ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

TRẦN VĂN CHUYÊN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT, ĐỀ XUẤT

PHÁT TRIỂN RỪNG TRỒNG QUẾ (CINNAMOMUM

CASSIA) TẠI HUYỆN BẢO YÊN, TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM HỌC

THÁI NGUYÊN - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

TRẦN VĂN CHUYÊN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT, ĐỀ XUẤT

PHÁT TRIỂN RỪNG TRỒNG QUẾ (CINNAMOMUM

CASSIA) TẠI HUYỆN BẢO YÊN, TỈNH LÀO CAI

Ngành: Lâm học

Mã số ngành: 8 62 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Thái

THÁI NGUYÊN - 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân

và có sử dụng một phần số liệu của đề tài: “Nghiên cứu chọn giống Quế

(Cinnamomum cassia.Presl) có năng suất và hàm lượng tinh dầu cao phục vụ

trồng rừng kinh tế tại tỉnh Lào Cai” được thực hiện từ năm 2016- 2019 đã

được Chủ nhiệm đề tài cho phép, nếu có gì sai sót tôi xin chịu hoàn toàn trách

nhiệm.

Học viên

Trần Văn Chuyên

ii

LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, tôi được trang bị cho mình kiến thức cơ bản về chuyên môn dưới sự giảng dạy và chỉ bảo tận tình của toàn thể thầy cô giáo. Để củng cố lại những kiến thức đã học cũng như làm quen với công tác nghiên cứu thì việc thực tập tốt nghiệp là một giai đoạn rất quan trọng, tạo điều kiện cho học viên cọ sát với thực tế nhằm củng cố lại kiến thức đã tích lũy được trong nhà trường đồng thời nâng cao tư duy hệ thống lý luận để nghiên cứu ứng dụng một cách có hiệu quả những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất. Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân, được sự nhất trí của nhà trường, ban chủ nhiệm khoa Sau Đại học, Khoa Lâm Nghiệp và sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo TS. Nguyễn Văn Thái tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu một số giải pháp kỹ thuật, đề xuất phát triển rừng trồng Quế (Cinnamomum cassia) tại huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai”.Trong thời gian nghiên cứu đề tài, được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của TS. Nguyễn Văn Thái và các thầy cô giáo trong khoa cùng với sự phối hợp giúp đỡ của các ban ngành lãnh đạo của huyện Bảo Yên và đặc biệt là nhóm nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu chọn giống Quế (Cinnamomum cassia.Presl) có năng suất và hàm lượng tinh dầu cao phục vụ trồng rừng kinh tế tại tỉnh Lào Cai” chủ nhiệm đề tài là TS. Vũ Văn Định cùng các cộng tác viên của Trung tâm Nghiên cứu Bảo vệ rừng đã cùng tôi đi thực địa thu thập số liệu tại địa bàn huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Qua đây tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc nhất đến các thầy cô giáo trong khoa Lâm Nghiệp, Khoa sau Đại học và đặc biệt là thầy giáo TS. Nguyễn Văn Thái người thầy đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài,

Tôi xin chân thành cám ơn tới TS. Vũ Văn Định cùng nhóm cộng tác viên đề tài của Trung tâm Nhiên cứu Bảo vệ rừng – Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã cộng tác và thực hiện đề tài. Trong quá trình thực hiện luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để bản luận văn này hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 10 năm 2019 Học viên

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii

MỤC LỤC ....................................................................................................... iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC KÝ HIỆU ................................... v

DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................. vi

DANH MỤC CÁC HÌNH ............................................................................. vii

Phần 1. MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1

1.1. Đặt vấn đề................................................................................................... 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... 3

1.2.1. Mục tiêu tổng quát .................................................................................. 3

1.2.2. Mục tiêu cụ thể ........................................................................................ 3

1.3. Ý nghĩa nghiên cứu khoa học..................................................................... 3

1.3.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu khoa học ................................................ 3

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn sản xuất ....................................................................... 3

Chương 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ....................................................... 4

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về cây Quế trên thế giới ......................... 4

1.2. Tình hình nghiên cứu về cây Quế ở trong nước ...................................... 11

1.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu ................................................................ 31

Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................... 34

2.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 34

2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu .......................... 34

2.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 34

2.3.1. Điều tra đánh giá thực trạng trồng, khai thác, chế biến và thị trường tiêu

thụ Quế ở Lào Cai ........................................................................................... 34

2.3.2. Chọn cây Quế trội sinh trưởng nhanh và hàm lượng tinh dầu cao ....... 34

2.3.3. Nghiên cứu mật độ trồng và bón phân .................................................. 34

iv

2.3.4. Điều tra sâu bệnh hại Quế và đề xuất biện pháp phòng trừ .................. 34

2.3.5. Đề xuất biện pháp kỹ thuật gây trồng Quế phù hợp với địa phương .... 34

2.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 34

2.4.1. Điều tra đánh giá các giống Quế, thực trạng trồng, khai thác, chế biến

và thị trường tiêu thụ Quế ở Lào Cai .............................................................. 34

2.4.2. Chọn cây Quế trội sinh trưởng nhanh và hàm lượng tinh dầu cao ....... 35

2.4.3. Nghiên cứu mật độ trồng và bón phân .................................................. 36

2.4.4. Điều tra sâu bệnh hại và đề xuất biện pháp phòng trừ .......................... 37

2.4.5. Đề xuất biện pháp kỹ thuật gây trồng phù hợp ..................................... 38

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 39

3.1. Điều tra đánh giá thực trạng trồng, khai thác, chế biến và thị trường tiêu

thụ Quế ở tỉnh Lào Cai .................................................................................... 39

3.2. Chọn cây Quế trội sinh trưởng nhanh và hàm lượng tinh dầu cao .......... 42

3.3. Nghiên cứu mật độ trồng và bón phân ..................................................... 45

3.4. Điều tra sâu bệnh hại và đề xuất biện pháp phòng trừ ............................. 48

3.5. Đề xuất biện pháp kỹ thuật gây trồng phù hợp ........................................ 49

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................... 57

1. Kết luận ....................................................................................................... 57

2. Tồn tại: ........................................................................................................ 57

3. Kiến nghị ..................................................................................................... 58

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 59

v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC KÝ HIỆU

Chữ viết tắt/ký hiệu Giải nghĩa đầy đủ

BNN &PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

CT Công thức

Đường kính ngang ngực D1.3

Do Đường kính gốc

ĐC Đối chứng

Hvn Chiều cao vút ngọn

Hdc Chiều cao dưới cành

OTC Ô tiêu chuẩn

P% Tỷ lệ bị sâu/bệnh

Q Quế

R Cấp bị sâu/bệnh

TCN Tiêu chuẩn ngành

TLS Tỷ lệ sống

XQ Xung Quanh

vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1. Sinh trưởng của cây Quế trội tại Bảo Yên, Lào Cai ....................... 43

Bảng 3.2: Ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng của Quế ở giai đoạn

rừng trồng ........................................................................................................ 46

Bảng 3.3: Ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng của Quế ở giai đoạn

rừng trồng ......................................................................................................... 47

Bảng 3.4: Danh mục thành phần loài sâu, bệnh hại Quế ................................ 48

vii

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1: Lá Quế lá to ..................................................................................... 39

Hình 3.2: Cây Quế lá nhỏ ................................................................................ 39

Hình 3.3: Lá Quế lá nhỏ .................................................................................. 40

Hình 3.4: Cây Quế lá nhỏ ................................................................................ 40

Hình 3.5: Quả Quế lá nhỏ ............................................................................... 40

Hình 3.6: Chọn cây Quế trội tại Bảo Yên Lào Cai ........................................ 45

Hình 3.7: Quế ở giai đoạn rừng trồng 5 tuổi ................................................... 47

1

Phần 1

MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề

Cây Quế (Cinnamomum cassia) thuộc họ Long não (Lauraceae) là cây

đa tác dụng, cây có thể cao 18 - 20m, đường kính đạt 10 - 45cm. Quế là cây

phân bố rộng, có thể sinh trưởng tốt cả ở miền Nam và miền Bắc Việt Nam.

Quế thích hợp với vùng núi cao, độ cao địa hình ở đai cao từ 300 – 700m so

với mặt biển. Vùng có khí hậu mát ẩm, nhiệt độ bình quân năm từ 22 – 240C,

lượng mưa bình quân năm trên 2000mm, độ ẩm không khí trên 80%. Quế có

thể trồng trên nhiều loại đất có thành phần cơ giới thịt nhẹ đến thịt trung bình,

tầng đất dày, ẩm độ đất cao thoát nước tốt (Hoàng Cầu, 1993).

Tinh dầu Quế được sử dụng nhiều trong công nghiệp y dược, công nghiệp chế

biến thực phẩm, hương liệu và chăn nuôi. Trước đây, cây Quế chỉ bán được

vỏ, hiện nay, thân, cành, lá đều bán được với giá cao. Thân Quế sau khi bóc

vỏ được bán cho các cơ sở chế biến gỗ làm ván gép thanh, ván sàn, đồ gia

dụng hoặc làm cột chống… Các sản phẩm từ Quế có thể tổ chức sản xuất

thành nguồn hàng lớn có giá trị xuất khẩu đem lại nguồn lợi kinh tế to lớn và

gắn liền với đời sống của nhân dân các dân tộc ít người như Dao, Tày….

Ngoài lợi ích về mặt kinh tế, cây Quế còn đóng góp vào việc bảo vệ

môi trường sinh thái, làm tăng độ che phủ rừng, giữ đất, giữ nước ở các vùng

đất đồi núi dốc, bảo tồn và phát triển sự đa dạng các nguồn gen quý cây bản

địa. Theo thống kê diện tích rừng trồng theo từng loài cây của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2011 Lào Cai có diện tích rừng trồng Quế

2.513,8 ha trong những năm gần đây diện tích rừng trồng Quế tăng nhanh,

theo thông tin Chi cục Kiểm Lâm tỉnh Lào Cai năm 2015 diện tích trồng Quế

của toàn tỉnh 11.198,5 ha trong đó huyên Bảo Thắng 1689,1 ha, huyện Văn

Bàn 1.754 ha, huyện Bảo Yên 4.848,2 ha, huyện Bắc Hà 2.907,2 ha. Hiện nay

giá vỏ Quế khô thường ít bấp bênh so với các cây trồng khác, lại bảo quản

2

được lâu nên không lo bị tư thương ép giá. Hiện nay, cây Quế đã khẳng định

là một trong những cây trồng mũi nhọn, góp phần xóa đói, giảm nghèo và làm

giàu cho đồng bào thuộc huyện Bảo Yên, Bảo Thắng... Ủy ban nhân dân tỉnh

Lào Cai đã có quy hoạch mở rộng vùng trồng Quế lên 25.000 ha từ nay đến

năm 2025, trong đó các huyện: Bảo Yên 7.800 ha, Bảo Thắng 5.500 ha, Văn Bàn

4.400 ha, Bắc Hà 7.300 ha, tổng diện tích tăng so với diện tích Quế hiện tại.

Huyện Bảo Yên là địa phương đi đầu trong toàn tỉnh Lào Cai về phát

triển các loài cây lâm nghiệp, hàng năm cung cấp ra thị trường hàng chục

nghìn mét khối gỗ các loại có nguồn gốc từ cây trồng. Qua khảo sát đánh giá

điều kiện khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng thích hợp nên cây Quế ở Bảo Yên

được xem là sản phẩm chất lượng cao, vỏ Quế dày, hương vị thơm ngon, chất

lượng, giá thành sản phẩm không khác Quế được trồng ở vùng huyện Văn

Yên tỉnh Yên Bái. Thực tế lá Quế có chứa tinh dầu mà hàng năm người trồng

Quế có thể tỉa thưa cành, lá cung ứng cho các cơ sở chiết xuất tinh dầu. Đây

có thể được xem là lấy ngắn nuôi dài, giúp người trồng Quế tạo công ăn việc

làm, có thu nhập ổn định, trong khi chờ thu hoạch sản phẩm chính.

Nhìn về điều kiện tự nhiên huyện Bảo Yên nằm về phía Nam của tỉnh

Lào Cai, địa giới hành chính giáp ranh với vùng huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái,

nơi đây được đánh giá nghề trồng Quế đứng thứ nhất, nhì cả nước. Với diện

tích tự nhiên 81.834,3 ha, trong đó diện tích đất quy hoạch lâm nghiệp

61.770,2 ha, diện tích đất rừng quy hoạch cho sản xuất 46.051,51 ha, địa hình

đồi núi thấp, tài nguyên rừng đa dạng, phong phú phù hợp với các loại cây trồng.

Với những điều kiện tự nhiên như vậy, những người trồng rừng vẫn

chưa phát huy hết khả năng ưu ái của thiên nhiên mang lại, chưa biết lựa chọn

loài cây trồng phù hợp cho năng suất, chất lượng cao, làm giàu từ nghề rừng.

Sản xuất những loài cây lâm nghiệp có chu kỳ ngắn phục vụ ngành công

nghiệp nguyên liệu giấy, ván bóc, xẻ thanh… Ưu điểm nhanh thu hồi vốn,

nhưng nhược điểm hiệu quả tài chính chưa cao bởi thời điểm 5 tuổi đến 7 tuổi

3

cho sinh khối nhanh thì đã bị khai thác, chuyển đổi chu kỳ kinh doanh rừng.

Một số loài cây trồng cho năng suất, chất lượng cao như Quế thì người trồng

rừng chưa thực sự quan tâm bởi chu kỳ kinh doanh có thể đến hàng chục năm.

Nhằm phát huy những vốn có của tự nhiên mang lại, với mong muốn

đóng góp cho sự phát triển của địa phương, tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu

một số giải pháp kỹ thuật, đề xuất phát triển rừng trồng Quế (Cinnamomum

cassia) tại huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai” có ý nghĩa cả về khoa học và thực

tiễn sản xuất.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

1.2.1. Mục tiêu tổng quát

Đánh giá thực trạng rừng trồng Quế và các yếu tố tác động, đưa ra các

pháp kỹ thuật phát triển rừng trồng Quế một cách bền vững góp phần nâng

cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người trồng rừng.

1.2.2. Mục tiêu cụ thể

- Đánh giá thực trạng phát triển rừng Quế tại huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai

- Tuyển chọn được cây Quế trội có năng suất cao phục vụ công tác

trồng rừng của địa phương

- Đề xuất giải pháp về kỹ thuật gây trồng và phòng trừ sâu, bệnh hại

Quế tại Bảo Yên

1.3. Ý nghĩa nghiên cứu khoa học

1.3.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu khoa học

Bổ sung những cơ sở khoa học về kỹ thuật gây trồng và phòng trừ sâu

bệnh hại Quế. Đồng thời giúp cho học viên tiếp cận phương pháp nghiên cứu

khoa học, giải quyết vấn đề thực tiễn của khoa học đặt ra.

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn sản xuất

Dựa trên cơ sở khoa học đưa ra các giải pháp kỹ thuật góp phần phát

triển hiệu quả hơn nữa rừng trồng Quế trên địa bàn huyện Bảo Yên.

4

Chương 1

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về cây Quế trên thế giới

- Phân loại và thực vật học

Chi Quế (tên khoa học: Cinnamomum) là một chi các loài thực vật

thường xanh thuộc họ Nguyệt Quế (Lauraceae). Lá và vỏ cây các loài thuộc

chi này có tinh dầu thơm. Chi này có khoảng hơn 300 loài, phân bố chủ yếu

tại các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Nam

Mỹ, châu Á, châu Đại Dương và Australasia.

- Đặc điểm sinh vật học, sinh thái học và kỹ thuật gây trồng

+ Đặc điểm sinh vật học

Quế (Cinnamomum cassia) là cây thường xanh được trồng rộng rãi ở

miền Nam và miền Đông châu Á (Ấn Độ, Indonesia, Lào, Malaysia, Đài

Loan, Thái Lan và Việt Nam). Cây cao từ 10-15 m, vỏ màu xám, lá thuôn dài

từ 10-15 cm, trong các bộ phận của cây Quế như: Vỏ, lá, hoa, gỗ, rễ đều có

chứa tinh dầu.

Hoa tự chùm, nhỏ màu trắng, quả Quế khi chưa chín có màu xanh, khi

chín chuyển sang màu tím than, quả mọng trong chứa một hạt, quả dài 1cm

đến 1,2 cm, hạt hình bầu dục, 1 kg hạt Quế có khoảng 2500 – 3000 hạt. Bộ rễ

Quế phát triển mạnh, rễ cọc cắm sâu vào lòng đất, rễ lan rộng, đan chéo nhau.

Vì vậy, Quế có khả năng sinh sống tốt trên các vùng đồi núi dốc.

+ Đặc điểm sinh thái học: Quế C.tamala phân bố ở hầu hết các vùng

Himalaya nhiệt đới, cận nhiệt đới và mở rộng đến vùng Đông Bắc Ấn Độ, đến

độ cao 2000 m. Quế C. tamala được trồng ở vùng Khasi, Jaintia, đồi Garo của

Meghalaya và vùng đồi Cachar Bắc của Assam (Cinnamom and cassia.

CRS.PRESS.2004).

Quế Inđonêsia có phân bố từ mặt biển đến độ cao 2000m. Trung tâm

trồng Quế là vùng Padang, ở độ cao từ 500 – 1300m. Một biến chủng của loài

5

này có lá non màu đỏ sinh trưởng ở độ cao hơn trong vùng núi Korintji (còn

gọi là Kerinci). Loại này chất lượng tốt hơn và được buôn bán trên thị trường

thế giới với tên gọi Quế Korintji (cinnamom and cassia. CRS.PRESS.2004).

+ Kỹ thuật gây trồng: Trên thế giới có nhiều nước trồng Quế rất thành

công cho sản lượng và năng suất cao như ở Ấn Độ, cây được trồng với cự li

3m x 2m. Cây con được gieo trên luống và trồng khi cây 4 – 5 tháng tuổi. Khi

cây 8 – 10 tuổi được khai thác lá cho đến hàng trăm tuổi. Lá già được thu từ

tháng 10 – 12 đến tháng 3 năm sau. Lá được thu hàng năm ở các cây trẻ và

khỏe và luân phiên đối với cây già và yếu. Lá thường được bó thành từng bó,

phơi ngoài nắng, rồi đem bán. Sản lượng mỗi cây khoảng 9 – 19 kg/năm.

Trồng teijat là một bộ phận trong hệ thống nông lâm kết hợp ở Ấn Độ

(cinnamom and cassia. CRS.PRESS.2004).

Rừng Quế ở đây được chăm sóc như đối với cây rừng. Ngoài chăm sóc

về lâm sinh và phân bón, tác động duy nhất là tỉa các cành thấp ở thân cây.

Phân bón được khuyến cáo là NPK với tỷ lệ 15-15-15, liều lượng 40 –

100kg/ha tùy thuộc tuổi cây, nhưng người trồng Quế hiếm khi sử dụng phân

bón (Akahil Baruah và Subhan C. Nath, 2004).

- Giá trị sử dụng

Dầu Quế được chiết xuất từ lá, vỏ cây, cành cây bằng cách chưng cất

hơi nước. Các thành phần hóa học chính của dầu Quế là aldehyd cinnamic,

cinnamyl acetate, benzaldehyde, linalool và chavicol.

Các đặc tính chữa bệnh của dầu Quế là chống đầy hơi, chống tiêu chảy,

chống vi khuẩn và chống nôn. Dầu Quế được sử dụng cho các bệnh cảm lạnh,

cúm, sốt, viêm khớp và thấp khớp…( http://www.essentialoils.co.za/essential-

oils/cassia.htm)

Vỏ Quế được dùng làm gia vị trong công nghiệp chế biến thực phẩm

(ướp thịt, cá, làm bánh kẹo, sản xuất đồ hộp, nước giải khát). Tinh dầu từ vỏ

và lá được sử dụng nhiều trong công nghiệp dược phẩm và hoá mỹ phẩm. Tại

6

các nước châu Âu, tinh dầu từ vỏ Quế quan được dùng để uống với chè vì nó

có đặc tính kích thích và diệt khuẩn.

Ngoài tinh dầu trong vỏ Quế còn chứa tanin, nhựa dầu (oleoresin),

protein, pentosan, chất keo, xơ và các chất khoáng. Tinh dầu lá Quế thành

phần chính là eugenol (70-95%), ngoài ra còn khoảng 50 hợp chất khác, trong

đó các hợp chất có hàm lượng đáng kể là linalool, cinnamyl acetat, β-

caryophyllen, (E)-cinnamic aldehyd, benzyl benzoat…. Do có hàm lượng

eugenol cao, nên tinh dầu lá Quế quan được dùng làm nguyên liệu để chuyển

hoá thành iso-eugenol và tổng hợp vanilin. Hạt chứa dầu béo (hàm lượng

khoảng 30%) nên được dùng làm dầu thực phẩm tại Ấn Độ và Sri Lanka.

- Sâu bệnh hại Quế

Johns và cộng sự (1961) đã nghiên cứu và phát hiện 3 loài sâu gây hại

chính cho Quế ở miền Bắc nước Mỹ như: Sâu cuốn lá (Homona coficaria

Niet), Sâu róm Quế (Dasvchira mendose Nunb), Sâu ăn lá (Attacus atlas L).

Boror và cộng sự (1976) đã công bố một số loài sâu gây hại Quế như

loài Bọ rầy (Pauropsylla depressa) chích hút chồi non gây ra các u bướu trên

ngọn chồi. Rệp sáp (Linsoma stellifera Westw) chích hút gây úa vàng lá. Sâu

non sâu vẽ bùa (Phyllocnistic chrysophthaline) đào những đường hầm trong lá

Quế ảnh hưởng đến quá trình quang hợp của lá.

Theo Singh và cộng sự (1978), ghi nhận tại Ấn Độ loài sâu Orthaga

vitialis thuộc bộ Lepidoptera gây hại trên lá và chồi cây Quế , sâu non loài

này hoạt động rất mạnh, loài sâu này sống và gây hại ở chồi cây làm chồi biến

dạng dẫn đến chồi mọc thành cụm. Trong mỗi cụm chồi có thể có một vài sâu

non, chúng sống thành đàn và ăn toàn bộ bề mặt lá. Giai đoạn nhộng thường

nằm ở trong các cụm chồi. Còn loài sâu róm Euproctis fraterna ăn lá Quế, sâu

non mới nở chỉ ăn phần diệp lục. Sau đó sâu non lớn dần và ăn toàn bộ lá làm

rụng lá. Chu kỳ sâu non loài này kéo dài trong 13-29 ngày và thời gian nhộng

kéo dài 9-20 ngày. Tổng chu kỳ sống kéo dài 6-7 tuần.

7

Theo Rajapakse và Kulasekera (1982) Thành phần loài sâu hại trên cây

Quế ở SriLanka như: Sâu ăn lá Attacus atlas, Agroploce aprobola, Rệp sáp

Ceroplastes rubens, bọ xít chích hút chồi Quế Coptosoma pygmaeum,

Leptocentrus obliquus, loài bọ xít Leucopholis pinguis. Một số loài thuộc bộ

cánh cứng gây hại trên lá và chồi cây Quế như: Cryptocephalus snillus,

Cryptocephalus virgula và Podagrica badia

Theo Rajapakse và Wasantha (2007) cây Quế trồng ở SriLanka và một

số quốc gia khác ở Đông Nam Á đã bị một số loài côn trùng gây hại chính

như: Rệp nhảy Trioza cinnamoni, nhện lông nhung Eriophyes boisi, sâu đục

thân, cành Synanthedon spp.. Các loài côn trùng loại nhỏ như: Sâu hại lá

thuộc bộ cánh vảy (Lepidoptera) như: Chilasa clytia, Graphium sarpedon,

Orthaga vitialis, Dasychira mendosa. Sâu đục quả Alcides sp. Và sâu vẽ bùa

Acrocercops spp..

Theo Vander và cộng sự (2004) đã chỉ ra 2 loài sâu gây hại Quế chính ở

SriLanka là sâu hại lá Chilasa clytia và Graphium sarpedon. Loài Chilasa

clytia sâu trưởng thành có kích thước lớn, đẻ trứng đơn lẻ ở cả mặt trên và

dưới của lá non. Trứng có hình cầu, màu sáp và màu cam vàng. Sâu non màu

đen hoặc xanh đen, ăn cả lá non và lá bánh tẻ, chúng ăn toàn bộ lá và chỉ chừa

lại gân lá. Sâu non tuổi lớn có màu vàng nhạt với sọc đen ở hai bên và có

chiều dài khoảng 2,5 cm. Nhộng có hình trụ được bọc trong kén trông giống

một cành củi gãy. Đối với loài sâu ăn lá Graphium sarpedon cũng là một loài

sâu hại Quế phổ biến. Trưởng thành có màu đen với các hoa văn màu xanh

đặc trưng. Trứng được đẻ ở mặt dưới của lá, hình tròn có màu vàng nhạt.

Theo Le (1992) loài Bọ xít (Pseudodoniella chinensis Zheng) gây hại

trên cành bánh tẻ và gây chết cả cây Quế tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng

Tây, Trung Quốc.

Dharmadasa và Jayasinghe (2000) phát hiện loài sâu (Synanthedon spp.) hại

thân, cành Quế, làm cho các cành chết. Sâu non dài khoảng 2,5cm khi trưởng

8

thành, đầu màu nâu sẫm và thân màu trắng đậm. Sâu non thường ăn phần gỗ

để sống và có xu hướng ăn theo chiều ngang. Sâu trưởng thành, đẻ trứng vào

các vết nứt hoặc vết thương trên vỏ cây và trứng nở trong khoảng 1- 4 tuần.

Theo Amalendu và cộng sự (2014) loài sâu Cricula trifenestrata ăn lá

hại một số loài cây thuộc họ Lauraceae, cụ thể như loài Cinnamomum

glanduliferum, C. glaucescens ở Đông Bắc Ấn Độ, loài C. zeylanicum ở vùng

Đông Bắc Á và SriLanka, loài Persea bombycina ở vùng Đông Nam Ấn Độ,

Nepal và loài Litsea cubeba ở Ấn Độ.

Nghiên cứu biện pháp phòng trừ sâu hại Quế

Theo Singh và cộng sự (1978), phòng trừ loài sâu hại lá, chồi Orthaga

vitialis và sâu ăn lá Euproctis fraterna thì cần thiết phải kiểm tra cắt tỉa các

cụm chồi Quế bị sâu hại là biện pháp phòng trừ chủ yếu và phun thuốc trừ sâu

Carbaryl (0.1%), hoặc Quinalphos (0.05%) hoặc Endosulphan (0.05%), từ đó

có thể kiểm soát sâu hại trên cây Quế, việc phun thuốc được lặp lại trong

khoảng 10-12 ngày hiệu quả đạt cao hơn.

Devashayam và cộng sự (1993) chỉ ra rằng sâu đục lá Conopomorpha civica

đã gây hại cho 20,2% số cây Quế tuổi nhỏ ở Kerala, Ấn Độ và phòng trừ loài

sâu này bằng cách phun thuốc trừ sâu Quinalphos 0,05% ngay khi chúng vừa

xuất hiện mới có hiệu quả trong việc ngăn ngừa sự xâm nhập

Theo Rajapakse and Wasantha (2007), việc phòng trừ sinh học cho các

loài nhện gây u bướu lá Quế là rất khó khăn vì chúng sống và ăn trong các u

của lá. Việc cắt tỉa thường xuyên có thể kiểm soát rệp Trioza và nhện

Eriophyes. Sử dụng thuốc monocrotophos, lannat (methomyl) và

methamidiphos ở trên, ở giữa và ở gốc của cây trồng, việc sử dụng 30 ml

monocrotophos/25 L trong khoảng thời gian 4 ngày làm giảm lượng u bướu

đến mức thấp nhất. Quinalphos 0,05% hoặc Dimethoate 0,06% cũng được

khuyến cáo sử dụng để kiểm soát lá và chồi bị u bướu.

Nghiên cứu bệnh hại Quế

9

Ở Ấn Độ và SriLanka cho biết, Quế có thể bị các bệnh thối đen do nấm

Phellinus lamaensi, mục trắng do Fomes lignosus, đốm khảm do nấm phấn

hồng Corticium salmonicolor, thán thư do Glomerella cingulata và gỉ sắt do

tảo Aecidium cinnamoni, Cephaleuros virescens, Diplodia spp., Exobasidium

spp…. Cũng đã gặp một số loài sâu hại vỏ, chồi non và lá như Phyllocnistis

chrysophthalma, Sorolopha archimedias, Acrocercops spp, Eriophyes bois,

Eriophyes doctersi, Typhlodromus spp… Một số loài tuyến trùng như

Meloidogyne spp…. xâm nhập từ đất vào rễ cũng có thể gây hại đối với các

quần thể Quế (Akhtar Husain et al.,1988).

Karunakaran and Chandrasekharan (1980) đã nghiên cứu bệnh đốm lá

và khô cành ngọn cây Quế Cinnamomum Zeylanicum do nấm

Collectotrichum gloeosporides. Trên những cây mới bị bệnh từ 3 – 5 thì triệu

chứng phát triển chưa rõ ràng, nhưng tới khi 8- 10 ngày triệu chứng bị bệnh

rất đặc trưng. Một số bệnh hại ảnh hưởng tới Quế như đốm xám trên lá vào

tháng 6, 7 ở nhiều vùng của Kerala, Ấn Độ. Triệu chứng xuất hiện là những

điểm nhỏ màu nâu vàng và sau đó chuyển thành trắng tới xám với những viền

màu nâu đậm. Ban đầu vết đốm có hình bầu dục sau đó nó có dạng vết đốm

hoại tử lớn, kích thước từ 14 – 42 mm. Lá bị nặng dẫn tới bị khô và rụng

(Karunakaran et al., 1993)

Theo Zheng và cộng sự (2004) bệnh đốm tảo do Cephaleuros virescens

lây nhiễm vào cây chủ bằng bào tử động trong điều kiện mưa và trong không

khí, từ tháng 3 tới tháng 10 ở vùng Hua’an tỉnh Fujian là bệnh rất nghiêm

trọng đối với Quế. Đây là bệnh đơn chu kỳ, mầm bệnh qua đông bằng bào tử

túi xâm nhiễm trên lá.

Rajapakse and Wasantha (2007) đã công bố một số loại bệnh gây hại

nghiêm trọng cho cây Quế ở Sri Lanka như: Bệnh đốm lá do nấm

Collectotrichm gloeospoirides gây ra và được tìm thấy ở hầu hết các vùng

trồng Quế ở đây, gây ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng cho rừng trồng. Bệnh

10

phấn hồng do nấm Corticum salmonicolor gây ra và nó là bệnh nguy hiểm ở

Sri Lanka, Ấn Độ và Indonesia. Bệnh đốm xám do nấm Pestalotia cinnamomi

gây hại. Bệnh thối rễ do nấm Phytopthora cinnamomi gây ra, bệnh mục rễ do

nấm Phellinus lamaensis. Bệnh loét xọc gây ra bởi Phytophthora cinnamomi,

nấm tấn công vào chồi và thân non của Quế. Bệnh này phổ biến trên những

lập địa đất xấu khô cằn.

Theo Jayasinghe và cộng sự (2017) Bệnh sần vỏ ở SriLanka là bệnh

gây hại nghiêm trọng bệnh này gây thiệt hại năng suất to lớn trên những vùng

trồng Quế Cinnamomum zeylanicum Blume và được tìm thấy trên tất cả

những diện tích trồng Quế của SriLanka. Những nghiên cứu được tiến hành

tại trung tâm nghiên cứu và đào tạo Quế, Palolpitiya, Thihagoda, Sri Lanka từ

tháng 5 đến tháng 12/2015 đã tìm ra mối quan hệ giữa mức độ bị bệnh và tình

trạng dinh dưỡng của cây. Nấm gây bệnh được phân lập từ những cành nhánh

bị nhiễm bệnh trên cây Quế và nó đã sản sinh ra pycnidia chứa α-conidia rất

giống với Phomopsis sp. trên môi trường PDA ở 290C. Các thử nghiệm về

khả năng gây bệnh cho thấy khi tiêm bào tử nấm bệnh (106-107/ ml) vào

những cành nhánh khỏe mạnh thì những triệu chứng bệnh giống với sự lây

nhiễm tự nhiên trong 6 tuần. Những kiểu khác nhau của phần cắt ngang và

dọc của những phần thân khỏe mạnh và thân bị nhiễm bệnh được quan sát

dưới kính hiển vi quang học và điện tử. Các mô sáp bao gồm mô xylem của

những thân cây bị nhiễm bệnh thì chuyển màu nâu tối hoặc màu đen, báo hiệu

cái chết của mô sau sự xâm nhập của nấm. Mô xylem của của cây bị tắc

nghẽn và sự vận chuyển dinh dưỡng bị gián đoạn bởi nấm bệnh Phomopsis

sp. Ở giai đoạn này, gân lá úa vàng, điển hình ở những lá bánh tẻ giống như

triệu chứng của bệnh. Phủ định mối quan hệ giữa mức độ bị bệnh và sự xáo

trộn hấp thụ những chất dinh dưỡng chính (N, P, K) của lá.

Nghiên cứu biện pháp phòng trừ bệnh hại Quế

11

Kiểm soát bệnh đốm tảo do Cephaleuros virescens bằng hỗn hợp hợp

1% Bordeaux, 50% Topsin và 50% Carbendazim lần lượt là 66,2%, 45,9%, và

33,8% (Zheng et al. (2004).

Rajapakse and Wasantha (2007), để khống chế bệnh đốm lá do C.

gloeesporioides bằng cách phun Chlorothalonil 75% WP, Carbendazim 50%

WP, Mancozeb 80%WP or Thiphanatemethyl 70% WP khoảng 7 -10 ngày,

có thể cải thiện bệnh. Bệnh Phấn hồng do Corticicum salmonicolor chưa có

biện pháp hóa học nào được đề xuất quản lý loại bệnh này mà đốt cháy cành

hoặc phần của cây bị nhiễm bệnh là biện pháp làm giảm tỷ lệ bị bệnh. Phòng

trừ bệnh loét sọc bằng cách cải thiện hệ thống thoát nước làm cho tỷ lệ bị

bệnh thấp đi. Việc loại bỏ và tiêu hủy các bộ phận bị nhiễm bệnh và băng vết

thương bằng nhựa đường cũng được đề xuất để kiểm soát bệnh.

1.2. Tình hình nghiên cứu về cây Quế ở trong nước

- Phân loại và thực vật học

Tên khoa học: Cinnamomum cassia. BL

Thuộc chi: Cinnamomum

Họ: Lauraceae

Tên Việt Nam: Cây Quế

Tên địa phương: Quế Thanh, Quế Quỳ, Quế Quảng, Quế Yên Bái, Quế

Bì, Mạy Quế.

Tên tiếng Anh: Cinnamo

- Về giá trị cây Quế

Ở Việt Nam, cây Quế được ghi chép trong các sử sách trong lịch sử

triều cống của nước ta như một trong các sản phẩm quan trọng và quý giá.

Từ thế kỷ XIV, Tuệ Tĩnh đã có những ghi chép ban đầu về đặc điểm

cây Quế và công dụng làm thuốc của loài cây này. Tiếp theo đó, Lê Quý Đôn

trong “Vân đài loại ngữ” và Nguyễn Trứ trong “Việt Nam thực vật học” cũng

đã mô tả lại hình thái và công dụng của cây Quế. Trong bộ sách “Y tông tâm

12

lĩnh” gồm 66 quyển của Hải Thượng Lãn Ông (1721 - 1792) có nhiều bài

thuốc sử dụng vỏ Quế. Cũng trong khoảng thời gian này, khi người Pháp đến

Việt Nam, Joanis de Loureiro (1730) đã mô tả 1257 loài cây cỏ ở Nam Bộ

trong cuốn Floria Cochichinensis và xác định tên khoa học cho cây Quế là

Luarus cinnamomum Lour. Từ đó cho đến đầu thế kỷ XIX hầu như không có

công trình nào nghiên cứu thêm về cây QSuế (Trần Hợp, 1984).

Từ xa xưa nhân dân các dân tộc nước ta đã nhận biết được lợi ích của

cây Quế và sử dụng Quế vào nhiều mục đích. Trước hết Quế được sử dụng

làm thuốc chữa bệnh, vỏ Quế được mài ra trong nước đun sôi để nguội để

uống, hoặc trong các bài thuốc có Quế để chữa một số bệnh đường tiêu hoá,

đường hô hấp, kích thích sự tuần hoàn của máu, lưu thông thuyết mạch, làm

cho cơ thể ấm lên. Chống lại giá lạnh và có tính chất sát trùng. Quế được nhân

dân coi như một trong bốn vị thuốc rất có giá trị: Sâm, Nhung, Quế, Phụ.

Theo tác giả Lê Trần Đức trong: “Cây thuốc Việt Nam” Nhục Quế vị

ngọt cay tính nóng, thông huyết mạch, làm mạnh tim, tăng sức nóng, chữa các

chứng trúng hàn, hôn mê, mạch chạy chậm, nhỏ, tim yếu (trụy mạch, huyết áp

hạ) và bệnh dịch tả nguy cấp…”

Quế Giao chỉ (Quế Việt Nam) trước đây được coi là sản vật quý giá, có

giá trị như ngà voi, chim công… sử dụng để làm quà ngoại giao, biếu tặng

trong và ngoài nước. Nhân dân Thanh Hoá còn gọi Quế địa phương là Ngọc

Quế Châu Thường. Quế được sử dụng một khối lượng lớn để làm gia vị vì

Quế có vị thơm, cay và ngọt có thể khử bớt được mùi tanh, gây của cá, thịt,

làm cho các món ăn hấp dẫn hơn, kích thích được tiêu hoá. Quế còn được sử

dụng trong các loại bánh kẹo, rượu: như bánh Quế, kẹo Quế, rượu Quế được

sản xuất và bán rất rộng rãi.

Quế được sử dụng làm hương vị, bột Quế được trộn với các vật liệu

khác để làm hương khi đốt lên có mùi thơm được sử dụng nhiều trong các lễ

hội, đền chùa, thờ cúng trong nhiều nước châu á nhất là các nước có đạo phật,

13

đạo Khổng Tử, đạo Hồi. Gần đây nhiều địa phương còn sử dụng gỗ Quế, vỏ

Quế để làm ra các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như bộ Khay, ấm, chén bằng

vỏ Quế, đĩa Quế, đế lót dầy có Quế. Bột Quế còn được nghiên cứu thử

nghiệm trong thức ăn gia súc để làm tăng chất lượng thịt các loại gia súc, gia

cầm. Ngoài ra, gỗ Quế còn được sử dụng làm ván ghép thanh, cột chống,

đóng đồ gia dụng, làm đũa và làm tăm suất khẩu…

Cây Quế có giá trị rất lớn trong đời sống sinh hoạt của nhân dân ta

trong nhiều thế kỷ qua. Trước hết đây là một vị thuốc quý cả về thuốc Nam

lẫn thuốc Bắc (một trong bốn vị thuốc đầu bảng Sâm – Nhung – Quế - Phụ).

Nghiên cứu về giá trị dược liệu của cây Quế, Đỗ Tất Lợi (1970) chỉ rõ trong

Tây y, Quế và tinh dầu Quế được coi là một vị thuốc có tác dụng kích thích

làm cho sự tuần hoàn máu được lưu thông, hô hấp cũng mạnh lên. Đông y coi

Quế như là một vị thuốc bổ, có nhiều công dụng có khi chữa cả đau mắt, ho

hen, bồi bổ cho phụ nữ sau khi sinh nở, chữa bệnh đau bụng, đi tả nguy hiểm

đến tính mạng.

Từ vỏ và lá Quế chúng ta có thể chưng cất lấy tinh dầu. Tinh dầu Quế

là mặt hàng có giá trị trong xuất khẩu. Trong y dược, tinh dầu Quế là chất sát

trùng mạnh, trong tinh dầu có eugenol thường dùng để tổng hợp vanilin.

Trong các loài cây lâm sản ngoài gỗ của rừng nhiệt đới nước ta cây Quế

có thể tổ chức sản xuất thành nguồn hàng lớn, ổn định lâu dài và có giá trị,

nhất là giá trị xuất khẩu. Cây Quế là nguồn lợi kinh tế lớn và gắn liền với đời

sống của nhân dân các dân tộc ít người nước ta như đồng bào Dao, Mông,

Tày… (Lào Cai), Thái, Mường (Nghệ An, Thanh Hoá) Cà tu, Cà toong

(Quảng Nam, Quảng Ngãi) và Thanh Y, Thanh Phán (Quảng Ninh).

Ngoài lợi ích về mặt kinh tế, cây Quế còn đóng góp vào bảo vệ môi

trường sinh thái, làm tăng độ che phủ rừng, giữ đất, giữ nước ở các vùng đất

đồi núi dốc, bảo tồn và phát triển sự đa dạng các nguồn gen quý cây bản địa -

14

cây Quế còn đóng góp vào định canh - đinh cư, xoá đói giảm nghèo tạo thêm

công ăn việc làm cho nông dân miền núi nước ta.

Về công dụng của các bộ phận trên cây Quế chủ yếu là làm thuốc, giá

trị dược liệu của các bộ phận này phụ thuộc vào kỹ thuật khai thác, chế biến

vỏ Quế.

- Đặc điểm sinh vật học, sinh thái học và kỹ thuật gây trồng

+ Đặc điểm sinh vật học

Cây Quế là loài cây thân gỗ, sống lâu năm, ở cây trưởng thành có thể

cao trên 15m, đường kính ngang ngực (1,3m) có thể đạt đến 40cm. Quế có lá

đơn mọc cách hay gần đối lá có 3 gân gốc kéo dài đến tận đầu lá và nổi rõ ở

mặt dưới của lá, các gân bên gần như song song, mặt trên của lá xanh bóng,

mặt dưới lá xanh đậm, lá trưởng thành dài khoảng 18 – 20 cm, rộng khoảng 6

– 8 cm, cuống lá dài khoảng 1 cm. Quế có tán lá hình trứng, thường xanh

quanh năm, thân cây tròn đều, vỏ ngoài màu xám, hơi nứt rạn theo chiều dọc.

Trong các bộ phận của cây Quế như vỏ, lá, hoa, gỗ, rễ đều có chứa tinh dầu,

đặc biệt trong vỏ có hàm lượng tinh dầu cao nhất, có khi đạt đến 4 – 5%. Tinh

dầu Quế có màu vàng, thành phần chủ yếu là Aldehyt Cinamic chiếm khoảng

70 – 90%. Cây Quế khoảng 8 đến 10 tuổi thì bắt đầu ra hoa, hoa Quế mọc ở

nách lá đầu cành, hoa tự chùm, nhỏ chỉ bằng nửa hạt gạo, vươn lên phía trên

của lá, màu trắng hay phớt vàng. Quế ra hoa vào tháng 4,5 và quả chín vào

tháng 1,2 năm sau. Quả Quế khi chưa chín có màu xanh, khi chín chuyển sang

màu tím than, quả mọng trong chứa một hạt, quả dài 1 đến 1,2 cm, hạt hình

bầu dục, 1 kg hạt Quế có khoảng 2500 – 3000 hạt. Bộ rễ Quế phát triển mạnh,

rễ cọc cắm sâu vào lòng đất, rễ bàng lan rộng, đan chéo nhau vì vậy Quế có

khả năng sinh sống tốt trên các vùng đồi núi dốc.

+ Đặc điểm sinh thái học

Đây là lĩnh vực nghiên cứu được nhiều tác giả quan tâm và được tiến

hành trên nhiều vùng trồng Quế khác nhau ở nước ta.

15

Nghiên cứu ảnh hưởng của ánh sáng đến sinh trưởng của cây Quế con

trong vườn ươm, Vũ Đại Dương (2002), cho rằng độ che sáng có ảnh hưởng

rõ rệt đến tỷ lệ cây sống ở giai đoạn này.

Trần Hợp (1991), tại các điểm nghiên cứu Đài Sơn (Yên Bái), Quất

Động (Quảng Ninh) và Hom Cán (Thanh Hóa) cho thấy khi còn non, Quế là

cây chịu bóng tuổi vườn ươm, che bóng bằng nứa đan lọt ánh sáng là tốt nhất.

Nghiên cứu qua các ô dạng bản (1m2) trong rừng tự nhiên thì thấy Quế con

tái sinh nhiều dưới tán cây mẹ, ra chỗ hết che bóng thì hầu như không thấy

nữa; mặc dù hạt Quế có thể phát tán khá xa gốc cây mẹ, nhưng có lẽ chỉ nảy

mầm và thành cây Quế con trong điều kiện dưới tán cây. Như vậy, dưới 1 tuổi

cây Quế là cây chịu bóng cao.

Nghiên cứu phân vùng sinh thái: Công trình nghiên cứu của Hoàng Cầu

(1993), phân chia nước ta thành 4 vùng trồng Quế đó là:

- Vùng Yên Bái;

- Vùng Trà My, Trà Bồng;

- Vùng Quế Phong, Quỳ Châu và Thường Xuân;

- Vùng Quế Hải Ninh, Quảng Hà, Bình Liêu, Tiên Yên (Quảng Ninh)

Tác giả cũng cho rằng do nhu cầu xuất khẩu Quế ngày càng tăng nên

việc mở rộng vùng trồng Quế là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi mở rộng vùng

trồng rừng ở một số địa phương kết quả đạt được còn thấp, Quế sinh trưởng

chậm, vỏ mỏng, hàm lượng tinh dầu thấp và đời sống của cây Quế cũng ngắn.

Nguyên nhân chủ yếu có thể là do sự thay đổi của điều kiện sinh thái giữa các

vùng. Từ kết quả nghiên cứu đặc điểm tự nhiên của các vùng Quế lâu đời ở

nước ta, tác giả nêu một số vấn đề tham khảo trong quá trình mở rộng vùng

gây trồng ra ngoài vùng phân bố tự nhiên cây Quế như sau:

- Những vùng trồng Quế có triển vọng cần chú ý kiểm tra chất lượng vỏ

Quế đạt được qua từng giai đoạn. Có thể 5 năm là 1 cấp tuổi để khảo nghiệm

các chỉ tiêu chất lượng như hàm lượng tinh dầu trong vỏ và độ dày của vỏ để

16

so sánh với các chỉ tiêu chất lượng vùng phân bố tự nhiên và tiêu chuẩn vỏ

Quế xuất khẩu hiện hành.

- Những vùng có lượng mưa thấp dưới 2000 mm/năm hoặc các vùng có

mùa khô kéo dài, ít mưa, mực nước ngầm sâu, cần chú ý theo dõi các mùa

sinh trưởng của Quế, đề phòng Quế bị chết hàng loạt do thiếu độ ẩm.

- Đất vùng đồi núi trọc, đất bị thoái hóa, bị bào mòn, đất bị đá ong, chặt

bí... không nên trồng Quế.

- Những vùng có độ cao 800m trở lên cây Quế sinh trưởng chậm và cho

năng suất thấp. Với độ cao dưới 300m Quế cho vỏ mỏng, hàm lượng dầu

trong vỏ thấp và dễ bị sâu bệnh.

Những nhận xét trên hầu hết mang tính định tính, ví dụ như việc chia 5

năm thành 1 cấp tuổi đối với Quế mới chỉ dựa vào kinh nghiệm, mặc dù vậy

có thể xem đây là một tài liệu có giá trị tham khảo tốt.

Từ những nghiên cứu trên cho thấy phần lớn các tác giả đều thống nhất

Quế là cây chịu bóng ở giai đoạn tuổi nhỏ, từ 5 tuổi trở lên cây Quế ưa sáng

hoàn toàn. Quế được trồng dưới tán rừng, hoặc trồng theo nhiều phương thức

và phương pháp khác nhau. Cây Quế có thể dẫn giống để mở rộng phạm vi

phân bố tự nhiên của nó ra những vùng khác có điều kiện khí hậu và đất đai

tương tự như nơi nó đã phát sinh. Nhìn chung cây Quế ít bị sâu bệnh khi trồng

ngoài khu vực phân bố tự nhiên của nói; nhưng bệnh tua mực có thể xuất hiện

ở độ cao trên 400m tại miền Trung (Nguyễn Trung Tín, 1999). Tuy nhiên,

chất lượng vỏ Quế ở các vùng này chưa có cơ sở để kết luận. Những nghiên

cứu so sánh và định lượng quá trình sinh trưởng của Quế ở các vùng trồng

Quế tập trung trong nước chưa được các tác giả trên quan tâm, trong đó có

vùng Thanh Hóa.

Đỗ Thanh Hoa (1977) cho rằng loài Cinnamomum cassia thích hợp ở

các tỉnh phía Bắc Việt Nam nơi có nhiệt độ bình quân năm tương đối thấp,

nhiệt độ cao tập trung vào mùa hè. Lượng mưa và số ngày mưa cũng tập trung

17

vào các tháng có nhiệt độ bình quân cao. Nhìn chung khí hậu vùng này là khí

hậu á nhiệt đới có mùa mưa nóng ẩm xen vào mùa Hè với mùa khô rét vào

mùa Đông.. Loài C. zeylanium Nees, phân bố ở vùng có nhiệt độ quanh năm

ôn hòa, biên độ nhiệt các tháng trong năm không lớn. Nhiệt độ bình quân

tháng thấp nhất là 250C, cao nhất là 280C. Mùa mưa tập trung từ tháng 5 đến

Tháng 10. Nhìn chung, loài C. zeylanium Nees phân bố ở vùng khí hậu có

tính chất mưa mùa nhiệt đới gần xích đạo. Loài C. obtusifolium phân bố ở

vùng có nhiệt độ bình quân thấp nhất 220C và cao nhất 300C. Mùa mưa vào

tháng 8, 9, 10, 11; mùa khô từ tháng 2 đến tháng 7. Đặc điểm khí hậu miền

Đông Trường Sơn thích hợp với Quế thanh hóa. Theo tác giả loài này mọc rải

rác phía Đông Trường Sơn, từ Thanh Hóa tới Phú Yên. Các tỉnh phía Nam

của khu vực này là vùng khí hậu có mùa mưa vào các tháng 6-9 nhưng lượng

mưa thấp, các Tháng 1-4 hầu như không mưa, biên độ nhiệt thấp thích hợp

với loài C. zeylanicum Nees. Quế không mọc trên đất khô cằn, tầng mỏng, có

đá lẫn hoặc chứa nhiều sỏi sạn. Đất đã mất tầng thảm mục, đất có tầng mùn bị

rửa trôi, nghèo dinh dưỡng. Đất mất tính chất đất rừng không thích hợp với

Quế. Từ kết quả điều tra tác giả kết luận: Quế ưa loại đất có tầng trung bình

đến dày, mát, ẩm, có thảm mục và mùn tơi xốp, dưới tán rừng hoặc sau nương

rẫy. Đất trồng Quế thường phát triển trên đá mẹ macma như riolit, granit,

poocphialit hay các loại đất biến chất như gnai, amphibolit, diệp thạch mica,

xerixit. Quế phân bố chủ yếu ở miền núi và trung du (không thấy ở đồng

bằng) nơi có khí hậu mát, ẩm, mưa trung bình đến nhiều thuận lợi cho sinh

trưởng của Quế.

Hoàng Cầu (1993) đã nghiên cứu dẫn giống Quế thanh hóa, Quế Quảng

ra các tỉnh Hòa Bình, Yên Bái với mục đích khảo nghiệm loài và bệnh tua

mực ở các tỉnh phía Bắc. Tác giả cho biết độ cao thích hợp để trồng Quế từ

300 – 700m, càng lên cao, Quế sinh trưởng càng chậm và cây thấp hơn. Điều

này cũng đã được đề cập trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Khánh (1996) khi

18

phân vùng lập địa lâm nghiệp. Ở Quảng Ngãi, Trần Cửu (1993) cũng nghiên

cứu đặc tính sinh vật học, khả năng trồng và di thực cây Quế từ Quảng Ngãi

về vùng núi An Lão (Bình Định). Tại Bình Định, phương pháp trồng Quế

dưới tán rừng tự nhiên có độ tàn che 0,3 – 0,4 là thích hợp; tác giả đề xuất: tại

đây Quế nên trồng ở độ cao trên 200m để tránh bệnh tua mực. Năm 1993,

Phạm Chí Thành và Lê Thanh Hà đã đánh giá “muốn có sản lượng Quế ổn

định và lâu dài thì chủ trương trồng Quế thuần loài là không hợp lý vì đất sau

trồng Quế thường bị khô, xấu, khả năng phục hồi rất lâu”. Kết quả nghiên cứu

này cũng phù hợp với một số nghiên cứu của Phạm Xuân Hoàn (1998) khi

nghiên cứu ảnh hưởng của đất tới sinh trưởng của rừng Quế chồi ở Yên Bái.

Năm 1996, Ngô Đình Quế đã nghiên cứu khả năng trồng Quế tại Đại Từ -

Thái Nguyên và đánh giá bước đầu Quế sinh trưởng tốt tại vùng này.

+ Kỹ thuật gây trồng

Nguyễn Huy Sơn và cộng sự (2001) đã tiến hành thu hái quả chín từ 30

cây mẹ có tuổi từ 25 – 30 năm, ở rừng trồng của các gia đình ở xã Đại Sơn,

Văn Yên, Yên Bái cho kết quả: trọng lượng của quả và hạt Quế có hệ số biến

động rất lớn, trung bình 1,0kg quả có 2000 quả, nhưng phạm vi biến động từ

1447 – 2438 hạt, tỷ lệ nảy mầm ban đầu của hạt Quế đạt khá cao (92,5%); hạt

Quế thuộc nhóm hạt ưa ẩm và khó bảo quản và độ ẩm hạt lớn hơn 40%, sau 9

tháng tỷ lệ nảy mầm vẫn còn đạt 25%. Với phương pháp bảo quản này, hạt có

thể cất trữ trong thời gian dài hơn nhiều so với phương pháp cất trữ truyền

thống của nhân dân địa phương (trộn hạt với cát ẩm bảo quản nơi râm mát,

thời gian bảo quản chỉ đạt 2 – 3 tuần).

Về mật độ trồng Quế hiện nay rất khác nhau, có thể 2000 cây/ha đến

10000 - 20000 cây/ha tùy theo địa phương.

Quy phạm trồng Quế ban hành năm 2000 (TC ngành: 04 – TCN-23-

2000) quy định mật độ trồng từ 2500 cây đến 3000 cây/ha. Tuy nhiên, trong

thực tế mật độ rất khác nhau.

19

Hoàng Cầu và Nguyễn Hữu Phước (1991) khi nghiên cứu đề tài

“Nghiên cứu kỹ thuật, sơ chế và bảo quản vỏ Quế xuất khẩu” đã đưa ra một

số kết luận:

- Tuổi cây Quế tăng tỷ lệ thuận với lượng tăng trưởng của vỏ Quế và

không nên khai thác Quế dưới 12 tuổi.

- Mật độ trồng Quế có quan hệ chặt chẽ với đường kính cây, độ dầy vỏ

và hàm lượng tinh dầu của vỏ Quế.

- Có thể khai thác vỏ Quế nhiều lần trên 1 cây, mỗi lần bóc 1/4, 1/3 hay

1/2 diện tích vỏ về một phía. Tuy nhiên, khai thác chọn theo cấp kính hay

khai thác trắng được áp dụng trong sản xuất.

- Không nên phơi Quế ra ngoài nắng hoặc gác lên sàn bếp, không để

ngoài mưa, sương đêm khi sơ chế Quế. Tuy nhiên, các tác giả cũng chưa đưa

ra các số liệu chứng minh cho các kết luận trên.

- Nghiên cứu về sinh trưởng và sản lượng rừng Quế

Những nghiên cứu về sinh trưởng và định lượng quá trình sinh trưởng

về cây Quế ở nước ta còn đang ở mức độ thăm dò. Những kết quả thu được

ban đầu cần phải được kiểm định một cách khoa học. Lý do là, về phương

pháp nghiên cứu sinh trưởng cho một loài cây mà sản phẩm chính là vỏ, khác

với những loài cây cho sản phẩm chính là gỗ. Mặt khác, Quế phân bố ở cả ba

miền nhưng phạm vi phân bố ở mỗi vùng lại tương đối hẹp. Vì vậy, kết quả

nghiên cứu ở mỗi vùng có thể vận dụng ở các vùng khác hay không là vấn đề

cần phải nghiên cứu.

Trần Hợp (1984) đã nghiên cứu một số “đặc điểm sinh thái” và nhận

xét “cây Quế mang đầy đủ tính chất của một loài cây sinh thái – khí hậu”.

Nghiên cứu tăng trưởng Quế, Trần Hợp (1984) đã chia quá trình sinh trưởng

thành hai: (i) “thời kỳ lớn”: Thời kỳ cây Quế ở vườn ươm dưới 5 tuổi (thời kỳ

còn chịu bóng) và; (ii) thời kỳ thành thục, tức là thời kỳ ưa sáng hoàn toàn và

ổn định về chiều cao đường kính cũng như vỏ. Tuy nhiên, khi giải tích cây

20

trong đó có tuổi cao nhất là 45 tuổi, tác giả đã chia “sự tăng trưởng” của cây

Quế làm 3 giai đoạn:

- Giai đoạn I: dưới 10 tuổi. Ở giai đoạn này chiều dầy vỏ Quế từ 0,3 –

0,4cm. Tăng trưởng đường kính trung bình 1,0cm/năm và tăng trưởng chiều

cao bình quân 1,1m/năm.

- Giai đoạn II: 10 – 30 tuổi. Giai đoạn này “là giai đoạn ổn định tương

đối”. Bề dày vỏ từ 0,5 – 0,7cm. Đường kính tăng bình quân 0,7cm/năm và

tăng trưởng chiều cao bình quân đạt 0,5m/năm.

- Giai đoạn III: trên 35 tuổi. Giai đoạn này tăng trưởng chậm rõ rệt.

D1.3 tăng bình quân 0,24cm/năm và Hvn tăng 0,2m/năm. Bề dày vỏ đạt ở

mức 0,7 – 0,8cm/năm. Tỷ lệ thể tích vỏ ổn định xấp xỉ 10% so với thể tích

thân cây.

Căn cứ vào các giai đoạn tăng trưởng trên, Trần Hợp (1984) phân chia

các lâm phần Quế thành 8 cấp tuổi với cự li mỗi cấp tuổi là 5 năm. Tác giả kết

luận: “giai đoạn I: cây mọc nhanh nhất, chúng đạt đến chiều cao và đường

kính lý tưởng, sau đó các chỉ số này chậm dần và ổn định ở tuổi 30. Do đó,

tuổi khai thác tốt nhất là từ 30 – 35 tuổi”. Tuy nhiên, theo tác giả có thể khai

thác sớm hơn khoảng 10 tuổi lúc đó Quế đã qua giai đoạn mọc nhanh và bước

vào giai đoạn phát triển bình thường.

- Những kết quả bước đầu khảo sát hàm lượng tinh dầu vỏ Quế

Ở một số vùng Quế ở Việt Nam được Nguyễn Mê Linh và cộng sự

công bố trong những năm từ 1976 – 1980. Từ các mẫu vỏ Quế ở Yên Bái,

Quảng Ninh và Thanh Hóa, kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng tinh dầu

Quế ở nước ta đều cao hơn so với các nước khác. Cụ thể là hàm lượng này

biến động từ 1,12 – 4% còn ở các nước khác bình quân từ 1 – 2%.

- Nghiên cứu đánh giá hiệu quả trồng Quế

Một số tác giả như: Trần Hữu Dào (2000) đánh giá hiệu quả trồng

Quế đã sử dụng phương pháp phân tích chi phí và thu nhập (CBA) để tính

21

lợi nhuận trồng Quế đã thấy rằng trong 4 năm đầu khi chưa có sản phẩm tỉa

thưa cân đối thu chi chưa có lãi. Tuổi càng tăng thu từ sản phẩm do chặt tỉa

thưa càng lớn và đến năm thứ 15 sau khai thác trắng thu lại được

114.767.900 đ/ha.

Phạm Xuân Hoàn (2001) tính toán hiệu quả trồng Quế ở các lập địa

khác nhau đã đi đến kết luận: Trồng Quế trên đất cấp I sau 15 năm thu lợi

nhuận bình quân 6.310.933 đ/ha; đất cấp II: bình quân 3.975.867 đ/ha; đất cấp

III: bình quân 2.499.867 đ/ha. Như vậy, trồng Quế đã đem lại lợi ích kinh tế

cao góp phần xóa đói giảm nghèo cho đồng bào miền núi.

- Về tình hình sâu bệnh hại:

Phạm Quang Thu (2016), điều tra thành phần loài sinh vật hại Quế tại 2

tỉnh Yên Bái và Quảng Nam. Kết quả thu được 63 loài của động vật gây hại

gồm lớp côn trùng có 60 loài thuộc 6 bộ (bộ cánh cứng có 12 loài, thuộc 7 họ;

bộ cánh nửa có 6 loài, thuộc 5 họ; bộ cánh đều 12 loài, thuộc 6 họ; bộ cánh

bằng có 2 loài, thuộc 1 họ; bộ cánh vẩy có 25 loài, thuộc 15 họ; bộ cánh thẳng

có 7 loài, thuộc 4 họ), lớp chân bụng có 3 loài. Trong đó Bộ cánh vẩy có

nhiều loài nhất. Sâu hại lá gồm: Sâu đo 2 loài Biston sp., và Ectropis sp., Bọ

nẹt Parasa lepida, Rệp nhung Icerya seychellarum, Sâu đo xám Hyposidra

talaca, Sâu xám Agrotis ipsilon, Sâu róm Calliteara horsfeldii, Sâu róm 4 túm

lông xám Dasychira chekiangensis,… Sâu hại ngọn lá, non: Bọ xít lưng gù

Dichocysta pictipes, Rệp nâu Toxoptera aurantii, Bọ xít vân đen vàng

Erthesina fullo … Sâu hại thân cành gồm: Mọt đuôi 2 gai Sinoxylon anale,

Mọt sáu gai Xylothrips flavipes,… Sâu hại thân: Vòi voi xám Shirahoshizo

rufescens, Xén tóc cánh xanh Bacchisa sp., Mọt hại vỏ Dryocoetes villosus,

Sâu hại vỏ (Indarbela quadrinotata),… Sâu hại rễ: Bọ hung nâu nhỏ Maladera

orientalis, Dế mèn nâu nhỏ Gryllus testaceus,… Nhưng lưu ý nhất đó là các

loài gây hại Quế chính như: Bọ xít lưng gù (Dichocysta pictipes), Rệp nâu

22

(Toxoptera aurantii), Sâu đo (Biston sp.), Sâu hại vỏ (Indarbela quadrinotata)

(Phạm Quang Thu (2016)).

Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Yên Bái, năm 2016 sâu róm xanh hại

Quế lần đầu tiên xuất hiện và gây hại mạnh, tổng diện tích cây Quế bị sâu róm

xanh ăn lá lên đến 262ha, trong đó có 163 ha bị hại nhẹ, 83 ha bị hại trung

bình và 16 ha bị hại nặng; Gây hại chủ yếu ở huyện Văn Yên và Trấn Yên.

Trong đầu năm 2017 sâu róm xanh lại xuất hiện trở lại gây hại trên diện tích

là 98,5 ha (Theo công văn số 1082/SNN-BVTV ngày 01/12/2016 và công

văn số 142/SNN-TT&BVTV ngày 22/3/2017).

Võ Duy Loan (2014) đã điều tra và thu thập thành phần sâu bệnh hại

Quế tại huyện Trà Bồng tỉnh Quảng Ngãi và kết quả thu được 14 loại sâu hại

gồm: sâu đo, sâu róm, sâu ăn lá, sâu đục đọt, bọ xít nâu sẫm, sâu kèn, sâu

cuốn lá, bọ vòi voi, sâu phỏng lá, bọ hung, bọ phấn, nhện, rệp ống, rệp muội,

rầy đỏ… Trong đó sâu đục đọt xuất hiện thường xuyên và rất phổ biến có ảnh

hưởng đến sinh trưởng phát triển của Quế, các vườn Quế cấp tuổi 1 bị hại

nặng hơn so với các vườn Quế cấp tuổi 2, vị trí chân đồi bị hại nặng hơn so

với vị trí sườn đồi.

Phạm Thanh Loan (2012) khi điều tra về thành phần sâu hại Quế đã

thống kê được 17 loài sâu gây hại Quế tại Văn Yên, Yên Bái, bao gồm: loài

Sâu ăn lá Quế Phalera flavescens, loài sâu đo ăn lá Culcula paterinaria, loài

sâu đục quả Leucoptera susinella, Sâu đục thân cành Arbela baibarana, Sâu

đục chồi ngọn Zeuzera sp., Sâu đục sùi vỏ quả (Lepidoptera: Aegeriidae), Bọ

xít dài Leptocorisa varicormis, Mối Odontotermes sp., Bọ hung nâu nhỏ

Maladera orientalis, Sâu cuốn lá Pandemis sp., Bọ dừa nâu (Coleoptera:

Scarabacidae), Bọ rầy (Hemiptera: Triozidae), Bọ nẹt Latoia lepida

(Lepidoptera: Eucleidae), Sâu cuốn lá Coleophora sp., Sâu xám Agrotis

ypsilon, Dế mèn nâu lớn Brachytrupes portentorus, Dế mèn nâu nhỏ Gryllus

23

testaceus, trong đó có 4 loài sâu hại chính là: sâu ăn lá Quế, Sâu đục thân –

cành, Sâu đục sùi vỏ và Sâu đục chồi ngọn

Hà Công Tuấn và cộng sự (2006) có công bố thành phần sâu hại Quế

rất phong phú gồm 14 loài ở 13 họ thuộc 4 bộ khác nhau. Sâu ăn lá có 4 loài

chiếm 36%, sâu đục thân, cành ngọn có 3 loài chiếm 21,2%, sâu chích hút

ngọn, cành non có 3 loài chiếm 21,2%, sâu đục sùi vỏ có 1 loài chiếm 7,2%,

sâu hại rễ có 2 loài chiếm 14,4%. Trong đó các loài có mức độ gây hại

nghiêm trọng là sâu đo Culcula paterinaria, sâu đục thân cành Arbela

baibarana, bọ xít nâu sẫm Ertheina fullo, sâu đục ngọn chồi Zeuzera sp., Mối

Odontotermes sp. Theo nhóm nhiên cứu thì loài Bọ xít nâu sẫm

Pseudodoniella chinensis xuất hiện ở các vùng trồng Quế ở nước ta. Đặc biệt

tập trung nhiều ở vùng Quế Yên Bái, Quảng Ninh.

Theo Trần Quang Tấn (2004) kết quả điều tra sâu hại Quế chính tại 3

vùng trồng Quế tập trung thu được 19 loài sâu hại tại vùng Quế Yên Bái, 17

loài gây hại tại Thanh Hóa và 15 loài tại Quảng Nam… Trong đó có 10 loài

sâu hại lá và 9 loài gây hại thân cành. Có 5 loài xuất hiện rất phổ biến ở tất cả

các vùng trồng Quế Yên Bái, Thanh Hóa, Quảng Nam như sâu đo ăn lá

(Biston maginata Shiraki), sâu róm (Creatonotus gangis Linn.), sâu cuốn lá

(Ancylis sp.), sâu đục ngọn chồi (Cophopropra sp.), sâu gặm vỏ (Aegeria

sp)… sự xuất hiện của các đối tượng gây hại này phần nào ảnh hưởng đến

sinh trưởng của cây. Đặc biệt sâu cuốn lá, sâu đo và sâu đục ngọn chồi ở Quế

tuổi nhỏ (Quế 2-4 tuổi), sâu gặm vỏ ở Quế tuổi lớn… có mật độ khá cao ở tất

cả các vùng. Đặc biệt là bọ xít có màu nâu sẫm mới chỉ xác định xuất hiện và

gây hại rất nặng ở yên Bái, là nguyên nhân gây chết hàng loạt cây Quế tại

Yên Bái. Bọ xít nâu sẫm có trứng hình bầu dục, mầu trắng vàng, khi sắp nở

có mầu nâu đỏ, trứng đẻ rời từng quả trong phần hốc cành hoặc vết nứt trên

thân, bọ xít non có màu đỏ tươi đến nâu đỏ, khi trưởng thành có màu nâu sẫm.

Bọ xít nâu sẫm ưa thích thức ăn là đoạn cành bánh tẻ, trên cành non hoặc

24

đoạn cành già bọ xít không hoàn thành phát dục, thường chết ở tuổi 2 và tuổi

3. Nuôi bọ xít trên đoạn cành trám, xoan bánh tẻ cho thấy các loại thức ăn này

bọ xít đều chết ngay ở tuổi 1. Bọ xít gây hại nặng nhất trên Quế 5 -8 tuổi, nhẹ

hơn trên Quế 2 -4 tuổi, Quế trên 8 tuổi ít bị hại nhất. Bọ xít bắt đầu gây hại

vào mùa xuân, mật độ tăng dần và đạt đỉnh cao vào đầu hè và giữa thu, đây là

thời kỳ có nhiều cành bánh tẻ. Trong nghiên cứu tác giả cũng cho thấy vùng

Quảng Nam, Quảng Ngãi thường xuyên bị sâu đo, sâu ăn lá gây hại nặng,

Năm 1979 tại Trà Bồng, Quảng Ngãi dịch sâu đo đã ăn trụi toàn bộ lá, năm

2002 – 2003 gây hại nặng ở Quảng Nam, một số vườn Quế bị sâu ăn trụi lá

vào mùa khô hạn, không có khả năng hồi phục.

Nguyễn Bá Thụ và Đào Xuân Trường (2004) đã xác định được 14 loài

sâu hại Quế tại các tỉnh Quảng Ninh, Hòa Bình, Hà Tây, Nghệ An và Hà Tĩnh

bao gồm: Sâu đo Culcula paterinaria, Sâu róm ăn lá Quế Malacossma dentata,

Sâu đục lá Quế Leucoptera susinella, Bọ nẹt Latoia lepida, Sâu kèn dài

Amatissa vanlogeri, Bọ xít dài Leptocorisa varicomls, Bọ xít nâu sẫm

Ertheina fullo, Bọ xít lưới chưa xác định tên, Sâu đục thân cành Arbela

baibarana, Sâu đục ngọn chồi Zeuzera sp., Sâu đục sùi vỏ Quế Synanthedon

sp., Xén tóc cánh xanh Bacchisa atriaris, mối Odontotermes sp., và Bọ hung

nâu nhỏ Maladera orientalis, trong đó có 3 loài sâu hại nguy hiểm là loài Sâu

đo, Bọ xít nâu sẫm và Sâu đục thân cành.

Nghiên cứu phòng trừ sâu hại Quế

Võ Duy Loan (2014) đã có khuyến cáo có thể sử dụng 4 loại thuốc

Regent 800 WG, Padan 95SP, NurelleD 25/2,5EC, Karate 2,5 EC đều có hiệu

lực cao đối với sâu đục đọt.

Phạm Thanh Loan (2012) đã sử dụng các biện pháp phòng trừ sâu bệnh

tổng hợp (IPM) hại Quế Cinnamomum cassia tại khu vực trồng Quế trọng

điểm huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, đã thử nghiệm các biện pháp phòng trừ

cụ thể như: đối với (1) Sâu đục sùi vỏ Quế sử dụng thuốc Tasodant 600EC,

25

Rigell 800WG, Oncol 25 WP, có hiệu lực phòng trừ cao, đạt trên 90%. (2)

Sâu ăn lá sử dụng thuốc Tasodant 600EC, Rigell 800WG, Oncol 25 WP, có

hiệu lực phòng trừ cao, đạt trên 90%. (3) Sâu đục chồi ngọn sử dụng thuốc

Tasodant 600EC, Rigell 800WG, Oncol 25 WP, có hiệu lực phòng trừ cao, từ

76,9 - 80,6%. (4) Sâu đục thân cành sử dụng thuốc Oncol 25 WP, có hiệu lực

phòng trừ đạt 40,7%.

Hà Công Tuấn và cộng sự (2006) có đề cập các biện pháp phòng trừ

sâu hại phổ biến cho cây Quế như sau: Phòng trừ loài Sâu đục thân cành

Arbela bailbarama bằng cách tập trung phát dọn thực bì, chặt những cây bị

sâu hại, cuốc xung quanh gốc cây vào mùa xuân để giết nhộng. Dùng tay mây

móc sâu non. Phun thuốc Rogor 1% vào lỗ đục rồi bịt bông lại. Phun thuốc

sữa Dipterex nồng độ 0,2%. Đối với Sâu đo ăn lá Quế Culcula panterinari

dùng bẫy đèn hoặc bắt sâu non vào sáng sớm. Cuối thu đào đất bắt nhộng. Có

thể dùng một số loại thuốc diệt như Ofatox 40 EC; Fax tax 25EC liều lượng

600 lít dung dịch/ha. Bọ xít nâu sẫm Pseudodoniella chinensis bắt giết bọ xít

khi mới nở còn sống tập trung, ngắt các ổ trứng bọ xít

Theo Trần Quang Tấn (2004), Phòng trừ bọ xít nâu sẫm bằng thuốc hóa

học Admire 50 EC cho hiệu quả cao từ 93,64 – 100% sau 5 ngày phun. Biện

pháp kỹ thuật tổng hợp để ngăn chặn dịch hại bọ xít hại Quế bằng các giải

pháp sau: Trồng cây lâm nghiệp ở đỉnh đồi với 1/4 diện tích gồm những cây

bản địa lấy gỗ như Pơ mu, dổi, xoan… Trồng các băng Quế và băng cây lâm

nghiệp kinh tế cao xen tiếp nhau: 1/3 diện tích băng cây lâm nghiệp có kinh tế

cao (trám, trầm hương…), 2/3 diện tích còn lại là các băng Quế. Giữ tỷ lệ

diện tích Quế từ 50 - 60% diện tích trồng. Duy trì mật độ Quế theo tuổi cây

tạo điều kiện lớn nhanh vượt qua giai đoạn mẫn cảm nhất đối với bọ xít: Tuổi

3: 4000 cây/ha, tuổi 4: 3000 cây/ha, tuổi 5: 2500 cây/ha và tuổi 6: 2000

cây/ha. Phòng trừ bọ xít nâu sẫm hại Quế bằng thuốc Admire đúng thời điểm

tại những vùng có dịch hại. Thử nghiệm mô hình kể trên cho thấy cây sinh

26

trưởng tốt, không có cây bị chết do hiện tượng sùi cành (do bọ xít hại), trong

khi đó vườn đối chứng tỷ lệ cây chết là 34,69%. Phòng trừ sâu đục ngọn cành

Quế bằng các thuốc Padan 95 Sp sẽ hạn chế được số ngọn cành Quế bị sâu

đục héo sẽ giúp cho Quế sinh trưởng và phát triển tốt. Phun thuốc khi Quế ra

lộc rộ vào tháng 3 không những hạn chế được thiệt hại do sâu đục ngọn gây ra

mà còn hạn chế được tác hại của sâu đo ăn lá khi sâu bùng phát và gây hại

vào tháng 4- 6 tại Quảng Nam.

Nghiên cứu về bệnh hại Quế

Theo Phạm Quang Thu (2016), điều tra thành phần loài sinh vật hại

Quế tại Yên Bái và Quảng Nam. Kết quả thu được 23 loài vật gây bệnh, trong

đó gồm có lớp Ulvophyceae có 1 loài; lớp Alphaprobacteria có 1 loài; lớp

Leotiomycetes có 2 loài; lớp Sordariomycetes có 8 loài; lớp Dothideomycetes

có 5 loài; lớp Agaricomycetes có 3 loài; lớp Oomycetes có 3 loài. Cụ thể

gồm, bệnh hại lá: Bệnh thán thư Colletotrichum sp, bệnh khô lá

Pestalotiopsis funerae, bệnh đốm lá Colletotrichum cinnamomi, bệnh phấn

trắng Oidium sp., bệnh đốm lá Gloeosporium cinnamomi,… Bệnh hại thân,

cành: Bệnh tua mực Agrobacterium tumefaciens, bệnh nứt cành Verticillium

sp., bệnh khô cành Phomopsis sp.,… bệnh hại rễ: Bệnh thối rễ do Rhizoctonia

solani và Phytophthora cinamomi,... Trong đó các loài gây hại chính cho Quế

như: Bệnh tua mực do vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens, bệnh phấn trắng

do nấm Oidium sp., bệnh thán thư do nấm Colletotrichum gloeosporioides.

Trong nghiên cứu của Dang Nhu Quynh và cộng sự (2017) cho biết

Bệnh thối rễ do nấm Phytophthora cinnamomi gây hại Quế lần đầu tiên được

ghi nhận ở Việt nam. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng khoảng 10% diện

tích rừng Quế tại tỉnh Yên Bái bị chết nguyên nhân là do nấm gây bệnh thối rễ.

Võ Duy Loan (2014) đã phát hiện được 12 loại bệnh: bệnh thối rễ nứt

thân, bệnh thối rễ tơ, bệnh thối gốc nấm trắng, bệnh lở cổ rễ, bệnh thối nâu rễ,

bệnh đốm lá, bệnh thán thư lá, bệnh tua mực, bệnh cao cành, bệnh thán thư

27

đọt non do nấm, tảo nấm hồng và 2 loại tuyến trùng là tuyến trùng mụn u và

tuyến trùng ngoại ký sinh. Tuy nhiên đáng chú ý nhất là các loại bệnh gây ảnh

hưởng đến sinh trưởng phát triển của Quế như bệnh tua mực, bệnh đốm lá,

bệnh thán thư đọt (khô đọt non). Đặc biệt ở đây tác giả cho thấy bệnh tua mực

tại huyện Trà Bồng là do Phytoplasma gây ra, khác với các kết quả công bố

của Phạm Quang Thu (2016) và Trần Quang Tấn (2004) bệnh tua mực do

Agrobacterium tumefaciens gây ra. Bệnh được truyền qua côn trùng môi giới

là rệp ống Aulacaspis.

Trần Quang Tấn (2004) đã công bố về thành phần bệnh hại Quế tại Yên

Bái, Thanh Hóa và Quảng Nam đã thu thập được 11 mẫu bệnh hại và xác định

được 10 loại vi sinh vật ký sinh gây bệnh trên Quế bao gồm: bệnh nứt cành do

nấm Verticilium sp., bệnh cháy lá do Pestalozzia cinnamomi; bệnh đốm lá do

Gloeosporium cinnamomi; Collectotrichum cinnamomi và Phyllosticta

cinnamomi; phomopsis sp.; Khô cành do Lasiodiplodia theobromae; bệnh cao

cành do Septobasidium sp.; bệnh muội đen do Capnodium sp và bệnh tua mực

do Agrobacterium tumefaciens. Trong đó bệnh tua mực gây hại trên thân,

cành, cuống gân lá lần đầu tiên được phát hiện ở Trấn Yên – Yên Bái và đặc

biệt đã và đang trở thành dịch hại chính quan trọng trên cây Quế tại Quảng

Nam. Đây cũng là đối tượng gây hại nguy hiểm hàng đầu ở tất cả các vùng

trồng Quế tại Quảng Nam và Quảng Ngãi. Tại Trà My và Tiên Phước Quảng

Nam tỉ lệ bệnh là khoảng 5 – 10%, cá biệt có những vườn Quế tỉ lệ bệnh lớn

hơn 50%. Ở Quảng Ngãi các vườn Quế tái sinh chồi có vườn tỉ lệ bệnh lên tới

30 – 40%. Bệnh tua mực gây hại tất cả các bộ phận của cây, rễ, thân, cành,

cuống lá và gân lá. Triệu chứng của bệnh có thể tìm thấy từ Quế ở trong vườn

ươm trở đi và gây hại ở tất cả các vùng Quế đồi, Quế vườn. Các vườn Quế có

độ che phủ cao bệnh nặng hơn những vườn Quế được chiếu nắng đầy đủ. Cây

con bị bệnh nếu triệu chứng ở đỉnh sinh trưởng của cây, cây thường bị khô

chết từ ngọn xuống.

28

Ở Quảng Nam, Quảng Ngãi các rừng Quế trồng thường bị bệnh tua

mực. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là bệnh tua mực có ảnh hưởng đến hàm lượng

tinh dầu hay không. Nguyễn Vũ Thanh và Nguyễn Ngọc Châu (2005), cho

rằng bệnh tua mực có ảnh hưởng lớn đến hàm lượng tinh dầu và hàm lượng

aldehyl cinnamic trong tinh dầu. Từ các kết quả thu được, các tác giả kết luận

rằng ở các mẫu bị bệnh hay mẫu gần bệnh thì hàm lượng tinh dầu giảm hẳn so

với mẫu bình thường, tuy nhiên chỉ có mẫu tua mực là có hàm lượng aldehyl

cinnamic giảm đáng kể so với các mẫu khác.

Nguyễn Trung Tín (1999), điều tra về bệnh tua mực tại Quảng Nam và Quảng

Ngãi cho rằng tỷ lệ nhiễm bệnh tua mực rừng trồng thuần loài từ 70 – 100%.

Tại Trà Giác, Trà My có 100% số cây bị tua mực. Quế thanh hóa trồng ở Trà

My tỷ lệ tua mực thấp hơn khoảng 15 – 20%. Tác giả cũng cho thấy nếu Quế

Trà My đem trồng ở vùng thấp hơn thì tỷ lệ tua mực thấp hơn.

Theo Trần Văn Mão (1999) thì có một số loài sâu hại Quế là: Tằm ăn lá

(Attacus alfa Linn), Sâu róm (Dasychira mendosa Hueb), Sâu đục thân

(Zeuzera cofeae Niel). Về bệnh hại Quế có bệnh đốm lá, bệnh cháy lá, u biếu cành.

Ở Quảng Nam và Quảng Ngãi bệnh tua mực đã phát triển mạnh ảnh

hưởng đến sinh trưởng và hàm lượng tinh dầu: bệnh tua mực phát triển mạnh

ở các khu vực trồng Quế có độ ẩm cao, có vườn Quế tỷ lệ bệnh tua mực từ 75

– 85% (Phạm Văn Lực và cộng sự, 1997). Hàm lượng tinh dầu và andehyl

cinnamic ở các mẫu bị tua mực , đều thấp hơn so với đối chứng. Ví dụ hàm

lượng tinh dầu ở mẫu khô bị tua mực là 0,77% thì ở mẫu không bị tua mực

5,57%, hàm lượng aldehyl cinnamic tương ứng là 47,3% và 92,9%.

- Nghiên cứu biện pháp phòng trừ bệnh hại Quế:

Võ Duy Loan (2014) bệnh đốm lá do Gleosporium cinnamomi có thể

sử dụng các loại thuốc Carbebda 50FL, Sumi-eight 12,5 WP và Ridomil 68

WG đều có hiệu lực. Bệnh thán thư do nấm Collectotrichum cinnamomi bằng

thuốc Aliette 89WP, Cuzate M8-72WP và Score 250 ND. Đối với bệnh tua

29

mực, các thuốc bảo vệ thực vật không có tác dụng phòng trừ nhưng thuốc

Bonny 4 Sl có khả năng kiềm hãm sự phát triển của chiều dài tua chứ không

có khả năng trừ bệnh. Việc phòng trừ tua mực do Phytoplasma gây ra phải áp

dụng đồng bộ các biện pháp: trồng theo đúng mật độ khuyến cáo, bón phân để

cây sinh trưởng tốt, phòng trừ môi giới truyền bệnh là rệp ống bằng cách cắt

bởi các đoạn cành có rệp đem đi tiêu hủy, nếu mật độ rệp cao thì sử dụng một

trong các loại thuốc Actara 25WG, Midan 10WP, Chess 50 WP phun trừ. Tác

gỉa cũng cho biết biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp trên cây Quế là áp

dụng đồng bộ các biện pháp chăm sóc làm cỏ bón phân,tỉa cành tạo tán,

phòng trừ sâu bệnh kịp thời đã đem lại sự khác biệt rõ rệt về sinh trưởng phát

triển và cải thiện tình hình sâu bệnh hại so với các vườn Quế chăm sóc theo

tập quán của nông dân.

Trần Quang Tấn (2004) để phòng trừ bệnh tua mực thì vườn trồng loại

bỏ được nguồn bệnh, tạo độ thông thoáng đầy đủ ánh sáng cho vườn Quế, duy

trì mật độ 3000 cây/ha. Phòng trừ sâu đục ngọn cành Quế bằng các thuốc

Padan 95 Sp sẽ hạn chế được số ngọn cành Quế bị sâu đục héo sẽ giúp cho

Quế sinh trưởng và phát triển tốt. Phun thuốc khi Quế ra lộc rộ vào tháng 3

không những hạn chế được thiệt hại do sâu đục ngọn gây ra mà còn hạn chế

được tác hại của sâu đo ăn lá khi sâu bùng phát và gây hại vào tháng 4- 6 tại

Quảng Nam.

- Nghiên cứu về sâu bệnh hại Quế ở Lào Cai

Theo điều tra ban đầu của Trung tâm nghiên cứu Bảo vệ rừng, Viện

Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam năm 2016, 2017 xác định nguyên nhân gây

chết Quế tại xã Nậm Tha huyện Văn Bàn do một số loại sâu, bệnh hại như:

Sâu đục cành ngọn, Bọ xít nâu sẫm (Pseudodoniela sinensis) và một số khu

vực tại thôn Khe Cóc, xã Nậm Tha huyện Văn Bàn cây bị chết do nấm

(Phytophthora cinnamomi ) gây bệnh thỗi rễ.

30

Theo Văn bản số 2251/SNN-TT&BVTV nguyên nhân gây khô cành và

chết cây Quế tại xã Nậm Tha huyện Văn Bàn bước đầu xác định do bọ xít nâu

sẫm (Pseudodoniela sinensis Zheng) gây hại. Loài Bọ xít này tương tự loài bọ

xít gây nên hiện tượng chết hàng loạt trên cây Quế tại Yên Bái những năm

1998 -2000. Bước đầu đề xuất các giải pháp trước mắt để hạn chế tác hại của

Bọ xít như Vườn Quế trồng dầy, cắt tỉa bớt cây tạo độ thông thoáng, duy trì

mật độ theo tuổi. Kiểm tra định kỳ vườn Quế tuổi từ 4 -7 tuổi, khoanh vùng

bọ xít gây hại nặng, phun thuốc Imidacloptid hoặc Cypermethrin vào thời

điểm cuối tháng 4 và đầu tháng 8, phun khi bọ xít non tuổi nhỏ xuất hiện

nhiều. Phun nhắc lại khoảng 7-10 ngày nếu mật độ bọ xít cao. Bọ xít nâu sẫm

là một loài dịch hại khá nghiêm trọng gây hại đối với nhiều loại cây trồng.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay, việc chúng bùng phát thành dịch,

gây hại ở diện rộng hoàn toàn có thể xảy ra.

Theo Nông Đức Cường năm 2016 có đến 45 ha diện tích trồng Quế ở

huyện Văn Bàn, Lào Cao bị chết khô, trong đó xã Nậm Tha có 1400 ha Quế

thì có đến 20 – 30% diện tích bị nhiễm và đã có 10 ha bị chết.

Theo nguồn tin từ báo nhân dân điện tử, sáng ngày 27.02.2013 ông

Nguyễn Văn Hùng, Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Lào Cai cho biết 142 ha

Quế, loại 5 -7 tuổi, chuẩn bị cho thu hoạch bóc vỏ, bị sâu đo màu xám tấn

công gây hại. Sâu đo đã ăn trụi toàn bộ lá 4 ha Quế ở 2 xã Phú Nhuận và Sơn

Hà Huyện Bảo Thắng, chỉ còn trơ thân và cành khô. Theo thống kê, hiện đã

có 138 ha ở hai xã nói trên bị nhiễm sâu đo, tốc độ sinh sôi và ăn hại lá Quế

nhất nhanh. “Quế bị sâu ăn trụi lá sẽ khô và chết cây hoặc có hồi phục thì sẽ

giảm chất lượng tinh dầu trong vỏ cây, ảnh hưởng tới năng suất và chất lượng

sản phẩm khi thu hoạch”.

Theo Nguyễn Thị Hà (2013), sâu đo ăn lá đã xuất hiện và gây hại trên

những diện tích Quế trồng thuần loài từ 5 – 10 tuổi ở xã Sơn Hà, Phú Nhuận

(Bảo Thắng). Sâu trưởng thành có hình thái thân dài 18 -20mm, sải cánh rộng

31

72 -75mm, cánh trước có đốm vân màu xanh nhạt, giữa cánh có đốm lửa

trong suốt, cánh sau màu nâu xám, đầu hình sợi chỉ, bụng nhọn gần về cuối,

mỗi năm có 2 lứa. Nơi đây có nguồn thức ăn dồi dào và có điều kiện nóng ẩm

thích nghi với điều kiện ngoại cảnh của sâu đo ăn lá Quế.

1.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu

Vị trí địa lý: Huyện Bảo Yên là cửa ngõ phía Nam của tỉnh Lào Cai,

cách thành phố Lào Cai 75 km, cách Hà Nội 263 km. Có diện tích tự nhiên

818,34 km2, kéo dài từ 2205’ đến 22030’vĩ độ bắc, từ 104o15’ đến 104037’

kinh đông. Độ cao trung bình của huyện từ 300 đến 400m so với mực nước

biển. Điểm cao nhất là 1.120 m trên dãy núi Con Voi (xã Long Khánh), điểm

thấp nhất là 50m, độ dốc bình quân toàn huyện từ 30 – 350.

- Phía Đông Nam giáp huyện Lục Yên - tỉnh Yên Bái.

- Phía Đông giáp huyện Quang Bình - Tỉnh Hà Giang

- Phía Tây Nam giáp huyện Văn Yên - tỉnh Yên Bái

- Phía Bắc giáp huyện Bảo Thắng và Bắc Hà - tỉnh Lào Cai

- Phía Tây bắc giáp huyện Văn Bàn - tỉnh Lào Cai.

Địa hình: Địa hình Bảo Yên khá phức tạp, nằm trong hai hệ thống núi

lớn là Con Voi và Tây Côn Lĩnh chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, cao

ở phía bắc, thấp dần về phía nam. Nằm giữa hai hệ thống núi này là hai con

sông lớn, sông Hồng và sông Chảy. Sông Hồng (xưa gọi là sông Nhĩ Hà) chảy

qua 3 xã Cam cọn, Kim Sơn, Bảo Hà với tổng chiều dài 35 km, lưu lượng

dòng chảy khá lớn. Sông Chảy (còn gọi là sông Trôi) chảy theo hướng Đông

Bắc- Tây Nam có độ dốc lớn, dòng chảy xiết, là thượng nguồn chính của thuỷ

điện Thác Bà, có nhiều thác gềnh ở phía bắc. Đoạn sông Chảy chảy qua 8 xã

và thị trấn Phố Ràng của huyện chiều dài 50 km.

Trên địa bàn huyện có trục đường Quốc lộ 70 chạy qua trung tâm

huyện theo hướng Bắc - Nam; tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai chạy dọc

qua 02 xã Bảo Hà, Kim Sơn; Quốc lộ 279 chạy theo hướng Đông - Tây kết

32

nối với trục đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai. Vị trí địa lý của huyện đã tạo

thuận lợi cho giao thương kinh tế, văn hóa, xã hội với các huyện trong tỉnh và

các tỉnh Trung Du miền Núi phía Bắc.

Khí hậu: Khí hậu Bảo Yên mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới nóng,

hình thành hai tiểu vùng khí hậu: Đông Bắc và Tây Bắc. Nhiệt độ trung bình

trong năm của huyện là 21,50C. Tháng nóng nhất là 39,40C, tháng có nhiệt độ

thấp nhất là 3,70C. Lượng mưa trung bình là 1.440 mm đến 2.200 mm, tổng

số giờ nắng trong năm là 1.300 - 1.600 giờ. Tài nguyên đất đai, khí hậu và

khoáng sản trong lòng đất đã tạo điều kiện thuận lợi để Bảo Yên có thể phát

triển kinh tế Nông - Lâm - Công nghiệp toàn diện.

Thổ nhưỡng: Do ảnh hưởng của cấu tạo địa chất nên phần lớn đất đai

Bảo Yên là loại đất Pheralít màu đỏ vàng phát triển trên nền đá Gráp điệp

thạch mi ca. Địa hình Bảo Yên có sự chia cắt mạnh, có núi cao, khe vực sâu

và thung lũng hẹp. Các nhà khoa học xếp Bảo Yên vào loại vùng đồi nhỏ hơn

300 – 400m và 400 – 500m. Vành đai vùng đồi nhỏ hơn 300 – 400m chiếm

phần lớn diện tích thung lũng các sông suối lớn như thung lũng sông Chảy.

Các vành đai vùng đồi núi thấp 400 – 500m có địa hình chia cắt mạnh, núi

cao, sườn dốc, khe sâu vực thẳm, thung lũng hẹp, bậc thang nhỏ đất bồi tụ,

nhìn chung không lớn, diện tích hẹp, phân bố rải rác; bồn địa tương đối bằng

phẳng tạo nên những cánh đồng rộng lớn ở vùng Nghĩa đô, Vĩnh Yên, Xuân

Hoà, Bảo Hà, Kim Sơn, Cam Cọn.

Diện tích tự nhiên của huyện rộng, song chủ yếu là rừng và đất rừng

chiếm hơn 75,48% diện tích tự nhiên của huyện, độ che phủ của rừng 57,17%.

Hiện nay, ở Bảo Yên còn tồn tại ba kiểu rừng chủ yếu, đó là: Rừng nguyên

sinh tập trung tại đầu nguồn và trên vành cao dãy núi Con Voi, có nhiều lâm

sản quý hiếm; rừng giữa hiện nay đã được giao đến họ gia đình và các tập thể,

việc khai thác kết hợp với trồng mới và tu bổ đã trở thành vành đai rừng

phòng hộ; rừng cỏ tranh, lau lách, cây bụi ở vùng thấp, hiện nay đang được

33

phát triển các loại cây ăn quả, cây nguyên liệu. Bên cạnh nguồn tài nguyên

thiên nhiên dồi dào, rừng Bảo Yên còn có các loại chim, thú và một số loại

thuốc nam quý. Đất tự nhiên ở Bảo Yên có khả năng trồng các loại cây công

nghiệp và cây ăn quả.

34

Chương 2

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Cây Quế (Cinnamomum cassia. PRESL)

2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu

Đề tài thực hiện tại huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai, thời gian từ tháng 7

năm 2018 đến tháng 8 năm 2019.

Đề tài nghiên cứu tại các xã, thị trấn trong huyện, chọn 03 xã có diện

tích rừng trồng Quế ở vị trí cách trung tâm huyện cự ly gần nhất 7 km, xa nhất

23 km, nằm về phía Đông, Tây, Bắc, các xã: Xuân Hòa; Việt Tiến; Thượng Hà.

Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng rừng trồng Quế tại huyện Bảo Yên; Đề

xuất các giải pháp kỹ thuật phát triển rừng trồng Quế.

2.3. Nội dung nghiên cứu

2.3.1. Điều tra đánh giá thực trạng trồng, khai thác, chế biến và thị trường

tiêu thụ Quế ở Lào Cai

2.3.2. Chọn cây Quế trội sinh trưởng nhanh và hàm lượng tinh dầu cao

2.3.3. Nghiên cứu mật độ trồng và bón phân

- Nghiên cứu mật độ trồng

- Nghiên cứu chế độ bón phân

2.3.4. Điều tra sâu bệnh hại Quế và đề xuất biện pháp phòng trừ

- Điều tra sâu, bệnh hại Quế

- Đề xuất biện pháp phòng trừ sâu, bệnh hại Quế

2.3.5. Đề xuất biện pháp kỹ thuật gây trồng Quế phù hợp với địa phương

2.4. Phương pháp nghiên cứu

2.4.1. Điều tra đánh giá các giống Quế, thực trạng trồng, khai thác, chế

biến và thị trường tiêu thụ Quế ở Lào Cai

Thu thập các tài liệu có liên quan hiện trạng gây trồng Quế của tỉnh Lào

35

Cai, phỏng vấn các bên liên quan, chủ hộ và các doanh nghiệp trồng rừng Quế

để thu thập thông tin về thực trạng trồng, khai thác, chế biến và thị trường tiêu

thụ Quế ở tỉnh Lào Cai ở 4 huyện: Bảo Yên, Bảo Thắng, Bắc Hà, Văn Bàn.

Điều tra các giống Quế của Lào Cai ở 4 huyện có diện tích trồng Quế

nhiều nhất như: Bảo Yên, Bảo Thắng, Bắc Hà, Văn Bàn.

2.4.2. Chọn cây Quế trội sinh trưởng nhanh và hàm lượng tinh dầu cao

Chọn cây trội theo Tiêu chuẩn ngành 04 TCN 147-2006 của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển Nông thôn. Đối với loài cây nghiên cứu các cây trội được

chọn lọc có sinh trưởng tốt, không bị sâu hại, vượt 15% so với năng suất

trung bình của đám rừng có cây giống (40- 50 cây xung quanh).

- Thu thập thông tin về vùng phân bố tự nhiên hoặc gây trồng của loài cây

- Điều tra sơ bộ lâm phần nơi có cây Quế trội phân bố (Lô, khoảnh,

nguồn gốc cây trội…)

- Lập OTC lâm phần nơi có cây trội phân bố, OTC có diện tích 1000 m2

- Đo đếm số liệu cây trong OTC theo những chỉ tiêu chọn lọc (đo các

trị số đường kính ngang ngực (D1.3m); chiều cao vút ngọn (Hvn) và chiều

cao dưới cành (Hdc) các cây trội bằng thước đo chuyên dụng.

Xác định hàm lượng tinh dầu Quế

+ Lấy mầu: Mỗi cây trội thu 1 mẫu, mẫu vỏ Quế được lấy trên cây ở

cùng một độ cao 1m tính từ gốc, theo cùng một hướng, mỗi cây lấy 1 mẫu.

Hàm lượng tinh dầu được tính theo trọng lượng mẫu khô, xác định hàm lượng

tinh dầu theo phương pháp sau:

+ Xử lỷ mẫu: Mẫu được hong khô ngoài nắng nhẹ sau đó được đóng

vào bao gói để tránh ẩm mốc. Trước khi chiết xuất tinh dầu, mẫu được sấy

khô ở nhiệt độ 50°C bằng đèn hồng ngoại cho đến khi trọng lượng không đổi.

+ Xác định hàm lượng tinh dầu (hay năng suất tinh dầu): Vỏ Quế được

đập nhỏ thành từng mảnh nhỏ sau đó cho vào bộ chiết xuất tinh dầu bằng lôi

36

cuốn nước, dựa vào lượng tinh dầu thu được và lượng mẫu nguyên liệu đã xác

định để tính hàm lượng tinh dầu từ mẫu phân tích.

Xác định chất lượng tinh dầu Quế

- Xác định hàm lượng andehyl cinamic: tinh dầu được làm khô nước bằng

Natri Sunphat khan. Xác định hàm lượng các chất có trong tinh dầu bằng máy

sắc khí SHIMATZU GC9. Dựa trên sắc khí đồ trên máy sắc khí để xác định hàm

lượng andehyl cinamic trong tinh dầu Quế.

2.4.3. Nghiên cứu mật độ trồng và bón phân

Nghiên cứu các công thức mật độ trồng Quế của người dân tại huyện

Bảo Yên tỉnh Lào Cai ở 6 loại mật độ chính sau để đánh giá về sinh trưởng

như chiều cao, đường kính và độ dày vỏ.

CT1: 1666 cây/ha (3m x 2m)

CT2: 2000 cây/ha (2,5m x 2m)

CT3: 3333 cây/ha (1,5m x 2m)

CT4: 4000 cây/ha (1,25m x 2m)

CT5: 5000 cây/ha (1m x 2m)

CT6: 10.000 cây/ha (1mx1m)

Nghiên cứu các công thức bón phân

Mô hình Quế 1 năm tuổi của ông Nguyễn Xuân Thanh trồng tại thôn

Đao, xã Xuân Hòa, huyện Bảo Yên với mật độ 2500 cây/ha (2mx2m) để bố trí

công thức bón phân với 5 công thức cụ thể như sau:

CT1: bón 100g NPK

CT2: bón 200g NPK

CT3: bón 300g NPK

CT4: Bón chế phẩm phân vi sinh (200g/cây)

CT5: không bón (ĐC)

Mỗi công thức 100 cây 3 lần lặp.

37

2.4.4. Điều tra sâu bệnh hại và đề xuất biện pháp phòng trừ

Đánh giá sâu bệnh hại Quế ở giai đoạn vườn ươm và rừng trồng

- Xác định tỷ lệ và cấp độ bị hại của bệnh

Xác định tỷ lệ bị bệnh, cấp bị bệnh của cây con trong giai đoạn vườn

ươm điều tra đại diện 30 cây, 3 lần, lặp 3 tháng điều tra 1 lần được tiến hành

theo phương pháp của (Phạm Quang Thu, 2009).

- Xác định tỷ lệ và cấp độ bị hại của sâu

Xác định tỷ lệ bị hại, cấp bị hại của cây con trong giai đoạn vườn ươm

điều tra đại diện 30 cây 3 lần, lặp 3 tháng điều tra 1 lần được tiến hành theo

phương pháp của (Phạm Quang Thu, 2009).

Đánh giá sâu bệnh hại Quế ở giai đoạn rừng trồng

- Xác định tỷ lệ và cấp độ bị hại của bệnh

Đối với rừng trồng Quế đã khảo nghiệm, tiến hành phân cấp bị bệnh

cây theo 5 cấp (0-4); cấp 0 cây khỏe (không bị bệnh), cấp 1 cây bị bệnh nhẹ,

cấp 2 cây bị bệnh trung bình, cấp 3 cây bị bệnh nặng, cấp 4 cây bị bệnh rất

nặng, với các tiêu chí của mỗi cấp bị bệnh như sau:

Số tt Cấp bệnh Biểu hiện bên ngoài

0 Cây khoẻ, tán lá phát triển bình thường 1

1 ≤ 25% tán lá bị bệnh hoặc ≤ 10% cành bị bệnh 2

2 25-≤50% tán lá bị bệnh hoặc 10-≤25% cành bị bệnh 3

3 50-≤75% tán lá bị bệnh hoặc 25-≤50% cành bị bệnh 4

4 Trên 75% tán lá bị bệnh hoặc >50% cành bị bệnh 5

Tỷ lệ bị bệnh được tính theo công thức như sau:

Potc =

Trong đó: Potc là tỷ lệ cây bị bệnh trung bình trên ô tiêu chuẩn; n là số

cây bị bệnh trong ô tiêu chuẩn; N là tổng số cây điều tra trong ô tiêu chuẩn.

38

Pkv =

Trong đó: Pkv là tỷ lệ cây bị bệnh trung bình cho khu vực điều tra, Potci

là tỷ lệ bị bệnh bình quân trong ô tiêu chuẩn thứ i, N là tổng số ô tiêu chuẩn.

Cấp bệnh bình quân của một ô tiêu chuẩn được tính theo phương pháp

bình quân gia quyền, sau đó tính bình quân cho toàn bộ khu vực điều tra với

các công thức sau:

Rotc =

Trong đó: Rotc cấp bệnh bình quân trong ô tiêu chuẩn, ni là số cây bệnh

ứng với cấp bệnh i, vi là chỉ số của cấp bệnh i, N là tổng số cây điều tra

Rkv =

Trong đó: Rkv cấp bệnh bình quân của khu vực điều tra, Rotci là cấp

bệnh bình quân ở ô tiêu chuẩn thứ i, N là tổng số ô tiêu chuẩn điều tra.

Mức độ bị bệnh dựa trên cấp bệnh bình quân: 0 ≤ R < 1 cây bị bệnh rất

nhẹ, kháng bệnh; 1 ≤ R < 2 cây bị bệnh nhẹ; 2 ≤ R < 3 cây bị bệnh trung bình;

3 ≤ R ≤ 4 cây bị bệnh nặng.

Từ kết quả điều tra và tài liệu tham khảo của (Phạm Quang Thu, 2011);

(Vũ Văn Định et al. 2017) và đề xuất biện pháp phòng trừ.

2.4.5. Đề xuất biện pháp kỹ thuật gây trồng phù hợp

Kết hợp giữa quá trình nghiên cứu thực tiễn, kế thừa một phần số liệu

nghiên cứu của đề tài “Nghiên cứu chọn giống Quế (Cinnamomum

cassia.PRESL) có năng suất và hàm lượng tinh dầu cao phục vụ trồng rừng

kinh tế tại tỉnh Lào Cai” để đề xuất biện pháp kỹ thuật gây trồng sao cho phù

hợp để đạt hiệu quả kinh tế cao.

39

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Điều tra đánh giá thực trạng trồng, khai thác, chế biến và thị trường

tiêu thụ Quế ở tỉnh Lào Cai

- Các giống Quế ở Lào Cai

Phân loại và thực vật học

Tên khoa học: Cinnamomum cassia. BL; thuộc chi: Cinnamomum; Họ:

Lauraceae

Việc xác định các loài Quế ở Lào Cai đang có nhiều ý kiến khác nhau,

tuy nhiên theo điều tra thực tế Quế ở Lào Cai có 2 loài chính: Quế lá to và

Quế lá nhỏ. Cây Quế lá to, lớn nhanh nhưng vỏ mỏng và hàm lượng tinh dầu

trong vỏ thấp đây là loài có diện tích rất ít, hiện nay nằm rải rác một số cây

đơn lẻ ở 4 vùng trồng Quế chính của Lào Cai như: Bảo Yên, Bảo Thắng, Văn

Bàn và Bắc Hà. Quế lá to lá dài khoảng (34,6 cm) chiều rộng (8,4 cm).

Hình 3.1: Lá Quế lá to Hình 3.2: Cây Quế lá nhỏ

Cây Quế lá nhỏ lá dài (16,5 cm), rộng (4,8 cm) tán thưa, lá nhỏ. Hiện

nay, đa số diện tích trồng Quế của tỉnh Lào Cai là Quế lá nhỏ. Quế lá nhỏ sinh

40

trưởng chậm hơn so với Quế lá to nhưng vỏ dày và hàm lượng tinh dầu trong

vỏ cao.

Quế Lào Cai (Cinamomum cassia) là loài Quế có nguồn gốc tại Việt

Hình 3.3: Lá Quế lá nhỏ Hình 3.4: Cây Quế lá nhỏ Hình 3.5: Quả Quế lá nhỏ

Nam, là nguyên sản tại Việt Nam nên nó còn có tên gọi là Quế Giao Chỉ”.

Như vậy, cũng theo Trần Hợp Quế ở Lào Cai, Yên Bái là loài Quế có tên

khoa học Cinnamomum cassia. Theo điều tra Quế Lào Cai có nguồn gốc từ

vùng Quế Văn Yên của Yên Bái. Trước năm 1975 cây Quế được người dân

đem từ huyện Văn Yên của tỉnh Yên Bái trồng thử tại xã Nậm Đét huyện Bắc

Hà tỉnh Lào Cai, song đây là khu vực có điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng phù

hợp với cây Quế nên sinh trưởng và phát triển tốt cho hàm lượng tinh dầu cao.

- Thực trạng trồng, khai thác, chế biến và thị trường tiêu thụ Quế ở

tỉnh Lào Cai

+ Diện tích rừng trồng Quế: Theo Báo cáo số 320/BC-SNN ngày

09/7/2019 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lào Cai về kết

quả rà soát, đánh giá hiệu quả thực hiện quy hoạch vùng trồng cây Quế và hệ

thống các cơ sở chế biến trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Diện tích rừng trồng Quế

trên địa bàn toàn tỉnh 26.651 ha, trong đó các huyện được quy hoạch vùng

41

trồng Quế gồm: Huyện Bảo Yên 13.242,0 ha, huyện Bảo Thắng 5.250,0 ha,

huyện Bắc Hà 3.8.2,1 ha, huyện Văn Bàn 2.709,9 ha.

+ Quy hoạch vùng trồng Quế đến năm 2025: Ủy ban Nhân dân tỉnh

Lào Cai đã có quy hoạch ổn định vùng trồng Quế đến năm 2025 là 25.000 ha,

trong đó: Huyện Bảo Yên 7800 ha, huyện Bảo Thắng 5500 ha, huyện Văn

Bàn lên tới 4400 ha, huyện Bắc Hà 7300 ha. Như vậy, huyện Bảo Yên

13.242,0 ha so với giai đoạn 2015-2020 đạt 200,3% kế hoạch và đạt 169,8%

so với toàn giai đoạn 2015-2025; huyện Bảo Thắng 5.250,0 ha so với giai

đoạn 2015-2020 đạt 95,5% kế hoạch và đạt 95,5% so với toàn giai đoạn 2015-

2025; huyện Bắc Hà 3.802,1 ha so với giai đoạn 2015-2.20 đạt 54,3% kế

hoạch và đạt 52,2% so với toàn giai đoạn 2015-2025; huyện Văn Bàn 2.709,9

ha so với giai đoạn 2015-2020 đạt 84,3% kế hoạch và đạt 61,6% so với toàn

giai đoạn 2015-2025.

Do nhu cầu trồng Quế rất nhiều nên thị trường hạt giống Quế bất ngờ

tăng giá từ 120.000 - 140.000 đồng/kg hạt lên 280.000 - 300.000 đồng/kg hạt.

Lợi nhuận từ bán hạt Quế tăng cao cũng là nguyên nhân khiến người dân thu

hái hạt Quế không đảm bảo tiêu chuẩn, gây khó khăn trong việc quản lý chất

lượng nguồn giống.

+ Thị trường và chế biến Quế tại Lào Cai

Hiện tại giá bán vỏ Quế khô từ 55 – 60.000 đồng/kg, Quế khô vụn từ

35 – 40.000 đồng/kg, cành lá đạt 1.700 đồng/kg, gỗ Quế bán với giá từ 1,1

triệu đồng đến 1,2 triệu đồng/m3. Theo Báo cáo số 320/BC-SNN, người

trồng Quế đang có nguồn thu ổn định từ 500-550 triệu đồng/ha theo chu kỳ

kinh doanh từ 15-20 năm. Lào Cai hiện có 06 nhà máy chưng cất tinh dầu

Quế với công suất dao động từ 4.000-36.000 tấn nguyên liệu/năm, sản phẩm

tinh dầu theo công suất từ 36-250 tấn tinh dầu/năm. Ngoài ra, còn có hơn 20

cơ sở chiết xuất tinh dầu quy mô nhỏ nằm rải rác ở các địa phương.

42

Nhằm gắn rừng sản xuất với chế biến và tiêu thụ, trong thời gian từ

năm 2020-2025 Lào Cai sẽ xây dựng thêm một nhà máy chế biến tinh dầu

Quế tại huyện Văn Bàn. Riêng giai đoạn 2015-2020, tỉnh dự kiến xây dựng

bốn cơ sở sản xuất sản phẩm mỹ nghệ từ gỗ Quế tại xã Bảo Hà (Bảo Yên), xã

Sơn Hà, Xuân Giao (Bảo Thắng) và xã Nậm Đét (Bắc Hà). Định hướng đến

năm 2025, tỉnh xây dựng bổ sung một cơ sở sản xuất mỹ nghệ từ gỗ Quế tại

huyện Văn Bàn.

3.2. Chọn cây Quế trội sinh trưởng nhanh và hàm lượng tinh dầu cao

Quế là loài cây cho sản phẩm chủ yếu dưới dạng vỏ và từ vỏ chưng cất

tinh dầu. Vì vậy, cây càng to, cao thì lượng vỏ càng nhiều. Mặt khác khi

chưng cất tinh dầu Quế thì ngoài hàm lượng tinh dầu còn phải chú ý đến chất

lượng tinh dầu mà 2 thành phần chủ yếu là cinnamaldehyd và cinnamyl

acetat. Đây là 2 hợp chất chính quyết định chất lượng và giá cả khi mua bán

tinh dầu trên thị trường. Nhưng qua kết quả nghiên cứu của một số tác giả như

(Nguyễn Huy Sơn, 2005) thì chất lượng tinh dầu Quế ở các lâm phần cùng

tuổi và ở cùng 1 khu vực sai khác nhau không nhiều. Nên vì vậy khi chọn

giống Quế không những phải quan tâm đến các chỉ tiêu sinh trưởng như

đường kính, chiều cao, độ dày vỏ mà còn phải chú ý đến hàm lượng tinh dầu.

Chọn cây Quế trội theo sinh trưởng ở Bảo Yên Lào Cai

Cây Quế trội được chọn ở rừng trồng tại huyện Bảo Yên đã tiến hành

điều tra và chọn được 50 cây trội theo các chỉ tiêu sinh trưởng và diện tích vỏ.

Số liệu sinh trưởng của cây trội được trình bày tại bảng 3.1.

43

Bảng 3.1. Sinh trưởng của cây Quế trội tại Bảo Yên, Lào Cai

Hvn

Hdc

Độ

Độ dày

Hàm

HL

D1.3

KH

Hvn

cây

Hdc

cây

dày

vỏ

lượng

tinh

cây

D1.3

TT

cây

XQ

(cm)

XQ

(m)

(m)

XQ

vỏ

cây XQ

tinh

dầu

trội

(m)

(cm)

(m)

(cm)

(cm)

dầu

cây XQ

1 BY1

19,1

15,2

11,6

10,2

0,47 0,40

4,21

3,82

7,2

6,5

2 BY2

17,5

14,1

11,5

9,9

0,40 0,35

5,13

4,56

7,5

6,7

3 BY3

22,3

17,7

12,5

11,1

0,42 0,36

5,52

4,83

9,4

8,4

4 BY4

21,6

17,2

12,2

10,8

0,48 0,42

5,18

4,73

9,5

8,5

5 BY5

20,7

16,5

12,2

11,0

0,54 0,47

5,25

4,5

9,2

8,2

6 BY6

19,7

15,9

11,3

10,3

0,44 0,38

6,05

5,16

9,2

8,1

7 BY7

19,1

15,8

12,2

10,8

0,68 0,60

5,64

5,01

9,8

8,8

8 BY8

16,2

13,5

11,7

10,6

0,34 0,30

5,23

4,57

7,6

6,8

9 BY9

17,2

14,1

11,5

10,4

0,44 0,38

4,12

3,56

8,3

7,6

10 BY10 19,7

15,8

12,6

11,3

0,41 0,36

4,55

4,05

8,7

7,9

11 BY11 21,5

17,5

11,4

10,4

0,46 0,39

4,11

3,65

8,8

8,0

12 BY12 20,1

17,0

11,9

10,7

0,51 0,43

5,16

4,75

8,2

7,3

13 BY13 19,7

15,8

12,8

11,7

0,50 0,44

6,21

5,58

8,3

7,2

14 BY14 19,6

16,5

13,5

12,3

0,65 0,57

5,89

5,14

9,5

8,4

15 BY15 21,7

17,6

12,6

11,6

0,60 0,53

5,19

4,55

8,8

7,8

16 BY16 22,3

18,2

13,2

11,8

0,50 0,42

6,35

5,58

8,6

7,5

17 BY17 16,9

15,1

13,5

12,1

0,47 0,40

4,62

4,11

8,5

7,5

18 BY18 22,0

17,8

13,7

12,2

0,56 0,48

4,89

4,18

8,7

7,7

19 BY19 23,2

19,3

14,2

12,8

0,57 0,50

4,65

4,04

9,5

8,6

20 BY20 15,9

13,1

11,7

10,6

0,53 0,45

4,85

4,08

7,4

6,7

21 BY21 24,2

20,2

12,7

11,2

0,61 0,52

4,82

4,21

9,2

8,2

22 BY22 23,6

19,2

12,5

11,1

0,53 0,45

5,23

4,46

9,3

8,5

23 BY23 21,6

17,3

12,0

10,8

0,46 0,39

4,45

4,01

9,2

8,3

24 BY24 21,0

17,1

12,4

10,9

0,54 0,47

4,12

3,58

9,6

8,5

25 BY25 22,0

18,3

12,3

11,2

0,45 0,38

4,61

4,03

9,4

8,3

44

Hvn

Hdc

Độ

Độ dày

Hàm

HL

D1.3

KH

Hvn

cây

Hdc

cây

dày

vỏ

lượng

tinh

cây

D1.3

TT

cây

XQ

(cm)

XQ

(m)

(m)

XQ

vỏ

cây XQ

tinh

dầu

trội

(m)

(cm)

(m)

(cm)

(cm)

dầu

cây XQ

26 BY26 22,5

19,0

12,6

10,9

0,56 0,48

4,02

3,50

8,2

9,2

27 BY27 19,7

16,1

11,5

10,2

0,48 0,42

4,60

3,95

8,1

9,0

28 BY28 24,2

20,6

11,5

10,3

0,60 0,51

4,26

3,71

6,2

7,0

29 BY29 26,4

21,4

11,4

10,1

0,63 0,53

4,65

4,11

6,6

7,5

30 BY30 22,8

19,2

12,3

11,2

0,60 0,51

4,28

3,80

7,2

8,0

31 BY31 20,3

17,2

11,5

10,3

0,55 0,48

4,65

4,11

6,8

7,5

32 BY32 24,5

20,1

12,4

10,8

0,56 0,48

4,77

4,06

7,5

8,5

33 BY33 21,4

17,8

10,3

9,3

0,47 0,40

4,45

3,88

6,6

7,4

34 BY34 19,2

15,8

10,2

9,1

0,52 0,45

5,52

4,82

6,5

7,2

35 BY35 23,6

18,9

12,0

10,4

0,55 0,47

4,55

4,13

8,4

9,3

36 BY36 22,7

18,4

12,8

11,5

0,58 0,50

4,72

4,07

8,1

9,1

37 BY37 24,6

20,1

12,5

11,1

0,53 0,47

4,52

4,04

7,5

8,3

38 BY38 19,4

16,2

11,5

10,2

0,41 0,36

4,78

4,12

6,8

7,5

39 BY39 20,8

16,8

11,7

10,5

0,50 0,43

4,57

3,88

6,7

7,6

40 BY40 23,4

19,6

12,6

11,3

0,57 0,49

6,15

5,15

7,5

8,5

41 BY41 22,7

18,6

12,5

11,0

0,51 0,43

4,34

3,76

8,4

9,4

42 BY42 18,8

15,2

11,4

10,3

0,46 0,40

4,45

3,85

6,7

7,5

43 BY43 20,5

17,1

10,5

9,5

0,52 0,45

4,58

4,05

6,5

7,2

44 BY44 24,5

20,2

11,0

9,7

0,45 0,38

4,54

3,84

6,6

7,2

45 BY45 22,2

18,4

12,7

11,3

0,56 0,49

5,02

4,35

7,8

8,6

46 BY46 19,6

16,0

11,5

10,1

0,51 0,44

4,66

4,08

6,2

7,0

47 BY47 19,1

15,3

11,7

10,4

0,43 0,37

4,04

3,54

7,0

7,8

48 BY48 21,0

17,1

12,6

11,3

0,58 0,49

4,32

3,70

7,3

8,3

49 BY49 24,2

20,3

12,9

11,6

0,52 0,45

4,46

3,92

8,5

9,5

50 BY50 23,7

19,2

11,5

10,2

0,46 0,39

4,51

3,79

7,6

8,4

45

Trong số 50 cây trội dự tuyển sau khi tính toán các trị số trung bình

trong quần thể, kết quả ghi ở bảng 3.1 cho thấy các cây trội đều có các chỉ

tiêu sinh trưởng vượt so với cây trong quần thể từ 18,2 % đến 26,0% về D1.3;

từ 8,6 đến 15,6% về Hvn, chiều cao dưới cành 9,1 – 15,3, về độ dầy vỏ 12,8 –

19% và hàm lượng tinh dầu trong vỏ tăng 8,6 - 19,4%. Đó là 5 chỉ tiêu có

liên quan đến năng suất của Quế.

Hình 3.6: Chọn cây Quế trội tại Bảo Yên Lào Cai

3.3. Nghiên cứu mật độ trồng và bón phân

- Kết quả nghiên cứu về mật độ ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây: Mật

độ trồng được thực hiện trên quy mô 1 ha với 5 công thức:

CT1: Mật độ 1666 cây/ha (cự ly 3x2m); CT2: Mật độ 2000 cây/ha (cự

ly 2,5x2m); CT3: Mật độ 3.300 cây/ha (cự ly 1,5x2m); CT4: Mật độ 4000

cây/ha (cự ly 1,25x2m); CT5: Mật độ 5000 cây/ha (cự ly 1 x2m), CT6: Mật

độ 10.000 cây/ha (cự ly 1 x1m), mỗi công thức 3 lần lặp. Kết quả ảnh hưởng

của mật độ đến sinh trưởng của Quế được trình bày trong bảng 3.2:

46

Bảng 3.2: Ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng của Quế

ở giai đoạn rừng trồng

2 tuổi 5 tuổi 10 tuổi Stt Do (cm) Hvn (m) D1.3 (cm) Hvn (m) D1.3(cm) Hvn (m)

0,69 1,32 8,2 5,5 16,7 6,5 CT1

0,67 1,40 7,8 5,7 15,4 6,9 CT2

0,64 1,47 7,3 6,3 14,5 7,4 CT3

0,60 1,51 6,9 6,7 13,1 7,9 CT4

0,58 1,55 6,5 7,0 12,6 8,5 CT5

0,56 1,61 6,1 7,3 11,4 9,3 CT6

Kết quả ở bảng 3.2 đã xử lý thống kê cho thấy đường kính và chiều cao

của Quế ở giai đoạn 2 năm tuổi không có sự sai khác nhau nhiều do việc mới

được trồng trong một thời gian ngắn nên cần phải tiếp tục theo dõi và đánh

giá. Đường kính gốc (Do) trung bình cao nhất ở CT1 đạt 0,69 cm, thấp nhất ở

CT6 đạt 0,56 cm. Mặt khác, chiều cao (Hvn) trung bình cao nhất ở CT6 đạt

1,61 m và thấp nhất là CT1 đạt 1,32m. Ở giai đoạn cây 5 tuổi theo phân tích

thống kê đã có sự khác biệt về đường kính và chiều cao, đường kính (D1.3)

trung bình cao nhất ở CT3 đạt 14,5 cm và chiều cao đạt 7,4 m từ giai đoạn

cây 10 tuổi đường kính D1.3 tăng rõ rệt ở công thức 1 (mật độ 2000 cây/ha)

đường kính 14,5 cm và chiều cao vút ngọn 7,4.

47

Hình 3.7: Quế ở giai đoạn rừng trồng 5 tuổi

- Kết quả nghiên cứu về mức độ bón phân đến sinh trưởng của cây

Ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng của Quế ở giai đoạn rừng

trồng được thực hiện với 5 công thức: Công thức 1 (CT1: bón 100g NPK),

công thức 2 (CT2: bón 200g NPK), công thức 3 (CT3: bón 300g NPK), công

thức 4 (CT4: bón 200g chế phẩm vi sinh MF1), công thức 5 (CT5: không

bón) kết quả được trình bày ở bảng 3.3

Bảng 3.3: Ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng của Quế ở giai đoạn

rừng trồng

6 tháng tuổi 12 tháng tuổi 18 tháng tuổi TT Do (cm) Hvn (m) Do (cm) Hvn (m) Do (cm) Hvn (m)

CT1 0,23 0,51 0,33 0,86 0,44 1,15

CT2 0,25 0,55 0,36 0,93 0,47 1,19

CT3 0,23 0.52 0,39 1,03 0,51 1.26

CT4 0,27 0,59 0,39 0,95 0,55 1,33

CT5 0,21 0,57 0,30 0,71 0,40 0,98

48

Số liệu ở bảng 3.3 cho thấy, ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng

của Quế chưa có sự sai khác nhiều ở giai đoạn rừng trồng 6 tháng tuổi do khi

cây còn nhỏ nhu cầu dinh dưỡng ít nên ảnh hưởng của chiều cao và đường

kính chưa sai khác lớn. Tuy nhiên ở giai đoạn cây 12 tháng tuổi có sự khác

biệt tương đối rõ ở các công thức phân bón, đối với các công thức bón phân

NPK đều có mức sinh trưởng cao hơn so với đối chứng, công thức 4 (bón

200g chế phẩm/cây) có mức sinh trưởng lớn nhất so với đối chứng, trung bình

đường kính gốc (Do) đạt 0,55cm và Hvn đạt 1,33m ở giai đoạn cây 18 tháng tuổi.

3.4. Điều tra sâu bệnh hại và đề xuất biện pháp phòng trừ

Tiến hành điều tra thành phần sâu, bệnh hại Quế, thu mẫu và phân cấp

hại từ đó xác định được thành phần loài tại huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai được

trình bày ở Bảng 3.4:

Bảng 3.4: Danh mục thành phần loài sâu, bệnh hại Quế

TT

SÂU HẠI

TÊN KHOA HỌC

I

Bộ cánh cứng Họ Vòi voi Câu cấu lớn

squamosus

BỘ PHẬN BỊ HẠI Lá

Thân Thân Thân

II

III

Vòi voi xám Họ Mọt đầu dài Mọt đuôi 2 gai Mọt sáu gai Bộ Cánh vẩy Họ Sâu kèn Sâu túi Sâu kèn bó củi 1 Bộ Cánh bằng Họ Mối

Lá Lá, cành

makhamensis

Mối đất 1

Thân, rễ

pakistanicus

Mối đất 2

Thân, rễ

Coleoptera Curculionidae Hypomeces Fabricius Shirahoshizo rufescens (Voss Bostrychidae Sinoxylon anale Lesne Xylothrips flavipes Illiger Lepidoptera Psychidae Pteroma plagiophleps Hampson Clania minuscula Butler Isoptera Termitidae Hypotermes Ahmad Microtermes Ahmad

49

B

BỆNH HẠI

TÊN KHOA HỌC

BỘ PHẬN BỊ HẠI

I II

III

Bộ Họ Bệnh thán thư hại lá Bộ Họ Bệnh thối rễ Bệnh thối rễ Bộ Họ Bệnh phấn trắng

Phyllachorales Phyllachoraceae Collectotrichum gloeosporioides Lá Pythiales Pythiaceae Pythium veans de Bary. Phytophthora sp. Erysiphales Erysiphaceae Oidium sp.

Rễ Rễ Lá

Từ kết quả điều tra ở bảng trên cho thấy thành phần loài sâu hại Quế ở

Bảo Yên Lào Cai gồm lớp côn trùng có 3 bộ (bộ cánh cứng; bộ cánh vẩy và

bộ cánh bằng). Thành phần loài bệnh hại Quế gồm 3 loại bệnh hại chính:

Bệnh thán thư hại lá do nấm Collectotrichum gloeosporioides thuộc họ

Phyllachoraceae, bộ Phyllachorales. Bệnh hại rễ do nấm Phytophthora sp và

nấm Pythium veans de Bary và bệnh phấn trắng do nấm Oidium sp. thuộc họ

Erysiphaceae, bộ Erysiphales.

- Đề xuất biện pháp phòng trừ

Đối với Quế bị bệnh hại rễ là chính nên áp dụng biện pháp phòng trừ

tổng hợp như: Loại bỏ những cây bị bệnh nặng hoặc đã chết đưa ra khỏi vườn

ươm hoặc rừng trồng để tránh nguồn bệnh lây lan. Có thể dùng thuốc hóa học

Ridomin 72WP nồng độ 1%; Agrifos 400 nồng độ 1% theo hướng dẫn để

phòng trừ. Ngoài ra, có thể dùng chế phẩm sinh học Trichoderma sp để sử

dụng cho cây con trong giai đoạn vườn ươm và rừng trồng.

3.5. Đề xuất biện pháp kỹ thuật gây trồng phù hợp

Tạo cây con có bầu

- Ruột bầu nên chọn đất tầng mặt với hỗn hợp ruột bầu theo tỷ lệ tính

theo trọng lượng bầu: 95% đất + 4 % phân chuồng đã ủ hoai và sàng nhỏ +1%

phân NPK (5-10-3).

50

Vỏ bầu có kích thước 6 cm x 13cm cho cây con 1 năm tuổi và 9 cm x

18cm cho cây con 2 năm tuổi (hiện nay thường trồng cây < 1 năm tuổi).

Xử lý hạt

Rửa sạch hạt, loại bỏ hạt thối, hạt lép; ngâm hạt bằng nước ấm 30oC

trong 3 giờ, vớt ra để ráo nước; ngâm tiếp vào thuốc tím nồng độ 0,01% trong

15 phút hoặc dung dịch Boóc đô nồng độ 1% trong 3-4 phút.

Hong hạt cho ráo nước rồi đem gieo; gieo hạt bằng cách rải hạt đều trên

mặt luống với số lượng 3kg hạt/m2, dùng cát mịn phủ kín hạt (0,3 cm - 0,5

cm); thường xuyên tưới phun đủ ẩm cho luống gieo đến khi hạt nẩy mầm dài l

cm đem cấy vào bầu.

Cấy hạt mầm

Có thể áp dụng gieo hạt trực tiếp vào bầu; hạt sau khi xử lý được ủ

trong bao vải mỗi ngày rửa 1 đến 2 lần; khi hạt nứt nanh thì gieo vào mỗi bầu

1 hạt, cụ thể: Tưới nước cho luống bầu đủ ẩm trước khi cấy hạt từ 1 đến 2

giờ; độ sâu cấy hạt từ 0,5 cm – l cm, chú ý đặt phần chóp mầm của hạt xuống

phía dưới; lấp hạt mầm bằng đất mịn dày 0,3 cm - 0,5 cm.

Che mặt luống bằng rơm rạ hoặc cỏ tranh đã phơi khô, tẩy trùng bằng

thuốc tím 0,05%.

Tưới nước thường xuyên để giữ ẩm cho luống bầu; khi hình thành cây

mầm trên mặt bầu thì dỡ bỏ vật liệu che phủ.

Che sáng

- Từ 1 đến 3 tháng đầu che sáng 70% - 80%.

- Từ 4 đến 6 tháng tuổi che sáng 40% - 50%.

- Từ tháng thứ 7 cần dỡ bỏ giàn che dần cho đến trước khi đem cây con

đi trồng 1 tháng phải dỡ bỏ hết giàn che.

Tưới nước, làm cỏ, bón thúc, đảo bầu

Trong khoảng 15 ngày đầu sau khi cấy hạt mầm phải tưới nước đều đặn

và luôn giữ ẩm cho luống cây, lượng nước tưới từ 3 đến 4 lít/m2 sau đó giảm

51

dần. Vào những ngày âm u, có mưa nhiều cần đánh rãnh thoát nước và mở

bớt dàn che.

- Sau 1 tháng tiến hành nhổ cỏ và phá váng trên mặt bầu, đồng thời kết

hợp với việc sửa cho cây mầm đứng thẳng.

- Bón thúc: Nếu cây sinh trưởng chậm cần bón thêm phân NPK nồng

độ 0,5% (tưới 3 đến 4 lít cho l m2).

- Trước khi trồng 1 tháng thì không tiến hành bón thúc và giảm lượng

nước tưới.

- Khi thấy rễ cây ăn ra ngoài bầu tiến hành đảo bầu và cắt rễ ngoài bầu,

cùng với việc đảo bầu là phân loại cây con. Cây có cùng chiều cao và mức độ

sinh trưởng thì xếp riêng vào một khu vực. Những cây sinh trưởng kém, còi

cọc thì xếp riêng để có biện pháp chăm sóc kỹ hơn.

- Trước khi đem cây con đi trồng từ 2 - 3 tháng phải đảo bầu cắt đứt các

rễ cây ăn sâu xuống đất và giãn mật độ của bầu cho cây phát triển cân đối.

Phòng trừ sâu bệnh hại

- Sâu xám phá mầm hạt, cắn chết cây, có thể dùng các loại bả độc để

tiêu diệt. - Bệnh đốm lá và khô lá thường xuất hiện ở các tháng khô, nóng, có thể

phòng trừ bằng các loại thuốc diệt nấm thông thường.

- Bệnh nấm gây hại rễ, xuất hiện vào thời kỳ cây con 2 đến 5 tháng

tuổi, dùng Boóc đô nồng độ 1% hoặc Benlat nồng độ 0,05% phun 0,5 lít/m2

theo định kỳ 15 ngày 1 lần, hoặc thuốc Ridomil Gold 68WG....

- Bệnh tua mực, trong điều kiện hiện nay tốt nhất là nhổ và đốt các cây

bị bệnh để tránh lây lan.

Tiêu chuẩn cây con đem trồng

- Nếu trồng rừng tập trung:

+ Tuổi cây: 10 đến 12 tháng

+ Chiều cao cây: 20 cm - 30 cm

+ Đường kính cổ rễ: 0,3 cm - 0,4 cm

52

+ Cây sinh trưởng tốt không bị sâu bệnh và đã được mở dàn che.

Nếu trồng phân tán trong các vườn hộ gia đình, chọn cây sau 18 đến 24

tháng tuổi, tiêu chuẩn cần đạt được như sau:

+ Chiều cao cây: 50 cm - 60 cm

+ Đường kính cổ rễ: 0,6 cm - 0,8 cm

+ Cây sinh trưởng tốt, không sâu bệnh.

Trạng thái thực bì

Trạng thái thực bì thích hợp cho trồng Quế là các dạng rừng thứ sinh

nghèo kiệt, rừng phục hồi, rừng nứa hoặc cây bụi có cây gỗ rải rác, nương rẫy

mới. Không trồng Quế nơi đất đồi núi trọc, nơi chỉ còn thảm cỏ cây bụi chịu

hạn, cỏ tranh xấu, nơi không còn hoàn cảnh rừng.

Trồng rừng

Thời vụ trồng

- Mùa xuân là mùa trồng chính: Từ tháng 1 đến tháng 3.

- Mùa thu: Vào các tháng 8 và tháng 9.

Phương thức trồng và mật độ trồng

Trồng tập trung

Xử lý thực bì:

+ Với đối tượng thực bì chủ yếu là rừng nghèo kiệt không còn giá trị

kinh tế, rừng mới phục hồi sau nương rẫy, thảm cây bụi có cây gỗ rải rác, độ

tàn che 0,3-0,4, công tác xử lý thực bì: Phát luỗng toàn diện dây leo, cỏ dại,

tre nứa.

+ Đối với rừng thứ sinh, rừng phục hồi xử lý thực bì chừa lại cây tái

sinh trên nguyên tắc phải để độ tàn che ban đầu cho Quế là 0,3-0,4. Cây chặt

phải chặt sát gốc, băm nhỏ cành nhánh xếp gọn theo đường đồng mức.

- Sau 2 đến 4 năm chặt dần các cây gỗ tái sinh kém giá trị.

- Xử lý thực bì: Phát dọn toàn diện dây leo, cỏ dại.

53

Trồng Quế kết hợp với cây ăn quả trong các vườn rừng

Quế xen với cây ăn quả theo hàng cách nhau 5m, cây cách cây từ 3m -

4m tuỳ thuộc vào từng loài cây ăn quả; với phương thức này nên trồng bằng

cây con 2 tuổi.

Xử lý thực bì: Phát dọn toàn diện dây leo, cỏ dại.

Trồng phân tán

Theo nghị định 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ quy

định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Lâm nghiệp: “Cây rừng trên các

diện tích tập trung dưới 0,3 ha, hoặc khoảng cách giữa các giải rừng trên 30

m, diện tích các khoảng trống trên 30% diện tích”.

Tùy thực tế hiện trạng diện tích trồng phân tán, áp dụng 3 phương thức

trồng tập trung nêu trên, đảm bảo khi trồng Quế, nơi trồng được xử lý thực bì

độ tàn che cho Quế mới trồng từ 0,3-0,4 trong thời gian 2 năm đầu.

Làm đất, đào hố, bón phân, lấp hố

- Cuốc lật hoặc xới đất rẫy cỏ cục bộ l m2 xung quanh vị trí đào hố,

nhặt sạch rễ cây lớn (trên 2cm).

- Đào hố kích thước 40cm x 40cm x 40cm, khi đào chú ý để riêng lớp

đất mặt bên phía trên dốc, chặt đứt toàn bộ rễ cây có trong lòng hố, hoàn

thành việc đào hố trước khi trồng 1 tháng.

- Bón thúc 1-2 kg phân chuồng hoai/hố hoặc 0,1-0,3 kg NPK

(5:10:3)/hố trước khi lấp hố.

- Lấp hố trước khi trồng 15 ngày, lấp toàn bộ lớp đất mặt đã nhặt hết rễ

cây, đất đá xuống hố, hố lấp xong phải cao hơn mặt đất tự nhiên 2 cm - 3 cm.

Kỹ thuật trồng cây con có bầu

- Dùng cuốc hoặc bay khơi rộng lòng hố vừa đủ đặt bầu cây, có chiều

sâu cao hơn chiều cao của túi bầu 1 cm - 2 cm.

- Rạch bỏ vỏ bầu (nếu vỏ bầu bằng nylon), đặt bầu cây ngay ngắn trong

lòng hố, lấp đất và lèn chặt, vun đất quanh gốc cây cao hơn mặt đất tự nhiên 5

54

cm - 10 cm.

Trồng dặm

Sau trồng 2 tháng, kiểm tra thống kê cây chết và tiến hành trồng dặm

cây đã chết, kỹ thuật trồng như trồng chính.

Chăm sóc và bảo vệ rừng

Chăm sóc rừng mới trồng

- Nếu trồng theo phương thức nông lâm kết hợp thì khi chăm sóc cho

cây nông nghiệp cũng là chăm sóc cho Quế. Phải luôn chú ý không để cây

nông nghiệp và cây phù trợ khác cạnh tranh với Quế về ánh sáng và độ ẩm

đất, một năm chăm sóc ít nhất là 2 lần.

- Nếu trồng Quế trong băng, rạch hoặc dưới tán cây tái sinh tự nhiên thì

cần chăm sóc cho cây theo chế độ sau:

- Từ năm thứ 1 đến năm thứ 3 chăm sóc mỗi năm 2 lần.

- Từ năm thứ 4 cho đến khi khép tán chăm sóc mỗi năm 1 lần.

Nội dung chăm sóc:

+ Phát dọn dây leo và cây cỏ lấn át Quế, giữ ẩm cho gốc cây và phòng

trừ sâu bệnh phá hoại. + Xới xáo xung quanh gốc cây thành 1 vòng tròn có đường kính 0,8 m -

l m cho những lần chăm sóc từ năm thứ nhất đến năm thứ 3.

+ Bón thúc cho cây với 200g phân vi sinh hoặc NPK, bón trong các

rạch vòng tròn cách gốc 0,3 m - 0,4 m, mỗi năm bón 1 lần trong 3 năm đầu.

Từ năm thứ 4 trở đi, nếu có điều kiện thì bón thúc cho Quế hàng năm hoặc 2-

3 năm/lần.

- Trong quá trình chăm sóc từ năm thứ 2 đến năm thứ 3 phải điều chỉnh

giảm dần độ tàn che cho Quế, đến năm thứ 4 cây Quế được phơi ra ánh sáng

hoàn toàn.

Tỉa thưa và nuôi dưỡng rừng khi khép tán

- Tỉa cành: năm thứ 3 đến năm thứ 4 khi rừng mới khép tán, cần xúc tiến

tỉa cành nhân tạo.

55

- Tỉa thưa: tuỳ theo mật độ trồng Quế mà từ năm thứ 4 trở đi, bắt đầu

tỉa thưa, đến năm thứ 5 mật độ còn khoảng 2.000 cây/ha, năm thứ 8 mật độ

còn 1.500 cây/ha, năm thứ 15 còn 800 đến 1.000 cây/ha và từ năm thứ 20 trở

đi còn 500 đến 800 cây/ha (tỉa thưa chú ý loại bỏ cây cong queo, sâu bệnh, tận

thu sản phẩn tỉa thưa như vỏ, lá...).

Bảo vệ rừng Quế

Phòng trừ sâu bệnh

Đối với Quế bị bệnh hại rễ là chính nên áp dụng biện pháp phòng trừ

tổng hợp như: loại bỏ những cây bị bệnh nặng hoặc đã chết đưa ra khỏi vườn

ươm hoặc rừng trồng để tránh nguồn bệnh lây lan. Có thể dùng thuốc hóa học

Ridomin 72WP nồng độ 1%; Agrifos 400 nồng độ 1% theo hướng dẫn để

phòng trừ. Ngoài ra có thể dùng chế phẩm sinh học Trichoderma sp để sử

dụng cho cây con trong giai đoạn vườn ươm và rừng trồng.

Phòng chống cháy rừng và tác hại khác

- Triệt để phòng chống cháy rừng, những nơi dễ gây hoả hoạn phải có

đường băng cản lửa, không được đun nấu hoặc đốt ong trong rừng Quế.

- Không được để người và súc vật vào phá hoại rừng trồng, phải có

bảng nội quy bảo vệ rừng bên ngoài mỗi khu vực rừng trồng Quế.

Khai thác, sơ chế và bảo quản vỏ Quế

- Khai thác

Mùa vụ khai thác

Mùa xuân: Tháng 2 đến tháng 3

Mùa thu: Từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 9

Phương thức khai thác

Khai thác trắng

Sau khi trồng 15-20 năm thì bắt đầu khai thác, trước khai thác 3-4 ngày,

cắt khoanh một đoạn vỏ ở gần gốc cây làm cho nước và dinh dưỡng không đi

lên trên được, để vỏ Quế bong khỏi thân cây, quá trình bóc vỏ sẽ dễ dàng.

56

Nếu thân cây quá lớn, để thêm hai tuần nữa cho vỏ bong khỏi thân.

Cách bóc vỏ: lấy dao chuyên dùng để bóc vỏ Quế, cắt một vòng vỏ

ngang thân cây ở vị trí cách mặt đất 50-60 cm, sau đó lại cắt một vòng phía

trên cách vòng dưới 40 cm, giữa hai vòng cắt một đường thẳng dọc từ trên

xuống, dùng dao tách nhẹ để vỏ bong ra, tiếp tục cắt vòng vỏ lên phía trên cho

đến hết.

Sau khi thu hoạch vỏ Quế (bóc vỏ) lần 1, cần tăng cường chăm sóc để

gốc cây đâm chồi và sinh trưởng nhanh, sau 10-15 năm có thể thu hoạch lần

thứ 2.

Cây Quế cho thu hoạch tới 70-80 năm, đến khi sinh trưởng kém thì đào

bỏ gốc cũ già cỗi, trồng rừng Quế mới.

Khai thác chọn

Sau khi trồng 5 năm có thể thu hoạch lá, vỏ cây bằng cách tỉa thưa, loại

bỏ những cây xấu, cong queo hoặc cây bị bệnh. Từ 3-5 năm sau thì tỉa thưa

lần hai, 3-5 năm sau nữa khai thác.

- Sơ chế và bảo quản

Vỏ Quế tươi thu về, đem phơi nắng cho đến khô

Vỏ Quế mới khai thác về đem phơi nắng cho khô bớt rồi bó thành bó

20- 25kg để đem sấy. Lò sấy thiết kế to nhỏ tuỳ quy mô sản xuất của hộ. Kỹ

thuật sấy Quế, trải một lóp cám gạo xuống dưới đáy lò, phun nước chè vào hai

đầu bó vỏ, xếp các bó chồng khít, ép chặt lên nhau, trên cùng trải một lớp cám

rồi phủ bao tải lên trên cùng để không cho Quế bốc hơi ra khi sấy. Cứ ủ như

vậy trong quá trình sấy, sau 21 ngày thì bốc dỡ Quế ra khỏi lò, sấy ở nhiệt độ

70-750C.

Sau khi phơi khô hoặc sấy khô, xếp vỏ Quế ngay ngắn trong thùng hay

bó trong các túi nilon, bảo quản ở nơi khô ráo, thoáng mát và tránh để ánh

nắng chiếu trực tiếp, không để vỏ Quế bị gãy vỡ sẽ làm giảm chất lượng Quế.

57

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Kết luận

- Luận văn chọn được 50 cây Quế trội dự tuyển sau khi tính toán các trị

số trung bình trong quần thể. Kết quả ghi ở bảng 3.1 cho thấy các cây trội đều

có các chỉ tiêu sinh trưởng vượt so với cây trong quần thể từ 18,2 % đến

26,0% về D1.3; từ 8,6 đến 15,6% về Hvn, chiều cao dưới cành 9,1 - 15,3; độ

dầy vỏ 12,8 – 19% và hàm lượng tinh dầu trong vỏ tăng 8,6 - 19,4%.

- Mật độ 2000 cây/ha (cự ly 2,5x2m) hoặc 3.300 cây/ha (cự ly 1,5x2m)

cho năng suất và hiệu quả tốt nhất.

- Bón 300g NPK hoặc 200g chế phẩm vi sinh MF1cây Quế sinh trưởng

và phát triển tốt.

- Thành phần loài sâu hại Quế ở huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai gồm lớp

côn trùng có 3 bộ (bộ cánh cứng; bộ cánh vẩy và bộ cánh bằng). Thành phần

loài bệnh hại Quế gồm 3 loại bệnh hại chính: Bệnh thán thư hại lá do nấm

Collectotrichum gloeosporioides thuộc họ Phyllachoraceae, bộ

Phyllachorales. Bệnh hại rễ do nấm Phytophthora sp và nấm Pythium veans de

Bary. Bệnh phấn trắng do nấm Oidium sp thuộc họ Erysiphaceae, bộ

Erysiphales.

- Đối với Quế bị bệnh hại rễ là chính nên áp dụng biện pháp phòng trừ

tổng hợp loại bỏ những cây bị bệnh nặng hoặc đã chết đưa ra khỏi vườn ươm

hoặc rừng trồng để tránh nguồn bệnh lây lan. Có thể dùng thuốc hóa học

Ridomin 72WP nồng độ 1%; Agrifos 400 nồng độ 1% theo hướng dẫn để

phòng trừ. Ngoài ra, có thể dùng chế phẩm sinh học Trichoderma sp để sử

dụng cho cây con trong giai đoạn vườn ươm và rừng trồng.

2. Tồn tại:

Do thời gian thực hiện luận văn không dài nên hạn chế trong quá trình

theo dõi các thí nghiệm, nghiên cứu.

Một số kết quả nghiên cứu còn mang tính chất kế thừa từ các công trình

58

nghiên cứu của một số tác giả trước.

3. Kiến nghị

Sử dụng các kết quả nghiên cứu vào trong thực tiễn như cây trội, kỹ

thuật gây trồng và phòng trừ sâu, bệnh hại.

59

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2000. Quy phạm kỹ thuật

trồng Quế.

2. Thạch Bích, Hoàng Minh Tuấn. Một vài đặc điểm sinh thái và tăng

trưởng của Quế Thanh Hoá. Lâm nghiệp số 2 - 1975, trang 18.

3. Hoàng Cầu. Phân vùng sinh thái và mở rộng vùng trồng Quế ở nước

ta. Tạp chí Lâm nghiệp số 4 - 1993, trang 12.

4. Hoàng Cẩu, Nguyễn Hữu Phước. Kỹ thuật khai thác sơ chế và bảo

quản vỏ Quế. Bản tin KHKT và KTLN số 6 -1991, trang 9.

5. Trần Cứu. Vấn đề phát triển cây Quế ở huyện Trà Bồng. Lâm nghiệp

số 9 - 1983, trang 35.

6. Nông Đức Cường (2016), phòng bảo vệ thực vật, Chi cục trồng trọt và

Bảo vệ thực vật Lào Cai, bvtvlaocai.vn.

7. Vũ Đại Dương. Ảnh hưởng của môi trường PH đất và phân bón đến

cây Quế giai đoạn vườn ươm. Tạp chí NN&PTNT số 3, 2002, trang 252.

8. Vũ Đại Dương. Ảnh hưởng của mức độ che sáng đối với sinh trưởng

của cây Quế giai đoạn vườn ươm. Tạp chí NN&PTNT số 9, 2001, trang 642.

9. Trần Hữu Dào. Một số ý kiến vể trổng Quế theo hướng tiếp cận với tự

nhiên. Lâm nghiệp số 10-2000, trang 20.

10. Nguyễn Thị Hà (2013), Sâu đo ăn lá Quế và biện pháp phòng trừ,

Chi cục Bảo vệ Thực vật Lào Cai, báo Lào Cai.

11. Trần Lê Hoàng. Kỹ thuật trồng Quế. Thông tin KHKT và KTLN số 3

1985, trang 12.

12. Lê đình Khả, Hoàng Thanh Lộc, Phạm Văn Tuấn. Chọn lọc các cây

mọc nhanh có hình dạng tốt cho vùng Trung Tâm. Kết quả nghiên cứu khoa

học về chọn giống cây rừng. NXB Nông Nghiệp, 1995.

13. Nguyễn Hải Khoát. Quế trên thị trường quốc tế. Lâm nghiệp số 6 – 1981

60

14. Phạm Văn Lầm (1997) Nhận dạng côn trùng đến các bộ qua đặc

điểm của pha trưởng thành, Phương pháp nghiên cứu bảo vệ thực vật, Tập 1,

Phương pháp điều tra cơ bản dịch hại nông nghiệp, Nhà xuất bản Nông

nghiệp, 99 trang.

15. Đỗ Tất Lợi. Tinh dầu Việt Nam. NXB Y Học TP Hồ Chí Minh, 1985.

16. Trần Văn Mão. Sâu bệnh hại Quế và biện pháp phòng trừ. Lâm

nghiệp số 10 – 1989 , trang 34.

17. Đoàn Thanh Nga. Thử nghiệm một số biện pháp giâm hom cho M.

mangium và Quế. Kết quả nghiên cứu khoa học 1991-1995. NXB Nông

Nghiệp 1996.

18. Trần Quang Tấn (2004), Báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu nguyên

nhân chết hàng loạt và đề xuất biện pháp kỹ thuật tổng hợp nhằm góp phần ổn

định năng suất, chất lượng Quế ở Việt Nam.

19. Đặng Vũ T. Thanh, Đặng Đức Quyết, Lê Thị Thanh Thủy, Vũ Duy

Hiện, Nguyễn Thị Văn (2003), Vi Khuẩn Agrobacterium spp. Tác nhân gây

bệnh tua mực trên cây Quế (Cinnamomum cassia), Những vấn đề nghiên cứu

cơ bản trong khoa học sự sống. Báo cáo khoa học hội nghị toàn quốc lần thứ

2, nghiên cứu cơ bản trong sinh học, nông nghiệp, y học, Số 0, tr1008-1011.

20. Phạm Quang Thu (2016), Danh lục sinh vật gây hại trên 17 loài cây

Lâm nghiệp ở Việt Nam, Nhà xuất bản nông nghiệp.

21. Trần Văn Thân, về sản xuất Quế ở Nghĩa Bình hiện nay, Tạp chí

Lâm nghiệp số 3-1984, trang 38.

22. Phạm Văn Tuấn. Cây Quế ở Việt Nam; Giá trị kinh tế và thị trường.

Báo cáo khoa học tại Hội thảo Thị trường lâm sản ngoài gỗ. Tháng 3/2004.

23. Báo Lào Cai điện tử, phát triển cây Quế và “bài toán” quy hoạch

(15/02/2017), www.baolaocai.vn.

61

24. Báo nhân dân điện tử, Sâu đo hại hơn 140 ha Quế ở Lào Cai (Thứ 4

ngày 27/02/2013), www.nhandan.org.vnhttp://caytrongvatnuoi.com/cay-

trong/gioi-thieu-chung-ve-cay-que

Tài liệu tiếng Anh

1. Akhtar Husain, Virmani, O. P., Ashok Sharma, Anup Kumar, Misra,

L. N. (1988). Major Essential Oil-Bearing Plants of India. Central Institute of

Medicinal and Aromatic Plants. 237 pp. Lucknow, India;

2. Amalendu T., Kunjupillai V. and Beera S. (2014), Cricula Trifestrata

(Helfer) (Lepidoptera: Saturniidae). A Silk Producing Wild Insect In India.

Trop. Lepid. Res., 24 (1): 22-29.

3. Cinamomum cassia- Casssia bark. Amanual of Organic Materia

Medica and Pharmacognosy.

http://www.ibiblio.org/herbmed/electic/sayre/cinnamomum-css.html

4. Coppen, J. J. W. (1995). Flavours and fragrances of plant origin. Non

wood Forest Products 1. FAO, pp. 7-17, Rome, Italy;

5. Dang Nhu Quynh, Pham Quang Nam, Nguyen Manh Ha and Pham

Quang Thu (2017), First report of Phytophthora cinnamomi on Cinnamomum

cassia in Vietnam. The 8th Meeting of the International Union of Forestry

Research Organisations IUFRO Working Party 7-02-09 Phytophthora in

Forests and Natural Ecosystems, 18-25 March 2017 Hanoi-Sapa, Vietnam, p.34.

6. D.J Boror, D.M Delong and C.A Triplehorn (1976), An Introduction

to the study of insects, NewYork.

7. Devashayam, S. and Koya, K. M. A. (1993), Additions to the insect

fauna associated with tree spices. Entomon, Vol. 18, No.1-2, pp. 101-102

8. Dharmadasa G. and Jayasinghe, G.G. (2000), A clear wing moth

(Synanthidon spp), A new pest damage in cinnamon cultivations and its

damaging severity in Sri Lanka, Proc. SLAAS, 9lp.

62

9. Flash, M. & Siemonsma, J. S. (1999). Cinnamomum verum J. S.

Presl. In: C. C. de Guzman and J. S. Siemonsma (Editors). Plant Resources of

South-East Asia 13. Spices, pp. 99-104. Bachkuys Publishers, Leiden;

10. J. Ranatunga U.M. Senanayake and R. O. B.Wijesekera (Cinnamon

and Cassia. CRC. PRESS, 2004).