚ Y

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ QUỐC TUẤN

Thái Nguyên - 2020

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng:

- Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là do tôi trực tiếp nghiên cứu

dưới sự hướng dẫn của TS. Đỗ Quốc Tuấn, sự giúp đỡ của cán bộ Trạm

Chẩn đoán xét nghiệm bệnh động vật - Cơ quan Thú y vùng II và Chi cục

Thú y tỉnh Quảng Ninh.

- Các số liệu và kết quả trình bày trong luận văn này là hoàn toàn

trung thực, khách quan, được rút ra từ tình hình thực tế của tỉnh Quảng Ninh

trong những năm qua và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.

- Mọi sự giúp đỡ trong quá trình thực hiện nghiên cứu và viết luận văn

đã được cảm ơn. Tất cả các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ

nguồn gốc.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2020

TÁC GIẢ

Lương Ngọc Minh

ii

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực tập và thực hiện Luận văn này, tôi đã nhận được

sự quan tâm, chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, đồng

nghiệp, bạn bè và sự động viên khích lệ của gia đình. Nhân dịp này, tôi xin

được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:

Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Ban chủ nhiệm khoa và các thầy cô

giáo Khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái

Nguyên đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.

Thầy giáo TS. Đỗ Quốc Tuấn đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tôi hết

sức tận tình trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn.

Trân trọng cảm ơn Chi cục Chăn nuôi - Thú y và Cục thống kê tỉnh

Quảng Ninh đã cung cấp số liệu giúp tôi hoàn thành luận văn này. Xin trân

trọng cảm ơn các hộ gia đình nuôi trâu, bò, lợn nái tại Quảng Ninh đã tạo

điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình điều tra và thu thập mẫu.

Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự ủng hộ, động viên,

giúp đỡ của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp trong suốt thời gian học tập,

nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2020

TÁC GIẢ

Lương Ngọc Minh

iii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

BHI: Brain Heart Infusion

BL: Bình Liêu

Cs: Cộng sự

DNA: Deoxyribonucleic Acid

FAO: Food and Agriculture Oganization

HSND: Hệ số năm dịch

MR: Methylen Red

OIE: Office International Epizooties Tổ chức dịch tễ thế giới

PCR: Polymerase Chain Reaction

PRRSV: Porcine Reproductive and Respiratory Syndrome Virus

PƯ: Phản ứng

QY: Quảng Yên

THT: Tụ huyết trùng

TSI: Triple sugar iron agar.

TT: Thể trọng.

TW: Trung ương

VK: Vi khuẩn

VP: Voges Proskauer

YPC: Yeast extract Pepton-L-Cystin

iv

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng giai đoạn 2016 -

2019 tại Quảng Ninh ............................................................................... 33

Hình 3.1. Biểu đồ về tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do bệnh tụ huyết trùng

tại Quảng Ninh qua các năm 2016 - 2019 .............................................. 34

Bảng 3.2. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng tại Quảng Ninh

theo mùa vụ ............................................................................................. 35

Bảng 3.3. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng tại Quảng Ninh

theo tuổi .................................................................................................. 38

Bảng 3.4. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng tại Quảng Ninh

theo loài ................................................................................................... 40

Bảng 3.5. Triệu chứng lầm sàng ở trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng .................... 43

Bảng 3.6. Các bệnh tích đại thể ở trâu, bò chết do tụ huyết trùng ......................... 44

Bảng 3.7. Kết quả phân lập vi khuẩn P. multocida từ dịch ngoáy mũi của

trâu, bò khoẻ ........................................................................................... 46

Bảng 3.8. Phân lập vi khuẩn P. multocida từ mẫu bệnh phẩm trâu, bò nghi

mắc bệnh tụ huyết trùng .......................................................................... 49

Bảng 3.9. Giám định một số đặc tính sinh vật, hoá học của các chủng vi

khuẩn P. mutocida phân lập được ........................................................... 50

Bảng 3.10. Kết quả thử phản ứng lên men đường của các chủng vi khuẩn P.

multocida phân lập được ......................................................................... 52

Bảng 3.11. Kết quả xác định serotype kháng nguyên của các chủng P.

multocida phân lập được ......................................................................... 53

Bảng 3.12. Xác định độc lực của các chủng P. multocida 55phân lập được ......... 55

Bảng 3.13. Kết quả thử tính mẫn cảm với kháng sinh của các chủng P.

multocida phân lập được ......................................................................... 57

Bảng 3.14. Kết quả thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh tụ huyết trùng

trâu, bò .................................................................................................... 59

Bảng 3.15. Kết quả tiêm phòng vaccine tụ huyết trùng cho trâu, bò của tỉnh

Quảng Ninh trong các năm 2018 - 2019 ................................................. 61

v

DANH MỤC HÌNH, ĐỒ THỊ

Hình 2.1. Sơ đồ phân lập vi khuẩn Pasteurella multocida ...................................... 30

Hình 3.1. Biểu đồ về tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do bệnh tụ huyết trùng

tại Quảng Ninh qua các năm 2016 - 2019 .............................................. 34

Hình 3.2. Biểu đồ về tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng theo mùa vụ ............ 36

Hình 3.3. Biểu đồ về tỷ lệ trâu, bò chết do tụ huyết trùng tại Quảng Ninh theo

mùa vụ trong năm ................................................................................... 38

Hình 3.4. Biểu đồ về tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng tại Quảng Ninh

theo loài ................................................................................................... 41

Hình 3.5. Biểu đồ về tỷ lệ trâu, bò chết do bệnh tụ huyết trùng ............................ 42

Hình 3.6. Biểu đồ về tỷ lệ mẫu dịch ngoáy mũi của trâu, bò khoẻ dương tính

với vi khuẩn P. multocida ....................................................................... 47

vi

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 1

2. Mục tiêu đề tài ........................................................................................................ 2

3. Ý nghĩa của đề tài ................................................................................................... 2

3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài ................................................................................ 2

Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ............................................................. 4

1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ........................................ 4

1.1.1. Vi khuẩn Pasteurella multocida ...................................................................... 4

1.1.2. Bệnh tụ huyết trùng do vi khuẩn P. multocida gây ra ................................... 10

1.2. TỔNG QUAN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI ......................... 18

1.3. TỔNG QUAN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM .............................. 21

Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU ........................................................................................................ 24

2.1. ĐỐI TƯỢNG VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU ................................................ 24

2.1.1. Đối tượng ....................................................................................................... 24

2.1.2. Nguyên vật liệu dùng cho nghiên cứu ............................................................ 24

2.2. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU .................................................. 24

2.2.1. Thời gian nghiên cứu ..................................................................................... 25

2.2.2. Địa điểm nghiên cứu ...................................................................................... 25

2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ............................................................................. 25

2.3.1. Một số đặc điểm dịch tễ bệnh tụ huyết trùng trâu, bò ở tỉnh Quảng

Ninh từ năm 2016 - 2019 ......................................................................................... 25

2.3.2. Triệu chứng, bệnh tích điển hình ở trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng ........... 25

2.3.3. Phân lập và xác định một số đặc tính sinh vật, hóa học của vi khuẩn P.

multocida .................................................................................................................. 25

2.3.4. Thử nghiệm phác đồ điều trị và đề xuất biện pháp phòng bệnh tụ huyết

trùng cho trâu, bò tại tỉnh Quảng Ninh .................................................................... 26

2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................... 26

2.4.1. Phương pháp nghiên cứu dịch tễ học bệnh tụ huyết trùng trâu, bò ............... 26

vii

2.4.2. Phương pháp lấy mẫu ..................................................................................... 26

2.4.3. Phương pháp xác định triệu chứng, bệnh tích ở trâu, bò mắc bệnh và

chết do tụ huyết trùng ............................................................................................... 26

2.4.4. Phương pháp nuôi cấy, phân lập và xác định vi khuẩn P. multocida ............ 27

2.4.5. Kiểm tra độc lực của vi khuẩn P. multocida phân lập được .......................... 29

Hình 2.1. Sơ đồ phân lập vi khuẩn P. multocida ..................................................... 30

2.4.6. Phương pháp xử lý số liệu .............................................................................. 31

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................................. 33

3.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU,

BÒ TẠI TỈNH QUẢNG NINH ................................................................................ 33

3.1.1. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng giai đoạn 2016 -

2019 tại Quảng Ninh ................................................................................................ 33

3.1.2. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng tại Quảng Ninh theo

mùa vụ ...................................................................................................................... 35

3.1.3. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng tại Quảng Ninh theo tuổi ................. 38

3.1.4. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng tại tỉnh Quảng Ninh theo loài .......... 40

3.2. TRIỆU CHỨNG, BỆNH TÍCH ĐIỂN HÌNH Ở TRÂU, BÒ MẮC

BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG ................................................................................... 42

3.2.1. Triệu chứng lâm sàng ở trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng ............................ 42

3.2.2. Bệnh tích đại thể ở trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng .................................... 44

3.3. PHÂN LẬP VÀ XÁC ĐỊNH MỘT SỐ ĐẶC TÍNH SINH VẬT, HÓA

HỌC CỦA VI KHUẨN P. MULTOCIDA .............................................................. 45

3.3.1. Phân lập vi khuẩn P. multocida từ dịch ngoáy mũi của trâu, bò khỏe

mạnh tại các địa điểm nghiên cứu ............................................................................ 45

3.3.2. Phân lập vi khuẩn P. multocida từ bệnh phẩm trâu, bò nghi mắc bệnh

tụ huyết trùng tại các địa phương nghiên cứu .......................................................... 48

3.3.3. Giám định một số đặc tính sinh vật, hoá học của các chủng vi khuẩn P.

mutocida phân lập được ........................................................................................... 50

3.3.4. Xác định serotype kháng nguyên của các chủng vi khuẩn P. multocida

phân lập được ........................................................................................................... 53

3.3.5. Xác định độc lực của các chủng P. multocida phân lập được ....................... 54

viii

3.3.6. Kết quả kiểm tra tính mẫn cảm của vi khuẩn P. multocida phân lập

được với một số loại kháng sinh và hóa dược .......................................................... 57

3.4. THỬ NGHIỆM PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP

PHÒNG BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG CHO TRÂU, BÒ TẠI QUẢNG

NINH ........................................................................................................................ 58

3.4.1. Kết quả thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh tụ huyết trùng trâu,

bò .............................................................................................................................. 58

3.4.2. Đề xuất biện pháp phòng bệnh tụ huyết trùng trâu, bò tại Quảng Ninh ........ 60

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .................................................................................... 64

1. KẾT LUẬN .......................................................................................................... 64

2. ĐỀ NGHỊ ............................................................................................................. 65

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 66

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chăn nuôi trâu, bò đang phát triển mạnh trên cả nước và là một ngành quan

trọng trong nền nông nghiệp Việt Nam. Chăn nuôi trâu, bò không chỉ cung cấp sức

kéo mà còn cung cấp lượng phân bón lớn cho ngành trồng trọt, cung cấp rất lớn

nguồn thực phẩm như: thịt, sữa có chất lượng và giá trị dinh dưỡng cao cho nhu cầu

sử dụng của con người.

Chăn nuôi trâu, bò muốn phát triển tốt và cho hiệu quả kinh tế, ngoài công

tác giống, thức ăn, quản lý chăm sóc thì công tác phòng chống dịch bệnh là rất

quan trọng. Trong thực tế những năm qua, ngành thú y cả nước hoạt động rất mạnh

mẽ đã hạn chế nhiều bệnh truyền nhiễm và các bệnh khác. Nhưng do đặc điểm của

từng vùng, từng khu vực và từng địa phương, do nhiều yếu tố và nguyên nhân khác

nhau nên vẫn còn một số bệnh truyền nhiễm xảy ra.

Quảng Ninh là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, địa bàn kinh tế động

lực trong vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ. Dân số 1,415 triệu người (Chi cục Thống

kê tỉnh Quảng Ninh, 2020) sinh sống tại 186 xã, phường, thị trấn thuộc 14 huyện,

thị xã, thành phố. Đây cũng là tỉnh duy nhất của cả nước có 4 thành phố (Uông Bí,

Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái) và 2 thị xã (Đông Triều, Quảng Yên). Cùng với sự

phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh thì nhu cầu về thực phẩm sạch và an toàn tại

Quảng Ninh là rất lớn. Hằng năm, chăn nuôi trong tỉnh mới đáp ứng khoảng 60%

nhu cầu tiêu dùng của người dân và khách du lịch, phần thiếu hụt phải nhập từ nơi

khác về. Đây là điều kiện cho dịch bệnh trên gia súc, gia cầm xâm nhập, phát sinh

và lây lan. Một trong những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mà ngành chăn nuôi tỉnh

Quảng Ninh thường gặp phải đó là bệnh tụ huyết trùng trâu, bò.

Bệnh tụ huyết trùng trâu, bò thể bại huyết (Hemorrhagic Septicemia) là một

bệnh truyền nhiễm cấp tính xảy ra ở hầu hết các lứa tuổi trâu, bò. Hằng năm, trên

địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, bệnh tụ huyết trùng trâu, bò gây ra

những thiệt hại kinh tế to lớn cho ngành chăn nuôi.

2

Do đặc điểm, vị trí địa lý, khí hậu, thời tiết, đất đai và điều kiện kinh tế xã

hội, phong tục tập quán và trình độ tiếp thu khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chăn

nuôi của người dân ở tỉnh Quảng Ninh, tình hình chăn nuôi trâu, bò đang rất phát

triển. Tuy nhiên, hằng năm bệnh tụ huyết trùng vẫn xảy ra khá phổ biến, gây ốm,

chết số lượng đáng kể trâu, bò của địa phương và đã trở thành vấn đề bức xúc, cần

được nghiên cứu. Vì vậy, ngoài việc áp dụng các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh

học thì việc nghiên cứu sự lưu hành của vi khuẩn gây bệnh, chọn vaccine tiêm

phòng và thuốc điều trị có hiệu quả là vấn đề cấp thiết để hạn chế thiệt hại do dịch

bệnh gây ra.

Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn sản xuất chăn nuôi, trên cơ sở kế thừa kết

quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, căn cứ vào cơ sở vật chất, trang

thiết bị tại đơn vị thí nghiệm, chúng tôi tiến hành đề tài "Nghiên cứu một số đặc

tính sinh vật, hóa học của vi khuẩn Pasteurella multocida gây bệnh tụ huyết

trùng trâu, bò tại ba huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh và biện pháp phòng trị”.

2. Mục tiêu đề tài

- Xác định một số đặc điểm dịch tễ bệnh tụ huyết trùng trâu, bò trên địa bàn

tỉnh Quảng Ninh.

- Khảo sát sự lưu hành vi khuẩn P. multocida ở trâu, bò khỏe và trâu, bò nghi

mắc bệnh tụ huyết trùng.

- Giám định đặc tính sinh vật, hóa học, yếu tố gây bệnh và serotype kháng

nguyên của vi khuẩn P. multocida phân lập được.

- Đề xuất các biện pháp phòng và trị bệnh hiệu quả.

3. Ý nghĩa của đề tài

3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài

Bổ sung tư liệu khoa học về đặc điểm dịch tễ, sự lưu hành của vi khuẩn P.

multocida gây bệnh tụ huyết trùng ở trâu, bò tại tỉnh Quảng Ninh.

Bổ sung thêm tư liệu về đặc tính sinh vật, hóa học, yếu tố gây bệnh và

serotype kháng nguyên của vi khuẩn P. multocida phân lập được.

Đề xuất biện pháp phòng chống và điều trị bệnh tụ huyết trùng cho trâu, bò

có hiệu quả cao.

3

3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Việc đánh giá tình trạng mang khuẩn P. multocida ở trâu, bò khỏe là cơ sở

cho việc điều chỉnh chiến lược phòng bệnh tụ huyết trùng tại tỉnh Quảng Ninh.

Đề xuất biện pháp phòng chống và điều trị bệnh tụ huyết trùng cho trâu, bò

có hiệu quả cao.

4

Chương 1

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1.1. Vi khuẩn Pasteurella multocida

1.1.1.1. Phân loại vi khuẩn

Theo phân loại của Bergey’s (1994), vi khuẩn P. multocida thuộc bộ (order)

Eubacteriales, họ (family) Parvobacteriaceae, tộc (tribe) Pasteurelliae, giống

(genus) Pasteurella, loài (species) P. multocida.

1.1.1.2. Hình thái, kích thước và đặc tính nuôi cấy

Vi khuẩn Pasteurella multocida (P. multocida) là vi khuẩn có dạng cầu trực

khuẩn nhỏ, gram âm, kích thước khoảng 0,25 - 0,4 × 0,4 - 1,5 µm, vi khuẩn có thể

đứng riêng lẻ, thành đôi hoặc thành chuỗi, có giáp mô, không sinh nha bào, không

có lông, không di động, bắt màu lưỡng cực. Khi nuôi cấy nhiều lần trong phòng thí

nghiệm hoặc trên các môi trường nuôi cấy lâu ngày, với các điều kiện không thuận

lợi vi khuẩn có khuynh hướng biến dạng, thay đổi hình thái từ trực khuẩn dài hơn

cho tới dạng sợi mảnh De Alwis (1999).

P. multocida dễ dàng bắt màu với thuốc nhuộm fucxin hoặc xanh methylen.

Tính chất bắt màu lưỡng cực của vi khuẩn P. multocida có thể thấy khi nhuộm bằng

xanh methylen và chỉ thấy ở những tiêu bản làm từ máu động vật hay vi khuẩn phân

lập từ con vật mới chết. Vi khuẩn nuôi cấy trong môi trường nhân tạo ít thấy tính

chất này (Nguyễn Như Thanh, 2001). Theo OIE (2012) sử dụng kỹ thuật nhuộm

Leishman, nhuộm xanh metylen, hoặc kỹ thuật nhuộm Giemsa cho thấy vi khuẩn

được nhuộm bắt màu lưỡng cực.

Vi khuẩn P. multocida có thể nuôi cấy ở nhiều loại môi trường, môi trường

nuôi cấy lỏng, đặc hoặc bán cố thể. Tùy vào mục đích nghiên cứu, người ta cho

thêm vào môi trường các loại đường, axit amin và hóa chất khác nhau. Peter và cs

(1996) sử dụng môi trường dinh dưỡng tối thiểu để nuôi cấy chủng sinh độc tố và

không sinh độc tố của P. multocida. Môi trường này gồm có 17 thành phần, trong

5

đó có cystein, glutamic axit, leucine, methionine, muối vô cơ, nicotinamide,

pantothenate, thiamine. Kết quả 40/46 chủng đem thử (87%) mọc tốt trên môi

trường này, sau 10 lần cấy chuyển vẫn giữ nguyên khả năng sinh độc tố hoặc không

sinh độc tố như lúc đầu.

Môi trường BHI và môi trường Hottinger cải tiến là những môi trường thích

hợp để sản xuất kháng nguyên tụ huyết trùng theo phương pháp lên men (Đào

Trọng Đạt, 1994).

P. multocida có nhiều loại hình dạng khuẩn lạc, trên môi trường thạch huyết

thanh P. multocida có thể tạo thành 3 dạng khuẩn lạc:

+ Khuẩn lạc dạng S (Smooth): có rìa gọn, bóng láng, có dung quang mạnh và

vi khuẩn có độc lực mạnh.

+ Khuẩn lạc dạng M (Mucoid): nhày, ướt, có kích thước lớn nhất, bề mặt

khuẩn lạc ẩm ướt, có dung quang yếu, vi khuẩn có độc lực trung bình.

+ Khuẩn lạc R (Rough): có rìa xù xì, thường không có dung quang, vi khuẩn

có độc lực yếu.

Trên môi trường thạch thường: vi khuẩn hình thành khuẩn lạc dạng S, nhỏ

long lanh như giọt sương, mặt khuẩn lạc vồng. Nuôi cấy lâu, khuẩn lạc có màu

trắng ngà dính vào môi trường.

Trên môi trường thạch máu hay BHI có bổ sung máu: vi khuẩn phát triển

mạnh, không gây dung huyết, kích thước khuẩn lạc lớn hơn trên môi trường thạch

thường, có màu tro xám, hình giọt sương và có mùi tanh nước dãi khô rất đặc trưng.

Đặc điểm này rất dễ nhận ra và được nhiều tác giả công nhận như một đặc điểm để

chẩn đoán.

Trên môi trường thạch có huyết thanh và huyết cầu tố: khuẩn lạc nhỏ, rìa

gọn, có hiện tượng phát huỳnh quang khi xem khuẩn lạc bằng kính hiển vi có hai thị

kính với độ phóng đại thấp và góc phản quang của ánh sáng đèn điện là 45o, thấy

xung quanh mép khuẩn lạc có hiện tượng phát sắc cầu vồng. Khuẩn lạc dạng S có

dung quang màu xanh lơ, khuẩn lạc dang R có dung quang vàng, khuẩn lạc dạng M

không có đặc điểm nói trên. Hiện tượng phát quang của khuẩn lạc P. multocida có

6

liên quan đến tính chất của một số hợp chất có khả năng hấp thụ những tia sáng nhất

định có trong vi khuẩn (Heddleston, 1966).

Theo De Alwis (1999), tuỳ theo độc lực của vi khuẩn mà màu sắc huỳnh

quang của khuẩn lạc khác nhau:

+ Nếu vi khuẩn có độc lực cao: khuẩn lạc có màu xanh lơ, xanh lá mạ chiếm

2/3 diện tích khuẩn lạc về phía đèn, còn 1/3 diện tích khuẩn lạc là màu vàng kim

loại, khuẩn lạc này gọi là Fg (Greenish Fluorescent).

+ Nếu vi khuẩn có độc lực vừa: khuẩn lạc màu xanh lơ ít hơn diện tích màu

vàng da cam, khuẩn lạc loại này là Fo (Orange Fluorescent).

+ Nếu vi khuẩn có độc lực yếu: khuẩn lạc của chúng không có hiện tượng

phát quang, khuẩn lạc loại này là Nt (Not Fluorescent). Khuẩn lạc nhỏ tròn trong.

Theo đặc tính dung quang này còn có quan hệ chặt chẽ với sự tạo giáp mô của vi

khuẩn P. mutocida. Dựa vào tính chất này, có thể chọn những chủng P. multocida

có tính kháng nguyên và miễn dịch cao (Smith, 1990).

1.1.1.3. Đặc tính sinh hóa

P. multocida lên men các đường glucose, mannitol, saccarose, fructose,

galactose, không lên men các loại đường lactose, mantose, arabinose. Dương tính

với phản ứng sinh Indol, oxidase, catalase. Phản ứng urease âm tính, không mọc

trên môi trường MacConkey (Đặng Xuân Bình, 2010; Lê Văn Dương, 2013).

1.1.1.4. Các yếu tố gây bệnh của vi khuẩn P. multocida

* Kháng nguyên

Kháng nguyên P. multocida rất phức tạp và cấu trúc từng loại kháng nguyên

cũng luôn thay đổi. Những nghiên cứu về cấu trúc, số lượng và sự phân bố kháng

nguyên P. multocida rất quan trọng trong việc chế tạo vaccine. Cho đến nay, người ta

đã xác định được kháng nguyên của P. multocida có 3 loại là: Kháng nguyên vỏ K,

kháng nguyên thân O, kháng nguyên màng ngoài OMP (outer membrane protein).

- Kháng nguyên vỏ (K): chỉ có ở P. multocida tạo khuẩn lạc dạng S, không

gặp ở vi khuẩn tạo khuẩn lạc dạng M và R. Kháng nguyên K bao bọc xung quanh

thân vi khuẩn, giúp cho vi khuẩn chống lại hiện tượng thực bào và ngăn cản sự tiếp

7

xúc giữa kháng nguyên O và kháng thể O. Thành phần và cấu trúc kháng nguyên K

khá phức tạp, theo Price và Smith (1966) chúng gồm có 3 loại là α, β, γ. Kháng

nguyên có cấu tạo dạng phức giữa protein và polysaccharide. Kháng nguyên protein

của vỏ (giáp mô) có khả năng gây miễn dịch mạnh. Kháng nguyên protein đã được

nhiều tác giả nghiên cứu và cho rằng nó rất thông dụng, được coi là yếu tố miễn

dịch quan trọng.

- Kháng nguyên thân (O): vi khuẩn P. multocida có kháng nguyên thân là

phức hợp protein - lipid - polysaccharide chiết xuất được nhờ acid trichoaxetic,

dung dịch phenol và siêu âm. Phát hiện được bằng phản ứng kết tủa khuếch tán

trong thạch. Các chủng vi khuẩn tụ huyết trùng có serotype khác nhau theo kháng

nguyên O, chỉ có serotype B hầu như chỉ thuộc một nhóm kháng nguyên O. Những

chủng vi khuẩn tạo khuẩn lạc dạng S chuyển sang dạng R vẫn giữ được kháng

nguyên O. Hiện nay, nhiều thực nghiệm xác nhận rằng, kháng nguyên O đóng vai

trò quan trọng trong quá trình hình thành miễn dịch bảo hộ gia súc chống bệnh

(Phan Thanh Phượng, 1994).

- Protein màng ngoài (Outer membrane proteins - OPM): kháng nguyên

màng ngoài gồm 3 protein chính là 27kDa, 34kDa và 36kDa được tìm thấy ở hầu

hết các chủng (không phụ thuộc vào type của chủng đó). Một trong những protein

độc tính quan trọng của protein màng ngoài này là protein gắn huyết cầu tố

(hemoglobin-binding protein), protein này có một receptor đặc hiệu trên màng

hemoglobin. Đoạn gen mã hóa hemoglobin binding protein (hgbA) đã được giải

trình tự (Seleim, 2005).

Ba loại protein màng ngoài đã được phát hiện ở các chủng gây viêm teo mũi

được đặt tên là là OMP type I, OMP type II, và OMP type III.

Kháng nguyên của P. multocida rất phức tạp, xét về quan hệ hoá học, các

kháng nguyên protein và lipopolysaccharid của P. multocida có vai trò chính trong

quá trình hình thành miễn dịch bảo hộ gia súc chống bệnh và kháng nguyên là

polysaccharid đóng vai trò hỗ trợ.

* Giáp mô của vi khuẩn P. multocida

8

Giáp mô là lớp vỏ nhày bao bọc ngoài tế bào, được sinh ra ở điều kiện nhất

định trong quá trình sinh trưởng. Giáp mô có tác dụng bảo vệ vi khuẩn chống lại sự

thực bào và các tác động có hại của môi trường. Giáp mô cũng là nơi dự trữ chất

dinh dưỡng cho vi khuẩn, đồng thời là yếu tố độc lực của vi khuẩn, vi khuẩn có giáp

mô thường có độc lực cao. Carter (1955) cho biết, khi nuôi cấy vi khuẩn ở 370C

trong môi trường nhân tạo qua một đêm thấy vi khuẩn phát triển giáp mô đầy đủ,

sau đó mất dần đi. Điều này chứng tỏ giáp mô chỉ tồn tại ở những vi khuẩn mới

phân lập từ gia súc mắc bệnh hoặc nuôi cấy trong thời gian ngắn. Vi khuẩn phân lập

được từ động vật mắc bệnh cấp tính đa số đều thấy có giáp mô và có độc lực, khi

nuôi cấy những vi khuẩn này lâu trong môi trường nhân tạo, giáp mô của vi khuẩn

sẽ mất và vi khuẩn không còn độc lực. Nhưng nếu cấy những vi khuẩn đã mất giáp

mô trên môi trường có thêm máu hoặc tiêm truyền qua động vật thì vi khuẩn có thể

tái tạo lại giáp mô và thể hiện độc lực.

Đặc tính kháng nguyên giáp mô của P. multocida xác định theo type huyết

thanh A, B, D, E và F (Wilson và cs, 1992). Giáp mô của chủng type A được cấu

tạo bởi axit hyaluronic và polysaccharide. Axit hyaluronic không bị thực bào phát

hiện do nó không cótính miễn dịch, nhưng khi tinh chế kháng nguyên K của P.

multocida serotype A có một protein (300kDa) có thể ức chế đại thực bào của bò

(Seleim, 1993).

* Độc lực của vi khuẩn

Độc lực của P. multocida được biết từ thời Pasteur, đầu thế kỷ 20, Baldrey đã

nhắc đến ảnh hưởng của chất lọc canh trùng già trên thỏ và cho rằng vi khuẩn có

độc tính của lipopolysaccharide. Các nghiên cứu về độc lực của vi khuẩn P.

multocida trên thế giới cho thấy độc lực của vi khuẩn này không ổn định, nó thay

đổi tùy thuộc vào chủng vi khuẩn, loài vật mà nó ký sinh, cấy chuyển nhiều

lầntrong môi trường nhân tạo độc lực của nó cũng yếu đi.

Khả năng xâm nhập và nhân lên trong cơ thể vật chủ được tăng cường bởi sự

hiện diện của kháng nguyên và polysaccharide đó là một trong những yếu tố độc lực

quan trọng nhất đối với loài này (Wilkie và cs, 2012).

9

Độc lực của P. multocida rất phức tạp và không ổn định, tuỳ thuộc vào chủng

vi khuẩn và loài vật kí sinh. Nghiên cứu về độc lực của vi khuẩn P. multocida các

tác giả cho thấy ở những gia súc, gia cầm chết do P. multocida gây ra người ta tìm

thấy dấu hiệu tác động của độc tố.

* Độc tố của vi khuẩn P. multocida

Độc tố của P. multocida là chất phân bào mạnh, có khả năng hoạt hóa men

phospholipase C beta. Độc tố này cũng thúc đẩy hoạt động của RhoA và tác động

tới các protein nhóm G như: G alpha (q), G alpha (12/13) (Orth và cs, 2005).

Những độc tố có bản chất từ protein không chịu nhiệt đã được tìm thấy ở một

số chủng P. multocida thuộc type huyết thanh A và D, đặc tính kháng nguyên của

những độc tố này tương đối giống nhau. Các vi khuẩn thuộc serotype B hiếm khi có

độc tố bản chất là protein, chưa có thí nghiệm nào chứng minh độc tố có bản chất

protein của serotype E.

- Nội độc tố (Lipopolysaccharide): Lipopolysaccharide là yếu tố độc lực chính

và đóng một vai trò chủ yếu trong việc gây bệnh tụ huyết trùng ở trâu, bò. Các chủng

P. multocida thuộc type D gây viêm teo mũi sau khi tiến hành điện di phát hiện thấy

có ít nhất 6 loại lipopolysaccharide đồng nhất với protein màng ngoài.

- Ngoại độc tố (Exotoxin): Ngoại độc tố là sản phẩm của giáp mô P.

multocida, đặc biệt là của các chủng thuộc type D. Yếu tố này là nhân tố gây hoại tử

niêm mạc (dermonecrotic toxin - DNT).

* Serotype của vi khuẩn P. multocida

Năm 1943 Little và Lyon đã tìm cách phân loại serotype vi khuẩn P.

multocida nhưng không thành công. Roberts (1947) đã dựa trên phản ứng chéo bảo

hộ trên chuột để phân loại. Tác giả dùng kháng huyết thanh chuẩn bị trên thỏ để bảo

vệ chuột khi công cường độc bằng các chủng P. multocida khác nhau, trên cơ sở

chuột được bảo hộ, chia vi khuẩn này thành 4 type là I, II, III và IV, đây là hệ thống

phân loại đầu tiên được công nhận. Kể từ đó tất cả các chủng gây bại huyết, xuất

huyết độc lực cao được xếp vào Roberts type I, các chủng phân lập được từ trâu, bò

thuộc type I. Điều này giúp ích khá nhiều cho việc phát hiện các chủng độc lực cao.

10

Tiếp đó, Carter sử dụng phản ứng kết tủa và phản ứng ngưng kết hồng cầu

gián tiếp, xác định được 4 serotype (được ký hiệu là A, B, C, D). Phản ứng ngưng

kết hồng cầu này được thực hiện trên tế bào hồng cầu người nhóm O, thành phần

tách từ màng tế bào này được chuẩn bị bằng cách đun tế bào sống P. multocida ở 56

°C/30 phút, loại bỏ tế bào bằng ly tâm sau đó thu lấy dịch nổi phía trên. Dựa trên

phản ứng này, tác giả đã phân loại P. multocida thành 4 loại kháng nguyên vỏ là A,

B, C và D. Các chủng gây bại huyết, xuất huyết theo cách phân loại của Carter chủ

yếu thuộc type B.

* Sức đề kháng của vi khuẩn P. multocida

Theo Nguyễn Bá Hiên và cs (2009), vi khuẩn tụ huyết trùng dễ bị tiêu diệt

bởi nhiệt độ, ánh sáng mặt trời và các chất sát trùng thông thường. Vi khuẩn bị diệt

khi đun ở 580C trong 20 phút, 800C trong 10 phút, 1000C chết ngay. Ánh nắng mặt

trời chiếu trực tiếp, diệt vi khuẩn trong canh trùng sau 1 ngày. Trong tổ chức của

động vật bệnh bị thối nát, vi khuẩn sống được 1 - 3 tháng.

Trong máu, mô bào, nước tiểu của súc vật chết, vi khuẩn giữ được độc lực

trong vòng 5 - 9 ngày. Trong tuỷ xương vi khuẩn giữ được độc lực ít nhất 8 ngày sau

khi con vật chết. Vì vậy, bệnh phẩm được gửi đi chẩn đoán tốt nhất là tuỷ xương.

Các chất sát trùng thông thường diệt vi khuẩn nhanh chóng như axit phenic

5% trong 1 phút, creolin 3%, crezyl 3%, nước vôi 1% trong 3-5 phút. Vi khuẩn sống

khá lâu và sinh sản trong đất ẩm, thiếu ánh sáng có nhiều muối nitrat và chất hữu

cơ. Trong chuồng, trên đồng cỏ, trong đất, vi khuẩn có thể sống hàng tháng có khi

hàng năm.

1.1.2. Bệnh tụ huyết trùng do vi khuẩn P. multocida gây ra

1.1.2.1. Đặc điểm bệnh tụ huyết trùng trâu, bò

Bệnh do vi khuẩn P. multocida gây ra thường ở 2 thể chủ yếu là nhiễm trùng

huyết, xuất huyết (Haemorrhagic septicaemia - HS) và viêm phổi ở bò (Bovine

Pneumonia). Thể viêm phổi ở bò thường gặp tại các nước châu Âu và khu vực Bắc

Mỹ do vi khuẩn P. multocida type A gây ra (Frank, 1989). Ở một số nước châu Á

như Malaysia, Ấn Độ, Sri Lanka... bệnh tụ huyết trùng thể bại huyết ở lợn quan hệ

với serotype B:2 (Gamage và cs, 1995). Chính từ nghiên cứu này, các tác giả cho

11

rằng, vi khuẩn P. multocida serotype B:2 không chỉ gây bệnh tụ huyết trùng thể bại

huyết ở trâu, bò mà còn là tác nhân gây bệnh cho lợn, bệnh có thể lây truyền từ trâu,

bò sang lợn mẫn cảm và ngược lại. Benkirane và De Alwis (1999) cho biết chủng

B:2 và E:2 là 2 chủng phổ biến nhất của vi khuẩn P. multocida và có liên quan đến

bệnh ở trâu, bò tại nhiều nước châu Á và châu Phi.

1.1.2.2. Cơ chế sinh bệnh

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009), bệnh tụ huyết trùng ở trâu, bò phát triển

như sau: Bệnh phát sinh ở các vùng nóng ẩm, vào mùa mưa, vi khuẩn có sẵn trong

đất, được nước mưa đưa lên mặt đất, dính vào rơm, cỏ và trôi vào các hồ, ao,

mương, máng. Trâu, bò ăn phải rơm cỏ và uống nước có nhiễm khuẩn sẽ mắc bệnh.

Sau khi vào đường tiêu hóa, vi khuẩn qua niêm mạc nhờ các vết xây xát nhỏ

do rơm cỏ, xâm nhập vào máu, tiến đến hệ thống lâm ba ruột và hạch sau hầu,

thường hạch sau hầu sưng rất to. Từ đó vi khuẩn đi vào hệ thống hạch lâm ba trước

vai, trước đùi làm cho những hạch này sưng và thủy thũng. Bởi vậy ta thường thấy

trâu, bò bị bệnh tụ huyết trùng có biểu hiện đặc trưng: Sưng hầu mà nhân dân gọi là

“bệnh trâu hai lưỡi”.

Bình thường một số trâu bò khỏe cũng mang vi khuẩn tụ huyết trùng trong hệ

thống hô hấp và tiêu hóa. Nhưng vi khuẩn không gây bệnh và gia súc có sức đề

kháng cao, giữa vi khuẩn và gia súc có sự cân bằng sinh học. Khi gặp các yếu tố

ngoại cảnh bất lợi: Thiếu thức ăn, làm việc nặng, thời tiết thay đổi đột ngột, trâu, bò

bị giảm sức đề kháng, thế cân bằng sinh học bị phá vỡ và vi khuẩn trở nên cường

độc, gây bệnh cho trâu, bò. Một nghiên cứu ở Ấn Độ cho thấy trong điều kiện chăn

nuôi kém phát triển, đàn trâu, bò được chăn thả tự do trên các đồng cỏ tự nhiên, tạo

điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh bùng phát (Gajendragad và cs, 2012).

1.1.2.3. Đặc điểm dịch tễ học

* Nguồn bệnh và phương thức lây lan

Nguồn lây bệnh tụ huyết trùng là trâu, bò, lợn, gia cầm bị bệnh và mang

trùng. Trong cơ thể gia súc khỏe mạnh, ở điều kiện nhất định, vi khuẩn P. multocida

thường tồn tại ở đường hô hấp trên của vật chủ. Khi sức đề kháng của cơ thể giảm,

12

vi khuẩn gia tăng về số lượng và độc lực, từ đó tác động gây bệnh. Tại các ổ dịch

cũ, phần lớn những gia súc sống sót sau dịch thường trở thành những con vật mang

trùng và thường xuyên bài tiết mầm bệnh ra ngoài ngoại cảnh, những gia súc cảm

thụ mới là những trâu, bò mới sinh sau vụ dịch hay gia súc mới nhập đàn chưa có

miễn dịch (De Alwis, 1999).

* Mùa vụ phát bệnh

Mùa phát bệnh tụ huyết trùng ở các nước Châu Á tập trung vào các tháng và

mùa khác nhau trong năm. Lane E. P và cs (1992) khi nghiên cứu sự bùng phát dịch

tụ huyết trùng tại Zimbabwe đã đưa ra kết luận, bệnh nổ ra suốt mùa mưa trong

những tháng mùa hè. Ở đảo Java (Indonesia) bệnh xuất hiện vào cuối mùa khô, đầu

mùa mưa (Natalia và cs, 1993). Sự ảnh hưởng của mùa vụ tới bệnh cũng được xác

nhận tại Pakistan (Sheikh và cs, 1996). Dịch bệnh có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong

năm, nhưng thời điểm thuận lợi nhất để dịch bệnh bùng phát là vào mùa mưa.

Ở nước ta bệnh xuất hiện ở khắp nơi, có khi chỉ là những ổ dịch nhỏ, xảy ra

lẻ tẻ. Nhưng bắt đầu vào mùa mưa, khí hậu nóng ẩm bệnh lây lan thành dịch, bởi

nhiệt độ ẩm của mùa mưa tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mầm bệnh.

Các tỉnh miền Tây Nam Bộ do khí hậu nóng ẩm và nhiều đồng lầy nên bệnh xảy ra

quanh năm.

* Loài vật và tuổi mắc bệnh

Trong tự nhiên hầu hết các loài gia súc, gia cầm, loài có vú hoang dại và

chim đều mẫn cảm với bệnh. Nhiều tác giả đã khẳng định, nơi nào có bệnh tụ huyết

trùng trâu, bò thì ở đó người ta cũng phát hiện bệnh này ở động vật hoang dã.

Theo De Alwis (1984) loài vật cảm nhiễm mạnh nhất đối với bệnh tụ huyết

trùng là trâu và bò trong đó trâu mẫn cảm hơn bò, từ kết quả nghiên cứu các ổ dịch

tụ huyết trùng trâu, bò ở Sri Lanka tác giả đã khẳng định điều đó. Robertson (1999)

cho biết, ở châu Á, bệnh xảy ra ở trâu mạnh hơn ở bò, tỷ lệ trâu mắc bệnh có thể

gấp 3 lần bò.

1.1.2.4. Triệu chứng lâm sàng và bệnh tích bệnh tụ huyết trùng trâu, bò

* Triệu chứng lâm sàng

13

Bệnh tụ huyết trùng trâu, bò thường xảy ra với các triệu chứng lâm sàng chủ

yếu: sốt cao, bỏ ăn, chảy nước dãi, khó thở, thủy thũng vùng hầu, xuất huyết, tụ

huyết niêm mạc mắt, mũi, sưng hạch, viêm phổi. Bệnh kéo dài từ vài giờ đến vài

ngày và động vật chết ở giai đoạn cuối do nhiễm trùng huyết. Theo Lê Văn Năm và

cs (1999), thời kỳ ủ bệnh kéo dài 1 đến 14 ngày, bệnh thường ở hai dạng, nhiễm

trùng huyết và bội nhiễm.

Theo Trung tâm nghiên cứu UNESCO phổ biến kiến thức văn hóa giáo dục

cộng đồng (2005), diễn biến bệnh 3 - 5 ngày, tỷ lệ chết 90 - 100%. Bò bệnh bị

nhiễm trùng máu chết rất nhanh trong 1 - 1,5 ngày, nếu bệnh ác tính bò sốt cao 41-

420C, hung dữ điên cuồng, đập đầu vào tường, chết nhanh trong vòng 24 giờ. Tất cả

trâu, bò bị bệnh đều thấy có có các dấu hiệu lâm sàng như: bỏ ăn, mệt mỏi và bồn

chồn, 90,74% đàn trâu, bò thở nghe có âm ran. Các dấu hiệu lâm sàng khác bao

gồm tiết nhiều nước bọt, khó thở, tiết nước mũi nhầy. 100% những cá thể đã chết vì

nhiễm tụ huyết trùng đều khó thở, tiết nước mũi nhầy, chán ăn, bồn chồn, tiết nhiều

nước bọt (Ahrar và cs, 2011).

* Bệnh tích

Phần đầu, cổ và vùng hàm dưới của con vật sung huyết và bị phù nề. Các

đốm xuất huyết hình thành khắp cơ thể và có thể nhìn thấy máu chảy ra từ khoang

ngực và bụng, thận bị sưng lên và sung huyết. Có các đốm xuất huyết ở màng ngoài

tim. Phổi cũng có sự biến đổi, phổi bị phù nề nặng, khí phế thũng vách phổi (Ahrar

và cs, 2011).

1.1.2.5. Chẩn đoán bệnh

* Chẩn đoán sơ bộ

Là một phương pháp cần thiết, dựa trên những dấu hiệu lâm sàng, khám

nghiệm tổn thương về bệnh lý đại thể và khảo sát các thông số dịch tễ học, xem xét

về sự lưu hành bệnh trong khu vực.

* Chẩn đoán lâm sàng

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009), chẩn đoán lâm sàng căn cứ vào điều kiện

phát sinh bệnh và các biểu hiện đặc trưng về triệu chứng, bệnh tích như: sốt cao,

14

dấu hiệu thần kinh, tụ huyết và xuất huyết nặng hầu như ở tất cả các tổ chức. Hạch

lympho vùng hầu, trước vai và trước đùi sưng to thủy thũng. Triệu chứng hô hấp rõ.

* Chẩn đoán phân biệt

+ Bệnh tụ huyết trùng: dựa vào các triệu chứng điển hình của bệnh như hạch

hầu sưng to, có biểu hiện triệu chứng thần kinh, thè lưỡi, mắt đỏ.

+ Bệnh nhiệt thán: dễ nhầm với bệnh tụ huyết trùng do con vật chết đột ngột

với triệu chứng phù thũng. Bệnh tụ huyết trùng phù thũng nặng hơn và có triệu

chứng tụ huyết, xuất huyết, thịt màu hồng tím. Còn bệnh nhiệt thán thấy thịt đen,

máu đen đặc khó đông, xuất huyết ở các lỗ tự nhiên.

+ Bệnh tiêm mao trùng: cũng gây chết đột ngột và phù thũng nhưng thủy

thũng có màu hồng, ở bệnh tụ huyết trùng tích nước màu vàng.

* Chẩn đoán vi khuẩn học

De Alwis (1999) đã đưa ra phương pháp tốt nhất để phân lập vi khuẩn là tiêm

truyền dưới da cho chuột với lượng từ 0,1 - 0,2 ml máu hoặc tủy xương đã được

chuẩn bị nuôi cấy. Nếu đúng là P. multocida gây bệnh tụ huyết trùng, chuột sẽ chết

trong vòng 24 giờ, lấy máu chuột nuôi cấy sẽ cho kết quả thuần khiết.

* Chẩn đoán huyết thanh học

Phương pháp chẩn đoán huyết thanh học để xác định serotype của P.

multocida, dựa vào việc xác định kháng nguyên vỏ và kháng nguyên thân của vi

khuẩn. Theo Nguyễn Như Thanh (2001), để khảng định chắc chắn vi khuẩn P.

multocida cần xác định serotype phân lập được bằng phản ứng ngưng kết nhanh

trên phiến kính, phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu cừu để xác định type kháng

nguyên giáp mô và phản ứng kết tủa khuếch tán trong thạch để xác định kháng

nguyên thân.

+ Phương pháp ngưng kết nhanh trên phiến kính: Đây là phương pháp chẩn

đoán thường quy phòng thí nghiệm, dựa vào kỹ thuật của Namioka và Murata

(1961) để định type kháng nguyên vỏ.

+ Phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu gián tiếp IHA: Đây là phương pháp

được dùng phổ biến trong chẩn đoán để định type kháng nguyên vỏ.

15

+ Phản ứng kết tủa khuếch tán trên thạch AGPT: Theo phương pháp của

Heddleston và cs (1972) để định type kháng nguyên thân.

+ Các phương pháp định type huyết thanh khác:

Phương pháp điện di miễn dịch đối kháng (Counter -

Immmuoelectrophoresis):

Phản ứng đồng ngưng kết (Coaglutination test): Để phân biệt giữa type B và

Type E gây bệnh tụ huyết trùng trâu, bò (Rimler, 1992).

+ Phương pháp ELISA (Enzyme Linked Immunosorbent Assay): Phương

pháp ELISA đang được các nhà khoa học trên thế giới ứng dụng để chẩn đoán bệnh

tụ huyết trùng vì hiệu quả của phản ứng này. Dawkins và cs (1990) khẳng định, phản

ứng ELISA đối với bệnh tụ huyết trùng cho kết quả nhanh, chính xác và là phản ứng

chẩn đoán để xác định vi khuẩn gây bệnh tụ huyết trùng, nhưng không thể định type

cho P. multocida. Kỹ thuật ELISA đã áp dụng thành công để kiểm tra miễn dịch và

giám định kháng nguyên của vi khuẩn P. multocida serotype B:2 (Natalia và cs,

1993, Chandrasekaran và cs, 1994). ELISA cũng được báo cáo là có độ nhậy gấp 3

đến 5 lần so với phương pháp ngưng kết gián tiếp hồng cầu (Pati và cs, 1996, Verma

and Jaiswal, 1997). Theo Trần Xuân Hạnh và cs (2007), kỹ thuật ELISE với kháng

nguyên P. multocida serotype B:2 có thể dùng để phát hiện hoặc đo sự hiện diện của

kháng thể thu được tự nhiên, kỹ thuật có độ nhạy cao, kinh tế và tiện lợi cho việc

kiểm tra với số lượng lớn mẫu huyết thanh. Qureshi và Saxena (2014) kiểm tra kháng

thể của 100 cá thể bò sau tiêm vaccine tụ huyết trùng phèn kết tủa bằng phản ứng

ngưng kết microtiter (MAT), Phản ứng ngưng kết hồng cầu gián tiếp (IHA) và

phương pháp (ELISA). Kết quả cho thấy hiệu giá đo bằng phương pháp ELISA luôn

cao hơn so với MAT và IHA trong suốt quá trình thí nghiệm.

* Chẩn đoán phi huyết thanh học (Nonserological test)

Một vài kỹ thuật chẩn đoán phi huyết thanh học đã được phát triển để nhận

biết nhanh các chủng. Những kỹ thuật này bao gồm Acriflavine Flocculation test

được miêu tả bởi Carter và Subronto (1973) để nhận biết các chủng type D, kỹ thuật

Hyaluronidase decapsulation test để nhận biết các chủng type A, kỹ thuật tạo men

Hyaluronidase để nhận biết nhanh các chủng thuộc type B.

16

* Kỹ thuật sinh học phân tử (Molecular Byology techniques)

Trong những năm gần đây, kỹ thuật PCR đã trở nên phổ biến trong việc phát

hiện và định type vi khuẩn. Trong chẩn đoán bệnh tụ huyết trùng trâu, bò, phương

pháp PCR đã được nhiều nhà nghiên cứu ứng dụng (De Alwis, 1999).

Lê văn Dương (2013) xác định serotype của 42 chủng vi khuẩn P. multocida

phân lập được từ lợn mắc bệnh viêm phổi ở Bắc Giang bằng phản ứng PCR thấy có

31 chủng thuộc serotype A, 11 chủng thuộc serotype D, không có chủng nào thuộc

serotype B.

1.1.2.6. Phòng bệnh

Ngoài những biện pháp chung áp dụng cho các bệnh truyền nhiễm, còn căn

cứ vào đặc tính gây bệnh của vi khuẩn P. multocida và tính chất truyền nhiễm của

bệnh mà có các biện pháp phòng bệnh thích hợp. Theo Bùi Xuân Đồng (2000), biện

pháp phòng bệnh quan trọng nhất là cần phải tuyên truyền sâu rộng về bệnh tụ

huyết trùng để nhân dân nhận thức và thực hiện một số biện pháp phòng trị bệnh

như chăm sóc, nuôi dưỡng, sử dụng, vệ sinh chuồng trại, tăng cường công tác kiểm

dịch động vật, sản phẩm động vật.

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009), khi có dịch cần thực hiện các bước sau để

phòng chống dịch lây lan.

+ Phát hiện gia súc ốm để cách ly, điều trị kịp thời, tránh lây nhiễm mầm

bệnh sang gia súc khỏe.

+ Thực hiện pháp lệnh thú y: Công bố dịch, cấm không vận chuyển và giết

mổ trâu, bò vùng có dịch.

+ Trâu, bò chết do bệnh không được mổ thịt, phải hủy, chôn sâu, đổ vôi bột

vào hố chôn. Chuồng trại có súc vật ốm phải quyết dọn sạch, tẩy uế bằng nước vôi

10-20%, phân, rác phải ủ hoặc đốt để diệt mầm bệnh.

+ Tổ chức tiêm vaccine vào thẳng ổ dịch, tạo miễn dịch cho súc vật khỏe

phòng nhiễm vi khuẩn tụ huyết trùng.

Do đặc điểm của bệnh tụ huyết trùng thường xảy ra ở thể cấp tính và quá cấp

tính nên việc sử dụng kháng sinh chỉ có hiệu quả khi được phát hiện sớm. Chính vì

17

vậy việc phòng chống bệnh cho trâu bò là cần thiết, đặc biệt là phòng bệnh chủ

động bằng vaccine.

Để phòng bệnh tốt hơn, theo De Alwis (1999) ngoài việc tiêm phòng bằng

vaccine, cần phải thực hiện 3 biện pháp kèm theo sau:

- Xây dựng hệ thống chuyên môn, quản lý thông báo dịch tốt. Điều này sẽ

làm cho thông tin về những ổ dịch xảy ra được nhận biết nhanh nhất, từ đó có biện

pháp phòng chống nhanh, hiệu quả, tránh được lây lan bệnh.

- Thúc đẩy nhận thức của người chăn nuôi về bệnh, hướng dẫn họ cách phát

hiện bệnh và biện pháp phòng chống. Hướng dẫn chăm sóc, nuôi dưỡng, sử dụng

trâu, bò hợp lý, tránh gây ra stress.

- Thực hiện nghiêm ngặt việc kiểm soát, kiểm dịch. Ngăn chặn việc sát nhập,

vận chuyển gia súc từ các vùng có dịch vào hoặc đi qua các địa phương.

1.1.2.7. Điều trị bệnh

* Điều trị bằng kháng sinh

Điều trị bệnh tụ huyết trùng trâu, bò chủ yếu bằng kháng sinh, kèm theo

thuốc trợ sức, trợ lực cùng với việc chăm sóc và nuôi dưỡng tốt. Kết quả điều trị

phụ thuộc vào sự phát hiện bệnh sớm hay muộn và loại kháng sinh điều trị. Nếu

phát hiện sớm thì điều trị sẽ có kết quả tốt. Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009), do

đặc điểm của bệnh thường xảy ra ở thể quá cấp tính và cấp tính nên cần phát hiện

bệnh thật sớm, điều trị kịp thời thì mới có hiệu quả cao.

Trong khi sử dụng các kháng sinh điều trị, các tác giả đều đề nghị sử dụng

thêm các thuốc trợ lực, trợ tim và các loại vitamin như: cafein hoặc long não,

vitamin B1, vitamin C.

Tuy vậy muốn điều trị có hiệu quả cần làm kháng sinh đồ để lựa chọn kháng

sinh phù hợp. Để điều trị bệnh trong thực tế có hiệu quả cần nghiên cứu tác động

phối hợp của thuốc, đường cho thuốc và đặc biệt là lưu ý điều trị triệu chứng lâm

sàng của từng gia súc.

* Điều trị bằng kháng huyết thanh

18

Ngoài việc điều trị bệnh tụ huyết trùng trâu, bò bằng kháng sinh và hóa dược,

một số tác giả còn sử dụng kháng huyết thanh. Chế tạo kháng huyết thanh tụ huyết

trùng đa giá trên ngựa dùng điều trị bệnh tụ huyết trùng, nhưng tác dụng thường

ngắn. Thời gian tác dụng tốt nhất trong vòng 16 - 24 giờ sau khi tiêm, giảm sau 48

giờ và biến mất sau 142 giờ.

Ở Việt Nam, phân Viện Thú y Nha Trang cũng đã chế kháng huyết thanh đa

giá tụ huyết trùng trên ngựa, sử dụng điều trị cho các loại trâu, bò quý, trong phòng

bệnh khẩn cấp, liều phòng và trị như sau.

Với bê, nghé liều phòng 10-20 ml/con. Liều trị 20-40 ml/con.

Với trâu, bò liều phòng 30-50 ml/con. Liều trị 60-100 ml/con.

1.2. TỔNG QUAN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI

Nghiên cứu của Ramdani và cs (1990) cho thấy, một trong những chủng P.

multocida phổ biến gây bệnh tụ huyết trùng trâu, bò là chủng M1404 thuộc

serotype B rất độc với chuột bạch, chỉ cần tiêm 20 vi khuẩn/chuột sau 18 giờ chuột

đã có triệu chứng nhiễm trùng huyết.

Theo Blocker và cs (2006), độc tố P. multocida còn có khả năng tái tạo

polymeractin, làm thay đổi hình thái tế bào dendrite (Dendritic cells), làm cản trở sự

xâm nhập của tế bào này vào các hạch lympho trong quá trình đáp ứng miễn dịch ối

với bệnh tụ huyết trùng. Tuy nhiên độc tố của P. multocida không ảnh hưởng tới sự

ẩm bào của các đại thực bào (macropinocylosis).

Muhammad Imran và cs (2007) nghiên cứu tỷ lệ mang trùng P. multocida ở

trâu, bò nuôi tại tỉnh Faisalabad, Pakistan thấy, 100 mẫu dịch ngoáy mũi thu được

từ trâu sau khi tiến hành nuôi cấy chỉ có 3 mẫu dương tính (2 mẫu của trâu trên 1

năm tuổi và 1 mẫu của trâu dưới 1 năm tuổi).

Yoshimura và cs (2008), Kumar và cs (2009) cho biết, enrofloxacin là kháng

sinh hiệu quả nhất chống lại P. multocida.

Ahrar và cs (2011) nghiên cứu tại Pakistan thấy, tỷ lệ trâu, bò chết do tụ

huyết trùng nhiều nhất là 8 - 9 tháng tuổi (47,05%), tiếp theo là trâu bò trên 9 tháng

tuổi (29,41%) và từ 6 - 7 tháng tuổi (23,53%). Căn bệnh lây lan trong 10 ngày, đỉnh

điểm là ngày thứ 8, khi mà tỉ lệ tử vong lên đến 37%

19

Naz và cs (2012) kiểm tra khả năng mẫn cảm với kháng sinh của 16 chủng P.

multocida phân lập được từ trâu tại Pakistan thấy có 87,5% chủng nhạy cảm với

kháng sinh ciprofloxacin, ofloxacin, enrofloxacin và gentamycin.

Theo Gajendragad và cs (2012) dịch bệnh tụ huyết trùng thường xảy ra giữa

những đàn gia súc được chăn thả trên các cánh đồng tự nhiên, cùng uống chung 1

nguồn nước và được nhốt cùng nhau.

Mitra và cs (2013) cho biết, vi khuẩn P. multocida dương tính với phản ứng

Indole, khử nitrat, phản ứng gelatin hóa, lên men đường glucose, sucrose, galactose,

fructose và mannitol.

Theo Manasa và cs (2013), 100% các chủng vi khuẩn P. multocida mẫn cảm

với enrofloxacin, flumequin, penecillin, chloramphenicol và cephalexin. Còn các

kháng sinh khác lần lượt là pefloxacin 93,2%, gentamycin 90,1%, ampicillin 90%.

Annas và cs (2014) cho biết, sau các đợt dịch tụ huyết trùng, vi khuẩn sinh

sôi trong amidan những cá thể trâu sống sót và trở thành vật truyền nhiễm, căn bệnh

này có thể lây qua đường hô hấp. Tác giả cũng làm thí nghiệm nhốt các con bê khỏe

mạnh cùng với 1 con bê bị nhiễm P. multocida B: 2, những con bê sống sót đã trở

thành vật lây nhiễm bệnh. Vi khuẩn Pasteurella đã được phát hiện trong đường hô

hấp, cơ quan tiêu hóa và đường tiết niệu của bê, cho thấy vai trò của các cơ quan, bộ

phận này trong việc phát tán bệnh.

Theo Kawasaki M. và cs (2015), bệnh tụ huyết trùng là bệnh truyền nhiễm

cấp tính gây tử vong chủ yếu cho trâu, bò và bùng phát phổ biến ở Campuchia. Tỷ

lệ trâu, bò mắc bệnh trung bình là 10,1% và tỷ lệ chết là 28,8%. Trâu có tỷ lệ mắc

bệnh và chết cao hơn ở bò.

Abu James Sundufu và cs (2015) đã tiến hành giám sát các bệnh truyền

nhiễm ở gia súc và gia cầm tại huyện Koinadugu, Sierra Leone và cho biết: trong

tổng cộng 5.679 gia súc, gia cầm bệnh được báo cáo có 1.402 gia súc mắc giun đầu

gai, 911 gia cầm bị newcastle và 542 gia súc mắc bệnh tụ huyết trùng.

Bernardo Augusto França Dias de Oliveira và cs (2016) đã thu thập dịch

ngoáy mũi từ 96 gia súc khỏe mạnh ở Bang Sao Paulo, Brazil để phân lập vi khuẩn

P. multocida. Kết quả có 15,50% số mẫu dương tính với vi khuẩn P. multocida.

20

Theo Edouard Timsit và cs (2017), P. multocida là vi khuẩn thường gặp nhất

được phân lập ở gia súc (54,8%). P. multocida có khả năng đề kháng cao với

oxytetracycline (67%) và penicillin (52%).

Tibor Magyar. và cs (2017) đã cho biết, bệnh tụ huyết trùng xuất hiện trở lại

tại Hungary kể từ năm 1970. Bênh xảy ra tại 3 trại bò nhỏ ở thể cấp tính. Bò, bê

nhiễm bệnh có biểu hiện mệt mỏi, chán ăn, triệu chứng tích nước và xuất huyết dưới

da, hạch họng hầu sưng to, nhiễm trùng huyết, ở bê có hiện tượng phù thũng tứ chi.

Maynou G. và cs (2017) nghiên cứu tính kháng thuốc của P. multocida phân

lập được từ dịch ngoáy mũi ở bê Holstein với các loại kháng sinh amoxicillin-

clavulanic acid, ceftiofur, colistin, doxycycline (DO), registerfloxacin (ENR),

erythromycin, florfenicol, imipenem và streptomycin. Kết quả cho thấy số chủng vi

khuẩn P. multocida kháng colistin chiếm tỷ lệ rất cao.

Chenlu Wu và cs (2017) cho biết, bệnh tụ huyết trùng do P. multocida ở gia

súc gây ra dịch bệnh nghiêm trọng và gây thiệt hại lớn về kinh tế cho ngành chăn

nuôi trên toàn thế giới.

Zi Wang và cs (2017) đã thử nghiệm tính kháng với aminoglycoside và

spectinomycin của 23 chủng P. multocida phân lập được từ đường hô hấp của bò tại

Trung Quốc. Kết quả cho thấy tất cả các chủng phân lập đều có tính kháng với ít

nhất hai loại aminoglycoside và kháng mạnh với spectinomycin.

Drew R. Magstadt và cs (2018) cho biết: việc lạm dụng điều trị bằng kháng

sinh có thể gây ra hiện tượng kháng thuốc của các loại vi khuẩn nói chung và vi

khuẩn P. multocida nói riêng.

Clémence Bourély và cs (2019) đã thử nghiệm tính kháng thuốc của 5.356

chủng P. multocida đối với registerfloxacin được xác định ở gia súc (4,5%) và chó

(5,2%); khả năng kháng florfenicol ở các chủng P. multocida là khoảng 1%, tỷ lệ

các chủng vi khuẩn P. multocida đề kháng với tetracycline, tilmicosin, flumequine

và fluoroquinolones phân lập từ gia súc ngày càng cao.

Tại Ấn Độ, Rajeswari Shome và cs (2019) cho biết: bệnh tụ huyết trùng là một

trong những bệnh gây tỷ lệ chết cao nhất trên trâu, bò do vi khuẩn P. multocida gây ra,

21

do đó gây thiệt hại lớn về kinh tế ngành chăn nuôi. Các tác giả đã thu thập 346 mẫu

huyết thanh bò từ 224 hộ gia đình thuộc ba huyện của bang Assam, Đông Bắc Ấn Độ,

kết quả có 88 mẫu huyết thanh dương tính, chiếm tỷ lệ 25,4%.

Theo Holschbach C. L. và cs (2020), trong 4.261 mẫu bệnh phẩm từ bò bệnh

được gửi về phòng thí nghiệm Chẩn đoán Thú y Wisconsin (WVDL), có 2.094 mẫu

phân lập dương tính với P. multocida. Các chủng vi khuẩn này đều có tính kháng

với ít nhất 1 loại kháng sinh.

1.3. TỔNG QUAN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM

Những nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy, ổ dịch đầu tiên trong vùng xảy ra từ

trâu, bò của địa phương bị bệnh, do việc giết mổ làm dịch lây lan rộng. Dịch thường

xảy ra và lan rộng theo các triền sông do nước bị nhiễm vi khuẩn gây bệnh (Bùi

Quý Huy, 1998).

Bùi Xuân Đồng (2000) khi nghiên cứu bệnh tụ huyết trùng trâu, bò ở Hải

Phòng cho biết bệnh bắt đầu vào tháng 4, đỉnh cao là tháng 6, 7.

Cao Văn Hồng (2002) cho biết, mùa dịch tụ huyết trùng ở Đắc Lắk từ tháng

5 đến tháng 9, đây là những tháng mưa nhiều.

Nguyễn Đình Trọng (2002) kiểm tra tính mẫn cảm kháng sinh của 31 chủng

P. multocida phân lập tại Bắc Kạn, có 83,87% các chủng vi khuẩn kháng lại với

penicilline, streptomycine 32,26%; ampicilline 19,35%; chlortetracycline 12,9% và

9,67% với furazolidone.

Theo Hoàng Đăng Huyến (2004), bệnh tụ huyết trùng xảy ra ở Bắc Giang từ

tháng 4 đến tháng 9 hàng năm, thời gian này đang là mùa mưa.

Theo Nguyễn Văn Thanh (2004), dùng kháng huyết thanh chống bệnh tụ

huyết trùng trâu bò, tiêm dưới da, trâu bò 60 - 100 ml; bê nghé 20 - 40 ml. Tiêm

Streptomycin 2gr cho 100 kg thể trọng, tiêm ngày 2 lần, tiêm liền trong 4 - 5 ngày,

ngoài ra cần trợ sức trợ lực cho con vật.

Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) cho rằng, ở các vùng có lưu hành bệnh, tổ chức

tiêm phòng vaccine cho đàn trâu, bò 6 tháng/lần để đảm bảo cho đàn trâu, bò được

miễn dịch chống lại vi khuẩn tụ huyết trùng.

22

Nguyễn Bá Hiên và cs (2009) cho biết, các tỉnh phía Bắc bệnh thường có vào

mùa mưa, lũ lụt từ tháng 6 đến tháng 12. Hiện nay bệnh hay gặp ở các tỉnh miền núi

như Lạng Sơn, Lai Châu, Sơn La, Tuyên Quang, Hà Giang,... gây nhiều thiệt hại.

Đặng Xuân Bình và cs (2010) khi thử độc lực của các chủng P. multocida phân

lập được từ trâu, bò và lợn ở 2 tỉnh Hà Giang, Cao Bằng thấy các chủng đều có độc lực

cao gây chết chuột từ 80 - 100% trong vòng 48 giờ sau khi công cường độc.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2011), lúc sắp chết con vật nằm liệt, đái ra

máu, thở rất khó khăn, có nhiều chấm xuất huyết đỏ ở các niêm mạc. Bệnh tiến triển

3 - 5 ngày, tỷ lệ chết 90 - 100%, nếu bệnh chuyển sang thể nhiễm trùng máu, con

vật chết trong 24 - 36 giờ. Có thể dùng các loại kháng sinh sau để điều trị bệnh tụ

huyết trùng cho trâu, bò: streptomycin, kanamycin, oxytetracyclin, neomycin,

gentamycin, nofloxacin.

Trương Quang Hải (2012) thấy vi khuẩn mẫn cảm mạnh với ceftiofur

(95,0%), florfenicol (90,0%), amoxicillin (80,0%), ofloxacin (75,0%) và

streptomycin (70,0%).

Cù Hữu Phú và cs (2014) kiểm tra độc lực của 10 chủng P. multocida, thấy

cả 10 chủng đều có độc lực mạnh, có khả năng gây chết chuột trong vòng 16 - 32

giờ sau tiêm.

Nguyễn Khắc Đại (2015) cho biết: trâu, bò khoẻ mạnh có mang vi khuẩn P.

multocida ở đường hô hấp, tỷ lệ phân lập ở đàn trâu, bò trung bình là 8,40%. Tỷ lệ

phân lập được ở trâu cao hơn ở bò. Tỷ lệ mang trùng cao nhất là giai đoạn < 2 năm

tuổi (trâu 20,83%; bò 23,53%).

Hoàng Văn Khoản và cs (2015) kiểm tra dung quang khuẩn lạc của giống vi

khuẩn P. multocida sản xuất vaccine chủng N41, thấy khuẩn lạc có dung quang đặc

trưng, màu xanh lơ, xanh lá mạ chiếm phần lớn diện tích bề mặt khuẩn lạc, phần

diện tích khuẩn lạc còn lại có màu vàng da cam chứng tỏ vi khuẩn có độc lực cao.

Theo Lê Văn Phượng (2015), trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng tại 3 huyện

Quảng Xương, Nông Cống, Tĩnh Gia thuộc tỉnh Thanh Hóa có sự khác biệt rõ ràng

23

giữa hai vụ Đông - Xuân và Hè - Thu. Vụ Đông - Xuân số trâu, bò chết chiếm

5,88%; vụ Hè - Thu số trâu, bò chết chiếm 3,78%.

Phạm Thị Phương Lan (2017) cho biết: Trâu, bò nuôi tại 2 tỉnh Hà Giang,

Cao Bằng có hiện tượng khỏe mang trùng, là nguồn bệnh tiềm tàng bệnh tụ huyết

trùng và trong số này chỉ có 2,17% cá thể có đáp ứng miễn dịch bảo hộ với bệnh tụ

huyết trùng.

24

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU

2.1.1. Đối tượng

- Vi khuẩn P. multocida.

- Bệnh tụ huyết trùng trên đàn trâu, bò của tỉnh Quảng Ninh.

2.1.2. Nguyên vật liệu dùng cho nghiên cứu

* Mẫu bệnh phẩm dùng phân lập vi khuẩn

- Dịch ngoáy mũi lấy từ trâu, bò khỏe mạnh không có triệu chứng lâm sàng.

- Thu thập bệnh phẩm là gan, lách, phổi, tủy xương của trâu, bò nghi mắc

bệnh tụ huyết trùng.

* Động vật thí nghiệm

- Chuột bạch khỏe mạnh, có trọng lượng từ 18 - 20 gam/con.

- Trâu, bò khỏe mạnh không mắc bệnh tụ huyết trùng và chưa được tiêm

phòng vaccine tụ huyết trùng.

* Các loại môi trường nuôi cấy, phân lập vi khuẩn

- Thạch máu.

- Thạch Macconkey.

- Canh thang BHI.

- Thạch urê.

- Môi trường nước pepton.

* Các loại thiết bị, dụng cụ dùng trong nghiên cứu

Sử dụng các thiết bị, dụng cụ của phòng thử nghiệm thông thường và cụ thể

như sau:

- Tủ ấm, có thể duy trì nhiệt độ 37oC.

- Tủ sấy.

- Nồi hấp.

- Buồng cấy.

- Kính hiển vi quang học.

25

- Tủ lạnh.

- Que cấy.

- Đèn cồn.

- Đĩa Petri để đổ môi trường.

- Panh, kéo, lamen, phiến kính, pipet và lọ thủy tinh các cỡ.

2.2. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU

2.2.1. Thời gian nghiên cứu

Từ 08/2019 - 08/2020

2.2.2. Địa điểm nghiên cứu

- Đề tài được thực hiện tại ba huyện, thị xã thuộc tỉnh Quảng Ninh (huyện

Hải Hà, huyện Ba Chẽ, thị xã Đông Triều);

- Trạm Chẩn đoán xét nghiệm bệnh động vật - Cơ quan Thú y vùng II;

- Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Quảng Ninh.

2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

2.3.1. Một số đặc điểm dịch tễ bệnh tụ huyết trùng trâu, bò ở tỉnh Quảng Ninh

từ năm 2016 - 2019.

- Tình hình trâu, bò ốm và chết do bệnh tụ huyết trùng trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh từ năm 2016 - 2019

- Tỷ lệ trâu, bò ốm và chết do bệnh tụ huyết trùng theo mùa vụ, lứa tuổi và

loài gia súc.

2.3.2. Triệu chứng, bệnh tích điển hình ở trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng

2.3.3. Phân lập và xác định một số đặc tính sinh vật, hóa học của vi khuẩn P.

multocida

- Phân lập vi khuẩn P. multocida từ dịch ngoáy mũi của trâu, bò khỏe mạnh

tại các địa phương nghiên cứu

- Phân lập vi khuẩn P. multocida từ bệnh phẩm trâu, bò nghi mắc bệnh tụ

huyết trùng tại các địa phương nghiên cứu

- Giám định một số đặc tính sinh vật, hoá học của các chủng vi khuẩn P.

mutocida phân lập được

- Xác định serotype kháng nguyên của các chủng vi khuẩn P. multocida phân

lập được

26

- Xác định độc lực của các chủng P. multocida phân lập được

- Kết quả kiểm tra tính mẫn cảm của vi khuẩn P. multocida phân lập được

với một số loại kháng sinh và hóa dược

2.3.4. Thử nghiệm phác đồ điều trị và đề xuất biện pháp phòng bệnh tụ huyết

trùng cho trâu, bò tại tỉnh Quảng Ninh

- Kết quả thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh tụ huyết trùng trâu, bò

- Đề xuất biện pháp phòng bệnh tụ huyết trùng trâu, bò tại tỉnh Quảng Ninh

2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.4.1. Phương pháp nghiên cứu dịch tễ học bệnh tụ huyết trùng trâu, bò

Điều tra tình hình dịch tễ bệnh tụ huyết trùng trâu, bò từ năm 2016 - 2019 tại

tại tỉnh Quảng Ninh theo phương pháp hồi cứu như mô tả của Nguyễn Như Thanh

(2001). Chọn điểm điều tra theo phương pháp ngẫu nhiên, mẫu chùm nhiều bậc kết

hợp với số liệu báo cáo công tác thú y qua các năm (2016 - 2019) của Chi cục Chăn

nuôi và Thú y tỉnh Quảng Ninh.

2.4.2. Phương pháp lấy mẫu

Lấy dịch ngoáy mũi trâu, bò khỏe: dùng tăm bông vô trùng ngoáy sâu vào

mũi trâu, bò để thấm dịch tiết, cho que bông vào ống nghiệm có chứa môi trường

dinh dưỡng Natural blood đã hấp vô trùng, đậy nút, ghi ký hiệu (mẫu được cho vào

phích lạnh) rồi đưa về phòng thí nghiệm. Các mẫu bệnh phẩm được bảo quản trong

điều kiện 40C.

Bệnh phẩm là gan, lách, phổi thì lấy những vị trí có bệnh tích điển hình; bệnh

phẩm là tủy xương thì lấy một đoạn xương ống chân. Bệnh phẩm được cho vào túi

nylon vô trùng, bảo quản ở điều kiện nhiệt độ 40C và nhanh chóng đưa về phòng thí

nghiệm của trạm Chẩn đoán xét nghiệm bệnh động vật - Cơ quan Thú y vùng II để

phân lập vi khuẩn.

2.4.3. Phương pháp xác định triệu chứng, bệnh tích ở trâu, bò mắc bệnh và chết do

tụ huyết trùng

2.4.3.1. Phương pháp xác định triệu chứng của bệnh tụ huyết trùng ở trâu, bò

Tiến hành lựa chọn 23 trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng tại 3 huyện, thị thuộc

tỉnh Quảng Ninh trong năm 2019 (huyện Hải Hà, huyện Ba Chẽ và thị xã Đông

27

Triều) để theo dõi chỉ tiêu này. Trong quá trình theo dõi, kết hợp với chủ hộ nuôi

trâu, bò; hàng ngày quan sát các biểu hiện của con vật để xác định các biểu hiện bất

thường về ăn uống, đi lại, vận động, các biến đổi ở da, niêm mạc, cơ thể….

2.4.3.2. Phương pháp xác định bệnh tích đại thể ở trâu, bò chết do tụ huyết trùng

Kết hợp với các trạm thú y tại các huyện, thành, thị thuộc tỉnh Quảng Ninh

để thực hiện nội dung này. Tất cả 19 trâu, bò chết có biểu hiện đặc trưng của bệnh

tụ huyết trùng tại tỉnh Quảng Ninh năm 2019 đều được mổ khám bệnh tích để xác

định các biến đổi đại thể và lấy mẫu bệnh phẩm (gan, lách, xương ống chân và

phổi) phân lập vi khuẩn P. multocida.

2.4.4. Phương pháp nuôi cấy, phân lập và xác định vi khuẩn P. multocida

Phương pháp nuôi cấy, phân lập và xác định vi khuẩn P. multocida được tiến

hành theo TCVN 8400-14:2011.

2.4.4.1. Phương pháp nuôi cấy, phân lập

Mỗi mẫu (dịch ngoáy mũi hoặc bệnh phẩm) được ria cấy trực tiếp lên các

môi trường thông thường và đặc biệt như nước thịt, thạch máu, MacConkey, bồi

dưỡng ở 370C trong 24 giờ. Sau khi vi khuẩn mọc, căn cứ vào tính chất mọc trên

các môi trường để chọn khuẩn lạc điển hình đem nuôi cấy lại trên các môi trường

chọn lọc để thuần khiết rồi tiến hành các phương pháp thử sinh hóa để giám định vi

khuẩn. Khuẩn lạc của P. multocida được xác định theo tiêu chuẩn của Heddleston

và cs (1966).

2.4.4.2. Phương pháp xác định tính chất sinh vật, hóa học của P. multocida

* Kiểm tra hình thái vi khuẩn bằng phương pháp nhuộm Gram

- Cố định tiêu bản: Lấy một phiến kính sạch, nhỏ một giọt nước muối sinh lý

lên phiến kính, dùng que cấy lấy một khuẩn lạc điển hình, trộn đều vi khuẩn với

giọt nước sinh lý. Sau đó cố định tiêu bản trên ngọn lửa đèn cồn.

- Nhuộm: Nhỏ một giọt tím tinh thể (crystian violet) để 1 phút, cố định màu

bằng dung dịch lugol, để 1 phút, rửa nhanh bằng nước cất. Nhuộm lại tiêu bản bằng

dung dịch đỏ fucshin, để 2 phút. Rửa nhanh bằng nước cất, để khô tự nhiên.

- Kiểm tra dưới kính hiển vi: Nhỏ một giọt dầu soi kính lên tiêu bản, sử dụng

vật kính dầu, kiểm tra hình thái vi khuẩn ở độ phóng đại 1000 lần.

28

* Thử phản ứng Oxydaza

Phản ứng được tiến hành trên giấy được thấm dung dịch Tetramethyl-

Phenylene. Dùng que cấy lấy khuẩn lạc từ môi trường thạch bôi lên mặt giấy đã

thấm thuốc thử. Nếu chỗ được bôi khuẩn lạc sau 10 giây xuất hiện màu xanh tím là

phản ứng dương tính. Nếu không xuất hiện màu xanh tím hoặc không đổi màu là

phản ứng âm tính.

* Thử phản ứng Catalaza

Nhỏ lên phiến kính sạch vài giọt dung dịch H2O2 3%, dùng que cấy vô trùng

lấy 1 khuẩn lạc điển hình trộn đều. Sau 5 giây hiện tượng sủi bọt xuất hiện là dương

tính, không thay đổi gì là phản ứng âm tính.

* Phản ứng sinh Indol

Cấy giống vi khuẩn cần thử vào môi trường Nutrient Broth sau đó bồi dưỡng

trong tủ ấm ở 370C trong 24 giờ. Nhỏ 1 - 3 giọt Kowacs dọc theo thành ống nghiệm.

Phản ứng dương tính xuất hiện một vòng đỏ thẫm trên bề mặt.

* Kiểm tra khả năng di động của trên môi trường thạch lỏng

Dùng que cấy chích sâu để lấy khuẩn lạc cấy thẳng xuống gần đáy của ống

nghiệm có môi trường thạch lỏng. Nuôi trong tủ ấm, đọc kết quả sau 24 h.

- Phản ứng dương tính (có khả năng di động): môi trường đục, không nhìn rõ

đường cấy chích sâu;

- Phản ứng âm tính: môi trường trong và nhìn thấy đường cấy chích sâu.

* Khả năng lên men đường, khả năng sinh H2S

Dùng que cấy vô trùng lấy một khuẩn lạc nghi là vi khuẩn P. multocida cấy

lên môi trường thạch nghiêng TSI.

- Trên bề mặt thạch nghiêng: Xác định độ lên men đường Lactosa, nếu thạch

chuyển sang màu đỏ là phản ứng dương tính. Vi khuẩn P. multocida không lên men

đường lactose.

- Trên bề mặt thạch đứng: Xác định độ lên men đường Glucosa, nếu thạch

chuyển sang màu vàng là phản ứng dương tính.

- Nếu là vi khuẩn sinh hơi mạnh thì làm nứt thạch và đẩy môi trường lên

từng đoạn.

29

- Nếu vi khuẩn sản sinh H2S: Phần tiếp giáp giữa phần đứng và phần nghiêng

có màu đen.

2.4.4.3. Phương pháp xác định serotype kháng nguyên của vi khuẩn P. multocida

Xác định serotype vi khuẩn bằng phương pháp PCR (Polymerase Chain

Reaction). Phản ứng sử dụng cặp mồi (Primer sequences) sau:

KTT72 5’-AGG-CTC-GTT-TGG-ATT-ATG-AAG-3’

KTSP61 5’-ATC-CGC-TAA-CAC-ACT-CTC-3’

Phản ứng gồm có các giai đoạn: Tiền biến tính ở 94˚C/3phút và 30 chu kỳ

nhiệt (biến tính 94˚C/3 phút, ủ bắt cặp 55˚C/1 phút, kéo dài 72˚C/1 phút ) và kéo dài

cuối cùng 72˚C/7 phút.

Quá trình điện di được thực hiện trên gel agarose 2%, hiệu điện thế 100V

trong 30 phút. Gel được nhuộm trong dung dịch EDTA đã bổ sung 1% ethidium

bromide. Sau 15 phút, tiến hành đọc kết quả bằng hệ thống Gel-Doc 2000. Các

vạch DNA được đánh giá bằng cách so sánh với DNA ladder chuẩn và mẫu đối

chứng dương.

Serotype giáp mô của vi khuẩn P. multocida được xác định dựa trên phản

ứng PCR. Sử dụng cặp mồi CAPB-F, CAPB-R để xác định serotype B của P.

multocida. Trình tự các đoạn mồi và kích cỡ của sản phẩm đối với cặp mồi đặc hiệu

trình bày ở bảng 2.1.

Bảng 2.1. Trình tự cặp mồi dùng để xác định serotype B của vi khuẩn P. multocida

Trình tự mồi Ký hiệu mồi Trình tự mồi

CAPB-F 5’-CAT TTA TCC AAG CTC CAC C-3’ 760bp

CAPB-R 5’-GCC CGA GAG TTT CAA TCC-3’

2.4.5. Kiểm tra độc lực của vi khuẩn P. multocida phân lập được

2.4.5.1. Kiểm tra độc lực của vi khuẩn trên chuột bạch

Tiến hành phân lập và kiểm tra độc lực của vi khuẩn P. multocida theo

Quinn P. J. và cs (1994).

30

Dịch ngoáy mũi, mẫu bệnh phẩm

Thạch máu (Blood agar), 370C/24h

Kiểm tra đặc tính sinh vật, hóa học

Làm tiêu bản, nhuộm Gram

Các phản ứng sinh hóa Oxidase (+), Calatase (+), Indole (+)

Thử phản ứng lên men đường, khả năng dung huyết

Pasteurella multocida

Kháng sinh đồ Thử độc lực Giữ giống

Hình 2.1. Sơ đồ phân lập vi khuẩn P. multocida

(Quinn P. J. và cs, 1994)

Sau khi nuôi cấy và tiến hành thuần khiết vi khuẩn phân lập được qua các

môi trường nuôi chọn lọc, cấy chủng vi khuẩn thử lên môi trường BHI, bồi dưỡng

trong tủ ấm ở 370C trong 24 giờ tạo điều kiện cho vi khuẩn sản sinh độc tố rồi tiến

hành thử độc lực trên chuột thí nghiệm.

Sử dụng chuột bạch (18 - 20g/con) khỏe, mỗi chủng dùng tiêm 2 chuột, liều

31

tiêm xoang bụng 0,2ml/chuột. Theo dõi chuột chết và thời gian chết của chuột sau

khi tiêm canh khuẩn từ 8 - 72 giờ và đến hết 7 ngày.

Chuột chết mổ khám kiểm tra bệnh tích, thu thập bệnh phẩm, nuôi cấy phân

lập lại vi khuẩn.

2.4.5.2. Phương pháp kháng sinh đồ

Chuẩn bị môi trường thạch đĩa Muller Hiton

Chuẩn bị canh trùng: các chủng P. multocida thử được cấy vào môi trường

thạch máu Blood base Agar có bổ sung 5% máu cừu, bồi dưỡng trong tủ ấm 37oC

trong 24 giờ. Các khuẩn lạc của vi khuẩn được tạo huyền phù trong nước muối sinh

lý 0,9% để được độ đục tương đương ống McFarland 1 (3 x 10oCFU/ml). Dùng tăm

bông vô trùng tẩm dịch huyền phù và dàn đều lên thạch đĩa Muller Hiton, dùng

phanh đặt nhẹ các khoanh giấy tẩm dung dịch kháng sinh của hãng Oxioid (Anh)

lên mặt đĩa thạch. Nuôi vi khuẩn trong tủ ấm 37oC, sau 18 - 24h, đọc kết quả bằng

cách đo đường kính vòng vô khuẩn và so sánh với bảng chuẩn để đánh giá mức độ

mẫn cảm hay kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn kiểm tra.

Một số loại kháng sinh dự kiến thử nghiệm kháng sinh đồ gồm có:

enrofloxacin, ceftiofur, amoxicillin/clavulanic acid, gentamicin, norfloxacin,

oxytetracyclin, doxycycline.

Bảng 2.3. Đánh giá mức độ mẫn cảm của vi khuẩn với một số loại kháng sinh

(NCCLS - 2014)

Đường kính vòng vô khuẩn Hàm TT Loại kháng sinh lượng

Rất mẫn cảm ≥18 10 Trung bình 15-17 Kháng thuốc ≤14 1 Enrofloxacin

30 ≥21 18-20 ≤17 2 Ceftiofur

≥20 - ≤19 3 Amoxicillin/clavulanic acid 20/10

10 ≥15 13-14 ≤12 4 Gentamicin

10 ≥17 13-16 ≤12 5 Norfloxacin

30 ≥29 26-28 ≤25 6 Oxytetracyclin

30 ≥28 25-27 ≤24 7 Doxycycline

32

2.4.5.3. Xây dựng phác đồ điều trị bệnh tụ huyết trùng cho trâu, bò

Căn cứ kết quả kháng sinh đồ, chọn 02 loại kháng sinh có tính mẫn cảm cao

với vi khuẩn P. multocida để xây dựng 02 phác đồđiều trị bệnh tụ huyết trùng cho

trâu, bò tại tỉnh Quảng Ninh. Cụ thể

Phác đồ I:

Kháng sinh lựa chọn số 1

Analgin 30%: 10mg/kg TT.

Vitamin C 5%: 10 - 30ml/con.

Phác đồ II:

Kháng sinh lựa chọn số 2

Analgin 30%: 10mg/kg TT.

Vitamin C 5%: 10 - 30ml/con.

Sử dụng 02 phác đồ trên điều trị cho những trâu, bò bị bệnh tụ huyết trùng

trên địa bàn nghiên cứu, đánh giá tác dụng của 02 phác đồ điều trị, từ đó lựa chọn

phác đồ điều trị hiệu quả nhất để khuyến cáo người chăn nuôi sử dụng.

2.4.6. Phương pháp xử lý số liệu

Số liệu thu được từ kết quả nghiên cứu được xử lý theo phương pháp toán

học thông dụng và thống kê sinh vật học ứng dụng trong chăn nuôi của (Nguyễn

Văn Thiện, 2008).

Chỉ tiêu theo dõi được tính toán, xử lý trên phần mềm Excel 2010.

33

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG TRÂU, BÒ

TẠI TỈNH QUẢNG NINH

3.1.1. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng giai đoạn 2016 - 2019

tại Quảng Ninh

Tiến hành tổng hợp số lượng trâu, bò mắc bệnh và chết do bệnh tụ huyết trùng

trong giai đoạn 2016 - 2019 tại tỉnh Quảng Ninh theo số liệu thống kê của chi cục Chăn

nuôi và Thú y, kết quả được thể hiện ở bảng 3.1.

Bảng 3.1. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng

giai đoạn 2016 - 2019 tại Quảng Ninh

Số trâu, bò mắc bệnh Số trâu, bò chết Tổng đàn

Năm trâu, bò của Số con mắc Tỷ lệ Số con chết Tỷ lệ

tỉnh (con) (con) (%) (con) (%)

2016 68.400 168 0,25 38 22,62

2017 71.927 44 0,06 8 18,18

2018 72.481 226 0,31 55 24,34

2019 69.700 230 0,33 19 8,26

Tính chung 282.508 668 0,24 120 17,96

Kết quả bảng 3.1 cho thấy: trong giai đoạn 2016 - 2019, hằng năm đều ghi

nhận bệnh tụ huyết trùng xảy ra ở đàn trâu, bò của tỉnh Quảng Ninh; tuy nhiên, dịch

chỉ xảy ra với quy mô nhỏ lẻ, chiếm tỷ lệ thấp so với tổng đàn. Tỷ lệ trâu, bò mắc

bệnh tụ huyết trùng qua các năm điều tra biến động từ 0,06 - 0,33%; tỷ lệ trâu, bò

chết do tụ huyết trùng biến động từ 8,26 - 24,34% tùy từng năm. Cụ thể:

- Năm 2016: Có 168 con trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng trong tổng đàn

68.400 con của tỉnh, chiếm tỷ lệ 0,25%. Trong số trâu, bò mắc bệnh có 38 con chết,

chiếm tỷ lệ 22,62%.

34

- Năm 2017: Điều tra trong tổng đàn 71.927 con trâu, bò của tỉnh Quảng Ninh

có 44 con trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng, chiếm tỷ lệ 0,06%. Trong số trâu, bò mắc

bệnh có 8 con chết, chiếm tỷ lệ 18,18%.

- Năm 2018: tổng đàn trâu, bò của tỉnh Quảng Ninh là 72.481 con. Tổng hợp

trong năm thấy có 226 trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng, chiếm tỷ lệ 0,31%. Có 55 trâu,

bò chết do bệnh tụ huyết trùng, chiếm tỷ lệ 24,34%.

- Năm 2019: Có 230 con trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng trong tổng đàn

69.700 con của tỉnh, chiếm tỷ lệ 0,33%. Trong số trâu, bò mắc bệnh có 19 con chết,

chiếm tỷ lệ 8,26%.

Nguyễn Khắc Đại (2015) cho biết, trong các năm 2011 - 2014, tỷ lệ trâu, bò của

tỉnh Quảng Ninh mắc bệnh tụ huyết trùng là khá cao. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh bình

quân hằng năm là 0,34% so với tổng đàn, tỷ lệ chết là 0,05%. Kết quả nghiên cứu của

chúng tôi giống với công bố của tác giả trên nhưng thấp hơn kết quả của Bùi Văn Dũng

(2000) khi nghiên cứu về bệnh tụ huyết trùng trâu, bò ở Lai Châu (0,63%).

Kết quả về tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng và chết tại Quảng Ninh qua

các năm 2016 - 2019 được thể hiện rõ hơn qua hình 3.1.

Hình 3.1. Biểu đồ về tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do bệnh tụ huyết trùng

tại Quảng Ninh qua các năm 2016 - 2019

35

Sở dĩ có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh giữa các tỉnh là do thời tiết khí hậu,

tập quán chăn nuôi, tỷ lệ tiêm phòng, mục đích sử dụng gia súc ở mỗi vùng khác

nhau. Theo các tác giả Cao Văn Hồng (2002), Hoàng Đăng Huyến (2004) thì ở các

tỉnh Đắk Lắk, Bắc Giang trâu, bò được nuôi với mục đích chủ yếu là sử dụng sức

kéo, lao tác nặng nhọc mà thành phần dinh dưỡng không đủ theo nhu cầu cần thiết;

do đó thường gặp các yếu tố stress nên tỷ lệ mắc bệnh cao hơn.

3.1.2. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng tại Quảng Ninh theo

mùa vụ

Để công tác phòng và trị bệnh tụ huyết trùng cho đàn trâu, bò mang lại hiệu

quả cao, chúng tôi cũng tiến hành theo dõi tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ

huyết trùng theo mùa vụ. Kết quả về tỷ lệ nhiễm bệnh theo mùa vụ được thể hiện ở

bảng 3.4 và hình 3.2.

Bảng 3.2. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng

tại tỉnh Quảng Ninh theo mùa vụ

Số trâu, bò mắc bệnh Số trâu, bò chết

Tổng số Đông - Xuân Hè - Thu Đông - Xuân Hè - Thu

trâu, bò Số Số Số Số Năm của tỉnh con Tỷ lệ con Tỷ lệ con Tỷ lệ con Tỷ lệ

(con) mắc (%) mắc (%) chết (%) chết (%)

(con) (con) (con) (con)

2016 68.400 70 0,10 98 0,14 16 22,86 22 22,45

2017 71.927 5 0,01 39 0,05 40,00 6 15,38 2

2018 72.481 53 0,07 173 0,24 0,00 55 31,79 0

2019 69.700 45 0,06 185 0,27 13,33 13 7,03 6

282.508 173 0,06 495 0,18 24 13,87 96 19,39 Tính chung

36

Hình 3.2. Biểu đồ về tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng theo mùa vụ

Kết quả bảng 3.2 cho thấy: Trong các năm điều tra về dịch tụ huyết trùng ở

trâu, bò tại tỉnh Quảng Ninh thì dịch chủ yếu xảy ra vào vụ Hè - Thu (0,18%), ít xảy

ra hơn vào vụ Đông - Xuân (0,06%). Tỷ lệ trâu, bò chết do tụ huyết trùng là tương

đương nhau ở cả 2 mùa vụ điều tra. Cụ thể:

* Về tỷ lệ mắc bệnh:

- Vụ Đông - Xuân năm 2016 tại tỉnh Quảng Ninh ghi nhận 70 con trâu, bò

mắc bệnh tụ huyết trùng, chiếm tỷ lệ 0,10%; trong khi vụ Hè - Thu có 98 con mắc

bệnh, chiếm 0,14%.

- Năm 2017: số trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng chủ yếu được ghi nhận vào

vụ Hè - Thu với 39 con mắc bệnh, chiếm 0,05%; trong khi chỉ có 5 con mắc bệnh

vào vụ Đông - Xuân, chiếm 0,01%.

- Năm 2018: có 53 trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng vào vụ Đông - Xuân,

chiếm tỷ lệ 0,07%; tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng cao hơn vào vụ Hè - Thu

với 173 con mắc bệnh, chiếm 0,24%.

- Năm 2019: số trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng chủ yếu được ghi nhận vào

vụ Hè - Thu với 185 con mắc bệnh, chiếm 0,27%; tỷ lệ này cao gấp hơn 4 lần so với

số trâu, bò mắc bệnh vào vụ Đông - Xuân (45 con mắc, chiếm 0,06%).

37

Phạm Thị Phương Lan (2017) đã nghiên cứu về bệnh tụ huyết trùng tại Hà

Giang và cho biết: vụ Hè - Thu tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng chiếm 0,09%;

cao hơn so với vụ Đông - Xuân (0,04%). Tại Cao Bằng, tỷ lệ mắc bệnh vào vụ Hè -

Thu là 0,23%; trong khi vụ Đông - Xuân là 0,15%.

Qua biểu đồ hình 3.2 nhận thấy: các mùa khác nhau thì tỷ lệ mắc bệnh của

trâu bò cũng khác nhau. Kết quả điều tra hoàn toàn phù hợp với quy luật gây bệnh

của vi khuẩn P. multocida trên đàn trâu, bò. Nguyên nhân do trong vụ Hè - Thu thời

tiết nóng, độ ẩm cao, mưa nhiều, bão lụt… thích hợp với sự phát triển của mầm

bệnh, đồng thời làm giảm sức đề kháng của trâu, bò. Bên cạnh đó tập quán chăn

nuôi còn lạc hậu; chuồng trại, môi trường chăn nuôi không đạt yêu cầu vệ sinh thú

y. Trâu, bò thường được thả rông trên rừng; nhiều khi trâu, bò chết, xác chết tự

phân hủy hoặc bị vứt ra sông suối gặp mưa rào, lụt lội cùng phân và nước tiểu chứa

mầm bệnh có điều kiện phát tán lây lan rộng ra các vùng xung quanh. Mặt khác, do

vi khuẩn P. multocida thường cư trú ở đường hô hấp trên của trâu, bò nên ở vụ

Đông - Xuân điều kiện khí hậu khắc nghiệt, thức ăn khan hiếm kết hợp với điều

kiện chăm sóc nuôi dưỡng kém nên sức đề kháng của trâu, bò giảm, vì vậy bệnh

cũng có điều kiện phát sinh nhưng không bằng vụ Hè - Thu.

* Về tỷ lệ trâu, bò chết do tụ huyết trùng theo mùa vụ:

- Vụ Đông - Xuân năm 2016 tại tỉnh Quảng Ninh ghi nhận 16/70 con trâu, bò

chết do tụ huyết trùng, chiếm tỷ lệ 22,86%; vụ Hè - Thu có 22 con chết, chiếm 22,45%.

- Năm 2017: số trâu, bò chết do tụ huyết trùng vào vụ Hè - Thu là 6 con,

chiếm 15,38%; trong khi có 2 con chết vào vụ Đông - Xuân, chiếm 40,00%.

- Năm 2018: trong 53 trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng vào vụ Đông - Xuân,

không có trường hợp trâu, bò nào chết, chiếm tỷ lệ 0,00%. Có 55/173 trâu, bò chết

do tụ huyết trùng vào vụ Hè - Thu, chiếm 31,79%.

- Năm 2019: số trâu, bò chết do tụ huyết trùng chủ yếu được ghi nhận vào vụ

Đông - Xuân với 6 con chết, chiếm 13,33%; tỷ lệ này cao gấp 2 lần so với số trâu,

bò chết vào vụ Hè - Thu (13/185 con chết, chiếm 7,03%).

38

Nguyễn Khắc Đại (2015) đã nghiên cứu bệnh tụ huyết trùng ở trâu, bò tại

tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011 - 2014 và cho biết: có 16,83% số trâu, bò chết do

tụ huyết trùng vào vụ Hè - Thu và có 12,94% số trâu, bò chết do tụ huyết trùng vào

vụ Đông - Xuân.

Kết quả về tỷ lệ trâu, bò chết do bệnh tụ huyết trùng theo mùa vụ trong năm

được thể hiện rõ hơn qua biểu đồ hình 3.3.

Hình 3.3. Biểu đồ về tỷ lệ trâu, bò chết do tụ huyết trùng

tại tỉnh Quảng Ninh theo mùa vụ trong năm

Như vậy, bệnh tụ huyết trùng trâu, bò ở Quảng Ninh cũng chịu ảnh hưởng

sâu sắc của yếu tố khí hậu và thời tiết. Bệnh có chiều hướng tăng vào vụ Hè - Thu

khi có lượng mưa nhiều, độ ẩm cao và nhiệt độ cao. Biết được quy luật này, chúng

ta cần có phương án tiêm phòng vaccine trước vụ Hè - Thu để đảm bảo lượng kháng

thể chống vi khuẩn P. multocida. Đồng thời, chủ động xây dựng kế hoạch về nhân

lực, vật tư, kinh phí sẵn sàng ứng phó trước mùa phát dịch.

38

3.1.3. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng tại Quảng Ninh theo tuổi

Lứa tuổi gia súc có liên quan chặt chẽ tới độ mẫn cảm với các loại vi khuẩn gây bệnh, yếu tố tuổi phản ánh mức độ

hoàn thiện của các cơ quan trong cơ thể, đặc biệt là hệ thống miễn dịch. Kết quả về tỷ lệ mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng

theo tuổi trâu, bò được trình bày ở bảng 3.3.

Bảng 3.3. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng tại Quảng Ninh theo tuổi

< 2 tuổi 2 - 5 tuổi > 5 tuổi Tuổi

Số Số Số Số Tỷ Số Tỷ lệ Số theo Tỷ Số Tỷ lệ Số theo Tỷ Số Tỷ lệ mắc theo mắc mắc lệ chết chết dõi lệ chết chết dõi lệ chết chết bệnh dõi bệnh bệnh (%) (con) (%) (con) (%) (con) (%) (con) (%) (con) (%) Năm (con) (con) (con) (con)

2016 8.906 43 0,48 10 23,26 38.289 89 0,23 27 30,34 21.205 36 0,17 2,78 1

2017 9.515 6 0,06 33,33 41.050 29 0,07 6 20,69 21.362 9 0,04 0,00 0 2

2018 9.598 39 0,41 15,38 42.044 143 0,34 41 28,67 20.839 44 0,21 18,18 8 6

2019 8.672 46 0,53 15,22 41.832 149 0,36 8 5,37 19.196 35 0,18 11,43 4 7

36.691 134 0,37 25 18,66 163.215 410 0,25 82 20,00 82.602 124 0,15 13 8,29 Tính chung

39

Từ bảng 3.3 cho thấy: trâu, bò mọi lứa tuổi đều mắc bệnh tụ huyết trùng. Tuy

nhiên, mỗi độ tuổi khác nhau thì tỷ lệ cảm nhiễm bệnh và tỷ lệ chết do bệnh là khác

nhau. Cụ thể:

+ Ở lứa tuổi < 2 năm tuổi: trong tổng số 36.691 trâu, bò dưới 2 năm tuổi; có

134 con mắc bệnh tụ huyết trùng, chiếm tỷ lệ 0,37%. Số trâu, bò chết là 25 con, tỷ

lệ chết 18,66%.

+ Trong 163.215 trâu, bò ở lứa tuổi 2 - 5 năm tuổi có 410 trâu, bò mắc bệnh

tụ huyết trùng trong các năm điều tra, chiếm tỷ lệ 0,25% và số con chết 82 con, tỷ lệ

chết 20,00%.

+ Ở lứa tuổi > 5 năm tuổi: Trong số 82.602 trâu, bò điều tra có 124 con mắc

bệnh, chiếm tỷ lệ 0,15% và số con chết là 13 con, tỷ lệ chết 8,29%.

Kết quả nghiên cứu này phù hợp với công bố của De Alwis (1984) khi

nghiên cứu về dịch tễ bệnh tụ huyết trùng trâu, bò ở Srilanka lứa tuổi mắc bệnh cao

nhất từ 6 - 24 tháng, trên 24 tháng giảm dần. Hoàng Đăng Huyến (2004) cho biết ở

Bắc Giang trâu, bò lứa tuổi < 2 năm tuổi mắc bệnh cao nhất và lứa tuổi >5 năm tuổi

mắc bệnh thấp nhất.

Nguyễn Khắc Đại (2015) khi điều tra về bệnh tụ huyết trùng ở trâu, bò tại

Quảng Ninh cũng cho biết: trâu, bò dưới 2 năm tuổi có tỷ lệ mắc bệnh và chết do tụ

huyết trùng cao nhất; tỷ lệ này giàm dần theo lứa tuổi của trâu, bò và thấp nhất ở

những trâu, bò > 5 năm tuổi. Nghiên cứu của chúng tôi tại tỉnh Quảng Ninh cũng

tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả trên.

Trâu, bò ở lứa tuổi < 2 năm tuổi dễ cảm nhiễm với bệnh tụ huyết trùng nhất.

Đây là giai đoạn mà gia súc thường xuyên bị các stress do thay đổi môi trường sống

(cai sữa) hoặc do tỷ lệ tiêm phòng thấp. Ở giai đoạn này gia súc đang trong thời kỳ

trưởng thành, sự tiếp xúc với các yếu tố stress là thường xuyên, nếu không được

quan tâm chú ý đến công tác phòng chống bệnh cho gia súc thì khả năng cảm nhiễm

với bệnh rất cao. Trâu, bò >2 năm tuổi thì tỷ lệ mắc bệnh giảm dần do sức đề kháng

của con vật tốt; mặt khác, do thường xuyến chịu tác động từ môi trường và mầm

bệnh nên gia súc đã thu được miễn dịch tự nhiên.

40

3.1.4. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng tại tỉnh Quảng Ninh

theo loài

Mỗi loài gia súc khác nhau có đặc điểm sinh lý, giải phẫu, mức độ cảm

nhiễm bệnh khác nhau. Để so sánh mức độ cảm nhiễm bệnh tụ huyết trùng trên đàn

trâu, bò, chúng tôi tiến hành điều tra số con mắc bệnh và số con chết do bệnh tụ

huyết trùng qua bốn năm. Kết quả được trình bày ở bảng 3.4.

Bảng 3.4. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng

tại tỉnh Quảng Ninh theo loài

Trâu Bò

Năm Tổng Tỷ lệ Tỷ lệ Tổng Tỷ lệ Tỷ lệ

đàn (%) (%) đàn (%) (%) Số con mắc (con) Số con chết (con) Số con mắc (con) Số con chết (con)

2016 46000 114 0,25 29 25,44 22400 54 0,24 16,67 9

2017 46664 32 0,07 6 18,75 25263 12 0,05 16,67 2

2018 45810 183 0,40 47 25,68 26671 43 0,16 18,60 8

2019 39720 147 0,37 8 5,44 29980 83 0,28 11 13,25

178.194 476 0,27 90 18,91 104.314 192 0,18 30 15,63 Tính chung

Qua bảng 3.4 cho thấy: mỗi loài khác nhau thì mức độ cảm nhiễm bệnh

khác nhau, tỷ lệ trâu cảm nhiễm bệnh tụ huyết trùng cao hơn ở bò; đồng thời tỷ lệ

trâu chết do bệnh tụ huyết trùng cũng cao hơn ở bò.

Qua 4 năm điều tra thấy có 476 trâu mắc tụ huyết trùng trong tổng đàn trâu

178.194 con, tỷ lệ mắc bệnh trung bình là 0,27%. Tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất vào

năm 2017 với 0,07% và cao nhất là vào năm 2018 với 0,37%. Trong tổng đàn bò

104.314 con, có 192 con mắc bệnh trong 4 năm điều tra, tỷ lệ mắc bệnh trung bình

là 0,18%; thấp nhất vào năm 2017 với 0,05% và cao nhất là năm 2019 với 0,28%.

41

Như vậy, qua 4 năm điều tra thì thấy tỷ lệ mắc bệnh tụ huyết trùng ở trâu cao

hơn ở bò. Tỷ lệ mắc bệnh tụ huyết trùng của trâu và bò qua các năm được thể hiện

qua biểu đồ hình 3.4.

Hình 3.4. Biểu đồ về tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng

tại tỉnh Quảng Ninh theo loài

Ngoài tỷ lệ nhiễm bệnh, thì tỷ lệ chết do bệnh tụ huyết trùng cũng phản ánh

mức độ nguy hiểm của bệnh đối với từng loài. Trong số 682 trâu mắc bệnh tụ huyết

trùng trong 4 năm điều tra thấy 130 trâu bị chết, chiếm tỷ lệ 19,06%. Trong đó, tỷ lệ

trâu chết do tụ huyết trùng cao nhất vào năm 2018 (25,68%) và thấp nhất vào năm

2019 (5,44%). Tỷ lệ chết do tụ huyết trùng đối với đàn bò trung bình 4 năm là

14,95%. Trong đó, tỷ lệ bò chết do tụ huyết trùng cao nhất vào năm 2018 (18,60%)

và thấp nhất vào năm 2019 (13,25%). Như vậy, tại tỉnh Quảng Ninh, tỷ lệ trâu chết

do mắc bệnh tụ huyết trùng cao hơn ở bò.

Tỷ lệ trâu, bò chết do mắc bệnh tụ huyết trùng theo từng loài qua các năm

được thể hiện qua biểu đồ hình 3.5.

42

Hình 3.5. Biểu đồ về tỷ lệ trâu, bò chết do bệnh tụ huyết trùng

tại Quảng Ninh theo loài

Theo tác giả Đoàn Thị Băng Tâm (1987), tại Việt Nam trâu mẫn cảm với

bệnh tụ huyết trùng hơn bò. Kết quả nghiên cứu của De Alwis (1984): loài vật cảm

nhiễm mạnh nhất đối với bệnh tụ huyết trùng là trâu và bò trong đó trâu mẫn cảm

hơn bò (dẫn theo Nguyễn Khắc Đại, 2015). Kết quả điều tra hoàn toàn phù hợp với

nghiên cứu của các tác giả trên.

3.2. TRIỆU CHỨNG, BỆNH TÍCH ĐIỂN HÌNH Ở TRÂU, BÒ MẮC BỆNH

TỤ HUYẾT TRÙNG

3.2.1. Triệu chứng lâm sàng ở trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng

Mỗi bệnh truyền nhiễm thường biểu hiện triệu chứng điển hình trên cơ thể

gia súc mắc bệnh, là yếu tố quan trọng giúp chẩn đoán chính xác và đưa ra biện

pháp phòng, trị bệnh kịp thời, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do dịch bệnh gây

ra. Tiến hành theo dõi 23 trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng tại 3 huyện, thị thuộc

tỉnh Quảng Ninh trong năm 2019 (huyện Hải Hà, huyện Ba Chẽ và thị xã Đông

Triều) để xác định các triệu chứng lâm sàng điển hình của bệnh, kết quả trình bày

tại bảng 3.5.

43

Bảng 3.5. Triệu chứng lâm sàng ở trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng

STT Triệu chứng lâm sàng Số theo dõi (con) Số biểu hiện (con) Tỷ lệ (%)

Sốt cao 41 - 42 oC 1 100 23 23

Bỏ ăn, không nhai lại 2 91,30 21 23

3 Mắt đỏ 78,26 18 23

Khó thở 4 86,96 20 23

Hầu sưng, thuỷ thũng 5 82,61 19 23

Bụng chướng to 6 65,22 15 23

Biểu hiện thần kinh 7 60,87 14 23

Từ bảng 3.5, các kết quả thu được cho thấy: trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng

có triệu chứng lâm sàng đặc trưng qua các giai đoạn tiến triển của bệnh (thời kỳ ủ

bệnh, thời kỳ tiền phát, thời kỳ toàn phát và giai đoạn kết thúc). Các triệu chứng

lâm sàng thể hiện rất đặc trưng cho bệnh ở các trâu, bò theo dõi. Cụ thể:

- Tất cả số trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng được theo dõi đều có triệu chứng

sốt cao 41 - 420C (100%).

- 21/23 trâu, bò có hiện tượng bỏ ăn, không nhai lại, chiếm tỷ lệ 91,30%.

- 18/23 trâu, bò xuất hiện triệu chứng mắt đỏ, chiếm tỷ lệ 78,26%.

- Có 20 trâu, bò thấy biểu hiện khó thở chiếm 86,96%.

- 19 trâu, bò theo dõi có biểu hiện sưng và thủy thũng vùng họng hầu, chiếm

tỷ lệ 82,61%.

- 65,22% số trâu, bò theo dõi có triệu chứng bụng chướng hơi to.

- Một số trâu, bò thấy xuất hiện triệu chứng thần kinh như bồn chồn, kích

động, chiếm 60,87%.

Một số tác giả nghiên cứu cho rằng khi bệnh khu trú tại đường tiêu hoá thì

trâu, bò mắc bệnh có hiện tượng bụng chướng to, tiêu chảy mạnh (Nguyễn Vĩnh

Phước, 1978). Tuy nhiên, trong số 23 trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng được theo

dõi không thấy trâu, bò nào có triệu chứng tiêu chảy.

44

Qua thời gian diễn biến của bệnh và triệu chứng lâm sàng cho thấy: bệnh tụ

huyết trùng ở các trâu, bò theo dõi tại 3 địa phương thuộc tỉnh Quảng Ninh là thể

nhiễm trùng huyết, xuất huyết, bại huyết. Bệnh thường xảy ra ở dạng quá cấp và cấp

tính, thể hiện vi khuẩn P. multocida gây bệnh có độc lực cao.

Ở Việt Nam bệnh tụ huyết trùng chủ yếu ở thể nhiễm trùng máu và xuất

huyết. Bain và cs (1982) thông báo thể nhiễm trùng huyết, tụ huyết, xuất huyết

thường thấy ở các nước Châu Á và Châu Phi (dẫn theo Nguyễn Khắc Đại, 2015).

3.2.2. Bệnh tích đại thể ở trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng

Tiến hành nghiên cứu biến đổi bệnh lý đại thể ở một số phủ tạng như tim,

gan và phổi của trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng, các kết quả được trình bày tại

bảng 3.6:

Bảng 3.6. Các bệnh tích đại thể ở trâu, bò chết do tụ huyết trùng

Số theo Số biểu Tỷ lệ STT Bệnh tích đại thể dõi (con) hiện (con) (%)

1 Niêm mạc mắt, mũi tụ huyết, xuất huyết 19 19 100

Khí quản xuất huyết; trong lòng khí quản 2 19 19 100 chứa dịch nhớt, nhầy, có bọt khí

Viêm phổi thùy, viêm màng phổi, phổi 3 19 19 100 có điểm bị gan hóa

4 Tim sưng, xoang bao tim tích nước 19 17 89,47

5 Hạch hầu sưng to, xuất huyết 19 19 100

Từ bảng 3.6, các kết quả thu được cho thấy: trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng

có những biến đổi bệnh lý đại thể đặc trưng, điển hình như được các tài liệu trong

và ngoài nước mô tả trước đây. Cụ thể như sau:

- 100% số trâu, bò chết do bệnh tụ huyết trùng đều có bệnh tích tổ chức dưới

da, niêm mạc mắt, mũi tụ huyết, xuất huyết bầm tím.

45

- 100% số trâu, bò chết do bệnh tụ huyết trùng đều có bệnh tích khí quản

xuất huyết; trong lòng khí quản chứa dịch nhớt, nhầy, có bọt khí.

- 100% trâu, bò chết do mắc bệnh tụ huyết trùng có bệnh tích viêm phổi

thùy, viêm màng phổi, phổi có điểm bị gan hóa.

- Có 17/19 con xuất hiện bệnh tích tim sưng, xoang bao tim tích nước, chiếm

tỷ lệ 89,47%.

- Cả 19/19 trâu, bò chết do tụ huyết trùng đều có bệnh tích hạch hầu sưng to,

xuất huyết; chiếm tỷ lệ 100%.

Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của Lê Văn Phương (2015):

ở trâu, bò mắc bệnh thấy tổ chức dưới da, niêm mạc mắt, mũi tụ huyết, xuất huyết

bầm tím chiếm 80%; 100% trâu, bò mắc bệnh có bệnh tích viêm phổi, thẩm xuất

dịch, xoang bao tim tích nước.

Rawdon T. G. và cs (2017) đã mổ khám bò chết nghi mắc bệnh tụ huyết

trùng và thấy các bệnh tích điển hình là xuất huyết các cơ quan, bộ phận trong cơ

thể, bao gồm: xuất huyết niêm mạc, xuất huyết dưới da và cơ xương, xuất huyết cơ

tim, màng phổi, dạ dày, ruột. Sau xét nghiệm bệnh phẩm các tác giả cho biết bò chết

do vi khuẩn P. multocida gây bệnh tụ huyết trùng.

3.3. PHÂN LẬP VÀ XÁC ĐỊNH MỘT SỐ ĐẶC TÍNH SINH VẬT, HÓA

HỌC CỦA VI KHUẨN P. MULTOCIDA

3.3.1. Phân lập vi khuẩn P. multocida từ dịch ngoáy mũi của trâu, bò khỏe

mạnh tại các địa điểm nghiên cứu

Để đánh giá sự lưu hành của vi khuẩn P. multocida gây bệnh tụ huyết trùng

trâu, bò tại các địa phương của tỉnh Quảng Ninh, chúng tôi đã tiến hành lấy dịch

ngoáy mũi của trâu, bò khỏe nuôi tại một số nông hộ trên địa bàn 3 huyện, thị

(huyện Hải Hà, huyện Ba Chẽ và thị xã Đông Triều) để phân lập vi khuẩn. Kết quả

được tổng hợp ở bảng 3.7 và hình 3.6.

Từ số liệu tại bảng 3.7 cho thấy: sau xét nghiệm có 8,57% số mẫu dịch ngoáy

mũi trâu và 6,12% số mẫu dịch ngoáy mũi bò dương tính với vi khuẩn P. multocida.

Cụ thể:

46

Bảng 3.7. Kết quả phân lập vi khuẩn P. multocida

từ dịch ngoáy mũi của trâu, bò khoẻ

Địa điểm Số mẫu thu Số mẫu dương Tỷ lệ Loài khảo sát (huyện, thị) thập (mẫu) tính (mẫu) (%)

Trâu 10,34 3 29 Hải Hà Bò 7,14 3 42

Trâu 11,11 4 36 Ba Chẽ Bò 6,45 2 31

Trâu 5,00 2 40 Đông Triều Bò 4,00 1 25

Trâu 8,57 9 105 Cộng Bò 6,12 6 98

Tại huyện Hải Hà, tỷ lệ phân lập được vi khuẩn P. multocida từ mẫu dịch

ngoáy mũi trâu là 10,34% và bò 7,14%.

Tại huyện Ba Chẽ : Trong 36 mẫu dịch ngoáy mũi trâu, có 4 mẫu phân lập

được vi khuẩn P. multocida, chiếm tỷ lệ 11,11%. Tỷ lệ dương tính của dịch ngoáy

mũi bò là 6,45%.

Tại thị xã Đông Triều có 2/40 mẫu dịch ngoáy mũi trâu phân lập được vi

khuẩn P. multocida, tỷ lệ phân lập được vi khuẩn là 5,00%. Tỷ lệ phân lập được vi

khuẩn P. multocida từ mẫu dịch ngoáy mũi bò là 4,00%.

Đối chiếu với tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở từng loài trâu, bò tổng hợp ở bảng

3.4 thấy, tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do tụ huyết trùng ở trâu cao hơn so với bò. Kết

quả phân lập vi khuẩn P. multocida từ dịch ngoáy mũi trâu, bò khỏe tại 3 huyện, thị

cũng cho thấy, tỷ lệ phân lập được từ dịch ngoáy mũi của trâu cao hơn so với bò.

Theo Nguyễn Thiên Thu (1996) tỷ lệ trâu, bò mang trùng P. multocida ở các

tỉnh miền Trung và Tây Nguyên là 4,47%. Muhammad Imran và cs (2007) nghiên

cứu tỷ lệ mang trùng P. multocida ở trâu, bò nuôi tại tỉnh Faisalabad, Pakistan cho

47

thấy, từ 100 mẫu dịch ngoáy mũi trâu sau khi tiến hành nuôi cấy chỉ có 3 mẫu dương

tính, chiếm tỷ lệ 3%. Kết quả xác định tỷ lệ trâu, bò khỏe mang trùng tại 3 huyện, thị

thuộc tỉnh Quảng Ninh cao hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên.

Tuy nhiên, kết quả này lại thấp hơn so với một số nghiên cứu khác. Nguyễn

Đình Trọng (2002) đã phân lập được vi khuẩn P. multocida từ 57,52% số trâu, bò

khỏe tại ổ dịch lâu năm của huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. Hoàng Đăng Huyến

(2004) thông báo có tới 22,5% (480 mẫu) dịch đường hô hấp của trâu, bò khỏe tại

Bắc Giang phân lập được P. multocida. Thực tế cho thấy, yếu tố dịch tễ có vai trò

quan trọng tới sự lưu hành của vi khuẩn P. multocida. Các địa phương khác nhau, tỷ

lệ phân lập P. multocida cũng khác nhau. Lý do là do tập quán chăn nuôi, điều kiện

thời tiết, khí hậu, vị trí địa lý, cũng như sự chăm sóc quản lý, điều kiện vệ sinh thú

y, đều là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự lưu hành của P. multocida.

Tỷ lệ phân lập được vi khuẩn P. multocida từ dịch ngoáy mũi của trâu, bò

khỏe tại 3 huyện nghiên cứu được thể hiện rõ hơn qua hình 3.6.

Hình 3.6. Biểu đồ về tỷ lệ mẫu dịch ngoáy mũi của trâu, bò khoẻ

dương tính với vi khuẩn P. multocida

48

Phạm Thị Phương Lan (2017) cho biết: trong số 342 mẫu dịch ngoáy mũi

trâu, bò khỏe thu thập tại 2 tỉnh Hà Giang và Cao Bằng, có 28 mẫu phân lập được vi

khuẩn P. multocida, chiếm tỷ lệ 8,19%. Kết quả nghiên cứu này cao hơn so với kết

quả nghiên cứu của chúng tôi là do: trong những năm gần đây, việc giám sát dịch

bệnh ở đàn gia súc được thực hiện khá tốt tại tỉnh Quảng Ninh thông qua hệ thống

thú y viên. Các cán bộ thú y luôn tuyên truyền, vận động người dân quan tâm đến

công tác phòng chống dịch bệnh, đặc biệt là tiêm phòng, nên tỷ lệ tiêm phòng đạt

tương đối cao. Đúng như nhận định của Nguyễn Vĩnh Phước (1978) những địa

phương nào thực hiện tốt công tác tiêm phòng thì tỷ lệ mang trùng thấp, thậm chí

không mang trùng, ngược lại những nơi không tiêm phòng thì tỷ lệ mang trùng cao.

Với những kết quả nghiên cứu ở bảng 3.7 và biểu đồ hình 3.6 đã chứng minh

một tỷ lệ nhất định trâu, bò khỏe thường có P. multocida ký sinh ở niêm mạc phần

trên của đường hô hấp. Đây là yếu tố dịch tễ vô cùng quan trọng, cần phải quan tâm

đúng và đầy đủ khi xây dựng các biện pháp phòng chống bệnh. Tỷ lệ mang vi

khuẩn P. multocida liên quan tới tình hình dịch bệnh xảy ra hằng năm tại các địa

phương, do trâu, bò mang trùng thường xuyên bài xuất vi khuẩn ra ngoài và lây

nhiễm cho gia súc khác. Như vậy, không thể bỏ qua yếu tố mang trùng ở gia súc

khoẻ khi xây dựng chiến lược phòng chống bệnh tụ huyết trùng trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh.

3.3.2. Phân lập vi khuẩn P. multocida từ bệnh phẩm trâu, bò nghi mắc bệnh tụ

huyết trùng tại các địa phương nghiên cứu

Theo Phạm Thị Phương Lan (2017), những bệnh phẩm có thể thu thập để

xác định vi khuẩn P. multocida là máu tim, gan, lách, tủy xương, phổi, dịch thủy

thũng của trâu, bò bệnh. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành thu thập mẫu bệnh phẩm

(bao gồm gan, lách, phổi, xương ống chân) của 8 trâu và 11 bò chết có biểu hiện

triệu chứng, bệnh tích đặc trưng của bệnh tụ huyết trùng năm 2019 tại một số

huyện, thành, thị thuộc tỉnh Quảng Ninh để phân lập vi khuẩn P. multocida. Kết quả

được tổng hợp ở bảng 3.8.

49

Bảng 3.8. Phân lập vi khuẩn P. multocida từ mẫu bệnh phẩm trâu, bò

nghi mắc bệnh tụ huyết trùng

Số mẫu thu Số mẫu Tỷ lệ Loài gia súc Loại bệnh phẩm thập (mẫu) (+) (%)

Gan 8 3 37,50

Lách 8 3 37,50 Trâu Xương ống chân 8 3 37,50

Phổi 8 3 37,50

Gan 11 5 45,45

Lách 11 5 45,45 Bò Xương ống chân 11 5 45,45

Phổi 11 5 45,45

Tổng 76 32 42,10

Kết quả tổng hợp tại bảng 3.8 cho thấy: tính chung trong tổng số 76 mẫu

bệnh phẩm gan, lách, phổi, xương ống chân thu thập có 32 mẫu phân lập được vi

khuẩn P. multocida, chiếm tỷ lệ 42,10%. Cụ thể:

Đối với các mẫu bệnh phẩm gan, lách, xương ống chân, phổi thu thập từ 08

trâu nghi chết do mắc bệnh tụ huyết trùng, có 03 mẫu các loại phân lập được vi

khuẩn P. multocida, chiếm tỷ lệ 37,50%.

Đối với các mẫu bệnh phẩm gan, lách, xương ống chân, phổi thu thập từ 11

bò nghi chết do mắc bệnh tụ huyết trùng, có 05 mẫu các loại phân lập được vi

khuẩn P. multocida; chiếm tỷ lệ 45,45%.

Phạm Thị Phương Lan (2017) cho biết: tính chung trong tổng số 216 mẫu

bệnh phẩm gan, lách, phổi, xương ống chân của trâu, bò nghi mắc bệnh tụ huyết

trùng thu thập tại Hà Giang và Cao Bằng, có 40 mẫu phân lập được vi khuẩn P.

multocida, chiếm tỷ lệ 18,52%. Trong đó tỷ lệ phân lập được từ các mẫu bệnh phẩm

lấy tại Hà Giang là 16,47% và tại Cao Bằng là 19,85%. Hoàng Đăng Huyến (2004)

nghiên cứu ở Bắc Giang có 63% trong tổng số 400 mẫu bệnh phẩm lấy từ trâu, bò

50

chết có triệu chứng, bệnh tích nghi mắc bệnh tụ huyết trùng phân lập được P.

multocida. Kết quả phân lập được vi khuẩn P. multocida từ các mẫu bệnh phẩm của

trâu, bò tại tỉnh Quảng Ninh cao hơn kết quả nghiên cứu của các tác giả trên. Đó là

do trong quá trình lấy mẫu bệnh phẩm xét nghiệm chúng tôi chỉ lấy của những trâu,

bò trước khi chết có triệu chứng điển hình của bệnh tụ huyết trùng, khi mổ khám

thấy bệnh tích đại thể đặc trưng của bệnh. Tuy nhiên, tỷ lệ phân lập vi khuẩn không

quá cao có thể là do có một số mẫu bệnh phẩm xét về triệu chứng, bệnh tích rõ ràng

là bệnh tụ huyết trùng, nhưng khi phân lập không tìm thấy vi khuẩn; những trường

hợp này người dân đã điều trị cho trâu, bò bằng kháng sinh trước khi trâu, bò chết.

Trong những năm gần đây, dịch bệnh tụ huyết trùng thường xuyên xảy ra ở

nhiều địa phương trong cả nước. Kết quả phân lập P. multocida bước đầu cho thấy,

việc phòng chống bệnh tụ huyết trùng trâu, bò cần phải tiến hành nghiêm túc, chặt

chẽ hơn nữa tại tất cả các địa phương trong cả nước.

3.3.3. Giám định một số đặc tính sinh vật, hoá học của các chủng vi khuẩn P.

mutocida phân lập được

Sau khi phân lập được 15 chủng P. multocida từ dịch ngoáy mũi trâu, bò

khỏe và 32 chủng vi khuẩn từ các mẫu bệnh phẩm của trâu, bò mắc bệnh tụ huyết

trùng, chúng tôi tiến hành giám định đặc điểm hình thái, tính chất bắt màu và đặc

tính nuôi cấy trên các môi trường đặc trưng của vi khuẩn P. multocida. Đồng thời,

các chủng vi khuẩn P. multocida phân lập cũng đã được xác định một số đặc tính

sinh vật, hóa học. Kết quả được tổng hợp ở bảng 3.9.

Kết quả tổng hợp tại bảng 3.9 cho thấy:

* Về đặc tính nuôi cấy:

+ Môi trường nước thịt: vi khuẩn phát triển làm môi trường vẩn đục, đáy có

cặn nhày, lắc nhẹ vẩn đục như sương mù, có mùi tanh đặc trưng, nếu để lâu dưới

đáy có lắng cặn và bên trên có một lớp màng mỏng.

+ Môi trường thạch thường: khuẩn lạc nhỏ, long lanh như giọt sương, để

lâu khuẩn lạc to màu trắng đục, nhớt và dính chặt vào mặt thạch.

51

+ Môi trường thạch máu: khuẩn lạc màu tro xám hình giọt sương, kích

thước lớn hơn trên thạch thường, có mùi tanh đặc trưng của nước dãi khô.

+ Môi trường thạch MacConkey: vi khuẩn không mọc trên môi trường này.

Bảng 3.9. Giám định một số đặc tính sinh vật, hoá học của các chủng vi khuẩn

P. mutocida phân lập được

Số chủng kiểm Số chủng dương Tỷ lệ TT Chỉ tiêu giám định tra (chủng) tính (chủng) (%)

Tính chất bắt màu Gram (-) 1 47 47 100

2 Dung huyết 47 0 0,00

3 Khả năng di động 47 0 0,00

4 Indol 47 100 47

5 47 0 0,00 H2S

6 Sản sinh catalase 47 100 47

7 Oxidase 47 100 47

* Về đặc tính sinh vật, hóa học:

- Cả 47 chủng vi khuẩn P. multocida phân lập được đều bắt màu Gram âm,

dạng cầu trực khuẩn, kích thước nhỏ, chiếm tỷ lệ 100%.

- 100% số chủng vi khuẩn P. multocida phát triển tốt trên môi trường thạch

máu và không gây dung huyết.

- 100% số chủng phản ứng sinh Indol, không di động và không sinh H2S.

- 100% số chủng có phản ứng oxydaza và catalaza dương tính.

Kết quả giám định 47 chủng vi khuẩn P. multocida phân lập được đều có đặc

tính sinh hóa đặc trưng điển hình của loài P. multocida, phù hợp với kết quả của

Đặng Xuân Bình và cs (2010) khi xác định một số đặc tính sinh vật, hóa học của 48

chủng vi khuẩn P. multocida phân lập được từ dịch ngoáy mũi trâu, bò và lợn khỏe

trên địa bàn 2 tỉnh Hà Giang và Cao Bằng. Theo tác giả, các chủng vi khuẩn đều bắt

52

màu Gram âm, lên men đường glucose và sucrose, không lên men đường lactose,

sản sinh Indol, catalase dương tính, không gây dung huyết trên thạch máu cừu 5%.

Sau khi tiến hành giám định một số đặc tính sinh hóa, các chủng vi khuẩn

này tiếp tục được giám định các phản ứng lên men đường. Kết quả được tổng hợp

tại bảng 3.10.

Bảng 3.10. Kết quả thử phản ứng lên men đường của

các chủng vi khuẩn P. multocida phân lập được

Số chủng kiểm Số chủng dương Tỷ lệ TT Chỉ tiêu giám định tra (chủng) tính (chủng) (%)

1 Khả năng lên men Manitol 47 100 47

2 Khả năng lên men Glucose 47 100 47

3 Khả năng lên men Lactose 47 0 0,00

4 Khả năng lên men Maltose 47 0 0,00

5 Khả năng lên men Saccharose 47 100 47

6 Khả năng lên men Fructose 47 100 47

7 Khả năng lên men Galactose 47 100 47

Kết quả thu được cho thấy:

- 100% các chủng vi khuẩn P. multocida phân lập được đều lên men các

đường manitol, glucose, saccarose, fructose và galactose.

- 100% các chủng không lên men đường lactose và maltose.

Kết quả nghiên cứu của Lê Văn Dương (2013) khi xác định một số đặc tính

sinh vật hóa học của 42 chủng vi khuẩn P. multocida phân lập được ở lợn mắc bệnh

viêm phổi tại tỉnh Bắc Giang thấy, các chủng vi khuẩn P. multocida kiểm tra đều

bắt màu Gram âm, mọc tốt trên môi trường thạch máu và không gây dung huyết,

các chủng đều cho kết quả dương tính với phản ứng sinh indol, oxidase, catalase,

lên men các đường glucose, manitol, saccharose, fructose, galactose và không lên

men các loại đường lactose, maltose, arabinose. Kết quả nghiên cứu của Mitra và cs

53

(2013) cũng cho thấy, vi khuẩn P. multocida có khả năng sinh indole, khử nitrat,

phản ứng gelatin hóa, lên men đường glucose, sucrose, galactose, fructose và

manitol. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với kết quả nghiên cứu của

các tác giả trên.

Với kết quả xác định được ở trên, có thể nhận định: tất cả các chủng vi khuẩn

P. multocida phân lập được từ trâu, bò tại các địa phương của tỉnh Quảng Ninh đều

có những đặc tính sinh hóa điển hình của vi khuẩn P. multocida mà nhiều tác giả đã

nghiên cứu.

3.3.4. Xác định serotype kháng nguyên của các chủng vi khuẩn P. multocida

phân lập được

Chọn 5 chủng P. multocida đã phân lập, xác định tính chất sinh vật, hoá học

từ dịch ngoáy mũi của trâu, bò khỏe và từ bệnh phẩm của trâu, bò nghi mắc bệnh tụ

huyết trùng đem xác định serotype kháng nguyên bằng phương pháp PCR.

Sử dụng máy móc, thiết bị của Trạm Chẩn đoán xét nghiệm bệnh động vật -

Cơ quan Thú y vùng II để xác định serotype kháng nguyên của vi khuẩn P.

multocida phân lập được bằng kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction) -

multiplex capsular PCR.

Kết quả được thể hiện ở bảng 3.11.

Bảng 3.11. Kết quả xác định serotype kháng nguyên

của các chủng P. multocida phân lập được

Type A Type B Số chủng Nguồn gốc Chủng VK thử phân lập (+) (+) (%) (%)

HH - T02 0,00 0 1 100 1 Dịch ngoáy BC - B01 0,00 0 1 100 1 mũi

ĐT - T01 0,00 0 1 100 1

T - G1 0,00 0 1 100 1 Bệnh phẩm B - L1 0,00 0 1 100 1

Tính chung 0,00 0 5 100 5

54

Qua bảng 3.11 cho thấy: các chủng vi khuẩn P. multocida phân lập được từ 3

mẫu dịch ngoáy mũi (đại diện cho 3 huyện, thị nghiên cứu) và 02 mẫu bệnh phẩm

của trâu, bò đều thuộc serotype B.

Kết quả này tương đương với kết quả nghiên cứu của Phan Thanh Phượng

(2000) khi định type 16 chủng vi khuẩn P. mutocida phân lập ở miền Trung và 11

chủng phân lập ở miền Bắc từ trâu, bò chết do tụ huyết trùng bằng kỹ thuật PCR, đã

xác định được tất cả các chủng đều thuộc serotype B. Trần Xuân Hạnh và cs (2007),

xác định serotype của 30 chủng vi khuẩn P. mutocida, trong đó có 7 chủng phân lập

được từ trâu, bò nghi mắc bệnh tụ huyết trùng thì cả 7 chủng đều thuộc serotype B

gây bại huyết, xuất huyết cho trâu, bò.

Như vậy, bằng kỹ thuật PCR, với việc sử dụng cặp mồi đặc hiệu cho vi

khuẩn P. multocida type B, thấy cả 5 chủng vi khuẩn P. multocida phân lập được từ

các mẫu dịch ngoáy mũi của trâu, bò khỏe và các mẫu bệnh phẩm của trâu, bò mắc

bệnh tụ huyết trùng tại tỉnh Quảng Ninh đều thuộc serotype B gây bại huyết, xuất

huyết cho trâu, bò. Trần Xuân Hạnh và cs (2007) cho biết, việc sử dụng các cặp mồi

đặc hiệu để định type vi khuẩn gây bệnh tụ huyết trùng cho kết quả nhanh, chính

xác và có sự phù hợp với định type bằng phương pháp huyết thanh học. Đỗ Ngọc

Thúy và cs (2007) định type giáp mô của P. multocida bằng PCR cho kết quả đồng

nhất so với định type bằng các phương pháp truyền thống.

3.3.5. Xác định độc lực của các chủng P. multocida phân lập được

Một số động vật mang trùng với tỷ lệ cao song không phát bệnh là do sức đề

kháng tự nhiên với bệnh cao, hoặc độc lực của mầm bệnh chưa đủ mạnh để gây

thành bệnh. Đặc tính của vi khuẩn P. multocida khi cấy chuyển nhiều đời trên môi

trường nhân tạo thường bị giảm độc lực. Vì vậy, để đánh giá độc lực của các chủng

vi khuẩn P. multocida phân lập được, chúng tôi tiến hành thử độc lực của chúng

trên chuột bạch. Lựa chọn 10 chủng P. multocida, có đặc tính sinh vật hóa học đặc

trưng để xác định độc lực. Kết quả được thể hiện trong bảng 3.12.

55

Bảng 3.12. Xác định độc lực của các chủng P. multocida phân lập được

Kết quả theo dõi số chuột thí nghiệm

chết sau khi công cường độc (con)

STT

Chủng VK

Số lượng (n)

<8h 8-24h

Số chuột thử (con)

25- 32h

33- 48h

49- 144h

Tỷ lệ (%)

Liều tiêm phúc mạc (ml/con)

01 HH-T02 1 2 0,2 1 50,00

02 HH-B01 1 2 0,2 - - - 0 - -

03 BC-T04 1 2 0,2 1 1 100

04 BC-B01 1 2 0,2 2 100

05 ĐT-T01 1 2 0,2 1 1 100

06 ĐT-B01 1 2 0,2 1 50,00

07 T-G1 1 2 0,2 1 1 100

08 T-P2 1 2 0,2 2 100

09 B-L1 1 2 0,2 2 100

10 B-X1 1 2 0,2 2 100

8 Tính chung 10 20 3 4 1 80,00

Qua bảng 3.12 cho thấy: Với 10 chủng (6 chủng thu thập từ dịch ngoáy mũi

trâu, bò và 4 chủng thu thập từ các mẫu bệnh phẩm) để thử độc lực trên 20 chuột

bạch, tiêm xoang phúc mạc liều 0,2ml/chuột canh khuẩn 24h và theo dõi chuột sau

thời gian công cường độc. Kết quả cho thấy:

- Các chủng vi khuẩn P. multocida phân lập được từ gia súc khỏe (mẫu 1 - 6)

đã thể hiện độc lực với chuột thí nghiệm, gây chết 66,67% chuột thí nghiệm trong

vòng 8 - 48 giờ sau khi công cường độc. Chủng HH-B01 không gây chết chuột

trong suốt thời gian theo dõi. Chủng HH-T02 và ĐT-B01 chỉ gây chết 50,00% số

56

chuột thí nghiệm. Các chủng còn lại (BC-T04, BC-B01, ĐT-T01) gây chết 100%

chuột thí nghiệm trong vòng 48h sau công cường độc.

- Các chủng vi khuẩn phân lập được từ gan, phổi, lách và xương ống chân có

độc lực rất mạnh, làm chết 100% số chuột trong vòng 24 giờ sau công cường độc.

Trong đó có chủng T-P2 có độc lực mạnh nhất, gây chết cả 2 chuột thí nghiệm

trong vòng 8 giờ sau công cường độc. Chủng T-G1 gây chết 1 chuột trong vòng 8

giờ và 1 chuột trong khoảng 8 - 24 giờ sau công cường độc; các chủng vi khuẩn còn

lại gây chết chuột thí nghiệm trong vòng từ 8 - 24 giờ.

Tính chung tỷ lệ chuột thí nghiệm chết sau khi công cường độc đến 48 giờ là

khá cao (80,00%). Kết quả này còn cho thấy độc lực của các chủng vi khuẩn phân

lập được là không giống nhau. Một số chủng không có khả năng gây chết chuột như

HH-B01. Điều này lý giải tại sao nhiều gia súc mang trùng song không phát bệnh.

Tất cả chuột sau khi chết, tiến hành mổ khám, kiểm tra bệnh tích có biểu hiện

triệu chứng, bệnh tích đặc trưng của bệnh tụ huyết trùng: bao tim tích nước vàng,

ruột căng phồng, xung huyết, gan sưng, phổi xuất huyết. Lấy máu tim, phân lập lại

vi khuẩn P. multocida đều cho kết quả dương tính.

Kết quả nghiên cứu của chủng tôi thấp hơn so với kết quả của các tác giả:

Nguyễn Thiên Thu (1996) khi kiểm tra độc lực của các chủng P. multocida phân

lập từ dịch ngoáy mũi trâu, bò miền Trung và Tây Nguyên thấy 100% các chủng

đều giết chết chuột thí nghiệm trong vòng 5 - 48 giờ; Nguyễn Thị Kim Dung

(2010) cho biết các chủng vi khuẩn P. multocida phân lập được tại Cao Bằng đã

gây chết 94,44% chuột thí nghiệm trong vòng 48 giờ. Cù Hữu Phú và cs (2014)

khi thử độc lực 10 chủng P. multocida đều có độc lực cao, gây chết 100% chuột thí

nghiệm trong vòng 16 - 36 giờ.

Kết quả nghiên cứu này lại cao hơn kết quả của tác giả Dương Thế Long

(1995) khi tác giả cho biết: chỉ có 37,3% chủng P. multocida phân lập được ở bò và

28,6% chủng phân lập được ở lợn gây chết chuột.

Như vậy, độc lực của các chủng vi khuẩn P. multocida phân lập được tại các

địa phương của tỉnh Quảng Ninh có độc lực khá cao. Điều này cho thấy được sự

nguy hiểm của trâu, bò mang mầm bệnh mà không biểu hiện bệnh. Chúng là nguồn

57

bệnh lưu trữ vi khuẩn, truyền bệnh cho các gia súc khác và là một mắt xích trong

quá trình sinh dịch tại địa phương.

3.3.6. Kết quả kiểm tra tính mẫn cảm của vi khuẩn P. multocida phân lập được

với một số loại kháng sinh và hóa dược

Người chăn nuôi thường sử dụng thuốc kháng sinh để phòng, trị bệnh cho

vật nuôi không đúng chỉ dẫn và liệu trình điều trị đã làm gia tăng vi khuẩn kháng

thuốc. Chính vì vậy, việc lựa chọn chính xác kháng sinh và hóa dược trong liệu

trình điều trị là vấn đề hết sức quan trọng, giúp cho bác sĩ thú y đưa ra phác đồ điều

trị bệnh hiệu quả.

Với các chủng vi khuẩn P. multocida phân lập được, tiến hành làm kháng

sinh đồ để kiểm tra tính mẫn cảm của vi khuẩn với một số kháng sinh và hóa dược,

kết quả thể hiện trong bảng 3.13.

Bảng 3.13. Kết quả thử tính mẫn cảm với kháng sinh

của các chủng P. multocida phân lập được

Đánh giá mức độ mẫn cảm với kháng sinh

của các chủng P. multocida Số

Mẫn cảm Kháng STT Loại kháng sinh chủng Rất mẫn cảm trung bình thuốc thử

(+) (%) (+) (%) (+) (%)

13 86,67 2 13,33 0 0,00 15 1 Enrofloxacin

14 93,33 1 6,67 0 0,00 15 2 Ceftiofur

Amoxicillin/ 11 73,33 3 20,00 1 6,67 15 3 clavulanic acid

9 60,00 4 26,67 2 13,33 15 4 Gentamicin

10 66,67 3 20,00 2 13,33 15 5 Norfloxacin

3 20,00 3 20,00 9 60,00 15 6 Oxytetracyclin

1 6,67 5 33,33 9 60,00 15 7 Doxycycline

58

Qua bảng 3.13 cho thấy: các chủng vi khuẩn P. multocida phân lập được từ

trâu, bò tại tỉnh Quảng Ninh mẫn cảm mạnh với ceftiofur (93,33%), erofloxacin

(86,67%), amoxicillin/clavulanic acid (73,33%) và các kháng sinh norfloxacin,

gentamicin lần lượt là 66,67%; 60,00%.

Các chủng vi khuẩn này cũng đã kháng lại 02 loại kháng sinh là

oxytetracyclin (60,00%) và doxycycline (60,00%). Sự mẫn cảm với kháng sinh của

P. multocida cũng được một số tác giả trong và ngoài nước thông báo: Shayegh và cs

(2009) cho biết, 100% số chủng vi khuẩn P. multocida nhạy cảm với ciprofloxacin và

enrofloxacin. Nghiên cứu của Naz và cs (2012) cho thấy 87,5% số chủng P.

multocida nhạy cảm với ciprofloxacin, ofloxacin, enrofloxacin và gentamicin.

Trương Quang Hải (2012) nghiên cứu các chủng P. multocida phân lập được

từ lợn thấy: vi khuẩn mẫn cảm mạnh với ceftiofur (95,0%), florfenicol (90,0%),

amoxicillin (80,0%), ofloxacin (75,0%) và streptomicin (70,0%); kháng với một số

loại kháng sinh như neomycin (70,0%), penicillin G (65,0%), tetracycline (70,0%).

Kết quả của chúng tôi tương đồng với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên.

Edouard Timsit và cs (2017) đã tiến hành thử nghiệm tính kháng thuốc và

cho biết P. multocida phân lập được từ đường hô hấp ở bò có tính kháng thuốc

mạnh (> 70%) đối với tulathromycin và oxytetracycline. Tác giả cũng khuyến cáo

không nên sử dụng 2 loại kháng sinh trên trong việc phòng và trị bệnh do P.

multocida ở bò.

Babafela B. Awosile và cs (2018) đã nghiên cứu và cho biết P. multocida rất

nhạy cảm với các loại kháng sinh trimethoprim-sulfamethoxazole, penicillin,

florfenicol và ceftiofur.

3.4. THỬ NGHIỆM PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP

PHÒNG BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG CHO TRÂU, BÒ TẠI QUẢNG NINH

3.4.1. Kết quả thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh tụ huyết trùng trâu, bò

Căn cứ kết quả kháng sinh đồ, chọn 02 loại kháng sinh có tính mẫn cảm với

vi khuẩn P. multocida để điều trị bệnh tụ huyết trùng cho trâu, bò tại tỉnh Quảng

Ninh, đó là:

59

* Thành phần chế phẩm kháng sinh Bio-enrofloxacin 100 (Phác đồ 1):

Enrofloxacin: 10 g

Propylene Glycol, nước pha tiêm vừa đủ 100ml

Công dụng: đặc trị tiêu chảy, thương hàn, E. coli, tụ huyết trùng.

* Thành phần chế phẩm kháng sinh Nova - ceftio (Phác đồ 2):

Ceftiofur Sodium: 1 g

Nước pha tiêm 100ml

Công dụng: đặc trị tụ huyết trùng, E. coli, bại huyết.

Sử dụng 02 phác đồ điều trị cho 23 con trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng với

thời gian điều trị 3 - 5 ngày. Trâu, bò được đánh giá là khỏi bệnh khi không còn

triệu chứng của bệnh, biểu hiện nhanh nhẹn, ăn uống trở lại bình thường. Kết quả

điều trị được trình bày ở bảng 3.14.

Bảng 3.14. Kết quả thử nghiệm 02 phác đồ điều trị bệnh

tụ huyết trùng trâu, bò

Tên thuốc Liều lượng Phác đồ Cách dùng

Số trâu, bò điều trị (con) Tỉ lệ khỏi (%) Thời gian điều trị (ngày) Số trâu, bò khỏi (con)

Bio-enrofloxacin 100 mg Tiêm bắp 1 ml / 30 - 40 kg TT/ngày I 3 - 5 12 11 91,67 Analgin 30% Tiêm bắp 10mg/kg TT

Vitamin C 5% Tiêm bắp 10 - 30ml/con

Nova - ceftio Tiêm bắp 1ml/ 5kg TT/ngày II 3 - 5 11 11 100 Analgin 30% Tiêm bắp 10mg/kg TT

Vitamin C 5% Tiêm bắp 10 - 30ml/con

Tính chung 3 - 5 23 22 95,65

Bảng 3.14 cho thấy: sử dụng 02 phác đồ điều trị cho trâu, bò mắc bệnh tụ

huyết trùng đã cho hiệu quả điều trị cao. Có 22/23 trâu, bò khỏi bệnh (hết các triệu

chứng của bệnh, con vật ăn uống tốt, hoạt động nhanh nhẹn), chiếm tỷ lệ 95,65%.

60

Phác đồ I: dùng thuốc bio-enrofloxacin 100mg kết hợp với thuốc hạ sốt

analgin và vitamin C để điều trị cho 12 con trâu, bò bị bệnh tụ huyết trùng; tỷ lệ

khỏi đạt 91,67%.

Phác đồ II: dùng thuốc nova - ceftio kết hợp với thuốc hạ sốt analgin và

vitamin C để điều trị cho 11 con trâu, bò; tỷ lệ khỏi đạt 100%.

Kết quả điều trị này phù hợp với kết quả kiểm tra khả năng mẫn cảm giữa

các loại kháng sinh với các chủng vi khuẩn phân lập được. Từ 02 phác đồ trên, đưa

ra khuyến cáo có thể sử dụng một trong 2 phác đồ trên để điều trị bệnh tụ huyết

trùng cho trâu, bò trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đều cho kết quả cao. Tuy nhiên, sử

dụng phác đồ 2 với thuốc nova - ceftio kết hợp với thuốc hạ sốt analgin và vitamin

C cho hiệu quả điều trị tốt hơn.

3.4.2. Đề xuất biện pháp phòng bệnh tụ huyết trùng trâu, bò tại Quảng Ninh

3.4.2.1. Công tác tiêm phòng

Tiêm vaccine là một trong những biện pháp chủ động giúp ngăn ngừa dịch

bệnh. Chính vì vậy, tỉnh Quảng Ninh đã có hướng chỉ đạo tiêm vaccine phòng bệnh

tụ huyết trùng cho toàn đàn trâu, bò của địa phương. Hàng năm, kế hoạch tiêm

phòng của Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Quảng Ninh đưa ra khoảng 70.000 -

80.000 liều vaccine tụ huyết trùng. Kết quả tiêm phòng vaccine tụ huyết trùng cho

đàn trâu, bò của tỉnh năm 2018 và 2019 được thể hiện qua bảng 3.15.

Bảng 3.15 cho thấy, trong 2 năm 2018 và 2019, vaccine tụ huyết trùng đã

được tiêm phòng cho đàn trâu, bò của tỉnh Quảng Ninh với quy mô lớn. Tuy nhiên,

số gia súc được tiêm phòng thường không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Cụ thể:

* Năm 2018: Kế hoạch của chi cục đặt ra là tiêm vaccine tụ huyết trùng cho

87.500 trâu, bò trên toàn tỉnh. Tuy nhiên, kết thúc năm 2018 số trâu, bò được tiêm

phòng là 65.875 con; đạt 75,29% kế hoạch năm.

- Trong 14 huyện, thành thuộc tỉnh Quảng Ninh có 3 địa phương tiêm phòng

đạt hoặc vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra đó là thành phố Móng Cái (100%), thành phố

Cẩm Phả (100%) và huyện Quảng Yên (100,54%).

61

Bảng 3.15. Kết quả tiêm phòng vaccine tụ huyết trùng cho trâu, bò

của tỉnh Quảng Ninh trong năm 2018 và 2019

TT

Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Địa phương (huyện, thành, thị) Năm 2018 Thực hiện (con) Kế hoạch năm (con) Năm 2019 Thực hiện (con) Kế hoạch năm (con)

1 Hạ Long 700 650 92,86 800 700 87,50

2 Móng Cái 10.000 10.000 100,00 8.000 8.000 100,00

3 Cẩm Phả 2.800 2.800 100,00 2.800 2.800 100,00

4 Uông Bí 6.000 2.600 43,33 3.500 2.798 79,94

5 Bình Liêu 7.000 6.180 88,29 7.000 3.116 44,51

6 Tiên Yên 7.000 5.850 83,57 3.100 2.880 92,90

7 Đầm Hà 5.000 4.115 82,30 5.000 5.000 100,00

8 Hải Hà 17.000 8.294 48,79 10.000 9.479 94,79

9 Ba Chẽ 6.000 2.739 45,65 3.000 3.508 116,93

10 Vân Đồn 5.000 2.777 55,54 3.000 2.428 80,93

11 Hoành Bồ 6.000 5.227 87,12 6.000 5.451 90,85

12 Đông Triều 7.000 6.990 99,86 7.000 6.990 99,86

13 Quảng Yên 7.000 7.038 100,54 6.900 6.042 87,57

14 Cô Tô 1.000 615 61,50 700 496 70,86

Cộng 87.500 65.875 75,29 66.800 59.688 89,35

- Tuy nhiên, vẫn có các địa phương có tỷ lệ tiêm phòng vaccine tụ huyết

trùng cho trâu, bò còn rất thấp (dưới 50% kế hạch đề ra) như: thành phố Uông Bí

(43,33%), huyện Hải Hà (48,79%) và huyện Ba Chẽ (45,65%).

- Có một số địa phương có tỷ lệ tiêm phòng vaccine tụ huyết trùng cho trâu,

bò chỉ đạt 50 - 70% kế hạch đề ra như: huyện Vân Đồn (55,54%) và huyện đảo Cô

Tô (61,50%)

- Các địa phương khác tỷ lệ tiêm phòng vaccine tụ huyết trùng cho đàn trâu,

bò ở mức tương đối cao > 80% kế hoạch đề ra.

62

* Năm 2019: kế hoạch của chi cục đặt ra là tiêm vaccine tụ huyết trùng cho

66.800 trâu, bò trên toàn tỉnh. Tuy nhiên, kết thúc năm 2019 tỷ lệ trâu, bò được tiêm

phòng vaccine tụ huyết trùng mới đạt 89,35% kế hoạch đề ra.

Trong năm 2019, huyện Ba Chẽ tiêm vaccine tụ huyết trùng cho đàn trâu, bò

vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra khá cao. Theo kế hoạch năm, huyện Ba Chẽ sẽ tiêm

phòng vaccine tụ huyết trùng cho 3.000 trâu, bò; tuy nhiên, khi kết thúc năm, số

trâu, bò được tiêm phòng lên tới 3.508 con, đạt tỷ lệ 116,93%.

Có 3 địa phương tiêm phòng đủ chỉ tiêu kế hoạch đề ra đó là thành phố

Móng Cái (100%), thành phố Cẩm Phả (100%) và huyện Đầm Hà (100%).

Tuy nhiên, vẫn có địa phương có tỷ lệ tiêm phòng vaccine tụ huyết trùng cho

trâu, bò còn rất thấp (dưới 50% kế hạch đề ra) như huyện Bình Liêu (44,51%).

Các địa phương còn lại có tỷ lệ tiêm phòng vaccine tụ huyết trùng cho trâu,

bò đạt 70 - 99% kế hạch đề ra.

3.4.2.2. Các biện pháp phòng bệnh phối hợp khác

* Khi dịch chưa xảy ra:

- Nâng cao năng lực quản lý nhà nước, đào tạo nghiệp vụ cho thú y cơ sở,

hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý, chỉ đạo công tác phòng chống dịch.

- Tập huấn, tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về

bệnh tụ huyết trùng trâu, bò và cách thức phòng, chống để nhân dân biết, tự giác

tham gia công tác phòng, chống dịch. Tăng cường công tác chăm sóc và nuôi dưỡng

để nâng cao sức đề kháng cho trâu, bò. Thực hiện các biện pháp chăn nuôi an toàn

sinh học.

- Phân công cán bộ nắm chắc tình hình dịch bệnh đến tận cơ sở, hộ gia đình

chăn nuôi. Phát hiện sớm, báo cáo dịch và có biện pháp xử lý kịp thời, không để

dịch lây lan.

- Xây dựng kế hoạch tiêm phòng bắt buộc vaccine tụ huyết trùng cho đàn

trâu, bò; Tổ chức tiêm phòng định kỳ mỗi năm 2 lần vào tháng 3 - 4 và tháng 9 - 10.

Tiêm phòng bổ sung vaccine cho trâu, bò đến tuổi tiêm; trâu, bò thuộc diện tiêm

phòng mới nhập về; tỷ lệ tiêm phòng phải đạt 100% trâu, bò trong diện tiêm.

63

- Tổ chức các đợt tổng vệ sinh, tiêu độc, khử trùng chuồng trại, môi trường

chăn nuôi, chợ kinh doanh, giết mổ trâu, bò; ổ dịch cũ, đường làng, ngõ xóm và

những nơi có nguy cơ cao, sau các dịp lễ, tết, đợt tiêm phòng và trước mùa vụ phát

bệnh trong năm.

- Tăng cường công tác kiểm dịch vận chuyển động vật, kiểm soát giết mổ,

kiểm tra vệ sinh thú y thực phẩm, kiểm soát chặt chẽ biên giới. Xử lý nghiêm những

trường hợp vi phạm theo quy định.

* Khi xảy ra dịch

- Thực hiện đồng bộ các biện pháp chống dịch: Công bố dịch theo quy định.

Thành lập các chốt kiểm dịch, cắm biển báo, bao vây ổ dịch, cấm vận chuyển trâu,

bò và các sản phẩm của trâu, bò chưa xử lý nhiệt ra khỏi ổ dịch, hạn chế người và

phương tiện ra vào ổ dịch.

- Siết chặt công tác kiểm dịch vận chuyển động vật, kiểm soát giết mổ, kiểm

tra vệ sinh thú y thực phẩm, kiểm soát chặt chẽ biên giới. Xử lý nghiêm những

trường hợp vi phạm theo quy định.

- Tổ chức tổng vệ sinh, khử trùng tiêu độc ổ dịch, hố chôn trâu, bò bệnh,

chuồng trại chăn nuôi, phương tiện vận chuyển, đường làng ngõ xóm và những nơi

có nguy cơ cao. Tập trung lực lượng tiêm phòng vaccine tụ huyết trùng cho trâu,

bò; tiêm từ ngoài vào trong ổ dịch để tạo miễn dịch chủ động cho con vật. Điều trị

trâu, bò mắc bệnh và xử lý trâu, bò chết theo hướng dẫn của cơ quan thú y.

- Giám sát chặt chẽ diễn biến dịch bệnh từ cơ sở, hộ chăn nuôi; phát hiện

sớm trâu, bò mắc bệnh để có biện pháp xử lý kịp thời không để dịch lây lan.

- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức phòng chống bệnh

liên tục, thường xuyên bằng nhiều hình thức cho nhân dân biết về sự nguy hại của

bệnh và tự giác thực hiện các biện pháp phòng chống.

- Các địa phương chủ động bố trí nhân lực, vật tư (vaccine), kinh phí để phục

vụ công tác chống dịch.

- Xây dựng kế hoạch khôi phục đàn trâu, bò sau dịch để phát triển sản xuất,

ổn định thị trường.

64

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. KẾT LUẬN

1.1. Về đặc điểm dịch tễ

Tại tỉnh Quảng Ninh, bệnh tụ huyết trùng trâu, bò xảy ra ở hầu hết các năm

điều tra từ 2016 - 2019, song mức độ bùng phát dịch theo các năm khác nhau. Tỷ lệ

trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng trung bình là 0,24%. Có 17,96% số trâu, bò bị chết

do tụ huyết trùng trong 4 năm điều tra.

Bệnh tụ huyết trùng trâu, bò tại tỉnh Quảng Ninh chủ yếu xảy ra vào vụ Hè -

Thu (0,18%), ít xảy ra hơn vào vụ Đông - Xuân (0,06%). Tỷ lệ trâu, bò chết do tụ

huyết trùng vào vụ Hè - Thu cũng cao hơn so với vụ Đông - Xuân.

Trâu, bò mọi lứa tuổi đều mắc bệnh tụ huyết trùng. Tuy nhiên, trâu, bò dưới

2 năm tuổi có tỷ lệ mắc bệnh và chết do tụ huyết trùng là cao nhất.

Tỷ lệ mắc bệnh của đàn trâu là 0,27% ; tỷ lệ mắc bệnh của đàn bò là 0,18%.

1.2. Triệu chứng, bệnh tích của bệnh tụ huyết trùng ở trâu, bò

Trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng có triệu chứng lâm sàng đặc trưng gồm sốt

cao 41 - 42 oC, bỏ ăn, không nhai lại, mắt đỏ, khó thở, sưng và thủy thũng vùng

họng hầu, bụng chướng hơi. Một số trâu, bò thấy xuất hiện triệu chứng thần kinh.

Những biến đổi bệnh lý đại thể của bệnh tụ huyết trùng trâu, bò gồm: 100%

có bệnh tích niêm mạc mắt, mũi tụ huyết, xuất huyết; Khí quản xuất huyết; trong

lòng khí quản chứa dịch nhớt, nhầy, có bọt khí; Viêm phổi thùy, viêm màng phổi,

phổi có điểm bị gan hóa; Hạch hầu sưng to, xuất huyết. Có 89,47% số trâu, bò có

bệnh tích tim sưng, xoang bao tim tích nước.

1.3. Phân lập vi khuẩn và xác định đặc tính sinh vật hóa học

Trâu, bò khoẻ mạnh có mang vi khuẩn P. multocida ở đường hô hấp, tỷ lệ

phân lập được vi khuẩn ở đàn trâu là 8,57%; đàn bò là 6,12%. Tỷ lệ mẫu bệnh phẩm

thu thập từ trâu, bò nghi mắc bệnh tụ huyết trùng dương tính với vi khuẩn P.

multocida là 42,10%.

65

Các chủng vi khuẩn phân lập được đều có đặc tính sinh vật, hóa học đặc

trưng, điển hình của loài P. multocida, thuộc serotype B:2. Vi khuẩn có độc lực

mạnh, gây chết 80,00% chuột thí nghiệm trong vòng 48 giờ sau khi công cường

độc. Vi khuẩn P. multocida phân lập được mẫn cảm mạnh với kháng sinh ceftiofur,

erofloxacin, amoxicillin/clavulanic acid; kháng lại oxytetracyclin và doxycycline.

1.4. Thử nghiệm phác đồ điều trị và đề xuất biện pháp phòng bệnh

Dùng 02 loại kháng sinh bio-enrofloxacin 100mg, nova - ceftio trong 02

phác đồ khác nhau để điều trị bệnh tụ huyết trùng trâu, bò tại Quảng Ninh đều cho

kết quả tốt (tỷ lệ khỏi bệnh >90%).

Công tác tiêm phòng vaccine tụ huyết trùng cho đàn trâu, bò tại tỉnh Quảng

Ninh khá tốt, mang lại hiệu quả phòng bệnh cao khi phối hợp đồng bộ với các biện

pháp phòng bệnh khác.

2. ĐỀ NGHỊ

Để hạn chế và tiến tới khống chế được bệnh tụ huyết trùng cho đàn trâu, bò

cần thực hiện những nội dung sau:

- Áp dụng kết quả nghiên cứu của đề tài tại tỉnh Quảng Ninh để phòng và

điều trị bệnh tụ huyết trùng đạt hiệu quả cao, tăng thu nhập cho người chăn nuôi.

- Cần tiếp tục nghiên cứu bệnh tụ huyết trùng tại các tỉnh miền núi phía Bắc

và hiện tượng mang trùng ở gia súc khoẻ để có đủ cơ sở xây dựng chương trình

phòng chống bệnh thích hợp.

- Xây dựng vùng an toàn dịch bệnh tụ huyết trùng trâu, bò qua việc chăn

nuôi theo hướng thâm canh, an toàn sinh học, thường xuyên mở các lớp tập huấn

nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ chăn nuôi thú y thôn bản, chủ

trang trại chăn nuôi./.

66

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Đặng Xuân Bình, Nguyễn Thị Kim Dung, Nguyễn Thị Hà, Lê Bá Hiệp (2010),

“Khảo sát sự lưu hành của vi khuẩn Pasteurella multocida ở gia súc một số tỉnh

miền núi phía Bắc Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, 17(2), tr. 53-57.

2. Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Quảng Ninh (2016), Báo cáo kết quả công tác

năm 2016, kế hoạch công tác năm 2017.

3. Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Quảng Ninh (2017), Báo cáo kết quả công tác

năm 2017, kế hoạch công tác năm 2018.

4. Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Quảng Ninh (2018), Báo cáo kết quả công tác

năm 2018, kế hoạch công tác năm 2019.

5. Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Quảng Ninh (2019), Báo cáo kết quả công tác

năm 2019, kế hoạch công tác năm 2020.

6. Chi cục Thống kê tỉnh Quảng Ninh (2020), Thống kê dân số tỉnh Quảng Ninh

năm 2020.

7. Tô Du (1987), Nuôi trâu, bò ở gia đình, Nxb Nông nghiệp, tr. 3-8.

8. Nguyễn Thị Kim Dung (2010), Xác định vi khuẩn Pasteurella multocida gây

bệnh tụ huyết trùng ở trâu, bò tại một số huyện có dịch trên địa bàn tỉnh Cao

Bằng và bước đầu thử nghiệm Auto-Vaccine, Luận văn Thạc sĩ khoa học Nông

nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên.

9. Bùi Văn Dũng (2000), Nghiên cứu tình hình bệnh tụ huyết trùng và vi khuẩn

Pasteurella multocida phân lập từ dịch ngoáy mũi trâu, bò khỏe của tỉnh Lai

Châu, Luận văn Thạc sỹ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.

10. Lê Văn Dương (2013), Nghiên cứu một số đặc tính sinh học của vi khuẩn

Actinobacillus pleuropneumoniae, Pasteurella multocida, Streptococcus suis

gây viêm phổi trong hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn tại Bắc Giang,

biện pháp phòng trị, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Đại học Thái Nguyên.

67

11. Nguyễn Khắc Đại (2015), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ, đặc tính sinh vật

học của vi khuẩn Pasteurella multocida gây bệnh tụ huyết trùng ở trâu, bò tại một

số huyện, tỉnh Quảng Ninh và biện pháp phòng trị, Luận văn Thạc sĩ Thú y,

Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên.

12. Trương Quang Hải (2012), Xác định một số đặc tính sinh học của vi khuẩn

Pasteurella multocida, Streptococcus suis gây viêm phổi ở lợn tại Bắc Giang

và biện pháp phòng trị, Luận văn Thạc sĩ khoa học Nông nghiệp, Trường Đại

học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên.

13. Trần Xuân Hạnh, Tô Thị Phấn, Phạm Quang Thái, Nguyễn Thiên Thu, Phạm

Hào Quang, Đỗ Văn Dũng (2007), “An toàn và hiệu lực vaccine tụ huyết trùng

trâu, bò nhũ hóa chủng P52 ”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, 14(2).

14. Cao Văn Hồng (2002), Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh tụ huyết trùng trâu,

bò, lợn tại Đắk Lắk và một số biện pháp phòng trị, Luận án Tiến sĩ Nông

nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.

15. Hoàng Đăng Huyến (2004), Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, các yếu tố ảnh hưởng

đến bệnh tụ huyết trùng trâu, bò tại Bắc Giang và đề xuất một số biện pháp

phòng chống, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Viện Thú y, Hà Nội.

16. Phạm Thị Phương Lan (2017), Nghiên cứu xác định yếu tố gây bệnh của vi

khuẩn Pasteurella multocida trong bệnh tụ huyết trùng trâu, bò tại Hà Giang,

Cao Bằng và lựa chọn vaccine phòng bệnh, Luận án Tiến sĩ Thú y, Trường Đại

học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên.

17. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Bá Hiên, Trần Xuân Hạnh, Nguyễn Kim Lan, Nguyễn

Hữu Nam, Huỳnh Văn Kháng, Hoàng Văn Năm, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn

Văn Thọ, Phạm Quang Thái (2009), Bệnh của trâu, bò, Nxb nông nghiệp.

18. Dương Thế Long (1995), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và vi khuẩn học

bệnh tụ huyết trùng trâu, bò ở Sơn La để xác định biện pháp phòng trị thích

hợp, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Nông nghiệp, Viện Khoa học Nông nghiệp

Việt Nam, Hà Nội.

68

19. Cù Hữu Phú, Nguyễn Xuân Huyên, Âu Xuân Tuấn, Lê Thị Minh Hằng, Lưu

Hải Yến, Văn Thị Hường, Trần Việt Dũng Kiên, Tăng Thị Phương (2014), “Lựa

chọn chủng vi khuẩn để chế tạo thử nghiệm vaccine phòng bệnh do vi khuẩn

Actinobacillus pleuropneumoniae, Pasteurella multocida và Streptococcus suis

gây ra ở lợn”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật thú y, 21(2), tr. 33 - 42.

20. Nguyễn Vĩnh Phước (1978), Giáo trình bệnh truyền nhiễm gia súc, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

21. Lê Văn Phượng (2015), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ, bệnh lý lâm sàng

bệnh tụ huyết trùng trâu, bò tại 3 huyện Quảng Xương, Nông Cống, Tỉnh Gia

tỉnh Thanh Hóa và biện pháp phòng trị, Luận văn Thạc sĩ Thú y, Trường Đại

học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên.

22. Phan Thanh Phượng (2000), “Bệnh tụ huyết trùng gia súc, gia cầm và biện pháp

phòng chống”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, 7(2), tr. 87- 96.

23. Đoàn Thị Băng Tâm (1987), Bệnh ở động vật nuôi, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà

Nội, tr. 51 - 79.

24. Nguyễn Như Thanh (2001), Vi sinh vật thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

25. Nguyễn Thiên Thu (1996), Nghiên cứu một số đặc tính vi sinh vật và kháng

nguyên của vi khuẩn Pasteurella multocida phân lập từ trâu, bò mang trùng ở

khu vực miền Trung Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ khoa học Nông nghiệp,

Viện Thú y Quốc gia, Hà Nội.

26. Đỗ Ngọc Thúy, Âu Xuân Tuấn, Cù Hữu Phú, Lê Xuân Tạo (2007), “Ứng dụng

kỹ thuật PCR để định Type giáp mô của các chủng vi khuẩn Pasteurella

multocida phân lập từ vật nuôi”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, 14(1), tr. 36

- 41.

27. Nguyễn Đình Trọng (2002), Phân lập, xác định đặc tính sinh học của vi khuẩn

Pasteurella sp ở trâu, bò nuôi tại tỉnh Bắc Kạn, lựa chọn vaccine phòng bệnh

thích hợp, Luận án Tiến sĩ khoa học Nông Nghiệp, Hà nội.

II. Tài liệu tham khảo ngoài nước

28. Abu James Sundufu, Rashid Ansumana, Alfred Swarray Bockarie, Umaru

69

Bangura, Joseph Morrison Lamin, Kathryn H Jacobsen, David Andrew Stenger

(2015), “Syndromic surveillance of peste des petits ruminants and other animal

diseases in Koinadugu district, Sierra Leone, 2011-2012”, Trop Anim Health

Prod, 47(2), pp. 473 - 477.

29. Annas S., Zamri-saad M., Jesse F. F. A., Zunita Z. (2014), “New sites of

localisation of Pasteurella multocida B:2 in buffalo surviving experimental

haemorhagic septicaemia”, B. M. C. Veterinary Research, 10, pp. 1 - 7.

30. Babafela B. Awosile, Luke C. Heider, Matthew E. Saab, McClure J. T. (2018),

“Antimicrobial resistance in mastitis, respiratory and enteric bacteria isolated

from ruminant animals from the Atlantic Provinces of Canada from 1994-

2013”, Can Vet J., 59(10), pp. 1099 - 1104.

31. Bain R. V. S., De Alwis M. C. L., Carter G. R. and Gupta B. K. (1982),

Haemorrhagic septicaemia, Animal Production and Health, No 33, FAO, Rome.

32. Bergey (1974), Manual of determinative bacteriology 8th Buchanan R.E and

Gibbsons N.E. Co-editors, Saltimore, the Williams and Wilking Company.

33. Bernardo Augusto França Dias de Oliveira, Natália Carrillo Gaeta, Bruno

Leonardo Mendonça Ribeiro, Mário Augusto Reyes Alemán, Lucas Miranda

Marques, Jorge Timenetsky, Priscila Anne Melville, Júlia Avansi Marques,

Valdecir Marvulle, Lilian Gregory (2016), “Determination of bacterial

aetiologic factor on tracheobronchial lavage in relation to clinical signs of

bovine respiratory disease”, J. Med Microbiol, 65(10), pp. 1137 - 1142.

34. Carter G. R. (1955), “Studies on Pasteurella multocida I, a haemagglutination

test for indentification of serological type”, American Journal of Veterinary

Research, 16, pp. 481 - 484.

35. Carter G. R. (1973), “Whatever happened to Haemorrhagic septicaemia”,

American Journal of Veterinary Medical Association, 180, pp. 176-177.

36. Chenlu Wu, Xiaobin Qin, Pan Li, Tingting Pan, Wenkai Ren, Nengzhang Li,

Yuanyi Peng (2017), “Transcriptomic analysis on responses of murine lungs

to Pasteurella multocida infection”, Front Cell Infect Microbiol, 7, pp. 251.

70

37. Clémence Bourély, Géraldine Cazeau, Eric Jouy, Marisa Haenni, Jean-Yves

Madec, Nathalie Jarrige, Agnès Leblond, Emilie Gay (2019), “Antimicrobial

resistance of Pasteurella multocida isolated from diseased food-producing

animals and pets”, Vet Microbiol, 235, pp. 280 - 284.

38. De Alwis M. C. L. (1984), “Haemorrhagic septicaemia in cattle and buffaloes”,

Office international des Epizooties revue Scientifique et technique, 3, pp. 707 -

730.

39. De Alwis M. C. L. (1999), “Pasteurellosis, Pasteurellosis in production animal”,

ACIAR proceedings, No 57.

40. Drew R. Magstadt, Adlai M. Schuler, Johann F. Coetzee, Adam C. Krull,

Annette M. O'Connor, Vickie L. Cooper, Terry J. Engelken (2018), “Treatment

history and antimicrobial susceptibility results for Mannheimia haemolytica,

Pasteurella multocida, and Histophilus somni isolates from bovine respiratory

disease cases submitted to the Iowa State University Veterinary Diagnostic

Laboratory from 2013 to 2015”, J. Vet Diagn Invest, 30(1), pp. 99 - 104.

41. Edouard Timsit, Jennyka Hallewell, Calvin Booker, Nicolas Tison, Samat

Amat, Trevor W Alexander (2017), “Prevalence and antimicrobial susceptibility

of Mannheimia haemolytica, Pasteurella multocida, and Histophilus somni

isolated from the lower respiratory tract of healthy feedlot cattle and those

diagnosed with bovine respiratory disease”, Vet Microbiol, 208, pp. 118 - 125.

42. Heddleston K. L., Roberts P. A. and Ritchie A. E. (1966), “Immunizing and toxin

properties of particulate antigens from two immunogenic types Pasteurella

multocida of Avian origin”, Journal of Immulogy, 96, pp. 124 - 133.

43. Heddleston K. L., Gallagher J. E. and Rebers P. A. (1972), “Fowl cholera: Gel

diffusion precision test for serotyping Pasteurella multocida avian species”,

Avian disease, 16, pp. 925 - 936.

44. Holschbach C. L., Aulik N., Poulsen K., Ollivett T. L. (2020), “Prevalence and

temporal trends in antimicrobial resistance of bovine respiratory disease

71

pathogen isolates submitted to the Wisconsin Veterinary Diagnostic

Laboratory: 2008 - 2017”, J. Dairy Sci, S0022(20), pp. 570 - 581.

45. Kawasaki M., Young J. R., Suon S., Bush R. D., Windsor P. A. (2015), “The

Socioeconomic Impacts of Clinically Diagnosed Haemorrhagic Septicaemia on

Smallholder Large Ruminant Farmers in Cambodia”, Transbound Emerg Dis,

62(5), pp. 535 - 48.

46. Lane E. P., Kock N. D., Hill F. W. G., Mohan K. (1992), “An outbreak of

haemorrhagic septicaemia (septicaemia pasteurellosis) in cattle in Zimbabwe”,

Tropical Animal Health and Production, 24(2), pp. 97 - 102.

47. Maynou G., Bach A., Terré M. (2017), “Feeding of waste milk to Holstein

calves affects antimicrobial resistance of Escherichia coli and Pasteurella

multocida isolated from fecal and nasal swabs”, Journal of Dairy Science,

100(4), pp. 2682 - 2694.

48. Namioka S. and Murata M. (1961), “Serological studies on Pasteurella

multocida I. A simplified method for capsule typing of the organisms”, Cornell

Veterinarian, Vol 51, pp. 498 - 507.

49. Naz S., Hanif A., Maqbool A., Ahmed S., Muhammand K. (2012), “Isolation,

Characterrization and monitoring of Antibiotic resistance in Pasteurella

multocida Isolates from Buffalo (BUBALUS BUBALIS) Herds Around

Lahore”, The Journal of Animal and Plant Sciences, 22(3), pp. 242 - 245.

50. Quinn P. J., Carter M. E., Markey B. K., Carter G. R. (1994), “Pasteurella

multocida species. In: Quinn, P.J; Carter, M.E; Markey, B.K; Carter, G.R.

(Eds.)”, Clinical Veterinary Microbiology, pp. 254 - 259.

51. Rajeswari Shome, Ram Pratim Deka, Swati Sahay, Delia Grace, Johanna F

Lindahl (2019), “Seroprevalence of hemorrhagic septicemia in dairy cows in

Assam, India”, Infect Ecol Epidemiol, 9(1), pp. 104 - 106.

52. Ramdani, Dawkins H. J., Johnson R. B., Spencer T. L., Adler B. (1990),

“Pasteurella multocida infections in mice with refence to haemorrhagic

septicaemia in cattle and buffalo”, Immunol. Cell. Biol., 68(1), pp. 57 - 61.