ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM –––––––––––––– TRẦN THỊ PHƢƠNG HẰNG NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ NNGGÔÔNN NNGGỮỮ Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM –––––––––––––– TRẦN THỊ PHƢƠNG HẰNG NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ NNGGÔÔNN NNGGỮỮ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ QUANG NĂNG Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả đưa
ra trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ một công
trình nào.
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trần Thị Phƣơng Hằng
3
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS. Hà Quang Năng, người
đã nhiệt tình, tận tâm và chu đáo hướng dẫn em thực hiện luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, khoa Sau đại học, khoa
Ngữ văn trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên cùng các thầy, cô giáo đã
tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình, bạn bè và người thân, những người
đã cùng sẻ chia, giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành
được luận văn này.
Điện Biên, tháng 09 năm 2009
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trần Thị Phƣơng Hằng
4
MỤC LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng biểu MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1 2. Đối tượng và nội dung nghiên cứu ....................................................................... 2 3. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .............................................................. 5 5. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu ...................................................................... 5 6. Cấu trúc luận văn ................................................................................................. 6 Chƣơng 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊA DANH VÀ ĐỊA DANH HỌC .......................................................................... 8 1.1. Khái niệm về địa danh ...................................................................................... 8 1.2. Phân loại địa danh............................................................................................11 1.3. Đặc điểm của địa danh .....................................................................................12 1.4. Các phương diện nghiên cứu địa danh .............................................................14 1.5. Một số đặc điểm của địa bàn nghiên cứu liên quan đến địa danh và địa danh học ....................................................................................................15 1.5.1. Về địa lí ........................................................................................................15 1.5.2. Về lịch sử ......................................................................................................18 1.5.3. Về văn hóa ....................................................................................................20 1.5.4. Về dân cư ......................................................................................................21 1.5.5. Về ngôn ngữ..................................................................................................23 1.6. Kết quả thu thập và phân loại địa danh ............................................................24 1.6.1. Kết quả thu thập địa danh .............................................................................24 1.6.2. Kết quả phân loại địa danh ...........................................................................25 1.7. Tiểu kết ...........................................................................................................26 Chƣơng 2: CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN ...................................................................28 2.1. Cấu trúc phức thể địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên .............28 2.1.1. Vài nét về mô hình cấu trúc phức thể địa danh..............................................28 2.1.2. Cấu trúc phức thể địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên .....................................................................................................30
5
2.2. Thành tố chung ................................................................................................32 2.2.1. Khái niệm thành tố chung .............................................................................32 2.2.2. Thành tố chung trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên ....................................................................................................33 2.3. Địa danh (tên riêng) .........................................................................................38 2.3.1. Khái niệm địa danh .......................................................................................38 2.3.2. Số lượng yếu tố trong địa danh .....................................................................39 2.4. Đặc điểm cấu tạo của địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên ......................................................................................................44 2.4.1. Địa danh có cấu tạo đơn ...............................................................................45 2.4.2. Địa danh có cấu tạo phức .............................................................................46 2.5. Các phương thức định danh trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên ...........................................................................................51 2.5.1. Khái niệm về phương thức định danh ............................................................51 2.5.2. Các phương thức định danh trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên ............................................................................................53 2.5.3. Tổng hợp kết quả ..........................................................................................62 2.5.4. Nhận xét về các phương thức định danh trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên ................................................................63 2.6. Tiểu kết ...........................................................................................................65 Chƣơng 3: ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ - VĂN HÓA TRONG ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIÊN BIÊN .....68 3.1. Một số vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa ...........................................................68 3.1.1. Khái niệm văn hóa ........................................................................................68 3.1.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa ........................................................69 3.1.3. Vài nét về văn hóa thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được
thể hiện qua các địa danh .............................................................................72 3.2. Ý nghĩa của địa danh và hiện thực được phản ánh ...........................................74 3.3. Nghĩa của các yếu tố trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được thể hiện qua nguồn gốc ngôn ngữ ...............................79
3.3.1. Các yếu tố rõ ràng về nghĩa ..........................................................................80
3.3.2. Các yếu tố chưa rõ ràng về nghĩa .................................................................82 3.4. Tính đa dạng của các loại hình đối tượng địa lí qua các yếu tố địa danh
của thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên ..........................................83
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.4.1. Tính đa dạng của các loại hình đối tượng địa lí ............................................83 3.4.2. Bức tranh địa hình mang tính cảnh quan rõ nét ............................................84 3.5. Phân loại ý nghĩa của các yếu tố trong địa danh .............................................87
6
3.6. Các nhóm từ và tên gọi theo trường nghĩa........................................................90
3.6.1. Nhóm ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan gắn liền với những đối tượng địa lí ...............................................................................................90
3.6.2. Nhóm ý nghĩa phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm của con người ........... 103 3.7. Một số địa danh gắn với đời sống, lịch sử, văn hóa ở thành phố Điện
Biên Phủ và huyện Điện Biên ...................................................................... 107
3.7.1. Điện Biên Phủ............................................................................................. 107
3.7.2. Thành Bản Phủ và đền Hoàng Công Chất................................................... 115 3.7.3. Hồ U Va...................................................................................................... 121
3.7.4. Đồi A1 ........................................................................................................ 124
3.8. Tiểu kết ......................................................................................................... 129
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 132
Những bài báo của tác giả có liên quan đến luận văn đã được công bố ................. 135
Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 136
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phụ lục ................................................................................................................. 140
7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐD ĐHTN : Địa danh địa hình thiên nhiên
ĐD ĐVDC : Địa danh đơn vị dân cư
ĐD CTNT : Địa danh công trình nhân tạo
ĐBP : Thành phố Điện Biên Phủ
ĐB : Huyện Điện Biên
P : Phường
X : Xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
YT : Yếu tố
8
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Kết quả thu thập địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên ..............................................................................................25
Bảng 2.1. Mô hình cấu trúc phức thể địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên ...................................................................................31
Bảng 2.2. Kết quả thống kê cấu tạo các thành tố chung ..........................................34
Bảng 2.3. Thống kê sự phân bố của các thành tố chung khi chuyển hóa
thành các yếu tố trong địa danh ..............................................................38
Bảng 2.4. Thống kê địa danh theo số lượng các yếu tố ...........................................40
Bảng 2.5. Thống kê địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
theo kiểu cấu tạo ....................................................................................44
9
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Địa danh là một bộ phận từ vựng của ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt
nói riêng. Nghiên cứu địa danh một vùng cung cấp cho ta những cơ sở để tìm hiểu
những cơ chế định danh của một sự vật, hiện tượng. Mỗi ngôn ngữ có cách định
danh riêng.
1.2. Địa danh liên quan chặt chẽ đến lịch sử, văn hoá, cư dân của một vùng
nhất định. Địa danh lưu giữ những trầm tích của lịch sử, văn hoá, phong tục, tập
quán cư dân của một vùng đất. Nghiên cứu địa danh sẽ giúp nghiên cứu văn hóa,
lịch sử của vùng đất ấy.
1.3. Địa danh có những nguyên tắc riêng trong cấu tạo, trong cách gọi tên, có
thể một địa danh có nhiều tên gọi khác nhau, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác
nhau. Nghiên cứu địa danh giúp nghiên cứu lịch sử một vùng đất, giúp khám phá sự
ảnh hưởng và tác động của những nhân tố bên ngoài vào cách đặt tên địa danh: đất
nước học, tôn giáo, tín ngưỡng, lịch sử tộc người… Trong hoàn cảnh một vùng đất
có nhiều dân tộc nối tiếp nhau sinh sống, địa danh có nhiều dấu tích từ vựng của các
ngôn ngữ. Mỗi địa danh được hình thành trong một hoàn cảnh văn hoá, lịch sử nhất
định và còn lưu dấu mãi về sau. Nhiều địa danh thường mang tên người, cây cỏ,
cầm thú, sự vật, địa hình thiên nhiên…
1.4. Điện Biên nói chung, thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên nói
riêng là một trong những mảnh đất giàu ý nghĩa lịch sử. Khảo sát địa danh thành
phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên giúp chúng ta nghiên cứu một chặng đường
lịch sử lâu dài và hào hùng của dân tộc ta; giúp chúng ta học tập, giữ gìn truyền
thống văn hoá dân tộc, đồng thời góp phần vào việc phát triển kinh tế, văn hoá xã
hội và mở rộng phát triển du lịch của tỉnh Điện Biên. Với những lý do nêu trên,
chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Điện Biên” làm đối tượng nghiên cứu của luận văn.
1
2. Đối tƣợng và nội dung nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo của
thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên và đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá của
một số địa danh thuộc hai địa bàn này.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Xác định những cơ sở lí luận liên quan đến việc nghiên cứu địa danh và địa
danh học.
Nội dung của luận văn, chúng tôi tập trung vào các mặt sau:
- Nghiên cứu những đặc điểm về phương diện cấu tạo của các địa danh địa
hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo của thành phố Điện Biên Phủ
và huyện Điện Biên.
- Tìm hiểu về phương thức định danh các địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị
dân cư và công trình nhân tạo của thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên đồng
thời qua đó bước đầu tìm hiểu về nội dung ngữ nghĩa địa danh.
- Ở một chừng mực nhất định tìm hiểu mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hoá
và lịch sử trong những địa danh nổi tiếng của thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên.
3. Lịch sử vấn đề
3.1. Vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới
Vấn đề nghiên cứu địa danh được phát triển từ lâu trên thế giới. Ở Trung
Quốc, ngay từ thời Đông Hán (32 - 39 sau Công nguyên), Ban Cố đã ghi chép hơn
4000 địa danh, trong đó một số đã được giải thích rõ nguồn gốc và ý nghĩa.
Ở các nước phương Tây, bộ môn địa danh học được chính thức ra đời vào
cuối thế kỷ XIX. Năm 1872, J.J. Êgi (Thuỵ Sĩ) viết “Địa danh học” và năm 1903,
J.W. Nagl (người Áo) cũng cho ra đời tác phẩm “Địa danh học”. Thời kỳ đầu, các
tác phẩm địa danh học chú trọng khảo chứng nguồn gốc địa danh.
Từ thế kỷ XX, bước vào giai đoạn nghiên cứu tổng hợp về địa danh, J.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Gilliron đã viết “Átlát ngôn ngữ Pháp”, nghiên cứu địa danh theo hướng
2
phát triển địa lí học. Năm 1926, A. Dauzat (người Pháp) đã viết “Nguồn gốc và sự
phát triển địa danh”, đề xuất phương pháp văn hoá địa lí học để nghiên cứu các lớp
niên đại của địa danh.
Từ sau năm 1960 đã có hàng loạt công trình nghiên cứu về lĩnh vực này được
ra đời. Chẳng hạn, A.V. Superanxkaja trong cuốn “Địa danh là gì?” (1985) và
E.M. Murzaev với “Những khuynh hướng nghiên cứu địa danh học” (1964) đã
cùng quan tâm đến vấn đề khuynh hướng nghiên cứu chung. Tác giả Iu.A. Kapenco
(1964) lại nghiên cứu địa danh học về mặt đồng đại, N.V. Podonxkaja trong phân
tích, lí giải địa danh mang những thông tin gì cũng đã góp thêm những ý kiến cho
sự nghiên cứu địa danh đi sâu vào bản chất bên trong của đối tượng.
Những công trình nghiên cứu địa danh ở các quốc gia khác nhau đã góp phần
minh chứng sự phong phú, đa dạng của địa danh cũng như những vấn đề nghiên cứu
trong lĩnh vực này. Chẳng hạn, Ch. Rostaing (1965) với “Les noms de lieux” đã nêu
ra hai nguyên tắc nghiên cứu địa danh là phải tìm ra các hình thức cổ của các từ cấu
tạo địa danh và muốn biết từ nguyên của địa danh thì phải dựa trên kiến thức ngữ
âm học địa phương. Đây là một chuyên khảo bổ sung thêm cho vấn đề mà A.I.
Popov đã đưa ra trước đó.
3.2. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề địa danh được quan tâm từ rất sớm. Các tài liệu “Tiền
Hán thư”, “Địa lí chí”, “Hậu Hán thư”, “Tấn thư” trong thời Bắc thuộc có đề cập
đến địa danh Việt Nam. Các tài liệu này đều do người Hán viết, phục vụ trực tiếp
cho cuộc xâm lược nước ta. Bên cạnh đó cũng có những tác phẩm của các nhà
nghiên cứu Việt Nam như vào khoảng thế kỉ XV có tác phẩm “Dư địa chí” của
Nguyễn Trãi, khoảng thế kỉ XVIII có tác phẩm “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn.
Tuy không nhiều nhưng những công trình này đã góp phần quan trọng vào việc
nghiên cứu địa danh Việt Nam.
Vấn đề nghiên cứu địa danh Việt Nam có được những bước tiến đáng kể hơn
là từ những năm 1960 trở đi. Hoàng Thị Châu với “Mối quan hệ về ngôn ngữ cổ đại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ở Đông Nam Á qua một vài tên sông” (1964) được xem như là người cắm cột mốc
3
đầu tiên trong nghiên cứu địa danh dưới góc nhìn ngôn ngữ học. Lê Trung Hoa với
“Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh” (1991) đã đưa những vấn đề lý thuyết làm cơ
sở cho sự phân tích và chỉ ra các đặc điểm về cấu tạo, nguồn gốc, ý nghĩa… của
thành phố Hồ Chí Minh. Đến 1996, Nguyễn Kiên Trường với luận án PTS “Những
đặc điểm chính địa danh Hải Phòng” đã bổ sung thêm những vấn đề lý thuyết mà
Lê Trung Hoa đã đưa ra trước đó. Tiếp sau là luận án tiến sĩ của Từ Thu Mai với
“Nghiên cứu địa danh Quảng Trị” (2004), Phan Xuân Đạm với “Địa danh Nghệ
An” (2005)… Một loạt các luận văn thạc sĩ khảo sát địa danh ở nhiều địa phương đã
được công bố. Những công trình này đều có những đóng góp đáng trân trọng khi
tiếp cận vấn đề địa danh học dưới cách nhìn ngôn ngữ học.
Ngoài ra còn một số công trình ra đời dưới dạng sách, từ điển, sổ tay như các
công trình của Trần Thanh Tân, Đinh Xuân Vịnh… Các công trình này đều nghiên cứu
một cách công phu nhưng nặng về tập hợp tư liệu, tính lý thuyết chưa cao.
3.3. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên
Địa danh Điện Biên nói chung, địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên nói riêng là đối tượng hết sức mới mẻ, chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu. Hiện mới chỉ có tác phẩm “Sông núi Điện Biên” (2000) của Trần Lê
Văn là tác phẩm ghi lại những câu chuyện về một vài vùng đất ở Điện Biên mà tác
giả có dịp đặt chân đến. Và rải rác trong một số cuốn sách hay bài báo có đề cập đến
một vài địa danh nổi tiếng trong tỉnh, chẳng hạn bài báo “Thành Bản Phủ” (1991)
của Đỗ Văn Ninh trong tạp chí Khảo cổ học, tác phẩm “Di tích lịch sử và văn hóa
Điện Biên Phủ” (2008) của Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, hay tác
phẩm “Địa danh và những vấn đề lịch sử - văn hóa của các dân tộc nhóm ngôn ngữ
Tày - Thái Việt Nam” (2009) của Hội nghị Thái học Việt Nam lần thứ V.
Nhìn chung các khuynh hướng nghiên cứu địa danh ở Việt Nam rất phong
phú, đa dạng. Chính sự phong phú, đa dạng ấy đã giúp chúng ta nhìn nhận địa danh
ở những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về địa danh theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
góc độ ngôn ngữ học còn chưa nhiều.
4
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trước chúng tôi đã có một số công trình luận án tìm hiểu địa danh TP Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Nghệ An, Quảng Trị, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và các vùng
khác. Với địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, từ trước tới nay
hầu như chưa được khảo sát và nghiên cứu. Đây là công trình đầu tiên khảo sát, tìm
hiểu một cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống địa danh ở địa bàn này về các phương
diện cấu tạo, nguồn gốc, đặc điểm phương thức định danh và ý nghĩa các địa danh
địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo. Bên cạnh đó luận văn
cũng chỉ ra một vài đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của địa danh trong mối quan hệ
với địa lí, lịch sử, dân cư và ngôn ngữ. Kết quả nghiên cứu của luận văn về địa danh
có thể là tư liệu quý cho ngành địa phương học, cho việc nghiên cứu lịch sử văn hóa
Điện Biên, góp phần phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, du lịch của địa phương.
Đồng thời kết quả nghiên cứu này có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo bổ ích
trong việc giảng dạy lịch sử địa phương, trong giáo dục truyền thống, giữ gìn, phát
huy những giá trị lịch sử, văn hoá của địa phương.
5. Phƣơng pháp và tƣ liệu nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, công việc đầu tiên là phải thu thập tư
liệu, bổ sung và chỉnh lí các thông tin, thông số của địa danh. Mặt khác phải tra cứu
các tài liệu về lịch sử, địa lí, truyền thống văn hóa của thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên. Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp điều tra, điền dã, khảo sát thực tế, thu thập tất cả các địa danh
trên hai địa bàn thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
- Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp giúp chúng tôi tập hợp và phân
loại các địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo trong
thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên trên cơ sở thu thập địa danh qua các
nguồn khác nhau.
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để phản ánh những đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
điểm cấu tạo và đặc trưng ngữ nghĩa của các yếu tố tên riêng trong phức thể địa danh.
5
- Phương pháp phân tích thành tố nghĩa: Dựa vào các cứ liệu ngôn ngữ, đặc
điểm tâm lí của con người và quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, nghiên cứu một số
địa danh để tìm hiểu xuất xứ, nguồn gốc của một số địa danh nổi tiếng trong thành
phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
5.2. Tư liệu nghiên cứu
Với mục đích phản ánh đầy đủ, trung thực hệ thống địa danh địa hình thiên
nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo trong thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên, chúng tôi đã tiến hành tập hợp các tư liệu cần thiết từ những
nguồn sau:
- Dựa vào tư liệu điều tra điền dã để thu thập tư liệu, ghi chép, bổ sung,
chỉnh lí các thông số, thông tin của từng địa danh.
- Dựa vào niên giám thống kê của thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
- Dựa vào bản đồ các loại của thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
- Dựa vào một số các công trình nghiên cứu về văn hoá, lịch sử, tôn giáo,
kinh tế của địa phương.
- Dựa vào những tư liệu lưu giữ ở chính quyền địa phương. Đây là tư liệu
quan trọng nhất, có tính pháp lí để đảm bảo tính minh xác của những điều trình bày
trong luận văn.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
ba chương:
Chƣơng 1. Những cơ sở lí thuyết liên quan đến địa danh và địa danh học
Chương này sẽ trình bày những vấn đề lý thuyết làm cơ sở cho việc triển
khai những chương mục tiếp theo. Bên cạnh đó, những vấn đề về địa lí, lịch sử, dân
cư, văn hóa và ngôn ngữ trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
cùng một số kết quả thu thập, phân loại các địa danh trên địa bàn cũng được trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bày tóm tắt, làm cơ sở cho nội dung của luận văn
6
Chƣơng 2. Đặc điểm cấu tạo của địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên
Chương này sẽ xác định cấu trúc phức thể địa danh của thành phố Điện Biên
Phủ và huyện Điện Biên gồm thành tố chung và tên riêng. Nội dung của chương sẽ
đi sâu tìm hiểu những đặc điểm về cấu tạo của địa danh trong địa bàn và những
phương thức định danh những địa danh đó.
Chƣơng 3. Đặc trƣng ngôn ngữ - văn hoá trong địa danh thành phố Điện
Biên Phủ và huyện Điện Biên
Chương này sẽ đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo nên địa danh.
Qua đó xác định được lí do đặt tên của địa danh và xác lập được một hệ thống các
trường nghĩa và bộ phận nghĩa của các yếu tố cấu tạo. Đồng thời nội dung của
chương sẽ khai thác những ảnh hưởng của địa lí, lịch sử, dân cư, ngôn ngữ đối với
một số địa danh trong địa bàn. Qua đó thấy được nét riêng của địa danh thành phố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được phản ánh như thế nào.
7
CHƢƠNG 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊA DANH
VÀ ĐỊA DANH HỌC
1.1. KHÁI NIỆM VỀ ĐỊA DANH
Cuộc sống của con người gắn với những điểm địa lí khác nhau. Những điểm
địa lí này được gọi bằng những từ ngữ riêng. Đó là những tên gọi địa lí (địa danh).
Những tên gọi này tạo nên một hệ thống riêng và tồn tại trong vốn từ của các ngôn
ngữ khác nhau trên thế giới. Những tên gọi địa lí, địa danh ấy được thể hiện bằng
thuật ngữ toponima hay toponoma (có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp) với ý nghĩa “tên
gọi điểm địa lí”.
Cần phải hiểu đúng khái niệm địa danh theo phạm vi xuất hiện của nó. Nếu
hiểu đúng theo lối chiết tự thì “địa danh” là tên đất. Thế nhưng, khái niệm này cần
phải hiểu rộng hơn vì đây chính là đối tượng nghiên cứu của một ngành khoa học.
Cụ thể địa danh không chỉ là tên gọi của các đối tượng địa lí tồn tại trên trái đất. Nó
có thể là tên gọi của các đối tượng địa hình thiên nhiên. Đối tượng địa lí cư trú hay
là công trình do con người xây dựng, tạo lập nên.
Địa danh là lớp từ ngữ nằm trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ, được dùng để
đặt tên, gọi tên các đối tượng địa lí. Vì thế, nó hoạt động và chịu sự tác động, chi phối
của các qui luật ngôn ngữ nói chung về mặt ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa và ngữ pháp.
Hiện nay đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những định nghĩa khác nhau về
địa danh. Nhà ngôn ngữ học Nga A.V. Superanskaja trong cuốn “Địa danh là gì?”
đã cho rằng: địa danh là những từ ngữ biểu thị tên gọi “những địa điểm, mục tiêu
địa lí”, “những địa điểm, mục tiêu địa lí đó là những vật thể tự nhiên hay nhân tạo
với sự định vị xác định trên bề mặt trái đất” [43, tr.13].
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu địa danh học đã tiếp cận địa danh từ hai góc
độ khác nhau là nghiên cứu địa danh từ góc độ địa lí - văn hóa và nghiên cứu địa
danh từ góc độ ngôn ngữ học. Đại diện cho hướng nghiên cứu thứ nhất, Nguyễn
Văn Âu cho rằng: “Địa danh là tên đất, tên sông, núi, làng mạc… hay là tên các địa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phương, các dân tộc” [5, tr.15].
8
Đại diện cho hướng nghiên cứu thứ hai là Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên
Trường, Từ Thu Mai, Phan Xuân Đạm.
Lê Trung Hoa cho rằng: “Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định được dùng
làm tên riêng của địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng, các đơn vị hành
chính, các vùng lãnh thổ” [26, tr.21].
Nguyễn Kiên Trường quan niệm: “Địa danh là tên riêng của các đối tượng
địa lí tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” [48, tr. 16].
Từ Thu Mai đưa ra cách hiểu: “Địa danh là những từ ngữ chỉ tên riêng của
các đối tượng địa lí có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” [31, tr.21].
Phan Xuân Đạm cho rằng: “Địa danh là lớp từ ngữ đặc biệt, được định ra để
đánh dấu vị trí, xác lập tên gọi các đối tượng địa lí tự nhiên và nhân văn” [20, tr.12].
Như vậy, với mong muốn đi tìm một khái niệm với nguyên nghĩa của từ
toponomie, Nguyễn Văn Âu quan niệm địa danh chính là “tên gọi các địa phương
hay tên gọi địa lí”, theo đó “địa danh học là một môn khoa học chuyên nghiên cứu
về tên địa lí của các địa phương”. Quan niệm này khá đơn giản, dễ hiểu, trùng với
cách hiểu thông thường của nhân dân, của từ điển ngữ văn giải thích, chẳng hạn
trong “Từ điển Hán Việt”, Đào Duy Anh giải thích: “địa danh là tên gọi các miền
đất”, “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên giải thích: địa danh là “tên đất,
tên làng”. Nguyễn Văn Âu cố gắng thoát ra khỏi quan niệm cho rằng địa danh học
“chuyên nghiên cứu về tên riêng”, ông “chú ý tới các từ chung”.
Lê Trung Hoa là một trong những người có ý thức trình bày các vấn đề địa
danh đặt trong khung cảnh ngôn ngữ học, hướng đến tính lý thuyết, tính hệ thống
sớm hơn cả so với nhiều tác giả khác. Lê Trung Hoa cho rằng: “Địa danh là những
từ hoặc ngữ cố định được dùng làm tên riêng của địa hình thiên nhiên, các công
trình xây dựng thiên về không gian hai chiều, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh
thổ” [26, tr.21]. Định nghĩa này thiên về việc chỉ ra ngoại diên của khái niệm, đồng
thời chỉ ra cách phân loại các địa danh. Do đó, khó có thể khuôn được hiện thực các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kiểu loại địa danh vốn đa dạng trong thực tế vào trong định nghĩa phân loại này.
9
Nguyễn Kiên Trường là người đầu tiên đưa ra định nghĩa nêu giới hạn ngoại
diên của địa danh chỉ thuộc về những gì ở trên trái đất một cách hiển ngôn. Dựa trên
tiêu trí mà Lê Trung Hoa đưa ra, Nguyễn Kiên Trường chia địa danh thành từng loại
nhỏ. Bên cạnh đó, ông còn tiến hành phân loại theo nguyên ngữ, theo chức năng của
địa danh.
Từ Thu Mai cho rằng, khi xác định khái niệm địa danh cần chú ý đến những
vấn đề trong nội tại bản thân khái niệm. Định nghĩa của Từ Thu Mai có điểm xuất
phát từ cách hiểu địa danh của A.V. Superanskaja.
Theo chúng tôi, mặc dù nằm trong hệ thống những loại hình khác nhau
nhưng các đối tượng địa lí bao giờ cũng xuất hiện trong thực tế với những cá thể
độc lập. Đầu tiên, người ta thường sử dụng các tên chung để định danh cho một đối
tượng cụ thể, được xác định. Nó chính là đơn vị định danh bậc hai trên cơ sở vốn từ
chung. Vì vậy, khi xác định khái niệm địa danh cần phải chú ý đến những vấn đề
nội tại trong bản thân địa danh. Trước hết, mỗi địa danh đều phải có tính lí do, phải
xác định được nguyên nhân đặt tên đối tượng. Chức năng gọi tên và cá thể hóa, khu
biệt đối tượng là tiêu chí thứ hai. Tiêu chí thứ ba là các đối tượng được gọi tên phải
là các đối tượng địa lí tồn tại trên bề mặt trái đất và ngoài trái đất. Các đối tượng
này có thể là đối tượng địa lí tự nhiên hay không tự nhiên.
Phan Xuân Đạm có quan niệm khá độc đáo, khác với những người đi trước.
Cách hiểu của ông về địa danh rất hợp lý, tiến bộ theo hướng chức năng của địa
danh. Về cách phân loại địa danh, cũng như Từ Thu Mai, tác giả kế thừa cách phân
loại của Lê Trung Hoa.
Nhìn chung, trong các định nghĩa và phân loại, các tác giả đều thừa nhận
rằng, các đối tượng được định danh rồi nhóm lại dưới cái tên gọi “địa danh” chỉ là
những đối tượng thuộc về trái đất. Như vậy, các đối tượng ngoài trái đất như Trạm
vũ trụ Hòa Bình, sao Hỏa… sẽ không được coi là địa danh. Điều này khác với quan
điểm của nhiều nhà khoa học nước ngoài.
Từ những vấn đề trên, chúng tôi tán thành quan điểm của Phan Xuân Đạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khi ông cho rằng: “Địa danh là lớp từ ngữ đặc biệt, được định ra để đánh dấu vị trí,
10
xác lập tên gọi các đối tượng địa lí tự nhiên và nhân văn” [20, tr.12]. Luận văn này
sẽ nghiên cứu những từ ngữ chỉ tên riêng của các đối tượng địa lí thuộc địa danh địa
hình tự nhiên, địa danh đơn vị dân cư và địa danh công trình nhân tạo trên địa bàn
thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
1.2. PHÂN LOẠI ĐỊA DANH
Hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các nhà ngôn ngữ học có những
cách phân loại khác nhau về địa danh. Chẳng hạn, G.P. Smolichnaja và M.V.
Gorbanevskij cho rằng địa danh có bốn loại: Phương danh (tên các địa phương), sơn
danh (tên núi, gò, đồi…), thủy danh (tên các dòng chảy, ao ngòi, sông vũng), phố
danh (tên các đối tượng trong thành phố). Còn nhà khoa học Nga A.V.
Superanskaja lại chia làm bảy loại: Phương danh, thủy danh, sơn danh, phố danh,
viên danh, lộ danh, đạo danh (tên các đường giao thông trên đất, dưới đất, trên
nước, trên không).
Ở Việt Nam, Nguyễn Văn Âu quan niệm: “Phân loại địa danh là sự phân
chia địa danh thành các kiểu, nhóm khác nhau, dựa trên những đặc tính cơ bản về
địa lí cũng như về ngôn ngữ và lịch sử” [5, tr.37]. Và ông đã chia địa danh Việt
Nam thành hai loại: Địa danh tự nhiên và địa danh kinh tế - xã hội với bảy kiểu:
Thủy danh, lâm danh, sơn danh, làng xã, huyện thị, tỉnh, thành phố, quốc gia và
mười hai dạng: Sông ngòi, hồ đầm, đồi núi, hải đảo, rừng rú, truông - trảng, làng -
xã, huyện - quận, thị trấn, tỉnh, thành phố, quốc gia. Mỗi dạng lại có thể phân chia
thành các dạng sông, ngòi, suối… Cách phân loại này của tác giả nghiêng về tính
dân gian, dễ tiếp thu song hơi sa vào chi tiết, thiếu tính khái quát, đối tượng nghiên
cứu và tên gọi đối tượng nghiên cứu chưa được làm rõ.
Lê Trung Hoa phân loại địa danh dựa vào nguồn gốc địa danh. Cách phân
loại của ông dựa vào hai tiêu chí tính tự nhiên và không tự nhiên. Đây là cách phân
loại thường gặp và tương đối hợp lý, có tính bao quát. Ông phân loại địa danh: Địa
danh chỉ địa hình thiên nhiên, địa danh chỉ công trình xây dựng, địa danh hành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chính, địa danh chỉ vùng.
11
Nguyễn Kiên Trường phân loại dựa trên tiêu chí mà Lê Trung Hoa đưa ra
nhưng tiếp tục chia nhỏ một bước nữa. Ông chia đối tượng tự nhiên thành hai loại
nhỏ: Các đối tượng sơn hệ và các đối tượng thủy hệ; chia đối tượng nhân văn thành:
địa danh cư trú và địa danh chỉ công trình xây dựng. Địa danh cư trú bao gồm: đơn
vị cư trú tự nhiên, đơn vị hành chính, đường phố. Địa danh chỉ công trình xây dựng
bao gồm: Đơn vị hành chính, đường phố và các đối tượng khác. Bên cạnh đó,
Nguyễn Kiên Trường còn tiến hành phân loại theo nguyên ngữ địa danh, theo chức
năng giá trị của địa danh.
Từ Thu Mai cũng phân loại theo cách phân loại của Lê Trung Hoa và dùng
khái niệm “loại hình địa danh” làm tiêu chí phân loại. Theo Từ Thu Mai có ba loại
hình địa danh là địa danh địa hình thiên nhiên, địa danh đơn vị dân cư và địa danh
công trình nhân tạo. Trong đó, ở mỗi loại hình địa danh lại gồm những tiểu loại địa
danh khác nhau.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước và theo mục
đích nghiên cứu của luận văn, chúng tôi cũng tán đồng cách phân loại theo tiêu chí
“tự nhiên - không tự nhiên” của Lê Trung Hoa và Từ Thu Mai. Chúng tôi phân loại
địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên thành ba loại: địa danh địa
hình thiên nhiên, địa danh đơn vị dân cư và địa danh công trình nhân tạo. Trong đó
địa danh địa hình thiên nhiên gồm sơn danh, thủy danh và những vùng đất nhỏ phi
dân cư; địa danh đơn vị dân cư gồm các đơn vị dân cư cụ thể nằm trong cấp thành
phố, huyện; địa danh các công trình nhân tạo gồm địa danh các công trình nhân tạo
thuộc những hoạt động vật chất của con người và địa danh các công trình nhân tạo
thuộc những hoạt động tâm linh của con người. Trong mỗi tiểu loại lại gồm những
bộ phận nhỏ hơn, thuộc vào những loại hình địa danh đó.
1.3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA DANH
Xét về phương diện ngôn ngữ học, nhìn vào toàn bộ hệ thống địa danh một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vùng đất, có thể thấy rõ các đặc điểm sau đây:
12
1.3.1. Địa danh là một hệ thống tên gọi đa dạng
Nếu so sánh với nhân danh và vật danh thì hệ thống địa danh vừa đa dạng
vừa phức tạp. Về loại hình địa danh, có những địa danh biểu thị địa hình tự nhiên
(núi, sông, biển, hồ…); có những địa danh biểu thị tên gọi của các đơn vị hành
chính, đơn vị dân cư do Nhà nước đặt ra (thành phố, thị xã, huyện, phường, phố…);
lại có những địa danh là tên gọi các công trình xây dựng trên bề mặt đất hay dưới
lòng đất (cầu, cống, đường, hầm, đê, đập…). Về cấu tạo, địa danh vừa có cấu tạo
đơn vừa có cấu tạo phức (vừa có từ vừa có cụm từ, vừa có danh từ vừa có danh
ngữ). Trong cấu tạo đơn, có địa danh đơn tiết, có địa danh đa tiết. Trong cấu tạo
phức, giữa các yếu tố trong địa danh có các mối quan hệ: Quan hệ đẳng lập, quan hệ
chính phụ và quan hệ chủ vị. Về nguồn gốc ngôn ngữ, có những địa danh có nguồn
gốc tiếng Việt (thuần Việt, Hán Việt), có những địa danh có nguồn gốc tiếng dân
tộc thiểu số và có cả những địa danh vay mượn từ tiếng nước ngoài.
1.3.2. Địa danh thƣờng diễn ra hiện tƣợng chuyển hóa
Chuyển hóa là lấy tên gọi một đối tượng địa lí này để gọi một đối tượng địa
lí khác. Hiện tượng này có thể xảy ra các trường hợp như:
- Chuyển hóa trong nội bộ từng loại địa danh. Chẳng hạn, trong nội bộ địa
danh đơn vị dân cư: bản Noong Bua phường Noong Bua, mường Lói xã
Mường Lói; trong nội bộ địa danh địa hình thiên nhiên: hồ U Va núi U Va, núi
Phà Lén dãy núi Phà Lén.
- Chuyển hóa giữa các loại địa danh. Chẳng hạn, chuyển hóa địa danh địa
hình thiên nhiên thành địa danh đơn vị dân cư: núi Pú Sung bản Pú Sung; chuyển
hóa địa danh đơn vị dân cư thành địa danh công trình nhân tạo: bản Hua Pe đồn
Hua Pe, thành Sam Mứn bản Sam Mứn.
- Chuyển hóa nhân danh thành địa danh. Chẳng hạn, Nguyễn Chí Thanh
đường Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Công Chất đền Hoàng Công Chất.
1.3.3. Địa danh có phƣơng thức cấu tạo phong phú
Nghiên cứu các phương thức cấu tạo định danh, chúng tôi thấy địa danh
được tạo nên bởi rất nhiều phương thức khác nhau: vừa dựa vào đặc điểm bản thân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đối tượng để đặt tên như: núi Pha Sung (vách cao), suối Púng (vũng), bản Noong
13
Chứn (ao chì), bản Đồi Cao, thác Trắng; vừa dựa vào sự vật, yếu tố có quan hệ chặt
chẽ với đối tượng như xã Nà Nhạn (ruộng nhạn), suối Hẹt (tê giác), núi Pú Co
Nghịu (núi cây bông gạo), đồn biên phòng Hua Pe (đầu suối Pe), bản Sam Mứn (ba
vạn); bên cạnh đó còn có phương thức ghép các yếu tố Hán Việt để đặt tên như: bản
Tân Quang, bản Thanh Bình, thôn Lập Thành, thôn Đoàn Kết; dùng số đếm, chữ cái
hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó để đặt tên như: tổ dân phố 1, thôn 24, đội C1, cầu
C4... và phương thức ghép giữa các yếu tố (tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc thiểu số)
với số đếm hoặc chữ cái như: bản Ten A, bản Gia Phú B, bản Pom Lót 10, thôn
Thanh Hồng 4, di tích Đồi A1, di tích Đồi E2.
1.4. CÁC PHƢƠNG DIỆN NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH
Đối tượng nghiên cứu của địa danh học rất rộng. Nói đến danh học, người ta
thường thiết lập một danh sách những khái niệm có liên quan như: Tên người/nhân
danh, tên các hành tinh, tên gọi các tổ chức chính trị - xã hội, tên các tộc người, tên
các nghiệp đoàn, tên các con đường, tên gọi các con sông, dòng suối, tên gọi các
con vật, tên gọi các đấng siêu nhiên, thần linh, tên gọi các quả đồi, ngọn núi, tên các
công trình xây dựng để ở, tên người gọi theo dòng bố, tên gọi theo dòng mẹ, tên
người gọi theo con cháu… Bộ môn khoa học nghiên cứu về tên gọi như vậy được
gọi là danh học. Các địa danh cũng chỉ là một trong nhiều đối tượng nghiên cứu của
khoa học được đặt trong thế phân biệt với nhân danh học. Đặt trong khung cảnh của
ngôn ngữ học, địa danh học nằm trong lòng bộ môn từ vựng học, vì đối tượng
nghiên cứu của địa danh học chính là các từ ngữ được sử dụng để đặt tên, gọi tên.
Địa danh học là một bộ môn ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu về nguồn gốc,
cấu tạo, ngữ nghĩa, sự biến đổi, sự lan tỏa, phân bố của địa danh. Người chuyên
nghiên cứu về địa danh được gọi là nhà địa danh học.
Như vậy một nhà địa danh học thường phải làm, nghiên cứu giải quyết
những công việc chính sau đây:
- Tìm hiểu nguồn gốc lịch sử của địa danh.
- Tìm hiểu ngữ nghĩa của địa danh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Tìm hiểu các mô hình địa danh, các phương thức quá trình tạo địa danh.
14
- Tìm hiểu sự nảy sinh, lan tỏa, sự phân bố của địa danh qua các không gian,
các khoảng thời gian khác nhau.
- Chuẩn hóa địa danh.
Trong những vấn đề lớn trên, người ta lại chia nhỏ thành nhiều vấn đề khác
nhau để nghiên cứu.
Về quan điểm tín hiệu học, địa danh có tính lí do. Vậy, vấn đề quan trọng là
cội nguyên, ngữ nghĩa của địa danh. Điều này, ta thường thấy trong định nghĩa địa
danh học: Là bộ môn nghiên cứu về nguồn gốc, ngữ nghĩa của địa danh.
Dựa trên hướng nghiên cứu, người ta chia ra các bộ phận nhỏ như: Ngôn ngữ
địa danh học, địa lí địa danh học, lịch sử địa danh học, đối chiếu địa danh học…
Ngôn ngữ địa danh học chú ý nhiều đến những diễn tiến về mặt ngôn ngữ của địa
danh, đặc điểm cấu tạo ngôn ngữ của địa danh, ngữ nghĩa của địa danh, các mô hình
cấu tạo của địa danh…; địa lí địa danh học chú ý nhiều đến sự phân bố về địa danh,
sự liên quan giữa sự phân bố của địa danh đối với các vùng, các đối tượng không
gian địa lí…; lịch sử địa danh học chú ý nhiều đến các quá trình hình thành địa
danh, sự phát triển của địa danh, sự phân bố của địa danh có liên quan đến các tộc
người, đối chiếu địa danh học nghiêng về sự đối sánh để tìm ra những nét tương
đồng và dị biệt giữa hệ thống địa danh của tộc người này, dân tộc này, đất nước này
với tộc người khác, dân tộc khác, đất nước khác, tìm hiểu tính chất nhân học trong
địa danh.
Ngoài ra, người ta có thể chia địa danh thành địa danh học lý thuyết, địa
danh học mô tả.
1.5. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỊA DANH VÀ ĐỊA DANH HỌC
1.5.1. Về địa lí
Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là hai địa bàn thuộc tỉnh Điện
Biên, một tỉnh biên giới ở phía Tây Bắc Tổ quốc. Thành phố Điện Biên Phủ nằm
trong vùng lòng chảo Mường Thanh, phía Đông giáp huyện Điện Biên Đông (tỉnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Điện Biên), phía Tây, phía Nam, phía Bắc đều giáp huyện Điện Biên (tỉnh Điện
15
Biên); có diện tích tự nhiên là 6.009,05 ha. Còn huyện Điện Biên có vị trí: phía Bắc
giáp huyện Mường Chà và huyện Tuần Giáo (tỉnh Điện Biên), phía Đông giáp
huyện Điện Biên Đông (tỉnh Điện Biên) và huyện Sốp Cộp (tỉnh Sơn La), phía Tây
và phía Nam giáp Lào; có diện tích tự nhiên là 163.985 ha.
Cấu trúc địa hình thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên mang một số
đặc điểm nổi bật của địa hình toàn tỉnh: núi thấp dần và đổ dồn xuống các sông và
suối lớn, hoặc xen kẽ với các thung lũng sông, khe suối. Lọt vào giữa các dãy núi có
rất nhiều dải trũng bằng phẳng tạo thành những cánh đồng hẹp kéo dài. Các dãy núi
phía Tây là bộ phận kéo dài của hệ thống núi ở Bắc Lào, cùng hướng với dòng chảy
của các sông suối trong vùng này thường có hướng Bắc - Nam hoặc Tây Bắc -
Đông Nam. Ngoài ra còn có các dạng địa hình thung lũng, sông suối, thềm bãi bồi,
sườn tích, hang động castơ... phân bố rộng khắp trên địa bàn nhưng diện tích nhỏ.
Thành phố Điện Biên Phủ nằm trong vùng lòng chảo, là vùng có địa hình
tương đối bằng phẳng, ít bị chia cắt, độ dốc nhỏ dưới 15 độ, độ cao hơn 400 m so
với mặt nước biển thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ, du lịch. Đặc biệt có thung lũng Mường Thanh với diện
tích trên 15.000 ha, là cánh đồng lớn và nổi tiếng nhất của toàn tỉnh và toàn vùng
Tây Bắc (nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc). Với khả năng sản xuất lương thực
dồi dào, cánh đồng Mường Thanh là vựa lúa của cả tỉnh Điện Biên.
Địa hình của huyện Điện Biên bao gồm một phần của vùng lòng chảo (gọi là
vùng thấp) và vùng núi cao (còn gọi là vùng ngoài). Vùng thấp (như đã nêu trên)
chiếm 21% diện tích toàn huyện, còn vùng núi cao chiếm 79% diện tích toàn huyện
với độ cao từ 1000 m trở lên trong đó đỉnh cao nhất là Pú Pha Sung. Địa hình đồi,
núi cao và đất dốc của huyện thuận lợi cho sản xuất lâm nghiệp, chăn nuôi đại gia
súc, phát triển thủy điện và xây dựng các hồ chứa nước phục vụ sinh hoạt, cung cấp
nước cho sản xuất nông nghiệp vùng lòng chảo.
Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có các nhóm đất chính là:
nhóm đất phù sa, nhóm đất đen, nhóm đất feralit mùn vàng đỏ trên núi, nhóm đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thung lũng do sản phẩm dốc tụ, nhóm đất mùn vàng nhạt trên núi cao và núi đá,
16
sông suối. Điện Biên có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng về chủng loại, gồm
các loại chính như: nước khoáng, than mỡ, đá vôi, đá đen, đá granit, quặng sắt và
kim loại màu... nhưng trữ lượng thấp và nằm rải rác trong tỉnh. Là tỉnh miền núi nên
Điện Biên có tiềm năng rừng và đất rừng rất lớn. Diện tích rừng và đất rừng chiếm
tới 79,30% tổng diện tích tự nhiên với nhiều loại rừng phong phú, đa dạng, phân bố
trên các kiểu địa hình khác nhau. Rừng có hệ động, thực vật đa dạng và một số loại
có giá trị kinh tế cao.
Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có mạng lưới ao hồ và sông
suối chằng chịt. Sông suối mang tính chất đầu nguồn điển hình, dốc hẹp, quanh co,
nhiều thác ghềnh. Các sông suối ở đây đều nằm trong ba hệ thống sông chính của
nước ta là sông Đà, sông Mã và sông Mê Công với các phụ lưu chính là sông Nậm
Rốm, Nậm Núa, Nậm Mức và sông Mã cùng với rất nhiều những suối, khe, rãnh
lớn, nhỏ khác.
Ngoài ra hai địa bàn này còn có một hệ thống hồ chứa nước lớn, những hồ đó
là nguồn trữ nước của công trình thủy lợi Nậm Rốm, cung cấp nước tưới cho toàn
bộ đồng ruộng vùng lòng chảo, nuôi hải sản, bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó có hồ
còn là điểm tham quan, du lịch sinh thái nổi tiếng và hấp dẫn của Điện Biên.
Điện Biên là cửa ngõ phía Tây Bắc của vùng Bắc Bộ nước ta, là tỉnh duy
nhất có chung đường biên giới với hai quốc gia Trung Quốc và Lào trong đó huyện
Điện Biên có chung đường biên giới với Lào qua hai cửa khẩu Huổi Puốc và Tây
Trang. Điện Biên còn có quốc lộ 279 nối liền Điện Biên - Lào và quốc lộ 12 chạy từ
thành phố Điện Biên Phủ tới thị xã Lai Châu cùng với hệ thống giao thông biên giới
và con đường xuyên Á đang từng bước được đầu tư xây dựng. Bên cạnh đó Điện
Biên còn có cảng hàng không Điện Biên Phủ hoạt động thường xuyên nhằm phục
vụ khách đến tham quan du lịch và đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân trong vùng.
Cảng này đang được đầu tư để mở đường bay tới các nước trong khu vực. Chính
những sự kiến tạo này đã làm cho Điện Biên có điều kiện trở thành đầu mối giao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thông quan trọng, thuận lợi cho việc mở rộng giao lưu kinh tế - văn hóa - du lịch
17
giữa các vùng trong và ngoài tỉnh. 27 đơn vị hành chính (gồm 7 phường và 20 xã)
trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được phân bố đều ở cả địa hình
thung lũng, đồi núi thấp và vùng núi cao [6], [8], [49].
1.5.2. Về lịch sử
Thời Hùng Vương, thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên ngày nay
thuộc bộ Tân Hưng; thời Lý thuộc lộ Đà Giang; thời Trần thuộc châu Ninh Viễn;
thời Lê thuộc trấn Gia Hưng. Năm 1463, trấn Hưng Hóa được thành lập gồm 3 phủ:
Gia Hưng, Quy Hóa, An Tây gồm một vùng đất đai, sông núi rộng mênh mông
tương đương với các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Lào Cai, Phú Thọ ngày nay.
Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên lúc đó thuộc phủ An Tây. Phủ An
Tây có 10 châu: Lai, Luân, Quỳnh Nhai, Chiêu Tấn, Tùng Lăng, Lễ Tuyền, Hoàng
Nham, Hợp Phì, Tuy Phụ và Khiêm.
Đời Lê Cảnh Hưng (1740-1768), 6 châu của nước ta là: Tùng Lăng, Hoàng
Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ và Khiêm đều bị nhà Thanh (Trung Quốc)
đánh chiếm. Phủ An Tây chỉ còn 4 châu: Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai và Luân.
Thời Tây Sơn. Quang Trung đã làm một biểu gửi vua Thanh đòi lại 6 châu đã chiếm
nhưng không được chấp nhận.
Năm 1882, thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai, đã đặt kế hoạch
đánh chiếm tỉnh Hưng Hóa. Theo Tổng mệnh lệnh số 4 ngày 11-6-1885 của
Đờcuốcxy (Decourcy) tỉnh Hưng Hóa nằm trong Quân khu miền Tây, tiếp đó nằm
trong Đạo quan binh thứ tư (theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 20-8-
1891). Sau đó Đạo quan binh thứ tư tách thành Tiểu quân khu Vạn Bú và Tiểu quân
khu Lai Châu. Ngày 10-10-1859, hai tiểu quân khu trên sáp nhập thành tỉnh Vạn Bú.
Ngày 7-4-1904, tỉnh lỵ Vạn Bú chuyển về Sơn La. Đến ngày 23-8-1904, tỉnh Vạn Bú
đổi thành tỉnh Sơn La. Ngày 28-6-1909, Toàn quyền Đông Dương Klobukowski ra
Nghị định thành lập tỉnh Lai Châu gồm: Đạo Lai (châu Lai, châu Quỳnh Nhai và phủ
Luân Châu), châu Điện Biên và phủ Tuần Giáo, dân số khoảng 4 vạn người. Đến 27-
3-1916, tỉnh Lai Châu lại chuyển thành Đạo quan binh thứ tư theo chế độ quân quản,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
có một thời gian ngắn chúng áp dụng chế độ cai trị hành chính.
18
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới chính thể mới của nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa, địa phương có một số thay đổi như sau:
- Khi cuộc kháng chiến toàn quốc mới bùng nổ, Lai Châu nằm trong Chiến khu
2 cùng với Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Hòa Bình, Ninh Bình, Sơn La. Sau đó Lai
Châu nhập cùng Chiến khu 10 và một phần Chiến khu 1 thành liên khu Việt Bắc.
- Năm 1948, Lai Châu và Sơn La hợp nhất thành tỉnh Sơn Lai. Ngày 12-1-
1952, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 145-TTg tái lập hai tỉnh.
- Ngày 26-1-1953, để củng cố căn cứ địa Tây Bắc mới giải phóng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký Sắc lệnh số 134-SL thành lập Khu Tây Bắc gồm các tỉnh Lào Cai, Yên
Bái, Sơn La và Lai Châu, tách khỏi Liên khu Việt Bắc. Đồng thời, Khu ủy Tây Bắc
cũng ra Quyết định chuyển huyện Thuận Châu từ tỉnh Sơn La sang tỉnh Lai Châu.
- Ngày 7-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Lai Châu được giải
phóng, hòa bình được lập lại trên miền Bắc nước ta.
Ngày 29-4-1955, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành Sắc
lệnh số 230-SL thành lập Khu tự trị Thái - Mèo, các châu (huyện trước đây) trực
thuộc Khu, không có cấp hành chính tỉnh.
Ngày 27-10-1962, kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa II đã ra Nghị quyết đổi tên
Khu tự trị Thái - Mèo thành Khu tự trị Tây Bắc và thành lập lại 3 tỉnh trong Khu là:
Lai Châu, Nghĩa Lộ và Sơn La. Tỉnh Lai Châu lúc đó gồm 7 huyện: Điện Biên,
Tuần Giáo, Tủa Chùa, Mường Tè, Mường Lay, Phong Thổ, Sìn Hồ và thị trấn Lai
Châu. Ngày 8-10-1971, Khu tự trị Tây Bắc giải thể.
Ngày 7-10-1995, Chính phủ ra Nghị định số 59/NĐ-CP về thành lập huyện
Điện Biên Đông trên cơ sở tách ra từ huyện Điện Biên.
Ngày 26-09-2003, Chính phủ ra Nghị định số 110/2003/NĐ-CP về thành lập
thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Lai Châu.
Ngày 26-11-2003, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra
Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số
tỉnh, trong đó có Lai Châu. Tỉnh Lai Châu (cũ) được chia thành tỉnh Lai Châu (mới)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và tỉnh Điện Biên. Ngày 1-1-2004, hai tỉnh chính thức đi vào hoạt động. Đến nay
19
tỉnh Điện Biên có 9 huyện, thị, thành phố gồm các huyện: Điện Biên, Điện Biên
Đông, Tuần Giáo, Mường Nhé, Tủa Chùa, Mường Chà, Mường Lay, thị xã Lai
Châu và thành phố Điện Biên Phủ.
Hiện nay thành phố Điện Biên Phủ có diện tích tự nhiên là 6.009,05 ha và
gồm 8 đơn vị hành chính với 7 phường (đó là các phường: Him Lam, Mường
Thanh, Nam Thanh, Noong Bua, Tân Thanh, Thanh Bình, Thanh Trường) và 1
xã (đó là xã Thanh Minh). Thành phố Điện Biên Phủ là tỉnh lỵ của tỉnh Điện
Biên. Còn huyện Điện Biên sau khi trải qua nhiều lần điều chỉnh địa giới, đến
nay có diện tích tự nhiên là 163.985 ha và gồm 19 đơn vị hành chính trực thuộc
ở cấp xã (đó là các xã Mường Lói, Mường Nhà, Mường Phăng, Mường Pồn, Nà
Nhạn, Nà Tấu, Na Ư, Noong Hẹt, Noong Luống, Núa Ngam, Pa Thơm, Sam Mứn,
Thanh An, Thanh Chăn, Thanh Hưng, Thanh Luông, Thanh Nưa, Thanh Xương và
Thanh Yên) [6], [8], [49].
1.5.3. Về văn hóa
Kho tàng văn hóa, nghệ thuật của các dân tộc anh em từ bao đời nay để lại đã
khẳng định thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có nền văn hóa phát triển
từ rất sớm, độc đáo, phong phú và đa dạng. Truyền thống đó được kết tinh từ truyền
thống yêu nước, nhân nghĩa, thủy chung, đức tính cần cù, chăm chỉ, yêu lao động
của đồng bào các dân tộc nơi đây. Mỗi dân tộc trong vùng đều có bản sắc văn hóa
riêng phong phú, độc đáo như: kiến trúc, xây dựng, tâm linh, tín ngưỡng, ẩm thực,
những câu tục ngữ, thành ngữ, hát giao duyên, lời khấn, lời bùa chú, các áng văn
trong lễ tang, trong lễ hội, các bài văn vần dạy bảo đạo đức cho dâu dể trong đám
cưới, các thần thoại, đồng thoại, cổ tích, truyện cười…
Các công trình kiến trúc mang đậm bản sắc dân tộc như thành Bản Phủ,
thành Tam Vạn, di tích Chùa Pá Sa…
Trong số 20 dân tộc ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, người
Thái là dân tộc sinh sống đông nhất và có truyền thống văn hóa lâu đời. Họ có chữ
viết riêng, thuộc hệ chữ Phạn nên đã ghi chép được nhiều diễn biến về các lĩnh vực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kinh tế, văn hóa, xã hội trong tỉnh đồng thời qua giao lưu, họ còn tiếp thu được
20
nhiều nền văn hóa của các dân tộc khác. Họ đã dựa vào truyện kể dân gian của
người La Hủ để sáng tác truyện thơ “Chàng Lú nàng Ủa”, dựa vào truyền thuyết
của người Khơ Mú mà sáng tạo ra trường ca “Chương Han”. Nhờ có chữ viết mà
các tác phẩm văn học có giá trị của người Thái như “Sống chụ son sao”, “Tản chụ
siết sương”... cũng được lưu truyền lại.
Các điệu múa xòe, múa nón, múa sạp rộn ràng, duyên dáng của người Thái
cùng các điệu múa ô, múa khèn của người Mông; múa chuông của người Dao; múa
lắc mông, lượn eo đặc sắc riêng của người Khơ Mú và Xinh Mun; múa trống, múa
Tăng Bu (dỗ ống) của người La Ha... đã góp phần làm cho kho tàng nghệ thuật của
đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Bắc thêm phong phú, đa dạng.
Các dân tộc ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên còn có văn hóa
lễ hội hết sức đặc sắc. Các lễ hội diễn ra gần như quanh năm, tùy theo từng dân tộc
và theo vùng. Chẳng hạn, lễ hội Thành Bản Phủ (còn gọi là lễ hội Hoàng Công
Chất) của đồng bào các dân tộc trong vùng, lễ Xên bản (cúng bản) và lễ Hạn
Khuống của người Thái, lễ hội Gầu Tào của người Mông, lễ Cầu mưa của dân tộc
Khơ Mú, Lô Lô và Lào, lễ hội Căm Mường của dân tộc Lự…
Trong các lễ hội, chúng ta sẽ có dịp được chiêm ngưỡng các trang phục đẹp
đẽ, đặc sắc, độc đáo của đồng bào các dân tộc. Đó là những bộ trang phục được
trang trí bởi bàn tay khéo léo của các cô gái... với những hoa văn, họa tiết cầu kỳ,
nhiều màu sắc sinh động. Những bộ trang phục đó đã góp phần làm phong phú nền
văn hóa đa dạng của đồng bào các dân tộc trong vùng [6], [8], [16], [27], [49].
1.5.4. Về dân cƣ
Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được coi là quê hương của
hai mươi dân tộc anh em (gồm Thái, Kinh, Mông, Khơ Mú, Lào, Dao, Hà Nhì, La
Hủ, Giáy, Phù Lá, Cống, Si La, Kháng, Lô Lô, Hoa, Lự, Tày, Nùng, Mường, Xinh
Mun) trong đó 5 dân tộc đông nhất là: dân tộc Thái (53,71%), dân tộc Kinh
(27,85%), dân tộc Mông (8,5%), dân tộc Khơ Mú (5%), dân tộc Lào (3,17%) [6,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tr.24]. Đến năm 2007, dân số thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là 154.942 người với mật độ trung bình là 408,0 người/km2 [36, tr.33]. Như vậy dân
21
cư sinh sống trong hai địa bàn khá thấp và mật độ thưa thớt, dân cư tập trung chủ
yếu ở thành phố và trung tâm huyện. Mỗi dân tộc sinh sống trên địa bàn có tập
quán văn hóa truyền thống khác nhau góp phần đem lại cho nơi đây những bản sắc
văn hóa phong phú, đa dạng.
Người Thái mặc dù có mặt ở Điện Biên sau người Lự (một dân tộc bà con
với người Thái, có mặt ở Điện Biên từ những thế kỷ đầu Công nguyên và đã để lại
nơi đây nhiều di tích lịch sử) nhưng từ trước đến nay là cư dân chiếm số đông nhất
ở Điện Biên. Họ thiên di đến Mường Thanh (Điện Biên) qua nhiều thời kỳ lịch sử
khác nhau. Đầu tiên họ theo người tù trưởng Thái đen là Lạng Chượng tiến quân
vào đất Mường Thanh từ khoảng thế kỷ XII - XIII. Có lẽ vì thế nên người Thái ở
Điện Biên hiện nay phần lớn thuộc ngành Thái đen. Sau đó sự thiên di gần đây nhất
và ồ ạt nhất là thời kỳ Cầm Ten (hay Bạc Cầm Tiến) liên kết với người tù trưởng
Khơ Mú là Chương Han đánh giặc Cờ Vàng. Người Thái thường sinh sống theo
cộng đồng thành từng bản gần nguồn nước, ven sông, suối; họ định cư khá bền
vững ở các thung lũng trù phú dưới chân đồi với cuộc sống làm lúa nước và phát
nương, làm rẫy, làm nghề rừng. Người Thái có một cơ sở xã hội ổn định, một nền
văn hóa khá cao, một đời sống kinh tế trù phú, dân tộc Thái là nhân tố thu hút các
dân tộc quanh vùng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương chống lại âm
mưu xâm lược của bất kỳ thế lực đế quốc phản động nào.
Người Kinh có số dân đông thứ hai, sau người Thái, sinh sống tập trung ở
các thành phố, thị trấn. Họ đến Điện Biên qua những thời kỳ khác nhau: theo sự chỉ
đạo của triều đình phong kiến khi triều đình thấy đây là một vùng đất có vị trí quan
trọng phía Tây Tổ quốc, theo nghĩa quân Hoàng Công Chất lên giải phóng đất
Mường Thanh khỏi ách thống trị của giặc Phẻ hay có một số gia đình người Kinh vì
nghèo khổ mà phải lên đây lập nghiệp. Lúc đó người Kinh chỉ sống rất rải rác, thưa
thớt. Người Kinh lên Điện Biên đông nhất là sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ lịch
sử kết thúc, họ theo lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ lên xây dựng quê hương
mới Điện Biên ngày càng văn minh, giàu đẹp. Người Kinh có một trình độ văn hóa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cao, với năng lực trí thức và khoa học kĩ thuật được trang bị tốt hơn, họ đã góp phần
22
thúc đẩy Điện Biên tiến mau trên con đường đổi mới, hòa chung với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Người Mông (còn gọi H’Mông, Mèo) cư trú ở những vùng núi cao với nghề
chính là làm nương rẫy và trồng ngô, trồng lúa. Họ từ Trung Quốc sang Việt Nam
vào những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Họ có tinh thần đấu tranh kiên
cường, bất khuất và truyền thống này đã được phát huy trong cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ, chống biệt kích gián điệp, bảo vệ an ninh Tổ quốc và phá
tan âm mưu diễn biến hòa bình của những thế lực phản động.
Người Khơ Mú (còn gọi người Xá) là một dân tộc lâu năm cư trú trên đất
nước Lào, họ vào Tây Bắc, đến Điện Biên bằng một mối tình chiến đấu anh em giữa
nhân dân hai nước. Họ đã theo người tù trưởng của mình là Chương Han liên minh
với người Thái dưới sự lãnh đạo của tù trưởng Cầm Ten (hay Bạc Cầm Tiến) đánh
đuổi giặc Cờ Vàng ở miền Tây Bắc Việt Nam. Người Khơ Mú là một dân tộc có
trình độ phát triển xã hội thấp, chuyên sống du canh du cư và bị ràng buộc bởi nhiều
tập tục lạc hậu. Ngày nay đời sống của họ cũng đã ít nhiều được thay đổi và dần ổn
định hơn trong sự phát triển chung của địa phương.
Người Lào có nguồn gốc từ nước bạn Lào sang và chỉ có một tỷ lệ nhỏ dân
cư sinh sống ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên. Họ phần lớn thuộc
nhóm Lào Bốc (Lào ở cạn) hay Lào Nọi (Lào nhỏ), phong tục gần với người Thái.
Họ sống tập trung bên những cánh đồng phì nhiêu, ven theo các sườn đồi hoặc dọc
theo các con sông nhỏ, các khe suối râm mát. Họ cũng là những con người cần cù,
khéo léo, ưa cuộc sống hòa bình và cũng có tinh thần đấu tranh kiên cường bất
khuất [6], [8].
1.5.5. Về ngôn ngữ
Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là hai địa bàn đa dân tộc, đa
ngôn ngữ. Có đến 20 dân tộc khác nhau sinh sống trong vùng và ngôn ngữ của các
dân tộc này lại thuộc vào những nhóm ngôn ngữ khác nhau.
Nhóm ngôn ngữ Tày - Thái gồm các dân tộc như Thái, Tày, Nùng, Mông, Dao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường có các dân tộc như Kinh, Mường.
23
Nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me có các dân tộc như Khơ Mú, Xinh Mun.
Nhóm ngôn ngữ Tạng - Mianma có các dân tộc như dân tộc Hà Nhì, La Hủ,
Phù Lá, Cống, Si La, Lô Lô.
Nhóm ngôn ngữ Hán có dân tộc Hoa.
Trong đó, tiếng Thái của dân tộc Thái chiếm đa số; sau đó đến tiếng Kinh
(tiếng Việt); còn ngôn ngữ của các dân tộc khác chiếm tỉ lệ nhỏ.
Người Thái sớm có chữ viết và đã để lại một kho tàng văn học nghệ thuật
gồm các tác phẩm thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện thơ, ca dao khá giá trị.
Trong ngữ hệ Tày - Thái, người Thái có tới 5 loại chữ khác nhau. Sự khác nhau về
loại chữ phản ánh rõ nét tính địa phương của những nhóm người Thái khác nhau ở
Việt Nam được gộp chung vào dân tộc Thái. Chữ Thái của người Thái ở thành phố
Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là chữ của người Thái đen [6], [49].
Như vậy ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có khá nhiều dân
tộc thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau sinh sống trong đó chiếm số lượng lớn
nhất là các dân tộc người thuộc nhóm Tày - Thái và nhóm Việt - Mường. Điều đó sẽ
tạo ra sự giao thoa về văn hóa, ngôn ngữ giữa các dân tộc và có tác động lớn đến
cách đặt địa danh trong hai địa bàn được nghiên cứu.
1.6. KẾT QUẢ THU THẬP VÀ PHÂN LOẠI ĐỊA DANH
1.6.1. Kết quả thu thập địa danh
Căn cứ vào phạm vi, đối tượng và nguyên tắc cùng các tiêu chí thu thập,
phân loại địa danh, chúng tôi đã thu thập được 1001 địa danh. Các địa danh này
được xác định trên sự phân bố theo không gian ở 27 đơn vị với 7 phường và 20 xã
trong hai địa bàn thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
Những địa danh này chúng tôi thu thập dựa vào các văn bản hành chính, một
số loại bản đồ và từ tư liệu điền dã theo sự tồn tại thực tế của địa danh trong vùng.
Kết quả thu thập địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
được thể hiện trong bảng 1.1.
24
Bảng 1.1: Kết quả thu thập địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
STT Loại hình địa danh Số lƣợng Tỉ lệ (%)
Địa danh địa hình thiên nhiên 238 23,78 1
Địa danh đơn vị dân cƣ 624 62,34 2
Địa danh công trình nhân tạo 139 13,89 3
Tổng số 1001 100
1.6.2. Kết quả phân loại địa danh
Theo tiêu chí tự nhiên - không tự nhiên, chúng tôi chia địa danh thành phố
Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên thành hai loại là địa danh tự nhiên gồm địa danh
địa hình thiên nhiên và địa danh không tự nhiên gồm địa danh đơn vị dân cư và địa
danh công trình nhân tạo.
1.6.2.1. Địa danh địa hình thiên nhiên
Loại địa danh này gồm 238 trường hợp, chiếm 23,78%. Trong đó, sơn danh
(gồm đồi, núi, dãy núi, đèo, thác) có ở 79 địa danh, chiếm 7,89%, chẳng hạn, dãy
núi Phà Lén, đèo Huổi Chan, đồi Độc Lập; thủy danh (gồm sông, suối, hồ, khe) có
ở 149 địa danh, chiếm 14,89%, chẳng hạn, hồ Pa Khoang, sông Nậm Rốm, suối
Huổi Phạ, khe Hát Si; những vùng đất nhỏ phi dân cư (gồm cánh đồng, hang, động)
có ở 10 địa danh, chiếm 1,0%, chẳng hạn, cánh đồng Mường Thanh, hang Huổi He,
động Pa Thơm.
1.6.2.2. Địa danh đơn vị dân cư
Loại địa danh này gồm 624 địa danh, chiếm 62,34%. Trong đó có 1 thành
phố (0,10%), 1 huyện (0,10%), 7 phường (0,70%), 20 xã (2,0%), 5 mường (đơn vị
cũ) (0,50%), 131 tổ dân phố (13,09%), 404 bản (40,36%), 45 thôn (4,50%) và 10
đội (1,0%). Chẳng hạn, phường Mường Thanh, phường Him Lam, xã Noong Hẹt, xã
Thanh Xương, mường Lói, mường Pồn, tổ dân phố 12, tổ dân phố 32, bản Pá Chả,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bản Thanh Bình, thôn Trần Phú, thôn Đoàn Kết, đội C1, đội C17 a.
25
1.6.2.3. Địa danh công trình nhân tạo
Loại địa danh này gồm 146 địa danh, chiếm 13,89%. Trong đó có 98 địa
danh các công trình nhân tạo thuộc những hoạt động vật chất kĩ thuật của con người
(gồm các tiểu loại địa danh: quốc lộ, đường, cầu, cầu treo, đập đầu mối, đập tràn,
đồn biên phòng, sân bay, cứ điểm, thành, hầm, nhà máy thủy điện, cửa khẩu, công
trình thủy lợi, công trình đại thủy nông, kênh, khu du lịch, khu khảo cổ học, quần
thể khu di tích lịch sử, cống, tượng đài, phân khu, trung tâm đề kháng, rạp chiếu
bóng), chiếm 9,79%, chẳng hạn, quốc lộ 279, đường Sùng Phái Sinh, cầu A1, nhà
máy thủy điện Nà Lơi, đồn biên phòng Tây Trang, kênh Nậm Rốm, cửa khẩu Huổi
Puốc, sân bay Điện Biên Phủ, hầm Đờ Cát, quần thể khu di tích lịch sử Điện Biên
Phủ; và 41 địa danh các công trình nhân tạo thuộc những hoạt động tâm linh của
con người (gồm các tiểu loại địa danh: bảo tàng, nghĩa trang liệt sĩ, đền, di tích,
chùa), chiếm 4,10%, chẳng hạn, bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, nghĩa
trang liệt sĩ Him Lam, đền Hoàng Công Chất, chùa Vạt Bu Hôm, di tích Mường
Pồn, di tích Noong Nhai.
1.7. TIỂU KẾT
Qua sự trình bày một số cơ sở lý thuyết, chúng tôi đã thể hiện quan điểm của
mình về định nghĩa địa danh đồng thời là nội hàm làm việc của luận văn này.
1.7.1. Địa danh học là một ngành của ngôn ngữ học có nhiệm vụ nghiên cứu
sự ra đời, cấu tạo, ngữ nghĩa và sự biến đổi, lan tỏa, phân bố của các địa danh.
Việc nghiên cứu địa danh đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới nhưng mãi đến
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nghiên cứu địa danh mới trở thành ngành khoa học ra
đời đầu tiên ở Âu Mỹ, liên bang Xô Viết (cũ). Ở Việt Nam, những tài liệu về địa danh,
liên quan đến địa danh cũng xuất hiện từ khá sớm nhưng địa danh học Việt Nam thực
sự có được một bước tiến đáng kể vào những thập niên cuối thế kỷ XX. Tuy nhiên,
chúng ta cũng chưa có được những công trình nghiên cứu về địa danh có tầm cỡ.
1.7.2. Khi nghiên cứu địa danh cần xác định đúng nội hàm của khái niệm địa
danh và các cách phân loại địa danh. Đồng thời cần vận dụng các phương pháp liên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngành: sử học, địa lý học, dân tộc học, khảo cổ học... để nghiên cứu địa danh trong
26
đó lấy phương pháp chính là ngôn ngữ học để nghiên cứu địa danh. Đó là phương
pháp ngữ âm lịch sử, phương pháp địa lý - ngôn ngữ học, phương pháp từ vựng học
và ngữ pháp học.
1.7.3. Địa bàn thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là địa bàn cư trú
lâu đời của dân tộc Thái. Vì vậy những đặc điểm về văn hóa Thái ảnh hưởng rất lớn
đến địa danh trong hai địa bàn này. Ngoài ra, trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau,
các lớp dân cư liên tục di cư đến đây sinh cơ lập nghiệp trong đó sự xuất hiện của
người Kinh từ miền xuôi lên và có vai trò khá quan trọng góp phần tạo cho thành
phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có nền văn hóa phong phú, đa dạng.
Xét theo nguồn gốc ngôn ngữ, địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên chủ yếu được cấu tạo bởi các yếu tố thuộc ngôn ngữ tiếng Thái, sau đó
đến các địa danh được cấu tạo bởi ngôn ngữ tiếng Việt, còn một bộ phận nhỏ là các
địa danh được cấu tạo bởi tiếng Mông, Khơ Mú, Lào và một số dân tộc khác.
1.7.4. Kết quả thống kê địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện
Biên theo tiêu chí tự nhiên - không tự nhiên cho thấy địa danh trong hai địa bàn này
đã phản ánh khá trung thực địa hình tự nhiên và cảnh quan trong vùng. Đó là địa
hình đồi núi, sông ngòi dày đặc tạo nên các loại hình địa danh gồm sơn danh, thủy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
danh và các vùng đất nhỏ phi dân cư khá đa dạng, độc đáo.
27
CHƢƠNG 2
CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ
VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN
2.1. CẤU TRÚC PHỨC THỂ ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN
PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN
2.1.1. Vài nét về mô hình cấu trúc phức thể địa danh
Một địa danh bao giờ cũng có hình thức cấu tạo và nội dung ý nghĩa. Địa
danh đó luôn được đặt trong một cấu trúc, một chỉnh thể nhất định. Việc xác định
địa danh trong các tổ hợp từ ngữ hay trong một cấu trúc cụ thể giúp chúng ta phân
tích được các yếu tố cấu tạo địa danh cũng như có cách thể hiện chúng dưới dạng
văn tự đúng đắn và phù hợp. Khi nghiên cứu địa danh, nhiều nhà nghiên cứu đưa ra
quan niệm về mô hình cấu trúc địa danh. Chẳng hạn, A.V. Superanskaja, một nhà
nghiên cứu địa danh người Nga, trong cuốn “Địa danh học là gì?” đã dùng thuật
ngữ tên chung và tên riêng để phân biệt hai cấu trúc cụm từ trong cấu trúc phức thể
địa danh. Theo tác giả: “Những mục tiêu địa lí có hai loại tên: tên chung để xếp
chúng vào hệ thống khái niệm nào đó (núi, sông, thành phố, làng mạc) và tên riêng
biệt của từng vật thể” [43, tr.13].
Một số nhà nghiên cứu địa danh Việt Nam cũng tán đồng với quan niệm này
của A. V. Superanskaja. Chẳng hạn, Nguyễn Kiên Trường: “Địa danh mang trong
mình hai thông tin: a) đối tượng được gọi tên thuộc loại hình đối tượng địa lí nào
(đồi, sông, phố, làng... ), thể hiện qua ý nghĩa của danh từ chung; b) có nghĩa nào
đó (phản ánh điều gì đó), thể hiện qua tên riêng” [48, tr.53].
Từ Thu Mai: “Khi đã phân biệt thành bộ phận từ ngữ chung và bộ phận tên
riêng, địa danh được hiểu chỉ là bộ phận tên riêng, còn bộ phận từ ngữ chung được đặt
trước tên riêng đó chỉ có tính chất đi kèm, chỉ loại hình đối tượng địa lí” [31, tr.55].
Phan Xuân Đạm: “Mỗi địa danh gồm hai thành tố: thành tố chung (A) là từ,
ngữ danh pháp và thành tố riêng (B) là tên riêng... Thành tố thứ nhất giúp chúng ta
nhận biết loại hình của đối tượng địa lí, thành tố thứ hai giúp chúng ta khu biệt đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tượng” [20, tr.51-52].
28
Như vậy tuy có các cách thể hiện khác nhau nhưng nhìn chung các nhà
nghiên cứu đều cho rằng về mặt cấu tạo địa danh là một tổ hợp gồm hai bộ phận:
thành tố chung và thành tố riêng. Tổ hợp đó được gọi là cấu trúc phức thể địa danh.
Trong cấu trúc phức thể địa danh, mỗi thành tố lại có đặc điểm riêng và thành tố
riêng đó mới được coi là địa danh.
Tiếp thu kết quả nghiên cứu của các nhà địa danh học đi trước, chúng tôi
cũng xác định một cấu trúc phức thể địa danh gồm hai bộ phận là từ ngữ chung và
tên riêng. Chẳng hạn có những phức thể địa danh như: thành phố Điện Biên Phủ,
huyện Điện Biên, di tích Cầu Mường Thanh, hầm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồi
A1, sông Nậm Rốm, dãy núi Pú Hồng Mèo trong đó bộ phận từ ngữ chung là các từ:
thành phố, huyện, di tích, hầm, đồi, sông, dãy núi còn bộ phận tên riêng là những
từ, ngữ còn lại: Điện Biên Phủ, Điện Biên, Cầu Mường Thanh, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, A1, Nậm Rốm, Pú Hồng Mèo.
Mỗi bộ phận đó có vai trò, chức năng riêng nhưng được đặt trong mối quan
hệ gắn bó, thống nhất với nhau. Bộ phận từ ngữ chung dùng để gọi tên các đối
tượng địa lí có cùng đặc điểm được xếp vào cùng một kiểu loại. Do đó, bộ phận này
có thể do từ hay cụm từ đảm nhiệm. Còn bộ phận tên riêng dùng để khu biệt đối
tượng địa lí này với đối tượng địa lí khác, đặc biệt khi các đối tượng này thuộc vào
cùng một kiểu loại. Bộ phận này có thể được cấu tạo bởi từ, cụm từ và các từ ngữ
này thuộc các từ loại khác nhau như động từ, tính từ, danh từ, số từ, đại từ... Trong
phức thể địa danh, bộ phận từ ngữ chung thường đứng trước và là cái được hạn định
cho đối tượng địa lí còn bộ phận tên riêng thường đứng sau để hạn định cho đối
tượng địa lí đó.
Chẳng hạn trong những phức thể địa danh như đồi A1, đồi Cháy, đồi Pom
Lót, đồi C2 thì đối tượng địa lí được hạn định ở đây chỉ có “đồi”, đó là dạng địa
hình lồi, có sườn thoải, thường không cao quá 200m; nhưng các “đồi” này không
giống nhau do được khu biệt bởi các yếu tố hạn định: A1, Cháy, Pom Lót, C2.
Như vậy, trong cấu trúc phức thể địa danh thì bộ phận tên riêng mới được coi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
là địa danh và địa danh này có cấu trúc nội bộ riêng (từ đây chúng tôi sẽ thống nhất
29
sử dụng thuật ngữ “địa danh” thay cho thuật ngữ “tên riêng”) còn bộ phận từ ngữ
chung đứng trước nó chỉ có tính chất xác định loại hình đối tượng địa lí được định
danh. Khi địa danh thể hiện dưới dạng chữ viết thì bộ phận tên riêng được viết chữ
in hoa còn bộ phận từ ngữ chung viết chữ in thường. Chẳng hạn, bản Hồng Cúm, hồ
Pa Khoang, đền Hoàng Công Chất.
2.1.2. Cấu trúc phức thể địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên
Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên cũng được tạo thành
bởi một phức thể gồm hai bộ phận là từ ngữ chung (thành tố chung) và địa danh
(tên riêng). Đưa ra mô hình cấu trúc phức thể địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ
và huyện Điện Biên là chúng tôi đi sâu vào mô tả, mô hình hóa địa danh ở hai địa
bàn này.
Qua khảo sát 1001 địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Biên, chúng tôi xác định mô hình khái quát về cấu trúc phức thể địa danh như bảng 2.1.
30
Bảng 2.1: Mô hình cấu trúc phức thể địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
Phức thể địa danh
Mô
Thành tố chung (tối đa 7 yếu tố)
Địa danh (tối đa 12 yếu tố)
hình
YT 1 YT 2 YT 3 YT 4 YT 5 YT 6 YT 7 YT 1 YT 2 YT 3 YT 4 YT 5 YT 6 YT 7 YT 8 YT 9 YT 10 YT 11 YT 12
Bản
Ban
Ví dụ
minh
Nghĩa trang
liệt
sĩ
Độc Lập
họa
Quần
thể
khu
di
tích
lịch
sử Điện Biên
Phủ
3 1
Di
tích
Đường kéo
pháo
của quân
ta
ở Điện Biên
Phủ
Khu
du
lịch
Hồ
Pá Khoang và
Sở
chỉ
huy chiến dịch Điện
Biên
Phủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
31
Qua mô hình trên ta thấy có những phức thể địa danh có số lượng yếu tố khá
lớn cả ở thành tố chung (tối đa có 7 yếu tố) lẫn tên riêng (tối đa có 12 yếu tố). Tuy
nhiên những địa danh loại này lại có số lượng ít đó là những địa danh công trình
nhân tạo (di tích, tượng đài, khu du lịch…). Điều đó cũng phù hợp khi tên gọi của
các phức thể địa danh gắn liền với những sự kiện, biến cố lịch sử cụ thể hay các
cụm địa điểm du lịch trong vùng. Trái lại các phức thể địa danh mà thành tố chung
cũng như địa danh gồm ít các yếu tố (có thể là 1, 2 hoặc 3 yếu tố) lại chiếm số
lượng lớn. Điều đó cho thấy trong cấu tạo địa danh, các địa danh ngắn gọn, giản
đơn được sử dụng phổ biến hơn cả. Ở các phức thể đó, thành tố chung và địa danh
luôn có mối quan hệ gắn bó, khăng khít.
2.2. THÀNH TỐ CHUNG
2.2.1. Khái niệm thành tố chung
Các nhà địa danh học đi trước tuy có nhiều cách gọi tên khác nhau cho thành
tố chung như: tên gọi chung, thành tố A (danh từ chung) nhưng cách hiểu về bản
chất thành tố chung thì khá đồng nhất với quan điểm của nhà nghiên cứu địa danh
học người Nga A.V. Superanskaja: đó “là những tên gọi chung liên kết các đối
tượng địa lí với mọi vật khác của thế giới hiện thực. Chúng được diễn đạt bằng các
danh từ chung vốn được dùng để gọi tên và để xếp loại các đối tượng cùng kiểu, có
cùng đặc điểm nhất định” [43, tr.13].
Như vậy, thành tố chung trong phức thể địa danh là bộ phận từ ngữ dùng để
chỉ những đối tượng địa lí có cùng thuộc tính, bản chất được xếp vào cùng một loại
hình. Thành tố chung có đầy đủ các mặt chức năng, cấu tạo, vị trí và ý nghĩa. Chức
năng của nó là gọi tên và chỉ một lớp đối tượng có cùng thuộc tính; chúng có cấu
tạo là những danh từ chung hay ngữ danh từ chung và trong phức thể địa danh
chúng có vị trí đứng trước địa danh để phản ánh loại hình của đối tượng được định
danh; còn về ý nghĩa chúng có cả ý nghĩa về hình thức - tạo nên chỉnh thể của phức
thể địa danh và ý nghĩa về nội dung - xác định loại hình của đối tượng được gọi tên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong địa danh.
32
2.2.2. Thành tố chung trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên
2.2.2.1. Số lượng các thành tố chung
Trong tổng số 1001 phức thể địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên, chúng tôi tập hợp và thống kê được 50 loại hình đối tượng địa lí tương
tương với 50 thành tố chung. Các thành tố này phân bố khác nhau trong các nhóm
loại hình địa danh. Cụ thể:
- Trong loại hình địa danh địa hình thiên nhiên có 12 thành tố chung, chiếm
24,0%, thể hiện qua 238 địa danh. Trong đó có 5 thành tố chung thuộc sơn danh,
chiếm 10,0% với 79 địa danh, chẳng hạn, dãy núi Pu Khâu Lạnh, núi Lao Yao, đèo
Hua Pe, thác Bay, đồi Độc Lập; có 4 thành tố chung thuộc thủy danh, chiếm 8,0%
với 149 địa danh, chẳng hạn, hồ Co Củ, sông Mã, suối Ái, khe Loọng Bon; có 3 địa
danh thuộc các vùng đất nhỏ phi dân cư, chiếm 6,0% với 10 địa danh, chẳng hạn,
cánh đồng Nà Tấu, động Pa Thơm, hang Chùa Pá Sa.
- Trong loại hình địa danh các đơn vị dân cư có 9 thành tố chung, chiếm
18,0% thể hiện qua 624 địa danh. Trong đó có 8 thành tố chung chỉ loại hình các
đơn vị dân cư hiện nay đang được sử dụng phổ biến trong chính quyền hành chính,
chiếm 16,0% qua 619 địa danh, chẳng hạn thành phố Điện Biên Phủ, huyện Điện
Biên, phường Tân Thanh, xã Thanh An, tổ dân phố 25, bản Nà Nghè, thôn Việt
Thanh, đội 10; có 1 thành tố chung chỉ đơn vị dân cư cũ, hiện nay không còn sử
dụng trong chính quyền hành chính đó là địa danh “mường”, chiếm 2,0% xuất hiện
trong 5 địa danh, chẳng hạn, mường Phăng, mường Nhà.
- Trong loại hình địa danh các công trình nhân tạo có 29 thành tố chung,
chiếm 58,0%, được thể hiện qua 146 địa danh. Trong đó, loại địa danh các công
trình nhân tạo gắn với hoạt động vật chất, kĩ thuật của con người có tới 24 thành
tố chung, chiếm 48,0% với 98 địa danh, chẳng hạn, quốc lộ 12, đường Lò Văn
Hặc, đập tràn Pa Khoang, cầu Pắc Nậm, công trình đại thủy nông Nậm Rốm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khu khảo cổ học Hồ U Va, sân bay Điện Biên Phủ; còn loại địa danh các công
33
trình nhân tạo gắn với hoạt động tâm linh của con người chỉ có 5 thành tố chung,
chiếm 10,0% và được thể hiện qua 41 địa danh, chẳng hạn, bảo tàng Tỉnh Điện
Biên, nghĩa trang liệt sĩ Độc Lập, đền Hoàng Công Chất, chùa Vạt Bu Hôm, di
tích Sân bay Hồng Cúm.
2.2.2.2. Cấu tạo của các thành tố chung
Khi coi mỗi âm tiết là một yếu tố thì trong 50 thành tố chung chỉ loại hình đối
tượng địa lí được định danh có 25 thành tố chung có cấu tạo đơn yếu tố, chiếm 50%
chẳng hạn bản, thôn, đội, đèo, hang, động, kênh, cầu, hầm. Loại thành tố chung có cấu
tạo phức thường có độ dài từ hai yếu tố trở lên và tối đa là 7 yếu tố. Trong đó thành tố
chung được cấu tạo bởi 2 yếu tố có tới 14 thành tố chung, chiếm số lượng lớn nhất chẳng
hạn, thành phố, quốc lộ, sân bay, tượng đài, bảo tàng, di tích..., chỉ có 1 thành tố chung
được cấu tạo gồm năm yếu tố là công trình đại thủy nông và 1 thành tố chung được cấu
tạo gồm bảy yếu tố là quần thể khu di tích lịch sử, cả hai thành tố chung này đều thuộc
vào địa danh các công trình nhân tạo.
Đặc điểm cấu tạo của các thành tố chung được thể hiện trong bảng 2.2.
Bảng 2.2: Kết quả thống kê cấu tạo các thành tố chung
Số lƣợng Tỉ lệ STT Số lƣợng yếu tố Ví dụ thành tố chung (%)
25 50 Bản Sam Mứn 1 Một yếu tố
14 30 Cánh đồng Mường Thanh 2 Hai yếu tố
5 10 Tổ dân phố 32 3 Ba yếu tố
Nghĩa trang liệt sĩ Điện 4 8 4 Bốn yếu tố Biên Phủ
Công trình đại thủy nông 1 1 5 Năm yếu tố Nậm Rốm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Quần thể khu di tích lịch 1 2 6 Bảy yếu tố sử Điện Biên Phủ
34
2.2.2.3. Chức năng của các thành tố chung
Thành tố chung và địa danh có mối quan hệ qua lại, bổ sung, hỗ trợ cho nhau.
Thành tố chung là cái được hạn định trong phức thể địa danh nên nó thực hiện chức
năng rất quan trọng là đi kèm và phân biệt loại hình cho địa danh. Chẳng hạn, cùng một
địa danh Điện Biên Phủ nhưng khi đi sau các thành tố chung khác nhau như thành phố,
nghĩa trang liệt sĩ, sân bay, quần thể khu di tích lịch sử thì các phức thể địa danh này
cũng khác nhau và có sự phân biệt rõ ràng về loại hình đối tượng địa lí, ta có các phức
thể địa danh khác nhau như: thành phố Điện Biên Phủ, nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên
Phủ, sân bay Điện Biên Phủ, quần thể khu di tích lịch sử Điện Biên Phủ.
Các thành tố chung cũng có sự linh hoạt trong các phức thể địa danh, chúng
không chỉ đứng ở trước địa danh và thực hiện chức năng phân biệt loại hình cho địa
danh mà chúng còn xâm nhập và chuyển hóa thành một hoặc một vài yếu tố trong
địa danh. Đây cũng là một chức năng quan trọng nữa của thành tố chung trong phức
thể địa danh. Chức năng này phản ánh sự đa dạng trong mối quan hệ giữa các bộ
phận trong cấu trúc địa danh đồng thời cũng làm tăng thêm sự phong phú, đa dạng,
độc đáo của các địa danh.
Tìm hiểu về cấu tạo của thành tố chung, chúng ta đã biết thành tố chung có
cả cấu tạo đơn và cấu tạo phức. Nhưng khi thành tố chung rời khỏi vị trí của mình
để chuyển hóa thành một hoặc một vài yếu tố nào đó trong địa danh thì các thành tố
chung có cấu tạo đơn dễ dàng chuyển hóa hơn cả. Còn trường hợp thành tố chung
có cấu tạo phức chuyển hóa thành địa danh có số lượng rất nhỏ trong địa danh các
đơn vị dân cư và địa danh các công trình nhân tạo, các thành tố chung này có cấu
tạo hai hoặc bốn yếu tố, chẳng hạn, thôn Nhà Trường, di tích Sân bay Hồng Cúm, di
tích Trung tâm đề kháng Him Lam...
Trong tổng số 1001 địa danh đã được điều tra và thu thập ở thành phố Điện
Biên Phủ và huyện Điện Biên, chúng tôi thống kê được 484 trường hợp các thành tố
chung được chuyển hóa vào 437 địa danh ở các vị trí, các yếu tố khác nhau. Các
thành tố chung này biểu thị cả địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và các công trình
nhân tạo trong đó các thành tố chung biểu thị địa hình thiên nhiên được chuyển hóa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhiều nhất vào các địa danh.
35
Như trên chúng tôi đã trình bày, các địa danh trong thành phố Điện Biên
Phủ và huyện Điện Biên có số lượng yếu tố lớn nhất là mười hai yếu tố, trừ vị trí
thứ chín và vị trí thứ mười một còn lại các thành tố chung đều lần lượt được
chuyển hóa vào các vị trí còn lại trong địa danh. Trong đó sự chuyển hóa thành
tố chung đến yếu tố thứ ba là phong phú, đa dạng nhất còn trường hợp chuyển
hóa ở các yếu tố thứ tư trở đi nhìn chung đều có sự lặp lại trong một số phức thể
địa danh có số lượng yếu tố lớn và chứa nhiều thành tố chung khác nhau chuyển
hóa thành. Cụ thể:
- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ nhất hoặc độc lập tạo thành
địa danh: có 408 trường hợp, chiếm 84,91% trong đó chỉ có 3 trường hợp thành tố
chung chuyển hóa và độc lập tạo thành địa danh, chiếm 0,61%. Chẳng hạn, trường
hợp thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ nhất trong địa danh: di tích Thành
Tam Vạn, cầu treo Nậm Thanh (suối xanh), khu khảo cổ học Hồ U Va, khe Hồng
Cúm (khe cái cúm), núi Pá Chả (rừng trúc), bản Phiêng Ban (bãi cây ban), thôn
Trại Lúa, xã Noong Hẹt (ao tê giác); trường hợp thành tố chung chuyển hóa và độc
lập tạo thành địa danh: suối Cảnh (thác), bản Kéo (đèo), suối Thẩm (hang).
- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ hai trong địa danh có 39
trường hợp, chiếm 8,06%. Chẳng hạn, cầu Pắc Nậm (cửa suối), bản Che Phai (cạnh
đập nước), bản Càng Ná (giữa cánh đồng), thôn Thanh Sơn (núi xanh), động Pa
Thơm (cửa hang), đồi Bản Kéo (bản đèo), hang Chùa Pá Sa (chùa rừng cây sa).
- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ ba trong địa danh có 13
trường hợp, chiếm 2,69%. Chẳng hạn, di tích Bãi pháo Mường Thanh, di tích Phân
khu Hồng Cúm, di tích Thành Bản Phủ, nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ, trung tâm
đề kháng Đồi Bản Kéo.
- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ tư trong địa danh có 3 trường
hợp, chiếm 0,62%. Chẳng hạn, di tích Dân quân ở xã Thanh An bắn rơi máy bay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mĩ, di tích Trại tập trung Noong Nhai.
36
- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ năm có ở 6 trường hợp, chiếm
1,24%. Chẳng hạn, di tích Khu khảo cổ học Hồ U Va, di tích Trung tâm đề kháng
Đồi D, di tích Trung tâm đề kháng Đồi Độc Lập.
- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ sáu có 2 trường hợp, chiếm
0,41%. Chẳng hạn, di tích Đồi phát hiện trống đồng bản Na Hý, di tích Trung tâm
đề kháng Đồi Bản Kéo.
- Thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ bảy có ở 5 trường hợp, chiếm
1,03%. Chẳng hạn, tượng đài Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, bảo tàng Chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ, di tích đồi phát hiện trống đồng bản Na Hý.
- Còn lại các trường hợp thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ tám, yếu tố
thứ mười và yếu tố thứ mười hai trong đó thành tố chung chuyển hóa thành yếu tố thứ
tám và thứ mười hai có ở 1 trường hợp, mỗi trường hợp chiếm 0,21%; thành tố chung
chuyển hóa thành yếu tố thứ mười có ở 3 trường hợp, chiếm 0,62%. Chẳng hạn, di tích
Đường kéo pháo của quân ta ở Điện Biên Phủ, di tích Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên
Phủ, di tích Sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, di tích Trận địa pháo của quân
ta ở Điện Biên Phủ, di tích Hồ Pa Khoang và Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Các
phức thể địa danh trên đều có thành tố chung là “phủ”, thành tố này dùng để chỉ một đơn
vị hành chính quan trọng nhất của một vùng và thành tố này được chuyển hóa thành một
yếu tố trong địa danh ở các vị trí khác nhau.
Qua các trường hợp chuyển hóa của thành tố chung vào trong địa danh,
chúng tôi thấy có một số trường hợp các thành tố chung khác nhau chuyển hóa
thành các yếu tố ở các vị trí khác nhau trong cùng một địa danh. Chẳng hạn, trong
phức thể địa danh “di tích Thành Bản Phủ”, ba thành tố chung là: “thành” (chỉ một
công trình xây dựng) cùng với hai thành tố “bản” và “phủ” (chỉ các đơn vị dân cư)
được lần lượt chuyển hóa thành các yếu tố khác nhau ở các vị trí thư nhất, thứ hai
và thứ ba trong địa danh.
Sự phân bố các thành tố chung khi chuyển hóa thành các yếu tố trong địa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
danh được thể hiện ở bảng 2.3.
37
Bảng 2.3: Thống kê sự phân bố của các thành tố chung khi chuyển hóa thành
các yếu tố trong địa danh
Vị trí YT1 YT 2 YT 3 YT 4 YT 5 YT 6 YT 7 YT 8 YT 9 YT 10 YT 11 YT12 Tổng
409
41
14
3
6
2
5
1
0
3
0
1
SL
484
0
0,62
0
0,21 100
Tỉ lệ (%) 84,91 8,06 2,69 0,62 1,24 0,41 1,03 0,21
2.3. ĐỊA DANH (TÊN RIÊNG)
2.3.1. Khái niệm địa danh
Địa danh (tên riêng) trong phức thể địa danh là tên gọi riêng của từng đối
tượng địa lí cụ thể, dùng để phân biệt đối tượng này với đối tượng khác trong cùng
loại hình và giữa các loại hình địa danh với nhau.
Địa danh cũng như thành tố chung trong phức thể địa danh có đầy đủ các mặt
cấu tạo, chức năng, vị trí, ý nghĩa.
Trước hết về vị trí, địa danh luôn đứng sau thành tố chung chỉ loại hình đối
tượng địa lí để hạn định ý nghĩa cho đơn vị này. Do phức thể địa danh được tạo ra
theo phương thức trật tự từ trong tiếng Việt nên cũng như thành tố chung, địa danh
có vị trí rất ổn định trong phức thể của nó.
Chức năng quan trọng nhất của địa danh là gọi tên và phân biệt đối tượng
này với đối tượng khác trong cùng một loại hình và giữa các loại hình với nhau.
Với chức năng như trên, trong cấu tạo, địa danh thường do những danh từ
hoặc cụm từ (chủ yếu là cụm danh từ) tạo thành. Nói cách khác, địa danh là những
đơn vị tương đương với từ hoặc ngữ. Nghiên cứu địa danh trong phức thể của nó
chính là nghiên cứu cấu tạo từ tiếng Việt để “phát hiện ra cơ chế của sự cấu tạo từ,
từ đó để nhận thức từ” [14, tr.36]. Những yếu tố cấu tạo địa danh thành phố Điện
Biên Phủ và huyện Điện Biên có nguồn gốc từ nhiều ngôn ngữ khác nhau, ngoài bộ
phận từ, ngữ tiếng Việt còn phần lớn là các yếu tố có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thiểu số (Thái, Mông, Khơ Mú, Lào... trong đó nhiều nhất là địa danh tiếng Thái) và
38
một bộ phận nhỏ có nguồn gốc tiếng Pháp. Những yếu tố tiếng dân tộc thiểu số này
thường được phiên âm ra tiếng Việt để tìm hiểu những đặc điểm về cấu tạo và ý
nghĩa của địa danh còn những địa danh có nguồn gốc tiếng Pháp thường chỉ là
những danh từ riêng chỉ người nên không nhất thiết phải dịch ra tiếng Việt. Điều đó
có nghĩa là những phức thể địa danh nơi đây vừa mang những đặc trưng của tiếng
Việt vừa mang những nét riêng của ngôn ngữ, văn hóa trong vùng. Chẳng hạn, các
địa danh được cấu tạo bởi những yếu tố Hán Việt: Thanh Xuân, Việt Hưng, Mỹ
Hưng, Thanh Bình, các địa danh cấu tạo bởi những yếu tố thuần Việt: Mới, Nhà
trường... cũng giống như ở nơi khác, nhưng cấu tạo bằng các yếu tố tiếng dân tộc
thiểu số như Ná Khưa, Noong Bua, Huổi Co Củ, Pú Co Nghịu, Tằng Quái... thì
mang đậm tính dân tộc và địa phương. Địa danh nơi đây cũng có đầy đủ những kiểu
quan hệ của cấu tạo từ đó là quan hệ chính phụ, quan hệ đẳng lập và quan hệ chủ vị.
Những kiểu quan hệ này cùng với các đặc điểm về cấu tạo do phương thức định
danh mang lại có tính chất quyết định trong việc tạo ra ý nghĩa của các yếu tố cấu
tạo địa danh. Trong cấu tạo của địa danh còn có một bộ phận các thành tố chung chỉ
loại hình đối tượng địa lí được chuyển hóa thành một hoặc một số các yếu tố trong
địa danh. Nghĩa là khi thấy một đối tượng địa lí mới có quan hệ nào đó với đối
tượng địa lí đã được đặt tên thì người định danh sẽ lấy những từ ngữ chỉ loại hình
địa lí hoặc tên của đối tượng cũ để định danh cho đối tượng mới; cũng có khi người
định danh chỉ lựa chọn một đặc điểm nào đó có liên quan giữa đối tượng mới và đối
tượng cũ để gọi tên đối tượng mới.
2.3.2. Số lƣợng yếu tố trong địa danh
Các địa danh trong tổng số 1001 địa danh ở hai địa bàn nghiên cứu có độ dài
khác nhau, địa danh có cấu tạo đơn giản nhất chỉ gồm một yếu tố còn địa danh có
cấu tạo phức tạp nhất gồm mười hai yếu tố. Ở đây chúng tôi coi mỗi yếu tố tương
đương với một âm tiết có nghĩa.
2.3.2.1. Kết quả thống kê số lượng các yếu tố trong địa danh
Số lượng các yếu tố trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Biên được chúng tôi thống kê trong bảng 2.4.
39
Bảng 2.4: Thống kê địa danh theo số lƣợng các yếu tố
Số lƣợng địa danh Tổng Tỉ lệ STT Số lƣợng yếu tố cộng (%) ĐD ĐHTN ĐD ĐVDC ĐD CTNT
1 Một yếu tố 52 186 8 246 24,40
2 Hai yếu tố 158 305 73 536 53,17
3 Ba yếu tố 27 132 34 193 19,15
4 Bốn yếu tố 1 1 5 7 0,69
5 Năm yếu tố 0 0 2 2 0,20
6 Sáu yếu tố 0 0 3 3 0,30
7 Bảy yếu tố 0 0 6 6 0,60
8 Tám yếu tố 0 0 2 2 0,20
9 Chín yếu tố 0 0 1 1 0,10
10 Mười yếu tố 0 0 4 4 0,40
11 Mười một yếu tố 0 0 0 0 0
12 Mười hai yếu tố 0 0 1 1 0,10
Tổng cộng 238 624 139 1001 100
2.3.2.2. Về số lượng các yếu tố trong địa danh
Qua bảng trên chúng ta thấy rằng địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên phổ biến nhất là loại có hai yếu tố, loại địa danh này chiếm hơn
một nửa trong tổng số địa danh với 536 địa danh chiếm 53,17% sau đó đến địa danh
một yếu tố với 246 địa danh chiếm 24,40% và địa danh ba yếu tố với 193 địa danh
chiếm 19,15%; còn các loại địa danh từ bốn yếu tố đến mười hai yếu tố có số lượng
rất ít với 27 địa danh chiếm 2,68%. Điều đó cho thấy người định danh thường có xu
hướng đặt tên địa danh theo cách đơn giản, dễ nhớ, dễ thuộc và ngắn gọn.
* Về loại hình địa danh và số lượng các yếu tố
Ở các loại hình địa danh khác nhau trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và huyện Điện Biên, các địa danh có số lượng yếu tố không giống nhau.
40
Ở loại địa danh địa hình thiên nhiên trong tổng số 238 địa danh (chiếm
23,78%) có 52 trường hợp có cấu tạo chỉ một yếu tố, chiếm 5,20% (chẳng hạn, đồi
Cháy, đồi Thông, sông Mã, suối Cảnh, suối Lương); có 158 địa danh có cấu tạo hai
yếu tố, chiếm 15,79% (chẳng hạn, núi Đất Lẻ, núi Pu Hang, đèo Cò Chạy, suối Hai
Nọi, khe Hoong Ka, cánh đồng Mường Lói, hang Huổi He); có 27 địa danh ba yếu
tố, chiếm 2,70% (chẳng hạn, dãy núi Pú Hồng Mèo, núi Phu Khăn Pỏm, suối Him
Lếch Phay, suối Nậm Phăng Nọi) và chỉ có 1 địa danh bốn yếu tố, chiếm 0,1%
(chẳng hạn, núi Pu Nậm Khẩu Hú); còn các địa danh có cấu tạo từ bốn yếu tố đến
mười hai yếu tố không có trường hợp nào. Ở loại hình địa danh này, địa danh có cấu
tạo hai yếu tố chiếm tỉ lệ cao nhất.
Trong 624 địa danh (chiếm 62,34%) đơn vị dân cư về mặt cấu tạo chỉ gồm từ
một đến bốn yếu tố, các địa danh có số lượng yếu tố lớn hơn không thấy xuất hiện.
Trong loại địa danh này, số lượng địa danh đa yếu tố (với 438 địa danh) nhiều hơn
so với địa danh đơn yếu tố (với 186 địa danh). Trong đó loại có hai yếu tố là 305
trường hợp, chiếm 30,47% (chẳng hạn, thôn Việt Hưng, phường Thanh Trường, xã
Na Ư); loại địa danh ba yếu tố là 132 trường hợp, chiếm 13,19% (chẳng hạn, bản
Pom Mỏ Thái, bản Pom Mỏ Thổ) và loại bốn yếu tố với 1 trường hợp, chiếm 0,1%
(chẳng hạn, bản Yên Màu C3).
Địa danh đa yếu tố chiếm tỉ lệ lớn so với địa danh đơn yếu tố trong loại địa
danh công trình nhân tạo: địa danh đa yếu tố là 131 trường hợp, chiếm 13,09% còn
địa danh chỉ có một yếu tố là 8 trường hợp, chiếm 0,80%. Tuy nhiên điểm khác của
các địa danh đa yếu tố ở loại địa danh công trình nhân tạo so với địa danh đa yếu tố
ở loại địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh đơn vị dân cư đó là các địa danh
này có số lượng yếu tố lớn từ hai yếu tố đến mười hai yếu tố. Tuy nhiên trong các
địa danh đa yếu tố, các địa danh có số lượng yếu tố càng lớn thì số lượng địa danh
càng nhỏ. Cụ thể, địa danh hai yếu tố là 73 trường hợp, chiếm 7,29% (chẳng hạn,
đường Trần Can, cầu Mường Thanh, nhà máy thủy điện Thác Trắng, đập trần Ta
Lét, khu du lịch Hua Pe); địa danh ba yếu tố là 34 trường hợp, chiếm 3,40% (chẳng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hạn, khu du lịch Hồ Huổi Phạ, sân bay Điện Biên Phủ, di tích Chùa Pá Sa); địa
41
danh bốn yếu tố là 5 trường hợp, chiếm 0,50% (chẳng hạn, di tích Bãi pháo Mường
Thanh, di tích Phân khu Hồng Cúm); địa danh năm yếu tố (chẳng hạn, di tích Trại
tập trung Noong Nhai) và địa danh tám yếu tố (chẳng hạn, di tích Sở chỉ huy chiến
dịch Điện Biên Phủ) mỗi loại gồm 2 trường hợp tương đương với 0,20% địa danh
sáu yếu tố là 3 trường hợp tương đương với 0,30% (chẳng hạn, di tích Hầm Đại
tướng Võ Nguyên Giáp); địa danh bảy yếu tố là 6 trường hợp tương đương với
0,60% (chẳng hạn, bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ); địa danh chín yếu
tố (chẳng hạn, di tích Dân quân Thanh An bắn rơi máy bay Mỹ) và địa danh mười
hai yếu tố (chẳng hạn, khu du lịch Hồ Pa Khoang và Sở chỉ huy chiến dịch Điện
Biên Phủ) mỗi loại chỉ có 1 trường hợp tương đương với 0,10%; địa danh mười yếu
tố có 4 trường hợp, chiếm 0,40% (chẳng hạn, di tích Đường kéo pháo của quân ta ở
Điện Biên Phủ).
* Về số lượng các yếu tố và sự phản ánh thông tin trong địa danh
Loại địa danh có cấu tạo một yếu tố có ở cả ba loại địa danh trong đó chủ
yếu là ở địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh các đơn vị dân cư. Chẳng hạn,
bản Bánh, bản Bó, bản Hạ, bản Kéo, bản Hoa, bản Mới, bản On, bản Noọng, thôn
24, đội 9, đội 10, suối Ái, suối Ca, suối Húa, suối Ít, suối Lương, suối Mươi, suối
Púng, suối Quang, suối Vai, cầu Trắng, kênh Tả, quốc lộ 279.
Trong những địa danh này, có những địa danh mà ranh giới giữa tên riêng
của địa danh và tên gọi của thành tố chung chưa rõ ràng làm cho các phức thể địa
danh có nhiều cách viết, cách gọi tên dẫn đến cách viết hoa hay không viết hoa
trong các văn bản cũng chưa thống nhất.
Ở địa danh đơn vị dân cư, khi nói về loại địa danh “bản”, những địa danh
đơn tiết như Phủ, Lé, Ban, Phượn, Ten, Khá ít khi được dùng độc lập, chẳng hạn ít
khi nói “đi Phủ”, “đến Lé”, “tới Khá” mà thường nói “đi bản Phủ”, “đến bản Lé”,
“tới bản Khá”. Còn ở trường hợp địa danh đa tiết lại có thể dùng độc lập các địa
danh, chẳng hạn nói “tới Noong Bua”, “đi Hoong En”, “đến Chiềng An” mà không
cần phải dùng thành tố chung để hạn định là “bản”, người nghe dễ dàng hiểu được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
là nói tới các bản này. Như vậy, trong giao tiếp các địa danh đơn tiết thường có xu
42
hướng bị song tiết hóa để tạo sự cân đối và giúp cho việc xác định đối tượng được
cụ thể, rõ ràng. Trong những trường hợp địa danh đơn tiết kể trên, thành tố chung
“bản” chỉ xâm nhập vào địa danh trong ngôn ngữ nói còn trong ngôn ngữ viết các
địa danh này vẫn dùng độc lập và trong các cấu trúc phức thể địa danh vẫn phải viết
đúng là bản Phủ, bản Lé, bản Ban, bản Phượn, bản Ten, bản Khá.
Ở địa danh địa hình thiên nhiên, các thành tố chung có nguồn gốc ngôn ngữ
dân tộc thiểu số mặc dù đã được dịch ra tiếng Việt nhưng chúng vẫn được bảo lưu
và chuyển hóa thành các yếu tố thuộc địa danh (chuyển vào bộ phận thứ hai trong
phức thể địa danh) làm cho các địa danh có cấu tạo đơn yếu tố trở thành các địa
danh có cấu tạo đa yếu tố. Chẳng hạn, Huổi Phạ (suối + Phạ) suối Huổi Phạ
(suối trời), Huổi Un (suối + Un) suối Huổi Un, Nậm Hua (nước, suối + Hua)
suối Nậm Hua, Nậm Mển (nước, suối + Mển) suối Nậm Mển, Hồng Cúm (khe +
Cúm) khe Hồng Cúm, Hồng Líu (khe + Líu) khe Hồng Líu, Hát Si (rãnh, khe +
Si) khe Hát Si, Loọng Bon (rãnh, khe + Bon) khe Loọng Bon…
Loại địa danh được cấu tạo bởi hai yếu tố chiếm tỉ lệ cao nhất, có ở cả ba loại
địa danh là địa danh địa hình thiên nhiên, địa danh đơn vị dân cư và địa danh các
công trình nhân tạo. Chẳng hạn, hồ Hồng Sạt, đồi Him Lam, sông Nậm Mức, suối
Hoong Khoong, núi Pu Lau, đèo Tằng Quái, phường Mường Thanh, xã Thanh Minh,
đường Trần Can, đập tràn Thác Trắng. Loại địa danh này thể hiện xu hướng song
tiết hóa trong tiếng Việt và được tạo bởi phương thức ghép.
Loại địa danh được cấu tạo bởi ba yếu tố cũng có ở cả ba loại địa danh và
phần lớn cũng được tạo bởi phương thức ghép, có ghép giữa các yếu tố và có cả
ghép các yếu tố với chữ số. Chẳng hạn, suối Nậm Khẩu Hú, suối Him Lếch Phay,
núi Pú Lấu Luông, núi Phu Khăn Pỏm, hang Chùa Pá Sa, bản Pom Mỏ Thái, bản
Đông Biên 4, bản Đông Biên 5, thôn Việt Thanh 1, thôn Việt Thanh 2. Trong loại
địa danh này, có những yếu tố là chữ số có chức năng dùng để phân biệt với các địa
danh về vị trí hay số thứ tự khi các địa danh này giống nhau ở thành tố chung và cả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
các yếu tố thứ nhất, yếu tố thứ hai trong địa danh.
43
Còn lại các loại địa danh được cấu tạo từ bốn yếu tố đến mười hai yếu tố chỉ
có ở địa danh các công trình nhân tạo và chiếm số lượng rất nhỏ. Các địa danh này
cũng được tạo bởi phương thức ghép, có thể là ghép giữa các địa danh khác nhau lại
hoặc ghép giữa các địa danh đã có với một vài yếu tố chỉ loại hình đối tượng địa lí
do các thành tố chung chuyển hóa thành. Chẳng hạn, di tích Bãi pháo Mường
Thanh, di tích Trại tập trung Noong Nhai, khu du lịch Hồ Pa Khoang và Sở chỉ huy
chiến dịch Điện Biên Phủ.
2.4. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN
BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN
Đặc điểm cấu tạo của địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
được thể hiện khái quát qua bảng 2.5.
Bảng 2.5: Thống kê địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
theo kiểu cấu tạo
Số lƣợng địa danh theo kiểu cấu tạo Tổng cộng
Cấu tạo phức Loại hình địa danh Tỉ lệ (%) Số lƣợng Cấu tạo đơn Chủ - vị
52 Chính phụ 141 Đẳng lập 0 14 207 21,87 ĐD ĐHTN
186 368 41 11 606 63,72 ĐD ĐVDC
8 106 19 4 137 14,41 ĐD CTNT
615 60 Số lƣợng 246 29 Tổng 950 100 cộng Tỉ lệ (%) 25,87 65,09 6,41 3,05
(Chú thích: Trong tổng số 1001 địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên có một số địa danh phức chưa xác định được nguồn gốc ý nghĩa
nên chưa xác định được kiểu cấu tạo).
Qua bảng 2.5, chúng tôi thấy các địa danh có cấu tạo phức chiếm ưu thế
trong các địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên với 705 địa danh,
chiếm 74,52%. Trong đó, địa danh cấu tạo phức chiếm số lượng lớn ở địa danh các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đơn vị dân cư, với 420 địa danh, chiếm 44,16% sau đó đến địa danh địa hình thiên
44
nhiên với 156 địa danh, chiếm 16,40%, còn lại là địa danh công trình nhân tạo với
129 địa danh, chiếm 13,57%. Các địa danh có cấu tạo đơn tuy chiếm một số lượng
không nhiều (với 246 địa danh, chiếm 25,76% trong đó chủ yếu có ở địa danh đơn
vị dân cư) nhưng cũng góp phần phản ánh đặc điểm cấu tạo của địa danh trong vùng
với những đặc điểm riêng biệt.
2.4.1. Địa danh có cấu tạo đơn
Địa danh có cấu tạo đơn là địa danh được cấu tạo bởi một âm tiết, âm tiết đó
đồng thời là một từ đơn. Trong 1001 địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên có 246 địa danh có cấu tạo đơn, chiếm 25,87% trong đó có 52 địa danh
địa hình thiên nhiên, 186 địa danh đơn vị dân cư và 8 địa danh các công trình nhân
tạo. Các địa danh này có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau và thuộc vào các lớp từ
loại khác nhau.
Về nguồn gốc ngôn ngữ, các địa danh cấu tạo đơn có nguồn gốc tiếng Việt,
nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số và cả các địa danh được cấu tạo bằng các chữ số
Arập trong đó các địa danh được cấu tạo bởi các chữ số Arập chiếm ưu thế. Các địa
danh này xuất hiện ở 139 địa danh, chiếm 56,50% chẳng hạn, thôn 24, đội 10, tổ
dân phố 5, quốc lộ 279. Các địa danh đơn tiết cấu tạo bởi yếu tố tiếng dân tộc thiểu
số bao gồm tiếng Thái, tiếng Mông, tiếng Khơ Mú, tiếng Lào với 94 địa danh,
chiếm 38,21% trong đó địa danh tiếng Thái là có số lượng nhiều nhất (76 địa danh).
Chẳng hạn, bản Món (cây dầu), bản Giảng (sấy khô), bản Bó (nguồn nước), suối
Ngọm (nước trong), suối Lếch (sắt), suối Quang (con nai), suối Hon (con dúi). Còn
các địa danh tiếng Việt bao gồm cả địa danh thuần Việt và Hán Việt với 12 địa
danh, chiếm 4,87%. Chẳng hạn, đồi Cháy, đồi Thông, bản Mới, cầu Trắng, kênh
Chính, kênh Tả, phân khu Bắc.
Về từ loại, các từ đơn cấu tạo địa danh thuộc các từ loại khác nhau, là danh
từ, tính từ, động từ, số từ trong đó các yếu tố là số từ chiếm số lượng nhiều nhất với
140 địa danh, chiếm 56,91% (chẳng hạn, quốc lộ 279, quốc lộ 12, đường 7/5, tổ dân
phố 22, tổ dân phố 32); còn các yếu tố là danh từ có 63 địa danh, chiếm 25,61%
[chẳng hạn, suối Dốn (con cáo), suối Cói (con vượn), đồi Thông, suối Thẩm (hang),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bản Món (cây dầu), bản Khá (cây riềng), bản Bua (cây sen), bản Kéo (đèo)]; các yếu
45
tố là tính từ có 21 địa danh, chiếm 8,53% [chẳng hạn, bản Mới, bản Lính (nghiêng),
bản On (bình yên), suối Lụ (nhỏ), suối Lương (màu vàng)]; các yếu tố là động từ có
13 địa danh, chiếm 5,29% [chẳng hạn, bản Lé (nhìn), bản Bánh (chia tách), đồi
Cháy, suối Ố (gói, ủ), mường Nhà (đừng ở), mường Phăng (đâm)]; các yếu tố là đại
từ có số lượng ít nhất chỉ với 2 địa danh, chiếm 0,81% [chẳng hạn, bản Noọng (em
nhỏ), bản Lún (em út)]. Bên cạnh đó một số yếu tố chưa tìm được nguồn gốc ý
nghĩa nên chưa xác định được lớp từ loại của chúng.
2.4.2. Địa danh có cấu tạo phức
Địa danh có cấu tạo phức là các địa danh có từ hai âm tiết trở nên, đó là
những từ ghép hoặc cụm từ. Vì vậy trong các địa danh này tồn tại các mối quan hệ
của đơn vị từ ngữ đó là quan hệ chính phụ, đẳng lập và chủ vị. Các địa danh này
chiếm số lượng lớn nhất trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện
Biên với 709 địa danh, chiếm 74,25%. Trong đó có 156 địa danh địa hình thiên
nhiên, 420 địa danh đơn vị dân cư và 129 địa danh các công trình nhân tạo.
2.4.2.1. Địa danh cấu tạo phức theo quan hệ chính phụ
Địa danh được cấu tạo theo quan hệ chính phụ chiếm số lượng lớn nhất trong
các địa danh cấu tạo phức với 616 địa danh, chiếm 61,11%. Sự phân bố các địa
danh cấu tạo theo quan hệ chính phụ giữa các loại hình địa danh cũng không giống
nhau. Ở địa danh địa hình thiên nhiên có 141 trường hợp, chiếm 13,89%; ở địa danh
đơn vị dân cư có 368 trường hợp, chiếm 36,31%; ở địa danh công trình nhân tạo có
106 địa danh, chiếm 10,91%. Các địa danh này có nguồn gốc từ nhiều ngôn ngữ do
vậy vị trí của các yếu tố chính và yếu tố phụ trong địa danh là khác nhau.
* Ở địa danh thuần Việt, yếu tố chính thường đứng trước yếu tố phụ. Chẳng
hạn, bản Đỉnh Đèo, thôn Nhà Trường, nhà máy thủy điện Thác Trắng, đập tràn Thác
Trắng. Trong các địa danh này, các yếu tố đứng trước “đỉnh”, “nhà”, “thác”, là các
yếu tố chính còn các yếu tố đứng sau “đèo”, “trường”, “trắng” là các yếu tố phụ.
* Ở các địa danh Hán Việt, yếu tố chính đứng sau, yếu tố phụ đứng trước.
Chẳng hạn, huyện Điện Biên, đèo Tây Trang, cửa khẩu Tây Trang, bản Tân Bình,
bản Tân Quang, thôn Việt Hưng, bản Đông Biên, thôn Tân Lập, bản Đại Thanh, bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thanh Sơn.
46
Bên cạnh đó có một bộ phận nhỏ các địa danh có số lượng yếu tố Hán Việt
từ hai yếu tố trở nên, các địa danh này thường là các cụm từ chính phụ trong đó các
yếu tố làm thành tố chính thường đứng trước còn các yếu tố là thành tố phụ thường
đứng sau. Chẳng hạn, trong các địa danh: hầm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bảo tàng
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, di tích Thành Tam Vạn, di tích Sở chỉ huy chiến
dịch Điện Biên Phủ thì thành tố chính đứng trước là các yếu tố: “đại tướng”, “chiến
thắng lịch sử”, “thành”, “sở chỉ huy” còn các yếu tố đứng sau: “Võ Nguyên Giáp”,
“Điện Biên Phủ”, “Tam Vạn”, “chiến dịch Điện Biên Phủ” là các thành tố phụ.
* Ở các địa danh tiếng dân tộc thiểu số, quan hệ chính phụ giữa các yếu tố
giống như quan hệ chính phụ giữa các yếu tố trong địa danh thuần Việt đó là yếu tố
chính đứng trước yếu tố phụ. Các địa danh có cả nguồn gốc tiếng Thái như núi Pú
Huốt (núi nhọn), đèo Tằng Quái (chân trâu), thác Bay (cây trám đen), khe Hoong
Khoong (khe của cải), xã Noong Luống (ao rồng), bản Phiêng Quái (bãi trâu), nghĩa
trang liệt sĩ Tông Khao (cánh đồng trắng); địa danh nguồn gốc tiếng Mông như hồ
Na Hươm (ruộng hươu), suối Ca Hâu (con quạ); địa danh có nguồn gốc tiếng Khơ
Mú như suối Ăm Bọt (rừng cây mạy chá), suối Huổi Không (bí xanh); địa danh có
nguồn gốc tiếng Lào như suối Peng Thoáng (chia đôi), núi Tắt Dóm (nhìn thác)
trong đó các địa danh tiếng Thái chiếm ưu thế hơn cả.
Trong các địa danh cấu tạo chính phụ có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số,
xuất hiện nhiều địa danh có kiểu cấu trúc: yếu tố chính đứng trước chỉ loại địa hình
của đối tượng còn yếu tố phụ đi sau thường chỉ các đặc điểm, tính chất, chỉ các loại
động, thực vật sinh sống, tồn tại ở đối tượng hay có liên quan đến đối tượng; các
yếu tố chính có thể chỉ các đối tượng địa hình của địa danh cũng có thể là các yếu tố
được chuyển hóa từ địa hình thiên nhiên vào địa danh còn các yếu tố phụ có chức
năng dùng để khu biệt những đối tượng có cùng loại địa hình. Qua thống kê những
yếu tố có tần số xuất hiện cao, chúng tôi thống kê được một số mô hình như: Ná
(Nà, Na) + X; Huổi + X; Pá (Pa) + X; Nậm + X; Pu (Pú, Phu) + X; Hoong (Hồng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
+ X; Noong + X.
47
Những mô hình Ná + X hay Nà + X, Na + X có ở địa danh chỉ loại địa hình
“ruộng” (“nà”, “na” thực chất là các cách phiên âm khác nhau của “ná” trong tiếng
Thái), những mô hình này có ở cả địa danh địa hình thiên nhiên, địa danh đơn vị
dân cư và địa danh công trình nhân tạo. Chẳng hạn, đèo Nà Nhạn (ruộng nhạn), suối
Na Cọ (ruộng cây cọ), bản Ná Men (ruộng tốt), bản Ná Khưa (ruộng cà), bản Na Ố
(ruộng lép), bản Na Côm (ruộng tròn), bản Na Ten (ruộng ở nơi cao và bằng phẳng),
bản Nà Láo (ruộng người Lào), bản Nà Nọi (ruộng bé), bản Nà Nghè (ruộng quýt),
nhà máy thủy điện Nà Lơi (ruộng dài), đập tràn Nà Lơi (ruộng dài), cầu Na Sang
(ruộng tre mạy sáng), đập tràn Na Hươm (ruộng hươu).
Mô hình Huổi + X là mô hình của những địa danh chỉ địa hình “suối”. Mô
hình này cũng có ở cả ba loại địa danh. Chẳng hạn, núi Huổi Púng (suối vũng), núi
Huổi Cang (suối giữa), núi Huổi Sa (suối cây sa), suối Huổi Hốc, suối Huổi Pe, bản
Huổi Un, bản Huổi Chổn (suối cụt), bản Huổi Lơi (suối dài), đập tràn Huổi Phạ
(suối trời), cửa khẩu Huổi Puốc (suối tre mạy puốc), cầu Huổi Phạ (suối trời).
Những mô hình Pá + X, Pa + X (“pa” là cách phiên âm khác của “pá” cũng
có nghĩa là “rừng”) xuất hiện nhiều ở địa danh chỉ loại địa hình “rừng”. Cả ba loại
địa danh đã nêu đều có mô hình này. Chẳng hạn, núi Pá Chả (rừng trúc), núi Pá Sạ
(rừng sa), suối Pá Hốc (rừng tre mạy hốc), núi Pa Sang (rừng tre mạy sáng), bản Pá
Đông (rừng rậm), bản Pá Cấu (rừng trẩu), bản Pa Pốm (rừng cỏ voi), bản Pá Bói
(rừng tre ngọt), đập tràn Pá Khoang (rừng trúc), công trình thủy lợi Pá Khoang
(rừng trúc).
Mô hình Nậm + X là mô hình của những địa danh chỉ “sông”, “suối” trong
đó chủ yếu dùng chỉ địa hình “suối”. Chẳng hạn, sông Nậm Rốm (sông cây lát),
sông Nậm Núa (sông ngon), sông Nậm Mức (sông xanh), suối Nậm Hua (suối đầu
nguồn), suối Nậm Đuống (nước lớn), suối Nậm Poọng (suối trống da), suối Nậm
Mển (suối nhím), cầu Nậm Thanh (suối xanh), kênh Nậm Rốm (sông cây lát).
Mô hình Pú (Pu, Phu) + X (“pu”, “phu” là các cách phiên âm khác nhau của
“pú”) thường dùng chỉ địa hình “núi”. Mô hình này chỉ thấy ở loại địa danh địa hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thiên nhiên và địa danh đơn vị dân cư. Chẳng hạn, núi Pú Đồn (núi đồn), núi Pú Tửu
48
(núi thành ngạnh), núi Pu Xá Hin (núi sọt đá), núi Pu Phạ (núi trời), đèo Pu Lau (núi
lau), dãy núi Pu Khâu Lạnh (núi khô cạn), núi Phu Khăn Pỏm (núi cây me tròn), bản
Pú Tửu (núi thành ngạnh), bản Pú Sung (núi cao), bản Pu Lau (núi cây lau).
Những mô hình Hoong + X, Hồng + X (“hồng” là cách nói chệch đi của
“hoong”) dùng để chỉ địa hình “khe, rãnh”. Ở loại địa danh địa hình thiên nhiên và
địa danh đơn vị dân cư có những mô hình này. Chẳng hạn, khe Hồng Cúm (khe cái
cúm), khe Hoong Hịa (khe kì đà), khe Hoong Ma Nao (khe chó chết rét), khe Hồng
Sống (khe nghèo nàn), khe Hồng Lếch (khe sắt), bản Hoong Hin (khe sỏi đá), bản
Hoong En (khe cây lát trắng), bản Hoong Khoong (khe của cải), bản Hồng Lếch
Nưa (khe sắt trên), hồ Hồng Líu (khe cây chanh).
Mô hình Noong + X có ở địa danh chỉ loại địa hình “ao”, “hồ”. Chẳng hạn,
phường Noong Bua (ao sen), xã Noong Hẹt (ao tê giác), xã Noong Luống (ao rồng),
bản Noong Chứn (ao chì), bản Noong É (ao chim én), bản Noong Pết (ao vịt), bản
Noong Vai (ao cây mây).
* Các địa danh trong đó các yếu tố được kết hợp từ nhiều ngôn ngữ khác
nhau: ngoài các địa danh do các yếu tố của một ngôn ngữ kết hợp với nhau tạo
thành (thuần Việt, Hán Việt), còn có các địa danh mà các yếu tố thuộc nhiều nguồn
gốc khác nhau (Việt + dân tộc, Việt + chữ số, chữ cái). Ở các địa danh này, những
địa danh được cấu tạo bởi hai yếu tố chỉ có số lượng nhỏ, các địa danh có từ ba đến
mười yếu tố trong đó địa danh ba yếu tố chiếm ưu thế. Trong các địa danh này yếu
tố chính đứng trước ghép với yếu tố phụ đứng sau nó, yếu tố chính và yếu tố phụ có
thể là từ hoặc cụm từ và chia làm hai trường hợp:
Thứ nhất, yếu tố chính do thành tố chung chỉ các loại hình đối tượng địa lí
chuyển hóa thành còn yếu tố phụ đi sau có tính chất khu biệt loại hình đối tượng địa
lí đó. Địa danh này xuất hiện ở địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh công trình
nhân tạo. Chẳng hạn trong những địa danh như: hang Chùa Pá Sa, trung tâm đề
kháng Đồi Độc Lập, cứ điểm Đồi Độc Lập, di tích Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên
Phủ, di tích Hầm Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì yếu tố chính lần lượt là các từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
“chùa”, “đồi”, “đồi”, “sở chỉ huy”, “hầm” và yếu tố phụ là những yếu tố còn lại.
49
Thứ hai, yếu tố chính là những yếu tố chỉ loại lớn còn yếu tố phụ là các chữ
số, chữ cái đi kèm có chức năng hạn định về vị trí, thứ tự hay số lượng. Địa danh
này xuất hiện chủ yếu ở địa danh đơn vị dân cư. Chẳng hạn, bản Pom Lót 9, bản
Pom Lót 10, bản Sơn Tống A, bản Sơn Tống B, bản Nà Cái 1, bản Nà Lốm 2, bản
Gia Phú A, bản Gia Phú B.
* Có một bộ phận nhỏ các địa danh cấu tạo chính phụ được tạo nên bằng cách
ghép chữ cái với chữ số. Địa danh này có ở cả ba loại hình địa danh: địa hình thiên nhiên,
đơn vị dân cư và công trình nhân tạo. Chẳng hạn, đồi A1, đồi E2, đồi D1, cầu A1, bản A2,
đội C4, đội C17 a, đội C17 b, cầu C9, cứ điểm A1, cứ điểm C1, cứ điểm C2.
2.4.2.2. Địa danh cấu tạo phức theo quan hệ đẳng lập
Địa danh có cấu tạo phức theo quan hệ đẳng lập là loại địa danh trong đó các
yếu tố cấu thành địa danh có vai trò bình đẳng với nhau về mặt ý nghĩa. Ở địa danh
thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, loại địa danh này chỉ có số lượng
nhỏ với 60 địa danh, chiếm 6,41% trong đó địa danh đơn vị dân cư có 41 trường
hợp, chiếm 4,27%, địa danh công trình nhân tạo có 19 trường hợp, chiếm 1,88%,
còn địa danh địa hình thiên nhiên không có trường hợp nào. Các địa danh có số
lượng yếu tố khác nhau, lớn nhất là mười hai yếu tố và có nguồn gốc từ nhiều ngôn
ngữ trong đó chủ yếu là các địa danh Hán Việt.
Chẳng hạn, bản Phú Ngam (ghép của Tân Phú và Núa Ngam), bản Tân Ngam
(ghép của Minh Tân và Núa Ngam), bản Gia Phú (đẹp giàu), bản Thanh Bình (trong
sáng, bình yên), thôn Hồng Thái (đẹp đẽ, to lớn), thôn Hưng Thịnh (phát đạt, thịnh
vượng), thôn Mỹ Hưng (tươi đẹp, giàu có), khu du lịch Hồ Pa Khoang và Sở chỉ huy
chiến dịch Điện Biên Phủ, khu du lịch U Va, động Pa Thơm và cửa khẩu Tây Trang.
2.4.2.3. Địa danh cấu tạo phức theo quan hệ chủ vị
Địa danh cấu tạo phức theo quan hệ chủ vị có số lượng nhỏ nhất trong các
địa danh có cấu tạo phức, với 29 địa danh, chiếm 2,88% trong đó địa danh địa hình
thiên nhiên có 14 trường hợp, chiếm 1,39%, địa danh đơn vị dân cư có 11 trường
hợp, chiếm 1,09%, địa danh công trình nhân tạo chỉ có 4 trường hợp, chiếm 0,4%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Các địa danh này đều có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số. Ở đây các địa danh phức
50
cấu tạo theo quan hệ chủ vị được chúng tôi xác định bằng cách: tìm những thành
phần vị ngữ trong địa danh có thể trả lời cho câu hỏi “chủ ngữ làm gì?”. Trường
hợp thành phần vị ngữ trong địa danh trả lời cho câu hỏi “chủ ngữ như thế nào?” thì
ranh giới giữa quan hệ chủ vị và quan hệ chính phụ trong những địa danh này chưa
rõ ràng thậm chí rất khó xác định, chúng tôi xếp chúng vào quan hệ chính phụ.
Trong 29 địa danh có quan hệ chủ vị có khá nhiều địa danh được chuyển hóa từ
địa danh địa hình thiên nhiên sang địa danh đơn vị dân cư và địa danh công trình nhân
tạo. Các địa danh có quan hệ chủ vị, chẳng hạn, núi Pu Háp (núi gánh), núi U Va (Tao
Bảo), đèo Huổi Chan (suối tràn), hồ Hồng Sạt (khe sạt lở), hồ U Va (Tao Bảo), suối
Cáy Phặc (gà ấp), khe Hát Si (khe chảy xiết), khe Hồng Sạt (khe sạt lở), suối Na Ư
(ruộng kêu), bản Pha Lay (vách chảy), bản Nậm Khẩu Hú (nước chảy vào hang đá), xã
Na Ư (ruộng kêu), di tích Noong Nhai (ao vỡ), đập tràn Hồng Sạt (khe sạt lở).
Như vậy, đặc điểm nổi bật trong cấu tạo địa danh thành phố Điện Biên Phủ
và huyện Điện Biên là các địa danh có cấu tạo phức chiếm ưu thế hơn cả, điều đó
cho thấy các địa danh được cấu tạo theo xu hướng song tiết hóa. Địa danh thành phố
Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên với các loại hình địa danh khác nhau và có
nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau cũng có đầy đủ các đặc điểm về cấu tạo đơn và cấu
tạo phức đồng thời cũng thể hiện được đầy đủ các kiểu quan hệ chính phụ, đẳng lập,
chủ vị trong cấu tạo phức. Điều đó cho thấy đặc điểm cấu tạo của địa danh nơi đây
rất đa dạng và đã phần nào phản ánh được cấu tạo chung của các đơn vị từ vựng
tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc thiểu số.
2.5. PHƢƠNG THỨC ĐỊNH DANH TRONG ĐỊA DANH THÀNH PHỐ
ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN
2.5.1. Khái niệm về phương thức định danh
Phương thức định danh, thuộc vào nguyên tắc đặt tên, cùng với cấu trúc nội bộ
là một trong hai bộ phận cấu tạo địa danh. Chính phương thức định danh giúp cho địa
danh có những ý nghĩa sinh động, phong phú, độc đáo, giúp cho những vùng miền
mang tên địa danh đó có dấu ấn riêng và cả những đặc trưng văn hóa đặc sắc. Theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
“Từ điển tiếng Việt” [41, tr.793] thì “phương thức là cách thức và phương pháp (nói
51
tổng quát)” trong đó “cách thức là hình thức diễn ra một hành động” còn “phương
pháp là hệ thống các cách sử dụng để tiến hành một hành động nào đó”. Từ đó có
thể quan niệm “phương thức định danh” là phương pháp đặt tên cho một đối tượng
nào đó. Đây là một khái niệm mang tính chất tổng thể, vừa thể hiện cách thức vừa thể
hiện phương pháp trong quá trình chọn lựa, sắp xếp để đặt tên cho địa danh.
Một địa danh luôn có cấu tạo hai bộ phận, đó là cấu tạo nội dung và cấu tạo
hình thức, theo Từ Thu Mai [31, tr.101] đó chính là “cấu trúc nội bộ” và “nguyên
tắc đặt tên”. “Cấu trúc nội bộ của địa danh là cấu tạo về mặt ngữ pháp còn nguyên
tắc đặt tên chính là nguyên tắc được thể hiện qua việc trả lời các câu hỏi đặt tên
dựa vào cái gì hay gọi theo cái gì. Nếu cấu trúc nội bộ tạo nên những đặc điểm về
cấu tạo thì nguyên tắc đặt tên tạo nên những đặc điểm về ý nghĩa của nó”.
Chẳng hạn, trong địa danh xã Thanh Xương, cấu tạo hình thức của địa danh
này là một từ ghép chính phụ trong đó yếu tố “thanh” đứng trước là yếu tố chính,
lấy từ yếu tố thứ hai của địa danh vùng đất “Mường Thanh”, còn yếu tố “xương” là
yếu tố phụ đi sau có chức năng phân biệt xã Thanh Xương với các xã khác trong
cùng huyện (Thanh Yên, Thanh Luông, Thanh Nưa, Thanh Chăn,…). Còn xét về
nguyên tắc đặt tên thì địa danh “Thanh Xương” còn phản ánh tình cảm yêu quý, trân
trọng của con người đối với vùng đất mình đến sinh cơ lập nghiệp.
Việc xác định nguồn gốc và ý nghĩa của các yếu tố trong địa danh là để trả
lời cho câu hỏi: người ta dựa vào đâu để định danh, định danh bằng phương pháp
nào, cách thức ra sao; chính là tìm hiểu phương thức định danh địa danh đó. Do vậy
phương thức định danh và ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo địa danh gắn bó chặt chẽ.
Theo Từ Thu Mai: “Phương thức định danh luôn sử dụng các yếu tố có nghĩa để
định danh cho đối tượng địa lí một cách phù hợp với đặc điểm, tính chất, mối quan
hệ của đối tượng và nguyện vọng, tâm lí của người định danh. Ngược lại, nhờ các
phương thức định danh mà ý nghĩa và ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo được thể hiện
rõ qua từng địa danh cũng như từng loại địa danh” [31, tr.101].
Nếu như xem xét địa danh về cấu tạo hình thức giúp cho ta nhận biết được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đối tượng một cách khái quát, biết đối tượng thuộc loại địa danh nào thì xem xét địa
52
danh về cấu tạo nội dung giúp cho ta biết được ý nghĩa của địa danh, lí do đặt tên
địa danh cũng như những phương thức tạo nên ý nghĩa ấy.
Như vậy, cấu tạo nội dung có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với cấu tạo hình
thức, trong bản thân cấu tạo nội dung, giữa phương thức định danh với ý nghĩa của
các yếu tố cấu tạo địa danh cũng có mối quan hệ khăng khít, tác động lẫn nhau.
2.5.2. Các phương thức định danh qua địa danh thành phố Điện Biên Phủ
và huyện Điện Biên
Về địa danh nói chung và về phương thức định danh nói riêng đã có nhiều
tác giả đi trước nghiên cứu. Chẳng hạn, Lê Trung Hoa đã nêu ra ba phương thức
định danh, đó là: phương thức tự tạo, phương thức chuyển hóa, phương thức vay
mượn [dẫn theo 32, tr.134]. Nguyễn Kiên Trường cũng đưa ra ba phương thức định
danh chủ yếu đó là: phương thức ghép số và địa danh, phương thức chuyển hóa,
phương thức vay mượn [48, tr.76]. Trong khi đó Từ Thu Mai lại chỉ nêu hai phương
thức chính: phương thức cấu tạo mới và phương thức chuyển hóa [31, tr.102-103].
Sự phân chia về số lượng và tên gọi địa danh có nhiều quan niệm khác nhau tuy
nhiên khi nghiên cứu cụ thể vào từng phương thức định danh thì các quan niệm mà
các tác giả đưa ra tương đối đồng nhất.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước và thực tế nghiên
cứu địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, chúng tôi thấy người
định danh đã sử dụng ba phương thức định danh đó là phương thức cấu tạo mới,
phương thức chuyển hóa và phương thức vay mượn.
2.5.2.1. Phương thức cấu tạo mới
Đây là quan niệm của Từ Thu Mai, cũng tương tự như cách gọi “phương
thức tự tạo” của Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường. “Phương thức cấu tạo mới
là phương thức mà người định danh sử dụng các yếu tố ngôn ngữ có sẵn, tạo ra một
tên gọi mới theo cách của mình để định danh cho sự vật, hiện tượng” [41, tr.102].
Nói cách khác, từ những đặc điểm về hình dáng, kích thước, tính chất, màu sắc…
của chính bản thân đối tượng hoặc những đặc điểm có liên quan gián tiếp đến đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tượng như cây, con vật nuôi, tên danh nhân, các sự kiện lịch sử, tín ngưỡng dân
53
gian… người ta sử dụng những yếu tố ngôn ngữ trong hệ thống từ vựng chung để
định danh cho đối tượng. Do vậy trong tên gọi của đối tượng có thể chứa đựng cả
đời sống tâm lí, tình cảm, ước vọng, tín ngưỡng… hay những đánh giá, nhận xét
của con người.
Nghiên cứu 1001 địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên,
chúng tôi cố gắng đưa ra những tiêu chí cụ thể để phân nhóm địa danh và nhận thấy
ngay trong phương thức cấu tạo mới, các địa danh cũng được định danh từ rất nhiều
đặc điểm riêng độc đáo, mang đậm nét đặc trưng của một vùng đất nơi miền núi
phía Bắc xa xôi của Tổ quốc. Từ những địa danh mang dấu ấn riêng từ thuở khai
thiên lập địa theo thần thoại, truyền thuyết cho đến những địa danh mang dấu ấn của
thời kì phong kiến, thời kì chống Pháp và cả những địa danh xuất hiện trong chính
quyền nhà nước hiện nay.
Chúng tôi chia phương thức cấu tạo mới thành 8 nhóm nhỏ, trong mỗi nhóm
lại gồm những tiểu nhóm khác nhau.
a) Loại dựa vào đặc điểm, tính chất của đối tượng để đặt tên
- Địa danh được gọi theo địa hình của đối tượng.
Đó là những đặc điểm về địa hình như hang, thác, rãnh, đèo, núi. Chẳng hạn,
bản Kéo (đèo), bản Na Ten (ruộng ở nơi cao và bằng), bản Phiêng Sáng (bãi tre mạy
sáng), suối Thẩm (hang), suối Cảnh (thác), di tích Đồi A1 v.v..
- Địa danh được gọi theo loại chất liệu hay khoáng sản liên quan đến đối tượng.
Đó là những đặc điểm về loại chất liệu hay khoáng sản như sắt, chì, đất,
đá đen, đá lửa, đá vôi... Chẳng hạn, bản Đán Yên (đá gân trắng), bản Pha Đin
(vách đất), bản Noong Chứn (ao chì), suối Hồng Lếch (khe sắt), bản Him Lếch
Phay (đá lửa) v.v..
- Địa danh được gọi theo hình dáng của đối tượng.
Đó phần lớn là những đặc điểm gắn liền với hình dáng của các đồ vật, dụng
cụ. Chẳng hạn: bản Na Côm (ruộng tròn), bản Púng Khẩu (vựa thóc), núi Tẩu Pung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(quả bầu), suối Nậm Poọng (trống da) v.v..
54
- Địa danh được gọi theo kích thước của đối tượng.
Đó là những đặc điểm về kích thước như to, nhỏ, lớn, bé, dài, hẹp.
Chẳng hạn: xã Thanh Luông (Mường Thanh to lớn), suối Lụ (nhỏ), bản Huổi Lơi
(suối dài, hẹp, cong), bản Nà Hý (ruộng dài), núi Pú Lấu Luông (núi cây lau lớn) v.v..
- Địa danh được gọi theo màu sắc của đối tượng.
Đó là những đặc điểm về màu sắc như xanh, đỏ, tím, vàng, trắng. Chẳng hạn,
thác Trắng (nước chảy trắng xóa), cầu treo Nậm Thanh (suối xanh), suối Sái Lương
(cát vàng) v.v..
- Địa danh được gọi theo âm thanh liên quan đến đối tượng.
Chẳng hạn, bản Na Khếnh (ruộng tiếng kêu), hồ Hồng Khếnh (khe tiếng
kêu), suối Na Ư (ruộng kêu) v.v..
- Địa danh được đặt theo tính chất, mùi vị liên quan đến đối tượng.
Đó là những đặc điểm về tính chất như già, trẻ, xấu, đẹp, bình yên, trong lành,
xa xăm, bằng phẳng, mới, cũ, nhiều, ít; miêu tả mùi vị như vị mặn. Chẳng hạn, bản
Đông Mệt (rừng già kín đáo), suối Huổi Un (suối nước ấm), suối Ít (suối mặn) v.v..
- Địa danh được gọi theo hoạt động, chức năng của đối tượng.
Đó là những đặc điểm về hoạt động như nhìn, đâm, chảy, tràn, dập dềnh,
gánh; về chức năng như chính, phụ… Chẳng hạn, bản Lé (nhìn), bản Phăng (đâm),
bản Chăn nuôi, suối Cáy Phặc (gà ấp), suối Húa (đầm), suối Huổi Háp (suối gánh),
kênh Chính v.v..
- Địa danh được gọi theo số lượng liên quan đến đối tượng.
Chẳng hạn, bản Sam Phương (ba phương), suối Huổi Hốc (suối sáu nhánh),
thành Tam Vạn (ba vạn) v.v..
- Địa danh được gọi theo thời gian liên quan đến đối tượng.
Đó có thể là thời gian diễn ra hoạt động của đối tượng hoặc là thời gian
thành lập đối tượng.
Chẳng hạn những địa danh như bản Tà Lành (bến tối), bản Na Hôm (ruộng
hôm) là chỉ thời gian diễn ra hoạt động của đối tượng. Còn những địa danh như thôn
Tân Lập (mới thành lập), bản Mới, bản Mé, bản Mớ, đường Mới (nay là đường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trường Chinh) là chỉ thời gian, thời điểm đối tượng được thành lập.
55
- Địa danh được gọi theo những đặc điểm của sự vật, của thiên nhiên và các
hiện tượng thiên nhiên có liên quan đến đối tượng.
Bộ phận phản ánh sự vật, hiện tượng như khe Hoong Khoong (khe của cải),
bản Hoong Khoong, suối Huổi Hộc (suối nhau thai), suối Ta Tiến (mật ong đất), đồi
Cháy. Bộ phận phản ánh thiên nhiên và các hiện tượng thiên nhiên như mường
Thanh (mường trời), bản Ta Lét (bến nắng), hồ Ta Lét, núi Pu Phạ (núi trời), suối
Huổi Phạ (suối trời), cầu Huổi Phạ, bản Huổi Phạ, hồ Huổi Phạ, đập tràn Huổi
Phạ, suối Mươi (sương mù).
b) Loại dựa vào đặc điểm có quan hệ chặt chẽ với đối tượng để đặt tên
- Địa danh gọi theo vị trí, phương hướng của đối tượng so với đối tượng khác.
Phương thức định danh này thường gặp ở địa danh đơn vị dân cư (phường, bản), ở
địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh công trình nhân tạo ít xuất hiện hơn.
Chẳng hạn, phường Nam Thanh (phía Nam Mường Thanh), bản Cang (Ở
giữa), bản Đỉnh Đèo, bản Che Phai (cạnh đập nước), suối Nậm Hua (suối đầu
nguồn), động Pa Thơm (cửa hang động), phân khu Bắc, phân khu Nam v.v..
- Địa danh gọi theo tên các loại thực vật có ở đối tượng.
Phương thức định danh này chỉ gặp ở địa danh đơn vị dân cư với địa danh
địa hình thiên nhiên và chiếm số lượng lớn nhất trong những địa danh được cấu tạo
theo phương thức cấu tạo mới.
Chẳng hạn, bản Xôm (cây cơi), bản Co Sáng (cây tre mạy sáng), bản Phiêng
Bua (bãi sen), bản Ta Pô (bến cây đa), thác Bay (cây trám đen), suối Na Cọ (ruộng
cây cọ) v.v..
- Địa danh gọi theo tên các loài động vật được sinh sống, tồn tại nhiều trên
đối tượng.
Cũng như địa danh gọi theo tên cây cối, phương thức định danh này chỉ gặp
ở địa danh đơn vị dân cư với địa danh địa hình thiên nhiên. Những loài vật được
dùng để đặt tên đều là những loài khá đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, có loài vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
có thật trong tự nhiên nhưng cũng có loài chỉ có trong tưởng tượng của người dân
56
địa phương. Chẳng hạn, bản Noong É (ao chim én), bản Na Thìn (ruộng dĩn), bản
Phiêng Quái (bãi thả trâu), xã Noong Luống (ao rồng), núi Huổi Tấu (suối rùa),
suối Kía (con dơi), suối Hoong Hịa (khe kì đà), nậm Mển (suối nhím) v.v..
c) Loại dựa theo biến cố lịch sử, tên dân tộc hay danh nhân có liên quan trực
tiếp đến đối tượng
Ở cả ba loại hình địa danh đều có địa danh được gọi theo phương thức này
trong đó địa danh công trình nhân tạo sử dụng nhiều nhất bởi ở đây có những di tích
lịch sử, những cứ điểm, tượng đài, những tên đường, tên phố gắn liền với những
biến cố lịch sử và tên tuổi của những danh nhân, những anh hùng dân tộc. Chẳng
hạn, bản Tân Bình (bản mới của người Thái Bình khi họ lên Điện Biên sinh sống và
lập nghiệp), thôn Trần Phú (tên danh nhân), đường Phan Đình Giót (tên danh
nhân), quốc lộ 279 (sự kiện lịch sử: đây là tuyến đường phục vụ vận chuyển quân
trang, quân lực cho cuộc chiến đấu của quân dân Việt Nam chống lại chiến tranh
xâm lược của Trung Quốc vào tháng 2 năm 1979), di tích Dân quân ở xã Thanh An
bắn rơi máy bay Mỹ (sự kiện lịch sử), di tích Đường kéo pháo của quân ta ở Điện
Biên Phủ (sự kiện lịch sử) v.v..
d) Loại đặt theo tín ngưỡng của dân chúng trong vùng
Phương thức định danh này chỉ gặp ở địa danh địa hình thiên nhiên và địa
danh công trình nhân tạo. Những địa danh này có thể được gọi tên gắn với những
câu chuyện truyền thuyết dân gian hoặc những hoạt động tín ngưỡng của người dân
trong vùng. Chẳng hạn, núi Pú Nang Nòn (núi nàng công chúa nằm), núi Pú Tạo
Nòn (núi chàng hoàng tử nằm), đồi Pom Loi (đồi khâm liệm), v.v…
e) Loại dựa theo tâm lý, nguyện vọng của người dân
Phương thức định danh này chỉ gặp ở tên gọi của các địa danh đơn vị dân cư
như thành phố, huyện, xã, thôn, bản. Qua đó người dân muốn gửi gắm ước vọng về
cuộc sống đẹp giàu, trong sáng, bình yên, văn minh, tiến bộ của vùng đất, thôn, bản
nơi họ sinh sống. Chẳng hạn, huyện Điện Biên (biên giới vững vàng), thôn Mỹ
Hưng (đẹp giàu), bản Hưng Yên (hưng thịnh, yên ấm), thôn Văn Biên (văn minh nơi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
biên giới), bản Thanh Bình (trong sáng, bình yên) v.v..
57
g) Loại ghép các yếu tố
Lấy một yếu tố tên vùng đất kết hợp với một yếu tố chỉ tính chất, vị trí, phương
hướng... hoặc lấy một yếu tố tên xã kết hợp với một vài yếu tố chỉ tên tỉnh, trụ sở làm
việc, bãi canh tác... để đặt tên xã, phường cũng là một phương thức được sử dụng để
định danh một số địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên. Chẳng
hạn, xã Thanh Minh (Mường Thanh trong sáng), xã Thanh Luông (Mường Thanh to
lớn), xã Thanh Nưa (Mường Thanh trên), phường Nam Thanh (phía Nam Mường
Thanh), phường Thanh Trường (Mường Thanh + Nông trường) v.v..
h) Loại dùng số đếm hoặc chữ cái để đặt tên
Dùng số đếm thấy trong địa danh đơn vị dân cư và địa danh công trình nhân
tạo (đội, đường, quốc lộ, tổ dân phố), còn loại dùng chữ cái có ở địa danh địa hình
thiên nhiên. Chẳng hạn, đội 7, đội 10, tổ dân phố 32, quốc lộ 12, thôn 24, đồi F v.v..
i) Loại hỗn hợp: kết hợp các yếu tố, chữ số, chữ cái
Phương thức này được sử dụng với số lượng khá lớn ở cả ba loại địa danh. Ở
đây các yếu tố được dùng kết hợp với các chữ số, chữ cái hoặc chỉ có các chữ số,
chữ cái được dùng kết hợp với nhau. Tên gọi đó có được là do đặt theo kí hiệu đơn
vị quân đội, kí hiệu của nông trường sản xuất cũ hoặc để phân biệt các địa danh có
tên gọi giống nhau chỉ khác nhau vị trí hay thời gian xuất hiện trước sau do tách ra
từ một địa danh gốc. Chẳng hạn, đồi A1 (kí hiệu quân đội), cứ điểm E1 (kí hiệu
quân đội), di tích Đồi E2, cầu C9 (kí hiệu của nông trường sản xuất cũ), bản Him
Lam 1, bản Him Lam 2 v.v..
2.5.2.2. Phương thức chuyển hóa
Các nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên Trường và Từ Thu Mai đều
nêu ra phương thức này. Phương thức chuyển hóa là phương thức định danh bằng
cách lấy tên gọi đối tượng địa lí này để gọi tên một đối tượng địa lí khác. Địa danh
mới có thể giữ nguyên dạng hoặc thêm một số yếu tố mới là các danh từ chung chỉ
loại hình đối tượng địa lí có liên quan so với địa danh cũ. Do vậy địa danh cũ có thể
mất đi hoặc song song tồn tại với địa danh mới. Qua nghiên cứu 1001 địa danh thành
phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, chúng tôi thấy phương thức này có hai dạng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chuyển hóa trong nội bộ loại địa danh và chuyển hóa giữa các loại địa danh.
58
- Chuyển hóa trong nội bộ loại địa danh.
Phương thức này xuất hiện không nhiều trong cấu tạo một số địa danh thành
phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên. Chẳng hạn, trong loại địa danh đơn vị dân
cư: mường Phăng bản Mường Phăng, mường Pồn bản Mường Pồn, bản Him
Lam phường Him Lam, bản Noong Bua phường Noong Bua v.v..
Trong loại địa danh địa hình thiên nhiên: suối Nậm Khẩu Hú núi Pu Nậm
Khẩu Hú, suối Nậm Nẹn núi Pu Nậm Nẹn, hồ U Va núi U Va, suối Huổi He
hang Huổi He v.v..
Trong loại địa danh công trình nhân tạo: nhà máy thủy điện Thác Bay đập
tràn Thác Bay, nhà máy thủy điện Thác Trắng đập tràn Thác Trắng, cầu Mường
Thanh di tích Cầu Mường Thanh, chùa Pá Sa di tích Chùa Pá Sa v.v..
- Chuyển hóa giữa các loại địa danh.
Các địa danh cấu tạo theo phương thức này chiếm số lượng khá lớn. Sự
chuyển hóa diễn ra trong sáu nhóm như sau:
+ Địa danh địa hình thiên nhiên chuyển hóa thành địa danh đơn vị dân cư.
Chẳng hạn, nà Tấu (ruộng rùa) bản Nà Tấu, noong Pết (ao vịt) bản Noong
Pết, tông Khao (cánh đồng trắng) bản Tông Khao, suối Sái Lương (suối Cát
vàng) bản Sái Lương, Pú Sung (núi cao) bản Pú Sung, pom Lót (đồi giỏ lõi
chỉ) bản Pom Lót.
+ Địa danh địa hình thiên nhiên chuyển hóa thành địa danh công trình nhân tạo.
Chẳng hạn, sông Nậm Rốm kênh Nậm Rốm, hồ U Va khu khảo cổ học Hồ U Va.
+ Địa danh công trình nhân tạo chuyển hóa thành địa danh địa hình thiên
nhiên. Chẳng hạn, cửa khẩu Tây Trang đèo Tây Trang.
+ Địa danh công trình nhân tạo chuyển hóa thành địa danh đơn vị
dân cư. Chẳng hạn, thành Bản Phủ → bản Phủ, thành Sam Mứn → bản
Sam Mứn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
59
+ Địa danh đơn vị dân cư chuyển hóa thành địa danh địa hình thiên
nhiên. Chẳng hạn, bản Kéo → đồi Bản Kéo, bản Him Lam → đồi Him Lam.
+ Địa danh đơn vị dân cư chuyển hóa thành địa danh công trình nhân
tạo. Chẳng hạn, xã Thanh Minh → cống Thanh Minh, bản Hua Pe → khu du
lịch Hua Pe.
Trong các nhóm trên nhóm địa danh địa hình thiên nhiên chuyển hóa
thành địa danh đơn vị dân cư là nhóm có số lượng lớn nhất. Hầu hết các địa
danh đơn vị dân cư được chuyển hóa từ toàn bộ phức thể địa danh địa hình
thiên nhiên như các địa hình ná (ruộng), huổi (suối), pú (núi), nậm (sông,
nước), hoong (khe), co (cây), noong (ao)...
Như vậy phương thức định danh theo lối chuyển hóa là cách thức cơ
bản để đặt tên địa danh mới trên cơ sở cái cũ đã có.
2.5.2.3. Phương thức vay mượn
Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường trong công trình nghiên cứu của
mình đều nêu ra phương thức này, còn Từ Thu Mai cho rằng đây là một phần của
phương thức chuyển hóa. Phương thức vay mượn là phương thức lấy tên gọi ở vùng
khác, nơi khác (kể cả tên người, tên đất) để đặt tên cho địa vực cư trú của mình.
Trong 1001 địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, chúng
tôi thấy có ba nhóm địa danh vay mượn đó là mượn chất liệu ngôn ngữ dân tộc
thiểu số, mượn tên người và mượn tên làng quê cũ để đặt tên cho địa danh mới.
- Mượn chất liệu ngôn ngữ dân tộc thiểu số hoặc tiếng nước ngoài.
Mượn chất liệu ngôn ngữ dân tộc thiểu số chẳng hạn: các địa danh Mường
Thanh, Hồng Cúm, Hồng Khếnh, Him Lam, Pa Thơm trong tiếng Việt lần lượt được
mượn từ các tên gọi Mướng Then, Hoong Cúm, Hoong Khếnh, Hin Đăm, Pak Thơm
trong tiếng Thái.
Địa danh mượn tiếng nước ngoài có rất ít. Ở đây chỉ thấy có hai địa danh gốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Pháp đó đồng thời cũng là những địa danh mang tên người: Đờ Cát, Pi Rốt.
60
- Mượn tên người: tên người ở đây có cả những người nổi tiếng, những vị
anh hùng dân tộc trong lịch sử cũng có cả những kẻ đi xâm lược và để lại dấu tích
trên mảnh đất Điện Biên Phủ đã từng trải qua một chặng đường lịch sử hào hùng.
Chẳng hạn, tên của những vị anh hùng của dân tộc đã được đặt cho tên đền,
hầm, tên đường phố, thôn bản như: đền Hoàng Công Chất, hầm Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, thôn Trần Phú, đường Bế Văn Đàn, đường Phan Đình Giót. Tên của
những kẻ đến xâm lược mảnh đất này đã được đặt cho những dấu tích mà chúng để
lại như: hầm Đờ Cát, hầm Pi Rốt.
- Mượn tên làng quê cũ: Từ sau khi Điện Biên được giải phóng năm 1954,
đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế và sinh cơ lập nghiệp tại mảnh đất này
đã mang theo tên làng cũ, quê cũ của mình để đặt tên cho vùng đất họ đến định
cư. Qua đó họ không chỉ muốn gửi gắm tình yêu đối với mảnh đất chôn rau cắt
rốn, nỗi nhớ quê cha đất tổ và tấm lòng luôn hướng về cội nguồn mà cả quyết
tâm xây dựng quê mới ngày càng văn minh, giàu đẹp.
Chẳng hạn, địa danh Cộng Hòa, Minh Tân là tên của hai xã thuộc tỉnh Thái
Bình, hai địa danh này đã được người dân mang theo và đặt tên cho bản mới ở Điện
Biên, nơi họ sinh sống đó là bản Minh Tân, bản Cộng Hòa.
So với các phương thức cấu tạo địa danh nêu trên thì phương thức vay
mượn ít được sử dụng để cấu tạo các địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên hơn.
Như vậy, trong ba phương thức định danh nêu trên, phương thức cấu tạo
mới chiếm số lượng nhiều và phong phú hơn cả. Tìm hiểu ý nghĩa của địa danh,
nói chung cũng căn cứ vào phương thức này là chủ yếu. Còn ở phương thức
chuyển hoá, cách chuyển thành tố chung chỉ loại hình các đối tượng địa lí giữa
các loại địa danh là cách thức chuyển hóa chủ yếu. Phương thức vay mượn được
sử dụng với số lượng nhỏ, ở vùng núi như Điện Biên, phương thức này chỉ gặp ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
địa danh đơn vị dân cư.
61
2.5.3. Tổng hợp kết quả
CÁC PHƢƠNG THỨC ĐỊNH DANH QUA ĐỊA DANH THÀNH PHỐ
ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN
STT
PHƢƠNG THỨC ĐỊNH DANH
A Phƣơng thức cấu tạo mới
I Loại dựa vào đặc điểm, tính chất của đối tượng để đặt tên
1 Địa danh được gọi theo địa hình của đối tượng
2 Địa danh được gọi theo loại chất liệu hay khoáng sản liên quan đến đối tượng
3 Địa danh được gọi theo hình dáng của đối tượng.
4 Địa danh được gọi theo kích thước của đối tượng
5 Địa danh được đặt theo tính chất, mùi vị liên quan đến đối tượng
6 Địa danh được gọi theo màu sắc của đối tượng
7 Địa danh được gọi theo hoạt động, chức năng của đối tượng
8 Địa danh được gọi theo số lượng liên quan đến đối tượng
9 Địa danh được gọi theo âm thanh liên quan đến đối tượng
10 Địa danh được gọi theo thời gian liên quan đến đối tượng
Địa danh được gọi theo những đặc điểm của sự vật, của thiên nhiên và các hiện 11 tượng thiên nhiên có liên quan đến đối tượng
II Loại dựa vào đặc điểm có quan hệ chặt chẽ với đối tượng để đặt tên
1 Địa danh gọi theo vị trí, phương hướng của đối tượng so với đối tượng khác
2 Địa danh gọi theo tên các loại thực vật có ở đối tượng
3 Địa danh gọi theo tên các loài động vật được sinh sống, tồn tại nhiều trên đối tượng
Loại dựa theo biến cố lịch sử, tên dân tộc hay danh nhân có liên quan trực tiếp III đến đối tượng
IV Loại dựa theo tín ngưỡng của dân chúng trong vùng
V Loại dựa theo mong muốn, ước nguyện của người dân
VI Loại ghép các yếu tố
VII Loại dùng số đếm hoặc chữ để đặt tên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
VIII Loại hỗn hợp: kết hợp các yếu tố, chữ số, chữ cái
62
STT
PHƢƠNG THỨC ĐỊNH DANH
B Phƣơng thức chuyển hóa
I Chuyển hóa trong nội bộ địa danh
II Chuyển hóa giữa các loại địa danh
1 Địa danh địa hình thiên nhiên chuyển hóa thành địa danh đơn vị dân cư
2 Địa danh địa hình thiên nhiên chuyển hóa thành địa danh công trình nhân tạo
3 Địa danh công trình nhân tạo chuyển hóa thành địa danh địa hình thiên nhiên
4 Địa danh công trình nhân tạo chuyển hóa thành địa danh đơn vị dân cư
5 Địa danh đơn vị dân cư chuyển hóa thành địa danh địa hình thiên nhiên
6 Địa danh đơn vị dân cư chuyển hóa thành địa danh công trình nhân tạo
C Phƣơng thức vay mƣợn
I Mượn chất liệu ngôn ngữ dân tộc thiểu số hoặc tiếng nước ngoài để định danh
II Mượn tên người để định danh
III Mượn tên làng quê cũ để định danh
2.5.4. Nhận xét về các phƣơng thức định danh qua địa danh thành phố
Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được cấu tạo theo ba
phương thức: phương thức cấu tạo mới, phương thức chuyển hóa và phương thức
vay mượn, trong đó phương thức cấu tạo mới gồm 8 loại, phương thức chuyển hóa
gồm 2 loại và phương thức vay mượn gồm 3 loại, và ở mỗi loại lại gồm những
nhóm nhỏ khác nhau. Trong các phương thức đó thì phương thức cấu tạo mới được
sử dụng nhiều nhất và có số lượng địa danh nhiều nhất. Vì thế phương thức này có
vai trò quan trọng trong việc cấu tạo địa danh. Trong phương thức chuyển hóa, cách
thức chuyển hóa giữa các loại địa danh xuất hiện nhiều còn trong phương thức vay
mượn thì cách thức vay mượn tiếng dân tộc thiểu số chiếm ưu thế. Các phương thức
này cho phép lựa chọn các thuộc tính phong phú, đa dạng để đặt tên địa danh trong
đó phương thức cấu tạo mới đem lại nhiều thuộc tính nhất. Có những thuộc tính là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đặc điểm, tính chất của chính bản thân đối tượng như đặc điểm về hình dáng, kích
63
thước, màu sắc, tính chất, mùi vị, hoạt động, chức năng, sự vật, hiện tượng; có
những thuộc tính là những đặc điểm có quan hệ chặt chẽ với đối tượng như vị trí,
phương hướng, loại cây cối, con vật nuôi; có những thuộc tính là biến cố lịch sử, tên
dân tộc hay danh nhân có liên quan trực tiếp đến đối tượng; có thuộc tính là tín
ngưỡng, tâm lí, nguyện vọng của người dân; có những thuộc tính là các yếu tố ghép
lại, là các chữ số hay ghép hỗn hợp cả các yếu tố, chữ số, chữ cái; lại có những
thuộc tính do chuyển hóa địa danh hay do vay mượn tên người, tên làng quê cũ.
Chính những thuộc tính đó làm cho ý nghĩa của các địa danh thêm phong phú, đặc
sắc, góp phần tạo nên cái mới, cái hay, cái riêng của một số địa danh trong thành
phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
Những đặc điểm, tính chất được lựa chọn làm phương thức định danh trên có
có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với địa lí, lịch sử, văn hóa tộc người ở Điện Biên.
Chẳng hạn với đặc điểm nổi bật của địa hình toàn tỉnh là núi thấp dần và đổ dồn
xuống các sông và suối lớn, hoặc xen kẽ với các thung lũng sông, khe suối; lọt vào
giữa các dãy núi có rất nhiều dải trũng bằng phẳng tạo thành những cánh đồng hẹp
kéo dài cùng với mạng lưới sông ngòi chằng chịt và hệ động thực vật phong phú, ở
thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có rất nhiều địa danh mang yếu tố
ruộng (ná, na, nà), núi (pú, pu), đồi (pom), suối (huổi), sông (nậm), khe (hoong),
nguồn nước (bó), ao (noong), rừng (pá), cây (co), đá (him), bãi (phiêng)... khiến
cho phương thức định danh dựa vào tên gọi các sông, suối, núi, rừng, đồi, các cây
cối, con vật cùng với những đặc điểm hình dáng, tính chất, màu sắc, hoạt động của
chúng là phương thức định danh cơ bản và chiếm ưu thế. Về lịch sử, Điện Biên Phủ,
mảnh đất đã từng lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu, biết bao anh hùng dân tộc,
biết bao người con của đất nước đã ngã xuống để Điện Biên có được nền hòa bình,
độc lập như ngày nay. Nhân dân Điện Biên và cả nước luôn nhớ đến các anh, những
người anh hùng đang sống và cả những người đã khuất, họ đã được vinh danh trong
lịch sử và được lưu danh cả ở những tên đường phố, trường học, tên căn hầm, ngôi
đền và cả tên bản, xã, thôn, xóm. Còn về xã hội, dân cư sống đông đúc và lâu đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhất ở Điện Biên chính là người Thái. Vì vậy các địa danh chủ yếu có nguồn gốc
64
ngôn ngữ Thái. Sau này người Kinh lên Điện Biên sinh sống đã mang theo tiếng
nói, chữ viết của mình và tiếng Kinh đã được sử dụng phổ biến trong cộng đồng dân
cư. Sự tiếp xúc hai cộng đồng dân cư Thái - Việt đã tạo nguồn cho sự tiếp xúc ngôn
ngữ giữa hai dân tộc. Kết quả là trong một số địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên có nhiều địa danh có nguồn gốc Thái nhưng lại được ghi bằng
tiếng Việt như địa danh Điện Biên Phủ (hay Mường Thanh) có nguồn gốc tiếng
Thái là Mướng Then, Him Lam có nguồn gốc tiếng Thái là Hin Đăm, Hồng Cúm có
nguồn gốc tiếng Thái là Hoong Cúm... Đặc điểm này chi phối đến phương thức vay
mượn địa danh.
Như vậy, qua nghiên cứu 1001 địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên chúng tôi thấy các phương thức định danh cấu tạo lên các địa danh
này rất phong phú, đa dạng, mặt khác các phương thức định danh còn có mối quan
hệ gắn bó chặt chẽ, khăng khít với những đặc điểm về địa lí, lịch sử, văn hóa, tộc
người ở Điện Biên. Những đặc điểm đó góp phần tạo nên nét riêng, đặc sắc, độc đáo
của địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
2.6. TIỂU KẾT
Qua khảo sát địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên về mặt
cấu tạo chúng tôi rút ra một số nhận xét cơ bản như sau:
2.6.1. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên cũng như địa
danh ở nhiều vùng miền khác trên đất nước Việt Nam đều nằm trong một cấu trúc
phức thể nhất định. Đó là mô hình cấu trúc phức thể gồm hai bộ phận là thành tố
chung và địa danh (tên riêng). Mỗi bộ phận đó có vai trò, chức năng riêng nhưng
được đặt trong mối quan hệ gắn bó, thống nhất với nhau. Bộ phận từ ngữ chung
dùng để gọi tên các đối tượng địa lí có cùng đặc điểm được xếp vào cùng một kiểu
loại. Còn bộ phận địa danh dùng để khu biệt đối tượng địa lí này với đối tượng địa lí
khác, đặc biệt khi các đối tượng này thuộc vào cùng một kiểu loại. Trong phức thể
địa danh, bộ phận từ ngữ chung thường đứng trước và là cái được hạn định cho đối
tượng địa lí còn bộ phận tên riêng thường đứng sau để hạn định cho đối tượng địa lí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đó. Mô hình cấu trúc địa danh nơi đây có điểm khá đặc biệt so với nơi khác đó là có
65
số lượng yếu tố lớn, mô hình cấu trúc có tối đa là mười chín yếu tố với độ dài lớn
nhất của thành tố chung là bảy yếu tố và của địa danh là mười hai yếu tố; còn trên
khảo sát thực tế thì địa danh có số lượng yếu tố lớn nhất là mười năm yếu tố.
2.6.2. Thành tố chung trong phức thể địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên có số lượng nhỏ, có cấu tạo đơn tiết, đa tiết khác nhau và phân bố
nhiều nhất ở địa danh các công trình nhân tạo. Thành tố chung giúp chúng ta hình
dung ra bức tranh cấu trúc địa hình và màu sắc văn hóa riêng ở trong vùng.
Các thành tố chung cũng có sự linh hoạt trong các phức thể địa danh, chúng
không chỉ đứng ở trước địa danh và thực hiện chức năng phân biệt loại hình cho địa
danh mà chúng còn xâm nhập và chuyển hóa thành một hoặc một vài yếu tố trong
địa danh (trong mười hai yếu tố của địa danh thì trừ vị trí thứ chín và vị trí thứ mười
một còn lại các thành tố chung đều lần lượt được chuyển hóa vào các vị trí còn lại
trong địa danh). Chức năng này phản ánh sự đa dạng trong mối quan hệ giữa các bộ
phận trong cấu trúc địa danh đồng thời cũng làm tăng thêm sự phong phú, đa dạng,
độc đáo của các địa danh.
2.6.3. Các địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có
độ dài khác nhau, địa danh ngắn nhất chỉ gồm một yếu tố còn địa danh dài nhất có
đến mười hai yếu tố trong đó mỗi yếu tố tương đương với một âm tiết. Trong địa
danh có cấu tạo phức, các yếu tố trong địa danh có mối liên hệ với nhau theo các
kiểu quan hệ: chính phụ, đẳng lập và chủ vị. Điều đó cho thấy đặc điểm cấu tạo của
địa danh nơi đây rất phong phú, đa dạng và đã phần nào phản ánh được cấu tạo
chung của các đơn vị từ vựng tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc thiểu số.
Mặc dù các địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau nhưng xét về mặt
cấu tạo, địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được tạo thành bởi
cấu tạo phức trong đó quan hệ chính phụ là chủ yếu, các quan hệ đẳng lập và chủ vị
chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Trong quan hệ chính phụ, vị trí của các yếu tố chính, yếu tố phụ
khác nhau tùy thuộc vào loại ngôn ngữ cấu tạo địa danh. Trong địa danh Hán Việt,
yếu tố chính thường đứng trước yếu tố phụ, trong địa danh thuần Việt thì ngược lại,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
còn trong địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ hỗn hợp thì vị trí của các yếu tố chính
66
linh hoạt hơn có thể đứng trước hoặc đứng sau yếu tố phụ, việc xác định chúng tùy
thuộc vào ngữ nghĩa của địa danh.
2.6.4. Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là hai địa bàn có rất
nhiều dân tộc sinh sống cho nên các địa danh nơi đây có nguồn gốc ngôn ngữ rất
phong phú, có địa danh tiếng Việt có địa danh tiếng Thái, cũng có cả địa danh tiếng
Mông, tiếng Khơ Mú, tiếng Lào. Trong đó địa danh tiếng Thái chiếm số lượng lớn
nhất. Bên cạnh đó còn xuất hiện cả những địa danh có nguồn gốc hỗn hợp giữa
tiếng Việt và tiếng Thái. Điều này tạo nên điểm khá đặc biệt và độc đáo của địa
danh cũng như phần nào phản ánh đời sống văn hóa của các đồng bào dân tộc sinh
sống nơi đây.
2.6.5. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được cấu tạo
theo ba phương thức khác nhau đó là phương thức cấu tạo mới (gồm 8 loại),
phương thức chuyển hóa (gồm 2 loại) và phương thức vay mượn (gồm 3 loại) trong
đó phương thức cấu tạo mới giữ vai trò chủ yếu. Phương thức này đã góp phần tạo
nên các kiểu cấu tạo của địa danh đặc biệt là kiểu cấu tạo phức theo quan hệ chính
phụ. Các phương thức định danh cấu tạo nên các địa danh này rất phong phú, đa
dạng đồng thời còn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, khăng khít với những đặc điểm
về địa lí, lịch sử, văn hóa, tộc người ở Điện Biên. Những đặc điểm đó góp phần tạo
nên nét riêng, đặc sắc, độc đáo trong ý nghĩa của địa danh thành phố Điện Biên Phủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và huyện Điện Biên.
67
Chƣơng 3
ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ - VĂN HÓA TRONG ĐỊA DANH
THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIÊN BIÊN
3.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA
3.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một sản phẩm sáng tạo của loài người, nó ra đời từ rất sớm và là
một trong những thước đo đời sống văn minh của chính con người và ngược lại đời
sống con người cũng được nâng dần lên khi có văn hóa.
Các nhà nghiên cứu đã đứng trên rất nhiều góc độ để nghiên cứu về văn hóa
nên mỗi người lại có cách hiểu và đưa ra các quan niệm khác nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan niệm về văn hóa: "Văn hóa là tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó do loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" [dẫn theo Vũ
Khiêu (Chủ biên) (2000), tr.747-748].
Hoàng Phê trong "Từ điển tiếng Việt" đã đưa ra khái niệm: "Văn hóa là tổng
thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong
quá trình lịch sử" [41, tr.1100].
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc thì cho rằng: "Văn hóa là một quan hệ. Nó là mối
quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại" [38, tr.105].
Trần Ngọc Thêm lại đưa ra định nghĩa: "Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội
của mình" [45, tr.20].
Tổ chức UNESCO thì quan niệm: “Văn hóa nên được xem là một tập hợp các
đặc điểm nổi bật về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm của xã hội hay một
nhóm xã hội, và ngoài văn học và nghệ thuật, nó còn bao gồm lối sống, các hệ
thống giá trị, các truyền thống và tín ngưỡng”. Bên cạnh đó UNESCO còn phân chia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
văn hóa gồm hai loại: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Văn hóa vật thể là các
68
di sản tồn tại ở dạng vật chất như các công trình xây dựng, các công cụ, phương
tiện... còn văn hóa phi vật thể là các di sản tồn tại ở dạng tinh thần như dấu ấn ngôn
ngữ, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội... (dẫn theo [32, tr.181-182]).
Trên cơ sở ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi cũng đồng tình
với quan điểm của các nhà nghiên cứu khi xem văn hóa là một phức thể tổng hợp
bao gồm cả sản phẩm vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Sản phẩm vật
chất thuộc vào lĩnh vực văn hóa vật thể còn sản phẩm tinh thần thuộc vào lĩnh vực
văn hóa phi vật thể.
Khi nghiên cứu về địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên,
chúng tôi thấy có một vài đặc điểm liên quan chặt chẽ đến nội dung của văn hóa. Đó
là địa danh các công trình xây dựng nhân tạo, các di tích, đền, chùa.. thuộc văn hóa
vật thể và cả các yếu tố thuộc văn hóa phi vật thể như các địa danh thuộc về lễ hội,
tín ngưỡng, các địa danh chứa đựng các giá trị văn hóa tinh thần... Điện Biên là
mảnh đất gắn liền với chiến thắng lịch sử lẫy lừng năm 1954 nên các địa danh về di
tích chiếm một số lượng khá lớn và có giá trị văn hóa lớn lao trong đời sống nhân
dân địa phương cũng như góp phần vào kho tàng văn hóa lịch sử của dân tộc.
Nghiên cứu địa danh từ góc độ văn hóa giúp mang lại ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc, độc
đáo cho địa danh, tăng thêm sự hứng thú đối với những người nghiên cứu.
3.1.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa là một mối quan hệ hữu cơ, gắn bó
khăng khít, được nghiên cứu trong rất nhiều lĩnh vực như văn hóa học, ngôn ngữ
học, nhân loại học, tâm lí học. Điều đó dẫn tới sự ra đời của nhiều bộ môn liên
ngành trong đó mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa là trọng tâm như tâm lí -
ngôn ngữ học, dân tộc - ngôn ngữ học, nhân học - ngôn ngữ học.
Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa biểu
hiện ở chỗ ngôn ngữ được coi là biểu hiện, là hiện thân, là biểu trưng của văn hóa.
Phạm Đức Dương khi bàn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa cho rằng:
“Nhờ khả năng biểu trưng hóa, lời nói đã để lại những dấu hiệu vật chất trong các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoạt động tinh thần của con người (như âm nhạc, hội họa, điêu khắc...) gắn với
69
dạng nói. Và những dấu hiệu ấy được hiện thực hóa thành những biểu tượng văn
hóa. Vì vậy ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu phổ quát có thể diễn tả, giải thích các
hệ thống biểu tượng khác của văn hóa và sự phát triển của các hệ thống ký hiệu
trong văn hóa đều liên quan đến sự phát triển ngôn ngữ. Kí hiệu ngôn ngữ chứa
trong nó hình ảnh các kí hiệu khác. Là công cụ giao tiếp xã hội, ngôn ngữ phải
truyền đạt được tất cả các ý nghĩa của các kí hiệu khác cho tất cả các thành viên
trong cộng đồng ngôn ngữ... Chỉ có chất liệu ngôn ngữ mới cho phép người nghệ sĩ
tạo nên những hình tượng bất kì trong những bối cảnh sâu rộng, phong phú, tế nhị
và hấp dẫn lòng người” [19, tr.111-112]. Còn Nguyễn Đức Tồn khi bàn về vấn đề
này thì cho rằng: “Ngôn ngữ còn là phương tiện tất yếu và là điều kiện cho sự nảy
sinh, phát triển và hoạt động của những thành tố khác trong văn hóa. Ngôn ngữ là
một trong những thành tố đặc trưng nhất của bất cứ nền văn hóa dân tộc nào.
Chính trong ngôn ngữ, đặc điểm của một nền văn hóa dân tộc được lưu giữ lại rõ
ràng nhất” [46, tr.47].
Ngôn ngữ là một trong những phương tiện trao đổi văn hóa mạnh mẽ giữa các
dân tộc, chẳng hạn qua giao tiếp, qua những phương tiện thông tin đại chúng, qua
sách báo dịch thuật... hay trong cộng đồng một dân tộc, ngôn ngữ là phương tiện
tích lũy và truyền đạt những tri thức, thông tin từ thế hệ trước đến thế hệ sau.
Những tri thức, thông tin đó có thể là lịch sử, truyền thống, kinh nghiệm sản xuất, là
tâm lí, phong tục, tập quán, tín ngưỡng... Vì thế có nhà nghiên cứu đã khẳng định:
Ngôn ngữ thực sự là tấm gương của nền văn hóa dân tộc.
Như vậy mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa không chỉ là mối quan hệ bao
hàm mà còn là mối quan hệ tương tác, bổ trợ và chi phối lẫn nhau. Ngôn ngữ là một
bộ phận độc lập của văn hóa đồng thời cũng là một thành tố quyết định sự tồn tại
của một nền văn hóa. Mỗi dân tộc bằng lao động sáng tạo, bằng các hoạt động thực
tiễn đã sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, tạo nên nền văn hóa của riêng họ.
Để các giá trị văn hóa đó được con người trong thời đại đó lĩnh hội cũng như con
người qua các thế hệ khác nhau, giữa các dân tộc khác nhau tiếp thu, sàng lọc và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phát triển lên thì phải nhờ đến công cụ vô cùng quan trọng đó là ngôn ngữ. Nhờ có
70
ngôn ngữ với những nội dung và ngữ nghĩa của nó mà cách nhận thức, tư duy, lối
sống... của một dân tộc hay nói cách khác là những đặc trưng văn hóa của một dân
tộc được bảo tồn, được phát triển theo thời gian, không gian.
Trước đây ngôn ngữ - văn hóa đã được nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau
trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn nói chung và trong ngôn ngữ học nói
riêng, đến nay mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa ngày càng được nghiên cứu sâu
rộng. Thuật ngữ ngôn ngữ - văn hóa, thuật ngữ này nên được hiểu ở cả bình diện hẹp
và rộng: “Theo cách hiểu nghĩa ở bình diện hẹp thì ngôn ngữ - văn hóa là ngôn ngữ
phản ánh những biểu hiện của văn hóa trong ứng xử giao tiếp. Theo cách hiểu ở bình
diện rộng hơn thì đó là sự phản ánh những yếu tố, những biểu hiện, những đặc điểm
của văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trong ngôn ngữ, qua ngôn ngữ” [31, tr.137].
Địa danh cũng là một lĩnh vực ngày càng được các nhà nghiên cứu quan tâm
trong ngôn ngữ học. Mỗi địa danh gắn chặt với những đối tượng cụ thể, ở một thời
điểm nhất định nào đó nên địa danh gắn liền với quá trình lao động sản xuất, lịch sử, xã
hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tư duy, cách nghĩ của mỗi dân tộc. “Địa danh như những đài
kỉ niệm bằng ngôn ngữ một cách độc đáo, nó lưu giữ những thông tin về văn hóa” (Hà
Quang Năng). Hay Phạm Đức Dương đã nhận xét: “Lần theo các địa danh, mặc dù vỏ
ngữ âm đã bị biến dạng đi rất nhiều, ngữ nghĩa đã bị mất hoặc được giải thích theo từ
nguyên dân gian, chúng ta vẫn có thể dựng lại địa bàn cư trú và những điểm tụ cư lâu
đời của các tộc người” [19]. Qua địa danh chúng ta có thể thấy phần nào nền văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc. Cho nên nghiên cứu những đặc trưng
ngôn ngữ - văn hóa của địa danh cần quan tâm đến sự thể hiện các phương diện văn
hóa vật chất vật chất và tinh thần trong địa danh.
Nghiên cứu địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên từ
góc độ ngôn ngữ - văn hóa là xem xét những giá trị của nền văn hóa Điện Biên nói
riêng và ảnh hưởng của những nền văn hóa khác nói chung đến địa danh. Từ đó
thấy được những giá trị văn hóa đặc sắc của nhân dân các dân tộc trong thành phố
Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được thể hiện như thế nào qua các địa danh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phong phú nơi đây.
71
3.1.3. Vài nét về văn hóa thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
đƣợc thể hiện qua các địa danh
Điện Biên Phủ, vùng đất nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, cái tên mới nghe
qua đã gợi nhắc đến một vùng đất giàu ý nghĩa lịch sử. Vùng đất mà các đồng bào
dân tộc thiểu số nơi đây đã đoàn kết cùng với nhân dân cả nước làm nên chiến thắng
Điện Biên Phủ lịch sử lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Vùng đất ấy cũng rất
giàu bản sắc văn hóa.
Về văn hóa vật thể ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên trước hết
phải nói đến văn hóa của người Lự với thành Tam Vạn (tên cổ là Viêng Sam Mứn),
chùa Vạt Bu Hôm, (dưới triều đại phong kiến đây là dân tộc đầu tiên thống trị lâu
dài và đã góp phần xây dựng vùng đất Mường Thanh giàu có), văn hóa của người
Kinh với thành Bản Phủ (tên cổ là Chiềng Lề) dưới thời Hoàng Công Chất. Đây là
những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của vùng đất Mường Thanh xưa. Còn
văn hóa người Thái và một số dân tộc khác chủ yếu còn lại qua các di tích như chùa
Pá Sa, hang Huổi He, trống đồng cổ ở bản Nà Hý... và các di tích văn hóa ở khu
khảo cổ học Hồ U Va. Rồi các địa danh như cầu Mường Thanh, sân bay Điện Biên
Phủ, hầm Đờ Cát là những chứng tích lịch sử mà thực dân Pháp còn để lại sau thất
bại nhục nhã tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954; hay quốc lộ 12 là con
đường thể hiện tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam - Trung Quốc và còn rất
nhiều những địa danh khác nằm rải rác ở các di tích, các công trình, tượng đài,
những cây cầu, ngôi đền, con đường v.v.
Về văn hóa phi vật thể ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên trước
hết phải nói đến văn hóa tín ngưỡng qua các công trình đền, chùa. Sự tồn tại của
đền Hoàng Công Chất và các di tích của chùa Vạt Bu Hôm, chùa Pá Sa ở địa bàn
huyện Điện Biên đã phần nào thể hiện đời sống tôn giáo (chủ yếu theo đạo Phật)
của người dân nơi đây. Gắn liền với các công trình phục vụ cho văn hóa tín ngưỡng
đó là các lễ hội như lễ hội Thành Bản Phủ v.v. Các lễ hội được tổ chức với nhiều
hoạt động văn hóa nghệ thuật dân gian và hiện đại, mang đậm bản sắc văn hóa của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
các dân tộc trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
72
Văn hóa phi vật thể còn thể hiện ở văn hóa tinh thần. Đó là tinh thần đoàn kết
của các dân tộc cùng chung sức xây dựng và bảo vệ mảnh đất Mường Thanh - Điện
Biên. Tinh thần đó được thể hiện qua việc cầu cứu vị tướng tài Hoàng Công Chất từ
miền xuôi lên Điện Biên đánh đuổi giặc Phẻ, bảo vệ biên cương và sau đó cùng
chung sức với vị tướng tài người Kinh này xây dựng thành Bản Phủ thành trung tâm
kinh tế, chính trị, văn hóa của vùng, đảm bảo cuộc sống yên bình, giàu có. Tinh
thần đó ngày càng lớn mạnh. Khi có ánh sáng cách mạng của Đảng soi đường, nhân
dân các dân tộc trong tỉnh nói chung, nhân dân thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên nói riêng lại cùng đồng sức đồng lòng đánh đuổi đế quốc Pháp, một trong
những đế quốc thực dân mạnh nhất thời bấy giờ ra khỏi mảnh đất thiêng, mảnh đất
của xứ Trời (Mường Thanh - Mường Trời), bảo vệ vùng biên giới xa xôi nơi miền
Tây Bắc của Tổ quốc.
Cuộc chiến đấu anh dũng, bền bỉ, kiên cường của các dân tộc đã để lại trên
mảnh đất này bao chiến công hiển hách, bao di tích lịch sử oai hùng. Đó là những di
tích ghi lại những thời khắc, những địa điểm quan trọng của lịch sử như di tích Sở
chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ ở xã Mường Phăng (huyện Điện Biên); di tích
hang Huổi He ở xã Nà Tấu (huyện Điện Biên), địa điểm được chọn làm nơi chuyển
Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ từ hang Thẩm Púa (huyện Tuần Giáo) về và là
nơi đã từng được chứng kiến thời khắc quan trọng về quyết định thay đổi phương
châm “đánh nhanh thắng nhanh” thành phương châm “đánh chắc tiến chắc” của Bộ
chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ; di tích đồi A1 ở thành phố Điện Biên Phủ, điểm
quyết chiến chiến lược giữa quân ta và địch, là ngọn đồi anh hùng, ngọn đồi chiến
thắng của ta đồng thời cũng là nơi đánh dấu ngày tận số của quân viễn chinh Pháp
tại chiến trường Điện Biên Phủ; di tích đường kéo pháo và trận địa pháo của quân
ta ở Điện Biên Phủ (huyện Điện Biên) v.v.
Những chiến công hiển hách, lẫy lừng bao nhiêu thì đau thương, mất mát của
nhân dân lại lớn lao bấy nhiêu. Mảnh đất Điện Biên đã lưu giữ tên tuổi của rất nhiều
danh nhân, đó là những vị tướng tài giỏi, những chiến sĩ kiên cường như Hoàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Công Chất, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Lò Văn
73
Hặc; những anh hùng liệt sĩ như Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Trần Can, Tô Vĩnh
Diện hay tên tuổi của những kẻ xâm lược đã để lại dấu tích thất trận trên mảnh đất
quật cường này như Đờ Cát, Pi Rốt và sau này là những người đã có công dựng
bản, lập mường như bản Phượn (tên tạo Phượn), bản Nà Láo (ruộng người Lào).
3.2. Ý NGHĨA CỦA ĐỊA DANH VÀ HIỆN THỰC ĐƢỢC PHẢN ÁNH
Cuộc sống của con người gắn liền với rất nhiều mối quan hệ, mối quan hệ với
môi trường tự nhiên, mối quan hệ với môi trường xã hội, mối quan hệ giữa con
người với con người. Ngôn ngữ là một trong những phương tiện quan trọng nhất để
nối kết con người với các môi trường đó. Và với ngôn ngữ, con người đã biết sử
dụng một cách hữu hiệu vào việc gọi tên, đánh dấu những sự vật, hiện tượng xung
quanh có liên quan đến cuộc sống của mình.
Những sự vật, hiện tượng trong thế giới khi đã được con người nhận thức và
định danh đều bắt nguồn từ một đặc điểm, thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng.
Thuộc tính đó có thể là thuộc tính đặc trưng, xuất phát từ bản chất của sự vật, có thể
chỉ là thuộc tính không đặc trưng nhưng có liên quan đến sự vật và có giá trị khu
biệt sự vật. Con người đã lựa chọn những thuộc tính đó một cách chủ quan hoặc
khách quan để gọi tên sự vật, hiện tượng. Qua tên gọi con người có thể nhận diện
được sự vật, hiện tượng một cách độc lập, riêng biệt trong mối quan hệ của sự vật
với những cái xung quanh hoặc những cái có nét tương đồng. Nguyễn Đức Tồn đã
khẳng định: “Tên gọi vốn là thứ nhãn để thay thế, phân biệt sự vật với nhau nên
không thể không dựa vào chất, vào các thuộc tính của sự vật” [46, tr.181]. Điều đó
tạo cho địa danh chức năng nhận diện, cá thể hóa đối tượng.
Mặt khác những thuộc tính, bản chất, đặc trưng cơ bản hay không cơ bản được
con người nhận thức và gửi gắm vào tên gọi địa danh, nó nằm trong hiện thực khách
quan và thuộc vào hiện thực khách quan. Hiện thực đó có thể là lịch sử, văn hóa, địa
lí, dân cư, ngôn ngữ, kinh tế, chính trị... của mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, mỗi quốc
gia khác nhau. Cho nên những địa danh đó phần nào phản ánh cách nhìn nhận, đánh
giá chủ quan hay khách quan của con người đối với hiện thực sinh động, phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phú. Vì thế bên cạnh chức năng cá thể hóa đối tượng, địa danh còn có chức năng
74
phản ánh hiện thực khách quan. Đây là chức năng khá cơ bản, góp phần tạo nên tính
có lí do của địa danh và lớp ý nghĩa sinh động ẩn dưới bề mặt con chữ. Nguyễn
Kiên Trường trong luận án của mình đã khẳng định: “Tập hợp những ý nghĩa có
trong hệ thống địa danh ở một quốc gia, một khu vực, địa bàn... có thể cho những
thông tin khái quát về nhiều lĩnh vực liên quan đến ngôn ngữ và lịch sử quốc gia,
khu vực, địa bàn đó” [48, tr.90].
Một phức thể địa danh gồm hai bộ phận là thành tố chung và tên riêng thì cả
hai bộ phận này đều có giá trị phản ánh hiện thực khách quan. Thành tố chung trong
phức thể địa danh phần lớn chỉ loại hình đối tượng địa lí như đồi, núi, sông, suối,
xã, thôn, bản, cầu, đường, cửa khẩu... và nhìn chung ý nghĩa của thành tố chung chủ
yếu phản ánh bức tranh địa hình ở mức độ khái quát. Còn tên riêng, thực chất là địa
danh, được cấu tạo từ rất nhiều phương thức định danh khác nhau nên lớp ý nghĩa
mà địa danh phản ánh cũng phong phú, đa dạng. Ở đây chúng tôi chủ yếu quan tâm
đến chức năng ngữ nghĩa của tên riêng hay chính là ý nghĩa của địa danh và mối
quan hệ của ý nghĩa này với hiện thực được phản ánh.
Địa danh có chức năng phản ánh hiện thực phong phú, đa dạng, muôn màu vẻ
như vậy nhưng không phải bất cứ trường hợp nào mọi sự vật, hiện tượng được phản
ánh cũng đồng nhất với đối tượng được địa danh. Có những địa danh phản ánh đúng
bản chất của sự vật, hiện tượng nhưng cũng có những địa danh không thấy được
điều này qua bề mặt con chữ. Điều đó xuất phát từ chính cách nhìn nhận, đánh giá
một cách chủ quan hay khách quan của người định danh. Với cách nhìn khách quan
thì người định danh sẽ dễ dàng giúp cho ta nhận thấy đặc trưng hay thuộc tính cơ
bản của sự vật qua địa danh. Chẳng hạn, ở Điện Biên Phủ, địa danh Him Lam có
nguồn gốc tiếng Thái là Hin Đăm (hin nghĩa là đá, đăm nghĩa là đen), Hin Đăm
nghĩa là “đá đen”. Tên gọi này được người dân lấy để đặt tên cho bản nơi họ sinh
sống bởi họ thấy vùng đất này có rất nhiều loại đá đen. Tương tự Noong Bua là “ao
sen”, Nà Tấu là “ruộng rùa”, bản Ban là “bản cây ban”, Pá Khoang là “rừng trúc”,
Pú Co Nghịu là “núi cây gạo” đều phản ánh đúng những loại thực vật, động vật sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sống nơi đây. Cũng có những địa danh phản ánh hiện thực lúc địa danh ra đời, qua
75
thời gian những đặc điểm đó do tác động của nhiều yếu tố mà ít nhiều bị biến đổi
nên không còn phản ánh đúng thực tại nhưng người ta vẫn giữ nguyên tên gọi cũ. Ý
nghĩa này có thể thấy ở bề mặt con chữ nhưng chúng ta vẫn cần phải đối chiếu với
kết quả của điều tra điền dã để kiểm nghiệm. Với lí do chủ quan, đây là lí do không
nằm trong bản thân đối tượng mà do ý muốn chủ quan của người định danh nên
không phản ánh đúng bản chất của sự vật, hiện tượng được định danh. Để biết được
lí do này phải điều tra điền dã, phải tìm hiểu ở lịch sử, ở người định danh hoặc phải
tìm trong những cuốn từ điển giải thích ngôn ngữ và sau đó trên cơ sở kiến thức đã
có cần có những liên tưởng, suy luận. Chẳng hạn, khi chọn những tên gọi rất giàu ý
nghĩa tốt đẹp để đặt cho vùng đất hay khu vực dân cư mà mình sinh sống như Điện
Biên với nghĩa “biên giới vững vàng”, Thanh Bình với nghĩa “trong sáng, bình yên”
hay Mỹ Hưng với nghĩa “tươi đẹp, giàu có” là người định danh không chỉ thể hiện
quyết tâm bảo vệ mảnh đất mới luôn được vững vàng, bình yên trước sự dòm ngó
của những kẻ xâm lược và các thế lực thù địch mà còn gửi gắm cả ước vọng xây
dựng cuộc sống luôn phát triển, tươi đẹp, giàu có. Chính đặc điểm này tạo nên một
phương thức mới trong việc định danh và góp phần thể hiện đời sống tâm lí của
con người. Và như vậy giữa ước mơ của người định danh và hiện thực trong tên gọi
vẫn còn một khoảng cách. Khoảng cách đó xuất phát từ lí do chủ quan của người
định danh và làm cho giữa ý nghĩa địa danh và hiện thực được phản ánh chưa trùng
khít hoàn toàn.
Mỗi địa danh ra đời gắn với lịch sử, xã hội, địa lí, dân cư, ngôn ngữ... của một
dân tộc, một vùng đất nhất định. Cho nên địa danh gắn bó chặt chẽ với đời sống con
người về nhiều mặt và nó biểu hiện những nét riêng, những nét bản chất, không
trùng lặp về lịch sử, văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi vùng đất. Chẳng hạn về ngôn
ngữ, có những địa danh được cấu tạo bởi những yếu tố Hán Việt như (thủ đô) Hà
Nội, (sông) Hồng, (sông) Lam, (núi) Tam Đảo, (đỉnh) Hoàng Liên Sơn, hay từ thuần
Việt toàn dân như (huyện) Chợ Mới...; có những địa danh được cấu tạo bằng những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
yếu tố thuần Việt mang đậm màu sắc địa phương như ở Nghệ An và một vài tỉnh ở
76
khu vực miền Trung có rú (động, đôộng) (núi), lèn (núi đá vôi), ngàn (rừng), hác
(khe, vực), rào (sông nhỏ); có những địa danh được cấu tạo bởi những yếu tố thuộc
ngôn ngữ dân tộc thiểu số như những địa danh có nguồn gốc là tiếng Cơ tu ở Quảng
Nam: Koong Chăng (núi đá vôi), (sông) Ra Lang (rộng, lớn, dài), (suối) Atiêng
(linh thiêng), những địa danh có nguồn gốc tiếng Thái ở Điện Biên: (cánh đồng)
Mường Thanh (mường trời), (suối) Him Lam (đá đen), Pú Vắng (đồi vực), (bản)
Tông Khao (cánh đồng trắng)... Về lịch sử, địa danh đặt ra những vấn đề như địa
danh này có từ bao giờ, vì sao được đặt tên như vậy... Chẳng hạn, địa danh Hà Nội
ra đời năm 1831 dưới triều Nguyễn, Hà Nội (sông ở phía trong) nằm ở một vị trí
quan trọng tại một ngã ba sông và trung tâm của một vùng đồng bằng châu thổ phì
nhiêu nên được đặt tên như vậy. Hay địa danh Nghệ An, ra đời năm 1036, do vua Lý
Thái Tổ đổi Hoan Châu thành châu Nghệ An. Hoặc địa danh Bắc Kạn, ra đời năm
1900, là vùng chiến lược phòng thủ quân sự từ hướng Bắc của triều đình phong kiến
Việt Nam nên địa danh Bắc Kạn ra đời cũng mang nét nghĩa ấy.
Nghiên cứu những địa danh cụ thể ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện
Biên, chúng tôi thấy những địa danh nơi đây cũng giống như địa danh ở những
vùng miền khác trong cả nước, rất giàu ý nghĩa và giá trị phản ánh hiện thực. Lớp ý
nghĩa đó có thể giúp cho chúng ta thấy được bức tranh cảnh quan tổng hợp về hai
địa bàn như bức tranh địa hình tự nhiên với sông, suối, ao, hồ chằng chịt, nằm xen
kẽ với những dãy núi trùng điệp, những dải đồi thấp và những cánh đồng hẹp kéo
dài, những đặc điểm này tạo cho vùng có hệ động thực vật phong phú. Bức tranh
thiên nhiên đó hiện lên với đầy đủ âm thanh, màu sắc, đường nét, hình dáng, kích
thước, tính chất, hoạt động của các sự vật, hiện tượng cùng với sự sinh động của các
loại động, thực vật đặc trưng trong vùng. Bên cạnh đó còn có bức tranh đời sống
muôn màu muôn vẻ của con người. Đó là những biến cố lịch sử lớn lao; những hoạt
động lễ hội, tín ngưỡng giàu bản sắc văn hóa của nhân dân các dân tộc trong vùng;
đó còn là đời sống tâm lý với những mong muốn, ước nguyện hết sức tốt đẹp, chân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thành và đời sống tình cảm nhiều cung bậc, trạng thái.
77
Trong 1001 địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, chúng
tôi nhận thấy rằng các địa danh phản ánh hiện thực đậm nét có ở cả ba loại hình
địa danh (thiên nhiên, đơn vị dân cư, công trình nhân tạo) và chiếm phần lớn trong
tổng loại địa danh. Các địa danh đó có thể có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu
số, nguồn gốc Hán - Việt, thuần Việt hoặc được kết hợp bởi các ngôn ngữ nói trên.
Các địa danh này phản ánh những đặc trưng, những thuộc tính cơ bản thuộc về
bản chất của đối tượng như hình dáng, kích thước của đối tượng, những chất liệu,
khoáng sản có ở đối tượng, những màu sắc, âm thanh, mùi vị thể hiện ở đối
tượng... hay những thuộc tính có liên quan đến đối tượng như đặc điểm về vị trí,
phương hướng, về những loại động, thực vật tồn tại gắn liền với đối tượng, những
biến cố lịch sử, danh nhân có liên quan trực tiếp đến đối tượng và cả những hoạt
động thể hiện tín ngưỡng dân gian của con người. Chẳng hạn những địa danh như
Pom Mỏ Thái (đồi hình cái chảo nơi người Thái sinh sống), Nà Tông (ruộng bằng
phẳng), (suối) Hin Phon (đá vôi), Na Khếnh (ruộng kêu), (kênh) Tả (bên phải),
(cầu) Trắng, Đồi phát hiện trống đồng bản Na Hý, Đường kéo pháo của quân ta ở
Điện Biên Phủ, Bế Văn Đàn.
Các địa danh phản ánh hiện thực ít hơn chủ yếu là các địa danh chỉ đơn vị dân
cư. Các địa danh này chiếm số lượng nhỏ và chủ yếu có nguồn gốc Hán - Việt. Tuy
các địa danh không đem đến cho người tiếp nhận cái nhìn khách quan của chủ thể
về đối tượng được định danh nhưng lại giúp cho họ biết được, cảm nhận được chiều
sâu của tư tưởng, khát vọng về những điều tốt đẹp ở hiện tại và tương lai, về những
gì họ sẽ cố gắng và phấn đấu để biến ước mơ thành hiện thực cuộc sống, có như vậy
đời sống của con người mới ngày càng tốt đẹp hơn. Và chính các tên gọi sẽ góp
phần nâng cao đời sống nhân văn của con người. Chẳng hạn các địa danh thôn, bản
như Gia Phú (đẹp giàu), Hưng Yên (hưng thịnh, yên ấm) không đồng nhất với việc
thôn, bản này chỉ có cuộc sống đẹp giàu, yên ấm mà không còn cái nghèo, không có
sự đấu tranh, xung đột. Nhưng qua đó thấy được mong ước tốt đẹp của những người
đến gây dựng cuộc sống nơi đây và chắc hẳn mỗi người dân sẽ nâng cao ý thức,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trách nhiệm trong công cuộc xây dựng nếp sống mới đó để không hổ danh với
78
những gì họ mong muốn, ước vọng. Ngoài ra còn các địa danh được cấu tạo bởi các
chữ cái Latinh hay các chữ số Arập như tổ dân phố 1, tổ dân phố 2, đội C9 a, đội C9 b ...
Những địa danh này ngoài việc cho chúng ta biết thứ tự của địa danh còn có thể cho
chúng ta biết thêm những thông tin khác về vị trí hay nguồn gốc được tách ra từ
cùng một đơn vị gốc trước đó.
Như vậy giữa ý nghĩa địa danh và hiện thực được phản ánh nhìn chung có mối
quan hệ gắn bó, chặt chẽ. Địa danh phản ánh khá chân thực hiện thực khách quan và
vẽ lên được bức tranh cuộc sống con người một cách chân thực, sinh động, nhiều
màu vẻ. Bên cạnh đó cũng có một số lượng không nhiều những địa danh mà giữa ý
nghĩa và hiện thực còn có khoảng cách nhất định, chính khoảng cách đó giúp chúng
ta có một cách nhìn, một cách hiểu khác về địa danh qua tâm lý, ước vọng của con
người hay cung cấp cho ta thêm hiểu biết về vị trí, nguồn gốc của địa danh. Những
thông tin này góp phần làm cho bức tranh đời sống không chỉ có hiện thực bề mặt
mà có cả chiều sâu tư tưởng, tình cảm sâu sắc, phong phú của con người.
3.3. NGHĨA CỦA CÁC YẾU TỐ TRONG ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN
BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN ĐƢỢC THỂ HIỆN QUA NGUỒN GỐC
NGÔN NGỮ
Các địa danh chúng tôi đã thống kê trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên có nguồn gốc từ nhiều ngôn ngữ. Phần lớn địa danh có nguồn gốc tiếng
Thái (534 địa danh, chiếm 53,35%), ngôn ngữ của dân tộc sinh sống đông nhất và
lâu đời nhất trong hai địa bàn cũng như trong toàn tỉnh, sau đó đến các địa danh có
nguồn gốc tiếng Việt (129 địa danh, chiếm 12,89%) còn lại là các địa danh có
nguồn gốc tiếng Lào, Mông, Khơ Mú (93 địa danh, chiếm 9,29%) và các địa danh
được kết hợp bởi các ngôn ngữ đó (57 địa danh, chiếm 5,69%). Có những địa danh
mới xuất hiện cũng có những địa danh tồn tại trong dân gian từ lâu đời, qua thời
gian các địa danh và ngôn ngữ đặt tên cho địa danh cũng có ít nhiều biến đổi. Như
vậy các địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ phong phú, có thời điểm xuất hiện khác
nhau cũng như chịu tác động của nhiều nhân tố khác. Chính vì thế mà có nhiều địa
danh cho đến nay ý nghĩa vẫn còn nguyên vẹn nhưng bên cạnh đó cũng có những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
địa danh không tìm được nguồn gốc ý nghĩa hoặc ý nghĩa không rõ ràng.
79
3.3.1. Các yếu tố rõ ràng về nghĩa
Trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, đa số các yếu tố
Hán Việt và thuần Việt và các yếu tố dân tộc thiểu số xuất hiện gần đây đều rõ ràng
về nghĩa. Các yếu tố dân tộc thiểu số mặc dù đã được phiên âm ra tiếng Việt hoặc bị
Việt hóa nhưng qua tìm hiểu ở lịch sử, tìm hiểu ở những người lớn tuổi và những
người ít nhiều có trình độ văn hóa của dân tộc đó vẫn có thể biết được các nghĩa của
các địa danh.
Trong những địa danh Hán Việt có cả những yếu tố biểu hiện tính chất hàm ý
sâu sa và cả những yếu tố biểu hiện hiện thực mang tính chất trang trọng. Ý nghĩa
của địa danh vì thế mà có cả ý nghĩa phản ánh hiện thực có cả ý nghĩa phản ánh tâm
lí của con người. Ý nghĩa hiện thực gắn với những địa danh phản ánh sự kiện lịch
sử, những địa danh mang tên danh nhân hay những địa danh phản ánh chức năng,
tính chất, vị trí, phương hướng của đối tượng được định danh. Chẳng hạn, tượng đài
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đường Trường Chinh, hầm Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, kênh Chính, bản Tân Lập (mới thành lập), cửa khẩu Tây Trang (nơi
to lớn ở phía Tây), bản Trung Tâm (ở giữa), phân khu Bắc (phía Bắc). Còn ý nghĩa
phản ánh tâm lí con người gắn với những địa danh thể hiện nguyện vọng, ước mơ,
khao khát về vùng đất bình yên, vững mạnh, về cuộc sống tươi đẹp, giàu có, hạnh
phúc. Chẳng hạn, huyện Điện Biên (biên giới vững vàng), đồi Độc Lập (giành được
chủ quyền), bản Gia Phú (đẹp giàu), thôn Thanh Bình (trong sáng, bình yên).
Các yếu tố trong những địa danh thuần Việt thường dễ hiểu và mang tính chất
dân dã cho nên lớp ý nghĩa gắn với những địa danh này thường giàu tính gợi tả,
biểu hiện tính chất cụ thể, sinh động, chân thực, gần gũi. Chẳng hạn, các địa danh:
thác Trắng, đồi Thông, đồi Cháy, bản Đỉnh Đèo, bản Mới. Các địa danh thuần Việt
này gợi ra những đặc điểm về hoạt động, tính chất, màu sắc, vị trí và cả tên của các
loại cây cối có ở các địa danh hay liên quan đến đối tượng được địa danh.
Ngoài ra còn có những địa danh được kết hợp bởi cả yếu tố Hán Việt và thuần
Việt, nó biểu hiện cả tính chất hàm ý và tính chất cụ thể sinh động trong lớp ý nghĩa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của địa danh. Chẳng hạn, bảo tàng Tỉnh Điện Biên, cứ điểm Đồi Độc Lập, trung tâm
80
đề kháng Đồi D, di tích Đường kéo pháo của quân ta ở Điện Biên Phủ. Đó chủ yếu là
những ý nghĩa về sự kiện lịch sử diễn ra trên mảnh đất Điện Biên. Bên cạnh đó còn
có yếu tố chỉ đơn vị hành chính với ý nghĩa chỉ quy mô và vị trí trung tâm của địa
danh, đơn vị chỉ địa hình tự nhiên với ý nghĩa chỉ nơi diễn ra các sự kiện lịch sử đó.
Nhìn chung các yếu tố cấu tạo địa danh Hán Việt, thuần Việt phần lớn là
những yếu tố xuất hiện từ sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 và chính
quyền hành chính bắt đầu được xây dựng, củng cố nên có nhiều thuận lợi để tìm
hiểu và thấy được tính rõ ràng của ý nghĩa địa danh.
Các địa danh có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số phần lớn phản ánh hiện thực
khách quan khá đậm nét nên ý nghĩa của các yếu tố khá rõ ràng, cụ thể. Tiếng dân
tộc thiểu số được dùng để đặt tên địa danh có cả địa danh tiếng Thái, địa danh tiếng
Mông, địa danh tiếng Khơ Mú và địa danh tiếng Lào. Những địa danh đó biểu hiện
lớp ý nghĩa phong phú về kích thước, hình dáng, tính chất, hoạt động của đối tượng;
ý nghĩa về vị trí, phương hướng, về các loại chất liệu, khoáng sản, các loại động
thực vật... liên quan đến đối tượng và cũng như địa danh có nguồn gốc tiếng Việt,
có cả những ý nghĩa về tên danh nhân là người dân tộc thiểu số, ý nghĩa về những
tín ngưỡng, phong tục của đồng bào dân tộc được thể hiện trong địa danh. Chẳng
hạn, những địa danh có nguồn gốc tiếng Thái: bản Na Côm (ruộng tròn), suối Lụ
(nhỏ), mường Lói (xa xăm), cầu treo Nậm Thanh (suối xanh), bản Kéo (đèo), suối
Lếch (sắt), động Pa Thơm (cửa hang động), bản Ta Pô (bến cây đa), xã Noong Hẹt
(ao tê giác), hồ Pá Khoang (rừng trúc), đường Lò Văn Hặc (tên người); những địa
danh có nguồn gốc tiếng Lào: suối Peng Thoáng (chia đôi), bản Nà Láo (ruộng
người Lào); những địa danh có nguồn gốc tiếng Mông: đường Sùng Phái Sinh (tên
người), suối Ca Hâu (con quạ), xã Na Ư (ruộng kêu); những địa danh có nguồn gốc
tiếng Khơ Mú: bản Pa Xa Xá (tên một dụng cụ đi bắt cá của người Xá), suối Ăm Bọt
(rừng cây mạy chá).
Bên cạnh những địa danh hoàn toàn có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số như
đã kể trên thì còn có những địa danh có nguồn gốc hỗn hợp của yếu tố dân tộc thiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
số với các yếu tố Hán Việt, thuần Việt. Những địa danh loại này phần lớn được kết
81
hợp từ nhiều địa danh khác nhau nên có số lượng yếu tố lớn và ý nghĩa tương đối rõ
ràng. Với những yếu tố do các địa danh chuyển hóa thành một bộ phận của tên riêng
thì không nhất thiết chúng ta phải giải nghĩa những tên riêng đó để đảm bảo tính
lịch sử hay tính chất trang trọng của nó. Chẳng hạn địa danh: bản Tân Ngam (kết
hợp hai yếu tố cuối trong tên hai xã: Minh Tân ở Thái Bình và Núa Ngam ở Điện
Biên); các địa danh cấu tạo bởi các yếu tố thuần Việt và tiếng Thái: hang Chùa Pá
Sa (chùa rừng cây sa), khu khảo cổ học Hồ U Va (hồ Tao Bảo), nhà máy thủy điện
Thác Bay (thác cây trám đen), hay các địa danh được cấu tạo bởi cả ba yếu tố thuần
Việt, Hán Việt và tiếng Thái: khu du lịch Hồ Pá Khoang và Sở chỉ huy chiến dịch
Điện Biên Phủ, di tích Trại tập trung Noong Nhai.
Như vậy các yếu tố rõ ràng về nghĩa trong một số địa danh thành phố Điện
Biên Phủ và huyện Điện Biên không chỉ có ở cả các địa danh có nguồn gốc Hán
Việt, thuần Việt hay những địa danh có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số (Thái,
Mông, Khơ Mú, Lào) mà có ở cả những địa danh có nguồn gốc hỗn hợp của các
ngôn ngữ này.
3.3.2. Các yếu tố chƣa rõ về nghĩa
Các yếu tố chưa rõ về nghĩa trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên chỉ thấy ở các yếu tố dân tộc thiểu số. Nhiều địa danh đã bị biến đổi ít
nhiều theo thời gian, theo sự thay đổi địa giới hành chính của địa bàn hay bị Việt
hóa bởi sự giao thoa ngôn ngữ, các yếu tố có thể bị Việt hóa cả về mặt ngữ âm và
ngữ nghĩa. Việc xác định địa danh đó thuộc ngôn ngữ dân tộc nào đã gặp nhiều trở
ngại, việc truy tìm ý nghĩa của chúng còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, trong hai địa bàn này các địa danh bị mờ
nghĩa phần lớn là các địa danh thuộc địa hình tự nhiên như dãy núi, núi, suối và một
số địa danh này khi chuyển hóa trong nội bộ loại địa danh hay chuyển hóa sang các
địa danh hành chính cũng làm cho các địa danh này không rõ nghĩa. Chẳng hạn,
suối Ái, bản Xá Nhù, núi Pha Thống, suối Pha Thống, suối Dạ Sún, suối Hư Khóa,
suối Sa Lăng, núi Mưa Lao, núi Lao Yao, suối Xi Văn, suối Sáu Sự, suối Tếu, suối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(huổi) Moi, bản Huổi Moi.
82
3.4. TÍNH ĐA DẠNG CỦA CÁC LOẠI HÌNH ĐỐI TƢỢNG ĐỊA LÍ QUA
CÁC YẾU TỐ ĐỊA DANH CỦA THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN
ĐIỆN BIÊN
Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên nằm ở khu vực trung tâm của
tỉnh Điện Biên nên mang những đặc trưng địa hình của toàn tỉnh, đó là những đặc
trưng địa hình của một tỉnh miền núi biên giới phía Tây Bắc của Tổ quốc. Bức tranh
địa hình này đã được khắc họa một cách sinh động, rõ nét qua 1001 địa danh mà
chúng tôi đã thống kê.
3.4.1. Tính đa dạng của các loại hình đối tƣợng địa lí
Trong phức thể địa danh, các loại hình đối tượng địa lí trong tự nhiên được
phản ánh rõ nét qua các thành tố chung và các thành tố chung chỉ loại hình đối
tượng địa lí được chuyển hóa thành một bộ phận của tên riêng trong địa danh. Đó là
các thành tố như đồi, núi, sông, suối, cánh đồng, hang, động, ruộng, bãi, vùng đất,
khe, rãnh, đỉnh, thác...
Trong số 50 loại thành tố chung trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên chúng tôi thống kê được có 12 thành tố chỉ các loại hình đối tượng
địa lí tự nhiên khác nhau trong đó các thành tố đều được dùng theo tiếng Việt toàn
dân. Các loại đối tượng địa lí này có thể gặp ở các vùng miền khác nhau trong cả
nước như ao, hồ, đồi, sông, suối, cánh đồng, dãy núi, núi, đèo, thác, hang, động.
Các thành tố riêng chỉ các loại hình đối tượng địa lí được chuyển hóa thành
một bộ phận trong tên riêng của địa danh chiếm số lượng khá lớn, những yếu tố này
chỉ có một bộ phận nhỏ có nguồn gốc thuần Việt còn phần lớn đều có nguồn gốc
ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Có những đối tượng địa lí tương tự như những đối tượng
đã nêu trong thành tố chung, có những đối tượng địa lí phản ánh những loại địa hình
khác nhau đặc trưng cho địa hình của một tỉnh miền núi phía Bắc Tổ quốc và là nơi
cư trú của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Chẳng hạn, đỉnh, bãi, ná (ruộng), pá
(rừng), pắc (cửa), nậm (sông, nước), hoong (khe, rãnh), noong (ao), pom (đỉnh,
đồi), phiêng (bãi), púng (vũng), ten (khu đất cao và bằng), ta (bến), lọng (lạch, khe),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
pha (vách), cảnh (thác)... Qua những yếu tố này, bức tranh địa hình hiện lên với
83
nhiều đặc điểm về đường nét, hình dáng, kích thước, tầng bậc, vị trí, độ cao. Nhìn
từ trên cao xuống, chúng tôi thấy có “pom”: là phần trên cao của núi, đồi hoặc là
kiểu địa hình lồi, có sườn thoải và tương đối thấp; tiếp đó có “pá”: vùng đất rộng có
nhiều cây cối mọc tự nhiên, nhiều tầng lớp và lâu đời; xuống thấp hơn có “ten”:
vùng đất hẹp nhưng bằng phẳng và thường ở nơi cao như sườn đồi, sườn núi; thấp
hơn nữa có “ná”: mảnh đất dùng để trồng trọt, có thể là mảnh đất hẹp làm ruộng bậc
thang ở sườn đồi, có thể là mảnh đất rộng hơn, tương đối bằng phẳng ở chân đồi,
chân núi; ở bên cạnh hoặc dưới “ná” có “hoong”: đường nước chảy hẹp giữa hai
vách núi hoặc sườn đồi, sườn dốc nhưng không thường xuyên vì có thể khô cạn
theo mùa...
Nhìn chung các loại địa hình trong hai địa bàn thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên khá đa dạng, phong phú. Chính những thành tố chung và những
thành tố chung được chuyển hóa thành một bộ phận của tên riêng giàu tính gợi tả đã
đem đến cho ta những hình ảnh về địa hình tự nhiên một cách chân thực, sinh động,
giàu liên tưởng.
3.4.2. Bức tranh địa hình mang tính cảnh quan rõ nét
Địa hình thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có những đặc điểm nổi
bật đó là: núi thấp dần và đổ dồn xuống các sông và suối lớn hoặc xen kẽ với các
thung lũng sông, khe suối. Lọt vào giữa các dãy núi có rất nhiều dải trũng bằng
phẳng tạo thành những cánh đồng hẹp kéo dài. Riêng thành phố Điện Biên Phủ nằm
trong vùng lòng chảo, có rất nhiều đồi, núi thấp xen kẽ và là vùng có cánh đồng
Mường Thanh màu mỡ, phì nhiêu và rộng nhất vùng Tây Bắc Tổ quốc. Địa hình có
nhiều đồi, núi, thung lũng, ao, hồ, sông, suối đan xen đã tạo cho nơi đây có hệ động,
thực vật phong phú, đa dạng và cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp.
Vùng đất này là địa bàn định cư lâu đời của đồng bào các dân tộc thiểu số. Đời
sống và tập quán canh tác của họ gắn liền với nương rẫy, nguồn nước và môi trường
tự nhiên. Trong tâm thức của họ luôn có hình ảnh của sông, suối, núi, đồi, cánh
đồng, thung lũng, khe, bãi... Có lẽ vì thế mà những cảnh quan và môi trường xung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quanh đã đi vào những tên gọi địa danh thật tự nhiên, nhuần nhị.
84
Các yếu tố phản ánh các đối tượng địa lí có cả yếu tố tiếng Việt và yếu tố tiếng dân
tộc thiểu số trong đó các yếu tố có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số chiếm phần lớn.
Những đối tượng địa hình thuộc sơn danh bao gồm 79 đối tượng trong đó có
51 núi, 15 đồi, 8 đèo, 3 dãy núi, 2 thác.
Những đối tượng địa hình thuộc thủy danh bao gồm 149 đối tượng trong đó có
117 suối; 12 khe; 16 hồ; 4 sông.
Xen vào giữa đối tượng địa hình thuộc sơn danh, thủy danh kể trên là những
vùng đất nhỏ phi dân cư như cánh đồng, hang, động trong đó có 7 cánh đồng, 2
hang và 1 động.
Bên cạnh những loại hình đối tượng địa lí đã được liệt kê ở các thành tố chung
nói trên còn có một bộ phận rất lớn các loại đối tượng địa hình được chuyển hóa
trong tên riêng của các địa danh đơn vị dân cư và nhân văn trong đó địa danh các
đơn vị dân cư có khả năng phản ánh địa hình rõ nét nhất. Các yếu tố chỉ những loại
địa hình này chủ yếu có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số. Các địa danh cũng chỉ
những loại địa hình khác nhau thuộc sơn danh, thủy danh và vùng đất phi dân cư.
Chẳng hạn những đối tượng địa hình thuộc sơn danh như 81 ná (ruộng), 31 pú (núi),
30 pom (đồi, đỉnh), 27 pá (rừng), 12 pa (cửa, miệng), 8 phiêng (bãi); những đối
tượng địa hình thuộc thủy danh như 54 huổi (suối), 33 hoong (khe), 32 nậm (sông,
suối), 18 noong (ao), 9 loọng (khe, rãnh); những đối tượng địa hình thuộc vùng đất
nhỏ phi dân cư như 8 thẩm (hang), 2 tông (cánh đồng), 1 loọng (thung lũng).
Đi vào những loại địa hình cụ thể trong địa danh chúng ta có thể thấy rõ hơn
tính độc đáo, đa dạng của địa hình thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
Chẳng hạn, địa hình núi có núi trời (Pu Phạ), núi cao (Pha Sung), núi nhọn (Pú
Huốt), núi quả bầu (Tẩu Pung), núi sọt đá (Pu Xá Hin), núi đồn (Pú Đồn), núi cây
lau lớn (Pú Lấu Luông), núi rừng trúc (Pá Chả), núi cây me tròn (Phu Khăn Pỏm),
núi cây bông gạo (Pú Co Nghịu), núi chân trâu (Tằng Quái), núi vũng cáo (Pú Nhi),
có những quả núi nằm ở địa hình có suối chảy qua nên mang luôn tên của dòng suối
như núi Huổi Tấu (suối rùa), núi Huổi Púng (suối vũng), núi Huổi Na (suối nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đầy), núi Nậm Ngọp (suối dập dềnh). Địa hình suối cũng có nhiều kiểu: có những
85
hình dáng khác nhau như suối nghiêng (Huổi Lính), suối gánh (Huổi Háp), suối
gọng kìm (Kha Kim); ở những địa hình khác nhau như suối thác (Cảnh), suối vũng
(Púng); có những suối có nhiều khoáng sản, vật liệu như suối sắt (Lếch), suối cát
vàng (Sái Lương), suối đá đen (Him Lam), suối đá lửa (Him Lếch Phay), suối đá
vôi (Hin Phon); có lượng nước và hoạt động dòng chảy khác nhau theo mùa như
suối nhiều nước (Huổi Pe), suối nước lớn (Nậm Luông), suối cạn nước (Sen), suối
chảy xiết (Hát Si), suối tràn (Huổi Chan), suối dập dềnh (Nậm Ngọp); có rất nhiều
loài thực vật sống bên suối hay những loài động vật khác nhau đến đây tìm nguồn
nước, thức ăn nên có các suối như suối cây sấu (Huổi Co Củ), suối cây lau (Lau),
suối bí xanh (Không), suối cây tre (Na Sang), suối cây dẻ (Nậm Có), suối tê giác
(Hẹt), suối con dơi (Kía), suối hươu (Hươm), suối nai (Quang), suối lợn rừng
(Long). Địa hình ruộng lại càng đa dạng: về vị trí, địa hình có ruộng đầu nguồn
(Hua Ná), ruộng ven suối (Nà Luống), ruộng vũng (Na Púng), ruộng bằng phẳng
(Nà Tông); về tính chất có ruộng đẹp (Nà Ngám), ruộng tốt (Ná Men), ruộng khô
(Na Lanh), ruộng lụi (Na Ngum); về kích thước có ruộng bé (Nà Nọi), ruộng dài
(Na Hý); về hình dáng có ruộng tròn (Na Côm); các loại cây cối, con vật sinh sống
hoặc thấy nhiều ở trên ruộng thì vô cùng đa dạng, có ruộng hươu (Na Hươm), ruộng
rùa (Nà Tấu), ruộng dĩn (Nà Hịn), ruộng nhạn (Nà Nhạn), ruộng trúc (Nà Khoang),
ruộng tre (Na Sang), ruộng quýt (Nà Nghè), ruộng cà (Ná Khưa)... Cánh đồng cũng
có cánh đồng ruộng rùa (Nà Tấu), cánh đồng ruộng nhạn (Nà Nhạn), cánh đồng
trắng (Tông Khao).
Như vậy qua những địa danh cụ thể, chân thực, chúng tôi thấy địa hình của
thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên không chỉ phong phú ở số lượng, kiểu
loại mà còn gợi hình, gợi tả và đem đến nhiều nét đặc sắc, độc đáo. Điểm qua một
vài loại địa hình đặc trưng của sơn danh, thủy danh và vùng đất nhỏ phi dân cư
chúng ta có thể thấy được bức tranh cảnh quan nơi đây thật muôn màu muôn vẻ.
Một không gian khoáng đạt, một rừng núi tự nhiên, hoang sơ với nhiều loại động,
thực vật quý hiếm; những dòng suối róc rách đêm ngày ẩn mình trong rừng sâu hay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những dòng sông cuộn mình trong mùa nước; những hồ nước mát vừa có giá trị
86
kinh tế vừa là khu du lịch sinh thái đầy tiềm năng hay những thửa ruộng, cánh đồng
nhiều hình vẻ, tồn tại trên nhiều loại địa hình thích hợp với nhiều loại lương thực,
hoa màu đặc biệt là cây ngô, cây lúa. Những đặc điểm đa dạng đó của địa hình cho
thấy một cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, khoáng đạt với một môi trường trong lành
và khí hậu mát mẻ.
Có thể nói mỗi địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên đều
có khả năng gợi hình, gợi tả. Nghiên cứu những địa danh nơi đây góp phần giúp
chúng ta hình dung được bức tranh địa hình một cách khái quát, rõ nét.
3.5. PHÂN LOẠI Ý NGHĨA CỦA CÁC YẾU TỐ TRONG ĐỊA DANH
Ý nghĩa của các yếu tố trong địa danh như chúng tôi đã trình bày ở trên hết
sức phong phú, đa dạng. Có những ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan đậm nét,
cũng có những ý nghĩa đi vào chiều sâu đời sống nhận thức, tư tưởng, tình cảm của
con người. Chính những phương thức định danh khác nhau đã góp phần tạo nên
những lớp ý nghĩa vừa độc đáo vừa đa dạng, có những lớp ý nghĩa vừa cụ thể vừa
khái quát, vừa mang đặc điểm chung của địa danh ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau
lại vừa có nét riêng của địa danh trong địa bàn. Địa danh có ý nghĩa phong phú như
vậy nên việc phân loại chúng là hết sức cần thiết trong nghiên cứu địa danh.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về địa danh ở những quốc gia khác nhau
hay những vùng miền, khu vực khác nhau trong mỗi quốc gia. Trong những công
trình đó, có nhiều tác giả đã đưa ra cách phân loại ý nghĩa địa danh của riêng mình,
những cách phân loại đó có thể giống nhau hoặc khác nhau tùy vào cách nhìn nhận,
đánh giá hay mục đích nghiên cứu...
Trong cuốn “Địa danh là gì?”, A.V.Superanskaja, một nhà nghiên cứu người
Nga, đã phân chia địa danh thành rất nhiều loại khác nhau như địa danh kí hiệu, địa
danh mô tả, địa danh đăng kí, địa danh ước vọng, địa danh được cấu tạo từ tên, biệt
hiệu và họ của người, địa danh nêu đặc điểm của đối tượng thông qua một đối
tượng khác... trong đó có ba loại lớn là địa danh kí hiệu, địa danh mô tả và địa danh
ước vọng. Tác giả cho rằng địa danh kí hiệu “xác định những đối tượng địa lí nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
định nhưng không thông báo cho chúng ta tí gì về bản thân chúng” [43, tr.24], địa
87
danh mô tả đối lập với địa danh kí hiệu vì địa danh mô tả có khả năng “giúp con
người nhận biết được đối tượng bằng thị giác... qua những thông tin về nghĩa” [43,
tr.24-25] và địa danh mô tả (trong đó có địa danh đăng kí) là nền tảng cho địa danh
ước vọng, là địa danh “dùng để ghi nhận những ý tưởng cao quý mà trên thực tế nó
không gắn liền với đối tượng địa lí” [43, tr.28]. Như vậy theo A.V.Superanskaja thì
trong ba loại địa danh trên, địa danh mô tả và địa danh ước vọng có khả năng thể
hiện ý nghĩa của địa danh một cách rõ ràng nhất còn địa danh kí hiệu không có khả
năng này. Cách phân loại của A.V.Superanskaja mang tính khái quát cao.
Ở Việt Nam, trong những công trình nghiên cứu về địa danh của một địa
phương cụ thể, các tác giả rất quan tâm đến vấn đề phân loại địa danh. Chẳng hạn
tác giả Nguyễn Kiên Trường khi nghiên cứu về địa danh ở Hải Phòng đã phân loại ý
nghĩa địa danh “theo nhóm, theo chủ đề” trên cơ sở lí luận về “từ tương tự, từ đồng
nghĩa” [48, tr.92]. Cụ thể tác giả sắp xếp các địa danh có cùng ý nghĩa thành một
nhóm nhỏ, được 22 nhóm (trong mỗi nhóm có thể có các tiểu nhóm), 22 nhóm nhỏ
này được quy thành hai nhóm lớn là nhóm địa danh 1 và nhóm địa danh 2, tiếp đó
tác giả còn tiến hành đối sánh điểm giống và khác giữa các loại hình địa danh ở mỗi
nhóm. Còn Từ Thu Mai trong luận án “Nghiên cứu địa danh Quảng Trị”, với cái
nhìn bao quát về mặt ý nghĩa của các yếu tố trong địa danh (phương thức định danh,
ý nghĩa của phương thức định danh, số lượng các từ cùng trường nghĩa) tác giả
nghiên cứu và sắp xếp được 42 trường nghĩa khác nhau tập hợp vào hai nhóm lớn
được gọi là nhóm ý nghĩa thứ nhất và nhóm ý nghĩa thứ hai. Tác giả quan niệm:
nhóm ý nghĩa thứ nhất phản ánh đặc điểm, tính chất và mối quan hệ với các đối
tượng còn nhóm ý nghĩa thứ hai phản ánh nguyện vọng, tình cảm của con người.
Trong mỗi nhóm lớn lại có các tiểu nhóm khác nhau [31, tr.115]. Một tác giả khác
là Phan Xuân Đạm, khi nghiên cứu địa danh Nghệ An ông lại phân loại ý nghĩa địa
danh theo các trường từ vựng - ngữ nghĩa và theo ông có sáu nhóm đó là những
trường từ vựng - ngữ nghĩa về núi non - sông nước, về đồng ruộng, về công trình
xây dựng, về đường phố, về các đơn vị dân cư và về đời sống văn hóa, tinh thần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
[20, tr.107]. Trong mỗi nhóm đó tác giả điểm qua vài nét khái quát về nhóm sau đó
88
đi sâu vào một số địa danh cụ thể hoặc nghiên cứu đặc điểm chung về ý nghĩa của
những địa danh thuộc nhóm đó. Như vậy khi nghiên cứu địa danh ở những địa
phương cụ thể, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã đưa ra những cách phân loại ý
nghĩa địa danh khá chân thực, cụ thể, tỉ mỉ.
Căn cứ vào thực tế nghiên cứu một số địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên như phương thức định danh địa danh, những ý nghĩa mà phương
thức định danh mang lại, nguồn gốc ngôn ngữ của các địa danh, mối quan hệ giữa ý
nghĩa địa danh và hiện thực được phản ánh, sự tương đồng về nghĩa của các từ
trong cùng một trường nghĩa; và trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên
cứu đi trước, chúng tôi cũng đưa ra cách phân loại cụ thể về ý nghĩa của địa danh
trong hai địa bàn này. Theo chúng tôi ý nghĩa của 1001 địa danh thành phố Điện
Biên Phủ và huyện Điện Biên có thể được tập hợp trong hai nhóm lớn đó là: nhóm ý
nghĩa phản ánh hiện thực khách quan gắn liền với những đối tượng địa lí và nhóm ý
nghĩa phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm của con người. Mỗi nhóm lớn lại bao
gồm các tiểu nhóm khác nhau và các tiểu nhóm này đều có sự tương đồng về nghĩa
của các yếu tố cấu tạo. Trong mỗi tiểu nhóm lại có những trường nghĩa cụ thể với
những ví dụ minh họa phong phú, sinh động.
Nhóm ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan bao gồm các địa danh chứa các
yếu tố phản ánh những thuộc tính, đặc điểm về hình dáng, kích thước, tính chất,
màu sắc, chức năng, tác dụng... của đối tượng được định danh và mối quan hệ của
các đối tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác có liên quan như các loại động,
thực vật, các công trình xây dựng, các sự kiện và biến cố lịch sử... Nhóm nghĩa này
chính là loại địa danh mô tả mà nhà nghiên cứu A.V.Superanskaja đã đưa ra. Còn
nhóm ý nghĩa phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm của con người bao gồm các địa
danh chứa các yếu tố có ý nghĩa chỉ nguyện vọng, tâm lí, niềm tin với tín ngưỡng,
tôn giáo của con người được gửi gắm qua đối tượng chính là loại địa danh ước vọng
trong quan niệm tác giả. Địa danh dùng kí hiệu (như số Arập, chữ Latinh) để định
danh cũng được chúng tôi xếp vào địa danh mô tả vì ít nhiều những kí hiệu đó cũng
đem lại cho ta thông tin về số lượng, thứ tự, vị trí của đối tượng so với đối tượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khác trong cùng loại hình địa danh, trong cùng địa bàn.
89
Như vậy cách phân loại ý nghĩa địa danh trong một số địa danh thành phố
Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên nói trên sẽ đưa đến các nhóm từ cùng với những
trường nghĩa cụ thể trong đó.
3.6. CÁC NHÓM TỪ VÀ TÊN GỌI THEO TRƢỜNG NGHĨA
3.6.1. Nhóm ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan gắn liền với những
đối tƣợng địa lí
Đây là nhóm ý nghĩa có chứa các yếu tố phản ánh những đặc điểm về tính
chất, màu sắc của đối tượng được định danh và mối quan hệ giữa đối tượng đó với
các đối tượng, sự vật, yếu tố khác có liên quan. Những đặc điểm được thể hiện qua
ý nghĩa của các địa danh này có giá trị phản ánh hiện thực khách quan cao. Hầu hết
các địa danh trong nhóm đều có nguồn gốc là các yếu tố dân tộc thiểu số và yếu tố
thuần Việt, chỉ có một bộ phận nhỏ là các địa danh Hán Việt. Nhóm nghĩa này được
thể hiện qua 899 địa danh, chiếm 89,81 % tổng số địa danh trong hai địa bàn.
Nhóm ý nghĩa này bao gồm hai tiểu nhóm:
3.6.1.1. Tiểu nhóm 1
Những địa danh chứa các yếu tố có ý nghĩa phản ánh những đặc điểm thuộc về
bản chất của đối tượng được xếp vào nhóm này. Đó là những đặc điểm về hình
dáng, kích thước, tính chất, màu sắc, địa hình kiến tạo, mùi vị, âm thanh... xuất phát
từ chính đối tượng. Có lẽ những đặc điểm đó đã được cảm nhận bằng các giác quan
của con người một cách chân thực, cụ thể, sinh động nên qua tên gọi của địa danh
và các phương thức định danh chúng ta có thể phần nào hình dung được.
a. Trường nghĩa phản ánh địa hình của đối tượng
Trường nghĩa này tập trung ở các địa danh địa hình tự nhiên và địa danh đơn
vị dân cư. Những loại địa hình phản ánh qua địa danh đều là những trường hợp
thành tố chung chỉ đối tượng địa hình được chuyển hóa vào các vị trí khác nhau
trong địa danh. Đó là những kiểu loại địa hình có nguồn gốc tiếng Việt như núi, đồi,
suối, ruộng, ao, hồ, hang, khe, thác... và cũng những loại địa hình đó tiếng Thái sẽ
gọi là pú, pom, huổi, ná, noong, thẩm, hoong, cảnh... Trong đó kiểu địa hình kiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tạo được thể hiện nhiều nhất qua địa danh là “ná”, yếu tố có nguồn gốc tiếng Thái,
90
khi phiên âm sang tiếng Việt, “ná” còn được viết thành “na”, “nà” nhưng đều tương
đương với nghĩa chỉ “ruộng” trong tiếng Việt. Chẳng hạn, bản Đỉnh Đèo, khu du
lịch Hồ Huổi Phạ (hồ suối trời), bản Thanh Sơn (núi xanh), suối Thẩm (hang), bản
Ló (rãnh), suối Cảnh (thác), bản Nà Ten (ruộng ở nơi cao và bằng), bản Ná Men
(ruộng tốt), bản Ná Khưa (ruộng cà), bản Na Púng (ruộng vũng), suối Na Sang
(ruộng tre mạy sáng), suối Na Ư (ruộng kêu), xã Nà Tấu (ruộng rùa).
b. Trường nghĩa phản ánh loại chất liệu kiến tạo hay loại khoáng sản có ở
đối tượng
Đó là những chất liệu như đất, cát, tro than, sỏi đá, đá đen, đá lửa, đá vôi và
những loại khoáng sản như chì, sắt. Trường nghĩa này có ở địa danh địa hình tự nhiên
và địa danh đơn vị dân cư. Chẳng hạn, bản Đán Yên (phát âm chệch từ Đán Ên) (đá
vân trắng) là bản nằm sát núi đá, bản Hoong Hin (khe sỏi đá), suối Him Lam (đá đen),
suối Him Lếch Phay (đá lửa), suối Hin Phon (đá vôi), hồ Sái Lương (cát vàng), bản
Noong Chứn (ao chì), suối Lếch (sắt), bản Hồng Lếch Nưa (khe sắt trên).
c. Trường nghĩa phản ánh hình dáng của đối tượng
Hình dáng của đối tượng được phản ánh khá đa dạng. Những đặc điểm hình
dáng thường được thể hiện qua các yếu tố như nhọn, cụt, cong, nghiêng... có tác dụng
miêu tả đối tượng một cách cụ thể. Hoặc hình dáng của đối tượng xuất phát từ trí
tưởng tượng phong phú của người định danh, do đó có những đồ vật, sự vật trong đời
sống cũng được dùng để miêu tả hình dáng của những đối tượng khi giữa chúng có
nhiều đặc điểm giống nhau như hình bức vách, quả bầu, cái cốc, cái bình, núm quả.
Những hình dáng cụ thể, sinh động dễ dàng nhận diện được qua địa danh
chẳng hạn, bản Công (ở nơi địa hình có thế vòng cung), núi Pú Huốt (núi nhọn),
suối Huổi Lính (suối nghiêng), bản Pha Đin (vách đất), núi Pha Sung (vách cao),
suối Pha Lay (vách chảy). Còn những hình dáng của địa danh gợi sự liên tưởng
chẳng hạn, núi Tẩu Pung (quả bầu), suối Kín (có hình dáng giống cái núm quả),
suối Múa (suối có nhiều hòn đá giống chiếc mũ), suối Kha Kim (gọng kìm), núi Pu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Xá Hin (núi sọt đá), suối Chai (cái chai), suối Ca (cái cốc).
91
d. Trường nghĩa phản ánh kích thước của đối tượng
Đó là những kích thước dài, ngắn, rộng, hẹp, to, nhỏ, cao, thấp... khác nhau.
Những kích thước này có ở địa danh địa hình tự nhiên và địa danh đơn vị dân cư và
được biểu hiện qua những yếu tố ngôn ngữ khác nhau (tiếng Việt, tiếng dân tộc
thiểu số). Chẳng hạn, núi Pú Lấu Luông (núi cây lau lớn), suối Lụ (nhỏ), suối Nậm
Phăng Nọi (suối cây phăng nhỏ), bản Nà Hý (ruộng dài), xã Thanh Luông (Mường
Thanh to lớn), bản Nà Lơi (ruộng dài, không bằng phẳng), bản Đồi Cao.
e. Trường nghĩa phản ánh màu sắc của đối tượng
Đặc điểm về màu sắc được phản ánh ở cả ba loại địa danh hành chính, tự
nhiên và nhân văn qua các yếu tố Hán Việt, thuần Việt và cả các yếu tố tiếng dân
tộc thiểu số. Đối với những địa danh tự nhiên, màu sắc được cảm nhận trực tiếp từ
đối tượng địa lí còn với những địa danh hành chính và nhân văn màu sắc thường
mang tính biểu trưng hoặc gắn liền với sự vật ở trong đối tượng. Có những màu sắc
gắn liền với những câu chuyện lịch sử và khi biết được nguồn gốc của nó có thể
khiến chúng ta thêm trân trọng đối với địa danh đó. Những màu sắc thường thấy đó
là những sắc xanh, đỏ, tím, vàng, trắng. Chẳng hạn, trong địa danh tự nhiên có dãy
núi Pú Hồng Mèo là núi đất đỏ có người Mông (Mèo) sinh sống, thác Trắng có
dòng nước chảy nhiều từ trên cao xuống trông như dải lụa trắng, sông Nậm Mức là
dòng sông có nước trong xanh, suối Lương có nước màu vàng, cầu Trắng được xây
bằng xi măng và quét vôi trắng.
Trong địa danh nhân văn có bản Khẩu Cắm, nơi có nhiều loại cây dùng để
nhuộm cơm thành màu tím sẫm, người Thái rất ưa thích dùng loại lá này để đồ xôi;
cầu treo Nậm Thanh được bắc qua dòng suối có nước chảy trong xanh; bản Tông
Khao nghĩa là “cánh đồng trắng”. Địa danh này gắn liền với một câu chuyện lịch sử
cảm động: Vào khoảng thế kỉ XVIII, đây là nơi giặc Phẻ tàn ác đã bắt hết trẻ con
trong vùng đem giết, trẻ nhỏ còn ẵm ngửa chúng cho vào cối giã, lớn hơn thì chúng
ném xuống cánh đồng trũng này rồi tháo nước vào cho chết hết. Khi đồng cạn,
xương trẻ con trắng xóa khắp đồng. Người dân địa phương gọi đây là Tông Khao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(cánh đồng trắng) để tưởng nhớ tới sự kiện đau thương này.
92
g. Trường nghĩa phản ánh âm thanh liên quan đến đối tượng
Trường nghĩa này có số lượng nhỏ, chỉ có ở rải rác một vài địa danh tiếng
dân tộc thiểu số, những địa danh này cũng được chuyển hóa sang những địa danh
cùng loại hay khác loại. Những âm thanh được mô phỏng thường là tiếng động
của dòng chảy hay của một số loại động vật sinh sống ở đối tượng. Chẳng hạn,
bản Na Khếnh (ruộng tiếng kêu), hồ Hồng Khếnh (khe nước chảy phát ra tiếng
kêu), Na Ư (ruộng kêu), địa danh này được chuyển hóa vào các địa danh như suối
Na Ư, xã Na Ư, bản Na Ư.
h. Trường nghĩa phản ánh tính chất, mùi vị của đối tượng
Trường nghĩa này có ở cả ba loại địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư
và công trình nhân tạo trong đó ở địa danh đơn vị dân cư và công trình nhân tạo là
do những hiện tượng chuyển hóa mà có. Đó là những đặc điểm tính chất, mùi vị
xuất phát từ bản chất của đối tượng hoặc là những thuộc tính của sự vật, hiện tượng
có ở trong đối tượng. Những đặc điểm về tính chất, mùi vị này khá độc đáo và
phong phú trong đó đặc điểm tính chất chiếm số lượng lớn hơn đặc điểm về mùi vị.
Những đặc điểm về tính chất như xa xăm, thông thoáng, thất thường, đục, trong,
khô, cạn, lớn, nhỏ, nghèo nàn, ấm, lạnh, rậm rạp, quang đãng; đặc điểm về mùi vị
như vị mặn... Chẳng hạn, trong địa danh tự nhiên có dãy núi Pu Khâu Lạnh (núi khô
cạn), có Huổi Un (suối nước ấm) cũng có núi Pu Huổi Un với nghĩa tương tự, khe
Hồng Sống (khe nghèo nàn), suối Nậm Đuống (suối nước lớn), suối Huổi Pe (suối
nhiều nước), suối Lang (thông thoáng), suối Sẻ (dòng nước đột ngột, thất thường),
suối Sen (cạn kiệt), suối Ít (mặn), suối Nậm Khún (nước đục), sông Nậm Núa (sông
ngon). Địa danh sông Nậm Núa gắn với một câu chuyện khá thú vị: trước đây vào
mùa khô nhất là gần tết, từng đoàn thuyền chở đầy ắp hàng hóa của các thương gia
từ Thái Lan, Lào ngược dòng sông Mê Kông - Nặm U - Nặm Núa - Nặm Rốm đến
Mường Thanh để buôn bán. Con sông này không có nhiều thác ghềnh nên các đoàn
thuyền đi lại không gặp khó khăn trở ngại. Chính vì vậy người ta đặt tên cho con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sông này là Nặm Núa (sông ngon) với ý nghĩa chỉ tính chất thuận lợi, suôn sẻ.
93
Trong địa danh đơn vị dân cư có địa danh mường Lói (xa xăm), mường là một
đơn vị hành chính cũ mà đồng bào dân tộc thiểu số thường sử dụng để gọi khu vực
dân cư nơi họ sinh sống, đến nay địa danh này đã được chuyển hóa sang các địa
danh đơn vị dân cư khác như bản Lói, xã Mường Lói và chuyển hóa sang địa danh
công trình nhân tạo như đồn biên phòng Mường Lói; ngoài ra còn các địa danh đơn
vị dân cư khác có ý nghĩa chỉ tính chất liên quan đến đối tượng như bản Co Ké (cây
gỗ già), bản Phiêng Lơi (bãi bằng phẳng), bản Na Lanh (ruộng khô), bản Pá Ngam
(khu rừng đẹp), bản Huổi Cánh (suối quang đãng), bản Đông Mệt (rừng già kín đáo,
chỉ khu rừng rậm rạp, hoang sơ).
i. Trường nghĩa phản ánh sự hoạt động, sự phát triển diễn ra ở đối tượng hay
chức năng có ở đối tượng
Đó là những hoạt động của con người hay hoạt động của sự vật diễn ra ở đối
tượng. Trường nghĩa này có ở địa danh thiên nhiên và địa danh đơn vị dân cư.
Chẳng hạn, bản Na Ngum (ruộng lụi), Na Ngum là cách nói chệch đi của Nà Ngom,
chỉ cánh đồng lúa đã chín vàng không kịp gặt nên lụi xuống; bản Pe Luông (sinh
sôi, nảy nở nhiều) nơi có dân số tăng nhanh và các loại gia cầm cũng phát triển
nhiều; bản Bánh (chia tách) là bản được tách ra từ bản khác; suối Húa (đầm) các
con vật thường đến đây uống nước và đầm mình; suối Nậm Ngọp có dòng nước
chảy dập dềnh; suối Huổi Chan có nước chảy tràn hai bên bờ.
Còn những địa danh có ý nghĩa phản ánh chức năng, tác dụng, của đối tượng
chỉ có ở địa danh các công trình xây dựng nhân tạo thuộc những hoạt động vật chất
kĩ thuật của con người. Chẳng hạn, kênh Chính (kênh đầu tiên dẫn nước và đưa
nước vào các kênh Tả, Hữu trong hệ thống kênh Nậm Rốm).
3.6.1.2. Tiểu nhóm 2
Bao gồm các địa danh chứa các yếu tố phản ánh mối quan hệ giữa đối tượng
được định danh với các đối tượng, sự vật, hiện tượng, yếu tố khác có liên quan. Đó
là những đặc điểm về vị trí, phương hướng, tên gọi các loại động thực vật, những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
yếu tố chỉ thiên nhiên hay các hiện tượng thiên nhiên, những yếu tố chỉ những sinh
94
hoạt văn hóa dân gian hay những yếu tố chỉ những biến cố, những sự kiện lịch sử...
có liên quan trực tiếp đến đối tượng. Đây cũng là những đặc điểm hết sức độc đáo
bổ sung thêm vào lớp ý nghĩa phong phú trong một số địa danh thành phố Điện
Biên Phủ và huyện Điện Biên, góp phần tạo nên bức tranh nhiều màu vẻ về hai địa
bàn nằm trên vùng đất lịch sử này.
a. Trường nghĩa phản ánh tên gọi các loài thực vật có liên quan đến đối tượng
Trong địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh đơn vị dân cư trường nghĩa
này chiếm một số lượng khá lớn còn ở địa danh công trình nhân tạo và một bộ
phận nhỏ địa danh đơn vị dân cư là các trường hợp chuyển hóa từ các loại địa
danh khác sang. Các yếu tố gọi tên các loài cây chủ yếu có nguồn gốc từ ngôn
ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống trong vùng, chỉ có một bộ phận rất
ít là các yếu tố thuần Việt. Các loài thực vật rất phong phú, từ những loại cây
trồng phổ biến ở vùng đồng bằng và đồi núi thấp như cây phượng, cây gạo, cây
sung, cây thông, cây đa, cây chanh, cây quýt, cây mít, cây dừa... cho đến những
loại cây trồng nhiều ở đồi núi cao như cây dẻ, cây trẩu, cây trám, cây lát, cây
mạy pôn, cây mạy tửu (thành ngạnh), cây sa, cây mứn, cây phăng, cây me tròn,
cây cơi và rất nhiều loại tre, trúc khác nhau như tre mạy puốc, tre mạy sáng, mạy
chá, mạy bói, mạy pháy, tre nôm, tre luồng, cây sặt, cây trúc, cây nứa... Đó đều
là những loại thực vật khá đặc trưng của núi rừng nơi đây.
Chẳng hạn, núi Pú Co Nghịu (núi cây bông gạo), núi Pu Lau (núi cây lau), lại
có đèo Pu Lau, bản Pu Lau, thác Bay (cây trám đen), lại có nhà máy thủy điện Thác Bay,
đập tràn Thác Bay, hồ Pá Khoang (rừng trúc), sông Nậm Rốm (sông cây lát), lại có
kênh Nậm Rốm, đập đầu mối Nậm Rốm, suối Co Củ (cây sấu), lại có hồ Co Củ, đập
tràn Co Củ, suối Chả (cây trúc), suối Huổi Sa (suối cây sa), suối Nậm Có (suối cây
dẻ), suối Puốc (tre mạy puốc), đồi Thông (trồng toàn thông), bản Cà Phê (trong bản
trồng rất nhiều cây cà phê), bản Bua (cây sen), bản Ban (cây ban), bản Co Sáng (cây
tre mạy sáng), bản Hoong En (khe cây lát), bản Tra (cây gỗ sây), bản Noọng Sọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(cao cây nứa), bản Hạ (cây hả).
95
b. Trường nghĩa phản ánh tên gọi các loài động vật có liên quan đến đối tượng
Các yếu tố trong địa danh thể hiện trường nghĩa này đều có nguồn gốc tiếng
dân tộc thiểu số. Những tên gọi này có thể xuất phát từ tên của những loài vật đã và
đang sinh sống trên các loại địa hình thuộc địa bàn, tên những loài vật mà người dân
nơi đây thường săn bắt được thậm chí có cả tên của những con vật chỉ có trong
tưởng tượng của người dân địa phương hoặc là những tên gọi có ý nghĩa lịch sử.
Bên cạnh đó cũng có một bộ phận địa danh thuộc trường nghĩa này do phương thức
chuyển hóa mà có. Các loài vật sinh sống nơi đây có cả trên cạn và dưới nước,
chúng ở rất nhiều loại địa hình khác nhau như trên núi, dưới suối, trong khe, trên
ruộng, trong hang, dưới vũng, dưới ao.
Chẳng hạn, bản Ten Luống (nơi cao có rồng ở), suối Chon (con sóc), suối Cói
(con vượn), suối Quang (con nai), khe Hoong Hịa (khe kì đà), bản Na Dôn (ruộng
cáo), xã Nà Nhạn (ruộng nhạn), suối Thẳm Phấng (hang ong mật), bản Púng Bửa
(vũng con bướm), bản Phiêng Quái (bãi thả trâu), xã Noong Luống (ao rồng), bản
Noong Pết (ao vịt). Có địa danh được chuyển hóa như suối Hươm (con hươu) được
chuyển hóa vào các địa danh khác như bản Na Hươm (ruộng hươu), hồ Na Hươm,
đập tràn Na Hươm, các địa danh này đều thuộc xã Mường Nhà, huyện Điện Biên.
Hay có địa danh gắn liền với câu chuyện lịch sử: khe Hoong Ma Nao (khe chó chết
rét), theo lời kể của người dân địa phương thì trước đây khi trốn chạy giặc Phẻ trong
đêm tối, người dân vơ lầm chó, tưởng là con nên địu đi, khi đi qua khe suối sờ đến
địu mới biết là chó, bèn vứt bỏ lại khe suối này.
c. Trường nghĩa phản ánh những đặc điểm của sự vật, của thiên nhiên và các
hiện tượng thiên nhiên xảy ra trên đối tượng hoặc có liên quan đến đối tượng
Trường nghĩa này được phản ánh qua các yếu tố dân tộc thiểu số và chiếm tỉ lệ
rất nhỏ. Những nét nghĩa này gồm hai bộ phận nhỏ đó là: bộ phận phản ánh sự vật,
hiện tượng như khe Hoong Khoong (khe của cải), bản Hoong Khoong, suối Huổi
Hộc (suối nhau thai), suối Ta Tiến (mật ong đất), đồi Cháy; bộ phận phản ánh thiên
nhiên và các hiện tượng thiên nhiên như bản Ta Lét (phát âm chệch của từ Ta Đét)
(bến nắng), hồ Ta Lét, núi Pu Phạ (núi trời), suối Huổi Phạ (suối trời), cầu Huổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phạ, bản Huổi Phạ, hồ Huổi Phạ, đập tràn Huổi Phạ, suối Mươi (sương mù).
96
d. Trường nghĩa phản ánh vị trí, phương hướng của đối tượng so với đối
tượng khác
Những yếu tố chỉ vị trí, phương hướng thuộc các nguồn gốc ngôn ngữ khác
nhau và xuất hiện nhiều ở địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh đơn vị dân cư.
Những đặc điểm vị trí biểu hiện qua yếu tố dân tộc thiểu số như hua (đầu), tin
tốc (chân núi), che (góc), pa (pak) (cửa), nưa (trên), cuông (trong), cang (ở giữa) và
một số ít từ Hán Việt như trung tâm (ở giữa), tả (trái), hữu (phải). Chẳng hạn, bản
Hua Luống (đầu suối Nậm Luống), đèo Hua Pe (đầu suối Pe), đồn biên phòng Hua
Pe, suối Nậm Hua (suối đầu nguồi), bản Che Căn (viết đúng là Che Cắn) (góc bờ),
bản Pa Kín (cửa suối Kín), suối Pa Thơm (cửa hang), động Pa Thơm, bản Pa Thơm,
xã Pa Thơm, đồn biên phòng Pa Thơm, xã Thanh Nưa (Mường Thanh trên), bản
Cang (ở giữa), bản Trung tâm, kênh Tả, kênh Hữu.
Những đặc điểm phương hướng biểu hiện qua các từ Hán Việt như “bắc”,
“nam”, “đông”, “tây” như bản Đông Biên (phía Đông Điện Biên), phường Nam
Thanh (phía Nam Mường Thanh), đèo Tây Trang, đồn biên phòng Tây Trang, phân
khu Bắc, phân khu Nam.
e. Trường nghĩa phản ánh số thứ tự và số lượng của đối tượng
Trường nghĩa chỉ số thứ tự chiếm số lượng khá lớn trong tổng số địa danh
thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên và xuất hiện nhiều ở các địa danh đơn
vị dân cư. Điều đó phản ánh một thực tế là các địa danh đơn vị dân cư ở đây được
tách, ghép hay sáp nhập rất nhiều vì thế nên các địa danh thuộc trường nghĩa này
cũng bị biến đổi theo. Trường nghĩa này ít có giá trị phản ánh hiện thực của chính
bản thân đối tượng tuy nhiên cũng có ý nghĩa đánh dấu số thứ tự của đối tượng hoặc
tổng số các đối tượng trong đó có chứa đối tượng được định danh hoặc giúp định vị
vị trí của đối tượng: những địa danh gần trung tâm thường được biểu thị bằng
những số thứ tự nhỏ như 1, 2, 3, 4, những địa danh càng ở xa trung tâm thì được
biểu thị bằng những số thứ tự lớn hơn như 5, 6, 7, 8. Chẳng hạn, phường Mường
Thanh có 32 tổ dân phố, các tổ phố được đánh số thứ tự từ 1 đến 32 biểu thị số thứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tự của từng tổ phố đồng thời tổ phố 32 còn biểu thị tổng số tổ phố trong phường;
97
các thôn bản có cùng tên gọi chỉ khác nhau về số thứ tự thường có ý nghĩa biểu hiện
những đơn vị đó được tách ra từ cùng một đối tượng như bản Him Lam 1, bản Him
Lam 2 được tách ra từ bản gốc Him Lam; xã Sam Mứn có 10 bản được mang tên
Pom Lót và được đánh số thứ tự từ 1 đến 10 trong đó những bản nào có số thứ tự
nhỏ sẽ ở gần trung tâm xã còn những bản có số thứ tự càng lớn thì càng xa trung
tâm xã hơn; phường Noong Bua trong thành phố Điện Biên Phủ khi mới thành lập
chỉ có 6 tổ phố được đánh số thứ tự từ 1 đến 6, đến nay phường đã có thêm 2 tổ phố
và tiếp tục được phân biệt bằng các số thứ tự tiếp theo là tổ 7 và tổ 8.
Trường nghĩa chỉ số lượng của đối tượng chiếm tỉ lệ nhỏ nhưng có khả năng
phản ánh những đặc điểm là thuộc tính, bản chất của chúng hơn. Chẳng hạn, bản Hả
(năm hộ dân) lúc mới thành lập bản chỉ có năm hộ dân sinh sống; suối Huổi Hộc
(suối sáu nhánh) do sáu dòng nước hội tụ lại tạo thành suối; bản Sam Phương (ba
phương) có dân từ nhiều nơi đến sinh sống và lập bản; thành Tam Vạn (tên gốc là
Viêng Sam Mứn) có nghĩa là “ba vạn” thành được người Lự xây dựng từ khoảng
thế kỉ XI, theo sách “Hưng hóa kỷ lược” thì trong thành có ba vạn cối giã gạo bằng
guồng nước, chứa được ba vạn dân đinh nên thành có tên như vậy, sau này có các
địa danh khác cũng mang tên này như bản Sam Mứn, xã Sam Mứn.
g. Trường nghĩa phản ánh thời gian liên quan đến đối tượng
Trường nghĩa chỉ thời gian có trong một số địa danh đơn vị dân cư. Đó có thể
là thời gian diễn ra hoạt động của đối tượng hoặc là thời gian thành lập đối tượng.
Thời gian diễn ra hoạt động của đối tượng thể hiện qua yếu tố dân tộc thiểu số và
yếu tố thuần Việt như bản Tà Lành (bến tối) là nơi dừng chân ăn cơm tối trước khi
sang bản khác, bản Na Hôm (ruộng hôm). Còn bộ phận nghĩa chỉ thời điểm thành
lập đối tượng có chứa các yếu tố có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau nhưng đều có ý
nghĩa chỉ sự mới thành lập như thôn Tân Bình, thôn Tân Lập, bản Mới, bản Mé, bản
Mớ, đường Mới (nay là đường Trường Chinh); bên cạnh đó có trường hợp như bản
Lún (em út), bản Noọng (em nhỏ) cũng có ý nghĩa chỉ sự thành lập sau hoặc mới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xuất hiện nên có thể xếp được vào trường nghĩa này.
98
h. Trường nghĩa phản ánh tên tộc người có liên quan đến đối tượng
Tên của những tộc người gắn liền với một số địa danh các đơn vị dân cư là
chủ yếu còn chỉ có duy nhất một địa danh địa hình thiên nhiên thuộc trường nghĩa
này. Khi đến khai hoang, sinh sống trên mảnh đất mới, những người cùng dân tộc,
huyết thống, cùng quê hương thường sống quây quần bên nhau và họ có ý thức lấy
tên dân tộc mình để đặt tên cho thôn, bản một cách trân trọng. Điều đó cho thấy
những tộc người này chiếm số lượng lớn ở khu vực mà họ đang sinh sống hoặc đã
từng sinh sống. Chẳng hạn, bản Nà Láo, bản Na Lao, bản Pa Xa Lào là các bản có
nhiều người Lào sinh sống, bản Hoa là bản của dân tộc Hoa, bản Pom Mỏ Thổ là
bản có nhiều người Nùng (còn gọi là người Thổ), bản Pom Mỏ Thái là bản của
người Thái, bản Pa Xa Xá là bản của người Khơ Mú hay dãy núi Pú Hồng Mèo là
dãy núi lớn và rất cao trong huyện Điện Biên, nơi đó chỉ có người Mông (Mèo) sinh
sống, trồng trọt và canh tác.
Tên gọi của các dân tộc trong những địa danh kể trên còn phản ánh một ý
nghĩa thực tế: đó cũng là những dân tộc có số dân đông hơn cả trong số 20 dân tộc
anh em sinh sống trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
i. Trường nghĩa phản ánh tên gọi đồ dùng, vật dụng của con người có liên
quan đến đối tượng
Đó là những đồ vật dùng trong sinh hoạt, sản xuất của cư dân địa phương như
cái cúm, cái giỏ, cái mâm. Trường nghĩa này có ở địa danh đơn vị dân cư và địa
danh địa hình thiên nhiên. Chẳng hạn, trong địa danh đơn vị dân cư: bản Bôm La (là
từ nói chệch của từ Bôm Đa) (mâm đặt), người già trong bản kể lại: thời xa xưa
mâm cơm đặt xuống chưa kịp ăn, giặc tràn về liền bỏ mâm để đấy, bởi vậy mới gọi
là bản Bôm Đa có nghĩa là bản mâm đặt sẵn. Bản Pa Xa Xá, bản Pa Xa Lào đều chỉ
tên gọi của một dụng cụ người địa phương (người Xá, người Lào) dùng để bắt cá.
Trong địa danh địa hình thiên nhiên:
Đồi Pom Lót (tiếng Thái địa phương nghĩa là đồi sọt nhỏ), ngọn đồi nhân
tạo này gắn liền với một câu chuyện lịch sử khá thú vị, nó mang tên gọi của một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đồ vật mà người dân nơi đây đã dùng để đắp lên ngọn đồi. Truyện kể rằng: vào
99
khoảng thế kỉ XI, chúa Lự cho xây thành Tam Vạn đồng thời cũng ra lệnh cho
nhân dân đắp một quả đồi ở trong thành. Công việc đắp đồi được giao cho đàn
bà, con gái trong thành. Công việc nặng nhọc nên họ phải dùng những cái sọt
nhỏ, đồ vật thường ngày họ vẫn dùng để đựng những ống suốt quấn sợi, quấn tơ
dệt vải, để chuyển đất đắp đồi.
Khe Hồng Cúm (khe cái cúm), địa danh Hồng Cúm gắn liền với một câu
chuyện lịch sử: Vào khoảng thế kỷ XVIII, giặc Phẻ (còn gọi là giặc Pọng, giặc
Nhuồn) chiếm đất Mường Thanh, chúng vô cùng tàn ác. Một lần, chúng vào
mường càn quét, bắt dân, giết người, cướp của. Dân mường dáo dác, sợ hãi bảo
nhau trốn chạy. Họ vơ vội những đồ đạc, của cải vào những cái cúm chạy loạn.
Giặc truy đuổi đến cùng, người dân chạy giặc không kịp đành vất lại những cái
cúm để thoát thân. Cúm nằm ngổn ngang bên lạch nước nhỏ. Từ đó khe nước mà
người dân chạy loạn vất bỏ lại những cái cúm, là các hòm đan bằng tre hay mây
người Thái thường dùng để đựng đồ đạc, được gọi là Hoong Cúm. Khi quân ta
mở chiến dịch Điện Biên Phủ, địa danh Hoong Cúm trong tiếng Thái do cách
phát âm không chuẩn nên sang tiếng Việt đọc thành Hồng Cúm. Và địa danh
Hồng Cúm tồn tại cho đến bây giờ. Hồng Cúm còn được dùng để đặt cho những
địa danh khác như trong chiến tranh chống Pháp có sân bay Hồng Cúm, phân
khu Hồng Cúm và đến nay đó là các di tích (di tích sân bay Hồng Cúm, di tích
phân khu Hồng Cúm), ngoài ra còn có bản Hồng Cúm.
k. Trường nghĩa phản ánh tên gọi của các cơ quan, tổ chức, đơn vị hay tên
của các công trình xây dựng nhân tạo có trên đối tượng
Trường nghĩa này gồm có hai bộ phận giống như tên gọi của nó. Cả hai bộ
phận nghĩa đều được thể hiện qua các yếu tố có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau
trong cả ba loại địa danh. Bộ phận nghĩa thứ nhất chỉ tên gọi của các cơ quan, tổ
chức, đơn vị đóng ở trên địa bàn. Chẳng hạn, thôn Nhà trường là thôn có một
trường học được xây dựng ở đó; bản Công Binh là nơi bộ đội công binh đóng quân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong chiến dịch Điện Biên Phủ; phường Thanh Trường trước đây là nơi đặt trụ sở
100
của nông trường bộ, đơn vị quản lý, điều hành các hoạt động sản xuất của nông
trường trên vùng đất Mường Thanh; khu du lịch Hồ Pá Khoang và Sở chỉ huy chiến
dịch Điện Biên Phủ nơi đặt sở chỉ huy, cơ quan đầu não của quân đội ta trong chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Bộ phận nghĩa thứ hai phản ánh các công trình xây dựng nhân tạo được xây
dựng trên đối tượng. Các công trình được phản ánh trong địa danh có thể đang
tồn tại hoặc trước đây đã từng tồn tại trên đối tượng. Những công trình không
còn tồn tại là do sự phát triển kinh tế - xã hội, do sự thay đổi của cơ chế tổ chức,
quản lí ở trong địa bàn mà đến nay đã bị phá bỏ hoặc do lịch sử mà những công
trình này chỉ còn lại vết tích nhưng với ý nghĩa và giá trị lịch sử của nó nên tên
gọi vẫn được lưu lại trong các địa danh. Như vậy có cả công trình phục vụ cho
hoạt động kinh tế, xã hội và công trình gắn với đời sống tín ngưỡng của nhân
dân. Chẳng hạn, thôn Trại lúa; bản Che Phai (cạnh đập nước) là bản nằm cạnh
phai (đập chắn nước), phai này do dân bản đào, đắp để dẫn nước khai hoang
ruộng lúa ở lưu vực suối Nậm Hua; hang Chùa Pá Sa ở đây còn lại di tích của
một ngôi chùa cổ; khu du lịch U Va, động Pa Thơm và cửa khẩu Tây Trang nơi
có cửa khẩu quốc tế Tây Trang, cửa ngõ sang Lào.
l. Trường nghĩa phản ánh sự di dân mang theo địa danh hay ghép các địa
danh giữa nơi cũ với nơi mới diễn ra ở đối tượng
Trường nghĩa này xuất hiện ở địa danh thôn, bản trong địa danh các đơn vị
dân cư. Chúng được tạo ra bởi phương thức ghép hoặc phương thức vay mượn.
Trường nghĩa phản ánh không khí chính trị, xu hướng tâm lí và văn hóa của một
thời kỳ lịch sử.
Những người dân lên khai hoang và xây dựng đời sống mới ở mảnh đất Điện
Biên Phủ từ những ngày đầu giành độc lập đã mang theo tên làng quê cũ để đặt cho
nơi ở mới. Đây là cách tạo ra địa danh mới theo phương thức vay mượn. Chẳng hạn,
người dân ở hai xã Minh Tân và Cộng Hòa thuộc tỉnh Thái Bình khi lên Điện Biên
khai hoang đã lấy tên xã cũ để đặt cho thôn, bản ở xã mới đó là thôn Minh Tân ở xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thanh Hưng và bản Cộng Hòa ở xã Thanh Luông.
101
Bên cạnh đó còn có phương thức ghép địa danh để tạo ra địa danh mới,
phương thức này được sử dụng phổ biến hơn. Chẳng hạn, bản Phú Ngam, bản Phú
Yên là do người dân ở xã Tân Phú (Thái Bình) lên lập bản ở các xã Núa Ngam, xã
Thanh Yên, huyện Điện Biên; bản Tiến Thanh do người dân ở xã Tiến Đức (Thái
Bình) lên lập bản ở xã Thanh Yên (Điện Biên); bản Yên Sơn do người Tày, Nùng ở
Lạng Sơn lên khai hoang và sinh sống ở xã Thanh Yên (Điện Biên).
m. Trường nghĩa phản ánh những sự kiện, biến cố và các địa điểm lịch sử có ở
đối tượng
Trường nghĩa này tập trung ở một số địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh
các công trình nhân tạo. Các địa danh này chứa các yếu tố có nguồn gốc tiếng Việt,
nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số và cả nguồn gốc tiếng Pháp.
Các địa danh chứa các yếu tố phản ánh các sự kiện, biến cố lịch sử chủ yếu tập
trung ở các loại địa danh như quốc lộ, con đường, tượng đài, bảo tàng, những quả
đồi, cây cầu, những cứ điểm trong lòng thành phố và ở một số di tích, chẳng hạn,
đồi A1 (trước đây có các tên gọi khác: người Thái gọi là đồi Lạng Chượng, đồi Đồn
Tây, Pháp gọi Elian 2), đồi C2 (trước đây người Thái gọi là đồi Châu Ún, quân
Pháp gọi là Elian 4), đồi E1 (quân Pháp gọi là Đôminích 1), đồi Him Lam (còn gọi
là đồi Phan Đình Giót, Pháp gọi Bêatơrixơ), cầu Mường Thanh (Pháp gọi Prenley),
cứ điểm Đồi Bản Kéo (Pháp gọi là Annơmari), cứ điểm Đồi Độc Lập (người Thái
gọi là Pú Vắng - Đồi Vực, Pháp gọi Gabơrien), quốc lộ 279, quốc lộ 12, đường
13/3, đường 7/5, tượng đài Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, bảo tàng Chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ, di tích Dân quân Thanh An bắn rơi máy bay Mĩ.
Các địa danh chứa các yếu tố phản ánh những địa điểm lịch sử chủ yếu tập
trung ở các di tích nằm rải rác trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
Những di tích đó có cả di tích lịch sử và di tích khảo cổ học như: di tích Bãi pháo
Mường Thanh, di tích Trận địa pháo của quân ta ở Điện Biên Phủ, di tích Đường
kéo pháo của quân ta ở Điện Biên Phủ, di tích Hầm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, di
tích Mường Pồn, di tích Sân bay Hồng Cúm, di tích Hầm Đờ Cát, di tích Khu khảo
cổ học hồ U Va, di tích Đồi phát hiện trống đồng bản Na Hý, di tích Thành Bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phủ, di tích Đền Hoàng Công Chất.
102
n. Trường nghĩa phản ánh sự bao hàm chứa đựng trong những địa danh có
cùng tên gọi nhưng khác loại hình đối tượng địa lí
Trường nghĩa này có được do phương thức chuyển hóa tạo thành. Đó là sự
chuyển hóa giữa các loại địa danh như núi, đồi, sông, suối, thôn, bản, cầu, cống,
đường, kênh, đập, bảo tàng, di tích... trong đó các đối tượng này thường là cùng
nằm trong một địa bàn. Trường nghĩa này phản ánh một cách định danh khá phổ
biến trên khắp các vùng lãnh thổ của đất nước ta.
Chẳng hạn, những địa danh như thành phố Điện Biên Phủ, sân bay Điện Biên
Phủ, rạp chiếu bóng Điện Biên Phủ, nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ, quần thể khu
di tích lịch sử Điện Biên Phủ, bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tượng
đài Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đều thuộc thành phố Điện Biên Phủ. Những
địa danh như đồi Độc Lập, cứ điểm Đồi Độc Lập, trung tâm đề kháng Đồi Độc Lập,
nghĩa trang liệt sĩ Độc Lập, bản Độc Lập đều thuộc vào xã Thanh Nưa, huyện Điện
Biên. Những địa danh như khe Hồng Cúm, bản Hồng Cúm, sân bay Hồng Cúm,
phân khu Hồng Cúm đều ở xã Thanh Xương, huyện Điện Biên. Hay những địa danh
như suối Him Lam, bản Him Lam, đồi Him Lam, cứ điểm Him Lam, trung tâm đề
kháng Him Lam, nghĩa trang liệt sĩ Him Lam đều thuộc phường Him Lam, thành
phố Điện Biên Phủ.
3.6.2. Nhóm ý nghĩa phản ánh đời sống tƣ tƣởng, tình cảm của con ngƣời
Nhóm nghĩa này bao gồm các yếu tố có ý nghĩa chỉ nguyện vọng, tâm lí, tình
cảm, đời sống tâm linh, tín ngưỡng của con người. Trường nghĩa này có ở cả ba loại
địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo. Khác với nhóm
nghĩa thứ nhất, các địa danh thuộc nhóm nghĩa này ít có giá trị phản ánh hiện thực
mà đi vào chiều sâu tư tưởng, nhận thức, đời sống tình cảm, tâm linh của con người.
Qua những địa danh chúng ta sẽ thấy bức tranh đời sống tâm lí của con người nơi
đây hiện lên với rất nhiều sắc thái tình cảm khác nhau như những ước mơ, khát
vọng cao đẹp về cuộc sống mới hòa bình, yên ấm, giàu đẹp; là tình cảm yêu quý,
trân trọng đối với những vị anh hùng dân tộc, những danh nhân văn hóa và đối với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vùng đất mà họ sinh sống. Điều đó góp phần thể hiện văn hóa tinh thần và văn hóa
103
ứng xử của người dân thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên. Các địa danh
biểu hiện những lớp ý nghĩa này được cấu tạo bởi cả yếu tố Hán Việt, yếu tố thuần
Việt và các yếu tố là tiếng dân tộc thiểu số. So với nhóm nghĩa thứ nhất, nhóm
nghĩa này chiếm tỉ lệ rất nhỏ, chỉ có 102 địa danh, chiếm 10,19%.
Nhóm ý nghĩa thứ hai gồm những trường nghĩa sau:
3.6.2.1. Tiểu nhóm 1
Bao gồm những địa danh chứa các yếu tố phản ánh niềm mong ước của con
người với cuộc sống và với vùng đất mà họ sinh cơ, lập nghiệp. Tiểu nhóm này gồm
một số bộ phận nhỏ:
a. Trường nghĩa phản ánh niềm mong ước về sự đổi mới, tiến bộ, sự trẻ trung
của quê hương
Các yếu tố “văn”, “xuân”, “tân” trong các địa danh thể hiện niềm mong ước
này. Chẳng hạn, bản Văn Tân, bản Tân Quang, bản Thanh Xuân, thôn Văn Biên.
b. Trường nghĩa phản ánh ước mơ về cuộc sống trong sáng, thanh bình, đầm
ấm, yên vui
Trường nghĩa này được thể hiện qua những địa danh chứa các yếu tố Hán Việt
như “bình”, “yên” và yếu tố tiếng dân tộc thiểu số như “on”, “yên”, “an”. Những địa
danh chứa yếu tố Hán Việt chẳng hạn, bản Yên, bản Thanh Bình, bản Yên Bình;
những địa danh chứa các yếu tố tiếng dân tộc thiểu số chẳng hạn: bản On, bản Yên,
bản Phủ On, xã Thanh An, xã Thanh Yên, phường Thanh Bình.
c. Trường nghĩa phản ánh niềm mong ước về vùng đất rộng lớn có cuộc sống
tươi đẹp, giàu có, thịnh vượng
Các yếu tố Hán Việt như “mỹ”, “hồng”, “thái”, “hưng”, “phú”, “thịnh” và yếu
tố dân tộc thiểu số như “chăn” (với nghĩa là đẹp), “luông” (với nghĩa to lớn) thể
hiện rõ đặc điểm này. Chẳng hạn, bản Mỹ Hưng, thôn Hồng Thái, bản Hưng Yên,
bản Việt Hưng, bản Hưng Thịnh, xã Thanh Chăn (Mường Thanh đẹp), xã Thanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Luông (Mường Thanh to lớn).
104
d. Trường nghĩa phản ánh ước mơ về tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm vượt
lên mọi hoàn cảnh để đạt được mục đích
Chẳng hạn, thôn Độc Lập, đồi Độc Lập, thôn Quyết Thắng, thôn Đoàn Kết.
e. Trường nghĩa phản ánh niềm mong ước về vùng đất luôn luôn được bảo vệ
vững vàng nơi biên giới
Chẳng hạn, thành phố Điện Biên Phủ (thủ phủ vững vàng nơi biên giới),
huyện Điện Biên (biên giới vững vàng).
3.6.2.2. Tiểu nhóm 2
Bao gồm những địa danh có ý nghĩa phản ánh tình cảm của con người đối với
quê hương, bản quán và đối với vùng đất mới họ sẽ sinh sống dài lâu.
a. Trường nghĩa phản ánh tình cảm yêu quý, ca ngợi vùng đất đẹp, vùng
đất thiêng
Chẳng hạn, xã Thanh Xương (Mường Thanh yêu quý) gửi gắm tình cảm yêu
quý, trân trọng đối với vùng đất họ sinh sống, cánh đồng Mường Thanh (xứ trời) ca
ngợi mảnh đất thiêng, mảnh đất đẹp giàu.
b. Trường nghĩa phản ánh tình cảm nhớ thương sâu nặng đối với làng quê,
vùng đất họ đã từng sinh sống
Điều đó thể hiện ở việc mang theo tên làng xóm, huyện lị của quê cũ đến nơi
ở mới. Chẳng hạn, thôn Minh Tân ở xã Thanh Hưng và bản Cộng Hòa ở xã Thanh
Luông (huyện Điện Biên) là những thôn, bản do người Thái Bình mang lên vào
khoảng đầu thập kỉ 60 thuộc thế kỷ trước theo chính sách di dân làm kinh tế mới
của Đảng và Nhà nước ta; hay bản Yên Sơn gửi gắm tình cảm yêu quý và luôn nhớ
về cội nguồn của người Lạng Sơn lên sinh sống ở xã Thanh Yên (huyện Điện Biên).
3.6.2.3. Tiểu nhóm 3
Bao gồm các địa danh chứa các yếu tố phản ánh tình cảm trân trọng, lòng biết ơn
sâu sắc và sự ghi nhớ công lao của người dân nơi đây đối với những vị anh hùng dân tộc,
những người có công với đất nước. Các địa danh này có ở các loại địa danh đơn vị dân
cư, địa danh công trình nhân tạo và đều được cấu tạo bằng các danh từ riêng chỉ tên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người, các tên riêng này có nguồn gốc của các yếu tố Hán Việt, của các yếu tố tiếng
105
dân tộc thiểu số và cả nguồn gốc tiếng Pháp. Chẳng hạn, hầm Đại tướng Võ Nguyên
Giáp, đường Hoàng Văn Thái, đường Lê Trọng Tấn lần lượt là những địa danh
mang tên vị tổng tư lệnh, tên của vị tham mưu trưởng của tổng tư lệnh và tên của vị
đại đoàn trưởng đại đoàn 312 trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ; đồi Phan
Đình Giót, đường Trần Can, đường Bế Văn Đàn là những địa danh mang tên của
các anh hùng liệt sĩ đã anh dũng hi sinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử; bản
Hoàng Công Chất mang tên của vị thủ lĩnh tướng quân đã có công đánh đuổi giặc
Phẻ ở đất Mường Thanh vào khoảng thế kỷ XVIII; đường Lò Văn Hặc là con đường
mang tên người cán bộ cách mạng dân tộc Thái Điện Biên, ông đã sớm giác ngộ và
vận động quần chúng địa phương đi theo tiếng gọi của Đảng sau Cách mạng Tháng
Tám, cả đời phấn đấu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vùng biên cương phía Tây
Bắc của Tổ quốc ngày cành vững mạnh, giàu đẹp.
3.6.2.4. Tiểu nhóm 4
Có một bộ phận nhỏ các địa danh chứa các yếu tố phản ánh một thời kỳ lịch sử
của dân tộc đồng thời phản ánh tinh thần tự tôn dân tộc. Đó là các địa danh công trình
nhân tạo được cấu tạo bởi các danh từ riêng chỉ tên người có nguồn gốc tiếng Pháp.
Chẳng hạn, hầm Đờ Cát, hầm mang tên của viên thiếu tướng Pháp chỉ huy tập đoàn
cứ điểm Điện Biên Phủ, chính hắn đã phải giơ cờ trắng đầu hàng vào ngày 7/5/1954
còn hầm Pi Rốt mang tên viên trung tá người Pháp, tư lệnh pháo binh của tập đoàn,
hắn đã tự sát trong chính hầm làm việc của mình khi nghe tin Điện Biên thất thủ.
Những địa danh này trở thành những chứng tích cho thấy sự thất bại nhục nhã
của quân thù.
3.6.2.5. Tiểu nhóm 5
Bao gồm các địa danh chứa những yếu tố có ý nghĩa phản ánh đời sống tín
ngưỡng của con người. Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện qua các hoạt
động sinh hoạt văn hóa tinh thần hoặc qua các công trình xây dựng đã và đang phục
vụ cho các hoạt động tín ngưỡng của nhân dân. Trường nghĩa này được thể hiện qua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
các địa danh nhân văn chỉ các loại di tích.
106
Chẳng hạn, di tích Đền Hoàng Công Chất là nơi ngày nay nhân dân trong
vùng vẫn thường xuyên đến thắp hương cầu phúc, lộc vào những ngày rằm, ngày lễ;
di tích Chùa Pá Sa là ngôi chùa cổ đã bị tàn phá qua thời gian nhưng nhân dân
trong vùng vẫn đến thắp hương cầu may; qua địa danh địa hình thiên nhiên như đồi
Pom Loi (đồi Khâm liệm) là nơi sau khi Lạng Chượng chết, nhân dân đã đem ông
khâm liệm ở đây.
Như vậy hai nhóm lớn về ý nghĩa địa danh trong một số địa danh thành phố
Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên đã được tạo nên bởi 30 trường nghĩa lớn, nhỏ
khác nhau. Nhóm ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan gắn liền với những đối
tượng địa lí chiếm số lượng lớn nhất với 20 trường nghĩa trong đó trường nghĩa
về tên gọi của các loại thực vật, động vật chiếm tỉ lệ cao nhất. Còn nhóm ý nghĩa
phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm của con người được thể hiện ở 10 trường
nghĩa còn lại trong đó niềm mong ước của con người với cuộc sống và với vùng
đất mà họ sinh cơ, lập nghiệp là trường nghĩa có các bộ phận nghĩa phong phú
nhất. Những nét nghĩa ấy đã kết hợp để vẽ lên bức tranh thiên nhiên và bức tranh
cuộc sống con người hết sức chân thực, sinh động. Đó là cảnh quan của núi rừng
trùng điệp với rất nhiều cây cối, muông thú quý hiếm, với nhiều địa hình kiến tạo
khác nhau. Đó là cảnh quan của sông suối, ao hồ dày đặc, uốn mình theo những
hình dáng kì thú của thiên nhiên, có nguồn nước dồi dào và nguồn sinh vật
phong phú. Đó là cảnh quan của những cánh đồng màu mỡ cuộc sống gần gũi
với thiên nhiên, chan hòa cùng thiên nhiên
3.7. MỘT SỐ ĐỊA DANH GẮN VỚI ĐỜI SỐNG, LỊCH SỬ, VĂN HÓA Ở
THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN
3.7.1. Điện Biên Phủ
Điện Biên Phủ là một địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc và nhân loại đặc biệt
là từ sau chiến thắng thực dân Pháp lẫy lừng, vang dội năm 1954. Ngày nay cái tên
Điện Biên Phủ là một địa danh gắn liền với những giá trị lịch sử, văn hóa trường tồn
và cũng là một trong những địa danh có nhiều cách giải thích chưa thống nhất về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nguồn gốc tên gọi.
107
Điện Biên hay Điện Biên Phủ là một vùng đất có lịch sử hình thành lâu đời.
Về đời Hùng Vương, vùng Tây Bắc nước ta - trong đó có Mường Thanh - là đất Văn
Lang. Về đời Lý, đất Mường Thanh nằm trong địa hạt châu Lâm Tây. Đời Trần, nước
ta có 15 lộ thì Mường Thanh thuộc châu Ninh Viễn, lộ Đà Giang. Châu Ninh Viễn
tương đương với cả tỉnh Lai Châu (cũ). Đến đầu đời Lê, Mường Thanh thuộc châu
Phục Lễ, trấn Gia Hưng (châu Phục Lễ, tức Mường Lễ, tức Lai Châu cũ). Năm 1469,
Mường Thanh thuộc phủ An Tây, thừa tuyên Hưng Hóa (phủ An Tây nguyên là châu
Phục Lễ). Năm 1775 (có tài liệu nói năm 1777), chúa Trịnh đặt châu Ninh Biên thì
Mường Thanh là trung tâm, là thủ phủ của Ninh Biên. Mãi đến năm 1841, đời Thiệu
Trị nguyên niên, phủ Điện Biên được thành lập bao gồm cả châu Ninh Biên. Từ đó
tên gọi Điện Biên hay Điện Biên Phủ mới xuất hiện. Từ khi thực dân Pháp đặt ách
thống trị ở tỉnh Lai Châu (cũ) cho đến khi chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, kết
thúc 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, châu Điện Biên thuộc tỉnh Lai Châu.
Đến năm 1955, khu tự trị Thái - Mèo, sau đổi là khu tự trị Tây Bắc, được thành lập
(không có cấp hành chính tỉnh) thì châu Điện Biên trực thuộc sự chỉ đạo của khu.
Đến năm 1962, khi tỉnh Lai Châu được khôi phục thì huyện Điện Biên cũng được
thành lập, không còn tồn tại châu Điện Biên. Huyện Điện Biên tồn tại cho đến ngày
nay tuy nhiên địa giới của huyện đã bị chia tách nhiều để thành lập thị xã Điện Biên
Phủ (năm 1992) và thành phố Điện Biên Phủ (năm 2003).
Về tên gọi, Điện Biên Phủ là vùng đất của người Thái bản địa cùng với một
số dân tộc ít người khác và sau này có thêm người Kinh lên khai hoang sinh sống
nên địa danh Điện Biên Phủ có cả nguồn gốc tiếng Thái và tiếng Việt.
* Nguồn gốc tên gọi bằng tiếng Thái.
Điện Biên Phủ có tên gọi bằng tiếng Thái là Mường Thanh. Đây cũng là tên
gọi xa xưa và phổ biến nhất của Điện Biên Phủ. "Mường Thanh" là cách đọc theo
phát âm của tiếng phổ thông. Nếu phát âm theo cách phát âm của tiếng Thái địa
phương thì phải đọc là "Mướng Then" hoặc "Mưỡng Then". Theo "Từ điển Thái -
Việt" do Hoàng Trần Nghịch - Tòng Kim Ân biên soạn thì "then" có nghĩa là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
"thượng đế", "thần", "mưỡng" là "mường, nước, tổ quốc". "Mưỡng Then" hay
108
"Mướng Then" là thiên cung, là mường trời, là cõi trời hay là một xứ của trời. Sau
này tùy theo cách phiên âm Thái - Việt, Hán - Việt mà người ta gọi với các tên khác
nhau như: Mường Thanh, Mường Theng, Mường Then, Mường Thiên... trong đó tên
gọi Mường Thanh là phổ biến nhất và được dùng nhiều nhất.
Trong tác phẩm “Sông núi Điện Biên” (2000), Trần Lê Văn cho rằng từ
"mường" là một từ có nghĩa co giãn trong ngôn ngữ Thái. Có thể đó là một không
gian vô giới hạn như "Mướng Then", "Mướng Phạ", "Mướng Bôn" đều chỉ cõi trời
trong đó có ông trời làm chủ, "Mướng Phi" là cõi ma, "Mướng Cốn" là cõi trần, cõi
của những người đang sống. Có thể thu hẹp nghĩa lại, đó là khu vực của một dân
tộc, như "Mướng Lự" là vùng của người Lự, "Mướng Táy" là vùng của người
Thái... Có thể đó chỉ là nơi tập hợp các bản sở tại của một châu lỵ, huyện lỵ. Vì thế
Mường Thanh xưa kia là nơi tập hợp các bản sở tại của châu lỵ Điện Biên.
Như vậy, "mường" vừa dùng để chỉ một châu, một huyện vừa dùng để chỉ
châu lỵ, huyện lỵ, tức thủ phủ của châu ấy, huyện ấy. Cho nên Điện Biên hay
Mường Thanh, theo nghĩa rộng là toàn bộ địa hạt của tỉnh ngày nay (xưa kia là
châu, sau này là huyện), theo nghĩa hẹp là khu vực thung lũng (nay gồm huyện Điện
Biên và thành phố Điện Biên Phủ trong đó có cánh đồng Mường Thanh rộng lớn,
phì nhiêu, màu mỡ).
Đất Mường Thanh xưa gắn liền với nhiều câu chuyện thần thoại, truyền
thuyết dân gian của đồng bào các dân tộc sinh sống nơi đây đặc biệt là dân tộc Thái,
thành phần dân tộc cư trú đông nhất. Những câu chuyện đó được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác, từ vùng đất này sang vùng đất khác nên đã có ít nhiều chi
tiết bị biến đổi tùy theo từng dân tộc, từng địa phương. Tuy nhiên nội dung cơ bản
cổ xưa của chúng thì ít bị thay đổi. Cho nên mỗi khi kể chuyện khai thiên, lập địa và
nguồn gốc loài người, con cháu đời sau của những dân tộc đến chinh phục đất Điện
Biên thuở sơ khai đều hiểu rằng Mường Thanh là quê hương xa xưa của họ, là nơi
khởi nguyên nguồn gốc loài người. Theo "Truyện kể bản mường" (Quắm tố mướng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thì con người được Then (trời) cử xuống trần gian để sinh sống, dựng bản, lập
109
mường và Mường Thanh đã trở thành vùng đất được Then chọn lựa. Hẳn là vùng
đất ấy rất giàu và đẹp như tên gọi vốn có của nó (Mường Thanh - Mường Trời).
Trên đất Mường Thanh ngày nay còn có hai nơi liên quan đến chuyện sinh
thành con người mà những địa danh này đã được nhắc đến trong các câu chuyện cổ,
đó là hồ U Va (hồ Tao Bảo) ở xã Noong Luống và núi Tẩu Pung (núi Quả Bầu) ở xã
Nà Tấu, cả hai xã đều thuộc huyện Điện Biên.
Truyện Hồ U Va kể rằng: Thuở trời đất còn liền nhau, ở hồ U Va, phía Bắc
đất Mường Thanh, có dây leo Khau Cát nối liền trời và đất. Lúc đó, mặt đất còn như
trong đêm tối. Ngước trông lên, trời mới chỉ to bằng chiếc hoa nấm úp xuống miền
cánh đồng Mường Thanh, nơi có con sông Nậm Rốm chảy qua. Then đã cử "10
giống Xá, 5 giống Thái" xuống tạo bản, lập mường. Sau đó các lớp người mới lại
được cử xuống, nối tiếp nhau gây dựng trần gian. Mặc dù đã được Then hướng dẫn,
chỉ bảo làm lụng nhưng loài người vẫn làm trái ý Then, Then nổi giận, gây ra hạn
hán, lũ lụt làm loài người chết gần hết. Sau khi dây Khau Cát bị cắt đứt đi thì bầu
trời được đẩy lên cao dần. Như vậy sợi dây Khau Cát không chỉ là sợi dây nối liền
bầu trời - mặt đất mà còn là sợi dây sự sống, nối liền con người với cội nguồn của
họ, là biểu tượng cho nguồn gốc phát sinh loài người.
Tiếp đó truyện Quả bầu kể rằng: Sau nạn hồng thủy do Then gây ra chỉ còn
hai anh em nhà nọ sống sót. Then đã sắp đặt cho họ lấy nhau và sinh ra một quả
bầu. Quả bầu đó được người anh dùng dùi nung đỏ khoan thủng vỏ bầu và sau đó
người em dùng dao khoét rộng lỗ cho các giống người chui ra. Người Xá ra trước bị
dính gio than ở miệng lỗ nên da ngăm ngăm đen, người Thái, người Lự, người
Lào... người Kinh lần lượt ra sau nên da trắng hơn. Sau đó các giống người phân
chia đi các ngả để kiếm ăn. Giống người ra đầu tiên ở lại là tổ tiên của người Xá còn
giống người ra sau cùng đi xuống đồng bằng là tổ tiên của người Kinh ngày nay.
Đất Mường Thanh sở dĩ được rộng lớn, màu mỡ như ngày nay, theo người
Thái, đó là do một ông khổng lồ mà người Thái gọi là Ải Lậc Cậc khai phá. Ải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gánh núi, ngăn sông, làm ruộng, đánh cá, khai phá ruộng nương, tạo nên cảnh trí
110
thiên nhiên của vùng. Ải không chỉ mở mang được cánh đồng Mường Thanh mà
còn mở rộng được ba cánh đồng lớn khác là Mường Lò (Yên Bái), Mường Than
(Lai Châu), Mường Tấc (Sơn La). Cho nên trong dân gian đã lưu truyền câu ví về
độ rộng lớn, trù phú của bốn cánh đồng: "Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc".
Mường Thanh là ruộng mạ của Ải còn Ải vỡ Mường Lò, Mường Than, Mường
Tấc để cấy. Buổi sớm còn cấy lúa ở Mường Thanh, chiều Ải đã về cấy lúa ở
Mường Tấc, giữa hai mường cách xa nhau đến mấy chục ngày đường bộ. Hiện ở
xã Sam Mứn còn có núi Xôi Nướng (Pú Khẩu Chí) vốn là nắm xôi nướng Ải đang
ăn khi cấy lúa ở Mường Lò ném đuổi trâu ăn lúa ở Mường Thanh. Mường Thanh
là cánh đồng rộng và đẹp nhất của Ải.
Trong kho tàng truyện cổ dân gian người Thái còn lưu truyền câu chuyện kể
về một nhân vật có thể coi là tổ tiên chung của người Thái và một vài dân tộc khác
ở Mường Thanh đó là Khun Borom. Qua hai ngàn năm, loài người sau khi xuống
trần lại chết hết. Then cử Khun Borom, con trai út của Then, xuống trần gian để thu
xếp bản mường, cai trị trần gian. Khun Borom mang theo hai người vợ xinh đẹp và
cho một đoàn tùy tùng đi theo. Xuống cư trú ở đất Mường Thanh ít lâu, hai người
vợ sinh hạ cho Khun Borom được bảy người con. Các con của Khun lớn lên đều tài
giỏi, lần lượt được Khun cử đi bảy nơi để xây dựng các vùng đất, lập nên các bản
mường làm cho dòng dõi của Then ngày càng sinh sôi, phát triển.
Như vậy trong cảm quan huyền thoại của mình, người Thái Mường Thanh
ví vùng đất của họ như "cõi trời". Sau này vào khoảng thế kỷ XI - XII, dưới con
mắt của Lạng Chượng, một vị tướng người Thái đã đánh bại các tù trưởng các
nhóm dân tộc Nam Á ở miền Sơn La, làm chủ trung tâm cánh đồng Mường
Thanh, thì "Vùng đất lớn nhất là cánh đồng Mường Thanh, tròn như cạp nong,
cong như sừng trâu". Đến thế kỷ XV, nhà bác học Lê Quý Đôn trong cuốn "Kiến
văn tiểu lục" lại đánh giá: "Châu này thế núi vòng quanh, ruộng đất bằng phẳng,
màu mỡ, sản vật nhiều, thú rừng lắm... có thể nói đây là miền đất màu mỡ, trù
phú nhất miền Bắc nước ta". Còn trong dân gian thì muôn đời lưu truyền câu ví:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
"Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc".
111
* Nguồn gốc tên gọi Hán Việt
Như vậy theo nghĩa tiếng Thái, Điện Biên Phủ hay Mường Thanh là chỉ
mường trời, một vùng đất của thiên đường, một vùng đất huyền thoại, giàu đẹp. Sau
tên gọi Mường Thanh, vùng đất này còn mang những tên gọi khác nhau tùy theo các
triều đại và cũng tùy theo các đơn vị hành chính xưa. Đến đời Thiệu Trị nguyên
niên năm 1841, để bảo vệ miền Tây Bắc giàu đẹp chống lại sự dòm ngó của phong
kiến Xiêm La và Nam Chưởng (Luông Pha Băng) và chống lại sự quấy rối thường
xuyên của những đám giặc cỏ từ ba nước Miến Điện, Lào, Trung Quốc vào Tây Bắc
cướp phá, nhà vua đã lấy đất các châu Ninh Biên, Tuần Giáo, châu Lai lập thành
phủ Điện Biên, đóng phủ lỵ ở Chiềng Lễ, nơi đại bản doanh của người anh hùng
nông dân Hoàng Công Chất. Đến nay, trong khi chỉ có các đơn vị hành chính là
thay đổi còn tên Điện Biên hay Điện Biên Phủ thì vẫn còn tồn tại. Phải chăng bởi
tên gọi đó có ý nghĩa và giá trị muôn đời?
Trần Lê Văn cho rằng: "điện" là "vững", "biên" là "biên giới", "điện biên" là
"biên giới vững vàng". Nếu "điện" dùng làm tính từ thì "điện biên" hiểu là "giữ
vững nơi biên giới" cũng như những tên gọi trước đây: Ninh Viễn (vỗ yên nơi xa),
An Tây (làm yên phía tây), Ninh Biên (vỗ yên nơi biên giới). Đó đều là những tên
gọi gửi gắm ước vọng của nhân dân cũng như phản ánh sự quan tâm và mong muốn
chung của các triều đại phong kiến đối với vùng lãnh thổ phía Tây của đất nước.
Điện Biên còn được gọi là Điện Biên Phủ, chữ phủ trong Điện Biên Phủ có
nhiều cách hiểu. Có ý kiến cho rằng "phủ" có nghĩa là một đơn vị hành chính thời
phong kiến như phủ Điện Biên, phủ An Tây, phủ Gia Hưng, phủ Quy Hóa; cũng có
người cho rằng "phủ" nghĩa là "thủ phủ". Thực ra hai cách hiểu này đều có những
căn cứ nhất định.
Theo cách hiểu thứ nhất, "phủ" là một đơn vị hành chính của nhà nước
phong kiến, đơn vị này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1469, khi Lê Thánh Tông đặt
cả nước thành 12 thừa tuyên, dưới thừa tuyên là các phủ, châu. Khi đó, Mường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thanh thuộc phủ An Tây, thừa tuyên Hưng Hóa. Sau này, nhà Nguyễn cũng lấy
112
"phủ" làm một đơn vị hành chính và thành lập phủ Điện Biên thì "phủ Điện Biên"
hay "Điện Biên Phủ" nghĩa là "một phủ vững vàng nơi biên giới". Ở đây, chữ "phủ"
trong cụm từ "phủ Điện Biên" là một thành tố chung đã chuyển hóa thành một bộ
phận của tên riêng trong từ "Điện Biên Phủ".
Theo cách hiểu thứ hai, vào năm 1775 (có tài liệu nói năm 1777), chúa Trịnh
đặt châu Ninh Biên thì Mường Thanh là trung tâm, là thủ phủ của châu Ninh Biên.
Đến năm 1841, vua Thiệu Trị cho thành lập phủ Điện Biên. Lúc đó phủ Điện Biên
là một vùng rộng lớn bao gồm cả châu Ninh Biên, châu Lai và châu Tuần Giáo.
Trung tâm của phủ Điện Biên chính là trung tâm Mường Thanh của châu Ninh Biên
trước đó. Như vậy "Điện Biên Phủ" nghĩa là "thủ phủ vững vàng nơi biên giới".
Ngoài ra lại có người đưa ra cách hiểu khác. Đó là cách giải thích của tác giả
người Pháp Rules Roy trong cuốn "Trận Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp",
cuốn sách được viết sau khi quân Pháp bị thất bại thảm hại tại chiến trường Điện
Biên Phủ: "điện" là "to", "biên" là "biên giới", "phủ" là "thủ phủ hành chính", "điện
biên phủ" là "thủ phủ hành chính lớn ở biên giới".
Như vậy hiện nay có ba cách hiểu về ý nghĩa của địa danh Điện Biên Phủ.
Cách hiểu thứ nhất phù hợp khi "phủ" dùng để chỉ một đơn vị hành chính của nhà
nước phong kiến. Cách giải thích thứ ba khiến cho cái tên Điện Biên Phủ chỉ có ý
nghĩa đơn thuần về vị trí, về hình thức (là thủ phủ hành chính to lớn) mà không thấy
được giá trị lịch sử cũng như ước vọng muôn đời của nhân dân ta: luôn luôn bảo vệ
vững vàng không chỉ miền biên giới phía Tây mà mọi miền biên cương, mọi vùng
lãnh thổ của Tổ quốc. Cách giải thích thứ hai cho rằng Điện Biên Phủ là "thủ phủ
vững vàng nơi biên giới" là phù hợp hơn cả. Thứ nhất, ngày nay nhà nước ta không
còn sử dụng "phủ" để đặt cho một đơn vị hành chính như ở triều đại phong kiến nữa
mà sử dụng các đơn vị khác tương đương như huyện, thị xã, thành phố. Mặt khác,
cái tên Điện Biên Phủ đã được dùng để đặt cho trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa
của tỉnh Điện Biên đó là thành phố Điện Biên Phủ. Thứ hai, Điện Biên Phủ là một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tỉnh miền núi biên giới phía Bắc của Tổ quốc và cũng là tỉnh duy nhất trên đất nước
113
ta có chung đường biên giới với hai quốc gia Trung Quốc và Lào. Vì vậy vấn đề
bảo vệ lãnh thổ càng phải được đặt lên hàng đầu. Cho nên đồng bào các dân tộc
Điện Biên cũng như nhân dân cả nước không chỉ mong ước mà đã biến ước mong
thành quyết tâm giữ vững miền biên giới xa xôi của Tổ quốc. Mặt khác, tên gọi
Điện Biên Phủ đã trở nên nổi tiếng và được sử dụng phổ biến sau khi quân dân ta
chiến thắng lừng lẫy quân đội Pháp tại chiến trường Điện Biên Phủ vào năm 1954.
Ngay cả ở Pháp, sau chiến dịch Điện Biên Phủ, đã nảy sinh tử "dienbienphuer"
(động từ) có nghĩa như "chiến thắng lớn lao, trọn vẹn". Địa danh Điện Biên Phủ
cũng đã được giải thích trong nhiều cuốn từ điển lớn trên thế giới như từ điển
“Larutxơ” của Pháp năm 1993, từ điển “Bách khoa” của Mỹ năm 1986 và từ điển
“Bách khoa quân sự” của Nga năm 1987. Và từ đó Điện Biên Phủ đồng nghĩa với
chiến thắng, Điện Biên Phủ trở thành tên gọi tượng trưng cho ý chí quật cường, bất
khuất, cho tinh thần độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam.
Như vậy Điện Biên Phủ với nghĩa "thủ phủ vững vàng nơi biên giới" không
chỉ khẳng định vị trí của Điện Biên Phủ mà còn khẳng định cả giá trị lịch sử, văn
hóa trường tồn của nó.
Nét nghĩa này đã đi vào trong thơ Nguyễn Thị Lâm Hảo, nhà thơ Điện Biên,
hội viên Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam:
“Điện là cái thế vững vàng
Biên là dải đất bản làng biên cương
Điện Biên không chỉ đẹp tên
Mà còn đẹp cả quê hương, tình người”
(Điện Biên quê tôi, trích “Điện Biên Phủ - Đất và người”)
Người Thái xưa gọi Điện Biên hay Điện Biên Phủ là Mướng Then (Mường
Thanh) thì nay trong tiếng Thái Mướng Then (Mường Thanh) vẫn được dùng để gọi
Điện Biên Phủ. Còn đối với người Kinh, cả hai từ Mường Thanh và Điện Biên Phủ
đều đi vào kho tàng từ vựng tiếng Việt cũng như đi vào những cuốn từ điển địa
danh ở Việt Nam. Đối với các dân tộc trên thế giới, Điện Biên Phủ đã đi vào những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trang sử hào hùng của nhân loại.
114
Trước đây, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, Mường Thanh - Điện Biên
Phủ cũng như đất nước Việt Nam không có tên trên bản đồ thế giới thì từ sau hòa bình
lập lại cho đến nay cả Mường Thanh - Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ - Mường Thanh
đã đi vào lịch sử như một vùng đất huyền thoại, vùng đất lịch sử, vùng đất văn hóa.
Nhân dân các dân tộc Điện Biên đang viết tiếp lên những trang sử mới của
một vùng đất đã từng "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Họ quyết tâm phấn
đấu xây dựng quê hương Điện Biên ngày càng giàu đẹp, ngày càng phát triển vững
mạnh, toàn diện để Điện Biên là một vùng đất huyền thoại - lịch sử - văn hóa không
chỉ trong quá khứ mà cả hiện tại - tương lai, để Điện Biên mãi mãi "nên vành hoa
đỏ nên thiên sử vàng".
3.7.2. Thành Bản Phủ và đền Hoàng Công Chất
Thành Bản Phủ là một trong hai tòa thành cổ mà đến nay vẫn còn lại dấu tích
trên cánh đồng Mường Thanh. Tòa thành có giá trị lịch sử to lớn, là di tích của một
cuộc khởi nghĩa nông dân rất lớn hồi đầu thế kỉ XVIII, đồng thời là tư liệu nghiên
cứu về kiến trúc khá độc đáo của một công trình kiến trúc quân sự tại một vùng biên
giới xa xôi của nước ta.
Thành Bản Phủ có khá nhiều tên gọi khác nhau, theo tiếng địa phương thành
có tên là Chiềng Lề, sau đó sử sách cũ chép lại đã phiên âm tiếng địa phương ra
tiếng Hán Việt là Trình Lệ. Còn trong đời sống nhân dân, có người gọi là lũy bảy vị
anh hùng, cái tên gắn liền với bảy vị tướng có công trong cuộc khởi nghĩa do Hoàng
Công Chất lãnh đạo; có người gọi là thành Hoàng Công Chất, là tên gọi của vị thủ
lĩnh nghĩa quân có công xây dựng thành và đem lại đời sống yên ấm cho nhân dân
trong vùng; có người lại gọi là thành Bản Phủ, cái tên gắn liền với một địa danh
hành chính. Theo Đỗ Văn Ninh thì "tên Bản Phủ có tự bao giờ thật khó nói chắc
chắn. Năm 1469, Lê Thánh Tông đặt 12 thừa tuyên, Mường Thanh thuộc phủ An
Tây, thừa tuyên Hưng Hóa, An Tây nguyên là châu Phục Lễ, tức Mường Lễ (Lai
Châu và Điện Biên ngày nay). Có thể phủ trị An Tây đặt tại đây và từ đó bản sở tại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
được gọi là Bản Phủ. Lại cũng có thể từ khi Hoàng Công Chất đặt phủ ở đây, bản sở
115
tại mới mang tên Bản Phủ" [37, tr.37]. Dù cho tên gọi thành Bản Phủ có nguồn gốc
xuất xứ thế nào thì cho đến nay thành Bản Phủ đã trở thành tên gọi quen thuộc đối
với mọi người dân sinh sống ở Điện Biên và có lẽ với cả những du khách dù chỉ
một lần đặt chân đến tòa thành độc đáo này.
Từ tỉnh lỵ Điện Biên xuôi theo đường quốc lộ 279 xuống phía Nam khoảng
10 km, qua di tích Hận thù Noong Nhai và di tích phân khu Hồng Cúm là tới thành
Bản Phủ.
Theo sử Thái thì việc xây dựng thành Bản Phủ, Hoàng Công Chất đã giao
cho con là Hoàng Công Toản đảm nhiệm, thành được khởi công năm 1758 và hoàn
thành năm 1762.
Theo tác phẩm “Di tích lịch sử và văn hóa Điện Biên Phủ”: Thành Bản Phủ
rộng 80 mẫu, được xây dựng theo một hình thế rất linh hoạt, tận dụng được những
thuận lợi về thiên nhiên, địa hình. Thành có 5 cạnh không đều nhau: Hai cạnh phía
Tây dựa vào khuỷu sông Nậm Rốm, cạnh phía Nam dựa vào suối Huổi Lé, phụ lưu
sông Nậm Rốm, cạnh phía Đông chạy song song với đường quốc lộ, cạnh phía Bắc
nhìn dọc cánh đồng Mường Thanh. Vì những đặc điểm này mà các cạnh phía Tây
và phía Nam không phải đào hào bên ngoài thành còn các cạnh phía Bắc và phía
Đông phải đào hào ở bên ngoài, hào sâu 10 m, rộng 4 - 5 m, được nối thông với
sông Nậm Rốm và suối Huổi Lé, nhờ vậy mà hào quanh năm có nước và là một lớp
chướng ngại quan trọng. Tường thành đắp bằng đất cao 5 m, mặt thành rộng từ 4
đến 6 m, voi ngựa có thể đi lại dễ dàng. Thành có 4 cửa: cửa tiền quay ra sông Nậm
Rốm tức là quay ra hướng Tây, cửa hậu quay ra quốc lộ 279 tức là quay ra hướng
Đông, cửa hữu quay ra hướng Bắc và cửa tả quay ra hướng Nam, hiện nay cửa
chính mở vào thành là cửa hữu ở hướng Bắc. Ở mỗi cửa thành xưa kia đều có đắp ụ
làm chòi và có lính canh gác. Hiện nay còn thấy rõ các chòi canh ở các góc thành.
Trong thành gồm hai khu: khu ngoài và khu trong. Khu ngoài ở phía Bắc chiếm
diện tích khá lớn còn khu trong chỉ chiếm một diện tích nhở ở phía Nam. Khu ngoài
là nơi binh lính đóng quân, họ đã đào 133 cái ao và giếng nước để lấy nước sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoạt và lấy đất đắp thành. Các trại lính, kho quân lương, kho vũ khí, tàu ngựa,
116
chuồng voi cũng đều ở khu này. Khu trong là nơi ở của thủ lĩnh Hoàng Công Chất
và các tướng lĩnh. Nơi này ngày nay còn có đền thờ Hoàng Công Chất và sáu tướng
giỏi của ông. Theo sử chép tay của Điện Biên, các tướng đó gồm: quận Chung, quận
Ngải, quận Khanh, quận Xiêm, quận Tả và quận Hữu. Cùng với Hoàng Công Chất,
sáu tướng lĩnh này họp thành bảy vị anh hùng của nghĩa quân. Do đó trước đây
thành Bản Phủ còn có tên gọi là lũy bảy vị anh hùng. Bên ngoài thành, khắp bốn
phía đều được trồng tre gai ngà có gai cong như chiếc ngà voi. Đây là giống tre
được nghĩa quân mang từ miền xuôi lên và được trồng dày đặc làm phên dậu che
chắn cho tòa thành. Sau này đã có địa danh gắn liền với những cây tre được trồng
nơi đây đó là bản Na Sang (ruộng tre mạy sáng) rồi có thêm những địa danh khác
được mang tên gọi này như suối Na Sang, cầu Na Sang.
Ngày nay đồng bào địa phương còn lưu truyền những câu thơ ca ngợi thành
Bản Phủ và công đức của Hoàng Công Chất:
Đây đúng là phủ lớn Chiềng Lề của ta
Chiềng Lề có trăm ao bèo to nhỏ
Chúa người Kinh xây thành để tiếng tăm đến đời sau
Chỗ sâu của thành sâu mười sải dài.
Chỗ rộng, rộng mười sải chân.
Mặt thành rộng bao nhiêu sải tay
Chúa cưỡi ngựa lên mặt thành xem xét
Đào hào, trồng tre pháy sợ không được dày
Mới lấy tre dưới xuôi lên
Trồng mới hàng rào mười vạn gốc
Chúa chia nước cho dân uống
Chia đất cho dân làm
Chúa hò hát âm vang trong phủ
Ai muốn biết thì đến mà ngóng xem
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mắt thấy tai nghe đủ các ngõ.
117
Đền Hoàng Công Chất được xây dựng ở trung tâm thành Bản Phủ. Nhân dân
Điện Biên coi đây là nơi ghi nhận công lao của Hoàng Công Chất và sáu vị tướng
giỏi của ông, những người anh hùng tài trí đã cùng đồng bào các dân tộc Điện Biên
đánh tan giặc Phẻ, giải phóng Điện Biên tháng 5 năm 1754 đồng thời có công xây
dựng và bảo vệ miền biên cương của Tổ quốc, chống lại sự xâm lăng của giặc ngoại
bang thời bấy giờ.
Hoàng Công Chất tên thật là Hoàng Công Thư, quê ở thôn Hoàng Xá, xã
Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông sinh năm 1706 trong một gia đình
nông dân và lớn lên cùng với những cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi chống
lại triều đình Lê - Trịnh. Năm 1739, Hoàng Công Chất phất cờ khởi nghĩa tại vùng
Sơn Nam (Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên). Lợi dụng vùng đầm lầy, sông nước
nghĩa quân dùng thuyền nhỏ di chuyển và chiến đấu rất linh hoạt gây nhiều tiếng
vang lớn. Các nghĩa quân của Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn, Tư Cao v.v... dần
quy tụ dưới cờ nghĩa quân Hoàng Công Chất. Nghĩa quân ngày một lớn mạnh đã
liên kết chặt chẽ với các cuộc khởi nghĩa khác của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ,
Nguyễn Hữu Cầu... cùng đẩy mạnh chiến đấu gây không ít khó khăn cho triều đình
Lê - Trịnh. Sau một thời gian dài hoạt động ở miền đồng bằng và liên kết với các
cuộc nổi dậy của các lãnh tụ nông dân, năm 1748, họ Hoàng vào hoạt động ở miền
thượng du Thanh Hóa phối hợp với nghĩa quân Lê Duy Mật chống lại triều đình
phong kiến mục nát và từ đó tiến quân lên miền Tây Bắc. Khi ở Thượng Lào, được
các thủ lĩnh người Thái là Ngải và Khanh cầu cứu, Chất đem quân lên Mường
Thanh và đoàn kết với đồng bào các dân tộc nơi đây đánh bại quân Phẻ, bảo vệ
miền biên cương của Tổ quốc. Sau chiến thắng giặc Phẻ, Hoàng Công Chất giúp
dân chúng ổn định sản xuất, cải thiện đời sống để thực hiện "thực túc binh cường"
và giao cho con là Hoàng Công Toản xây thành Bản Phủ. Từ đó Hoàng Công Chất
còn thu hồi được đất đai miền Thập Châu bị nhà Lê bỏ mất, ngăn ngừa được những
cuộc nhũng nhiễu, lấn đất, cướp bóc của bọn giặc cỏ từ phương Bắc tới. Vì vậy uy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tín của họ Hoàng đối với nhân dân địa phương rất lớn.
118
Hoàng Công Chất hoạt động ở Mường Thanh - Tây Bắc được hơn mười năm
và để lại công đức rất lớn. Các nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn và Cầm Trọng
khi nghiên cứu về "Những hoạt động của Hoàng Công Chất trong thời kỳ ở Tây
Bắc" đã nhận xét: "Ông có công cứu dân Thái và các dân tộc khác khỏi ách giặc
Phẻ, giải phóng miền Điện Biên khỏi sự lệ thuộc vào các chúa phong kiến Lào.
Miền này trên danh nghĩa đã quy vào địa đồ nước ta rất sớm, nhưng trong thực tế
vẫn do người Lự chiếm giữ từ giữa thế kỉ XI trở về trước. Tiếp đó một tù trưởng
người Thái đen là Lạng Chượng lên chiếm làm chủ. Đến thế kỉ XVIII, người Lự lại
đánh đuổi con cháu Lạng Chượng chiếm lại và làm chúa ở đó tính đến khi họ
Hoàng lên được 19 đời. Từ đó miền Điện Biên thuộc hẳn vào địa đồ nước ta và trở
nên một vị trí quan trọng của triều đình Việt Nam nhằm ngăn chặn sự uy hiếp của
quân Miến, quân Lào và quân Xiêm. Hoàng Công Chất còn thu phục lại 10 châu
thuộc phủ Yên Tây trước đây triều đình đã để mất cho các quan lại phong kiến vùng
Vân Nam. Hơn thế, Hoàng Công Chất còn xây dựng được sự đoàn kết chặt chẽ giữa
các dân tộc Kinh, Thái, Xá... nên được nhân dân các dân tộc Tây Bắc tín nhiệm,
mến yêu, coi như người anh hùng của mình". Khi Hoàng Công Chất mất đi, nhân
dân Tây Bắc nhất là vùng Điện Biên còn truyền lại đến ngày nay nhiều bài ca, nhiều
truyền thuyết ca ngợi công lao cứu dân, cứu nước của họ Hoàng:
"... Đây! Dưới xuôi có vua,
Trên này có chúa,
Những miền từ Mường Puồn, Châu Ét,
Từ Đà Bắc, Chợ Bờ,
Lại phía trên từ Châu Xo, Là đổ lại,
Tất cả đều quy phục chúa Mường Thanh.
Đất Mường Thanh rộng một giải Nậm Rốm, Nậm U, Nậm Núa,
Vây quanh thành Bản Phủ.
Chúa thật lòng yêu dân,
Chúa xây bản, dựng mường,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mọi người yên ổn làm ăn..."
119
*
* *
"... Nghe chăng tiếng hát của Keo Chất trong phủ,
Ngân vang khắp cánh đồng Mường Thanh bao la.
Ai ơi muốn biết xin hãy về coi,
Ai ơi có mắt hãy mở trông cho kỹ.
Người Kinh cùng người Hán,
Người Thái với người Lào, người Xá,
Vui vẻ cùng nhau tay làm, miệng hát..."
Đến nay, cứ vào ngày 24 và 25 tháng 02 âm lịch hằng năm, nhân dân trong
vùng lại tụ hội về đây mở hội đền với các nghi lễ cổ xưa để ca ngợi và tưởng nhớ
công lao của thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Công Chất. Lễ hội ở đền Hoàng Công Chất
được gọi là lễ hội Thành Bản Phủ. Lễ hội gồm hai phần: phần rước lễ vật và phần lễ
hội. Phần rước lễ vật dâng lên đền thờ tướng quân Hoàng Công Chất được thực hiện
trang nghiêm, thành kính và gợi lại không khí cổ xưa. Đây là hình thức biểu hiện
lòng tin và sức mạnh của nhân dân các dân tộc về sự biết ơn người anh hùng nông
dân áo vải Hoàng Công Chất cùng với 6 vị tướng lĩnh. Phần lễ hội lại gồm hai phần
là phần lễ và phần hội. Phần lễ được tổ chức trang nghiêm, trọng thể: trong tiếng
nhạc trầm buồn vang lên lời đọc chúc văn giỗ tướng quân Hoàng Công Chất và các
vị tướng lĩnh, sau đó là màn tái hiện lịch sử Hoàng Công Chất để làm nổi bật truyền
thống đấu tranh, tinh thần đoàn kết dân tộc, xây dựng quê hương, đất nước của nhân
dân các dân tộc Tây Bắc - Điện Biên Phủ anh hùng và lễ dâng hương tưởng nhớ
công ơn tướng quân Hoàng Công Chất. Còn phần hội là phần tổ chức các hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể thao, các trò chơi dân gian, thi ẩm thực... Nhiều hoạt động
gợi lại thời kì Hoàng Công Chất lãnh đạo nhân dân chống giặc Phẻ và giúp dân xây
dựng đời sống. Phần hội góp phần thể hiện bản sắc văn hóa của các dân tộc trong
tỉnh, lòng tin yêu và mến mộ muôn đời của nhân dân đối với công lao của các vị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tướng đã đem lại cuộc sống mới yên vui, sung túc nơi đây.
120
Di tích thành Bản Phủ và đền Hoàng Công Chất đã được Bộ Văn hóa (nay là
Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm
1981. Đây là di tích không chỉ có giá trị lịch sử, văn hóa mà còn có giá trị cho việc
nghiên cứu khoa học và kiến trúc độc đáo của một công trình quân sự ở vùng rừng
núi biên cương của Tổ quốc Việt Nam.
3.7.3. Hồ U Va
Hồ U Va thuộc bản U Va, xã Noong Luống, huyện Điện Biên, tỉnh Điện
Biên, cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ trên 10 km về phía Tây Nam.
Cái tên hồ U Va cho đến nay cũng là một câu chuyện khá lí thú. Hai nhà
nghiên cứu văn hóa dân gian của tỉnh là Hoàng Tam Khọi và Lò Ngọc Duyên kể
rằng: Hồ U Va là một hồ nước tự nhiên, trước đây vắng vẻ, xa dân cư, xung quanh
hồ lau, sậy mọc rậm rạp. Nước hồ trong xanh và quanh năm đầy nước, có rất nhiều
các loài cá, các loài sinh vật và các loài thực vật sinh sôi, phát triển. Vì thế hồ có
nguồn thức ăn phong phú cho các loài vịt trời, sếu, thiên nga và các loài động vật
khác. Một vài người thợ săn mới biết đến hồ này đã làm những cái thum gần bờ hồ
để rình bắn vịt trời, sếu, thiên nga. Hằng ngày, họ săn bắt được khá nhiều nên dân
chúng ai cũng khen ngợi. Những người thợ săn ở nơi khác nghe tiếng đồn cũng tìm
đến. Khi họ rình bắn được nhiều chim trời như vậy nhiều người dân hỏi họ: Bắn ở
nơi đâu được thế này? Có một người thợ săn hôm ấy trả lời người hỏi: "Chỉ có ao
tao bảo (noong cu va) mới có mà rình bắn thôi". Từ đấy người dân quanh vùng gọi
hồ này là Noong Cu Va (Ao Tao Bảo). Mãi về sau không ai nhớ được nữa viết thành
Noong U Va. Nếu ta gọi U Va thì trong tiếng Thái không có nghĩa. Ngày nay do
quen gọi Noong U Va (Hồ U Va) rồi nên cứ gọi như thế nhưng ý nghĩa sâu xa của
nó là Noong "Cu Va" - Ao "Tao Bảo" (trong tiếng Thái chỉ có khái niệm ao, ao to,
ao nhỏ đều gọi là "noong" nhưng thực tế Noong U Va có diện tích khá rộng vì thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Noong Cu Va hay Noong U Va khi dịch sang tiếng Việt sẽ là Hồ U Va).
121
Hồ U Va đẹp, thơ mộng và xung quanh hồ còn lưu truyền nhiều huyền thoại
ly kỳ về mối quan hệ giữa bầu trời và mặt đất, giữa mường trời với mường người.
Theo lời kể của nhà nghiên cứu văn hóa Thái Cầm Trọng thì thuở mà Then
(ông trời) còn bắt đàn ông, đàn bà sống biệt lập và dần dà tạo lập thành hai mường
thì hồ U Va là một trong những nơi ở của mường đàn bà. Hồ U Va còn là nơi mà bà
Then Bảu (Mẹ Bẩu, giống như Bà mụ của người Việt) xúc cá để mớm cho con
người trước khi đưa con người xuống đầu thai ở cõi trần. Được ăn miếng cá ở hồ U
Va Mường Trời, loài người mới có linh hồn sống. Đến khi con người ở dưới cõi trần
làm trái ý Then, vẫn sinh con đẻ cái nên để tránh bị Then trừng phạt, những đứa trẻ
mới sinh ra phải được tắm nước hồ U Va ngay để lột xác thành người lớn.
Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cũng còn lưu lại câu chuyện về
hồ U Va: Theo "Truyện kể bản mường" (Quắm tố mướng) của người Thái thì ngày
xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi, trời và đất gần nhau lắm, gần đến nỗi "giã gạo bị
vướng chày, đẽo cày e vướng rìu, bò đi còn vướng cổ, lợn đi vướng gông". Dây
Khau Cát được dùng làm đường lên xuống giữa hai cõi trời và đất. Có lần trẻ con
của "Mường người" tung còn quá mạnh, còn bay lên "Mường trời" vướng vào
khung dệt của bà Da Náng Then, vợ của vua trời, làm đứt sợi dọc, làm rối sợi
ngang. Da Náng Then tức giận bèn chặt đứt dây Khau Cát để triệt đường lên xuống.
Dây Khau cát đứt, trời tự nhiên dâng bổng lên cao tít đến “ba trăm ba mươi đường
tên đi, năm trăm năm mươi đường đạn súng, bảy trăm bảy mươi thúng chỉ tơ” (lời
thơ trong tác phẩm "Ẳm Ết Lũng" của người Thái ở Mai Châu, Sơn La). Cũng từ đó
trời đất cách xa nhau và giữa lòng hồ U Va trời cho mọc lên một cây xi. Cây xi càng
lớn cành lá càng xum xuê che khuất cả mặt trời, bóng tối chùm lên một vùng rộng
lớn. Cả con người và cây cối đều bị cớm nắng, thiếu sức sống. Con người muốn
chặt bỏ cây xi nhưng không đủ sức. Sau nhờ có anh em Ẳm Ý tài giỏi, sức khỏe hơn
người, kiên trì ròng rã “ba tháng không nghỉ, ba năm không ngơi” cuối cùng cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhà trời cũng phải đổ. Vùng đất Mường Thanh từ đó chan hòa ánh sáng và ngày
122
càng trù phú, màu mỡ. Về sau vua trời cử Khun Borom, con út của vua trời, xuống
trần gian lập nghiệp. Khun Borom lập bản, dựng mường và nơi ở của Khun chính là
hồ U Va ngày nay.
Một câu chuyện khác trong kho tàng truyện cổ các dân tộc ít người Việt Nam
cũng giúp ta thêm hiểu hơn về một vùng hồ thiên nhiên, huyền thoại của dân tộc
Thái nói riêng và các đồng bào dân tộc sinh sống nơi đây nói chung. Đó là câu
chuyện về Ải Lậc Cậc đi tìm viên đá lửa, Ải đã lấy chân gạt đá về hai đầu sông và
một trong những hòn đá lửa của Ải hiện là một quả núi gần sông Pắc Nậm. Qua Pắc
Nậm một đoạn thì đến hồ U Va. Mùa khô hồ cạn nước, nông dân đắp bờ giữ nước
nuôi cá, trồng lúa ruộng. Khi mùa mưa đến, nước trên núi chảy về đầy hồ làm cho
hồ được tái sinh. Xung quanh hồ, núi rừng trùng điệp. Phía ngoài hồ có núi U Va,
phía trong hồ có Pú Tạo Nòn (núi chàng ngủ) và Pú Nang Nòn (núi nàng ngủ).
Bên cạnh những huyền thoại, truyền thuyết, hồ U Va còn là nơi có nguồn
suối khoáng nóng được thiên nhiên ban tặng. Nguồn là một mạch nước đùn ra từ
trong lòng đất, khoảng 65 đến 70 độ, nhúng tay vào bỏng rát. Nguồn nước này có
tác dụng an dưỡng và chữa trị được một số bệnh trong y học. Người dân địa phương
còn kể rằng trước đây họ thường mang trứng gà, trứng vịt ngâm nước cho chín, làm
thịt gà, vịt cũng chỉ cần nhúng xuống chỗ nước đầu nguồn là sẽ làm được dễ dàng.
Cũng theo tư liệu của Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ thì khu
vực hồ U Va trước đây đã phát hiện trống đồng cổ niên đại Hergơ II, III (hiện còn
lưu giữ tại bảo tàng Tỉnh Điện Biên) và một số hiện vật khác thuộc di chỉ khảo cổ
học. Các nhà khoa học cho rằng: Đây là nơi cư trú của một nhóm cư dân cổ xưa ở
Điện Biên. Các hiện vật đã cho thấy các cư dân ở U Va đã có mặt ở vùng đất này từ
rất sớm và trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau. Đặc biệt việc tìm thấy các mẫu
đám thóc cháy ở đây là những hiện vật rất quý để tìm hiểu nguồn gốc sự xuất hiện
của cây lúa Điện Biên. Cây lúa nơi đây có liên quan đến nhiều dòng, nhiều loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giống lúa hoang dại khác đã phát hiện ở Việt Nam và các nước trong khu vực. Như
123
vậy Hồ U Va và những khu vực xung quanh đó còn là một vùng có giá trị khảo cổ
học và giàu ý nghĩa lịch sử. Vì vậy cái tên Hồ U Va còn được đặt cho khu khảo cổ
học lớn của tỉnh: Khu khảo cổ học Hồ U Va.
Có thể nói thiên nhiên U Va tươi đẹp, hùng vĩ và thơ mộng. Nó vừa là sự ưu
ái của thiên nhiên vừa là kết quả tạo dựng của con người qua bao nhiêu thế hệ từ đất
Mường Thanh cổ xưa đến châu Điện Biên và Điện Biên Phủ ngày nay. Không chỉ
thế U Va còn có những truyền thuyết, huyền thoại lí thú, hấp dẫn và những di chỉ
khảo cổ học quý giá gắn liền với nền văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc đặc
biệt là dân tộc Thái. Trong tình cảm của mỗi người thì nơi đây thật sự là một vùng
đất huyền thoại, nơi khởi nguồn, khởi thủy và là nơi hội tụ của văn hóa và lịch sử.
Đó chính là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc anh em trên quê hương
Điện Biên Phủ anh hùng. Và như vậy trong tương lai hồ U Va sẽ là điểm phát triển
du lịch sinh thái, lịch sử bền vững gắn với du lịch văn hóa lành mạnh.
3.7.4. Đồi A1
Đồi A1 là một quả đồi nằm ở trung tâm thành phố Điện Biên Phủ. Đồi nằm
dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, có diện tích 53.350 m2. Đồi A1 có hai đỉnh:
đỉnh Tây Bắc cao hơn 493 m, đỉnh Đông Nam cao 490 m. Đứng ở đỉnh đồi có thể
nhìn bao quát lòng chảo Điện Biên: xa xa về phía Bắc là đồi E1, gần hơn một chút
là đồi C2, D1, C1. Nhìn vượt qua đồi E1 sẽ thấy thấp thoáng tấm bia của đồi Him
Lam. Chếch về hướng Tây Bắc là sân bay Mường Thanh. Phía Đông Nam là đồi
Cháy (quân Pháp gọi là Mont Chauve) và đồi F (quân Pháp gọi là Mont Fictif).
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ đồi nằm ở phía Đông của Sở chỉ huy tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ. Đồi có một sườn đồi nhiều cây cối chạy thoai thoải về phía
Đông mà những sĩ quan Pháp thường gọi là Săng Êlydê (Champs Elysées, tên một
đại lộ ở trung tâm thủ đô Pari của nước Pháp, còn theo truyền thuyết Hy Lạp - La
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mã thì nó có nghĩa là nơi yên nghỉ của những linh hồn đức hạnh).
124
Trải qua nhiều thời kì lịch sử khác nhau, đồi A1 đã mang rất nhiều tên gọi,
mỗi tên gọi đều ít nhiều gắn với những câu chuyện hay những sự kiện lịch sử. Cái
tên cổ xưa nhất mà có lẽ ngày nay nhiều người đã lãng quên hoặc chưa biết đến đó
là Pom Lạng Chượng (đồi Lạng Chượng), cái tên có nguồn gốc tiếng Thái. Sở dĩ có
tên gọi này vì đây là nơi Lạng Chượng, một tù trưởng người Thái đen, đóng quân.
Ông đã có công đánh bại được các nhóm dân tộc Nam Á từ Nghĩa Lộ (Yên Bái
ngày nay) qua Sơn La và tới Điện Biên rồi làm chủ trung tâm cánh đồng Mường
Thanh thời bấy giờ (vào khoảng thế kỉ XI - XII). Lạng Chượng cũng là người mở
đầu cho giai đoạn người Thái làm chủ miền Tây Bắc nước ta trong đó có vùng đất
Mường Thanh lịch sử. Năm 1940 (có tài liệu nói vào cuối thế kỉ XIX), khi quân Pháp
chiếm đóng Điện Biên và lập đồn binh ở đây, dân địa phương lại gọi đồi này là đồi
Đồn Tây. Đây là tòa sở của viên đại lý người Pháp, một quan binh kiêm cai trị. Dinh
cơ này được xây dựng, bố trí theo kiểu đồn trại, thành lũy rất kiên cố, vững chắc, có
nhà làm việc, có hầm ngầm trú ẩn, có đường hào thông với hầm ra bên ngoài và có
các trại lính xung quanh đó. Đến cuối năm 1953, thực hiện kế hoạch Nava Pháp quay
trở lại chiếm đóng Điện Biên Phủ. Khi đó đồi Đồn Tây được quân Pháp gọi bằng cái
tên mĩ miều Êlian 2, tên của một cô gái đẹp người Pháp. Lúc này quả đồi không chỉ
là một đồn binh mà đã trở thành một cứ điểm phòng ngự vững mạnh của Pháp, chúng
đã sử dụng những gia tài mà người Tây đến trước để lại. Sau này trong chiến dịch
Điện Biên Phủ, bộ đội ta đã đặt kí hiệu cho quả đồi là A1, kí hiệu này được dùng phổ
biến cho đến ngày nay và đã trở thành một địa danh nổi tiếng.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, về phía Pháp, đồi A1 được xác định là "cái
cuống họng" đối với sở chỉ huy trung tâm, A1 có ý nghĩa quyết định đến sự tồn
vong của cả tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bởi vậy cứ điểm A1 được tướng Đờ
Cát (tướng chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ) biến thành một cứ điểm mạnh
nhất trong tất cả các cứ điểm ở Điện Biên Phủ. Còn về phía ta, chiếm được A1, ta có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thể uy hiếp mạnh mẽ khu trung tâm, thắt chặt vòng vây khống chế vùng trời, thu
125
hẹp phạm vi thả dù tiếp tế của địch, tiến tới triệt hẳn đường tiếp tế hàng không của
chúng. A1 còn là bàn đạp rất tốt để cho quân ta dùng pháo bắn thẳng, ĐKZ, đại liên
yểm hộ cho bộ binh vượt cầu Mường Thanh tiến vào khu trung tâm tiêu diệt sở chỉ
huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Vì vậy nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm A1 cũng
được đặt lên hàng đầu. Nhiệm vụ này đã được giao cho trung đoàn 174, Đại đoàn
316 và trung đoàn 102, Đại đoàn 308. Hai trung đoàn này đã thay thế, phối hợp chặt
chẽ và đã anh dũng chiến đấu liên tục trong 36 ngày đêm với 3 đợt tấn công và một
đợt chủ động đánh phòng ngự. Cuộc chiến đấu trên đồi A1 diễn ra vô cùng ác liệt.
Ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng chiến hào. Sau cuộc tiến công thứ hai, ta
và địch mỗi bên giữ một điểm cao. Bộ đội ta chiến đấu bằng cả súng, bộc phá, lựu
đạn, lưỡi lê và cả tay không. Nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hi sinh. Cuối cùng
sau đợt tiến công thứ ba quân ta đã đập tan được sức kháng cự của địch và làm chủ
được cứ điểm này.
Sự kiện góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt trên đồi A1 và đã trở thành
câu chuyện thần kì trong chiến dịch Điện Biên Phủ là sự kiện quân ta đã bí mật đào
một đường ngầm từ trận địa của ta tới hầm ngầm cố thủ của địch ở đỉnh đồi và đặt
khối bộc phá gần một ngàn cân ở đó để tiêu diệt nó. Nhiệm vụ quan trọng này đã
được giao cho một tổ công binh có kinh nghiệm và kỹ thuật của trung đoàn 151 do
đại đội trưởng Nguyễn Phú Xuyên Khung chỉ huy, xuống tăng cường cho đại đội
công binh Đại đoàn 316 do đồng chí Cao Chu Khang chỉ huy, đồng chí Khung làm
trưởng, đồng chí Khang làm phó thành một bộ phận thống nhất đào đường hầm.
Hầm được quy định có chiều dài 42 m, chiều cao và chiều rộng 0,90 m và một
ngách hầm mỗi chiều 1,50 m để đặt chứa thuốc nổ. Theo lời kể của ông Bùi Văn
Vân, một chiến sĩ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, thì: “tối 20 - 4 - 1954, cuộc
tiến công vào lòng đất đồi A1 bắt đầu. Những nhát cuốc, nhát xẻng đầu tiên được ấn
vào lòng đất để moi từng nắm đất nhỏ ra vì hầm chỉ được đào với kích thước nhỏ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trên đầu là quân địch đang canh giữ ngày đêm...
126
Cuộc chiến đấu trong lòng đất tuy không có giặc, không còn lo bom đạn
của giặc sát hại nhưng lại cực kì gian khổ, khó khăn, quyết liệt. Mười ngày đêm,
hàng chục người thay nhau moi đất đá trong lòng đồi A1. Đường hầm thấp và
hẹp. Họ phải nằm nối đuôi nhau, thay nhau đào, cào đất, sỏi. Chật vật cả ngày,
đêm chỉ được 40 - 50 cm. Bền bỉ, kiên gan và căng sức chịu đựng mọi thử thách,
công việc đào, dũi đường hầm của họ sâu dần. Nhìn phía sau, ánh sáng chỉ còn
lờ mờ và phía trước đất dày và tối mù mịt. Đường hầm càng vào sâu thì không
khí càng ít. Nhiều người, chật chội, ngột ngạt, khó thở vô cùng. Họ phải tính
từng phút để luân phiên nhau đào và bò ra gần cửa hầm để hít thở chút dưỡng khí
và chống ngạt trong hầm”. Đại đội trưởng Nguyễn Phú Xuyên Khung thì kể lại:
ai đào tốt nhất cũng chỉ được 1 tiếng là phải trở ra ngoài. Ông Bùi Văn Vân kể
tiếp : “Mỗi nhát cuốc, nhát xẻng là diệt một quân thù!”, “Người nghỉ, cuốc xẻng
không nghỉ!”. Anh em động viên nhau bằng những khẩu hiệu hành động đó. Tất
cả coi mình như đang chiến đấu quyết liệt trong đồn giặc. Họ đã tập luyện dần
cách nín, cách thở để đào được lâu hơn. Sáng kiến đan quạt và luân phiên nhau
quạt từ cửa hầm vào sâu trong đường hầm để tăng thêm dưỡng khí cũng làm
giảm bớt ngột ngạt và dễ chịu đôi phần.
Qua lao động có kinh nghiệm, cách đào được cải tiến. Năng suất từ 40 - 50
cm tăng lên 80 - 90 cm rồi đến 1 m/ngày. Bước sang ngày thứ 16, các chiến sĩ đã
đào được 37 m chiều dài đường hầm. Tuy chưa tới chân “lô cốt mẹ” và chưa đạt
chiều dài quy định nhưng các chiến sĩ đã nghe thấy tiếng động của địch ở trên cứ
điểm. Toàn đội vô cùng phấn khởi. Được lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận, họ thôi
đào hầm, khẩn trương đào một hố sâu và rộng, mỗi chiều 1,50 m để đặt khối bộc
phá. Khối bộc phá cũng là một sáng tạo của các chiến sĩ công binh. Họ đã tháo gỡ
thuốc nổ của bom đạn địch còn lại ở các máy bay bị bắn rơi, bị phá hủy và làm
được 49 gói thuốc nổ, mỗi gói nặng 20 kg. Những khối thuốc nổ này đã được xếp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gọn trong hố sâu của đường hầm với hàng trăm kíp thuốc nổ đặt ở giữa và 4 góc.
127
Nhiệm vụ điểm hỏa khối bộc phá được giao cho đội trưởng Nguyễn Phú Xuyên
Khung và hai đồng chí Nguyễn Bạch và Nguyễn Điệt thực hiện. “Nếu điểm hỏa
mà khối thuốc không nổ thì giải quyết ra sao?” - Một câu hỏi lớn. Điều đó sẽ gây
nhiều khó khăn trong chiến đấu của quân đội ta. Chi bộ họp bàn. Một không khí
trang nghiêm và hệ trọng. Vì nghĩa lớn phải có người hi sinh. Hai đảng viên đã
xung phong nhận mỗi người mang theo một khối thuốc nổ 20 kg, sẵn sàng lao vào
hầm sâu cho khối thuốc ngàn cân ấy nổ tung. Cả chi bộ nhìn hai đồng chí thân yêu
của mình lòng đầy xúc động, nghẹn ngào... Thế rồi việc điểm hỏa khối bộc phá
của đồng chí Nguyễn Phú Xuyên Khung đã thành công. Đúng 20h 30 phút ngày
6/5/1954, một ánh chớp lóe sáng và một tiếng nổ trầm đục rung chuyển ngọn đồi,
một cột khói bốc cao, sức ép của khối bộc phá đã khoét sâu một hố tới 18 m, rộng
21 m, hủy diệt một số lô cốt, nhiều đoạn ụ hào, ụ súng và một phần đại đội dù số 2
của địch”. Nguyễn Phú Xuyên Khung kể lại: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau này
đã hỏi ông: Tại sao khối bộc phá lại nổ nhỏ vậy? Ông trả lời: Thưa Đại tướng,
tiếng nổ của nó tuy nhỏ nhưng tiếng vang của nó lại rất lớn”. Khối bộc phá nằm
khá sâu trong lòng đồi A1 nên tiếng nổ không “khủng khiếp” vang xa như mọi
người chờ đợi. Nhưng tác động của nó thì khác thường, nó làm cho mặt đất của cả
vùng Điện Biên lay động. Đợt tiến công lớn vào A1 kết thúc thắng lợi đã mở đầu
đợt tiến công cuối cùng vào toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Đồi A1, điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và địch, từ sau ngày giải phóng
đã trở thành một trong những di tích của quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ.
Đến nay, đồi A1 đã được tu bổ, tôn tạo nhằm tái hiện một phần cục diện cuộc chiến
khốc liệt năm xưa. A1 đã trở thành điểm đến hấp dẫn, lí thú cho người dân địa
phương và những du khách tham quan Điện Biên. Cùng với quần thể di tích lịch sử
Điện Biên Phủ, di tích đồi A1 - ngọn đồi anh hùng sẽ mãi mãi trường tồn cùng non
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sông đất nước.
128
3.8. TIỂU KẾT
Qua nghiên cứu một vài đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong 1001 địa danh
thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, có thể rút ra một vài nhận xét như sau:
3.8.1. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên khá đa dạng
nên đồng thời cũng thể hiện sự đa dạng của văn hóa nơi đây. Dấu ấn của văn hóa
đã được lưu lại qua những địa danh thuộc di sản văn hóa vật thể hay các địa danh
phản ánh di sản văn hóa phi vật thể. Nhìn từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa sẽ thấy
rõ những ảnh hưởng của văn hóa đối với ngôn ngữ qua các yếu tố cấu tạo, nội
dung, nguồn gốc, ý nghĩa, giá trị địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên.
3.8.2. Địa danh lưu giữ trong mình những tư liệu, thông tin về văn hóa vật chất
và tinh thần của người sáng tạo ra nó. Qua 30 trường nghĩa khác nhau được xếp
trong các tiểu nhóm thuộc hai hai nhóm ý nghĩa lớn là nhóm ý nghĩa phản ánh hiện
thực khách quan gắn liền với những đối tượng địa lí và nhóm ý nghĩa phản ánh đời
sống tư tưởng, tình cảm của con người, chúng ta có thể thấy bức tranh sinh hoạt vật
chất cùng với bức tranh đời sống tinh thần được thể hiện thật sinh động, rõ nét. Bức
tranh sinh hoạt vật chất thể hiện ở việc người dân nơi đây đã biết chọn những địa
điểm thích hợp cho việc sinh sống, canh tác như chọn nơi lập bản, mường, thôn,
xóm, nơi làm ruộng lúa, nương rẫy; biết xây dựng những mương, phai, kênh, hồ,
đập và rất nhiều những công trình khác để phục vụ cho đời sống. Còn bức tranh đời
sống tinh thần thể hiện qua niềm tin tín ngưỡng mộc mạc, chất phác gắn liền với đời
sống sinh hoạt, sản xuất; qua những nguyện vọng, ước mơ về cuộc sống yên vui,
giàu có, bền vững. Giữa các trường nghĩa và các đặc điểm văn hóa được thể hiện
trong địa danh luôn có mối quan hệ gắn bó với nhau. Tất cả những điều đó làm nên
một vùng đất rất giàu bản sắc văn hóa và người dân ở đây luôn có ý thức gìn giữ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phát huy bản sắc văn hóa đó.
129
3.8.3. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên thể hiện một
vùng đất đa dân tộc, đa ngôn ngữ, đa văn hóa. Nơi đây là địa bàn của 20 dân tộc
anh em sinh sống trong đó chiếm số lượng đông nhất là dân tộc Thái sau đó đến
các dân tộc Kinh, Mông, Khơ Mú, Lào. Vì vậy các địa danh cũng chịu sự ảnh
hưởng, chi phối của văn hóa Thái, văn hóa Việt cùng văn hóa các dân tộc thiểu số
khác trong vùng. Sự giao thoa giữa các nền văn hóa tạo nên một bức tranh văn hóa
đa sắc màu ở nơi đây.
Về ngôn ngữ, các địa danh được cấu tạo bởi các yếu tố có nguồn gốc ngôn
ngữ khác nhau như nguồn gốc thuần Việt, Hán Việt, nguồn gốc tiếng Thái, tiếng
Mông, tiếng Khơ Mú, tiếng Lào, nguồn gốc tiếng Pháp và có cả những địa danh
có nguồn gốc hỗn hợp từ các yếu tố này. Ý nghĩa địa danh vì thế mà cũng trở nên
phong phú. Có những địa danh giàu tính gợi tả, biểu hiện tính chất cụ thể, sinh
động, chân thực, gần gũi; có những địa danh biểu hiện tính chất trang trọng hay
tính chất hàm ý sâu sa và có cả những địa danh biểu hiện các nét ý nghĩa kết hợp
này. Bên cạnh đó, trong quá trình giao lưu văn hóa, nhiều địa danh có nguồn gốc
ngôn ngữ dân tộc thiểu số cũng đã bị Việt hóa về cả ngữ âm và ngữ nghĩa, có
những địa danh qua nguồn gốc ngữ nguyên có thể nhận biết được ý nghĩa và
những đặc trưng văn hóa mà nó thể hiện, ngược lại có những địa danh rất khó để
nhận biết được điều đó.
3.8.4. Những địa danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
đã vẽ lên một cách khái quát cấu trúc địa hình của vùng. Đó là các kiểu địa hình từ
cao xuống thấp và nằm đan xen lẫn lộn của sơn danh như dãy núi, núi, đồi, thác,
đèo, bãi; thủy danh như sông, suối, khe, rãnh, hồ, ao và vùng đất nhỏ phi dân cư
như cánh đồng, thung lũng, hang, động. Các sông, suối, khe, rãnh vì thế mà cũng
được sắp xếp theo hướng địa hình của dãy núi, núi, đồi. Ở mỗi loại địa hình cụ thể
của đồi, núi, sông, suối... lại có nhiều nét gợi hình, gợi tả hay gắn với những đặc
điểm riêng biệt. Địa hình đó tạo cho nơi đây có hệ động, thực vật phong phú, đa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dạng và cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp.
130
3.8.5. Nghiên cứu đặc điểm ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo nên một số địa
danh trong thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên cũng chính là đi vào
nghiên cứu nghĩa của từ trong tiếng Việt. Nghĩa của địa danh giống như từ ở chỗ nó
có cả nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm tuy nhiên nó cũng có điểm khác biệt rõ ràng
ở chỗ nghĩa của địa danh luôn luôn có tính lí do, có nguồn gốc xuất xứ của nó. Nếu
tìm hiểu được nguồn gốc của tính có lí do này sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về địa
danh cùng với những đặc điểm địa lí, lịch sử, văn hóa, tộc người có liên quan đến
nó. Bên cạnh đó, ý nghĩa của địa danh có thể được giữ nguyên hoặc bị biến đổi ít
nhiều theo sự chuyển hóa từ loại của các yếu tố cấu tạo địa danh thành các danh từ
chỉ tên riêng trong địa danh.
3.8.6. Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên đều là những địa bàn mới
được thành lập nên phần lớn các địa danh trong vùng mới xuất hiện và còn chưa hoàn
thiện về hệ thống các loại địa danh. Địa giới hành chính ở một số vùng thuộc hai địa
bàn còn có sự thay đổi nên trong địa danh các đơn vị dân cư xuất hiện nhiều địa danh
được chia tách từ một địa danh gốc. Các địa danh này có khả năng phản ánh những đặc
trưng văn hóa, lịch sử, địa lí mới ở trong vùng. Cũng ở trong hai địa bàn này, hầu hết
các địa danh cổ, cũ đã bị mất đi hoặc thay vào đó là các tên gọi mới, chỉ có một số ít
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
địa danh còn tồn tại và được giữ nguyên vẹn cho đến ngày nay.
131
KẾT LUẬN
Qua việc thu thập, phân tích và mô tả, khái quát hóa về địa danh thành phố
Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc hẳn có
nhiều vấn đề chúng tôi chưa đưa ra hoặc giải quyết chưa thỏa đáng đối với thực tế
địa danh và yêu cầu của việc nghiên cứu địa danh. Tuy vậy, chúng tôi cũng xin nêu
ra những kết luận có tính chất bước đầu về địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên như sau:
1.1. Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là địa bàn phức tạp về địa lí,
lịch sử, dân cư, ngôn ngữ và văn hóa. Đặc điểm này được phản ánh khá rõ nét trong
địa danh nơi đây. Đó là hai vùng địa bàn có các đối tượng địa lí rất phong phú, đa
dạng. Những địa hình đồi núi, sông suối, ao hồ, thung lũng, hang động nằm xen kẽ
cùng với các đơn vị dân cư và các công trình xây dựng nhân tạo khiến cho cảnh quan
nơi đây có nhiều nét đặc sắc, độc đáo và mang những dáng vẻ riêng của một tỉnh
miền núi phía Tây Bắc của Tổ quốc. Các địa danh này được định danh bằng những
phương thức khác nhau và sử dụng các yếu tố có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau của
các dân tộc sinh sống trong vùng. Bên cạnh đó, đây còn là địa bàn cư trú lâu đời của
dân tộc Thái nên văn hóa Thái có sức chi phối mạnh đến các địa danh.
1.2. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên nằm trong một
cấu trúc phức thể nhất định. Đó là mô hình cấu trúc phức thể gồm hai bộ phận là
thành tố chung và địa danh (tên riêng). Mỗi bộ phận đó có vai trò, chức năng riêng
nhưng được đặt trong mối quan hệ gắn bó, thống nhất với nhau. Bộ phận thành tố
chung thường đứng trước và là cái được hạn định cho đối tượng địa lí. Còn bộ phận
địa danh thường đứng sau để hạn định cho đối tượng địa lí đó. Ở mọi loại hình địa
danh, các thành tố chung đều có sự chuyển hóa nhiều hay ít vào vị trí các yếu tố
trong địa danh. Sự chuyển hóa này tạo nên tính tầng bậc đa dạng cho địa danh về
cấu tạo lẫn ý nghĩa phản ánh. Mô hình cấu trúc phức thể địa danh nơi đây có điểm
khá đặc biệt so với nơi khác đó là có số lượng yếu tố lớn, mô hình cấu trúc phức thể
có tối đa là 19 yếu tố với độ dài lớn nhất của thành tố chung là 7 yếu tố và của địa
danh là 12 yếu tố; còn trên khảo sát thực tế thì phức thể địa danh có số lượng yếu tố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lớn nhất là 15 yếu tố.
132
1.3. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được cấu tạo theo
ba phương thức đó là phương thức cấu tạo mới, phương thức chuyển hóa và phương
thức vay mượn trong đó mỗi phương thức lại gồm những loại khác nhau, phương
thức cấu tạo mới gồm 8 loại, phương thức chuyển hóa gồm 2 loại và phương thức
vay mượn gồm 3 loại. Trong cả ba phương thức thì phương thức cấu tạo mới giữ
vai trò chủ yếu. Phương thức này đã góp phần tạo nên các kiểu cấu tạo của địa danh
đặc biệt là kiểu cấu tạo phức theo quan hệ chính phụ. Các phương thức định danh
cấu tạo nên các địa danh này rất phong phú, đa dạng đồng thời còn có mối quan hệ
gắn bó chặt chẽ, khăng khít với những đặc điểm về địa lí, lịch sử, văn hóa, tộc
người ở Điện Biên. Những đặc điểm đó góp phần tạo nên nét riêng, đặc sắc, độc đáo
trong ý nghĩa của địa danh ở hai địa bàn này.
Một đặc điểm nổi bật nữa trong cấu tạo địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên là số lượng địa danh có cấu tạo phức chiếm số lượng lớn. Đây
cũng là kết quả của phương thức cấu tạo mới và phương thức chuyển hóa thành tố
chung chỉ loại hình địa danh này vào các yếu tố trong địa danh khác. Như vậy xét
về mặt cấu tạo, mặc dù độ dài tối đa một địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên gồm mười hai yếu tố nhưng đa số địa danh vùng này có cấu tạo
song tiết theo quan hệ chính phụ.
1.4. Các địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên nói chung đều
mang tính lí do. Trong số những nhóm ý nghĩa và các trường nghĩa được xác định
có thể nhận thấy hai kiểu ý nghĩa thể hiện qua các yếu tố trong địa danh, đó là nhóm
ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan gắn liền với những đối tượng địa lí và nhóm
ý nghĩa phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm của con người. Tất cả những ý nghĩa
mà các yếu tố trong địa danh phản ánh đều phù hợp với hiện thực một bức tranh về
địa hình, về cuộc sống đấu tranh, xây dựng vùng đất mới cùng với những nguyện
vọng, mong ước tốt đẹp của con người sinh cơ lập nghiệp trên vùng đất đó.
Các địa danh được cấu tạo bởi các yếu tố có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau
(tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài) với những ý nghĩa biểu hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phong phú. Có những địa danh giàu tính gợi tả, biểu hiện tính chất cụ thể, sinh động,
133
chân thực, gần gũi; có những địa danh biểu hiện tính chất trang trọng hay tính chất
hàm ý sâu sa và có cả những địa danh biểu hiện các nét ý nghĩa kết hợp này. Bên
cạnh đó, trong quá trình giao lưu văn hóa, nhiều địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân
tộc thiểu số cũng đã bị Việt hóa về cả ngữ âm và ngữ nghĩa, có những địa danh qua
nguồn gốc ngữ nguyên có thể nhận biết được ý nghĩa và những đặc trưng văn hóa mà
nó thể hiện, ngược lại có những địa danh rất khó để nhận biết được điều đó.
1.5. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên đã lưu giữ những
dấu ấn di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trong những thời kỳ lịch sử
khác nhau của địa bàn. Giữa các trường nghĩa và các đặc điểm văn hóa được thể
hiện trong địa danh luôn có mối quan hệ gắn bó với nhau. Điều đó được biểu hiện
thông qua địa lí, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng, tâm lí ứng xử của con người và ngôn
ngữ. Tất cả những điều đó làm nên một vùng đất rất giàu bản sắc văn hóa và người
dân nơi đây luôn có ý thức giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa đó.
1.6. Địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên đã cung cấp được
phần nào những thông tin về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong đó
chủ yếu là những thông tin về văn hóa, xã hội của một vùng đất giàu ý nghĩa và giá
trị lịch sử này của đất nước. Hi vọng những kết quả của việc nghiên cứu địa danh sẽ
góp phần giúp các nhà nghiên cứu thuộc các ngành khoa học xã hội khác nhau tìm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
được những cứ liệu có giá trị cho lĩnh vực nghiên cứu của mình.
134
NHỮNG BÀI BÁO CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN VĂN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ
1. Trần Thị Phương Hằng (2009), Điện Biên Phủ - Địa danh lịch sử, văn hóa,
Hội thảo Ngôn ngữ học toàn quốc, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Trường Đại
học Cần Thơ.
2. Trần Thị Phương Hằng (2009), Những phương thức định danh qua địa danh ở
thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống,
tr.40-46.
3. Trần Thị Phương Hằng (2009), Tìm hiểu yếu tố “Huổi” trong cách đặt địa
danh của đồng bào Thái ở Điện Biên, Báo Điện Biên Phủ điện tử ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
15/09/2009.
135
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Văn An (1997), Ô châu cận lục, Nxb Khoa học xã hội, HN.
2. Đào Duy Anh (2005), Hán Việt từ điển, Nxb Văn hóa dân tộc, HN.
3. Nguyễn Quang Ân (2003), Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới hành
chính (1945 - 2002), Nxb Thông tấn, HN.
4. Nguyễn Văn Âu (2000), Địa danh Việt Nam, Nxb Giáo dục, HN.
5. Nguyễn Văn Âu (2000), Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam, Nxb Giáo
dục, HN.
6. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu (1999), Lịch sử Đảng bộ Lai Châu, tập
1 (1945 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, HN.
7. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu (2004), Lịch sử Đảng bộ Lai Châu, tập
2 (1975 - 2003), Nxb Chính trị quốc gia, HN.
8. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Điện Biên (2005), Lịch sử Đảng bộ huyện Điện
Biên, tập 1 (1950 - 2000), Nxb Chính trị quốc gia, HN.
9. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Điện Biên (2004), Chiến thắng Điện Biên Phủ - cột
mốc bằng vàng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, Xí
nghiệp in Lai Châu, LC.
10. Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (2008), Di tích lịch sử và văn hóa
Điện Biên Phủ, Xí nghiệp in Điện Biên, ĐB.
11. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lai Châu (1998), Lịch sử kháng chiến chống thực dân
Pháp của quân và dân Lai Châu (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, HN.
12. Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng tỉnh Lai Châu (2004), Lịch sử Bộ đội biên
phòng Lai Châu, tập 1 (1959 - 2003), Xí nghiệp in Lai Châu, LC.
13. Đỗ Hữu Châu (1997), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb Khoa học xã
hội, HN.
14. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, HN.
15. Lê Hồng Chương (2007), Từ điển địa danh hành chính Việt Nam, Nxb Từ điển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bách khoa, HN.
136
16. Chương trình Thái học Việt Nam (1998), Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt
Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, HN.
17. Thiều Chửu (2000), Hán Việt tự điển, Nxb TP.HCM, TP.HCM.
18. Nguyễn Dược - Trung Hải (2001), Sổ tay địa danh Việt Nam, Nxb Giáo dục, HN.
19. Phạm Đức Dương (2002), Bức tranh ngôn ngữ - văn hóa tộc người ở Việt Nam
và Đông Nam Á, Nxb Đại học quốc gia, HN.
20. Phan Xuân Đạm (2005), Khảo sát các địa danh Nghệ An, Luận án tiến sĩ ngữ
văn, Trường Đại học Vinh, Vinh.
21. Lê Quý Đôn toàn tập, tập 1 (1997), Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, HN.
22. Hoàng Thị Đường(2008), Khảo sát địa danh ở thành phố Thái Nguyên, Luận
văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, TN.
23. Võ Nguyên Giáp (Hữu Mai thể hiện) (2000), Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử,
Nxb Lao động, HN.
24. Nguyễn Thị Lâm Hảo (2008), Điện Biên Phủ - đất và người, Nxb Văn hóa
thông tin, HN.
25. Lê Trung Hoa (2002), Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ và tiếng Việt
văn học, Nxb Khoa học xã hội, HN.
26. Lê Trung Hoa (2002), Các phương pháp nghiên cứu cơ bản trong việc nghiên
cứu địa danh, Tạp chí Ngôn ngữ, số 7, tr.8-11.
27. Hội nghị Thái học Việt Nam lần thứ V (2009), Địa danh và những vấn đề lịch sử
- văn hóa của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái Việt Nam, Nxb Thế giới, HN.
28. Hà Thị Hồng (2008), Khảo sát địa danh hành chính tỉnh Bắc Kạn, Luận văn
Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, TN.
29. Vũ Ngọc Khánh (2000), Kể chuyện địa danh Việt Nam, Nxb Thanh niên, HN.
30. Vũ Khiêu (chủ biên) (2000), Văn hóa Việt Nam: xã hội và con người, Nxb
Khoa học xã hội, HN.
31. Từ Thu Mai (2004), Nghiên cứu địa danh Quảng Trị, Luận án tiến sĩ khoa học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngữ văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, HN.
137
32. Hà Quang Năng (chủ nhiệm đề tài) (2009), Địa danh ở Quảng Nam, Viện Từ
điển học và Bách khoa thư Việt Nam - Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Nam,
HN - QN.
33. Nhiều tác giả (2009), Chuyện những người làm nên lịch sử - Hồi ức Điện Biên
Phủ (1957 - 2009), Nxb Chính trị quốc gia, HN.
34. Nhiều tác giả (2007), Huyền thoại Điện Biên, Nxb Lao động - xã hội, HN.
35. Nhiều tác giả (2004), Lai Châu thế và lực mới trong thế kỉ XXI, Nxb Chính trị
quốc gia, HN.
36. Niên giám thống kê tỉnh Điện Biên 2007, Nxb Thống kê, HN.
37. Đỗ Văn Ninh (1991), Thành Bản Phủ, Tạp chí Khảo cổ học, số 1, tr.31-41.
38. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa
thông tin, HN.
39. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, HN.
40. Hoàng Trần Nghịch - Tòng Kim Ân (biên soạn) (1991), Từ điển Thái - Việt,
Nxb Khoa học xã hội, HN.
41. Hoàng Phê (Chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm
Từ điển học, HN - ĐN.
42. Jules Roy (1979), Trận Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp, Nxb
TP.HCM, TP.HCM.
43. A.V. Superanskaja (2002), Địa danh là gì?, (Đinh Lan Hương dịch, Nguyễn
Xuân Hòa hiệu đính).
44. Nguyễn Văn Tân (1998), Từ điển địa danh Lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb
Văn hóa thông tin, HN.
45. Trần Ngọc Thêm (1996), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, HN.
46. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy,
Nxb Khoa học xã hội, HN.
47. Cầm Trọng (2007), Huyền thoại Mường Then, Nxb Văn hóa dân tộc, HN.
48. Nguyễn Kiên Trường (1996), Những đặc điểm chính của địa danh Hải Phòng
(trong vài nét đối sánh với địa danh Việt Nam), Luận án phó tiến sĩ khoa học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngữ văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, HN.
138
49. Tỉnh ủy - Hội đồng Nhân dân - Ủy ban Nhân dân tỉnh Điện Biên (2009), Điện
Biên 100 năm xây dựng và phát triển (1909 - 2009), Nxb Chính trị quốc gia, HN.
50. Trường Đại học Khoa học Huế (2001), Địa danh thành phố Đà Nẵng, Đề tài
khoa học cấp Bộ, (Hoàng Tất Thắng chủ trì), Huế.
51. Truyện cổ các dân tộc ít người ở Việt Nam, tập 4 (1994), Nxb Văn hóa, HN.
52. Đặng Nghiêm Vạn - Đinh Xuân Lâm (1979), Điện Biên trong lịch sử, Nxb
Khoa học xã hội, HN.
53. Đặng Nghiêm Vạn - Cầm Trọng (1965), Những hoạt động của Hoàng Công
Chất trong thời kì ở Tây Bắc, Địa chí Điện Biên, số 2.
54. Đặng Nghiêm Vạn - Đinh Xuân Lâm (1967), Truyền thống chống xâm lăng
của Điện Biên trong lịch sử, Địa chí Điện Biên, số 91.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
55. Trần Lê Văn (2000), Sông núi Điện Biên, Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu, LC.
139
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bản đồ hành chính thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phụ lục 2: Thống kê địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
140
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
141
Phụ lục 2: THỐNG KÊ ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN
ĐIỆN BIÊN
A. ĐỊA DANH ĐỊA HÌNH TỰ NHIÊN
I. SƠN DANH 1. DÃY NÖI: 3 địa danh
TT Địa danh
Vị trí tồn tại
3 Phà Lén
X Mường Phăng. ĐB
1 Pú Hồng Mèo X Thanh An. ĐB 2 Pu Khâu Lạnh X Thanh Xương. ĐB
2. ĐÈO: 8 địa danh
X Nà Nhạn. ĐB X Mường Pồn. ĐB X Thanh Luông. ĐB
1 An Tao 2 Cò Chạy 3 Hua Pe 4 Huổi Chan X Mường Pồn. ĐB
5 Nà Lơi 6 Pu Lau 7 Tằng Quái 8 Tây Trang
X Thanh Minh. ĐB X Mường Lói. ĐB X Nà Tấu. ĐB X Na Ư. ĐB
3. ĐỒI: 15 địa danh
1 A 1 2 Bản Kéo 3 C 1
P Mường Thanh. ĐBP P Thanh Trường. ĐB P Mường Thanh. ĐBP
9 Độc Lập 10 E 1 11 E 2
4 C 2 5 Cháy 6 D 1 7 D 2 8 D 3
P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP
12 F 13 Him Lam 14 Pom Lót 15 Thông
X Thanh Nưa. ĐB P Tân Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP X Sam Mứn. ĐB P Tân Thanh. ĐBP
4. NÖI: 51 địa danh
1 An Tao
X Nà Nhạn. ĐB
5 Đất Lẻ
X Mường Lói. ĐB
2 Bó Hoóng
X Thanh Xương. ĐB
6 Huổi Áng
X Mường Lói. ĐB
3 Bua Hẹt
X Thanh Nưa. ĐB
7 Huổi Hẹ
X Nà Tấu. ĐB
4 Chiềng Bân
X Pa Thơm.
8 Huổi Hộc
X Nà Tấu. ĐB
9 Huổi Mưm
X Mường Lói. ĐB
31 Pu Huổi Un
X Mường Pồn. ĐB
10 Huổi Na
X Mường Lói. ĐB
32 Pú Huốt
X Mường Phăng. ĐB
11 Huổi Pẩu
X Nà Tấu. ĐB
33 Pu Lau
X Mường Lói. ĐB
12 Huổi Púng
X Mường Lói. ĐB
34 Pú Lấu Luông
X Thanh Minh. ĐB
13 Huổi Tấu
X Nà Tấu. ĐB
35 Pu Nậm Khẩu Hú X Mường Pồn. ĐB
14 Lao Yao
X Pa Thơm. ĐB
36 Pu Nậm Nẹn
X Thanh Luông. ĐB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
142
15 Mưa Lao
X Thanh Nưa. ĐB
37 Pú Nang Nòn
X Pa Thơm. ĐB
16 Nà Nhạn
X Nà Nhạn. ĐB
38 Pu Nhi
X Noong Hẹt. ĐB
17 Nậm Ngọp
X Thanh Nưa. ĐB
39 Pu Phạ
X Mường Phăng. ĐB
18 Pá Chả
X Thanh Nưa. ĐB
40 Pu San
X Mường Pồn. ĐB
19 Pá Sạ
X Núa Ngam. ĐB
41 Pu Sư
X Mường Pồn. ĐB
20 Pa Sang
X Mường Phăng. ĐB
42 Pu Sung
X Mường Phăng. ĐB
21 Phà Lén
X Nà Tấu. ĐB
43 Pu Tao
X Mường Lói. ĐB
22 Pha Sung
X Nà Tấu. ĐB
44 Pú Tạo Nòn
X Pa Thơm. ĐB
23 Pha Thống
X Nà Tấu. ĐB
43 Pu Tao
X Mường Lói. ĐB
24 Phu Khăn Pỏm X Pa Thơm. ĐB
44 Pú Tạo Nòn
X Pa Thơm. ĐB
25 Pú Co Nghịu X Thanh Chăn. ĐB
45 Pú Tửu
X Thanh Xương. ĐB
26 Pú Đồn
X Mường Phăng. ĐB
46 Tằng Quái
X Nà Tấu. ĐB
27 Pu Hang
X Mường Pồn. ĐB
47 Tắt Dóm
X Nà Tấu. ĐB
28 Pu Háp
X Mường Pồn. ĐB
48 U Va
X Noong Luống. ĐB
29 Pu Huổi Chan X Mường Pồn. ĐB
49 Tẩu Pung
X Nà Tấu. ĐB
30 Pú Huổi Chọn X Sam Mứn. ĐB
50 Pu Khắt Tôm
X Mường Phăng. ĐB
51 Pu Xá Hin
X Mường Phăng. ĐB
5. THÁC: 2 địa danh
1 Bay
X Thanh Minh. ĐB
2
Trắng
X Mường Phăng. ĐB
B. THUỶ DANH
1. HỒ: 16 địa danh
1 Bó Hoóng
X Thanh Xương. ĐB
9 Pa Khoang
X Mường Phăng. ĐB
2 Co Củ
X Thanh Minh. ĐB
10 Pe Luông
X Thanh Luông. ĐB
3 Co Nôm
X Noong Luống. ĐB
11 Sái Lương
X Núa Ngam. ĐB
4 Hồng Khếnh X Thanh Hưng. ĐB
12 Ta Lét
X Sam Mứn. ĐB
5 Hồng Líu
P Noong Bua. ĐBP
13 Ta Pô
X Thanh Nưa. ĐB
6 Hồng Sạt
X Sam Mứn. ĐB
14 Tỉnh ủy 1
P Mường Thanh. ĐBP
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
143
7 Huổi Phạ
P Him Lam. ĐBP
15 Tinh ủy 2
P Mường Thanh. ĐBP
8 Na Hươm
X Mường Nhà. ĐB
16 U Va
X Noong Luống. ĐB
2. SÔNG: 4 địa danh
X Mường Pồn.
1 Nậm Mức
3 Nậm Rốm
TP ĐBP và huyện ĐB
ĐB
2 Nậm Núa
X Sam Mứn. ĐB
4 Mã
X Mường Lói. ĐB
3. SUỐI:
1 Ái
X Sam Mứn. ĐB
9 Chai
X Mường Nhà. ĐB
2 Ăm Bọt
X Mường Nhà. ĐB
10 Chanh
X Mường Nhà. ĐB
3 Bén Căng
X Pa Thơm. ĐB
11 Chậu
X Mường Nhà. ĐB
4 Ca
X Mường Nhà. ĐB
12 Chén
X Mường Lói. ĐB
5 Ca Hâu
X Na Ư. ĐB
13 Chon
X Mường Lói. ĐB
6 Cảnh
X Mường Lói. ĐB
14 Cói
X Núa Ngam. ĐB
7 Cáy Phặc
X Núa Ngam. ĐB
15 Dạ Sún
X Núa Ngam. ĐB
8 Chả
X Mường Nhà. ĐB
16 Dốn
X Sam Mứn. ĐB
17 Đữa
X Núa Ngam. ĐB
39 Huổi Lính X Mường Pồn. ĐB
18 Há
X Mường Lói. ĐB
40 Huổi Pe
X Thanh Yên. ĐB
19 Há Co Chó
X Na Ư. ĐB
41 Huổi Phạ
P Noong Bua. ĐBP
20 Hắc Cưm Cứn X Pa Thơm. ĐB
42 Huổi Sa
X Thanh Yên. ĐB
21 Hai Nhớ
X Sam Mứn. ĐB
43 Huổi Un
X Mường Pồn. ĐB
22 Hai Nọi
X Sam Mứn. ĐB
44 Hươm
X Mường Nhà. ĐB
23 Hẹt
X Mường Lói. ĐB
45
Ít
X Mường Lói. ĐB
24 Him Lam
P Him Lam. ĐBP
46 Kha Kim
X Núa Ngam. ĐB
25 Him Lếch Phay X Pa Thơm. ĐB
47 Khọ
X Pa Thơm. ĐB
26 Hin Phon
X Mường Nhà. ĐB
48 Khò Hè
X Mường Nhà. ĐB
27 Hó
X Na Ư. ĐB
49 Kho Lọt
X Mường Lói. ĐB
28 Hon
X Mường Lói. ĐB
50 Kho Sạn
X Sam Mứn. ĐB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
144
29 Húa
X Núa Ngam. ĐB
51 Không
X Mường Lói. ĐB
30 Hư Khóa
X Nà Tấu. ĐB
52 Kía
X Mường Lói. ĐB
31 Huổi Bó Hoóng X Thanh Xương. ĐB
53 Kín
X Mường Nhà. ĐB
32 Huổi Cang
X Mường Phăng. ĐB
54 Lạ
X Mường Nhà. ĐB
33 Huổi Chan
X Mường Pồn. ĐB
55 Lan
X Mường Nhà. ĐB
34 Huổi Co Củ X Thanh Minh. ĐB
56 Lang
X Mường Lói. ĐB
35 Huổi Co Mứn P Noong Bua. ĐBP
57 Lau
X Mường Lói. ĐB
36 Huổi Háp
X Mường Pồn. ĐB
58 Lếch
X Mường Nhà. ĐB
37 Huổi Hốc
X Thanh Xương. ĐB
59 Long
X Núa Ngam. ĐB
38 Huổi Hộc
X Nà Tấu. ĐB
60 Lụ
X Pa Thơm. ĐB
61 Lương
X Mường Lói. ĐB
83 Nậm Pồn
X Mường Pồn. ĐB
62 Moi
X Na Ư. ĐB
84 Nậm Poọng X Mường Phăng. ĐB
63 Múa
X Núa Ngam. ĐB
85 Nậm Ti
X Mường Pồn. ĐB
64 Mươi
X Mường Nhà. ĐB
86 Ngọm
X Mường Nhà. ĐB
65 Na
X Mường Lói. ĐB
87 Ố
X Mường Nhà. ĐB
66 Na Cọ
X Mường Lói. ĐB
88 Pá Hốc
X Thanh Yên. ĐB
67 Na Sang
X Núa Ngam. ĐB
89 Pá Hu
X Thanh Yên. ĐB
68 Na Ư
X Na Ư. ĐB
90 Peng Thoáng X Mường Lói. ĐB
69 Nậm Có
X Thanh Nưa. ĐB
91 Pha Châu X Núa Ngam. ĐB
70 Nậm Đuống X Thanh Nưa. ĐB
92 Pha Lay
X Mường Nhà. ĐB
71 Nậm Hẹ
X Na Ư. ĐB
93 Pha Thống X Nà Tấu. ĐB
72 Nậm Hua
X Mường Lói. ĐB
94 Phia Phó
X Sam Mứn. ĐB
73 Nậm Khẩu Hú X Nà Tấu. ĐB
95 Phương
X Mường Lói. ĐB
74 Nậm Khún
X Núa Ngam. ĐB
96 Púng
X Mường Lói. ĐB
75 Nậm Luông X Mường Phăng. ĐB
97 Puốc
X Mường Lói. ĐB
76 Nậm Mển
X Thanh Nưa. ĐB
98 Quang
X Mường Nhà. ĐB
77 Nậm Ngam X Núa Ngam. ĐB
99 Rôm
X Mường Lói. ĐB
78 Nậm Ngọp
X Thanh Nưa. ĐB
100 Rống
X Na Ư. ĐB
79 Nậm Nhụ
X Mường Lói. ĐB
101 Sa Lăng
X Mường Nhà. ĐB
80 Nậm Pang
X Mường Phăng. ĐB
102 Sa Nhớ
X Pa Thơm. ĐB
81 Nậm Phăng X Nà Tấu. ĐB
103 Sa Nọi
X Pa Thơm. ĐB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
145
82 Nậm Phăng Nọi X Mường Phăng. ĐB
104 Sái Lương X Núa Ngam. ĐB
105 Sản
X Mường Nhà. ĐB
112 Thẩm
X Núa Ngam. ĐB
106 Sáu Sự
X Núa Ngam. ĐB
113 Thẩm Mây P Noong Bua. ĐBP
107 Sẻ
X Mường Lói. ĐB
114 Thẳm Phấng X Thanh Nưa. ĐB
108 Sen
X Thanh Yên. ĐB
115 Thìn
X Sam Mứn. ĐB
109 Si Na
X Mường Lói. ĐB
116 Vai
X Sam Mứn. ĐB
110 Ta Tiến
X Sam Mứn. ĐB
117 Xi Văn
X Pa Thơm. ĐB
111 Tếu
X Mường Nhà. ĐB
4. KHE: 8 địa danh
1 Hát Si
X Na Ư. ĐB
7 Hồng Cúm
X Thanh Xương. ĐB
2 Hẹ Nọi Lớn X Nà Tấu. ĐB
8 Hoong Hịa
X Thanh Xương. ĐB
3 Hẹ Nọi Nhỏ X Nà Tấu. ĐB
9 Hoong Ka
X Thanh Xương. ĐB
4 Hồng Lếch
X Thanh Nưa. ĐB
10 Hoong Khoong X Thanh X An. ĐB
5 Hồng Sạt
X Sam Mứn. ĐB
11 Hoong Ma Nao X Thanh Luông. ĐB
6 Hồng Sống X Noong Luống. ĐB
12 Loọng Bon
X Sam Mứn. ĐB
C. NHỮNG VÙNG ĐẤT PHI DÂN CƢ
1. CÁNH ĐỒNG: 4 địa danh
1 Mường Lói X Mường Lói. ĐB
Mường Phăng X Mường Phăng. ĐB
3
2 Mường Nhà X Mường Nhà. ĐB
Mường Pồn X Mường Pồn. ĐB
4
5 Mường Thanh P Mường Thanh. ĐBP
Nà Tấu
X Nà Tấu. ĐB
7
6 Nà Nhạn
X Nà Nhạn. ĐB
2. ĐỘNG: 1 địa danh
1 Pa Thơm
X Pa Thơm. ĐB
3. HANG: 2 địa danh
1 Chùa Pá Sa
X Pa Thơm. ĐB
2 Huổi He
X Nà Tấu. ĐB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
146
D. ĐỊA DANH ĐƠN VỊ DÂN CƢ I. THÀNH PHỐ: 1 địa danh
1 Điện Biên Phủ Tỉnh Điện Biên
II. HUYỆN: 1 địa danh
1 Điện Biên
Tỉnh Điện Biên
III. XÃ: 20 địa danh
Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên
11 12 13 14 15 16 17 18 19 20
Huyện Điện Biên Pa Thơm Huyện Điện Biên Sam Mứn Huyện Điện Biên Thanh An Thanh Chăn Huyện Điện Biên Thanh Hưng Huyện Điện Biên Thanh Luông Huyện Điện Biên Thanh Minh Huyện Điện Biên Thanh Nưa Huyện Điện Biên Thanh Xương Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên Thanh Yên
4 5
Pồn Thanh
Huyện Điện Biên Huyện Điện Biên
Huyện Điện Biên Lói Nhà Huyện Điện Biên Phăng Huyện Điện Biên
1 Mường Lói 2 Mường Nhà 3 Mường Phăng 4 Mường Pồn 5 Nà Nhạn 6 Nà Tấu 7 Na Ư 8 Noong Hẹt 9 Noong Luống 10 Núa Ngam IV. MƢỜNG: 5 địa danh 1 2 3 V. PHƢỜNG: 7 địa danh
Thành phố ĐBP 5 Tân Thanh 6 Thanh Bình Thành phố ĐBP 7 Thanh Trường Thành phố ĐBP
1 Him Lam Thành phố ĐBP 2 Mường Thanh Thành phố ĐBP Thành phố ĐBP 3 Nam Thanh 4 Noong Bua Thành phố ĐBP VI. TỔ DÂN PHỐ: 131 địa danh 1 1 2 1 3 1 4 1 5 1 6 1 7 1 8 1 2 9 10 2 11 2
P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Noong Bua. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP X Thanh Minh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP
17 3 18 3 19 3 20 3 21 3 22 3 23 3 24 4 25 4 26 4 27 4
P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Noong Bua. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Noong Bua. ĐBP
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
147
12 2 13 2 14 2 15 2 16 2 33 5 34 5 35 5 36 5 37 5 38 6 39 6 40 6 41 6 42 6 43 6 44 6 45 7 46 7 47 7 48 7 65 10 66 10 67 10 68 10 69 11 70 11 71 11 72 11 73 11 74 11 75 12 76 12 77 12 78 12 79 12 80 13
P Noong Bua. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP X Thanh Minh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Noong Bua. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Noong Bua. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Him Lam. ĐBP
28 4 29 4 30 4 31 5 32 5 49 7 50 7 51 8 52 8 53 8 54 8 55 8 56 8 57 9 58 9 59 9 60 9 61 9 62 9 63 10 64 10 81 13 82 13 83 13 84 13 85 14 86 14 87 14 88 14 89 14 90 15 91 15 92 15 93 15 94 15 95 16 96 16
P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP Tân Thanh.DBP P Thanh Bình. ĐBP P Thanh Trường. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
148
P Nam Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP
112 21 113 21 114 21 115 22 116 22 117 22 118 23 119 23 120 23 121 24 122 24 123 25 124 25 125 26 126 27 130 31 131 32
P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP
97 16 98 16 99 16 100 17 101 17 102 17 103 18 104 18 105 18 106 19 107 19 108 19 109 20 110 20 111 20 127 28 128 29 129 30 VII. BẢN: 404 địa danh
1 A 1
X Noong Luống. ĐB
X Sam Mứn. ĐB
17 Cà Phê
2 A 2
X Noong Luống. ĐB
18 Cang 1
X Nà Tấu. ĐB
3 Ban
X Sam Mứn. ĐB
19 Cang 1
X Mường Phăng. ĐB
4 Ban
X Mường Nhà. ĐB
20 Cang 1
X Sam Mứn. ĐB
5 Bánh
X Thanh Yên. ĐB
21 Cang 2
X Nà Tấu. ĐB
6 Bánh
X Mường Phăng. ĐB
22 Cang 2
X Mường Phăng. ĐB
7 Bánh
X Thanh Xương. ĐB
23 Cang 2
X Sam Mứn. ĐB
8 Bánh
X Thanh Luông. ĐB
24 Cang 3
X Mường Phăng. ĐB
9 Bó
X Mường Phăng. ĐB
25 Cang 4
X Mường Phăng. ĐB
10 Bó
X Thanh Hưng. ĐB
26 Càng Ná
X Thanh Luông. ĐB
11 Bó Hoóng X Thanh Xương. ĐB
27 Che Căn
X Mường Phăng. ĐB
12 Bôm La
X Thanh Xương. ĐB
28 Che Phai
P Thanh Trường. ĐBP
13 Bông A
X Noong Hẹt. ĐB
29 Chiềng An
X Thanh An. ĐB
14 Bông B
X Noong Hẹt. ĐB
30 Chiềng Chung X Thanh An. ĐB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
149
15 Bua
X Mường Phăng. ĐB
31 Chiềng Đông
X Thanh Yên. ĐB
16 Ca Hâu
X Na Ư. ĐB
32 Chiềng Xôm
X Sam Mứn. ĐB
X Thanh Minh. ĐBP X Mường Phăng. ĐB X Nà Tấu. ĐB X Mường Lói. ĐB X Thanh Nưa. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Noong Luống. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Sam Mứn. ĐB X Thanh Chăn. ĐB
X Thanh Nưa. ĐB X Thanh Nưa. ĐB X Nà Tấu. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Na Ư. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Núa Ngam. ĐB X Thanh Luông. ĐB X Noong Luống. ĐB X Noong Luống. ĐB X Nà Tấu. ĐB X Mường Pồn. ĐB X Thanh An. ĐB X Sam Mứn. ĐB X Thanh An. ĐB X Thanh An. ĐB X Thanh An. ĐB X Thanh An. ĐB X Thanh An. ĐB X Mường Phăng. ĐB X Mường Phăng. ĐB
33 Chính Thanh X Noong Luống. ĐB P Nam Thanh. ĐBP 34 Co Cáng 35 Co Chai X Thanh An. ĐB 36 Cò Chạy 1 X Mường Pồn. ĐB 37 Cò Chạy 2 X Mường Pồn. ĐB 38 Co Củ 39 Co Cưởm 40 Co Đứa 41 Co Đứa 42 Co Ké 43 Co Khỏ 44 Co Líu 45 Co Luống 46 Co Luống 47 Co Mặn 1 48 Co Mặn 2 49 Co Mị 50 Co Mị 51 Co Muông X Mường Phăng. ĐB X Noong Luống. ĐB 52 Co Nôm X Thanh Nưa. ĐB 53 Co Pao 75 Duyên Long X Noong Hẹt. ĐB 76 Gia Phú A X Mường Nhà. ĐB 77 Gia Phú B X Mường Nhà. ĐB X Thanh Nưa. ĐB 78 Giảng X Thanh Yên. ĐB 79 Hạ X Thanh Nưa. ĐB 80 Hạ X Mường Phăng. ĐB 81 Hả 1 X Mường Phăng. ĐB 82 Hả 2 83 Hát Hẹ X Núa Ngam. ĐB X Mường Nhà. ĐB 84 Hát Tao 85 Hẹ Muông 1 X Núa Ngam. ĐB 86 Hẹ Muông 2 X Núa Ngam. ĐB 87 Him Lam 1 P Him Lam. ĐBP
54 Co Pục 55 Co Rốm 56 Co Sáng 57 Co Thón 58 Con Cang 59 Công 60 Công Binh 61 Cộng Hòa 62 Đại Thanh 1 63 Đại Thanh 2 64 Đán Yên 65 Đỉnh Đèo 66 Đồi Cao 67 Đon Đứa 68 Đông Biên 1 69 Đông Biên 2 70 Đông Biên 3 71 Đông Biên 4 72 Đông Biên 5 73 Đông Mệt 1 74 Đông Mệt 2 96 Hồng Lếch Nưa X Thanh Hưng. ĐB P Noong Bua. ĐBP 97 Hồng Líu X Nà Tấu. ĐB 98 Hồng Líu 1 X Nà Tấu. ĐB 99 Hồng Líu 2 X Sam Mứn. ĐB 100 Hồng Sạt P Nam Thanh. ĐBP 101 Hoong En X Thanh Luông. ĐB 102 Hoong Hin 103 Hoong Khoong 1 X Thanh An. ĐB 104 Hoong Khoong 2 X Thanh An. ĐB X Núa Ngam. ĐB 105 Hợp Thành X Noong Luống. ĐB 106 Hua Lá X Nà Tấu. ĐB 107 Hua Luống X Thanh Nưa. ĐB 108 Hua Ná
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
150
X Mường Nhà. ĐB X Nà Tấu. ĐB
88 Him Lam 2 P Him Lam. ĐBP 89 Hin Phon 90 Hoa 91 Hoàng Công Chất X Noong Hẹt. ĐB
109 Hua Pe 110 Hua Rốm 1 111 Hua Rốm 2 112 Hua Thanh
X Thanh Luông. ĐB X Nà Tấu. ĐB X Nà Tấu. ĐB X Na Ư. ĐB
92 Hoàng Công Chất X Thanh An. ĐB
113 Hưng Yên
X Noong Hẹt. ĐB
93 Hoàng Yên X Thanh Yên. ĐB
114 Huổi Bua
X Núa Ngam. ĐB
94 Hồng Lếch X Thanh Nưa. ĐB
115 Huổi Cánh
X Thanh An. ĐB
95 Hồng Lếch Cuông X Thanh Hưng. ĐB
116 Huổi Cảnh
X Mường Lói. ĐB
117 Huổi Chan 1 X Mường Pồn. ĐB
138 Kéo
X Thanh Luông. ĐB
118 Huổi Chan 2 X Mường Pồn. ĐB
139 Khá
X Mường Phăng. ĐB
119 Huổi Chanh X Mường Nhà. ĐB
140 Khá
P Nam Thanh. ĐBP
120 Huổi Chon X Mường Lói. ĐB
141 Kham Pọm
X Mường Lói. ĐB
121 Huổi Chổn X Nà Nhạn. ĐB
142 Khẩu Cắm
X Mường Phăng. ĐB
122 Huổi Hẹ 1 X Nà Nhạn. ĐB
143 Khe Chít
P Noong Bua. ĐBP
123 Huổi Hẹ 2 X Nà Nhạn. ĐB
144 Khon Kén
X Mường Nhà. ĐB
124 Huổi Hốc
X Thanh Xương. ĐB
145 Khua Pen
X Nà Tấu. ĐB
125 Huổi Hộc
X Nà Nhạn. ĐB
146 Lé
X Noong Hẹt. ĐB
126 Huổi Hương X Mường Nhà. ĐB
147 Lé
X Thanh Luông. ĐB
127 Huổi Không X Mường Lói. ĐB
148 Lếch Cang
X Thanh Chăn. ĐB
128 Huổi Lé A X Noong Hẹt. ĐB
149 Liếng
X Noong Luống. ĐB
129 Huổi Lé B X Noong Hẹt. ĐB
150 Lính
X Mường Pồn. ĐB
130 Huổi Lơi
X Thanh Minh. ĐBP
151 Ló
X Thanh Luông. ĐB
131 Huổi Moi
X Pa Thơm. ĐB
152 Lói 1
X Mường Lói. ĐB
132 Huổi Phạ
P Him Lam. ĐBP
153 Lói 2
X Mường Lói. ĐB
133 Huổi Púng X Thanh An. ĐB
154 Lọng Gia
X Thanh Luông. ĐB
134 Huổi Sen
X Noong Luống. ĐB
155 Lọng Háy
X Mường Phăng. ĐB
135 Huổi Un
X Mường Pồn. ĐB
156 Lọng Luông 1 X Mường Phăng. ĐB
136 Kê Lênh
P Noong Bua. ĐBP
157 Lọng Luông 2 X Mường Phăng. ĐB
137 Kéo
X Mường Phăng. ĐB
158 Lọng Nghịu
X Mường Phăng. ĐB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
151
159 Loọng Bon X Sam Mứn. ĐB
180 Na Côm
X Núa Ngam. ĐB
160 Loọng Ngua X Mường Lói. ĐB
181 Na Dôn
X Núa Ngam. ĐB
161 Loọng Quân X Sam Mứn. ĐB
182 Na Há 1
X Mường Lói. ĐB
162 Loọng Toóng X Thanh Luông. ĐB
183 Na Há 2
X Mường Lói. ĐB
163 Lún
X Noong Luống. ĐB
184 Na Hai 1
X Sam Mứn. ĐB
164 Mé
X Thanh Hưng. ĐB
185 Na Hai 2
X Sam Mứn. ĐB
165 Mển 1
X Thanh Nưa. ĐB
186 Nà Hí
X Thanh Nưa. ĐB
166 Mển 2
X Thanh Nưa. ĐB
187 Na Hôm
X Mường Nhà. ĐB
167 Mớ
X Noong Hẹt. ĐB
188 Na Hươm
X Mường Nhà. ĐB
168 Mớ
P Thanh Trường. ĐBP
189 Na Khếnh
X Thanh Hưng. ĐB
169 Mốc C 5
X Mường Lói. ĐB
190 Na Khoang
X Mường Nhà. ĐB
170 Mới
X Sam Mứn. ĐB
191 Ná Khưa
X Thanh Chăn. ĐB
171 Mới
X Thanh An. ĐB
192 Na Lanh
P Thanh Trường. ĐBP
172 Món
X Thanh Luông. ĐB
193 Na Lao
X Sam Mứn. ĐB
173 Mường Pồn 1 X Mường Pồn. ĐB
194 Nà Láo
X Nà Tấu. ĐB
174 Mường Pồn 2 X Mường Pồn. ĐB
195 Nà Lơi
X Thanh Minh. ĐBP
175 Nà Cái 1
X Nà Tấu. ĐB
196 Nà Lốm 1
X Thanh Nưa. ĐB
176 Nà Cái 2
X Nà Tấu. ĐB
197 Nà Lốm 2
X Thanh Nưa. ĐB
177 Na Chén
X Mường Lói. ĐB
198 Nà Luống 1
X Nà Tấu. ĐB
178 Na Cọ
X Mường Lói. ĐB
199 Nà Luống 2
X Nà Tấu. ĐB
179 Na Cok
X Sam Mứn. ĐB
200 Nà Luống 3
X Nà Tấu. ĐB
201 Ná Men
X Noong Luống. ĐB
222 Na Sang 2
X Núa Ngam. ĐB
202 Na Náy
X Na Ư. ĐB
223 Nà Tấu 1
X Nà Tấu. ĐB
203 Nà Ngám 1 X Nà Nhạn. ĐB
224 Nà Tấu 2
X Nà Tấu. ĐB
204 Nà Ngám 2 X Nà Nhạn. ĐB
225 Nà Tấu 3
X Nà Tấu. ĐB
205 Nà Ngám 3 X Nà Nhạn. ĐB
226 Nà Tấu 4
X Nà Tấu. ĐB
206 Nà Ngám 4 X Nà Nhạn. ĐB
227 Nà Tấu 5
X Nà Tấu. ĐB
207 Nà Nghè
P Noong Bua. ĐBP
228 Nà Tấu 6
X Nà Tấu. ĐB
208 Na Ngum X Thanh Yên. ĐB
229 Na Ten
X Sam Mứn. ĐB
209 Nà Nhạn 1 X Nà Nhạn. ĐB
230 Nà Ten
X Thanh Nưa. ĐB
210 Nà Nhạn 2 X Nà Nhạn. ĐB
231 Na Thìn
X Sam Mứn. ĐB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
152
211 Nà Nhạn 3 X Nà Nhạn. ĐB
232 Nà Tông
X Thanh Yên. ĐB
212 Nà Nọi 1
X Nà Nhạn. ĐB
233 Na Tông 1
X Mường Nhà. ĐB
213 Nà Nọi 2
X Nà Nhạn. ĐB
234 Na Tông 2
X Mường Nhà. ĐB
214 Na Ố
X Mường Nhà. ĐB
235 Na Ư
X Na Ư. ĐB
215 Nà Pen 1
X Nà Nhạn. ĐB
236 Na Vai
X Sam Mứn. ĐB
216 Nà Pen 2
X Nà Nhạn. ĐB
237 Nậm Khẩu Hú X Nà Nhạn. ĐB
217 Nà Pen 3
X Nà Nhạn. ĐB
238 Nậm Nẹn
X Thanh Luông. ĐB
218 Na Phay
X Mường Nhà. ĐB
239 Nậm Ti 1
X Thanh Nưa. ĐB
219 Na Púng
P Thanh Trường. ĐBP
240 Nậm Ti 2
X Thanh Nưa. ĐB
220 Na Sản
X Mường Nhà. ĐB
241 Nghịu
X Thanh Luông. ĐB
221 Na Sang 1 X Núa Ngam. ĐB
242 Nghịu 1
X Mường Phăng. ĐB
243 Nghịu 2
X Mường Phăng. ĐB
265 Pá Chả
X Mường Lói. ĐB
244 Nôm
X Noong Luống. ĐB
266 Pá Chả
X Mường Pồn. ĐB
245 Noọng
X Thanh Luông. ĐB
267 Pa Có
X Mường Nhà. ĐB
246 Noong Bua P Noong Bua. ĐBP
268 Pá Đông
X Thanh Xương. ĐB
247 Noong Chứn P Nam Thanh. ĐBP
269 Pá Hẹ
X Núa Ngam. ĐB
248 Noong É
X Mường Lói. ĐB
270 Pá Khôm 1
X Nà Nhạn. ĐB
249 Noong Hẹt X Noong Hẹt. ĐB
271 Pá Khôm 2
X Nà Nhạn. ĐB
250 Noong Luống X Noong Luống. ĐB
272 Pa Kín
X Mường Nhà. ĐB
251 Noong Nhai 1 X Thanh Xương. ĐB
273 Pa Lếch
X Thanh Chăn. ĐB
252 Noong Nhai 2 X Thanh Xương. ĐB
274 Pá Luống
X Thanh Xương. ĐB
253 Noong Pết X Thanh Hưng. ĐB
275 Pa Nậm
X Sam Mứn. ĐB
254 Noọng Sọt X Núa Ngam. ĐB
276 Pá Ngam 1
X Núa Ngam. ĐB
255 Noong Ứng X Thanh An. ĐB
277 Pá Ngam 2
X Núa Ngam. ĐB
256 Noong Vai 1 X Thanh Yên. ĐB
278 Pa Pe
X Thanh Hưng. ĐB
257 Noong Vai 2 X Thanh Yên. ĐB
279 Pá Pháy
X Thanh Yên. ĐB
258 On
X Noong Luống. ĐB
280 Pa Pốm
X Thanh Minh. ĐBP
259 On
X Thanh Nưa. ĐB
281 Pá Sáng
X Thanh Nưa. ĐB
260 Pa Bói 1
X Thanh Yên. ĐB
282 Pa Thơm
X Pa Thơm. ĐB
261 Pa Bói 2
X Thanh Yên. ĐB
283 Pa Xa Lào
X Pa Thơm. ĐB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
153
262 Pá Bông
X Núa Ngam. ĐB
284 Pa Xa Xá
X Pa Thơm. ĐB
263 Pá Cấu
X Thanh Xương. ĐB
285 Pe Luông
X Thanh Luông. ĐB
264 Pá Chả
X Mường Phăng. ĐB
286 Pe Nọi
X Thanh Luông. ĐB
287 Pha Đin
X Thanh Chăn. ĐB
309 Pom Lót 2
X Sam Mứn. ĐB
288 Pha Lay
X Mường Nhà. ĐB
310 Pom Lót 3
X Sam Mứn. ĐB
289 Phăng 1
X Mường Phăng. ĐB
311 Pom Lót 4
X Sam Mứn. ĐB
290 Phăng 2
X Mường Phăng. ĐB
312 Pom Lót 5
X Sam Mứn. ĐB
291 Phăng 3
X Mường Phăng. ĐB
313 Pom Lót 6
X Sam Mứn. ĐB
292 Phì Cao
X Mường Nhà. ĐB
314 Pom Lót 7
X Sam Mứn. ĐB
293 Phiêng Ban X Nà Tấu. ĐB
315 Pom Lót 8
X Sam Mứn. ĐB
294 Phiêng Ban X Thanh Nưa. ĐB
316 Pom Lót 9
X Sam Mứn. ĐB
295 Phiêng Ban X Thanh An. ĐB
317 Pom Mỏ Thái X Thanh Chăn. ĐB
296 Phiêng Bua P Noong Bua. ĐBP
318 Pom Mỏ Thổ
X Thanh Chăn. ĐB
297 Phiêng Cá
X Noong Hẹt. ĐB
319 Pu Lau
X Mường Nhà. ĐB
298 Phiêng Lơi X Thanh Minh. ĐBP
320 Pú Sung
X Mường Phăng. ĐB
299 Phiêng Quái X Noong Luống. ĐB
321 Pú Tỉu A
X Thanh Xương. ĐB
300 PhiêngSáng X Mường Nhà. ĐB
322 Pú Tỉu B
X Thanh Xương. ĐB
301 Phủ
X Noong Hẹt. ĐB
323 Púng Bon
X Pa Thơm. ĐB
302 Phú Ngam X Núa Ngam. ĐB
324 Púng Bửa
X Na Ư. ĐB
303 Phú Yên
X Thanh Yên. ĐB
325 Púng Khẩu
X Noong Hẹt. ĐB
304 Phượn
X Thanh Yên. ĐB
326 Púng Nghịu
X Thanh Chăn. ĐB
305 Pom Khoang X Thanh Nưa. ĐB
327 Púng Tôm
X Thanh Minh. ĐBP
306 Pom Loi
P Nam Thanh. ĐBP
328 Sái Lương
X Núa Ngam. ĐB
307 Pom Lót 1 X Sam Mứn. ĐB
329 Sam Mứn 1
X Sam Mứn. ĐB
308 Pom Lót 10 X Sam Mứn. ĐB
330 Sam Mứn 2
X Sam Mứn. ĐB
331 Sam Mứn 3 X Sam Mứn. ĐB
352 Tẩu Pung 1
X Nà Nhạn. ĐB
332 Sáng
X Mường Phăng. ĐB
353 Tẩu Pung 2
X Nà Nhạn. ĐB
333 Sáng 1
X Thanh An. ĐB
354 Ten
X Mường Phăng. ĐB
334 Sáng 2
X Thanh An. ĐB
355 Ten A
X Thanh Xương. ĐB
X Mường Lói. ĐB
356 Ten B
X Thanh Xương. ĐB
335 Sẻ 1
X Mường Lói. ĐB
357 Ten Luống
X Thanh An. ĐB
336 Sẻ 2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
154
337 Sơn Tống 1 X Mường Nhà. ĐB
358 Ten Núa
X Núa Ngam. ĐB
338 Sơn Tống 2 X Mường Nhà. ĐB
359 Thanh Bình
X Noong Luống. ĐB
339 Tà Cáng 1 X Nà Tấu. ĐB
360 Thanh Bình
X Thanh An. ĐB
340 Tà Cáng 2 X Nà Tấu. ĐB
361 Thanh Bình
X Thanh Luông. ĐB
341 Tà Cáng 3 X Nà Tấu. ĐB
362 Thanh Đông
X Thanh Luông. ĐB
342 Tà Lành
P Noong Bua. ĐBP
363 Thanh Hà 1
X Thanh Yên. ĐB
343 Ta Lét
X Núa Ngam. ĐB
364 Thanh Hà 2
X Thanh Yên. ĐB
344 Ta Pô
P Thanh Trường. ĐBP
365 Thanh Sơn
X Noong Luống. ĐB
345 Tân Bình
X Mường Phăng. ĐB
366 Thanh Trường X Thanh Yên. ĐB
346 Tân Ngam X Núa Ngam. ĐB
367 Thanh Xuân
X Sam Mứn. ĐB
347 Tân Quang X Mường Nhà. ĐB
368 Thanh Xuân
X Noong Luống. ĐB
348 Tân Quang X Thanh Minh. ĐBP
369 Tiến Thanh
X Thanh Yên. ĐB
349 Tâu 1
X Thanh Nưa. ĐB
370 Tin Đán
X Núa Ngam. ĐB
350 Tâu 2
X Thanh Nưa. ĐB
371 Tin Tốc
X Mường Lói. ĐB
351 Tâu 3
X Thanh Nưa. ĐB
372 Tin Tốc
X Mường Pồn. ĐB
373 Tông Khao X Thanh Nưa. ĐB
389 Xôm 1
X Nà Tấu. ĐB
374 Tra
X Thanh An. ĐB
390 Xôm 1
X Mường Phăng. ĐB
375 Trung tâm X Mường Phăng. ĐB
391 Xôm 2
X Nà Tấu. ĐB
376 Trung tâm X Mường Nhà. ĐB
392 Xôm 2
X Mường Phăng. ĐB
377 Trung tâm 1 X Nà Tấu. ĐB
393 Xôm 3
X Mường Phăng. ĐB
378 Trung tâm 2 X Nà Tấu. ĐB
394 Yên
X Sam Mứn. ĐB
379 U Va
X Noong Luống. ĐB
395 Yên 1
X Mường Phăng. ĐB
380 Vang 1
X Mường Phăng. ĐB
396 Yên 2
X Mường Phăng. ĐB
381 Vang 2
X Mường Phăng. ĐB
397 Yên 3
X Mường Phăng. ĐB
382 Việt Yên 1 X Thanh Yên. ĐB
398 Yên Bình
X Thanh Yên. ĐB
383 Việt Yên 2 X Thanh Yên. ĐB
399 Yên Bua
X Noong Hẹt. ĐB
384 Xa Cuông
X Pa Thơm. ĐB
400 Yên Cang
X Sam Mứn. ĐB
385 Xá Nhù
X Thanh Nưa. ĐB
401 Yên Màu C 3
X Thanh Yên. ĐB
386 Xôm
X Mường Nhà. ĐB
402 Yên Sơn
X Thanh Yên. ĐB
387 Xôm
X Mường Lói. ĐB
403 Yên Trường
X Thanh Yên. ĐB
388 Xôm
X Thanh An. ĐB
404 YênBình
X Sam Mứn. ĐB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
155
C. ĐỊA DANH CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG NHÂN TẠO
I. ĐỊA DANH CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG NHÂN TẠO THUỘC NHỮNG HOẠT
ĐỘNG VẬT CHẤT KỸ THUẬT CỦA CON NGƢỜI
1. CẦU: 7 địa danh
1 A 1
P Mường Thanh. ĐBP
Na Sang
X Núa Ngam. ĐB
4
2 Huổi Phạ
P Him Lam. ĐBP
Pắc Nậm
X Noong Luống. ĐB
5
3 Mường Thanh P Mường Thanh. ĐBP
Thanh Bình P Thanh Bình. ĐBP
6
Trắng
P Mường Thanh. ĐBP
7
2. CẦU TREO: 5 địa danh 1 C 4
P Nam Thanh
Him Lam
P Him Lam. ĐBP
4
2 C 9
X Thanh Xương. ĐB
Nậm Thanh X Noong Hẹt. ĐB
5
3 Cảnh Quang X Thanh Minh. ĐBP
3. CỐNG: 1 địa danh
1
Thanh Minh P Him Lam. ĐBP
4. CÔNG TRÌNH ĐẠI THUỶ NÔNG: 1 địa danh 1 Nậm Rốm
TP ĐBP và huyện ĐB
5. CÔNG TRÌNH THUỶ LỢI: 2 địa danh 1
Pa Khoang X Mường Phăng. ĐB
2
Thanh Minh X Thanh Minh. ĐBP
3 4 9 10 11
C 1 C 2 E 1 E 2 Him Lam
P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP
6. CỨ ĐIỂM: 11 địa danh P Mường Thanh. ĐBP 1 A 1 P Thanh Trường. ĐB 2 Bản Kéo P Tân Thanh. ĐBP 5 D 1 P Tân Thanh. ĐBP 6 D 2 7 D 3 P Tân Thanh. ĐBP 8 Đồi Độc Lập X Thanh Nưa. ĐB
7. CỬA KHẨU: 2 địa danh
1 Huổi Puốc X Mường Lói. ĐB
2 Tây Trang X Na Ư. ĐB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
156
8. ĐẬP ĐẦU MỐI: 1 địa danh
1 Nậm Rốm
P Him Lam. ĐBP
9. ĐẬP TRÀN: 5 địa danh
1 Bó Hoóng X Thanh Xương. ĐB
4 Hồng Khếnh X Thanh Hưng. ĐB
2 Co Củ
X Thanh Minh. ĐBP
5 Hồng Líu
P Noong Bua. ĐBP
3 Co Nôm
X Noong Luống. ĐB
10. ĐỒN BIÊN PHÕNG: 6 địa danh
1 Hua Pe
X Thanh Luông. ĐB
4 Mường Pồn
X Mường Pồn. ĐB
2 Mường Lói X Mường Lói. ĐB
5
Pa Thơm
X Pa Thơm. ĐB
3 Mường Nhà X Mường Nhà. ĐB
6 Tây Trang
X Na Ư. ĐB
11. ĐƢỜNG: 15 địa danh
P Tân Thanh. ĐBP P Thanh Bình. ĐBP
8 Nguyễn Chí Thanh P Thanh Bình. ĐBP 9 Phan Đình Giót 10 Sùng Phái Sinh 11 Tôn Đức Thắng 12 Trần Can 13 Trần Đăng Ninh 14 Trần Văn Thọ 15 Trường Chinh
P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Mường Thanh. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP P Him Lam. ĐBP P Tân Thanh. ĐBP
P Him Lam. ĐBP 1 13/3 TP ĐBP 2 7/5 P Mường Thanh. ĐBP 3 Bế Văn Đàn 4 Hoàng Công Chất P Mường Thanh. ĐBP 5 Hoàng Văn Thái P Mường Thanh. ĐBP 6 Lê Trọng Tấn 7 Lò Văn Hặc
12.HẦM: 3 địa danh
X Mường Phăng. ĐB
Pi Rốt
P Mường Thanh. ĐBP
1
3
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
2 Đờ Cát
P Mường Thanh. ĐBP
13.KÊNH: 4địa danh
1 Chính
P Him Lam. ĐBP
Nậm Rốm
TP ĐBP và huyện ĐB
3
2 Hữu
TP ĐBP và huyện ĐB
Tả
TP ĐBP và huyện ĐB
4
14. KHU DU LỊCH: 4 địa danh
1 Hồ Huổi Phạ
P Him Lam. ĐBP
Hua Pe
X Thanh Luông. ĐB
3
Hồ Pa Khoang và
U Va, động Pa
2
Sở chỉ huy chiến
X Mường Phăng. ĐB
Thơm và cửa
4
X Noong Luống và X Pa Thơm. ĐB
dịch Điện Biên Phủ
khẩu Tây Trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
157
15. KHU KHẢO CỔ HỌC: 1 địa danh
1 Hồ U Va X Noong Luống. ĐB
16. NHÀ MÁY THỦY ĐIỆN: 3 địa danh
1 Nà Lơi
X Thanh Minh. ĐB
Thác Trắng
X Mường Phăng. ĐB
3
2 Thác Bay X Nà Nhạn. ĐB
17. PHÂN KHU: 3 địa danh
X Thanh Nưa. ĐB và P
1 Bắc
3
Trung tâm
TP Điện Biên Phủ
Thanh Trường. ĐBP
2 Nam
X Thanh An. ĐB
18. QUẦN THỂ KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐIỆN BIÊN PHỦ: 1 địa danh
1 Điện Biên Phủ TP ĐBP và huyện ĐB
19. QUỐC LỘ: 2 địa danh
1
12
TP ĐBP và huyện ĐB
2
279
TP ĐBP và huyện ĐB
20. RẠP CHIẾU BÓNG: 1 địa danh
1 Điện Biên Phủ P Mường Thanh. ĐBP
21. SÂN BAY: 1 địa danh
1 Điện Biên Phủ P Thanh Bình. ĐBP
22. THÀNH: 2 địa danh
1 Bản Phủ
X Noong Hẹt. ĐB
2
Tam Vạn
X Sam Mứn. ĐB
23. TRUNG TÂM ĐỀ KHÁNG: 4 địa danh
1 Đồi Bản Kéo
P Thanh Trường. ĐB
3 Đồi Độc Lập
X Thanh Nưa. ĐB
2 Đồi D
P Tân Thanh.ĐBP
4 Him Lam
P Him Lam. ĐBP
24. TƢỢNG ĐÀI: 2 địa danh
Chiến thắng lịch
Chiến thắng lịch
1
P Tân Thanh. ĐBP
2
X Mường Phăng. ĐB
sử Điện Biên Phủ
sử Điện Biên Phủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
158
II. ĐỊA DANH CÁC CÔNG TRÌNH NHÂN TẠO THUỘC NHỮNG HOẠT ĐỘNG TÂM
LINH CỦA CON NGƢỜI
1. BẢO TÀNG: 2
địa danh
Chiến thắng lịch sử Điện
1
P Mường Thanh. ĐBP
2 Tỉnh Điện Biên
P Mường Thanh. ĐBP
Biên Phủ
2. CHÙA: 2 địa danh
1 Vạt Bu Hôm
X Sam Mứn. ĐB
3. DI TÍCH: 33 địa danh
Bãi
pháo
P Mường Thanh.
1
17 Hầm Pi Rốt
P Mường Thanh. ĐBP
Mường Thanh
ĐBP
Cầu Mường
P Mường Thanh.
Khu khảo cổ học
2
18
X Noong Luống. ĐB
Thanh
ĐBP
hồ U Va
3 Chùa Pá Sa
X Pa Thơm. ĐB
19 Mường Pồn
X Mường Pồn. ĐB
Dân quân xã
4
Thanh An bắn
X Thanh An. ĐB
20 Noong Nhai
X Thanh Xương. ĐB
rơi máy bay Mỹ
Đền
Hoàng
Phân khu Hồng
5
X Noong Hẹt. ĐB
X Thanh An. ĐB
21
Công Chất
Cúm
P Mường Thanh.
Sân bay Hồng
6 Đồi A 1
X Thanh An. ĐB
22
ĐBP
Cúm
P Mường Thanh.
Sân bay Mường
7 Đồi C 1
P Mường Thanh. ĐBP
23
ĐBP
Thanh
Sở chỉ huy chiến
P Mường Thanh.
8 Đồi C 2
24
dịch Điện Biên
X Mường Phăng. ĐB
ĐBP
Phủ
Sở chỉ huy tập
P Mường Thanh.
9 Đồi Cháy
25
đoàn
cứ điểm
P Mường Thanh. ĐBP
ĐBP
Điện Biên Phủ
10 Đồi E 1
P Tân Thanh. ĐBP
26 Thành Bản Phủ X Noong Hẹt. ĐB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
159
11 Đồi E 2
P Tân Thanh. ĐBP
27 Thành Tam Vạn X Sam Mứn. ĐB
Đồi phát hiện
Trại
tập
trung
12
trống đồng bản
X Thanh Nưa. ĐB
28
X Thanh Xương. ĐB
Noong Nhai
Na Hý
Trận địa pháo của
Đường kéo pháo
13
của quân ta ở
X Nà Nhạn. ĐB
29
quân ta ở Điện
X Nà Nhạn. ĐB
Biên Phủ
Điện Biên Phủ
Trung
tâm đề
14 Hang Huổi He X Nà Tấu. ĐB
30
kháng đồi Bản
X Thanh Nưa. ĐB
Kéo
Hầm Đại tướng
X Mường Phăng.
Trung
tâm đề
15
Võ
Nguyên
31
P Tân Thanh. ĐBP
ĐB
kháng đồi D
Giáp
Trung
tâm đề
P Mường Thanh.
16 Hầm Đờ Cát
32
kháng đồi Độc
X Thanh Nưa. ĐB
ĐBP
Lập
Trung
tâm đề
33
P Him Lam. ĐBP
kháng Him Lam
4. ĐỀN: 1 địa danh
X Noọng
1
Hoàng Công Chất
Hẹt
5. NGHĨA TRANG LIỆT SĨ: 4 địa danh
P Him Lam.
P Mường
Điện Biên Phủ
Thanh. ĐBP
Him Lam
ĐBP
3
1
X
Thanh
X
Thanh
Độc Lập
Nưa. ĐB
Tông Khao
Nưa. ĐB
4
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
160
1 Điện Biên Phủ P Mường Thanh. ĐBP
3 Him Lam
P Him Lam. ĐBP
2 Độc Lập
X Thanh Nưa. ĐB
4 Tông Khao X Thanh Nưa. ĐB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5. NGHĨA TRANG LIỆT SĨ: 4 địa danh