ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM –––––––––––––– TRẦN THỊ PHƢƠNG HẰNG NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ NNGGÔÔNN NNGGỮỮ Thái Nguyên - 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM –––––––––––––– TRẦN THỊ PHƢƠNG HẰNG NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ NNGGÔÔNN NNGGỮỮ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ QUANG NĂNG Thái Nguyên - 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả đưa

ra trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ một công

trình nào.

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trần Thị Phƣơng Hằng

3

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS. Hà Quang Năng, người

đã nhiệt tình, tận tâm và chu đáo hướng dẫn em thực hiện luận văn này.

Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, khoa Sau đại học, khoa

Ngữ văn trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên cùng các thầy, cô giáo đã

tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình, bạn bè và người thân, những người

đã cùng sẻ chia, giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành

được luận văn này.

Điện Biên, tháng 09 năm 2009

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trần Thị Phƣơng Hằng

4

MỤC LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng biểu MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1 2. Đối tượng và nội dung nghiên cứu ....................................................................... 2 3. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .............................................................. 5 5. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu ...................................................................... 5 6. Cấu trúc luận văn ................................................................................................. 6 Chƣơng 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊA DANH VÀ ĐỊA DANH HỌC .......................................................................... 8 1.1. Khái niệm về địa danh ...................................................................................... 8 1.2. Phân loại địa danh............................................................................................11 1.3. Đặc điểm của địa danh .....................................................................................12 1.4. Các phương diện nghiên cứu địa danh .............................................................14 1.5. Một số đặc điểm của địa bàn nghiên cứu liên quan đến địa danh và địa danh học ....................................................................................................15 1.5.1. Về địa lí ........................................................................................................15 1.5.2. Về lịch sử ......................................................................................................18 1.5.3. Về văn hóa ....................................................................................................20 1.5.4. Về dân cư ......................................................................................................21 1.5.5. Về ngôn ngữ..................................................................................................23 1.6. Kết quả thu thập và phân loại địa danh ............................................................24 1.6.1. Kết quả thu thập địa danh .............................................................................24 1.6.2. Kết quả phân loại địa danh ...........................................................................25 1.7. Tiểu kết ...........................................................................................................26 Chƣơng 2: CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN ...................................................................28 2.1. Cấu trúc phức thể địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên .............28 2.1.1. Vài nét về mô hình cấu trúc phức thể địa danh..............................................28 2.1.2. Cấu trúc phức thể địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên .....................................................................................................30

5

2.2. Thành tố chung ................................................................................................32 2.2.1. Khái niệm thành tố chung .............................................................................32 2.2.2. Thành tố chung trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên ....................................................................................................33 2.3. Địa danh (tên riêng) .........................................................................................38 2.3.1. Khái niệm địa danh .......................................................................................38 2.3.2. Số lượng yếu tố trong địa danh .....................................................................39 2.4. Đặc điểm cấu tạo của địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên ......................................................................................................44 2.4.1. Địa danh có cấu tạo đơn ...............................................................................45 2.4.2. Địa danh có cấu tạo phức .............................................................................46 2.5. Các phương thức định danh trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên ...........................................................................................51 2.5.1. Khái niệm về phương thức định danh ............................................................51 2.5.2. Các phương thức định danh trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên ............................................................................................53 2.5.3. Tổng hợp kết quả ..........................................................................................62 2.5.4. Nhận xét về các phương thức định danh trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên ................................................................63 2.6. Tiểu kết ...........................................................................................................65 Chƣơng 3: ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ - VĂN HÓA TRONG ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIÊN BIÊN .....68 3.1. Một số vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa ...........................................................68 3.1.1. Khái niệm văn hóa ........................................................................................68 3.1.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa ........................................................69 3.1.3. Vài nét về văn hóa thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được

thể hiện qua các địa danh .............................................................................72 3.2. Ý nghĩa của địa danh và hiện thực được phản ánh ...........................................74 3.3. Nghĩa của các yếu tố trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được thể hiện qua nguồn gốc ngôn ngữ ...............................79

3.3.1. Các yếu tố rõ ràng về nghĩa ..........................................................................80

3.3.2. Các yếu tố chưa rõ ràng về nghĩa .................................................................82 3.4. Tính đa dạng của các loại hình đối tượng địa lí qua các yếu tố địa danh

của thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên ..........................................83

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3.4.1. Tính đa dạng của các loại hình đối tượng địa lí ............................................83 3.4.2. Bức tranh địa hình mang tính cảnh quan rõ nét ............................................84 3.5. Phân loại ý nghĩa của các yếu tố trong địa danh .............................................87

6

3.6. Các nhóm từ và tên gọi theo trường nghĩa........................................................90

3.6.1. Nhóm ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan gắn liền với những đối tượng địa lí ...............................................................................................90

3.6.2. Nhóm ý nghĩa phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm của con người ........... 103 3.7. Một số địa danh gắn với đời sống, lịch sử, văn hóa ở thành phố Điện

Biên Phủ và huyện Điện Biên ...................................................................... 107

3.7.1. Điện Biên Phủ............................................................................................. 107

3.7.2. Thành Bản Phủ và đền Hoàng Công Chất................................................... 115 3.7.3. Hồ U Va...................................................................................................... 121

3.7.4. Đồi A1 ........................................................................................................ 124

3.8. Tiểu kết ......................................................................................................... 129

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 132

Những bài báo của tác giả có liên quan đến luận văn đã được công bố ................. 135

Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 136

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phụ lục ................................................................................................................. 140

7

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐD ĐHTN : Địa danh địa hình thiên nhiên

ĐD ĐVDC : Địa danh đơn vị dân cư

ĐD CTNT : Địa danh công trình nhân tạo

ĐBP : Thành phố Điện Biên Phủ

ĐB : Huyện Điện Biên

P : Phường

X : Xã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

YT : Yếu tố

8

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1. Kết quả thu thập địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Điện Biên ..............................................................................................25

Bảng 2.1. Mô hình cấu trúc phức thể địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên ...................................................................................31

Bảng 2.2. Kết quả thống kê cấu tạo các thành tố chung ..........................................34

Bảng 2.3. Thống kê sự phân bố của các thành tố chung khi chuyển hóa

thành các yếu tố trong địa danh ..............................................................38

Bảng 2.4. Thống kê địa danh theo số lượng các yếu tố ...........................................40

Bảng 2.5. Thống kê địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

theo kiểu cấu tạo ....................................................................................44

9

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Địa danh là một bộ phận từ vựng của ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt

nói riêng. Nghiên cứu địa danh một vùng cung cấp cho ta những cơ sở để tìm hiểu

những cơ chế định danh của một sự vật, hiện tượng. Mỗi ngôn ngữ có cách định

danh riêng.

1.2. Địa danh liên quan chặt chẽ đến lịch sử, văn hoá, cư dân của một vùng

nhất định. Địa danh lưu giữ những trầm tích của lịch sử, văn hoá, phong tục, tập

quán cư dân của một vùng đất. Nghiên cứu địa danh sẽ giúp nghiên cứu văn hóa,

lịch sử của vùng đất ấy.

1.3. Địa danh có những nguyên tắc riêng trong cấu tạo, trong cách gọi tên, có

thể một địa danh có nhiều tên gọi khác nhau, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác

nhau. Nghiên cứu địa danh giúp nghiên cứu lịch sử một vùng đất, giúp khám phá sự

ảnh hưởng và tác động của những nhân tố bên ngoài vào cách đặt tên địa danh: đất

nước học, tôn giáo, tín ngưỡng, lịch sử tộc người… Trong hoàn cảnh một vùng đất

có nhiều dân tộc nối tiếp nhau sinh sống, địa danh có nhiều dấu tích từ vựng của các

ngôn ngữ. Mỗi địa danh được hình thành trong một hoàn cảnh văn hoá, lịch sử nhất

định và còn lưu dấu mãi về sau. Nhiều địa danh thường mang tên người, cây cỏ,

cầm thú, sự vật, địa hình thiên nhiên…

1.4. Điện Biên nói chung, thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên nói

riêng là một trong những mảnh đất giàu ý nghĩa lịch sử. Khảo sát địa danh thành

phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên giúp chúng ta nghiên cứu một chặng đường

lịch sử lâu dài và hào hùng của dân tộc ta; giúp chúng ta học tập, giữ gìn truyền

thống văn hoá dân tộc, đồng thời góp phần vào việc phát triển kinh tế, văn hoá xã

hội và mở rộng phát triển du lịch của tỉnh Điện Biên. Với những lý do nêu trên,

chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Điện Biên” làm đối tượng nghiên cứu của luận văn.

1

2. Đối tƣợng và nội dung nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Các địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo của

thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên và đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá của

một số địa danh thuộc hai địa bàn này.

2.2. Nội dung nghiên cứu

Xác định những cơ sở lí luận liên quan đến việc nghiên cứu địa danh và địa

danh học.

Nội dung của luận văn, chúng tôi tập trung vào các mặt sau:

- Nghiên cứu những đặc điểm về phương diện cấu tạo của các địa danh địa

hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo của thành phố Điện Biên Phủ

và huyện Điện Biên.

- Tìm hiểu về phương thức định danh các địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị

dân cư và công trình nhân tạo của thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên đồng

thời qua đó bước đầu tìm hiểu về nội dung ngữ nghĩa địa danh.

- Ở một chừng mực nhất định tìm hiểu mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hoá

và lịch sử trong những địa danh nổi tiếng của thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Điện Biên.

3. Lịch sử vấn đề

3.1. Vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới

Vấn đề nghiên cứu địa danh được phát triển từ lâu trên thế giới. Ở Trung

Quốc, ngay từ thời Đông Hán (32 - 39 sau Công nguyên), Ban Cố đã ghi chép hơn

4000 địa danh, trong đó một số đã được giải thích rõ nguồn gốc và ý nghĩa.

Ở các nước phương Tây, bộ môn địa danh học được chính thức ra đời vào

cuối thế kỷ XIX. Năm 1872, J.J. Êgi (Thuỵ Sĩ) viết “Địa danh học” và năm 1903,

J.W. Nagl (người Áo) cũng cho ra đời tác phẩm “Địa danh học”. Thời kỳ đầu, các

tác phẩm địa danh học chú trọng khảo chứng nguồn gốc địa danh.

Từ thế kỷ XX, bước vào giai đoạn nghiên cứu tổng hợp về địa danh, J.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Gilliron đã viết “Átlát ngôn ngữ Pháp”, nghiên cứu địa danh theo hướng

2

phát triển địa lí học. Năm 1926, A. Dauzat (người Pháp) đã viết “Nguồn gốc và sự

phát triển địa danh”, đề xuất phương pháp văn hoá địa lí học để nghiên cứu các lớp

niên đại của địa danh.

Từ sau năm 1960 đã có hàng loạt công trình nghiên cứu về lĩnh vực này được

ra đời. Chẳng hạn, A.V. Superanxkaja trong cuốn “Địa danh là gì?” (1985) và

E.M. Murzaev với “Những khuynh hướng nghiên cứu địa danh học” (1964) đã

cùng quan tâm đến vấn đề khuynh hướng nghiên cứu chung. Tác giả Iu.A. Kapenco

(1964) lại nghiên cứu địa danh học về mặt đồng đại, N.V. Podonxkaja trong phân

tích, lí giải địa danh mang những thông tin gì cũng đã góp thêm những ý kiến cho

sự nghiên cứu địa danh đi sâu vào bản chất bên trong của đối tượng.

Những công trình nghiên cứu địa danh ở các quốc gia khác nhau đã góp phần

minh chứng sự phong phú, đa dạng của địa danh cũng như những vấn đề nghiên cứu

trong lĩnh vực này. Chẳng hạn, Ch. Rostaing (1965) với “Les noms de lieux” đã nêu

ra hai nguyên tắc nghiên cứu địa danh là phải tìm ra các hình thức cổ của các từ cấu

tạo địa danh và muốn biết từ nguyên của địa danh thì phải dựa trên kiến thức ngữ

âm học địa phương. Đây là một chuyên khảo bổ sung thêm cho vấn đề mà A.I.

Popov đã đưa ra trước đó.

3.2. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Việt Nam

Ở Việt Nam, vấn đề địa danh được quan tâm từ rất sớm. Các tài liệu “Tiền

Hán thư”, “Địa lí chí”, “Hậu Hán thư”, “Tấn thư” trong thời Bắc thuộc có đề cập

đến địa danh Việt Nam. Các tài liệu này đều do người Hán viết, phục vụ trực tiếp

cho cuộc xâm lược nước ta. Bên cạnh đó cũng có những tác phẩm của các nhà

nghiên cứu Việt Nam như vào khoảng thế kỉ XV có tác phẩm “Dư địa chí” của

Nguyễn Trãi, khoảng thế kỉ XVIII có tác phẩm “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn.

Tuy không nhiều nhưng những công trình này đã góp phần quan trọng vào việc

nghiên cứu địa danh Việt Nam.

Vấn đề nghiên cứu địa danh Việt Nam có được những bước tiến đáng kể hơn

là từ những năm 1960 trở đi. Hoàng Thị Châu với “Mối quan hệ về ngôn ngữ cổ đại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ở Đông Nam Á qua một vài tên sông” (1964) được xem như là người cắm cột mốc

3

đầu tiên trong nghiên cứu địa danh dưới góc nhìn ngôn ngữ học. Lê Trung Hoa với

“Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh” (1991) đã đưa những vấn đề lý thuyết làm cơ

sở cho sự phân tích và chỉ ra các đặc điểm về cấu tạo, nguồn gốc, ý nghĩa… của

thành phố Hồ Chí Minh. Đến 1996, Nguyễn Kiên Trường với luận án PTS “Những

đặc điểm chính địa danh Hải Phòng” đã bổ sung thêm những vấn đề lý thuyết mà

Lê Trung Hoa đã đưa ra trước đó. Tiếp sau là luận án tiến sĩ của Từ Thu Mai với

“Nghiên cứu địa danh Quảng Trị” (2004), Phan Xuân Đạm với “Địa danh Nghệ

An” (2005)… Một loạt các luận văn thạc sĩ khảo sát địa danh ở nhiều địa phương đã

được công bố. Những công trình này đều có những đóng góp đáng trân trọng khi

tiếp cận vấn đề địa danh học dưới cách nhìn ngôn ngữ học.

Ngoài ra còn một số công trình ra đời dưới dạng sách, từ điển, sổ tay như các

công trình của Trần Thanh Tân, Đinh Xuân Vịnh… Các công trình này đều nghiên cứu

một cách công phu nhưng nặng về tập hợp tư liệu, tính lý thuyết chưa cao.

3.3. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Điện Biên

Địa danh Điện Biên nói chung, địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Điện Biên nói riêng là đối tượng hết sức mới mẻ, chưa có công trình nào đi sâu

nghiên cứu. Hiện mới chỉ có tác phẩm “Sông núi Điện Biên” (2000) của Trần Lê

Văn là tác phẩm ghi lại những câu chuyện về một vài vùng đất ở Điện Biên mà tác

giả có dịp đặt chân đến. Và rải rác trong một số cuốn sách hay bài báo có đề cập đến

một vài địa danh nổi tiếng trong tỉnh, chẳng hạn bài báo “Thành Bản Phủ” (1991)

của Đỗ Văn Ninh trong tạp chí Khảo cổ học, tác phẩm “Di tích lịch sử và văn hóa

Điện Biên Phủ” (2008) của Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, hay tác

phẩm “Địa danh và những vấn đề lịch sử - văn hóa của các dân tộc nhóm ngôn ngữ

Tày - Thái Việt Nam” (2009) của Hội nghị Thái học Việt Nam lần thứ V.

Nhìn chung các khuynh hướng nghiên cứu địa danh ở Việt Nam rất phong

phú, đa dạng. Chính sự phong phú, đa dạng ấy đã giúp chúng ta nhìn nhận địa danh

ở những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về địa danh theo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

góc độ ngôn ngữ học còn chưa nhiều.

4

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Trước chúng tôi đã có một số công trình luận án tìm hiểu địa danh TP Hồ

Chí Minh, Hải Phòng, Nghệ An, Quảng Trị, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và các vùng

khác. Với địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, từ trước tới nay

hầu như chưa được khảo sát và nghiên cứu. Đây là công trình đầu tiên khảo sát, tìm

hiểu một cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống địa danh ở địa bàn này về các phương

diện cấu tạo, nguồn gốc, đặc điểm phương thức định danh và ý nghĩa các địa danh

địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo. Bên cạnh đó luận văn

cũng chỉ ra một vài đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của địa danh trong mối quan hệ

với địa lí, lịch sử, dân cư và ngôn ngữ. Kết quả nghiên cứu của luận văn về địa danh

có thể là tư liệu quý cho ngành địa phương học, cho việc nghiên cứu lịch sử văn hóa

Điện Biên, góp phần phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, du lịch của địa phương.

Đồng thời kết quả nghiên cứu này có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo bổ ích

trong việc giảng dạy lịch sử địa phương, trong giáo dục truyền thống, giữ gìn, phát

huy những giá trị lịch sử, văn hoá của địa phương.

5. Phƣơng pháp và tƣ liệu nghiên cứu

5.1. Phương pháp nghiên cứu

Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, công việc đầu tiên là phải thu thập tư

liệu, bổ sung và chỉnh lí các thông tin, thông số của địa danh. Mặt khác phải tra cứu

các tài liệu về lịch sử, địa lí, truyền thống văn hóa của thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên. Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp điều tra, điền dã, khảo sát thực tế, thu thập tất cả các địa danh

trên hai địa bàn thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.

- Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp giúp chúng tôi tập hợp và phân

loại các địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo trong

thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên trên cơ sở thu thập địa danh qua các

nguồn khác nhau.

- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để phản ánh những đặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

điểm cấu tạo và đặc trưng ngữ nghĩa của các yếu tố tên riêng trong phức thể địa danh.

5

- Phương pháp phân tích thành tố nghĩa: Dựa vào các cứ liệu ngôn ngữ, đặc

điểm tâm lí của con người và quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, nghiên cứu một số

địa danh để tìm hiểu xuất xứ, nguồn gốc của một số địa danh nổi tiếng trong thành

phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.

5.2. Tư liệu nghiên cứu

Với mục đích phản ánh đầy đủ, trung thực hệ thống địa danh địa hình thiên

nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo trong thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên, chúng tôi đã tiến hành tập hợp các tư liệu cần thiết từ những

nguồn sau:

- Dựa vào tư liệu điều tra điền dã để thu thập tư liệu, ghi chép, bổ sung,

chỉnh lí các thông số, thông tin của từng địa danh.

- Dựa vào niên giám thống kê của thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.

- Dựa vào bản đồ các loại của thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.

- Dựa vào một số các công trình nghiên cứu về văn hoá, lịch sử, tôn giáo,

kinh tế của địa phương.

- Dựa vào những tư liệu lưu giữ ở chính quyền địa phương. Đây là tư liệu

quan trọng nhất, có tính pháp lí để đảm bảo tính minh xác của những điều trình bày

trong luận văn.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm

ba chương:

Chƣơng 1. Những cơ sở lí thuyết liên quan đến địa danh và địa danh học

Chương này sẽ trình bày những vấn đề lý thuyết làm cơ sở cho việc triển

khai những chương mục tiếp theo. Bên cạnh đó, những vấn đề về địa lí, lịch sử, dân

cư, văn hóa và ngôn ngữ trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên

cùng một số kết quả thu thập, phân loại các địa danh trên địa bàn cũng được trình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bày tóm tắt, làm cơ sở cho nội dung của luận văn

6

Chƣơng 2. Đặc điểm cấu tạo của địa danh thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên

Chương này sẽ xác định cấu trúc phức thể địa danh của thành phố Điện Biên

Phủ và huyện Điện Biên gồm thành tố chung và tên riêng. Nội dung của chương sẽ

đi sâu tìm hiểu những đặc điểm về cấu tạo của địa danh trong địa bàn và những

phương thức định danh những địa danh đó.

Chƣơng 3. Đặc trƣng ngôn ngữ - văn hoá trong địa danh thành phố Điện

Biên Phủ và huyện Điện Biên

Chương này sẽ đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo nên địa danh.

Qua đó xác định được lí do đặt tên của địa danh và xác lập được một hệ thống các

trường nghĩa và bộ phận nghĩa của các yếu tố cấu tạo. Đồng thời nội dung của

chương sẽ khai thác những ảnh hưởng của địa lí, lịch sử, dân cư, ngôn ngữ đối với

một số địa danh trong địa bàn. Qua đó thấy được nét riêng của địa danh thành phố

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được phản ánh như thế nào.

7

CHƢƠNG 1

NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊA DANH

VÀ ĐỊA DANH HỌC

1.1. KHÁI NIỆM VỀ ĐỊA DANH

Cuộc sống của con người gắn với những điểm địa lí khác nhau. Những điểm

địa lí này được gọi bằng những từ ngữ riêng. Đó là những tên gọi địa lí (địa danh).

Những tên gọi này tạo nên một hệ thống riêng và tồn tại trong vốn từ của các ngôn

ngữ khác nhau trên thế giới. Những tên gọi địa lí, địa danh ấy được thể hiện bằng

thuật ngữ toponima hay toponoma (có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp) với ý nghĩa “tên

gọi điểm địa lí”.

Cần phải hiểu đúng khái niệm địa danh theo phạm vi xuất hiện của nó. Nếu

hiểu đúng theo lối chiết tự thì “địa danh” là tên đất. Thế nhưng, khái niệm này cần

phải hiểu rộng hơn vì đây chính là đối tượng nghiên cứu của một ngành khoa học.

Cụ thể địa danh không chỉ là tên gọi của các đối tượng địa lí tồn tại trên trái đất. Nó

có thể là tên gọi của các đối tượng địa hình thiên nhiên. Đối tượng địa lí cư trú hay

là công trình do con người xây dựng, tạo lập nên.

Địa danh là lớp từ ngữ nằm trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ, được dùng để

đặt tên, gọi tên các đối tượng địa lí. Vì thế, nó hoạt động và chịu sự tác động, chi phối

của các qui luật ngôn ngữ nói chung về mặt ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa và ngữ pháp.

Hiện nay đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những định nghĩa khác nhau về

địa danh. Nhà ngôn ngữ học Nga A.V. Superanskaja trong cuốn “Địa danh là gì?”

đã cho rằng: địa danh là những từ ngữ biểu thị tên gọi “những địa điểm, mục tiêu

địa lí”, “những địa điểm, mục tiêu địa lí đó là những vật thể tự nhiên hay nhân tạo

với sự định vị xác định trên bề mặt trái đất” [43, tr.13].

Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu địa danh học đã tiếp cận địa danh từ hai góc

độ khác nhau là nghiên cứu địa danh từ góc độ địa lí - văn hóa và nghiên cứu địa

danh từ góc độ ngôn ngữ học. Đại diện cho hướng nghiên cứu thứ nhất, Nguyễn

Văn Âu cho rằng: “Địa danh là tên đất, tên sông, núi, làng mạc… hay là tên các địa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phương, các dân tộc” [5, tr.15].

8

Đại diện cho hướng nghiên cứu thứ hai là Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên

Trường, Từ Thu Mai, Phan Xuân Đạm.

Lê Trung Hoa cho rằng: “Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định được dùng

làm tên riêng của địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng, các đơn vị hành

chính, các vùng lãnh thổ” [26, tr.21].

Nguyễn Kiên Trường quan niệm: “Địa danh là tên riêng của các đối tượng

địa lí tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” [48, tr. 16].

Từ Thu Mai đưa ra cách hiểu: “Địa danh là những từ ngữ chỉ tên riêng của

các đối tượng địa lí có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” [31, tr.21].

Phan Xuân Đạm cho rằng: “Địa danh là lớp từ ngữ đặc biệt, được định ra để

đánh dấu vị trí, xác lập tên gọi các đối tượng địa lí tự nhiên và nhân văn” [20, tr.12].

Như vậy, với mong muốn đi tìm một khái niệm với nguyên nghĩa của từ

toponomie, Nguyễn Văn Âu quan niệm địa danh chính là “tên gọi các địa phương

hay tên gọi địa lí”, theo đó “địa danh học là một môn khoa học chuyên nghiên cứu

về tên địa lí của các địa phương”. Quan niệm này khá đơn giản, dễ hiểu, trùng với

cách hiểu thông thường của nhân dân, của từ điển ngữ văn giải thích, chẳng hạn

trong “Từ điển Hán Việt”, Đào Duy Anh giải thích: “địa danh là tên gọi các miền

đất”, “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên giải thích: địa danh là “tên đất,

tên làng”. Nguyễn Văn Âu cố gắng thoát ra khỏi quan niệm cho rằng địa danh học

“chuyên nghiên cứu về tên riêng”, ông “chú ý tới các từ chung”.

Lê Trung Hoa là một trong những người có ý thức trình bày các vấn đề địa

danh đặt trong khung cảnh ngôn ngữ học, hướng đến tính lý thuyết, tính hệ thống

sớm hơn cả so với nhiều tác giả khác. Lê Trung Hoa cho rằng: “Địa danh là những

từ hoặc ngữ cố định được dùng làm tên riêng của địa hình thiên nhiên, các công

trình xây dựng thiên về không gian hai chiều, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh

thổ” [26, tr.21]. Định nghĩa này thiên về việc chỉ ra ngoại diên của khái niệm, đồng

thời chỉ ra cách phân loại các địa danh. Do đó, khó có thể khuôn được hiện thực các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

kiểu loại địa danh vốn đa dạng trong thực tế vào trong định nghĩa phân loại này.

9

Nguyễn Kiên Trường là người đầu tiên đưa ra định nghĩa nêu giới hạn ngoại

diên của địa danh chỉ thuộc về những gì ở trên trái đất một cách hiển ngôn. Dựa trên

tiêu trí mà Lê Trung Hoa đưa ra, Nguyễn Kiên Trường chia địa danh thành từng loại

nhỏ. Bên cạnh đó, ông còn tiến hành phân loại theo nguyên ngữ, theo chức năng của

địa danh.

Từ Thu Mai cho rằng, khi xác định khái niệm địa danh cần chú ý đến những

vấn đề trong nội tại bản thân khái niệm. Định nghĩa của Từ Thu Mai có điểm xuất

phát từ cách hiểu địa danh của A.V. Superanskaja.

Theo chúng tôi, mặc dù nằm trong hệ thống những loại hình khác nhau

nhưng các đối tượng địa lí bao giờ cũng xuất hiện trong thực tế với những cá thể

độc lập. Đầu tiên, người ta thường sử dụng các tên chung để định danh cho một đối

tượng cụ thể, được xác định. Nó chính là đơn vị định danh bậc hai trên cơ sở vốn từ

chung. Vì vậy, khi xác định khái niệm địa danh cần phải chú ý đến những vấn đề

nội tại trong bản thân địa danh. Trước hết, mỗi địa danh đều phải có tính lí do, phải

xác định được nguyên nhân đặt tên đối tượng. Chức năng gọi tên và cá thể hóa, khu

biệt đối tượng là tiêu chí thứ hai. Tiêu chí thứ ba là các đối tượng được gọi tên phải

là các đối tượng địa lí tồn tại trên bề mặt trái đất và ngoài trái đất. Các đối tượng

này có thể là đối tượng địa lí tự nhiên hay không tự nhiên.

Phan Xuân Đạm có quan niệm khá độc đáo, khác với những người đi trước.

Cách hiểu của ông về địa danh rất hợp lý, tiến bộ theo hướng chức năng của địa

danh. Về cách phân loại địa danh, cũng như Từ Thu Mai, tác giả kế thừa cách phân

loại của Lê Trung Hoa.

Nhìn chung, trong các định nghĩa và phân loại, các tác giả đều thừa nhận

rằng, các đối tượng được định danh rồi nhóm lại dưới cái tên gọi “địa danh” chỉ là

những đối tượng thuộc về trái đất. Như vậy, các đối tượng ngoài trái đất như Trạm

vũ trụ Hòa Bình, sao Hỏa… sẽ không được coi là địa danh. Điều này khác với quan

điểm của nhiều nhà khoa học nước ngoài.

Từ những vấn đề trên, chúng tôi tán thành quan điểm của Phan Xuân Đạm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khi ông cho rằng: “Địa danh là lớp từ ngữ đặc biệt, được định ra để đánh dấu vị trí,

10

xác lập tên gọi các đối tượng địa lí tự nhiên và nhân văn” [20, tr.12]. Luận văn này

sẽ nghiên cứu những từ ngữ chỉ tên riêng của các đối tượng địa lí thuộc địa danh địa

hình tự nhiên, địa danh đơn vị dân cư và địa danh công trình nhân tạo trên địa bàn

thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.

1.2. PHÂN LOẠI ĐỊA DANH

Hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các nhà ngôn ngữ học có những

cách phân loại khác nhau về địa danh. Chẳng hạn, G.P. Smolichnaja và M.V.

Gorbanevskij cho rằng địa danh có bốn loại: Phương danh (tên các địa phương), sơn

danh (tên núi, gò, đồi…), thủy danh (tên các dòng chảy, ao ngòi, sông vũng), phố

danh (tên các đối tượng trong thành phố). Còn nhà khoa học Nga A.V.

Superanskaja lại chia làm bảy loại: Phương danh, thủy danh, sơn danh, phố danh,

viên danh, lộ danh, đạo danh (tên các đường giao thông trên đất, dưới đất, trên

nước, trên không).

Ở Việt Nam, Nguyễn Văn Âu quan niệm: “Phân loại địa danh là sự phân

chia địa danh thành các kiểu, nhóm khác nhau, dựa trên những đặc tính cơ bản về

địa lí cũng như về ngôn ngữ và lịch sử” [5, tr.37]. Và ông đã chia địa danh Việt

Nam thành hai loại: Địa danh tự nhiên và địa danh kinh tế - xã hội với bảy kiểu:

Thủy danh, lâm danh, sơn danh, làng xã, huyện thị, tỉnh, thành phố, quốc gia và

mười hai dạng: Sông ngòi, hồ đầm, đồi núi, hải đảo, rừng rú, truông - trảng, làng -

xã, huyện - quận, thị trấn, tỉnh, thành phố, quốc gia. Mỗi dạng lại có thể phân chia

thành các dạng sông, ngòi, suối… Cách phân loại này của tác giả nghiêng về tính

dân gian, dễ tiếp thu song hơi sa vào chi tiết, thiếu tính khái quát, đối tượng nghiên

cứu và tên gọi đối tượng nghiên cứu chưa được làm rõ.

Lê Trung Hoa phân loại địa danh dựa vào nguồn gốc địa danh. Cách phân

loại của ông dựa vào hai tiêu chí tính tự nhiên và không tự nhiên. Đây là cách phân

loại thường gặp và tương đối hợp lý, có tính bao quát. Ông phân loại địa danh: Địa

danh chỉ địa hình thiên nhiên, địa danh chỉ công trình xây dựng, địa danh hành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chính, địa danh chỉ vùng.

11

Nguyễn Kiên Trường phân loại dựa trên tiêu chí mà Lê Trung Hoa đưa ra

nhưng tiếp tục chia nhỏ một bước nữa. Ông chia đối tượng tự nhiên thành hai loại

nhỏ: Các đối tượng sơn hệ và các đối tượng thủy hệ; chia đối tượng nhân văn thành:

địa danh cư trú và địa danh chỉ công trình xây dựng. Địa danh cư trú bao gồm: đơn

vị cư trú tự nhiên, đơn vị hành chính, đường phố. Địa danh chỉ công trình xây dựng

bao gồm: Đơn vị hành chính, đường phố và các đối tượng khác. Bên cạnh đó,

Nguyễn Kiên Trường còn tiến hành phân loại theo nguyên ngữ địa danh, theo chức

năng giá trị của địa danh.

Từ Thu Mai cũng phân loại theo cách phân loại của Lê Trung Hoa và dùng

khái niệm “loại hình địa danh” làm tiêu chí phân loại. Theo Từ Thu Mai có ba loại

hình địa danh là địa danh địa hình thiên nhiên, địa danh đơn vị dân cư và địa danh

công trình nhân tạo. Trong đó, ở mỗi loại hình địa danh lại gồm những tiểu loại địa

danh khác nhau.

Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước và theo mục

đích nghiên cứu của luận văn, chúng tôi cũng tán đồng cách phân loại theo tiêu chí

“tự nhiên - không tự nhiên” của Lê Trung Hoa và Từ Thu Mai. Chúng tôi phân loại

địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên thành ba loại: địa danh địa

hình thiên nhiên, địa danh đơn vị dân cư và địa danh công trình nhân tạo. Trong đó

địa danh địa hình thiên nhiên gồm sơn danh, thủy danh và những vùng đất nhỏ phi

dân cư; địa danh đơn vị dân cư gồm các đơn vị dân cư cụ thể nằm trong cấp thành

phố, huyện; địa danh các công trình nhân tạo gồm địa danh các công trình nhân tạo

thuộc những hoạt động vật chất của con người và địa danh các công trình nhân tạo

thuộc những hoạt động tâm linh của con người. Trong mỗi tiểu loại lại gồm những

bộ phận nhỏ hơn, thuộc vào những loại hình địa danh đó.

1.3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA DANH

Xét về phương diện ngôn ngữ học, nhìn vào toàn bộ hệ thống địa danh một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vùng đất, có thể thấy rõ các đặc điểm sau đây:

12

1.3.1. Địa danh là một hệ thống tên gọi đa dạng

Nếu so sánh với nhân danh và vật danh thì hệ thống địa danh vừa đa dạng

vừa phức tạp. Về loại hình địa danh, có những địa danh biểu thị địa hình tự nhiên

(núi, sông, biển, hồ…); có những địa danh biểu thị tên gọi của các đơn vị hành

chính, đơn vị dân cư do Nhà nước đặt ra (thành phố, thị xã, huyện, phường, phố…);

lại có những địa danh là tên gọi các công trình xây dựng trên bề mặt đất hay dưới

lòng đất (cầu, cống, đường, hầm, đê, đập…). Về cấu tạo, địa danh vừa có cấu tạo

đơn vừa có cấu tạo phức (vừa có từ vừa có cụm từ, vừa có danh từ vừa có danh

ngữ). Trong cấu tạo đơn, có địa danh đơn tiết, có địa danh đa tiết. Trong cấu tạo

phức, giữa các yếu tố trong địa danh có các mối quan hệ: Quan hệ đẳng lập, quan hệ

chính phụ và quan hệ chủ vị. Về nguồn gốc ngôn ngữ, có những địa danh có nguồn

gốc tiếng Việt (thuần Việt, Hán Việt), có những địa danh có nguồn gốc tiếng dân

tộc thiểu số và có cả những địa danh vay mượn từ tiếng nước ngoài.

1.3.2. Địa danh thƣờng diễn ra hiện tƣợng chuyển hóa

Chuyển hóa là lấy tên gọi một đối tượng địa lí này để gọi một đối tượng địa

lí khác. Hiện tượng này có thể xảy ra các trường hợp như:

- Chuyển hóa trong nội bộ từng loại địa danh. Chẳng hạn, trong nội bộ địa

danh đơn vị dân cư: bản Noong Bua  phường Noong Bua, mường Lói  xã

Mường Lói; trong nội bộ địa danh địa hình thiên nhiên: hồ U Va  núi U Va, núi

Phà Lén  dãy núi Phà Lén.

- Chuyển hóa giữa các loại địa danh. Chẳng hạn, chuyển hóa địa danh địa

hình thiên nhiên thành địa danh đơn vị dân cư: núi Pú Sung  bản Pú Sung; chuyển

hóa địa danh đơn vị dân cư thành địa danh công trình nhân tạo: bản Hua Pe  đồn

Hua Pe, thành Sam Mứn bản Sam Mứn.

- Chuyển hóa nhân danh thành địa danh. Chẳng hạn, Nguyễn Chí Thanh 

đường Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Công Chất  đền Hoàng Công Chất.

1.3.3. Địa danh có phƣơng thức cấu tạo phong phú

Nghiên cứu các phương thức cấu tạo định danh, chúng tôi thấy địa danh

được tạo nên bởi rất nhiều phương thức khác nhau: vừa dựa vào đặc điểm bản thân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đối tượng để đặt tên như: núi Pha Sung (vách cao), suối Púng (vũng), bản Noong

13

Chứn (ao chì), bản Đồi Cao, thác Trắng; vừa dựa vào sự vật, yếu tố có quan hệ chặt

chẽ với đối tượng như xã Nà Nhạn (ruộng nhạn), suối Hẹt (tê giác), núi Pú Co

Nghịu (núi cây bông gạo), đồn biên phòng Hua Pe (đầu suối Pe), bản Sam Mứn (ba

vạn); bên cạnh đó còn có phương thức ghép các yếu tố Hán Việt để đặt tên như: bản

Tân Quang, bản Thanh Bình, thôn Lập Thành, thôn Đoàn Kết; dùng số đếm, chữ cái

hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó để đặt tên như: tổ dân phố 1, thôn 24, đội C1, cầu

C4... và phương thức ghép giữa các yếu tố (tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc thiểu số)

với số đếm hoặc chữ cái như: bản Ten A, bản Gia Phú B, bản Pom Lót 10, thôn

Thanh Hồng 4, di tích Đồi A1, di tích Đồi E2.

1.4. CÁC PHƢƠNG DIỆN NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH

Đối tượng nghiên cứu của địa danh học rất rộng. Nói đến danh học, người ta

thường thiết lập một danh sách những khái niệm có liên quan như: Tên người/nhân

danh, tên các hành tinh, tên gọi các tổ chức chính trị - xã hội, tên các tộc người, tên

các nghiệp đoàn, tên các con đường, tên gọi các con sông, dòng suối, tên gọi các

con vật, tên gọi các đấng siêu nhiên, thần linh, tên gọi các quả đồi, ngọn núi, tên các

công trình xây dựng để ở, tên người gọi theo dòng bố, tên gọi theo dòng mẹ, tên

người gọi theo con cháu… Bộ môn khoa học nghiên cứu về tên gọi như vậy được

gọi là danh học. Các địa danh cũng chỉ là một trong nhiều đối tượng nghiên cứu của

khoa học được đặt trong thế phân biệt với nhân danh học. Đặt trong khung cảnh của

ngôn ngữ học, địa danh học nằm trong lòng bộ môn từ vựng học, vì đối tượng

nghiên cứu của địa danh học chính là các từ ngữ được sử dụng để đặt tên, gọi tên.

Địa danh học là một bộ môn ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu về nguồn gốc,

cấu tạo, ngữ nghĩa, sự biến đổi, sự lan tỏa, phân bố của địa danh. Người chuyên

nghiên cứu về địa danh được gọi là nhà địa danh học.

Như vậy một nhà địa danh học thường phải làm, nghiên cứu giải quyết

những công việc chính sau đây:

- Tìm hiểu nguồn gốc lịch sử của địa danh.

- Tìm hiểu ngữ nghĩa của địa danh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Tìm hiểu các mô hình địa danh, các phương thức quá trình tạo địa danh.

14

- Tìm hiểu sự nảy sinh, lan tỏa, sự phân bố của địa danh qua các không gian,

các khoảng thời gian khác nhau.

- Chuẩn hóa địa danh.

Trong những vấn đề lớn trên, người ta lại chia nhỏ thành nhiều vấn đề khác

nhau để nghiên cứu.

Về quan điểm tín hiệu học, địa danh có tính lí do. Vậy, vấn đề quan trọng là

cội nguyên, ngữ nghĩa của địa danh. Điều này, ta thường thấy trong định nghĩa địa

danh học: Là bộ môn nghiên cứu về nguồn gốc, ngữ nghĩa của địa danh.

Dựa trên hướng nghiên cứu, người ta chia ra các bộ phận nhỏ như: Ngôn ngữ

địa danh học, địa lí địa danh học, lịch sử địa danh học, đối chiếu địa danh học…

Ngôn ngữ địa danh học chú ý nhiều đến những diễn tiến về mặt ngôn ngữ của địa

danh, đặc điểm cấu tạo ngôn ngữ của địa danh, ngữ nghĩa của địa danh, các mô hình

cấu tạo của địa danh…; địa lí địa danh học chú ý nhiều đến sự phân bố về địa danh,

sự liên quan giữa sự phân bố của địa danh đối với các vùng, các đối tượng không

gian địa lí…; lịch sử địa danh học chú ý nhiều đến các quá trình hình thành địa

danh, sự phát triển của địa danh, sự phân bố của địa danh có liên quan đến các tộc

người, đối chiếu địa danh học nghiêng về sự đối sánh để tìm ra những nét tương

đồng và dị biệt giữa hệ thống địa danh của tộc người này, dân tộc này, đất nước này

với tộc người khác, dân tộc khác, đất nước khác, tìm hiểu tính chất nhân học trong

địa danh.

Ngoài ra, người ta có thể chia địa danh thành địa danh học lý thuyết, địa

danh học mô tả.

1.5. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỊA DANH VÀ ĐỊA DANH HỌC

1.5.1. Về địa lí

Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là hai địa bàn thuộc tỉnh Điện

Biên, một tỉnh biên giới ở phía Tây Bắc Tổ quốc. Thành phố Điện Biên Phủ nằm

trong vùng lòng chảo Mường Thanh, phía Đông giáp huyện Điện Biên Đông (tỉnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Điện Biên), phía Tây, phía Nam, phía Bắc đều giáp huyện Điện Biên (tỉnh Điện

15

Biên); có diện tích tự nhiên là 6.009,05 ha. Còn huyện Điện Biên có vị trí: phía Bắc

giáp huyện Mường Chà và huyện Tuần Giáo (tỉnh Điện Biên), phía Đông giáp

huyện Điện Biên Đông (tỉnh Điện Biên) và huyện Sốp Cộp (tỉnh Sơn La), phía Tây

và phía Nam giáp Lào; có diện tích tự nhiên là 163.985 ha.

Cấu trúc địa hình thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên mang một số

đặc điểm nổi bật của địa hình toàn tỉnh: núi thấp dần và đổ dồn xuống các sông và

suối lớn, hoặc xen kẽ với các thung lũng sông, khe suối. Lọt vào giữa các dãy núi có

rất nhiều dải trũng bằng phẳng tạo thành những cánh đồng hẹp kéo dài. Các dãy núi

phía Tây là bộ phận kéo dài của hệ thống núi ở Bắc Lào, cùng hướng với dòng chảy

của các sông suối trong vùng này thường có hướng Bắc - Nam hoặc Tây Bắc -

Đông Nam. Ngoài ra còn có các dạng địa hình thung lũng, sông suối, thềm bãi bồi,

sườn tích, hang động castơ... phân bố rộng khắp trên địa bàn nhưng diện tích nhỏ.

Thành phố Điện Biên Phủ nằm trong vùng lòng chảo, là vùng có địa hình

tương đối bằng phẳng, ít bị chia cắt, độ dốc nhỏ dưới 15 độ, độ cao hơn 400 m so

với mặt nước biển thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp, tiểu

thủ công nghiệp, dịch vụ, du lịch. Đặc biệt có thung lũng Mường Thanh với diện

tích trên 15.000 ha, là cánh đồng lớn và nổi tiếng nhất của toàn tỉnh và toàn vùng

Tây Bắc (nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc). Với khả năng sản xuất lương thực

dồi dào, cánh đồng Mường Thanh là vựa lúa của cả tỉnh Điện Biên.

Địa hình của huyện Điện Biên bao gồm một phần của vùng lòng chảo (gọi là

vùng thấp) và vùng núi cao (còn gọi là vùng ngoài). Vùng thấp (như đã nêu trên)

chiếm 21% diện tích toàn huyện, còn vùng núi cao chiếm 79% diện tích toàn huyện

với độ cao từ 1000 m trở lên trong đó đỉnh cao nhất là Pú Pha Sung. Địa hình đồi,

núi cao và đất dốc của huyện thuận lợi cho sản xuất lâm nghiệp, chăn nuôi đại gia

súc, phát triển thủy điện và xây dựng các hồ chứa nước phục vụ sinh hoạt, cung cấp

nước cho sản xuất nông nghiệp vùng lòng chảo.

Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có các nhóm đất chính là:

nhóm đất phù sa, nhóm đất đen, nhóm đất feralit mùn vàng đỏ trên núi, nhóm đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thung lũng do sản phẩm dốc tụ, nhóm đất mùn vàng nhạt trên núi cao và núi đá,

16

sông suối. Điện Biên có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng về chủng loại, gồm

các loại chính như: nước khoáng, than mỡ, đá vôi, đá đen, đá granit, quặng sắt và

kim loại màu... nhưng trữ lượng thấp và nằm rải rác trong tỉnh. Là tỉnh miền núi nên

Điện Biên có tiềm năng rừng và đất rừng rất lớn. Diện tích rừng và đất rừng chiếm

tới 79,30% tổng diện tích tự nhiên với nhiều loại rừng phong phú, đa dạng, phân bố

trên các kiểu địa hình khác nhau. Rừng có hệ động, thực vật đa dạng và một số loại

có giá trị kinh tế cao.

Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có mạng lưới ao hồ và sông

suối chằng chịt. Sông suối mang tính chất đầu nguồn điển hình, dốc hẹp, quanh co,

nhiều thác ghềnh. Các sông suối ở đây đều nằm trong ba hệ thống sông chính của

nước ta là sông Đà, sông Mã và sông Mê Công với các phụ lưu chính là sông Nậm

Rốm, Nậm Núa, Nậm Mức và sông Mã cùng với rất nhiều những suối, khe, rãnh

lớn, nhỏ khác.

Ngoài ra hai địa bàn này còn có một hệ thống hồ chứa nước lớn, những hồ đó

là nguồn trữ nước của công trình thủy lợi Nậm Rốm, cung cấp nước tưới cho toàn

bộ đồng ruộng vùng lòng chảo, nuôi hải sản, bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó có hồ

còn là điểm tham quan, du lịch sinh thái nổi tiếng và hấp dẫn của Điện Biên.

Điện Biên là cửa ngõ phía Tây Bắc của vùng Bắc Bộ nước ta, là tỉnh duy

nhất có chung đường biên giới với hai quốc gia Trung Quốc và Lào trong đó huyện

Điện Biên có chung đường biên giới với Lào qua hai cửa khẩu Huổi Puốc và Tây

Trang. Điện Biên còn có quốc lộ 279 nối liền Điện Biên - Lào và quốc lộ 12 chạy từ

thành phố Điện Biên Phủ tới thị xã Lai Châu cùng với hệ thống giao thông biên giới

và con đường xuyên Á đang từng bước được đầu tư xây dựng. Bên cạnh đó Điện

Biên còn có cảng hàng không Điện Biên Phủ hoạt động thường xuyên nhằm phục

vụ khách đến tham quan du lịch và đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân trong vùng.

Cảng này đang được đầu tư để mở đường bay tới các nước trong khu vực. Chính

những sự kiến tạo này đã làm cho Điện Biên có điều kiện trở thành đầu mối giao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thông quan trọng, thuận lợi cho việc mở rộng giao lưu kinh tế - văn hóa - du lịch

17

giữa các vùng trong và ngoài tỉnh. 27 đơn vị hành chính (gồm 7 phường và 20 xã)

trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được phân bố đều ở cả địa hình

thung lũng, đồi núi thấp và vùng núi cao [6], [8], [49].

1.5.2. Về lịch sử

Thời Hùng Vương, thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên ngày nay

thuộc bộ Tân Hưng; thời Lý thuộc lộ Đà Giang; thời Trần thuộc châu Ninh Viễn;

thời Lê thuộc trấn Gia Hưng. Năm 1463, trấn Hưng Hóa được thành lập gồm 3 phủ:

Gia Hưng, Quy Hóa, An Tây gồm một vùng đất đai, sông núi rộng mênh mông

tương đương với các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Lào Cai, Phú Thọ ngày nay.

Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên lúc đó thuộc phủ An Tây. Phủ An

Tây có 10 châu: Lai, Luân, Quỳnh Nhai, Chiêu Tấn, Tùng Lăng, Lễ Tuyền, Hoàng

Nham, Hợp Phì, Tuy Phụ và Khiêm.

Đời Lê Cảnh Hưng (1740-1768), 6 châu của nước ta là: Tùng Lăng, Hoàng

Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ và Khiêm đều bị nhà Thanh (Trung Quốc)

đánh chiếm. Phủ An Tây chỉ còn 4 châu: Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai và Luân.

Thời Tây Sơn. Quang Trung đã làm một biểu gửi vua Thanh đòi lại 6 châu đã chiếm

nhưng không được chấp nhận.

Năm 1882, thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai, đã đặt kế hoạch

đánh chiếm tỉnh Hưng Hóa. Theo Tổng mệnh lệnh số 4 ngày 11-6-1885 của

Đờcuốcxy (Decourcy) tỉnh Hưng Hóa nằm trong Quân khu miền Tây, tiếp đó nằm

trong Đạo quan binh thứ tư (theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 20-8-

1891). Sau đó Đạo quan binh thứ tư tách thành Tiểu quân khu Vạn Bú và Tiểu quân

khu Lai Châu. Ngày 10-10-1859, hai tiểu quân khu trên sáp nhập thành tỉnh Vạn Bú.

Ngày 7-4-1904, tỉnh lỵ Vạn Bú chuyển về Sơn La. Đến ngày 23-8-1904, tỉnh Vạn Bú

đổi thành tỉnh Sơn La. Ngày 28-6-1909, Toàn quyền Đông Dương Klobukowski ra

Nghị định thành lập tỉnh Lai Châu gồm: Đạo Lai (châu Lai, châu Quỳnh Nhai và phủ

Luân Châu), châu Điện Biên và phủ Tuần Giáo, dân số khoảng 4 vạn người. Đến 27-

3-1916, tỉnh Lai Châu lại chuyển thành Đạo quan binh thứ tư theo chế độ quân quản,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

có một thời gian ngắn chúng áp dụng chế độ cai trị hành chính.

18

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới chính thể mới của nước

Việt Nam Dân chủ cộng hòa, địa phương có một số thay đổi như sau:

- Khi cuộc kháng chiến toàn quốc mới bùng nổ, Lai Châu nằm trong Chiến khu

2 cùng với Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Hòa Bình, Ninh Bình, Sơn La. Sau đó Lai

Châu nhập cùng Chiến khu 10 và một phần Chiến khu 1 thành liên khu Việt Bắc.

- Năm 1948, Lai Châu và Sơn La hợp nhất thành tỉnh Sơn Lai. Ngày 12-1-

1952, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 145-TTg tái lập hai tỉnh.

- Ngày 26-1-1953, để củng cố căn cứ địa Tây Bắc mới giải phóng, Chủ tịch Hồ

Chí Minh ký Sắc lệnh số 134-SL thành lập Khu Tây Bắc gồm các tỉnh Lào Cai, Yên

Bái, Sơn La và Lai Châu, tách khỏi Liên khu Việt Bắc. Đồng thời, Khu ủy Tây Bắc

cũng ra Quyết định chuyển huyện Thuận Châu từ tỉnh Sơn La sang tỉnh Lai Châu.

- Ngày 7-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Lai Châu được giải

phóng, hòa bình được lập lại trên miền Bắc nước ta.

Ngày 29-4-1955, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành Sắc

lệnh số 230-SL thành lập Khu tự trị Thái - Mèo, các châu (huyện trước đây) trực

thuộc Khu, không có cấp hành chính tỉnh.

Ngày 27-10-1962, kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa II đã ra Nghị quyết đổi tên

Khu tự trị Thái - Mèo thành Khu tự trị Tây Bắc và thành lập lại 3 tỉnh trong Khu là:

Lai Châu, Nghĩa Lộ và Sơn La. Tỉnh Lai Châu lúc đó gồm 7 huyện: Điện Biên,

Tuần Giáo, Tủa Chùa, Mường Tè, Mường Lay, Phong Thổ, Sìn Hồ và thị trấn Lai

Châu. Ngày 8-10-1971, Khu tự trị Tây Bắc giải thể.

Ngày 7-10-1995, Chính phủ ra Nghị định số 59/NĐ-CP về thành lập huyện

Điện Biên Đông trên cơ sở tách ra từ huyện Điện Biên.

Ngày 26-09-2003, Chính phủ ra Nghị định số 110/2003/NĐ-CP về thành lập

thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Lai Châu.

Ngày 26-11-2003, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra

Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số

tỉnh, trong đó có Lai Châu. Tỉnh Lai Châu (cũ) được chia thành tỉnh Lai Châu (mới)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và tỉnh Điện Biên. Ngày 1-1-2004, hai tỉnh chính thức đi vào hoạt động. Đến nay

19

tỉnh Điện Biên có 9 huyện, thị, thành phố gồm các huyện: Điện Biên, Điện Biên

Đông, Tuần Giáo, Mường Nhé, Tủa Chùa, Mường Chà, Mường Lay, thị xã Lai

Châu và thành phố Điện Biên Phủ.

Hiện nay thành phố Điện Biên Phủ có diện tích tự nhiên là 6.009,05 ha và

gồm 8 đơn vị hành chính với 7 phường (đó là các phường: Him Lam, Mường

Thanh, Nam Thanh, Noong Bua, Tân Thanh, Thanh Bình, Thanh Trường) và 1

xã (đó là xã Thanh Minh). Thành phố Điện Biên Phủ là tỉnh lỵ của tỉnh Điện

Biên. Còn huyện Điện Biên sau khi trải qua nhiều lần điều chỉnh địa giới, đến

nay có diện tích tự nhiên là 163.985 ha và gồm 19 đơn vị hành chính trực thuộc

ở cấp xã (đó là các xã Mường Lói, Mường Nhà, Mường Phăng, Mường Pồn, Nà

Nhạn, Nà Tấu, Na Ư, Noong Hẹt, Noong Luống, Núa Ngam, Pa Thơm, Sam Mứn,

Thanh An, Thanh Chăn, Thanh Hưng, Thanh Luông, Thanh Nưa, Thanh Xương và

Thanh Yên) [6], [8], [49].

1.5.3. Về văn hóa

Kho tàng văn hóa, nghệ thuật của các dân tộc anh em từ bao đời nay để lại đã

khẳng định thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có nền văn hóa phát triển

từ rất sớm, độc đáo, phong phú và đa dạng. Truyền thống đó được kết tinh từ truyền

thống yêu nước, nhân nghĩa, thủy chung, đức tính cần cù, chăm chỉ, yêu lao động

của đồng bào các dân tộc nơi đây. Mỗi dân tộc trong vùng đều có bản sắc văn hóa

riêng phong phú, độc đáo như: kiến trúc, xây dựng, tâm linh, tín ngưỡng, ẩm thực,

những câu tục ngữ, thành ngữ, hát giao duyên, lời khấn, lời bùa chú, các áng văn

trong lễ tang, trong lễ hội, các bài văn vần dạy bảo đạo đức cho dâu dể trong đám

cưới, các thần thoại, đồng thoại, cổ tích, truyện cười…

Các công trình kiến trúc mang đậm bản sắc dân tộc như thành Bản Phủ,

thành Tam Vạn, di tích Chùa Pá Sa…

Trong số 20 dân tộc ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, người

Thái là dân tộc sinh sống đông nhất và có truyền thống văn hóa lâu đời. Họ có chữ

viết riêng, thuộc hệ chữ Phạn nên đã ghi chép được nhiều diễn biến về các lĩnh vực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

kinh tế, văn hóa, xã hội trong tỉnh đồng thời qua giao lưu, họ còn tiếp thu được

20

nhiều nền văn hóa của các dân tộc khác. Họ đã dựa vào truyện kể dân gian của

người La Hủ để sáng tác truyện thơ “Chàng Lú nàng Ủa”, dựa vào truyền thuyết

của người Khơ Mú mà sáng tạo ra trường ca “Chương Han”. Nhờ có chữ viết mà

các tác phẩm văn học có giá trị của người Thái như “Sống chụ son sao”, “Tản chụ

siết sương”... cũng được lưu truyền lại.

Các điệu múa xòe, múa nón, múa sạp rộn ràng, duyên dáng của người Thái

cùng các điệu múa ô, múa khèn của người Mông; múa chuông của người Dao; múa

lắc mông, lượn eo đặc sắc riêng của người Khơ Mú và Xinh Mun; múa trống, múa

Tăng Bu (dỗ ống) của người La Ha... đã góp phần làm cho kho tàng nghệ thuật của

đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Bắc thêm phong phú, đa dạng.

Các dân tộc ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên còn có văn hóa

lễ hội hết sức đặc sắc. Các lễ hội diễn ra gần như quanh năm, tùy theo từng dân tộc

và theo vùng. Chẳng hạn, lễ hội Thành Bản Phủ (còn gọi là lễ hội Hoàng Công

Chất) của đồng bào các dân tộc trong vùng, lễ Xên bản (cúng bản) và lễ Hạn

Khuống của người Thái, lễ hội Gầu Tào của người Mông, lễ Cầu mưa của dân tộc

Khơ Mú, Lô Lô và Lào, lễ hội Căm Mường của dân tộc Lự…

Trong các lễ hội, chúng ta sẽ có dịp được chiêm ngưỡng các trang phục đẹp

đẽ, đặc sắc, độc đáo của đồng bào các dân tộc. Đó là những bộ trang phục được

trang trí bởi bàn tay khéo léo của các cô gái... với những hoa văn, họa tiết cầu kỳ,

nhiều màu sắc sinh động. Những bộ trang phục đó đã góp phần làm phong phú nền

văn hóa đa dạng của đồng bào các dân tộc trong vùng [6], [8], [16], [27], [49].

1.5.4. Về dân cƣ

Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được coi là quê hương của

hai mươi dân tộc anh em (gồm Thái, Kinh, Mông, Khơ Mú, Lào, Dao, Hà Nhì, La

Hủ, Giáy, Phù Lá, Cống, Si La, Kháng, Lô Lô, Hoa, Lự, Tày, Nùng, Mường, Xinh

Mun) trong đó 5 dân tộc đông nhất là: dân tộc Thái (53,71%), dân tộc Kinh

(27,85%), dân tộc Mông (8,5%), dân tộc Khơ Mú (5%), dân tộc Lào (3,17%) [6,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tr.24]. Đến năm 2007, dân số thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là 154.942 người với mật độ trung bình là 408,0 người/km2 [36, tr.33]. Như vậy dân

21

cư sinh sống trong hai địa bàn khá thấp và mật độ thưa thớt, dân cư tập trung chủ

yếu ở thành phố và trung tâm huyện. Mỗi dân tộc sinh sống trên địa bàn có tập

quán văn hóa truyền thống khác nhau góp phần đem lại cho nơi đây những bản sắc

văn hóa phong phú, đa dạng.

Người Thái mặc dù có mặt ở Điện Biên sau người Lự (một dân tộc bà con

với người Thái, có mặt ở Điện Biên từ những thế kỷ đầu Công nguyên và đã để lại

nơi đây nhiều di tích lịch sử) nhưng từ trước đến nay là cư dân chiếm số đông nhất

ở Điện Biên. Họ thiên di đến Mường Thanh (Điện Biên) qua nhiều thời kỳ lịch sử

khác nhau. Đầu tiên họ theo người tù trưởng Thái đen là Lạng Chượng tiến quân

vào đất Mường Thanh từ khoảng thế kỷ XII - XIII. Có lẽ vì thế nên người Thái ở

Điện Biên hiện nay phần lớn thuộc ngành Thái đen. Sau đó sự thiên di gần đây nhất

và ồ ạt nhất là thời kỳ Cầm Ten (hay Bạc Cầm Tiến) liên kết với người tù trưởng

Khơ Mú là Chương Han đánh giặc Cờ Vàng. Người Thái thường sinh sống theo

cộng đồng thành từng bản gần nguồn nước, ven sông, suối; họ định cư khá bền

vững ở các thung lũng trù phú dưới chân đồi với cuộc sống làm lúa nước và phát

nương, làm rẫy, làm nghề rừng. Người Thái có một cơ sở xã hội ổn định, một nền

văn hóa khá cao, một đời sống kinh tế trù phú, dân tộc Thái là nhân tố thu hút các

dân tộc quanh vùng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương chống lại âm

mưu xâm lược của bất kỳ thế lực đế quốc phản động nào.

Người Kinh có số dân đông thứ hai, sau người Thái, sinh sống tập trung ở

các thành phố, thị trấn. Họ đến Điện Biên qua những thời kỳ khác nhau: theo sự chỉ

đạo của triều đình phong kiến khi triều đình thấy đây là một vùng đất có vị trí quan

trọng phía Tây Tổ quốc, theo nghĩa quân Hoàng Công Chất lên giải phóng đất

Mường Thanh khỏi ách thống trị của giặc Phẻ hay có một số gia đình người Kinh vì

nghèo khổ mà phải lên đây lập nghiệp. Lúc đó người Kinh chỉ sống rất rải rác, thưa

thớt. Người Kinh lên Điện Biên đông nhất là sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ lịch

sử kết thúc, họ theo lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ lên xây dựng quê hương

mới Điện Biên ngày càng văn minh, giàu đẹp. Người Kinh có một trình độ văn hóa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cao, với năng lực trí thức và khoa học kĩ thuật được trang bị tốt hơn, họ đã góp phần

22

thúc đẩy Điện Biên tiến mau trên con đường đổi mới, hòa chung với sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Người Mông (còn gọi H’Mông, Mèo) cư trú ở những vùng núi cao với nghề

chính là làm nương rẫy và trồng ngô, trồng lúa. Họ từ Trung Quốc sang Việt Nam

vào những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Họ có tinh thần đấu tranh kiên

cường, bất khuất và truyền thống này đã được phát huy trong cuộc kháng chiến

chống Pháp, chống Mỹ, chống biệt kích gián điệp, bảo vệ an ninh Tổ quốc và phá

tan âm mưu diễn biến hòa bình của những thế lực phản động.

Người Khơ Mú (còn gọi người Xá) là một dân tộc lâu năm cư trú trên đất

nước Lào, họ vào Tây Bắc, đến Điện Biên bằng một mối tình chiến đấu anh em giữa

nhân dân hai nước. Họ đã theo người tù trưởng của mình là Chương Han liên minh

với người Thái dưới sự lãnh đạo của tù trưởng Cầm Ten (hay Bạc Cầm Tiến) đánh

đuổi giặc Cờ Vàng ở miền Tây Bắc Việt Nam. Người Khơ Mú là một dân tộc có

trình độ phát triển xã hội thấp, chuyên sống du canh du cư và bị ràng buộc bởi nhiều

tập tục lạc hậu. Ngày nay đời sống của họ cũng đã ít nhiều được thay đổi và dần ổn

định hơn trong sự phát triển chung của địa phương.

Người Lào có nguồn gốc từ nước bạn Lào sang và chỉ có một tỷ lệ nhỏ dân

cư sinh sống ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên. Họ phần lớn thuộc

nhóm Lào Bốc (Lào ở cạn) hay Lào Nọi (Lào nhỏ), phong tục gần với người Thái.

Họ sống tập trung bên những cánh đồng phì nhiêu, ven theo các sườn đồi hoặc dọc

theo các con sông nhỏ, các khe suối râm mát. Họ cũng là những con người cần cù,

khéo léo, ưa cuộc sống hòa bình và cũng có tinh thần đấu tranh kiên cường bất

khuất [6], [8].

1.5.5. Về ngôn ngữ

Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là hai địa bàn đa dân tộc, đa

ngôn ngữ. Có đến 20 dân tộc khác nhau sinh sống trong vùng và ngôn ngữ của các

dân tộc này lại thuộc vào những nhóm ngôn ngữ khác nhau.

Nhóm ngôn ngữ Tày - Thái gồm các dân tộc như Thái, Tày, Nùng, Mông, Dao.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường có các dân tộc như Kinh, Mường.

23

Nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me có các dân tộc như Khơ Mú, Xinh Mun.

Nhóm ngôn ngữ Tạng - Mianma có các dân tộc như dân tộc Hà Nhì, La Hủ,

Phù Lá, Cống, Si La, Lô Lô.

Nhóm ngôn ngữ Hán có dân tộc Hoa.

Trong đó, tiếng Thái của dân tộc Thái chiếm đa số; sau đó đến tiếng Kinh

(tiếng Việt); còn ngôn ngữ của các dân tộc khác chiếm tỉ lệ nhỏ.

Người Thái sớm có chữ viết và đã để lại một kho tàng văn học nghệ thuật

gồm các tác phẩm thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện thơ, ca dao khá giá trị.

Trong ngữ hệ Tày - Thái, người Thái có tới 5 loại chữ khác nhau. Sự khác nhau về

loại chữ phản ánh rõ nét tính địa phương của những nhóm người Thái khác nhau ở

Việt Nam được gộp chung vào dân tộc Thái. Chữ Thái của người Thái ở thành phố

Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là chữ của người Thái đen [6], [49].

Như vậy ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có khá nhiều dân

tộc thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau sinh sống trong đó chiếm số lượng lớn

nhất là các dân tộc người thuộc nhóm Tày - Thái và nhóm Việt - Mường. Điều đó sẽ

tạo ra sự giao thoa về văn hóa, ngôn ngữ giữa các dân tộc và có tác động lớn đến

cách đặt địa danh trong hai địa bàn được nghiên cứu.

1.6. KẾT QUẢ THU THẬP VÀ PHÂN LOẠI ĐỊA DANH

1.6.1. Kết quả thu thập địa danh

Căn cứ vào phạm vi, đối tượng và nguyên tắc cùng các tiêu chí thu thập,

phân loại địa danh, chúng tôi đã thu thập được 1001 địa danh. Các địa danh này

được xác định trên sự phân bố theo không gian ở 27 đơn vị với 7 phường và 20 xã

trong hai địa bàn thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.

Những địa danh này chúng tôi thu thập dựa vào các văn bản hành chính, một

số loại bản đồ và từ tư liệu điền dã theo sự tồn tại thực tế của địa danh trong vùng.

Kết quả thu thập địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

được thể hiện trong bảng 1.1.

24

Bảng 1.1: Kết quả thu thập địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên

STT Loại hình địa danh Số lƣợng Tỉ lệ (%)

Địa danh địa hình thiên nhiên 238 23,78 1

Địa danh đơn vị dân cƣ 624 62,34 2

Địa danh công trình nhân tạo 139 13,89 3

Tổng số 1001 100

1.6.2. Kết quả phân loại địa danh

Theo tiêu chí tự nhiên - không tự nhiên, chúng tôi chia địa danh thành phố

Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên thành hai loại là địa danh tự nhiên gồm địa danh

địa hình thiên nhiên và địa danh không tự nhiên gồm địa danh đơn vị dân cư và địa

danh công trình nhân tạo.

1.6.2.1. Địa danh địa hình thiên nhiên

Loại địa danh này gồm 238 trường hợp, chiếm 23,78%. Trong đó, sơn danh

(gồm đồi, núi, dãy núi, đèo, thác) có ở 79 địa danh, chiếm 7,89%, chẳng hạn, dãy

núi Phà Lén, đèo Huổi Chan, đồi Độc Lập; thủy danh (gồm sông, suối, hồ, khe) có

ở 149 địa danh, chiếm 14,89%, chẳng hạn, hồ Pa Khoang, sông Nậm Rốm, suối

Huổi Phạ, khe Hát Si; những vùng đất nhỏ phi dân cư (gồm cánh đồng, hang, động)

có ở 10 địa danh, chiếm 1,0%, chẳng hạn, cánh đồng Mường Thanh, hang Huổi He,

động Pa Thơm.

1.6.2.2. Địa danh đơn vị dân cư

Loại địa danh này gồm 624 địa danh, chiếm 62,34%. Trong đó có 1 thành

phố (0,10%), 1 huyện (0,10%), 7 phường (0,70%), 20 xã (2,0%), 5 mường (đơn vị

cũ) (0,50%), 131 tổ dân phố (13,09%), 404 bản (40,36%), 45 thôn (4,50%) và 10

đội (1,0%). Chẳng hạn, phường Mường Thanh, phường Him Lam, xã Noong Hẹt, xã

Thanh Xương, mường Lói, mường Pồn, tổ dân phố 12, tổ dân phố 32, bản Pá Chả,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bản Thanh Bình, thôn Trần Phú, thôn Đoàn Kết, đội C1, đội C17 a.

25

1.6.2.3. Địa danh công trình nhân tạo

Loại địa danh này gồm 146 địa danh, chiếm 13,89%. Trong đó có 98 địa

danh các công trình nhân tạo thuộc những hoạt động vật chất kĩ thuật của con người

(gồm các tiểu loại địa danh: quốc lộ, đường, cầu, cầu treo, đập đầu mối, đập tràn,

đồn biên phòng, sân bay, cứ điểm, thành, hầm, nhà máy thủy điện, cửa khẩu, công

trình thủy lợi, công trình đại thủy nông, kênh, khu du lịch, khu khảo cổ học, quần

thể khu di tích lịch sử, cống, tượng đài, phân khu, trung tâm đề kháng, rạp chiếu

bóng), chiếm 9,79%, chẳng hạn, quốc lộ 279, đường Sùng Phái Sinh, cầu A1, nhà

máy thủy điện Nà Lơi, đồn biên phòng Tây Trang, kênh Nậm Rốm, cửa khẩu Huổi

Puốc, sân bay Điện Biên Phủ, hầm Đờ Cát, quần thể khu di tích lịch sử Điện Biên

Phủ; và 41 địa danh các công trình nhân tạo thuộc những hoạt động tâm linh của

con người (gồm các tiểu loại địa danh: bảo tàng, nghĩa trang liệt sĩ, đền, di tích,

chùa), chiếm 4,10%, chẳng hạn, bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, nghĩa

trang liệt sĩ Him Lam, đền Hoàng Công Chất, chùa Vạt Bu Hôm, di tích Mường

Pồn, di tích Noong Nhai.

1.7. TIỂU KẾT

Qua sự trình bày một số cơ sở lý thuyết, chúng tôi đã thể hiện quan điểm của

mình về định nghĩa địa danh đồng thời là nội hàm làm việc của luận văn này.

1.7.1. Địa danh học là một ngành của ngôn ngữ học có nhiệm vụ nghiên cứu

sự ra đời, cấu tạo, ngữ nghĩa và sự biến đổi, lan tỏa, phân bố của các địa danh.

Việc nghiên cứu địa danh đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới nhưng mãi đến

cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nghiên cứu địa danh mới trở thành ngành khoa học ra

đời đầu tiên ở Âu Mỹ, liên bang Xô Viết (cũ). Ở Việt Nam, những tài liệu về địa danh,

liên quan đến địa danh cũng xuất hiện từ khá sớm nhưng địa danh học Việt Nam thực

sự có được một bước tiến đáng kể vào những thập niên cuối thế kỷ XX. Tuy nhiên,

chúng ta cũng chưa có được những công trình nghiên cứu về địa danh có tầm cỡ.

1.7.2. Khi nghiên cứu địa danh cần xác định đúng nội hàm của khái niệm địa

danh và các cách phân loại địa danh. Đồng thời cần vận dụng các phương pháp liên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngành: sử học, địa lý học, dân tộc học, khảo cổ học... để nghiên cứu địa danh trong

26

đó lấy phương pháp chính là ngôn ngữ học để nghiên cứu địa danh. Đó là phương

pháp ngữ âm lịch sử, phương pháp địa lý - ngôn ngữ học, phương pháp từ vựng học

và ngữ pháp học.

1.7.3. Địa bàn thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là địa bàn cư trú

lâu đời của dân tộc Thái. Vì vậy những đặc điểm về văn hóa Thái ảnh hưởng rất lớn

đến địa danh trong hai địa bàn này. Ngoài ra, trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau,

các lớp dân cư liên tục di cư đến đây sinh cơ lập nghiệp trong đó sự xuất hiện của

người Kinh từ miền xuôi lên và có vai trò khá quan trọng góp phần tạo cho thành

phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có nền văn hóa phong phú, đa dạng.

Xét theo nguồn gốc ngôn ngữ, địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Điện Biên chủ yếu được cấu tạo bởi các yếu tố thuộc ngôn ngữ tiếng Thái, sau đó

đến các địa danh được cấu tạo bởi ngôn ngữ tiếng Việt, còn một bộ phận nhỏ là các

địa danh được cấu tạo bởi tiếng Mông, Khơ Mú, Lào và một số dân tộc khác.

1.7.4. Kết quả thống kê địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện

Biên theo tiêu chí tự nhiên - không tự nhiên cho thấy địa danh trong hai địa bàn này

đã phản ánh khá trung thực địa hình tự nhiên và cảnh quan trong vùng. Đó là địa

hình đồi núi, sông ngòi dày đặc tạo nên các loại hình địa danh gồm sơn danh, thủy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

danh và các vùng đất nhỏ phi dân cư khá đa dạng, độc đáo.

27

CHƢƠNG 2

CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ

VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN

2.1. CẤU TRÚC PHỨC THỂ ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN

PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN

2.1.1. Vài nét về mô hình cấu trúc phức thể địa danh

Một địa danh bao giờ cũng có hình thức cấu tạo và nội dung ý nghĩa. Địa

danh đó luôn được đặt trong một cấu trúc, một chỉnh thể nhất định. Việc xác định

địa danh trong các tổ hợp từ ngữ hay trong một cấu trúc cụ thể giúp chúng ta phân

tích được các yếu tố cấu tạo địa danh cũng như có cách thể hiện chúng dưới dạng

văn tự đúng đắn và phù hợp. Khi nghiên cứu địa danh, nhiều nhà nghiên cứu đưa ra

quan niệm về mô hình cấu trúc địa danh. Chẳng hạn, A.V. Superanskaja, một nhà

nghiên cứu địa danh người Nga, trong cuốn “Địa danh học là gì?” đã dùng thuật

ngữ tên chung và tên riêng để phân biệt hai cấu trúc cụm từ trong cấu trúc phức thể

địa danh. Theo tác giả: “Những mục tiêu địa lí có hai loại tên: tên chung để xếp

chúng vào hệ thống khái niệm nào đó (núi, sông, thành phố, làng mạc) và tên riêng

biệt của từng vật thể” [43, tr.13].

Một số nhà nghiên cứu địa danh Việt Nam cũng tán đồng với quan niệm này

của A. V. Superanskaja. Chẳng hạn, Nguyễn Kiên Trường: “Địa danh mang trong

mình hai thông tin: a) đối tượng được gọi tên thuộc loại hình đối tượng địa lí nào

(đồi, sông, phố, làng... ), thể hiện qua ý nghĩa của danh từ chung; b) có nghĩa nào

đó (phản ánh điều gì đó), thể hiện qua tên riêng” [48, tr.53].

Từ Thu Mai: “Khi đã phân biệt thành bộ phận từ ngữ chung và bộ phận tên

riêng, địa danh được hiểu chỉ là bộ phận tên riêng, còn bộ phận từ ngữ chung được đặt

trước tên riêng đó chỉ có tính chất đi kèm, chỉ loại hình đối tượng địa lí” [31, tr.55].

Phan Xuân Đạm: “Mỗi địa danh gồm hai thành tố: thành tố chung (A) là từ,

ngữ danh pháp và thành tố riêng (B) là tên riêng... Thành tố thứ nhất giúp chúng ta

nhận biết loại hình của đối tượng địa lí, thành tố thứ hai giúp chúng ta khu biệt đối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tượng” [20, tr.51-52].

28

Như vậy tuy có các cách thể hiện khác nhau nhưng nhìn chung các nhà

nghiên cứu đều cho rằng về mặt cấu tạo địa danh là một tổ hợp gồm hai bộ phận:

thành tố chung và thành tố riêng. Tổ hợp đó được gọi là cấu trúc phức thể địa danh.

Trong cấu trúc phức thể địa danh, mỗi thành tố lại có đặc điểm riêng và thành tố

riêng đó mới được coi là địa danh.

Tiếp thu kết quả nghiên cứu của các nhà địa danh học đi trước, chúng tôi

cũng xác định một cấu trúc phức thể địa danh gồm hai bộ phận là từ ngữ chung và

tên riêng. Chẳng hạn có những phức thể địa danh như: thành phố Điện Biên Phủ,

huyện Điện Biên, di tích Cầu Mường Thanh, hầm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồi

A1, sông Nậm Rốm, dãy núi Pú Hồng Mèo trong đó bộ phận từ ngữ chung là các từ:

thành phố, huyện, di tích, hầm, đồi, sông, dãy núi còn bộ phận tên riêng là những

từ, ngữ còn lại: Điện Biên Phủ, Điện Biên, Cầu Mường Thanh, Đại tướng Võ

Nguyên Giáp, A1, Nậm Rốm, Pú Hồng Mèo.

Mỗi bộ phận đó có vai trò, chức năng riêng nhưng được đặt trong mối quan

hệ gắn bó, thống nhất với nhau. Bộ phận từ ngữ chung dùng để gọi tên các đối

tượng địa lí có cùng đặc điểm được xếp vào cùng một kiểu loại. Do đó, bộ phận này

có thể do từ hay cụm từ đảm nhiệm. Còn bộ phận tên riêng dùng để khu biệt đối

tượng địa lí này với đối tượng địa lí khác, đặc biệt khi các đối tượng này thuộc vào

cùng một kiểu loại. Bộ phận này có thể được cấu tạo bởi từ, cụm từ và các từ ngữ

này thuộc các từ loại khác nhau như động từ, tính từ, danh từ, số từ, đại từ... Trong

phức thể địa danh, bộ phận từ ngữ chung thường đứng trước và là cái được hạn định

cho đối tượng địa lí còn bộ phận tên riêng thường đứng sau để hạn định cho đối

tượng địa lí đó.

Chẳng hạn trong những phức thể địa danh như đồi A1, đồi Cháy, đồi Pom

Lót, đồi C2 thì đối tượng địa lí được hạn định ở đây chỉ có “đồi”, đó là dạng địa

hình lồi, có sườn thoải, thường không cao quá 200m; nhưng các “đồi” này không

giống nhau do được khu biệt bởi các yếu tố hạn định: A1, Cháy, Pom Lót, C2.

Như vậy, trong cấu trúc phức thể địa danh thì bộ phận tên riêng mới được coi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

là địa danh và địa danh này có cấu trúc nội bộ riêng (từ đây chúng tôi sẽ thống nhất

29

sử dụng thuật ngữ “địa danh” thay cho thuật ngữ “tên riêng”) còn bộ phận từ ngữ

chung đứng trước nó chỉ có tính chất xác định loại hình đối tượng địa lí được định

danh. Khi địa danh thể hiện dưới dạng chữ viết thì bộ phận tên riêng được viết chữ

in hoa còn bộ phận từ ngữ chung viết chữ in thường. Chẳng hạn, bản Hồng Cúm, hồ

Pa Khoang, đền Hoàng Công Chất.

2.1.2. Cấu trúc phức thể địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Điện Biên

Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên cũng được tạo thành

bởi một phức thể gồm hai bộ phận là từ ngữ chung (thành tố chung) và địa danh

(tên riêng). Đưa ra mô hình cấu trúc phức thể địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ

và huyện Điện Biên là chúng tôi đi sâu vào mô tả, mô hình hóa địa danh ở hai địa

bàn này.

Qua khảo sát 1001 địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Biên, chúng tôi xác định mô hình khái quát về cấu trúc phức thể địa danh như bảng 2.1.

30

Bảng 2.1: Mô hình cấu trúc phức thể địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên

Phức thể địa danh

Thành tố chung (tối đa 7 yếu tố)

Địa danh (tối đa 12 yếu tố)

hình

YT 1 YT 2 YT 3 YT 4 YT 5 YT 6 YT 7 YT 1 YT 2 YT 3 YT 4 YT 5 YT 6 YT 7 YT 8 YT 9 YT 10 YT 11 YT 12

Bản

Ban

Ví dụ

minh

Nghĩa trang

liệt

Độc Lập

họa

Quần

thể

khu

di

tích

lịch

sử Điện Biên

Phủ

3 1

Di

tích

Đường kéo

pháo

của quân

ta

ở Điện Biên

Phủ

Khu

du

lịch

Hồ

Pá Khoang và

Sở

chỉ

huy chiến dịch Điện

Biên

Phủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

31

Qua mô hình trên ta thấy có những phức thể địa danh có số lượng yếu tố khá

lớn cả ở thành tố chung (tối đa có 7 yếu tố) lẫn tên riêng (tối đa có 12 yếu tố). Tuy

nhiên những địa danh loại này lại có số lượng ít đó là những địa danh công trình

nhân tạo (di tích, tượng đài, khu du lịch…). Điều đó cũng phù hợp khi tên gọi của

các phức thể địa danh gắn liền với những sự kiện, biến cố lịch sử cụ thể hay các

cụm địa điểm du lịch trong vùng. Trái lại các phức thể địa danh mà thành tố chung

cũng như địa danh gồm ít các yếu tố (có thể là 1, 2 hoặc 3 yếu tố) lại chiếm số

lượng lớn. Điều đó cho thấy trong cấu tạo địa danh, các địa danh ngắn gọn, giản

đơn được sử dụng phổ biến hơn cả. Ở các phức thể đó, thành tố chung và địa danh

luôn có mối quan hệ gắn bó, khăng khít.

2.2. THÀNH TỐ CHUNG

2.2.1. Khái niệm thành tố chung

Các nhà địa danh học đi trước tuy có nhiều cách gọi tên khác nhau cho thành

tố chung như: tên gọi chung, thành tố A (danh từ chung) nhưng cách hiểu về bản

chất thành tố chung thì khá đồng nhất với quan điểm của nhà nghiên cứu địa danh

học người Nga A.V. Superanskaja: đó “là những tên gọi chung liên kết các đối

tượng địa lí với mọi vật khác của thế giới hiện thực. Chúng được diễn đạt bằng các

danh từ chung vốn được dùng để gọi tên và để xếp loại các đối tượng cùng kiểu, có

cùng đặc điểm nhất định” [43, tr.13].

Như vậy, thành tố chung trong phức thể địa danh là bộ phận từ ngữ dùng để

chỉ những đối tượng địa lí có cùng thuộc tính, bản chất được xếp vào cùng một loại

hình. Thành tố chung có đầy đủ các mặt chức năng, cấu tạo, vị trí và ý nghĩa. Chức

năng của nó là gọi tên và chỉ một lớp đối tượng có cùng thuộc tính; chúng có cấu

tạo là những danh từ chung hay ngữ danh từ chung và trong phức thể địa danh

chúng có vị trí đứng trước địa danh để phản ánh loại hình của đối tượng được định

danh; còn về ý nghĩa chúng có cả ý nghĩa về hình thức - tạo nên chỉnh thể của phức

thể địa danh và ý nghĩa về nội dung - xác định loại hình của đối tượng được gọi tên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong địa danh.

32

2.2.2. Thành tố chung trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Điện Biên

2.2.2.1. Số lượng các thành tố chung

Trong tổng số 1001 phức thể địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Điện Biên, chúng tôi tập hợp và thống kê được 50 loại hình đối tượng địa lí tương

tương với 50 thành tố chung. Các thành tố này phân bố khác nhau trong các nhóm

loại hình địa danh. Cụ thể:

- Trong loại hình địa danh địa hình thiên nhiên có 12 thành tố chung, chiếm

24,0%, thể hiện qua 238 địa danh. Trong đó có 5 thành tố chung thuộc sơn danh,

chiếm 10,0% với 79 địa danh, chẳng hạn, dãy núi Pu Khâu Lạnh, núi Lao Yao, đèo

Hua Pe, thác Bay, đồi Độc Lập; có 4 thành tố chung thuộc thủy danh, chiếm 8,0%

với 149 địa danh, chẳng hạn, hồ Co Củ, sông Mã, suối Ái, khe Loọng Bon; có 3 địa

danh thuộc các vùng đất nhỏ phi dân cư, chiếm 6,0% với 10 địa danh, chẳng hạn,

cánh đồng Nà Tấu, động Pa Thơm, hang Chùa Pá Sa.

- Trong loại hình địa danh các đơn vị dân cư có 9 thành tố chung, chiếm

18,0% thể hiện qua 624 địa danh. Trong đó có 8 thành tố chung chỉ loại hình các

đơn vị dân cư hiện nay đang được sử dụng phổ biến trong chính quyền hành chính,

chiếm 16,0% qua 619 địa danh, chẳng hạn thành phố Điện Biên Phủ, huyện Điện

Biên, phường Tân Thanh, xã Thanh An, tổ dân phố 25, bản Nà Nghè, thôn Việt

Thanh, đội 10; có 1 thành tố chung chỉ đơn vị dân cư cũ, hiện nay không còn sử

dụng trong chính quyền hành chính đó là địa danh “mường”, chiếm 2,0% xuất hiện

trong 5 địa danh, chẳng hạn, mường Phăng, mường Nhà.

- Trong loại hình địa danh các công trình nhân tạo có 29 thành tố chung,

chiếm 58,0%, được thể hiện qua 146 địa danh. Trong đó, loại địa danh các công

trình nhân tạo gắn với hoạt động vật chất, kĩ thuật của con người có tới 24 thành

tố chung, chiếm 48,0% với 98 địa danh, chẳng hạn, quốc lộ 12, đường Lò Văn

Hặc, đập tràn Pa Khoang, cầu Pắc Nậm, công trình đại thủy nông Nậm Rốm,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khu khảo cổ học Hồ U Va, sân bay Điện Biên Phủ; còn loại địa danh các công

33

trình nhân tạo gắn với hoạt động tâm linh của con người chỉ có 5 thành tố chung,

chiếm 10,0% và được thể hiện qua 41 địa danh, chẳng hạn, bảo tàng Tỉnh Điện

Biên, nghĩa trang liệt sĩ Độc Lập, đền Hoàng Công Chất, chùa Vạt Bu Hôm, di

tích Sân bay Hồng Cúm.

2.2.2.2. Cấu tạo của các thành tố chung

Khi coi mỗi âm tiết là một yếu tố thì trong 50 thành tố chung chỉ loại hình đối

tượng địa lí được định danh có 25 thành tố chung có cấu tạo đơn yếu tố, chiếm 50%

chẳng hạn bản, thôn, đội, đèo, hang, động, kênh, cầu, hầm. Loại thành tố chung có cấu

tạo phức thường có độ dài từ hai yếu tố trở lên và tối đa là 7 yếu tố. Trong đó thành tố

chung được cấu tạo bởi 2 yếu tố có tới 14 thành tố chung, chiếm số lượng lớn nhất chẳng

hạn, thành phố, quốc lộ, sân bay, tượng đài, bảo tàng, di tích..., chỉ có 1 thành tố chung

được cấu tạo gồm năm yếu tố là công trình đại thủy nông và 1 thành tố chung được cấu

tạo gồm bảy yếu tố là quần thể khu di tích lịch sử, cả hai thành tố chung này đều thuộc

vào địa danh các công trình nhân tạo.

Đặc điểm cấu tạo của các thành tố chung được thể hiện trong bảng 2.2.

Bảng 2.2: Kết quả thống kê cấu tạo các thành tố chung

Số lƣợng Tỉ lệ STT Số lƣợng yếu tố Ví dụ thành tố chung (%)

25 50 Bản Sam Mứn 1 Một yếu tố

14 30 Cánh đồng Mường Thanh 2 Hai yếu tố

5 10 Tổ dân phố 32 3 Ba yếu tố

Nghĩa trang liệt sĩ Điện 4 8 4 Bốn yếu tố Biên Phủ

Công trình đại thủy nông 1 1 5 Năm yếu tố Nậm Rốm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Quần thể khu di tích lịch 1 2 6 Bảy yếu tố sử Điện Biên Phủ

34

2.2.2.3. Chức năng của các thành tố chung

Thành tố chung và địa danh có mối quan hệ qua lại, bổ sung, hỗ trợ cho nhau.

Thành tố chung là cái được hạn định trong phức thể địa danh nên nó thực hiện chức

năng rất quan trọng là đi kèm và phân biệt loại hình cho địa danh. Chẳng hạn, cùng một

địa danh Điện Biên Phủ nhưng khi đi sau các thành tố chung khác nhau như thành phố,

nghĩa trang liệt sĩ, sân bay, quần thể khu di tích lịch sử thì các phức thể địa danh này

cũng khác nhau và có sự phân biệt rõ ràng về loại hình đối tượng địa lí, ta có các phức

thể địa danh khác nhau như: thành phố Điện Biên Phủ, nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên

Phủ, sân bay Điện Biên Phủ, quần thể khu di tích lịch sử Điện Biên Phủ.

Các thành tố chung cũng có sự linh hoạt trong các phức thể địa danh, chúng

không chỉ đứng ở trước địa danh và thực hiện chức năng phân biệt loại hình cho địa

danh mà chúng còn xâm nhập và chuyển hóa thành một hoặc một vài yếu tố trong

địa danh. Đây cũng là một chức năng quan trọng nữa của thành tố chung trong phức

thể địa danh. Chức năng này phản ánh sự đa dạng trong mối quan hệ giữa các bộ

phận trong cấu trúc địa danh đồng thời cũng làm tăng thêm sự phong phú, đa dạng,

độc đáo của các địa danh.

Tìm hiểu về cấu tạo của thành tố chung, chúng ta đã biết thành tố chung có

cả cấu tạo đơn và cấu tạo phức. Nhưng khi thành tố chung rời khỏi vị trí của mình

để chuyển hóa thành một hoặc một vài yếu tố nào đó trong địa danh thì các thành tố

chung có cấu tạo đơn dễ dàng chuyển hóa hơn cả. Còn trường hợp thành tố chung

có cấu tạo phức chuyển hóa thành địa danh có số lượng rất nhỏ trong địa danh các

đơn vị dân cư và địa danh các công trình nhân tạo, các thành tố chung này có cấu

tạo hai hoặc bốn yếu tố, chẳng hạn, thôn Nhà Trường, di tích Sân bay Hồng Cúm, di

tích Trung tâm đề kháng Him Lam...

Trong tổng số 1001 địa danh đã được điều tra và thu thập ở thành phố Điện

Biên Phủ và huyện Điện Biên, chúng tôi thống kê được 484 trường hợp các thành tố

chung được chuyển hóa vào 437 địa danh ở các vị trí, các yếu tố khác nhau. Các

thành tố chung này biểu thị cả địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và các công trình

nhân tạo trong đó các thành tố chung biểu thị địa hình thiên nhiên được chuyển hóa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhiều nhất vào các địa danh.

35

Như trên chúng tôi đã trình bày, các địa danh trong thành phố Điện Biên

Phủ và huyện Điện Biên có số lượng yếu tố lớn nhất là mười hai yếu tố, trừ vị trí

thứ chín và vị trí thứ mười một còn lại các thành tố chung đều lần lượt được

chuyển hóa vào các vị trí còn lại trong địa danh. Trong đó sự chuyển hóa thành

tố chung đến yếu tố thứ ba là phong phú, đa dạng nhất còn trường hợp chuyển

hóa ở các yếu tố thứ tư trở đi nhìn chung đều có sự lặp lại trong một số phức thể

địa danh có số lượng yếu tố lớn và chứa nhiều thành tố chung khác nhau chuyển

hóa thành. Cụ thể:

- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ nhất hoặc độc lập tạo thành

địa danh: có 408 trường hợp, chiếm 84,91% trong đó chỉ có 3 trường hợp thành tố

chung chuyển hóa và độc lập tạo thành địa danh, chiếm 0,61%. Chẳng hạn, trường

hợp thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ nhất trong địa danh: di tích Thành

Tam Vạn, cầu treo Nậm Thanh (suối xanh), khu khảo cổ học Hồ U Va, khe Hồng

Cúm (khe cái cúm), núi Pá Chả (rừng trúc), bản Phiêng Ban (bãi cây ban), thôn

Trại Lúa, xã Noong Hẹt (ao tê giác); trường hợp thành tố chung chuyển hóa và độc

lập tạo thành địa danh: suối Cảnh (thác), bản Kéo (đèo), suối Thẩm (hang).

- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ hai trong địa danh có 39

trường hợp, chiếm 8,06%. Chẳng hạn, cầu Pắc Nậm (cửa suối), bản Che Phai (cạnh

đập nước), bản Càng Ná (giữa cánh đồng), thôn Thanh Sơn (núi xanh), động Pa

Thơm (cửa hang), đồi Bản Kéo (bản đèo), hang Chùa Pá Sa (chùa rừng cây sa).

- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ ba trong địa danh có 13

trường hợp, chiếm 2,69%. Chẳng hạn, di tích Bãi pháo Mường Thanh, di tích Phân

khu Hồng Cúm, di tích Thành Bản Phủ, nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ, trung tâm

đề kháng Đồi Bản Kéo.

- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ tư trong địa danh có 3 trường

hợp, chiếm 0,62%. Chẳng hạn, di tích Dân quân ở xã Thanh An bắn rơi máy bay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mĩ, di tích Trại tập trung Noong Nhai.

36

- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ năm có ở 6 trường hợp, chiếm

1,24%. Chẳng hạn, di tích Khu khảo cổ học Hồ U Va, di tích Trung tâm đề kháng

Đồi D, di tích Trung tâm đề kháng Đồi Độc Lập.

- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ sáu có 2 trường hợp, chiếm

0,41%. Chẳng hạn, di tích Đồi phát hiện trống đồng bản Na Hý, di tích Trung tâm

đề kháng Đồi Bản Kéo.

- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ bảy có ở 5 trường hợp, chiếm

1,03%. Chẳng hạn, tượng đài Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, bảo tàng Chiến

thắng lịch sử Điện Biên Phủ, di tích đồi phát hiện trống đồng bản Na Hý.

- Còn lại các trường hợp thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ tám, yếu tố

thứ mười và yếu tố thứ mười hai trong đó thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ

tám và thứ mười hai có ở 1 trường hợp, mỗi trường hợp chiếm 0,21%; thành tố chung

chuyển hóa thành yếu tố thứ mười có ở 3 trường hợp, chiếm 0,62%. Chẳng hạn, di tích

Đường kéo pháo của quân ta ở Điện Biên Phủ, di tích Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên

Phủ, di tích Sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, di tích Trận địa pháo của quân

ta ở Điện Biên Phủ, di tích Hồ Pa Khoang và Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Các

phức thể địa danh trên đều có thành tố chung là “phủ”, thành tố này dùng để chỉ một đơn

vị hành chính quan trọng nhất của một vùng và thành tố này được chuyển hóa thành một

yếu tố trong địa danh ở các vị trí khác nhau.

Qua các trường hợp chuyển hóa của thành tố chung vào trong địa danh,

chúng tôi thấy có một số trường hợp các thành tố chung khác nhau chuyển hóa

thành các yếu tố ở các vị trí khác nhau trong cùng một địa danh. Chẳng hạn, trong

phức thể địa danh “di tích Thành Bản Phủ”, ba thành tố chung là: “thành” (chỉ một

công trình xây dựng) cùng với hai thành tố “bản” và “phủ” (chỉ các đơn vị dân cư)

được lần lượt chuyển hóa thành các yếu tố khác nhau ở các vị trí thư nhất, thứ hai

và thứ ba trong địa danh.

Sự phân bố các thành tố chung khi chuyển hóa thành các yếu tố trong địa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

danh được thể hiện ở bảng 2.3.

37

Bảng 2.3: Thống kê sự phân bố của các thành tố chung khi chuyển hóa thành

các yếu tố trong địa danh

Vị trí YT1 YT 2 YT 3 YT 4 YT 5 YT 6 YT 7 YT 8 YT 9 YT 10 YT 11 YT12 Tổng

409

41

14

3

6

2

5

1

0

3

0

1

SL

484

0

0,62

0

0,21 100

Tỉ lệ (%) 84,91 8,06 2,69 0,62 1,24 0,41 1,03 0,21

2.3. ĐỊA DANH (TÊN RIÊNG)

2.3.1. Khái niệm địa danh

Địa danh (tên riêng) trong phức thể địa danh là tên gọi riêng của từng đối

tượng địa lí cụ thể, dùng để phân biệt đối tượng này với đối tượng khác trong cùng

loại hình và giữa các loại hình địa danh với nhau.

Địa danh cũng như thành tố chung trong phức thể địa danh có đầy đủ các mặt

cấu tạo, chức năng, vị trí, ý nghĩa.

Trước hết về vị trí, địa danh luôn đứng sau thành tố chung chỉ loại hình đối

tượng địa lí để hạn định ý nghĩa cho đơn vị này. Do phức thể địa danh được tạo ra

theo phương thức trật tự từ trong tiếng Việt nên cũng như thành tố chung, địa danh

có vị trí rất ổn định trong phức thể của nó.

Chức năng quan trọng nhất của địa danh là gọi tên và phân biệt đối tượng

này với đối tượng khác trong cùng một loại hình và giữa các loại hình với nhau.

Với chức năng như trên, trong cấu tạo, địa danh thường do những danh từ

hoặc cụm từ (chủ yếu là cụm danh từ) tạo thành. Nói cách khác, địa danh là những

đơn vị tương đương với từ hoặc ngữ. Nghiên cứu địa danh trong phức thể của nó

chính là nghiên cứu cấu tạo từ tiếng Việt để “phát hiện ra cơ chế của sự cấu tạo từ,

từ đó để nhận thức từ” [14, tr.36]. Những yếu tố cấu tạo địa danh thành phố Điện

Biên Phủ và huyện Điện Biên có nguồn gốc từ nhiều ngôn ngữ khác nhau, ngoài bộ

phận từ, ngữ tiếng Việt còn phần lớn là các yếu tố có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thiểu số (Thái, Mông, Khơ Mú, Lào... trong đó nhiều nhất là địa danh tiếng Thái) và

38

một bộ phận nhỏ có nguồn gốc tiếng Pháp. Những yếu tố tiếng dân tộc thiểu số này

thường được phiên âm ra tiếng Việt để tìm hiểu những đặc điểm về cấu tạo và ý

nghĩa của địa danh còn những địa danh có nguồn gốc tiếng Pháp thường chỉ là

những danh từ riêng chỉ người nên không nhất thiết phải dịch ra tiếng Việt. Điều đó

có nghĩa là những phức thể địa danh nơi đây vừa mang những đặc trưng của tiếng

Việt vừa mang những nét riêng của ngôn ngữ, văn hóa trong vùng. Chẳng hạn, các

địa danh được cấu tạo bởi những yếu tố Hán Việt: Thanh Xuân, Việt Hưng, Mỹ

Hưng, Thanh Bình, các địa danh cấu tạo bởi những yếu tố thuần Việt: Mới, Nhà

trường... cũng giống như ở nơi khác, nhưng cấu tạo bằng các yếu tố tiếng dân tộc

thiểu số như Ná Khưa, Noong Bua, Huổi Co Củ, Pú Co Nghịu, Tằng Quái... thì

mang đậm tính dân tộc và địa phương. Địa danh nơi đây cũng có đầy đủ những kiểu

quan hệ của cấu tạo từ đó là quan hệ chính phụ, quan hệ đẳng lập và quan hệ chủ vị.

Những kiểu quan hệ này cùng với các đặc điểm về cấu tạo do phương thức định

danh mang lại có tính chất quyết định trong việc tạo ra ý nghĩa của các yếu tố cấu

tạo địa danh. Trong cấu tạo của địa danh còn có một bộ phận các thành tố chung chỉ

loại hình đối tượng địa lí được chuyển hóa thành một hoặc một số các yếu tố trong

địa danh. Nghĩa là khi thấy một đối tượng địa lí mới có quan hệ nào đó với đối

tượng địa lí đã được đặt tên thì người định danh sẽ lấy những từ ngữ chỉ loại hình

địa lí hoặc tên của đối tượng cũ để định danh cho đối tượng mới; cũng có khi người

định danh chỉ lựa chọn một đặc điểm nào đó có liên quan giữa đối tượng mới và đối

tượng cũ để gọi tên đối tượng mới.

2.3.2. Số lƣợng yếu tố trong địa danh

Các địa danh trong tổng số 1001 địa danh ở hai địa bàn nghiên cứu có độ dài

khác nhau, địa danh có cấu tạo đơn giản nhất chỉ gồm một yếu tố còn địa danh có

cấu tạo phức tạp nhất gồm mười hai yếu tố. Ở đây chúng tôi coi mỗi yếu tố tương

đương với một âm tiết có nghĩa.

2.3.2.1. Kết quả thống kê số lượng các yếu tố trong địa danh

Số lượng các yếu tố trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Biên được chúng tôi thống kê trong bảng 2.4.

39

Bảng 2.4: Thống kê địa danh theo số lƣợng các yếu tố

Số lƣợng địa danh Tổng Tỉ lệ STT Số lƣợng yếu tố cộng (%) ĐD ĐHTN ĐD ĐVDC ĐD CTNT

1 Một yếu tố 52 186 8 246 24,40

2 Hai yếu tố 158 305 73 536 53,17

3 Ba yếu tố 27 132 34 193 19,15

4 Bốn yếu tố 1 1 5 7 0,69

5 Năm yếu tố 0 0 2 2 0,20

6 Sáu yếu tố 0 0 3 3 0,30

7 Bảy yếu tố 0 0 6 6 0,60

8 Tám yếu tố 0 0 2 2 0,20

9 Chín yếu tố 0 0 1 1 0,10

10 Mười yếu tố 0 0 4 4 0,40

11 Mười một yếu tố 0 0 0 0 0

12 Mười hai yếu tố 0 0 1 1 0,10

Tổng cộng 238 624 139 1001 100

2.3.2.2. Về số lượng các yếu tố trong địa danh

Qua bảng trên chúng ta thấy rằng địa danh thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên phổ biến nhất là loại có hai yếu tố, loại địa danh này chiếm hơn

một nửa trong tổng số địa danh với 536 địa danh chiếm 53,17% sau đó đến địa danh

một yếu tố với 246 địa danh chiếm 24,40% và địa danh ba yếu tố với 193 địa danh

chiếm 19,15%; còn các loại địa danh từ bốn yếu tố đến mười hai yếu tố có số lượng

rất ít với 27 địa danh chiếm 2,68%. Điều đó cho thấy người định danh thường có xu

hướng đặt tên địa danh theo cách đơn giản, dễ nhớ, dễ thuộc và ngắn gọn.

* Về loại hình địa danh và số lượng các yếu tố

Ở các loại hình địa danh khác nhau trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và huyện Điện Biên, các địa danh có số lượng yếu tố không giống nhau.

40

Ở loại địa danh địa hình thiên nhiên trong tổng số 238 địa danh (chiếm

23,78%) có 52 trường hợp có cấu tạo chỉ một yếu tố, chiếm 5,20% (chẳng hạn, đồi

Cháy, đồi Thông, sông Mã, suối Cảnh, suối Lương); có 158 địa danh có cấu tạo hai

yếu tố, chiếm 15,79% (chẳng hạn, núi Đất Lẻ, núi Pu Hang, đèo Cò Chạy, suối Hai

Nọi, khe Hoong Ka, cánh đồng Mường Lói, hang Huổi He); có 27 địa danh ba yếu

tố, chiếm 2,70% (chẳng hạn, dãy núi Pú Hồng Mèo, núi Phu Khăn Pỏm, suối Him

Lếch Phay, suối Nậm Phăng Nọi) và chỉ có 1 địa danh bốn yếu tố, chiếm 0,1%

(chẳng hạn, núi Pu Nậm Khẩu Hú); còn các địa danh có cấu tạo từ bốn yếu tố đến

mười hai yếu tố không có trường hợp nào. Ở loại hình địa danh này, địa danh có cấu

tạo hai yếu tố chiếm tỉ lệ cao nhất.

Trong 624 địa danh (chiếm 62,34%) đơn vị dân cư về mặt cấu tạo chỉ gồm từ

một đến bốn yếu tố, các địa danh có số lượng yếu tố lớn hơn không thấy xuất hiện.

Trong loại địa danh này, số lượng địa danh đa yếu tố (với 438 địa danh) nhiều hơn

so với địa danh đơn yếu tố (với 186 địa danh). Trong đó loại có hai yếu tố là 305

trường hợp, chiếm 30,47% (chẳng hạn, thôn Việt Hưng, phường Thanh Trường, xã

Na Ư); loại địa danh ba yếu tố là 132 trường hợp, chiếm 13,19% (chẳng hạn, bản

Pom Mỏ Thái, bản Pom Mỏ Thổ) và loại bốn yếu tố với 1 trường hợp, chiếm 0,1%

(chẳng hạn, bản Yên Màu C3).

Địa danh đa yếu tố chiếm tỉ lệ lớn so với địa danh đơn yếu tố trong loại địa

danh công trình nhân tạo: địa danh đa yếu tố là 131 trường hợp, chiếm 13,09% còn

địa danh chỉ có một yếu tố là 8 trường hợp, chiếm 0,80%. Tuy nhiên điểm khác của

các địa danh đa yếu tố ở loại địa danh công trình nhân tạo so với địa danh đa yếu tố

ở loại địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh đơn vị dân cư đó là các địa danh

này có số lượng yếu tố lớn từ hai yếu tố đến mười hai yếu tố. Tuy nhiên trong các

địa danh đa yếu tố, các địa danh có số lượng yếu tố càng lớn thì số lượng địa danh

càng nhỏ. Cụ thể, địa danh hai yếu tố là 73 trường hợp, chiếm 7,29% (chẳng hạn,

đường Trần Can, cầu Mường Thanh, nhà máy thủy điện Thác Trắng, đập trần Ta

Lét, khu du lịch Hua Pe); địa danh ba yếu tố là 34 trường hợp, chiếm 3,40% (chẳng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hạn, khu du lịch Hồ Huổi Phạ, sân bay Điện Biên Phủ, di tích Chùa Pá Sa); địa

41

danh bốn yếu tố là 5 trường hợp, chiếm 0,50% (chẳng hạn, di tích Bãi pháo Mường

Thanh, di tích Phân khu Hồng Cúm); địa danh năm yếu tố (chẳng hạn, di tích Trại

tập trung Noong Nhai) và địa danh tám yếu tố (chẳng hạn, di tích Sở chỉ huy chiến

dịch Điện Biên Phủ) mỗi loại gồm 2 trường hợp tương đương với 0,20% địa danh

sáu yếu tố là 3 trường hợp tương đương với 0,30% (chẳng hạn, di tích Hầm Đại

tướng Võ Nguyên Giáp); địa danh bảy yếu tố là 6 trường hợp tương đương với

0,60% (chẳng hạn, bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ); địa danh chín yếu

tố (chẳng hạn, di tích Dân quân Thanh An bắn rơi máy bay Mỹ) và địa danh mười

hai yếu tố (chẳng hạn, khu du lịch Hồ Pa Khoang và Sở chỉ huy chiến dịch Điện

Biên Phủ) mỗi loại chỉ có 1 trường hợp tương đương với 0,10%; địa danh mười yếu

tố có 4 trường hợp, chiếm 0,40% (chẳng hạn, di tích Đường kéo pháo của quân ta ở

Điện Biên Phủ).

* Về số lượng các yếu tố và sự phản ánh thông tin trong địa danh

Loại địa danh có cấu tạo một yếu tố có ở cả ba loại địa danh trong đó chủ

yếu là ở địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh các đơn vị dân cư. Chẳng hạn,

bản Bánh, bản Bó, bản Hạ, bản Kéo, bản Hoa, bản Mới, bản On, bản Noọng, thôn

24, đội 9, đội 10, suối Ái, suối Ca, suối Húa, suối Ít, suối Lương, suối Mươi, suối

Púng, suối Quang, suối Vai, cầu Trắng, kênh Tả, quốc lộ 279.

Trong những địa danh này, có những địa danh mà ranh giới giữa tên riêng

của địa danh và tên gọi của thành tố chung chưa rõ ràng làm cho các phức thể địa

danh có nhiều cách viết, cách gọi tên dẫn đến cách viết hoa hay không viết hoa

trong các văn bản cũng chưa thống nhất.

Ở địa danh đơn vị dân cư, khi nói về loại địa danh “bản”, những địa danh

đơn tiết như Phủ, Lé, Ban, Phượn, Ten, Khá ít khi được dùng độc lập, chẳng hạn ít

khi nói “đi Phủ”, “đến Lé”, “tới Khá” mà thường nói “đi bản Phủ”, “đến bản Lé”,

“tới bản Khá”. Còn ở trường hợp địa danh đa tiết lại có thể dùng độc lập các địa

danh, chẳng hạn nói “tới Noong Bua”, “đi Hoong En”, “đến Chiềng An” mà không

cần phải dùng thành tố chung để hạn định là “bản”, người nghe dễ dàng hiểu được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

là nói tới các bản này. Như vậy, trong giao tiếp các địa danh đơn tiết thường có xu

42

hướng bị song tiết hóa để tạo sự cân đối và giúp cho việc xác định đối tượng được

cụ thể, rõ ràng. Trong những trường hợp địa danh đơn tiết kể trên, thành tố chung

“bản” chỉ xâm nhập vào địa danh trong ngôn ngữ nói còn trong ngôn ngữ viết các

địa danh này vẫn dùng độc lập và trong các cấu trúc phức thể địa danh vẫn phải viết

đúng là bản Phủ, bản Lé, bản Ban, bản Phượn, bản Ten, bản Khá.

Ở địa danh địa hình thiên nhiên, các thành tố chung có nguồn gốc ngôn ngữ

dân tộc thiểu số mặc dù đã được dịch ra tiếng Việt nhưng chúng vẫn được bảo lưu

và chuyển hóa thành các yếu tố thuộc địa danh (chuyển vào bộ phận thứ hai trong

phức thể địa danh) làm cho các địa danh có cấu tạo đơn yếu tố trở thành các địa

danh có cấu tạo đa yếu tố. Chẳng hạn, Huổi Phạ (suối + Phạ)  suối Huổi Phạ

(suối trời), Huổi Un (suối + Un)  suối Huổi Un, Nậm Hua (nước, suối + Hua) 

suối Nậm Hua, Nậm Mển (nước, suối + Mển)  suối Nậm Mển, Hồng Cúm (khe +

Cúm)  khe Hồng Cúm, Hồng Líu (khe + Líu)  khe Hồng Líu, Hát Si (rãnh, khe +

Si)  khe Hát Si, Loọng Bon (rãnh, khe + Bon)  khe Loọng Bon…

Loại địa danh được cấu tạo bởi hai yếu tố chiếm tỉ lệ cao nhất, có ở cả ba loại

địa danh là địa danh địa hình thiên nhiên, địa danh đơn vị dân cư và địa danh các

công trình nhân tạo. Chẳng hạn, hồ Hồng Sạt, đồi Him Lam, sông Nậm Mức, suối

Hoong Khoong, núi Pu Lau, đèo Tằng Quái, phường Mường Thanh, xã Thanh Minh,

đường Trần Can, đập tràn Thác Trắng. Loại địa danh này thể hiện xu hướng song

tiết hóa trong tiếng Việt và được tạo bởi phương thức ghép.

Loại địa danh được cấu tạo bởi ba yếu tố cũng có ở cả ba loại địa danh và

phần lớn cũng được tạo bởi phương thức ghép, có ghép giữa các yếu tố và có cả

ghép các yếu tố với chữ số. Chẳng hạn, suối Nậm Khẩu Hú, suối Him Lếch Phay,

núi Pú Lấu Luông, núi Phu Khăn Pỏm, hang Chùa Pá Sa, bản Pom Mỏ Thái, bản

Đông Biên 4, bản Đông Biên 5, thôn Việt Thanh 1, thôn Việt Thanh 2. Trong loại

địa danh này, có những yếu tố là chữ số có chức năng dùng để phân biệt với các địa

danh về vị trí hay số thứ tự khi các địa danh này giống nhau ở thành tố chung và cả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

các yếu tố thứ nhất, yếu tố thứ hai trong địa danh.

43

Còn lại các loại địa danh được cấu tạo từ bốn yếu tố đến mười hai yếu tố chỉ

có ở địa danh các công trình nhân tạo và chiếm số lượng rất nhỏ. Các địa danh này

cũng được tạo bởi phương thức ghép, có thể là ghép giữa các địa danh khác nhau lại

hoặc ghép giữa các địa danh đã có với một vài yếu tố chỉ loại hình đối tượng địa lí

do các thành tố chung chuyển hóa thành. Chẳng hạn, di tích Bãi pháo Mường

Thanh, di tích Trại tập trung Noong Nhai, khu du lịch Hồ Pa Khoang và Sở chỉ huy

chiến dịch Điện Biên Phủ.

2.4. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN

BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN

Đặc điểm cấu tạo của địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên

được thể hiện khái quát qua bảng 2.5.

Bảng 2.5: Thống kê địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên

theo kiểu cấu tạo

Số lƣợng địa danh theo kiểu cấu tạo Tổng cộng

Cấu tạo phức Loại hình địa danh Tỉ lệ (%) Số lƣợng Cấu tạo đơn Chủ - vị

52 Chính phụ 141 Đẳng lập 0 14 207 21,87 ĐD ĐHTN

186 368 41 11 606 63,72 ĐD ĐVDC

8 106 19 4 137 14,41 ĐD CTNT

615 60 Số lƣợng 246 29 Tổng 950 100 cộng Tỉ lệ (%) 25,87 65,09 6,41 3,05

(Chú thích: Trong tổng số 1001 địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên có một số địa danh phức chưa xác định được nguồn gốc ý nghĩa

nên chưa xác định được kiểu cấu tạo).

Qua bảng 2.5, chúng tôi thấy các địa danh có cấu tạo phức chiếm ưu thế

trong các địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên với 705 địa danh,

chiếm 74,52%. Trong đó, địa danh cấu tạo phức chiếm số lượng lớn ở địa danh các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đơn vị dân cư, với 420 địa danh, chiếm 44,16% sau đó đến địa danh địa hình thiên

44

nhiên với 156 địa danh, chiếm 16,40%, còn lại là địa danh công trình nhân tạo với

129 địa danh, chiếm 13,57%. Các địa danh có cấu tạo đơn tuy chiếm một số lượng

không nhiều (với 246 địa danh, chiếm 25,76% trong đó chủ yếu có ở địa danh đơn

vị dân cư) nhưng cũng góp phần phản ánh đặc điểm cấu tạo của địa danh trong vùng

với những đặc điểm riêng biệt.

2.4.1. Địa danh có cấu tạo đơn

Địa danh có cấu tạo đơn là địa danh được cấu tạo bởi một âm tiết, âm tiết đó

đồng thời là một từ đơn. Trong 1001 địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Điện Biên có 246 địa danh có cấu tạo đơn, chiếm 25,87% trong đó có 52 địa danh

địa hình thiên nhiên, 186 địa danh đơn vị dân cư và 8 địa danh các công trình nhân

tạo. Các địa danh này có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau và thuộc vào các lớp từ

loại khác nhau.

Về nguồn gốc ngôn ngữ, các địa danh cấu tạo đơn có nguồn gốc tiếng Việt,

nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số và cả các địa danh được cấu tạo bằng các chữ số

Arập trong đó các địa danh được cấu tạo bởi các chữ số Arập chiếm ưu thế. Các địa

danh này xuất hiện ở 139 địa danh, chiếm 56,50% chẳng hạn, thôn 24, đội 10, tổ

dân phố 5, quốc lộ 279. Các địa danh đơn tiết cấu tạo bởi yếu tố tiếng dân tộc thiểu

số bao gồm tiếng Thái, tiếng Mông, tiếng Khơ Mú, tiếng Lào với 94 địa danh,

chiếm 38,21% trong đó địa danh tiếng Thái là có số lượng nhiều nhất (76 địa danh).

Chẳng hạn, bản Món (cây dầu), bản Giảng (sấy khô), bản Bó (nguồn nước), suối

Ngọm (nước trong), suối Lếch (sắt), suối Quang (con nai), suối Hon (con dúi). Còn

các địa danh tiếng Việt bao gồm cả địa danh thuần Việt và Hán Việt với 12 địa

danh, chiếm 4,87%. Chẳng hạn, đồi Cháy, đồi Thông, bản Mới, cầu Trắng, kênh

Chính, kênh Tả, phân khu Bắc.

Về từ loại, các từ đơn cấu tạo địa danh thuộc các từ loại khác nhau, là danh

từ, tính từ, động từ, số từ trong đó các yếu tố là số từ chiếm số lượng nhiều nhất với

140 địa danh, chiếm 56,91% (chẳng hạn, quốc lộ 279, quốc lộ 12, đường 7/5, tổ dân

phố 22, tổ dân phố 32); còn các yếu tố là danh từ có 63 địa danh, chiếm 25,61%

[chẳng hạn, suối Dốn (con cáo), suối Cói (con vượn), đồi Thông, suối Thẩm (hang),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bản Món (cây dầu), bản Khá (cây riềng), bản Bua (cây sen), bản Kéo (đèo)]; các yếu

45

tố là tính từ có 21 địa danh, chiếm 8,53% [chẳng hạn, bản Mới, bản Lính (nghiêng),

bản On (bình yên), suối Lụ (nhỏ), suối Lương (màu vàng)]; các yếu tố là động từ có

13 địa danh, chiếm 5,29% [chẳng hạn, bản Lé (nhìn), bản Bánh (chia tách), đồi

Cháy, suối Ố (gói, ủ), mường Nhà (đừng ở), mường Phăng (đâm)]; các yếu tố là đại

từ có số lượng ít nhất chỉ với 2 địa danh, chiếm 0,81% [chẳng hạn, bản Noọng (em

nhỏ), bản Lún (em út)]. Bên cạnh đó một số yếu tố chưa tìm được nguồn gốc ý

nghĩa nên chưa xác định được lớp từ loại của chúng.

2.4.2. Địa danh có cấu tạo phức

Địa danh có cấu tạo phức là các địa danh có từ hai âm tiết trở nên, đó là

những từ ghép hoặc cụm từ. Vì vậy trong các địa danh này tồn tại các mối quan hệ

của đơn vị từ ngữ đó là quan hệ chính phụ, đẳng lập và chủ vị. Các địa danh này

chiếm số lượng lớn nhất trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện

Biên với 709 địa danh, chiếm 74,25%. Trong đó có 156 địa danh địa hình thiên

nhiên, 420 địa danh đơn vị dân cư và 129 địa danh các công trình nhân tạo.

2.4.2.1. Địa danh cấu tạo phức theo quan hệ chính phụ

Địa danh được cấu tạo theo quan hệ chính phụ chiếm số lượng lớn nhất trong

các địa danh cấu tạo phức với 616 địa danh, chiếm 61,11%. Sự phân bố các địa

danh cấu tạo theo quan hệ chính phụ giữa các loại hình địa danh cũng không giống

nhau. Ở địa danh địa hình thiên nhiên có 141 trường hợp, chiếm 13,89%; ở địa danh

đơn vị dân cư có 368 trường hợp, chiếm 36,31%; ở địa danh công trình nhân tạo có

106 địa danh, chiếm 10,91%. Các địa danh này có nguồn gốc từ nhiều ngôn ngữ do

vậy vị trí của các yếu tố chính và yếu tố phụ trong địa danh là khác nhau.

* Ở địa danh thuần Việt, yếu tố chính thường đứng trước yếu tố phụ. Chẳng

hạn, bản Đỉnh Đèo, thôn Nhà Trường, nhà máy thủy điện Thác Trắng, đập tràn Thác

Trắng. Trong các địa danh này, các yếu tố đứng trước “đỉnh”, “nhà”, “thác”, là các

yếu tố chính còn các yếu tố đứng sau “đèo”, “trường”, “trắng” là các yếu tố phụ.

* Ở các địa danh Hán Việt, yếu tố chính đứng sau, yếu tố phụ đứng trước.

Chẳng hạn, huyện Điện Biên, đèo Tây Trang, cửa khẩu Tây Trang, bản Tân Bình,

bản Tân Quang, thôn Việt Hưng, bản Đông Biên, thôn Tân Lập, bản Đại Thanh, bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thanh Sơn.

46

Bên cạnh đó có một bộ phận nhỏ các địa danh có số lượng yếu tố Hán Việt

từ hai yếu tố trở nên, các địa danh này thường là các cụm từ chính phụ trong đó các

yếu tố làm thành tố chính thường đứng trước còn các yếu tố là thành tố phụ thường

đứng sau. Chẳng hạn, trong các địa danh: hầm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bảo tàng

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, di tích Thành Tam Vạn, di tích Sở chỉ huy chiến

dịch Điện Biên Phủ thì thành tố chính đứng trước là các yếu tố: “đại tướng”, “chiến

thắng lịch sử”, “thành”, “sở chỉ huy” còn các yếu tố đứng sau: “Võ Nguyên Giáp”,

“Điện Biên Phủ”, “Tam Vạn”, “chiến dịch Điện Biên Phủ” là các thành tố phụ.

* Ở các địa danh tiếng dân tộc thiểu số, quan hệ chính phụ giữa các yếu tố

giống như quan hệ chính phụ giữa các yếu tố trong địa danh thuần Việt đó là yếu tố

chính đứng trước yếu tố phụ. Các địa danh có cả nguồn gốc tiếng Thái như núi Pú

Huốt (núi nhọn), đèo Tằng Quái (chân trâu), thác Bay (cây trám đen), khe Hoong

Khoong (khe của cải), xã Noong Luống (ao rồng), bản Phiêng Quái (bãi trâu), nghĩa

trang liệt sĩ Tông Khao (cánh đồng trắng); địa danh nguồn gốc tiếng Mông như hồ

Na Hươm (ruộng hươu), suối Ca Hâu (con quạ); địa danh có nguồn gốc tiếng Khơ

Mú như suối Ăm Bọt (rừng cây mạy chá), suối Huổi Không (bí xanh); địa danh có

nguồn gốc tiếng Lào như suối Peng Thoáng (chia đôi), núi Tắt Dóm (nhìn thác)

trong đó các địa danh tiếng Thái chiếm ưu thế hơn cả.

Trong các địa danh cấu tạo chính phụ có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số,

xuất hiện nhiều địa danh có kiểu cấu trúc: yếu tố chính đứng trước chỉ loại địa hình

của đối tượng còn yếu tố phụ đi sau thường chỉ các đặc điểm, tính chất, chỉ các loại

động, thực vật sinh sống, tồn tại ở đối tượng hay có liên quan đến đối tượng; các

yếu tố chính có thể chỉ các đối tượng địa hình của địa danh cũng có thể là các yếu tố

được chuyển hóa từ địa hình thiên nhiên vào địa danh còn các yếu tố phụ có chức

năng dùng để khu biệt những đối tượng có cùng loại địa hình. Qua thống kê những

yếu tố có tần số xuất hiện cao, chúng tôi thống kê được một số mô hình như: Ná

(Nà, Na) + X; Huổi + X; Pá (Pa) + X; Nậm + X; Pu (Pú, Phu) + X; Hoong (Hồng)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

+ X; Noong + X.

47

Những mô hình Ná + X hay Nà + X, Na + X có ở địa danh chỉ loại địa hình

“ruộng” (“nà”, “na” thực chất là các cách phiên âm khác nhau của “ná” trong tiếng

Thái), những mô hình này có ở cả địa danh địa hình thiên nhiên, địa danh đơn vị

dân cư và địa danh công trình nhân tạo. Chẳng hạn, đèo Nà Nhạn (ruộng nhạn), suối

Na Cọ (ruộng cây cọ), bản Ná Men (ruộng tốt), bản Ná Khưa (ruộng cà), bản Na Ố

(ruộng lép), bản Na Côm (ruộng tròn), bản Na Ten (ruộng ở nơi cao và bằng phẳng),

bản Nà Láo (ruộng người Lào), bản Nà Nọi (ruộng bé), bản Nà Nghè (ruộng quýt),

nhà máy thủy điện Nà Lơi (ruộng dài), đập tràn Nà Lơi (ruộng dài), cầu Na Sang

(ruộng tre mạy sáng), đập tràn Na Hươm (ruộng hươu).

Mô hình Huổi + X là mô hình của những địa danh chỉ địa hình “suối”. Mô

hình này cũng có ở cả ba loại địa danh. Chẳng hạn, núi Huổi Púng (suối vũng), núi

Huổi Cang (suối giữa), núi Huổi Sa (suối cây sa), suối Huổi Hốc, suối Huổi Pe, bản

Huổi Un, bản Huổi Chổn (suối cụt), bản Huổi Lơi (suối dài), đập tràn Huổi Phạ

(suối trời), cửa khẩu Huổi Puốc (suối tre mạy puốc), cầu Huổi Phạ (suối trời).

Những mô hình Pá + X, Pa + X (“pa” là cách phiên âm khác của “pá” cũng

có nghĩa là “rừng”) xuất hiện nhiều ở địa danh chỉ loại địa hình “rừng”. Cả ba loại

địa danh đã nêu đều có mô hình này. Chẳng hạn, núi Pá Chả (rừng trúc), núi Pá Sạ

(rừng sa), suối Pá Hốc (rừng tre mạy hốc), núi Pa Sang (rừng tre mạy sáng), bản Pá

Đông (rừng rậm), bản Pá Cấu (rừng trẩu), bản Pa Pốm (rừng cỏ voi), bản Pá Bói

(rừng tre ngọt), đập tràn Pá Khoang (rừng trúc), công trình thủy lợi Pá Khoang

(rừng trúc).

Mô hình Nậm + X là mô hình của những địa danh chỉ “sông”, “suối” trong

đó chủ yếu dùng chỉ địa hình “suối”. Chẳng hạn, sông Nậm Rốm (sông cây lát),

sông Nậm Núa (sông ngon), sông Nậm Mức (sông xanh), suối Nậm Hua (suối đầu

nguồn), suối Nậm Đuống (nước lớn), suối Nậm Poọng (suối trống da), suối Nậm

Mển (suối nhím), cầu Nậm Thanh (suối xanh), kênh Nậm Rốm (sông cây lát).

Mô hình Pú (Pu, Phu) + X (“pu”, “phu” là các cách phiên âm khác nhau của

“pú”) thường dùng chỉ địa hình “núi”. Mô hình này chỉ thấy ở loại địa danh địa hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thiên nhiên và địa danh đơn vị dân cư. Chẳng hạn, núi Pú Đồn (núi đồn), núi Pú Tửu

48

(núi thành ngạnh), núi Pu Xá Hin (núi sọt đá), núi Pu Phạ (núi trời), đèo Pu Lau (núi

lau), dãy núi Pu Khâu Lạnh (núi khô cạn), núi Phu Khăn Pỏm (núi cây me tròn), bản

Pú Tửu (núi thành ngạnh), bản Pú Sung (núi cao), bản Pu Lau (núi cây lau).

Những mô hình Hoong + X, Hồng + X (“hồng” là cách nói chệch đi của

“hoong”) dùng để chỉ địa hình “khe, rãnh”. Ở loại địa danh địa hình thiên nhiên và

địa danh đơn vị dân cư có những mô hình này. Chẳng hạn, khe Hồng Cúm (khe cái

cúm), khe Hoong Hịa (khe kì đà), khe Hoong Ma Nao (khe chó chết rét), khe Hồng

Sống (khe nghèo nàn), khe Hồng Lếch (khe sắt), bản Hoong Hin (khe sỏi đá), bản

Hoong En (khe cây lát trắng), bản Hoong Khoong (khe của cải), bản Hồng Lếch

Nưa (khe sắt trên), hồ Hồng Líu (khe cây chanh).

Mô hình Noong + X có ở địa danh chỉ loại địa hình “ao”, “hồ”. Chẳng hạn,

phường Noong Bua (ao sen), xã Noong Hẹt (ao tê giác), xã Noong Luống (ao rồng),

bản Noong Chứn (ao chì), bản Noong É (ao chim én), bản Noong Pết (ao vịt), bản

Noong Vai (ao cây mây).

* Các địa danh trong đó các yếu tố được kết hợp từ nhiều ngôn ngữ khác

nhau: ngoài các địa danh do các yếu tố của một ngôn ngữ kết hợp với nhau tạo

thành (thuần Việt, Hán Việt), còn có các địa danh mà các yếu tố thuộc nhiều nguồn

gốc khác nhau (Việt + dân tộc, Việt + chữ số, chữ cái). Ở các địa danh này, những

địa danh được cấu tạo bởi hai yếu tố chỉ có số lượng nhỏ, các địa danh có từ ba đến

mười yếu tố trong đó địa danh ba yếu tố chiếm ưu thế. Trong các địa danh này yếu

tố chính đứng trước ghép với yếu tố phụ đứng sau nó, yếu tố chính và yếu tố phụ có

thể là từ hoặc cụm từ và chia làm hai trường hợp:

Thứ nhất, yếu tố chính do thành tố chung chỉ các loại hình đối tượng địa lí

chuyển hóa thành còn yếu tố phụ đi sau có tính chất khu biệt loại hình đối tượng địa

lí đó. Địa danh này xuất hiện ở địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh công trình

nhân tạo. Chẳng hạn trong những địa danh như: hang Chùa Pá Sa, trung tâm đề

kháng Đồi Độc Lập, cứ điểm Đồi Độc Lập, di tích Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên

Phủ, di tích Hầm Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì yếu tố chính lần lượt là các từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

“chùa”, “đồi”, “đồi”, “sở chỉ huy”, “hầm” và yếu tố phụ là những yếu tố còn lại.

49

Thứ hai, yếu tố chính là những yếu tố chỉ loại lớn còn yếu tố phụ là các chữ

số, chữ cái đi kèm có chức năng hạn định về vị trí, thứ tự hay số lượng. Địa danh

này xuất hiện chủ yếu ở địa danh đơn vị dân cư. Chẳng hạn, bản Pom Lót 9, bản

Pom Lót 10, bản Sơn Tống A, bản Sơn Tống B, bản Nà Cái 1, bản Nà Lốm 2, bản

Gia Phú A, bản Gia Phú B.

* Có một bộ phận nhỏ các địa danh cấu tạo chính phụ được tạo nên bằng cách

ghép chữ cái với chữ số. Địa danh này có ở cả ba loại hình địa danh: địa hình thiên nhiên,

đơn vị dân cư và công trình nhân tạo. Chẳng hạn, đồi A1, đồi E2, đồi D1, cầu A1, bản A2,

đội C4, đội C17 a, đội C17 b, cầu C9, cứ điểm A1, cứ điểm C1, cứ điểm C2.

2.4.2.2. Địa danh cấu tạo phức theo quan hệ đẳng lập

Địa danh có cấu tạo phức theo quan hệ đẳng lập là loại địa danh trong đó các

yếu tố cấu thành địa danh có vai trò bình đẳng với nhau về mặt ý nghĩa. Ở địa danh

thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, loại địa danh này chỉ có số lượng

nhỏ với 60 địa danh, chiếm 6,41% trong đó địa danh đơn vị dân cư có 41 trường

hợp, chiếm 4,27%, địa danh công trình nhân tạo có 19 trường hợp, chiếm 1,88%,

còn địa danh địa hình thiên nhiên không có trường hợp nào. Các địa danh có số

lượng yếu tố khác nhau, lớn nhất là mười hai yếu tố và có nguồn gốc từ nhiều ngôn

ngữ trong đó chủ yếu là các địa danh Hán Việt.

Chẳng hạn, bản Phú Ngam (ghép của Tân Phú và Núa Ngam), bản Tân Ngam

(ghép của Minh Tân và Núa Ngam), bản Gia Phú (đẹp giàu), bản Thanh Bình (trong

sáng, bình yên), thôn Hồng Thái (đẹp đẽ, to lớn), thôn Hưng Thịnh (phát đạt, thịnh

vượng), thôn Mỹ Hưng (tươi đẹp, giàu có), khu du lịch Hồ Pa Khoang và Sở chỉ huy

chiến dịch Điện Biên Phủ, khu du lịch U Va, động Pa Thơm và cửa khẩu Tây Trang.

2.4.2.3. Địa danh cấu tạo phức theo quan hệ chủ vị

Địa danh cấu tạo phức theo quan hệ chủ vị có số lượng nhỏ nhất trong các

địa danh có cấu tạo phức, với 29 địa danh, chiếm 2,88% trong đó địa danh địa hình

thiên nhiên có 14 trường hợp, chiếm 1,39%, địa danh đơn vị dân cư có 11 trường

hợp, chiếm 1,09%, địa danh công trình nhân tạo chỉ có 4 trường hợp, chiếm 0,4%.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Các địa danh này đều có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số. Ở đây các địa danh phức

50

cấu tạo theo quan hệ chủ vị được chúng tôi xác định bằng cách: tìm những thành

phần vị ngữ trong địa danh có thể trả lời cho câu hỏi “chủ ngữ làm gì?”. Trường

hợp thành phần vị ngữ trong địa danh trả lời cho câu hỏi “chủ ngữ như thế nào?” thì

ranh giới giữa quan hệ chủ vị và quan hệ chính phụ trong những địa danh này chưa

rõ ràng thậm chí rất khó xác định, chúng tôi xếp chúng vào quan hệ chính phụ.

Trong 29 địa danh có quan hệ chủ vị có khá nhiều địa danh được chuyển hóa từ

địa danh địa hình thiên nhiên sang địa danh đơn vị dân cư và địa danh công trình nhân

tạo. Các địa danh có quan hệ chủ vị, chẳng hạn, núi Pu Háp (núi gánh), núi U Va (Tao

Bảo), đèo Huổi Chan (suối tràn), hồ Hồng Sạt (khe sạt lở), hồ U Va (Tao Bảo), suối

Cáy Phặc (gà ấp), khe Hát Si (khe chảy xiết), khe Hồng Sạt (khe sạt lở), suối Na Ư

(ruộng kêu), bản Pha Lay (vách chảy), bản Nậm Khẩu Hú (nước chảy vào hang đá), xã

Na Ư (ruộng kêu), di tích Noong Nhai (ao vỡ), đập tràn Hồng Sạt (khe sạt lở).

Như vậy, đặc điểm nổi bật trong cấu tạo địa danh thành phố Điện Biên Phủ

và huyện Điện Biên là các địa danh có cấu tạo phức chiếm ưu thế hơn cả, điều đó

cho thấy các địa danh được cấu tạo theo xu hướng song tiết hóa. Địa danh thành phố

Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên với các loại hình địa danh khác nhau và có

nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau cũng có đầy đủ các đặc điểm về cấu tạo đơn và cấu

tạo phức đồng thời cũng thể hiện được đầy đủ các kiểu quan hệ chính phụ, đẳng lập,

chủ vị trong cấu tạo phức. Điều đó cho thấy đặc điểm cấu tạo của địa danh nơi đây

rất đa dạng và đã phần nào phản ánh được cấu tạo chung của các đơn vị từ vựng

tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc thiểu số.

2.5. PHƢƠNG THỨC ĐỊNH DANH TRONG ĐỊA DANH THÀNH PHỐ

ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN

2.5.1. Khái niệm về phương thức định danh

Phương thức định danh, thuộc vào nguyên tắc đặt tên, cùng với cấu trúc nội bộ

là một trong hai bộ phận cấu tạo địa danh. Chính phương thức định danh giúp cho địa

danh có những ý nghĩa sinh động, phong phú, độc đáo, giúp cho những vùng miền

mang tên địa danh đó có dấu ấn riêng và cả những đặc trưng văn hóa đặc sắc. Theo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

“Từ điển tiếng Việt” [41, tr.793] thì “phương thức là cách thức và phương pháp (nói

51

tổng quát)” trong đó “cách thức là hình thức diễn ra một hành động” còn “phương

pháp là hệ thống các cách sử dụng để tiến hành một hành động nào đó”. Từ đó có

thể quan niệm “phương thức định danh” là phương pháp đặt tên cho một đối tượng

nào đó. Đây là một khái niệm mang tính chất tổng thể, vừa thể hiện cách thức vừa thể

hiện phương pháp trong quá trình chọn lựa, sắp xếp để đặt tên cho địa danh.

Một địa danh luôn có cấu tạo hai bộ phận, đó là cấu tạo nội dung và cấu tạo

hình thức, theo Từ Thu Mai [31, tr.101] đó chính là “cấu trúc nội bộ” và “nguyên

tắc đặt tên”. “Cấu trúc nội bộ của địa danh là cấu tạo về mặt ngữ pháp còn nguyên

tắc đặt tên chính là nguyên tắc được thể hiện qua việc trả lời các câu hỏi đặt tên

dựa vào cái gì hay gọi theo cái gì. Nếu cấu trúc nội bộ tạo nên những đặc điểm về

cấu tạo thì nguyên tắc đặt tên tạo nên những đặc điểm về ý nghĩa của nó”.

Chẳng hạn, trong địa danh xã Thanh Xương, cấu tạo hình thức của địa danh

này là một từ ghép chính phụ trong đó yếu tố “thanh” đứng trước là yếu tố chính,

lấy từ yếu tố thứ hai của địa danh vùng đất “Mường Thanh”, còn yếu tố “xương” là

yếu tố phụ đi sau có chức năng phân biệt xã Thanh Xương với các xã khác trong

cùng huyện (Thanh Yên, Thanh Luông, Thanh Nưa, Thanh Chăn,…). Còn xét về

nguyên tắc đặt tên thì địa danh “Thanh Xương” còn phản ánh tình cảm yêu quý, trân

trọng của con người đối với vùng đất mình đến sinh cơ lập nghiệp.

Việc xác định nguồn gốc và ý nghĩa của các yếu tố trong địa danh là để trả

lời cho câu hỏi: người ta dựa vào đâu để định danh, định danh bằng phương pháp

nào, cách thức ra sao; chính là tìm hiểu phương thức định danh địa danh đó. Do vậy

phương thức định danh và ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo địa danh gắn bó chặt chẽ.

Theo Từ Thu Mai: “Phương thức định danh luôn sử dụng các yếu tố có nghĩa để

định danh cho đối tượng địa lí một cách phù hợp với đặc điểm, tính chất, mối quan

hệ của đối tượng và nguyện vọng, tâm lí của người định danh. Ngược lại, nhờ các

phương thức định danh mà ý nghĩa và ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo được thể hiện

rõ qua từng địa danh cũng như từng loại địa danh” [31, tr.101].

Nếu như xem xét địa danh về cấu tạo hình thức giúp cho ta nhận biết được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đối tượng một cách khái quát, biết đối tượng thuộc loại địa danh nào thì xem xét địa

52

danh về cấu tạo nội dung giúp cho ta biết được ý nghĩa của địa danh, lí do đặt tên

địa danh cũng như những phương thức tạo nên ý nghĩa ấy.

Như vậy, cấu tạo nội dung có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với cấu tạo hình

thức, trong bản thân cấu tạo nội dung, giữa phương thức định danh với ý nghĩa của

các yếu tố cấu tạo địa danh cũng có mối quan hệ khăng khít, tác động lẫn nhau.

2.5.2. Các phương thức định danh qua địa danh thành phố Điện Biên Phủ

và huyện Điện Biên

Về địa danh nói chung và về phương thức định danh nói riêng đã có nhiều

tác giả đi trước nghiên cứu. Chẳng hạn, Lê Trung Hoa đã nêu ra ba phương thức

định danh, đó là: phương thức tự tạo, phương thức chuyển hóa, phương thức vay

mượn [dẫn theo 32, tr.134]. Nguyễn Kiên Trường cũng đưa ra ba phương thức định

danh chủ yếu đó là: phương thức ghép số và địa danh, phương thức chuyển hóa,

phương thức vay mượn [48, tr.76]. Trong khi đó Từ Thu Mai lại chỉ nêu hai phương

thức chính: phương thức cấu tạo mới và phương thức chuyển hóa [31, tr.102-103].

Sự phân chia về số lượng và tên gọi địa danh có nhiều quan niệm khác nhau tuy

nhiên khi nghiên cứu cụ thể vào từng phương thức định danh thì các quan niệm mà

các tác giả đưa ra tương đối đồng nhất.

Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước và thực tế nghiên

cứu địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, chúng tôi thấy người

định danh đã sử dụng ba phương thức định danh đó là phương thức cấu tạo mới,

phương thức chuyển hóa và phương thức vay mượn.

2.5.2.1. Phương thức cấu tạo mới

Đây là quan niệm của Từ Thu Mai, cũng tương tự như cách gọi “phương

thức tự tạo” của Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường. “Phương thức cấu tạo mới

là phương thức mà người định danh sử dụng các yếu tố ngôn ngữ có sẵn, tạo ra một

tên gọi mới theo cách của mình để định danh cho sự vật, hiện tượng” [41, tr.102].

Nói cách khác, từ những đặc điểm về hình dáng, kích thước, tính chất, màu sắc…

của chính bản thân đối tượng hoặc những đặc điểm có liên quan gián tiếp đến đối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tượng như cây, con vật nuôi, tên danh nhân, các sự kiện lịch sử, tín ngưỡng dân

53

gian… người ta sử dụng những yếu tố ngôn ngữ trong hệ thống từ vựng chung để

định danh cho đối tượng. Do vậy trong tên gọi của đối tượng có thể chứa đựng cả

đời sống tâm lí, tình cảm, ước vọng, tín ngưỡng… hay những đánh giá, nhận xét

của con người.

Nghiên cứu 1001 địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên,

chúng tôi cố gắng đưa ra những tiêu chí cụ thể để phân nhóm địa danh và nhận thấy

ngay trong phương thức cấu tạo mới, các địa danh cũng được định danh từ rất nhiều

đặc điểm riêng độc đáo, mang đậm nét đặc trưng của một vùng đất nơi miền núi

phía Bắc xa xôi của Tổ quốc. Từ những địa danh mang dấu ấn riêng từ thuở khai

thiên lập địa theo thần thoại, truyền thuyết cho đến những địa danh mang dấu ấn của

thời kì phong kiến, thời kì chống Pháp và cả những địa danh xuất hiện trong chính

quyền nhà nước hiện nay.

Chúng tôi chia phương thức cấu tạo mới thành 8 nhóm nhỏ, trong mỗi nhóm

lại gồm những tiểu nhóm khác nhau.

a) Loại dựa vào đặc điểm, tính chất của đối tượng để đặt tên

- Địa danh được gọi theo địa hình của đối tượng.

Đó là những đặc điểm về địa hình như hang, thác, rãnh, đèo, núi. Chẳng hạn,

bản Kéo (đèo), bản Na Ten (ruộng ở nơi cao và bằng), bản Phiêng Sáng (bãi tre mạy

sáng), suối Thẩm (hang), suối Cảnh (thác), di tích Đồi A1 v.v..

- Địa danh được gọi theo loại chất liệu hay khoáng sản liên quan đến đối tượng.

Đó là những đặc điểm về loại chất liệu hay khoáng sản như sắt, chì, đất,

đá đen, đá lửa, đá vôi... Chẳng hạn, bản Đán Yên (đá gân trắng), bản Pha Đin

(vách đất), bản Noong Chứn (ao chì), suối Hồng Lếch (khe sắt), bản Him Lếch

Phay (đá lửa) v.v..

- Địa danh được gọi theo hình dáng của đối tượng.

Đó phần lớn là những đặc điểm gắn liền với hình dáng của các đồ vật, dụng

cụ. Chẳng hạn: bản Na Côm (ruộng tròn), bản Púng Khẩu (vựa thóc), núi Tẩu Pung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(quả bầu), suối Nậm Poọng (trống da) v.v..

54

- Địa danh được gọi theo kích thước của đối tượng.

Đó là những đặc điểm về kích thước như to, nhỏ, lớn, bé, dài, hẹp.

Chẳng hạn: xã Thanh Luông (Mường Thanh to lớn), suối Lụ (nhỏ), bản Huổi Lơi

(suối dài, hẹp, cong), bản Nà Hý (ruộng dài), núi Pú Lấu Luông (núi cây lau lớn) v.v..

- Địa danh được gọi theo màu sắc của đối tượng.

Đó là những đặc điểm về màu sắc như xanh, đỏ, tím, vàng, trắng. Chẳng hạn,

thác Trắng (nước chảy trắng xóa), cầu treo Nậm Thanh (suối xanh), suối Sái Lương

(cát vàng) v.v..

- Địa danh được gọi theo âm thanh liên quan đến đối tượng.

Chẳng hạn, bản Na Khếnh (ruộng tiếng kêu), hồ Hồng Khếnh (khe tiếng

kêu), suối Na Ư (ruộng kêu) v.v..

- Địa danh được đặt theo tính chất, mùi vị liên quan đến đối tượng.

Đó là những đặc điểm về tính chất như già, trẻ, xấu, đẹp, bình yên, trong lành,

xa xăm, bằng phẳng, mới, cũ, nhiều, ít; miêu tả mùi vị như vị mặn. Chẳng hạn, bản

Đông Mệt (rừng già kín đáo), suối Huổi Un (suối nước ấm), suối Ít (suối mặn) v.v..

- Địa danh được gọi theo hoạt động, chức năng của đối tượng.

Đó là những đặc điểm về hoạt động như nhìn, đâm, chảy, tràn, dập dềnh,

gánh; về chức năng như chính, phụ… Chẳng hạn, bản Lé (nhìn), bản Phăng (đâm),

bản Chăn nuôi, suối Cáy Phặc (gà ấp), suối Húa (đầm), suối Huổi Háp (suối gánh),

kênh Chính v.v..

- Địa danh được gọi theo số lượng liên quan đến đối tượng.

Chẳng hạn, bản Sam Phương (ba phương), suối Huổi Hốc (suối sáu nhánh),

thành Tam Vạn (ba vạn) v.v..

- Địa danh được gọi theo thời gian liên quan đến đối tượng.

Đó có thể là thời gian diễn ra hoạt động của đối tượng hoặc là thời gian

thành lập đối tượng.

Chẳng hạn những địa danh như bản Tà Lành (bến tối), bản Na Hôm (ruộng

hôm) là chỉ thời gian diễn ra hoạt động của đối tượng. Còn những địa danh như thôn

Tân Lập (mới thành lập), bản Mới, bản Mé, bản Mớ, đường Mới (nay là đường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trường Chinh) là chỉ thời gian, thời điểm đối tượng được thành lập.

55

- Địa danh được gọi theo những đặc điểm của sự vật, của thiên nhiên và các

hiện tượng thiên nhiên có liên quan đến đối tượng.

Bộ phận phản ánh sự vật, hiện tượng như khe Hoong Khoong (khe của cải),

bản Hoong Khoong, suối Huổi Hộc (suối nhau thai), suối Ta Tiến (mật ong đất), đồi

Cháy. Bộ phận phản ánh thiên nhiên và các hiện tượng thiên nhiên như mường

Thanh (mường trời), bản Ta Lét (bến nắng), hồ Ta Lét, núi Pu Phạ (núi trời), suối

Huổi Phạ (suối trời), cầu Huổi Phạ, bản Huổi Phạ, hồ Huổi Phạ, đập tràn Huổi

Phạ, suối Mươi (sương mù).

b) Loại dựa vào đặc điểm có quan hệ chặt chẽ với đối tượng để đặt tên

- Địa danh gọi theo vị trí, phương hướng của đối tượng so với đối tượng khác.

Phương thức định danh này thường gặp ở địa danh đơn vị dân cư (phường, bản), ở

địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh công trình nhân tạo ít xuất hiện hơn.

Chẳng hạn, phường Nam Thanh (phía Nam Mường Thanh), bản Cang (Ở

giữa), bản Đỉnh Đèo, bản Che Phai (cạnh đập nước), suối Nậm Hua (suối đầu

nguồn), động Pa Thơm (cửa hang động), phân khu Bắc, phân khu Nam v.v..

- Địa danh gọi theo tên các loại thực vật có ở đối tượng.

Phương thức định danh này chỉ gặp ở địa danh đơn vị dân cư với địa danh

địa hình thiên nhiên và chiếm số lượng lớn nhất trong những địa danh được cấu tạo

theo phương thức cấu tạo mới.

Chẳng hạn, bản Xôm (cây cơi), bản Co Sáng (cây tre mạy sáng), bản Phiêng

Bua (bãi sen), bản Ta Pô (bến cây đa), thác Bay (cây trám đen), suối Na Cọ (ruộng

cây cọ) v.v..

- Địa danh gọi theo tên các loài động vật được sinh sống, tồn tại nhiều trên

đối tượng.

Cũng như địa danh gọi theo tên cây cối, phương thức định danh này chỉ gặp

ở địa danh đơn vị dân cư với địa danh địa hình thiên nhiên. Những loài vật được

dùng để đặt tên đều là những loài khá đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, có loài vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

có thật trong tự nhiên nhưng cũng có loài chỉ có trong tưởng tượng của người dân

56

địa phương. Chẳng hạn, bản Noong É (ao chim én), bản Na Thìn (ruộng dĩn), bản

Phiêng Quái (bãi thả trâu), xã Noong Luống (ao rồng), núi Huổi Tấu (suối rùa),

suối Kía (con dơi), suối Hoong Hịa (khe kì đà), nậm Mển (suối nhím) v.v..

c) Loại dựa theo biến cố lịch sử, tên dân tộc hay danh nhân có liên quan trực

tiếp đến đối tượng

Ở cả ba loại hình địa danh đều có địa danh được gọi theo phương thức này

trong đó địa danh công trình nhân tạo sử dụng nhiều nhất bởi ở đây có những di tích

lịch sử, những cứ điểm, tượng đài, những tên đường, tên phố gắn liền với những

biến cố lịch sử và tên tuổi của những danh nhân, những anh hùng dân tộc. Chẳng

hạn, bản Tân Bình (bản mới của người Thái Bình khi họ lên Điện Biên sinh sống và

lập nghiệp), thôn Trần Phú (tên danh nhân), đường Phan Đình Giót (tên danh

nhân), quốc lộ 279 (sự kiện lịch sử: đây là tuyến đường phục vụ vận chuyển quân

trang, quân lực cho cuộc chiến đấu của quân dân Việt Nam chống lại chiến tranh

xâm lược của Trung Quốc vào tháng 2 năm 1979), di tích Dân quân ở xã Thanh An

bắn rơi máy bay Mỹ (sự kiện lịch sử), di tích Đường kéo pháo của quân ta ở Điện

Biên Phủ (sự kiện lịch sử) v.v..

d) Loại đặt theo tín ngưỡng của dân chúng trong vùng

Phương thức định danh này chỉ gặp ở địa danh địa hình thiên nhiên và địa

danh công trình nhân tạo. Những địa danh này có thể được gọi tên gắn với những

câu chuyện truyền thuyết dân gian hoặc những hoạt động tín ngưỡng của người dân

trong vùng. Chẳng hạn, núi Pú Nang Nòn (núi nàng công chúa nằm), núi Pú Tạo

Nòn (núi chàng hoàng tử nằm), đồi Pom Loi (đồi khâm liệm), v.v…

e) Loại dựa theo tâm lý, nguyện vọng của người dân

Phương thức định danh này chỉ gặp ở tên gọi của các địa danh đơn vị dân cư

như thành phố, huyện, xã, thôn, bản. Qua đó người dân muốn gửi gắm ước vọng về

cuộc sống đẹp giàu, trong sáng, bình yên, văn minh, tiến bộ của vùng đất, thôn, bản

nơi họ sinh sống. Chẳng hạn, huyện Điện Biên (biên giới vững vàng), thôn Mỹ

Hưng (đẹp giàu), bản Hưng Yên (hưng thịnh, yên ấm), thôn Văn Biên (văn minh nơi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

biên giới), bản Thanh Bình (trong sáng, bình yên) v.v..

57

g) Loại ghép các yếu tố

Lấy một yếu tố tên vùng đất kết hợp với một yếu tố chỉ tính chất, vị trí, phương

hướng... hoặc lấy một yếu tố tên xã kết hợp với một vài yếu tố chỉ tên tỉnh, trụ sở làm

việc, bãi canh tác... để đặt tên xã, phường cũng là một phương thức được sử dụng để

định danh một số địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên. Chẳng

hạn, xã Thanh Minh (Mường Thanh trong sáng), xã Thanh Luông (Mường Thanh to

lớn), xã Thanh Nưa (Mường Thanh trên), phường Nam Thanh (phía Nam Mường

Thanh), phường Thanh Trường (Mường Thanh + Nông trường) v.v..

h) Loại dùng số đếm hoặc chữ cái để đặt tên

Dùng số đếm thấy trong địa danh đơn vị dân cư và địa danh công trình nhân

tạo (đội, đường, quốc lộ, tổ dân phố), còn loại dùng chữ cái có ở địa danh địa hình

thiên nhiên. Chẳng hạn, đội 7, đội 10, tổ dân phố 32, quốc lộ 12, thôn 24, đồi F v.v..

i) Loại hỗn hợp: kết hợp các yếu tố, chữ số, chữ cái

Phương thức này được sử dụng với số lượng khá lớn ở cả ba loại địa danh. Ở

đây các yếu tố được dùng kết hợp với các chữ số, chữ cái hoặc chỉ có các chữ số,

chữ cái được dùng kết hợp với nhau. Tên gọi đó có được là do đặt theo kí hiệu đơn

vị quân đội, kí hiệu của nông trường sản xuất cũ hoặc để phân biệt các địa danh có

tên gọi giống nhau chỉ khác nhau vị trí hay thời gian xuất hiện trước sau do tách ra

từ một địa danh gốc. Chẳng hạn, đồi A1 (kí hiệu quân đội), cứ điểm E1 (kí hiệu

quân đội), di tích Đồi E2, cầu C9 (kí hiệu của nông trường sản xuất cũ), bản Him

Lam 1, bản Him Lam 2 v.v..

2.5.2.2. Phương thức chuyển hóa

Các nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên Trường và Từ Thu Mai đều

nêu ra phương thức này. Phương thức chuyển hóa là phương thức định danh bằng

cách lấy tên gọi đối tượng địa lí này để gọi tên một đối tượng địa lí khác. Địa danh

mới có thể giữ nguyên dạng hoặc thêm một số yếu tố mới là các danh từ chung chỉ

loại hình đối tượng địa lí có liên quan so với địa danh cũ. Do vậy địa danh cũ có thể

mất đi hoặc song song tồn tại với địa danh mới. Qua nghiên cứu 1001 địa danh thành

phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, chúng tôi thấy phương thức này có hai dạng:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chuyển hóa trong nội bộ loại địa danh và chuyển hóa giữa các loại địa danh.

58

- Chuyển hóa trong nội bộ loại địa danh.

Phương thức này xuất hiện không nhiều trong cấu tạo một số địa danh thành

phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên. Chẳng hạn, trong loại địa danh đơn vị dân

cư: mường Phăng  bản Mường Phăng, mường Pồn  bản Mường Pồn, bản Him

Lam  phường Him Lam, bản Noong Bua  phường Noong Bua v.v..

Trong loại địa danh địa hình thiên nhiên: suối Nậm Khẩu Hú  núi Pu Nậm

Khẩu Hú, suối Nậm Nẹn  núi Pu Nậm Nẹn, hồ U Va  núi U Va, suối Huổi He

 hang Huổi He v.v..

Trong loại địa danh công trình nhân tạo: nhà máy thủy điện Thác Bay  đập

tràn Thác Bay, nhà máy thủy điện Thác Trắng  đập tràn Thác Trắng, cầu Mường

Thanh  di tích Cầu Mường Thanh, chùa Pá Sa  di tích Chùa Pá Sa v.v..

- Chuyển hóa giữa các loại địa danh.

Các địa danh cấu tạo theo phương thức này chiếm số lượng khá lớn. Sự

chuyển hóa diễn ra trong sáu nhóm như sau:

+ Địa danh địa hình thiên nhiên chuyển hóa thành địa danh đơn vị dân cư.

Chẳng hạn, nà Tấu (ruộng rùa)  bản Nà Tấu, noong Pết (ao vịt)  bản Noong

Pết, tông Khao (cánh đồng trắng)  bản Tông Khao, suối Sái Lương (suối Cát

vàng)  bản Sái Lương, Pú Sung (núi cao)  bản Pú Sung, pom Lót (đồi giỏ lõi

chỉ)  bản Pom Lót.

+ Địa danh địa hình thiên nhiên chuyển hóa thành địa danh công trình nhân tạo.

Chẳng hạn, sông Nậm Rốm  kênh Nậm Rốm, hồ U Va  khu khảo cổ học Hồ U Va.

+ Địa danh công trình nhân tạo chuyển hóa thành địa danh địa hình thiên

nhiên. Chẳng hạn, cửa khẩu Tây Trang  đèo Tây Trang.

+ Địa danh công trình nhân tạo chuyển hóa thành địa danh đơn vị

dân cư. Chẳng hạn, thành Bản Phủ → bản Phủ, thành Sam Mứn → bản

Sam Mứn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

59

+ Địa danh đơn vị dân cư chuyển hóa thành địa danh địa hình thiên

nhiên. Chẳng hạn, bản Kéo → đồi Bản Kéo, bản Him Lam → đồi Him Lam.

+ Địa danh đơn vị dân cư chuyển hóa thành địa danh công trình nhân

tạo. Chẳng hạn, xã Thanh Minh → cống Thanh Minh, bản Hua Pe → khu du

lịch Hua Pe.

Trong các nhóm trên nhóm địa danh địa hình thiên nhiên chuyển hóa

thành địa danh đơn vị dân cư là nhóm có số lượng lớn nhất. Hầu hết các địa

danh đơn vị dân cư được chuyển hóa từ toàn bộ phức thể địa danh địa hình

thiên nhiên như các địa hình ná (ruộng), huổi (suối), pú (núi), nậm (sông,

nước), hoong (khe), co (cây), noong (ao)...

Như vậy phương thức định danh theo lối chuyển hóa là cách thức cơ

bản để đặt tên địa danh mới trên cơ sở cái cũ đã có.

2.5.2.3. Phương thức vay mượn

Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường trong công trình nghiên cứu của

mình đều nêu ra phương thức này, còn Từ Thu Mai cho rằng đây là một phần của

phương thức chuyển hóa. Phương thức vay mượn là phương thức lấy tên gọi ở vùng

khác, nơi khác (kể cả tên người, tên đất) để đặt tên cho địa vực cư trú của mình.

Trong 1001 địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, chúng

tôi thấy có ba nhóm địa danh vay mượn đó là mượn chất liệu ngôn ngữ dân tộc

thiểu số, mượn tên người và mượn tên làng quê cũ để đặt tên cho địa danh mới.

- Mượn chất liệu ngôn ngữ dân tộc thiểu số hoặc tiếng nước ngoài.

Mượn chất liệu ngôn ngữ dân tộc thiểu số chẳng hạn: các địa danh Mường

Thanh, Hồng Cúm, Hồng Khếnh, Him Lam, Pa Thơm trong tiếng Việt lần lượt được

mượn từ các tên gọi Mướng Then, Hoong Cúm, Hoong Khếnh, Hin Đăm, Pak Thơm

trong tiếng Thái.

Địa danh mượn tiếng nước ngoài có rất ít. Ở đây chỉ thấy có hai địa danh gốc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Pháp đó đồng thời cũng là những địa danh mang tên người: Đờ Cát, Pi Rốt.

60

- Mượn tên người: tên người ở đây có cả những người nổi tiếng, những vị

anh hùng dân tộc trong lịch sử cũng có cả những kẻ đi xâm lược và để lại dấu tích

trên mảnh đất Điện Biên Phủ đã từng trải qua một chặng đường lịch sử hào hùng.

Chẳng hạn, tên của những vị anh hùng của dân tộc đã được đặt cho tên đền,

hầm, tên đường phố, thôn bản như: đền Hoàng Công Chất, hầm Đại tướng Võ

Nguyên Giáp, thôn Trần Phú, đường Bế Văn Đàn, đường Phan Đình Giót. Tên của

những kẻ đến xâm lược mảnh đất này đã được đặt cho những dấu tích mà chúng để

lại như: hầm Đờ Cát, hầm Pi Rốt.

- Mượn tên làng quê cũ: Từ sau khi Điện Biên được giải phóng năm 1954,

đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế và sinh cơ lập nghiệp tại mảnh đất này

đã mang theo tên làng cũ, quê cũ của mình để đặt tên cho vùng đất họ đến định

cư. Qua đó họ không chỉ muốn gửi gắm tình yêu đối với mảnh đất chôn rau cắt

rốn, nỗi nhớ quê cha đất tổ và tấm lòng luôn hướng về cội nguồn mà cả quyết

tâm xây dựng quê mới ngày càng văn minh, giàu đẹp.

Chẳng hạn, địa danh Cộng Hòa, Minh Tân là tên của hai xã thuộc tỉnh Thái

Bình, hai địa danh này đã được người dân mang theo và đặt tên cho bản mới ở Điện

Biên, nơi họ sinh sống đó là bản Minh Tân, bản Cộng Hòa.

So với các phương thức cấu tạo địa danh nêu trên thì phương thức vay

mượn ít được sử dụng để cấu tạo các địa danh thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên hơn.

Như vậy, trong ba phương thức định danh nêu trên, phương thức cấu tạo

mới chiếm số lượng nhiều và phong phú hơn cả. Tìm hiểu ý nghĩa của địa danh,

nói chung cũng căn cứ vào phương thức này là chủ yếu. Còn ở phương thức

chuyển hoá, cách chuyển thành tố chung chỉ loại hình các đối tượng địa lí giữa

các loại địa danh là cách thức chuyển hóa chủ yếu. Phương thức vay mượn được

sử dụng với số lượng nhỏ, ở vùng núi như Điện Biên, phương thức này chỉ gặp ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

địa danh đơn vị dân cư.

61

2.5.3. Tổng hợp kết quả

CÁC PHƢƠNG THỨC ĐỊNH DANH QUA ĐỊA DANH THÀNH PHỐ

ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN

STT

PHƢƠNG THỨC ĐỊNH DANH

A Phƣơng thức cấu tạo mới

I Loại dựa vào đặc điểm, tính chất của đối tượng để đặt tên

1 Địa danh được gọi theo địa hình của đối tượng

2 Địa danh được gọi theo loại chất liệu hay khoáng sản liên quan đến đối tượng

3 Địa danh được gọi theo hình dáng của đối tượng.

4 Địa danh được gọi theo kích thước của đối tượng

5 Địa danh được đặt theo tính chất, mùi vị liên quan đến đối tượng

6 Địa danh được gọi theo màu sắc của đối tượng

7 Địa danh được gọi theo hoạt động, chức năng của đối tượng

8 Địa danh được gọi theo số lượng liên quan đến đối tượng

9 Địa danh được gọi theo âm thanh liên quan đến đối tượng

10 Địa danh được gọi theo thời gian liên quan đến đối tượng

Địa danh được gọi theo những đặc điểm của sự vật, của thiên nhiên và các hiện 11 tượng thiên nhiên có liên quan đến đối tượng

II Loại dựa vào đặc điểm có quan hệ chặt chẽ với đối tượng để đặt tên

1 Địa danh gọi theo vị trí, phương hướng của đối tượng so với đối tượng khác

2 Địa danh gọi theo tên các loại thực vật có ở đối tượng

3 Địa danh gọi theo tên các loài động vật được sinh sống, tồn tại nhiều trên đối tượng

Loại dựa theo biến cố lịch sử, tên dân tộc hay danh nhân có liên quan trực tiếp III đến đối tượng

IV Loại dựa theo tín ngưỡng của dân chúng trong vùng

V Loại dựa theo mong muốn, ước nguyện của người dân

VI Loại ghép các yếu tố

VII Loại dùng số đếm hoặc chữ để đặt tên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

VIII Loại hỗn hợp: kết hợp các yếu tố, chữ số, chữ cái

62

STT

PHƢƠNG THỨC ĐỊNH DANH

B Phƣơng thức chuyển hóa

I Chuyển hóa trong nội bộ địa danh

II Chuyển hóa giữa các loại địa danh

1 Địa danh địa hình thiên nhiên chuyển hóa thành địa danh đơn vị dân cư

2 Địa danh địa hình thiên nhiên chuyển hóa thành địa danh công trình nhân tạo

3 Địa danh công trình nhân tạo chuyển hóa thành địa danh địa hình thiên nhiên

4 Địa danh công trình nhân tạo chuyển hóa thành địa danh đơn vị dân cư

5 Địa danh đơn vị dân cư chuyển hóa thành địa danh địa hình thiên nhiên

6 Địa danh đơn vị dân cư chuyển hóa thành địa danh công trình nhân tạo

C Phƣơng thức vay mƣợn

I Mượn chất liệu ngôn ngữ dân tộc thiểu số hoặc tiếng nước ngoài để định danh

II Mượn tên người để định danh

III Mượn tên làng quê cũ để định danh

2.5.4. Nhận xét về các phƣơng thức định danh qua địa danh thành phố

Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên

Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được cấu tạo theo ba

phương thức: phương thức cấu tạo mới, phương thức chuyển hóa và phương thức

vay mượn, trong đó phương thức cấu tạo mới gồm 8 loại, phương thức chuyển hóa

gồm 2 loại và phương thức vay mượn gồm 3 loại, và ở mỗi loại lại gồm những

nhóm nhỏ khác nhau. Trong các phương thức đó thì phương thức cấu tạo mới được

sử dụng nhiều nhất và có số lượng địa danh nhiều nhất. Vì thế phương thức này có

vai trò quan trọng trong việc cấu tạo địa danh. Trong phương thức chuyển hóa, cách

thức chuyển hóa giữa các loại địa danh xuất hiện nhiều còn trong phương thức vay

mượn thì cách thức vay mượn tiếng dân tộc thiểu số chiếm ưu thế. Các phương thức

này cho phép lựa chọn các thuộc tính phong phú, đa dạng để đặt tên địa danh trong

đó phương thức cấu tạo mới đem lại nhiều thuộc tính nhất. Có những thuộc tính là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đặc điểm, tính chất của chính bản thân đối tượng như đặc điểm về hình dáng, kích

63

thước, màu sắc, tính chất, mùi vị, hoạt động, chức năng, sự vật, hiện tượng; có

những thuộc tính là những đặc điểm có quan hệ chặt chẽ với đối tượng như vị trí,

phương hướng, loại cây cối, con vật nuôi; có những thuộc tính là biến cố lịch sử, tên

dân tộc hay danh nhân có liên quan trực tiếp đến đối tượng; có thuộc tính là tín

ngưỡng, tâm lí, nguyện vọng của người dân; có những thuộc tính là các yếu tố ghép

lại, là các chữ số hay ghép hỗn hợp cả các yếu tố, chữ số, chữ cái; lại có những

thuộc tính do chuyển hóa địa danh hay do vay mượn tên người, tên làng quê cũ.

Chính những thuộc tính đó làm cho ý nghĩa của các địa danh thêm phong phú, đặc

sắc, góp phần tạo nên cái mới, cái hay, cái riêng của một số địa danh trong thành

phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.

Những đặc điểm, tính chất được lựa chọn làm phương thức định danh trên có

có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với địa lí, lịch sử, văn hóa tộc người ở Điện Biên.

Chẳng hạn với đặc điểm nổi bật của địa hình toàn tỉnh là núi thấp dần và đổ dồn

xuống các sông và suối lớn, hoặc xen kẽ với các thung lũng sông, khe suối; lọt vào

giữa các dãy núi có rất nhiều dải trũng bằng phẳng tạo thành những cánh đồng hẹp

kéo dài cùng với mạng lưới sông ngòi chằng chịt và hệ động thực vật phong phú, ở

thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có rất nhiều địa danh mang yếu tố

ruộng (ná, na, nà), núi (pú, pu), đồi (pom), suối (huổi), sông (nậm), khe (hoong),

nguồn nước (bó), ao (noong), rừng (pá), cây (co), đá (him), bãi (phiêng)... khiến

cho phương thức định danh dựa vào tên gọi các sông, suối, núi, rừng, đồi, các cây

cối, con vật cùng với những đặc điểm hình dáng, tính chất, màu sắc, hoạt động của

chúng là phương thức định danh cơ bản và chiếm ưu thế. Về lịch sử, Điện Biên Phủ,

mảnh đất đã từng lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu, biết bao anh hùng dân tộc,

biết bao người con của đất nước đã ngã xuống để Điện Biên có được nền hòa bình,

độc lập như ngày nay. Nhân dân Điện Biên và cả nước luôn nhớ đến các anh, những

người anh hùng đang sống và cả những người đã khuất, họ đã được vinh danh trong

lịch sử và được lưu danh cả ở những tên đường phố, trường học, tên căn hầm, ngôi

đền và cả tên bản, xã, thôn, xóm. Còn về xã hội, dân cư sống đông đúc và lâu đời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhất ở Điện Biên chính là người Thái. Vì vậy các địa danh chủ yếu có nguồn gốc

64

ngôn ngữ Thái. Sau này người Kinh lên Điện Biên sinh sống đã mang theo tiếng

nói, chữ viết của mình và tiếng Kinh đã được sử dụng phổ biến trong cộng đồng dân

cư. Sự tiếp xúc hai cộng đồng dân cư Thái - Việt đã tạo nguồn cho sự tiếp xúc ngôn

ngữ giữa hai dân tộc. Kết quả là trong một số địa danh thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên có nhiều địa danh có nguồn gốc Thái nhưng lại được ghi bằng

tiếng Việt như địa danh Điện Biên Phủ (hay Mường Thanh) có nguồn gốc tiếng

Thái là Mướng Then, Him Lam có nguồn gốc tiếng Thái là Hin Đăm, Hồng Cúm có

nguồn gốc tiếng Thái là Hoong Cúm... Đặc điểm này chi phối đến phương thức vay

mượn địa danh.

Như vậy, qua nghiên cứu 1001 địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên chúng tôi thấy các phương thức định danh cấu tạo lên các địa danh

này rất phong phú, đa dạng, mặt khác các phương thức định danh còn có mối quan

hệ gắn bó chặt chẽ, khăng khít với những đặc điểm về địa lí, lịch sử, văn hóa, tộc

người ở Điện Biên. Những đặc điểm đó góp phần tạo nên nét riêng, đặc sắc, độc đáo

của địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.

2.6. TIỂU KẾT

Qua khảo sát địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên về mặt

cấu tạo chúng tôi rút ra một số nhận xét cơ bản như sau:

2.6.1. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên cũng như địa

danh ở nhiều vùng miền khác trên đất nước Việt Nam đều nằm trong một cấu trúc

phức thể nhất định. Đó là mô hình cấu trúc phức thể gồm hai bộ phận là thành tố

chung và địa danh (tên riêng). Mỗi bộ phận đó có vai trò, chức năng riêng nhưng

được đặt trong mối quan hệ gắn bó, thống nhất với nhau. Bộ phận từ ngữ chung

dùng để gọi tên các đối tượng địa lí có cùng đặc điểm được xếp vào cùng một kiểu

loại. Còn bộ phận địa danh dùng để khu biệt đối tượng địa lí này với đối tượng địa lí

khác, đặc biệt khi các đối tượng này thuộc vào cùng một kiểu loại. Trong phức thể

địa danh, bộ phận từ ngữ chung thường đứng trước và là cái được hạn định cho đối

tượng địa lí còn bộ phận tên riêng thường đứng sau để hạn định cho đối tượng địa lí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đó. Mô hình cấu trúc địa danh nơi đây có điểm khá đặc biệt so với nơi khác đó là có

65

số lượng yếu tố lớn, mô hình cấu trúc có tối đa là mười chín yếu tố với độ dài lớn

nhất của thành tố chung là bảy yếu tố và của địa danh là mười hai yếu tố; còn trên

khảo sát thực tế thì địa danh có số lượng yếu tố lớn nhất là mười năm yếu tố.

2.6.2. Thành tố chung trong phức thể địa danh thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên có số lượng nhỏ, có cấu tạo đơn tiết, đa tiết khác nhau và phân bố

nhiều nhất ở địa danh các công trình nhân tạo. Thành tố chung giúp chúng ta hình

dung ra bức tranh cấu trúc địa hình và màu sắc văn hóa riêng ở trong vùng.

Các thành tố chung cũng có sự linh hoạt trong các phức thể địa danh, chúng

không chỉ đứng ở trước địa danh và thực hiện chức năng phân biệt loại hình cho địa

danh mà chúng còn xâm nhập và chuyển hóa thành một hoặc một vài yếu tố trong

địa danh (trong mười hai yếu tố của địa danh thì trừ vị trí thứ chín và vị trí thứ mười

một còn lại các thành tố chung đều lần lượt được chuyển hóa vào các vị trí còn lại

trong địa danh). Chức năng này phản ánh sự đa dạng trong mối quan hệ giữa các bộ

phận trong cấu trúc địa danh đồng thời cũng làm tăng thêm sự phong phú, đa dạng,

độc đáo của các địa danh.

2.6.3. Các địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có

độ dài khác nhau, địa danh ngắn nhất chỉ gồm một yếu tố còn địa danh dài nhất có

đến mười hai yếu tố trong đó mỗi yếu tố tương đương với một âm tiết. Trong địa

danh có cấu tạo phức, các yếu tố trong địa danh có mối liên hệ với nhau theo các

kiểu quan hệ: chính phụ, đẳng lập và chủ vị. Điều đó cho thấy đặc điểm cấu tạo của

địa danh nơi đây rất phong phú, đa dạng và đã phần nào phản ánh được cấu tạo

chung của các đơn vị từ vựng tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc thiểu số.

Mặc dù các địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau nhưng xét về mặt

cấu tạo, địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được tạo thành bởi

cấu tạo phức trong đó quan hệ chính phụ là chủ yếu, các quan hệ đẳng lập và chủ vị

chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Trong quan hệ chính phụ, vị trí của các yếu tố chính, yếu tố phụ

khác nhau tùy thuộc vào loại ngôn ngữ cấu tạo địa danh. Trong địa danh Hán Việt,

yếu tố chính thường đứng trước yếu tố phụ, trong địa danh thuần Việt thì ngược lại,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

còn trong địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ hỗn hợp thì vị trí của các yếu tố chính

66

linh hoạt hơn có thể đứng trước hoặc đứng sau yếu tố phụ, việc xác định chúng tùy

thuộc vào ngữ nghĩa của địa danh.

2.6.4. Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là hai địa bàn có rất

nhiều dân tộc sinh sống cho nên các địa danh nơi đây có nguồn gốc ngôn ngữ rất

phong phú, có địa danh tiếng Việt có địa danh tiếng Thái, cũng có cả địa danh tiếng

Mông, tiếng Khơ Mú, tiếng Lào. Trong đó địa danh tiếng Thái chiếm số lượng lớn

nhất. Bên cạnh đó còn xuất hiện cả những địa danh có nguồn gốc hỗn hợp giữa

tiếng Việt và tiếng Thái. Điều này tạo nên điểm khá đặc biệt và độc đáo của địa

danh cũng như phần nào phản ánh đời sống văn hóa của các đồng bào dân tộc sinh

sống nơi đây.

2.6.5. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được cấu tạo

theo ba phương thức khác nhau đó là phương thức cấu tạo mới (gồm 8 loại),

phương thức chuyển hóa (gồm 2 loại) và phương thức vay mượn (gồm 3 loại) trong

đó phương thức cấu tạo mới giữ vai trò chủ yếu. Phương thức này đã góp phần tạo

nên các kiểu cấu tạo của địa danh đặc biệt là kiểu cấu tạo phức theo quan hệ chính

phụ. Các phương thức định danh cấu tạo nên các địa danh này rất phong phú, đa

dạng đồng thời còn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, khăng khít với những đặc điểm

về địa lí, lịch sử, văn hóa, tộc người ở Điện Biên. Những đặc điểm đó góp phần tạo

nên nét riêng, đặc sắc, độc đáo trong ý nghĩa của địa danh thành phố Điện Biên Phủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và huyện Điện Biên.

67

Chƣơng 3

ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ - VĂN HÓA TRONG ĐỊA DANH

THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIÊN BIÊN

3.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA

3.1.1. Khái niệm văn hóa

Văn hóa là một sản phẩm sáng tạo của loài người, nó ra đời từ rất sớm và là

một trong những thước đo đời sống văn minh của chính con người và ngược lại đời

sống con người cũng được nâng dần lên khi có văn hóa.

Các nhà nghiên cứu đã đứng trên rất nhiều góc độ để nghiên cứu về văn hóa

nên mỗi người lại có cách hiểu và đưa ra các quan niệm khác nhau.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan niệm về văn hóa: "Văn hóa là tổng hợp của

mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó do loài người đã sản

sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" [dẫn theo Vũ

Khiêu (Chủ biên) (2000), tr.747-748].

Hoàng Phê trong "Từ điển tiếng Việt" đã đưa ra khái niệm: "Văn hóa là tổng

thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong

quá trình lịch sử" [41, tr.1100].

Nhà nghiên cứu Phan Ngọc thì cho rằng: "Văn hóa là một quan hệ. Nó là mối

quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại" [38, tr.105].

Trần Ngọc Thêm lại đưa ra định nghĩa: "Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các

giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt

động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội

của mình" [45, tr.20].

Tổ chức UNESCO thì quan niệm: “Văn hóa nên được xem là một tập hợp các

đặc điểm nổi bật về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm của xã hội hay một

nhóm xã hội, và ngoài văn học và nghệ thuật, nó còn bao gồm lối sống, các hệ

thống giá trị, các truyền thống và tín ngưỡng”. Bên cạnh đó UNESCO còn phân chia

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

văn hóa gồm hai loại: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Văn hóa vật thể là các

68

di sản tồn tại ở dạng vật chất như các công trình xây dựng, các công cụ, phương

tiện... còn văn hóa phi vật thể là các di sản tồn tại ở dạng tinh thần như dấu ấn ngôn

ngữ, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội... (dẫn theo [32, tr.181-182]).

Trên cơ sở ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi cũng đồng tình

với quan điểm của các nhà nghiên cứu khi xem văn hóa là một phức thể tổng hợp

bao gồm cả sản phẩm vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Sản phẩm vật

chất thuộc vào lĩnh vực văn hóa vật thể còn sản phẩm tinh thần thuộc vào lĩnh vực

văn hóa phi vật thể.

Khi nghiên cứu về địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên,

chúng tôi thấy có một vài đặc điểm liên quan chặt chẽ đến nội dung của văn hóa. Đó

là địa danh các công trình xây dựng nhân tạo, các di tích, đền, chùa.. thuộc văn hóa

vật thể và cả các yếu tố thuộc văn hóa phi vật thể như các địa danh thuộc về lễ hội,

tín ngưỡng, các địa danh chứa đựng các giá trị văn hóa tinh thần... Điện Biên là

mảnh đất gắn liền với chiến thắng lịch sử lẫy lừng năm 1954 nên các địa danh về di

tích chiếm một số lượng khá lớn và có giá trị văn hóa lớn lao trong đời sống nhân

dân địa phương cũng như góp phần vào kho tàng văn hóa lịch sử của dân tộc.

Nghiên cứu địa danh từ góc độ văn hóa giúp mang lại ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc, độc

đáo cho địa danh, tăng thêm sự hứng thú đối với những người nghiên cứu.

3.1.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa là một mối quan hệ hữu cơ, gắn bó

khăng khít, được nghiên cứu trong rất nhiều lĩnh vực như văn hóa học, ngôn ngữ

học, nhân loại học, tâm lí học. Điều đó dẫn tới sự ra đời của nhiều bộ môn liên

ngành trong đó mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa là trọng tâm như tâm lí -

ngôn ngữ học, dân tộc - ngôn ngữ học, nhân học - ngôn ngữ học.

Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa biểu

hiện ở chỗ ngôn ngữ được coi là biểu hiện, là hiện thân, là biểu trưng của văn hóa.

Phạm Đức Dương khi bàn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa cho rằng:

“Nhờ khả năng biểu trưng hóa, lời nói đã để lại những dấu hiệu vật chất trong các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hoạt động tinh thần của con người (như âm nhạc, hội họa, điêu khắc...) gắn với

69

dạng nói. Và những dấu hiệu ấy được hiện thực hóa thành những biểu tượng văn

hóa. Vì vậy ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu phổ quát có thể diễn tả, giải thích các

hệ thống biểu tượng khác của văn hóa và sự phát triển của các hệ thống ký hiệu

trong văn hóa đều liên quan đến sự phát triển ngôn ngữ. Kí hiệu ngôn ngữ chứa

trong nó hình ảnh các kí hiệu khác. Là công cụ giao tiếp xã hội, ngôn ngữ phải

truyền đạt được tất cả các ý nghĩa của các kí hiệu khác cho tất cả các thành viên

trong cộng đồng ngôn ngữ... Chỉ có chất liệu ngôn ngữ mới cho phép người nghệ sĩ

tạo nên những hình tượng bất kì trong những bối cảnh sâu rộng, phong phú, tế nhị

và hấp dẫn lòng người” [19, tr.111-112]. Còn Nguyễn Đức Tồn khi bàn về vấn đề

này thì cho rằng: “Ngôn ngữ còn là phương tiện tất yếu và là điều kiện cho sự nảy

sinh, phát triển và hoạt động của những thành tố khác trong văn hóa. Ngôn ngữ là

một trong những thành tố đặc trưng nhất của bất cứ nền văn hóa dân tộc nào.

Chính trong ngôn ngữ, đặc điểm của một nền văn hóa dân tộc được lưu giữ lại rõ

ràng nhất” [46, tr.47].

Ngôn ngữ là một trong những phương tiện trao đổi văn hóa mạnh mẽ giữa các

dân tộc, chẳng hạn qua giao tiếp, qua những phương tiện thông tin đại chúng, qua

sách báo dịch thuật... hay trong cộng đồng một dân tộc, ngôn ngữ là phương tiện

tích lũy và truyền đạt những tri thức, thông tin từ thế hệ trước đến thế hệ sau.

Những tri thức, thông tin đó có thể là lịch sử, truyền thống, kinh nghiệm sản xuất, là

tâm lí, phong tục, tập quán, tín ngưỡng... Vì thế có nhà nghiên cứu đã khẳng định:

Ngôn ngữ thực sự là tấm gương của nền văn hóa dân tộc.

Như vậy mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa không chỉ là mối quan hệ bao

hàm mà còn là mối quan hệ tương tác, bổ trợ và chi phối lẫn nhau. Ngôn ngữ là một

bộ phận độc lập của văn hóa đồng thời cũng là một thành tố quyết định sự tồn tại

của một nền văn hóa. Mỗi dân tộc bằng lao động sáng tạo, bằng các hoạt động thực

tiễn đã sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, tạo nên nền văn hóa của riêng họ.

Để các giá trị văn hóa đó được con người trong thời đại đó lĩnh hội cũng như con

người qua các thế hệ khác nhau, giữa các dân tộc khác nhau tiếp thu, sàng lọc và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phát triển lên thì phải nhờ đến công cụ vô cùng quan trọng đó là ngôn ngữ. Nhờ có

70

ngôn ngữ với những nội dung và ngữ nghĩa của nó mà cách nhận thức, tư duy, lối

sống... của một dân tộc hay nói cách khác là những đặc trưng văn hóa của một dân

tộc được bảo tồn, được phát triển theo thời gian, không gian.

Trước đây ngôn ngữ - văn hóa đã được nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau

trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn nói chung và trong ngôn ngữ học nói

riêng, đến nay mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa ngày càng được nghiên cứu sâu

rộng. Thuật ngữ ngôn ngữ - văn hóa, thuật ngữ này nên được hiểu ở cả bình diện hẹp

và rộng: “Theo cách hiểu nghĩa ở bình diện hẹp thì ngôn ngữ - văn hóa là ngôn ngữ

phản ánh những biểu hiện của văn hóa trong ứng xử giao tiếp. Theo cách hiểu ở bình

diện rộng hơn thì đó là sự phản ánh những yếu tố, những biểu hiện, những đặc điểm

của văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trong ngôn ngữ, qua ngôn ngữ” [31, tr.137].

Địa danh cũng là một lĩnh vực ngày càng được các nhà nghiên cứu quan tâm

trong ngôn ngữ học. Mỗi địa danh gắn chặt với những đối tượng cụ thể, ở một thời

điểm nhất định nào đó nên địa danh gắn liền với quá trình lao động sản xuất, lịch sử, xã

hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tư duy, cách nghĩ của mỗi dân tộc. “Địa danh như những đài

kỉ niệm bằng ngôn ngữ một cách độc đáo, nó lưu giữ những thông tin về văn hóa” (Hà

Quang Năng). Hay Phạm Đức Dương đã nhận xét: “Lần theo các địa danh, mặc dù vỏ

ngữ âm đã bị biến dạng đi rất nhiều, ngữ nghĩa đã bị mất hoặc được giải thích theo từ

nguyên dân gian, chúng ta vẫn có thể dựng lại địa bàn cư trú và những điểm tụ cư lâu

đời của các tộc người” [19]. Qua địa danh chúng ta có thể thấy phần nào nền văn hóa

vật chất và văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc. Cho nên nghiên cứu những đặc trưng

ngôn ngữ - văn hóa của địa danh cần quan tâm đến sự thể hiện các phương diện văn

hóa vật chất vật chất và tinh thần trong địa danh.

Nghiên cứu địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên từ

góc độ ngôn ngữ - văn hóa là xem xét những giá trị của nền văn hóa Điện Biên nói

riêng và ảnh hưởng của những nền văn hóa khác nói chung đến địa danh. Từ đó

thấy được những giá trị văn hóa đặc sắc của nhân dân các dân tộc trong thành phố

Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được thể hiện như thế nào qua các địa danh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phong phú nơi đây.

71

3.1.3. Vài nét về văn hóa thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên

đƣợc thể hiện qua các địa danh

Điện Biên Phủ, vùng đất nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, cái tên mới nghe

qua đã gợi nhắc đến một vùng đất giàu ý nghĩa lịch sử. Vùng đất mà các đồng bào

dân tộc thiểu số nơi đây đã đoàn kết cùng với nhân dân cả nước làm nên chiến thắng

Điện Biên Phủ lịch sử lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Vùng đất ấy cũng rất

giàu bản sắc văn hóa.

Về văn hóa vật thể ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên trước hết

phải nói đến văn hóa của người Lự với thành Tam Vạn (tên cổ là Viêng Sam Mứn),

chùa Vạt Bu Hôm, (dưới triều đại phong kiến đây là dân tộc đầu tiên thống trị lâu

dài và đã góp phần xây dựng vùng đất Mường Thanh giàu có), văn hóa của người

Kinh với thành Bản Phủ (tên cổ là Chiềng Lề) dưới thời Hoàng Công Chất. Đây là

những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của vùng đất Mường Thanh xưa. Còn

văn hóa người Thái và một số dân tộc khác chủ yếu còn lại qua các di tích như chùa

Pá Sa, hang Huổi He, trống đồng cổ ở bản Nà Hý... và các di tích văn hóa ở khu

khảo cổ học Hồ U Va. Rồi các địa danh như cầu Mường Thanh, sân bay Điện Biên

Phủ, hầm Đờ Cát là những chứng tích lịch sử mà thực dân Pháp còn để lại sau thất

bại nhục nhã tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954; hay quốc lộ 12 là con

đường thể hiện tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam - Trung Quốc và còn rất

nhiều những địa danh khác nằm rải rác ở các di tích, các công trình, tượng đài,

những cây cầu, ngôi đền, con đường v.v.

Về văn hóa phi vật thể ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên trước

hết phải nói đến văn hóa tín ngưỡng qua các công trình đền, chùa. Sự tồn tại của

đền Hoàng Công Chất và các di tích của chùa Vạt Bu Hôm, chùa Pá Sa ở địa bàn

huyện Điện Biên đã phần nào thể hiện đời sống tôn giáo (chủ yếu theo đạo Phật)

của người dân nơi đây. Gắn liền với các công trình phục vụ cho văn hóa tín ngưỡng

đó là các lễ hội như lễ hội Thành Bản Phủ v.v. Các lễ hội được tổ chức với nhiều

hoạt động văn hóa nghệ thuật dân gian và hiện đại, mang đậm bản sắc văn hóa của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

các dân tộc trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.

72

Văn hóa phi vật thể còn thể hiện ở văn hóa tinh thần. Đó là tinh thần đoàn kết

của các dân tộc cùng chung sức xây dựng và bảo vệ mảnh đất Mường Thanh - Điện

Biên. Tinh thần đó được thể hiện qua việc cầu cứu vị tướng tài Hoàng Công Chất từ

miền xuôi lên Điện Biên đánh đuổi giặc Phẻ, bảo vệ biên cương và sau đó cùng

chung sức với vị tướng tài người Kinh này xây dựng thành Bản Phủ thành trung tâm

kinh tế, chính trị, văn hóa của vùng, đảm bảo cuộc sống yên bình, giàu có. Tinh

thần đó ngày càng lớn mạnh. Khi có ánh sáng cách mạng của Đảng soi đường, nhân

dân các dân tộc trong tỉnh nói chung, nhân dân thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Điện Biên nói riêng lại cùng đồng sức đồng lòng đánh đuổi đế quốc Pháp, một trong

những đế quốc thực dân mạnh nhất thời bấy giờ ra khỏi mảnh đất thiêng, mảnh đất

của xứ Trời (Mường Thanh - Mường Trời), bảo vệ vùng biên giới xa xôi nơi miền

Tây Bắc của Tổ quốc.

Cuộc chiến đấu anh dũng, bền bỉ, kiên cường của các dân tộc đã để lại trên

mảnh đất này bao chiến công hiển hách, bao di tích lịch sử oai hùng. Đó là những di

tích ghi lại những thời khắc, những địa điểm quan trọng của lịch sử như di tích Sở

chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ ở xã Mường Phăng (huyện Điện Biên); di tích

hang Huổi He ở xã Nà Tấu (huyện Điện Biên), địa điểm được chọn làm nơi chuyển

Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ từ hang Thẩm Púa (huyện Tuần Giáo) về và là

nơi đã từng được chứng kiến thời khắc quan trọng về quyết định thay đổi phương

châm “đánh nhanh thắng nhanh” thành phương châm “đánh chắc tiến chắc” của Bộ

chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ; di tích đồi A1 ở thành phố Điện Biên Phủ, điểm

quyết chiến chiến lược giữa quân ta và địch, là ngọn đồi anh hùng, ngọn đồi chiến

thắng của ta đồng thời cũng là nơi đánh dấu ngày tận số của quân viễn chinh Pháp

tại chiến trường Điện Biên Phủ; di tích đường kéo pháo và trận địa pháo của quân

ta ở Điện Biên Phủ (huyện Điện Biên) v.v.

Những chiến công hiển hách, lẫy lừng bao nhiêu thì đau thương, mất mát của

nhân dân lại lớn lao bấy nhiêu. Mảnh đất Điện Biên đã lưu giữ tên tuổi của rất nhiều

danh nhân, đó là những vị tướng tài giỏi, những chiến sĩ kiên cường như Hoàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Công Chất, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Lò Văn

73

Hặc; những anh hùng liệt sĩ như Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Trần Can, Tô Vĩnh

Diện hay tên tuổi của những kẻ xâm lược đã để lại dấu tích thất trận trên mảnh đất

quật cường này như Đờ Cát, Pi Rốt và sau này là những người đã có công dựng

bản, lập mường như bản Phượn (tên tạo Phượn), bản Nà Láo (ruộng người Lào).

3.2. Ý NGHĨA CỦA ĐỊA DANH VÀ HIỆN THỰC ĐƢỢC PHẢN ÁNH

Cuộc sống của con người gắn liền với rất nhiều mối quan hệ, mối quan hệ với

môi trường tự nhiên, mối quan hệ với môi trường xã hội, mối quan hệ giữa con

người với con người. Ngôn ngữ là một trong những phương tiện quan trọng nhất để

nối kết con người với các môi trường đó. Và với ngôn ngữ, con người đã biết sử

dụng một cách hữu hiệu vào việc gọi tên, đánh dấu những sự vật, hiện tượng xung

quanh có liên quan đến cuộc sống của mình.

Những sự vật, hiện tượng trong thế giới khi đã được con người nhận thức và

định danh đều bắt nguồn từ một đặc điểm, thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng.

Thuộc tính đó có thể là thuộc tính đặc trưng, xuất phát từ bản chất của sự vật, có thể

chỉ là thuộc tính không đặc trưng nhưng có liên quan đến sự vật và có giá trị khu

biệt sự vật. Con người đã lựa chọn những thuộc tính đó một cách chủ quan hoặc

khách quan để gọi tên sự vật, hiện tượng. Qua tên gọi con người có thể nhận diện

được sự vật, hiện tượng một cách độc lập, riêng biệt trong mối quan hệ của sự vật

với những cái xung quanh hoặc những cái có nét tương đồng. Nguyễn Đức Tồn đã

khẳng định: “Tên gọi vốn là thứ nhãn để thay thế, phân biệt sự vật với nhau nên

không thể không dựa vào chất, vào các thuộc tính của sự vật” [46, tr.181]. Điều đó

tạo cho địa danh chức năng nhận diện, cá thể hóa đối tượng.

Mặt khác những thuộc tính, bản chất, đặc trưng cơ bản hay không cơ bản được

con người nhận thức và gửi gắm vào tên gọi địa danh, nó nằm trong hiện thực khách

quan và thuộc vào hiện thực khách quan. Hiện thực đó có thể là lịch sử, văn hóa, địa

lí, dân cư, ngôn ngữ, kinh tế, chính trị... của mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, mỗi quốc

gia khác nhau. Cho nên những địa danh đó phần nào phản ánh cách nhìn nhận, đánh

giá chủ quan hay khách quan của con người đối với hiện thực sinh động, phong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phú. Vì thế bên cạnh chức năng cá thể hóa đối tượng, địa danh còn có chức năng

74

phản ánh hiện thực khách quan. Đây là chức năng khá cơ bản, góp phần tạo nên tính

có lí do của địa danh và lớp ý nghĩa sinh động ẩn dưới bề mặt con chữ. Nguyễn

Kiên Trường trong luận án của mình đã khẳng định: “Tập hợp những ý nghĩa có

trong hệ thống địa danh ở một quốc gia, một khu vực, địa bàn... có thể cho những

thông tin khái quát về nhiều lĩnh vực liên quan đến ngôn ngữ và lịch sử quốc gia,

khu vực, địa bàn đó” [48, tr.90].

Một phức thể địa danh gồm hai bộ phận là thành tố chung và tên riêng thì cả

hai bộ phận này đều có giá trị phản ánh hiện thực khách quan. Thành tố chung trong

phức thể địa danh phần lớn chỉ loại hình đối tượng địa lí như đồi, núi, sông, suối,

xã, thôn, bản, cầu, đường, cửa khẩu... và nhìn chung ý nghĩa của thành tố chung chủ

yếu phản ánh bức tranh địa hình ở mức độ khái quát. Còn tên riêng, thực chất là địa

danh, được cấu tạo từ rất nhiều phương thức định danh khác nhau nên lớp ý nghĩa

mà địa danh phản ánh cũng phong phú, đa dạng. Ở đây chúng tôi chủ yếu quan tâm

đến chức năng ngữ nghĩa của tên riêng hay chính là ý nghĩa của địa danh và mối

quan hệ của ý nghĩa này với hiện thực được phản ánh.

Địa danh có chức năng phản ánh hiện thực phong phú, đa dạng, muôn màu vẻ

như vậy nhưng không phải bất cứ trường hợp nào mọi sự vật, hiện tượng được phản

ánh cũng đồng nhất với đối tượng được địa danh. Có những địa danh phản ánh đúng

bản chất của sự vật, hiện tượng nhưng cũng có những địa danh không thấy được

điều này qua bề mặt con chữ. Điều đó xuất phát từ chính cách nhìn nhận, đánh giá

một cách chủ quan hay khách quan của người định danh. Với cách nhìn khách quan

thì người định danh sẽ dễ dàng giúp cho ta nhận thấy đặc trưng hay thuộc tính cơ

bản của sự vật qua địa danh. Chẳng hạn, ở Điện Biên Phủ, địa danh Him Lam có

nguồn gốc tiếng Thái là Hin Đăm (hin nghĩa là đá, đăm nghĩa là đen), Hin Đăm

nghĩa là “đá đen”. Tên gọi này được người dân lấy để đặt tên cho bản nơi họ sinh

sống bởi họ thấy vùng đất này có rất nhiều loại đá đen. Tương tự Noong Bua là “ao

sen”, Nà Tấu là “ruộng rùa”, bản Ban là “bản cây ban”, Pá Khoang là “rừng trúc”,

Pú Co Nghịu là “núi cây gạo” đều phản ánh đúng những loại thực vật, động vật sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sống nơi đây. Cũng có những địa danh phản ánh hiện thực lúc địa danh ra đời, qua

75

thời gian những đặc điểm đó do tác động của nhiều yếu tố mà ít nhiều bị biến đổi

nên không còn phản ánh đúng thực tại nhưng người ta vẫn giữ nguyên tên gọi cũ. Ý

nghĩa này có thể thấy ở bề mặt con chữ nhưng chúng ta vẫn cần phải đối chiếu với

kết quả của điều tra điền dã để kiểm nghiệm. Với lí do chủ quan, đây là lí do không

nằm trong bản thân đối tượng mà do ý muốn chủ quan của người định danh nên

không phản ánh đúng bản chất của sự vật, hiện tượng được định danh. Để biết được

lí do này phải điều tra điền dã, phải tìm hiểu ở lịch sử, ở người định danh hoặc phải

tìm trong những cuốn từ điển giải thích ngôn ngữ và sau đó trên cơ sở kiến thức đã

có cần có những liên tưởng, suy luận. Chẳng hạn, khi chọn những tên gọi rất giàu ý

nghĩa tốt đẹp để đặt cho vùng đất hay khu vực dân cư mà mình sinh sống như Điện

Biên với nghĩa “biên giới vững vàng”, Thanh Bình với nghĩa “trong sáng, bình yên”

hay Mỹ Hưng với nghĩa “tươi đẹp, giàu có” là người định danh không chỉ thể hiện

quyết tâm bảo vệ mảnh đất mới luôn được vững vàng, bình yên trước sự dòm ngó

của những kẻ xâm lược và các thế lực thù địch mà còn gửi gắm cả ước vọng xây

dựng cuộc sống luôn phát triển, tươi đẹp, giàu có. Chính đặc điểm này tạo nên một

phương thức mới trong việc định danh và góp phần thể hiện đời sống tâm lí của

con người. Và như vậy giữa ước mơ của người định danh và hiện thực trong tên gọi

vẫn còn một khoảng cách. Khoảng cách đó xuất phát từ lí do chủ quan của người

định danh và làm cho giữa ý nghĩa địa danh và hiện thực được phản ánh chưa trùng

khít hoàn toàn.

Mỗi địa danh ra đời gắn với lịch sử, xã hội, địa lí, dân cư, ngôn ngữ... của một

dân tộc, một vùng đất nhất định. Cho nên địa danh gắn bó chặt chẽ với đời sống con

người về nhiều mặt và nó biểu hiện những nét riêng, những nét bản chất, không

trùng lặp về lịch sử, văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi vùng đất. Chẳng hạn về ngôn

ngữ, có những địa danh được cấu tạo bởi những yếu tố Hán Việt như (thủ đô) Hà

Nội, (sông) Hồng, (sông) Lam, (núi) Tam Đảo, (đỉnh) Hoàng Liên Sơn, hay từ thuần

Việt toàn dân như (huyện) Chợ Mới...; có những địa danh được cấu tạo bằng những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

yếu tố thuần Việt mang đậm màu sắc địa phương như ở Nghệ An và một vài tỉnh ở

76

khu vực miền Trung có rú (động, đôộng) (núi), lèn (núi đá vôi), ngàn (rừng), hác

(khe, vực), rào (sông nhỏ); có những địa danh được cấu tạo bởi những yếu tố thuộc

ngôn ngữ dân tộc thiểu số như những địa danh có nguồn gốc là tiếng Cơ tu ở Quảng

Nam: Koong Chăng (núi đá vôi), (sông) Ra Lang (rộng, lớn, dài), (suối) Atiêng

(linh thiêng), những địa danh có nguồn gốc tiếng Thái ở Điện Biên: (cánh đồng)

Mường Thanh (mường trời), (suối) Him Lam (đá đen), Pú Vắng (đồi vực), (bản)

Tông Khao (cánh đồng trắng)... Về lịch sử, địa danh đặt ra những vấn đề như địa

danh này có từ bao giờ, vì sao được đặt tên như vậy... Chẳng hạn, địa danh Hà Nội

ra đời năm 1831 dưới triều Nguyễn, Hà Nội (sông ở phía trong) nằm ở một vị trí

quan trọng tại một ngã ba sông và trung tâm của một vùng đồng bằng châu thổ phì

nhiêu nên được đặt tên như vậy. Hay địa danh Nghệ An, ra đời năm 1036, do vua Lý

Thái Tổ đổi Hoan Châu thành châu Nghệ An. Hoặc địa danh Bắc Kạn, ra đời năm

1900, là vùng chiến lược phòng thủ quân sự từ hướng Bắc của triều đình phong kiến

Việt Nam nên địa danh Bắc Kạn ra đời cũng mang nét nghĩa ấy.

Nghiên cứu những địa danh cụ thể ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện

Biên, chúng tôi thấy những địa danh nơi đây cũng giống như địa danh ở những

vùng miền khác trong cả nước, rất giàu ý nghĩa và giá trị phản ánh hiện thực. Lớp ý

nghĩa đó có thể giúp cho chúng ta thấy được bức tranh cảnh quan tổng hợp về hai

địa bàn như bức tranh địa hình tự nhiên với sông, suối, ao, hồ chằng chịt, nằm xen

kẽ với những dãy núi trùng điệp, những dải đồi thấp và những cánh đồng hẹp kéo

dài, những đặc điểm này tạo cho vùng có hệ động thực vật phong phú. Bức tranh

thiên nhiên đó hiện lên với đầy đủ âm thanh, màu sắc, đường nét, hình dáng, kích

thước, tính chất, hoạt động của các sự vật, hiện tượng cùng với sự sinh động của các

loại động, thực vật đặc trưng trong vùng. Bên cạnh đó còn có bức tranh đời sống

muôn màu muôn vẻ của con người. Đó là những biến cố lịch sử lớn lao; những hoạt

động lễ hội, tín ngưỡng giàu bản sắc văn hóa của nhân dân các dân tộc trong vùng;

đó còn là đời sống tâm lý với những mong muốn, ước nguyện hết sức tốt đẹp, chân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thành và đời sống tình cảm nhiều cung bậc, trạng thái.

77

Trong 1001 địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, chúng

tôi nhận thấy rằng các địa danh phản ánh hiện thực đậm nét có ở cả ba loại hình

địa danh (thiên nhiên, đơn vị dân cư, công trình nhân tạo) và chiếm phần lớn trong

tổng loại địa danh. Các địa danh đó có thể có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu

số, nguồn gốc Hán - Việt, thuần Việt hoặc được kết hợp bởi các ngôn ngữ nói trên.

Các địa danh này phản ánh những đặc trưng, những thuộc tính cơ bản thuộc về

bản chất của đối tượng như hình dáng, kích thước của đối tượng, những chất liệu,

khoáng sản có ở đối tượng, những màu sắc, âm thanh, mùi vị thể hiện ở đối

tượng... hay những thuộc tính có liên quan đến đối tượng như đặc điểm về vị trí,

phương hướng, về những loại động, thực vật tồn tại gắn liền với đối tượng, những

biến cố lịch sử, danh nhân có liên quan trực tiếp đến đối tượng và cả những hoạt

động thể hiện tín ngưỡng dân gian của con người. Chẳng hạn những địa danh như

Pom Mỏ Thái (đồi hình cái chảo nơi người Thái sinh sống), Nà Tông (ruộng bằng

phẳng), (suối) Hin Phon (đá vôi), Na Khếnh (ruộng kêu), (kênh) Tả (bên phải),

(cầu) Trắng, Đồi phát hiện trống đồng bản Na Hý, Đường kéo pháo của quân ta ở

Điện Biên Phủ, Bế Văn Đàn.

Các địa danh phản ánh hiện thực ít hơn chủ yếu là các địa danh chỉ đơn vị dân

cư. Các địa danh này chiếm số lượng nhỏ và chủ yếu có nguồn gốc Hán - Việt. Tuy

các địa danh không đem đến cho người tiếp nhận cái nhìn khách quan của chủ thể

về đối tượng được định danh nhưng lại giúp cho họ biết được, cảm nhận được chiều

sâu của tư tưởng, khát vọng về những điều tốt đẹp ở hiện tại và tương lai, về những

gì họ sẽ cố gắng và phấn đấu để biến ước mơ thành hiện thực cuộc sống, có như vậy

đời sống của con người mới ngày càng tốt đẹp hơn. Và chính các tên gọi sẽ góp

phần nâng cao đời sống nhân văn của con người. Chẳng hạn các địa danh thôn, bản

như Gia Phú (đẹp giàu), Hưng Yên (hưng thịnh, yên ấm) không đồng nhất với việc

thôn, bản này chỉ có cuộc sống đẹp giàu, yên ấm mà không còn cái nghèo, không có

sự đấu tranh, xung đột. Nhưng qua đó thấy được mong ước tốt đẹp của những người

đến gây dựng cuộc sống nơi đây và chắc hẳn mỗi người dân sẽ nâng cao ý thức,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trách nhiệm trong công cuộc xây dựng nếp sống mới đó để không hổ danh với

78

những gì họ mong muốn, ước vọng. Ngoài ra còn các địa danh được cấu tạo bởi các

chữ cái Latinh hay các chữ số Arập như tổ dân phố 1, tổ dân phố 2, đội C9 a, đội C9 b ...

Những địa danh này ngoài việc cho chúng ta biết thứ tự của địa danh còn có thể cho

chúng ta biết thêm những thông tin khác về vị trí hay nguồn gốc được tách ra từ

cùng một đơn vị gốc trước đó.

Như vậy giữa ý nghĩa địa danh và hiện thực được phản ánh nhìn chung có mối

quan hệ gắn bó, chặt chẽ. Địa danh phản ánh khá chân thực hiện thực khách quan và

vẽ lên được bức tranh cuộc sống con người một cách chân thực, sinh động, nhiều

màu vẻ. Bên cạnh đó cũng có một số lượng không nhiều những địa danh mà giữa ý

nghĩa và hiện thực còn có khoảng cách nhất định, chính khoảng cách đó giúp chúng

ta có một cách nhìn, một cách hiểu khác về địa danh qua tâm lý, ước vọng của con

người hay cung cấp cho ta thêm hiểu biết về vị trí, nguồn gốc của địa danh. Những

thông tin này góp phần làm cho bức tranh đời sống không chỉ có hiện thực bề mặt

mà có cả chiều sâu tư tưởng, tình cảm sâu sắc, phong phú của con người.

3.3. NGHĨA CỦA CÁC YẾU TỐ TRONG ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN

BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN ĐƢỢC THỂ HIỆN QUA NGUỒN GỐC

NGÔN NGỮ

Các địa danh chúng tôi đã thống kê trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Điện Biên có nguồn gốc từ nhiều ngôn ngữ. Phần lớn địa danh có nguồn gốc tiếng

Thái (534 địa danh, chiếm 53,35%), ngôn ngữ của dân tộc sinh sống đông nhất và

lâu đời nhất trong hai địa bàn cũng như trong toàn tỉnh, sau đó đến các địa danh có

nguồn gốc tiếng Việt (129 địa danh, chiếm 12,89%) còn lại là các địa danh có

nguồn gốc tiếng Lào, Mông, Khơ Mú (93 địa danh, chiếm 9,29%) và các địa danh

được kết hợp bởi các ngôn ngữ đó (57 địa danh, chiếm 5,69%). Có những địa danh

mới xuất hiện cũng có những địa danh tồn tại trong dân gian từ lâu đời, qua thời

gian các địa danh và ngôn ngữ đặt tên cho địa danh cũng có ít nhiều biến đổi. Như

vậy các địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ phong phú, có thời điểm xuất hiện khác

nhau cũng như chịu tác động của nhiều nhân tố khác. Chính vì thế mà có nhiều địa

danh cho đến nay ý nghĩa vẫn còn nguyên vẹn nhưng bên cạnh đó cũng có những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

địa danh không tìm được nguồn gốc ý nghĩa hoặc ý nghĩa không rõ ràng.

79

3.3.1. Các yếu tố rõ ràng về nghĩa

Trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, đa số các yếu tố

Hán Việt và thuần Việt và các yếu tố dân tộc thiểu số xuất hiện gần đây đều rõ ràng

về nghĩa. Các yếu tố dân tộc thiểu số mặc dù đã được phiên âm ra tiếng Việt hoặc bị

Việt hóa nhưng qua tìm hiểu ở lịch sử, tìm hiểu ở những người lớn tuổi và những

người ít nhiều có trình độ văn hóa của dân tộc đó vẫn có thể biết được các nghĩa của

các địa danh.

Trong những địa danh Hán Việt có cả những yếu tố biểu hiện tính chất hàm ý

sâu sa và cả những yếu tố biểu hiện hiện thực mang tính chất trang trọng. Ý nghĩa

của địa danh vì thế mà có cả ý nghĩa phản ánh hiện thực có cả ý nghĩa phản ánh tâm

lí của con người. Ý nghĩa hiện thực gắn với những địa danh phản ánh sự kiện lịch

sử, những địa danh mang tên danh nhân hay những địa danh phản ánh chức năng,

tính chất, vị trí, phương hướng của đối tượng được định danh. Chẳng hạn, tượng đài

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đường Trường Chinh, hầm Đại tướng Võ

Nguyên Giáp, kênh Chính, bản Tân Lập (mới thành lập), cửa khẩu Tây Trang (nơi

to lớn ở phía Tây), bản Trung Tâm (ở giữa), phân khu Bắc (phía Bắc). Còn ý nghĩa

phản ánh tâm lí con người gắn với những địa danh thể hiện nguyện vọng, ước mơ,

khao khát về vùng đất bình yên, vững mạnh, về cuộc sống tươi đẹp, giàu có, hạnh

phúc. Chẳng hạn, huyện Điện Biên (biên giới vững vàng), đồi Độc Lập (giành được

chủ quyền), bản Gia Phú (đẹp giàu), thôn Thanh Bình (trong sáng, bình yên).

Các yếu tố trong những địa danh thuần Việt thường dễ hiểu và mang tính chất

dân dã cho nên lớp ý nghĩa gắn với những địa danh này thường giàu tính gợi tả,

biểu hiện tính chất cụ thể, sinh động, chân thực, gần gũi. Chẳng hạn, các địa danh:

thác Trắng, đồi Thông, đồi Cháy, bản Đỉnh Đèo, bản Mới. Các địa danh thuần Việt

này gợi ra những đặc điểm về hoạt động, tính chất, màu sắc, vị trí và cả tên của các

loại cây cối có ở các địa danh hay liên quan đến đối tượng được địa danh.

Ngoài ra còn có những địa danh được kết hợp bởi cả yếu tố Hán Việt và thuần

Việt, nó biểu hiện cả tính chất hàm ý và tính chất cụ thể sinh động trong lớp ý nghĩa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của địa danh. Chẳng hạn, bảo tàng Tỉnh Điện Biên, cứ điểm Đồi Độc Lập, trung tâm

80

đề kháng Đồi D, di tích Đường kéo pháo của quân ta ở Điện Biên Phủ. Đó chủ yếu là

những ý nghĩa về sự kiện lịch sử diễn ra trên mảnh đất Điện Biên. Bên cạnh đó còn

có yếu tố chỉ đơn vị hành chính với ý nghĩa chỉ quy mô và vị trí trung tâm của địa

danh, đơn vị chỉ địa hình tự nhiên với ý nghĩa chỉ nơi diễn ra các sự kiện lịch sử đó.

Nhìn chung các yếu tố cấu tạo địa danh Hán Việt, thuần Việt phần lớn là

những yếu tố xuất hiện từ sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 và chính

quyền hành chính bắt đầu được xây dựng, củng cố nên có nhiều thuận lợi để tìm

hiểu và thấy được tính rõ ràng của ý nghĩa địa danh.

Các địa danh có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số phần lớn phản ánh hiện thực

khách quan khá đậm nét nên ý nghĩa của các yếu tố khá rõ ràng, cụ thể. Tiếng dân

tộc thiểu số được dùng để đặt tên địa danh có cả địa danh tiếng Thái, địa danh tiếng

Mông, địa danh tiếng Khơ Mú và địa danh tiếng Lào. Những địa danh đó biểu hiện

lớp ý nghĩa phong phú về kích thước, hình dáng, tính chất, hoạt động của đối tượng;

ý nghĩa về vị trí, phương hướng, về các loại chất liệu, khoáng sản, các loại động

thực vật... liên quan đến đối tượng và cũng như địa danh có nguồn gốc tiếng Việt,

có cả những ý nghĩa về tên danh nhân là người dân tộc thiểu số, ý nghĩa về những

tín ngưỡng, phong tục của đồng bào dân tộc được thể hiện trong địa danh. Chẳng

hạn, những địa danh có nguồn gốc tiếng Thái: bản Na Côm (ruộng tròn), suối Lụ

(nhỏ), mường Lói (xa xăm), cầu treo Nậm Thanh (suối xanh), bản Kéo (đèo), suối

Lếch (sắt), động Pa Thơm (cửa hang động), bản Ta Pô (bến cây đa), xã Noong Hẹt

(ao tê giác), hồ Pá Khoang (rừng trúc), đường Lò Văn Hặc (tên người); những địa

danh có nguồn gốc tiếng Lào: suối Peng Thoáng (chia đôi), bản Nà Láo (ruộng

người Lào); những địa danh có nguồn gốc tiếng Mông: đường Sùng Phái Sinh (tên

người), suối Ca Hâu (con quạ), xã Na Ư (ruộng kêu); những địa danh có nguồn gốc

tiếng Khơ Mú: bản Pa Xa Xá (tên một dụng cụ đi bắt cá của người Xá), suối Ăm Bọt

(rừng cây mạy chá).

Bên cạnh những địa danh hoàn toàn có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số như

đã kể trên thì còn có những địa danh có nguồn gốc hỗn hợp của yếu tố dân tộc thiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

số với các yếu tố Hán Việt, thuần Việt. Những địa danh loại này phần lớn được kết

81

hợp từ nhiều địa danh khác nhau nên có số lượng yếu tố lớn và ý nghĩa tương đối rõ

ràng. Với những yếu tố do các địa danh chuyển hóa thành một bộ phận của tên riêng

thì không nhất thiết chúng ta phải giải nghĩa những tên riêng đó để đảm bảo tính

lịch sử hay tính chất trang trọng của nó. Chẳng hạn địa danh: bản Tân Ngam (kết

hợp hai yếu tố cuối trong tên hai xã: Minh Tân ở Thái Bình và Núa Ngam ở Điện

Biên); các địa danh cấu tạo bởi các yếu tố thuần Việt và tiếng Thái: hang Chùa Pá

Sa (chùa rừng cây sa), khu khảo cổ học Hồ U Va (hồ Tao Bảo), nhà máy thủy điện

Thác Bay (thác cây trám đen), hay các địa danh được cấu tạo bởi cả ba yếu tố thuần

Việt, Hán Việt và tiếng Thái: khu du lịch Hồ Pá Khoang và Sở chỉ huy chiến dịch

Điện Biên Phủ, di tích Trại tập trung Noong Nhai.

Như vậy các yếu tố rõ ràng về nghĩa trong một số địa danh thành phố Điện

Biên Phủ và huyện Điện Biên không chỉ có ở cả các địa danh có nguồn gốc Hán

Việt, thuần Việt hay những địa danh có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số (Thái,

Mông, Khơ Mú, Lào) mà có ở cả những địa danh có nguồn gốc hỗn hợp của các

ngôn ngữ này.

3.3.2. Các yếu tố chƣa rõ về nghĩa

Các yếu tố chưa rõ về nghĩa trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Điện Biên chỉ thấy ở các yếu tố dân tộc thiểu số. Nhiều địa danh đã bị biến đổi ít

nhiều theo thời gian, theo sự thay đổi địa giới hành chính của địa bàn hay bị Việt

hóa bởi sự giao thoa ngôn ngữ, các yếu tố có thể bị Việt hóa cả về mặt ngữ âm và

ngữ nghĩa. Việc xác định địa danh đó thuộc ngôn ngữ dân tộc nào đã gặp nhiều trở

ngại, việc truy tìm ý nghĩa của chúng còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa.

Theo nghiên cứu của chúng tôi, trong hai địa bàn này các địa danh bị mờ

nghĩa phần lớn là các địa danh thuộc địa hình tự nhiên như dãy núi, núi, suối và một

số địa danh này khi chuyển hóa trong nội bộ loại địa danh hay chuyển hóa sang các

địa danh hành chính cũng làm cho các địa danh này không rõ nghĩa. Chẳng hạn,

suối Ái, bản Xá Nhù, núi Pha Thống, suối Pha Thống, suối Dạ Sún, suối Hư Khóa,

suối Sa Lăng, núi Mưa Lao, núi Lao Yao, suối Xi Văn, suối Sáu Sự, suối Tếu, suối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(huổi) Moi, bản Huổi Moi.

82

3.4. TÍNH ĐA DẠNG CỦA CÁC LOẠI HÌNH ĐỐI TƢỢNG ĐỊA LÍ QUA

CÁC YẾU TỐ ĐỊA DANH CỦA THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN

ĐIỆN BIÊN

Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên nằm ở khu vực trung tâm của

tỉnh Điện Biên nên mang những đặc trưng địa hình của toàn tỉnh, đó là những đặc

trưng địa hình của một tỉnh miền núi biên giới phía Tây Bắc của Tổ quốc. Bức tranh

địa hình này đã được khắc họa một cách sinh động, rõ nét qua 1001 địa danh mà

chúng tôi đã thống kê.

3.4.1. Tính đa dạng của các loại hình đối tƣợng địa lí

Trong phức thể địa danh, các loại hình đối tượng địa lí trong tự nhiên được

phản ánh rõ nét qua các thành tố chung và các thành tố chung chỉ loại hình đối

tượng địa lí được chuyển hóa thành một bộ phận của tên riêng trong địa danh. Đó là

các thành tố như đồi, núi, sông, suối, cánh đồng, hang, động, ruộng, bãi, vùng đất,

khe, rãnh, đỉnh, thác...

Trong số 50 loại thành tố chung trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên chúng tôi thống kê được có 12 thành tố chỉ các loại hình đối tượng

địa lí tự nhiên khác nhau trong đó các thành tố đều được dùng theo tiếng Việt toàn

dân. Các loại đối tượng địa lí này có thể gặp ở các vùng miền khác nhau trong cả

nước như ao, hồ, đồi, sông, suối, cánh đồng, dãy núi, núi, đèo, thác, hang, động.

Các thành tố riêng chỉ các loại hình đối tượng địa lí được chuyển hóa thành

một bộ phận trong tên riêng của địa danh chiếm số lượng khá lớn, những yếu tố này

chỉ có một bộ phận nhỏ có nguồn gốc thuần Việt còn phần lớn đều có nguồn gốc

ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Có những đối tượng địa lí tương tự như những đối tượng

đã nêu trong thành tố chung, có những đối tượng địa lí phản ánh những loại địa hình

khác nhau đặc trưng cho địa hình của một tỉnh miền núi phía Bắc Tổ quốc và là nơi

cư trú của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Chẳng hạn, đỉnh, bãi, ná (ruộng), pá

(rừng), pắc (cửa), nậm (sông, nước), hoong (khe, rãnh), noong (ao), pom (đỉnh,

đồi), phiêng (bãi), púng (vũng), ten (khu đất cao và bằng), ta (bến), lọng (lạch, khe),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

pha (vách), cảnh (thác)... Qua những yếu tố này, bức tranh địa hình hiện lên với

83

nhiều đặc điểm về đường nét, hình dáng, kích thước, tầng bậc, vị trí, độ cao. Nhìn

từ trên cao xuống, chúng tôi thấy có “pom”: là phần trên cao của núi, đồi hoặc là

kiểu địa hình lồi, có sườn thoải và tương đối thấp; tiếp đó có “pá”: vùng đất rộng có

nhiều cây cối mọc tự nhiên, nhiều tầng lớp và lâu đời; xuống thấp hơn có “ten”:

vùng đất hẹp nhưng bằng phẳng và thường ở nơi cao như sườn đồi, sườn núi; thấp

hơn nữa có “ná”: mảnh đất dùng để trồng trọt, có thể là mảnh đất hẹp làm ruộng bậc

thang ở sườn đồi, có thể là mảnh đất rộng hơn, tương đối bằng phẳng ở chân đồi,

chân núi; ở bên cạnh hoặc dưới “ná” có “hoong”: đường nước chảy hẹp giữa hai

vách núi hoặc sườn đồi, sườn dốc nhưng không thường xuyên vì có thể khô cạn

theo mùa...

Nhìn chung các loại địa hình trong hai địa bàn thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên khá đa dạng, phong phú. Chính những thành tố chung và những

thành tố chung được chuyển hóa thành một bộ phận của tên riêng giàu tính gợi tả đã

đem đến cho ta những hình ảnh về địa hình tự nhiên một cách chân thực, sinh động,

giàu liên tưởng.

3.4.2. Bức tranh địa hình mang tính cảnh quan rõ nét

Địa hình thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có những đặc điểm nổi

bật đó là: núi thấp dần và đổ dồn xuống các sông và suối lớn hoặc xen kẽ với các

thung lũng sông, khe suối. Lọt vào giữa các dãy núi có rất nhiều dải trũng bằng

phẳng tạo thành những cánh đồng hẹp kéo dài. Riêng thành phố Điện Biên Phủ nằm

trong vùng lòng chảo, có rất nhiều đồi, núi thấp xen kẽ và là vùng có cánh đồng

Mường Thanh màu mỡ, phì nhiêu và rộng nhất vùng Tây Bắc Tổ quốc. Địa hình có

nhiều đồi, núi, thung lũng, ao, hồ, sông, suối đan xen đã tạo cho nơi đây có hệ động,

thực vật phong phú, đa dạng và cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp.

Vùng đất này là địa bàn định cư lâu đời của đồng bào các dân tộc thiểu số. Đời

sống và tập quán canh tác của họ gắn liền với nương rẫy, nguồn nước và môi trường

tự nhiên. Trong tâm thức của họ luôn có hình ảnh của sông, suối, núi, đồi, cánh

đồng, thung lũng, khe, bãi... Có lẽ vì thế mà những cảnh quan và môi trường xung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

quanh đã đi vào những tên gọi địa danh thật tự nhiên, nhuần nhị.

84

Các yếu tố phản ánh các đối tượng địa lí có cả yếu tố tiếng Việt và yếu tố tiếng dân

tộc thiểu số trong đó các yếu tố có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số chiếm phần lớn.

Những đối tượng địa hình thuộc sơn danh bao gồm 79 đối tượng trong đó có

51 núi, 15 đồi, 8 đèo, 3 dãy núi, 2 thác.

Những đối tượng địa hình thuộc thủy danh bao gồm 149 đối tượng trong đó có

117 suối; 12 khe; 16 hồ; 4 sông.

Xen vào giữa đối tượng địa hình thuộc sơn danh, thủy danh kể trên là những

vùng đất nhỏ phi dân cư như cánh đồng, hang, động trong đó có 7 cánh đồng, 2

hang và 1 động.

Bên cạnh những loại hình đối tượng địa lí đã được liệt kê ở các thành tố chung

nói trên còn có một bộ phận rất lớn các loại đối tượng địa hình được chuyển hóa

trong tên riêng của các địa danh đơn vị dân cư và nhân văn trong đó địa danh các

đơn vị dân cư có khả năng phản ánh địa hình rõ nét nhất. Các yếu tố chỉ những loại

địa hình này chủ yếu có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số. Các địa danh cũng chỉ

những loại địa hình khác nhau thuộc sơn danh, thủy danh và vùng đất phi dân cư.

Chẳng hạn những đối tượng địa hình thuộc sơn danh như 81 ná (ruộng), 31 pú (núi),

30 pom (đồi, đỉnh), 27 pá (rừng), 12 pa (cửa, miệng), 8 phiêng (bãi); những đối

tượng địa hình thuộc thủy danh như 54 huổi (suối), 33 hoong (khe), 32 nậm (sông,

suối), 18 noong (ao), 9 loọng (khe, rãnh); những đối tượng địa hình thuộc vùng đất

nhỏ phi dân cư như 8 thẩm (hang), 2 tông (cánh đồng), 1 loọng (thung lũng).

Đi vào những loại địa hình cụ thể trong địa danh chúng ta có thể thấy rõ hơn

tính độc đáo, đa dạng của địa hình thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.

Chẳng hạn, địa hình núi có núi trời (Pu Phạ), núi cao (Pha Sung), núi nhọn (Pú

Huốt), núi quả bầu (Tẩu Pung), núi sọt đá (Pu Xá Hin), núi đồn (Pú Đồn), núi cây

lau lớn (Pú Lấu Luông), núi rừng trúc (Pá Chả), núi cây me tròn (Phu Khăn Pỏm),

núi cây bông gạo (Pú Co Nghịu), núi chân trâu (Tằng Quái), núi vũng cáo (Pú Nhi),

có những quả núi nằm ở địa hình có suối chảy qua nên mang luôn tên của dòng suối

như núi Huổi Tấu (suối rùa), núi Huổi Púng (suối vũng), núi Huổi Na (suối nước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đầy), núi Nậm Ngọp (suối dập dềnh). Địa hình suối cũng có nhiều kiểu: có những

85

hình dáng khác nhau như suối nghiêng (Huổi Lính), suối gánh (Huổi Háp), suối

gọng kìm (Kha Kim); ở những địa hình khác nhau như suối thác (Cảnh), suối vũng

(Púng); có những suối có nhiều khoáng sản, vật liệu như suối sắt (Lếch), suối cát

vàng (Sái Lương), suối đá đen (Him Lam), suối đá lửa (Him Lếch Phay), suối đá

vôi (Hin Phon); có lượng nước và hoạt động dòng chảy khác nhau theo mùa như

suối nhiều nước (Huổi Pe), suối nước lớn (Nậm Luông), suối cạn nước (Sen), suối

chảy xiết (Hát Si), suối tràn (Huổi Chan), suối dập dềnh (Nậm Ngọp); có rất nhiều

loài thực vật sống bên suối hay những loài động vật khác nhau đến đây tìm nguồn

nước, thức ăn nên có các suối như suối cây sấu (Huổi Co Củ), suối cây lau (Lau),

suối bí xanh (Không), suối cây tre (Na Sang), suối cây dẻ (Nậm Có), suối tê giác

(Hẹt), suối con dơi (Kía), suối hươu (Hươm), suối nai (Quang), suối lợn rừng

(Long). Địa hình ruộng lại càng đa dạng: về vị trí, địa hình có ruộng đầu nguồn

(Hua Ná), ruộng ven suối (Nà Luống), ruộng vũng (Na Púng), ruộng bằng phẳng

(Nà Tông); về tính chất có ruộng đẹp (Nà Ngám), ruộng tốt (Ná Men), ruộng khô

(Na Lanh), ruộng lụi (Na Ngum); về kích thước có ruộng bé (Nà Nọi), ruộng dài

(Na Hý); về hình dáng có ruộng tròn (Na Côm); các loại cây cối, con vật sinh sống

hoặc thấy nhiều ở trên ruộng thì vô cùng đa dạng, có ruộng hươu (Na Hươm), ruộng

rùa (Nà Tấu), ruộng dĩn (Nà Hịn), ruộng nhạn (Nà Nhạn), ruộng trúc (Nà Khoang),

ruộng tre (Na Sang), ruộng quýt (Nà Nghè), ruộng cà (Ná Khưa)... Cánh đồng cũng

có cánh đồng ruộng rùa (Nà Tấu), cánh đồng ruộng nhạn (Nà Nhạn), cánh đồng

trắng (Tông Khao).

Như vậy qua những địa danh cụ thể, chân thực, chúng tôi thấy địa hình của

thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên không chỉ phong phú ở số lượng, kiểu

loại mà còn gợi hình, gợi tả và đem đến nhiều nét đặc sắc, độc đáo. Điểm qua một

vài loại địa hình đặc trưng của sơn danh, thủy danh và vùng đất nhỏ phi dân cư

chúng ta có thể thấy được bức tranh cảnh quan nơi đây thật muôn màu muôn vẻ.

Một không gian khoáng đạt, một rừng núi tự nhiên, hoang sơ với nhiều loại động,

thực vật quý hiếm; những dòng suối róc rách đêm ngày ẩn mình trong rừng sâu hay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những dòng sông cuộn mình trong mùa nước; những hồ nước mát vừa có giá trị

86

kinh tế vừa là khu du lịch sinh thái đầy tiềm năng hay những thửa ruộng, cánh đồng

nhiều hình vẻ, tồn tại trên nhiều loại địa hình thích hợp với nhiều loại lương thực,

hoa màu đặc biệt là cây ngô, cây lúa. Những đặc điểm đa dạng đó của địa hình cho

thấy một cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, khoáng đạt với một môi trường trong lành

và khí hậu mát mẻ.

Có thể nói mỗi địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên đều

có khả năng gợi hình, gợi tả. Nghiên cứu những địa danh nơi đây góp phần giúp

chúng ta hình dung được bức tranh địa hình một cách khái quát, rõ nét.

3.5. PHÂN LOẠI Ý NGHĨA CỦA CÁC YẾU TỐ TRONG ĐỊA DANH

Ý nghĩa của các yếu tố trong địa danh như chúng tôi đã trình bày ở trên hết

sức phong phú, đa dạng. Có những ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan đậm nét,

cũng có những ý nghĩa đi vào chiều sâu đời sống nhận thức, tư tưởng, tình cảm của

con người. Chính những phương thức định danh khác nhau đã góp phần tạo nên

những lớp ý nghĩa vừa độc đáo vừa đa dạng, có những lớp ý nghĩa vừa cụ thể vừa

khái quát, vừa mang đặc điểm chung của địa danh ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau

lại vừa có nét riêng của địa danh trong địa bàn. Địa danh có ý nghĩa phong phú như

vậy nên việc phân loại chúng là hết sức cần thiết trong nghiên cứu địa danh.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về địa danh ở những quốc gia khác nhau

hay những vùng miền, khu vực khác nhau trong mỗi quốc gia. Trong những công

trình đó, có nhiều tác giả đã đưa ra cách phân loại ý nghĩa địa danh của riêng mình,

những cách phân loại đó có thể giống nhau hoặc khác nhau tùy vào cách nhìn nhận,

đánh giá hay mục đích nghiên cứu...

Trong cuốn “Địa danh là gì?”, A.V.Superanskaja, một nhà nghiên cứu người

Nga, đã phân chia địa danh thành rất nhiều loại khác nhau như địa danh kí hiệu, địa

danh mô tả, địa danh đăng kí, địa danh ước vọng, địa danh được cấu tạo từ tên, biệt

hiệu và họ của người, địa danh nêu đặc điểm của đối tượng thông qua một đối

tượng khác... trong đó có ba loại lớn là địa danh kí hiệu, địa danh mô tả và địa danh

ước vọng. Tác giả cho rằng địa danh kí hiệu “xác định những đối tượng địa lí nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

định nhưng không thông báo cho chúng ta tí gì về bản thân chúng” [43, tr.24], địa

87

danh mô tả đối lập với địa danh kí hiệu vì địa danh mô tả có khả năng “giúp con

người nhận biết được đối tượng bằng thị giác... qua những thông tin về nghĩa” [43,

tr.24-25] và địa danh mô tả (trong đó có địa danh đăng kí) là nền tảng cho địa danh

ước vọng, là địa danh “dùng để ghi nhận những ý tưởng cao quý mà trên thực tế nó

không gắn liền với đối tượng địa lí” [43, tr.28]. Như vậy theo A.V.Superanskaja thì

trong ba loại địa danh trên, địa danh mô tả và địa danh ước vọng có khả năng thể

hiện ý nghĩa của địa danh một cách rõ ràng nhất còn địa danh kí hiệu không có khả

năng này. Cách phân loại của A.V.Superanskaja mang tính khái quát cao.

Ở Việt Nam, trong những công trình nghiên cứu về địa danh của một địa

phương cụ thể, các tác giả rất quan tâm đến vấn đề phân loại địa danh. Chẳng hạn

tác giả Nguyễn Kiên Trường khi nghiên cứu về địa danh ở Hải Phòng đã phân loại ý

nghĩa địa danh “theo nhóm, theo chủ đề” trên cơ sở lí luận về “từ tương tự, từ đồng

nghĩa” [48, tr.92]. Cụ thể tác giả sắp xếp các địa danh có cùng ý nghĩa thành một

nhóm nhỏ, được 22 nhóm (trong mỗi nhóm có thể có các tiểu nhóm), 22 nhóm nhỏ

này được quy thành hai nhóm lớn là nhóm địa danh 1 và nhóm địa danh 2, tiếp đó

tác giả còn tiến hành đối sánh điểm giống và khác giữa các loại hình địa danh ở mỗi

nhóm. Còn Từ Thu Mai trong luận án “Nghiên cứu địa danh Quảng Trị”, với cái

nhìn bao quát về mặt ý nghĩa của các yếu tố trong địa danh (phương thức định danh,

ý nghĩa của phương thức định danh, số lượng các từ cùng trường nghĩa) tác giả

nghiên cứu và sắp xếp được 42 trường nghĩa khác nhau tập hợp vào hai nhóm lớn

được gọi là nhóm ý nghĩa thứ nhất và nhóm ý nghĩa thứ hai. Tác giả quan niệm:

nhóm ý nghĩa thứ nhất phản ánh đặc điểm, tính chất và mối quan hệ với các đối

tượng còn nhóm ý nghĩa thứ hai phản ánh nguyện vọng, tình cảm của con người.

Trong mỗi nhóm lớn lại có các tiểu nhóm khác nhau [31, tr.115]. Một tác giả khác

là Phan Xuân Đạm, khi nghiên cứu địa danh Nghệ An ông lại phân loại ý nghĩa địa

danh theo các trường từ vựng - ngữ nghĩa và theo ông có sáu nhóm đó là những

trường từ vựng - ngữ nghĩa về núi non - sông nước, về đồng ruộng, về công trình

xây dựng, về đường phố, về các đơn vị dân cư và về đời sống văn hóa, tinh thần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

[20, tr.107]. Trong mỗi nhóm đó tác giả điểm qua vài nét khái quát về nhóm sau đó

88

đi sâu vào một số địa danh cụ thể hoặc nghiên cứu đặc điểm chung về ý nghĩa của

những địa danh thuộc nhóm đó. Như vậy khi nghiên cứu địa danh ở những địa

phương cụ thể, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã đưa ra những cách phân loại ý

nghĩa địa danh khá chân thực, cụ thể, tỉ mỉ.

Căn cứ vào thực tế nghiên cứu một số địa danh thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên như phương thức định danh địa danh, những ý nghĩa mà phương

thức định danh mang lại, nguồn gốc ngôn ngữ của các địa danh, mối quan hệ giữa ý

nghĩa địa danh và hiện thực được phản ánh, sự tương đồng về nghĩa của các từ

trong cùng một trường nghĩa; và trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên

cứu đi trước, chúng tôi cũng đưa ra cách phân loại cụ thể về ý nghĩa của địa danh

trong hai địa bàn này. Theo chúng tôi ý nghĩa của 1001 địa danh thành phố Điện

Biên Phủ và huyện Điện Biên có thể được tập hợp trong hai nhóm lớn đó là: nhóm ý

nghĩa phản ánh hiện thực khách quan gắn liền với những đối tượng địa lí và nhóm ý

nghĩa phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm của con người. Mỗi nhóm lớn lại bao

gồm các tiểu nhóm khác nhau và các tiểu nhóm này đều có sự tương đồng về nghĩa

của các yếu tố cấu tạo. Trong mỗi tiểu nhóm lại có những trường nghĩa cụ thể với

những ví dụ minh họa phong phú, sinh động.

Nhóm ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan bao gồm các địa danh chứa các

yếu tố phản ánh những thuộc tính, đặc điểm về hình dáng, kích thước, tính chất,

màu sắc, chức năng, tác dụng... của đối tượng được định danh và mối quan hệ của

các đối tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác có liên quan như các loại động,

thực vật, các công trình xây dựng, các sự kiện và biến cố lịch sử... Nhóm nghĩa này

chính là loại địa danh mô tả mà nhà nghiên cứu A.V.Superanskaja đã đưa ra. Còn

nhóm ý nghĩa phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm của con người bao gồm các địa

danh chứa các yếu tố có ý nghĩa chỉ nguyện vọng, tâm lí, niềm tin với tín ngưỡng,

tôn giáo của con người được gửi gắm qua đối tượng chính là loại địa danh ước vọng

trong quan niệm tác giả. Địa danh dùng kí hiệu (như số Arập, chữ Latinh) để định

danh cũng được chúng tôi xếp vào địa danh mô tả vì ít nhiều những kí hiệu đó cũng

đem lại cho ta thông tin về số lượng, thứ tự, vị trí của đối tượng so với đối tượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khác trong cùng loại hình địa danh, trong cùng địa bàn.

89

Như vậy cách phân loại ý nghĩa địa danh trong một số địa danh thành phố

Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên nói trên sẽ đưa đến các nhóm từ cùng với những

trường nghĩa cụ thể trong đó.

3.6. CÁC NHÓM TỪ VÀ TÊN GỌI THEO TRƢỜNG NGHĨA

3.6.1. Nhóm ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan gắn liền với những

đối tƣợng địa lí

Đây là nhóm ý nghĩa có chứa các yếu tố phản ánh những đặc điểm về tính

chất, màu sắc của đối tượng được định danh và mối quan hệ giữa đối tượng đó với

các đối tượng, sự vật, yếu tố khác có liên quan. Những đặc điểm được thể hiện qua

ý nghĩa của các địa danh này có giá trị phản ánh hiện thực khách quan cao. Hầu hết

các địa danh trong nhóm đều có nguồn gốc là các yếu tố dân tộc thiểu số và yếu tố

thuần Việt, chỉ có một bộ phận nhỏ là các địa danh Hán Việt. Nhóm nghĩa này được

thể hiện qua 899 địa danh, chiếm 89,81 % tổng số địa danh trong hai địa bàn.

Nhóm ý nghĩa này bao gồm hai tiểu nhóm:

3.6.1.1. Tiểu nhóm 1

Những địa danh chứa các yếu tố có ý nghĩa phản ánh những đặc điểm thuộc về

bản chất của đối tượng được xếp vào nhóm này. Đó là những đặc điểm về hình

dáng, kích thước, tính chất, màu sắc, địa hình kiến tạo, mùi vị, âm thanh... xuất phát

từ chính đối tượng. Có lẽ những đặc điểm đó đã được cảm nhận bằng các giác quan

của con người một cách chân thực, cụ thể, sinh động nên qua tên gọi của địa danh

và các phương thức định danh chúng ta có thể phần nào hình dung được.

a. Trường nghĩa phản ánh địa hình của đối tượng

Trường nghĩa này tập trung ở các địa danh địa hình tự nhiên và địa danh đơn

vị dân cư. Những loại địa hình phản ánh qua địa danh đều là những trường hợp

thành tố chung chỉ đối tượng địa hình được chuyển hóa vào các vị trí khác nhau

trong địa danh. Đó là những kiểu loại địa hình có nguồn gốc tiếng Việt như núi, đồi,

suối, ruộng, ao, hồ, hang, khe, thác... và cũng những loại địa hình đó tiếng Thái sẽ

gọi là pú, pom, huổi, ná, noong, thẩm, hoong, cảnh... Trong đó kiểu địa hình kiến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tạo được thể hiện nhiều nhất qua địa danh là “ná”, yếu tố có nguồn gốc tiếng Thái,

90

khi phiên âm sang tiếng Việt, “ná” còn được viết thành “na”, “nà” nhưng đều tương

đương với nghĩa chỉ “ruộng” trong tiếng Việt. Chẳng hạn, bản Đỉnh Đèo, khu du

lịch Hồ Huổi Phạ (hồ suối trời), bản Thanh Sơn (núi xanh), suối Thẩm (hang), bản

Ló (rãnh), suối Cảnh (thác), bản Nà Ten (ruộng ở nơi cao và bằng), bản Ná Men

(ruộng tốt), bản Ná Khưa (ruộng cà), bản Na Púng (ruộng vũng), suối Na Sang

(ruộng tre mạy sáng), suối Na Ư (ruộng kêu), xã Nà Tấu (ruộng rùa).

b. Trường nghĩa phản ánh loại chất liệu kiến tạo hay loại khoáng sản có ở

đối tượng

Đó là những chất liệu như đất, cát, tro than, sỏi đá, đá đen, đá lửa, đá vôi và

những loại khoáng sản như chì, sắt. Trường nghĩa này có ở địa danh địa hình tự nhiên

và địa danh đơn vị dân cư. Chẳng hạn, bản Đán Yên (phát âm chệch từ Đán Ên) (đá

vân trắng) là bản nằm sát núi đá, bản Hoong Hin (khe sỏi đá), suối Him Lam (đá đen),

suối Him Lếch Phay (đá lửa), suối Hin Phon (đá vôi), hồ Sái Lương (cát vàng), bản

Noong Chứn (ao chì), suối Lếch (sắt), bản Hồng Lếch Nưa (khe sắt trên).

c. Trường nghĩa phản ánh hình dáng của đối tượng

Hình dáng của đối tượng được phản ánh khá đa dạng. Những đặc điểm hình

dáng thường được thể hiện qua các yếu tố như nhọn, cụt, cong, nghiêng... có tác dụng

miêu tả đối tượng một cách cụ thể. Hoặc hình dáng của đối tượng xuất phát từ trí

tưởng tượng phong phú của người định danh, do đó có những đồ vật, sự vật trong đời

sống cũng được dùng để miêu tả hình dáng của những đối tượng khi giữa chúng có

nhiều đặc điểm giống nhau như hình bức vách, quả bầu, cái cốc, cái bình, núm quả.

Những hình dáng cụ thể, sinh động dễ dàng nhận diện được qua địa danh

chẳng hạn, bản Công (ở nơi địa hình có thế vòng cung), núi Pú Huốt (núi nhọn),

suối Huổi Lính (suối nghiêng), bản Pha Đin (vách đất), núi Pha Sung (vách cao),

suối Pha Lay (vách chảy). Còn những hình dáng của địa danh gợi sự liên tưởng

chẳng hạn, núi Tẩu Pung (quả bầu), suối Kín (có hình dáng giống cái núm quả),

suối Múa (suối có nhiều hòn đá giống chiếc mũ), suối Kha Kim (gọng kìm), núi Pu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Xá Hin (núi sọt đá), suối Chai (cái chai), suối Ca (cái cốc).

91

d. Trường nghĩa phản ánh kích thước của đối tượng

Đó là những kích thước dài, ngắn, rộng, hẹp, to, nhỏ, cao, thấp... khác nhau.

Những kích thước này có ở địa danh địa hình tự nhiên và địa danh đơn vị dân cư và

được biểu hiện qua những yếu tố ngôn ngữ khác nhau (tiếng Việt, tiếng dân tộc

thiểu số). Chẳng hạn, núi Pú Lấu Luông (núi cây lau lớn), suối Lụ (nhỏ), suối Nậm

Phăng Nọi (suối cây phăng nhỏ), bản Nà Hý (ruộng dài), xã Thanh Luông (Mường

Thanh to lớn), bản Nà Lơi (ruộng dài, không bằng phẳng), bản Đồi Cao.

e. Trường nghĩa phản ánh màu sắc của đối tượng

Đặc điểm về màu sắc được phản ánh ở cả ba loại địa danh hành chính, tự

nhiên và nhân văn qua các yếu tố Hán Việt, thuần Việt và cả các yếu tố tiếng dân

tộc thiểu số. Đối với những địa danh tự nhiên, màu sắc được cảm nhận trực tiếp từ

đối tượng địa lí còn với những địa danh hành chính và nhân văn màu sắc thường

mang tính biểu trưng hoặc gắn liền với sự vật ở trong đối tượng. Có những màu sắc

gắn liền với những câu chuyện lịch sử và khi biết được nguồn gốc của nó có thể

khiến chúng ta thêm trân trọng đối với địa danh đó. Những màu sắc thường thấy đó

là những sắc xanh, đỏ, tím, vàng, trắng. Chẳng hạn, trong địa danh tự nhiên có dãy

núi Pú Hồng Mèo là núi đất đỏ có người Mông (Mèo) sinh sống, thác Trắng có

dòng nước chảy nhiều từ trên cao xuống trông như dải lụa trắng, sông Nậm Mức là

dòng sông có nước trong xanh, suối Lương có nước màu vàng, cầu Trắng được xây

bằng xi măng và quét vôi trắng.

Trong địa danh nhân văn có bản Khẩu Cắm, nơi có nhiều loại cây dùng để

nhuộm cơm thành màu tím sẫm, người Thái rất ưa thích dùng loại lá này để đồ xôi;

cầu treo Nậm Thanh được bắc qua dòng suối có nước chảy trong xanh; bản Tông

Khao nghĩa là “cánh đồng trắng”. Địa danh này gắn liền với một câu chuyện lịch sử

cảm động: Vào khoảng thế kỉ XVIII, đây là nơi giặc Phẻ tàn ác đã bắt hết trẻ con

trong vùng đem giết, trẻ nhỏ còn ẵm ngửa chúng cho vào cối giã, lớn hơn thì chúng

ném xuống cánh đồng trũng này rồi tháo nước vào cho chết hết. Khi đồng cạn,

xương trẻ con trắng xóa khắp đồng. Người dân địa phương gọi đây là Tông Khao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(cánh đồng trắng) để tưởng nhớ tới sự kiện đau thương này.

92

g. Trường nghĩa phản ánh âm thanh liên quan đến đối tượng

Trường nghĩa này có số lượng nhỏ, chỉ có ở rải rác một vài địa danh tiếng

dân tộc thiểu số, những địa danh này cũng được chuyển hóa sang những địa danh

cùng loại hay khác loại. Những âm thanh được mô phỏng thường là tiếng động

của dòng chảy hay của một số loại động vật sinh sống ở đối tượng. Chẳng hạn,

bản Na Khếnh (ruộng tiếng kêu), hồ Hồng Khếnh (khe nước chảy phát ra tiếng

kêu), Na Ư (ruộng kêu), địa danh này được chuyển hóa vào các địa danh như suối

Na Ư, xã Na Ư, bản Na Ư.

h. Trường nghĩa phản ánh tính chất, mùi vị của đối tượng

Trường nghĩa này có ở cả ba loại địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư

và công trình nhân tạo trong đó ở địa danh đơn vị dân cư và công trình nhân tạo là

do những hiện tượng chuyển hóa mà có. Đó là những đặc điểm tính chất, mùi vị

xuất phát từ bản chất của đối tượng hoặc là những thuộc tính của sự vật, hiện tượng

có ở trong đối tượng. Những đặc điểm về tính chất, mùi vị này khá độc đáo và

phong phú trong đó đặc điểm tính chất chiếm số lượng lớn hơn đặc điểm về mùi vị.

Những đặc điểm về tính chất như xa xăm, thông thoáng, thất thường, đục, trong,

khô, cạn, lớn, nhỏ, nghèo nàn, ấm, lạnh, rậm rạp, quang đãng; đặc điểm về mùi vị

như vị mặn... Chẳng hạn, trong địa danh tự nhiên có dãy núi Pu Khâu Lạnh (núi khô

cạn), có Huổi Un (suối nước ấm) cũng có núi Pu Huổi Un với nghĩa tương tự, khe

Hồng Sống (khe nghèo nàn), suối Nậm Đuống (suối nước lớn), suối Huổi Pe (suối

nhiều nước), suối Lang (thông thoáng), suối Sẻ (dòng nước đột ngột, thất thường),

suối Sen (cạn kiệt), suối Ít (mặn), suối Nậm Khún (nước đục), sông Nậm Núa (sông

ngon). Địa danh sông Nậm Núa gắn với một câu chuyện khá thú vị: trước đây vào

mùa khô nhất là gần tết, từng đoàn thuyền chở đầy ắp hàng hóa của các thương gia

từ Thái Lan, Lào ngược dòng sông Mê Kông - Nặm U - Nặm Núa - Nặm Rốm đến

Mường Thanh để buôn bán. Con sông này không có nhiều thác ghềnh nên các đoàn

thuyền đi lại không gặp khó khăn trở ngại. Chính vì vậy người ta đặt tên cho con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sông này là Nặm Núa (sông ngon) với ý nghĩa chỉ tính chất thuận lợi, suôn sẻ.

93

Trong địa danh đơn vị dân cư có địa danh mường Lói (xa xăm), mường là một

đơn vị hành chính cũ mà đồng bào dân tộc thiểu số thường sử dụng để gọi khu vực

dân cư nơi họ sinh sống, đến nay địa danh này đã được chuyển hóa sang các địa

danh đơn vị dân cư khác như bản Lói, xã Mường Lói và chuyển hóa sang địa danh

công trình nhân tạo như đồn biên phòng Mường Lói; ngoài ra còn các địa danh đơn

vị dân cư khác có ý nghĩa chỉ tính chất liên quan đến đối tượng như bản Co Ké (cây

gỗ già), bản Phiêng Lơi (bãi bằng phẳng), bản Na Lanh (ruộng khô), bản Pá Ngam

(khu rừng đẹp), bản Huổi Cánh (suối quang đãng), bản Đông Mệt (rừng già kín đáo,

chỉ khu rừng rậm rạp, hoang sơ).

i. Trường nghĩa phản ánh sự hoạt động, sự phát triển diễn ra ở đối tượng hay

chức năng có ở đối tượng

Đó là những hoạt động của con người hay hoạt động của sự vật diễn ra ở đối

tượng. Trường nghĩa này có ở địa danh thiên nhiên và địa danh đơn vị dân cư.

Chẳng hạn, bản Na Ngum (ruộng lụi), Na Ngum là cách nói chệch đi của Nà Ngom,

chỉ cánh đồng lúa đã chín vàng không kịp gặt nên lụi xuống; bản Pe Luông (sinh

sôi, nảy nở nhiều) nơi có dân số tăng nhanh và các loại gia cầm cũng phát triển

nhiều; bản Bánh (chia tách) là bản được tách ra từ bản khác; suối Húa (đầm) các

con vật thường đến đây uống nước và đầm mình; suối Nậm Ngọp có dòng nước

chảy dập dềnh; suối Huổi Chan có nước chảy tràn hai bên bờ.

Còn những địa danh có ý nghĩa phản ánh chức năng, tác dụng, của đối tượng

chỉ có ở địa danh các công trình xây dựng nhân tạo thuộc những hoạt động vật chất

kĩ thuật của con người. Chẳng hạn, kênh Chính (kênh đầu tiên dẫn nước và đưa

nước vào các kênh Tả, Hữu trong hệ thống kênh Nậm Rốm).

3.6.1.2. Tiểu nhóm 2

Bao gồm các địa danh chứa các yếu tố phản ánh mối quan hệ giữa đối tượng

được định danh với các đối tượng, sự vật, hiện tượng, yếu tố khác có liên quan. Đó

là những đặc điểm về vị trí, phương hướng, tên gọi các loại động thực vật, những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

yếu tố chỉ thiên nhiên hay các hiện tượng thiên nhiên, những yếu tố chỉ những sinh

94

hoạt văn hóa dân gian hay những yếu tố chỉ những biến cố, những sự kiện lịch sử...

có liên quan trực tiếp đến đối tượng. Đây cũng là những đặc điểm hết sức độc đáo

bổ sung thêm vào lớp ý nghĩa phong phú trong một số địa danh thành phố Điện

Biên Phủ và huyện Điện Biên, góp phần tạo nên bức tranh nhiều màu vẻ về hai địa

bàn nằm trên vùng đất lịch sử này.

a. Trường nghĩa phản ánh tên gọi các loài thực vật có liên quan đến đối tượng

Trong địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh đơn vị dân cư trường nghĩa

này chiếm một số lượng khá lớn còn ở địa danh công trình nhân tạo và một bộ

phận nhỏ địa danh đơn vị dân cư là các trường hợp chuyển hóa từ các loại địa

danh khác sang. Các yếu tố gọi tên các loài cây chủ yếu có nguồn gốc từ ngôn

ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống trong vùng, chỉ có một bộ phận rất

ít là các yếu tố thuần Việt. Các loài thực vật rất phong phú, từ những loại cây

trồng phổ biến ở vùng đồng bằng và đồi núi thấp như cây phượng, cây gạo, cây

sung, cây thông, cây đa, cây chanh, cây quýt, cây mít, cây dừa... cho đến những

loại cây trồng nhiều ở đồi núi cao như cây dẻ, cây trẩu, cây trám, cây lát, cây

mạy pôn, cây mạy tửu (thành ngạnh), cây sa, cây mứn, cây phăng, cây me tròn,

cây cơi và rất nhiều loại tre, trúc khác nhau như tre mạy puốc, tre mạy sáng, mạy

chá, mạy bói, mạy pháy, tre nôm, tre luồng, cây sặt, cây trúc, cây nứa... Đó đều

là những loại thực vật khá đặc trưng của núi rừng nơi đây.

Chẳng hạn, núi Pú Co Nghịu (núi cây bông gạo), núi Pu Lau (núi cây lau), lại

có đèo Pu Lau, bản Pu Lau, thác Bay (cây trám đen), lại có nhà máy thủy điện Thác Bay,

đập tràn Thác Bay, hồ Pá Khoang (rừng trúc), sông Nậm Rốm (sông cây lát), lại có

kênh Nậm Rốm, đập đầu mối Nậm Rốm, suối Co Củ (cây sấu), lại có hồ Co Củ, đập

tràn Co Củ, suối Chả (cây trúc), suối Huổi Sa (suối cây sa), suối Nậm Có (suối cây

dẻ), suối Puốc (tre mạy puốc), đồi Thông (trồng toàn thông), bản Cà Phê (trong bản

trồng rất nhiều cây cà phê), bản Bua (cây sen), bản Ban (cây ban), bản Co Sáng (cây

tre mạy sáng), bản Hoong En (khe cây lát), bản Tra (cây gỗ sây), bản Noọng Sọt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(cao cây nứa), bản Hạ (cây hả).

95

b. Trường nghĩa phản ánh tên gọi các loài động vật có liên quan đến đối tượng

Các yếu tố trong địa danh thể hiện trường nghĩa này đều có nguồn gốc tiếng

dân tộc thiểu số. Những tên gọi này có thể xuất phát từ tên của những loài vật đã và

đang sinh sống trên các loại địa hình thuộc địa bàn, tên những loài vật mà người dân

nơi đây thường săn bắt được thậm chí có cả tên của những con vật chỉ có trong

tưởng tượng của người dân địa phương hoặc là những tên gọi có ý nghĩa lịch sử.

Bên cạnh đó cũng có một bộ phận địa danh thuộc trường nghĩa này do phương thức

chuyển hóa mà có. Các loài vật sinh sống nơi đây có cả trên cạn và dưới nước,

chúng ở rất nhiều loại địa hình khác nhau như trên núi, dưới suối, trong khe, trên

ruộng, trong hang, dưới vũng, dưới ao.

Chẳng hạn, bản Ten Luống (nơi cao có rồng ở), suối Chon (con sóc), suối Cói

(con vượn), suối Quang (con nai), khe Hoong Hịa (khe kì đà), bản Na Dôn (ruộng

cáo), xã Nà Nhạn (ruộng nhạn), suối Thẳm Phấng (hang ong mật), bản Púng Bửa

(vũng con bướm), bản Phiêng Quái (bãi thả trâu), xã Noong Luống (ao rồng), bản

Noong Pết (ao vịt). Có địa danh được chuyển hóa như suối Hươm (con hươu) được

chuyển hóa vào các địa danh khác như bản Na Hươm (ruộng hươu), hồ Na Hươm,

đập tràn Na Hươm, các địa danh này đều thuộc xã Mường Nhà, huyện Điện Biên.

Hay có địa danh gắn liền với câu chuyện lịch sử: khe Hoong Ma Nao (khe chó chết

rét), theo lời kể của người dân địa phương thì trước đây khi trốn chạy giặc Phẻ trong

đêm tối, người dân vơ lầm chó, tưởng là con nên địu đi, khi đi qua khe suối sờ đến

địu mới biết là chó, bèn vứt bỏ lại khe suối này.

c. Trường nghĩa phản ánh những đặc điểm của sự vật, của thiên nhiên và các

hiện tượng thiên nhiên xảy ra trên đối tượng hoặc có liên quan đến đối tượng

Trường nghĩa này được phản ánh qua các yếu tố dân tộc thiểu số và chiếm tỉ lệ

rất nhỏ. Những nét nghĩa này gồm hai bộ phận nhỏ đó là: bộ phận phản ánh sự vật,

hiện tượng như khe Hoong Khoong (khe của cải), bản Hoong Khoong, suối Huổi

Hộc (suối nhau thai), suối Ta Tiến (mật ong đất), đồi Cháy; bộ phận phản ánh thiên

nhiên và các hiện tượng thiên nhiên như bản Ta Lét (phát âm chệch của từ Ta Đét)

(bến nắng), hồ Ta Lét, núi Pu Phạ (núi trời), suối Huổi Phạ (suối trời), cầu Huổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phạ, bản Huổi Phạ, hồ Huổi Phạ, đập tràn Huổi Phạ, suối Mươi (sương mù).

96

d. Trường nghĩa phản ánh vị trí, phương hướng của đối tượng so với đối

tượng khác

Những yếu tố chỉ vị trí, phương hướng thuộc các nguồn gốc ngôn ngữ khác

nhau và xuất hiện nhiều ở địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh đơn vị dân cư.

Những đặc điểm vị trí biểu hiện qua yếu tố dân tộc thiểu số như hua (đầu), tin

tốc (chân núi), che (góc), pa (pak) (cửa), nưa (trên), cuông (trong), cang (ở giữa) và

một số ít từ Hán Việt như trung tâm (ở giữa), tả (trái), hữu (phải). Chẳng hạn, bản

Hua Luống (đầu suối Nậm Luống), đèo Hua Pe (đầu suối Pe), đồn biên phòng Hua

Pe, suối Nậm Hua (suối đầu nguồi), bản Che Căn (viết đúng là Che Cắn) (góc bờ),

bản Pa Kín (cửa suối Kín), suối Pa Thơm (cửa hang), động Pa Thơm, bản Pa Thơm,

xã Pa Thơm, đồn biên phòng Pa Thơm, xã Thanh Nưa (Mường Thanh trên), bản

Cang (ở giữa), bản Trung tâm, kênh Tả, kênh Hữu.

Những đặc điểm phương hướng biểu hiện qua các từ Hán Việt như “bắc”,

“nam”, “đông”, “tây” như bản Đông Biên (phía Đông Điện Biên), phường Nam

Thanh (phía Nam Mường Thanh), đèo Tây Trang, đồn biên phòng Tây Trang, phân

khu Bắc, phân khu Nam.

e. Trường nghĩa phản ánh số thứ tự và số lượng của đối tượng

Trường nghĩa chỉ số thứ tự chiếm số lượng khá lớn trong tổng số địa danh

thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên và xuất hiện nhiều ở các địa danh đơn

vị dân cư. Điều đó phản ánh một thực tế là các địa danh đơn vị dân cư ở đây được

tách, ghép hay sáp nhập rất nhiều vì thế nên các địa danh thuộc trường nghĩa này

cũng bị biến đổi theo. Trường nghĩa này ít có giá trị phản ánh hiện thực của chính

bản thân đối tượng tuy nhiên cũng có ý nghĩa đánh dấu số thứ tự của đối tượng hoặc

tổng số các đối tượng trong đó có chứa đối tượng được định danh hoặc giúp định vị

vị trí của đối tượng: những địa danh gần trung tâm thường được biểu thị bằng

những số thứ tự nhỏ như 1, 2, 3, 4, những địa danh càng ở xa trung tâm thì được

biểu thị bằng những số thứ tự lớn hơn như 5, 6, 7, 8. Chẳng hạn, phường Mường

Thanh có 32 tổ dân phố, các tổ phố được đánh số thứ tự từ 1 đến 32 biểu thị số thứ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tự của từng tổ phố đồng thời tổ phố 32 còn biểu thị tổng số tổ phố trong phường;

97

các thôn bản có cùng tên gọi chỉ khác nhau về số thứ tự thường có ý nghĩa biểu hiện

những đơn vị đó được tách ra từ cùng một đối tượng như bản Him Lam 1, bản Him

Lam 2 được tách ra từ bản gốc Him Lam; xã Sam Mứn có 10 bản được mang tên

Pom Lót và được đánh số thứ tự từ 1 đến 10 trong đó những bản nào có số thứ tự

nhỏ sẽ ở gần trung tâm xã còn những bản có số thứ tự càng lớn thì càng xa trung

tâm xã hơn; phường Noong Bua trong thành phố Điện Biên Phủ khi mới thành lập

chỉ có 6 tổ phố được đánh số thứ tự từ 1 đến 6, đến nay phường đã có thêm 2 tổ phố

và tiếp tục được phân biệt bằng các số thứ tự tiếp theo là tổ 7 và tổ 8.

Trường nghĩa chỉ số lượng của đối tượng chiếm tỉ lệ nhỏ nhưng có khả năng

phản ánh những đặc điểm là thuộc tính, bản chất của chúng hơn. Chẳng hạn, bản Hả

(năm hộ dân) lúc mới thành lập bản chỉ có năm hộ dân sinh sống; suối Huổi Hộc

(suối sáu nhánh) do sáu dòng nước hội tụ lại tạo thành suối; bản Sam Phương (ba

phương) có dân từ nhiều nơi đến sinh sống và lập bản; thành Tam Vạn (tên gốc là

Viêng Sam Mứn) có nghĩa là “ba vạn” thành được người Lự xây dựng từ khoảng

thế kỉ XI, theo sách “Hưng hóa kỷ lược” thì trong thành có ba vạn cối giã gạo bằng

guồng nước, chứa được ba vạn dân đinh nên thành có tên như vậy, sau này có các

địa danh khác cũng mang tên này như bản Sam Mứn, xã Sam Mứn.

g. Trường nghĩa phản ánh thời gian liên quan đến đối tượng

Trường nghĩa chỉ thời gian có trong một số địa danh đơn vị dân cư. Đó có thể

là thời gian diễn ra hoạt động của đối tượng hoặc là thời gian thành lập đối tượng.

Thời gian diễn ra hoạt động của đối tượng thể hiện qua yếu tố dân tộc thiểu số và

yếu tố thuần Việt như bản Tà Lành (bến tối) là nơi dừng chân ăn cơm tối trước khi

sang bản khác, bản Na Hôm (ruộng hôm). Còn bộ phận nghĩa chỉ thời điểm thành

lập đối tượng có chứa các yếu tố có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau nhưng đều có ý

nghĩa chỉ sự mới thành lập như thôn Tân Bình, thôn Tân Lập, bản Mới, bản Mé, bản

Mớ, đường Mới (nay là đường Trường Chinh); bên cạnh đó có trường hợp như bản

Lún (em út), bản Noọng (em nhỏ) cũng có ý nghĩa chỉ sự thành lập sau hoặc mới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

xuất hiện nên có thể xếp được vào trường nghĩa này.

98

h. Trường nghĩa phản ánh tên tộc người có liên quan đến đối tượng

Tên của những tộc người gắn liền với một số địa danh các đơn vị dân cư là

chủ yếu còn chỉ có duy nhất một địa danh địa hình thiên nhiên thuộc trường nghĩa

này. Khi đến khai hoang, sinh sống trên mảnh đất mới, những người cùng dân tộc,

huyết thống, cùng quê hương thường sống quây quần bên nhau và họ có ý thức lấy

tên dân tộc mình để đặt tên cho thôn, bản một cách trân trọng. Điều đó cho thấy

những tộc người này chiếm số lượng lớn ở khu vực mà họ đang sinh sống hoặc đã

từng sinh sống. Chẳng hạn, bản Nà Láo, bản Na Lao, bản Pa Xa Lào là các bản có

nhiều người Lào sinh sống, bản Hoa là bản của dân tộc Hoa, bản Pom Mỏ Thổ là

bản có nhiều người Nùng (còn gọi là người Thổ), bản Pom Mỏ Thái là bản của

người Thái, bản Pa Xa Xá là bản của người Khơ Mú hay dãy núi Pú Hồng Mèo là

dãy núi lớn và rất cao trong huyện Điện Biên, nơi đó chỉ có người Mông (Mèo) sinh

sống, trồng trọt và canh tác.

Tên gọi của các dân tộc trong những địa danh kể trên còn phản ánh một ý

nghĩa thực tế: đó cũng là những dân tộc có số dân đông hơn cả trong số 20 dân tộc

anh em sinh sống trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.

i. Trường nghĩa phản ánh tên gọi đồ dùng, vật dụng của con người có liên

quan đến đối tượng

Đó là những đồ vật dùng trong sinh hoạt, sản xuất của cư dân địa phương như

cái cúm, cái giỏ, cái mâm. Trường nghĩa này có ở địa danh đơn vị dân cư và địa

danh địa hình thiên nhiên. Chẳng hạn, trong địa danh đơn vị dân cư: bản Bôm La (là

từ nói chệch của từ Bôm Đa) (mâm đặt), người già trong bản kể lại: thời xa xưa

mâm cơm đặt xuống chưa kịp ăn, giặc tràn về liền bỏ mâm để đấy, bởi vậy mới gọi

là bản Bôm Đa có nghĩa là bản mâm đặt sẵn. Bản Pa Xa Xá, bản Pa Xa Lào đều chỉ

tên gọi của một dụng cụ người địa phương (người Xá, người Lào) dùng để bắt cá.

Trong địa danh địa hình thiên nhiên:

Đồi Pom Lót (tiếng Thái địa phương nghĩa là đồi sọt nhỏ), ngọn đồi nhân

tạo này gắn liền với một câu chuyện lịch sử khá thú vị, nó mang tên gọi của một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đồ vật mà người dân nơi đây đã dùng để đắp lên ngọn đồi. Truyện kể rằng: vào

99

khoảng thế kỉ XI, chúa Lự cho xây thành Tam Vạn đồng thời cũng ra lệnh cho

nhân dân đắp một quả đồi ở trong thành. Công việc đắp đồi được giao cho đàn

bà, con gái trong thành. Công việc nặng nhọc nên họ phải dùng những cái sọt

nhỏ, đồ vật thường ngày họ vẫn dùng để đựng những ống suốt quấn sợi, quấn tơ

dệt vải, để chuyển đất đắp đồi.

Khe Hồng Cúm (khe cái cúm), địa danh Hồng Cúm gắn liền với một câu

chuyện lịch sử: Vào khoảng thế kỷ XVIII, giặc Phẻ (còn gọi là giặc Pọng, giặc

Nhuồn) chiếm đất Mường Thanh, chúng vô cùng tàn ác. Một lần, chúng vào

mường càn quét, bắt dân, giết người, cướp của. Dân mường dáo dác, sợ hãi bảo

nhau trốn chạy. Họ vơ vội những đồ đạc, của cải vào những cái cúm chạy loạn.

Giặc truy đuổi đến cùng, người dân chạy giặc không kịp đành vất lại những cái

cúm để thoát thân. Cúm nằm ngổn ngang bên lạch nước nhỏ. Từ đó khe nước mà

người dân chạy loạn vất bỏ lại những cái cúm, là các hòm đan bằng tre hay mây

người Thái thường dùng để đựng đồ đạc, được gọi là Hoong Cúm. Khi quân ta

mở chiến dịch Điện Biên Phủ, địa danh Hoong Cúm trong tiếng Thái do cách

phát âm không chuẩn nên sang tiếng Việt đọc thành Hồng Cúm. Và địa danh

Hồng Cúm tồn tại cho đến bây giờ. Hồng Cúm còn được dùng để đặt cho những

địa danh khác như trong chiến tranh chống Pháp có sân bay Hồng Cúm, phân

khu Hồng Cúm và đến nay đó là các di tích (di tích sân bay Hồng Cúm, di tích

phân khu Hồng Cúm), ngoài ra còn có bản Hồng Cúm.

k. Trường nghĩa phản ánh tên gọi của các cơ quan, tổ chức, đơn vị hay tên

của các công trình xây dựng nhân tạo có trên đối tượng

Trường nghĩa này gồm có hai bộ phận giống như tên gọi của nó. Cả hai bộ

phận nghĩa đều được thể hiện qua các yếu tố có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau

trong cả ba loại địa danh. Bộ phận nghĩa thứ nhất chỉ tên gọi của các cơ quan, tổ

chức, đơn vị đóng ở trên địa bàn. Chẳng hạn, thôn Nhà trường là thôn có một

trường học được xây dựng ở đó; bản Công Binh là nơi bộ đội công binh đóng quân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong chiến dịch Điện Biên Phủ; phường Thanh Trường trước đây là nơi đặt trụ sở

100

của nông trường bộ, đơn vị quản lý, điều hành các hoạt động sản xuất của nông

trường trên vùng đất Mường Thanh; khu du lịch Hồ Pá Khoang và Sở chỉ huy chiến

dịch Điện Biên Phủ nơi đặt sở chỉ huy, cơ quan đầu não của quân đội ta trong chiến

dịch lịch sử Điện Biên Phủ.

Bộ phận nghĩa thứ hai phản ánh các công trình xây dựng nhân tạo được xây

dựng trên đối tượng. Các công trình được phản ánh trong địa danh có thể đang

tồn tại hoặc trước đây đã từng tồn tại trên đối tượng. Những công trình không

còn tồn tại là do sự phát triển kinh tế - xã hội, do sự thay đổi của cơ chế tổ chức,

quản lí ở trong địa bàn mà đến nay đã bị phá bỏ hoặc do lịch sử mà những công

trình này chỉ còn lại vết tích nhưng với ý nghĩa và giá trị lịch sử của nó nên tên

gọi vẫn được lưu lại trong các địa danh. Như vậy có cả công trình phục vụ cho

hoạt động kinh tế, xã hội và công trình gắn với đời sống tín ngưỡng của nhân

dân. Chẳng hạn, thôn Trại lúa; bản Che Phai (cạnh đập nước) là bản nằm cạnh

phai (đập chắn nước), phai này do dân bản đào, đắp để dẫn nước khai hoang

ruộng lúa ở lưu vực suối Nậm Hua; hang Chùa Pá Sa ở đây còn lại di tích của

một ngôi chùa cổ; khu du lịch U Va, động Pa Thơm và cửa khẩu Tây Trang nơi

có cửa khẩu quốc tế Tây Trang, cửa ngõ sang Lào.

l. Trường nghĩa phản ánh sự di dân mang theo địa danh hay ghép các địa

danh giữa nơi cũ với nơi mới diễn ra ở đối tượng

Trường nghĩa này xuất hiện ở địa danh thôn, bản trong địa danh các đơn vị

dân cư. Chúng được tạo ra bởi phương thức ghép hoặc phương thức vay mượn.

Trường nghĩa phản ánh không khí chính trị, xu hướng tâm lí và văn hóa của một

thời kỳ lịch sử.

Những người dân lên khai hoang và xây dựng đời sống mới ở mảnh đất Điện

Biên Phủ từ những ngày đầu giành độc lập đã mang theo tên làng quê cũ để đặt cho

nơi ở mới. Đây là cách tạo ra địa danh mới theo phương thức vay mượn. Chẳng hạn,

người dân ở hai xã Minh Tân và Cộng Hòa thuộc tỉnh Thái Bình khi lên Điện Biên

khai hoang đã lấy tên xã cũ để đặt cho thôn, bản ở xã mới đó là thôn Minh Tân ở xã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thanh Hưng và bản Cộng Hòa ở xã Thanh Luông.

101

Bên cạnh đó còn có phương thức ghép địa danh để tạo ra địa danh mới,

phương thức này được sử dụng phổ biến hơn. Chẳng hạn, bản Phú Ngam, bản Phú

Yên là do người dân ở xã Tân Phú (Thái Bình) lên lập bản ở các xã Núa Ngam, xã

Thanh Yên, huyện Điện Biên; bản Tiến Thanh do người dân ở xã Tiến Đức (Thái

Bình) lên lập bản ở xã Thanh Yên (Điện Biên); bản Yên Sơn do người Tày, Nùng ở

Lạng Sơn lên khai hoang và sinh sống ở xã Thanh Yên (Điện Biên).

m. Trường nghĩa phản ánh những sự kiện, biến cố và các địa điểm lịch sử có ở

đối tượng

Trường nghĩa này tập trung ở một số địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh

các công trình nhân tạo. Các địa danh này chứa các yếu tố có nguồn gốc tiếng Việt,

nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số và cả nguồn gốc tiếng Pháp.

Các địa danh chứa các yếu tố phản ánh các sự kiện, biến cố lịch sử chủ yếu tập

trung ở các loại địa danh như quốc lộ, con đường, tượng đài, bảo tàng, những quả

đồi, cây cầu, những cứ điểm trong lòng thành phố và ở một số di tích, chẳng hạn,

đồi A1 (trước đây có các tên gọi khác: người Thái gọi là đồi Lạng Chượng, đồi Đồn

Tây, Pháp gọi Elian 2), đồi C2 (trước đây người Thái gọi là đồi Châu Ún, quân

Pháp gọi là Elian 4), đồi E1 (quân Pháp gọi là Đôminích 1), đồi Him Lam (còn gọi

là đồi Phan Đình Giót, Pháp gọi Bêatơrixơ), cầu Mường Thanh (Pháp gọi Prenley),

cứ điểm Đồi Bản Kéo (Pháp gọi là Annơmari), cứ điểm Đồi Độc Lập (người Thái

gọi là Pú Vắng - Đồi Vực, Pháp gọi Gabơrien), quốc lộ 279, quốc lộ 12, đường

13/3, đường 7/5, tượng đài Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, bảo tàng Chiến

thắng lịch sử Điện Biên Phủ, di tích Dân quân Thanh An bắn rơi máy bay Mĩ.

Các địa danh chứa các yếu tố phản ánh những địa điểm lịch sử chủ yếu tập

trung ở các di tích nằm rải rác trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.

Những di tích đó có cả di tích lịch sử và di tích khảo cổ học như: di tích Bãi pháo

Mường Thanh, di tích Trận địa pháo của quân ta ở Điện Biên Phủ, di tích Đường

kéo pháo của quân ta ở Điện Biên Phủ, di tích Hầm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, di

tích Mường Pồn, di tích Sân bay Hồng Cúm, di tích Hầm Đờ Cát, di tích Khu khảo

cổ học hồ U Va, di tích Đồi phát hiện trống đồng bản Na Hý, di tích Thành Bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phủ, di tích Đền Hoàng Công Chất.

102

n. Trường nghĩa phản ánh sự bao hàm chứa đựng trong những địa danh có

cùng tên gọi nhưng khác loại hình đối tượng địa lí

Trường nghĩa này có được do phương thức chuyển hóa tạo thành. Đó là sự

chuyển hóa giữa các loại địa danh như núi, đồi, sông, suối, thôn, bản, cầu, cống,

đường, kênh, đập, bảo tàng, di tích... trong đó các đối tượng này thường là cùng

nằm trong một địa bàn. Trường nghĩa này phản ánh một cách định danh khá phổ

biến trên khắp các vùng lãnh thổ của đất nước ta.

Chẳng hạn, những địa danh như thành phố Điện Biên Phủ, sân bay Điện Biên

Phủ, rạp chiếu bóng Điện Biên Phủ, nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ, quần thể khu

di tích lịch sử Điện Biên Phủ, bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tượng

đài Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đều thuộc thành phố Điện Biên Phủ. Những

địa danh như đồi Độc Lập, cứ điểm Đồi Độc Lập, trung tâm đề kháng Đồi Độc Lập,

nghĩa trang liệt sĩ Độc Lập, bản Độc Lập đều thuộc vào xã Thanh Nưa, huyện Điện

Biên. Những địa danh như khe Hồng Cúm, bản Hồng Cúm, sân bay Hồng Cúm,

phân khu Hồng Cúm đều ở xã Thanh Xương, huyện Điện Biên. Hay những địa danh

như suối Him Lam, bản Him Lam, đồi Him Lam, cứ điểm Him Lam, trung tâm đề

kháng Him Lam, nghĩa trang liệt sĩ Him Lam đều thuộc phường Him Lam, thành

phố Điện Biên Phủ.

3.6.2. Nhóm ý nghĩa phản ánh đời sống tƣ tƣởng, tình cảm của con ngƣời

Nhóm nghĩa này bao gồm các yếu tố có ý nghĩa chỉ nguyện vọng, tâm lí, tình

cảm, đời sống tâm linh, tín ngưỡng của con người. Trường nghĩa này có ở cả ba loại

địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo. Khác với nhóm

nghĩa thứ nhất, các địa danh thuộc nhóm nghĩa này ít có giá trị phản ánh hiện thực

mà đi vào chiều sâu tư tưởng, nhận thức, đời sống tình cảm, tâm linh của con người.

Qua những địa danh chúng ta sẽ thấy bức tranh đời sống tâm lí của con người nơi

đây hiện lên với rất nhiều sắc thái tình cảm khác nhau như những ước mơ, khát

vọng cao đẹp về cuộc sống mới hòa bình, yên ấm, giàu đẹp; là tình cảm yêu quý,

trân trọng đối với những vị anh hùng dân tộc, những danh nhân văn hóa và đối với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vùng đất mà họ sinh sống. Điều đó góp phần thể hiện văn hóa tinh thần và văn hóa

103

ứng xử của người dân thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên. Các địa danh

biểu hiện những lớp ý nghĩa này được cấu tạo bởi cả yếu tố Hán Việt, yếu tố thuần

Việt và các yếu tố là tiếng dân tộc thiểu số. So với nhóm nghĩa thứ nhất, nhóm

nghĩa này chiếm tỉ lệ rất nhỏ, chỉ có 102 địa danh, chiếm 10,19%.

Nhóm ý nghĩa thứ hai gồm những trường nghĩa sau:

3.6.2.1. Tiểu nhóm 1

Bao gồm những địa danh chứa các yếu tố phản ánh niềm mong ước của con

người với cuộc sống và với vùng đất mà họ sinh cơ, lập nghiệp. Tiểu nhóm này gồm

một số bộ phận nhỏ:

a. Trường nghĩa phản ánh niềm mong ước về sự đổi mới, tiến bộ, sự trẻ trung

của quê hương

Các yếu tố “văn”, “xuân”, “tân” trong các địa danh thể hiện niềm mong ước

này. Chẳng hạn, bản Văn Tân, bản Tân Quang, bản Thanh Xuân, thôn Văn Biên.

b. Trường nghĩa phản ánh ước mơ về cuộc sống trong sáng, thanh bình, đầm

ấm, yên vui

Trường nghĩa này được thể hiện qua những địa danh chứa các yếu tố Hán Việt

như “bình”, “yên” và yếu tố tiếng dân tộc thiểu số như “on”, “yên”, “an”. Những địa

danh chứa yếu tố Hán Việt chẳng hạn, bản Yên, bản Thanh Bình, bản Yên Bình;

những địa danh chứa các yếu tố tiếng dân tộc thiểu số chẳng hạn: bản On, bản Yên,

bản Phủ On, xã Thanh An, xã Thanh Yên, phường Thanh Bình.

c. Trường nghĩa phản ánh niềm mong ước về vùng đất rộng lớn có cuộc sống

tươi đẹp, giàu có, thịnh vượng

Các yếu tố Hán Việt như “mỹ”, “hồng”, “thái”, “hưng”, “phú”, “thịnh” và yếu

tố dân tộc thiểu số như “chăn” (với nghĩa là đẹp), “luông” (với nghĩa to lớn) thể

hiện rõ đặc điểm này. Chẳng hạn, bản Mỹ Hưng, thôn Hồng Thái, bản Hưng Yên,

bản Việt Hưng, bản Hưng Thịnh, xã Thanh Chăn (Mường Thanh đẹp), xã Thanh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Luông (Mường Thanh to lớn).

104

d. Trường nghĩa phản ánh ước mơ về tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm vượt

lên mọi hoàn cảnh để đạt được mục đích

Chẳng hạn, thôn Độc Lập, đồi Độc Lập, thôn Quyết Thắng, thôn Đoàn Kết.

e. Trường nghĩa phản ánh niềm mong ước về vùng đất luôn luôn được bảo vệ

vững vàng nơi biên giới

Chẳng hạn, thành phố Điện Biên Phủ (thủ phủ vững vàng nơi biên giới),

huyện Điện Biên (biên giới vững vàng).

3.6.2.2. Tiểu nhóm 2

Bao gồm những địa danh có ý nghĩa phản ánh tình cảm của con người đối với

quê hương, bản quán và đối với vùng đất mới họ sẽ sinh sống dài lâu.

a. Trường nghĩa phản ánh tình cảm yêu quý, ca ngợi vùng đất đẹp, vùng

đất thiêng

Chẳng hạn, xã Thanh Xương (Mường Thanh yêu quý) gửi gắm tình cảm yêu

quý, trân trọng đối với vùng đất họ sinh sống, cánh đồng Mường Thanh (xứ trời) ca

ngợi mảnh đất thiêng, mảnh đất đẹp giàu.

b. Trường nghĩa phản ánh tình cảm nhớ thương sâu nặng đối với làng quê,

vùng đất họ đã từng sinh sống

Điều đó thể hiện ở việc mang theo tên làng xóm, huyện lị của quê cũ đến nơi

ở mới. Chẳng hạn, thôn Minh Tân ở xã Thanh Hưng và bản Cộng Hòa ở xã Thanh

Luông (huyện Điện Biên) là những thôn, bản do người Thái Bình mang lên vào

khoảng đầu thập kỉ 60 thuộc thế kỷ trước theo chính sách di dân làm kinh tế mới

của Đảng và Nhà nước ta; hay bản Yên Sơn gửi gắm tình cảm yêu quý và luôn nhớ

về cội nguồn của người Lạng Sơn lên sinh sống ở xã Thanh Yên (huyện Điện Biên).

3.6.2.3. Tiểu nhóm 3

Bao gồm các địa danh chứa các yếu tố phản ánh tình cảm trân trọng, lòng biết ơn

sâu sắc và sự ghi nhớ công lao của người dân nơi đây đối với những vị anh hùng dân tộc,

những người có công với đất nước. Các địa danh này có ở các loại địa danh đơn vị dân

cư, địa danh công trình nhân tạo và đều được cấu tạo bằng các danh từ riêng chỉ tên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

người, các tên riêng này có nguồn gốc của các yếu tố Hán Việt, của các yếu tố tiếng

105

dân tộc thiểu số và cả nguồn gốc tiếng Pháp. Chẳng hạn, hầm Đại tướng Võ Nguyên

Giáp, đường Hoàng Văn Thái, đường Lê Trọng Tấn lần lượt là những địa danh

mang tên vị tổng tư lệnh, tên của vị tham mưu trưởng của tổng tư lệnh và tên của vị

đại đoàn trưởng đại đoàn 312 trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ; đồi Phan

Đình Giót, đường Trần Can, đường Bế Văn Đàn là những địa danh mang tên của

các anh hùng liệt sĩ đã anh dũng hi sinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử; bản

Hoàng Công Chất mang tên của vị thủ lĩnh tướng quân đã có công đánh đuổi giặc

Phẻ ở đất Mường Thanh vào khoảng thế kỷ XVIII; đường Lò Văn Hặc là con đường

mang tên người cán bộ cách mạng dân tộc Thái Điện Biên, ông đã sớm giác ngộ và

vận động quần chúng địa phương đi theo tiếng gọi của Đảng sau Cách mạng Tháng

Tám, cả đời phấn đấu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vùng biên cương phía Tây

Bắc của Tổ quốc ngày cành vững mạnh, giàu đẹp.

3.6.2.4. Tiểu nhóm 4

Có một bộ phận nhỏ các địa danh chứa các yếu tố phản ánh một thời kỳ lịch sử

của dân tộc đồng thời phản ánh tinh thần tự tôn dân tộc. Đó là các địa danh công trình

nhân tạo được cấu tạo bởi các danh từ riêng chỉ tên người có nguồn gốc tiếng Pháp.

Chẳng hạn, hầm Đờ Cát, hầm mang tên của viên thiếu tướng Pháp chỉ huy tập đoàn

cứ điểm Điện Biên Phủ, chính hắn đã phải giơ cờ trắng đầu hàng vào ngày 7/5/1954

còn hầm Pi Rốt mang tên viên trung tá người Pháp, tư lệnh pháo binh của tập đoàn,

hắn đã tự sát trong chính hầm làm việc của mình khi nghe tin Điện Biên thất thủ.

Những địa danh này trở thành những chứng tích cho thấy sự thất bại nhục nhã

của quân thù.

3.6.2.5. Tiểu nhóm 5

Bao gồm các địa danh chứa những yếu tố có ý nghĩa phản ánh đời sống tín

ngưỡng của con người. Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện qua các hoạt

động sinh hoạt văn hóa tinh thần hoặc qua các công trình xây dựng đã và đang phục

vụ cho các hoạt động tín ngưỡng của nhân dân. Trường nghĩa này được thể hiện qua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

các địa danh nhân văn chỉ các loại di tích.

106

Chẳng hạn, di tích Đền Hoàng Công Chất là nơi ngày nay nhân dân trong

vùng vẫn thường xuyên đến thắp hương cầu phúc, lộc vào những ngày rằm, ngày lễ;

di tích Chùa Pá Sa là ngôi chùa cổ đã bị tàn phá qua thời gian nhưng nhân dân

trong vùng vẫn đến thắp hương cầu may; qua địa danh địa hình thiên nhiên như đồi

Pom Loi (đồi Khâm liệm) là nơi sau khi Lạng Chượng chết, nhân dân đã đem ông

khâm liệm ở đây.

Như vậy hai nhóm lớn về ý nghĩa địa danh trong một số địa danh thành phố

Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên đã được tạo nên bởi 30 trường nghĩa lớn, nhỏ

khác nhau. Nhóm ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan gắn liền với những đối

tượng địa lí chiếm số lượng lớn nhất với 20 trường nghĩa trong đó trường nghĩa

về tên gọi của các loại thực vật, động vật chiếm tỉ lệ cao nhất. Còn nhóm ý nghĩa

phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm của con người được thể hiện ở 10 trường

nghĩa còn lại trong đó niềm mong ước của con người với cuộc sống và với vùng

đất mà họ sinh cơ, lập nghiệp là trường nghĩa có các bộ phận nghĩa phong phú

nhất. Những nét nghĩa ấy đã kết hợp để vẽ lên bức tranh thiên nhiên và bức tranh

cuộc sống con người hết sức chân thực, sinh động. Đó là cảnh quan của núi rừng

trùng điệp với rất nhiều cây cối, muông thú quý hiếm, với nhiều địa hình kiến tạo

khác nhau. Đó là cảnh quan của sông suối, ao hồ dày đặc, uốn mình theo những

hình dáng kì thú của thiên nhiên, có nguồn nước dồi dào và nguồn sinh vật

phong phú. Đó là cảnh quan của những cánh đồng màu mỡ cuộc sống gần gũi

với thiên nhiên, chan hòa cùng thiên nhiên

3.7. MỘT SỐ ĐỊA DANH GẮN VỚI ĐỜI SỐNG, LỊCH SỬ, VĂN HÓA Ở

THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN

3.7.1. Điện Biên Phủ

Điện Biên Phủ là một địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc và nhân loại đặc biệt

là từ sau chiến thắng thực dân Pháp lẫy lừng, vang dội năm 1954. Ngày nay cái tên

Điện Biên Phủ là một địa danh gắn liền với những giá trị lịch sử, văn hóa trường tồn

và cũng là một trong những địa danh có nhiều cách giải thích chưa thống nhất về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nguồn gốc tên gọi.

107

Điện Biên hay Điện Biên Phủ là một vùng đất có lịch sử hình thành lâu đời.

Về đời Hùng Vương, vùng Tây Bắc nước ta - trong đó có Mường Thanh - là đất Văn

Lang. Về đời Lý, đất Mường Thanh nằm trong địa hạt châu Lâm Tây. Đời Trần, nước

ta có 15 lộ thì Mường Thanh thuộc châu Ninh Viễn, lộ Đà Giang. Châu Ninh Viễn

tương đương với cả tỉnh Lai Châu (cũ). Đến đầu đời Lê, Mường Thanh thuộc châu

Phục Lễ, trấn Gia Hưng (châu Phục Lễ, tức Mường Lễ, tức Lai Châu cũ). Năm 1469,

Mường Thanh thuộc phủ An Tây, thừa tuyên Hưng Hóa (phủ An Tây nguyên là châu

Phục Lễ). Năm 1775 (có tài liệu nói năm 1777), chúa Trịnh đặt châu Ninh Biên thì

Mường Thanh là trung tâm, là thủ phủ của Ninh Biên. Mãi đến năm 1841, đời Thiệu

Trị nguyên niên, phủ Điện Biên được thành lập bao gồm cả châu Ninh Biên. Từ đó

tên gọi Điện Biên hay Điện Biên Phủ mới xuất hiện. Từ khi thực dân Pháp đặt ách

thống trị ở tỉnh Lai Châu (cũ) cho đến khi chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, kết

thúc 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, châu Điện Biên thuộc tỉnh Lai Châu.

Đến năm 1955, khu tự trị Thái - Mèo, sau đổi là khu tự trị Tây Bắc, được thành lập

(không có cấp hành chính tỉnh) thì châu Điện Biên trực thuộc sự chỉ đạo của khu.

Đến năm 1962, khi tỉnh Lai Châu được khôi phục thì huyện Điện Biên cũng được

thành lập, không còn tồn tại châu Điện Biên. Huyện Điện Biên tồn tại cho đến ngày

nay tuy nhiên địa giới của huyện đã bị chia tách nhiều để thành lập thị xã Điện Biên

Phủ (năm 1992) và thành phố Điện Biên Phủ (năm 2003).

Về tên gọi, Điện Biên Phủ là vùng đất của người Thái bản địa cùng với một

số dân tộc ít người khác và sau này có thêm người Kinh lên khai hoang sinh sống

nên địa danh Điện Biên Phủ có cả nguồn gốc tiếng Thái và tiếng Việt.

* Nguồn gốc tên gọi bằng tiếng Thái.

Điện Biên Phủ có tên gọi bằng tiếng Thái là Mường Thanh. Đây cũng là tên

gọi xa xưa và phổ biến nhất của Điện Biên Phủ. "Mường Thanh" là cách đọc theo

phát âm của tiếng phổ thông. Nếu phát âm theo cách phát âm của tiếng Thái địa

phương thì phải đọc là "Mướng Then" hoặc "Mưỡng Then". Theo "Từ điển Thái -

Việt" do Hoàng Trần Nghịch - Tòng Kim Ân biên soạn thì "then" có nghĩa là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

"thượng đế", "thần", "mưỡng" là "mường, nước, tổ quốc". "Mưỡng Then" hay

108

"Mướng Then" là thiên cung, là mường trời, là cõi trời hay là một xứ của trời. Sau

này tùy theo cách phiên âm Thái - Việt, Hán - Việt mà người ta gọi với các tên khác

nhau như: Mường Thanh, Mường Theng, Mường Then, Mường Thiên... trong đó tên

gọi Mường Thanh là phổ biến nhất và được dùng nhiều nhất.

Trong tác phẩm “Sông núi Điện Biên” (2000), Trần Lê Văn cho rằng từ

"mường" là một từ có nghĩa co giãn trong ngôn ngữ Thái. Có thể đó là một không

gian vô giới hạn như "Mướng Then", "Mướng Phạ", "Mướng Bôn" đều chỉ cõi trời

trong đó có ông trời làm chủ, "Mướng Phi" là cõi ma, "Mướng Cốn" là cõi trần, cõi

của những người đang sống. Có thể thu hẹp nghĩa lại, đó là khu vực của một dân

tộc, như "Mướng Lự" là vùng của người Lự, "Mướng Táy" là vùng của người

Thái... Có thể đó chỉ là nơi tập hợp các bản sở tại của một châu lỵ, huyện lỵ. Vì thế

Mường Thanh xưa kia là nơi tập hợp các bản sở tại của châu lỵ Điện Biên.

Như vậy, "mường" vừa dùng để chỉ một châu, một huyện vừa dùng để chỉ

châu lỵ, huyện lỵ, tức thủ phủ của châu ấy, huyện ấy. Cho nên Điện Biên hay

Mường Thanh, theo nghĩa rộng là toàn bộ địa hạt của tỉnh ngày nay (xưa kia là

châu, sau này là huyện), theo nghĩa hẹp là khu vực thung lũng (nay gồm huyện Điện

Biên và thành phố Điện Biên Phủ trong đó có cánh đồng Mường Thanh rộng lớn,

phì nhiêu, màu mỡ).

Đất Mường Thanh xưa gắn liền với nhiều câu chuyện thần thoại, truyền

thuyết dân gian của đồng bào các dân tộc sinh sống nơi đây đặc biệt là dân tộc Thái,

thành phần dân tộc cư trú đông nhất. Những câu chuyện đó được lưu truyền từ thế

hệ này sang thế hệ khác, từ vùng đất này sang vùng đất khác nên đã có ít nhiều chi

tiết bị biến đổi tùy theo từng dân tộc, từng địa phương. Tuy nhiên nội dung cơ bản

cổ xưa của chúng thì ít bị thay đổi. Cho nên mỗi khi kể chuyện khai thiên, lập địa và

nguồn gốc loài người, con cháu đời sau của những dân tộc đến chinh phục đất Điện

Biên thuở sơ khai đều hiểu rằng Mường Thanh là quê hương xa xưa của họ, là nơi

khởi nguyên nguồn gốc loài người. Theo "Truyện kể bản mường" (Quắm tố mướng)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thì con người được Then (trời) cử xuống trần gian để sinh sống, dựng bản, lập

109

mường và Mường Thanh đã trở thành vùng đất được Then chọn lựa. Hẳn là vùng

đất ấy rất giàu và đẹp như tên gọi vốn có của nó (Mường Thanh - Mường Trời).

Trên đất Mường Thanh ngày nay còn có hai nơi liên quan đến chuyện sinh

thành con người mà những địa danh này đã được nhắc đến trong các câu chuyện cổ,

đó là hồ U Va (hồ Tao Bảo) ở xã Noong Luống và núi Tẩu Pung (núi Quả Bầu) ở xã

Nà Tấu, cả hai xã đều thuộc huyện Điện Biên.

Truyện Hồ U Va kể rằng: Thuở trời đất còn liền nhau, ở hồ U Va, phía Bắc

đất Mường Thanh, có dây leo Khau Cát nối liền trời và đất. Lúc đó, mặt đất còn như

trong đêm tối. Ngước trông lên, trời mới chỉ to bằng chiếc hoa nấm úp xuống miền

cánh đồng Mường Thanh, nơi có con sông Nậm Rốm chảy qua. Then đã cử "10

giống Xá, 5 giống Thái" xuống tạo bản, lập mường. Sau đó các lớp người mới lại

được cử xuống, nối tiếp nhau gây dựng trần gian. Mặc dù đã được Then hướng dẫn,

chỉ bảo làm lụng nhưng loài người vẫn làm trái ý Then, Then nổi giận, gây ra hạn

hán, lũ lụt làm loài người chết gần hết. Sau khi dây Khau Cát bị cắt đứt đi thì bầu

trời được đẩy lên cao dần. Như vậy sợi dây Khau Cát không chỉ là sợi dây nối liền

bầu trời - mặt đất mà còn là sợi dây sự sống, nối liền con người với cội nguồn của

họ, là biểu tượng cho nguồn gốc phát sinh loài người.

Tiếp đó truyện Quả bầu kể rằng: Sau nạn hồng thủy do Then gây ra chỉ còn

hai anh em nhà nọ sống sót. Then đã sắp đặt cho họ lấy nhau và sinh ra một quả

bầu. Quả bầu đó được người anh dùng dùi nung đỏ khoan thủng vỏ bầu và sau đó

người em dùng dao khoét rộng lỗ cho các giống người chui ra. Người Xá ra trước bị

dính gio than ở miệng lỗ nên da ngăm ngăm đen, người Thái, người Lự, người

Lào... người Kinh lần lượt ra sau nên da trắng hơn. Sau đó các giống người phân

chia đi các ngả để kiếm ăn. Giống người ra đầu tiên ở lại là tổ tiên của người Xá còn

giống người ra sau cùng đi xuống đồng bằng là tổ tiên của người Kinh ngày nay.

Đất Mường Thanh sở dĩ được rộng lớn, màu mỡ như ngày nay, theo người

Thái, đó là do một ông khổng lồ mà người Thái gọi là Ải Lậc Cậc khai phá. Ải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gánh núi, ngăn sông, làm ruộng, đánh cá, khai phá ruộng nương, tạo nên cảnh trí

110

thiên nhiên của vùng. Ải không chỉ mở mang được cánh đồng Mường Thanh mà

còn mở rộng được ba cánh đồng lớn khác là Mường Lò (Yên Bái), Mường Than

(Lai Châu), Mường Tấc (Sơn La). Cho nên trong dân gian đã lưu truyền câu ví về

độ rộng lớn, trù phú của bốn cánh đồng: "Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc".

Mường Thanh là ruộng mạ của Ải còn Ải vỡ Mường Lò, Mường Than, Mường

Tấc để cấy. Buổi sớm còn cấy lúa ở Mường Thanh, chiều Ải đã về cấy lúa ở

Mường Tấc, giữa hai mường cách xa nhau đến mấy chục ngày đường bộ. Hiện ở

xã Sam Mứn còn có núi Xôi Nướng (Pú Khẩu Chí) vốn là nắm xôi nướng Ải đang

ăn khi cấy lúa ở Mường Lò ném đuổi trâu ăn lúa ở Mường Thanh. Mường Thanh

là cánh đồng rộng và đẹp nhất của Ải.

Trong kho tàng truyện cổ dân gian người Thái còn lưu truyền câu chuyện kể

về một nhân vật có thể coi là tổ tiên chung của người Thái và một vài dân tộc khác

ở Mường Thanh đó là Khun Borom. Qua hai ngàn năm, loài người sau khi xuống

trần lại chết hết. Then cử Khun Borom, con trai út của Then, xuống trần gian để thu

xếp bản mường, cai trị trần gian. Khun Borom mang theo hai người vợ xinh đẹp và

cho một đoàn tùy tùng đi theo. Xuống cư trú ở đất Mường Thanh ít lâu, hai người

vợ sinh hạ cho Khun Borom được bảy người con. Các con của Khun lớn lên đều tài

giỏi, lần lượt được Khun cử đi bảy nơi để xây dựng các vùng đất, lập nên các bản

mường làm cho dòng dõi của Then ngày càng sinh sôi, phát triển.

Như vậy trong cảm quan huyền thoại của mình, người Thái Mường Thanh

ví vùng đất của họ như "cõi trời". Sau này vào khoảng thế kỷ XI - XII, dưới con

mắt của Lạng Chượng, một vị tướng người Thái đã đánh bại các tù trưởng các

nhóm dân tộc Nam Á ở miền Sơn La, làm chủ trung tâm cánh đồng Mường

Thanh, thì "Vùng đất lớn nhất là cánh đồng Mường Thanh, tròn như cạp nong,

cong như sừng trâu". Đến thế kỷ XV, nhà bác học Lê Quý Đôn trong cuốn "Kiến

văn tiểu lục" lại đánh giá: "Châu này thế núi vòng quanh, ruộng đất bằng phẳng,

màu mỡ, sản vật nhiều, thú rừng lắm... có thể nói đây là miền đất màu mỡ, trù

phú nhất miền Bắc nước ta". Còn trong dân gian thì muôn đời lưu truyền câu ví:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

"Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc".

111

* Nguồn gốc tên gọi Hán Việt

Như vậy theo nghĩa tiếng Thái, Điện Biên Phủ hay Mường Thanh là chỉ

mường trời, một vùng đất của thiên đường, một vùng đất huyền thoại, giàu đẹp. Sau

tên gọi Mường Thanh, vùng đất này còn mang những tên gọi khác nhau tùy theo các

triều đại và cũng tùy theo các đơn vị hành chính xưa. Đến đời Thiệu Trị nguyên

niên năm 1841, để bảo vệ miền Tây Bắc giàu đẹp chống lại sự dòm ngó của phong

kiến Xiêm La và Nam Chưởng (Luông Pha Băng) và chống lại sự quấy rối thường

xuyên của những đám giặc cỏ từ ba nước Miến Điện, Lào, Trung Quốc vào Tây Bắc

cướp phá, nhà vua đã lấy đất các châu Ninh Biên, Tuần Giáo, châu Lai lập thành

phủ Điện Biên, đóng phủ lỵ ở Chiềng Lễ, nơi đại bản doanh của người anh hùng

nông dân Hoàng Công Chất. Đến nay, trong khi chỉ có các đơn vị hành chính là

thay đổi còn tên Điện Biên hay Điện Biên Phủ thì vẫn còn tồn tại. Phải chăng bởi

tên gọi đó có ý nghĩa và giá trị muôn đời?

Trần Lê Văn cho rằng: "điện" là "vững", "biên" là "biên giới", "điện biên" là

"biên giới vững vàng". Nếu "điện" dùng làm tính từ thì "điện biên" hiểu là "giữ

vững nơi biên giới" cũng như những tên gọi trước đây: Ninh Viễn (vỗ yên nơi xa),

An Tây (làm yên phía tây), Ninh Biên (vỗ yên nơi biên giới). Đó đều là những tên

gọi gửi gắm ước vọng của nhân dân cũng như phản ánh sự quan tâm và mong muốn

chung của các triều đại phong kiến đối với vùng lãnh thổ phía Tây của đất nước.

Điện Biên còn được gọi là Điện Biên Phủ, chữ phủ trong Điện Biên Phủ có

nhiều cách hiểu. Có ý kiến cho rằng "phủ" có nghĩa là một đơn vị hành chính thời

phong kiến như phủ Điện Biên, phủ An Tây, phủ Gia Hưng, phủ Quy Hóa; cũng có

người cho rằng "phủ" nghĩa là "thủ phủ". Thực ra hai cách hiểu này đều có những

căn cứ nhất định.

Theo cách hiểu thứ nhất, "phủ" là một đơn vị hành chính của nhà nước

phong kiến, đơn vị này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1469, khi Lê Thánh Tông đặt

cả nước thành 12 thừa tuyên, dưới thừa tuyên là các phủ, châu. Khi đó, Mường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thanh thuộc phủ An Tây, thừa tuyên Hưng Hóa. Sau này, nhà Nguyễn cũng lấy

112

"phủ" làm một đơn vị hành chính và thành lập phủ Điện Biên thì "phủ Điện Biên"

hay "Điện Biên Phủ" nghĩa là "một phủ vững vàng nơi biên giới". Ở đây, chữ "phủ"

trong cụm từ "phủ Điện Biên" là một thành tố chung đã chuyển hóa thành một bộ

phận của tên riêng trong từ "Điện Biên Phủ".

Theo cách hiểu thứ hai, vào năm 1775 (có tài liệu nói năm 1777), chúa Trịnh

đặt châu Ninh Biên thì Mường Thanh là trung tâm, là thủ phủ của châu Ninh Biên.

Đến năm 1841, vua Thiệu Trị cho thành lập phủ Điện Biên. Lúc đó phủ Điện Biên

là một vùng rộng lớn bao gồm cả châu Ninh Biên, châu Lai và châu Tuần Giáo.

Trung tâm của phủ Điện Biên chính là trung tâm Mường Thanh của châu Ninh Biên

trước đó. Như vậy "Điện Biên Phủ" nghĩa là "thủ phủ vững vàng nơi biên giới".

Ngoài ra lại có người đưa ra cách hiểu khác. Đó là cách giải thích của tác giả

người Pháp Rules Roy trong cuốn "Trận Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp",

cuốn sách được viết sau khi quân Pháp bị thất bại thảm hại tại chiến trường Điện

Biên Phủ: "điện" là "to", "biên" là "biên giới", "phủ" là "thủ phủ hành chính", "điện

biên phủ" là "thủ phủ hành chính lớn ở biên giới".

Như vậy hiện nay có ba cách hiểu về ý nghĩa của địa danh Điện Biên Phủ.

Cách hiểu thứ nhất phù hợp khi "phủ" dùng để chỉ một đơn vị hành chính của nhà

nước phong kiến. Cách giải thích thứ ba khiến cho cái tên Điện Biên Phủ chỉ có ý

nghĩa đơn thuần về vị trí, về hình thức (là thủ phủ hành chính to lớn) mà không thấy

được giá trị lịch sử cũng như ước vọng muôn đời của nhân dân ta: luôn luôn bảo vệ

vững vàng không chỉ miền biên giới phía Tây mà mọi miền biên cương, mọi vùng

lãnh thổ của Tổ quốc. Cách giải thích thứ hai cho rằng Điện Biên Phủ là "thủ phủ

vững vàng nơi biên giới" là phù hợp hơn cả. Thứ nhất, ngày nay nhà nước ta không

còn sử dụng "phủ" để đặt cho một đơn vị hành chính như ở triều đại phong kiến nữa

mà sử dụng các đơn vị khác tương đương như huyện, thị xã, thành phố. Mặt khác,

cái tên Điện Biên Phủ đã được dùng để đặt cho trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa

của tỉnh Điện Biên đó là thành phố Điện Biên Phủ. Thứ hai, Điện Biên Phủ là một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tỉnh miền núi biên giới phía Bắc của Tổ quốc và cũng là tỉnh duy nhất trên đất nước

113

ta có chung đường biên giới với hai quốc gia Trung Quốc và Lào. Vì vậy vấn đề

bảo vệ lãnh thổ càng phải được đặt lên hàng đầu. Cho nên đồng bào các dân tộc

Điện Biên cũng như nhân dân cả nước không chỉ mong ước mà đã biến ước mong

thành quyết tâm giữ vững miền biên giới xa xôi của Tổ quốc. Mặt khác, tên gọi

Điện Biên Phủ đã trở nên nổi tiếng và được sử dụng phổ biến sau khi quân dân ta

chiến thắng lừng lẫy quân đội Pháp tại chiến trường Điện Biên Phủ vào năm 1954.

Ngay cả ở Pháp, sau chiến dịch Điện Biên Phủ, đã nảy sinh tử "dienbienphuer"

(động từ) có nghĩa như "chiến thắng lớn lao, trọn vẹn". Địa danh Điện Biên Phủ

cũng đã được giải thích trong nhiều cuốn từ điển lớn trên thế giới như từ điển

“Larutxơ” của Pháp năm 1993, từ điển “Bách khoa” của Mỹ năm 1986 và từ điển

“Bách khoa quân sự” của Nga năm 1987. Và từ đó Điện Biên Phủ đồng nghĩa với

chiến thắng, Điện Biên Phủ trở thành tên gọi tượng trưng cho ý chí quật cường, bất

khuất, cho tinh thần độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam.

Như vậy Điện Biên Phủ với nghĩa "thủ phủ vững vàng nơi biên giới" không

chỉ khẳng định vị trí của Điện Biên Phủ mà còn khẳng định cả giá trị lịch sử, văn

hóa trường tồn của nó.

Nét nghĩa này đã đi vào trong thơ Nguyễn Thị Lâm Hảo, nhà thơ Điện Biên,

hội viên Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam:

“Điện là cái thế vững vàng

Biên là dải đất bản làng biên cương

Điện Biên không chỉ đẹp tên

Mà còn đẹp cả quê hương, tình người”

(Điện Biên quê tôi, trích “Điện Biên Phủ - Đất và người”)

Người Thái xưa gọi Điện Biên hay Điện Biên Phủ là Mướng Then (Mường

Thanh) thì nay trong tiếng Thái Mướng Then (Mường Thanh) vẫn được dùng để gọi

Điện Biên Phủ. Còn đối với người Kinh, cả hai từ Mường Thanh và Điện Biên Phủ

đều đi vào kho tàng từ vựng tiếng Việt cũng như đi vào những cuốn từ điển địa

danh ở Việt Nam. Đối với các dân tộc trên thế giới, Điện Biên Phủ đã đi vào những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trang sử hào hùng của nhân loại.

114

Trước đây, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, Mường Thanh - Điện Biên

Phủ cũng như đất nước Việt Nam không có tên trên bản đồ thế giới thì từ sau hòa bình

lập lại cho đến nay cả Mường Thanh - Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ - Mường Thanh

đã đi vào lịch sử như một vùng đất huyền thoại, vùng đất lịch sử, vùng đất văn hóa.

Nhân dân các dân tộc Điện Biên đang viết tiếp lên những trang sử mới của

một vùng đất đã từng "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Họ quyết tâm phấn

đấu xây dựng quê hương Điện Biên ngày càng giàu đẹp, ngày càng phát triển vững

mạnh, toàn diện để Điện Biên là một vùng đất huyền thoại - lịch sử - văn hóa không

chỉ trong quá khứ mà cả hiện tại - tương lai, để Điện Biên mãi mãi "nên vành hoa

đỏ nên thiên sử vàng".

3.7.2. Thành Bản Phủ và đền Hoàng Công Chất

Thành Bản Phủ là một trong hai tòa thành cổ mà đến nay vẫn còn lại dấu tích

trên cánh đồng Mường Thanh. Tòa thành có giá trị lịch sử to lớn, là di tích của một

cuộc khởi nghĩa nông dân rất lớn hồi đầu thế kỉ XVIII, đồng thời là tư liệu nghiên

cứu về kiến trúc khá độc đáo của một công trình kiến trúc quân sự tại một vùng biên

giới xa xôi của nước ta.

Thành Bản Phủ có khá nhiều tên gọi khác nhau, theo tiếng địa phương thành

có tên là Chiềng Lề, sau đó sử sách cũ chép lại đã phiên âm tiếng địa phương ra

tiếng Hán Việt là Trình Lệ. Còn trong đời sống nhân dân, có người gọi là lũy bảy vị

anh hùng, cái tên gắn liền với bảy vị tướng có công trong cuộc khởi nghĩa do Hoàng

Công Chất lãnh đạo; có người gọi là thành Hoàng Công Chất, là tên gọi của vị thủ

lĩnh nghĩa quân có công xây dựng thành và đem lại đời sống yên ấm cho nhân dân

trong vùng; có người lại gọi là thành Bản Phủ, cái tên gắn liền với một địa danh

hành chính. Theo Đỗ Văn Ninh thì "tên Bản Phủ có tự bao giờ thật khó nói chắc

chắn. Năm 1469, Lê Thánh Tông đặt 12 thừa tuyên, Mường Thanh thuộc phủ An

Tây, thừa tuyên Hưng Hóa, An Tây nguyên là châu Phục Lễ, tức Mường Lễ (Lai

Châu và Điện Biên ngày nay). Có thể phủ trị An Tây đặt tại đây và từ đó bản sở tại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

được gọi là Bản Phủ. Lại cũng có thể từ khi Hoàng Công Chất đặt phủ ở đây, bản sở

115

tại mới mang tên Bản Phủ" [37, tr.37]. Dù cho tên gọi thành Bản Phủ có nguồn gốc

xuất xứ thế nào thì cho đến nay thành Bản Phủ đã trở thành tên gọi quen thuộc đối

với mọi người dân sinh sống ở Điện Biên và có lẽ với cả những du khách dù chỉ

một lần đặt chân đến tòa thành độc đáo này.

Từ tỉnh lỵ Điện Biên xuôi theo đường quốc lộ 279 xuống phía Nam khoảng

10 km, qua di tích Hận thù Noong Nhai và di tích phân khu Hồng Cúm là tới thành

Bản Phủ.

Theo sử Thái thì việc xây dựng thành Bản Phủ, Hoàng Công Chất đã giao

cho con là Hoàng Công Toản đảm nhiệm, thành được khởi công năm 1758 và hoàn

thành năm 1762.

Theo tác phẩm “Di tích lịch sử và văn hóa Điện Biên Phủ”: Thành Bản Phủ

rộng 80 mẫu, được xây dựng theo một hình thế rất linh hoạt, tận dụng được những

thuận lợi về thiên nhiên, địa hình. Thành có 5 cạnh không đều nhau: Hai cạnh phía

Tây dựa vào khuỷu sông Nậm Rốm, cạnh phía Nam dựa vào suối Huổi Lé, phụ lưu

sông Nậm Rốm, cạnh phía Đông chạy song song với đường quốc lộ, cạnh phía Bắc

nhìn dọc cánh đồng Mường Thanh. Vì những đặc điểm này mà các cạnh phía Tây

và phía Nam không phải đào hào bên ngoài thành còn các cạnh phía Bắc và phía

Đông phải đào hào ở bên ngoài, hào sâu 10 m, rộng 4 - 5 m, được nối thông với

sông Nậm Rốm và suối Huổi Lé, nhờ vậy mà hào quanh năm có nước và là một lớp

chướng ngại quan trọng. Tường thành đắp bằng đất cao 5 m, mặt thành rộng từ 4

đến 6 m, voi ngựa có thể đi lại dễ dàng. Thành có 4 cửa: cửa tiền quay ra sông Nậm

Rốm tức là quay ra hướng Tây, cửa hậu quay ra quốc lộ 279 tức là quay ra hướng

Đông, cửa hữu quay ra hướng Bắc và cửa tả quay ra hướng Nam, hiện nay cửa

chính mở vào thành là cửa hữu ở hướng Bắc. Ở mỗi cửa thành xưa kia đều có đắp ụ

làm chòi và có lính canh gác. Hiện nay còn thấy rõ các chòi canh ở các góc thành.

Trong thành gồm hai khu: khu ngoài và khu trong. Khu ngoài ở phía Bắc chiếm

diện tích khá lớn còn khu trong chỉ chiếm một diện tích nhở ở phía Nam. Khu ngoài

là nơi binh lính đóng quân, họ đã đào 133 cái ao và giếng nước để lấy nước sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hoạt và lấy đất đắp thành. Các trại lính, kho quân lương, kho vũ khí, tàu ngựa,

116

chuồng voi cũng đều ở khu này. Khu trong là nơi ở của thủ lĩnh Hoàng Công Chất

và các tướng lĩnh. Nơi này ngày nay còn có đền thờ Hoàng Công Chất và sáu tướng

giỏi của ông. Theo sử chép tay của Điện Biên, các tướng đó gồm: quận Chung, quận

Ngải, quận Khanh, quận Xiêm, quận Tả và quận Hữu. Cùng với Hoàng Công Chất,

sáu tướng lĩnh này họp thành bảy vị anh hùng của nghĩa quân. Do đó trước đây

thành Bản Phủ còn có tên gọi là lũy bảy vị anh hùng. Bên ngoài thành, khắp bốn

phía đều được trồng tre gai ngà có gai cong như chiếc ngà voi. Đây là giống tre

được nghĩa quân mang từ miền xuôi lên và được trồng dày đặc làm phên dậu che

chắn cho tòa thành. Sau này đã có địa danh gắn liền với những cây tre được trồng

nơi đây đó là bản Na Sang (ruộng tre mạy sáng) rồi có thêm những địa danh khác

được mang tên gọi này như suối Na Sang, cầu Na Sang.

Ngày nay đồng bào địa phương còn lưu truyền những câu thơ ca ngợi thành

Bản Phủ và công đức của Hoàng Công Chất:

Đây đúng là phủ lớn Chiềng Lề của ta

Chiềng Lề có trăm ao bèo to nhỏ

Chúa người Kinh xây thành để tiếng tăm đến đời sau

Chỗ sâu của thành sâu mười sải dài.

Chỗ rộng, rộng mười sải chân.

Mặt thành rộng bao nhiêu sải tay

Chúa cưỡi ngựa lên mặt thành xem xét

Đào hào, trồng tre pháy sợ không được dày

Mới lấy tre dưới xuôi lên

Trồng mới hàng rào mười vạn gốc

Chúa chia nước cho dân uống

Chia đất cho dân làm

Chúa hò hát âm vang trong phủ

Ai muốn biết thì đến mà ngóng xem

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mắt thấy tai nghe đủ các ngõ.

117

Đền Hoàng Công Chất được xây dựng ở trung tâm thành Bản Phủ. Nhân dân

Điện Biên coi đây là nơi ghi nhận công lao của Hoàng Công Chất và sáu vị tướng

giỏi của ông, những người anh hùng tài trí đã cùng đồng bào các dân tộc Điện Biên

đánh tan giặc Phẻ, giải phóng Điện Biên tháng 5 năm 1754 đồng thời có công xây

dựng và bảo vệ miền biên cương của Tổ quốc, chống lại sự xâm lăng của giặc ngoại

bang thời bấy giờ.

Hoàng Công Chất tên thật là Hoàng Công Thư, quê ở thôn Hoàng Xá, xã

Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông sinh năm 1706 trong một gia đình

nông dân và lớn lên cùng với những cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi chống

lại triều đình Lê - Trịnh. Năm 1739, Hoàng Công Chất phất cờ khởi nghĩa tại vùng

Sơn Nam (Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên). Lợi dụng vùng đầm lầy, sông nước

nghĩa quân dùng thuyền nhỏ di chuyển và chiến đấu rất linh hoạt gây nhiều tiếng

vang lớn. Các nghĩa quân của Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn, Tư Cao v.v... dần

quy tụ dưới cờ nghĩa quân Hoàng Công Chất. Nghĩa quân ngày một lớn mạnh đã

liên kết chặt chẽ với các cuộc khởi nghĩa khác của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ,

Nguyễn Hữu Cầu... cùng đẩy mạnh chiến đấu gây không ít khó khăn cho triều đình

Lê - Trịnh. Sau một thời gian dài hoạt động ở miền đồng bằng và liên kết với các

cuộc nổi dậy của các lãnh tụ nông dân, năm 1748, họ Hoàng vào hoạt động ở miền

thượng du Thanh Hóa phối hợp với nghĩa quân Lê Duy Mật chống lại triều đình

phong kiến mục nát và từ đó tiến quân lên miền Tây Bắc. Khi ở Thượng Lào, được

các thủ lĩnh người Thái là Ngải và Khanh cầu cứu, Chất đem quân lên Mường

Thanh và đoàn kết với đồng bào các dân tộc nơi đây đánh bại quân Phẻ, bảo vệ

miền biên cương của Tổ quốc. Sau chiến thắng giặc Phẻ, Hoàng Công Chất giúp

dân chúng ổn định sản xuất, cải thiện đời sống để thực hiện "thực túc binh cường"

và giao cho con là Hoàng Công Toản xây thành Bản Phủ. Từ đó Hoàng Công Chất

còn thu hồi được đất đai miền Thập Châu bị nhà Lê bỏ mất, ngăn ngừa được những

cuộc nhũng nhiễu, lấn đất, cướp bóc của bọn giặc cỏ từ phương Bắc tới. Vì vậy uy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tín của họ Hoàng đối với nhân dân địa phương rất lớn.

118

Hoàng Công Chất hoạt động ở Mường Thanh - Tây Bắc được hơn mười năm

và để lại công đức rất lớn. Các nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn và Cầm Trọng

khi nghiên cứu về "Những hoạt động của Hoàng Công Chất trong thời kỳ ở Tây

Bắc" đã nhận xét: "Ông có công cứu dân Thái và các dân tộc khác khỏi ách giặc

Phẻ, giải phóng miền Điện Biên khỏi sự lệ thuộc vào các chúa phong kiến Lào.

Miền này trên danh nghĩa đã quy vào địa đồ nước ta rất sớm, nhưng trong thực tế

vẫn do người Lự chiếm giữ từ giữa thế kỉ XI trở về trước. Tiếp đó một tù trưởng

người Thái đen là Lạng Chượng lên chiếm làm chủ. Đến thế kỉ XVIII, người Lự lại

đánh đuổi con cháu Lạng Chượng chiếm lại và làm chúa ở đó tính đến khi họ

Hoàng lên được 19 đời. Từ đó miền Điện Biên thuộc hẳn vào địa đồ nước ta và trở

nên một vị trí quan trọng của triều đình Việt Nam nhằm ngăn chặn sự uy hiếp của

quân Miến, quân Lào và quân Xiêm. Hoàng Công Chất còn thu phục lại 10 châu

thuộc phủ Yên Tây trước đây triều đình đã để mất cho các quan lại phong kiến vùng

Vân Nam. Hơn thế, Hoàng Công Chất còn xây dựng được sự đoàn kết chặt chẽ giữa

các dân tộc Kinh, Thái, Xá... nên được nhân dân các dân tộc Tây Bắc tín nhiệm,

mến yêu, coi như người anh hùng của mình". Khi Hoàng Công Chất mất đi, nhân

dân Tây Bắc nhất là vùng Điện Biên còn truyền lại đến ngày nay nhiều bài ca, nhiều

truyền thuyết ca ngợi công lao cứu dân, cứu nước của họ Hoàng:

"... Đây! Dưới xuôi có vua,

Trên này có chúa,

Những miền từ Mường Puồn, Châu Ét,

Từ Đà Bắc, Chợ Bờ,

Lại phía trên từ Châu Xo, Là đổ lại,

Tất cả đều quy phục chúa Mường Thanh.

Đất Mường Thanh rộng một giải Nậm Rốm, Nậm U, Nậm Núa,

Vây quanh thành Bản Phủ.

Chúa thật lòng yêu dân,

Chúa xây bản, dựng mường,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mọi người yên ổn làm ăn..."

119

*

* *

"... Nghe chăng tiếng hát của Keo Chất trong phủ,

Ngân vang khắp cánh đồng Mường Thanh bao la.

Ai ơi muốn biết xin hãy về coi,

Ai ơi có mắt hãy mở trông cho kỹ.

Người Kinh cùng người Hán,

Người Thái với người Lào, người Xá,

Vui vẻ cùng nhau tay làm, miệng hát..."

Đến nay, cứ vào ngày 24 và 25 tháng 02 âm lịch hằng năm, nhân dân trong

vùng lại tụ hội về đây mở hội đền với các nghi lễ cổ xưa để ca ngợi và tưởng nhớ

công lao của thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Công Chất. Lễ hội ở đền Hoàng Công Chất

được gọi là lễ hội Thành Bản Phủ. Lễ hội gồm hai phần: phần rước lễ vật và phần lễ

hội. Phần rước lễ vật dâng lên đền thờ tướng quân Hoàng Công Chất được thực hiện

trang nghiêm, thành kính và gợi lại không khí cổ xưa. Đây là hình thức biểu hiện

lòng tin và sức mạnh của nhân dân các dân tộc về sự biết ơn người anh hùng nông

dân áo vải Hoàng Công Chất cùng với 6 vị tướng lĩnh. Phần lễ hội lại gồm hai phần

là phần lễ và phần hội. Phần lễ được tổ chức trang nghiêm, trọng thể: trong tiếng

nhạc trầm buồn vang lên lời đọc chúc văn giỗ tướng quân Hoàng Công Chất và các

vị tướng lĩnh, sau đó là màn tái hiện lịch sử Hoàng Công Chất để làm nổi bật truyền

thống đấu tranh, tinh thần đoàn kết dân tộc, xây dựng quê hương, đất nước của nhân

dân các dân tộc Tây Bắc - Điện Biên Phủ anh hùng và lễ dâng hương tưởng nhớ

công ơn tướng quân Hoàng Công Chất. Còn phần hội là phần tổ chức các hoạt động

văn hóa, văn nghệ, thể thao, các trò chơi dân gian, thi ẩm thực... Nhiều hoạt động

gợi lại thời kì Hoàng Công Chất lãnh đạo nhân dân chống giặc Phẻ và giúp dân xây

dựng đời sống. Phần hội góp phần thể hiện bản sắc văn hóa của các dân tộc trong

tỉnh, lòng tin yêu và mến mộ muôn đời của nhân dân đối với công lao của các vị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tướng đã đem lại cuộc sống mới yên vui, sung túc nơi đây.

120

Di tích thành Bản Phủ và đền Hoàng Công Chất đã được Bộ Văn hóa (nay là

Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm

1981. Đây là di tích không chỉ có giá trị lịch sử, văn hóa mà còn có giá trị cho việc

nghiên cứu khoa học và kiến trúc độc đáo của một công trình quân sự ở vùng rừng

núi biên cương của Tổ quốc Việt Nam.

3.7.3. Hồ U Va

Hồ U Va thuộc bản U Va, xã Noong Luống, huyện Điện Biên, tỉnh Điện

Biên, cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ trên 10 km về phía Tây Nam.

Cái tên hồ U Va cho đến nay cũng là một câu chuyện khá lí thú. Hai nhà

nghiên cứu văn hóa dân gian của tỉnh là Hoàng Tam Khọi và Lò Ngọc Duyên kể

rằng: Hồ U Va là một hồ nước tự nhiên, trước đây vắng vẻ, xa dân cư, xung quanh

hồ lau, sậy mọc rậm rạp. Nước hồ trong xanh và quanh năm đầy nước, có rất nhiều

các loài cá, các loài sinh vật và các loài thực vật sinh sôi, phát triển. Vì thế hồ có

nguồn thức ăn phong phú cho các loài vịt trời, sếu, thiên nga và các loài động vật

khác. Một vài người thợ săn mới biết đến hồ này đã làm những cái thum gần bờ hồ

để rình bắn vịt trời, sếu, thiên nga. Hằng ngày, họ săn bắt được khá nhiều nên dân

chúng ai cũng khen ngợi. Những người thợ săn ở nơi khác nghe tiếng đồn cũng tìm

đến. Khi họ rình bắn được nhiều chim trời như vậy nhiều người dân hỏi họ: Bắn ở

nơi đâu được thế này? Có một người thợ săn hôm ấy trả lời người hỏi: "Chỉ có ao

tao bảo (noong cu va) mới có mà rình bắn thôi". Từ đấy người dân quanh vùng gọi

hồ này là Noong Cu Va (Ao Tao Bảo). Mãi về sau không ai nhớ được nữa viết thành

Noong U Va. Nếu ta gọi U Va thì trong tiếng Thái không có nghĩa. Ngày nay do

quen gọi Noong U Va (Hồ U Va) rồi nên cứ gọi như thế nhưng ý nghĩa sâu xa của

nó là Noong "Cu Va" - Ao "Tao Bảo" (trong tiếng Thái chỉ có khái niệm ao, ao to,

ao nhỏ đều gọi là "noong" nhưng thực tế Noong U Va có diện tích khá rộng vì thế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Noong Cu Va hay Noong U Va khi dịch sang tiếng Việt sẽ là Hồ U Va).

121

Hồ U Va đẹp, thơ mộng và xung quanh hồ còn lưu truyền nhiều huyền thoại

ly kỳ về mối quan hệ giữa bầu trời và mặt đất, giữa mường trời với mường người.

Theo lời kể của nhà nghiên cứu văn hóa Thái Cầm Trọng thì thuở mà Then

(ông trời) còn bắt đàn ông, đàn bà sống biệt lập và dần dà tạo lập thành hai mường

thì hồ U Va là một trong những nơi ở của mường đàn bà. Hồ U Va còn là nơi mà bà

Then Bảu (Mẹ Bẩu, giống như Bà mụ của người Việt) xúc cá để mớm cho con

người trước khi đưa con người xuống đầu thai ở cõi trần. Được ăn miếng cá ở hồ U

Va Mường Trời, loài người mới có linh hồn sống. Đến khi con người ở dưới cõi trần

làm trái ý Then, vẫn sinh con đẻ cái nên để tránh bị Then trừng phạt, những đứa trẻ

mới sinh ra phải được tắm nước hồ U Va ngay để lột xác thành người lớn.

Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cũng còn lưu lại câu chuyện về

hồ U Va: Theo "Truyện kể bản mường" (Quắm tố mướng) của người Thái thì ngày

xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi, trời và đất gần nhau lắm, gần đến nỗi "giã gạo bị

vướng chày, đẽo cày e vướng rìu, bò đi còn vướng cổ, lợn đi vướng gông". Dây

Khau Cát được dùng làm đường lên xuống giữa hai cõi trời và đất. Có lần trẻ con

của "Mường người" tung còn quá mạnh, còn bay lên "Mường trời" vướng vào

khung dệt của bà Da Náng Then, vợ của vua trời, làm đứt sợi dọc, làm rối sợi

ngang. Da Náng Then tức giận bèn chặt đứt dây Khau Cát để triệt đường lên xuống.

Dây Khau cát đứt, trời tự nhiên dâng bổng lên cao tít đến “ba trăm ba mươi đường

tên đi, năm trăm năm mươi đường đạn súng, bảy trăm bảy mươi thúng chỉ tơ” (lời

thơ trong tác phẩm "Ẳm Ết Lũng" của người Thái ở Mai Châu, Sơn La). Cũng từ đó

trời đất cách xa nhau và giữa lòng hồ U Va trời cho mọc lên một cây xi. Cây xi càng

lớn cành lá càng xum xuê che khuất cả mặt trời, bóng tối chùm lên một vùng rộng

lớn. Cả con người và cây cối đều bị cớm nắng, thiếu sức sống. Con người muốn

chặt bỏ cây xi nhưng không đủ sức. Sau nhờ có anh em Ẳm Ý tài giỏi, sức khỏe hơn

người, kiên trì ròng rã “ba tháng không nghỉ, ba năm không ngơi” cuối cùng cây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhà trời cũng phải đổ. Vùng đất Mường Thanh từ đó chan hòa ánh sáng và ngày

122

càng trù phú, màu mỡ. Về sau vua trời cử Khun Borom, con út của vua trời, xuống

trần gian lập nghiệp. Khun Borom lập bản, dựng mường và nơi ở của Khun chính là

hồ U Va ngày nay.

Một câu chuyện khác trong kho tàng truyện cổ các dân tộc ít người Việt Nam

cũng giúp ta thêm hiểu hơn về một vùng hồ thiên nhiên, huyền thoại của dân tộc

Thái nói riêng và các đồng bào dân tộc sinh sống nơi đây nói chung. Đó là câu

chuyện về Ải Lậc Cậc đi tìm viên đá lửa, Ải đã lấy chân gạt đá về hai đầu sông và

một trong những hòn đá lửa của Ải hiện là một quả núi gần sông Pắc Nậm. Qua Pắc

Nậm một đoạn thì đến hồ U Va. Mùa khô hồ cạn nước, nông dân đắp bờ giữ nước

nuôi cá, trồng lúa ruộng. Khi mùa mưa đến, nước trên núi chảy về đầy hồ làm cho

hồ được tái sinh. Xung quanh hồ, núi rừng trùng điệp. Phía ngoài hồ có núi U Va,

phía trong hồ có Pú Tạo Nòn (núi chàng ngủ) và Pú Nang Nòn (núi nàng ngủ).

Bên cạnh những huyền thoại, truyền thuyết, hồ U Va còn là nơi có nguồn

suối khoáng nóng được thiên nhiên ban tặng. Nguồn là một mạch nước đùn ra từ

trong lòng đất, khoảng 65 đến 70 độ, nhúng tay vào bỏng rát. Nguồn nước này có

tác dụng an dưỡng và chữa trị được một số bệnh trong y học. Người dân địa phương

còn kể rằng trước đây họ thường mang trứng gà, trứng vịt ngâm nước cho chín, làm

thịt gà, vịt cũng chỉ cần nhúng xuống chỗ nước đầu nguồn là sẽ làm được dễ dàng.

Cũng theo tư liệu của Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ thì khu

vực hồ U Va trước đây đã phát hiện trống đồng cổ niên đại Hergơ II, III (hiện còn

lưu giữ tại bảo tàng Tỉnh Điện Biên) và một số hiện vật khác thuộc di chỉ khảo cổ

học. Các nhà khoa học cho rằng: Đây là nơi cư trú của một nhóm cư dân cổ xưa ở

Điện Biên. Các hiện vật đã cho thấy các cư dân ở U Va đã có mặt ở vùng đất này từ

rất sớm và trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau. Đặc biệt việc tìm thấy các mẫu

đám thóc cháy ở đây là những hiện vật rất quý để tìm hiểu nguồn gốc sự xuất hiện

của cây lúa Điện Biên. Cây lúa nơi đây có liên quan đến nhiều dòng, nhiều loại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giống lúa hoang dại khác đã phát hiện ở Việt Nam và các nước trong khu vực. Như

123

vậy Hồ U Va và những khu vực xung quanh đó còn là một vùng có giá trị khảo cổ

học và giàu ý nghĩa lịch sử. Vì vậy cái tên Hồ U Va còn được đặt cho khu khảo cổ

học lớn của tỉnh: Khu khảo cổ học Hồ U Va.

Có thể nói thiên nhiên U Va tươi đẹp, hùng vĩ và thơ mộng. Nó vừa là sự ưu

ái của thiên nhiên vừa là kết quả tạo dựng của con người qua bao nhiêu thế hệ từ đất

Mường Thanh cổ xưa đến châu Điện Biên và Điện Biên Phủ ngày nay. Không chỉ

thế U Va còn có những truyền thuyết, huyền thoại lí thú, hấp dẫn và những di chỉ

khảo cổ học quý giá gắn liền với nền văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc đặc

biệt là dân tộc Thái. Trong tình cảm của mỗi người thì nơi đây thật sự là một vùng

đất huyền thoại, nơi khởi nguồn, khởi thủy và là nơi hội tụ của văn hóa và lịch sử.

Đó chính là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc anh em trên quê hương

Điện Biên Phủ anh hùng. Và như vậy trong tương lai hồ U Va sẽ là điểm phát triển

du lịch sinh thái, lịch sử bền vững gắn với du lịch văn hóa lành mạnh.

3.7.4. Đồi A1

Đồi A1 là một quả đồi nằm ở trung tâm thành phố Điện Biên Phủ. Đồi nằm

dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, có diện tích 53.350 m2. Đồi A1 có hai đỉnh:

đỉnh Tây Bắc cao hơn 493 m, đỉnh Đông Nam cao 490 m. Đứng ở đỉnh đồi có thể

nhìn bao quát lòng chảo Điện Biên: xa xa về phía Bắc là đồi E1, gần hơn một chút

là đồi C2, D1, C1. Nhìn vượt qua đồi E1 sẽ thấy thấp thoáng tấm bia của đồi Him

Lam. Chếch về hướng Tây Bắc là sân bay Mường Thanh. Phía Đông Nam là đồi

Cháy (quân Pháp gọi là Mont Chauve) và đồi F (quân Pháp gọi là Mont Fictif).

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ đồi nằm ở phía Đông của Sở chỉ huy tập đoàn cứ

điểm Điện Biên Phủ. Đồi có một sườn đồi nhiều cây cối chạy thoai thoải về phía

Đông mà những sĩ quan Pháp thường gọi là Săng Êlydê (Champs Elysées, tên một

đại lộ ở trung tâm thủ đô Pari của nước Pháp, còn theo truyền thuyết Hy Lạp - La

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mã thì nó có nghĩa là nơi yên nghỉ của những linh hồn đức hạnh).

124

Trải qua nhiều thời kì lịch sử khác nhau, đồi A1 đã mang rất nhiều tên gọi,

mỗi tên gọi đều ít nhiều gắn với những câu chuyện hay những sự kiện lịch sử. Cái

tên cổ xưa nhất mà có lẽ ngày nay nhiều người đã lãng quên hoặc chưa biết đến đó

là Pom Lạng Chượng (đồi Lạng Chượng), cái tên có nguồn gốc tiếng Thái. Sở dĩ có

tên gọi này vì đây là nơi Lạng Chượng, một tù trưởng người Thái đen, đóng quân.

Ông đã có công đánh bại được các nhóm dân tộc Nam Á từ Nghĩa Lộ (Yên Bái

ngày nay) qua Sơn La và tới Điện Biên rồi làm chủ trung tâm cánh đồng Mường

Thanh thời bấy giờ (vào khoảng thế kỉ XI - XII). Lạng Chượng cũng là người mở

đầu cho giai đoạn người Thái làm chủ miền Tây Bắc nước ta trong đó có vùng đất

Mường Thanh lịch sử. Năm 1940 (có tài liệu nói vào cuối thế kỉ XIX), khi quân Pháp

chiếm đóng Điện Biên và lập đồn binh ở đây, dân địa phương lại gọi đồi này là đồi

Đồn Tây. Đây là tòa sở của viên đại lý người Pháp, một quan binh kiêm cai trị. Dinh

cơ này được xây dựng, bố trí theo kiểu đồn trại, thành lũy rất kiên cố, vững chắc, có

nhà làm việc, có hầm ngầm trú ẩn, có đường hào thông với hầm ra bên ngoài và có

các trại lính xung quanh đó. Đến cuối năm 1953, thực hiện kế hoạch Nava Pháp quay

trở lại chiếm đóng Điện Biên Phủ. Khi đó đồi Đồn Tây được quân Pháp gọi bằng cái

tên mĩ miều Êlian 2, tên của một cô gái đẹp người Pháp. Lúc này quả đồi không chỉ

là một đồn binh mà đã trở thành một cứ điểm phòng ngự vững mạnh của Pháp, chúng

đã sử dụng những gia tài mà người Tây đến trước để lại. Sau này trong chiến dịch

Điện Biên Phủ, bộ đội ta đã đặt kí hiệu cho quả đồi là A1, kí hiệu này được dùng phổ

biến cho đến ngày nay và đã trở thành một địa danh nổi tiếng.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, về phía Pháp, đồi A1 được xác định là "cái

cuống họng" đối với sở chỉ huy trung tâm, A1 có ý nghĩa quyết định đến sự tồn

vong của cả tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bởi vậy cứ điểm A1 được tướng Đờ

Cát (tướng chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ) biến thành một cứ điểm mạnh

nhất trong tất cả các cứ điểm ở Điện Biên Phủ. Còn về phía ta, chiếm được A1, ta có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thể uy hiếp mạnh mẽ khu trung tâm, thắt chặt vòng vây khống chế vùng trời, thu

125

hẹp phạm vi thả dù tiếp tế của địch, tiến tới triệt hẳn đường tiếp tế hàng không của

chúng. A1 còn là bàn đạp rất tốt để cho quân ta dùng pháo bắn thẳng, ĐKZ, đại liên

yểm hộ cho bộ binh vượt cầu Mường Thanh tiến vào khu trung tâm tiêu diệt sở chỉ

huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Vì vậy nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm A1 cũng

được đặt lên hàng đầu. Nhiệm vụ này đã được giao cho trung đoàn 174, Đại đoàn

316 và trung đoàn 102, Đại đoàn 308. Hai trung đoàn này đã thay thế, phối hợp chặt

chẽ và đã anh dũng chiến đấu liên tục trong 36 ngày đêm với 3 đợt tấn công và một

đợt chủ động đánh phòng ngự. Cuộc chiến đấu trên đồi A1 diễn ra vô cùng ác liệt.

Ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng chiến hào. Sau cuộc tiến công thứ hai, ta

và địch mỗi bên giữ một điểm cao. Bộ đội ta chiến đấu bằng cả súng, bộc phá, lựu

đạn, lưỡi lê và cả tay không. Nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hi sinh. Cuối cùng

sau đợt tiến công thứ ba quân ta đã đập tan được sức kháng cự của địch và làm chủ

được cứ điểm này.

Sự kiện góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt trên đồi A1 và đã trở thành

câu chuyện thần kì trong chiến dịch Điện Biên Phủ là sự kiện quân ta đã bí mật đào

một đường ngầm từ trận địa của ta tới hầm ngầm cố thủ của địch ở đỉnh đồi và đặt

khối bộc phá gần một ngàn cân ở đó để tiêu diệt nó. Nhiệm vụ quan trọng này đã

được giao cho một tổ công binh có kinh nghiệm và kỹ thuật của trung đoàn 151 do

đại đội trưởng Nguyễn Phú Xuyên Khung chỉ huy, xuống tăng cường cho đại đội

công binh Đại đoàn 316 do đồng chí Cao Chu Khang chỉ huy, đồng chí Khung làm

trưởng, đồng chí Khang làm phó thành một bộ phận thống nhất đào đường hầm.

Hầm được quy định có chiều dài 42 m, chiều cao và chiều rộng 0,90 m và một

ngách hầm mỗi chiều 1,50 m để đặt chứa thuốc nổ. Theo lời kể của ông Bùi Văn

Vân, một chiến sĩ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, thì: “tối 20 - 4 - 1954, cuộc

tiến công vào lòng đất đồi A1 bắt đầu. Những nhát cuốc, nhát xẻng đầu tiên được ấn

vào lòng đất để moi từng nắm đất nhỏ ra vì hầm chỉ được đào với kích thước nhỏ và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trên đầu là quân địch đang canh giữ ngày đêm...

126

Cuộc chiến đấu trong lòng đất tuy không có giặc, không còn lo bom đạn

của giặc sát hại nhưng lại cực kì gian khổ, khó khăn, quyết liệt. Mười ngày đêm,

hàng chục người thay nhau moi đất đá trong lòng đồi A1. Đường hầm thấp và

hẹp. Họ phải nằm nối đuôi nhau, thay nhau đào, cào đất, sỏi. Chật vật cả ngày,

đêm chỉ được 40 - 50 cm. Bền bỉ, kiên gan và căng sức chịu đựng mọi thử thách,

công việc đào, dũi đường hầm của họ sâu dần. Nhìn phía sau, ánh sáng chỉ còn

lờ mờ và phía trước đất dày và tối mù mịt. Đường hầm càng vào sâu thì không

khí càng ít. Nhiều người, chật chội, ngột ngạt, khó thở vô cùng. Họ phải tính

từng phút để luân phiên nhau đào và bò ra gần cửa hầm để hít thở chút dưỡng khí

và chống ngạt trong hầm”. Đại đội trưởng Nguyễn Phú Xuyên Khung thì kể lại:

ai đào tốt nhất cũng chỉ được 1 tiếng là phải trở ra ngoài. Ông Bùi Văn Vân kể

tiếp : “Mỗi nhát cuốc, nhát xẻng là diệt một quân thù!”, “Người nghỉ, cuốc xẻng

không nghỉ!”. Anh em động viên nhau bằng những khẩu hiệu hành động đó. Tất

cả coi mình như đang chiến đấu quyết liệt trong đồn giặc. Họ đã tập luyện dần

cách nín, cách thở để đào được lâu hơn. Sáng kiến đan quạt và luân phiên nhau

quạt từ cửa hầm vào sâu trong đường hầm để tăng thêm dưỡng khí cũng làm

giảm bớt ngột ngạt và dễ chịu đôi phần.

Qua lao động có kinh nghiệm, cách đào được cải tiến. Năng suất từ 40 - 50

cm tăng lên 80 - 90 cm rồi đến 1 m/ngày. Bước sang ngày thứ 16, các chiến sĩ đã

đào được 37 m chiều dài đường hầm. Tuy chưa tới chân “lô cốt mẹ” và chưa đạt

chiều dài quy định nhưng các chiến sĩ đã nghe thấy tiếng động của địch ở trên cứ

điểm. Toàn đội vô cùng phấn khởi. Được lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận, họ thôi

đào hầm, khẩn trương đào một hố sâu và rộng, mỗi chiều 1,50 m để đặt khối bộc

phá. Khối bộc phá cũng là một sáng tạo của các chiến sĩ công binh. Họ đã tháo gỡ

thuốc nổ của bom đạn địch còn lại ở các máy bay bị bắn rơi, bị phá hủy và làm

được 49 gói thuốc nổ, mỗi gói nặng 20 kg. Những khối thuốc nổ này đã được xếp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gọn trong hố sâu của đường hầm với hàng trăm kíp thuốc nổ đặt ở giữa và 4 góc.

127

Nhiệm vụ điểm hỏa khối bộc phá được giao cho đội trưởng Nguyễn Phú Xuyên

Khung và hai đồng chí Nguyễn Bạch và Nguyễn Điệt thực hiện. “Nếu điểm hỏa

mà khối thuốc không nổ thì giải quyết ra sao?” - Một câu hỏi lớn. Điều đó sẽ gây

nhiều khó khăn trong chiến đấu của quân đội ta. Chi bộ họp bàn. Một không khí

trang nghiêm và hệ trọng. Vì nghĩa lớn phải có người hi sinh. Hai đảng viên đã

xung phong nhận mỗi người mang theo một khối thuốc nổ 20 kg, sẵn sàng lao vào

hầm sâu cho khối thuốc ngàn cân ấy nổ tung. Cả chi bộ nhìn hai đồng chí thân yêu

của mình lòng đầy xúc động, nghẹn ngào... Thế rồi việc điểm hỏa khối bộc phá

của đồng chí Nguyễn Phú Xuyên Khung đã thành công. Đúng 20h 30 phút ngày

6/5/1954, một ánh chớp lóe sáng và một tiếng nổ trầm đục rung chuyển ngọn đồi,

một cột khói bốc cao, sức ép của khối bộc phá đã khoét sâu một hố tới 18 m, rộng

21 m, hủy diệt một số lô cốt, nhiều đoạn ụ hào, ụ súng và một phần đại đội dù số 2

của địch”. Nguyễn Phú Xuyên Khung kể lại: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau này

đã hỏi ông: Tại sao khối bộc phá lại nổ nhỏ vậy? Ông trả lời: Thưa Đại tướng,

tiếng nổ của nó tuy nhỏ nhưng tiếng vang của nó lại rất lớn”. Khối bộc phá nằm

khá sâu trong lòng đồi A1 nên tiếng nổ không “khủng khiếp” vang xa như mọi

người chờ đợi. Nhưng tác động của nó thì khác thường, nó làm cho mặt đất của cả

vùng Điện Biên lay động. Đợt tiến công lớn vào A1 kết thúc thắng lợi đã mở đầu

đợt tiến công cuối cùng vào toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Đồi A1, điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và địch, từ sau ngày giải phóng

đã trở thành một trong những di tích của quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ.

Đến nay, đồi A1 đã được tu bổ, tôn tạo nhằm tái hiện một phần cục diện cuộc chiến

khốc liệt năm xưa. A1 đã trở thành điểm đến hấp dẫn, lí thú cho người dân địa

phương và những du khách tham quan Điện Biên. Cùng với quần thể di tích lịch sử

Điện Biên Phủ, di tích đồi A1 - ngọn đồi anh hùng sẽ mãi mãi trường tồn cùng non

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sông đất nước.

128

3.8. TIỂU KẾT

Qua nghiên cứu một vài đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong 1001 địa danh

thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, có thể rút ra một vài nhận xét như sau:

3.8.1. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên khá đa dạng

nên đồng thời cũng thể hiện sự đa dạng của văn hóa nơi đây. Dấu ấn của văn hóa

đã được lưu lại qua những địa danh thuộc di sản văn hóa vật thể hay các địa danh

phản ánh di sản văn hóa phi vật thể. Nhìn từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa sẽ thấy

rõ những ảnh hưởng của văn hóa đối với ngôn ngữ qua các yếu tố cấu tạo, nội

dung, nguồn gốc, ý nghĩa, giá trị địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện

Điện Biên.

3.8.2. Địa danh lưu giữ trong mình những tư liệu, thông tin về văn hóa vật chất

và tinh thần của người sáng tạo ra nó. Qua 30 trường nghĩa khác nhau được xếp

trong các tiểu nhóm thuộc hai hai nhóm ý nghĩa lớn là nhóm ý nghĩa phản ánh hiện

thực khách quan gắn liền với những đối tượng địa lí và nhóm ý nghĩa phản ánh đời

sống tư tưởng, tình cảm của con người, chúng ta có thể thấy bức tranh sinh hoạt vật

chất cùng với bức tranh đời sống tinh thần được thể hiện thật sinh động, rõ nét. Bức

tranh sinh hoạt vật chất thể hiện ở việc người dân nơi đây đã biết chọn những địa

điểm thích hợp cho việc sinh sống, canh tác như chọn nơi lập bản, mường, thôn,

xóm, nơi làm ruộng lúa, nương rẫy; biết xây dựng những mương, phai, kênh, hồ,

đập và rất nhiều những công trình khác để phục vụ cho đời sống. Còn bức tranh đời

sống tinh thần thể hiện qua niềm tin tín ngưỡng mộc mạc, chất phác gắn liền với đời

sống sinh hoạt, sản xuất; qua những nguyện vọng, ước mơ về cuộc sống yên vui,

giàu có, bền vững. Giữa các trường nghĩa và các đặc điểm văn hóa được thể hiện

trong địa danh luôn có mối quan hệ gắn bó với nhau. Tất cả những điều đó làm nên

một vùng đất rất giàu bản sắc văn hóa và người dân ở đây luôn có ý thức gìn giữ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phát huy bản sắc văn hóa đó.

129

3.8.3. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên thể hiện một

vùng đất đa dân tộc, đa ngôn ngữ, đa văn hóa. Nơi đây là địa bàn của 20 dân tộc

anh em sinh sống trong đó chiếm số lượng đông nhất là dân tộc Thái sau đó đến

các dân tộc Kinh, Mông, Khơ Mú, Lào. Vì vậy các địa danh cũng chịu sự ảnh

hưởng, chi phối của văn hóa Thái, văn hóa Việt cùng văn hóa các dân tộc thiểu số

khác trong vùng. Sự giao thoa giữa các nền văn hóa tạo nên một bức tranh văn hóa

đa sắc màu ở nơi đây.

Về ngôn ngữ, các địa danh được cấu tạo bởi các yếu tố có nguồn gốc ngôn

ngữ khác nhau như nguồn gốc thuần Việt, Hán Việt, nguồn gốc tiếng Thái, tiếng

Mông, tiếng Khơ Mú, tiếng Lào, nguồn gốc tiếng Pháp và có cả những địa danh

có nguồn gốc hỗn hợp từ các yếu tố này. Ý nghĩa địa danh vì thế mà cũng trở nên

phong phú. Có những địa danh giàu tính gợi tả, biểu hiện tính chất cụ thể, sinh

động, chân thực, gần gũi; có những địa danh biểu hiện tính chất trang trọng hay

tính chất hàm ý sâu sa và có cả những địa danh biểu hiện các nét ý nghĩa kết hợp

này. Bên cạnh đó, trong quá trình giao lưu văn hóa, nhiều địa danh có nguồn gốc

ngôn ngữ dân tộc thiểu số cũng đã bị Việt hóa về cả ngữ âm và ngữ nghĩa, có

những địa danh qua nguồn gốc ngữ nguyên có thể nhận biết được ý nghĩa và

những đặc trưng văn hóa mà nó thể hiện, ngược lại có những địa danh rất khó để

nhận biết được điều đó.

3.8.4. Những địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên

đã vẽ lên một cách khái quát cấu trúc địa hình của vùng. Đó là các kiểu địa hình từ

cao xuống thấp và nằm đan xen lẫn lộn của sơn danh như dãy núi, núi, đồi, thác,

đèo, bãi; thủy danh như sông, suối, khe, rãnh, hồ, ao và vùng đất nhỏ phi dân cư

như cánh đồng, thung lũng, hang, động. Các sông, suối, khe, rãnh vì thế mà cũng

được sắp xếp theo hướng địa hình của dãy núi, núi, đồi. Ở mỗi loại địa hình cụ thể

của đồi, núi, sông, suối... lại có nhiều nét gợi hình, gợi tả hay gắn với những đặc

điểm riêng biệt. Địa hình đó tạo cho nơi đây có hệ động, thực vật phong phú, đa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dạng và cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp.

130

3.8.5. Nghiên cứu đặc điểm ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo nên một số địa

danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên cũng chính là đi vào

nghiên cứu nghĩa của từ trong tiếng Việt. Nghĩa của địa danh giống như từ ở chỗ nó

có cả nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm tuy nhiên nó cũng có điểm khác biệt rõ ràng

ở chỗ nghĩa của địa danh luôn luôn có tính lí do, có nguồn gốc xuất xứ của nó. Nếu

tìm hiểu được nguồn gốc của tính có lí do này sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về địa

danh cùng với những đặc điểm địa lí, lịch sử, văn hóa, tộc người có liên quan đến

nó. Bên cạnh đó, ý nghĩa của địa danh có thể được giữ nguyên hoặc bị biến đổi ít

nhiều theo sự chuyển hóa từ loại của các yếu tố cấu tạo địa danh thành các danh từ

chỉ tên riêng trong địa danh.

3.8.6. Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên đều là những địa bàn mới

được thành lập nên phần lớn các địa danh trong vùng mới xuất hiện và còn chưa hoàn

thiện về hệ thống các loại địa danh. Địa giới hành chính ở một số vùng thuộc hai địa

bàn còn có sự thay đổi nên trong địa danh các đơn vị dân cư xuất hiện nhiều địa danh

được chia tách từ một địa danh gốc. Các địa danh này có khả năng phản ánh những đặc

trưng văn hóa, lịch sử, địa lí mới ở trong vùng. Cũng ở trong hai địa bàn này, hầu hết

các địa danh cổ, cũ đã bị mất đi hoặc thay vào đó là các tên gọi mới, chỉ có một số ít

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

địa danh còn tồn tại và được giữ nguyên vẹn cho đến ngày nay.

131

KẾT LUẬN

Qua việc thu thập, phân tích và mô tả, khái quát hóa về địa danh thành phố

Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc hẳn có

nhiều vấn đề chúng tôi chưa đưa ra hoặc giải quyết chưa thỏa đáng đối với thực tế

địa danh và yêu cầu của việc nghiên cứu địa danh. Tuy vậy, chúng tôi cũng xin nêu

ra những kết luận có tính chất bước đầu về địa danh thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên như sau:

1.1. Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là địa bàn phức tạp về địa lí,

lịch sử, dân cư, ngôn ngữ và văn hóa. Đặc điểm này được phản ánh khá rõ nét trong

địa danh nơi đây. Đó là hai vùng địa bàn có các đối tượng địa lí rất phong phú, đa

dạng. Những địa hình đồi núi, sông suối, ao hồ, thung lũng, hang động nằm xen kẽ

cùng với các đơn vị dân cư và các công trình xây dựng nhân tạo khiến cho cảnh quan

nơi đây có nhiều nét đặc sắc, độc đáo và mang những dáng vẻ riêng của một tỉnh

miền núi phía Tây Bắc của Tổ quốc. Các địa danh này được định danh bằng những

phương thức khác nhau và sử dụng các yếu tố có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau của

các dân tộc sinh sống trong vùng. Bên cạnh đó, đây còn là địa bàn cư trú lâu đời của

dân tộc Thái nên văn hóa Thái có sức chi phối mạnh đến các địa danh.

1.2. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên nằm trong một

cấu trúc phức thể nhất định. Đó là mô hình cấu trúc phức thể gồm hai bộ phận là

thành tố chung và địa danh (tên riêng). Mỗi bộ phận đó có vai trò, chức năng riêng

nhưng được đặt trong mối quan hệ gắn bó, thống nhất với nhau. Bộ phận thành tố

chung thường đứng trước và là cái được hạn định cho đối tượng địa lí. Còn bộ phận

địa danh thường đứng sau để hạn định cho đối tượng địa lí đó. Ở mọi loại hình địa

danh, các thành tố chung đều có sự chuyển hóa nhiều hay ít vào vị trí các yếu tố

trong địa danh. Sự chuyển hóa này tạo nên tính tầng bậc đa dạng cho địa danh về

cấu tạo lẫn ý nghĩa phản ánh. Mô hình cấu trúc phức thể địa danh nơi đây có điểm

khá đặc biệt so với nơi khác đó là có số lượng yếu tố lớn, mô hình cấu trúc phức thể

có tối đa là 19 yếu tố với độ dài lớn nhất của thành tố chung là 7 yếu tố và của địa

danh là 12 yếu tố; còn trên khảo sát thực tế thì phức thể địa danh có số lượng yếu tố

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lớn nhất là 15 yếu tố.

132

1.3. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được cấu tạo theo

ba phương thức đó là phương thức cấu tạo mới, phương thức chuyển hóa và phương

thức vay mượn trong đó mỗi phương thức lại gồm những loại khác nhau, phương

thức cấu tạo mới gồm 8 loại, phương thức chuyển hóa gồm 2 loại và phương thức

vay mượn gồm 3 loại. Trong cả ba phương thức thì phương thức cấu tạo mới giữ

vai trò chủ yếu. Phương thức này đã góp phần tạo nên các kiểu cấu tạo của địa danh

đặc biệt là kiểu cấu tạo phức theo quan hệ chính phụ. Các phương thức định danh

cấu tạo nên các địa danh này rất phong phú, đa dạng đồng thời còn có mối quan hệ

gắn bó chặt chẽ, khăng khít với những đặc điểm về địa lí, lịch sử, văn hóa, tộc

người ở Điện Biên. Những đặc điểm đó góp phần tạo nên nét riêng, đặc sắc, độc đáo

trong ý nghĩa của địa danh ở hai địa bàn này.

Một đặc điểm nổi bật nữa trong cấu tạo địa danh thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên là số lượng địa danh có cấu tạo phức chiếm số lượng lớn. Đây

cũng là kết quả của phương thức cấu tạo mới và phương thức chuyển hóa thành tố

chung chỉ loại hình địa danh này vào các yếu tố trong địa danh khác. Như vậy xét

về mặt cấu tạo, mặc dù độ dài tối đa một địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên gồm mười hai yếu tố nhưng đa số địa danh vùng này có cấu tạo

song tiết theo quan hệ chính phụ.

1.4. Các địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên nói chung đều

mang tính lí do. Trong số những nhóm ý nghĩa và các trường nghĩa được xác định

có thể nhận thấy hai kiểu ý nghĩa thể hiện qua các yếu tố trong địa danh, đó là nhóm

ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan gắn liền với những đối tượng địa lí và nhóm

ý nghĩa phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm của con người. Tất cả những ý nghĩa

mà các yếu tố trong địa danh phản ánh đều phù hợp với hiện thực một bức tranh về

địa hình, về cuộc sống đấu tranh, xây dựng vùng đất mới cùng với những nguyện

vọng, mong ước tốt đẹp của con người sinh cơ lập nghiệp trên vùng đất đó.

Các địa danh được cấu tạo bởi các yếu tố có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau

(tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài) với những ý nghĩa biểu hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phong phú. Có những địa danh giàu tính gợi tả, biểu hiện tính chất cụ thể, sinh động,

133

chân thực, gần gũi; có những địa danh biểu hiện tính chất trang trọng hay tính chất

hàm ý sâu sa và có cả những địa danh biểu hiện các nét ý nghĩa kết hợp này. Bên

cạnh đó, trong quá trình giao lưu văn hóa, nhiều địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân

tộc thiểu số cũng đã bị Việt hóa về cả ngữ âm và ngữ nghĩa, có những địa danh qua

nguồn gốc ngữ nguyên có thể nhận biết được ý nghĩa và những đặc trưng văn hóa mà

nó thể hiện, ngược lại có những địa danh rất khó để nhận biết được điều đó.

1.5. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên đã lưu giữ những

dấu ấn di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trong những thời kỳ lịch sử

khác nhau của địa bàn. Giữa các trường nghĩa và các đặc điểm văn hóa được thể

hiện trong địa danh luôn có mối quan hệ gắn bó với nhau. Điều đó được biểu hiện

thông qua địa lí, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng, tâm lí ứng xử của con người và ngôn

ngữ. Tất cả những điều đó làm nên một vùng đất rất giàu bản sắc văn hóa và người

dân nơi đây luôn có ý thức giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa đó.

1.6. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên đã cung cấp được

phần nào những thông tin về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong đó

chủ yếu là những thông tin về văn hóa, xã hội của một vùng đất giàu ý nghĩa và giá

trị lịch sử này của đất nước. Hi vọng những kết quả của việc nghiên cứu địa danh sẽ

góp phần giúp các nhà nghiên cứu thuộc các ngành khoa học xã hội khác nhau tìm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

được những cứ liệu có giá trị cho lĩnh vực nghiên cứu của mình.

134

NHỮNG BÀI BÁO CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN VĂN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ

1. Trần Thị Phương Hằng (2009), Điện Biên Phủ - Địa danh lịch sử, văn hóa,

Hội thảo Ngôn ngữ học toàn quốc, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Trường Đại

học Cần Thơ.

2. Trần Thị Phương Hằng (2009), Những phương thức định danh qua địa danh ở

thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống,

tr.40-46.

3. Trần Thị Phương Hằng (2009), Tìm hiểu yếu tố “Huổi” trong cách đặt địa

danh của đồng bào Thái ở Điện Biên, Báo Điện Biên Phủ điện tử ngày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

15/09/2009.

135

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dương Văn An (1997), Ô châu cận lục, Nxb Khoa học xã hội, HN.

2. Đào Duy Anh (2005), Hán Việt từ điển, Nxb Văn hóa dân tộc, HN.

3. Nguyễn Quang Ân (2003), Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới hành

chính (1945 - 2002), Nxb Thông tấn, HN.

4. Nguyễn Văn Âu (2000), Địa danh Việt Nam, Nxb Giáo dục, HN.

5. Nguyễn Văn Âu (2000), Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam, Nxb Giáo

dục, HN.

6. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu (1999), Lịch sử Đảng bộ Lai Châu, tập

1 (1945 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, HN.

7. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu (2004), Lịch sử Đảng bộ Lai Châu, tập

2 (1975 - 2003), Nxb Chính trị quốc gia, HN.

8. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Điện Biên (2005), Lịch sử Đảng bộ huyện Điện

Biên, tập 1 (1950 - 2000), Nxb Chính trị quốc gia, HN.

9. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Điện Biên (2004), Chiến thắng Điện Biên Phủ - cột

mốc bằng vàng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, Xí

nghiệp in Lai Châu, LC.

10. Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (2008), Di tích lịch sử và văn hóa

Điện Biên Phủ, Xí nghiệp in Điện Biên, ĐB.

11. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lai Châu (1998), Lịch sử kháng chiến chống thực dân

Pháp của quân và dân Lai Châu (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, HN.

12. Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng tỉnh Lai Châu (2004), Lịch sử Bộ đội biên

phòng Lai Châu, tập 1 (1959 - 2003), Xí nghiệp in Lai Châu, LC.

13. Đỗ Hữu Châu (1997), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb Khoa học xã

hội, HN.

14. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, HN.

15. Lê Hồng Chương (2007), Từ điển địa danh hành chính Việt Nam, Nxb Từ điển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bách khoa, HN.

136

16. Chương trình Thái học Việt Nam (1998), Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt

Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, HN.

17. Thiều Chửu (2000), Hán Việt tự điển, Nxb TP.HCM, TP.HCM.

18. Nguyễn Dược - Trung Hải (2001), Sổ tay địa danh Việt Nam, Nxb Giáo dục, HN.

19. Phạm Đức Dương (2002), Bức tranh ngôn ngữ - văn hóa tộc người ở Việt Nam

và Đông Nam Á, Nxb Đại học quốc gia, HN.

20. Phan Xuân Đạm (2005), Khảo sát các địa danh Nghệ An, Luận án tiến sĩ ngữ

văn, Trường Đại học Vinh, Vinh.

21. Lê Quý Đôn toàn tập, tập 1 (1997), Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, HN.

22. Hoàng Thị Đường(2008), Khảo sát địa danh ở thành phố Thái Nguyên, Luận

văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, TN.

23. Võ Nguyên Giáp (Hữu Mai thể hiện) (2000), Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử,

Nxb Lao động, HN.

24. Nguyễn Thị Lâm Hảo (2008), Điện Biên Phủ - đất và người, Nxb Văn hóa

thông tin, HN.

25. Lê Trung Hoa (2002), Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ và tiếng Việt

văn học, Nxb Khoa học xã hội, HN.

26. Lê Trung Hoa (2002), Các phương pháp nghiên cứu cơ bản trong việc nghiên

cứu địa danh, Tạp chí Ngôn ngữ, số 7, tr.8-11.

27. Hội nghị Thái học Việt Nam lần thứ V (2009), Địa danh và những vấn đề lịch sử

- văn hóa của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái Việt Nam, Nxb Thế giới, HN.

28. Hà Thị Hồng (2008), Khảo sát địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn, Luận văn

Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, TN.

29. Vũ Ngọc Khánh (2000), Kể chuyện địa danh Việt Nam, Nxb Thanh niên, HN.

30. Vũ Khiêu (chủ biên) (2000), Văn hóa Việt Nam: xã hội và con người, Nxb

Khoa học xã hội, HN.

31. Từ Thu Mai (2004), Nghiên cứu địa danh Quảng Trị, Luận án tiến sĩ khoa học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngữ văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, HN.

137

32. Hà Quang Năng (chủ nhiệm đề tài) (2009), Địa danh ở Quảng Nam, Viện Từ

điển học và Bách khoa thư Việt Nam - Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Nam,

HN - QN.

33. Nhiều tác giả (2009), Chuyện những người làm nên lịch sử - Hồi ức Điện Biên

Phủ (1957 - 2009), Nxb Chính trị quốc gia, HN.

34. Nhiều tác giả (2007), Huyền thoại Điện Biên, Nxb Lao động - xã hội, HN.

35. Nhiều tác giả (2004), Lai Châu thế và lực mới trong thế kỉ XXI, Nxb Chính trị

quốc gia, HN.

36. Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên 2007, Nxb Thống kê, HN.

37. Đỗ Văn Ninh (1991), Thành Bản Phủ, Tạp chí Khảo cổ học, số 1, tr.31-41.

38. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa

thông tin, HN.

39. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, HN.

40. Hoàng Trần Nghịch - Tòng Kim Ân (biên soạn) (1991), Từ điển Thái - Việt,

Nxb Khoa học xã hội, HN.

41. Hoàng Phê (Chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm

Từ điển học, HN - ĐN.

42. Jules Roy (1979), Trận Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp, Nxb

TP.HCM, TP.HCM.

43. A.V. Superanskaja (2002), Địa danh là gì?, (Đinh Lan Hương dịch, Nguyễn

Xuân Hòa hiệu đính).

44. Nguyễn Văn Tân (1998), Từ điển địa danh Lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb

Văn hóa thông tin, HN.

45. Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, HN.

46. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy,

Nxb Khoa học xã hội, HN.

47. Cầm Trọng (2007), Huyền thoại Mường Then, Nxb Văn hóa dân tộc, HN.

48. Nguyễn Kiên Trường (1996), Những đặc điểm chính của địa danh Hải Phòng

(trong vài nét đối sánh với địa danh Việt Nam), Luận án phó tiến sĩ khoa học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngữ văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, HN.

138

49. Tỉnh ủy - Hội đồng Nhân dân - Ủy ban Nhân dân tỉnh Điện Biên (2009), Điện

Biên 100 năm xây dựng và phát triển (1909 - 2009), Nxb Chính trị quốc gia, HN.

50. Trường Đại học Khoa học Huế (2001), Địa danh thành phố Đà Nẵng, Đề tài

khoa học cấp Bộ, (Hoàng Tất Thắng chủ trì), Huế.

51. Truyện cổ các dân tộc ít người ở Việt Nam, tập 4 (1994), Nxb Văn hóa, HN.

52. Đặng Nghiêm Vạn - Đinh Xuân Lâm (1979), Điện Biên trong lịch sử, Nxb

Khoa học xã hội, HN.

53. Đặng Nghiêm Vạn - Cầm Trọng (1965), Những hoạt động của Hoàng Công

Chất trong thời kì ở Tây Bắc, Địa chí Điện Biên, số 2.

54. Đặng Nghiêm Vạn - Đinh Xuân Lâm (1967), Truyền thống chống xâm lăng

của Điện Biên trong lịch sử, Địa chí Điện Biên, số 91.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

55. Trần Lê Văn (2000), Sông núi Điện Biên, Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu, LC.

139

DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Bản đồ hành chính thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phụ lục 2: Thống kê địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên

140

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

141

Phụ lục 2: THỐNG KÊ ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN

ĐIỆN BIÊN

A. ĐỊA DANH ĐỊA HÌNH TỰ NHIÊN

I. SƠN DANH 1. DÃY NÖI: 3 địa danh

TT Địa danh

Vị trí tồn tại

3 Phà Lén

X Mường Phăng. ĐB

1 Pú Hồng Mèo X Thanh An. ĐB 2 Pu Khâu Lạnh X Thanh Xương. ĐB

2. ĐÈO: 8 địa danh

X Nà Nhạn. ĐB X Mường Pồn. ĐB X Thanh Luông. ĐB

1 An Tao 2 Cò Chạy 3 Hua Pe 4 Huổi Chan X Mường Pồn. ĐB

5 Nà Lơi 6 Pu Lau 7 Tằng Quái 8 Tây Trang

X Thanh Minh. ĐB X Mường Lói. ĐB X Nà Tấu. ĐB X Na Ư. ĐB

3. ĐỒI: 15 địa danh

1 A 1 2 Bản Kéo 3 C 1

P Mường Thanh. ĐBP P Thanh Trường. ĐB P Mường Thanh. ĐBP

9 Độc Lập 10 E 1 11 E 2

4 C 2 5 Cháy 6 D 1 7 D 2 8 D 3

P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP

12 F 13 Him Lam 14 Pom Lót 15 Thông

X Thanh Nưa. ĐB P Tân Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP X Sam Mứn. ĐB P Tân Thanh. ĐBP

4. NÖI: 51 địa danh

1 An Tao

X Nà Nhạn. ĐB

5 Đất Lẻ

X Mường Lói. ĐB

2 Bó Hoóng

X Thanh Xương. ĐB

6 Huổi Áng

X Mường Lói. ĐB

3 Bua Hẹt

X Thanh Nưa. ĐB

7 Huổi Hẹ

X Nà Tấu. ĐB

4 Chiềng Bân

X Pa Thơm.

8 Huổi Hộc

X Nà Tấu. ĐB

9 Huổi Mưm

X Mường Lói. ĐB

31 Pu Huổi Un

X Mường Pồn. ĐB

10 Huổi Na

X Mường Lói. ĐB

32 Pú Huốt

X Mường Phăng. ĐB

11 Huổi Pẩu

X Nà Tấu. ĐB

33 Pu Lau

X Mường Lói. ĐB

12 Huổi Púng

X Mường Lói. ĐB

34 Pú Lấu Luông

X Thanh Minh. ĐB

13 Huổi Tấu

X Nà Tấu. ĐB

35 Pu Nậm Khẩu Hú X Mường Pồn. ĐB

14 Lao Yao

X Pa Thơm. ĐB

36 Pu Nậm Nẹn

X Thanh Luông. ĐB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

142

15 Mưa Lao

X Thanh Nưa. ĐB

37 Pú Nang Nòn

X Pa Thơm. ĐB

16 Nà Nhạn

X Nà Nhạn. ĐB

38 Pu Nhi

X Noong Hẹt. ĐB

17 Nậm Ngọp

X Thanh Nưa. ĐB

39 Pu Phạ

X Mường Phăng. ĐB

18 Pá Chả

X Thanh Nưa. ĐB

40 Pu San

X Mường Pồn. ĐB

19 Pá Sạ

X Núa Ngam. ĐB

41 Pu Sư

X Mường Pồn. ĐB

20 Pa Sang

X Mường Phăng. ĐB

42 Pu Sung

X Mường Phăng. ĐB

21 Phà Lén

X Nà Tấu. ĐB

43 Pu Tao

X Mường Lói. ĐB

22 Pha Sung

X Nà Tấu. ĐB

44 Pú Tạo Nòn

X Pa Thơm. ĐB

23 Pha Thống

X Nà Tấu. ĐB

43 Pu Tao

X Mường Lói. ĐB

24 Phu Khăn Pỏm X Pa Thơm. ĐB

44 Pú Tạo Nòn

X Pa Thơm. ĐB

25 Pú Co Nghịu X Thanh Chăn. ĐB

45 Pú Tửu

X Thanh Xương. ĐB

26 Pú Đồn

X Mường Phăng. ĐB

46 Tằng Quái

X Nà Tấu. ĐB

27 Pu Hang

X Mường Pồn. ĐB

47 Tắt Dóm

X Nà Tấu. ĐB

28 Pu Háp

X Mường Pồn. ĐB

48 U Va

X Noong Luống. ĐB

29 Pu Huổi Chan X Mường Pồn. ĐB

49 Tẩu Pung

X Nà Tấu. ĐB

30 Pú Huổi Chọn X Sam Mứn. ĐB

50 Pu Khắt Tôm

X Mường Phăng. ĐB

51 Pu Xá Hin

X Mường Phăng. ĐB

5. THÁC: 2 địa danh

1 Bay

X Thanh Minh. ĐB

2

Trắng

X Mường Phăng. ĐB

B. THUỶ DANH

1. HỒ: 16 địa danh

1 Bó Hoóng

X Thanh Xương. ĐB

9 Pa Khoang

X Mường Phăng. ĐB

2 Co Củ

X Thanh Minh. ĐB

10 Pe Luông

X Thanh Luông. ĐB

3 Co Nôm

X Noong Luống. ĐB

11 Sái Lương

X Núa Ngam. ĐB

4 Hồng Khếnh X Thanh Hưng. ĐB

12 Ta Lét

X Sam Mứn. ĐB

5 Hồng Líu

P Noong Bua. ĐBP

13 Ta Pô

X Thanh Nưa. ĐB

6 Hồng Sạt

X Sam Mứn. ĐB

14 Tỉnh ủy 1

P Mường Thanh. ĐBP

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

143

7 Huổi Phạ

P Him Lam. ĐBP

15 Tinh ủy 2

P Mường Thanh. ĐBP

8 Na Hươm

X Mường Nhà. ĐB

16 U Va

X Noong Luống. ĐB

2. SÔNG: 4 địa danh

X Mường Pồn.

1 Nậm Mức

3 Nậm Rốm

TP ĐBP và huyện ĐB

ĐB

2 Nậm Núa

X Sam Mứn. ĐB

4 Mã

X Mường Lói. ĐB

3. SUỐI:

1 Ái

X Sam Mứn. ĐB

9 Chai

X Mường Nhà. ĐB

2 Ăm Bọt

X Mường Nhà. ĐB

10 Chanh

X Mường Nhà. ĐB

3 Bén Căng

X Pa Thơm. ĐB

11 Chậu

X Mường Nhà. ĐB

4 Ca

X Mường Nhà. ĐB

12 Chén

X Mường Lói. ĐB

5 Ca Hâu

X Na Ư. ĐB

13 Chon

X Mường Lói. ĐB

6 Cảnh

X Mường Lói. ĐB

14 Cói

X Núa Ngam. ĐB

7 Cáy Phặc

X Núa Ngam. ĐB

15 Dạ Sún

X Núa Ngam. ĐB

8 Chả

X Mường Nhà. ĐB

16 Dốn

X Sam Mứn. ĐB

17 Đữa

X Núa Ngam. ĐB

39 Huổi Lính X Mường Pồn. ĐB

18 Há

X Mường Lói. ĐB

40 Huổi Pe

X Thanh Yên. ĐB

19 Há Co Chó

X Na Ư. ĐB

41 Huổi Phạ

P Noong Bua. ĐBP

20 Hắc Cưm Cứn X Pa Thơm. ĐB

42 Huổi Sa

X Thanh Yên. ĐB

21 Hai Nhớ

X Sam Mứn. ĐB

43 Huổi Un

X Mường Pồn. ĐB

22 Hai Nọi

X Sam Mứn. ĐB

44 Hươm

X Mường Nhà. ĐB

23 Hẹt

X Mường Lói. ĐB

45

Ít

X Mường Lói. ĐB

24 Him Lam

P Him Lam. ĐBP

46 Kha Kim

X Núa Ngam. ĐB

25 Him Lếch Phay X Pa Thơm. ĐB

47 Khọ

X Pa Thơm. ĐB

26 Hin Phon

X Mường Nhà. ĐB

48 Khò Hè

X Mường Nhà. ĐB

27 Hó

X Na Ư. ĐB

49 Kho Lọt

X Mường Lói. ĐB

28 Hon

X Mường Lói. ĐB

50 Kho Sạn

X Sam Mứn. ĐB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

144

29 Húa

X Núa Ngam. ĐB

51 Không

X Mường Lói. ĐB

30 Hư Khóa

X Nà Tấu. ĐB

52 Kía

X Mường Lói. ĐB

31 Huổi Bó Hoóng X Thanh Xương. ĐB

53 Kín

X Mường Nhà. ĐB

32 Huổi Cang

X Mường Phăng. ĐB

54 Lạ

X Mường Nhà. ĐB

33 Huổi Chan

X Mường Pồn. ĐB

55 Lan

X Mường Nhà. ĐB

34 Huổi Co Củ X Thanh Minh. ĐB

56 Lang

X Mường Lói. ĐB

35 Huổi Co Mứn P Noong Bua. ĐBP

57 Lau

X Mường Lói. ĐB

36 Huổi Háp

X Mường Pồn. ĐB

58 Lếch

X Mường Nhà. ĐB

37 Huổi Hốc

X Thanh Xương. ĐB

59 Long

X Núa Ngam. ĐB

38 Huổi Hộc

X Nà Tấu. ĐB

60 Lụ

X Pa Thơm. ĐB

61 Lương

X Mường Lói. ĐB

83 Nậm Pồn

X Mường Pồn. ĐB

62 Moi

X Na Ư. ĐB

84 Nậm Poọng X Mường Phăng. ĐB

63 Múa

X Núa Ngam. ĐB

85 Nậm Ti

X Mường Pồn. ĐB

64 Mươi

X Mường Nhà. ĐB

86 Ngọm

X Mường Nhà. ĐB

65 Na

X Mường Lói. ĐB

87 Ố

X Mường Nhà. ĐB

66 Na Cọ

X Mường Lói. ĐB

88 Pá Hốc

X Thanh Yên. ĐB

67 Na Sang

X Núa Ngam. ĐB

89 Pá Hu

X Thanh Yên. ĐB

68 Na Ư

X Na Ư. ĐB

90 Peng Thoáng X Mường Lói. ĐB

69 Nậm Có

X Thanh Nưa. ĐB

91 Pha Châu X Núa Ngam. ĐB

70 Nậm Đuống X Thanh Nưa. ĐB

92 Pha Lay

X Mường Nhà. ĐB

71 Nậm Hẹ

X Na Ư. ĐB

93 Pha Thống X Nà Tấu. ĐB

72 Nậm Hua

X Mường Lói. ĐB

94 Phia Phó

X Sam Mứn. ĐB

73 Nậm Khẩu Hú X Nà Tấu. ĐB

95 Phương

X Mường Lói. ĐB

74 Nậm Khún

X Núa Ngam. ĐB

96 Púng

X Mường Lói. ĐB

75 Nậm Luông X Mường Phăng. ĐB

97 Puốc

X Mường Lói. ĐB

76 Nậm Mển

X Thanh Nưa. ĐB

98 Quang

X Mường Nhà. ĐB

77 Nậm Ngam X Núa Ngam. ĐB

99 Rôm

X Mường Lói. ĐB

78 Nậm Ngọp

X Thanh Nưa. ĐB

100 Rống

X Na Ư. ĐB

79 Nậm Nhụ

X Mường Lói. ĐB

101 Sa Lăng

X Mường Nhà. ĐB

80 Nậm Pang

X Mường Phăng. ĐB

102 Sa Nhớ

X Pa Thơm. ĐB

81 Nậm Phăng X Nà Tấu. ĐB

103 Sa Nọi

X Pa Thơm. ĐB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

145

82 Nậm Phăng Nọi X Mường Phăng. ĐB

104 Sái Lương X Núa Ngam. ĐB

105 Sản

X Mường Nhà. ĐB

112 Thẩm

X Núa Ngam. ĐB

106 Sáu Sự

X Núa Ngam. ĐB

113 Thẩm Mây P Noong Bua. ĐBP

107 Sẻ

X Mường Lói. ĐB

114 Thẳm Phấng X Thanh Nưa. ĐB

108 Sen

X Thanh Yên. ĐB

115 Thìn

X Sam Mứn. ĐB

109 Si Na

X Mường Lói. ĐB

116 Vai

X Sam Mứn. ĐB

110 Ta Tiến

X Sam Mứn. ĐB

117 Xi Văn

X Pa Thơm. ĐB

111 Tếu

X Mường Nhà. ĐB

4. KHE: 8 địa danh

1 Hát Si

X Na Ư. ĐB

7 Hồng Cúm

X Thanh Xương. ĐB

2 Hẹ Nọi Lớn X Nà Tấu. ĐB

8 Hoong Hịa

X Thanh Xương. ĐB

3 Hẹ Nọi Nhỏ X Nà Tấu. ĐB

9 Hoong Ka

X Thanh Xương. ĐB

4 Hồng Lếch

X Thanh Nưa. ĐB

10 Hoong Khoong X Thanh X An. ĐB

5 Hồng Sạt

X Sam Mứn. ĐB

11 Hoong Ma Nao X Thanh Luông. ĐB

6 Hồng Sống X Noong Luống. ĐB

12 Loọng Bon

X Sam Mứn. ĐB

C. NHỮNG VÙNG ĐẤT PHI DÂN CƢ

1. CÁNH ĐỒNG: 4 địa danh

1 Mường Lói X Mường Lói. ĐB

Mường Phăng X Mường Phăng. ĐB

3

2 Mường Nhà X Mường Nhà. ĐB

Mường Pồn X Mường Pồn. ĐB

4

5 Mường Thanh P Mường Thanh. ĐBP

Nà Tấu

X Nà Tấu. ĐB

7

6 Nà Nhạn

X Nà Nhạn. ĐB

2. ĐỘNG: 1 địa danh

1 Pa Thơm

X Pa Thơm. ĐB

3. HANG: 2 địa danh

1 Chùa Pá Sa

X Pa Thơm. ĐB

2 Huổi He

X Nà Tấu. ĐB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

146

D. ĐỊA DANH ĐƠN VỊ DÂN CƢ I. THÀNH PHỐ: 1 địa danh

1 Điện Biên Phủ Tỉnh Điện Biên

II. HUYỆN: 1 địa danh

1 Điện Biên

Tỉnh Điện Biên

III. XÃ: 20 địa danh

Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên

11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

Huyện Điện Biên Pa Thơm Huyện Điện Biên Sam Mứn Huyện Điện Biên Thanh An Thanh Chăn Huyện Điện Biên Thanh Hưng Huyện Điện Biên Thanh Luông Huyện Điện Biên Thanh Minh Huyện Điện Biên Thanh Nưa Huyện Điện Biên Thanh Xương Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Thanh Yên

4 5

Pồn Thanh

Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên

Huyện Điện Biên Lói Nhà Huyện Điện Biên Phăng Huyện Điện Biên

1 Mường Lói 2 Mường Nhà 3 Mường Phăng 4 Mường Pồn 5 Nà Nhạn 6 Nà Tấu 7 Na Ư 8 Noong Hẹt 9 Noong Luống 10 Núa Ngam IV. MƢỜNG: 5 địa danh 1 2 3 V. PHƢỜNG: 7 địa danh

Thành phố ĐBP 5 Tân Thanh 6 Thanh Bình Thành phố ĐBP 7 Thanh Trường Thành phố ĐBP

1 Him Lam Thành phố ĐBP 2 Mường Thanh Thành phố ĐBP Thành phố ĐBP 3 Nam Thanh 4 Noong Bua Thành phố ĐBP VI. TỔ DÂN PHỐ: 131 địa danh 1 1 2 1 3 1 4 1 5 1 6 1 7 1 8 1 2 9 10 2 11 2

P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Noong Bua. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP X Thanh Minh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP

17 3 18 3 19 3 20 3 21 3 22 3 23 3 24 4 25 4 26 4 27 4

P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Noong Bua. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Noong Bua. ĐBP

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

147

12 2 13 2 14 2 15 2 16 2 33 5 34 5 35 5 36 5 37 5 38 6 39 6 40 6 41 6 42 6 43 6 44 6 45 7 46 7 47 7 48 7 65 10 66 10 67 10 68 10 69 11 70 11 71 11 72 11 73 11 74 11 75 12 76 12 77 12 78 12 79 12 80 13

P Noong Bua. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP X Thanh Minh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Noong Bua. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Noong Bua. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Him Lam. ĐBP

28 4 29 4 30 4 31 5 32 5 49 7 50 7 51 8 52 8 53 8 54 8 55 8 56 8 57 9 58 9 59 9 60 9 61 9 62 9 63 10 64 10 81 13 82 13 83 13 84 13 85 14 86 14 87 14 88 14 89 14 90 15 91 15 92 15 93 15 94 15 95 16 96 16

P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP Tân Thanh.DBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

148

P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP

112 21 113 21 114 21 115 22 116 22 117 22 118 23 119 23 120 23 121 24 122 24 123 25 124 25 125 26 126 27 130 31 131 32

P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP

97 16 98 16 99 16 100 17 101 17 102 17 103 18 104 18 105 18 106 19 107 19 108 19 109 20 110 20 111 20 127 28 128 29 129 30 VII. BẢN: 404 địa danh

1 A 1

X Noong Luống. ĐB

X Sam Mứn. ĐB

17 Cà Phê

2 A 2

X Noong Luống. ĐB

18 Cang 1

X Nà Tấu. ĐB

3 Ban

X Sam Mứn. ĐB

19 Cang 1

X Mường Phăng. ĐB

4 Ban

X Mường Nhà. ĐB

20 Cang 1

X Sam Mứn. ĐB

5 Bánh

X Thanh Yên. ĐB

21 Cang 2

X Nà Tấu. ĐB

6 Bánh

X Mường Phăng. ĐB

22 Cang 2

X Mường Phăng. ĐB

7 Bánh

X Thanh Xương. ĐB

23 Cang 2

X Sam Mứn. ĐB

8 Bánh

X Thanh Luông. ĐB

24 Cang 3

X Mường Phăng. ĐB

9 Bó

X Mường Phăng. ĐB

25 Cang 4

X Mường Phăng. ĐB

10 Bó

X Thanh Hưng. ĐB

26 Càng Ná

X Thanh Luông. ĐB

11 Bó Hoóng X Thanh Xương. ĐB

27 Che Căn

X Mường Phăng. ĐB

12 Bôm La

X Thanh Xương. ĐB

28 Che Phai

P Thanh Trường. ĐBP

13 Bông A

X Noong Hẹt. ĐB

29 Chiềng An

X Thanh An. ĐB

14 Bông B

X Noong Hẹt. ĐB

30 Chiềng Chung X Thanh An. ĐB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

149

15 Bua

X Mường Phăng. ĐB

31 Chiềng Đông

X Thanh Yên. ĐB

16 Ca Hâu

X Na Ư. ĐB

32 Chiềng Xôm

X Sam Mứn. ĐB

X Thanh Minh. ĐBP X Mường Phăng. ĐB X Nà Tấu. ĐB X Mường Lói. ĐB X Thanh Nưa. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Noong Luống. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Sam Mứn. ĐB X Thanh Chăn. ĐB

X Thanh Nưa. ĐB X Thanh Nưa. ĐB X Nà Tấu. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Na Ư. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Núa Ngam. ĐB X Thanh Luông. ĐB X Noong Luống. ĐB X Noong Luống. ĐB X Nà Tấu. ĐB X Mường Pồn. ĐB X Thanh An. ĐB X Sam Mứn. ĐB X Thanh An. ĐB X Thanh An. ĐB X Thanh An. ĐB X Thanh An. ĐB X Thanh An. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Mường Phăng. ĐB

33 Chính Thanh X Noong Luống. ĐB P Nam Thanh. ĐBP 34 Co Cáng 35 Co Chai X Thanh An. ĐB 36 Cò Chạy 1 X Mường Pồn. ĐB 37 Cò Chạy 2 X Mường Pồn. ĐB 38 Co Củ 39 Co Cưởm 40 Co Đứa 41 Co Đứa 42 Co Ké 43 Co Khỏ 44 Co Líu 45 Co Luống 46 Co Luống 47 Co Mặn 1 48 Co Mặn 2 49 Co Mị 50 Co Mị 51 Co Muông X Mường Phăng. ĐB X Noong Luống. ĐB 52 Co Nôm X Thanh Nưa. ĐB 53 Co Pao 75 Duyên Long X Noong Hẹt. ĐB 76 Gia Phú A X Mường Nhà. ĐB 77 Gia Phú B X Mường Nhà. ĐB X Thanh Nưa. ĐB 78 Giảng X Thanh Yên. ĐB 79 Hạ X Thanh Nưa. ĐB 80 Hạ X Mường Phăng. ĐB 81 Hả 1 X Mường Phăng. ĐB 82 Hả 2 83 Hát Hẹ X Núa Ngam. ĐB X Mường Nhà. ĐB 84 Hát Tao 85 Hẹ Muông 1 X Núa Ngam. ĐB 86 Hẹ Muông 2 X Núa Ngam. ĐB 87 Him Lam 1 P Him Lam. ĐBP

54 Co Pục 55 Co Rốm 56 Co Sáng 57 Co Thón 58 Con Cang 59 Công 60 Công Binh 61 Cộng Hòa 62 Đại Thanh 1 63 Đại Thanh 2 64 Đán Yên 65 Đỉnh Đèo 66 Đồi Cao 67 Đon Đứa 68 Đông Biên 1 69 Đông Biên 2 70 Đông Biên 3 71 Đông Biên 4 72 Đông Biên 5 73 Đông Mệt 1 74 Đông Mệt 2 96 Hồng Lếch Nưa X Thanh Hưng. ĐB P Noong Bua. ĐBP 97 Hồng Líu X Nà Tấu. ĐB 98 Hồng Líu 1 X Nà Tấu. ĐB 99 Hồng Líu 2 X Sam Mứn. ĐB 100 Hồng Sạt P Nam Thanh. ĐBP 101 Hoong En X Thanh Luông. ĐB 102 Hoong Hin 103 Hoong Khoong 1 X Thanh An. ĐB 104 Hoong Khoong 2 X Thanh An. ĐB X Núa Ngam. ĐB 105 Hợp Thành X Noong Luống. ĐB 106 Hua Lá X Nà Tấu. ĐB 107 Hua Luống X Thanh Nưa. ĐB 108 Hua Ná

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

150

X Mường Nhà. ĐB X Nà Tấu. ĐB

88 Him Lam 2 P Him Lam. ĐBP 89 Hin Phon 90 Hoa 91 Hoàng Công Chất X Noong Hẹt. ĐB

109 Hua Pe 110 Hua Rốm 1 111 Hua Rốm 2 112 Hua Thanh

X Thanh Luông. ĐB X Nà Tấu. ĐB X Nà Tấu. ĐB X Na Ư. ĐB

92 Hoàng Công Chất X Thanh An. ĐB

113 Hưng Yên

X Noong Hẹt. ĐB

93 Hoàng Yên X Thanh Yên. ĐB

114 Huổi Bua

X Núa Ngam. ĐB

94 Hồng Lếch X Thanh Nưa. ĐB

115 Huổi Cánh

X Thanh An. ĐB

95 Hồng Lếch Cuông X Thanh Hưng. ĐB

116 Huổi Cảnh

X Mường Lói. ĐB

117 Huổi Chan 1 X Mường Pồn. ĐB

138 Kéo

X Thanh Luông. ĐB

118 Huổi Chan 2 X Mường Pồn. ĐB

139 Khá

X Mường Phăng. ĐB

119 Huổi Chanh X Mường Nhà. ĐB

140 Khá

P Nam Thanh. ĐBP

120 Huổi Chon X Mường Lói. ĐB

141 Kham Pọm

X Mường Lói. ĐB

121 Huổi Chổn X Nà Nhạn. ĐB

142 Khẩu Cắm

X Mường Phăng. ĐB

122 Huổi Hẹ 1 X Nà Nhạn. ĐB

143 Khe Chít

P Noong Bua. ĐBP

123 Huổi Hẹ 2 X Nà Nhạn. ĐB

144 Khon Kén

X Mường Nhà. ĐB

124 Huổi Hốc

X Thanh Xương. ĐB

145 Khua Pen

X Nà Tấu. ĐB

125 Huổi Hộc

X Nà Nhạn. ĐB

146 Lé

X Noong Hẹt. ĐB

126 Huổi Hương X Mường Nhà. ĐB

147 Lé

X Thanh Luông. ĐB

127 Huổi Không X Mường Lói. ĐB

148 Lếch Cang

X Thanh Chăn. ĐB

128 Huổi Lé A X Noong Hẹt. ĐB

149 Liếng

X Noong Luống. ĐB

129 Huổi Lé B X Noong Hẹt. ĐB

150 Lính

X Mường Pồn. ĐB

130 Huổi Lơi

X Thanh Minh. ĐBP

151 Ló

X Thanh Luông. ĐB

131 Huổi Moi

X Pa Thơm. ĐB

152 Lói 1

X Mường Lói. ĐB

132 Huổi Phạ

P Him Lam. ĐBP

153 Lói 2

X Mường Lói. ĐB

133 Huổi Púng X Thanh An. ĐB

154 Lọng Gia

X Thanh Luông. ĐB

134 Huổi Sen

X Noong Luống. ĐB

155 Lọng Háy

X Mường Phăng. ĐB

135 Huổi Un

X Mường Pồn. ĐB

156 Lọng Luông 1 X Mường Phăng. ĐB

136 Kê Lênh

P Noong Bua. ĐBP

157 Lọng Luông 2 X Mường Phăng. ĐB

137 Kéo

X Mường Phăng. ĐB

158 Lọng Nghịu

X Mường Phăng. ĐB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

151

159 Loọng Bon X Sam Mứn. ĐB

180 Na Côm

X Núa Ngam. ĐB

160 Loọng Ngua X Mường Lói. ĐB

181 Na Dôn

X Núa Ngam. ĐB

161 Loọng Quân X Sam Mứn. ĐB

182 Na Há 1

X Mường Lói. ĐB

162 Loọng Toóng X Thanh Luông. ĐB

183 Na Há 2

X Mường Lói. ĐB

163 Lún

X Noong Luống. ĐB

184 Na Hai 1

X Sam Mứn. ĐB

164 Mé

X Thanh Hưng. ĐB

185 Na Hai 2

X Sam Mứn. ĐB

165 Mển 1

X Thanh Nưa. ĐB

186 Nà Hí

X Thanh Nưa. ĐB

166 Mển 2

X Thanh Nưa. ĐB

187 Na Hôm

X Mường Nhà. ĐB

167 Mớ

X Noong Hẹt. ĐB

188 Na Hươm

X Mường Nhà. ĐB

168 Mớ

P Thanh Trường. ĐBP

189 Na Khếnh

X Thanh Hưng. ĐB

169 Mốc C 5

X Mường Lói. ĐB

190 Na Khoang

X Mường Nhà. ĐB

170 Mới

X Sam Mứn. ĐB

191 Ná Khưa

X Thanh Chăn. ĐB

171 Mới

X Thanh An. ĐB

192 Na Lanh

P Thanh Trường. ĐBP

172 Món

X Thanh Luông. ĐB

193 Na Lao

X Sam Mứn. ĐB

173 Mường Pồn 1 X Mường Pồn. ĐB

194 Nà Láo

X Nà Tấu. ĐB

174 Mường Pồn 2 X Mường Pồn. ĐB

195 Nà Lơi

X Thanh Minh. ĐBP

175 Nà Cái 1

X Nà Tấu. ĐB

196 Nà Lốm 1

X Thanh Nưa. ĐB

176 Nà Cái 2

X Nà Tấu. ĐB

197 Nà Lốm 2

X Thanh Nưa. ĐB

177 Na Chén

X Mường Lói. ĐB

198 Nà Luống 1

X Nà Tấu. ĐB

178 Na Cọ

X Mường Lói. ĐB

199 Nà Luống 2

X Nà Tấu. ĐB

179 Na Cok

X Sam Mứn. ĐB

200 Nà Luống 3

X Nà Tấu. ĐB

201 Ná Men

X Noong Luống. ĐB

222 Na Sang 2

X Núa Ngam. ĐB

202 Na Náy

X Na Ư. ĐB

223 Nà Tấu 1

X Nà Tấu. ĐB

203 Nà Ngám 1 X Nà Nhạn. ĐB

224 Nà Tấu 2

X Nà Tấu. ĐB

204 Nà Ngám 2 X Nà Nhạn. ĐB

225 Nà Tấu 3

X Nà Tấu. ĐB

205 Nà Ngám 3 X Nà Nhạn. ĐB

226 Nà Tấu 4

X Nà Tấu. ĐB

206 Nà Ngám 4 X Nà Nhạn. ĐB

227 Nà Tấu 5

X Nà Tấu. ĐB

207 Nà Nghè

P Noong Bua. ĐBP

228 Nà Tấu 6

X Nà Tấu. ĐB

208 Na Ngum X Thanh Yên. ĐB

229 Na Ten

X Sam Mứn. ĐB

209 Nà Nhạn 1 X Nà Nhạn. ĐB

230 Nà Ten

X Thanh Nưa. ĐB

210 Nà Nhạn 2 X Nà Nhạn. ĐB

231 Na Thìn

X Sam Mứn. ĐB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

152

211 Nà Nhạn 3 X Nà Nhạn. ĐB

232 Nà Tông

X Thanh Yên. ĐB

212 Nà Nọi 1

X Nà Nhạn. ĐB

233 Na Tông 1

X Mường Nhà. ĐB

213 Nà Nọi 2

X Nà Nhạn. ĐB

234 Na Tông 2

X Mường Nhà. ĐB

214 Na Ố

X Mường Nhà. ĐB

235 Na Ư

X Na Ư. ĐB

215 Nà Pen 1

X Nà Nhạn. ĐB

236 Na Vai

X Sam Mứn. ĐB

216 Nà Pen 2

X Nà Nhạn. ĐB

237 Nậm Khẩu Hú X Nà Nhạn. ĐB

217 Nà Pen 3

X Nà Nhạn. ĐB

238 Nậm Nẹn

X Thanh Luông. ĐB

218 Na Phay

X Mường Nhà. ĐB

239 Nậm Ti 1

X Thanh Nưa. ĐB

219 Na Púng

P Thanh Trường. ĐBP

240 Nậm Ti 2

X Thanh Nưa. ĐB

220 Na Sản

X Mường Nhà. ĐB

241 Nghịu

X Thanh Luông. ĐB

221 Na Sang 1 X Núa Ngam. ĐB

242 Nghịu 1

X Mường Phăng. ĐB

243 Nghịu 2

X Mường Phăng. ĐB

265 Pá Chả

X Mường Lói. ĐB

244 Nôm

X Noong Luống. ĐB

266 Pá Chả

X Mường Pồn. ĐB

245 Noọng

X Thanh Luông. ĐB

267 Pa Có

X Mường Nhà. ĐB

246 Noong Bua P Noong Bua. ĐBP

268 Pá Đông

X Thanh Xương. ĐB

247 Noong Chứn P Nam Thanh. ĐBP

269 Pá Hẹ

X Núa Ngam. ĐB

248 Noong É

X Mường Lói. ĐB

270 Pá Khôm 1

X Nà Nhạn. ĐB

249 Noong Hẹt X Noong Hẹt. ĐB

271 Pá Khôm 2

X Nà Nhạn. ĐB

250 Noong Luống X Noong Luống. ĐB

272 Pa Kín

X Mường Nhà. ĐB

251 Noong Nhai 1 X Thanh Xương. ĐB

273 Pa Lếch

X Thanh Chăn. ĐB

252 Noong Nhai 2 X Thanh Xương. ĐB

274 Pá Luống

X Thanh Xương. ĐB

253 Noong Pết X Thanh Hưng. ĐB

275 Pa Nậm

X Sam Mứn. ĐB

254 Noọng Sọt X Núa Ngam. ĐB

276 Pá Ngam 1

X Núa Ngam. ĐB

255 Noong Ứng X Thanh An. ĐB

277 Pá Ngam 2

X Núa Ngam. ĐB

256 Noong Vai 1 X Thanh Yên. ĐB

278 Pa Pe

X Thanh Hưng. ĐB

257 Noong Vai 2 X Thanh Yên. ĐB

279 Pá Pháy

X Thanh Yên. ĐB

258 On

X Noong Luống. ĐB

280 Pa Pốm

X Thanh Minh. ĐBP

259 On

X Thanh Nưa. ĐB

281 Pá Sáng

X Thanh Nưa. ĐB

260 Pa Bói 1

X Thanh Yên. ĐB

282 Pa Thơm

X Pa Thơm. ĐB

261 Pa Bói 2

X Thanh Yên. ĐB

283 Pa Xa Lào

X Pa Thơm. ĐB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

153

262 Pá Bông

X Núa Ngam. ĐB

284 Pa Xa Xá

X Pa Thơm. ĐB

263 Pá Cấu

X Thanh Xương. ĐB

285 Pe Luông

X Thanh Luông. ĐB

264 Pá Chả

X Mường Phăng. ĐB

286 Pe Nọi

X Thanh Luông. ĐB

287 Pha Đin

X Thanh Chăn. ĐB

309 Pom Lót 2

X Sam Mứn. ĐB

288 Pha Lay

X Mường Nhà. ĐB

310 Pom Lót 3

X Sam Mứn. ĐB

289 Phăng 1

X Mường Phăng. ĐB

311 Pom Lót 4

X Sam Mứn. ĐB

290 Phăng 2

X Mường Phăng. ĐB

312 Pom Lót 5

X Sam Mứn. ĐB

291 Phăng 3

X Mường Phăng. ĐB

313 Pom Lót 6

X Sam Mứn. ĐB

292 Phì Cao

X Mường Nhà. ĐB

314 Pom Lót 7

X Sam Mứn. ĐB

293 Phiêng Ban X Nà Tấu. ĐB

315 Pom Lót 8

X Sam Mứn. ĐB

294 Phiêng Ban X Thanh Nưa. ĐB

316 Pom Lót 9

X Sam Mứn. ĐB

295 Phiêng Ban X Thanh An. ĐB

317 Pom Mỏ Thái X Thanh Chăn. ĐB

296 Phiêng Bua P Noong Bua. ĐBP

318 Pom Mỏ Thổ

X Thanh Chăn. ĐB

297 Phiêng Cá

X Noong Hẹt. ĐB

319 Pu Lau

X Mường Nhà. ĐB

298 Phiêng Lơi X Thanh Minh. ĐBP

320 Pú Sung

X Mường Phăng. ĐB

299 Phiêng Quái X Noong Luống. ĐB

321 Pú Tỉu A

X Thanh Xương. ĐB

300 PhiêngSáng X Mường Nhà. ĐB

322 Pú Tỉu B

X Thanh Xương. ĐB

301 Phủ

X Noong Hẹt. ĐB

323 Púng Bon

X Pa Thơm. ĐB

302 Phú Ngam X Núa Ngam. ĐB

324 Púng Bửa

X Na Ư. ĐB

303 Phú Yên

X Thanh Yên. ĐB

325 Púng Khẩu

X Noong Hẹt. ĐB

304 Phượn

X Thanh Yên. ĐB

326 Púng Nghịu

X Thanh Chăn. ĐB

305 Pom Khoang X Thanh Nưa. ĐB

327 Púng Tôm

X Thanh Minh. ĐBP

306 Pom Loi

P Nam Thanh. ĐBP

328 Sái Lương

X Núa Ngam. ĐB

307 Pom Lót 1 X Sam Mứn. ĐB

329 Sam Mứn 1

X Sam Mứn. ĐB

308 Pom Lót 10 X Sam Mứn. ĐB

330 Sam Mứn 2

X Sam Mứn. ĐB

331 Sam Mứn 3 X Sam Mứn. ĐB

352 Tẩu Pung 1

X Nà Nhạn. ĐB

332 Sáng

X Mường Phăng. ĐB

353 Tẩu Pung 2

X Nà Nhạn. ĐB

333 Sáng 1

X Thanh An. ĐB

354 Ten

X Mường Phăng. ĐB

334 Sáng 2

X Thanh An. ĐB

355 Ten A

X Thanh Xương. ĐB

X Mường Lói. ĐB

356 Ten B

X Thanh Xương. ĐB

335 Sẻ 1

X Mường Lói. ĐB

357 Ten Luống

X Thanh An. ĐB

336 Sẻ 2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

154

337 Sơn Tống 1 X Mường Nhà. ĐB

358 Ten Núa

X Núa Ngam. ĐB

338 Sơn Tống 2 X Mường Nhà. ĐB

359 Thanh Bình

X Noong Luống. ĐB

339 Tà Cáng 1 X Nà Tấu. ĐB

360 Thanh Bình

X Thanh An. ĐB

340 Tà Cáng 2 X Nà Tấu. ĐB

361 Thanh Bình

X Thanh Luông. ĐB

341 Tà Cáng 3 X Nà Tấu. ĐB

362 Thanh Đông

X Thanh Luông. ĐB

342 Tà Lành

P Noong Bua. ĐBP

363 Thanh Hà 1

X Thanh Yên. ĐB

343 Ta Lét

X Núa Ngam. ĐB

364 Thanh Hà 2

X Thanh Yên. ĐB

344 Ta Pô

P Thanh Trường. ĐBP

365 Thanh Sơn

X Noong Luống. ĐB

345 Tân Bình

X Mường Phăng. ĐB

366 Thanh Trường X Thanh Yên. ĐB

346 Tân Ngam X Núa Ngam. ĐB

367 Thanh Xuân

X Sam Mứn. ĐB

347 Tân Quang X Mường Nhà. ĐB

368 Thanh Xuân

X Noong Luống. ĐB

348 Tân Quang X Thanh Minh. ĐBP

369 Tiến Thanh

X Thanh Yên. ĐB

349 Tâu 1

X Thanh Nưa. ĐB

370 Tin Đán

X Núa Ngam. ĐB

350 Tâu 2

X Thanh Nưa. ĐB

371 Tin Tốc

X Mường Lói. ĐB

351 Tâu 3

X Thanh Nưa. ĐB

372 Tin Tốc

X Mường Pồn. ĐB

373 Tông Khao X Thanh Nưa. ĐB

389 Xôm 1

X Nà Tấu. ĐB

374 Tra

X Thanh An. ĐB

390 Xôm 1

X Mường Phăng. ĐB

375 Trung tâm X Mường Phăng. ĐB

391 Xôm 2

X Nà Tấu. ĐB

376 Trung tâm X Mường Nhà. ĐB

392 Xôm 2

X Mường Phăng. ĐB

377 Trung tâm 1 X Nà Tấu. ĐB

393 Xôm 3

X Mường Phăng. ĐB

378 Trung tâm 2 X Nà Tấu. ĐB

394 Yên

X Sam Mứn. ĐB

379 U Va

X Noong Luống. ĐB

395 Yên 1

X Mường Phăng. ĐB

380 Vang 1

X Mường Phăng. ĐB

396 Yên 2

X Mường Phăng. ĐB

381 Vang 2

X Mường Phăng. ĐB

397 Yên 3

X Mường Phăng. ĐB

382 Việt Yên 1 X Thanh Yên. ĐB

398 Yên Bình

X Thanh Yên. ĐB

383 Việt Yên 2 X Thanh Yên. ĐB

399 Yên Bua

X Noong Hẹt. ĐB

384 Xa Cuông

X Pa Thơm. ĐB

400 Yên Cang

X Sam Mứn. ĐB

385 Xá Nhù

X Thanh Nưa. ĐB

401 Yên Màu C 3

X Thanh Yên. ĐB

386 Xôm

X Mường Nhà. ĐB

402 Yên Sơn

X Thanh Yên. ĐB

387 Xôm

X Mường Lói. ĐB

403 Yên Trường

X Thanh Yên. ĐB

388 Xôm

X Thanh An. ĐB

404 YênBình

X Sam Mứn. ĐB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

155

C. ĐỊA DANH CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG NHÂN TẠO

I. ĐỊA DANH CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG NHÂN TẠO THUỘC NHỮNG HOẠT

ĐỘNG VẬT CHẤT KỸ THUẬT CỦA CON NGƢỜI

1. CẦU: 7 địa danh

1 A 1

P Mường Thanh. ĐBP

Na Sang

X Núa Ngam. ĐB

4

2 Huổi Phạ

P Him Lam. ĐBP

Pắc Nậm

X Noong Luống. ĐB

5

3 Mường Thanh P Mường Thanh. ĐBP

Thanh Bình P Thanh Bình. ĐBP

6

Trắng

P Mường Thanh. ĐBP

7

2. CẦU TREO: 5 địa danh 1 C 4

P Nam Thanh

Him Lam

P Him Lam. ĐBP

4

2 C 9

X Thanh Xương. ĐB

Nậm Thanh X Noong Hẹt. ĐB

5

3 Cảnh Quang X Thanh Minh. ĐBP

3. CỐNG: 1 địa danh

1

Thanh Minh P Him Lam. ĐBP

4. CÔNG TRÌNH ĐẠI THUỶ NÔNG: 1 địa danh 1 Nậm Rốm

TP ĐBP và huyện ĐB

5. CÔNG TRÌNH THUỶ LỢI: 2 địa danh 1

Pa Khoang X Mường Phăng. ĐB

2

Thanh Minh X Thanh Minh. ĐBP

3 4 9 10 11

C 1 C 2 E 1 E 2 Him Lam

P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP

6. CỨ ĐIỂM: 11 địa danh P Mường Thanh. ĐBP 1 A 1 P Thanh Trường. ĐB 2 Bản Kéo P Tân Thanh. ĐBP 5 D 1 P Tân Thanh. ĐBP 6 D 2 7 D 3 P Tân Thanh. ĐBP 8 Đồi Độc Lập X Thanh Nưa. ĐB

7. CỬA KHẨU: 2 địa danh

1 Huổi Puốc X Mường Lói. ĐB

2 Tây Trang X Na Ư. ĐB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

156

8. ĐẬP ĐẦU MỐI: 1 địa danh

1 Nậm Rốm

P Him Lam. ĐBP

9. ĐẬP TRÀN: 5 địa danh

1 Bó Hoóng X Thanh Xương. ĐB

4 Hồng Khếnh X Thanh Hưng. ĐB

2 Co Củ

X Thanh Minh. ĐBP

5 Hồng Líu

P Noong Bua. ĐBP

3 Co Nôm

X Noong Luống. ĐB

10. ĐỒN BIÊN PHÕNG: 6 địa danh

1 Hua Pe

X Thanh Luông. ĐB

4 Mường Pồn

X Mường Pồn. ĐB

2 Mường Lói X Mường Lói. ĐB

5

Pa Thơm

X Pa Thơm. ĐB

3 Mường Nhà X Mường Nhà. ĐB

6 Tây Trang

X Na Ư. ĐB

11. ĐƢỜNG: 15 địa danh

P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP

8 Nguyễn Chí Thanh P Thanh Bình. ĐBP 9 Phan Đình Giót 10 Sùng Phái Sinh 11 Tôn Đức Thắng 12 Trần Can 13 Trần Đăng Ninh 14 Trần Văn Thọ 15 Trường Chinh

P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP

P Him Lam. ĐBP 1 13/3 TP ĐBP 2 7/5 P Mường Thanh. ĐBP 3 Bế Văn Đàn 4 Hoàng Công Chất P Mường Thanh. ĐBP 5 Hoàng Văn Thái P Mường Thanh. ĐBP 6 Lê Trọng Tấn 7 Lò Văn Hặc

12.HẦM: 3 địa danh

X Mường Phăng. ĐB

Pi Rốt

P Mường Thanh. ĐBP

1

3

Đại tướng Võ Nguyên Giáp

2 Đờ Cát

P Mường Thanh. ĐBP

13.KÊNH: 4địa danh

1 Chính

P Him Lam. ĐBP

Nậm Rốm

TP ĐBP và huyện ĐB

3

2 Hữu

TP ĐBP và huyện ĐB

Tả

TP ĐBP và huyện ĐB

4

14. KHU DU LỊCH: 4 địa danh

1 Hồ Huổi Phạ

P Him Lam. ĐBP

Hua Pe

X Thanh Luông. ĐB

3

Hồ Pa Khoang và

U Va, động Pa

2

Sở chỉ huy chiến

X Mường Phăng. ĐB

Thơm và cửa

4

X Noong Luống và X Pa Thơm. ĐB

dịch Điện Biên Phủ

khẩu Tây Trang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

157

15. KHU KHẢO CỔ HỌC: 1 địa danh

1 Hồ U Va X Noong Luống. ĐB

16. NHÀ MÁY THỦY ĐIỆN: 3 địa danh

1 Nà Lơi

X Thanh Minh. ĐB

Thác Trắng

X Mường Phăng. ĐB

3

2 Thác Bay X Nà Nhạn. ĐB

17. PHÂN KHU: 3 địa danh

X Thanh Nưa. ĐB và P

1 Bắc

3

Trung tâm

TP Điện Biên Phủ

Thanh Trường. ĐBP

2 Nam

X Thanh An. ĐB

18. QUẦN THỂ KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐIỆN BIÊN PHỦ: 1 địa danh

1 Điện Biên Phủ TP ĐBP và huyện ĐB

19. QUỐC LỘ: 2 địa danh

1

12

TP ĐBP và huyện ĐB

2

279

TP ĐBP và huyện ĐB

20. RẠP CHIẾU BÓNG: 1 địa danh

1 Điện Biên Phủ P Mường Thanh. ĐBP

21. SÂN BAY: 1 địa danh

1 Điện Biên Phủ P Thanh Bình. ĐBP

22. THÀNH: 2 địa danh

1 Bản Phủ

X Noong Hẹt. ĐB

2

Tam Vạn

X Sam Mứn. ĐB

23. TRUNG TÂM ĐỀ KHÁNG: 4 địa danh

1 Đồi Bản Kéo

P Thanh Trường. ĐB

3 Đồi Độc Lập

X Thanh Nưa. ĐB

2 Đồi D

P Tân Thanh.ĐBP

4 Him Lam

P Him Lam. ĐBP

24. TƢỢNG ĐÀI: 2 địa danh

Chiến thắng lịch

Chiến thắng lịch

1

P Tân Thanh. ĐBP

2

X Mường Phăng. ĐB

sử Điện Biên Phủ

sử Điện Biên Phủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

158

II. ĐỊA DANH CÁC CÔNG TRÌNH NHÂN TẠO THUỘC NHỮNG HOẠT ĐỘNG TÂM

LINH CỦA CON NGƢỜI

1. BẢO TÀNG: 2

địa danh

Chiến thắng lịch sử Điện

1

P Mường Thanh. ĐBP

2 Tỉnh Điện Biên

P Mường Thanh. ĐBP

Biên Phủ

2. CHÙA: 2 địa danh

1 Vạt Bu Hôm

X Sam Mứn. ĐB

3. DI TÍCH: 33 địa danh

Bãi

pháo

P Mường Thanh.

1

17 Hầm Pi Rốt

P Mường Thanh. ĐBP

Mường Thanh

ĐBP

Cầu Mường

P Mường Thanh.

Khu khảo cổ học

2

18

X Noong Luống. ĐB

Thanh

ĐBP

hồ U Va

3 Chùa Pá Sa

X Pa Thơm. ĐB

19 Mường Pồn

X Mường Pồn. ĐB

Dân quân xã

4

Thanh An bắn

X Thanh An. ĐB

20 Noong Nhai

X Thanh Xương. ĐB

rơi máy bay Mỹ

Đền

Hoàng

Phân khu Hồng

5

X Noong Hẹt. ĐB

X Thanh An. ĐB

21

Công Chất

Cúm

P Mường Thanh.

Sân bay Hồng

6 Đồi A 1

X Thanh An. ĐB

22

ĐBP

Cúm

P Mường Thanh.

Sân bay Mường

7 Đồi C 1

P Mường Thanh. ĐBP

23

ĐBP

Thanh

Sở chỉ huy chiến

P Mường Thanh.

8 Đồi C 2

24

dịch Điện Biên

X Mường Phăng. ĐB

ĐBP

Phủ

Sở chỉ huy tập

P Mường Thanh.

9 Đồi Cháy

25

đoàn

cứ điểm

P Mường Thanh. ĐBP

ĐBP

Điện Biên Phủ

10 Đồi E 1

P Tân Thanh. ĐBP

26 Thành Bản Phủ X Noong Hẹt. ĐB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

159

11 Đồi E 2

P Tân Thanh. ĐBP

27 Thành Tam Vạn X Sam Mứn. ĐB

Đồi phát hiện

Trại

tập

trung

12

trống đồng bản

X Thanh Nưa. ĐB

28

X Thanh Xương. ĐB

Noong Nhai

Na Hý

Trận địa pháo của

Đường kéo pháo

13

của quân ta ở

X Nà Nhạn. ĐB

29

quân ta ở Điện

X Nà Nhạn. ĐB

Biên Phủ

Điện Biên Phủ

Trung

tâm đề

14 Hang Huổi He X Nà Tấu. ĐB

30

kháng đồi Bản

X Thanh Nưa. ĐB

Kéo

Hầm Đại tướng

X Mường Phăng.

Trung

tâm đề

15

Nguyên

31

P Tân Thanh. ĐBP

ĐB

kháng đồi D

Giáp

Trung

tâm đề

P Mường Thanh.

16 Hầm Đờ Cát

32

kháng đồi Độc

X Thanh Nưa. ĐB

ĐBP

Lập

Trung

tâm đề

33

P Him Lam. ĐBP

kháng Him Lam

4. ĐỀN: 1 địa danh

X Noọng

1

Hoàng Công Chất

Hẹt

5. NGHĨA TRANG LIỆT SĨ: 4 địa danh

P Him Lam.

P Mường

Điện Biên Phủ

Thanh. ĐBP

Him Lam

ĐBP

3

1

X

Thanh

X

Thanh

Độc Lập

Nưa. ĐB

Tông Khao

Nưa. ĐB

4

2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

160

1 Điện Biên Phủ P Mường Thanh. ĐBP

3 Him Lam

P Him Lam. ĐBP

2 Độc Lập

X Thanh Nưa. ĐB

4 Tông Khao X Thanh Nưa. ĐB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5. NGHĨA TRANG LIỆT SĨ: 4 địa danh

161