BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
ĐẶNG THỊ HẢI YẾN NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ – KỸ THUẬT TỔNG THỂ
NHẰM PHỤC VỤ CÔNG TÁC CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG
CHO CÁC MỎ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN
VÙNG HÒN GAI – CẨM PHẢ LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT
HÀ NỘI – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
ĐẶNG THỊ HẢI YẾN NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ – KỸ THUẬT TỔNG THỂ
NHẰM PHỤC VỤ CÔNG TÁC CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG
CHO CÁC MỎ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN
VÙNG HÒN GAI – CẨM PHẢ Ngành: Khai thác mỏ Mã số: 62520603
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1: PGS.TS BÙI XUÂN NAM 2: PGS.TS.NGƯT HỒ SĨ GIAO
HÀ NỘI - 2014
i
LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu và được đào tạo nghiên cứu sinh ngành Khai
thác mỏ tại Bộ môn Khai thác lộ thiên, Khoa Mỏ, Trường Đại học Mỏ - Địa chất
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Bùi Xuân Nam, Trường Đại học Mỏ - Địa
chất và PGS.TS.NGƯT. Hồ Sĩ Giao, Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam, tôi
đã trau dồi thêm được các kiến thức chuyên sâu về lý luận và thực tiễn của chuyên
ngành Khai thác mỏ lộ thiên, trong đó có kỹ thuật cải tạo và phục hồi môi trường
các mỏ khai thác than lộ thiên. Đặc biệt, trong quá trình thực hiện luận án, kiến thức
chuyên ngành liên quan đến nội dung nghiên cứu của tôi đã được nâng cao, góp
phần giúp tôi hoàn thành tốt hơn công tác của bản thân tại Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Quảng Ninh.
Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án, NCS luôn
nhận được sự giúp đỡ đầy trách nhiệm và tình cảm của Tiểu ban hướng dẫn, của tập
thể các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp tại Bộ môn Khai thác lộ thiên; sự giúp
đỡ nhiệt tình của nhiều thầy, cô giáo trong Khoa Mỏ và Trường Đại học Mỏ - Địa
chất. Tôi cũng đã nhận được sự tạo điều kiện và giúp đỡ đặc biệt của Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh Quảng Ninh để bản thân được tham gia những công trình nghiên
cứu của địa phương có liên quan đến nội dung luận án và tập trung thời gian hoàn
thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
NCS cũng đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu của các thầy công tác
tại Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam, Hội Kỹ thuật Nổ mìn Việt Nam,
Khoa Địa Lý - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội, Bộ
môn Khai thác lộ thiên - Khoa Mỏ - Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Cục thẩm định
và Đánh giá tác động Môi trường,... và nhiều ý kiến bổ ích của các nhà khoa học,
các chuyên gia về môi trường tại tỉnh Quảng Ninh.
Với tất cả lòng chân thành, NCS xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới những cá
nhân và tập thể trên đã góp phần quan trọng cho sự thành công của luận án. Nhân
dịp này, cho phép NCS gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu Trường Đại
ii
học Mỏ - Địa chất, Ban Chủ nhiệm Khoa Mỏ, Ban Chủ nhiệm Bộ môn Khai thác lộ
thiên... các cơ quan, các nhà khoa học cùng bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Hà Nội, ngày 08 tháng 7 năm 2014
Nghiên cứu sinh
Đặng Thị Hải Yến
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng bản Luận án này là công trình nghiên cứu khoa học, độc
lập của tôi. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận án này là trung thực, chưa hề
được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự tham
khảo cho việc thực hiện Luận án đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 08 tháng 7 năm 2014
Nghiên cứu sinh
Đặng Thị Hải Yến
iv
MỤC LỤC
i LỜI CẢM ƠN
iii LỜI CAM ĐOAN
iv MỤC LỤC
vii KÝ HIỆU VIẾT TẮT
viii DANH MỤC BẢNG
ix DANH MỤC HÌNH, SƠ ĐỒ
1 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án 1
2 2. Mục tiêu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài 3
4. Điểm mới của luận án 3
5. Luận điểm bảo vệ 4
6. Cơ sở tài liệu 4
7. Nơi thực hiện đề tài 5
8. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu 5
9. Cách tiếp cận 6
10. Quy trình nghiên cứu 8
11. Phương pháp nghiên cứu 11
12. Quan điểm nghiên cứu 12
13. Cấu trúc, nội dung của luận án 14
15 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC CẢI TẠO PHỤC HỒI
MÔI TRƯỜNG CHO CÁC MỎ LỘ THIÊN TRÊN THẾ GIỚI VÀ
Ở VIỆT NAM
15 1.1. Tổng quan về công tác CTPHMT cho các mỏ lộ thiên trên thế giới
1.1.1. Khái quát công tác CTPHMT sau khai thác tại một số mỏ lộ thiên ở 15
khu vực ASEAN
1.1.2. Trồng rừng CTPHMT và cải tạo các khu khai thác khoáng sản 16
thành các trung tâm du lịch, giải trí, thể thao
22 1.1.3. CTPHMT khai trường khai thác thành hồ chứa nước:
1.1.4. CTPHMT bãi thải để sử dụng cho nông nghiệp hoặc lâm nghiệp 22
1.1.5. Ổn định các sườn dốc 22
v
1.1.6. Hòa nhập khu vực được hoàn thổ với phong cảnh xung quanh 23
1.1.7. CTPHMT khu mỏ thành trung tâm vui chơi giải trí 24
25 1.2. Tổng quan về công tác CTPHMT tại các mỏ lộ thiên ở Việt Nam
1.2.1. Khái quát về tình hình khai thác khoáng sản ở Việt Nam 25
1.2.2. Hiện trạng công tác CTPHMT sau khai thác ở Việt Nam 28
30 1.3. Đánh giá chung về công tác CTPHMT tại các mỏ lộ thiên trên thế
giới và ở Việt Nam
1.3.1. Công tác CTPHMT cho các mỏ lộ thiên trên thế giới 30
1.3.2. Công tác CTPHMT cho các mỏ lộ thiên ở Việt Nam 32
34 1.4. Kết luận chương
36 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CẢI TẠO PHỤC HỒI
MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC MỎ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN
VÙNG HÒN GAI - CẨM PHẢ
36 2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả
37 2.2. Tài nguyên đất vùng Hòn Gai - Cẩm Phả
39 2.3. Thực trạng khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả
2.3.1. Khái quát hoạt động khai thác than lộ thiên 39
2.3.2. Đánh giá chung về những tác động môi trường chính gây ra 41
do khai thác than lộ thiên tại vùng Hòn Gai - Cẩm Phả
44 2.4. Hiện trạng công tác cải tạo, phục hồi môi trường tại các mỏ khai
thác than lộ thiên tại vùng Hòn Gai - Cẩm Phả
2.4.1. Cơ sở pháp lý và công tác CTPHMT giai đoạn 1993-2008 44
2.4.2. Cơ sở pháp lý và công tác CTPHMT giai đoạn 2008-2013 46
2.4.3. Phương án CTPHMT của các mỏ than lộ thiên được lập theo 48
quy định tại Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg.
2.4.4. Định hướng giải pháp cải tạo và phục hồi môi trường chung của 51
ngành than.
52 2.5. Công tác quản lý CTPHMT cho các mỏ khai thác than lộ
52 thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả 2.5.1. Công tác quản lý cải tạo và phục hồi môi trường của Vinacomin
vi
54 2.5.2. Công tác quản lý nhà nước về cải tạo và phục hồi môi trường
58 2.5.3. Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội và cộng đồng đối với công
tác quản lý tài nguyên và môi trường trong hoạt động khoáng sản
58 2.5.4. Công tác quản lý kỹ thuật cải tạo và phục hồi môi trường
65 2.6. Kết luận chương
68 CHƯƠNG III: NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ TỔNG
THỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI
TRƯỜNG CHO CÁC MỎ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN TẠI
VÙNG HÒN GAI – CẨM PHẢ
68 3.1. Các giải pháp quản lý hành chính
68 3.1.1. Cơ sở thực tiễn định hướng công tác quản lý hành chính
CTPHMT
69 3.1.2. Các giải pháp về tổ chức bộ máy
69 3.1.3. Các giải pháp cơ chế chính sách
71 3.1.4. Các giải pháp về khoa học công nghệ
73 3.1.5. Các giải pháp về tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức công đồng
73 3.2. Giải pháp quản lý kỹ thuật
73 3.2.1. Cơ sở thực tiễn định hướng quản lý kỹ thuật CTPHMT
75 3.2.2. Các giải pháp quản lý kỹ thuật
77 3.3. Giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng đất của khu vực
CTPHMT cho các mỏ khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả
3.3.1. Giải pháp áp dụng hệ số điều chỉnh kinh phí ký quỹ CTPHMT 77
theo vị trí khai thác
3.3.2. Giải pháp nghiệm thu công tác CTPHMT theo các tiêu chí 79
đánh giá kết quả CTPHMT
3.3.3. Giải pháp quản lý bằng một số nội dung quy định cần thiết 82
khác liên quan đến công tác CTPHMT
3.3.4. Giải pháp quản lý CTPHMT cho các mỏ than khai thác than lộ thiên 83
tại vùng trọng điểm.
3.3.5. Giải pháp quản lý môi trường vùng (trong đó có CTPHMT) bằng 85
công cụ ”Đánh giá môi trường tổng hợp”.
3.3.6. Giải pháp phân vùng chức năng sử dụng đất phục vụ công tác 99
vii
quản lý CTPHMT
3.3.7. Dự kiến kết quả mô hình định hướng vùng chức năng 105
CTPHMT phục vụ công tác quản lý CTPHMT cho một số mỏ than
KTLT vùng Hòn Gai
110 3.4. Kết luận chương
116 CHƯƠNG IV: NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP KỸ THUẬT CẢI
TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG CHO CÁC MỎ THAN LỘ
THIÊN VÙNG HÒN GAI – CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH
116 4.1. Định hướng công tác kỹ thuật CTPHMT
118 4.2. Các dạng biến đổi địa hình do KTLT gây ra
4.2.1. Các dạng biến đổi địa hình khai trường mỏ lộ thiên 118
4.2.2. Các dạng bãi thải mỏ lộ thiên 119
122 4.3. Đề xuất các phương án CTPHMT
4.3.1. Phương án cải tạo, phục hồi môi trường đối với khai trường 122
4.3.2. Phương án cải tạo phục hồi môi trường đối với bãi thải đất đá 125
4.3.3. Cải tạo phục hồi môi trường đa mục tiêu 125
4.3.4. CTPHMT bờ mỏ, bãi thải... bằng giải pháp lập lại thảm thực vật 126
129 4.4. Đề xuất các giải pháp kỹ thuật cụ thể cho mỗi mỏ than KTLT lồng
ghép trong quá trình khai thác mỏ
4.4.1. Giải pháp đổ thải trên một số địa hình đặc trưng 129
4.4.2. Giải pháp kỹ thuật cải tạo hình dáng khai trường 132
4.4.3. Giải pháp kỹ thuật cải tạo mặt tầng (thực hiện ngay trong quá 134
trình khai thác tại giai đoạn kết thúc khai thác)
4.4.4. Giải pháp kỹ thuật cải tạo sườn tầng khai thác 135
4.4.5. Giải pháp kỹ thuật cải tạo bãi thải 136
4.4.6. Giải pháp giảm thiểu nguy cơ tai biến sạt lở đất và nguy cơ lũ 139
bùn đá tại vùng khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai – Cẩm Phả
154 4.5. Kết luận chương
156 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
159 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
162 TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
viii
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
BVMT Bảo vệ môi trường
BT Bãi thải
CKBVMT Cam kết bảo vệ môi trường
CTPHMT Cải tạo phục hồi môi trường
Đánh giá môi trường chiến lược ĐMC
Đánh giá môi trường tổng hợp ĐMT
Báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM
Hoạt động khoáng sản HĐKS
Hệ thống khai thác HTKT
Hòn Gai – Cẩm Phả HG-CP
Khu công nghiệp KCN
Khoa học công nghệ KHCN
Khai thác lộ thiên KTLT
Kinh tế - xã hội KT-XH
Máy xúc tay gàu MXTG
Máy xúc thủy lực MXTL
Máy xúc thủy lực gàu ngược MXTLGN
Máy xúc thủy lực gàu thuận MXTLGT
Nghiên cứu khoa học NCKH
Quy chuẩn cho phép QCCP
Quy chuẩn môi trường QCMT
Quy chuẩn Việt Nam QCVN
Tài nguyên thiên nhiên TNTN
Tài nguyên và môi trường TN&MT
Vinacomin Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam
ix
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Sản lượng khai thác một số khoáng sản chủ yếu 27
27 Bảng 1.2: Sản lượng một số khoáng sản chủ yếu giai đoạn 20102020
Bảng 1.3: Kết quả điều tra sát hiện trạng và nhu cầu CTPHMT của một số 29
mỏ khoáng sản kim loại ở Việt Nam
Bảng 2.1: Tài nguyên đất vùng nghiên cứu Hòn Gai - Cẩm Phả 38
Bảng 2.2: Sản lượng than và đất đá bóc vùng Hòn Gai-Cẩm Phả 39
Bảng 2.3: Khối lượng đất đá thải của một số mỏ lộ thiên lớn 40
Bảng 2.4: Dự báo khối lượng đất đá thải vùng Hòn Gai-Cẩm Phả 40
Bảng 3.1: Giá trị hệ số Kv theo vùng, khu vực 78
Bảng 3.2: Quy ước hệ số Ki 82
Bảng 3.3: So sánh ĐMC, ĐTM, CKBVMT và ĐMT 87
Bảng 4.1: So sánh công tác đổ thải theo các phương thức đổ bãi thải 120
Bảng 4.2: Góc nghiêng của bờ mỏ phụ thuộc vào đặc tính đất đá 142
Bảng 4.3: Thông số đổ đường dốc 4m 151
x
DANH MỤC HÌNH, SƠ ĐỒ
Hình 0.1: Quy trình nghiên cứu giải pháp quản lý - kỹ thuật tổng thể phục 10
vụ công tác CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG - CP
Hình 1.1: Trình tự CTPHMT trong khai thác bauxit ở Nabalco 21
Hình 1.2: Minh họa kết quả của một dự án hoàn phục môi trường tại CHLB 23
Đức
Hình 1.3: Khai trường thiếc được CTPHMT với sân golf tại Clearwater 24
Sanctuary Golf Resort
Hình 1.4: Hệ sinh thái phong phú được phục hồi ở Paya Indah 24
Hình 1.5: Minh họa kết quả của một dự án hoàn phục môi trường tại CH 25
Pháp
Hình 2.1: Vị trí vùng Hạ Long và Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh 36
Hình 2.2: Bản đồ đánh giá độ dốc địa hình vùng Hòn Gai - Cẩm Phả 36
Hình 2.3: Vị trí, ranh giới khai thác than tại vùng Hòn Gai - Cẩm Phả 38
Hình 2.4: Phân bố khối lượng đổ thải các khu vực khai thác lộ thiên 41
Hình 2.5: Xói mòn đất đá thải tại bãi thải cũ khu KTLT Bù Lù - mỏ Tân Lập 42
Hình 2.6: Cảnh quan bãi thải Nam Lộ Phong sau 5 năm CTPHMT 48
Hình 2.7: Đập chắn bằng rọ đá bị mất tác dụng do đất đá bị rửa trôi tại bãi 59
thải mức +110 mỏ Tân Lập - Công ty Đông Bắc
Hình 2.8: Mặt cắt đào đắp cải tạo sườn dốc bờ moong 60
Hình 2.9: Công tác nạo vét hàng năm để duy trì hiệu quả của đập chắn đất đá trôi 61
tại bãi thải Nam Đèo Nai
Hình 2.10: CTPHMT bãi thải Đèo Nai (sử dụng Quỹ Môi trường tập trung 62
của Vinacomin và của Công ty than Đèo Nai)
Hình 2.11: Trồng cây CTPHMT trên bãi thải khu vực Khe Sim 63
Hình 3.1: Sơ đồ đề xuất các biện pháp quản lý CTPHMT cho các mỏ khai 85
thác lộ thiên tại vùng trọng điểm
Hình 3.2: Sơ đồ vị trí, ranh giới một số mỏ than KTLT vùng Hòn Gai. 113
Hình 3.3: Sơ đồ phân vùng chức năng sử dụng đất CTPHMT cho một số mỏ 114
than KTLT vùng Hòn Gai (dự kiến)
Hình 3.4: Sơ đồ phối cảnh kết quả CTPHMT của một số mỏ than KTLT 115
xi
vùng Hòn Gai (dự kiến).
Hình 4.1: Sơ đồ địa hình khai thác để lại hố sâu moong khai thác 118
Hình 4.2: Sơ đồ khai thác vỉa kéo dài, kết thúc từng khu vực làm bãi thải 118
trong
Hình 4.3: Sơ đồ địa hình đáy khai trường khi khai thác vỉa kéo dài, kết thúc 118
từng khu vực làm bãi thải trong
Hình 4.4: Sơ đồ khai thác các khai trường liền kề, khai trường kết thúc trước 119
sẽ làm bãi thải cho khai trường kết thúc sau
Hình 4.5: Sơ đồ địa hình đáy các khai trường liền kề, khai trường kết thúc 119
trước sẽ làm bãi thải cho khai trường kết thúc sau
Hình 4.6: Sơ đồ sử dụng bãi thải tạm và bãi thải trong đối với mỏ có nhiều 119
động tụ
Hình 4.7: Giải pháp đổ thải bãi thải trong khi không gian đổ thải là một 130
động tụ kín (là khai trường khai thác lộ thiên đã kết thúc khai thác)
Hình 4.8: Giải pháp đổ thải khi bãi thải cao hơn mép động tụ kín 130
Hình 4.9: Giải pháp đổ thải khi không gian đổ thải là một động tụ hở 131
Hình 4.10: Giải pháp đổ thải bãi thải trong hay bãi thải tạm tại động tụ hở 132
Hình 4.11: Hình dáng khai trường Vỉa 11, 13, 14 cánh Đông mỏ Núi Béo 133
khi kết thúc (theo thiết kế)
Hình 4.12: Hình dáng khai trường Vỉa 11, 13, 14 cánh Đông đề nghị thực 133
hiện tại giai đoạn kết thúc khai thác
Hình 4.13: Hình dáng khai trường Khu II, Bắc Hữu Nghị mỏ Hà Lầm và 134
Vỉa 14 cánh Tây mỏ Núi Béo khi kết thúc (theo thiết kế)
Hình 4.14: Hình dáng khai trường Khu II, Bắc Hữu Nghị mỏ Hà Lầm và 134
Vỉa 14 cánh Tây mỏ Núi Béo cải tạo
Hình 4.15: Hình dáng mặt tầng khai thác khi kết thúc 135
Hình 4.16: Hình dáng mặt tầng đã cải tạo 135
Hình 4.17: Hình dáng sườn tầng khai thác khi kết thúc 136
Hình 4.18: Hình dáng sườn tầng khai thác sau khi cải tạo 136
Hình 4.19: Tầng thải cao 136
Hình 4.20: Tầng thải đã cải tạo bằng giải pháp đổ bổ sung thêm các phân 136
tầng
xii
Hình 4.21: Tầng thải đã cải tạo bằng giải pháp cắt thành các phân tầng 137
Hình 4.22: Đổ thải nhiều lớp tại thung lũng 137
Hình 4.23: Đổ thải 01 lớp tại thung lũng 137
Hình 4.24: Hình dáng bãi thải Chính Bắc theo thiết kế 138
Hình 4.25: Đổ thải bãi thải Chính Bắc sau cải tạo 138
Hình 4.26: Kỹ thuật đổ thải tạo vùng trũng chứa nước cải tạo đất 139
Hình 4.27: Bản đồ nguy cơ lũ bùn đá khu vực Hạ Long - Cẩm Phả 141
Hình 4.28: Sơ đồ mô phỏng công tác thoát nước mặt và nước ngầm 142
Hình 4.29: Nâng cao độ ổn định bờ mỏ bằng neo 143
Hình 4.30: Nâng cao độ ổn định bờ mỏ bằng cọc bê tống cốt thép 144
Hình 4.31: Bảo vệ bờ mỏ bằng tường chắn ở chân mái dốc 144
Hình 4.32: Bóc bỏ toàn bộ phần không ổn định hoặc có nguy cơ trượt lở 145
Hình 4.33: Sơ đồ nạp khoan lỗ khoan nổ (a) và sơ đồ phân bố lỗ khoan 146
biên (b)
Hình 4.34: Lịch trình của các bước hình thành bãi thải đổ thải theo lớp 151
Hình 4.35: Đổ đường dốc lớp 4m 152
Hình 4.36: Sơ đồ quay đảo chiều khi đổ lớp 4 m 152
Hình 4.37: Sơ đồ xác định bờ an toàn cho xe CAT 773E và CAT 773F 153
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Tỉnh Quảng Ninh nằm trong địa bàn động lực của vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ, cùng với Hà Nội và Hải Phòng, Quảng Ninh đóng vai trò là một trong những
tỉnh đầu tàu về phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), tạo ra sức lan tỏa trong quá
trình phát triển của cả vùng. Tầm nhìn chiến lược của tỉnh Quảng Ninh là tạo bước
phát triển đột phá, đưa tỉnh Quảng Ninh trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại
vào năm 2020, giữ vai trò là một trong những đầu tàu kinh tế của miền Bắc, là địa
phương đi đầu trong cả nước đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi phương thức
phát triển từ “Nâu” sang “Xanh”, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, tạo nền tảng
vững chắc để Quảng Ninh phát triển nhảy vọt, toàn diện sau năm 2020.
Trong tỉnh Quảng Ninh, có thành phố Hạ Long và Cẩm Phả có sự phát triển
KT-XH rất sôi động, tốc độ phát triển kinh tế luôn đạt trên 10% trong những năm
gần đây, đặc biệt là phát triển công nghiệp (than, xi măng), cảng biển và du lịch.
Hoạt động khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả (HG-CP) (thuộc
địa bàn thành phố Hạ Long và Cẩm Phả), phát triển ở sườn các dãy núi phía Bắc
đường 18A, trên chiều dài khoảng 50 km, chiều rộng khoảng 15 km. Các mỏ than
đều phân bố ở khu vực có địa hình đồi núi thấp (100÷300m), thuộc phạm vi các lưu
vực nước quan trọng; tiếp giáp khu vực đô thị trọng điểm, tập trung dân cư và các
hệ sinh thái cửa sông, ven biển Bái Tử Long và vịnh Hạ Long (di sản - kỳ quan
thiên nhiên thế giới).
Hiện nay, toàn vùng Hòn Gai đã cơ bản kết thúc khai thác lộ thiên (KTLT),
chuyển mạnh sang khai thác hầm lò; tại vùng Cẩm Phả, hầu hết hoạt động KTLT tại
các lộ vỉa đã kết thúc khai thác và trong giai đoạn tới một số mỏ lớn ở vùng này sẽ
chuyển sang giai đoạn chuẩn bị đóng cửa mỏ.
Việc quản lý cải tạo và phục hồi môi trường (CTPHMT) mới được xác lập rõ
ràng cách đây 5 năm, từ khi Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg, ngày 29 tháng 5 năm
2
2008 của Thủ tướng Chính phủ về ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt
động khai thác khoáng sản than (Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg), công tác quản lý
kỹ thuật CTPHMT hiện nay còn nhiều bất cập.
Lịch sử lâu dài của quá trình KTLT các mỏ than đã để lại và tiếp tục để lại
những hậu quả lâu dài, toàn diện về môi trường ngay cả khi kết thúc khai thác thì
các khai trường và bãi thải của vẫn mỏ tiếp tục là nguồn tiềm ẩn gây ô nhiễm môi
trường và các tai biến môi trường như nguy cơ xói mòn đất, trượt lở, lũ quét, bồi
lắng; môi trường không khí, môi trường đất, môi trường nước tiếp tục bị ô nhiễm
trong thời gian chưa CTPHMT và khi việc CTPHMT chưa đạt hiệu quả về môi
trường cảnh quan, chống xói mòn, trượt lở bền vững và chưa mang lại hiệu quả
kinh tế và duy trì hiệu quả CTPHMT bền vững, thì sẽ làm ảnh hưởng đáng kể đến
đời sống của nhân dân và sự phát triển của các ngành kinh tế khác từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Như vậy, việc nghiên cứu, tìm tòi các giải pháp quản lý - kỹ thuật tổng thể
nhằm phục vụ công tác CTPHMT cho các mỏ khai thác than lộ thiên để phục vụ lợi
ích hiện tại, tương lai cho dân cư vùng mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả nói riêng và toàn
tỉnh Quảng Ninh nói chung là cần thiết và cấp bách.
Đề tài luận án “Nghiên cứu các giải pháp quản lý - kỹ thuật tổng thể nhằm
phục vụ công tác cải tạo và phục hồi môi trường cho các mỏ khai thác than lộ
thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả” là vấn đề khoa học có tính cấp thiết và thực tiễn
cao, là cơ sở để quản lý CTPHMT khai thác than lộ thiên vùng phụ cận phát triển
kinh tế với quỹ đất hạn hẹp cho việc phát triển không gian đô thị, du lịch, phù hợp
với sự phát triển kinh tế đa dạng của địa bàn và môi trường tự nhiên, để tiếp tục
phát huy hiệu quả sử dụng đất sau khai thác mỏ nhằm đáp ứng được các mục tiêu về
CTPHMT đối với các hoạt động khai thác than lộ thiên trong khu vực.
2. Mục tiêu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
2.1. Mục tiêu
3
- CTPHMT và duy trì kết quả CTPHMT bền vững cho mỗi một dạng mỏ
KTLT nhưng vẫn thống nhất trong mỗi cụm mỏ nhằm giảm thiểu tối đa các ảnh
hưởng xấu của hoạt động KTLT trong quá trình khai thác và sau khi dừng khai thác.
- Thực hiện quản lý - kỹ thuật CTPHMT đối với khu vực có các mỏ than tiếp
giáp và lân cận các vùng phát triển kinh tế, đảm bảo việc CTPHMT theo hướng đa
mục tiêu để thuận lợi cho việc sử dụng nguồn tài nguyên đất sau này, nhằm tăng
cường hiệu quả sử dụng đất, tăng quỹ đất sử dụng cho phát triển kinh tế và mang lại
việc làm cho người lao động (khi mỏ dừng khai thác), nhằm tiếp tục phát triển kinh
tế địa phương.
- Sử dụng nguồn tiền ký quỹ và huy động vốn đầu tư hợp lý, phù hợp với khả
năng kinh tế của chủ mỏ hoặc chủ đầu tư của cộng đồng trong và ngoài nước nhằm
từng bước giải quyết ô nhiễm môi trường vùng trọng điểm, cách ly khu vực có hoạt
động khoáng sản than và tạo sự chuyển biến rõ nét về kết quả CTPHMT.
2.2. Ý nghĩa khoa học
- Đưa ra cơ sở khoa học của công cụ quản lý - kỹ thuật phục vụ công tác
CTPHMT cho các mỏ than KTLT;
- Bổ sung cơ sở khoa học trong việc định hướng phân vùng sử dụng hợp lý tài
nguyên đất và bảo vệ môi trường (BVMT) tại các mỏ than KTLT.
2.3. Ý nghĩa thực tiễn
- Góp phần nâng cao hiệu quả công tác CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng
HG-CP;
- Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất của các mỏ than KTLT vùng HG-CP
sau khai thác và nâng cao chất lượng môi trường khu vực.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: các mỏ than KTLT vùng HG-CP, tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu: công tác CTPHMT tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP.
4. Điểm mới của luận án
4
- Lần đầu tiên đề xuất sự cần thiết phải bổ sung “Đánh giá môi trường tổng
hợp” vào khung chính sách về công cụ BVMT; đồng thời xây dựng định hướng, nội
dung, nhiệm vụ và phương pháp thực hiện báo cáo ĐMT nhằm mục tiêu đảm bảo
phát triển bền vững cho các tiểu vùng công nghiệp trọng điểm.
- Lần đầu tiên đề xuất các tiêu chí cụ thể, có tính định lượng vào việc đánh giá
kết quả hoạt động CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP.
- Đề xuất được giải pháp quản lý CTPHMT trên cơ sở định hướng phân vùng
chức năng sử dụng đất CTPHMT sau khai thác mỏ than KTLT nhằm sử dụng hợp
lý tài nguyên đất trong khu vực nghiên cứu.
- Đề xuất được các phương án CTPHMT hợp lý cho từng dạng mỏ than KTLT.
- Đề xuất được giải pháp kỹ thuật lồng ghép hoạt động CTPHMT vào quá trình
khai thác tại các mỏ than lộ thiên vùng HG-CP nhằm đảm bảo các tiêu chí về kỹ
thuật CTPHMT, tiết kiệm thời gian và giảm chi phí vận hành.
5. Luận điểm bảo vệ
- Luận điểm 1: CTPHMT đa mục tiêu cho một số mỏ than KTLT trong cụm
mỏ KTLT vùng HG-CP có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát huy Di sản
thiên nhiên thế giới - Vịnh Hạ Long và Bái Từ Long, đồng thời là động lực để phát
triển KT-XH khu vực.
- Luận điểm 2: Các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác CTPHMT sẽ đảm bảo
sự khách quan và minh bạch trong việc nghiệm thu CTPHMT cho từng mỏ than
KTLT vùng HG-CP.
- Luận điểm 3: Các hoạt động kỹ thuật CTPHMT lồng ghép trong quá trình
khai thác là yếu tố chính giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tai biến môi trường và chi
phí CTPHMT sau khai thác tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP.
6. Cơ sở tài liệu
Tài liệu về công tác CTPHMT đối với hoạt động khai thác khoáng sản của một
số mỏ lộ thiên trên Thế giới và ở Việt Nam; Các dự án CTPHMT đối với họat động
5
khai thác than lộ thiên vùng HG-CP; Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam
đến năm 2020 có xét triển vọng đến năm 2030; Tài liệu quy hoạch bảo vệ môi
trường của tỉnh Quảng Ninh và một số tài liệu kỹ thuật ngành mỏ.
7. Nơi thực hiện đề tài
Bộ môn Khai thác lộ thiên, Khoa Mỏ, Trường Đại học Mỏ - Địa Chất.
8. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
a. Khái niệm cải tạo và phục hồi môi trường
- CTPHMT trong khai thác khoáng sản là hoạt động đưa môi trường, hệ sinh
thái (đất nước, không khí, cảnh quan thiên nhiên, thảm thực vật,…) tại khu vực khai
thác khoáng sản và các khu vực bị ảnh hưởng do hoạt động khai thác khoáng sản về
trạng thái môi trường gần với trạng thái môi trường ban đầu hoặc đạt được các tiêu
chuẩn, quy chuẩn về an toàn, môi trường và phục vụ các mục đích có lợi cho con
người (theo Quyết định số 18/2013/TT-Tg, ngày 29/3/2013 về CTPHMT đối với
hoạt động khai thác khoáng sản (Quyết định số 18/2013/TT-Tg)).
- CTPHMT đa mục tiêu là CTPHMT đạt được các tiêu chuẩn, quy chuẩn về an
toàn, môi trường và tiếp tục sử dụng tài nguyên đất phát triển kinh tế.
- CTPHMT thông thường là CTPHMT đạt được các tiêu chuẩn, quy chuẩn về
an toàn, môi trường.
b. Khái niệm đánh giá môi trường tổng hợp
Đánh giá môi trường tổng hợp (ĐMT) là việc phân tích, tổng hợp các tác động
môi trường cộng hưởng; tác động môi trường tích lũy; khả năng chịu tải của nguồn
tiếp nhận; các trọng điểm dẫn đến sự vượt ngưỡng các chỉ tiêu môi trường của các
hoạt động phát triển kinh tế trong vùng, khu vực trọng điểm để chỉ ra các vấn đề
môi trường vùng, vùng ưu tiên để đề xuất giải pháp tổng hợp và riêng lẻ nhằm tập
trung nguồn kinh phí hạn hẹp của ngân sách nhà nước và của doanh nghiệp trong
nền kinh tế đang phát triển để giải quyết triệt để.
6
c. Khái niệm phân vùng chức năng sử dụng đất đối với vùng cải tạo và phục
hồi môi trường sau khai thác mỏ lộ thiên
Không phải bất cứ một sự phân chia địa lý nào của bề mặt Trái đất cũng được
gọi là phân vùng và cũng không phải bất cứ một phạm vi nào được chia ra trên bản
đồ cũng là một vùng, nghĩa là kết quả của công tác phân vùng phải được kết hợp
giữa tính thống nhất của các yếu tố, hiện tượng bên trong và bên ngoài. Như nhiều
tác giả khẳng định “phân vùng trước hết là sự phân chia các vùng giữ được tính
toàn vẹn lãnh thổ và giữ được thống nhất nội tại xuất phát từ tính thống nhất trong
lịch sử phát triển trong địa lý, trong các quá trình địa lý và trong gắn bó về lãnh thổ
của các bộ phận cấu tạo riêng biệt” [39].
Tóm lại, “Phân vùng là một hệ thống hóa khoa học đặc biệt các sự vật và hiện
tượng tạo nên các tổng thể có quy luật về mặt lãnh thổ và đặc tính của chúng phụ
thuộc vào vị trí địa lý” [29].
Phân vùng chức năng sử dụng đất là phân vùng trong đó các vùng với các
chức năng sử dụng đất phát triển kinh tế khác nhau phù hợp với điều kiện khách
quan, đồng thời đảm bảo giá trị sử dụng thực tiễn của các vùng được phân chia.
Việc thực hiện CTPHMT theo định hướng phân vùng chức năng sử dụng đất
của vùng CTPHMT đối với hoạt động khai thác than lộ thiên nhằm tái tạo lại môi
trường; khôi phục tài nguyên đất nhằm tổ chức lại không gian, môi trường sử dụng
lại tài nguyên đất, trên cơ sở các vùng đã khai thác hết tài nguyên; khắc phục cảnh
quan xấu, mang lại cảnh quan mới về môi trường với một hệ sinh thái mới và tiếp
tục mang lại hiệu quả phát triển kinh tế phục vụ đời sống con người.
d. Khái niệm lồng ghép CTPHMT trong quá trình khai thác mỏ than lộ thiên
Việc lồng ghép CTPHMT trong quá trình khai thác mỏ than lộ thiên ở đây là
một quá trình lặp đi lặp lại việc lồng ghép các hoạt động CTPHMT với quá trình
khai thác mỏ trong các giai đoạn từ thiết kế cải tạo mở rộng mỏ đến giai đoạn kết
thúc mỏ. Quá trình này là sự lỗ lực của nhiều bên liên quan cho mục tiêu giảm thiểu
7
chi phí CTPHMT, rút ngắn thời gian CTPHMT và triệt tiêu nguy cơ tai biến môi
trường,...
9. Cách tiếp cận
Hầu hết các mỏ than lộ thiên tại vùng HG-CP đã được tiến hành khai thác từ rất
lâu (có mỏ có thời gian tồn tại đã hơn 100 năm); các mỏ than này luôn được thiết kế
mở rộng, cải tạo mỏ sau mỗi một giai đoạn khai thác.
Thực tế, hoạt động KTLT vùng HG-CP đã góp phần tạo ra sự phát triển kinh tế
khác như cảng biển, phát triển các dịch vụ, du lịch,… nhưng cũng đã làm thay đổi
địa hình, làm xấu cảnh quan và gây ra ô nhiễm môi trường xung quanh,… làm ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển của các ngành khác như: du lịch, cảng biển, nuôi
trồng thủy sản,…
Do vậy, cách tiếp cận về nghiên cứu các giải pháp quản lý - kỹ thuật CTPHMT
tổng thể nhằm phục vụ cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP như sau: coi việc
CTPHMT là một trong các khâu trong quá trình của hoạt động khai thác. Đó là một
dòng liên tục được gắn kết, xem xét lồng ghép CTPHMT ngay từ khâu thiết kế mở
rộng, trong quá trình khai thác, cho tới khi cải tạo phục hồi đất đai và việc sử dụng
đất sau đó.
Trước khi hoạt động mở rộng khai thác được tiếp tục, những dự định vạch ra
về CTPHMT chi tiết phải được lồng ghép trong quá trình thiết kế khai thác mở
rộng, ví dụ khi xem xét, nghiên cứu tạo một cảnh quan mới (sau khi kết thúc khai
thác mỏ than lộ thiên) phù hợp với địa hình, cảnh quan xung quanh, hệ thống thoát
nước,... Những khu vực này được thiết kế khai thác mở rộng và được dự định
CTPHMT thành một số loại hình sử dụng đất. Như vậy, việc chỉ rõ loại hình sử
dụng đất được xem xét trước khi bắt đầu tiến hành khai thác mở rộng.
Một phương án CTPHMT chi tiết được xem xét ngay từ khi thiết kế khai thác
mở rộng sẽ giúp cho việc thiết kế thực hiện lồng ghép giữa hoạt động khai thác và
8
những hoạt động CTPHMT đồng thời và quá trình lồng ghép kỹ thuật này mới có
thể thực hiện được.
Cách tiếp cận trên cho phép xử lý toàn bộ vấn đề CTPHMT cho một mỏ trong
tổng thể nhiều mỏ hơn là giải quyết CTPHMT cho mỗi một mỏ riêng biệt (chỉ được
thực hiện sau khi mỏ đã kết thúc khai thác) vì sẽ giảm được đáng kể thời gian và
kinh phí CTPHMT.
Nếu hoạt động khai thác than lộ thiên được thực hiện theo đúng thiết kế, đồng
thời có tính định hướng phục vụ cho công tác CTPHMT trong giai đoạn kết thúc sẽ
tạo được thuận lợi rất lớn và giảm đáng kể kinh phí đầu tư cho công tác CTPHMT.
Ngược lại, khi không quan tâm đến công tác này thì sau đó sẽ gặp rất nhiều khó
khăn và phải mất một khoản kinh phí lớn để cải tạo, phá bỏ những nội dung
CTPHMT chưa phù hợp. Ví dụ, các bãi thải của những mỏ khai thác than lộ thiên
thực hiện theo đúng thiết kế với các phân tầng (30 m/tầng), kiểu như ruộng bậc
thang, thì bãi thải đó đã có bờ tầng, mặt tầng ổn định, triệt tiêu được nguy cơ tai
biến sạt lở bãi thải, rất thuận lợi cho công tác trồng cây, thậm chí canh tác (không
phải tiêu tốn kinh phí cắt tầng, san gạt tạo mặt tầng mới giữa các tầng thải).
Tóm lại, cách tiếp cận coi CTPHMT là một quá trình BVMT lồng ghép trong
quá trình khai thác mang tính đặc thù riêng của quá trình khai thác mỏ. Chỉ khi nào
CTPHMT cùng tiến hành đồng thời với quá trình khai thác mỏ theo định hướng
chức năng sử dụng đất (được xác lập trên cơ sở ĐMT vùng trọng điểm, trong đó có
phân vùng CTPHMT), có luận cứ khoa học, có cân nhắc tính toán toàn diện về các
mặt kinh tế - xã hội - môi trường (KT-XH-MT)), thì khi đó mới có giải pháp BVMT
(giải pháp CTPHMT) thiết thực và hiệu quả.
Khi đó, hoạt động CTPHMT các mỏ than KTLT sẽ giải quyết được triệt để
vấn đề ô nhiễm, tai biến môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản và tiếp tục
là vùng đất làm cho xã hội phát triển và ổn định, đó là điều kiện để các yếu tố kinh
9
tế và kỹ thuật của hoạt động khai thác tài nguyên được đầu tư trở lại cho môi trường
được bền vững.
10. Quy trình nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu trải qua 2 bước cơ bản được trình bày trong hình 0.1 như sau:
Bước 1: Tổng hợp, phân tích và đánh giá công tác CTPHMT của một số mỏ
khai thác lộ thiên trên thế giới và ở Việt Nam; Điều tra, phân tích và đánh giá các
điều kiện tự nhiên, KT-XH-MT lân cận và của khu vực nghiên cứu; Tổng hợp, phân
tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý hành chính - kỹ thuật CTPHMT; Các
giải pháp kỹ thuật đã và đang áp dụng cho công tác CTPHMT đối với các mỏ than
KTLT vùng HG-CP.
Bước 2: Nghiên cứu các giải pháp quản lý CTPHMT theo vùng ưu tiên
(tương ứng vùng CTPHMT ưu tiên) tại các khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế
(ở lân cận các khu đô thị trọng điểm, các khu phát triển kinh tế,...) trên cơ sở nghiên
cứu ĐMT vùng, khu vực trọng điểm; Nghiên cứu các phân vùng chức năng sử dụng
đất đối với khu vực CTPHMT của mỏ than KTLT; Đề xuất các giải pháp quản lý
hành chính CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP; mô hình định hướng tổ
chức không gian sử dụng hợp lý quỹ đất sau CTPHMT nhằm đáp ứng nhu cầu đất
sử dụng cho các vùng kinh tế phụ cận và BVMT khu dân cư, vịnh Hạ Long và Bái
Tử Long. Nghiên cứu việc đánh giá kết quả công tác CTPHMT theo một số tiêu chí
định lượng theo các công thức toán học nhằm áp dụng cho các mỏ than KTLT tại
vùng HG-CP; Nghiên cứu các giải pháp CTPHMT cho các dạng mỏ than KTLT đặc
trưng; Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật CTPHMT (cho mỗi một dạng đặc trưng
trong các dạng mỏ than KTLT kết thúc khai thác) lồng ghép trong ngay quá trình
khai thác mỏ than KTLT nhằm tăng cường hiệu quả CTPHMT và sử dụng nguồn
kinh phí ký quỹ.
10
Điều tra, phân tích và đánh giá các điều kiện tự nhiên, KT-XH và môi trường lân cận và của khu vực nghiên cứu
Tổng hợp, phân tích và đánh giá công tác CTPHMT của một số mỏ khai thác lộ thiên trên thế giới và Việt Nam
Tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý hành chính - kỹ thuật CTPHMT
Bước 1
Các giải pháp kỹ thuật đã và đang áp dụng CTPHMT cho mỏ than KTLT vùng HG-CP. (I.4)
Nghiên cứu đánh giá môi trường tổng hợp vùng, khu vực trọng điểm
Nghiên cứu phân vùng chức năng sử dụng đất đối với khu vực CTPHMT cho mỏ than KTLT
Nghiên cứu các giải pháp quản lý CTPHMT theo vùng ưu tiên tại các khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế
Bước 2
Đề xuất các giải pháp quản lý hành chính CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP; mô hình sử dụng đất sau CTPHMT vùng HG-CP
Nghiên cứu việc đánh giá kết quả CTPHMT theo tiêu chí định lượng theo công thức toán học
Nghiên cứu một số dạng bãi thải
Đề xuất các giải pháp CTPHMT cho các dạng mỏ than KTLT đặc trưng
Nghiên cứu một số dạng khai trường mỏ than KTLT đặc trưng
Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật CTPHMT lồng ghép trong quá trình khai thác mỏ lộ thiên
Hình 0.1: Quy trình nghiên cứu giải pháp quản lý - kỹ thuật tổng thể
phục vụ công tác CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP
11
11. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp này được sử dụng giúp làm rõ hơn cơ sở lý luận và các hướng
nghiên cứu cũng như các công trình nghiên cứu đã thực hiện ở khu vực nghiên cứu.
Việc phân tích và tổng hợp, tổng luận các tài liệu và các công trình nghiên cứu
trước đó giúp tránh sự trùng lặp trong nghiên cứu; thừa kế các kết quả nghiên cứu
trước đó; biết được hạn chế của các nghiên cứu trước đó và định hướng nghiên cứu
cho luận án.
b. Phương pháp thu thập tài liệu
Trong quá trình nghiên cứu, NCS đã thu thập 55 tài liệu tham khảo; nhiều bản
đồ, ảnh vệ tinh trong và ngoài nước có liên quan với các nội dung nghiên cứu. Các
tài liệu này được phân tích một cách chi tiết để tìm ra các nội dung phù hợp và cần
thiết cho luận án.
c. Phương pháp khảo sát thực địa
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện, NCS đã nghiên cứu, khảo sát tổng hợp
vùng khai thác than lộ thiên vùng HG-CP vào 2 mùa khác nhau trong thời gian
nghiên cứu (mùa mưa và mùa khô).
Các kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tế đó đã giúp làm rõ hơn về các đặc
điểm tự nhiên, hiện trạng CTPHMT tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP. Đây là cơ
sở quan trọng cho các nghiên cứu và đề xuất giải pháp quản lý - kỹ thuật, đảm bảo
tính logic, tính khoa học và thực tiễn, cho phép áp dụng được ngay trong điều kiện
cụ thể của các mỏ than KTLT trong các khu vực này.
d. Phương pháp toán học
Trong quá trình thực hiện, NCS đã sử dụng toán học ứng dụng, một nhánh toán
học liên quan đến việc ứng dụng kiến thức toán học vào những lĩnh vực nghiên cứu
và sử dụng những công thức toán học thuần túy với những ứng dụng thực tiễn
thường được khám phá từ những các đại lượng, các thông số,… đặc trưng cho loại
hình nghiên cứu. Thông qua việc sử dụng những phương pháp lôgic, toán học để
tính toán, đo lường áp dụng vào nghiên cứu có hệ thống các thông số liên quan (lĩnh
12
vực nghiên cứu phù hợp với thực tế) và áp dụng các công thức toán học để thể hiện
một số kết quả nghiên cứu.
e. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình thực hiện, NCS đã thực hiện các cuộc trao đổi thông tin, xin ý
kiến, phỏng vấn những người có am hiểu hoặc có liên quan đến những thông tin về
công tác BVMT, CTPHMT; phân vùng, đánh giá môi trường,…. Tổ chức hội thảo
dưới các hình thức hội nghị xin ý kiến của các nhà khoa học ngành mỏ và môi
trường.
12. Quan điểm nghiên cứu
Quan điểm nghiên cứu biện pháp quản lý - kỹ thuật CTPHMT được vận dụng
và phát triển như sau:
- Quan điểm hệ thống: Có nhiều quan niệm khác nhau về hệ thống tùy thuộc
vào từng lĩnh vực nghiên cứu và sản xuất. Các nhà cảnh quan học quan niệm hệ
thống như một địa hệ - hệ thống của các yếu tố tự nhiên, là “tổng thể các thành
phần nằm trong sự tác động tương hỗ” (L. Bertalanf), là “tập hợp bất kỳ các thành
phần tác động tương hỗ” (A.Đ. Armand, 1971) và có tính thứ bậc. Các nhà kinh tế
sinh thái quan niệm hệ thống như một hệ thống xã hội - môi trường (socio-
environmental system) - những hệ thống phức tạp, tồn tại ở nhiều dạng khác nhau
và có thể thực hiện những hoạt động không thể dự báo trước (Clayton và Radcliffe,
1996), có khả năng tự điều chỉnh và có thứ bậc, bao gồm nhiều hệ thống nhỏ khác
nhau (Jennings và Reganold, 1991; Norton và Ulanowicz, 1992; Warren và Cheney,
1993; Muster et al, 1994). Các nhà quy hoạch vùng và tổ chức lãnh thổ quan niệm
hệ thống là một thể thống nhất và khách quan của mọi chủ thể tồn tại và phát triển
trên trái đất. Do đó, mọi hoạt động của hệ thống phải luôn thể hiện ở trạng thái cân
bằng và phải được điều chỉnh kịp thời khi chịu tác động, đó là tiêu chuẩn của phát
triển bền vững [31], [38]. Vì vậy, trong quá trình ĐMT phải quan niệm vùng, khu
vực ĐMT như một hệ thống hoàn chỉnh và thống nhất của các hợp phần tự nhiên
(địa chất - địa hình, khí hậu - thủy văn, đất - sinh vật), các hợp phần KT-XH mang
13
tính chất nhân sinh (cơ sở hạ tầng, các hoạt động sản xuất) và các mối liên hệ giữa
chúng .
Việc xem xét vùng, khu vực nghiên cứu biện pháp quản lý - kỹ thuật CTPHMT
như một hệ thống cũng hàm ý nhấn mạnh lợi ích, môi trường chung của vùng là
quan trọng hơn lợi ích, môi trường của một ngành hay một lĩnh vực riêng lẻ nào đó.
Do vậy, bất kỳ một hoạt động nào gây tổn hại đến lợi ích chung, đến môi trường
của vùng cũng cần phải được cân nhắc và quyết định về vị trí, quy mô, loại và thời
gian phát triển.
- Quan điểm tổng hợp: Quan điểm tổng hợp xuất phát từ quan điểm hệ thống,
nhấn mạnh mối quan hệ thống nhất và biện chứng giữa các yếu tố hệ thống trong
một tổng thể hoàn chỉnh mà mỗi yếu tố (hệ thống này) là một mắt xích trong một
mạng lưới liên hệ với các yếu tố và hệ thống khác. Do đó, quan điểm tổng hợp đòi
hỏi cần phải hiểu rõ, hiểu đúng các yếu tố cấu thành hệ thống và mối liên hệ giữa
chúng trước khi quyết định tác động vào một yếu tố. Bởi lẽ chỉ cần một tác động
nhỏ vào một yếu tố thôi thì cũng có thể làm biến đổi toàn bộ hệ thống, phá vỡ trạng
thái cân bằng và ổn định của hệ thống, dẫn đến những hậu quả khó lường.
Với quan điểm tổng hợp, nghiên cứu biện pháp quản lý - kỹ thuật CTPHMT
được thực hiện dựa trên việc xem xét tất cả các yếu tố hệ thống KT-XH-MT vùng,
phạm vi ĐMT, CTPHMT,... trong mối liên hệ với các yếu tố khác của hệ thống. Ví
dụ, hoạt động CTPHMT các mỏ than KTLT được xem xét trong mối liên hệ với các
yếu tố tự nhiên (địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, đất, thực vật), các yếu tố KT-
XH (vai trò của khai thác than trong cơ cấu kinh tế chung, cơ sở hạ tầng, các khía
cạnh xã hội như lao động, thu nhập,...), các vấn đề môi trường và tai biến thiên
nhiên (ô nhiễm không khí do bụi, tiếng ồn, khí thải; ô nhiễm môi trường nước do
rác thải rắn, chất thải độc hại từ các mỏ và khai trường),... Bản thân môi trường
nước hoặc khí lại được xem xét trong mối liên hệ không chỉ với hoạt động khai thác
than mà còn với các hoạt động khác như sản xuất công nghiệp, sản xuất vật liệu xây
dựng, nông, lâm nghiệp, thủy sản,... Điều đó cho thấy cái nhìn đa chiều và tổng hợp
14
khi xem xét một vấn đề hoặc một yếu tố phát sinh trong hệ thống trước khi đưa ra
giải pháp tổng hợp và có quyết định đúng đắn.
- Quan điểm phát triển bền vững: Quan điểm phát triển bền vững được hình
thành từ những năm 70 của thế kỷ XX và đề cập một cách hệ thống về môi trường
và phát triển quốc tế qua cuốn Chiến lược bảo tồn thế giới (1980), được phổ biến
qua báo cáo Brundland: Tương lai chung của chúng ta (1987), chi tiết hơn trong
cuốn: Chăm lo cho Trái đất (1991) và Chương trình Nghị sự 21 (1992). Cho đến
nay, phát triển bền vững trở thành một mục tiêu để hướng tới đối với bất kỳ một
chiến lược, một định hướng phát triển nào từ cấp quốc tế, quốc gia đến địa phương
[31].
Ba nội dung cơ bản của phát triển bền vững là nhằm đạt được phồn vinh về
kinh tế, ổn định về xã hội, duy trì chức năng sinh thái và đảm bảo chất lượng môi
trường.
Việc vận dụng quan điểm phát triển bền vững để nghiên cứu biện pháp quản lý
- kỹ thuật CTPHMT cần phải có một cái nhìn, một quan điểm chỉ đạo giúp định
hướng cho các hành động, các định hướng phát triển, đảm bảo sự kết hợp hài hòa
giữa phát triển kinh tế, ổn định xã hội với chất lượng môi trường.
13. Cấu trúc, nội dung của luận án
Luận án được bố cục thành 4 chương, không kể phần mở đầu, kết luận, tài liệu
tham khảo và phụ lục, như sau:
- Chương 1: Tổng quan về công tác CTPHMT cho các mỏ lộ thiên trên thế giới
và ở Việt Nam
- Chương 2: Thực trạng công tác CTPHMT tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP.
- Chương 3: Nghiên cứu các giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công
tác CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP
- Chương 4: Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả công
tác CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP
15
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI
TRƯỜNG TẠI CÁC MỎ LỘ THIÊN TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về công tác cải tạo và phục hồi môi trường tại các mỏ than
khai thác lộ thiên trên thế giới
1.1.1. Khái quát công tác cải tạo và phục hồi môi trường sau khai thác tại một
số mỏ than trên thế giới
Nhiều nước trên thế giới đã đạt được những thành công lớn khi CTPHMT các
khu vực kết thúc khai thác khoáng sản thành các trung tâm du lịch, giải trí, thể
thao,…. trên cơ sở các giải pháp chung được khái quát như sau:
- Đối với các khai trường khai thác than, quặng sắt,… với diện tích rộng và
chiều sâu lớn, việc san lấp tạo mặt bằng sau khi kết thúc khai thác là bất khả thi, do
đó, khu vực moong khai thác thường được cải tạo nhằm đảm bảo an toàn ổn định bờ
mỏ hoặc để nguyên trạng, sau đó tạo thành các hồ chứa nước và xung quanh tạo nên
cảnh quan thiên nhiên hoặc sử dụng vào các mục đích dân dụng.
- Đối với một số khai trường khai thác chiếm đất bề mặt rộng với độ sâu không
lớn (như bauxit, thiếc, sa khoáng titan,…), chúng thường được san gạt bề mặt, cải
tạo địa hình, cải tạo đất để trả lại đất cho canh tác (trồng lúa, cà phê, chè, cao su,...),
trồng rừng (các loại cây bản địa hoặc các loại cây mới có giá trị kinh tế,…) hoặc sử
dụng vào các mục đích KT-XH khác. Đặc biệt, nhiều nước ASEAN đã đạt được
những thành công lớn khi CTPHMT và cải tạo các khu khai thác khoáng sản thành
các trung tâm du lịch, giải trí, thể thao,…
- Đối với các bãi thải đất đá của các mỏ KTLT, chúng được cải tạo địa hình,
phủ một lớp đất màu và trồng cây có giá trị kinh tế hoặc chỉ đơn thuần cho mục tiêu
phủ xanh tạo cảnh quan.
- Các công trình hạ tầng cơ sở mà cộng đồng có nhu cầu sử dụng lại (thí dụ cho
cấp điện, cấp nước, giao thông, nhà ở, các công trình dịch vụ,…) thường được tận
dụng và cải tạo cho phù hợp.
16
- Quá trình CTPHMT mà cốt lõi là công tác cải tạo đất được thực hiện trong
khoảng 2÷4 năm kể từ khi ngừng các hoạt động khai thác, sau đó tiếp tục quan trắc
và hoàn chỉnh các mặt bằng được CTPHMT, chất lượng nước, hệ động thực vật,
thực vật cho tới khi đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn quốc gia (thường kéo dài trong
nhiều năm sau đó).
- Cộng đồng có quyền giám sát và khiếu kiện về những sai sót trong quá trình
quá trình CTPHMT kéo dài sau đó.
Dưới đây là một số ví dụ minh họa điển hình:
1.1.2. Trồng rừng cải tạo và phục hồi môi trường:
a. Tại Inđônêsia, Tập đoàn Sumitomo và các đối tác kinh doanh đã thực hiện
dự án phát triển mỏ đồng - vàng Batu Hijau trên đảo Sumbawa từ năm 1996 (là một
trong những mỏ đồng - vàng lớn nhất thế giới) với thành công lớn nhất là chính
sách liên quan đến việc trồng rừng. Nhìn chung, các khu vực có hoạt động khai thác
đều được khôi phục lại trạng thái ban đầu sau khi đóng cửa mỏ với 40.000 cây
giống mỗi năm và được trồng trong lớp đất mặt đã được bóc và bảo quản. Công
nghệ trồng rừng áp dụng đã được nghiên cứu tới 8 năm trong khuôn khổ một đề tài
nghiên cứu quy mô lớn được các kỹ sư, các nhà khoa học cộng tác thực hiện trên cơ
sở vốn vay. Các nhà nghiên cứu đã xác định được góc nghiêng phù hợp, đề xuất
một phương pháp sử dụng lưới để ngăn chặn xói mòn lớp đất mặt và cuối cùng là
định ra các phương pháp tối ưu cho việc chuẩn bị và tái trồng rừng trên các diện
tích đất đã từng khai thác mỏ [53].
Công việc trồng rừng được thực hiện song song với hoạt động của mỏ. Trồng
rừng liên tục và bền vững sẽ khôi phục lại rừng trong khoảng 4 năm, nhưng điều
này không phải dễ dàng, bởi vì đây là vấn đề có liên quan tới những quá trình mang
bản chất tự nhiên. Phát triển mỏ là một dự án dài hạn, kéo dài nhiều thập kỷ. Việc
nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học là một phần quan trọng của hoạt động kinh doanh.
Việc phủ xanh khu mỏ giai đoạn cuối được xác định là thành công mất một
khoảng thời gian có thể lên đến 10 năm sau khi CTPHMT.
17
b. Ở Ốtxtrâylia, ngành công nghiệp khai thác khoáng sản coi CTPHMT là
một phần tất yếu của quá trình khai thác. Do vậy, các kế hoạch và dự trù tài chính
cho chương trình môi trường dài hạn phải được lập trước khi bắt đầu khai thác.
Kinh phí CTPHMT thường trên 10.000 USD/ha. Quá trình CTPHMT không phải
chỉ kết thúc ở việc san gạt đất, trồng cây và gieo hạt. Hiệu quả của quá trình
CTPHMT chỉ có thể được đánh giá bằng quá trình quan trắc và điều chỉnh nhiều
năm sau đó. Người ta đã đưa ra định hướng 4 giai đoạn chủ yếu trong CTPHMT:
- Giai đoạn thứ nhất: Xác định phương thức sẽ sử dụng đối với đất sau khai
thác khoáng sản.
- Giai đoạn thứ hai: Công tác san lấp mặt bằng đã bị xáo trộn do khai thác
khoáng sản, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc trồng cây.
- Giai đoạn thứ ba: Thực hiện trồng cây bằng cách trồng trực tiếp cây giống,
gieo hạt hoặc phủ các lớp đất mặt có sẵn nguồn hạt tự nhiên.
- Giai đoạn thứ tư: Quan trắc và nghiên cứu quá trình CTPHMT, có những tác
động điều chỉnh hợp lý đề bảo đảm có được hệ sinh thái mong muốn trong dự án
CTPHMT và xác định về mặt kỹ thuật sự thành công bền vững của dự án.
Công nghệ CTPHMT được bắt nguồn ngay trong công nghệ khai thác và chế
biến khoáng sản. Đó chính là những công nghệ hiện đại đang được ứng dụng ở
Ốtxtrâylia để tận thu triệt để các thành phần có ích trong khoáng sản, có nghĩa là
những công nghệ có khối lượng thải thấp trên đơn vị sản phẩm và tác động hạn chế
tới môi trường.
Tập đoàn Alcoa sở hữu những cổ phần lớn trong công nghiệp khai thác tại
bang Western có công nghiệp khai thác quặng sắt quy mô lớn, chiếm tới 97% sản
lượng quặng sắt của Ốtxtrâylia đã thực hiện chương trình CTPHMT rất thành công
trong nhiều năm qua. Các yếu tố phục hồi ở đây bao gồm:
- Thảm thực, bao gồm các chủng loại cây tầm cao (chủ yếu là các rừng bạch
đàn) và cả các chủng loại cây tầm thấp.
- Thảm động vật, bao gồm các loại động vật có vú, các loài bò sát, các giống
chim và hệ côn trùng trên và dưới mặt đất cũng như dưới nước.
18
Alcoa đã phục hồi hàng chục nghìn ha đất kể từ khi bắt đầu khai thác vào năm
1963. Hiện nay, tại các khu vực được CTPHMT, độ phong phú của thảm thực vật
đạt trên 96%, hệ động vật có vú hầu như được phục hồi hoàn toàn, hệ chim được
phục hồi tới 90% và hệ bò sát được phục hồi tới 78%. Ở một số khu vực được
CTPHMT, độ phong phú thực vật và động vật cũng như môi trường sinh thái thậm
chí còn được cải thiện tốt hơn nguyên thủy.
Nguyên nhân những thành công của Alcoa trong việc phục hồi môi trường là:
- Có chính sách và mục tiêu đúng cho công tác CTPHMT.
- Đầu tư đúng cả về công nghệ và nhân lực cho công tác CTPHMT. Bảo đảm
đầy đủ các khoản tài chính và sử dụng chúng một cách hợp lý.
- Đặc biệt chú trọng công tác nghiên cứu các điều kiện và chuẩn bị công tác
phục hồi ngay trước khi bắt đầu khai thác và tiếp tục sau khi kết thúc khai thác.
- Xử lý tốt các mối quan hệ về quyền lợi có liên quan tới đất đai và môi trường
giữa doanh nghiệp và cộng đồng, động viên và thu hút cộng đồng cùng thực hiện
CTPHMT từ những góc độ đặc trưng và thuận lợi khác nhau.
* Mỗi năm, tại Nabalco - Gove có khoảng trên 130 ha đất rừng được đưa vào
quá trình khai thác bauxit và cũng khoảng chừng đó diện tích được CTPHMT. Công
việc CTPHMT bắt đầu trước khi bắt đầu khai thác và tiếp tục lâu dài sau khi kết
thúc khai thác.
Quá trình CTPHMT không chờ tới khi kết thúc khai thác một khu vực nào đó
mới bắt đầu, mà được bắt đầu trước khi khai thác bằng sự chuẩn bị và lưu giữ công
phu hồ sơ, vật mẫu về đất, nước, các loài sinh vật cũng như bảo quản giống, gen
động thực vật có tại khu vực dự kiến khai thác để có thể tái tạo chúng một cách gần
đúng nguyên thuỷ nhất sau khi kết thúc khai thác. Đây là công việc thực hiện trong
khoảng thời gian dài hơn cả đời mỏ, đòi hỏi vận dụng kiến thức chuyên gia, kinh
nghiệm người dân địa phương, phương tiện vật chất kỹ thuật, kinh phí và các giải
pháp tổ chức hữu hiệu [51].
Trình tự thực hiện công tác CTPHMT tại Nabalco có thể khái quát như sau:
19
(1). Trước khi bắt đầu khai thác cần thực hiện công việc chuẩn bị đối với khu
vực sẽ đưa vào khai thác
- Việc khảo sát, sưu tầm, nghiên cứu, lập hồ sơ và cất giữ các vật mẫu về đất,
nước, các loài sinh vật cũng như giống, gen động thực vật, cần được thực hiện sớm
hơn 3 năm trước khi bắt đầu khai thác với sự hợp tác chặt chẽ với người địa
phương.
- Chặt hết các loại cây tầm cao trong phạm vi mặt bằng khai thác. Các thân cây
được đốt tại chỗ làm màu cho đất. Các loại thực vật tầng thấp được tiếp tục phát
triển. Giữ trạng thái mặt bằng như vậy trong 3 năm để ổn định các quá trình sinh
hoá trong đất.
- Sau đó, bóc lớp đất màu (Topsoil) và lớp đất phủ (Subsoil) chuyển tới các vị
trí tập kết riêng biệt gần khai trường và bảo quản chúng cho tới khi được sử dụng
lại. Mặt bằng đã sẵn sàng cho khai thác.
(2). Khai thác bauxit
Tiến hành khai thác bauxit trên các mặt bằng đã được chuẩn bị. Kết thúc khai
thác từng khu vực theo kế hoạch. Mặt bằng sau khi kết thúc khai thác được kết nối
với địa hình tự nhiên nhằm tạo điều kiện thoát nước, phong hoá và thẩm thấu.
(3). Sau khi kết thúc khai thác cần thực hiện những công việc sau để tái tạo mặt
đất gần giống trạng thái nguyên thuỷ
- Sử dụng đất phủ và đất màu được cất giữ để trải lại theo thứ tự và độ dày
nguyên thuỷ trên mặt đất đã biến đổi sau khai thác.
- Tái tạo hệ thực vật nguyên thuỷ từ những hạt giống đã được sưu tầm, lập hồ
sơ và cất giữ trước đây trên mặt bằng sau khai thác đã được trả lại đất phủ và đất
màu (gieo trực tiếp hoặc ươm và trồng cây giống).
- Tại các thời điểm thích hợp tương ứng với sự tái tạo hệ thực vật, thực hiện tái
tạo hệ động vật nguyên thuỷ bằng cách kết hợp tác động nhân tạo (từ nguồn giống,
gen cất giữ) và tác động tự nhiên (sự di chuyển động vật và sự sinh sôi tự phát của
hệ côn trùng).
- Những công việc nêu trên được thực hiện trong khoảng 2 năm.
20
(4). Theo dõi và bảo đảm các điều kiện cho công tác cải tạo và phục hồi môi
trường thành công
Công tác CTPHMT không dừng lại ở việc tái tạo hệ thực vật và động vật mà
phải tiếp tục theo dõi, quan trắc và nghiên cứu các biến đổi, đề xuất các giải pháp
tiến bộ nhằm bảo đảm điều kiện tối ưu để các hệ thực vật và động vật trên mảnh đất
CTPHMT phát triển bình thường và ổn định, trở về trạng thái gần như nguyên thuỷ
với tất cả các yếu tố của hệ sinh thái tự nhiên vốn có trước khi khai thác. Quá trình
này thường kéo dài ít nhất 5 năm.
Năm 1997, Trung tâm nghiên cứu CSIRO - Ốtxtrâylia đã nghiên cứu đề ra các
chỉ tiêu đánh giá mức độ thành công của công tác CTPHMT, trong đó những chỉ
tiêu quan trọng cần được quan trắc như độ luân hồi dinh dưỡng (Nutrient cycling),
độ ổn định đất (Soil stability), mật độ cư trú của chim (Bird density), các chỉ tiêu về
chất lượng nước ngầm,... Những chỉ tiêu này được so sánh với các chỉ tiêu tương
ứng của các khu rừng nguyên thuỷ xung quanh.
Một vấn đề quan trọng là không để xảy ra cháy rừng trong các khu vực đang
CTPHMT vì cháy rừng sẽ làm huỷ hoại sự tái tạo các thành phần hữu cơ và cản trở
các hoạt động vi sinh.
Các nghiên cứu của CSIRO tiến hành năm 1993 và 1997 cũng như nghiên cứu
của trường Đại học Northern Territory sau đó đã chỉ ra rằng công tác CTPHMT của
Nabalco đã thành công tốt đẹp trong việc tái tạo các khu rừng họ tràm giống như
các khu rừng nguyên thuỷ quanh đó.
Thành công của Nabalco đã tái tạo hàng ngàn hecta đất rừng trong khai thác
bauxit trước đó, do có sự ràng buộc chặt chẽ bởi hệ thống luật pháp về tài nguyên
và môi trường rất đồng bộ của bang Northern Territory và của Ốtxtrâylia, cũng như
những cam kết pháp lý cụ thể của Nabalco với cộng đồng và các chủ đất của người
Yolngu (thổ dân).
Những người lãnh đạo Nabalco đã có ý thức rất rõ về trách nhiệm pháp lý và
giá trị khoa học, KT-XH của công tác môi trường nói chung và CTPHMT nói riêng,
coi công tác này là một khâu sản xuất trọng yếu nhất và nghiêm túc thực hiện nó.
21
Đội ngũ chuyên gia môi trường Nabalco đủ về số lượng và vị trí, có trình độ chuyên
môn cao và kinh nghiệm thực tế phong phú.
Công tác đào tạo được thực hiện khá bài bản và rất thực tế, kết hợp viêc học tập
tại nhà trường, nắm bắt các tiến bộ khoa học và công nghệ với hoạt động sản xuất
và nghiên cứu ngay tại hiện trường.
Các phòng thí nghiệm, phòng phân tích, hệ thống quan trắc, phương tiện lưu
trữ, bảo quản, phương tiện kiểm tra, hệ thống thông tin,... đều được đầu tư hiện đại
và có tính thực tiễn cao.
Kinh phí cho toàn bộ các hoạt động môi trường và CTPHMT được tính đủ
trong giá thành sản phẩm.
Các bộ lạc thổ dân người Yolngu, vốn là những người chủ nguyên thủy của
Ốtxtrâylia và hiện là chủ pháp lý nhiều vùng đất chứa bauxit được tôn trọng và bảo
đảm quyền lợi hợp lý trong quá trình khai thác. Mối quan hệ giữa hoạt động sản
xuất và cộng đồng thổ dân nói chung là tốt đẹp. Đây chính là một yếu tố đặc biệt
quan trọng, vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của các thành tựu môi trường.
Hình 1.1: Trình tự CTPHMT trong khai thác bauxit ở Nabalco [51]
1.1.3. Cải tạo và phục hồi môi trường khai trường thành hồ chứa nước
22
CHLB Đức là một nước có nền công nghiệp mỏ phát triển ở Châu Âu và thế
giới. Những loại khoáng sản rắn được khai thác nhiều ở nước này chủ yếu là than
nâu, than đá, muối mỏ, vật liệu xây dựng,… Các khoáng sản trên là nguồn nguyên
liệu quan trọng cho các ngành công nghiệp của đất nước phát triển này.
Sau khi kết thúc khai thác, trên khu mỏ đã xuất hiện nhiều hào hố không thể san
lấp được. Chúng đã tạo thành các hồ chứa nước với tổng diện tích lên tới hơn 100 ha.
1.1.4. Cải tạo và phục hồi môi trường bãi thải để sử dụng cho nông nghiệp
hoặc lâm nghiệp
Tại CHLB Đức khi chất lượng của vật liệu thải trên bãi thải không phù hợp với
các mục đích sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp thì phải phủ một lớp đất
mặt (có thể dày tới 180 cm) lên trên bề mặt bãi thải để phục vụ cho nông nghiệp
hoặc lâm nghiệp. Để tạo điều kiện cho cây phát triển tốt, người ta còn bổ sung một
số loại phân bón trong lớp đất này với khối lượng 200300 kg đạm, lân và kali/ha.
Để đảm bảo những khu vực bãi thải được CTPHMT có đủ điều kiện để phục vụ
cho nông nghiệp thì sau khi CTPHMT xong, công ty mỏ cần phải quản lý chúng ít
nhất 7 năm trước khi bàn giao cho người nông dân. Trong thời gian này, công ty mỏ
có thể khai thác, sử dụng đất và tìm ra loại cây trồng phù hợp với khu vực đó. Tiếp
đó họ còn phải bảo hành thêm một thời gian khoảng 10 năm cho những rủi ro của
các biện pháp cải tạo đất đã áp dụng. Để kiểm soát những rủi ro có thể xảy ra trong
việc quản lý và đảm bảo lợi nhuận mang lại khi khai thác vùng đất đã được
CTPHMT này, công ty mỏ cần phải bảo hành thêm 8 năm nữa. Như vậy, tổng thời
gian một công ty mỏ tại CHLB Đức phải có trách nhiệm đối với việc CTPHMT
những bãi thải của họ lên tới 25 năm [33].
1.1.5. Ổn định các sườn dốc
Việc ổn định các sườn dốc là một công việc cần được quan tâm không chỉ trong
quá trình khai thác mỏ mà còn được đặc biệt quan tâm sau khi kết thúc khai thác mỏ.
Ngoài những kỹ thuật thông thường để tạo sự ổn định cho các sườn dốc, các mỏ than
KTLT của CHLB Đức còn lưu ý sử dụng một số biện pháp khác như sau:
23
- Nén các loại vật liệu bở rời, tơi xốp ở sườn bãi thải để tạo nên một độ dốc an
toàn bằng các thiết bị chuyên dụng hoặc sử dụng các kết cấu hỗ trợ như neo để gia
cường cho các bờ kết thúc mỏ mà ở đó đất đá có dạng phân lớp;
- Làm bằng phẳng hoặc làm thoải các mỏm đá hoặc những nơi có sườn dốc
nguy hiểm, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định cho các khu vực khác [33].
1.1.6. Hòa nhập khu vực được cải tạo và phục hồi môi trường với phong
cảnh xung quanh
Tại CHLB Đức, việc hoà nhập địa hình khu vực được CTPHMT sau khai thác mỏ
với phong cảnh các khu vực xung quanh là rất quan trọng. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như: các qui hoạch về giao thông, công nghiệp, nông nghiệp và du lịch của khu vực,
đặc điểm địa hình của khu vực được CTPHMT và địa hình xung quanh, các yêu cầu về
đa dạng sinh học,… Chính vì vậy rất nhiều khu vực được CTPHMT sau khi khai thác
mỏ tại CHLB Đức đã hoàn toàn thay đổi về địa hình, cảnh quan và mục đích sử dụng
theo hướng tích cực hơn rất nhiều so với địa hình nguyên thuỷ của nó.
Hình 1.2: Minh họa kết quả của một dự án CTPHMT tại CHLB Đức [33]
Hình 1.2 minh họa một ví dụ điển hình của một khu vực mỏ than lộ thiên khai
thác than nâu phục vụ cho nhà máy nhiệt điện đã được CTPHMT sau khi kết thúc
khai thác tại CHLB Đức. Những cánh đồng lúa mì, những cánh rừng đã hình thành
cùng với những con sông và hồ nước trong xanh đã làm cho những người lần đầu
đến đây không bao giờ có thể hình dung được trước đây khu vực này đã từng là một
mỏ khai thác than nâu có sản lượng hàng chục triệu tấn một năm.
24
1.1.7. Cải tạo và phục hồi môi trường khu mỏ thành trung tâm vui chơi giải trí
Ở Malaysia, sau khi hoạt động khai thác kết thúc, quá trình CTPHMT được thực
hiện thành công và tiếp tục đầu tư để thu hút các hoạt động du lịch, nghỉ ngơi, thể
thao, vui chơi, giải trí,… Ở đây đã đầu tư vào sân golf hạng nhất ở Malaysia [52].
Hình 1.3: Khai trường thiếc được Hình 1.4: Hệ sinh thái phong phú
CTPHMT với sân golf tại Clearwater được phục hồi ở Paya Indah [52]
Sanctuary Golf Resort [52]
Khu bảo tồn Paya Indah Sanctuary có diện tích khoảng 3.200 ha, gồm 2.200 ha
rừng ngập mặn và 1.000 ha trước đây vốn là mỏ thiếc đã đóng cửa từ 1997. Quá
trình CTPHMT cũng được thực hiên thành công theo hướng cải tạo và đầu tư tiếp
để biến thành khu du lịch, nghỉ ngơi, thể thao, vui chơi, giải trí,… và với một tham
vọng lớn hơn là xây dựng một trung tâm nghiên cứu sinh thái học hàng đầu Châu Á.
Hình 1.5: Minh họa kết quả 01 dự án CTPHMT tại CH Pháp [55]
25
Trung tâm giải trí phức hợp Cap’Découverte tại CH Pháp là khu vực được hình
thành trên cơ sở sử dụng khu mỏ than KTLT đã đóng cửa Albi Carmaux. Khu mỏ
với diện tích 650 ha đóng cửa vào năm 1997, đến năm 2003 được tiến hành quy
hoạch và được thổi vào một luồng sinh khí mới. Tại đây có sân khấu kịch tròn quy
mô lớn với diện tích mặt bằng có đường kính 1.300 m, chiều sâu 230 m, thu hút
khách du lịch trên toàn châu Âu. Khu giải trí phức hợp này bao gồm các tour du lịch
ngầm qua các hầm mỏ, các môn thế thao với ván trượt như trượt ván, trượt tuyết,
các buổi trình diễn và bảo tàng về khai khoáng,... [55].
1.2. Tổng quan về công tác cải tạo và phục hồi môi trường tại các mỏ than
khai thác lộ thiên ở Việt Nam
1.2.1. Khái quát một số loại hình, đối tượng khai thác khoáng sản và phương
thức cải tạo và phục hồi môi trường tương ứng ở Việt Nam
Khai thác khoáng sản ở Việt Nam đã bắt đầu từ hơn một thế kỷ qua và trải qua
nhiều giai đoạn phát triển. Tùy thuộc vào phương thức khai thác (chủ yếu là công
nghệ), có thể tạm phân loại một số loại hình, đối tượng CTPHMT chủ yếu ở Việt
Nam như sau:
1. Đối với các đối tượng KTLT than ở Quảng Ninh, các vùng khai thác
quặng sắt ở Thái nguyên, Cao Bằng, Lào Cai, Yên Bái, Hà Tĩnh,… thì việc
CTPHMT ở những mỏ KTLT mà khai trường sau khi kết thúc khai thác còn lại là những moong lớn với dung tích hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu m3 (đặc trưng
là khai thác than, khai thác quặng sắt,…). Những moong lớn như vậy khó có thể lấp
đầy được sau khi kết thúc khai thác (trừ trường hợp chúng được sử dụng làm bãi
thải trong ngay trong quá trình khai thác) như moong khai thác tại mỏ Cọc Sáu,
Cẩm Phả. Phương thức CTPHMT khả thi nhất ở đây là cải tạo chúng thành các hồ
chứa nước và tái tạo hệ sinh thái dưới nước và vùng xung quanh bờ.
2. Đối với những mỏ KTLT có các vỉa quặng và đất đá bóc nằm trên các sườn
núi (đặc trưng là khai thác đá vôi, đôlômit, apatit,…) thì phương thức CTPHMT ở
đây là san gạt, phủ xanh phần mặt bằng phục vụ khai thác, tái tạo hệ sinh thái phù
hợp với địa hình và khí hậu khu vực. Đây là đối tượng rất phổ biến ở Việt Nam.
26
Hầu như ở tỉnh nào cũng có các mỏ khai thác đá vôi và các loại vật liệu xây dựng,
nhiều mỏ đã vôi có quy mô lớn tới hàng triệu tấn/năm.
3. CTPHMT ở những mỏ lộ thiên khai thác sa khoáng trên những diện tích lớn
với độ sâu hạn chế (đặc trưng là khai thác vàng sa khoáng, quặng thiếc, quặng titan,
cát,…), hiện trường sau khai thác thường bị đào xới tới độ sâu nhất định, nhưng
không quá lớn, quá trình CTPHMT thường được thực hiện bằng cách san lấp, cải tạo
mặt bằng ở mức độ hợp lý để có thể sử dụng đất vào các mục tiêu nông nghiệp, xây
dựng, giao thông hoặc trả lại trạng thái nguyên thủy, đồng thời tái tạo hệ sinh thái phù
hợp với khí hậu khu vực và mức độ cải tạo địa hình.
4. CTPHMT ở các mỏ lộ thiên khai thác bauxit có thể coi như một loại hình
mang những đặc điểm riêng mà ở Việt Nam còn chưa có nhiều kinh nghiệm. Trong
tương lai, CTPHMT trong khai thác bauxit sẽ trở thành đối tượng CTPHMT lớn
nhất trong ngành khai thác khoáng sản ở Việt Nam.
Các thân quặng bauxit thường có bề dày không lớn và nằm không sâu dưới
lòng đất, nên việc đào xới để khai thác bauxit được thực hiên trên những diện tích
rất lớn (có thể lên tới hàng trăm ha mỗi năm). Mặt khác, hầu hết trữ lượng bauxit ở
Việt Nam đều nằm trên vùng đất Tây Nguyên, nơi một phần là đất trồng cà phê,
chè, một phần là rừng được trồng và một phần khác là rừng cây hỗn hợp nguyên
thủy với cả một hệ thực vật phong phú tầng thấp. Hệ động vật và côn trùng ở đó
vốn rất đa dạng và mang tính đặc thù địa phương rõ dệt. Đây cũng là đất sinh sống
của nhiều dân tộc thiểu số với truyền thống và bản sắc văn hóa phong phú. Vì vậy
công tác CTPHMT trong khai thác bauxit ở Tây Nguyên là yếu tố hàng đầu để khai
thác thành công loại khoáng sản có trữ lượng lớn và giá trị này của đất nước.
Do đặc thù công nghệ khai thác bauxit, công tác CTPHMT ở đây được thực
hiện thường xuyên và song song với hoạt động khai thác.
5. CTPHMT tại các khu vực khai thác tự phát là một nhu cầu thực tế ở Việt
Nam hiện nay. Bất cứ loại khoáng sản nào có thể bán ra thị trường (vàng, thiếc, chì,
kẽm, crômit, apatit, than,…) đều có thể được người dân khai thác một cách tự phát
bằng mọi phương thức, từ đào bới thủ công đến khai thác bán cơ giới, từ lẻ tẻ tới
tập trung, từ quy mô nhỏ tới quy mô vừa,… Khai thác tự phát thường không có
27
pháp nhân chịu trách nhiệm về môi trường và CTPHMT, do vậy hậu quả môi
trường là không nhỏ vì các khai trường tự phát tuy từng đối tượng thì không lớn
nhưng rất nhiều đối tượng trải rộng sẽ gây tác hại khắp nơi.
Từ góc độ quản lý, hiện nay có 2 loại đối tượng CTPHMT trong khai thác
khoáng sản ở Việt Nam:
(1). Những đối tượng môi trường bị tác hại của khai thác khoáng sản cần
CTPHMT nhưng hiện không có chủ thể quản lý trực tiếp, hoặc chủ thể quản lý trực
tiếp không rõ ràng, thí dụ:
- Những khai trường do lịch sử để lại đã tồn tại nhiều năm không được
CTPHMT, bị hoang hóa hoặc biến dạng sinh thái có hại tới môi trường.
- Những khai trường về hình thức đã được CTPHMT và trao trả đất, nhưng
CTPHMT không đạt yêu cầu, đất được phục hồi dần bị hoang hóa trở lại hoặc hiệu
quả sử dụng đất rất thấp.
- Các khai trường do dân chúng khai thác tự phát và bất hợp pháp.
Những đối tượng này hiện chưa có phương án bố trí kinh phí cũng như phương
án CTPHMT.
(2). Những đối tượng môi trường bị tác hại của khai thác khoáng sản cần
CTPHMT hiện có chủ thể quản lý trực tiếp, thí dụ:
- Những khai trường do lịch sử để lại từ nhiều năm chưa được CTPHMT,
nhưng vẫn thuộc phạm vi quản lý của các chủ đầu tư.
- Những khai trường đã khai thác xong hoặc đang trong quá trình khai thác,
nằm trong kế hoạch CTPHMT của các chủ đầu tư.
Đối tượng CTPHMT trong khai thác khoáng sản ở Việt Nam đã được quan tâm
nhưng chưa được xử lý bằng những giải pháp đặc thù, có tính tới những điều kiện
đặc thù riêng về việc tiếp tục sử dụng đất, phù hợp với điều kiện KT-XH vùng.
1.2.2. Thực trạng công tác cải tạo và phục hồi môi trường trong khai thác
mỏ ở Việt Nam
Năm 2004, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ và Luyện kim đã thực hiện đề tài
“Điều tra khảo sát hiện trạng và nhu cầu CTPHMT của các mỏ khai thác khoáng
sản kim loại ở Việt Nam”. Đây là một trong số ít những đề tài nghiên cứu đánh giá
28
thực trạng về công tác CTPHMT trong khai thác khoáng sản ở Việt nam được thực
hiện ở phạm vi toàn quốc. Tình hình và số liệu về công tác CTPHMT thường chỉ có
trong các báo cáo của các doanh nghiệp khoáng sản Nhà nước và một số các doanh
nghiệp lớn trong thành phần tư nhân.
Kết quả điều tra, khảo sát hiện trạng và nhu cầu CTPHMT của một số mỏ
khoáng sản kim loại ở Việt Nam theo Báo cáo kết quả đề tài trên được thể hiện
trong bảng 1.3. Các số liệu cho thấy: chỉ trong phạm vi một số mỏ thiếc, sắt và sa
khoáng titan, tỷ lệ đất sau khai thác được CTPHMT chỉ chiếm 66% so với đất đã
được sử dụng và 40% so với đất đã được cấp [43]. Tỷ lệ như vậy là thấp, gây lãng
phí về sử dụng đất và chắc chắn có tác động xấu tới môi trường và xã hội.
Bảng 1.3: Kết quả điều tra sát hiện trạng và nhu cầu CTPHMT
của một số mỏ khoáng sản kim loại ở Việt Nam [43]
Địa
Diện tích
Đã
Đất sau
Chờ
phương
Đất trước khi cấp
Đã sử dụng, m2
CTPHMT
được cấp, m2
CTPHM, m2
CTPHM, m2
Khai thác ilmenite
Hà Tĩnh
8.866.065 Cồn cát
4.795.800
4.628.200 Trồng
phi
152.600
ven biển
lao, dứa dại,
hồ nuôi tôm,
trại nuôi lợn
Nghệ An
556.000
Cồn cát ven
338.000
53.000
Bãi cỏ, hồ
285.000
biển
cá, trồng lúa
Khai thác quặng thiếc
Sơn
2.221.562 Thung lũng,
1.464.219
341.328 Công
trình
1.122.891
Dương
đồi
phúc lợi, ao
cá
Bắc
403.447
Thung lũng,
322.617
162.805
Trồng mía,
240.642
Lũng
đồi,
đất
cây
công
nông nghiệp
nghiệp
29
900.000
Thung lũng,
900.000
95.000
Nhà xưởng,
805.000
Tĩnh
đồi
nhà ăn ca
Túc
Khai thác quặng sắt
Nà Lùng
375.000 Đồi, núi đá
375.000
0
375.000
và
thung
lũng
Trại Cau
2.633.319 Đồi,
thung
1.582.819
1.190.900 Trồng
cây
1.281.419
lũng,
đất
công nghiệp
nông nghiệp
Cộng
16.255.393
9.778.455
6.471.233
4.211.752
1.3. Đánh giá chung về công tác cải tạo và phục hồi môi trường tại các mỏ than
khai thác lộ thiên trên thế giới và ở Việt Nam
1.3.1. Công tác cải tạo và phục hồi môi trường cho các mỏ than khai thác lộ
thiên trên thế giới
Nhiều nước trên thế giới đã đạt được những thành công lớn khi CTPHMT và
cải tạo các khu khai thác khoáng sản thành các trung tâm du lịch, giải trí, thể
thao,…. trên cơ sở các giải pháp chung được khái quát như sau:
- Có chính sách và mục tiêu đúng cho công tác CTPHMT:
+ CTPHMT là một phần tất yếu của quá trình khai thác khoáng sản.
+ Quy định các chỉ tiêu đánh giá mức độ thành công của công tác CTPHMT,
trong đó có những chỉ tiêu quan trọng như: độ luân hồi dinh dưỡng, độ ổn định đất,
mật độ cư trú của chim, các chỉ tiêu về chất lượng nước ngầm,... Những chỉ tiêu này
được so sánh với các chỉ tiêu tương ứng của các khu rừng nguyên thuỷ xung quanh.
- Đầu tư đúng cả về công nghệ và nhân lực cho công tác CTPHMT. Bảo đảm
đầy đủ các khoản tài chính và sử dụng chúng một cách hợp lý.
- Đặc biệt chú trọng công tác nghiên cứu các điều kiện và chuẩn bị công tác
phục hồi trước khi bắt đầu khai thác và tiếp tục sau khi kết thúc khai thác.
30
- Xử lý tốt các mối quan hệ về quyền lợi có liên quan tới đất đai và môi trường
giữa doanh nghiệp và cộng đồng, động viên và thu hút cộng đồng cùng thực hiện
CTPHMT từ những góc độ đặc trưng và thuận lợi khác nhau.
- Cộng đồng có quyền giám sát và khiếu kiện về những sai sót trong quá trình
CTPHMT kéo dài sau đó.
- Công nghệ CTPHMT môi trường được bắt nguồn ngay trong công nghệ khai
thác và chế biến khoáng sản.
- Có quá trình thực hiện đúng, khoa học cho công tác CTPHMT:
+ Các kế hoạch và dự trù tài chính cho chương trình môi trường dài hạn được
lập trước khi bắt đầu khai thác. Chủ đầu tư có trách nhiệm bảo đảm chương trình
môi trường của họ được thực thi và làm cho cộng đồng cũng nhận thức như vậy.
+ Đánh giá hiệu quả của quá trình CTPHMT bằng quá trình quan trắc và điều
chỉnh nhiều năm sau đó.
+ Lớp đất màu nguyên thủy được bóc khi khai thác được cất giữ để hoàn trả
hoặc sử dụng trực tiếp vào những diện tích đất khác đang được CTPHMT.
+ Trong quá trình CTPHMT cần theo dõi và điều chỉnh tính ổn định, mức độ
xói mòn và khả năng thoát nước của khu vực.
+ Trình tự thực hiện công tác CTPHMT ngay từ khi bắt đầu khai thác bằng
việc: khảo sát, sưu tầm, nghiên cứu, lập hồ sơ và cất giữ các vật mẫu về đất, nước,
các loài sinh vật cũng như giống, gen động thực vật; bóc lớp đất màu và lớp đất phủ
và chuyển tới các vị trí tập kết riêng biệt gần khai trường và bảo quản chúng cho tới
khi được sử dụng lại; kết thúc khai thác từng khu vực theo kế hoạch; kết nối mặt
bằng sau khi kết thúc khai thác được với địa hình tự nhiên nhằm tạo điều kiện thoát
nước, phong hoá và thẩm thấu; tái tạo hệ thực vật và động vật; triển khai theo dõi,
bao gồm quan trắc và nghiên cứu các biến đổi, đề xuất các giải pháp tiến bộ nhằm
bảo đảm điều kiện tối ưu để các hệ thực vật và động vật trên khu vực CTPHMT
phát triển bình thường và ổn định, dần trở về trạng thái gần như nguyên thuỷ với tất
31
cả các yếu tố của hệ sinh thái tự nhiên vốn có trước khi khai thác; không để xảy ra
cháy rừng trong các khu vực đang CTPHMT.
+ Đội ngũ chuyên gia môi trường đủ về số lượng và vị trí, có trình độ chuyên
môn cao và kinh nghiệm thực tế phong phú.
+ Các phòng thí nghiệm, phòng phân tích, hệ thống quan trắc, phương tiện lưu
trữ, bảo quản, phương tiện kiểm tra, hệ thống thông tin,... được đầu tư hiện đại và
hoạt động có hiệu quả.
+ Công tác quản lý CTPHMT ít nhất 7 năm trước khi bàn giao cho người nông
dân. Trong thời gian này, công ty mỏ có thể khai thác, sử dụng đất và tìm ra loại
cây trồng phù hợp với khu vực đó. Phải bảo hành thêm một thời gian khoảng 10
năm cho những rủi ro của các biện pháp cải tạo đất đã áp dụng. Bảo hành thêm 8
năm nữa để kiểm soát những rủi ro có thể xảy ra trong việc quản lý và đảm bảo lợi
nhuận mang lại khi khai thác vùng đất đã được CTPHMT này. Tổng thời gian một
mỏ tại CHLB Đức phải có trách nhiệm đối với việc CTPHMT những bãi thải của họ
lên tới 25 năm.
Như vậy, nhờ được quan tâm từ giai đoạn thiết kế, việc CTPHMT được quản lý
theo định hướng, nhờ thế giảm thiểu được chi phí cải tạo, loại bỏ các rủi ro do
không theo hướng đa mục tiêu, đảm bảo sự hài hòa của mỏ được cải tạo trong mối
quan hệ tổng thể các mỏ trên khu vực, đáp ứng việc tiếp tục sử dụng tài nguyên đất
và tài nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế vùng, duy trì hoạt động CTPHMT hiệu
quả, bền vững.
1.3.2. Công tác cải tạo và phục hồi môi trường cho các mỏ than khai thác lộ
thiên ở Việt Nam
Năm 2009, Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ và Luyện kim thực hiện nghiên
cứu về phục hồi môi trường với dự án “Xây dựng quy trình CTPHMT các vùng
khai thác các loại hình khoáng sản và hỗ trợ CTPHMT cho một đơn vị khai thác
khoáng sản” và Nhiệm vụ “Xây dựng mô hình ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm và
CTPHMT trong khai thác, chế biến sa khoáng ven biển”. Đây là những nghiên cứu
32
khá toàn diện các vấn đề lý thuyết và thực tiễn công tác CTPHMT trong khai thác
khoáng sản ở Việt Nam.
Từ các công trình nghiên cứu ở trên và qua việc phân tích thực trạng công tác
CTPHMT tại các mỏ than KTLT ở Việt Nam, NCS khái quát một số bất cập lớn
trong công tác CTPHMT sau khai thác khoáng sản ở Việt nam hiện nay như sau:
1. CTPHMT trong khai thác khoáng sản ở Việt Nam hiện rất thiếu những cơ sở
pháp lý cụ thể và rõ ràng, kể từ Luật Khoáng sản cho tới các văn bản dưới luật.
2. Công tác CTPHMT trong khai thác khoáng sản ở Việt Nam hiện còn thiếu
cơ sở lý luận, các tiêu chuẩn kỹ thuật, các quy định chuyên môn,... để thực hiện.
Công tác khoa học và công nghệ, tổng kết thực tế chưa được thực hiện một cách hệ
thống và đồng bộ. Phương tiện vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng
yêu cầu.
3. Nguồn tài chính cho công tác CTPHMT cũng chưa rành mạch, chưa đủ và
chưa hợp lý. Giải pháp tài chính cho những đối tượng CTPHMT hiện không có chủ
thể quản lý trực tiếp, hoặc chủ thể quản lý trực tiếp không rõ ràng.
4. Công tác CTPHMT dường như mới chỉ được thực hiện bị động trong giai
đoạn cuối của mỏ mà không được nhìn nhận và định hướng ngay từ dự án đầu tư
khai thác mỏ. Những nghiên cứu dài hạn về đối tượng hoàn phục, các số liệu thống
kê, các kế hoạch phát triển mỏ,... thường ít khi gắn kết và đồng bộ với quá trình
CTPHMT. Dự án đóng cửa mỏ nói chung còn cần phải nâng cấp về chất lượng, đặc
biệt là đối với nội dung phục hồi môi trường trong đó.
5. Công tác CTPHMT chưa được định hướng chức năng sử dụng đất để hòa
nhập khu vực được CTPHMT với cảnh quan xung quanh. Mặt khác, để thay đổi về
địa hình, cảnh quan và mục đích sử dụng của vùng CTPHMT theo hướng tích cực
hơn so với hiện trạng CTPHMT của nó thì phải tốn kém một khoản kinh phí đã
CTPHMT trước đó chưa phù hợp và tiếp tục phải mất một khoản kinh phí để phá
bỏ, cải tạo khu vực đã CTPHMT, gây lãng phí nguồn lực về tài nguyên đất và kinh
tế của xã hội [46].
33
6. Công tác CTPHMT sau khai thác thường chỉ được những công ty lớn quan
tâm và thực hiện ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, việc CTPHMT thường không kịp
thời, không triệt để và không hoàn chỉnh về mặt kỹ thuật. Nhiều diện tích sau khai
thác không được CTPHMT và vẫn giữ nguyên trạng thái hoang hóa. Một số nơi
thực hiện CTPHMT “chiếu lệ”, chất lượng thấp, không có giá trị sử dụng và cũng
dần trở thành hoang hóa. Ngay các diện tích được CTPHMT tương đối bài bản cũng
khó mà có lại được giá trị ban đầu trước khai thác. Công tác theo dõi, quan trắc,
hiệu chỉnh, duy trì chất lượng và lưu trữ số liệu cho các đối tượng sau CTPHMT
hầu như bị lãng quên.
7. Nhìn chung nhận thức và trách nhiệm về CTPHMT trong giới quản lý Nhà
nước và doanh nghiệp chưa cao. Ý thức và vai trò của cộng đồng trong việc đòi hỏi,
kiểm tra và tham gia thực hiện CTPHMT còn rất hạn chế.
1.4. Kết luận chương
Thực hiện quy định của Nhà nước, các doanh nghiệp mỏ có trách nhiệm phải
tiến hành CTPHMT, nhằm trả môi trường và hệ sinh thái về tình trạng ban đầu hoặc
đưa môi trường và hệ sinh thái tương tự như môi trường và hệ sinh thái trước khi
khai thác, đồng thời đảm bảo yêu cầu về BVMT và phục vụ các mục đích có lợi
khác cho con người.
Tuy nhiên, trên thực tế, trong các năm qua, công tác quản lý và chế tài thực
hiện và cơ sở kỹ thuật về CTPHMT còn nhiều bất cập. Trên cơ sở thực tiễn việc
CTPHMT thành công của các nước phát triển trên thế giới; việc quản lý kỹ thuật
CTPHMT cần tiếp thu có chọn lọc các phương thức quản lý cũng như các giải pháp
kỹ thuật nhằm vận dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam, tăng cường công tác
quản lý kỹ thuật CTPHMT để đạt được kết quả CTPHMT tại một số vùng tiêu biểu
phục vụ cho việc trình diễn cộng đồng.
Một số giải pháp quản lý - kỹ thuật cần được nghiên cứu áp dụng phù hợp vào
thực tiễn hoạt động khai thác khoáng sản ở nước ta nói chung và các mỏ than KTLT
vùng HG-CP nói riêng, cụ thể:
34
- Quy định định hướng vùng chức năng sử dụng đất để các mỏ phải lập đề án
CTPHMT cũng như thực hiện CTPHMT theo định hướng vùng đã quy định. Việc
CTPHMT sau khai thác mỏ phải được dựa trên định hướng CTPHMT cho vùng có
hoạt động khai thác mỏ kết thúc, đồng thời cũng phải phù hợp với qui hoạch khai
thác mỏ và các qui hoạch khác của địa phương. Do vậy, cần có định hướng chức
năng sử dụng đất trên cơ sở ĐMT vùng, để tránh lãng phí về tài nguyên đất và kinh
phí để phá bỏ các công trình CTPHMT chưa phù hợp với cảnh quan xung quanh khi
KT-XH của vùng phát triển để thay đổi về địa hình, cảnh quan và mục đích sử dụng
của vùng CTPHMT theo hướng tích cực hơn.
- Xây dựng các giải pháp quản lý kỹ thuật CTPHMT thực hiện lồng ghép trong
hoạt động khai thác khoáng sản nhằm đạt được CTPHMT đa mục tiêu.
- Quy định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của công tác CTPHMT để có cơ sở
xem xét mức độ thành công của công tác CTPHMT, đồng thời cũng là cơ sở khoa
học và thực tiễn cho phép chủ mỏ được phép đóng cửa mỏ.
35
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG TẠI
CÁC MỎ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN VÙNG HÒN GAI - CẨM PHẢ
2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên và phát triển kinh tế - xã hội vùng
Hòn Gai - Cẩm Phả
Khu vực HG-CP có địa giới hành chính thuộc thành phố Hạ Long và thành phố
Cẩm Phả có điều kiện tự nhiên đa dạng, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nằm sát
khu đô thị trung tâm thành phố. Thành phố Hạ Long và thành phố Cẩm Phả có diện
tích tự nhiên là 27.150 ha và 48.623 ha; có địa hình đồi núi thấp, dốc, gồm nhiều
sông suối chảy vào vịnh Hạ Long và Bái Tử Long [34].
Hình 2.1: Vị trí vùng Hạ Long và Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh [54]
Hình 2.2: Bản đồ đánh giá độ dốc địa hình vùng HG-CP [36]
36
Vùng HG-CP có trữ lượng than đá dồi dào (khoảng 3,5 tỷ tấn) và tài nguyên đá
vôi phong phú. Ngoài than đá, vùng HG-CP còn là nơi có tài nguyên du lịch rất đa
dạng từ du lịch tự nhiên đến du lịch văn hóa, lịch sử. Địa điểm du lịch nổi tiếng nhất
trong vùng là vịnh Hạ Long, mang ý nghĩa quốc gia và quốc tế, được UNESCO
công nhận là Di sản thiên nhiên về địa chất, địa mạo và đã được bầu chọn là một
trong 7 Kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới. Vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long
có vẻ đẹp tự nhiên thơ mộng và kỳ vĩ với các đảo đá vôi nổi lên trên nền biển xanh
biếc. Vẻ đẹp của vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long đã thu hút sự quan tâm của
nhiều du khách trong và ngoài nước. Ngoài vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long,
trong vùng còn có nhiều địa điểm du lịch tâm linh hấp dẫn như: núi Bài Thơ, chùa
Long Tiên, đền Cửa Ông, chùa Cái Bầu,….
Do có lợi thế về tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên than đá và du lịch nên hệ
thống KT-XH trong vùng có liên quan mật thiết với các nguồn tài nguyên này, các
ngành kinh tế hỗ trợ cũng có sự phát triển đa dạng và năng động.
Tất cả các nhân tố trên tạo động lực thúc đẩy phát triển KT-XH của thành phố
Hạ Long và thành phố Cẩm Phả với tốc độ thuộc loại cao nhất trong tỉnh Quảng
Ninh, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế chung của cả tỉnh và vùng kinh
tế trọng điểm phía Bắc.
2.2. Tài nguyên đất vùng Hòn Gai - Cẩm Phả
Trên cơ sở tổng hợp số liệu kiểm kê đất đai năm 2005 của các đơn vị lãnh thổ
hành chính thuộc vùng nghiên cứu, thì tổng diện tích tự nhiên của 2 thành phố Hạ
Long và Cẩm Phả là 177.202,23 ha, trong đó:
- Nhóm đất nông nghiệp có 115557.35 ha chiếm 65,2 %; nhóm đất phi nông
nghiệp 37927.81 ha, chiếm 21.4%; nhóm đất chưa sử dụng 24527.07 ha, chiếm
13,84 % tổng diện tích tự nhiên của vùng [35].
Tài nguyên đất của vùng HG-CP được thể hiện trong bảng 2.1.
37
Bảng 2.1: Tài nguyên đất vùng HG-CP [35]
Diện tích, ha
Tên
Mã
Cẩm Phả
Hạ Long
Đất khai thác than
KSK
4961.75
1592.87
Đất ở đô thị
ODT
1579.75
1724.03
Đất ở nông thôn
ONT
43.59
Rừng phòng hộ
RHP
1781.19
1086.89
Rừng sản xuất
RSX
5739.09
380.12
Đất khu công nghiệp
SKC
1041.69
268.51
các loại đất khác
Khác
4263.54
1962.70
7015.13
Tổng
19410.60
(Chi tiết được thể hiện trên hình 2.3 vị trí, ranh giới khoanh vùng khu
vực khai thác than tại vùng HG-CP )
Ghi chú:
Vùng hoạt
động khai thác
than;
Ranh
giới xác định
tài nguyên đất
vùng HG-CP
Hình 2.3: Vị trí, ranh giới khai thác than tại vùng HG-CP
2.3. Thực trạng khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả
2.3.1. Khái quát hoạt động khai thác than
Trong những năm qua cũng như hiện nay, khai thác than lộ thiên vùng HG-CP
luôn đóng vai trò chủ đạo trong việc đáp ứng sản lượng của ngành Than. Theo
38
thống kê, sản lượng than KTLT vùng HG-CP trong những năm qua chiếm khoảng
55÷65% tổng sản lượng than khai thác của toàn ngành.
Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) hiện có 5
mỏ than KTLT lớn là Đèo Nai, Cọc Sáu, Cao Sơn, Núi Béo và Hà Tu. Ngoài ra, còn
có khoảng hơn 20 mỏ nhỏ, điểm khai thác lộ vỉa thuộc Tổng Công ty Đông Bắc,
Công ty TNHH MTV Dương Huy, Quang Hanh,… và các công ty khác. Tỷ trọng
đóng góp của than KTLT trong tổng sản lượng than của Vinacomin trung bình là
5570%. Mức tăng trưởng trung bình sản lượng than nguyên khai hàng năm từ
20082012 của ngành Than là 4,3%, của KTLT là 0,86%.
Các khâu công nghệ cơ bản trong các mỏ than KTLT là chuẩn bị đất đá, xúc
bóc, vận chuyển và thải đất đá đã có những sự đổi mới về công nghệ, thiết bị, kèm
theo đó là những thay đổi trong cơ chế quản lý, làm chuyển biến rõ rệt phong cách
lao động của công nhân, tư duy công nghệ của cán bộ quản lý và điều hành sản xuất
trên các mỏ.
Bảng 2.2: Sản lượng than và đất đá bóc vùng HG-CP [14]
Sản lượng theo năm
TT
Nội dung
Đơn vị
2009
2010
2011
2012
Tổng
1 Than nguyên khai
103 tấn
31000
32500
33000
36540
133040
2 Đất đá bóc
103 m3 151000
155000
159500 165000
630500
3 Hệ số bóc
m3/tấn
4,9
4,8
4,8
4,5
4,7
Mức tăng trưởng trung bình sản lượng than nguyên khai hàng năm từ năm
20092012 của các mỏ than KTLT vùng HG-CP là 5,7%.
Lượng đất đá thải của một số mỏ than KTLT lớn ở vùng Cẩm Phả được thể
hiện trong bảng 2.3 và dự báo khối lượng đất đá thải trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
trong các giai đoạn được thể hiện trong bảng 2.4.
39
Bảng 2.3: Khối lượng đất đá thải hàng năm của một số mỏ than KTLT lớn [15]
TT
Năm
Cao Sơn, 103 m3
Cọc Sáu, 103 m3
Đèo Nai, 103 m3
Cộng, 103 m3
29.139
1
2007
23.351
72.266
19.776
32.597
2
2008
24.695
78.342
21.050
34.128
3
2009
26.666
84.544
23.750
37.644
4
2010
27.008
90.902
26.250
43.344
5
2011
32.100
105.498
30.054
Bảng 2.4: Dự báo khối lượng đất đá thải vùng HG-CP [12]
Khối lượng đất đá thải, 103 m3
Tên khu vực
Tổng số
2012 -2015
2015-2020
2021-2025
2026-2030
Sau 2030
Toàn ngành
5.822.170
1.197.458
975.656
1.025.790
674.660
1.948.615
Vùng Hòn Gai
280.313
273.867
6.446
Vùng Cẩm Phả
5.541.867
923.591
969.210
1.025.790
674.660
1.948.615
Số liệu tại bảng 2.4 cho thấy: lượng đất đá thải hàng năm của các mỏ than KTLT tại thành phố Cẩm Phả là rất lớn (gần 100 triệu m3/năm); tổng khối lượng đổ
thải của các mỏ than KTLT vùng HG-CP từ năm 2010 đến sau năm 2030 dự kiến sẽ là hơn 5 tỷ m3. Chiều cao trung bình của các bãi thải rất lớn từ 100÷300 m; khoảng
cách bãi thải đến Quốc lộ 18A và 18B sẽ từ 0,5 km đến 30 km.
Diện tích đất có thảm thực vật mà các mỏ than KTLT của Vinacomin chiếm
dụng để mở khai trường và đổ đất đá thải là rất lớn (Hình 2.4). Riêng vùng than
Quảng Ninh, có 29 mỏ than KTLT lớn nhỏ, đã sử dụng gần 5.000 ha. Trong đó,
vùng HG-CP đã chiếm tới 3.600 ha (5 mỏ lớn là Núi Béo, Hà Tu, Đèo Nai, Cao Sơn
và Cọc Sáu).
40
Hình 2.4: Phân bố khối lượng đổ thải các khu vực khai thác than lộ thiên [23]
2.3.2. Đánh giá chung về những tác động môi trường chính gây ra do khai
thác than lộ thiên tại vùng Hòn Gai - Cẩm Phả
Ảnh hưởng của hoạt động khai thác than lộ thiên nói chung và đối với vùng
HG-CP nói riêng là rất đáng kể. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng
làm ô nhiễm môi trường nước; làm biến đổi chế độ thủy văn, chế độ dòng chảy, bồi
lấp dòng chảy, đưa một số kim loại nặng và các chất độc hại vào môi trường
nước,... Việc khoan, bơm hút nước từ các moong khai thác làm cạn kiệt, suy giảm
trữ lượng nước ngầm và ô nhiễm tại một số điểm, dẫn đến xâm nhập mặn,... Phần
lớn các khai trường đều nằm ven biển, các bãi sàng tuyển, các cảng than được thiết
kế nằm ngay sát biển là nguyên nhân chính làm ô nhiễm môi trường nước biển và
gây bồi lấp tại nhiều nơi [24].
Tại các vùng khai thác than ở HG-CP, môi trường nói chung và môi trường
đất nói riêng bị suy thoái và ô nhiễm rất nặng nề. Hoạt động khai thác than đã tàn
phá địa hình và cảnh quan, đồng thời làm xuất hiện xói mòn và trượt lở đất với
nguy cơ rất cao [26].
Hiện tượng xói mòn đất trong vùng HG-CP cũng diễn ra khá mạnh mẽ khi
lớp phủ rừng đã bị suy thoái và phá hủy nhiều. Mặc dù độ che phủ rừng trong vùng
theo các con số thống kê lên tới trên 40 %, tuy nhiên, chất lượng rừng lại rất đáng lo
ngại, chủ yếu là rừng nghèo kiệt. Chính vì thế, lượng đất bị xói mòn trong vùng khá
lớn, trung bình lên tới 300÷500 tấn/ha/năm [37].
41
Hình 2.5: Xói mòn đất đá thải tại bãi thải cũ khu Bù Lù - mỏ Tân Lập
Tại các khu vực khai thác than, môi trường nói chung và môi trường đất nói
riêng bị suy thoái và ô nhiễm rất nặng nề. Hoạt động khai thác than đã tàn phá địa
hình và cảnh quan, đồng thời làm xuất hiện xói mòn và trượt lở đất với nguy cơ rất
cao.
Tại vùng HG-CP, trong thời gian gần đây đã xảy ra nhiều vụ trượt lở đất và
lũ bùn đá nguy hiểm. Hiện tượng tai biến này ngoài tác động tự nhiên còn có sự ảnh
hưởng chủ yếu của hoạt động khai thác than. Với hiện trạng khai thác than như hiện
nay, một lượng lớn đất đá được chất lên, tạo thành những bãi thải cao với vật liệu là
đất đá bở rời. Đó chính là các khu vực có nguy cơ trượt lở đất và lũ bùn đá cao.
Trong mùa mưa năm 2005, tại mỏ than Cao Sơn, gần nửa triệu m3 đất đá từ
bãi thải đã bị trượt lở, lấp kín cả hệ thống đê chắn và một cửa lò than ở mức +36 vỉa
69 của Công ty than Mông Dương, gây thiệt hại nặng nề. Trong mùa mưa năm
2006, dòng nước chứa đầy bùn đá từ bãi thải Khe Rè phá tan thân đập số 1, đưa
toàn bộ khối nước cùng bùn, đất xuống phía trước thân đập số 2. Với động năng sẵn
có, dòng bùn đất đá đã gây áp lực và phá vỡ đập chắn số 2. Dòng vật liệu này tiếp
tục di chuyển xuống đập chắn thứ 3. Với cơ chế liên tục như vậy, nó tiếp tục phá
đập số 3 và tạo ra dòng bùn đất đá lớn phá hủy khu vực dân cư ở phía dưới.
Vật liệu có nguy cơ phát sinh trượt lở cao, chính là các bãi thải của các mỏ
khai thác than lộ thiên nằm ngay ở phần thượng nguồn của các con suối. Các bãi
thải này có chiều cao lớn, đất đá thải có độ gắn kết kém, đặc biệt là có độ chênh cao
42
và độ dốc rất lớn, nên việc xảy ra hiện tượng trượt lở, đưa vật liệu ồ ạt xuống lòng
suối là chuyện khó có thể tránh được.
Tại vùng than HG-CP, hiện tượng xói mòn, trượt lở đất không chỉ làm mất
đất mà còn kéo theo nhiều chất hữu cơ trong đất, làm mất kết cấu, qua đó đe dọa
đến khả năng phục hồi và các phương án CTPHMT sau khai thác.
Sau khi kết thúc khai thác, vẫn có các tác động tiếp tục gây ô nhiễm môi
trường và là nguy cơ làm suy thoái và ô nhiễm môi trường tại nhiều nơi, làm biến
đổi địa hình và cảnh quan, xói mòn, rửa trôi và sạt lở đất, làm ảnh hưởng đến sự
phát triển du lịch và khu đô thị xanh của vùng HG-CP, làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến đời sống của nhân dân, đặc biệt là môi trường không khí.
Hậu quả của quá trình khai thác than đến môi trường vùng mỏ, nhất là khu vực
khai thác than tập trung như ở vùng HG-CP nói riêng và Quảng Ninh nói chung là
một vấn đề có tính chất lịch sử đã tồn đọng nhiều năm trước đây và hiện tại chưa có
điều kiện khắc phục một cách triệt để.
Để giải quyết triệt để các vấn đề môi trường của vùng HG-CP, cần nghiên cứu,
tiến hành ĐMT các vùng trọng điểm trong mối quan hệ tổng thể của các nguồn gây
ô nhiễm môi trường từ các vùng khai thác than và vùng công nghiệp nằm lân cận
các khu đô thị, du lịch,... Từ đó, xác định các vùng ưu tiên tập trung thực hiện các
giải pháp riêng biệt và tổng thể trong bối cảnh nền kinh tế còn chưa phát triển,
nguồn lực tập trung cho công tác BVMT còn hạn chế. Tạo thành vùng ưu tiên
BVMT, CTPHMT đa mục tiêu (với việc đạt hiệu quả BVMT và sử dụng đất mang
lại hiệu quả kinh tế) sau khi đóng cửa mỏ tránh lãng phí trong khi quỹ đất tại khu
vực HG-CP ngày càng hạn hẹp cho việc phát triển không gian xanh, khu vui chơi
giải trí, du lịch,…
Trên cơ sở các phân tích, thống kê và tổng hợp ở trên cho thấy: hoạt động khai
thác than lộ thiên ở vùng HG-CP đã kéo dài và gây nhiều tác động tiêu cực tới môi
trường khu vực. Những ảnh hưởng xấu trên của các mỏ than KTLT vùng HG-CP
chỉ kết thúc sau khi chúng đã được CTPHMT đúng, phù hợp với cảnh quan môi
trường, thổ nhưỡng, khí hậu và sự phát triển của khu vực,…
43
Hoạt động khai thác than nói chung và khai thác than lộ thiên nói riêng đã diễn
ra tại khu vực HG-CP từ hàng trăm năm nay, trong khi việc quan tâm đến công tác
CTPHMT mới chỉ bắt đầu từ khi có quyết định số 71/QĐ-CP ngày 29/5/2008 của
Chính phủ về ký quỹ CTPHMT trong hoạt động khoáng sản (HĐKS) và quy định
về đóng cửa mỏ theo quy định của Luật Khoáng sản 2006 và Luật Khoáng sản
chỉnh sửa, bổ sung 2010.
Mặt khác, công tác CTPHMT cho các mỏ than khai thác lộ thiên thường phải
sau 40÷50 năm mới có kết quả cụ thể. Nếu không quan tâm ngay từ khi bắt đầu khai
thác mỏ và trong quá trình sản xuất, với hậu quả nghiêm trọng của khai thác lộ thiên
tại vùng HG-CP (tạo ra các khu vực đồi núi nham nhở, bờ mỏ và bãi thải mất ổn
định, nguồn nước ngầm bị cạn kiệt và ô nhiễm,…) sẽ làm cho công tác CTPHMT,
làm xanh trở lại những vùng đất đã kết thúc khai thác tại khu vực này hết sức khó
khăn. Công tác CTPHMT cho vùng HG-CP cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, toàn
diện và phải được triển khai đồng bộ.
2.4. Hiện trạng công tác cải tạo và phục hồi môi trường tại các mỏ than
khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả
2.4.1. Cơ sở pháp lý và công tác cải tạo và phục hồi môi trường giai đoạn
1993-2008
2.4.1.1. Giai đoạn 1993-1998
Giai đoạn trước năm 1993 và trong khoảng 1993-1998 là mốc thời điểm trước và
sau khi Luật BVMT ra đời 5 năm. Luật BVMT ra đời nhưng chưa đi vào cuộc sống.
Ngành than chưa phát triển, sản lượng than thấp. Hoạt động KTLT trên cơ sở các thiết
bị chưa được đổi mới như hiện nay. Việc CTPHMT chưa được quan tâm; hầu hết các
khai trường KTLT khi kết thúc khai thác được giữ nguyên hiện trạng với các bờ tầng
phía vách và bờ trụ gần như bị chập tầng suốt từ mặt mỏ đến đáy khai trường; bãi thải
không phân tầng, không thực hiện trồng cây phủ xanh mà để thảm thực vật tự phát
triển, tự phục hồi.
Trong giai đoạn này, địa hình tại khu vực khai thác không có sự thay đổi so với
khai trường mỏ than KTLT khi kết thúc khai thác. Sau quá trình tự phục hồi từ 10÷20
44
năm, thực vật phát triển chủ yếu là lau, le với mật độ phát triển không đồng đều, còn
nhiều khu vực trơ đá gốc không có thảm thực vật.
2.4.1.2. Giai đoạn 1998-2005
Trong giai đoạn này, Luật BVMT 1993 đã đi vào cuộc sống; ngành Than đang
trong giai đoạn phát triển; KTLT với sản lượng cao trên cơ sở công nghệ khai thác
khấu theo lớp đứng với các thiết bị tiên tiến. Việc CTPHMT bắt đầu được quan tâm
bằng việc Tổng Công ty than Việt Nam đã phối hợp với UBND tỉnh lập và thực hiện
dự án khắc phục ô nhiễm do khai thác than nhiều năm (1998) với việc CTPHMT bãi
thải Nam Lộ Phong (khu vực Hòn Gai) và Bãi thải Đèo Nai (khu vực Cẩm Phả).
Trong giai đoạn này, hoạt động CTPHMT tại các khai trường, bãi thải đã kết thúc
của KTLT khác cũng chưa được CTPHMT như lộ vỉa mỏ Cao Thắng; các mỏ Giáp
Khẩu, Hà Lầm và các lộ vỉa khu vực Quang Hanh, Dương Huy và Mông Dương).
2.4.1.3. Giai đoạn 2005-2008
Luật BVMT năm 2005 đã dành riêng Điều 44 để quy định về “BVMT trong
HĐKS” có nội dung “Tổ chức, cá nhân khi tiến hành thăm dò, khai thác, chế biến
khoáng sản phải có biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và thực hiện
các yêu cầu về bảo vệ, phục hồi môi trường sau đây: phục hồi môi trường sau khi
kết thúc hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản”.
Luật Khoáng sản 2010, có điều 30 quy định trực tiếp về BVMT và CTPHMT
trong khai thác khoáng sản có nội dung như sau: “Tổ chức, cá nhân HĐKS phải sử
dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu thân thiện với môi trường; thực hiện các giải pháp
ngăn ngừa, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường và CTPHMT theo quy định của
pháp luật,… Trước khi tiến hành khai thác khoáng sản, tổ chức, cá nhân khai thác
khoáng sản phải ký quỹ CTPHMT theo quy định của Chính phủ”.
Tuy nhiên, những vấn đề về CTPHMT nêu tại Luật BVMT và Luật Khoáng
sản chưa đủ cơ sở pháp lý để thực hiện một cách hữu hiệu công tác này nên hầu hết
các đơn vị khai thác mỏ chưa ký quỹ CTPHMT và chưa thực hiện công tác
CTPHMT theo quy định của Chính phủ trong thời gian này.
45
Nội dung CTPHMT rất đơn giản, chỉ bao gồm việc trồng cây trên sườn và mặt
bãi thải; không tiến hành cắt tầng, nghiên cứu thổ nhưỡng; không thu gom nước mặt
và ổn định sườn tầng bãi thải. Do vậy, kết quả CTPHMT không cao, tỷ lệ phủ xanh
thành công không lớn, bãi thải vẫn bị xói mòn và sạt lở cục bộ [12].
2.4.2. Cơ sở pháp lý và công tác cải tạo và phục hồi môi trường giai đoạn
2008÷2013
Trong giai đoạn này, Chính phủ ban hành quy định về CTPHMT tại Quyết định
số 71/2008/QĐ-TTg về ký quỹ CTPHMT đối với HĐKS (nay là Quyết định số
18/2013/QĐ-TTg Chính phủ về ký quỹ CTPHMT đối với HĐKS thay thế Quyết
định số 71/2008/QĐ-TTg). Hầu hết các dự án hoạt động khai thác khoáng sản cũng
như hoạt động KTLT đã thực hiện lập dự án CTPHMT trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt để thực hiện ký quỹ BVMT.
2.4.2.1. Công tác cải tạo và phục hồi môi trường một số bãi thải lớn
Một số bãi thải lớn có cao độ cao hơn các dãy núi tự nhiên, sát khu dân cư, làm
ô nhiễm môi trường và làm xấu cảnh quan khu vực khi nhìn từ vịnh Hạ Long và Bái
Tử Long, được tiến hành CTPHMT. Hiện trạng CTPHMT các bãi thải này như sau:
a. Mặt đã làm được
- Bãi thải Chính Bắc thuộc Công ty Than Núi Béo là một bãi thải lớn (thuộc
phường Hà Khánh), có nhiều đơn vị cùng đổ thải: Núi Béo, Hà Tu, Hòn Gai, Hà
Lầm), đã được đổ thải từ năm 2006, có độ cao hơn 200 m, đã cao vượt các dãy núi
cao ở khu vực Hà Khánh (khi nhìn từ Cầu Bãi Cháy, thành phố Hạ Long). Năm
2010, Công ty than Núi Béo đã lập và thực hiện riêng phương án CTPHMT cho bãi
thải Chính Bắc, hiện đang triển khai trồng thí điểm cỏ Ventiver và cây găng ở sườn
tầng, trồng keo phủ xanh mặt tầng các khu vực đã kết thúc đổ thải (từ nguồn kinh
phí quỹ môi trường của Vinacomin) [9].
- Bãi thải Nam Lộ Phong thuộc Công ty Than Hà Tu là một bãi thải lớn (thuộc
phường Hà Khánh), cũng có nhiều đơn vị cùng đổ thải: Núi Béo, Hà Tu, Hòn Gai,
Hà Lầm, đã được đổ thải từ thời Pháp thuộc đến năm 2008, có độ cao hơn 240m,
hiện đã cao hơn các dãy núi ở khu vực Hà Phong (nhìn từ cầu Hà Phong, thành phố
46
Hạ Long). Bãi thải này cũng đã được Công ty than Hà Tu tiến hành CTPHMT với
các công việc như: cải tạo lại các tầng của bãi thải, trồng cây phủ xanh sườn tầng và
mặt tầng các khu vực đã kết thúc đổ thải [41].
- Bãi thải Đèo Nai với chiều cao hơn 240 m được đổ thải thành các tầng cao
30m, với chiều rộng mặt tầng khoảng 30m và cũng đã thực hiện CTPHMT với
phương án trồng cỏ lau le, keo tai tượng xen lẫn thông (số lượng thông chiếm tỷ lệ
rất nhỏ) tại sườn tầng và trồng cây keo phủ xanh mặt tầng bãi thải và bờ tầng thải.
Ngoài ra, trên bờ tầng thải xây dựng các mương thoát nước có các bậc tiêu
năng, phía dưới bậc tiêu năng ở chân bãi thải có hố lắng và tường chắn nước, cách
chân bãi thải khoảng 30÷50m có xây dựng đê chắn kiên cố với mặt đê là đường vận
chuyển than chuyên dùng của vùng.
Hiện nay, cây keo tai tượng đã phát triển tốt trên mặt tầng với chiều cao từ
3÷5m ở chân bãi thải phía Đông đập ngăn nước, xung quanh có hàng cây liễu rủ và
rừng phi lao tạo thành hồ sinh thái có cảnh quan rất đẹp ở khu vực này. Ngoài ra,
khu vực dãy núi Tây Khe Sim với chiều dài hơn 3 km, trước kia là nơi đổ thải của
các mỏ trong khu vực, nay cũng đã được trồng cây phủ xanh [42].
b. Những tồn tại
Tuy nhiên, công tác CTPHMT chưa thực sự đạt hiệu quả: sau nhiều năm (trên
5 năm) cây keo già và gẫy nhưng chưa có thảm thực vật bậc thấp thay thế do chúng
khó phát triển dưới tán cây keo. Do sự rửa trôi, xói mòn đất đá lớn trên sườn bãi
thải nên có nguy cơ tái hồi hiện trạng trơ đất đá thải sau mưa (như một số khu vực
tại bãi thải chính Bắc và Nam Lộ Phong,…). Mặc dù cỏ ventiver trồng ở sườn bãi
thải đã hạn chế rửa trôi ở một số vị trí, nhưng các sườn bãi thải này chỉ có mầu xanh
vào mùa mưa, còn vào mùa khô đất đá lại có màu xám xịt. Như vậy cỏ ventiver
chưa mang lại cảnh quan như mong muốn.
Bên cạnh đó, các dãy núi chạy dọc theo Quốc lộ 18A từ phường Cẩm Thạch
đến Mông Dương còn nhiều khai trường, bãi thải đã và đang hoạt động chưa thể
CTPHMT, gây ảnh hưởng rất lớn đến khu vực về cảnh quan, môi trường không khí,
môi trường nước và gây bồi lắng suối ven biển,…
47
Hình 2.6: Cảnh quan bãi thải Nam Lộ Phong sau 5 năm CTPHMT
2.4.2.2. Công tác cải tạo và phục hồi môi trường tại một số khai trường
- Một số khai trường khu vực vỉa 10 Giáp Khẩu, vỉa 10 Thành công (thuộc
phường Cao Xanh); khai trường lộ vỉa khu vực Hà Lầm, Dương Huy, Mông
Dương,… đã kết thúc khai thác và đổ thải từ các năm 1995÷2008, công tác
CTPHMT được thực hiện với phương án giữ nguyên hiện trạng địa hình khai
trường, CTPHMT một cách tự nhiên.
2.4.3. Phương án cải tạo và phục hồi môi trường của các mỏ than khai thác
lộ thiên được lập theo quy định tại Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg
Phương án CTPHMT của các mỏ than KTLT trong các dự án CTPHMT được
duyệt cho các dự án tiếp tục khai thác hoặc khai thác mở rộng như sau:
Tại vùng Hòn Gai, các mỏ than KTLT lớn là khai trường vỉa 11, 14 mỏ than
Núi Béo; vỉa 7, 8, 10, 16 mỏ than Hà Tu và các khai trường khai thác lộ vỉa như vỉa
11 mỏ 917; lộ vỉa +110 mỏ Tân Lập khai thác với công suất từ 1÷3 triệu tấn/năm,
dự kiến sẽ kết thúc khai thác trước năm 2018.
Tại vùng Cẩm Phả, có các mỏ than KTLT là khai trường vỉa 11, 14 mỏ than
Đèo Nai; vỉa G4, vỉa dầy 1, 2, 3, 4 mỏ than Cọc Sáu; vỉa 13-1, 14-2, 14-4, 14-5 mỏ
than Cao Sơn và vỉa 10, 11 mỏ than Bàng nâu - Tổng công ty Đông Bắc; khai
trường mỏ Tây Nam Đá Mài; mỏ Khe Chàm,… khai thác với công suất từ 1÷3 triệu
tấn/năm, dự kiến sẽ kết thúc khai thác trước năm 2030.
48
Hầu hết các dự án CTPHMT ở vùng HG-CP đã được cơ quan có thẩm quyền
phê duyệt, được tổng hợp như sau:
2.4.3.1. Khái quát về phương án cải tạo và phục hồi môi trường
a. Cải tạo khai trường khai thác
- Trường hợp tài nguyên than còn lại sau KTLT, nếu tiếp tục KTLT phần than
này không mang lại hiệu quả kinh tế hoặc không thể thực hiện bằng khai thác hầm
lò và không đủ điều kiện để các mỏ khác sử dụng đổ thải thì đơn vị sẽ thực hiện
phương án để lại địa hình với hình dạng hố mỏ có độ sâu so với mặt bằng tự nhiên
theo mức kết thúc khai thác (đặc trưng khi địa hình khai trường mỏ kết thúc có dạng
lòng moong với chiều sâu so với bề mặt tự nhiên từ 50÷150m).
Thực hiện gia cố bờ mỏ trước và sau khi kết thúc khai thác, để lại hiện trạng
moong khai thác dạng hố mỏ (dưới mức thoát nước tự chảy) tạo thành hồ chứa
nước, lập hàng rào và biển cảnh báo nguy hiểm; thực hiện trồng cỏ trên sườn tầng
và trồng cây trên bờ tầng kết thúc khai thác trên mức thoát nước tự chảy.
- Trường hợp sau khi kết thúc KTLT, tài nguyên than còn lại phía dưới đáy
moong được tiếp tục khai thác hầm lò hoặc có đủ điều kiện để các mỏ khác sử dụng
đổ thải mang lại hiệu quả kinh tế theo định hướng phát triển ngành Than, thì khi đó
việc lấp moong có thể thực hiện bằng các phương thức sau: sử dụng đất đá thải của
mỏ hoặc của các mỏ lân cận.
Có thể dùng khai trường đã kết thúc khai thác làm bãi thải cho các mỏ lân cận
trong trường hợp các mỏ này đang hoạt động và có nhu cầu đổ thải. Khi moong
được lấp đầy, trồng cây phủ xanh tạo nguồn dự trữ đất xây dựng.
b. Cải tạo các bãi thải đất đá
- Các bãi thải dạng cao được đổ tạo tầng, tạo độ dốc và tạo hệ thống thoát
nước, sau đó san gạt cải tạo lại mặt bằng và được trồng cây phủ xanh bề mặt với
loại cây được lựa chọn là keo lá tràm và cỏ lau, le hoặc ventiver ở sườn tầng thải.
- Các bãi thải trong của các mỏ thì sau khi kết thúc đổ thải được san gạt cải tạo
lại mặt bằng để phủ xanh bề mặt với loại cây được lựa chọn là cây keo lá tràm.
c. Cải tạo và phục hồi môi trường các hạng mục công trình phụ trợ phục vụ
49
khai thác lộ thiên
- Thực hiện san gạt, cải tạo và trồng cây phủ xanh (cây keo lá tràm) cải tạo đất,
sau khi đã tháo dỡ các công trình kiến trúc tại các mặt bằng sân công nghiệp, mặt
bằng kho than, mặt bằng xưởng vận tải,…; xây dựng hệ thống thoát nước các khu
vực moong, bãi thải; kiểm tra, giám sát và xử lý chất lượng nước đảm bảo yêu cầu
trước khi xả ra môi trường; duy tu, bảo dưỡng các công trình CTPHMT; chăm sóc
và bảo vệ rừng trồng trong thời gian sau kết thúc dự án tối thiểu là 5 năm.
2.4.3.2: Một số phương án cải tạo và phục hồi môi trường cho các mỏ than lớn
vùng Hòn Gai - Cẩm Phả
1. Phương án cải tạo và phục hồi môi trường mỏ than Núi Béo
Theo kế hoạch của Vinacomin, một phần diện tích đất sau khi CTPHMT tiếp tục
là khai trường khai thác hầm lò, do đó các moong khai thác của mỏ Núi Béo được đổ
thải trong lấp đầy moong bằng đất đá thải của các mỏ Hà Tu và Hà Lầm [8].
Sau khi kết thúc khai thác, các moong dạng hố mỏ được sử dụng thành bãi thải
trong cho dự án KTLT vỉa 7 + 8, vỉa trụ Cánh Đông của mỏ than Hà Tu và dự án
KTLT mở rộng khu II vỉa 11 của mỏ than Hà Lầm. Các moong khai thác dạng hố
mỏ gồm moong Cánh Đông và moong Cánh Tây được lấp đầy đến cao độ địa hình
khu vực tạo mặt bằng, trồng cây phủ xanh toàn bộ moong.
San gạt phẳng mặt tầng và đỉnh bãi thải Phụ Bắc để tạo diện trồng cây; cải tạo
hệ thống rãnh thoát nước và các hố lắng dọc chân bãi thải; trồng cây phủ xanh,
chống xói mòn đất mặt tầng và sườn tầng bãi thải.
Loại cây trồng phủ xanh là loại keo lai với mật độ trồng là 2.500 cây/ha.
Chỉ số phục hồi đất: Ip = -2,24 (phương án CTPHMT xét về kinh tế không hiệu
quả); chi phí CTPHMT: 40.163.749.134 đồng; thời gian kết thúc CTPHMT: năm
2019 [09].
2. Phương án cải tạo và phục hồi môi trường mỏ than Cọc Sáu
Theo kế hoạch sản xuất của Vinacomin giai đoạn năm 2015 và tầm nhìn đến
năm 2025, khi mỏ Cọc Sáu kết thúc khai thác sẽ được dùng làm bãi thải trong cho
các mỏ lân cận là Ðèo Nai và Cao Sơn [10], [11].
50
Theo đó, sau khi kết thúc khai thác, moong khai thác cũ sẽ được sử dụng làm
bãi thải và được lấp đầy đến mức thông thủy tự nhiên, sau đó tạo mặt bằng trồng
cây; san gạt tạo phẳng mặt tầng và đỉnh bãi thải Nam - mỏ Cọc Sáu để tạo diện
trồng cây; xây dựng đập chắn chân bãi thải; trồng cây phủ xanh, chống xói mòn đất
mặt tầng và sườn tầng bãi thải.
Chỉ số phục hồi đất: Ip = 0,25; chi phí dự án CTPHMT (chưa có chi phí lấp
moong): 52.564.875.314 đồng; thời gian kết thúc khai thác mỏ: năm 2023 [06].
3. Phương án cải tạo và phục hồi môi trường mỏ than Đèo Nai
Theo quy hoạch chung của 3 mỏ than Cao Sơn, Cọc Sáu và Đèo Nai, moong
kết thúc khai thác của mỏ Đèo Nai sẽ được dùng để đổ thải cho mỏ Cao Sơn, do đó
toàn bộ moong khai thác của mỏ Đèo Nai được tiến hành lấp đầy đến mức thông
thủy tự nhiên, sau đó tiến hành lấp đất màu để trồng cây [16], [17].
Cải tạo các bãi thải, mặt tầng tại các vị trí xung yếu của bãi thải được tiến hành
gia cố bằng cách xây dựng tuyến kè để đảm bảo tránh sạt lở; trồng keo lá tràm trên
mặt bằng bãi, mặt tầng bãi thải và moong kết thúc với mật độ 2000 cây/ha.
Chỉ số phục hồi đất: Ip = 0,36; tổng chi phí đầu tư CTPHMT: 67.956.170.012
đồng; thời gian kết thúc khai thác: năm 2037 [10].
2.4.4. Định hướng giải pháp cải tạo và phục hồi môi trường chung của
ngành Than
Theo Quy hoạch phát triển Ngành Than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển
vọng đến năm 2030 đã dự kiến “tất cả các mỏ và công trường khai thác khi kết thúc
khai thác phải tiến hành công tác đóng cửa mỏ theo đúng quy định của Luật Khoáng
sản hiện hành. Đồng thời cần thực hiện các giải pháp để đảm bảo an toàn sau khi
mỏ và công trường khai thác kết thúc khai thác”. Đối với các mỏ và công trường
khai thác than lộ thiên vùng HG-CP, cụ thể như sau [4]:
- Tiến hành xử lý đá treo và các khu vực có nguy cơ sạt lở trên bờ tầng kết thúc
để đảm bảo bờ tầng kết thúc luôn ổn định và an toàn.
- Tiến hành lấp moong ở các khu vực cho phép nhằm đảm bảo an toàn cho
công tác khai thác hầm lò phần sâu và thuận lợi cho công tác bảo vệ, khôi phục môi
51
sinh, môi trường. Các mỏ và công trường KTLT sau khi kết thúc khai thác sẽ được
lấp toàn bộ hoặc một phần moong khai thác. Các mỏ và công trường KTLT sau sẽ
được lấp toàn bộ moong sau khi kết thúc khai thác: công trường KTLT khu Bảo Gia
mỏ Dương Huy đổ thải cho mỏ Cao Sơn; công trường KTLT 110 Lộ trí mỏ Thống
Nhất đổ thải cho mỏ Đèo Nai, mỏ than KTLT Bắc và Nam Quảng Lợi; công trường
KTLT G(9), H(10) mỏ Mông Dương đổ thải cho các mỏ Đèo Nai, Cao Sơn và Cọc
Sáu); công trường KTLT Khe Chàm III, công trường KTLT cụm vỉa 14 Khe Chàm
đổ thải cho mỏ Cao Sơn; công trường KTLT Bàng Nâu đổ thải cho mỏ Đá Mài và
Cao Sơn; công trường KTLT mỏ Hà Lầm đổ thải cho mỏ Núi Béo,… Các mỏ và
công trường KTLT sau khi kết thúc khai thác sẽ được lấp một phần moong khai
thác bao gồm: Đèo Nai, Cọc Sáu, Cao Sơn, Đá Mài, Đông Lộ Trí, công trường
KTLT mỏ Nam Khe Tam, công trường KTLT mỏ Dương Huy, mỏ Đông và Tây
Khe Sim, mỏ Hà Tu, Núi Béo, mỏ 917,...
- Tiến hành cải tạo bờ tầng, bãi thải phục vụ cho việc trồng cây gây rừng, khôi
phục môi trường sinh thái.
2.5. Công tác quản lý cải tạo và phục hồi môi trường cho các mỏ khai thác
than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả
2.5.1. Công tác quản lý cải tạo và phục hồi môi trường của Vinacomin
a. Những kết quả
Trong những năm qua, Vinacomin (trước kia là Tổng công ty Than Việt Nam)
đã có nhiều chương trình, kế hoạch cụ thể quản lý tài nguyên và môi trường
(TN&MT), trong đó có hoạt động CTPHMT đối với nguồn ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng (CTPHMT bãi thải Nam Lộ phong, bãi thải Đèo Nai,...) và đã phối
hợp tương đối chặt chẽ với UBND tỉnh Quảng Ninh và các Sở, Ban, Ngành, địa
phương trong tỉnh để tăng cường quản lý TN&MT trong HĐKS:
- Hầu hết các doanh nghiệp đều thực hiện nghiêm túc việc ký quỹ CTPHMT
đối với HĐKS theo Quyết định số 71/QĐ-CP của Chính phủ.
- Tính đến năm 2005, tổng diện tích trồng rừng, trồng cây phủ xanh trong ranh
giới mỏ đã thực hiện được khoảng 1400 ha.
52
- Đã đầu tư CTPHMT tại một số khu vực bãi thải lớn do khai thác than nhiều
năm để lại; sử dụng quỹ môi trường của ngành Than đầu tư khoảng 200 tỷ đồng
hàng năm cho các công trình BVMT.
b. Những tồn tại
Việc lập dự án CTPHMT chưa xét đến mối liên quan giữa các doanh nghiệp
cùng có hoạt động trên cùng một địa bàn, lưu vực nước,… nên nhiều công trình của
mỏ này bị hoạt động của các mỏ khác gần đó làm mất hiệu quả, gây lãng phí kinh
phí đầu tư .
Còn rất nhiều nguồn gây ô nhiễm môi trường (bãi thải khai trường khai thác đã
kết thúc nhiều năm như toàn bộ Bãi thải chính Bắc, khu Bắc Bàng Danh,…) làm
ảnh hưởng, suy thoái các tài nguyên thiên nhiên (TNTN) khác (tài nguyên nước,…)
chưa được quan tâm đầu tư xử lý.
Trong đó, hoạt động cải tạo môi trường được thực hiện theo dự án CTPHMT
theo hướng dẫn tại Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT , ngày 31 tháng 12 năm 2009
của Bộ Tài nguyên và Môi trường, quy định về lập, phê duyệt, kiểm tra, xác nhận
dự án CTPHMT và ký quỹ CTPHMT đối với hoạt động khai thác khoáng sản
(Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT). Tuy nhiên, các nội dung của hướng dẫn cũng
như thực tế việc lập dự án CTPHMT của một mỏ chưa được xem xét trong tổng thể
nhiều mỏ; chưa được đánh giá về hiệu quả phục hồi môi trường của một mỏ trong
tổng thể nhiều mỏ (mặc định việc trồng cây keo và duy trì phát triển cây sinh trưởng
là xong việc CTPHMT); chưa đề cập đến việc sẽ duy trì hiệu quả CTPHMT và quản
lý tiếp như thế nào để đất không trở lại hoang hoá; chưa đề cập tới việc tăng hiệu
quả sử dụng đất mang lại hiệu quả kinh tế và tiếp tục phát triển trên các vùng đất
CTPHMT có vị trí, điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế.
c. Một số nguyên nhân
Công tác quản lý về TN&MT (trong đó có việc quản lý hoạt động CTPHMT)
thiếu tính hệ thống và sự phối hợp giữa các doanh nghiệp trong khu vực còn nhiều
bất cập.
53
Trong kế hoạch phát triển hiện nay của ngành Than chưa quan tâm, xem xét đến
việc CTPHMT đảm bảo phù hợp với quy hoạch phát triển KT-XH toàn vùng và quy
hoạch phát triển, bảo tồn thiên nhiên,… của các ngành, các lĩnh vực kinh tế, văn hoá,
xã hội khác trong khu vực.
Công tác khai thác than lộ thiên là một trong các hoạt động công nghiệp trong
vùng có nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều loại hình kinh tế nhưng chưa được ĐMT
để làm rõ bức tranh, khoanh vùng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ưu tiên giải
quyết và xác định vùng CTPHMT đa mục tiêu.
Chưa xem xét bố trí việc CTPHMT lồng ghép với quy trình thực hiện khai
thác, đồng thời trong quá trình khai thác để giảm thiểu ô nhiễm môi trường về bồi
lắng, môi trường nước, đất, không khí, cảnh quan….
Chưa xác lập định hướng vùng ưu tiên thực hiện chức năng phát triển kinh tế
nhằm phục vụ cho việc lập đề án CTPHMT khu vực liên mỏ đạt mục đích
CTPHMT đa mục tiêu trong quá trình khai thác và khi kết thúc hoạt động KTLT
sau này để sử dụng tập trung, hợp lý nguồn tiền ký quỹ cho vùng CTPHMT đa mục
tiêu (định hướng hình dạng trong quá trình khai thác, cải tạo địa hình và phục hồi
môi trường theo định hướng phát triển kinh tế); vùng CTPHMT thông thường (có
thể là không cần thiết phải cải tạo địa hình; chỉ cần phục hồi thảm thực vật một
phần vùng khai thác như bãi thải và một phần tự phục hồi môi trường theo thời gian
và quy luật tự nhiên).
2.5.2. Công tác quản lý nhà nước về cải tạo và phục hồi môi trường
a. Những vấn đề chung
Công tác quản lý nhà nước trong HĐKS ở Quảng Ninh dựa trên cơ sở các Luật
Khoáng sản, Luật Đất đai, Luật Môi trường, Luật Tài nguyên nước. Bên cạnh đó
công tác này còn có mối liên quan với hầu hết các bộ luật khác như Luật Giao
thông, Luật Bảo vệ rừng,…
Trong đó, công tác quản lý CTPHMT chỉ thực hiện theo quy định tại Quyết định
số 18/2013/QĐ-TTg (trước kia là 71/QĐ-TTg và Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT).
54
Tỉnh đã ban hành nhiều văn bản, quy phạm pháp luật và chỉ đạo đẩy mạnh
công tác quản lý TN&MT trong HĐKS. Chủ động lập kế hoạch phòng ngừa ô
nhiễm môi trường và sự cố môi trường do HĐKS gây ra; giải quyết kịp thời sự cố
thiên nhiên, tai biến môi trường trong HĐKS và đơn thư kiến nghị của nhân dân (sạt
lở bãi thải Khe Rè, Đông Cao Sơn,…). Lập kế hoạch và CTPHMT một số bãi thải,
khu vực KTLT lân cận các trung tâm đô thị, khu vực tập trung dân cư và các địa
bàn có hệ sinh thái, cảnh quan quan trọng.
UBND tỉnh Quảng Ninh và Vinacomin thường xuyên kiểm điểm, đánh giá kết
quả hoạt động sản xuất than và các hoạt động KT-XH khác, đề ra nhiều biện pháp
khắc phục và cải thiện môi trường trong khai thác than (trong đó có công tác
CTPHMT bãi thải Nam Đèo Nai, Lộ Phong,...).
b. Công tác quản lý nhà nước chuyên ngành
Năm 2003, hệ thống các cơ quan quản lý TN&MT các địa phương đã được
thành lập đến cấp huyện. Công tác quản lý nhà nước về TN&MT trong HĐKS từng
bước đi vào nề nếp trên cơ sở kết hợp chặt chẽ 03 mặt công tác về quản lý tài
nguyên đất đai, khoáng sản, môi trường (CTPHMT) và sự phối hợp ngày càng chặt
chẽ của Sở TN&MT với các địa phương, các ngành có liên quan. Công tác thanh
kiểm tra và xử lý vi phạm về BVMT của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên
ngành được đẩy mạnh thường xuyên hơn.
- Việc cải tạo bãi thải và xử lý sạt lở, BVMT tại các bãi thải lớn như Lộ Phong,
Nam Đèo Nai,… mới chỉ đáp ứng được yêu cầu giảm thiểu ô nhiễm môi trường,
chưa mang lại hiệu quả sử dụng đất; mức độ rửa trôi gây bồi lắng vẫn còn cao; độ
ổn định bãi thải vẫn trong giai đoạn giám sát, theo dõi.
- Nhiều công trình BVMT còn có hiệu quả thấp, cá biệt có công trình không đạt
hiệu quả, gây sự cố môi trường (Cọc Sáu, Hà Tu, Núi Béo, Khe Rè,...).
- Dự án đóng cửa mỏ và phục hồi môi trường sau khai thác được các doanh
nghiệp quan tâm thực hiện nghiêm túc việc ký quỹ môi trường theo hướng dẫn của
Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg ngày 29/5/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc
ký quỹ CTPHMT đối với HĐKS.
55
c. Một số tồn tại chính trong công tác quản lý cải tạo và phục hồi môi trường
Công tác quản lý TN&MT trong HĐKS của tỉnh Quảng Ninh còn nhiều bất cập
cần tiếp tục được quan tâm giải quyết như quản lý chất thải và nhu cầu khai thác, sử
dụng tài nguyên than, đất đai và nhiều tài nguyên khác. Nhìn chung, đến nay năng
lực quản lý Nhà nước về TN&MT còn rất hạn chế thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Việc thẩm định hồ sơ các dự án phát triển (dự án CTPHMT) đã có nhiều
chuyển biến tích cực về chất lượng chuyên môn đối với tất cả các lĩnh vực, thời
gian thẩm định đã rút ngắn đáng kể song vẫn còn một số nhược điểm như: chất
lượng chuyên môn của ĐTM, công tác CTPHMT chuyên ngành khai thác khoáng
sản của hội đồng thẩm định chưa đáp ứng được yêu cầu; việc tổ chức các hoạt động
hỗ trợ hội đồng thẩm định đối với các dự án CTPHMT (có nguy cơ ảnh hưởng xấu
đến nguồn nước lưu vực sông, vùng ven biển, vùng có hệ sinh thái được bảo vệ)
chưa được thực hiện.
- Công tác kiểm tra theo chức năng, nhiệm vụ còn yếu kém, chưa tiến hành
thường xuyên, thiếu kế hoạch đồng bộ và hệ thống, nặng về giải quyết theo vụ việc;
chưa kịp thời phát hiện và xử lý kiên quyết một số hành vi vi phạm hành chính.
- Công tác cập nhật thông tin, giữ liệu về thực trạng và biến động về đất đai,
khoáng sản, môi trường (CTPHMT),… chưa thường xuyên, chưa hệ thống, chưa
đầy đủ và chính xác.
- Sự phối hợp quản lý về đất đai, khoáng sản, môi trường,... giữa cơ quan
chuyên ngành với các cấp chính quyền địa phương và doanh nghiệp còn thiếu chặt
chẽ.
- Công tác quy hoạch sử dụng đất và TN&MT chưa được tiến hành đồng bộ
với nhau và với các ngành khác, với quy hoạch phát triển KT-XH vùng lãnh thổ.
Chưa có định hướng sử dụng đất khi các mỏ than KTLT tại các vùng mỏ kết thúc để
làm căn cứ xem xét thẩm định mục đích sử dụng đất phù hợp của các dự án
CTPHMT.
- Công tác nghiệm thu CTPHMT chưa dựa trên cơ sở các tiêu chí đánh giá hiệu
quả các công việc của hoạt động CTPHMT.
56
Do những vấn đề trên, công tác tham mưu, đề xuất giải pháp quản lý, thẩm
định các dự án CTPHMT cũng chưa đáp ứng kịp thời với yêu cầu thực tiễn, mà
nguyên nhân là:
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật chưa được ban hành kịp thời như
các chỉ tiêu kỹ thuật, hướng dẫn thẩm định các dự án chuyên ngành (kể cả dự án
CTPHMT), qui chuẩn kỹ thuật địa phương về chất thải phù hợp với đặc thù của địa
phương,...
- Các cơ quan quản lý TN&MT và các ngành, các cấp chính quyền địa phương
trong tỉnh có ít nhân lực; trình độ quản lý CTPHMT yếu, thiếu kinh phí, phương tiện,
cơ sở vật chất,…
Ngoài ra, theo quy định của Luật Khoáng sản, các doanh nghiệp khai thác
khoáng sản phải có trách nhiệm ký quỹ môi trường trước khi tiến hành khai thác. Đây
cũng là nguồn kinh phí rất lớn (tại tỉnh Quảng Ninh là hơn 500 tỷ đồng), cần được
triển khai cho các hoạt động quản lý tài nguyên và BVMT, đặc biệt cần tập trung cho
vùng ưu tiên CTPHMT đa mục tiêu. Đến nay, do chưa có sự đồng bộ của các văn bản
quy phạm pháp luật và sự yếu kém về nhân lực của Sở TN&MT, các doanh nghiệp
mới chỉ xây dựng dự án đóng cửa mỏ và phục hồi môi trường sau khai thác theo
Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT, mặt khác, công tác CTPHMT thực hiện theo
Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT còn nhiều bất cập, nên công tác CTPHMT chưa
thực hiện được theo định hướng giảm thiểu ô nhiễm môi trường của một mỏ trong
tổng thể chung nhiều mỏ trên một vùng rộng lớn, mang lại hiệu quả sử dụng đất,
tránh lãng phí tài nguyên đất trong vùng HG-CP “đất chật người đông”,….
2.5.3. Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội và cộng đồng đối với công tác
quản lý tài nguyên và môi trường trong hoạt động khoáng sản
Những năm gần đây, các tổ chức đoàn thể chính trị và cộng đồng nhân dân các
khu vực có HĐKS đã có nhiều hoạt động tích cực tham gia giám sát các HĐKS của
các doanh nghiệp sản xuất than nói riêng và các cơ quan quản lý nhà nước các cấp.
Đã có nhiều đơn kiến nghị của nhân dân gửi tới các cấp chính quyền và cơ
quan quản lý nhà nước phản ánh những vấn đề bức xúc trong quản lý TN&MT, đặc
57
biệt là những vấn đề về sử dụng đất, khai thác than trái phép và các hành vi gây ô
nhiễm môi trường, suy thoái TNTN. Thực tế cho thấy, với sự tham gia của các tổ
chức đoàn thể chính trị, nhiều kiến nghị của quần chúng nhân dân đã được chính
quyền địa phương và các ngành chức năng giải quyết có hiệu quả, đảm bảo thực
hiện đúng quy định của luật pháp.
Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có sự quan tâm, giám sát về việc thực hiện đánh
giá hiệu quả HĐKS (hoạt động CTPHMT) hoặc thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về TN&MT (CTPHMT).
2.5.4. Công tác quản lý kỹ thuật cải tạo và phục hồi môi trường
Công tác quản lý kỹ thuật được thực hiện đối với các công trình môi trường;
công tác cải tạo các công trình sau kết thúc khai thác; công tác phục hồi môi trường
các công trình khai thác mỏ.
(1). Đối với các công trình môi trường sau khi kết thúc khai thác mỏ là các
công trình BVMT tồn tại trong quá trình sản xuất và được tiếp tục sử dụng lại cho
quá trình CTPHMT và tiếp tục công tác BVMT (khi cần thiết) như đê chắn đất đá
trôi, hố lắng, hồ lắng, trạm xử lý nước thải, hệ thống rãnh, mương thoát nước,...
Theo quy định các văn bản pháp luật về BVMT và khoáng sản, ngay sau khi
kết thúc khai thác mỏ, đơn vị khai thác mỏ tiếp tục có trách nhiệm quản lý các công
trình môi trường cũng như các công trình của mỏ tới khi hoàn thành công tác
CTPHMT được duyệt theo đề án CTPHMT (sau 3 đến 5 năm), sau đó đơn vị được
phép đóng cửa mỏ và bàn giao đất lại cho địa phương.
Như vậy trong quá trình CTPHMT thì các công trình BVMT nêu trên được chủ
mỏ tiếp tục quản lý và duy trì, tiếp theo là địa phương quản lý, nhưng chế tài quản
lý, kinh phí quản lý và các vấn đề kỹ thuật áp dụng để duy trì hiệu quả BVMT của
các công trình này như thế nào thì chưa được làm rõ trong dự án CTPHMT hoặc các
quy định của nhà nước, như vậy sẽ tồn tại bất cập trong công tác quản lý kỹ thuật
các công trình môi trường sau kết thúc khai thác, cụ thể:
- Các công trình BVMT trong thực tế ở vùng HG-CP bao gồm: hệ thống thoát
nước, hệ thống mương, đập (được xây kiên cố như đập Khe Rè,…), hoặc đê chắn
58
đất đá trôi bằng đất đá và hệ thống mương thoát như đập chắn chân bãi thải Nam Lộ
Phong và Đèo Nai,… hoặc đập rọ đá (rọ lưới mắt cáo bọc nhựa hoặc không bọc
nhựa, sẽ bị hư hại theo thời gian trong quá trình tồn tại) tại khu Lộ Phong, khu Cao
Sơn, Cọc Sáu (đập rọ đá Lao Cáp),….
Hình 2.7: Đập chắn bằng rọ đá bị mất tác dụng do đất đá bị rửa trôi
tại bãi thải mức +110 mỏ Tân Lập - Công ty Đông Bắc
- Tác dụng BVMT của các công trình này luôn mất hiệu quả sau mỗi mùa mưa
do bị đất đá trôi lấp hoặc sạt lở. Các mỏ luôn phải bỏ kinh phí để nạo vét hàng năm
và gia cố đập, đê chắn đất đá trôi. Mặt khác, độ bền vững và hiệu quả BVMT của
các công trình này còn phụ thuộc vào công tác giám sát kỹ thuật, bảo dưỡng duy trì
thường xuyên và định kỳ.
(2). Đối với việc cải tạo các công trình sau kết thúc khai thác:
Công trình khai thác mỏ sau khi kết thúc là khai trường KTLT, bãi thải mỏ, các
công trình phục vụ sản xuất, mặt bằng sân công nghiệp,… Công tác quản lý kỹ
thuật được áp dụng nhằm đảm bảo khai trường ổn định, không sạt lở tầng, sạt lở bãi
thải; giảm thiểu nguy cơ tai biến môi trường trong quá trình tồn tại của các công
trình này sau khi kết thúc khai thác mỏ.
Công tác cải tạo được đề cập trong dự án CTPHMT bao gồm:
- Đào mương dẫn nước, vận chuyển đất, đào mương vào lòng moong vỉa 7 và
8; san gạt mặt bằng để trồng cây và tháo dỡ các công trình trên mặt bằng công
nghiệp.
59
- Cải tạo thành hồ chứa nước, củng cố bờ moong và trồng cây xanh xung quanh
bờ moong, tháo dỡ các công trình trên mặt bằng công nghiệp, cải tạo đất mặt bằng
công nghiệp, trồng cây.
- Việc gia cố bờ moong đề cập trong dự án CTPHMT của mỏ Núi Béo được
thực hiện như trong hình 2.8. Do đó, công tác cải tạo theo đề án CTPHMT hầu như
không tác động đến hình dạng của khai trường, bãi thải (giữ nguyên hình dáng, địa
hình của bãi thải và khai trường khai thác); công tác cải tạo đề cập ở đây chỉ là san
gạt đất, địa hình của mặt bằng sân công nghiệp, mặt bằng bãi thải để trồng cây (chủ
yếu là keo lá tràm).
Trên cơ sở thực tiễn cho thấy: công tác cải tạo hình dạng của khai trường, bãi
thải; công tác cải tạo sườn tầng (gia cố sườn tầng) trước khi kết thúc khai thác,…
chưa được quan tâm quản lý; chưa có quy định cụ thể cho công tác này; chưa có cơ
quan quản lý giám sát công tác này, đồng thời chi phí cho công tác này cũng chưa
được đề cập đến; chưa định hình mặt bằng cải tạo đất nhằm tăng mức độ giữ nước,
mức độ thẩm thấu của đất, giảm lượng nước chảy tràn và giảm mức độ xói mòn,...
Hình 2.8: Mặt cắt đào đắp cải tạo sườn dốc bờ moong [8]
Kết quả của công tác quản lý CTPHMT chưa tốt nên hàng năm các đơn vị thực
hiện công tác CTPHMT vẫn phải thực hiện nạo vét và duy tu hệ thống đập chắn,
duy trì hiệu quả BVMT (Hình 2.9).
60
Hình 2.9: Công tác nạo vét hàng năm để duy trì hiệu quả
của đập chắn đất đá trôi tại chân bãi thải Nam Đèo Nai
Đến nay, công tác quản lý kỹ thuật công trình sau khai thác mỏ còn bỏ ngỏ như
quản lý kỹ thuật công tác nổ mìn tạo biên nhằm đảm bảo ổn định bờ mỏ đối với một
số mỏ KTLT thuộc vùng có nguy cơ cao về tai biến môi trường,…; công tác đổ thải
theo tầng, theo lớp để bảo đảm lèn chặt đất đá thải,… chưa quy định rõ ràng để cơ
quan quản lý giám sát việc thực hiện cải tạo khai trường, bãi thải, đảm bảo ổn định
bờ mỏ và triệt tiêu sự cố sạt lở bãi thải,... khi kết thúc khai thác tại các mỏ này.
(3). Quản lý công tác CTPHMT các công trình khai thác mỏ:
Công tác CTPHMT các công trình khai thác mỏ là công tác ổn định và cải tạo
lớp đất mặt và trồng cây phủ xanh tạo cảnh quan, giảm thiểu bụi và chống xói
mòn,…
Ví dụ, như với bãi thải Nam Đèo Nai, công tác ổn định và cải tạo lớp đất mặt,
công tác CTPHMT đã triển khai được khoảng 5 năm; cây keo tai tượng phát triển
tốt với chiều cao 3÷7 m trên mặt tầng thải do có đê chắn. Sau 5 năm, tại sườn thải,
việc trồng keo xen lẫn cỏ (thảm thực vật tầng thấp) vẫn còn có một số vị trí khó
phát triển làm cho hiệu quả chống xói mòn đất chưa cao.
Đối với kỹ thuật trồng cây, chưa bố trí kinh phí sử dụng phân Ni và P để hỗ trợ
cho cây, cỏ phát triển trong suốt quá trình tăng trưởng; chưa kiểm soát, khống chế
61
phòng cháy. Ngoài ra cũng chưa tính tới giá trị sử dụng của các loại cây này. Bởi
sau 5 năm, nếu chặt cây keo đi thì đất sẽ trở lại hoang hóa và làm xấu cảnh quan.
Hình 2.10: CTPHMT bãi thải Đèo Nai (sử dụng Quỹ Môi trường
tập trung của Vinacomin và của Công ty than Đèo Nai) [10]
Đối với các mỏ than KTLT khác hầu hết đều áp dụng trồng cây keo; có một số
mỏ đã thực hiện nghiên cứu trồng các loại cây khác như: thông, bông bạc, thạch
thất, cây cốt khí, cỏ ventiver, cây sắn dây Nhật bản, cây găng, cây điền thanh,…
Hiện tại, theo kết quả đánh giá sơ bộ thì việc áp dụng mang tính khả thi là các cây
keo, cây thông, cây găng, cỏ ventiver, cây cốt khí.
Hiện tại, công tác trồng cây phục hồi môi trường các công trình khai thác mỏ
chưa có cơ sở và quy định kỹ thuật về công tác bảo trì, duy trì tăng trưởng và thay
thế các loại cây khác theo đặc thù của mỗi loại bãi thải nhằm duy trì hiệu quả
BVMT của việc phục hồi môi trường đối với các công trình khai thác mỏ.
Tương tự, đa số các bãi thải đất đá khi kết thúc khai thác chưa được định hình
lại, chưa được phủ đất màu và trồng cây có giá trị kinh tế, mà chỉ đơn thuần cho
mục tiêu phủ xanh tạo cảnh quan. Do đó dự án CTPHMT chưa đề cập đến công tác
duy trì thảm thực vật, công tác chống cháy rừng của cả quá trình dài sau đó (phải
đến 10 năm) để đảm bảo kết quả CTPHMT. Do vậy, cần tiếp tục quan trắc và hoàn
chỉnh các mặt bằng được CTPHMT; đảm bảo chất lượng nước, hệ động thực vật
cho tới đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn quốc gia (thường kéo dài trong nhiều năm sau);
quan tâm quản lý về kỹ thuật đối với giai đoạn sau này.
62
Hình 2.11: Trồng cây CTPHMT trên bãi thải khu vực Khe Sim
Quyền giám sát của cộng đồng và khiếu kiện về những sai sót trong và sau quá
trình đóng cửa mỏ và CTPHMT kéo dài sau đó chưa được đề cập và quan tâm làm
rõ. Sự hợp tác của cộng đồng địa phương và các chủ dự án trong công tác bảo tồn
môi trường và hệ sinh thái địa phương trong quá trình hoạt động và phát triển của
mỏ và công tác CTPHMT chưa thực sự chặt chẽ.
Việc bảo tồn môi trường và sinh thái là thực sự cần thiết với quan điểm rõ ràng:
"CTPHMT mỏ là một dự án dài hạn, tồn tại nhiều năm. Chủ mỏ phải tiếp tục những
nỗ lực CTPHMT đạt được để phục hồi hệ sinh thái đa dạng như là một phần quan
trọng của hoạt động kinh doanh của mình". Các khu bảo tồn thiên nhiên nổi tiếng
với thảm rừng và cây xanh, các hồ nước sạch và hệ sinh thái phong phú sau khi hoạt
động khai thác kết thúc là minh chứng rõ nét cho quá trình phục hồi môi trường
được thực hiện thành công, đồng thời sẽ tiếp tục được đầu tư để thu hút các hoạt
động du lịch, nghỉ ngơi, thể thao, vui chơi, giải trí.
Các đề án CTPHMT chưa xem xét đến việc sử dụng và cải tạo tối đa cả các công
trình hạ tầng cơ sở và xây dựng cũ của mỏ mà cộng đồng có nhu cầu sử dụng lại (ví
dụ, cho cấp điện, cấp nước, giao thông, nhà ở, các công trình dịch vụ,…). Các công
trình cộng đồng không có nhu cầu sẽ được trả lại mặt bằng và trồng cây xanh.
Quá trình CTPHMT không chỉ kết thúc ở việc san gạt đất, trồng cây và gieo
hạt, mà hiệu quả của công tác này phải được đánh giá bằng quá trình quan trắc và
điều chỉnh hợp lý nhiều năm sau đó, để bảo đảm có được hệ sinh thái mong muốn
63
như trong dự án CTPHMT và là cơ sở xác định sự thành công bền vững của dự án
về mặt kỹ thuật.
Do vậy, các kế hoạch và dự trù tài chính cho chương trình duy trì hiệu quả dài
hạn phải được lập trước và đề cập đầy đủ trong dự án CTPHMT.
Hiện nay, trong quá trình CTPHMT, những công nghệ tiên tiến nhất về sinh
học, thổ nhưỡng học, nhân chủng học,… chưa được ứng dụng trên cơ sở những kết
quả nghiên cứu khoa học cơ bản hoặc nghiên cứu ứng dụng mới nhất, như:
- Phục hồi thảm thực vật, bao gồm các chủng loại cây tầm cao (chủ yếu là các
rừng keo) và cả các chủng loại cây tầm thấp. Do đó, cần quan tâm đến chủng loại
cây tầm thấp để triệt tiêu xói mòn và rửa trôi sau khi kết thúc khai thác.
- Phục hồi thảm động vật, bao gồm các loại động vật có vú, các loài bò sát, các
giống chim và hệ côn trùng trên và dưới mặt đất cũng như dưới nước.
Tóm lại, công tác quản lý kỹ thuật đối với công tác CTPHMT sau khai thác mỏ
được chia thành 2 giai đoạn:
- Giai đoạn I: Do chủ mỏ quản lý theo các quy chuẩn kỹ thuật chuyên ngành và
yêu cầu thực tiễn theo hình thức: theo dõi hiệu quả BVMT định kỳ, bảo dưỡng, duy
tu và loại bỏ các tác nhân làm mất hiệu quả của công trình BVMT. Giai đoạn này
kéo dài từ 1÷5 năm, song thực tế còn phụ thuộc vào các qui định trong dự án
CTPHMT, cụ thể như sau:
+ Đối với trường hợp dự án CTPHMT được duyệt theo Quyết định số
71/2008/NĐ-CP, chưa thực hiện cải tạo đa mục tiêu, thì công tác cải tạo không
nhiều và phụ thuộc vào việc thực hiện quá trình khai thác mỏ, tính chất cơ lý của
đất đá, hình dạng khai trường và kỹ thuật khai thác,…
+ Đối với trường hợp dự án CTPHMT thực hiện cải tạo môi trường đa mục
tiêu, nếu không thực hiện việc cải tạo các công trình khai thác mỏ ngay trong quá
trình khai thác thì khối lượng công tác cải tạo nhiều hay ít sẽ phụ thuộc vào mục
đích sử dụng đất.
64
- Giai đoạn II: Do địa phương quản lý, sau khi chủ mỏ đã thực hiện xong công
tác CTPHMT và bàn giao lại cho địa phương. Việc quản lý rất khó khăn do chưa có
chế tài cụ thể về nhân lực, vật lực và phương thức quản lý.
+ Đối với trường hợp dự án CTPHMT thực hiện theo Quyết định số
71/2008/NĐ-CP, thì sau công tác cải tạo sẽ tiếp tục giai đoạn phục hồi môi trường
và bàn giao lại cho địa phương quản lý. Việc quản lý cũng rất khó khăn do chưa có
chế tài cụ thể về nhân lực, vật lực và phương thức quản lý.
Do vậy, cần có quy định về việc cơ quan chủ mỏ phối hợp với chính quyền địa
phương tiếp tục quản lý và duy trì hiệu quả BVMT của các công trình sau KTLT
nêu trên, để các công trình này tiếp tục ổn định; tiếp tục giám sát, quan trắc độ ổn
định của bãi thải, duy tu bảo dưỡng đập chắn đất đá trôi đến khi có kết quả chắc
chắn về CTPHMT của các công trình này.
+ Đối với trường hợp dự án CTPHMT đa mục tiêu (chủ đầu tư có thể là chủ
mỏ hoặc một đơn vị khác), cần thực hiện quản lý và khai thác hiệu quả đầu tư lâu
dài theo quy định của cấp có thẩm quyền theo luật pháp về đầu tư. Do vậy, việc
quản lý kỹ thuật luôn được quan tâm đến hiệu quả CTPHMT và độ ổn định của
công trình sau KTLT luôn được giám sát và duy trì hiệu quả.
2.6. Kết luận chương
Trong những năm qua, UBND tỉnh Quảng Ninh và Vinacomin đã có nhiều nỗ
lực quản lý nhà nước về môi trường (trong đó có hoạt động CTPHMT), giải quyết
các vấn đề bức xúc về môi trường do khai trường, bãi thải của các mỏ than KTLT
gây ra.
Việc cải tạo môi trường, cảnh quan trên một số khu vực như bãi thải Nam Đèo
Nai (Cẩm Phả), bãi thải Nam Lộ Phong (Hòn Gai) bằng các giải pháp như: phân
tầng thải (30m/tầng), trồng cây keo tai tượng trên mặt bằng và trồng cỏ ventiver ở
sườn tầng; nạo vét sông Mông Dương,… (ngày nay bãi thải Nam Đèo Nai) đã có
cây xanh phát triển xum xuê với chiều cao từ 3÷5m; xây đập ngăn chân bãi thải
phía Đông, tạo thành hồ nước phục vụ sản xuất; tạo thành hồ sinh thái bằng cách
trồng cây liễu, cây phi lao xung quanh hồ,… đã mang lại những kết quả cụ thể.
65
Tới nay, hầu hết các đơn vị trong vùng đã lập dự án CTPHMT đối với các dự
án đầu tư khai thác mỏ theo quy định tại Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg (nay là
Quyết định số 18/2013/ QĐ-TTg) và Thông tư 34/2009/TT-BTNMT của Bộ Tài
nguyên và Môi trường. Các phương án CTPHMT tại các khu vực khai thác than tại
vùng HG-CP theo xu hướng chung là cải tạo lại moong khai thác, bãi thải, hay lấp
moong khai thác cũ để trồng cây hay trồng cỏ, phục hồi thảm thực vật,….
Tuy nhiên, tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP vẫn còn tồn tại một số vấn đề
cần ưu tiên giải quyết sau:
- Chưa thực hiện đúng mục đích CTPHMT theo quy định tại Quyết định số
18/2013/QĐ-TTg như chưa lồng ghép việc CTPHMT trong quá trình khai thác; việc
CTPHMT mới chỉ được xem xét để lại moong chứa nước hoặc lấp đất đá và cải tạo
lại mặt bằng trồng cây mà chưa xem xét phương án tiếp tục sử dụng tài nguyên đất.
- Toàn vùng than KTLT chưa được xác lập định hướng phân vùng chức năng
sử dụng đất sau khai thác để thực hiện các biện pháp kỹ thuật lồng ghép trong quá
trình khai thác theo các định hướng này, cũng như việc huy động nguồn kinh phí để
thực hiện thành công định hướng này nhằm tiếp tục đầu tư để thu hút các hoạt động
du lịch, nghỉ ngơi, thể thao, vui chơi, giải trí,… tại các vị trí lân cận các khu vực
kinh tế trọng điểm; các khu dân cư,… có tiềm năng, điều kiện thuận lợi về điều kiện
phát triển.
- Việc đánh giá kết quả CTPHMT chủ yếu dựa vào mật độ cây trồng; tỷ lệ cây
phát triển và mức độ phát triển của cây khi mới trồng mà chưa theo dõi các kết quả
thời gian sau đó, chưa có tiêu chí đánh giá cụ thể mang tính định lượng để tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác quản lý.
- Công tác CTPHMT chỉ dừng lại ở chỗ trồng cây thuần chủng, phổ biến là keo
lá tràm, cỏ ventiver và cỏ tự mọc mà chưa quan tâm thực hiện tái tạo hệ thực vật và
động vật ban đầu. Chưa theo dõi, quan trắc và nghiên cứu các biến đổi, để đề xuất
các giải pháp bảo đảm điều kiện tối ưu cho các hệ thực động vật phát triển bình
thường và ổn định (quá trình này thường kéo dài ít nhất 5 năm).
66
- Còn để xảy ra cháy rừng trong các khu vực đang CTPHMT làm huỷ hoại sự
tái tạo các thành phần hữu cơ và cản trở các hoạt động vi sinh.
- Công tác quản lý, chế tài thực hiện và cơ sở kỹ thuật về CTPHMT còn chưa
theo hướng đa mục tiêu, phương án CTPHMT có thể sẽ chưa phù hợp với quy
hoạch phát triển kinh tế vùng, thậm chí có thể bị phá sản khi cần huy động tài
nguyên đất để tiếp tục phát triển kinh tế theo một hướng khác, gây lãng phí tiền bạc
và công sức.
Do vậy, để công tác CTPHMT của các mỏ than KTLT đáp ứng những mục tiêu
phát triển KT-XH của tỉnh Quảng Ninh trong thời kỳ CNH-HĐH, Chính phủ, tỉnh
Quảng Ninh và Vinacomin cần tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý - kỹ thuật
CTPHMT; nguồn kinh phí ký quỹ CTPHMT,... nhằm nâng cao chất lượng công tác
quản lý CTPHMT trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói chung và vùng HG-CP nói
riêng.
67
CHƯƠNG III
NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ TỔNG THỂ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG
CHO CÁC MỎ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN
VÙNG HÒN GAI - CẨM PHẢ
3.1. Các giải pháp quản lý hành chính
3.1.1. Cơ sở thực tiễn định hướng công tác quản lý hành chính cải tạo và
phục hồi môi trường
1. Trên cơ sở phân tích, đánh giá về công tác CTPHMT của một số nước trên
thế giới và ở Việt Nam, cũng như thực tế công tác quản lý CTPHMT cho thấy việc
sử dụng đất tại các vùng CTPHMT cần có định hướng sử dụng đất các vùng
CTPHMT ở gần khu vực đô thị trọng điểm, vùng có tiềm năng phát triển loại hình
kinh tế khác như vùng khai thác than HG-CP, theo hướng sử dụng đất vào các mục
đích phát triển kinh tế khác, có hiệu quả hơn, ngay từ trong quá trình hoạt động
khoáng sản.
2. Công tác nghiên cứu khoa học (NCKH) về CTPHMT và việc tổng kết thực
tế, xây dựng các tiêu chí đánh giá, nghiệm thu công tác CTPHMT tại các vùng ưu
tiên; tiêu chuẩn kỹ thuật, các quy định chuyên môn,... cụ thể đối với đề án
CTPHMT cũng như việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật có kiến thức về
quy hoạch, về công tác sử dụng đất,… cũng là các yêu cầu quan trọng trong công
tác quản lý và thực hiện đề án CTPHMT.
- Trong giai đoạn chuẩn bị mở rộng khai thác, phải điều tra, xử lý và xem xét
bố trí đổ thải đất đá phục vụ cho công tác CTPHMT sau này. Xây dựng tốt quy
hoạch thực hiện các dự án khai thác khoáng sản cũng là điều kiện để định hướng và
định lượng trước công tác CTPHMT.
- Áp dụng việc quản lý hành chính đối với việc áp dụng công nghệ sản xuất
thân thiện với môi trường, giảm tới mức tối thiểu các chất thải vào môi trường, sử
dụng bãi thải trong,... làm tăng hiệu quả CTPHMT trong quá trình KTLT.
68
3. Chế tài quản lý nguồn tài chính cho CTPHMT cần phải rõ ràng, đầy đủ và
hợp lý. Các giải pháp tài chính phải phù hợp cho những đối tượng CTPHMT với
chủ thể quản lý trực tiếp, đảm bảo nguồn lực tài chính mang lại hiệu quả đầu tư và
không bị ảnh hưởng của yếu tố trượt giá theo thời gian; sử dụng tập trung nguồn lực
cho các vùng ưu tiên, tránh dàn trải.
4. Xác lập định hướng và các biện pháp CTPHMT môi trường ngay từ khi lập
dự án đầu tư khai thác mỏ nhằm gắn kết đối tượng CTPHMT với các kế hoạch phát
triển mỏ,.... Đề án CTPHMT phải được nâng cấp về chất lượng, đặc biệt cần lồng
ghép việc thực hiện CTPHMT vào quá trình khai thác mỏ.
3.1.2. Giải pháp về tổ chức và bộ máy
- Kiện toàn cơ quan quản lý TN&MT từ tỉnh đến xã, phường và cụ thể hoá các
văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý TN&MT (trong đó có hoạt động
CTPHMT), đảm bảo tính khả thi và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng khu vực
có HĐKS và có chính sách đào tạo các chuyên gia về quản lý CTPHMT.
- Xác định rõ trách nhiệm, phân công, phân cấp hợp lý việc quản lý phương án
CTPHMT được duyệt của các dự án KTLT nằm trong khu vực khai thác liên mỏ
giữa Vinacomin, các ngành và địa phương nhằm kiểm soát các ô nhiễm, suy thoái,
sự cố môi trường của giai đoạn sau khai thác ngay trong hoạt động khai thác than
(đảm bảo thực hiện quy định tại các khoản 3 và 4, điều 3 của Quyết định số
18/2013/QĐ-TTg).
3.1.3. Các giải pháp cơ chế chính sách
a. Xây dựng cơ chế phối hợp quản lý tài nguyên đất và môi trường (CTPHMT)
giữa các ngành kinh tế liên quan đến HĐKS, đảm bảo sự trao đổi thông tin thường
xuyên và phối hợp các giải pháp đồng bộ quản lý TNTN và môi trường.
b. Đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho CTPHMT, sử dụng có hiệu quả các
nguồn kinh phí ký quỹ CTPHMT nhằm tập trung cho hoạt động CTPHMT tại các
vùng ưu tiên CTPHMT là các vùng có tiềm năng phát triển kinh tế đã được định
hướng phân vùng CTPHMT đa mục tiêu quy định tại phương án CTPHMT cụm các
dự án khai thác do UBND tỉnh quyết định.
69
c. Xây dựng cơ chế tạo điều kiện thuận lợi để chủ mỏ hoặc chủ mỏ liên kết với
các nhà đầu tư được chủ động CTPHMT theo phương án CTPHMT đa mục tiêu
như:
- Tổ chức giải phóng mặt bằng, giao đất, thuê đất và phân chia trách nhiệm
quản lý đất đai sau CTPHMT đối với mỏ và các nhà đầu tư liên quan, được thuận
lợi và nhanh chóng.
- Giám sát chặt chẽ quy trình, quy phạm, an toàn trong khi thực hiện CTPHMT
lồng ghép với quá trình khai thác khoáng sản than KTLT theo định hướng chức
năng sử dụng đất, đảm bảo phương án CTPHMT đa mục tiêu.
- Đối với một số khu vực có yêu cầu cao về BVMT (bảo vệ Di sản thiên nhiên
thế giới - Vịnh Hạ Long, các khu vực đông dân cư,...), cần có quy định riêng ràng
buộc và cơ chế chính sách cụ thể đảm bảo hạn chế tối đa việc xâm hại hoặc làm ô
nhiễm, suy thoái môi trường trong khi thực hiện CTPHMT đa mục tiêu.
d. Tăng cường năng lực cho cơ quan quản lý nhà nước về TNMT các cấp có đủ
năng lực để thực hiện có hiệu quả, đồng bộ các quy định của Nhà nước liên quan
đến HĐKS và BVMT (trong đó có hoạt động CTPHMT); quy định về thanh kiểm
tra thường xuyên, xử lý vi phạm đối với hoạt động CTPHMT [47].
e. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân chủ động đầu tư thực hiện (trong đó có
hoạt động CTPHMT đa mục tiêu) và cung cấp dịch vụ CTPHMT,...
- Khuyến khích Vinacomin và các doanh nghiệp có HĐKS đầu tư các dự án cải
thiện môi trường hoặc các dự án CTPHMT đa mục tiêu:
+ Đầu tư trồng và bảo vệ rừng, BVMT khu dân cư trọng điểm, bảo vệ các di
sản thế giới và các vùng nước quan trọng,...
+ CTPHMT đa mục tiêu với việc đầu tư dự án phát triển thân thiện với môi
trường tại những khu vực kết thúc HĐKS như: lập khu đồi sinh thái (có trạm dừng
chân trong hành trình du lịch); du lịch cảnh quan công nghiệp mỏ - cảnh quan sinh
thái và cảnh quan biển tại khu vực khai trường mỏ Hà Tu, mỏ Núi Béo, mỏ 917, mỏ
Tây Khe Sim, bãi thải Đèo Nai, bãi thải Núi Béo, bãi thải 917 và bãi thải Khe Rè -
Cọc Sáu,…
70
+ Sử dụng tài nguyên thay thế; áp dụng công nghệ xử lý, tái chế chất thải, công
nghệ thân thiện với môi trường,…
- Đẩy mạnh xã hội hoá công tác CTPHMT trong phạm vi toàn tỉnh; chuyển đổi
mô hình thực hiện đầu tư CTPHMT.
f. Tăng cường hợp tác quốc tế về quản lý TNTN và BVMT nói chung và trong
hoạt động CTPHMT nói riêng, cụ thể:
- Đào tạo cán bộ quản lý TN&MT có trình độ cao (quản lý và thực hiện
CTPHMT theo hướng đa mục tiêu) cho các ngành và các địa phương.
- Chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công tác CTPHMT.
- Khuyến khích tài trợ và đầu tư các đề án CTPHMT đa mục tiêu thí điểm (đề
xuất tại khu vực mỏ than KTLT Núi Béo).
3.1.4. Giải pháp về khoa học và công nghệ
a. Áp dụng công nghệ tiên tiến trong quản lý TNTN, BVMT (CTPHMT)
Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại (ảnh viễn thám, hệ thống thông tin địa
lý - GIS,...) trong công tác quản lý TN&MT (CTPHMT). Các công nghệ này có thể
giúp các cơ quan quản lý trên nhiều mặt hoạt động:
+ Lập chương trình nghiên cứu, thu thập thông tin, đánh giá tài nguyên khoáng
sản và những TNTN khác liên quan như: nguồn nước mặt, nước ngầm, rừng, đất
đai, các tác động môi trường vùng,... làm cơ sở dữ liệu cho việc xây dựng các kế
hoạch phát triển KT-XH; quản lý, khai thác và sử dụng hợp lý TNTN và BVMT
(CTPHMT),...
+ Quản trị, trao đổi các bộ cơ sở dữ liệu về TN&MT (CTPHMT) giữa các cơ
quan chuyên ngành, các địa phương.
+ Phân tích diễn biến TN&MT và cảnh báo tai biến môi trường (kể cả giai
đoạn sau CTPHMT).
+ Xây dựng các giải pháp tổng hợp quản lý môi trường theo vùng lãnh thổ; lập
hệ thống mạng, điểm kiểm soát nhằm khắc phục suy thoái và ô nhiễm môi trường
và công tác CTPHMT đạt hiệu quả cao.
b. Đầu tư ứng dụng công nghệ tiên tiến trong hoạt động CTPHMT
71
Ứng dụng các công nghệ có mức độ an toàn lao động cao, ít gây tổn thất tài
nguyên (tài nguyên khoáng sản và các tài nguyên khác) và ít gây ô nhiễm môi
trường. Nghiên cứu, lập kế hoạch làm ổn định và phủ xanh các bãi thải, tăng nhanh
tiến độ trồng rừng cải tạo đất, trồng các loại cây mang lại hiệu quả kinh tế cao trên
khu vực CTPHMT.
c. Xây dựng mạng lưới điểm quan trắc môi trường thống nhất, đồng bộ trên
toàn tỉnh: Kết nối mạng lưới điểm quan trắc môi trường do Vinacomin thực hiện
với mạng lưới điểm quan trắc môi trường do Sở TN&MT Quảng Ninh đang thực
hiện để kiểm soát chất lượng môi trường (CTPHMT).
d. Định kỳ 5 năm/lần đánh giá môi trường tổng hợp vùng trọng điểm, trong đó
có đánh giá hiệu quả của HĐKS (hoạt động CTPHMT) đến môi trường, tới sức
khoẻ cộng đồng, tình trạng TN&MT (tình trạng CTPHMT); đề xuất các giải pháp
riêng lẻ, tổng hợp nhằm triệt tiêu các mâu thuẫn trong phát triển kinh tế liên quan
đến môi trường (CTPHMT).
e. Đầu tư thích đáng xây dựng lực lượng khoa học và kỹ thuật có chuyên môn
cao kết hợp năng lực quản lý tổng hợp theo hướng phát triển bền vững trong các
ngành kinh tế. Đặc biệt lưu ý lực lượng cán bộ chuyên môn trong công tác lập quy
hoạch, kế hoạch và thẩm định, quản lý dự án phát triển (dự án CTPHMT đa mục
tiêu) và nâng cao năng lực tự kiểm tra, giám sát của các doanh nghiệp có HĐKS.
f. Nghiên cứu xây dựng bản đồ vùng chức năng sử dụng đất vùng HĐKS (sau
khi hoàn thành CTPHMT) nhằm phục vụ cho công tác lập và thẩm định đề án
CTPHMT theo hướng đa mục tiêu.
3.1.5. Giải pháp về tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng
a. Xây dựng chương trình thường xuyên tuyên truyền, giáo dục và nâng cao
nhận thức cộng đồng về TN&MT (về công tác CTPHMT) trên các phương tiện
truyền thông các cấp và chuyên ngành.
- Thông báo rộng rãi đến cộng đồng các chương trình kế hoạch, dự án phát
triển HĐKS; các dự án cải thiện và khắc phục ô nhiễm môi trường, dự án
CTPHMT, nhất là tại các khu vực dân cư.
72
- Vận động cộng đồng tham gia quản lý TN&MT, bảo vệ các công trình xử lý
chất thải và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, các khu vực CTPHMT; giám sát và
đánh giá hiệu quả công tác BVMT (hiệu quả CTPHMT).
b. Bổ sung và hoàn thiện các chương trình giáo dục TN&MT
Trong các trường học ở mọi cấp, cần bổ sung các chương trình giáo dục phù
hợp với yêu cầu nâng cao nhận thức và năng lực sáng tạo của người học (kể cả sáng
tạo nghệ thuật) về các nguồn TNTN và môi trường của tỉnh, cũng như những yêu
cầu sử dụng hợp lý tài nguyên đất sau CTPHMT.
c. Xây dựng các tiêu chí thi đua, khen thưởng và kỷ luật
Cần xây dựng các tiêu chí thi đua, khen thưởng và kỷ luật đối với công tác
quản lý TN&MT trong HĐKS (công tác CTPHMT).
3.2. Giải pháp quản lý kỹ thuật
3.2.1. Cơ sở thực tiễn định hướng quản lý kỹ thuật CTPHMT
Trên cơ sở phân tích, đánh giá về công tác CTPHMT của một số nước trên thế
giới và ở Việt Nam, cũng như thực tế hoạt động KTLT trong các năm qua và công
tác CTPHMT, tại các khai trường lộ vỉa và các mỏ than KTLT ở vùng HG-CP chỉ
có định hướng quản lý kỹ thuật trên cơ sở trạng thái kết thúc HĐKS của các dự án
KTLT mà chưa được định hướng quản lý kỹ thuật ngay trong các giai đoạn KTLT.
Hiện tại, đề án CTPHMT được lập trên cơ sở dự kiến hoạt động của các mỏ
than KTLT đã kết thúc theo thiết kế khai thác. Tuy nhiên, trong thực tế việc khai
thác đảm bảo theo đúng thiết kế là rất khó khăn, do phụ thuộc nhiều vào tính chất
đất đá, các công nghệ khai thác, giá thành khai thác, khả năng tiêu thụ than,…. Vì
vậy, tại giai đoạn kết thúc khai thác mỏ than KTLT luôn có biến động làm thay đổi
thiết kế khai thác. Cụ thể như sau:
- Trong quá trình thiết kế khai thác chưa dự kiến đầy đủ các vấn đề kỹ thuật
cần quản lý như hiện tượng chập tầng khi kết thúc khai thác nhằm giảm thiểu khối
lượng đất đá phải bóc để đảm bảo hiệu quả của hoạt động KTLT hoặc đất đá bị sạt
lở cũng tạo nên tình trạng chập tầng.
73
- Việc nổ mìn để lại mô chân tầng làm cho việc xúc nền tầng kết thúc khai thác
không đảm bảo sự bằng phẳng để trồng cây.
- Việc nổ mìn tại các tầng kết thúc khai thác gây chấn động lớn, ảnh hưởng đến
độ bền vững của đất đá tại bờ tầng kết thúc, gây sạt lở cục bộ; việc xúc xử lý đất đá
làm cho sườn tầng mấp mô không bằng phẳng và bờ kết thúc khai thác không theo
hình dáng đã thiết kế,…
- Việc KTLT chưa phù hợp với điều kiện địa chất cũng như thế nằm của vỉa;
việc lập kế hoạch khai thác và hộ chiếu xúc cũng chưa phù hợp với các điều kiện cụ
thể của mỏ.
- Việc đổ thải bị điều chỉnh trong quá trình lập kế hoạch khai thác và hộ chiếu
xúc cho phù hợp với thực tế sản xuất; dạng địa hình bãi thải không đúng theo hình
dáng thiết kế; đất đá thải đổ không đúng theo phân tầng quy định và các quy chuẩn
kỹ thuật.
Do vậy, trong quá trình thiết kế cũng như trong quá trình khai thác, chưa lồng
ghép được công tác CTPHMT để có các biện pháp quản lý kỹ thuật hợp lý (nhằm
đạt được hình dáng mỏ như thiết kế, thực hiện các yêu cầu kỹ thuật về khai trường
mỏ và bãi thải) nhằm giảm thiểu công việc, cũng như kinh phí CTPHMT và nguy
cơ mất an toàn của khu vực CTPHMT.
Do vậy, cần có quy định định lượng tổng quát về quản lý kỹ thuật, trong đó
phải dự kiến được tỷ lệ khối lượng các công việc phải cải tạo khai trường, bãi thải
mỏ ngay trong quá trình khai thác (để bố trí kinh phí thực hiện cũng như quản lý,
giám sát quá trình CTPHMT ngay trong giai đoạn kết thúc khai thác) cũng như chủ
thể quản lý các nội dung nêu trên.
Hiện nay, hầu hết các mỏ than KTLT đã đi vào hoạt động và có kế hoạch lập
dự án cải tạo, mở rộng hay nâng công suất mỏ. Do vậy, cần lồng ghép một số hoạt
động CTPHMT ngay từ khi thiết kế cải tạo, mở rộng hay nâng công suất theo biện
pháp quản lý kỹ thuật được NCS đề xuất trong 5 giai đoạn chủ yếu của công tác
CTPHMT (bắt đầu ngay từ khâu lập dự án đầu tư và thiết kế cơ sở của mỏ than
KTLT) như sau:
74
- Giai đoạn 1: Xác định phương thức sử dụng đất sau khai thác khoáng sản.
- Giai đoạn 2: Trong quá trình thiết kế khai thác, phải thiết kế lồng ghép
CTPHMT vào quá trình hoạt động khai thác theo mục tiêu sử dụng đất đã xác định.
- Giai đoạn 3: Thực hiện các giải pháp kỹ thuật trong giai đoạn kết thúc khai
thác để đảm bảo ổn định các bờ tầng và bãi thải.
- Giai đoạn 4: Thực hiện và hoàn thiện việc CTPHMT theo mục tiêu sử dụng
đất sau khai thác đã hoạch định.
- Giai đoạn 5: Quan trắc và nghiên cứu quá trình phục hồi để có những điều
chỉnh hợp lý nhằm bảo đảm sự phát triển hài hòa của hệ sinh thái.
3.2.2. Các giải pháp quản lý kỹ thuật
3.2.2.1. Quản lý các công trình môi trường sau kết thúc khai thác
- Xây dựng quy định yêu cầu các chủ mỏ tiếp tục phối hợp với chính quyền địa
phương để quản lý và duy trì hiệu quả đối với các công trình BVMT đã tồn tại trong
quá trình khai thác mỏ nhằm đảm bảo cho các công trình này tiếp tục hoạt động có
hiệu quả cho đến khi việc CTPHMT ổn định và đạt được các yêu cầu về bền vững.
3.2.2.2. Quản lý công tác cải tạo các công trình sau kết thúc khai thác
- Xác lập các quy định về việc quản lý đối với công tác cải tạo trong dự án
CTPHMT; phải cải tạo hình dạng của khai trường và bãi thải hay giữ nguyên hình
dáng của chúng?
- Quy định việc thực hiện CTPHMT lồng ghép ngay trong quá trình khai thác,
tương ứng với công tác giám sát vào giai đoạn kết thúc khai thác; sử dụng các kỹ
thuật tiến tiến trong khai thác mỏ nhằm tăng độ ổn định của bờ mỏ (nổ mìn tạo
biên); khai thác bốc xúc đất đá và san gạt đảm bảo hình dạng, định hướng của khai
trường khai thác mỏ; công tác đổ thải theo tầng theo lớp để bảo đảm mức độ đầm
nén chặt đất đá thải; độ ổn định của bãi thải phải được giám sát trong cả quá trình
dài sau đó; yêu cầu về chi phí thực hiện cho công tác này.
- Quy định về địa hình mặt bằng cải tạo; tăng độ thẩm thấu của nước; giảm
lượng nước chảy tràn và giảm mức độ xói mòn.
- Quy định sự phối hợp với địa phương và chi phí cho công tác quản lý các
công trình đã được cải tạo, duy trì hiệu quả BVMT.
75
3.2.2.3. Quản lý công tác phục hồi môi trường các công trình khai thác mỏ
- Quy định thực hiện công tác ổn định và cải tạo lớp đất mặt, hoàn thành việc
phục hồi môi trường với thảm thực vật tầng cao và thảm thực vật tầng thấp để tạo
hiệu quả chống xói mòn đất.
- Quy định quản lý quy trình kỹ thuật trồng cây cho loại hình đặc thù của vùng
mỏ đã kết thúc khai thác và cơ chế tài chính hỗ trợ cho cây, cỏ phát triển trong suốt
quá trình tăng trưởng của chúng; duy trì chế độ theo dõi và hỗ trợ sự tái lập của hệ
động vật chủ yếu là chuột, các loài chim, các loài bò sát và côn trùng trong cả quá
trình dài sau đó để đảm bảo kết quả CTPHMT theo tiêu chí của quốc gia.
- Ban hành chế tài kiểm soát, khống chế và phòng cháy.
- Quy định quyền giám sát của cộng đồng và khiếu kiện về những sai sót trong
quá trình đóng cửa mỏ và quá trình CTPHMT kéo dài sau đó, cũng như sự hợp tác
chặt chẽ của cộng đồng địa phương và các chủ dự án trong công tác bảo tồn môi
trường và hệ sinh thái địa phương trong quá trình hoạt động và phát triển của mỏ và
quá trình CTPHMT.
- Nội dung đề án CTPHMT, cần xem xét việc sử dụng và cải tạo tối đa cả các
loại công trình hạ tầng cơ sở và xây dựng cũ của mỏ mà cộng đồng có nhu cầu sử
dụng lại (ví dụ, cho cấp điện, cấp nước, giao thông, nhà ở, các công trình dịch
vụ,…). Các công trình cũ mà cộng đồng không có nhu cầu cần trả lại mặt bằng cho
trồng cây xanh.
- Nghiên cứu ứng dụng những kết quả NCKH cơ bản, những nghiên cứu ứng
dụng mới nhất và những công nghệ tiên tiến nhất về sinh học, thổ nhưỡng học, nhân
chủng học,… trong quá trình CTPHMT [48].
Tóm lại, cần phải:
- Quy định chính sách và mục tiêu kỹ thuật đầy đủ cho công tác CTPHMT.
- Quy định về đầu tư cả về công nghệ và nhân lực cho công tác CTPHMT; bảo
đảm đầy đủ các khoản tài chính và sử dụng chúng một cách hợp lý.
76
- Đặc biệt chú trọng công tác nghiên cứu các điều kiện và chuẩn bị công tác
CTPHMT ngay trước khi bắt đầu khai thác và tiếp tục sau khi kết thúc khai thác.
- Xác định quyền lợi có liên quan tới đất đai sau CTPHMT và môi trường giữa
doanh nghiệp và cộng đồng để động viên và thu hút cộng đồng cùng thực hiện
CTPHMT, có thể xã hội hóa với những góc độ đặc trưng và thuận lợi khác nhau.
3.3. Giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng đất của khu vực
CTPHMT cho các mỏ khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả
3.3.1. Giải pháp áp dụng hệ số điều chỉnh kinh phí ký quỹ CTPHMT trong
HĐKS theo vị trí khai thác
- Xây dựng hệ số điều chỉnh điều chỉnh kinh phí ký quỹ CTPHMT trong
HĐKS cho công tác CTPHMT theo vùng (theo mức độ nhạy cảm, phù hợp với tiềm
năng phát triển kinh tế của khu vực lân cận nơi tập trung dân cư, khu đô thị trọng
điểm...) nhằm xác định mức kinh phí ký quỹ áp dụng cho các dự án khai thác
khoáng sản tại các vị trí khác nhau (gần khu bảo tồn, gần khu đô thị trọng điểm,
thuộc lưu vực bảo vệ di sản,... hoặc xa các khu vực nêu trên), nhằm điều chỉnh kinh
phí CTPHMT cho các HĐKS có các vị trí khác nhau, để tạo điều kiện cho các đơn
vị thực hiện đầu tư khai thác khoáng sản tại vùng sâu, vùng xa và dần hoàn thiện
các văn bản pháp lý liên quan đến việc hướng dẫn thực hiện Quyết định số
18/2013/QĐ-TTg ngày 29/3/2013 của Thủ Tướng Chính phủ về ký quỹ CTPHMT
đối với hoạt động khai thác khoáng sản, nhằm tập trung nguồn lực về tài chính, hỗ
trợ cho công tác CTPHMT theo định hướng đa mục tiêu.
Hệ số điều chỉnh chi phí CTPHMT theo vùng (Kd) được đề xuất xác định như
sau:
(3.1) Kd = 1 + (1 - Kv)
Trong đó: Kv - Hệ số vùng (được vận dụng xác định theo hệ số vùng, khu vực
Kv quy định tại Quy chuẩn Việt Nam QCVN 19, 21, 22, 23 : 2009/BTNMT) theo
bảng 3.1.
77
Bảng 3.1: Giá trị hệ số Kv và Kd tương ứng theo vùng, khu vực
Hệ số Hệ số Mức độ Vùng, khu vực Nhạy cảm Kv Kd
Lân cận nội thành đô thị loại đặc biệt(1) và đô thị loại I(1); rừng đặc dụng(2); di sản thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hóa được xếp hạng(3); Rất Loại 1 0,6 1,4 khu vực CTPHMT có khoảng cách nhạy cảm
đến ranh giới các khu vực này dưới 5
km.
Lân cận nội thành, nội thị đô thị loại II, III, IV(1); vùng ngoại thành
đô thị loại đặc biệt, đô thị loại I có 0,8 Nhạy cảm Loại 2 1,2
khoảng cách đến ranh giới nội thành
lớn hơn hoặc bằng 5 km
Lân cận khu công nghiệp; đô thị loại V(1); vùng ngoại thành, ngoại Không thị đô thị loại II, III, IV có khoảng Loại 3 1,0
1,0
nhạy cảm cách đến ranh giới nội thành, nội thị
lớn hơn hoặc bằng 5 km
(1) Đô thị được xác định theo quy định tại Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày
Chú thích:
(2) Rừng đặc dụng xác định theo Luật Bảo vệ và phát triển rừng ngày 14 tháng
07 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ về việc phân loại đô thị;
12 năm 2004 gồm: vườn quốc gia; khu bảo tồn thiên nhiên; khu bảo vệ cảnh quan;
(3) Di sản thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hóa được UNESCO, Thủ tướng Chính
khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học;
phủ hoặc bộ chủ quản ra quyết định thành lập và xếp hạng;
78
Quy định thực hiện điều chỉnh kinh phí ký quĩ CTPHMT trong công tác
CTPHMT theo quy định tại Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg ngày 29/3/2013 của
Thủ Tướng Chính phủ cho tất cả các dự án khai thác khoáng sản và cho một số
loại hình đặc thù cho các dự án khai thác khoáng sản than tại vùng khác nhau,...
để xác lập phương án CTPHMT; phương án kinh phí ký quỹ phục vụ CTPHMT đảm
bảo sử dụng tập trung nguồn lực để mang lại hiệu quả kinh tế của HĐKS và đảm
bảo CTPHMT đa mục tiêu.
3.3.2. Giải pháp nghiệm thu công tác CTPHMT theo các tiêu chí đánh giá
kết quả CTPHMT
Hiện nay công tác đánh giá kết quả CTPHMT chủ yếu dựa trên đề án
CTPHMT được duyệt, tuy nhiên việc đánh giá kết quả CTPHMT theo các nội dung
nêu tại đề án này lại chủ yếu là dựa vào mật độ cây trồng và tỷ lệ cây sống và phát
triển trên diện tích phải trồng cây CTPHMT. Như vậy là chưa đầy đủ đối với hoạt
động CTPHMT, bởi vì đây là quá trình mang bản chất tự nhiên, do vậy việc xây
dựng các tiêu chí đánh giá, nghiệm thu công tác CTPHMT theo phương án
CTPHMT được UBND tỉnh duyệt cho các dự án KTLT thuộc khu vực khai thác
liên mỏ (trong đó có CTPHMT đa mục tiêu) là rất cần thiết.
Về các tiêu chí đánh giá kết quả công tác CTPHMT, mỗi quốc gia đều có hệ
thống các tiêu chí khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm của hệ thống pháp lý và thể
chế về môi trường,… Tuy nhiên, các tiêu chí này đều được phát triển dựa trên các
nguyên tắc sau: đơn giản, dễ thực hiện, kinh phí đầu tư thấp, có độ tin cậy, khoa
học, phù hợp, đáp ứng mục tiêu trước mắt và lâu dài [49].
Trên cơ sở xem xét về điều kiện kinh tế, môi trường của khu vực lân cận, quy
mô và phân bố của các mỏ, thực trạng môi trường và nội dung các văn bản pháp
quy hiện hành, NCS đề xuất một số tiêu chí đánh giá kết quả CTPHMT đối với các
mỏ than KTLT vùng HG-CP, tỉnh Quảng Ninh như sau:
(1). Khi CTPHMT các mỏ than KTLT thuộc vùng CTPHMT thông thường cần
đáp ứng các tiêu chí sau:
79
a. Tiêu chí 1: đáp ứng ranh giới, diện tích, địa hình, qui mô công trình
CTPHMT theo đề án CTPHMT.
b. Tiêu chí 2: đáp ứng chỉ số hiệu quả xử lý môi trường.
Khi đánh giá về hiệu quả xử lý môi trường cần xem xét riêng cho từng thông số
môi trường phải xử lý. Chỉ số hiệu quả xử lý chất ô nhiễm môi trường (A, %) phải
thỏa mãn:
> 0 (3.2)
Trong đó: αo - hàm lượng thông số môi trường trước xử lý; αs - hàm lượng
thông số môi trường sau xử lý.
c. Tiêu chí 3: đáp ứng chỉ số hiệu quả chống xói mòn khe rãnh.
Chỉ số số hiệu quả chống xói mòn khe rãnh (Fx, %):
(3.3)
Trong đó: dkr - chiều rộng trung bình của các khe rãnh trên sườn tầng thứ i (m);
ni - số lượng khe rãnh trên sườn tầng thứ i; li - chiều dài tầng thải thứ i (m); mi- số
lượng tầng thải.
(2). Khi CTPHMT các mỏ than KTLT thuộc vùng định hướng chức năng
CTPHMT đa mục tiêu (BVMT và sử dụng đất phát triển kinh tế), thì ngoài việc đáp
ứng 3 tiêu chí như đối với CTPHMT thông thường còn phải đáp ứng thêm các tiêu
chí sau:
d. Tiêu chí 4: đáp ứng chỉ số đồng thuận N (%).
Chỉ số đồng thuận biểu thị sự phù hợp với quan điểm phát triển của cộng đồng
địa phương thông qua các kết quả tham khảo các ý kiến của các chuyên gia về kinh
tế, môi trường và các đơn vị lân cận.
Đây là tiêu chí quan trọng, luôn có mặt trong quá trình đánh giá CTPHMT đa
mục tiêu, được xác định theo công thức:
(3.4)
80
Trong đó: - tổng số lượng người được tham khảo các ý kiến là chuyên gia
kinh tế và môi trường hoặc là cộng đồng (với điều kiện số lượng người được tham
khảo ý kiến là cộng đồng phải lớn hơn số hộ của các tổ dân lân cận, giáp với khu
vực CTPHMT); - số lượng người tham gia ý kiến không đồng thuận.
e. Tiêu chí 5: Đáp ứng về độ ổn định bờ mỏ.
Góc dốc bờ mỏ, bãi thải phải đảm bảo luôn nằm trong giới hạn ổn định. Đối
với các mỏ có vị trí nằm trong vùng có nguy cơ xảy ra tai biến trượt lở thì phải thực
hiện các giải pháp giảm thiểu nguy cơ tai biến sạt lở đất và nguy cơ lũ bùn đá. Công
tác này được giám sát trong quá trình khai thác mỏ, nhằm đảm bảo việc thực hiện
các giải pháp kỹ thuật CTPHMT được lồng ghép trong quá trình khai thác mỏ.
f. Tiêu chí 6: đáp ứng chỉ số hiệu quả kinh tế của CTPHMT đa mục tiêu.
Chỉ số đánh giá hiệu quả kinh tế của CTPHMT đa mục tiêu (Ki) như sau:
Trong đó: Gm(n) - giá trị đất đai sau khi phục hồi, dự báo theo giá cả thị trường tại
(3.5)
thời điểm tính toán với loại đất theo chức năng sử dụng đất tương tự và lân cận khu
vực CTPHMT; Gm(i) - giá trị đất đai sau khi phục hồi theo phương thức các mỏ than
đã thực hiện theo quy định tại Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg, đã được cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt, dự báo theo giá cả thị trường tại thời điểm tính toán; Gp(n) -
tổng chi phí phục hồi đất để đạt được chức năng sử dụng; Gp(i) - tổng chi phí phục hồi
đất theo phương thức các mỏ than đã thực hiện theo quy định tại Quyết định số
18/2013/QĐ-TTg, đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; Gc - giá trị nguyên
thuỷ của đất đai trước khi mở mỏ ở thời điểm tính toán (theo đơn giá của Nhà nước).
Bảng 3.2: Quy ước giá trị hệ số Ki
Ki Mức độ hiệu quả Vùng áp dụng*
Cao Rất nhạy cảm Ki > 1
Đạt Nhạy cảm 0≤ Ki <1
Không đạt Không nhạy cảm Ki<0
* Vùng áp dụng với mức độ nhạy cảm được xác định theo bảng 3.1.
81
3.3.3. Giải pháp quản lý bằng một số quy định cần thiết khác có liên quan
đến công tác CTPHMT
Nhằm hoàn thiện các văn bản pháp lý liên quan đến việc hướng dẫn thực hiện
Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg, ngày 29/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ, để hỗ
trợ cho công tác CTPHMT theo định hướng đa mục tiêu, cần xây dựng các quy định
cần thiết khác sau đây:
- Xây dựng quy định quản lý thống nhất về kinh phí ký quỹ CTPHMT để đảm
bảo tập trung cho việc thực hiện CTPHMT theo định hướng đa mục tiêu đối với
vùng trọng điểm có hoạt động CTPHMT trong quá trình khai thác khoáng sản;
công tác quản lý, giám sát thực hiện và nghiệm thu công tác CTPHMT đa mục tiêu.
- Xây dựng quy trình kỹ thuật thực hiện CTPHMT ngay trong quá trình khai
thác khoáng sản và công tác giám sát, nghiệm thu kỹ thuật trong giai đoạn này của
dự án.
- Xây dựng quy định về việc ĐMT, trong đó xác định vùng ưu tiên cho
CTPHMT đa mục tiêu (thuộc vùng nhạy cảm), vùng không phải CTPHMT đa mục
tiêu nhằm định hướng cho việc thực hiện CTPHMT theo hướng đa mục tiêu để thúc
đẩy, chuyển dịch hướng phát triển kinh tế thay thế, phục vụ cho việc lập phương án
CTPHMT cho các dự án KTLT thuộc khu vực khai thác liên mỏ do UBND tỉnh
quyết định (theo quy định tại khoản 4 điều 3 Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg của
Chính phủ).
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho cộng đồng dân cư lân cận
khu vực có hoạt động khai thác than hiểu biết về hoạt động CTPHMT để cộng đồng
quan tâm giám sát và phản ánh kịp thời các hoạt động CTPHMT không phù hợp với
định hướng của địa phương; phát hiện và thông tin đầy đủ, cảnh báo kịp thời các
vùng CTPHMT có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tai biến môi trường và những
vấn đề về môi trường bức xúc do hoạt động CTPHMT gây ra.
3.3.4. Giải pháp quản lý CTPHMT cho các mỏ khai thác than lộ thiên vùng
trọng điểm
82
Hoạt động KTLT của từng dự án tại vùng HG-CP (vùng có nhiều dự án đa
ngành phục vụ phát triển kinh tế như công nghiệp, khai khoáng, cảng biển và du
lịch...) có đặc điểm là các mỏ than KTLT tại đây đa phần đều nằm gần nhau, có ảnh
hưởng và tác động lẫn nhau như mỏ 917, Hà Lầm, Núi Béo, Hà Tu (khu vực Hòn
Gai); mỏ Đèo Nai, Cọc Sáu, Cao Sơn,… (khu vực Cẩm Phả).
Quá trình CTPHMT của Vinacomin tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP trong
thời gian qua được thực hiện theo quy định của pháp luật, tuy nhiên chưa có nghiên
cứu ĐMT để xác định đúng mức những ảnh hưởng đến môi trường và các nguồn
TNTN khác là nguồn lực cho phát triển các ngành kinh tế khác trong khu vực và
phát triển KT-XH toàn vùng Quảng Ninh.
Những năm trước đây, hoạt động CTPHMT các khai trường lộ vỉa và các mỏ
than KTLT chưa có định hướng chiến lược, quản lý cụ thể theo hướng CTPHMT đa
mục tiêu; chưa xem xét việc CTPHMT theo các mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi
trường của một mỏ cụ thể trong tổng thể nhiều mỏ trên một khu vực rộng lớn như
vùng HG-CP nhằm đáp ứng việc tiếp tục sử dụng tài nguyên đất và TNTN, phát
triển kinh tế vùng, duy trì hoạt động CTPHMT bền vững cho khu vực.
Điều này dẫn đến một thực tế là trong quá trình khai thác than trên các khai
trường lộ thiên chưa gắn kết mục tiêu CTPHMT ngay trong quá trình sản xuất (đã
được đề cập tại mục 3, điều 3, Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg, nhưng chưa có
thông tư hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện nội dung này), làm gia tăng các tác
động tiêu cực tới môi trường và làm lãng phí nguồn kinh phí để tiếp tục cải tạo và
phá bỏ công trình CTPHMT (khi công trình chưa phù hợp với định hướng
CTPHMT đa mục tiêu).
Do đó, để quản lý tốt công tác CTPHMT, NCS đề xuất UBND tỉnh Quảng
Ninh cần thực hiện việc ĐMT, xác định vùng ưu tiên BVMT...và đồng thời có định
hướng vùng chức năng CTPHMT theo hướng đa mục tiêu và vùng CTPHMT thông
thường.
Đây sẽ là cơ sở cho việc quản lý việc lập dự án đầu tư mở rộng và đề án
CTPHMT cho hoạt hoạt động khai thác khoáng sản theo định hướng vùng chức
83
năng CTPHMT để triển khai thực hiện CTPHMT ngay trong quá trình sản xuất, khi
chuẩn bị kết thúc khai thác và khi kết thúc khai thác cho mỗi một dạng mỏ (có tiềm
năng) theo hình thái dạng mỏ và triệt tiêu các tai biến môi trường. Kết quả này sẽ là
nền tảng để tập trung nguồn kinh phí ký quỹ thực hiện CTPHMT đa mục tiêu mà
không phải phá bỏ hay cải tạo trên nền địa hình đã có sẵn.
Vùng đất được CTPHMT đa mục tiêu là điểm nhấn về kết quả CTPHMT phục
vụ cho cộng đồng nhân dân và lại tiếp tục mang lại hiệu quả sử dụng đất, tài nguyên
đất, phát triển kinh tế phù hợp với phát triển của các ngành kinh tế khác trong vùng
HG-CP và phát triển KT-XH toàn tỉnh Quảng Ninh. Từ đó làm cơ sở đề xuất chính
sách quản lý và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất phục vụ phát triển kinh tế phù
hợp và đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững.
Dựa vào những phân tích ở trên, NCS đề xuất quản lý CTPHMT nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đất và BVMT như sau (Hình 3.1).
Các biện pháp quản lý CTPHMT nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất và bảo vệ môi trường
Các biện pháp gián tiếp
Các biện pháp trực tiếp
Các biện pháp giám sát và bảo trì kết quả
Các biện pháp kỹ thuật CTPHMT sử dụng lồng ghép trong quá trình
CTPHMT
khai thác mỏ
Các biện pháp đảm bảo hoàn thành vùng CTPHMT theo chức
năng
Chế tài; công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý và công đồng trong việc kiểm soát CTPHMT theo các
tiêu chí
Sử dụng công cụ ĐMT vùng, khu vực trọng điểm; xác định mức độ giảm thiểu ô nhiễm vùng (xác định khả năng, mức độ đáp ứng CTPHMT); định hướng phân vùng chức năng CTPHMT
Các biện pháp về pháp luật và thể chế liên quan thực hiện quản lý CTPHMT theo chức năng phân vùng CTPHMT; Tập trung nguồn kinh phí ký quỹ và huy động vốn đầu tư vào vùng CTPHMT từ nhiều nguồn lực khác nhau
Hình 3.1: Sơ đồ đề xuất các biện pháp quản lý CTPHMT
cho các mỏ khai thác than lộ thiên tại vùng trọng điểm
84
3.3.5. Giải pháp quản lý môi trường vùng (trong đó có CTPHMT) bằng công
cụ “Đánh giá môi trường tổng hợp“
1. Cơ sở thực tiễn của việc đánh giá môi trường tổng hợp
Trên thực tế, để tăng cường công tác BVMT và hướng tới mục tiêu phát triển
bền vững, bên cạnh các công cụ như chế tài hành chính, chế tài hình sự, công cụ
kinh tế (thuế môi trường, phí BVMT, ký quỹ phục hồi môi trường, Tiêu chuẩn/Quy
chuẩn Việt Nam về môi trường cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển, Luật
BVMT năm 2005 đã quy định về đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) đối với
một số chiến lược, quy hoạch, kế hoạch (CQK), đánh giá tác động môi trường
(ĐTM) và cam kết bảo vệ môi trường (CKBVMT) đối với một số loại hình dự án
đầu tư (tùy theo tính chất của dự án mà phải áp dụng ĐTM hay CKBVMT). Tiếp
theo luật BVMT năm 2005, chính phủ đã ban hành Nghị định số 80/2006/NĐ-CP
ngày 09/8/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật BVMT,
Nghị định số 21/2008/NĐ-CP, Nghị định số 29/2011/NĐ-CP; Bộ TN&MT đã có
thông tư số 26/2012/TT-BTNMT quy định chi tiết và cụ thể về ĐMC, ĐTM và
CKBVMT,... đã tạo khung pháp lý để giúp các nhà đầu tư thực thi nghiêm túc
nhiệm vụ BVMT trong quá trình vận hành của một số CQK và dự án theo quy định
của pháp luật.
Như vậy, các vấn đề về môi trường đối với từng dự án cụ thể, với từng chiến
lược quy hoạch hoặc kế hoạch phát triển của một ngành hay của một địa phương
(tỉnh, liên tỉnh) vấn đề môi trường cần được xem xét trước khi CQK hay dự án đó
triển khai thực hiện.
Trong khi đó, môi trường tại các vùng lãnh thổ trọng điểm với các tụ điểm
công nghiệp, cụm dân cư có nhiều cơ sở thực hiện các dự án khai thác mỏ hoặc
nhiều dự án phát triển kinh tế khác nhau,... đang ngày một xuống cấp. Một số nguồn
tiếp nhận (sông, suối, khu vực biển ven bờ,...) đã quá tải, vượt ngưỡng cho phép,
gây ô nhiễm môi trường. Một vài nơi đã ở cấp báo động, nhưng chưa được giải
85
quyết do không có cơ sở pháp lý, chế tài xử lý (nhất là trách nhiệm của các chủ
nguồn phát thải khi tham gia phát triển kinh tế) trong việc đền bù thiệt hại gây ô
nhiễm MT trong một vùng, một lưu vực sông, suối,… và việc qui trách nhiệm đối
với các bên liên quan trong việc giải quyết ô nhiễm môi trường.
Để đảm bảo sự phát triển bền vững cho xã hội nói chung, cho tương lai ngành
khai thác mỏ nói riêng và cho các đối tượng như đã nêu ở trên,… cần tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung kịp thời vào khung chính sách và xây dựng hướng dẫn kỹ thuật
về “Đánh giá môi trường tổng hợp” - ĐMT, nhằm lấp khoảng trống chính sách mà
các công cụ về BVMT chưa đáp ứng được.
Sự khác nhau về mục tiêu, quy mô nhiệm vụ,… của ĐMT với các công cụ
BVMT khác (ĐMC, ĐTM, CKBVMT) được thể hiện trong bảng 3.3.
Bảng 3.3: So sánh ĐMC, ĐTM, CKBVMT và ĐMT
Chỉ tiêu TT ĐMC ĐTM, CKBVMT ĐMT so sánh
1 Mục tiêu Đảm bảo sự phát BVMT, giảm thiểu BVMT và phát
cơ bản triển bền vững ô nhiễm đối với triển bền vững
đối với khu vực khu vực tiến hành đối với khu vực
tiến hành CQK về dự án trọng điểm
kinh tế và xã hội
2 Quy mô Tỉnh, liên tỉnh, Dự án, khu vực Tất cả các dự án
tác động ngành, liên ngành tiến hành dự án triển khai trong
khu vực
3 Cơ sở lập Các CQK kinh tế Các dự án phát Các khu vực
và xã hội triển trọng điểm, các
điểm nóng về
môi trường
4 Thời điểm Đồng thời với quá Trước khi dự án Khi trong khu
tiến hành trình lập CQK được triển khai vực có nhiều dự
86
án đã, đang và
sẽ hoạt động
5 Nội dung Dự báo các biến Dự báo các ô Đánh giá hậu
đánh giá động về kinh tế, nhiễm, suy giảm quả làm suy
xã hội và môi chất lượng môi giảm chất lượng
trường trong trường trong và sau môi trường do
tương lai quá trình hoạt động hoạt động của
của dự án nhiều dự án
trong khu vực
ĐMT vùng, khu vực nhằm tạo khung pháp lý xác lập thực trạng các vấn đề môi
trường của vùng phát triển kinh tế trong một phạm vi không gian giới hạn (như
trong một vùng công nghiệp phát triển; vùng phát triển trên lưu vực sông quan
trọng,…) để có các giải pháp tổng thể, phối hợp giữa các cơ sở, liên ngành, liên
vùng nhằm giải quyết các vấn đề môi trường (trong đó bao gồm cả vấn đề
CTPHMT) và các mâu thuẫn giữa các ngành cùng phát triển trong vùng, khu vực,....
ĐMT là công cụ hỗ trợ xác định rõ trách nhiệm của mỗi nhà đầu tư, của mỗi cấp,
mỗi ngành, địa phương khi có vấn đề môi trường nghiêm trọng xảy ra trong khu
vực; xác định các vấn đề CTPHMT cần giải quyết trong vùng có vấn đề môi trường
trọng yếu; các vùng CTPHMT đa mục tiêu (định hướng đa mục tiêu: các vùng tiếp
tục có chức năng phát triển kinh tế); các vùng CTPHMT, vùng BVMT nguồn nước,
di sản,… và vùng tự CTPHMT theo tự nhiên,…; vấn đề quản lý tổng hợp giữa các
ngành kinh tế liên quan; trách nhiệm của chủ mỏ, của địa phương; của các nhà quản
lý và chế tài quản lý quỹ CTPHMT tập trung,…
Việc tiến hành ĐMT cho các vùng trọng điểm, các lưu vực sông suối,… của
các tỉnh, thành phố sẽ là công cụ chuyên môn có tính pháp lý giúp cho nhà hoạch
định chính sách các biện pháp quản lý tổng thể nhằm giải quyết xung đột giữa các
ngành kinh tế, giảm thiểu sức ép lên môi trường sinh thái và các hệ tài nguyên sinh
87
vật; góp phần đảm bảo sự phát triển hài hòa và bền vững của các hoạt động kinh tế
trong vùng và đảm bảo an sinh xã hội và chống suy thoái môi trường tại các địa
phương.
Không riêng gì khu vực Quảng Ninh, việc tiến hành ĐMT đang là vấn đề cấp
thiết đối với nhiều vùng lãnh thổ, cụm dân cư, khu công nghiệp,... trong cả nước.
Giải pháp này không chỉ là tình thế mà còn là lâu dài, nhằm lấp đầy khoảng trống
về chính sách quản lý và BVMT mà ĐTM, CKBVMT của các dự án và ĐMC của
các CQK còn bỏ sót lại. ĐMT nhằm đánh giá tổng thể thực trạng vấn đề môi trường
và sự phát triển trong một phạm vi không gian nhỏ; mối tương quan giữa các đơn vị
sản xuất và các dự án phát triển trong vùng công nghiệp trọng điểm; lưu vực đầu
nguồn sông suối quan trọng,... nhằm làm cơ sở để có các chính sách, giải pháp
nhằm giảm thiểu các mâu thuẫn phát triển giữa các ngành như du lịch - cảng biển;
du lịch và khai thác khoáng sản,… đồng thời xác định rõ trách nhiệm của mỗi nhà
đầu tư, của mỗi cấp, mỗi ngành và mỗi địa phương khi có vấn đề môi trường
nghiêm trọng xảy ra.
Cũng như ĐMC, ĐTM và CKBVMT, việc tiến hành ĐMT cần có sự tham gia
của các nhà khoa học, của cộng đồng; của các chủ đầu tư của các dự án hoạt động
thuộc vùng, thuộc lưu vực sông, suối khu vực đặc thù và các cấp, các ban ngành
hữu quan liên quan, nhưng trước hết là phải có khung pháp lý hướng dẫn chi tiết
ĐMT của cơ quan có trách nhiệm.
Việc tiến hành ĐMT cho các vùng trọng điểm của các tỉnh, thành phố sẽ giúp
cho nhà hoạch định chính sách các biện pháp tổng thể quản lý giải quyết xung đột
giữa các ngành kinh tế, giảm thiểu sức ép lên môi trường sinh thái và các hệ tài
nguyên sinh vật; góp phần đảm bảo sự phát triển hài hoà và bền vững của các hoạt
động kinh tế trong vùng và đảm bảo an sinh xã hội và suy giảm môi trường,… tại địa
phương. ĐMT vùng nghiên cứu cung cấp một bức tranh tổng hợp về KT-XH-MT
nhằm giúp định hướng cho các hành động, các kế hoạch phát triển, đảm bảo sự kết
hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, ổn định xã hội và đảm bảo chất lượng môi trường.
88
2. Nội dung chủ yếu của ĐMT
(1). Xác lập phạm vi vùng ĐMT: xác lập vùng ĐMT trên cơ sở các thu thập
thông tin về các vấn đề phát triển KT-XH-MT trong bối cảnh tổng thể thực tại của
vùng để xác lập được phạm vi về không gian và thời gian.
(2). Xác lập quy luật tương đối của sự thay đổi, biến thiên của các yếu tố khí
tượng thủy văn có liên quan đến sự khuếch tán chất ô nhiễm trong khí quyển.
- Xác định này có tính quan trọng trong quá trình ĐMT để xác lập được mức
độ ổn định của khí quyển theo sự thay đổi và biến thiên của nhiệt độ. Trong điều
kiện này, các chất ô nhiễm khuếch tán ra môi trường xung quanh được thuận lợi và
nhanh chóng,…[5]
- Xác lập được chính xác quy luật nêu trên nhằm đảm bảo ĐMT như: đánh giá
tác động cộng hưởng, tích lũy; đánh giá khả năng chịu tải của nguồn tiếp nhận; xác
lập các phương pháp mô phỏng, chất lượng môi trường khí và nước,…
(3). Kiểm kê, thống kê các nguồn ô nhiễm tự nhiên phát sinh gây ô nhiễm môi
trường; nguồn ô nhiễm nhân tạo (nguồn phát thải động và tĩnh) về thành phần, tải
lượng chất ô nhiễm,…
(4). Xác định các bên liên quan: Các cơ sở phát triển kinh tế; các cơ quan ban
ngành quản lý; cộng đồng dân cư; tổ chức phi chính phủ.
(5). Đánh giá tác động cộng hưởng các tác động môi trường từ các nguồn phát
thải nhằm xác định chính xác chất lượng thực tế các thành phần môi trường khu
vực, trên cơ sở đó xác định nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự suy giảm môi trường và
đề xuất giải pháp khắc phục. Vấn đề này đặc biệt có ý nghĩa đối với những tụ điểm
dân cư có nhiều cơ sở kinh tế với các phương thức sản xuất và chủng loại sản phẩm
khác nhau. Các yếu tố KT-XH-MT được nghiên cứu, xem xét trong mối quan hệ
tương tác đa chiều [01], [31]. Ví dụ, hoạt động khai thác và vận chuyển than (bằng
đường bộ và đường thủy) sẽ có tác động tới các yếu tố tự nhiên (địa chất, địa hình,
khí hậu, thủy văn, đất, thực vật), các yếu tố KT-XH (vai trò của khai thác than trong
cơ cấu kinh tế chung, cơ sở hạ tầng, các khía cạnh xã hội như lao động, thu
nhập,...), các yếu tố môi trường và tai biến thiên nhiên (ô nhiễm không khí do bụi,
89
tiếng ồn, khí thải; ô nhiễm môi trường nước do rác thải rắn, chất thải độc hại từ các
mỏ và khai trường),... Bản thân môi trường nước hoặc không khí cần được xem xét
trong mối tương quan không chỉ với hoạt động khai thác than mà còn với các hoạt
động khác như sản xuất công nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng, nông, lâm nghiệp,
thủy sản, cảng biển, du lịch,...
Phương pháp đánh giá: Lựa chọn các mô hình hoặc các bài toán truyền tải,
khuếch tán vật chất và ô nhiễm môi trường; xác lập các phương pháp mô phỏng
chất lượng môi trường khí và nước phù hợp, để xác lập đánh giá tác động cộng
hưởng đối với điểm hoặc tập hợp điểm; xác lập các thông số phù hợp thực tế để giải
các bài toán; mô hình lựa chọn; tổng hợp kết quả đánh giá và xử lý kết quả.
Ví dụ, sự biến thiên tình trạng ô nhiễm môi trường xung quanh không chỉ phụ
thuộc vào các nguồn thải khác nhau mà còn phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự
nhiên. Đối với môi trường không khí xung quanh thì sự biến thiên, mức độ ô nhiễm
môi trường chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện khí hậu (hướng gió và tốc độ gió),
mưa, nắng,...); Đối với ô nhiễm môi trường các dòng sông, suối, thì chủ yếu phụ
thuộc vào lưu lượng dòng chảy, tốc độ và hướng dòng chảy, nhiệt độ nước,...). Đối
với ô nhiễm môi trường nước biển ven bờ thì chủ yếu phụ thuộc vào các dòng hải
lưu và tình trạng thủy triều. Đối với ô nhiễm môi trường đất (nham thạch, thổ
nhưỡng) thì chủ yếu phụ thuộc vào tính thẩm thấu, khuyếch tán ô nhiễm môi trường
đất và điều kiện địa chất thủy văn.
Do vậy, để đánh giá tác động cộng hưởng thì không thể dùng các biện pháp
đơn lẻ mà phải lựa chọn các phương pháp phù hợp sau đó phân tích, tổng hợp kết
quả của các phương pháp để đáp ứng nội dung của ĐMT. Chính vì vậy, cần phải
lựa chọn các thông số đặc trưng cho vùng theo nguồn thải; lựa chọn điểm trong tập
hợp điểm đại diện trong vùng; lựa chọn phương pháp tính toán, được đề xuất là
tổng hợp của các phương pháp ĐTM đang áp dụng phổ biến, cụ thể như sau [19]:
Bước 1: Xác định mức độ ô nhiễm tại một điểm trong tập hợp điểm đại diện
trong vùng theo một số phương pháp sau:
- Phương pháp mô hình của Berliand, Sutton và Gauss (cho môi trường
90
không khí) và Mike, Quai2K (cho môi trường nước),…
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê số liệu quan trắc môi trường
thực tế. Phương pháp này đòi hỏi phải có hệ thống các trạm quan trắc môi trường
xung quanh hoàn thiện, phân bố các điểm đo bao trùm cả khu vực nghiên cứu,
phân bố các điểm đo càng dày càng đạt được độ chính xác cao cho việc khoanh
vùng ô nhiễm. Thời gian quan trắc phải phù hợp để kết quả quan trắc phản ánh
đúng thực trạng ô nhiễm môi trường.
- Phương pháp tính toán theo mô hình khuyếch tán ô nhiễm môi trường bằng
hệ thống thông tin địa lý (GIS). Phương pháp tiếp cận này đòi hỏi phải có đầy
đủ các thông số về các nguồn thải gây ra ô nhiễm môi trường (vị trí không gian,
lưu lượng thải, chất thải, phương thức thải và các tính chất vật lý của nguồn thải) và
phải có đầy đủ các thông số về điều kiện khí hậu, thủy văn, hải văn, địa hình, địa
chất thủy văn,... của khu vực nghiên cứu. Phương pháp tiếp cận tính toán phân bố ô
nhiễm theo mô hình có thể vẽ được các đường đồng mức ô nhiễm tương đối chính
xác, tức là có thể xác định được mức độ ô nhiễm môi trường khác nhau.
- Phương pháp xác định chỉ số chất lượng môi trường tổng hợp được ký hiệu là
EQI. Mô hình EQI được đề xuất và áp dụng đầu tiên ở Mỹ vào những năm 1965-
1970 và đang được áp dụng rộng rãi ở nhiều bang. Hiện nay nhiều mô hình EQI đã
được triển khai nghiên cứu áp dụng ở nhiều quốc gia như Ấn Độ, Canada, Chilê,
Anh, Wales, Đài Loan, Úc, Malaysia,…. EQI được xem là một công cụ hữu hiệu
đối với các nhà quản lý môi trường trong giám sát, kiểm tra, quản lý chất lượng môi
trường, đánh giá hiệu quả của các nhà hoạch định chính sách,.... Với EQI, dễ áp
dụng tin học để quản lý chất lượng môi trường và bản đồ hóa khoanh vùng ô nhiễm
môi trường (chẳng hạn, màu hóa các vùng ô nhiễm theo các thang điểm xác định).
Đối với mỗi loại môi trường (môi trường không khí, môi trường nước mặt, môi
trường nước biển ven bờ,...), người ta thường chọn lựa ra một số chất ô nhiễm điển
hình i đặc trưng, có ý nghĩa quan trọng nhất của môi trường đó, để tính toán đánh
giá mức độ ô nhiễm (chỉ số chất lượng) của một môi trường nào đó, không có nước
nào tính toán với tất cả các thông số ô nhiễm trong bảng thông số tiêu chuẩn/quy
91
chuẩn chất lượng môi trường. Trong trường hợp các tác dụng sinh học của các chất
ô nhiễm i trong một môi trường tương tự hay xấp xỉ như nhau, thì người ta có thể
xác định một chỉ số chất lượng môi trường tổng hợp để đánh giá mức độ ô nhiễm
của môi trường như sau:
+ Khi đánh giá mức độ ô nhiễm của môi trường nước biển ven bờ, có thể sử
dụng công thức để tính toán thông qua một vài thông số đặc thù [20]:
(3.6)
Trong đó: j - Các thông số đặc thù; i = 1, 2, 3,…, n - Chỉ số đánh số điểm i đối
với mỗi vùng nước cụ thể; Ci - Nồng độ hay hàm lượng (TSS) thực tế xác định
được tại điểm i, là trị số trung bình năm hay trung bình quý; Co - Nồng độ hay hàm
lượng chất ô nhiễm (TSS) tối đa cho phép được quy định theo QCVN
10:2008/BTNMT; n - Số lượng điểm xác định tại nguồn nước cụ thể; Trị số 100 là
chỉ số chất lượng nước biển ven bờ quy ước, tương ứng với điều kiện nồng độ quan
trắc thực tế bằng nồng độ giá trị giới hạn cho phép được quy định theo QCVN.
Tính toán trung bình các thông số về đánh giá chất lượng như sau:
(3.7) SWQI01 =
Trong đó: k - tổng các thông số.
+ Khi tính toán ô nhiễm môi trường đất với các thông số riêng biệt, có thể sử
dụng công thức sau [18]:
(3.8)
Trong đó: Ci - nồng độ chất ô nhiễm trung bình năm hoặc trung bình ngày đặc
trưng xác định được tại điểm i trong phạm vi nghiên cứu; i = 1, 2, 3..., n; j - các
thông số đặc trưng; Co - trị số nồng độ chất ô nhiễm cho phép, tương ứng với giá trị
tối đa cho phép theo QCVN 03: 2008/BTNMT và QCVN 15: 2008/BTNMT.
Có thể đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường thông qua các thông số:
92
SOQI = (3.9) SOQIk
Trong đó: n - Tổng các thông số.
+ Khi tính toán sự ô nhiễm không khí với các thông số riêng biệt, có thể sử
dụng công thức sau [19]:
(3.10)
Trong đó: Ci - nồng độ chất ô nhiễm trung bình năm tại địa điểm i trong phạm
vi nghiên cứu; i = 1, 2, 3... n; Co - trị số nồng độ chất ô nhiễm cho phép, tương ứng
với giá trị tối đa cho phép theo QCVN:05/2009/BTNMT.
+ Khi tính toán đánh giá mức độ ô nhiễm trung bình của môi trường không
khí, có thể sử dụng công thức [19]:
AQI = (3.11) SOQIk
Trong đó: n - tổng các thông số.
Bước 2: Xác lập sự cộng hưởng (sự giao thoa) của các mô hình khuếch tán
của các nguồn thải trong vùng, các thông số ô nhiễm của khu vực theo các phương
pháp khác,…
Bước 3: Tổng hợp, phân tích kết quả và lựa chọn kết quả mang tính đại diện và
đặc trưng cho vùng.
(6). Đánh giá các tác động tích luỹ là việc xem xét và định lượng quá trình
trầm tích, lắng đọng và tích tụ các phát thải của một hoạt động phát triển nào đó
diễn biến từ quá khứ tới hiện tại và có thể tiếp tục trong tương lai. Đối với một dự
án cụ thể thì tác động tích luỹ là xác định về mặt thời gian, nhưng đối với một vùng
lãnh thổ thì tác động tích luỹ là vô định, theo bám vĩnh viễn suốt quá trình tồn tại và
phát triển của địa phương này. Tác động này có thể tăng, giảm hay giữ nguyên ở
một trạng thái nào đó tuỳ theo khả năng kiểm soát và thái độ ứng xử của con người
đối với nó [22].
93
Phương pháp để đánh giá tác động tích luỹ các thành phân ô nhiễm trong trầm
tích, lắng đọng và tích tụ các phát thải như cặn cứng, chất độc hại, kim loại nặng,...
là nghiên cứu xây dựng các mô hình thủy động lực, lan truyền trầm tích lơ lửng ở
khu vực cửa sông; xác lập khả năng tích luỹ và phân tán chất ô nhiễm trong trầm
tích theo thời gian,... để định lượng và dự báo các phát thải.
(7). Đánh giá khả năng chịu tải của nguồn tiếp nhận có nghĩa là xem xét đánh
giá một cách tổng hợp vùng nghiên cứu trong mối quan hệ vùng, đồng thời xác lập
được các giới hạn, các ngưỡng môi trường vùng nghiên cứu. Về khả năng chịu
đựng của hệ sinh thái, ví dụ như những tác động môi trường của một số dự án riêng
lẻ có thể “gặm nhấm” một cách có hiệu quả chức năng của hệ sinh thái và năng lực
sinh tồn của các động vật hoang dã; sự vượt quá ngưỡng xáo trộn của hệ sinh thái
có thể dẫn đến sự phá hủy hệ sinh thái đó trong một giai đoạn ngắn. Nhiều hoạt
động nhỏ riêng biệt không có ý nghĩa cũng có thể tạo nên kết quả tổng hợp dẫn đến
những tác động đáng kể sau một thời gian ngắn. Việc này có vai trò quan trọng
trong quá trình điều khiển và quản lý hệ thống KT-XH-MT vùng nghiên cứu, nhằm
đảm bảo mọi hoạt động phát triển được vận hành trong trạng thái ổn định, hợp lý
với mức phát thải ô nhiễm dưới ngưỡng cho phép.
(8). Xác định các trọng điểm dẫn đến sự vượt ngưỡng các chỉ tiêu môi trường
khu vực: Phân tích, xem xét các hoạt động phát triển đặc trưng trong vùng nghiên
cứu, nghiên cứu các hợp phần tự nhiên (địa chất - địa hình, khí hậu - thủy văn, đất -
sinh vật), các yếu tố KT-XH mang tính chất nhân sinh (cơ sở hạ tầng, các hoạt động
sản xuất) và các mối liên hệ giữa các hợp phần đó, làm biến đổi dòng vật chất, năng
lượng của hệ thống (các quá trình địa mạo, các tai biến thiên nhiên và nhân sinh,
chu trình vật chất và năng lượng, chu trình kinh tế tài nguyên) với vai trò trung tâm
là con người cùng các tác động của nó nhằm xác định trọng điểm phát thải ô nhiễm,
tạo ra hiệu ứng “giọt nước gây tràn ly”.
(9). Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp riêng lẻ và tổng hợp nhằm từng bước
cải thiện chất lượng môi trường: Giải pháp riêng lẻ thường mang tính cục bộ, phạm
vi ảnh hưởng không lớn và mang lại hiệu quả hạn chế, tuy nhiên có tính khả thi cao,
94
do có sự phù hợp với điều kiện tự nhiên và kỹ thuật cụ thể của đối tượng chịu tác
động. Thí dụ, để hạn chế giảm thiểu môi trường không khí do bụi, chính quyền địa
phương yêu cầu các ô tô chở đất đá và than khi chạy qua khu vực dân cư phải che
bạt kín thùng xe, chủ dự án phải tiến hành phun nước thường xuyên trên đoạn
đường xe chạy qua,... Giải pháp tổng hợp trong trường hợp này là sử dụng đồng bộ
nhiều giải pháp kết hợp (che bạt kín thùng xe, phun sương và rải nhựa mặt đường
xe chạy, trồng cây xanh 2 bên vệ đường,...), nghiêm cấm các ô tô vận tải đất đá và
than chạy qua khu vực dân cư, cách ly khu vực dân cư với các nguồn phát thải bụi
bằng hệ thống đê bao và cây xanh,.... Như vậy, giải pháp tổng hợp thường có tính
khả thi ít hơn, khó thực hiện hơn, nhưng hiệu quả và phạm vi tác động lớn hơn, triệt
để hơn [50].
(10). Đánh giá môi trường tổng hợp phải làm được chức năng hỗ trợ phát triển
kinh tế - xã hội, phải xuất phát từ trình độ phát triển KT-XH nhất định ở mỗi địa
phương, mỗi vùng lãnh thổ để có những đối sách thích hợp. ĐMT phải chú ý thích
đáng cho phát triển KT-XH, phải có sự cân nhắc, đánh giá, tính toán về môi trường;
có các đối sách, biện pháp thích hợp để bảo đảm môi trường bền vững ở những mức
độ nhất định, tương thích với các điều kiện KT-XH của vùng nghiên cứu, đồng thời
giải quyết được các xung đột giữa KT-XH-MT một cách thoả đáng.
(11). Tổ chức quản lý, giám sát môi trường khu vực trong trường hợp này đóng
vai trò là “giải pháp đầu đường ống”, bao gồm các biện pháp cưỡng chế, giáo dục,
thưởng phạt,... nhằm tạo ra một áp lực thường trực tác động lên nguồn phát thải,
không cho các chất ô nhiễm phát xả ở đó vượt quá “quota” đã được phân định.
ĐMT có trách nhiệm đề ra chương trình quản lý các vấn đề BVMT cho quá trình
vận hành của các dự án. Chương trình quản lý môi trường bao gồm các hoạt động
quan trắc, giám sát toàn diện các chỉ tiêu môi trường xung quanh của tất cả các hoạt
động phát triển trong khu vực; giám sát việc thực thi các biện pháp tổng hợp
BVMT,…[30]. Có thể nói: quản lý, giám sát, đánh giá việc thực thi ĐMT là giải
pháp quan trọng, đảm bảo cho sự ổn định và bền vững của môi trường khu vực.
3. Những đặc điểm khi tiến hành ĐMT đối với vùng HG-CP
95
Các mỏ than KTLT vùng HG-CP có vị trí lân cận với các khu đô thị trung tâm
của thành phố Hạ long, Cẩm Phả và điểm du lịch nổi tiếng nhất trong vùng là vịnh
Hạ Long, mang ý nghĩa quốc gia và quốc tế. Đây là nơi có sự phát triển KT-XH rất
sôi động về công nghiệp (than, xi măng), thủy sản, cảng biển và du lịch và quá trình
đô thị hóa cũng diễn ra rất mạnh ở vùng HG-CP.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, ở từng khu vực vẫn còn những vấn
đề bức xúc về ô nhiễm môi trường và việc phải giải quyết triệt để nhiều vấn đề môi
trường nghiêm trọng phát sinh từ hoạt động KTLT đang trở nên cấp thiết. Môi
trường không khí tại các đô thị (Hòn Gai, Cẩm Phả) bị ô nhiễm do hoạt động vận
chuyển than, hoạt động giao thông tấp nập trên đường 18A và các tuyến đường nội
thị,…. Môi trường nước biển ven bờ bị xuống cấp và ô nhiễm nặng cục bộ do sự tập
trung của các nhà máy sàng tuyển than, các cảng xuất than,… do các chất từ bãi
thải, khai trường khai thác than đưa ra bờ vịnh Hạ Long và Bái Tử Long,... Nghiêm
trọng hơn, việc khai thác than của một số mỏ than KTLT đã và đang trong giai đoạn
nạo vét, thu hồi than để chuẩn bị đóng cửa mỏ và nhiều lộ vỉa đã kết thúc khai thác
(các vùng này lận cận vùng đô thị trọng tâm của vùng HG-CP) nên đã và đang tạo
ra nguy cơ gây lãng phí lớn nguồn tài nguyên đất để mở rộng khu vực Hòn Gai và
Cẩm Phả, nhằm phát triển KT-XH khu vực (khu vực này vốn có diện tích hẹp, việc
phát triển diện tích đất từ trước đến nay chỉ bằng cách lấn biển, giải pháp này đã
góp phần gây ra nguy cơ làm mất đi các giá trị tự nhiên và vẻ đẹp vốn có của vịnh
Hạ Long và Bái tử Long).
Tất cả các vấn đề trên tạo nên một chuỗi các vấn đề bất cập về môi trường - xã
hội, là hệ quả tất yếu của một thời kỳ phát triển quá nóng, không có quy hoạch khai
thác, đổ thải hợp lý, thiếu công cụ quản lý đúng đắn, phù hợp, thiếu giải pháp quản
lý hệ thống và tổng hợp.
Giải quyết được các mâu thuẫn hiện nay trong vùng là cực kỳ quan trọng bởi
nó quyết định cho sự “sống - còn” không chỉ cho vùng HG-CP mà còn cho tỉnh
Quảng Ninh, xa hơn nữa là cho toàn vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.
96
HG-CP là vùng khai thác than rộng lớn, có vị trí lân cận các khu đô thị trọng
điểm, việc thực hiện ĐMT vùng và đề xuất các giải pháp quản lý tổng hợp vùng để
xác lập việc quản lý khai thác và BVMT trên mỗi một cụm mỏ trong một tổng thể
nhiều mỏ, nhằm đảm bảo hoạt động khai thác than không làm ảnh hưởng đến sự
phát triển KT-XH khác của vùng, là cần thiết trong thời gian hiện tại và tương lai.
Trong đó, nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu: (i) Lựa chọn và xác định các
vùng ĐMT (bao gồm cả các vùng phụ cận liên quan) theo phạm vi, diện tích, ranh
giới, tọa độ, đường bờ sông suối hoặc theo địa giới hành chính; (ii) Kiểm kê các
thông tin, dữ liệu về hiện trạng điều kiện KT-XH, hệ sinh thái vùng phụ cận; (iii)
Các vấn đề chính liên quan của quy hoạch phát triển và quy hoạch ngành, quy
hoạch sử dụng đất; (iv) Vấn đề môi trường trọng yếu của hoạt động khai thác than
đến vùng phụ cận;...; các vấn đề CTPHMT cần giải quyết trong vùng có vấn đề môi
trường trọng yếu; các vùng CTPHMT đa mục tiêu; các vùng CTPHMT thông
thường và vùng tự CTPHMT theo tự nhiên,…; vấn đề quản lý tổng hợp giữa các
ngành kinh tế liên quan; trách nhiệm của chủ mỏ, của địa phương, của các nhà quản
lý và chế tài quản lý quỹ CTPHMT tập trung,…
Đánh giá chung: Hoạt động khai thác than vùng HG -CP đã diễn ra nhiều năm
trong quá khứ, hiện tại và tương lai, do vậy việc xem xét tác động cộng hưởng, tích
lũy của các tác động đơn lẻ, lặp đi lặp lại, liên kết trong khoảng thời gian dài của các
hoạt động (khai thác than, chế biến than, các dịch vụ phụ trợ,…) đến môi trường là
thực sự bức xúc, đặc liệt đối với những khu vực tập trung dân cư, có nhiều cơ sở công
nghiệp như Hà Tu, Hà Lầm, Cửa Ông,... Bụi từ các bãi thải cao hơn núi tự nhiên đã
khuếch tán vào không khí, cộng hưởng với các nguồn phát sinh bụi, khí thải của các
hoạt động vận chuyển, phát triển công nghiệp (nhiệt điện, xi măng,…), làm ô nhiễm
trầm trọng bầu không khí các thị trấn, thị tứ, các tụ điểm dân cư; làm lấp cạn các suối
đầu nguồn lưu vực vịnh Cửa Lục; tác động tích luỹ các kim loại nặng, đất đá,… hàng
trăm năm qua từ hệ lụy trôi rửa của các khai trường, bãi thải, bãi chứa than,… kết
hợp với các hoạt động phát triển đô thị và công nghiệp khác đã làm cho hệ sinh thái
vịnh Cửa Lục và gián tiếp tới vịnh Hạ Long ngày càng cạn kiệt.
97
Việc tiến hành một cách khẩn trương ĐMT cho các khu vực này có ý nghĩa
thiết thực, nhằm duy trì được sự cân bằng giữa các hoạt động phát triển trên một địa
bàn hẹp (khai thác khoáng sản, cảng biển, vận tải thuỷ, thương mại, du lịch,…);
tăng cường hiệu quả cho các hoạt động kinh tế khu vực và trên địa bàn tỉnh, bảo vệ
các cảnh quan, tạo điều kiện cho du lịch phát triển nói chung và định hướng được
vùng ưu tiên (vùng cần thiết phải CTPHMT theo hướng đa chức năng); mức độ
CTPHMT phải thực hiện để đáp ứng các tiêu chí của công tác CTPHMT đa chức
năng trong HĐKS than KTLT tại vùng mỏ rộng lớn HG-CP, đầu nguồn sông suối
và lân cận các khu đô thị, khu du lịch [50].
3.3.6. Giải pháp phân vùng chức năng sử dụng đất phục vụ công tác quản lý
CTPHMT
1. Cơ sở thực tiễn cho việc định hướng chức năng sử dụng đất phục vụ công
tác quản lý CTPHMT
Phân vùng sử dụng đất phục vụ công tác quản lý CTPHMT (gọi tắt là phân
vùng CTPHMT) là việc phân chia vùng có hoạt động khai thác than lộ thiên thành
các đơn vị tương đối đồng nhất theo các tiêu chí và các mục tiêu sử dụng đất nhất
định và mức độ CTPHMT phải thực hiện để giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại các
vùng CTPHMT đa mục tiêu và CTPHMT thông thường, nhằm quản lý và
CTPHMT có hiệu quả kinh tế theo các đặc thù riêng của mỗi mỏ trong một nhóm
mỏ than KTLT của vùng HG-CP.
Việc thực hiện CTPHMT theo định hướng phân vùng chức năng sử dụng đất
của vùng CTPHMT đối với hoạt động KTLT nhằm duy trì kết quả CTPHMT bền
vững, tiếp tục sử dụng quỹ đất (vùng đất đã kết thúc KTLT) phục vụ cho việc phát
triển KT-XH bền vững trên một vùng rộng lớn có hoạt động khai thác mỏ, cụ thể là:
- CTPHMT để giảm thiểu tối đa các ảnh hưởng xấu của hoạt động KTLT.
- Tiếp theo là biến khu mỏ được CTPHMT đa mục tiêu thành vùng BVMT,
phục vụ công đồng dân cư và phát triển kinh tế nhằm duy trì kết quả của công tác
CTPHMT với các dạng sinh thái và cảnh quan mới trên vùng đất đã kết thúc hoạt
động KTLT.
98
Việc nghiên cứu định hướng chung trong công tác CTPHMT trên một vùng cụ
thể cũng như xác lập phạm vi vùng có chung định hướng công tác CTPHMT đối
với các mỏ than KTLT và rất quan trọng. Việc ưu tiên tập trung nguồn lực, vật lực
cho các mỏ than KTLT nằm sát các vùng trọng điểm, lân cận các khu đô thị dân cư
tập trung, vùng có tiềm năng phát triển du lịch để đề xuất kế hoạch CTPHMT phù
hợp, xử lý ô nhiễm môi trường hiệu quả, tạo ra quỹ đất nhằm phát triển kinh tế sau
khi kết thúc khai thác than là rất cần thiết.
Cần tạo ra bức tranh thu hút sự quan tâm thực hiện CTPHMT đa mục tiêu theo
định hướng tiếp tục sử dụng đất cho phát triển kinh tế của các doanh nghiệp đã kết
thúc khai thác than ở vùng HG-CP nói riêng và vùng mỏ Quảng Ninh nói chung.
Dự kiến kết quả định hướng phân vùng chức năng CTPHMT là công cụ quản lý hỗ
trợ cho công tác quản lý của cơ quan chức năng về môi trường, cũng như trong
công tác thẩm định các dự án CTPHMT và công tác đóng cửa mỏ.
2. Định hướng phân vùng chức năng sử dụng đất của vùng CTPHMT cho các
khu vực mỏ than KTLT
a. Phương pháp xác định các định hướng phân vùng CTPHMT đa chức năng
Bước 1: ĐMT cho các vùng bằng cách tích hợp kiểm kê cơ bản các thông tin,
các dữ liệu về hiện trạng điều kiện KT-XH, hệ sinh thái vùng phụ cận; các vấn đề
chính liên quan của quy hoạch phát triển và quy hoạch ngành; quy hoạch sử dụng
đất; vấn đề về môi trường nổi cộm vùng phụ cận liên quan,… nhằm xác lập vùng có
hoạt động KTLT có mức độ ô nhiễm cao; mức độ phải thực hiện để giảm thiểu ô
nhiễm môi trường; vùng ưu tiên nghiên cứu CTPHMT theo hướng đa chức năng;
vùng CTPHMT thông thường.
Bước 2: Lựa chọn và xác định các định hướng vùng CTPHMT đa chức năng
dự kiến (bao gồm cả các tiểu vùng) theo phạm vi, diện tích, ranh giới, toạ độ, đường
bờ sông suối hoặc theo địa giới hành chính và điều kiện phát triển KT-XH lân cận
và vùng ưu tiên đã được xác định.
Bước 3: Đối chiếu và xác định các giá trị tương ứng với các tiêu chí định
hướng phân vùng chức năng sử dụng đất sau KTLT; xác định chỉ số tiêu chí đáp
99
ứng CTPHMT đa mục tiêu để phân tích, lựa chọn vùng CTPHMT có cùng các vấn
đề cần giải quyết nhằm xác lập định hướng vùng CTPHMT. Định hướng chức năng
sử dụng đất của vùng CTPHMT theo một định hướng chung, đáp ứng mục đích của
công tác CTPHMT. Chỉ số CTPHMT tổng hợp là tích hợp của các giá trị định
lượng của các tiêu chí CTPHMT đáp ứng tương ứng và là trung bình cộng của tất cả
các chỉ số đánh giá theo các tiêu chí đánh giá kết quả công tác CTPHMT đã được
xác định.
Bước 4: Kết hợp các vùng có cùng chỉ số phục hồi môi trường tổng hợp để xác
định các vùng có cùng định hướng phân vùng chức năng sử dụng đất sau KTLT của
vùng CTPHMT;
Bước 5: Quy ước màu sắc các vùng có cùng định hướng phân vùng chức năng
sử dụng đất sau KTLT của vùng CTPHMT và xây dựng bản đồ vùng CTPHMT có
định hướng phân vùng chức năng sử dụng đất điển hình sau KTLT.
b. Thực hiện các bước xác định các định hướng phân vùng CTPHMT đa chức
năng sử dụng đất sau KTLT
(1). Các tiêu chí phân vùng CTPHMT
Trên cơ sở xem xét về điều kiện kinh tế, môi trường của khu vực lân cận mỏ,
quy mô và phân bố các cơ sở KTLT và thực trạng vấn đề môi trường, cùng với việc
bám sát các nguyên tắc đề xuất nêu trên và nội dung của Quyết định số 18/2012/QĐ
-TTg (quy định về lập, phê duyệt, kiểm tra, xác nhận dự án CTPHMT và ký quỹ
CTPHMT đối với hoạt động khai thác khoáng sản), NCS đã thực hiện cụ thể hóa
đối với các mỏ than KTLT vùng HG-CP và đề xuất các tiêu chí phân vùng như sau:
Tiêu chí 1: Tính đồng nhất về điều kiện tự nhiên (địa hình, địa mạo; địa chất
và cảnh quan; hệ sinh thái,…).
Đây là tiêu chí đầu tiên và là điều kiện cơ bản để quyết định vùng CTPHMT
mỏ than KTLT. Với tiêu chí này, cần đánh giá xem khu vực đó được bố trí ở vùng
có mức độ CTPHMT như thế nào?
- Hệ sinh thái: nhóm hệ sinh thái tự nhiên trên đất; hệ sinh thái nhân tác,…
- Tài nguyên sinh vật; tài nguyên nhân tạo (động, sinh vật tự nhiên,…).
100
- Địa hình: sông suối, địa hình tương đối bằng phẳng; dốc thoải; dốc lớn,…
- Địa mạo: đặc điểm địa mạo.
Tiêu chí 2: Sự phù hợp với điều kiện KT-XH vùng liên quan.
Tiêu chí này đánh giá xem khu vực đó được bố trí ở vùng tiếp giáp và lân cận
với vùng liên quan có mức độ môi trường nhạy cảm thế nào? có tình hình phát triển
kinh tế ra sao? việc CTPHMT có thiết thực, có tương thích và hỗ trợ cho sự phát
triển trong tương lai hay không? Do đó, việc phân vùng CTPHMT phải mang tính
khả thi trên cơ sở phân tích, đánh giá nguồn và khả năng thực hiện, phù hợp, tương
thích với các biến động về KT-XH-MT. CTPHMT phải căn cứ vào chiến lược phát
triển ngành Than nói chung và phát triển các mỏ than KTLT nói riêng, cũng như
quy hoạch sử dụng đất của địa phương.
Đây là chỉ tiêu quan trọng, tuy nhiên có thể có hai vùng CTPHMT kề cận với
các vùng khác nhau, tương đối đồng nhất về điều kiện tự nhiên, hệ sinh thái, song
yếu tố phát triển lại khác nhau.
Tiêu chí 3: Sự phù hợp với quy hoạch và hiện trạng phát triển ngành.
Nhiều ngành công nghiệp tuy phát sinh ra các dòng thải không mang tính độc
hại cao nhưng nếu có quy mô lớn thì cũng gây nguy hiểm đáng kể cho môi trường.
Do đó, tiêu chí này sẽ xem xét ảnh hưởng của quy mô CTPHMT phù hợp với quy
hoạch liên quan đến việc sử dụng đất đai; quy hoạch phát triển vùng, ngành, lĩnh
vực, phù hợp với các điều kiện KT-XH.
Tiêu chí 4: Sự phù hợp với quan điểm phát triển của cộng đồng địa phương
thông qua các kết quả tham khảo ý kiến của các chuyên gia về kinh tế, môi trường
và các đơn vị thực hiện.
Đây là tiêu chí quan trọng, luôn có trong quá trình đánh giá. Để xác định vùng
CTPHMT, phải xem xét trên quan điểm của cộng đồng và phục vụ cho cộng đồng.
Tuy nhiên, tiêu chí này có tính khách quan không cao nhưng lại là tiêu chí được
đánh giá quan trọng vì nó mang tính xác thực cao.
Tiêu chí 5: Xác định mức độ quan trọng về điều chỉnh theo hệ số vùng (xác
định hệ số vùng Kv ở bảng 3.1).
101
Vùng CTPHMT phân bố ở khu vực nào cũng liên quan và ảnh hưởng đến môi
trường xung quanh của khu vực đó. Nếu là khu vực nhạy cảm (tức có nhiều giá trị
khác về du lịch, hay là di sản hoặc là khu đô thị đặc biệt, đông dân,...), thì mức độ
sử dụng đất được lựa chọn để thực hiện CTPHMT sẽ có giá trị cao hơn so với các
khu vực không nhạy cảm.
Do đó, việc lựa chọn theo hệ số vùng cũng không kém phần quan trọng. Vùng
CTPHMT ở các khu vực nhạy cảm sẽ càng được quan tâm nhiều hơn vì các khu
vực này có nhiều mục đích sử dụng đất mang lại hiệu quả và nhiều khả năng đáp
ứng đối với môi trường xung quanh hơn so với các khu vực kém nhạy cảm hơn.
Tiêu chí 6: Hiệu quả về kinh tế.
Việc lựa chọn mô hình để CTPHMT đa mục tiêu mang lại hiệu quả kinh tế và
phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam sẽ giúp cho việc xử lý môi trường,
CTPHMT đạt hiệu quả cao, giảm được chi phí cho CTPHMT,… Các mô hình
CTPHMT được lựa chọn để phát triển kinh tế đồng thời đạt mục tiêu BVMT
thường phải phù hợp với đặc điểm tự nhiên (địa hình, địa chất thủy văn, khí hậu,…)
và các điều kiện KT-XH (mức sống của người dân, mức đầu tư của các doanh
nghiệp, phải phù hợp với điều kiện giao thông, cung cấp điện, khu dân cư, nguồn
lao động,…) của địa phương (trình độ người lao động; khả năng đầu tư, quản lý;
khả năng áp dụng duy trì và phát triển bền vững,…).
(2). Định lượng cho các tiêu chí phân vùng CTPHMT.
* Quy ước tầm quan trọng cho mỗi tiêu chí:
Để thuận tiện và tạo được tính logic cho việc đánh giá, trong trường hợp này sử
dụng việc đánh giá định tính theo thang điểm gắn cho mỗi tiểu vùng để đánh giá
phân vùng [40]. Ở đây, mỗi tiêu chí chính bao gồm nhiều tiêu chí nhỏ và mỗi tiêu
chí nhỏ sẽ được phân loại theo mức độ phù hợp bằng hệ số phù hợp như sau: Rất
phù hợp: 5 điểm; Phù hợp: 3 điểm; Ít phù hợp: 2 điểm; Không phù hợp: 0 điểm.
Các tiêu chí rất quan trọng và quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả đánh
giá, từ đó thấy được tính cấp thiết khi thực hiện CTPHMT nhằm đáp ứng các tiêu
102
chí đó. Các tiêu chí ít quan trọng và đặc biệt là tiêu chí không quan trọng sẽ ít ảnh
hưởng hơn, việc thiếu tiêu chí không quan trọng cũng không gây thay đổi nhiều đối
với điểm đánh giá cho việc phân vùng.
Do đây là phương pháp đánh giá bằng cách lượng hóa, nên tiểu vùng có số
điểm tương đương thì được sát nhập lại và được hiểu là các vùng đó có mức độ
tương đồng theo các tiêu chí đánh giá.
* Phân vùng theo tổng điểm đánh giá qua các tiêu chí đề xuất như sau:
Bước 1: Lựa chọn và xác lập các phân vùng trên cơ sở mục tiêu, nguyên tắc
phân vùng.
Bước 2: Đánh giá phân vùng theo tổng điểm đánh giá qua các tiêu chí đề xuất.
Việc dựa vào tổng điểm để xác lập phân vùng về CTPHMT phù hợp là một phương
pháp logic; tất cả đều được xem xét trên tất cả các yếu tố liên quan, cấu thành và
được quy ra thành định lượng bằng 1 chỉ số (chính là điểm), việc đánh giá phân
vùng sẽ đạt được các mục tiêu chung và cụ thể đã xác định.
Vùng đạt từ 30÷40% tổng điểm tối đa tất cả các tiêu chí: quy định màu vàng,
đã phù hợp nhưng chưa đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí về phân vùng, phải
xem xét điều chỉnh.
Vùng đạt từ 50÷70% tổng điểm tối đa tất cả các tiêu chí: quy định màu xanh
dương, tức đã phù hợp và đáp ứng được tương đối đầy đủ các tiêu chí về phân
vùng, tuy nhiên vẫn phải xem xét điều chỉnh thêm.
a. Vùng đạt từ 70÷100% tổng điểm tối đa tất cả các tiêu chí: quy định màu xanh
lá cây, tức đã phù hợp đáp ứng được cơ bản các tiêu chí về phân vùng.
Bước 3: Phân tích và lựa chọn điều chỉnh định hướng phân vùng theo đánh giá
qua các tiêu chí đề xuất và minh chứng sự lựa chọn bằng phương pháp kỹ thuật
đánh giá đa chỉ tiêu bằng trung bình tuyến tính theo bậc (Multi-criteria-evaluation
and Ordered weighted averaging, MCE - OWA), bao gồm những bước sau:
- Xây dựng các bản đồ độ thích nghi của từng yếu tố (chức năng vùng) ở khuôn
dạng kiểu byte (bằng kỹ thuật MCE-WLC).
103
- Xác định trọng số (tầm quan trọng) của từng yếu tố. Trọng số của các yếu tố
có thể được cố định bằng các kỹ thuật thống kê khác nhau hoặc bằng các phép đo;
người quyết định chọn trọng số một cách chủ quan dựa vào những kinh nghiệm và
hiểu biết nào đó hoặc dựa vào bộ phiếu phỏng vấn từ cư dân, chính quyền địa
phương. Ma trận Saaty thường được sử dụng rộng rãi để hỗ trợ cho việc xác định
điểm yếu tố [32].
- Sử dụng nguyên lý véctơ riêng (egeint vecto) trong toán học ma trận, nhằm
xác định các trọng số của từng yếu tố.
Bước 4: Kết quả phân vùng được thể hiện rõ qua việc sử dụng công nghệ GIS.
Định hướng phân vùng CTPHMT theo đánh giá qua các tiêu chí đề xuất là vấn đề
hết sức quan trọng và có ý nghĩa lớn trong công tác quản lý, dự báo xu thế diễn
biến chất lượng CTPHMT, từ đó giúp xây dựng các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm,
quản lý và BVMT (CTPHMT). GIS ngày càng được nghiên cứu và áp dụng rộng
rãi trong các lĩnh vực quản lý tài nguyên thiên nhiên, quản lý môi trường, đánh giá
diễn biến, giám sát và dự báo về sự biến đổi chất lượng môi trường. Cơ sở dữ liệu
được tổ chức theo cấu trúc kiểu quan hệ trong phần mềm Mapinfo và được tính
toán, phân tích, nội suy bởi phần mềm Vertical Mapper và được chuyển về cùng cơ
sở toán học theo lưới chiếu VN 2000 [02].
Việc phân tích, xác lập qui trình thực hiện định hướng phân vùng chức năng sử
dụng đất của vùng CTPHMT cho các khu vực khai thác mỏ than KTLT theo các
bước nêu trên được thể hiện chi tiết tại phần 1.1, 1.2 - Phụ lục 1.
3.3.7. Dự kiến kết quả mô hình định hướng vùng chức năng CTPHMT phục
vụ công tác quản lý CTPHMT cho một số mỏ than KTLT tại vùng Hòn Gai
a. Phân tích lựa chọn, dự báo định hướng các vùng CTPHMT tại Hòn Gai
Trên cơ sở phân tích, đánh giá về điều kiện KT-XH (chi tiết được thể hiện tại
phần 1.3 - Phụ lục 1), NCS khái quát về việc phân tích lựa chọn dự báo định hướng
các vùng CTPHMT tại Hòn Gai như sau:
Vùng khai thác than lộ thiên lân cận vùng dân cư, đô thị và vùng du lịch trọng
điểm - Thành phố Hạ Long có tốc độ tăng trưởng GDP khá cao, bình quân hàng
104
năm đạt trên 10%. Cơ cấu kinh tế có sự biến chuyển mạnh mẽ, đến nay đã phát triển
trở thành một trong những trung tâm du lịch, thương mại, dịch vụ, công nghiệp của
tỉnh Quảng Ninh và cả nước. Ngành du lịch tại Quảng Ninh đang phát triển trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trong dự thảo “Chiến lược phát triển cho các thành
phố loại vừa (CDS) tại Việt Nam do nhóm tư vấn thuộc Viện Quy hoạch Đô thị
Nông thôn, Bộ Xây dựng và Ngân hàng Thế giới thực hiện, thành phố Hạ Long sẽ
trở thành trung tâm công nghiệp, cảng biển - dịch vụ, một địa chỉ hấp dẫn đầu tư về
du lịch, có môi trường sống và cơ sở hạ tầng đạt tiêu chuẩn quốc tế, là hình ảnh tiêu
biểu về sự hài hoà giữa văn hoá, thiên nhiên và con người vào năm 2020.
Do vậy, các định hướng chức năng CTPHMT ở vùng Hòn Gai như sau:
- Việc mở rộng diện tích đất đô thị thành phố Hạ Long là điều cần thiết, tuy
nhiên, các dự án lấn biển với mục tiêu mở rộng diện tích đã đến mức tới hạn. Vì
vậy, cần hình thành những khu đô thị mới, khu dân cư tập trung tại các khu vực kết
thúc khai thác mỏ. Nếu không quan tâm ngay từ bây giờ thì sẽ mất đi nguồn lợi
kinh tế lớn và sau này muốn CTPHMT thành khu đô thị sẽ phải đầu tư thêm nhiều
kinh phí để phá bỏ và cải tạo một số công trình CTPHMT đã thực hiện từ trước.
Trên mặt bằng các khu vực kết thúc KTLT ở lân cận khu đô thị tập trung ở Hạ
Long, hiện nay vẫn chưa chú ý đến việc dành các không gian nhất định cho việc mở
rộng khu đô thị, khu du lịch công nghiệp, tạo cảnh quan và mối liên hệ với biển (lợi
thế của vùng HG-CP) để tạo ra không gian sinh thái cho đô thị mới, khu vui chơi
giải trí, phục vụ du lịch công nghiệp tại các khu vực kết thúc KTLT.
Xử lý chất thải rắn của hoạt động KTLT là một vấn đề lớn trước khi thực hiện
việc đổ thải cần phải được chú ý ngay từ khi thiết kế ban đầu (tạo cảnh quan hay tạo
mặt bằng tạo quỹ đất), vì nếu không chú ý, khi diện tích bãi thải tăng lên và phát
triển không theo định hướng sẽ gây ra khó khăn cho công tác phục hồi đất sau này.
Về lâu dài trong bối cảnh phát triển kinh tế, phát triển đô thị trên diện tích hẹp như
ở khu vực Hạ Long thì những cố gắng đầu tư CTPHMT với tầm nhìn quá hạn hẹp
như hiện nay sẽ trở nên vô ích và quá lãng phí. Tất cả các hạng mục CTPHMT đều
phải được xem xét kỹ càng và tận dụng lợi thế của vùng. Điều này cần được chú ý
105
và quán triệt cho việc CTPHMT các mỏ than KTLT của vùng HG-CP nói riêng và
toàn tỉnh Quảng Ninh nói chung.
Các bãi thải sẽ tiếp tục là nguy cơ tiềm ẩn gây trượt lở, gây bồi lắng long suối,
làm tăng nồng độ đục và chất rắn lơ lửng tại vùng cửa biển. Do vậy, cần phải áp
dụng các biện pháp kỹ thuật để giảm thiểu và triệt tiêu các tai biến gây trượt lở, gây
bồi lắng lòng suối.
Việc CTPHMT nhằm hỗ trợ BVMT, nhất là môi trường du lịch sinh thái ở vịnh
Hạ Long là vấn đề phát triển chiến lược cho vùng phụ cận thành phố Hạ Long với
Di sản thiên nhiên Thế giới - Vịnh Hạ Long, cũng như ở thành phố Cẩm Phả với
vịnh Bái Tử Long và vườn quốc gia Bái Tử Long, cần được định đoạt từ những
người quản lý CTPHMT các mỏ than KTLT ngay từ ngày hôm nay.
b. Các vùng CTPHMT với các chức năng dự kiến
Trên cơ sở đó, các vùng CTPHMT tại Hòn Gai được hình thành với các chức
năng dự kiến như sau:
(1). Vùng CTPHMT tạo thành khu vực phát triển cảnh quan lâm nghiệp nhằm
BVMT vịnh Cửa Lục; bảo vệ đất nông nghiệp vùng hạ lưu bải thải Nam Lộ Phong
và Hồ Khe Cá; bảo vệ môi trường khu dân cư lân cận (gọi tắt là vùng HG1).
Các vấn đề BVMT quan trọng cần quan tâm trong khu vực này bao gồm:
- BVMT vịnh Cửa Lục; BVMT khu dân cư, phòng tránh tai biến trượt lở đất;
giảm thiểu xói mòn đất gây suy thoái tài nguyên đất nông nghiệp lân cận bãi thải
Nam Lộ Phong, bồi lắng lòng hồ Khe Cá.
- BVMT đất, nước, không khí ở các khu vực bãi thải. Hiện nay, hoạt động khai
thác than đã làm cho cảnh quan và môi trường bị biến đổi lớn, việc đổ thải đã tạo
lên các bãi thải thải lớn. Bãi thải Nam Lộ Phong nằm sát đường 18A,... nhưng chưa
được đảm bảo an toàn. Nhiều vấn đề bức xúc chưa được quan tâm giải quyết một
cách quyết liệt; hiệu quả xử lý nước thải mỏ, đất đá trôi từ các khai trường, bãi thải
cũng như xử lý bụi trên các tuyến đường có hoạt động vận chuyển than chưa cao đã
làm ảnh hưởng lớn đến đời sống, sinh hoạt, sức khỏe của nhân dân.
106
(2). Vùng CTPHMT tạo thành khu vực dân cư, du lịch công nghiệp, phát triển
khu vui chơi giải trí (sân golf) phục vụ du lịch công nghiệp, hành lang cây xanh,
cảnh quan cách ly khai thác hầm lò với khu dân cư (gọi tắt là vùng HG2).
Đây là khu vực có hoạt động khai thác than lộ thiên và hầm lò của Công ty CP
Than Núi Béo và Hà Tu, có quy mô công nghiệp, khá hiện đại; khu vực khai thác
với địa hình đa dạng, rộng trên 300ha; cách quốc lộ 18 B (300m) và quốc lộ18A
(1km) và lân cận khu dân cư trọng điểm có tiềm năng kết nối với loại hình du lịch
khác trong tỉnh. Do vậy, vùng đất này khi kết thúc KTLT có khả năng tạo thành khu
dân cư, khu du lịch công nghiệp với bảo tàng khai thác lộ thiên và hầm lò tự nhiên
và nhân tạo; tạo thành sân golf, khu ngắm vịnh Hạ Long thơ mộng và khu vui chơi
giải trí, phục vụ du lịch công nghiệp.
Các vấn đề CTPHMT quan trọng cần được quan tâm ở vùng này bao gồm:
- BVMT do ảnh hưởng của cảnh quan khu vực đến hoạt động du lịch trên Vịnh
Hạ Long.
- BVMT không khí, nước từ hoạt động sàng tuyển than của cảng Nam Cầu
Trắng và tuyến đường vận chuyển than từ các mỏ Núi Béo, Hà Lầm, Hà Tu ra cảng
Nam Cầu Trắng (Khu vực phường Hồng Hà, Hà Tu, Hà Lầm, Hà Phong).
- Trồng rừng cây xanh tạo cảnh quan cách ly khu vực sản xuất than hầm lò của
Công ty Than Núi Béo, Hà Lầm để BVMT khu dân cư, tạo cảnh quan cho khu du
lịch công nghiệp lân cận.
- Việc mở rộng diện tích thành phố Hạ Long với việc hình thành khu du lịch
công nghiệp với bảo tàng tự nhiên và nhân tạo các mỏ khai thác lộ thiên và hầm lò;
tạo thành sân golf; khu ngắm vịnh Hạ Long thơ mộng và khu vui chơi giải trí, phục
vụ du lịch công nghiệp và cộng đồng dân cư lân cận.
(3). Vùng CTPHMT nhằm phát triển lâm nghiệp và BVMT lưu vực sông Diễn
Vọng - Vịnh Cửa Lục; hành lang cây xanh tạo cảnh quan cách ly khu vực khai thác
hầm lò với khu dân cư và BVMT cảnh quan khi nhìn từ Cầu Bãi Cháy (gọi tắt là
vùng HG3).
107
Vùng này có các bãi thải cao chiếm ưu thế với độ cao tuyệt đối từ 200÷300m,
đỉnh rộng, sườn dốc trung bình 28o, sườn thải có nhiều rãnh phân cắt sâu vào sườn
thải 1,5÷20m. Dân cư tập trung đông đúc dọc các tuyến quốc lộ và hạ lưu các con
suối: Suối Lại, Hà Lầm và Hà Trung.
Lân cận là khu đô thị phát triển trên thềm biển mài mòn cao 10÷30m, nghiêng
thoải về phía biển, bị phân cắt yếu tạo địa hình gò thoải. Phía nam là địa hình bãi
triều nghiêng thoải về phía biển, độ cao 0,5÷1,5m, cấu tạo bởi bùn sét màu xám
đen; khu vực cửa các khe suối, các máng thoát nước có lẫn nhiều vật liệu thô như
mảnh dăm sét than, sét bột kết. Rừng ngập mặn kém phát triển do các hoạt động
phát triển kinh tế. Phía tây là huyện Hoành Bồ, phía đông là khu đô thị và công
nghiệp than và nhà máy nhiệt điện Hà Khánh,... Hoạt động lấn biển lấy không gian
phát triển đô thị Hà Khánh A, B, C và D đang diễn ra nhanh chóng.
Bên cạnh đó, vấn đề nguy cơ tiềm ẩn về sạt lở, tai biến của các bãi thải trong
vùng khai thác than lộ thiên trên lưu vực vịnh Cửa Lục cũng cần phải được xem xét,
giải quyết trong việc CTPHMT.
Các vấn đề CTPHMT cần quan tâm ở vùng này là:
- Phòng ngừa nguy cơ trượt lở và lũ bùn đá do đất đá thải; ngăn ngừa, giảm thiểu
xói mòn đất bằng cách bảo vệ phủ thực vật đã có; ngăn ngừa tai biến sạt lở đất tại bãi
thải; rửa trôi bãi thải, đe dọa bồi lắng vịnh Cửa Lục và các cụm dân cư lân cận.
- Trồng rừng cây xanh cách ly khu vực sản xuất than hầm lò của Công ty Than
Núi Béo để BVMT khu dân cư, tạo cảnh quan cho khu du lịch công nghiệp lân cận.
- Việc mở rộng diện tích thành phố Hạ Long với việc hình thành khu du lịch
công nghiệp với bảo tàng khu khai thác lộ thiên và hầm lò; tạo thành sân golf; khu
ngắm vịnh Hạ Long thơ mộng và khu vui chơi giải trí phục vụ du lịch công nghiệp
và cộng đồng dân cư lân cận.
Vùng CTPHMT tạo thành khu vực nhằm BVMT khu dân cư; bảo vệ đất nông
nghiệp vùng hạ lưu bải thải Nam Lộ Phong và Hồ Khe Cá, cụ thể như sau:
108
- BVMT khu dân cư, phòng tránh tai biến trượt lở đất, giảm thiểu xói mòn đất
gây suy thoái tài nguyên đất nông nghiệp lân cận bãi thải Nam Lộ Phong, bồi lắng
lòng hồ Khe Cá.
- BVMT không khí, nước từ hoạt động sàng tuyển than của cảng Nam Cầu
Trắng, tuyến đường vận chuyển than từ các mỏ Núi Béo, Hà Lầm, Hà Tu ra cảng
Nam Cầu Trắng (Khu vực phường Hồng Hà, Hà Tu, Hà Lầm, Hà Phong).
- BVMT đất, nước, không khí ở các khu vực bãi thải. Hiện nay, hoạt động khai
thác than đã làm cho cảnh quan và môi trường bị biến đổi lớn, việc đổ thải đã tạo
lên các bãi thải thải lớn. Bãi thải Nam Lộ Phong nằm sát đường 18A,... nhưng chưa
được đảm bảo an toàn. Nhiều vấn đề bức xúc chưa được quan tâm giải quyết một
cách quyết liệt, hiệu quả như xử lý nước thải mỏ, đất đá trôi từ các khai trường, bãi
thải cũng như xử lý bụi trên các tuyến đường có hoạt động vận chuyển than chưa
cao đã gây ảnh hưởng lớn đến đời sống, sinh hoạt, sức khỏe của nhân dân.
Tóm lại, dự kiến định hướng phân vùng CTPHMT cho các nhóm mỏ than KTLT
vùng Hòn Gai như sau (Hình 3.2-3.4).
a) Vùng HG1: bao gồm phần lớn khai trường, bãi thải mỏ phần phía Bắc và
Đông Nam mỏ Hà Tu; Lộ vỉa +110 Tân Lập.
b) Vùng HG2: bao gồm khai trường, bãi thải mỏ Núi Béo và một phần khai
trường, bãi thải mỏ phần phía Tây Nam, mỏ Hà Tu.
c) Vùng HG3: bao gồm phần khai thác lộ vỉa của Xí nghiệp than Thành Công;
Cao Thắng (đã kết thúc khai thác); phần khai thác lộ thiên của Xí nghiệp than 917;
phần khai thác lộ vỉa mỏ Hà Lầm.
3.4. Kết luận chương
Công tác CTPHMT theo định hướng phân vùng cho các mỏ than KTLT vùng
HG-CP có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của vịnh Hạ Long và Bái
Từ Long, là sự hỗ trợ phát triển không gian xanh và sự phát triển KT-XH khu vực.
Chỉ khi công tác CTPHMT được quan tâm, quản lý theo các giải pháp quản lý
hành chính và kỹ thuật tổng hợp ngay từ giai đoạn thiết kế và khai thác mở rộng
109
theo định hướng phân vùng CTPHMT, thì việc CTPHMT mới có thể cho kết quả
CTPHMT theo định hướng xác định.
Việc tổ chức quản lý hành chính và kỹ thuật CTPHMT theo phân vùng chức
năng, sử dụng tài nguyên đất hợp lý trên cơ sở công cụ ĐMT sẽ xác định được vùng
ưu tiên, định hướng phân vùng CTPHMT (vùng CTPHMT đa mục tiêu và thông
thường); nguồn kinh phí ký quỹ CTPHMT phải được ưu tiên sử dụng cho các mỏ
than tiếp giáp và lân cận các vùng phát triển kinh tế, vùng bảo vệ,… Kết quả thực
hiện phải đáp ứng được các tiêu chí về CTPHMT đa mục tiêu theo định hướng
chung để phục vụ cho phát triển kinh tế và BVMT và tạo ra điểm nhấn về kết quả
CTPHMT bền vững cho nhiều thế hệ trong tương lai.
Việc thực hiện các giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả CTPHMT trên cơ sở
nguồn lực và kinh phí tập trung cho công tác CTPHMT của các hoạt động khoáng
sản than sẽ tạo ra các vùng đất với cảnh quan mới phục vụ cộng đồng như khu du
lịch công nghiệp, khu sân golf và khu công viên giải trí phục vụ cộng đồng dân sinh
lân cận vùng mỏ và phát triển kinh tế xanh như một sự đền bù xứng đáng cho các
thế hệ tương lai của người dân từng sống trong sự ảnh hưởng xấu do hoạt động khai
thác than lộ thiên gây ra trong một thời gian dài.
110
Hình 3.2: Sơ đồ vị trí, ranh giới một số mỏ than KTLT vùng Hòn Gai
111
Hình 3.3: Sơ đồ phân vùng chức năng sử dụng đất CTPHMT cho một số mỏ than KTLT vùng Hòn Gai (dự kiến)
112
Hình 3.4: Sơ đồ phối cảnh kết quả CTPHMT của một số mỏ than KTLT vùng Hòn Gai (dự kiến).
113
CHƯƠNG IV
NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP KỸ THUẬT CẢI TẠO
VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG CHO CÁC MỎ
KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN VÙNG HÒN GAI - CẨM PHẢ
4.1. Định hướng công tác kỹ thuật CTPHMT
CTPHMT được thực hiện ngay trong quá trình khai thác khoáng sản cho mỗi
dạng mỏ nhằm phục vụ định hướng chức năng sử dụng đất sau CTPHMT cho tổng
thể nhiều mỏ nằm trong khu vực khai thác liên mỏ được định hướng như sau:
- Tiếp tục thực hiện kỹ thuật cải tạo khai trường KTLT, bãi thải, lồng ghép với
quá trình khai thác đảm bảo an toàn; ổn định bờ mỏ; cải tạo bãi thải có hình dạng
đáp ứng cho công tác CTPHMT đa mục tiêu (khi khu vực mỏ thuộc vùng ưu tiên
với định hướng CTPHMT đa mục tiêu).
- Phục hồi môi trường đất nhằm sử dụng cho các mục tiêu của vùng nếu được
định hướng là công tác CTPHMT đa mục tiêu.
- Phục hồi môi trường sinh thái nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tạo
chuyển biến rõ nét để khắc phục tình trạng suy thoái môi trường; cải thiện và nâng
cao chất lượng môi trường khu vực mỏ than KTLT và khu lân cận.
- Bảo vệ, khai thác và sử dụng tiết kiệm, hợp lý các nguồn tài nguyên đất của
vùng HĐKS than đã kết thúc khai thác.
- Nâng cao ổn định bờ mỏ nhằm nâng cao khả năng ứng phó và hạn chế tác
động xấu của thiên tai, sự biến đổi khí hậu bất lợi đối với môi trường; ứng cứu và
khắc phục có hiệu quả sự cố ô nhiễm môi trường do thiên tai gây ra tại khu vực đã
kết thúc KTLT.
Hiện nay, việc lập đề án CTPHMT đối với các dự án khai thác khoáng sản đã
được quy định tại Quyết định số 18/2013/CP-TTg ngày 29/3/2013 của Thủ tướng
Chính phủ quy định về CTPHMT và ký quỹ CTPHMT đối với hoạt động khai thác
khoáng sản và Thông tư 34/2009/TT-BTNMT ngày 31/12/2009 của Bộ TNMT quy
114
định về lập, phê duyệt, kiểm tra, xác nhận dự án CTPHMT và ký quỹ CTPHMT đối
với hoạt động khai thác khoáng sản.
Tuy nhiên, các văn bản trên chỉ là các hướng dẫn chung về CTPHMT cho các
hoạt động khai thác khoáng sản như khai thác than hầm lò, KTLT, khai thác đá,...
Các giải pháp kỹ thuật để thực hiện CTPHMT có liên quan đến nhiều lĩnh vực
như: khai thác mỏ than lộ thiên (trong các công tác CTPHMT như gia cố và ổn định
bờ tầng kết thúc khai thác và bờ bãi thải,...); xây dựng (trong việc xây kè chắn chân
bãi thải, xây hệ thống thoát nước,...); lâm, nông nghiệp (trong kỹ thuật cải tạo đất,
trồng cây gây rừng,...),… theo định hướng của đề án CTPHMT.
Mặt khác, các hướng dẫn kỹ thuật chuyên ngành đối với các lĩnh vực liên quan
cũng là hướng dẫn chung cho chuyên ngành (việc khai thác mỏ than KTLT; xây
dựng công trình, kiến trúc dân dụng; trồng cây lâm, nông nghiệp) chứ chưa có
hướng dẫn riêng, phù hợp với các khai trường mỏ lộ thiên đã kết thúc khai thác
được CTPHMT, ví dụ: bờ mỏ, bãi thải của mỏ lộ thiên chưa đáp ứng được các yêu
cầu như bản thiết kế khai thác; việc xây dựng với kết cấu chịu lực hay trên nền công
trình có nguy cơ trượt lở cao; việc trồng cây trên nền đá gốc, nền bãi thải trong môi
trường đất với tỷ lệ đất và đá không đồng đều, lượng đá lớn, lượng đất mùn hầu như
không có,...
Việc định hướng các giải pháp CTPHMT cho các mỏ than KTLT có vị trí lân
cận các khu đô thị trọng điểm của vùng HG-CP, phục vụ việc thực hiện CTPHMT
trên mỗi cụm mỏ (trong quá trình hoạt động và sau khi kết thúc khai thác), nhằm
giảm thiểu các ảnh hưởng xấu tới môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế là vấn đề
cấp bách hiện nay.
Do đó, việc nghiên cứu giải pháp kỹ thuật CTPHMT tổng thể và cụ thể cho
mỗi một dạng mỏ trong tập hợp nhiều mỏ than KTLT liền kề và đề xuất các giải
pháp CTPHMT với các nhà quản lý hoạch định chính sách, các giải pháp CTPHMT
cho khu vực kết thúc KTLT tại vùng HG-CP trong thời gian tới là một vấn đề có
tính khoa học và thực tiễn.
115
4.2. Các dạng biến đổi địa hình do KTLT gây ra
4.2.1. Các dạng biến đổi địa hình khai trường mỏ lộ thiên
Trong điều kiện thực tế của các mỏ than KTLT, sau khi kết thúc hoạt động khai
thác mỏ, địa hình mặt đất nguyên thủy bị biến đổi và thường có các dạng sau:
a. Dạng khai trường mỏ biến đổi lớn: địa hình khu vực khai thác bị biến đổi
lớn hoặc rất lớn, để lại hố sâu và đất đá thải làm thay đổi đáng kể địa hình khu vực.
Loại biến đổi này thường xảy ra khi khai thác các mỏ than lộ thiên có dạng như mỏ
than 917, mỏ Bàng Nâu,… (Hình 4.1).
Hình 4.1: Sơ đồ địa hình khai thác để lại hố sâu moong khai thác
b. Dạng khai trường mỏ có biến đổi: địa hình khu vực khai thác có bị biến đổi
nhưng sau đó được hoàn trả một phần hoặc gần về trạng thái ban đầu. Loại biến đổi
này thường xảy ra khi khai thác nhiều mỏ kề nhau (ví du, mỏ than Núi Béo, khai
trường Tay Phay K mỏ Hà Lầm và mỏ Hà Tu) hoặc khoáng sàng có vỉa kéo dài (mỏ
Tây Nam Đá Mài). Dạng khai trường này thường được khai thác theo hình thức
cuốn chiếu, dùng khu vực khai thác trước làm bãi thải cho khu vực khai thác sau
(Hình 4.2-4.6).
Hình 4.2: Sơ đồ khai thác vỉa Hình 4.3: Sơ đồ địa hình đáy khai
kéo dài, kết thúc từng khu vực trường khi khai thác vỉa kéo dài, kết
làm bãi thải trong thúc từng khu vực làm bãi thải trong
116
Hình 4.4: Sơ đồ khai thác các Hình 4.5: Sơ đồ địa hình đáy các
khai trường liền kề, khai trường khai trường liền kề, khai trường kết
kết thúc trước sẽ làm bãi thải cho thúc trước sẽ làm bãi thải cho
khai trường kết thúc sau khai trường kết thúc sau
Hình 4.6: Sơ đồ sử dụng bãi thải tạm
và bãi thải trong đối với mỏ có nhiều động tụ
4.2.2. Các dạng bãi thải mỏ lộ thiên
Hiện nay các mỏ than KTLT chủ yếu đều sử dụng hệ thống bãi thải ngoài với
công nghệ đổ thải sử dụng ô tô - máy ủi. Phương thức đổ thải chủ yếu là phương
thức đổ thải bãi thải một tầng (bãi thải cao) và bãi thải nhiều tầng (tầng thấp) [25].
Đổ thải theo phương thức bãi thải một tầng và bãi thải nhiều tầng có các ưu -
nhược điểm được thống kê trong bảng 4.1.
117
Bảng 4.1: So sánh công tác đổ thải theo các phương thức đổ bãi thải
TT Danh mục Một tầng thải Nhiều tầng thải
Nhỏ hơn 1 Diện tích chiếm đất Lớn hơn
Trong đó: W - khối Trong đó: W - khối
lượng đất đá cần thải, m3; Kr - hệ số nở rời của đất đá trong bãi lượng đất đá cần thải, m3; Kr - hệ số nở rời của đất đá trong bãi
thải, Kr = 1,15÷1,4; h - thải, Kr = 1,15÷1,4; h1
chiều cao của bãi thải, - chiều cao của tầng
m. thải đầu tiên (tầng
dưới cùng), m; ƞi - hệ
số sử dụng diện tích
của tầng thải thứ i; hi -
chiều cao của tầng
thải thứ i; n - số tầng
thải.
2 Chi phí Chi phí vận tải, san gạt Chi phí vận tải, san
thấp hơn gạt cao hơn
3 Độ ổn định bờ mỏ Độ ổn định thấp Độ ổn định cao
4 Điều khiển được góc Phụ thuộc vào tính chất Không phụ thuộc vào
dốc bãi thải đất đá; không điều tính chất đất đá; điều
khiển được góc dốc bãi khiển được góc dốc
thải. bãi thải.
5 Góc dốc bãi thải Theo thực tế; chiều cao Điều khiển được góc
khoảng 2/3 chiều cao
118
bãi thải (tính từ) mặt dốc bãi thải từ 30o
bãi thải; sườn bãi thải
có góc dốc khoảng 50÷60o; phần còn lại
của sườn bải thải có
góc dốc nhỏ hơn hoặc
bằng với góc đổ tự nhiên của đất đá (30o).
6 Mức độ rửa trôi Lớn hơn (do bờ dốc dài Nhỏ (do có bờ phân
và chiều cao lớn tầng và sườn tầng với
(50÷240m); làm tăng chiều cao nhỏ hơn
khả năng rửa trôi khi 20÷30m; các tầng thải
mưa. như các bậc tiêu năng
nên khả năng rửa trôi
khi mưa thấp hơn.
7 Nguy cơ sạt lở đất Cao Thấp
8 Thời gian cải tạo Lớn hơn do phải cải tạo Nhỏ hơn do không
thành tầng thấp. phải cải tạo thành
tầng thấp.
Trong điều kiện thực tế, khi đổ thải theo các phương thức nêu trên tại các mỏ
than KTLT, sau khi kết thúc hoạt động đổ thải, địa hình bề mặt nguyên thủy bị biến
đổi và thường có các dạng sau:
- Dạng núi bãi thải: làm thay đổi lớn địa hình khu vực, có cao độ vượt các dãy
núi tự nhiên. Loại biến đổi này thường xảy ra khi khai thác các mỏ than lớn như mỏ
than Hà Tu, Núi Béo, Đèo Nai, Cọc Sáu, Cao Sơn,… với khối lượng đất đá thải lớn
đã tích lũy hàng trăm năm.
119
- Dạng bãi thải đồi thấp: làm thay đổi đáng kể địa hình khu vực. Loại biến đổi
này thường xảy ra khi khai thác các mỏ than có quy mô và thời gian khai thác nhỏ
hơn như khai trường mỏ than 917, mỏ Hà Lầm, Khe Sim, Bàng Nâu,.…
- Dạng bãi thải trong khai trường mỏ đã khai thác: có biến đổi, làm cải tạo đáng
kể địa hình khu vực. Loại biến đổi này thường xảy ra khi khai thác các mỏ than dốc
thoải, các khu vực khai thác lân cận nhau và có bố trí lịch khai thác hợp lý để đất đá
thải của mỏ này đổ vào mỏ khác. Ví dụ, mỏ Tây Nam Đá Mài và mỏ Núi Béo khi
kết thúc khai thác sẽ là bãi thải cho mỏ Hà Tu; khai trường Tả Ngạn mỏ Cọc Sáu là
sẽ bãi thải cho mỏ Đèo Nai,...
4.3. Đề xuất các phương án CTPHMT
4.3.1. Phương án CTPHMT đối với khai trường
4.3.1.1. Đối với khai trường mỏ thuộc dạng biến đổi lớn
- CTPHMT ở những mỏ than KTLT mà khai trường sau khi kết thúc khai thác còn lại là những moong lớn với dung tích hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu m3
(điển hình là các mỏ than KTLT tại vùng HG-CP,…). Những moong lớn như vậy
việc lấp đầy sau khi kết thúc khai thác là rất khó khả thi (trừ trường hợp chúng được
sử dụng làm bãi thải trong ngay trong quá trình khai thác). Phương thức phục hồi
môi trường khả thi nhất ở đây là cải tạo chúng thành các hồ chứa nước và tái tạo hệ
sinh thái dưới nước và vùng xung quanh bờ.
- CTPHMT ở những mỏ than KTLT nằm trên các sườn núi, xa khu dân cư và
khuất tầm nhìn từ đường quốc lộ, ví dụ mỏ than Bàng Nâu, Tây Nam Đá Mài; các
lộ vỉa KTLT của mỏ than Dương Huy, Quang Hanh. Phương thức phục hồi môi
trường được lựa chọn ở đây là không cải tạo địa hình mà chỉ trồng cây phủ xanh
phù hợp với địa hình và khí hậu khu vực.
- Cần CTPHMT để đưa khu mỏ KTLT đã kết thúc khai thác (sau đây gọi là khu
mỏ cũ) về trạng thái ổn định; cải tạo địa hình ở mức độ cần thiết để có thể sử dụng
địa hình còn lại vào các mục đích khác hoặc phủ xanh và tái tạo hệ sinh thái theo
định hướng chức năng sử dụng đất.
120
- Cải tạo các moong khai thác cũ thành hồ chứa nước phục vụ cho hoạt động
công nghiệp (phục vụ việc khai thác hầm lò, công tác sàng tuyển than,… hoặc sinh
hoạt của nhân dân).
4.3.1.2. Đối với khai trường mỏ thuộc dạng có biến đổi
- CTPHMT để biến khu mỏ thành đất xây dựng khu công nghiệp, đất định cư,
công trình phúc lợi như công viên cây xanh, du lịch,... Phương án này có thể áp
dụng khi có nhiều mỏ kề nhau hoặc khi khoáng sàng than có vỉa kéo dài, khai thác
theo hình thức cuốn chiếu, dùng khu vực khai thác trước làm bãi thải cho khu vực
khai thác sau. Do vậy bề mặt địa hình có ít thay đổi, chiều cao không lớn và không
để lại các hố quá sâu.
Trong một số trường hợp, hoạt động KTLT trong vùng có tiềm năng cho hoạt
động du lịch, khu công nghiệp, khu đô thị,... thì phương án sử dụng đất sau khai
thác phải được đặc biệt quan tâm và lồng ghép với các giải pháp công nghệ khai
thác ngay từ khi lập dự án đầu tư khai thác mỏ để hình thành các dạng địa hình của
bãi thải và của hố mỏ theo mục tiêu của vùng chức năng. Việc này sẽ tiết kiệm được
đáng kể chi phí cho hoạt động CTPHMT sau này. Ví dụ, đối với các mỏ than KTLT
lân cận vùng phát triển du lịch Hạ Long, Bái Tử Long như mỏ Núi Béo, sẽ được lấp
đầy bởi đất đá thải của mỏ Hà Tu. Đây là khu vực rộng lớn trên 300 ha, lân cận
vùng dân cư tập trung và có tầm nhìn toàn cảnh vịnh Hạ Long từ trên cao, do đó có
thể xem xét định hướng CTPHMT thành khu du lịch công ngiệp, khu công viên và
khu đô thị kế cận phục vụ du lịch và dân sinh.
- CTPHMT để biến khu mỏ cũ thành đất canh tác, trồng rừng hoặc cây công
nghiệp. Phương án này có thể áp dụng cho trường hợp địa hình ít thay đổi theo chiều
thẳng đứng trên toàn khu vực khai trường cũ và bãi thải của các mỏ than KTLT.
- CTPHMT để đưa khu mỏ cũ về trạng thái an toàn và ổn định. Phương án này
áp dụng cho các khai trường có chiều sâu khai thác lớn, không có khả năng (về mặt
kinh tế hoặc kỹ thuật) lấp đầy moong khi kết thúc khai thác như các moong của một
số mỏ than KTLT kết thúc muộn ở vùng HG-CP.
121
- CTPHMT khai trường cũ bằng cách lấp đầy moong khai thác là phương án
luôn được khuyến cáo ưu tiên lựa chọn hàng đầu. Các phương án lựa chọn khác chỉ
được xem xét đến khi phương án lấp đầy moong không khả thi. Việc lấp đầy moong
khai thác cũ sẽ làm cho khu vực trở nên an toàn khi phía dưới hoặc lân cận còn các
công trình khai thác mỏ khác, đặc biệt đối với những mỏ nằm gần khu dân cư sinh
sống. Đây là giải pháp tích cực nhất, có điều kiện thuận lợi để hoàn trả hoặc tái lập
lại các hệ sinh thái nguyên sinh như trước khi khai thác; đồng thời cho phép chuyển
đổi mục đích sử dụng đất sang công năng khác có hiệu quả hơn. Những lưu ý đối
với phương án này bao gồm:
+ Ngay từ khi lập dự án đầu tư và thiết kế bản vẽ thi công đã phải quan tâm tới
vấn đề lưu giữ đất mặt và đất đá mềm yếu sát vỉa than, đất đá bở rời có điều kiện
thuận lợi cho cây phát triển; lựa chọn vị trí đổ thải đất đá để sau này bóc lại được dễ
dàng và tiết kiệm chi phí xúc chuyển.
+ Nếu phải sử dụng đất từ nơi khác để san lấp moong thì phải xác định cụ thể
nguồn lấy đất (đất đắp và đất mầu), khoảng cách vận chuyển, vấn đề CTPHMT cho
nơi bị lấy đất,...
+ Trước khi san lấp cần thu dọn sạch các phế thải độc hại, gây ô nhiễm như dẻ
lau dầu mỡ, xăm lốp cũ, vỏ ắc qui,...; tuyệt đối không dùng các thứ này để làm vật
liệu san lấp.
+ Việc san lấp được tiến hành theo đúng kỹ thuật yêu cầu (đổ theo từng lớp với
chiều dày từ 20÷30m) như khi thải đất đá ở bãi thải nhằm tăng độ lèn nén và độ ổn
định cho đất đá trong không gian được chèn lấp.
- Khi đáy mỏ kết thúc nằm trên mức thoát nước tự chảy (không tạo thành
moong) thì không nhất thiết phải san lấp mà chỉ cải tạo, phục hồi nhằm trả lại giá trị
sử dụng cho đất. Nội dung cải tạo trong trường hợp này như sau: trước hết, cần tiến
hành cải tạo để đưa khu mỏ về trạng thái an toàn và ổn định (san phẳng các hố sâu,
lồi lõm trên đáy mỏ, cậy bẩy đá treo trên các sườn tầng, đưa bờ mỏ về trạng thải ổn
định); sau đó, tùy theo điều kiện địa hình, mục đích sử dụng đất (theo phân vùng chức
năng), tiến hành cải tạo để thành đất xây dựng công nghiệp, đất định cư, đất dùng cho
122
công trình phúc lợi, du lịch,... hoặc thành đất canh tác, trồng rừng, cây công nghiệp,...
Nếu sử dụng cho mục đích sau cùng (đất canh tác, trồng rừng, cây công nghiệp,...),
thì ngay từ khi lập dự án đầu tư và thiết kế bản vẽ thi công phải quan tâm tới vấn đề
lưu giữ đất mặt và một phần đất đá thải đủ để cho công tác CTPHMT sau này.
- Khi để nguyên moong khai thác cũ và tháo đầy nước làm hồ chứa, thì đây là
giải pháp bất khả kháng (trừ trường hợp đặc biệt, khi địa phương đang cần hồ dự trữ
nước cho khu vực). Nội dung CTPHMT cơ bản trong trường hợp này là phải đảm
bảo được mục tiêu “an toàn tuyệt đối cho người và gia súc”, cụ thể: phải đắp đê bao,
làm hàng rào chắn, cắm biển báo xung quanh hồ. Nếu cần thiết, có thể đào thêm hào
ngăn chạy dọc phía ngoài hàng rào. Phần bờ mỏ lộ trên mực nước, được cải tạo để
đưa về trạng thái ổn định và trồng cây phủ xanh. Hồ chứa nước cần có hệ thống
cống, rãnh để lưu thông nước trong hồ với bên ngoài nhằm cải thiện chất lượng
nước trong hồ.
4.3.2. Phương án CTPHMT đối với bãi thải đất đá
Hầu hết các bãi thải của mỏ than KTLT đều có diện tích và khối lượng đất đá
thải lớn. Tùy theo vị trí và mục đích sử dụng đất (theo chức năng vùng CTPHMT),
mà chúng được tiến hành cải tạo để thành đất xây dựng công nghiệp, đất định cư, đất
dùng cho công trình phúc lợi, du lịch,... hoặc thành đất canh tác, trồng rừng, cây công
nghiệp,... Trong đó, đa phần là sử dụng cho mục đích trồng rừng và cây công nghiệp.
Đối với việc CTPHMT bãi thải, cần quan tâm tới một vấn đề lớn, đó là hiện tượng sụt
lún bãi thải và sạt lở sườn bãi thải. Nội dung CTPHMT các bãi thải bao gồm:
- San gạt bề mặt bãi thải và mặt các tầng thải đối với dạng bãi thải đồi thấp.
Nếu bãi thải có dạng núi bãi thải cao trên 40 m thì phải tiến hành cắt tầng trước khi
tiến hành các công việc cải tạo khác tương tự như dạng bãi thải đồi thấp. Chiều cao
của mỗi tầng thải là 20÷30 m.
- Củng cố góc dốc sườn tầng thải và góc nghiêng bãi thải; xây dựng hoặc gia cố
hệ thống mương, rãnh thoát nước khu vực thải, tuyệt đối không cho nước mưa chảy
tràn qua các sườn dốc tầng thải; xây dựng hoặc gia cố hệ thống kè chân bãi thải; xây
123
đê chắn, chống bùn thải bồi lấp lòng sông, suối và đất đai canh tác vùng hạ lưu; cải
tạo đất, trải đất mầu và trồng và chăm bón cây.
4.3.3. Công tác CTPHMT đa mục tiêu
Các dự án CTPHMT phải đáp ứng đa mục tiêu và phải thỏa mãn được các yêu
cầu sau:
- Đáp ứng các chỉ tiêu kỹ thuật an toàn đối với các mỏ than KTLT (kỹ thuật về
an toàn bờ mỏ, bờ tầng khai thác và bãi thải);
- Đáp ứng hình thái, hình dạng moong khai thác, hình dạng bờ mỏ, bãi thải
mang lại cảnh quan và địa hình hài hòa với cảnh quan xung quanh, phù hợp cho
việc triển khai thực hiện đầu tư các công trình, trồng cây phủ xanh để hoàn thành
CTPHMT đa mục tiêu mà không phải cải tạo hay phá bỏ một số công trình
CTPHMT đã thực hiện lồng ghép trong quá trình khai thác mỏ như đã đề ra trong
quá trình thiết kế mở rộng khai thác và quá trình khai thác mỏ;
- Đáp ứng các kỹ thuật về xây dựng các công trình trên mặt bằng phục vụ mục
đích theo chức năng phân vùng;
- Đáp ứng các kỹ thuật nông, lâm nghiệp và tạo cảnh quan trong việc trồng cây
phục vụ mục đích theo chức năng phân vùng;
- Đáp ứng các chuyên ngành theo chức năng phân vùng sử dụng đất.
4.3.4. CTPHMT bờ mỏ, bãi thải bằng giải pháp lập lại thảm thực vật
Nhiệm vụ chung của công tác phục hồi thảm thực vật bao gồm:
(1). Gây trồng thảm thực vật bậc thấp, phủ kín các sườn bãi thải và bờ mỏ đã
ngừng hoạt động nhằm chống xói lở sườn dốc và dần phục hồi rừng cây gỗ cũng
như điều kiện tự nhiên của khu vực, tiến tới gây trồng các khu rừng cây lấy gỗ, cây
bản địa, tạo cảnh quan hoặc cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế trên bề mặt khai
trường và bãi thải.
(2). Gây trồng các rừng cây ngăn giữ đất đá thải và vùng kế cận tại chân các bãi
thải đang hoạt động nhằm giảm lực phá hoại của các dòng chảy, ngăn giữ đất đá,
chống bồi lấp phá hoại ra các khu vực xung quanh.
124
(3). Xây dựng các đê chắn, mương rãnh tiêu thoát nước xen kẽ, tạo điều kiện
thuận lợi cho thực vật phát triển.
(4). Bảo vệ rừng cây sẵn có lân cận mỏ và bãi thải, nhất là các khu vực gần
chân bãi thải, không để xảy ra cháy thảm thực vật.
Giải pháp CTPHMT áp dụng phổ biến và có hiệu quả đối với bờ mỏ, bề mặt
và sườn bãi thải,... là lập lại thảm thực vật, phủ xanh bề mặt bằng các loại cây trồng.
Đây là biện pháp tốt nhất để làm ổn định khu vực CTPHMT, ngăn ngừa xói mòn
đất, góp phần tạo lại cảnh quan, cải thiện chất lượng môi trường. Các bước tiến
hành bao gồm:
a. Cải tạo đất: Đất đá trên bờ mỏ, bãi thải, mặt bằng sân công nghiệp,... thường
ở dạng đá gốc, nguyên khối hoặc tảng cục có độ cứng cao, bị lèn nén, không đủ các
chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cây cối, do vậy bước đầu tiên của việc lập lại
thảm thực vật là phải tiến hành cải tạo đất.
Nếu là nền đá gốc thì cần đổ thêm một lớp đất thổ nhưỡng dày 20÷30 cm khi
dùng để trồng cỏ, 50÷70 cm khi dùng để trồng cây công nghiệp (keo, thông, bạch
đàn, cây bản địa,...) và 70÷150 cm khi dùng để trồng các cây tạo cảnh quan như cây
tre, cây bản địa, sau đó đào hố đổ đất mầu.
Nếu nền là đất đá thải thì có thể trực tiếp đào hố đổ đất mầu. Phương pháp này
đã áp dụng thành công ở các bãi thải khu vực Quảng Ninh, đặc biệt là bãi thải Nam
Đèo Nai với loại cây trồng là keo tai tượng, keo lá tràm và keo lai.
Khi đất dùng với mục đích canh tác nông nghiệp thì dưới lớp đất mầu phải rải
thêm lớp đất thổ nhưỡng dày 50÷70 cm. Bên cạnh đó phải tiến hành kiểm tra thành
phần dinh dưỡng của lớp đất để có biện pháp cải tạo. Tùy theo từng trường hợp cụ
thể mà dùng vôi hay thạch cao để điều chỉnh độ pH của đất; tùy loại giống cây
trồng, mật độ trồng, tỷ lệ sinh trưởng mà bón thêm phân đạm, phân lân hay kali để
hỗ trợ sinh trưởng cho cây. Ngoài ra, có thể bổ sung thêm phân hữu cơ như mùn
cây, bùn cống rãnh, phân gia súc đã được ủ để tăng thêm độ phì nhiêu của đất.
Việc xác định các tính chất hoá nông của đất đá thải là cơ sở để xác định
phương thức phục hồi giống cây trồng.
125
Quá trình CTPHMT bề mặt các sườn dốc cần được tiến hành lần lượt trên cùng
một độ cao (theo đường đồng mức) nhằm hạn chế tác dụng trôi rửa của nước mưa
chảy tràn, tăng thêm độ giữ nước của địa hình (tương tự như ruộng bậc thang của
đồng bào miền núi).
Trong trường hợp có đất mầu cũ để dùng lại, thì trước khi rải phải xem xét để
lựa chọn đúng loại phù hợp, phải phân phối đều tuỳ theo dự trữ đất màu sẵn có. Nếu
đất đá nền không chứa các vật chất độc hại đối với sự phát triển của cây cối thì
chiều dày lớp đất mặt cần thiết khoảng 2030 cm là đủ.
b. Gieo trồng: Việc lập lại thảm thực vật có thể thực hiện bằng các loại giống
cây trồng có nguồn gốc bản địa hoặc có nguồn gốc từ các địa phương khác. Sử dụng
các loại giống cây trồng có nguồn gốc bản địa có ưu điểm là dễ thích nghi với các
điều kiện tự nhiên của khu mỏ như loại đất, điều kiện khí hậu, các diễn biến của quá
trình sinh thái,... Phương án này mang lại hiệu quả cao khi thảm thực vật được lập
lại trên nền đất mầu cũ được cất giữ tốt và sử dụng lại.
Trên cơ sở một số thí nghiệm về các loại cây trồng theo đặc thù chung đất bãi
thải của các mỏ than KTLT vùng HG-CP, có hàm lượng dinh dưỡng nghèo, chua
nhẹ, độ mùn thấp và có sườn dốc từ 350 45o, do đó yêu cầu của công tác CTPHMT
là phải nâng cao được độ màu mỡ của đất, đồng thời chống xói mòn và mang lại
hiệu quả kinh tế phục vụ đời sống con người. Qua nghiên cứu đặc tính sinh trưởng
và công dụng của các loại cây đã trồng trên bãi thải, việc cải tạo bãi thải được thực
hiện với các nội dung sau:
(1). Đối với các bãi thải tạm ngừng đổ thải hoặc các bãi thải cần phủ xanh nhanh,
giảm thiểu xói mòn, thì nên sử dụng cây cốt khí. Loại cây này có khả năng phát triển
rất nhanh và chi phí thấp. Thực tế cho thấy, chỉ trong vòng tuần đầu sau khi gieo, cây
đã phát triển được 2 lá mầm và khoảng 2 tháng là cây đã phát triển cao 1520 cm, tạo
màu xanh cho toàn bộ khu vực thi công [13].
(2). Đối với khu vực sườn bãi thải: - Đối với khu vực có sườn dốc < 35o, tiến hành trồng keo tai tượng kết hợp với
cây cốt khí nhằm mục đích phủ xanh nhanh, chống xói mòn và tăng hàm lượng dinh
126
dưỡng cho đất, tạo điều kiện cho cây keo phát triển. Thực tế cho thấy, cây keo tai
tượng rất phù hợp với các khu vực bãi thải có độ chua nhẹ; trong vòng 3 năm đầu
đã phát triển cao từ 23m, tán phát triển tốt và bước đầu che phủ được bề mặt các
bãi thải. Để tăng cường chất dinh dưỡng phải định kỳ phát thân cây cốt khí, vùi
xuống đất để tăng độ mùn đồng thời giảm thiểu xói mòn. Để gieo cây cốt khí, có thể
sử dụng 2 cách: gieo thành luống theo đường đồng mức xen lẫn giữa các hàng keo
hoặc gieo xạ để phủ kín bề mặt toàn bộ diện tích.
- Đối với các khu vực sườn đốc lớn > 35o, sử dụng cây bản địa như cây lau, le
hoặc cỏ đót là các cây có sức sống mãnh liệt, có thể phát triển được tại các khu vực
đất nghèo dinh dưỡng, độ ẩm thấp. Các loại cây này có đặc điểm mọc thành từng
khóm, bộ rễ không dài nhưng mọc tạo thành mảng nên có khả năng phát triển ở các
khu vực sườn dốc, ngoài ra các loại cây này có khả năng phát tán tự nhiên, do đó có
thể tự phục hồi và phát triển trở lại sau khi bị sạt lở hoặc trôi lấp. Để tạo cảnh quan
và đa dạng sinh học trồng xen hoa giấy, cây bông bạc,…
(3). Đối với bề mặt bãi thải, đề xuất trồng cây keo xen kẽ cây thông, kết hợp với
cây cốt khí (cây keo kết hợp với cây cốt khí) sẽ phát triển nhanh để giảm thiểu rửa
trôi và phủ xanh bãi thải. Cây cốt khí có mục đích tăng hàm lượng dinh dưỡng cho
đất, cải tạo đất, tạo điều kiện cho cây keo phát triển. Cây thông sẽ thay thế cây keo
khi cây keo già, dễ gẫy nhằm đảm bảo thảm thực vật phát triển bền vững không trở
lại hoang hóa (cây thông đáp ứng được tiêu chí phát triển bền vững và tạo cảnh
quan đẹp). Để tạo cảnh quan và đa dạng sinh học, trồng xen cây bông bạc, cây xoan,
cây găng,…(chi tiết xem Phụ lục 2).
c. Chăm sóc và giám sát quá trình tăng trưởng: Công việc chăm sóc, tưới nước,
bón thêm phân, trồng dặm các cây chết,... phải được tiến hành thường xuyên, tối
thiểu trong 5 năm, cho đến khi đảm bảo 100% cây sống và phát triển để bàn giao
cho địa phương hoặc đơn vị chủ quản khác, sau đó các doanh nghiệp phải có trách
nhiệm cùng với địa phương tới khi kết quả CTPHMT là ổn định (không sạt lở, mức
độ xói mòn thấp,…).
127
4.4. Đề xuất các giải pháp kỹ thuật CTPHMT cụ thể cho mỗi mỏ than
KTLT lồng ghép trong quá trình khai thác mỏ
4.4.1. Giải pháp đổ thải trên một số địa hình đặc trưng
a. Giải pháp đổ thải trên nền bãi thải có dạng là một động tụ kín
Đối với công tác đổ thải mà nền bãi thải có dạng một động tụ kín và để bảo vệ
công trình lân cận hoặc thảm thực vật lân cận, thì trong phạm vi đáy động tụ có thể
đổ theo tầng cao. Mặt tầng đổ thải nằm ngang với mép trên của đáy động tụ, trình
tự đổ thải có thể từ trên xuống dưới theo một tầng.
Hình 4.7: Giải pháp đổ thải bãi thải trong khi không gian đổ thải
là một động tụ kín (là khai trường mỏ lộ thiên đã kết thúc khai thác)
Trong trường hợp cần thiết tiếp tục đổ thải lên cao hơn nữa, tức là bãi thải cao
hơn mép động tụ kín, cần phải đổ thải theo tầng có chiều cao 30 m. Trong trường
hợp này, đất đá thải có thể được đổ thải theo từng tầng (hết tầng này đến tầng
khác), từ dưới lên hoặc đổ đồng thời một số tầng.
Hình 4.8: Giải pháp đổ thải khi bãi thải cao hơn mép động tụ kín
b. Phương pháp đổ thải trên nền bãi thải có dạng là một động tụ hở
128
Đối với các bãi thải mà nền bãi thải có dạng một đáy động tụ hở, khi đổ thải
không làm ảnh hưởng tới các công trình khai thác của khu vực lân cận hoặc thảm
thực vật lân cận, đồng thời để hạn chế hiện tượng xói mòn, trượt lở và trôi chảy đất
đá thải ở sườn bãi thải phía hở của động tụ, cũng như để giảm thiểu diện tích động
của sườn tầng thải hướng về phía nhạy cảm về môi trường (như có công trình, thảm
thực vật cần bảo vệ...), thì phải đổ theo tầng thấp hđt= 25÷30 m và thực hiện các
phương pháp đổ thải như hình 4.9.
Hình 4.9: Giải pháp đổ thải khi không gian đổ thải là một động tụ hở
c. Đổ thải trên nền bãi thải có nền tương đối bằng phẳng hay đổ ở sườn núi
Đối với các bãi thải mà nền bãi thải có địa hình dạng tương đối bằng phẳng hay
đổ ở sườn núi (trường hợp sử dụng bãi thải tạm), thì sử dụng phương pháp đổ thải
theo tầng thấp và sử dụng giải pháp đổ thải đồng thời một số tầng hay từng tầng
một từ dưới lên.
Giải pháp đổ thải trong một tầng:
- Khi đổ thải trên sườn núi, nhất thiết phải tiến hành đổ từ sườn núi tới biên
giới kết thúc theo chiều dọc của tầng thải để tạo thành dải đổ thải đầu tiên trong
tầng thải, sau đó tiến hành đổ dọc theo sườn núi. Với giải pháp đổ này, bề mặt sườn
tầng thải sẽ được hình thành nhanh và sớm ổn định nhất, diện tích sườn tầng thải
động là nhỏ nhất.
- Khi đổ bãi thải tạm trên bề mặt tương đối bằng phẳng thì phía nhạy cảm với
môi trường cần được đổ thải trước, hình thành và ổn định sườn tầng sớm nhất, sau
đó mới phát triển bãi thải về phía còn lại.
- Khi đổ bãi thải trong hay bãi thải tạm trong động tụ hở, nhất thiết phải tiến
hành đổ thải phía hở trước, sau đó mới phát triển bãi thải vào phía trong.
129
Hình 4.10: Giải pháp đổ thải bãi thải trong hay bãi thải tạm tại động tụ hở
Để đảm bảo thoát nước tốt trên mặt bãi thải khi mặt bãi thải ổn định cũng như
chưa ổn định, nhất thiết phải tạo độ dốc vào phía trong bãi thải với độ dốc tương
ứng là i = 1÷2% và i = 1÷3% [46]. Trên mỗi tầng thải đã ổn định, nhất thiết phải tạo
rãnh phía dưới chân tầng để dẫn nước ra khỏi bãi thải; xung quanh chân bãi thải, để
BVMT, chống đất đá trôi nhất thiết phải xây dựng hệ thống đê chắn phù hợp để
chống trôi trượt bãi thải làm bồi lấp các công trình, diện tích đất lân cận.
Trong trường hợp khu vực nền bãi thải trong vẫn còn tài nguyên (không có khả
năng khai thác được bằng phương pháp KTLT) và trữ lượng than này sẽ tiếp tục
được khai thác bằng phương pháp hầm lò, thì nhất thiết phải sử dụng các biện pháp
gia cố nền đặc biệt như tạo nền vững chắc bằng cách trải một lớp bêtông hay dùng
đất sét, lu lèn chặt, tưới nước trước khi đầm (với độ đầm nén 0,8) để tạo thành lớp
cách nước có chiều dày 3÷5 m, sau đó mới tiếp tục tiến hành đổ thải theo tầng thấp
với chiều cao tầng thải từ 5÷10 m. Trong quá trình san gạt, máy ủi phải đảm nhiệm
cả công tác đầm nén nhằm tạo nên sự liên kết chặt chẽ của đất đá thải và làm giảm
độ rỗng giữa đất đá để hạn chế lượng nước chứa trong đất đá.
4.4.2. Giải pháp kỹ thuật cải tạo hình dáng khai trường
a. Giải pháp thiết kế trong mối liên kết tổng thể các khai trường liền kề và lân cận
Biên giới các khai trường KTLT thường biến dạng theo điều kiện địa chất, sự
uốn lượn của vỉa than và điều kiện kinh tế kỹ thuật, do đó hình dáng khai trường
thường thẳng, gấp khúc, không có tính thẩm mỹ do công tác xúc bốc đất đá chưa
quan tâm đến việc cải tạo hình dáng khai trường sẽ sử dụng sau giai đoạn kết thúc
130
khai thác. Mỗi khai trường gần nhau nhưng lại được thiết kế độc lập cho mỗi dạng
mỏ mà chưa được xem xét trong tổng thể nhiều mỏ.
Do vậy, trong quá trình thiết kế, nhất thiết phải căn cứ vào điều kiện kỹ thuật
cụ thể của mỗi một dạng mỏ, phải xem xét hình dáng mỗi khai trường trong tổng
thể nhiều mỏ liền kề với nhau mà xác định hình dáng khai trường kết thúc khai thác
(trong sự liên kết với nhau để đảm bảo tính thẩm mỹ và cảnh quan) và phù hợp với
định hướng chức năng sử dụng đất sau khi kết thúc khai thác mỏ than lộ thiên để
tránh phải tiếp tục cải tạo lại hình dáng khai trường sau khi kết thúc khai thác các
mỏ này.
b. Giải pháp chỉnh sửa thiết kế và thực hiện tại các khu vực mỏ đã có thiết kế
khai thác nhưng hình dạng chưa phù hợp trong mối liên kết tổng thể các khai
trường liền kề và lân cận
Trong trường hợp này, phương pháp thực hiện CTPHMT trong quá trình khai
thác từ khi thi công xúc bốc đến giới hạn kết thúc biên giới mỏ, cần thực hiện xúc
bốc chỉnh sửa các khu vực nêu trên thành những đường cong, tròn tạo cảnh quan.
Các khu vực góc cạnh trên biên giới khai trường sẽ được tổ chức thi công bo
góc cho mềm mại, tạo hình phù hợp với mục đích sử dụng đất sau khi kết thúc khai
thác mỏ lộ thiên.
Hình 4.11: Hình dáng khai trường Hình 4.12: Hình dáng khai trường
vỉa 11, 13, 14 cánh Đông mỏ Núi Béo vỉa 11, 13, 14 cánh Đông đề nghị thực
khi kết thúc (theo thiết kế) hiện tại giai đoạn kết thúc khai thác
131
c. Giải pháp thi công liên thông các khai trường gần nhau, tạo hình dáng tổng
thể khai trường theo vùng
Tổ chức thi công san gạt, xúc bốc liên thông các khai trường, tạo thêm quỹ đất
giữa 2 khai trường, hình dáng khai trường được cải tạo đáng kể.
Hình 4.13: Hình dáng khai Hình 4.14: Hình dáng khai
trường Khu II, Bắc Hữu Nghị mỏ trường Khu II, Bắc Hữu Nghị
Hà Lầm và Vỉa 14 cánh Tây mỏ mỏ Hà Lầm và Vỉa 14 cánh Tây
Núi Béo khi kết thúc (theo thiết kế) mỏ Núi Béo cải tạo
4.4.3. Giải pháp kỹ thuật cải tạo mặt tầng (thực hiện ngay trong quá trình
khai thác tại giai đoạn kết thúc khai thác)
a. Giải pháp thực hiện trong quá trình khai thác
- Khoan - nổ mìn làm tơi đất đá: tăng cường sử dụng máy khoan có đường kính
nhỏ khi khoan lỗ mìn và nổ mìn theo đúng cốt nền thiết kế để hạn chế phá hủy nền
tầng khai thác. Do công tác khoan - nổ mìn đối những khu vực có chiều cao tầng
thấp, thường gây phá hủy nền tầng, nên đối với những khu vực hào dốc nhất thiết
không được sử dụng giải pháp nổ mìn mà sử dụng các giải pháp làm tơi, tạo độ ổn
định bờ mỏ tốt hơn phương pháp khoan - nổ mìn bằng cách dùng các thiết bị cơ giới
như: máy xới, đầu đập thủy lực, máy xúc có răng gầu tích cực,...
132
- Xúc bốc đất đá: thực hiện thi công xúc bốc theo giới hạn, cao độ thiết kế,
giám sát chặt chẽ khâu xúc bốc đối với những khu vực kết thúc khai thác, không
xúc tạo đá treo sườn tầng và tạo mô chân tầng,...
b. Giải pháp cải tạo mặt tầng sau khi kết thúc khai thác
- Khi kết thúc khai thác, mặt tầng bãi thải sẽ tồn tại các bờ an toàn với kích
thước lớn phục vụ sản xuất; rãnh thoát nước chân tầng, mặt tầng lồi lõm do thiết bị
có tải trọng lớn hoạt động thường xuyên. Sau khi kết thúc, tiến hành san gạt lại bề
mặt bãi thải; bờ an toàn sẽ thấp hơn, nhỏ hơn; đất đá thừa tại các bờ an toàn sẽ được
bồi vào những vùng lõm; hệ thống rãnh thoát nước chỉ tồn tại dưới dạng cắt nghiêng
ở chân tầng.
- Trồng cây trên bề mặt tầng kết thúc khai thác; bố trí tuyến đường phục vụ,
chăm sóc cây.
4.4.4. Giải pháp kỹ thuật cải tạo sườn tầng khai thác
a. Giải pháp thực hiện trong quá trình khai thác
- Khoan - nổ nìn: làm tơi đất đá bằng phương pháp nổ mìn tạo biên tại khu vực
kết thúc khai thác, đảm bảo taluy sườn tầng theo đúng thiết kế khai thác.
- Xúc bốc: tổ chức giám sát thi công xúc bốc theo giới hạn, góc dốc sườn taluy,
giám sát chặt chẽ khâu xúc bốc đối với những khu vực sườn tầng kết thúc khai thác.
Hình 4.15: Hình dáng mặt tầng Hình 4.16: Hình dáng mặt
khai thác khi kết thúc tầng đã cải tạo
b. Giải pháp thực hiện sau khi kết thúc khai thác
133
- Sườn tầng khai thác khi kết thúc thường có góc dốc lớn ( ≥ 45o), sau khi kết
thúc, trải qua các mùa mưa có khả năng hình thành các rãnh nước nhỏ, gây biến
dạng bề mặt sườn tầng khai thác. Do đó, khi kết thúc khai thác cần phải cải tạo lại
sườn tầng khai thác, giảm góc đốc taluy sườn tầng; đối với bề mặt sườn tầng bị chia
cắt bởi các rãnh nước, tiến hành bồi, xén sườn tầng đảm bảo tính ổn định.
- Trồng cây trên sườn tầng khai thác góp phần ổn định sườn tầng.
Hình 4.17: Hình dáng sườn tầng Hình 4.18: Hình dáng sườn tầng
khai thác khi kết thúc khai thác sau khi cải tạo
4.4.5. Giải pháp kỹ thuật cải tạo bãi thải
a. Giải pháp kỹ thuật cải tạo bãi thải cao
Đối với các bãi thải cao (Hình 4.19) luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ sạt lở tầng,
mất an toàn và có thể gây trôi sạt đất đá tạo thành thảm họa phá hoại nhà cửa, cây
cối hoa mầu của nhân dân. Đối với các bãi thải cao, thực hiện 2 phương án cải tạo:
- Đổ thải bổ sung, gia cố chân bãi thải, hình thành các tầng thải trung gian: đây
là giải pháp có tính kinh tế cao, nhưng chỉ áp dụng được trong điều kiện quỹ đất
phục vụ đổ thải còn có khả năng mở rộng, hình thành các đai tầng thải trung gian và
gia cố chân bãi thải (Hình 4.20).
Hình 4.19: Tầng thải cao Hình 4.20: Tầng thải đã cải tạo bằng
giải pháp đổ bổ sung thêm các phân tầng
134
- San gạt, cắt hình thành tầng thải trung gian vì tầng thải cao đã đạt giới hạn
kết thúc, không có khả năng cải tạo bằng giải pháp đổ thải bổ sung; sử dụng các
thiết bị thi công gạt, cắt, xúc bốc,... để tạo nên tầng thải trung gian (Hình 4.21).
Hình 4.21: Tầng thải đã được cải tạo bằng giải pháp cắt thành các phân tầng
b. Giải pháp kỹ thuật cải tạo bãi thải trong thung lũng
Bãi thải trong thung lũng là những bãi thải có tính ổn định cao nhất, công tác
cải tạo giản đơn nhất; khi đổ thải tại khu vực thung lũng, chỉ đổ thải theo từng lớp,
đảm bảo độ lu nèn để tăng dung tích bãi thải. Khi thung lũng có chiều sâu lớn, đổ
thải theo lớp ngang; khi thung lũng có chiều sâu không lớn (≤ 50 m), sẽ đổ thải theo
lớp nghiêng (01 lớp) - Hình 4.22, 4.23.
Hình 4.22: Đổ thải nhiều lớp Hình 4.23: Đổ thải một lớp
tại thung lũng tại thung lũng
c. Giải pháp kỹ thuật cải tạo hình dáng bãi thải
Khi đổ thải, cần xem xét đến quy hoạch sử dụng đất sau khi kết thúc KTLT, bãi
thải là quỹ đất rất lớn có thể phục vụ các dự án phát triển KT-XH về sau như làm
sân golf, du lịch sinh thái, trồng rừng, nông trại,... Trong quá trình đổ thải, nhất thiết
135
phải ưu tiên tạo ra quỹ đất, các đai tầng ổn định với bề mặt bãi thải uốn lượn, tránh
gẫy khúc, có tính thẩm mỹ cao tạo cảnh quan.
Hình 4.24: Hình dáng bãi thải Hình 4.25: Đổ thải bãi thải
Chính Bắc theo thiết kế Chính Bắc sau cải tạo
d. Giải pháp kỹ thuật cải tạo mặt bãi thải kết thúc, đảm bảo điều kiện giữ nước
bằng cách tạo các vùng trũng trên bề mặt bãi thải để giữ độ ẩm cho cây phát triển
Trên thực tế, tại bề mặt bãi thải Nam Lộ Phong, Chính Bắc Núi Béo, vào thời
gian mùa khô nhưng trên mặt bãi thải vẫn có một vùng trũng chứa nước nhằm cung
cấp nước cho thảm thực vật lân cận phát triển tốt. Vì vậy, trên bề mặt tầng thải tại
giai đoạn kết thúc, cần phải thực hiện giải pháp kỹ thuật cải tạo mặt bãi thải kết thúc
để đảm bảo điều kiện giữ nước bằng cách tạo các vùng trũng trên bề mặt bãi thải
nhằm giữ độ ẩm cho cây phát triển tốt và tiết kiệm được kinh phí sử dụng máy ủi.
Cách thức triển khai như sau: từ gương đổ thải ban đầu, tiến hành đổ thải một
luồng thải (kích thước luồng thải đảm bảo cho xe có thể quay đảo chiều và đổ thải
bình thường) có hướng dốc 3÷5% đến hết giới hạn đổ thải. Sau đó, từ luồng đổ thải
ban đầu, đổ thải về 2 hướng, mỗi hướng đổ thải với độ dốc 3÷5%. Cuối cùng, đổ
bồi đất đá ở phía cuối gương đổ thải ban đầu, san gạt tạo hướng dốc vào trong để
hình thành vùng trũng giữ nước mưa tự nhiên, phục vụ trồng cây và cũng để giảm
thiểu rửa trôi mặt tầng thải.
136
Hình 4.26: Kỹ thuật đổ thải tạo vùng trũng chứa nước cải tạo đất
4.4.6. Giải pháp giảm thiểu nguy cơ tai biến sạt lở đất và nguy cơ lũ bùn đá
cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP
Trong quá trình hoạt động, các mỏ than KTLT sâu với các bờ dốc, sườn tầng,
bờ mỏ, bở bãi thải có độ ổn định phụ thuộc vào tính chất cơ lý của đất đá, cấu trúc
địa chất, địa chất thủy văn,… Do vậy, độ ổn định của các đối tượng nêu trên chỉ
được đảm bảo với một góc nghiêng tối thiểu nhất định. Thực tế, nhiều mỏ than
KTLT ở vùng HG-CP đều xuất hiện hiện tượng trượt lở ở bờ mỏ, làm tăng biên giới
khai thác, tăng hệ số bóc, giảm sản lượng, tăng chi phí sản xuất và giá thành khai
thác,…
Việc sạt lở không được xem xét trong giai đoạn kết thúc khai thác sẽ tiềm ẩn
nguy cơ sạt lở bờ mỏ và bãi thải. Đây là nguy cơ khó kiểm soát đối với hoạt động
CTPHMT, gây ảnh hưởng không nhỏ tới an toàn của cộng đồng dân cư. Do vậy,
cần thực hiện giải pháp kỹ thuật đánh giá độ ổn định bờ mỏ, xác định các vùng có
nguy cơ tai biến sạt lở khai trường, bãi thải và thực hiện giải pháp ổn định bờ mỏ
trong giai đoạn kết thúc khai thác đối với vùng có nguy cơ sạt lở cao nhằm đảm bảo
độ ổn định bờ mỏ thực hiện hoạt động CTPHMT, đồng thời nhằm ổn định bờ mỏ
lồng ghép trong giai đoạn kết thúc khai thác các mỏ than lộ thiên ở vùng HG-CP.
4.4.6.3. Giải pháp giảm thiểu nguy cơ tai biến sạt lở đất và nguy cơ lũ bùn đá
tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP
137
Trên cơ sở các tài liệu phân tích, đánh giá về các vùng cảnh báo tai biến trượt
lở đất, lũ bùn đá khu vực Hạ Long - Cẩm Phả (xem chi tiết tại Phụ lục 3), các mỏ
than KTLT vùng HG-CP có nguy cơ chịu ảnh hưởng của tai biến trượt lở, lũ bùn đá
ở mức độ khác nhau, phục vụ cho công tác CTPHMT nhằm giảm thiểu tai biến
thiên nhiên như sau:
Vùng (I) phía Bắc của khu vực, phía Nam của thành phố Cẩm Phả và toàn bộ
khu vực khai thác than tại thành phố Hạ Long. Khu vực này là toàn bộ phần khai
thác than lộ thiên chính của vùng HG-CP. Đây là khu vực chịu ảnh hưởng mạnh của
tai biến trượt lở, lũ bùn đá. Trong đó, vùng (I1) nằm toàn bộ ở phần phía Nam của
Cẩm Phả với một vài mỏ khai thác than chính như mỏ Mông Dương, Núi Béo, Cọc
6, với số lượng bãi thải lớn có thể đưa rất nhiều đất đá thải xuống vịnh Bái Tử
Long. Khu vực này là khu vực chịu ảnh hưởng và phát sinh lũ bùn đá trực tiếp, có
thể nói đây là một trong 2 khu vực chịu ảnh hưởng lớn nhất toàn bộ vùng (I). Tại
đây nguy cơ phát sinh trượt lở, lũ bùn đá rất mạnh do lượng bãi thải có bề dày rất
lớn. Đối với vùng (I2b) là khu vực bãi thải có sườn thoải hơn, phân bố từ phần rìa
của khu vực khai thác vào đến khu vực trung tâm của khu khai thác.
Cũng tương tự như vậy, đối với vùng (I2), cũng là khu vực khai thác than
chịu ảnh hưởng trực tiếp từ nguy cơ phát sinh trượt lở, lũ bùn đá. Khu vực này nằm
ở vị trí trung tâm của vùng Hòn Gai, gồm các mỏ than Hà Tu và Hà Lầm. Nguy cơ
trượt lở, lũ bùn đá ở khu vực này là rất mạnh [31].
Trên cơ sở bản đồ phân vùng nguy cơ tai biến trượt lở, lũ bùn đá để xác định
nguy cơ xảy ra tai biến trong vùng nhằm đề xuất các giải pháp kỹ thuật giảm thiểu
nguy cơ tai biến sạt lở đất và nguy cơ lũ bùn đá tại khu vực các mỏ than KTLT
vùng HG-CP như sau:
138
Hình 4.27: Bản đồ nguy cơ lũ bùn đá khu vực Hạ Long - Cẩm Phả [31]
1. Giải pháp kỹ thuật ổn định bờ mỏ trong giai đoạn kết thúc khai thác tại các
vùng có nguy cơ tai biến sạt lở khai trường và bãi thải cao
Các giải pháp ổn định bờ mỏ trong giai đoạn kết thúc khai thác sau cần được
áp dụng cho những điều kiện cụ thể, phù hợp nhằm tăng độ ổn định bờ mỏ cho các
mỏ than KTLT:
(1). Để lại các đai bảo vệ trên bờ mỏ nhằm ngăn chặn hiện tượng trôi lở đất đá
từ các tầng trên xuống tầng dưới làm sạt lở bờ mỏ.
139
(2). Có hệ thống thoát nước hợp lý trên các tầng và xung quanh mỏ than KTLT
nhằm mục đích ngăn chặn sự bào mòn, xói lở của các dòng nước mặt làm phá vỡ bờ
mỏ và làm yếu độ bền vững của đất đá.
Hình 4.28: Sơ đồ mô phỏng công tác thoát nước mặt và nước ngầm [28]
(3). Tạo góc nghiêng bờ mỏ kết thúc khai thác phù hợp với tính chất cơ lý của
đất đá trong bờ mỏ, cấu tạo địa chất, điều kiện địa chất thủy văn, chiều sâu kết thúc
khai thác.
Bảng 4.2: Góc nghiêng của bờ mỏ phụ thuộc vào đặc tính đất đá
Đặc tính Độ Góc nghiêng Góc nghiêng của bờ (độ)
của đất đá cứng f sườn tầng, độ khi chiều sâu mỏ (m)
90 180 240 300
Rất cứng 15 ÷20 75 ÷85 60 ÷68 57 ÷65 53 ÷60 48 ÷54
Cứng và 8 ÷14 65 ÷75 50 ÷60 48 ÷57 45 ÷53 43 ÷48
hơi cứng
Cứng trung 3 ÷7 55 ÷65 43 ÷50 41 ÷48 39 ÷45 36 ÷43
bình
Hơi mềm 1 ÷2 40 ÷55 30 ÷43 28 ÷41 26 ÷39 24 ÷38
và mềm
140
(4). Giảm tải trọng khối đẩy (phần trên của bờ mỏ) và làm tăng trọng lượng
khối đỡ (phần dưới của bờ) bằng cách sử dụng bờ mỏ lồi [21].
(5). Sử dụng phương pháp nổ mìn vi sai, nổ mìn tạo biên nhằm giảm sóng chấn
động, giảm hậu xung, tránh hiện tượng làm nứt nẻ và mất ổn định bờ mỏ [3].
(6). Trường hợp bờ mỏ kết thúc khai thác nằm trong khu vực có cấu tạo địa
chất phức tạp (đứt gãy, vò nhàu) và bị ảnh hưởng nhiều của nước mặt, nước ngầm,
thì góc nghiêng của bờ mỏ kết thúc giảm đi 30÷40% so với các giá trị trong bảng
4.2 [28] và khi đó cần xem xét sử dụng các giải pháp gia cố bờ mỏ như sau:
- Dùng vì neo gia cố bờ mỏ nhằm tăng thêm các lực giữ giữa các lăng trụ trượt
lở với phần đất đá ổn định phía dưới [55]. Phương pháp này áp dụng cho đá cứng,
cứng vừa ít nứt nẻ và ít phong hoá, có cấu trúc khối hay đá phiến có các khe nứt
nghiêng vào không gian khai thác một góc 2535o khi chiều dài lăng trụ trượt lở
không lớn.
Chiều dài cần thiết của các thanh neo được xác định căn cứ vào chiều dày của
đới đá yếu, thường lấy bằng 56m. Tuỳ theo tính chất của các loại đá mà sử dụng
loại neo làm bằng cọc thép hoặc cọc bê tông cốt thép. Khi cần gắn kết mái dốc thì
áp dụng biện pháp liên kết các cọc neo với nhau trên bề mặt (34 cọc với nhau)
bằng các tấm bê tông hay kim loại.
Hình 4.29: Nâng cao độ ổn định bờ mỏ bằng neo
Với những loại đá phân lớp, nứt nẻ kiến tạo, các đới phá huỷ có góc nghiêng bề
mặt yếu cắm vào không gian khai thác 2540o, đặc biệt đối với loại đất đá phân lớp
yếu như sét kết, bột kết hoặc với bờ mỏ cao, chiều dày lăng trụ trượt lở lớn thì có
141
thể dùng phương pháp khoan cọc nhồi. Đầu tiên, khoan các lỗ có đường kính từ
100÷400mm, sau đó thả các cốt thép xuống tận đáy và phun vữa bê tông đầy lỗ
khoan. Chiều dài của cột nhồi phải ăn sâu vào tầng đá gốc ổn định ít nhất là 1m.
Việc lựa chọn kết cấu cọc và khoảng cách giữa các cọc cần được tính toán cẩn thận
căn cứ vào đặc điểm cụ thể của từng khu vực nghiên cứu [28].
Hình 4.30: Nâng cao độ ổn định bờ mỏ bằng cọc bê tống cốt thép
- Đối với những sườn dốc có đất đá mềm, chiều cao không lớn thì có thể dùng
phương pháp kè đá để bảo vệ sườn dốc khỏi bị phá hủy của nước ngầm và các tác
động của ngoại lực khác hoặc dùng phương pháp xây tường chắn ở chân sườn dốc
để hạn chế sự sụt lở của đất đá trong sườn dốc.
Hình 4.31: Bảo vệ bờ mỏ bằng tường chắn ở chân mái dốc
- Phủ kín các sườn dốc, bờ mỏ bằng thảm thực vật như lau, sậy, cỏ, cây cối
nhằm chống sự phong hóa bờ mỏ do tác động của không khí, nhiệt độ, xói lở bờ mỏ
do nước mưa, nước mặt.
142
- Trong trường hợp khẩn cấp, bờ mỏ có nguy cơ trượt lở, cần nhanh chóng xúc
bốc đất đá tầng trên cùng đổ xuống chân của các tầng dưới cùng nhằm giảm lực đẩy
và tăng lực giữ của bờ.
Hình 4.32: Bóc bỏ toàn bộ phần không ổn định hoặc có nguy cơ trượt lở
Để giữ ổn định bờ mỏ khi kết thúc khai thác đảm bảo hiệu quả công tác
CTPHMT, cần thiết áp dụng đồng bộ một số giải pháp phòng chống cần thiết. Đặc
biệt là các mỏ than KTLT có điều kiện phức tạp về địa chất và địa chất thủy văn
như ở vùng HG-CP (mỏ Hà Tu, Cọc Sáu và Đèo Nai,…), thì khâu ngăn thoát nước
là hết sức quan trọng, sau đó là cải tạo bờ mỏ kết thúc khai thác với góc nghiêng
hợp lý nhằm đảm bảo ổn định cho bờ mỏ khi đã dừng khai thác.
2. Giải pháp kỹ thuật ổn định bờ mỏ bằng nổ mìn tạo biên để giảm nguy cơ sạt
lở bờ mỏ vào giai đoạn kết thúc khai thác
Khi tiến hành công tác nổ mìn làm tơi đất đá tại những nơi giáp ranh biên giới
kết thúc khai thác của mỏ, cần thiết áp dụng phương pháp nổ mìn tạo biên để tạo
điều kiện cho máy xúc tạo được mặt sườn tầng bằng phẳng (nhằm tạo cảnh quan)
và giảm tác dụng chấn động lên bờ mỏ, góp phần làm biên giới mỏ không bị phá
huỷ, đảm bảo độ ổn định bờ mỏ khi kết thúc khai thác [3], [27].
a. Thực hiện phương pháp nổ mìn tạo biên
- Công tác khoan tạo biên: Phân bố những lỗ khoan tạo biên dọc theo biên khai
thác với khoảng cách nhỏ. Những lỗ khoan này không nạp thuốc.
143
Đường kính lỗ khoan tạo biên 5075mm, khoảng cách giữa chúng bằng 24
lần đường kính, nghĩa là 1030 cm. Những lỗ khoan của bãi nổ cách những lỗ
khoan tạo biên bằng 5070% khoảng cách giữa các hàng lỗ khoan.
- Công nghệ nạp thuốc nổ: Những lỗ khoan được nạp bằng dây thuốc (bao gồm
những thỏi thuốc nổ được buộc vào dây nổ), phần còn lại của lỗ khoan chứa đầy cát.
Sử dụng phương pháp này có lợi khi đường kính lỗ khoan lớn (100÷200 mm).
Hình 4.33: Sơ đồ nạp khoan lỗ khoan nổ (a) và sơ đồ phân bố lỗ khoan biên (b)
1 - Thỏi thuốc; 2 - Cát; 3 - Dây nổ; 4 - Đường phân bố lỗ khoan biên; 5 - Lỗ mìn.
Loại thuốc nổ nêu trên có sức công phá trung bình, mật độ nạp thấp và đặc biệt
là loại thuốc nổ có dạng dẻo, dễ sử dụng. Có thể đặt nhà sản xuất cung cấp các sản
phẩm có kích thước theo yêu cầu phù hợp với từng loại đường kính lỗ khoan.
144
b. Cấu trúc lượng thuốc và mật độ chất nổ
* Cấu trúc lượng thuốc:
Sức chứa của một mét lỗ khoan xác định căn cứ vào mật độ nạp và đường
kính lỗ khoan:
, g/m (4.1)
Trong đó: d - Đường kính lỗ khoan, cm; - Mật độ nạp thuốc, g/cm3; k - Hệ
số tính đến sự lấp đầy thuốc trong lỗ khoan, k = 0,85.
Với đường kính lỗ khoan khấu d = 250 mm, thuốc nổ thường được sử dụng là
ANFO có =1 g/cm3, thì:
P = 78,5 .252 .1. 0,85 = 41703 g/m 42 kg/m
Với các lỗ khoan tạo biên, loại thuốc nổ được lựa chọn sử dụng là EE31 hoặc
NT13 có =0,9 g/cm, d = 102 mm = 10,2 cm. Dạng thỏi có đường kính thuốc nạp
xuống lỗ đã lựa chọn là d = 60 mm = 6 cm.
Như vậy, lượng thuốc nạp của 1 m lỗ khoan biên được tính như sau:
P = 78,5.62 = 2826 g/m 2,8 kg/m
c. Khoảng cách giữa các lỗ khoan
Khu vực I bố trí mạng lỗ khoan giống như trên các tầng khai thác bình thường
có dlk = 250 mm. Khu vực II bố trí các lỗ khoan tạo biên có dlk = 102 mm.
* Bố trí mạng lỗ khoan ở khu vực I:
Bố trí mạng tam giác đều là tối ưu, mang lại chất lượng đập vỡ tốt nhất.
Với từng loại đất đá có độ cứng khác nhau, có chỉ tiêu thuốc nổ tương ứng.
Chiều cao bua được tính theo công thức: Lb = (2030)dlk.
Trị số nhỏ áp dụng cho đất đá cứng ít nứt nẻ.
Trị số lớn áp dụng cho đất đá mềm nứt nẻ nhiều.
Với mạng tam giác đều, có khoảng cách giữa các lỗ khoan là a, khoảng cách
giữa các hàng lỗ khoan là b. Công thức liên hệ giữa các đại lượng trên (theo hình
học) như sau:
145
(4.2) LB = Llk - LT , m
Trong đó: LB - Chiều cao cột bua, m; Llk - Chiều sâu lỗ khoan, m; LT - Chiều
cao cột thuốc, m.
Chiều cao cột thuốc được xác định bằng khối lượng đất đá của một lỗ mìn nhân
với chỉ tiêu thuốc nổ chia cho mật độ nạp thuốc (kg/1mét dài lỗ khoan).
, kg/m (4.3)
Trong đó: a - Khoảng cách giữa các lỗ khoan; b - Khoảng cách giữa các hàng
lỗ khoan; h - Chiều cao tầng; q - Chỉ tiêu thuốc nổ; P - Khối lượng thuốc nạp trong
1 mét dài lỗ khoan.
* Bố trí mạng lỗ khoan ở khu vực II:
Khi bố trí lỗ khoan tạo biên trong mạng khoan, để giảm hậu xung, thường bố
trí lỗ khoan tạo biên là những lỗ khoan nghiêng. Khi khoan lỗ khoan tạo biên trên
bờ trụ vỉa, nếu điều kiện đặt máy khoan cho phép, nên khoan lỗ tạo biên có góc
nghiêng bằng với góc cắm của lớp đá trụ.
Thực tế khoan nổ đường kính lỗ khoan dlk=250mm trên các mỏ than KTLT cho
thấy rằng, khi nổ mìn phần hậu xung về phía chân tầng phụ thuộc vào độ cứng đất
đá; khi f = 910, phần hậu xung sẽ tạo cho tầng khai thác góc nghiêng sườn tầng
mới có = 650, với f = 1112 thì = 750. Như vậy với f = 910, có thể bố trí lỗ khoan tạo biên nghiêng với góc 650 (song song với góc nghiêng sườn tầng); với
f=1112 có thể bố trí lỗ khoan tạo biên khoan nghiêng với góc 750.
Khoảng cách giữa các lỗ khoan tạo biên được xác định theo tỷ số (Tỷ số
này thay đổi trong giới hạn 10÷30 đối với tất cả các loại đất đá) và theo hệ số
Poátxông (vùng thay đổi của hệ số này không lớn đối với các loại đất đá).
146
Khoảng cách giữa các lỗ khoan có thể tính theo công thức:
, m (4.4)
Trong đó: dz – Đường kính lỗ khoan; kz - Hệ số nén, kz = 0,25 khi nén hoàn
toàn (tạo biên khi đào hốc); kz=1,0 khi tạo biên trên tầng với số hàng lỗ khoan > 3;
kz = 1,1 khi số lượng hàng lỗ khoan ≤ 3; ky - Hệ số để đến điều kiện địa chất, ky =
1,0 khi không nứt nẻ; ky=0,9 khi góc giữa hệ thống nứt nẻ và mặt phẳng biên tương ứng 900 và bằng 0,8 khi 20÷700, ky=1,15 khi bề mặt nứt nẻ trùng với mặt
biên.
Trên thực tế, khoảng cách giữa các lỗ khoan biên có thể lấy bằng (1628)d =
50÷90cm khi đường kính bằng 32100 mm.
Lượng thuốc trong 1 m dài lỗ khoan phụ thuộc vào đường kính lỗ khoan,
đường kính thỏi thuốc, độ cứng của đất đá và chiều dài bua. Chiều sâu của lỗ
khoan tạo biên thường lấy giống nhau và sâu hơn những lỗ khoan khấu.
Lượng thuốc nạp vào lỗ khoan có dạng dây, nếu góc nghiêng lỗ khoan <550
thì dây lượng thuốc được buộc vào thanh gỗ rồi thả xuống lỗ khoan.
Với đường kính lỗ khoan tạo biên d = 120mm, khoảng cách giữa các lỗ khoan
biên được tính như sau: a = 22 x 0,102 x 1,1 x 1 = 2,244 2,25 m
Những lỗ khoan của bãi nổ cách những lỗ khoan biên một khoảng bằng 1/2
khoảng cách giữa các lỗ khoan trong bãi.
* Chỉ tiêu thuốc nổ cho các lỗ khoan tạo biên:
Các lỗ khoan tạo biên có mục đích để bóc tách khối lượng đất đá tạo ra mặt
nhẵn. Do đó, chỉ tiêu thuốc nổ của các lỗ khoan tạo biên được hiểu là chi phí thuốc
nổ để tạo ra một đơn vị diện tích mặt tách:
, g/m2 (4.5)
Trong đó: - Tổng chi phí thuốc nổ, g; - Tổng diện tích mặt tách, m2.
147
Khi xác định chỉ tiêu tương ứng cho từng lỗ mìn có thể áp dụng công thức:
, g/m2 (4.6)
Trong đó: Q - Tổng chi phí thuốc nổ, g; a - Khoảng cách giữa các lỗ khoan tạo
biên, m; l - Chiều sâu lỗ khoan, m.
Khi xác định được qm hợp lý, thì lượng thuốc nổ trong lỗ khoan có thể được
tính theo công thức:
(4.7) Q = qm.a.l , g
Ví dụ, tính chi phí thuốc nổ cho một lỗ mìn có chiều sâu lỗ khoan 12 m, lỗ mìn
có đường kính 102 mm, đường kính thỏi thuốc 60 mm, nạp liên tục, thì khối lượng
nạp gần bằng 2,8 kg/m.
Với chiều cao cột bua lb= (2030) lần đường kính lỗ khoan.
lb = (2030).102 = 20403060 mm 23 m.
Trị số nhỏ áp dụng với đất đá cứng, trị số lớn áp dụng với đất đá mềm. Với
f=12 thì chiều cao cột bua là 2m.
Khoảng cách giữa lỗ khoan tạo biên với những lỗ khoan của bãi nổ b=3,5 m.
Chi phí thuốc nổ quy về 1 m3 đất đá khi nổ mìn tạo biên được tính như sau:
148
3. Giải pháp kỹ thuật ổn định bờ bãi thải bằng cách đổ thải theo lớp để đảm
bảo giảm thiểu sạt lở bãi thải
Với khối lượng đất đá đổ thải ngày càng lớn, diện tích các bãi thải ngày càng
mở rộng và chiếm nhiều diện tích, các bãi thải càng ngày càng cao, hiện tượng sụt
lún và mất an toàn xảy ra ngày càng nhiều,...
Thực hiện đổ thải theo lớp với một phương pháp xây dựng bãi thải mới cho
phép nâng cao các đặc tính của vật liệu bãi thải và độ ổn định trong nhiều lĩnh vực,
nhằm mục đích sử dụng phương án CTPHMT đa mục tiêu.
Thực hiện quy trình đổ thải theo lớp theo phương án đổ thải sau đã được thử
nghiệm tại bãi thải Chính bắc - Núi Béo (do Công ty VITE và Công ty Cổ phần
Than Núi Béo thực hiện), chi tiết xem tại Phụ lục 4.
Lịch trình đổ thải được thể hiện trong hình 4.34.
Đổ đường dốc, Tạo chiều rộng Phát triển tầng Hoàn tất tầng
chiều cao tầng tầng thải, chiều thải, chiều thải, quan trắc
thải 4 m rộng 30 m rộng > 30m dịch động
Bước1 Bước 3 Bước 4 Bước2
Hình 4.34: Lịch trình của các bước hình thành bãi thải đổ thải theo lớp
Cụ thể như sau:
Bước 1: Tạo đường dốc 4 m.
Bảng 4.3: Thông số đổ đường dốc 4 m
TT Thông số Đơn vị Giá trị
1 Thời gian đổ đường dốc 4 m Ngày 4
2 Khối lượng đất đá đổ đường dốc 4 m m3 8.155
3 Tỷ trọng đất đá vận chuyển đến bãi thải T/m3 1,81
4 Khối lượng cần san gạt (90%) m3 7.339
5 Số lượng máy ủi huy động Chiếc 1
149
Hình 4.35: Đổ đường dốc lớp 4 m
Bước 2: Tạo chiều rộng mặt tầng thải đổ lớp 4m đầu tiên.
Hình 4.36: Sơ đồ quay đảo chiều khi đổ lớp 4 m
Chiều rộng bãi quay xe nhỏ nhất hay chiều rộng diện đổ thải đầu tiên (Bqmin)
với loại ô tô CAT 773E và CAT 773F được xác định theo công thức:
(4.8) Bqmin = 2(Rô + 0,5bo) + l , m
Trong đó: Rô - Bán kính vòng nhỏ nhất của ô tô, Rô = 12 m; bo - Chiều rộng ô
tô, bo = 5,08 m; l - Chiều rộng đai an toàn, l = (0,30,4)h, h - Chiều cao tầng thải
đầu tiên, h = 2m. Vậy L = 0,6÷0,8 m.
Trên cơ sở các thông số của các phương tiện nêu trên, xác định được chiều
150
rộng tầng đổ thải đầu tiên là 30 m.
Để đảm bảo hệ thống thoát nước và yêu cầu kỹ thuật, an toàn của tuyến đường
theo quy định, độ dốc dọc mặt tầng đảm bảo thoát nước là i = 23%.
Bờ chắn an toàn cho thiết bị hoạt động có mặt cắt ngang hình tam giác.
- Chiều cao và chiều rộng bờ an toàn của bãi thải là các chỉ tiêu kỹ thuật an
toàn đặc biệt quan trọng trong công tác đổ thải đất đá bằng ô tô. Kích thước bờ an
toàn phụ thuộc vào chủng loại xe ô tô tham gia dỡ tải. Trường hợp có nhiều loại xe
ô tô cùng tham gia đổ thải ở một bãi thải thì kích thước bờ an toàn lấy theo loại xe
lớn nhất. Ở đây, trong phương án đổ thử nghiệm xác định độ nén, chỉ sử dụng một
loại ô tô có tải trọng 55 tấn CAT 773E hoặc CAT 773F.
Hình 4.37: Sơ đồ xác định bờ an toàn cho xe ô tô CAT 773E và CAT 773F
Công thức tính chiều cao bờ an toàn:
h ≥ 2/3 (4.9)
Trong đó: h - Chiều cao bờ an toàn, m; b - Chiều rộng đáy bờ an toàn, m; -
Đường kính bánh sau của xe ô tô, m.
Đối với xe ô tô CAT 773E và 773F có tải trọng 55 tấn, thì bờ an toàn có chiều
cao h= 1,3m và chiều rộng đáy bờ là b = 2,5 m.
Bước 3: Tiếp tục phát triển đổ thải theo chiều rộng từ tầng đổ thải đầu tiên.
Bước 4: Giám sát, quan trắc tầng thải đầu tiên (là nền tầng thải cho các tầng
tiếp theo).
151
Cần xác định tốc độ dịch chuyển, véc tơ dịch chuyển và hướng dịch chuyển
của tầng trong khu vực bãi thải nhằm kịp thời dự báo nguy cơ trượt lở có thể xảy ra
gây mất an toàn cho bãi thải và các công trình dân dụng và công nghiệp nằm trong
vùng ảnh hưởng đặc biệt là mùa mưa [07].
4.5. Kết luận chương
Tại vùng HG-CP, từ nay đến giữa thế kỷ XXI, các mỏ than KTLT lớn nhỏ ở
khu vực này sẽ lần lượt đóng cửa do hết tài nguyên hoặc do hoạt động không hiệu
quả, phải chuyển sang khai thác bằng phương pháp hầm lò và sẽ để lại một vùng
địa hình nham nhở với hố lớn nhỏ (khai trường cũ) sâu tới 350÷500m, những núi
đất (bãi thải) cao tới 250÷350m, tiềm ẩn nhiều nguy cơ sụt lún, xói lở, gây nguy
hiểm đến tính mạng người và gia súc, phá vỡ cảnh quan khu vực,… mà theo luật
định, các doanh nghiệp mỏ phải có trách nhiệm CTPHMT nhằm đưa môi trường và
hệ sinh thái về tình trạng ban đầu hoặc tương tự như trước khi khai thác mỏ, đồng
thời đảm bảo yêu cầu về BVMT và phục vụ cho các lợi ích khác của con người.
Hiện tại, đối với mỗi dự án đầu tư cho hoạt động khai thác mỏ, các đơn vị đều
phải lập đề án CTPHMT nhằm thực thi các quy định về việc ký quỹ CTPHMT đối
với hoạt động khai thác khoáng sản theo Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg (trước là
Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg) của Thủ tướng Chính phủ và theo hướng dẫn tại
Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT, ngày 31/12/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường. Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT đã có hướng dẫn cụ thể về phương pháp
lập các phương án CTPHMT và xác định số tiền ký quỹ môi trường, cũng như phải
lựa chọn được phương án CTPHMT theo chỉ số phục hồi đất của phương án. Tuy
nhiên trên thực tế, sau thời gian 5 năm thực hiện, các quy định phương án
CTPHMT còn nhiều bất cập cần được xem xét và hoàn thiện dần trong thời gian
tới.
Theo quy định hiện nay, việc lựa chọn phương án CTPHMT mới chỉ nhằm xác
lập khoản tiền ký quỹ CTPHMT trong quản lý hoạt động khai thác khoáng sản trên
quan điểm sao cho có thể đảm bảo bù đắp được các chi phí thực tế để CTPHMT.
Xu hướng chung hiện nay đối với việc CTPHMT tại các mỏ than KTLT chủ yếu là
152
cải tạo lại các moong khai thác, bãi thải hoặc lấp một số moong khai thác nhằm
triệt tiêu các sự cố môi trường; nâng cao tính bền vững của các công trình
CTPHMT; phục vụ cho công tác trồng cây (keo lá chàm, keo tai tượng) hay trồng
cỏ (cỏ lau le, hay cỏ ventiver) để phục hồi thảm thực vật. Do đó, chưa xác lập được
phương án CTPHMT phù hợp với sự phát triển KT-XH tại thời điểm kết thúc khai
thác để tiếp tục phát huy hiệu quả sử dụng đất sau khai thác mỏ lộ thiên.
Thực tế hiện nay, khu vực khai thác than lộ thiên vùng HG-CP là nơi kế cận và
tiếp giáp các vùng phát triển kinh tế trọng điểm. Như vậy, cần thiết phải biến đổi
các khu vực này thành các vùng vệ tinh làm động lực cho sự phát triển của các
vùng hạt nhân (vùng kinh tế phát triển). Như vậy, các khu vực CTPHMT tiếp tục là
nơi phụ cận của các vùng chức năng đặc trưng và là các vùng đất phát triển KT-
XH.
Việc thực hiện các giải pháp kỹ thuật CTPHMT nêu trên lồng ghép trong quá
trình hoạt động khai thác khoáng sản nói chung và CTPHMT của các mỏ than
KTLT nói riêng là cơ sở cho việc thực hiện CTPHMT mang lại hiệu quả CTPHMT
và phát triển kinh tế, đáp ứng được các mục tiêu chung về CTPHMT đối với các
hoạt động khai thác của các mỏ than KTLT.
153
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Trong những năm qua, vùng HG-CP là nơi cung cấp chính nguồn năng lượng hóa
thạch cứng cho nhu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu, nhưng đây cũng là điểm
nóng, mang nhiều dấu ấn nặng nề do hậu quả của hoạt động khai thác mỏ, mà trong đó
KTLT là chủ yếu, gây ra đối với môi trường ngay cả khi đóng cửa mỏ cũng sẽ để lại
một vùng địa mạo nham nhở với hố lớn nhỏ sâu tới 500 m, những núi bãi thải cao
tới 350 m, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây bụi, sạt lở, lũ bùn đá, nguy hiểm đến tính
mạng người và gia súc, phá vỡ cảnh quan khu vực,…
Theo luật định, mỗi dự án đầu tư cho hoạt động khai thác mỏ, các đơn vị đều
phải lập dự án CTPHMT nhằm thực thi các quy định về việc ký quỹ CTPHMT đối
với hoạt động khai thác khoáng sản theo Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg (nay là
18/2013/QĐ-TTg) của Thủ tướng Chính phủ.
Trên thực tế, sau 5 năm thực hiện, các quy định về vấn đề CTPHMT còn nhiều
bất cập đối với các mỏ than KTLT vùng HG-CP, là nơi kế cận và tiếp giáp các
vùng phát triển kinh tế trọng điểm, lưu vực của vịnh Hạ Long và Bái Tử Long cần
bảo vệ nghiêm ngặt.
Để giải quyết vấn đề bất cập nêu trên, luận án đã nghiên cứu các giải pháp
quản lý - kỹ thuật tổng thể nhằm phục vụ công tác CTPHMT cho các mỏ than
KTLT vùng HG-CP với các nội dung sau đã được thực hiện:
1. Đã phân tích đặc điểm KT-XH đặc trưng của khu vực nghiên cứu; phân tích
hiện trạng công tác CTPHMT trên thế giới và ở Việt Nam; đánh giá hiện trạng
công tác CTPHMT tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP.
2. Đã nghiên cứu đề xuất các giải pháp quản lý CTPHMT cho mỗi một mỏ cụ
thể trong tổng thể nhiều mỏ than KTLT trong vùng.
154
3. Đã nghiên cứu xác định các giải pháp kỹ thuật CTPHMT (cho mỗi một dạng
đặc trưng trong các dạng mỏ than KTLT kết thúc khai thác) lồng ghép trong ngay
quá trình khai thác mỏ nhằm tăng cường sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí ký quỹ.
Cụ thể như sau:
a. Các giải pháp quản lý:
- Đã đề xuất các giải pháp quản lý hành chính; các giải pháp quản lý kỹ thuật;
giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng khu vực CTPHMT:
- Đã xây dựng hệ số điều chỉnh kinh phí ký quỹ CTPHMT theo vị trí khai thác;
- Đã xây dựng tiêu chí đánh giá kết quả CTPHMT;
- Đã đề xuất biện pháp quản lý CTPHMT theo phân vùng chức năng;
- Đã đề xuất công cụ ĐMT;
- Đã đề xuất định hướng phân vùng chức năng CTPHMT để thực hiện
CTPHMT lồng ghép trong quá trình khai thác và sau KTLT tại vùng HG.
b. Các giải pháp kỹ thuật:
- Đã đề xuất phương án CTPHMT đối với khai trường;
- Đã đề xuất phương án CTPHMT đối với bãi thải đất đá;
- Đã đề xuất phương án CTPHMT cải tạo phục hồi thảm thực vật;
- Đã đề xuất các giải pháp kỹ thuật cho mỗi mỏ than lộ thiên: đổ thải trên một
số địa hình đặc trưng;
- Đã đề xuất giải pháp kỹ thuật thực hiện vào giai đoạn kết thúc khai thác để
giảm thiểu nguy cơ tai biến sạt lở đất và nguy cơ lũ bùn đá tại vùng khai
thác than lộ thiên;
- Đã đề xuất giải pháp kỹ thuật cải tạo hình dáng mỏ khi kết thúc khai thác
trong tổng thể nhiều mỏ liền kề.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế trên diện tích hẹp ven biển của vùng HG-CP,
bên cạnh Vịnh Hạ Long - Di sản thiên nhiên Thế giới, Vườn Quốc gia Bái Tử Long
trong Vịnh Bái Tử Long thì các công tác quản lý kỹ thuật CTPHMT theo hướng đa
mục tiêu (theo lợi thế của vùng), theo định hướng phân vùng chức năng sử dụng đất
trên cơ sở ĐMT và các giải pháp kỹ thuật lồng ghép trong quá trình khai thác mỏ sẽ
155
là công cụ hữu hiệu hỗ trợ cho công tác CTPHMT tại các mỏ than KTLT vùng HG-
CP đạt được mục tiêu như các nước tiên tiến trong khu vực - là vùng phụ cận,
vùng đệm, vùng cách ly hoạt động khai thác mỏ để bảo vệ và phát huy giá trị của
các cảnh quan thiên nhiên của đất nước và của thế giới.
2. KIẾN NGHỊ
Từ những kết luận về những việc đã làm được, NCS đề xuất hướng nghiên cứu
tiếp theo là: Nghiên cứu xác lập các vùng chức năng CTPHMT nhằm phục vụ cho
công tác CTPHMT của các mỏ khai thác khoáng sản than tại vùng Uông Bí và
Đông Triều - Quảng Ninh.
156
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Đặng Thị Hải Yến (2013), Cải tạo phục hồi môi trường theo hướng đa mục
tiêu trong hoạt động khai thác than lộ thiên vùng Hạ Long - Cẩm Phả tỉnh
Quảng Ninh, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 5/2013, tr. 56-60.
2. Đặng Thị Hải Yến (2013), Quản lý cải tạo môi trường trong khai thác mỏ lộ
thiên tại vùng Hạ Long - Cẩm Phả, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 1/2013, tr. 43-46.
3. Đỗ Ngọc Hoàn, Vũ Đình Hiếu, Nguyễn Hoàng, Đặng Thị Hải Yến (2012),
Tính toán mô phỏng phát tán bụi do hoạt động nổ mìn khai thác apatit Gia
Phú, Lào Cai, Tuyển tập báo cáo Hội nghị khoa học kỹ thuật mỏ toàn quốc lần
thứ 23, Hội Khoa học Công nghệ mỏ Việt Nam, tr. 448-453.
4. Đặng Thị Hải Yến, Nguyễn Phương Thanh (2012), Đánh giá môi trường tổng
hợp khu vực trọng điểm có hoạt động khai thác than tại Quảng Ninh, Tạp chí lý
luận, khoa học và nghiệp vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường, số 18 - (152)
2012, tr. 33-34.
5. Đỗ Ngọc Hoàn, Nguyễn Hoàng, Đặng Thị Hải Yến (2012). Tính toán sự phát
tán bụi do hoạt động vận tải bằng ô tô tại các mỏ than khai thác lộ thiên lớn
khu vực Cẩm Phả tới khu dân cư. Báo cáo Hội nghị khoa học lần thứ 20,
Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Hà Nội, tr. 142.
6. Đặng Thị Hải Yến, Nguyễn Văn Cường (2011), Công tác cải tạo và phục hồi
môi trường tại Quảng Ninh, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 3/2012, tr. 43-45.
7. Đặng Thị Hải Yến, Ngô Thành Tâm (2010), Đánh giá môi trường tổng hợp –
giải pháp hạn chế ô nhiễm môi trường ở các cụm dân cư Quảng Ninh, Tạp chí
Công nghiệp Mỏ, số 5/2010, tr. 28-30.
8. Đặng Thị Hải Yến (2010), Cơ hội tiếp cận sản xuất sạch hơn trong hoạt động
khai thác mỏ ở Việt Nam, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 01/2010, tr. 34-35.
9. Đặng Thị Hải Yến (2010), Tìm kiếm các giải pháp kỹ thuật sản xuất sạch hơn
trong hoạt động khai thác lộ thiên Quảng Ninh, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số
02/2010, tr. 35-36.
157
10. Đặng Thị Hải Yến (2008), Về tác động môi trường của việc đổ thải đất đá
trong hoạt động khai thác than Quảng Ninh tới môi trường, Tạp chí Công
nghiệp Mỏ, số 2/2008, tr. 24-26.
11. Đặng Thị Hải Yến (2008), Công tác quản lý Nhà nước trong hoạt động khoáng
sản tỉnh Quảng Ninh, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 7, tr. 39-41.
12. Nguyễn Cao Huần, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2012), Báo cáo đánh giá môi
trường chiến lược Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ninh đến
năm 2030. Đề tài được Bộ Tài nguyên Môi trường phê duyệt, Sở TNMT Quảng
Ninh thực hiện.
13. Hoàng Danh Sơn, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2012), Điều tra hiện trạng tài
nguyên môi trường biển và hải đảo tỉnh Quảng Ninh. Đề tài được UBND tỉnh
Quảng Ninh phê duyệt và Sở TNMT Quảng Ninh thực hiện.
14. Đặng Thị Hải Yến - thành viên Nhóm đối tác (2011-1013), Dự án hợp tác kỹ
thuật “Bảo vệ môi trường vịnh Hạ Long, Dự án được thực hiện giữa cơ quan
hợp tác Quốc tế Nhật Bản và UBND tỉnh Quảng Ninh.
15. Nguyễn Cao Huần, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2009), Quy hoạch Bảo vệ môi
trường các vùng trọng điểm Yên Hưng, Hạ Long, Cẩm Phả tỉnh Quảng Ninh
đến năm 2020. Đề án được UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt và Sở TNMT
Quảng Ninh thực hiện.
16. Hoàng Danh Sơn, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2007), Một số giải pháp nâng
cao năng lực quản lý TNMT trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020. Đề
án được UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt và Sở TNMT Quảng Ninh thực
hiện.
17. Hoàng Danh Sơn, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2004), Đánh giá các nguồn gây
ô nhiễm nghiêm trọng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và đề xuất giải pháp quản
lý, Đề án được UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt và Sở TNMT Quảng Ninh
158
thực hiện.
18. Đặng Thị Hải Yến và nnk (2002), Báo cáo nghiên cứu khả thi vỉa G vỉa Dày
khai trường Tây Khe Sim - Xí nghiệp Khe Sim - Công ty Đông Bắc, Đề tài được
Hội đồng quản trị Tổng Công ty than Việt Nam phê duyệt.
19. Thi Hai Yen Dang (2000), Étude préliminaire des impacts environnementaux
de la mine de charbon à ciel ouvert de Hà Tu (Vietnam), Diplôme de Formation
spécialisée en Exploitations à ciel ouvert - mines et carrères (Secrétariat d'état à
l'Industrie, Directeur de l'école Nationale Supérieure des Mines de Pasis a signé
et apposé le cachet).
159
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt
1. Lê Đức An, Lê Thạc Cán, Luc Hens, Nguyễn Ngọc Sinh (2008), Sổ tay hướng
dẫn đánh giá tác động môi trường chung cho các dự án phát triển, Đề án xây
dựng năng lục quản lý môi trường ở Việt Nam do Uỷ ban Châu Âu tài trợ.
2. Nguyễn Tác An, Tổng Phước Hoàng Sơn (2004), Sử dụng thông tin địa lý GIS
trong quản lý tổng hợp vùng ven bờ. Nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh, Trường Đại Học Khoa học tự nhiên.
3. Nhữ Văn Bách (2008), ”Nâng cao hiệu quả phá vỡ đất đá bằng nổ mìn trong
khai thác mỏ”. Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội.
4. Bộ Công Thương (2010), Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược của Quy
hoạch phát triển ngành Than Việt Nam đến năm 2020 có xét đến 2030.
5. Trần Ngọc Chấn (2005), “Ô nhiễm không khí và xử lý khí thải”, Nhà xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật.
6. Công ty Cổ phần tin học công nghệ và Môi trường (2011), Báo cáo Đánh giá tác
động môi trường Dự án Đầu tư xây dựng công trình mỏ than Cọc Sáu -
Vinacomin kèm theo Dự án cải tạo phục hồi môi trường.
7. Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường (2011), Phương án đổ thải
thử nghiệm theo lớp tại bãi thải Chính Bắc - Núi Béo.
8. Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường (2011-2012), Báo cáo dự
án CTPHMT mở rộng khai thác lộ thiên mỏ than Núi Béo.
9. Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường (2012), Báo cáo Đánh giá
tác động môi trường Dự án nâng công suất mỏ than Núi Béo kèm theo Dự án
cải tạo phục hồi môi trường.
10. Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường (2012), Dự án cải tạo phục
hồi môi trường dự án đầu tư xây dựng cải tạo mở rộng mỏ Đèo Nai.
11. Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường (2012), Dự án cải tạo phục
hồi môi trường của Dự án cải tạo và mở rộng sản xuất kinh doanh Công ty than
Cao Sơn.
160
12. Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường (2012), Đề án bảo vệ môi
trường vùng than Quảng Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
13. Công ty TNHH MTV Khe Sim (2012), Báo cáo quá trình chăm sóc, theo dõi và
đánh giá mô hình cây nhiên liệu trên đất suy thoái thực hiện từ tháng 6/2011
đến tháng 1/2012.
14. Công ty Tư vấn đầu tư Mỏ và Công nghiệp (2012), Dự thảo Quy hoạch phát
triển ngành Than Việt Nam tới 2020 có xét triển vọng đến năm 2030, Hà Nội.
15. Công ty Tư vấn đầu tư Mỏ và Công nghiệp (2006), Quy hoạch phát triển ngành
Than Việt Nam giai đoạn 2006-2015 có xét triển vọng đến năm 2025.
16. Công ty Tư vấn đầu tư Mỏ và Công nghiệp (2013), Báo cáo đánh giá tác động
môi trường kèm theo Đề án cải tạo phục hồi môi trường của Dự án cải tạo và
mở rộng sản xuất kinh doanh công ty than Cao Sơn (Điều chỉnh).
17. Công ty Tư vấn triển khai Công nghệ và Xây dựng mỏ địa chất (2007), Báo cáo
Đánh giá tác động môi trường Dự án cải tạo và mở rộng sản xuất kinh doanh
Công ty than Cao Sơn kèm theo Dự án cải tạo phục hồi môi trường.
18. Cục kiểm soát ô nhiễm môi trường - Tổng Cục Môi trường (2010), Xây dựng
bộ tiêu chí khoanh vùng kiểm soát ô nhiễm môi trường đất.
19. Cục kiểm soát ô nhiễm môi trường - Tổng Cục Môi trường (2010), Xây dựng
bộ tiêu chí khoanh vùng kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
20. Cục kiểm soát ô nhiễm môi trường - Tổng Cục Môi trường (2010), Xây dựng
bộ tiêu chí khoanh vùng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước.
21. Trần Minh Đản (2010), ”Ổn định bờ mỏ trong khai thác lộ thiên”, Trường Đại
học Mỏ - Địa chất, Hà Nội.
22. Đánh giá tác động luỹ tích (2010), Chương trình đào tạo môi trường - Uỷ viên
Hội sông Mê Kông.
23. Hoàng Việt Dũng (2012), Đánh giá ô nhiễm môi trường trong khai thác lộ thiên
trên địa bàn thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh và xây dựng các giải pháp giảm
thiểu ô nhiễm, Luận văn thạc sỹ kỹ thuật, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
161
24. Hồ Sĩ Giao, Bùi Xuân Nam, Mai Thế Toản (2010), “Bảo vệ môi trường trong
khai thác mỏ than khai thác mỏ lộ thiên”, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa.
25. Hồ Sĩ Giao, Bùi Xuân Nam, Nguyễn Anh Tuấn (2009), “Khai thác khoáng sản
rắn bằng phương pháp lộ thiên”, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
26. Hồ Sĩ Giao, Bùi Xuân Nam, Nguyễn Phụ Vụ (2010), “Bảo vệ môi trường và
phát triển bền vững trong khai thác mỏ lộ thiên”, Bài giảng cao học ngành Khai
thác mỏ.
27. Hồ Sĩ Giao, Đàm Trọng Thắng, Lê Văn Quyển, Hoàng Tuấn Chung (2010),
“Nổ hoá học - lý thuyết và thực tiễn”, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
28. Lưu văn Hiển (2013), Nghiên cứu các giải pháp nâng cao độ ổn định bờ mỏ cho
một số mỏ khai thác đá ở khu vực phía Nam, Luận văn thạc sỹ Kỹ thuật,
Trường Đại học Mỏ - Địa chất.
29. Nguyễn Hiền (2005), Phân tích hệ thống trong địa lý quy hoạch và tổ chức lãnh
thổ, Bài giảng Trường Đại học Khoa học tự nhiên Hà Nội.
30. Phạm Ngọc Hồ, Đoàn Xuân Cơ (2000), “Đánh giá tác động môi trường”, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
31. Nguyễn Cao Huần, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2009), Quy hoạch Bảo vệ môi
trường tổng thể và một số vùng trọng điểm tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020. Đề
án được UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt và Sở TNMT Quảng Ninh thực
hiện.
32. Nguyễn Cao Huần, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2013), Báo cáo đánh giá môi
trường chiến lược Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ninh đến năm
2030. Đề tài được Bộ Tài nguyên Môi trường phê duyệt, Sở TNMT Quảng Ninh
thực hiện.
33. Bùi Xuân Nam (2007). Những bài học kinh nghiệm từ công tác hoàn phục môi
trường sau khai thác mỏ lộ thiên tại CHLB Đức. Tuyển tập báo cáo Hội nghị
KHKT mỏ toàn quốc lần thứ 18. Hội Khoa học và công nghệ mỏ Việt Nam.
Sapa - Việt Nam. Tr. 453-457.
162
34. Sở TNMT tỉnh Quảng Ninh (2013), Dự thảo Quy hoạch môi trường tỉnh Quảng
Ninh.
35. Sở TNMT tỉnh Quảng Ninh (2013), Quy hoạch sử dụng đất tỉnh Quảng Ninh
đến năm 2020.
36. Sở xây dựng tỉnh Quảng Ninh (2103), Dự thảo quy hoạch xây dựng vùng tỉnh
đến năm 2030. Tầm nhìn đến năm 2050 và ngoài 2050.
37. Hoàng Danh Sơn (2006), “Nghiên cứu xác lập cơ sở địa lý cho việc sử dụng
hợp lý lưu vực vịnh Cửa Lục thành phố Hạ Long - tỉnh Quảng Ninh”, Luận án
Tiến sỹ địa lý, Trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội.
38. Nguyễn Thám (2006), Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu địa lý tự
nhiên, Đại học Huế.
39. Vũ Quyết Thắng (2012), “Quy hoạch môi trường”. Nhà xuất bản Đại học quốc
gia Hà Nội.
40. Hoàng Đức Triêm (2003), Cảnh quan địa lý ứng dụng. Bài giảng cho học viên
cao học chuyên ngành địa lý tự nhiên, Đại học Huế.
41. Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm khai thác mỏ (2012), Dự án cải tạo và phục
hồi môi trường của các dự án đầu tư mở rộng khai thác mỏ than Hà Tu.
42. Trung tâm Quan trắc và phân tích môi trường Quảng Ninh (2009), Báo cáo
đánh giá tác động môi trưởng dự án đầu tư xây dựng cải tạo mở rộng mỏ Đèo
Nai.
43. Viện Khoa học công nghệ Mỏ và Luyện kim (2004), Báo cáo tổng kết đề tài
“Điều tra khảo sát hiện trạng và nhu cầu hoàn thổ phục hồi môi trường của các
mỏ khai thác khoáng sản kim loại ở Việt Nam”.
44. Viện Khoa học công nghệ Mỏ và Luyện kim (2009), Dự án “Xây dựng quy
trình hoàn thổ phục hồi môi trường các vùng khai thác các loại hình khoáng sản
và hỗ trợ hoàn thổ phục hồi môi trường cho một số đơn vị khai thác khoáng
sản” và Nhiệm vụ “Xây dựng mô hình ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm và hoàn
thổ phục hồi môi trường trong khai thác, chế biến sa khoáng ven biển”.
163
45. Trần Mạnh Xuân (2003), ”Ổn định bờ mỏ, tầng và bãi thải mỏ than khai thác lộ
thiên”, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Hà Nội.
46. Đặng Thị Hải Yến (2008), Công tác quản lý Nhà nước trong hoạt động khoáng
sản tỉnh Quảng Ninh, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 7, tr. 39-41.
47. Đặng Thị Hải Yến (2013), Quản lý cải tạo môi trường trong khai thác mỏ lộ
thiên tại vùng Hạ Long - Cẩm Phả, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 1/2013, tr. 43-
46.
48. Đặng Thị Hải Yến (2013), Cải tạo phục hồi môi trường theo hướng đa mục tiêu
trong hoạt động khai thác than lộ thiên vùng Hạ Long - Cẩm Phả tỉnh Quảng
Ninh, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 5/2013, tr. 56-60.
49. Đặng Thị Hải Yến, Ngô Thành Tâm (2010), Đánh giá môi trường tổng hợp -
giải pháp hạn chế ô nhiễm môi trường ở các cụm dân cư Quảng Ninh, Tạp chí
Công nghiệp Mỏ, số 5/2010, tr. 28-30.
50. Đặng Thị Hải Yến, Nguyễn Phương Thanh (2012), Đánh giá môi trường tổng
hợp khu vực trọng điểm có hoạt động khai thác than tại Quảng Ninh, Tạp chí lý
luận, khoa học và nghiệp vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường, số 18(152)
2012, tr. 33-34.
Tiếng Anh
51. Department of Industry, Tourism and Resources (2006), Mine rehabilitation.
Australian Government.
52. Federal Department of Town and Country Planning, Peninsular Malaysia (2010)
53. www. kpc.co.id/pdf/SR2010FinalEng.pdf.
54. www.quangninh.gov.vn
Tiếng Pháp
55. J.A.Flerisson, R.Cojean (2000), Stablite des pente et mouvements de versants.
164
PHỤ LỤC
1
PHỤ LỤC 1
PHÂN TÍCH LỰA CHỌN CÁC ĐỊNH HƯỚNG VÙNG CẢI TẠO
VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG ĐA CHỨC NĂNG
1.1. Định lượng cho các tiêu chí phân vùng CTPHMT:
1.1.1. Quy ước tầm quan trọng cho mỗi tiêu chí
Để thuận tiện và tạo được tính logic cho việc đánh giá, trong trường hợp này
sử dụng việc đánh giá định tính theo thang điểm gắn cho mỗi tiểu vùng để đánh giá
phân vùng. Ở đây các tiêu chí chính đều được bao gồm nhiều tiêu chí nhỏ, và mỗi
tiêu chí nhỏ đó sẽ được phân loại mức độ phù hợp bằng hệ số phù hợp theo thang
điểm như sau: Rất phù hợp: 5 điểm; Phù hợp: 3 điểm; Ít phù hợp: 2 điểm; Không
phù hợp: 0 điểm
Việc đưa ra hệ số phù hợp này sẽ giúp cho việc đánh giá theo tiêu chí có ý
nghĩa hơn. Từ tầm quan trọng của mỗi tiêu chí sẽ thể hiện được tiêu chí nào ảnh
hưởng lớn đến kết quả đánh giá. Từ kết quả đánh giá với tầm quan trọng đó thì
vùng CTPHMT cũng sẽ nhận được kết quả để xem xét bố trí, tổng hợp vào vùng.
Hơn nữa, nhờ vào các hệ số phù hợp mà cũng tránh được việc đánh giá các vùng
không phù hợp, đáp ứng với các tiêu chí cần thiết.
Các tiêu chí rất quan trọng và quan trọng là các tiêu chí ảnh hưởng rất lớn đến
kết quả đánh giá, từ đó thấy được tính cấp thiết phải khắc phục CTPHMT đáp ứng
các tiêu chí đó. Các tiêu chí ít quan trọng và đặc biệt là tiêu chí không quan trọng sẽ
ít ảnh hưởng hơn, việc thiếu tiêu chí không quan trọng cũng không gây thay đổi
nhiều lắm đối với điểm đánh giá cho việc phân vùng.
Do đây là phương pháp đánh giá bằng cách lượng hóa nên tiểu vùng có số
điểm tương đương thì được sát nhập lại như vậy thì được hiểu là vùng có mức độ
tương đồng theo các tiêu chí đánh giá.
1.1.2. Định lượng cho các tiêu chí phân vùng CTPHMT
Tiêu chí 1: Đánh giá về tính thống nhất và sự phù hợp với hệ sinh thái vùng.
Hiện nay, trong điều kiện hệ sinh thái không còn đa dạng, khu vực lân cận hầu
như không còn phong phú, hạn chế đa dạng về giống loài; việc đầu tư tài chính cho
2
công tác bảo vệ đa dạng sinh học có mức độ; do đó việc đánh giá, phân vùng theo
tiêu chí này cho các kết quả khách quan và chính xác là khó khăn. Tuy nhiên, việc
đánh giá sự phù hợp với hệ sinh thái hiện trạng vẫn là được xem xét, áp dụng và là
một trong những phương pháp đánh giá mà NCS lựa chọn. Qua các hiện trạng hệ
sinh thái, có thể đánh giá phần nào sự phù hợp của chúng.
Thực tế, việc phục hồi môi trường có thiên hướng phục hồi môi trường sinh
thái và đã được triển khai ở một số vùng mỏ. Ngoài ra, vấn đề hệ sinh thái tại vùng
lân cận cũng hỗ trợ cho việc đánh giá. Công tác đánh giá phần nào đã đạt được kết
quả nhưng vẫn còn nhiều hạn chế về dữ liệu đối với các chủng loài động thực vật
và số lượng của chúng; tiêu chí đánh giá theo hệ sinh thái vẫn là tiêu chí hàng đầu,
đảm bảo được tính phục hồi môi trường cho khu vực KTLT của các doanh nghiệp
mỏ, hơn nữa việc CTPHMT theo hướng này cũng thuận lợi cho việc đánh giá và
vẫn đảm bảo được tính thuyết phục của chương trình CTPHMT.
Tiêu chí hệ sinh thái là tiêu chí đánh giá đơn giản nhất mà lại rõ ràng và dễ
thuyết phục các doanh nghiệp thực hiện nhất.
Về mặt đa dạng sinh học, có rất nhiều loài sống rất đa dạng trước khi khai
thác, nay cần được doanh nghiệp thực hiện. Tuy nhiên, đây chỉ là tiêu chí xác định
và đánh giá sơ bộ, bước đầu sàng lọc, nên cần thiết phải đánh giá qua các yếu tố
sau:
- Một khu vực chỉ cần có một loài hoặc hai loài,… Cần thiết CTPHMT để lập
được hệ sinh thái đặc trưng, đồng thời có trách nhiệm duy trì và phát triển. Mặc dù,
có thể xác định được hệ sinh thái cần phục hồi và khả năng phục hồi để khắc phục
các hậu quả xấu mà khi kết thúc KTLT vẫn có thể gây ra, tuy nhiên chỉ tiêu này
cũng mang tính dự đoán chứ chưa mang tính thực tiễn cao. Do đó, tiêu chí này ít
quan trọng: 3 điểm. Khu vực lân cận liên quan có hiện trạng hệ sinh thái tự nhiên
đa dạng, phong phú: 5 điểm. Khu vực lân cận liên quan có hiện trạng hệ sinh thái tự
nhiên kém đa dạng (lấy mốc so sánh tính điểm là mức độ hệ sinh thái của khu vực
nghiên cứu), phong phú hơn: 5 điểm. Khu vực lân cận liên quan có hệ sinh thái
nhân tác: 0 điểm.
3
- Cần xem xét các loại canh tác như ruộng lúa, hoa mầu ở địa hình thấp; ruộng
lúa, hoa mầu địa hình cao; cây lâu năm; cây công nghiệp; mật độ cá thể; thời gian
tồn tại; nguồn thức ăn; nguồn dinh dưỡng của đất; nơi sinh sản; môi trường sống
cho một loài,…
- Cần xem sét sự phù hợp với: địa hình (bằng phẳng, dốc thoải, dốc đứng), địa
mạo, địa chất; cảnh quan vùng; hệ sinh thái đa dạng; hệ sinh thái nhân tác.
Tiêu chí 2: Đánh giá về sự phù hợp với điều kiện KT-XH vùng.
Tiêu chí này đánh giá xem khu vực đó được bố trí ở vùng giáp ranh và lân cận
vùng liên quan có mức độ nhạy cảm thế nào; có tình hình phát triển kinh tế ra sao;
việc CTPHMT có thiết thực, có tương thích và hỗ trợ cho sự phát triển tương lai,
do đó việc phân vùng CTPHMT phải mang tính khả thi trên cơ sở phân tích, đánh
giá nguồn và khả năng thực hiện; tính phù hợp và tương thích với các biến động về
KT-XH-MT.
Tiêu chí 3: Đánh giá về sự phù hợp với quy hoạch vùng và quy hoạch phát
triển ngành.
Vùng mỏ than KTLT khi kết thúc sẽ để lại treen vùng đá gốc nhiều dạng địa
hình khác nhau, nhưng vẫn là vùng sẽ được quy hoạch để sử dụng quỹ đất để phù
hợp với quy hoạch vùng lân cận và hoà nhập với vùng đó, đồng thời cũng phải
tương đồng về quy hoạch phát triển và định hướng trong tương lai. Trong vùng
này, có thể có các quy hoạch phát triển các ngành như: du lịch, nuôi trồng thuỷ sản,
công nghiệp,… Do đó, từ tiêu chí này sẽ xem xét được vùng CTPHMT phù hợp với
quy hoạch phát triển vùng và ngành liên quan (quy hoạch phát triển ngành, quy
hoạch thoát nước, quy hoạch đổ thải, quy hoạch giao thông,…). Do đó, nếu vùng
CTPHMT phù hợp với quy hoạch phát triển vùng và ngành liên quan, thì việc phát
triển trong tương lai là phù hợp và khả thi. Do đó, tiêu chí này rất quan trọng tương
ứng 10 điểm. Mức độ phù hợp cao với quy hoạch khu vực lân cận liên quan: 5
điểm; mức phù hợp trung bình với quy hoạch khu vực lân cận liên quan: 3 điểm;
mức phù hợp trung bình thấp với quy hoạch khu vực lân cận liên quan: <2 điểm;
không phù hợp với quy hoạch khu vực lân cận liên quan: 0 điểm.
4
Tiêu chí 4: Đánh giá thông qua kết quả tham khảo ý kiến của các chuyên gia
về kinh tế, môi trường và của các mỏ.
Đây là tiêu chí quan trọng, luôn có trong quá trình đánh giá để phân vùng
CTPHMT phù hợp với cộng đồng và phục vụ cho cộng đồng. Tuy nhiên, tiêu chí
này có tính khách quan không cao, nhưng lại là tiêu chí được đánh giá quan trọng
nhất vì nó mang tính xác thực cao. Đây là một tiêu chí đánh giá cần thiết.
Vùng được các chuyên gia chấp nhận với tỷ lệ 80÷100%: 5 điểm; vùng được
các chuyên gia chấp nhận với tỷ lệ 40÷70%: 3÷4 điểm; vùng được các chuyên gia
chấp nhận với tỷ lệ 10÷30%: 2 điểm; vùng được các chuyên gia chấp nhận với tỷ lệ
0÷10%: 0 điểm.
Đây là một tiêu chí quan trọng, thể hiện rõ mục đích, đó là các công cụ kinh tế
được các cơ quan chức năng sử dụng nhằm tác động tới vùng CTPHMT mang lại
hiệu quả kinh tế mà vẫn có lợi cho môi trường, góp phần làm cho công tác BVMT
có hiệu quả hơn, gia tăng nguồn thu nhập phục vụ cho công tác BVMT và cho ngân
sách Nhà nước. Vì thế, quy ước đây là tiêu chí quan trọng: 2 điểm.
Vì vậy, việc rà soát ý kiến và dư luận của người dân xung quanh cơ sở sản xuất
cũng là một tiêu chí xác thực để đánh giá sự phù hợp của vùng CTPHMT. Tiêu chí
này mang tính khách quan cao và có tính quần chúng cao. Hơn nữa, việc xem xét
các ý kiến của quần chúng cũng giúp cho việc đánh giá toàn diện hơn.
Đội ngũ các chuyên gia bao gồm: chuyên gia kinh tế, chuyên gia ngành du
lịch, chuyên gia ngành cảng biển, chuyên gia ngành phát triển đô thị, chuyên gia
các mỏ.
Tiêu chí 5: Đánh giá theo hệ số vùng.
Vùng CTPHMT phân bố ở khu vực nào cũng có liên quan và ảnh hưởng đến
môi trường xung quanh của khu vực đó. Nếu là khu vực nhạy cảm (tức có nhiều giá
trị khác về du lịch hay là di sản thiên nhiên hoặc là khu đô thị đặc biệt, đông
dân,...), thì mức độ sử dụng đất sẽ được đánh giá gắt gao hơn so với các khu vực
không nhạy cảm.
5
Do đó, việc đánh giá theo hệ số vùng cũng không kém phần quan trọng. Vùng
CTPHMT ở các khu vực nhạy cảm sẽ càng được quan tâm nhiều hơn vì các khu
vực này có nhiều mục đích sử dụng đất mang lại hiệu quả so với các khu vực kém
nhạy cảm hơn.
Khi đánh giá về vị trí vùng CTPHMT, cần xem xét đánh giá điểm theo các tiêu
chí điều chỉnh theo hệ số điều chỉnh theo vùng (Kd).
Tiêu chí 6: Hiệu quả về kinh tế.
Hệ số Ki quy ước điểm được trình bày như trong mục 3.5.1 (Bảng 3.2). Đây
cũng là cơ sở hoàn thiện các văn bản pháp lý liên quan về hướng dẫn thực hiện
Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg, ngày 29/3/2013 của Thủ Tướng Chính phủ.
Việc lựa chọn mô hình kinh tế để CTPHMT mang lại hiệu quả kinh tế phù hợp
với điều kiện cụ thể của các mỏ than KTLT vùng HG-CP sẽ giúp cho việc xử lý
môi trường, CTPHMT đạt hiệu quả cao, giảm được chi phí cho CTPHMT,… Các
mô hình CTPHMT được lựa chọn để phát triển kinh tế, đồng thời đạt mục tiêu
BVMT phải phù hợp với đặc điểm tự nhiên (địa hình, địa chất thủy văn, khí
hậu,…) và các điều kiện KT-XH (mức sống của người dân, mức đầu tư của các
doanh nghiệp, phải phù hợp với giao thông, cung cấp điện, khu dân cư, nguồn lao
động,…) của địa phương (phù hợp với trình độ người lao động; khả năng đầu tư,
quản lý; khả năng áp dụng duy trì và phát triển bền vững,…).
1.2. Lựa chọn và xác định các định hướng vùng CTPHMT đa chức năng
Việc lựa chọn và xác định các định hướng vùng CTPHMT đa chức năng dự
kiến (bao gồm cả các tiểu vùng) được thực hiện theo phạm vi, diện tích; ranh giới;
tọa độ; đường bờ sông suối hoặc theo địa giới hành chính và điều kiện phát triển
KT-XH lân cận và vùng ưu tiên đã được xác định.
Với mục tiêu định hướng vùng CTPHMT, phân vùng CTPHMT dự kiến, nhằm
phục vụ, định hướng công tác lập dự án CTPHMT đảm bảo các nội dung sau:
(1). Giảm thiểu tối đa các ảnh hưởng xấu của hoạt động khai thác than lộ thiên
ngay cả khi đã dừng khai thác để không tiếp tục gây ô nhiễm môi trường.
6
(2). CTPHMT mỗi một mỏ khai thác than lộ thiên riêng biệt nhưng vẫn phải
phù hợp và thống nhất trong cụm mỏ.
(3). Đảm bảo phù hợp với điều kiện tự nhiên, phát triển KT-XH-MT vùng phụ
cận (phù hợp với các dự án phát triển đã và đang thực hiện; thống nhất với các khu,
cụm công nghiệp, các đô thị và khu vực tập trung dân cư lận cận vùng CTPHMT).
(4). Giữ gìn hiện trạng sử dụng đất được xem là hợp lý hoặc một số thực trạng
không thể thay đổi được nữa (các khu vực đã cải tạo, phục hồi môi trường tính đến
thời điểm hiện nay).
(5) Tăng cường hiệu quả sử dụng đất và mang lại việc làm cho người lao động
(khi mỏ dừng khai thác) nhằm tiếp tục phát triển kinh tế địa phương.
(6). Tăng quỹ đất phục vụ mục đích phát triển kinh tế
(7). Vốn đầu tư hợp lý, phù hợp với khả năng kinh tế của chủ đầu tư.
Xác định định hướng phân vùng CTPHMT theo các nguyên tắc sau:
(1). Tương đối đồng nhất về đặc điểm tự nhiên, KT-XH vùng lân cận và phụ
cận.
(2). Tương đối đồng nhất về các vấn đề môi trường cần giải quyết sau khi kết
thúc khai thác than lộ thiên.
(3). Có vị trí địa lý thuộc cùng một lưu vực sông, suối, vịnh.
1.3. Phân tích, đánh giá khái quát đặc điểm tự nhiên và KT-XH vùng phụ
cận các mỏ than KTLT để dự báo định hướng phân vùng CTPHMT
1.3.1. Phân tích kế hoạch phát triển KT-XH thành phố Hạ Long đến năm
2015 định hướng đến năm 2020
- Phát triển KT-XH thành phố Hạ Long đặt trong mối quan hệ tương tác chặt
chẽ và định hướng chung của tỉnh Quảng Ninh và cả vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ. Đồng thời, đặt trong mối quan hệ với các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và các
khu kinh tế đối ngoại, cảng biển và ven biển tới Móng Cái và biên giới Trung
Quốc, tạo điều kiện phát triển nhanh và hiện đại hoá nền kinh tế thành phố.
- Dựa vào tiềm năng của thành phố Hạ Long, cần phát triển mạnh các ngành có
lợi thế như: công nghiệp, du lịch, dịch vụ thương mại, cảng và vận tải biển,...
7
hướng tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng nền kinh tế với cơ cấu công
nghiệp, dịch vụ du lịch, nông lâm thuỷ sản đa dạng,… gắn kết với việc BVMT.
- Kết hợp hài hoà phát triển sản xuất với phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và
xã hội tạo môi trường cho phát triển kinh tế thành phố ổn định và bền vững. Tăng
tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá nhất là ngành dịch vụ và công nghiệp.
Với mục tiêu đến năm 2010 đưa thành phố Hạ Long trở thành trung tâm du
lịch lớn tầm cỡ quốc gia, quốc tế, là trung tâm công nghiệp, cảng, thương mại, dịch
vụ của vùng và khu vực, trở thành động lực thúc đẩy phát triển KT-XH. Đến năm
2020 đưa Hạ Long trở thành đô thị loại I.
Cơ cấu phát triển kinh tế xác định là theo hướng phát triển mạnh khu vực dịch
vụ, đặc biệt là du lịch, dịch vụ vận tải và thương mại. Với các chỉ tiêu tăng trưởng
cụ thể như: đến năm 2010 đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân từ 14÷15%,
tỷ trọng công nghiệp và xây dựng là 53÷56% trong tổng giá trị gia tăng; dịch vụ
43÷46% và nông nghiệp dưới 1%.
Hướng phát triển công nghiệp chủ yếu của thành phố là các khu công nghiệp
tập trung và cảng như: khu công nghiệp Cái Lân và cảng Cái Lân, khu công nghiệp
Đồng Đăng (Việt Hưng). Qua đó tập trung xây dựng các ngành công nghiệp có giá
trị sản xuất cao như: công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp phụ tùng và vận
tải thuỷ, công nghiệp VLXD, công nghiệp may mặc, công nghiệp điện và điện tử,
công nghiệp cơ khí lắp ráp, công nghiệp chế biến gỗ, hàng tiêu dùng, công nghiệp
thực phẩm và công nghiệp nước giải khát phục vụ du lịch. Các khu công nghiệp
được bố trí tại khu vực rất thuận lợi về giao thông, có đường Quốc lộ 18A, đường
sắt kép và hệ thống cơ sở hạ tầng và điện nước thuận lợi. Có thể thấy đối với thành
phố Hạ Long, phát triển các khu công nghiệp tập trung có vai trò quan trọng cho
việc tạo hạt nhân phát triển vùng.
Ngoài ra, nhiều ngành công nghiệp khác như công nghiệp chế tác và cơ khí,
công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống cũng được quan tâm phát triển.
Phát triển các ngành kinh tế của thành phố Hạ Long cần được gắn chặt với việc
quản lý tốt vấn đề môi trường của ngành công nghiệp khai thác than; việc khống
8
chế lượng chất thải nguy hại và chất rắn rửa trôi xuống vịnh sẽ giảm đáng kể tiềm
năng xảy ra các tác động tích luỹ trong khu vực đối với khu vực di sản thế giới
Vịnh Hạ Long.
1.3.2. Phân tích, đánh giá khái quát về đặc điểm tự nhiên và KT-XH vùng
phụ cận các mỏ than KTLT vùng Hòn Gai
1.3.2.1. Nhóm vùng phía Tây Hạ Long
Nhóm vùng phía Tây bao gồm các phường Hà Khánh, Cao Xanh, Cao Thắng,
Hà Lầm thuộc thành phố Hạ Long.
a) Đặc điểm tự nhiên và KT-XH
Các phường Hà Khánh, Cao Xanh có vị trí nằm ven bờ vịnh Cửa Lục. Đây là
vùng hệ thống đô thị mới phát triển ven biển, có quy hoạch phát triển khu công
nghiệp Hà Khánh; nhà máy nhiệt điện Hà Khánh; các cảng than, cảng vật liệu xây
dựng.
Đây là vùng có giao thông thuận lợi về đường bộ (đường quốc lộ 337) và
đường thuỷ, là khu vực có nhiều điều kiện phát triển công nghiệp, du lịch và cảng
hàng hóa, phục vụ phát triển công nghiệp, thông thương với huyện Hoành Bồ.
Phường Cao Thắng có vị trí tiếp giáp với khu Hà Khánh và phường Hà Lầm.
Đây là vùng khu dân cư tập trung, đông đúc; việc phát triển kinh tế chủ yếu phục
vụ cho hoạt động sản xuất than tại các mỏ vùng Hòn Gai; là vùng phát triển nông
nghiệp, cung cấp rau, thực phẩm chăn nuôi cho thị trường khu vực; là vùng có giao
thông thuận lợi về đường bộ (đường quốc lộ 18B).
Chảy qua khu vực nghiên cứu có sông Sông Diễn Vọng và hệ thống suối nhỏ
chảy ra biển tại Hà khánh như suối Suối Lại, suối Bắc Bàng Danh và suối chảy qua
địa phận Hà Trung, Hà Lầm, Hà Khánh với lưu lượng nước suối phụ thuộc vào
nước thải mỏ và nước mưa.
b) Các vấn đề môi trường nổi cộm
- Khu vực Cao xanh, Hà Khánh: lân cận khu vực có hoạt động khai thác than lộ
thiên của mỏ than 917; khu lộ vỉa mỏ Thành Công (đã kết thúc khai thác 2008);
Cao Thắng (đã kết thúc khai thác 2006); khu lộ vỉa 10B của mỏ Hà Tu (sẽ kết thúc
9
khai thác năm 2018). Vùng phụ cận có khu đô thị Cao Xanh; Hà Khánh A, B, C và
nhà máy nhiệt điện Hà Khánh, nguy cơ tiếp tục gây ô nhiễm không khí tại đây do
các bãi thải dọc theo đường 337; ô nhiễm môi trường cảnh quan nhìn từ cầu Bãi
Cháy với các dãy núi bãi thải với một mầu đất xám xịt, phía sau dải đồi thấp và
dưới vùng trời xanh. Nguy cơ tiếp tục gây xói lở và bồi lắng sông Diễn Vọng và
vịnh Cửa Lục.
- Khu vực Cao Thắng, Hà Lầm: lân cận có hoạt động khai thác than lộ vỉa của
mỏ Hà Lầm, Núi Béo (sẽ kết thúc khai thác 2015); có nguy cơ tiếp tục gây ô nhiễm
không khí tại khu tập trung dân cư do các bãi thải gần khu dân cư và nguy cơ tiếp
tục gây bồi lắng hệ thống suối của khu vực và vịnh Cửa Lục.
1.3.2.2. Nhóm vùng phía Đông Hạ Long
Nhóm vùng phía Đông bao gồm các phường Hà Trung, Hà Tu, Hà Phong thuộc
thành phố Hạ Long.
a) Đặc điểm tự nhiên và KT-XH
Các phường Hà Trung có vị trí tiếp giáp với phường Hà Lầm và Hà Tu. Đây là
vùng khu dân cư tập trung, đông đúc; việc phát triển kinh tế chủ yếu phục vụ cho
hoạt động sản xuất than tại các mỏ vùng Hòn Gai là khu vực có nhiều điều kiện
phát triển dịch vụ và nông nghiệp. Trong khu vực mỏ có suối chảy qua Hà Lầm, Hà
Khánh với lưu lượng nước suối phụ thuộc vào nước thải mỏ và nước mưa.
Các phường Hà Tu, Hà Phong có vị trí nằm giáp với phường Hà Trung và
phường Hồ Hải (ven biển khu cọc 8), ven bờ vịnh Hạ Long. Đây là vùng khu dân
cư tập trung, đông đúc; việc phát triển kinh tế chủ yếu là phục vụ cho hoạt động
sản xuất than tại các mỏ vùng Hòn Gai, là vùng phát triển nông nghiệp cung cấp
rau, thực phẩm chăn nuôi cho thị trường khu vực.
Tại khu vực có suối Hà Tu, Hà Phong. Suối Hà Phong là nguồn cung cấp nước
cho hồ Khe Cá và tưới tiêu cho vùng nông nghiệp hạ lưu. Khu vực có nhiều điều
kiện phát triển nông nghiệp và công nghiệp khai thác đá.
b) Các vấn đề môi trường nổi cộm
10
- Khu vực Hà Trung: lân cận có hoạt động khai thác than lộ thiên của mỏ Núi
Béo (kết thúc khai thác vào năm 2015); khu lộ vỉa của mỏ Hà Lầm là nguy cơ tiếp
tục gây ô nhiễm không khí tại đây, đặc biệt do các bãi thải dọc theo đường 18B; ô
nhiễm môi trường cảnh quan nhìn từ đường 18B với các núi bãi thải nham nhở;
nguy cơ tiếp tục gây bồi lắng ven bờ vịnh Hạ Long.
- Khu vực Hà Tu, Hà Phong: Hoạt động khai thác than lộ thiên của mỏ Tân Lập
(kết thúc khai thác vào năm 2009); khu lộ vỉa mỏ Hà Tu có nguy cơ tiếp tục gây ô
nhiễm không khí; ô nhiễm môi trường cảnh quan khi nhìn từ vịnh Hạ Long; nguy
xói lở và bồi lắng bờ vịnh Hạ Long.
- Khu vực Hạ Long: bao gồm ngoài các phường thuộc vùng lân cận thuộc thành
phố Hạ Long (phường Bãi Cháy, Hồng Gai, Hồng Hải), là các vùng nằm ven bờ
vịnh Hạ Long. Đây là vùng có hệ thống đô thị ven biển phát triển, là vùng cảng du
lịch, phát triển thương mại và du lịch.
Môi trường không khí ít chịu ảnh hưởng của việc khai thác than lộ thiên.
Phường Hồng Hải có môi trường không khí chịu ảnh hưởng của việc vận chuyển
than, sàng tuyển chế biến than và bãi thải mỏ. Do hiện nay chưa có biện pháp cách
ly các khu vực khai thác với khu dân cư, nên ô nhiễm bụi vẫn là nguy cơ lớn, ảnh
hưởng đến sinh hoạt và phát triển dịch vụ của khu vực. Chất thải sinh hoạt, chất
thải khai thác than và khoáng sản là nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước ven bờ vịnh
Hạ Long.
- Khu vực Di sản thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long: có cảnh quan đẹp, đa
dạng sinh học cao, là khu bảo vệ thiên nhiên kết hợp du lịch độc đáo của Việt Nam.
Các vấn đề môi trường nổi cộm là ô nhiễm và bồi lắng đáy vịnh do các hoạt động
khai thác than lộ thiên và sản xuất, dịch vụ từ đất liền, dải ven biển; các hoạt động
du lịch trên biển, hang động; các hoạt động giao thông đường thủy qua cảng Cái
Lân; các hoạt động khai thác hải sản ven bờ.
1.3.3. Phân tích, dự báo định hướng các vùng CTPHMT tại Hòn Gai
Vùng khai thác than lộ thiên lân cận vùng dân cư, đô thị và vùng du lịch trọng
điểm của Thành phố Hạ Long có tốc độ tăng trưởng GDP khá cao, bình quân hàng
11
năm đạt 12÷15%. Cơ cấu kinh tế có sự biến chuyển mạnh mẽ, đến nay đã phát triển
thành một trong những trung tâm du lịch, thương mại, dịch vụ, công nghiệp lớn của
tỉnh Quảng Ninh và cả nước. Ngành du lịch tại Quảng Ninh đang phát triển trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trong dự thảo “Chiến lược phát triển cho các thành
phố loại vừa tại Việt Nam” do nhóm tư vấn thuộc Viện Quy hoạch Đô thị Nông
thôn, Bộ Xây dựng và Ngân hàng Thế giới thực hiện, thành phố Hạ Long sẽ trở
thành trung tâm công nghiệp, cảng biển - dịch vụ, một địa chỉ hấp dẫn đầu tư về du
lịch, có môi trường sống và cơ sở hạ tầng đạt tiêu chuẩn quốc tế, là hình ảnh tiêu
biểu về sự hài hoà giữa văn hoá, thiên nhiên và con người vào năm 2020. Mục tiêu
phát triển KT-XH được xác định có tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng
13,3%/năm đến năm 2010 và 14,5%/năm trong giai đoạn 2011-2015.
Do vậy các định hướng chức năng CTPHMT ở vùng Hòn Gai bao gồm:
- Việc mở rộng diện tích đất đô thị thành phố Hà Long là điều cần thiết, tuy
nhiên, các dự án lấn biển với mục đích mở rộng diện tích đã ở mức tới hạn. Vì vậy,
cần hình thành những khu đô thị mới khu dân cư tập trung tại các khu vực kết thúc
khai thác mỏ. Nếu không quan tâm ngay từ bây giờ, thì sẽ mất nguồn kinh tế lớn và
sau này muốn CTPHMT thành khu đô thị sẽ phải đầu tư thêm lượng kinh phí lớn
để thực hiện.
Trên mặt bằng các khu vực kết thúc khai thác mỏ ở lân cận khu đô thị tập trung
của Hạ Long, hiện nay vẫn chưa chú ý đến việc dành các không gian nhất định cho
việc mở rộng khu đô thị, khu du lịch công nghiệp, tạo mặt nước, tạo cảnh quan và
mối liên hệ với biển (lợi thế của vùng HG-CP),… để tạo không gian sinh thái cho
đô thị mới, khu vui chơi giải trí phục vụ du lịch công nghiệp tại các khu vực kết
thúc khai thác than lộ thiên.
Vấn đề xử lý chất thải rắn của hoạt động khai thác lộ thiên là một vấn đề lớn,
trước khi thực hiện việc đổ thải, phải được chú ý ngay từ khi thiết kế ban đầu (tạo
cảnh quan hay tạo mặt bằng tạo quỹ đất). Nếu không, khi diện tích bãi thải tăng lên
và phát triển không theo định hướng sẽ gây khó khăn cho công tác phục hồi đất sau
này. Về lâu dài, trong bối cảnh phát triển kinh tế, phát triển đô thị trên diện tích hẹp
12
như khu vực Hạ Long thì công tác CTPHMT với tầm nhìn hạn hẹp như hiện nay sẽ
trở nên vô ích và quá lãng phí. Tất cả các hạng mục CTPHMT đều phải xem xét
đến mọi việc có liên quan và phải tận dụng được lợi thế của vùng. Điều này cần
được chú ý và quán triệt cho việc CTPHMT các mỏ than KTLT vùng HG-CP nói
riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung.
Các bãi thải sẽ tiếp tục là nguy cơ tiềm ẩn gây trượt lở, gây bồi lắng suối làm
tăng nồng độ độ đục và chất rắn lơ lửng tại vùng cửa biển tăng nhanh sẽ là điều
không tránh khỏi. Do vậy, phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật để giảm thiểu và
triệt tiêu các tai biến gây trượt lở, gây bồi lắng suối.
Việc CTPHMT nhằm hỗ trợ BVMT du lịch sinh thái vịnh Hạ Long là vấn đề
phát triển chiến lược cho vùng phụ cận thành phố Hạ Long với Di sản thiên nhiên
thế giới (Vịnh Hạ Long, Vịnh Bái tử Long và Vườn Quốc gia Bái Tử Long), cần
được những người quản lý CTPHMT các mỏ than KTLT quan tâm.
Trên cơ sở đó, các vùng CTPHMT tại Hòn Gai được hình thành với các chức
năng dự kiến như sau:
(1). Vùng CTPHMT tạo thành khu vực phát triển cảnh quan lâm nghiệp nhằm
BVMT vịnh Cửa Lục; bảo vệ đất nông nghiệp vùng hạ lưu bải thải Nam Lộ Phong
và Hồ Khe Cá; bảo vệ môi trường khu dân cư lân cận (gọi tắt là vùng HG1).
Các vấn đề BVMT quan trọng cần quan tâm trong khu vực này gồm:
- BVMT khu dân cư, phòng tránh tai biến trượt lở đất, giảm thiểu xói mòn đất
gây suy thoái tài nguyên đất nông nghiệp lân cận bãi thải Nam lộ phong, bồi lắng
lòng hồ Khe Cá.
- BVMT đất, nước, không khí ở các khu vực bãi thải. Hiện nay, hoạt động khai
thác than đã làm cho cảnh quan và môi trường bị biến đổi lớn, việc đổ thải đã tạo
lên các bãi thải thải lớn. Bãi thải Nam Lộ Phong nằm sát đường 18A,... nhưng chưa
được đảm bảo an toàn. Nhiều vấn đề bức xúc chưa được quan tâm giải quyết một
cách quyết liệt, hiệu quả như: xử lý nước thải mỏ, đất đá trôi từ các khai trường, bãi
13
thải cũng như việc xử lý bụi trên các tuyến đường có hoạt động vận chuyển than
chưa cao đã gây ảnh hưởng lớn đến đời sống, sinh hoạt, sức khỏe của nhân dân.
(2). Vùng CTPHMT tạo thành khu vực dân cư; du lịch công nghiệp; phát triển
khu vui chơi giải trí (sân golf) phục vụ du lịch công nghiệp; hành lang cây xanh
cảnh quan cách ly khai thác hầm lò với khu dân cư (gọi tắt là vùng HG2).
Là khu vực có hoạt động khai thác than lộ thiên và hầm lò của Công ty CP than
Núi Béo với quy mô công nghiệp lớn; khu vực khai thác có địa hình đa dạng, rộng
trên 300ha và có khoảng cách đường đến đường 18 B là 300m và đường 18A là
1km, lân cận khu dân cư trọng điểm. Do vậy, khi kết thúc khai thác than lộ thiên,
có khả năng tạo thành khu du lịch công nghiệp với bảo tàng khu vực khai thác lộ
thiên và hầm lò, tạo thành sân golf, khu ngắm vịnh Hạ Long thơ mộng và khu vui
chơi giải trí phục vụ du lịch công nghiệp.
Các vấn đề CTPHMT quan trọng cần được quan tâm ở vùng này bao gồm:
- BVMT do ảnh hưởng của cảnh quan khu vực đến du lịch vịnh Hạ Long.
- Trồng rừng bằng cây xanh cách ly khu vực sản xuất than hàm lò của Công ty
Núi Béo để BVMT khu dân cư, tạo cảnh quan cho khu du lịch công nghiệp lân cận.
- Việc mở rộng diện tích thành phố Hạ Long với việc hình thành khu du lịch
công nghiệp với bảo tàng khu vực khai thác lộ thiên và hầm lò, tạo sân golf, khu
ngắm vịnh Hạ Long thơ mộng và khu vui chơi giải trí phục vụ du lịch công nghiệp.
(3). Vùng CTPHMT nhằm phát triển lâm nghiệp và BVMT lưu vực sông Diễn
Vọng - Vịnh Cửa Lục; hành lang cây xanh cảnh quan cách ly khai thác hầm lò với
khu dân cư và bảo vệ môi trường cảnh quan nhìn từ Cầu Bãi Cháy (gọi tắt là vùng
HG3).
Vùng này với bãi thải cao chiếm ưu thế với độ cao tuyệt đối từ 200÷300m, đỉnh rộng, sườn dốc trung bình 28o, sườn thải nhiễu rãnh phân cắt vào sườn thải sâu
1,5÷20m. Dân cư tập trung đông đúc dọc các tuyến quốc lộ và hạ lưu suối Suối Lại,
Hà Lầm, Hà Trung.
Lân cận là khu đô thị phát triển trên thềm biển thoải dần về phía biển, bị phân
cắt yếu tạo địa hình gò thoải. Phía Nam là địa hình bãi triều, nghiêng thoải về phía
14
biển, độ cao 0,5÷1,5m, cấu tạo bởi bùn sét màu xám đen; khu vực cửa các khe suối,
các máng thoát nước có lẫn nhiều vật liệu thô như mảnh dăm sét than, sét bột kết.
Rừng ngập mặn kém phát triển do các hoạt động phát triển kinh tế. Phía Tây là
huyện Hoành Bồ, phía Đông là khu đô thị và công nghiệp than, các nhà máy Nhiệt
Điện Hà Khánh,... Hoạt động lấn biển lấy không gian phát triển đô thị Hà Khánh
A, B, C và Đ đang diễn ra nhanh chóng.
Bên cạnh đó, vấn đề nguy cơ tiềm ẩn về sạt lở, tai biến của các bãi thải trên
vùng khai thác than lộ thiên lưu vực vịnh Của Lục cũng cần phải được xem xét giải
quyết trong công tác CTPHMT.
Các vấn đề CTPHMT cần quan tâm ở vùng này bao gồm:
- Phòng ngừa nguy cơ trượt lở và lũ bùn đá do đất đá thải; ngăn ngừa, giảm
thiểu xói mòn đất bằng cách bảo vệ lớp phủ thực vật đã có; ngăn ngừa tai biến sạt
lở đất tại bãi thải; rửa trôi bãi thải, đe dọa bồi lắng vịnh Cửa Lục và các cụm dân cư
lân cận.
- Trồng rừng bằng cây xanh cách ly khu vực sản xuất than hầm lò của Công ty
TNHH MTV than Hòn Gai và Hà Lầm để BVMT khu dân cư lân cận, đồng thời
nâng cao chất lượng môi trường lao động của khu vực khai thác than có liên quan
đến ô nhiễm không khí.
- Xây dựng hệ thống kè kiên cố, hợp lý, hiệu quả cho khu vực từ thượng nguồn
suối, ngăn đất đá rửa trôi gây ô nhiễm môi trường nước ven biển, gây bồi lắng vùng
vịnh Cửa Lục, ảnh hưởng gián tiếp tới khu vực vịnh Hạ Long.
Tóm lại, NCS định hướng phân vùng CTPHMT cho các nhóm mỏ than KTLT
vùng Hòn Gai như sau:
a) Vùng HG1 bao gồm khu vực vỉa 7, 8 mỏ Hà Tu; khai thác lộ vỉa của Xí
nghiệp than Thành Công; Cao Thắng (đã kết thúc khai thác); khai thác lộ thiên 917
- Xí nghiệp than 917.
b) Vùng HG2: bao gồm khai trường, bãi thải mỏ Núi Béo và một phần khai
trường, bãi thải mỏ phần phía Bắc và Tây Bắc, mỏ Hà Tu.
c) Vùng HG3: bao gồm lộ vỉa mỏ Tân Lập (đã kết thúc khai thác); phần phía
Đông và Đông Bắc mỏ than Hà Tu; Lộ vỉa +110 Tân Lập.
15
PHỤ LỤC 2
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH CÁC LOẠI CÂY
TRỒNG TRÊN ĐẤT SUY THOÁI CỦA MỘT SỐ MỎ THAN KHAI
THÁC LỘ THIÊN, PHỤC VỤ CÔNG TÁC LỰA CHON LOẠI CÂY
VÀ PHỤC HỒI THẢM THỰC VẬT
2.1. Mô hình trồng cây nhiên liệu trên đất suy thoái của Công ty TNHH
MTV Khe Sim
Theo báo cáo quá trình chăm sóc, theo dõi và đánh giá mô hình cây nhiên liệu
trên đất suy thoái thực hiện từ tháng 6/2011 đến tháng 1/2012 của Công ty TNHH
MTV Khe Sim được thực hiện tại bãi thải than Đông Khe Sim trên diện tích 2,8 ha.
Cây trồng thử nghiệm gồm 7 loại cây trồng khác nhau: sắn, lúa miến ngọt, jatropha,
thanh thất, cỏ vetiver, cỏ chè vè và keo tai tượng. Cây được bắt đầu trồng từ
4/5/2011 đến 20/5/2011, trồng dặm và trồng bổ sung từ 7-11/6/2011.
Điều kiện thời tiết: Mặc dù mô hình mới được thực hiện khoảng 7 tháng thì
gặp nhiều điều kiện bất thuận của thời tiết gồm mưa lớn, bão gió và khô hạn nên
ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng và tốn nhiều công chăm
sóc. Điều kiện nắng nóng, khô hạn diễn ra nhiều, điển hình là đợt mới trồng (từ
6/5/2011 đến 11/5/2011), đợt khô hạn kéo dài từ 10/9/2011 đến 25/9/2011, từ
10/10/2011 đến 20/11/2011, đã ảnh hưởng lớn đến khả năng sinh trưởng, phát triển
của cây trồng. Việc tưới nước bổ sung phải thực hiện nhiều lần với các cây trồng,
đặc biệt là với lúa miến ngọt (trên 10 lần tưới) và jatropha (7 lần). Ngoài ra, các
cây trồng khác phải tưới bổ sung 3-4 lần ở các thời điểm khô hạn nghiêm trọng.
(1). Cây sắn (Cassava) và lúa miến (Sweet sorghum)
Qua thực tế đánh giá tình hình sinh trưởng của cây sắn và cây lúa miến trên mô
hình, chúng tôi nhận thấy: cây sắn và cây lúa miến phát triển chủ yếu dựa vào phân
bón. Nếu loại trừ ảnh hưởng của điều kiện gió bão và thời vụ muộn, với lượng phân
bón tối ưu, năng suất sắn trồng trên đất bãi thải hoàn toàn có thể đạt ngang bằng với
16
năng suất sắn bình quân của Việt Nam năm 2010 là 17.2 tấn/ha. Nhưng loại cây
này khó chống xói mòn.
Hình 1: Cây lúa miến trồng ngày 26/6 – 1/9/2011 Hình 2: Cây sắn trồng sau 4 tháng
(2). Cây Jatropha
Qua theo dõi, đánh giá cho thấy jatropha có khả năng sinh trưởng, phát triển tốt
trên đất bãi thải trong điều kiện thời tiết thuận lợi. Qua kết quả theo dõi cho thấy,
phân bón có tác động lớn đến các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển của atropha và
phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật phòng trừ. Cây không phát triển và rụng lá vào
mùa khô. Ở cây giống trồng bằng cành giâm, sau 2 tháng trồng đã có 30% số cây
có hoa và đạt 90% sau 5 tháng trồng. Ở cây giống trồng bằng hạt, số cây có hoa đạt
5% sau 3 tháng trồng, đạt 70% sau trồng 5 tháng trồng. Những cây ra hoa đều có
khả năng kết hạt và hình thành năng suất.
Hình 3: Jatropha trồng sau 4 tháng (24/9) Hình 4: Thanh thất trồng sau 5 tháng
17
(3). Cây Thanh thất (Ailanthus)
Cây giống Ailanthus được khai thác tự nhiên ở rừng núi Phú Thọ và lần đầu
tiên được trồng trên đất bãi thải than. Sau 7 tháng trồng, Ailanthus đã sinh trưởng,
phát triển tốt và được đánh giá là cây có triển vọng trồng trên đất bãi thải than. Ở
công thức không bón phân, cây sinh trưởng phát triển kém. Khác với jatropha,
thanh thất có khả năng phục sinh trưởng nhanh sau bão và vẫn giữ được bộ lá xanh
tốt cả trong điều kiện khô hạn và bụi của điều kiện Quảng Ninh (tháng 11/2011-
1/2012), tuy nhiên tốc độ tăng trưởng cả về chiều cao và đường kính tán chậm bị
chậm lại.
Hình 5: Cây keo sau trồng 5 tháng Hình 6: Cỏ chè vè sau trồng 5 tháng
(4). Cây keo (Acacia)
Phân bón quyết định đến sinh trưởng, phát triển của cây keo. Ở công thức
không bón phân, cây keo sinh trưởng, phát triển kém và còi cọc, bộ lá vàng và thiếu
sức sống. Sau 7 tháng trồng, chiều cao trung bình chỉ đạt 60 cm. Ngược lại, ở các
công thức có bón phân cây keo có tốc độ sinh trưởng, phát triển rất tốt. Dù bị gió
bão gây dập nát lá nhưng cây phục hồi rất nhanh. Hai tháng đầu mới trồng, tốc độ
tăng trưởng chiều cao cây và đường kính tán chậm nhưng càng về thời gian sau, tốc
độ tăng trưởng chiều cao cây và đường kính tán càng nhanh mặc dù không được
bón phân bổ sung so với cây trồng khác. Tuy nhiên theo thực tế tại mặt bãi thải
Nam Lộ Phong sau 5 năm phát triển tốt trên bãi thải nhưng trường hợp có gió lớn
cây sẽ bị bật gốc với tỷ lệ 10% như vậy cây có bộ rễ nông.
18
(5). Cỏ chè vè (Miscanthus)
Cỏ chè vè được phân bố tự nhiên trong khắp các vùng sinh thái Việt Nam và
xuất hiện nhiều tại Quảng Ninh, cả trên diện tích đất bãi thải như một loài cỏ dại.
khả năng sinh trưởng và tạo sinh khối phụ thuộc vào phân bón. tất cả các cây đều trổ
hoa và có hiện tượng vàng úa, giảm sức sống. Qua 7 tháng theo dõi mô hình nhận
thấy, khả năng đẻ nhánh và hình thành sinh khối của cỏ miscanthus thấp hơn nhiều
so với cỏ vertiver (lượng phân bón ở các công thức của hai cây trồng giống nhau).
(6). Cỏ Vetiver
Cỏ đem trồng tại mô hình là những bầu cỏ được ươm 50 ngày tuổi, sinh trưởng
phát triển tốt, có từ 3 đến 10 nhánh, bộ rễ phát triển tốt. Cỏ được trồng vào thời
điểm cuối tháng 5 năm 2011, thời điểm sau trồng gặp điều kiện thời tiết thuận lợi,
có mưa lên cỏ phát triển rất thuận lợi. Tăng trưởng phụ thuộc vào bón phân. Tỷ lệ
cây sống đều đạt trên 90%. công thức không bón. Ở công thức này, cây sinh trưởng
phát triển rất chậm, lá vàng úa, khả năng đẻ nhánh kém. Sau 2 tháng trồng, cây có
biểu hiện bị tàn lụi và bị chết dần. Tiến hành trồng dặm và bón phân bằng lượng tối
ưu. Sau 2 tháng, cây có phục hồi sinh trưởng nhưng rất chậm. có bón phân cây sinh
trưởng, phát triển rất tốt. Cây đẻ nhiều nhánh, tăng nhanh về chiều cao và sinh
khối. Hai tháng sau trồng, cây đã phát triển thành băng hoàn chỉnh, bộ rễ phát triển
và có khả năng chống xói mòn tốt. Vào mùa khô cây vetiver ngừng sinh trưởng,
vàng lá và rụng lá, mùa xuân đã phát triển trở lại.
Hình 7. Cỏ vetiver Hình 8. Cỏ vetiver sau
trồng sau 4 tháng 5 năm tại bãi thải Nam Lộ Phong
19
2.2. Chương trình hợp tác giữa CHLB Đức với Công ty Cổ phần Than
Núi Béo về việc trồng một số loại cây bản địa trên bãi thải chính Bắc Núi Béo
Chương trình bắt đầu từ ngày 14/5/2008 đến ngày 24/9/2012 với việc trồng
cây thử nghiệm tại mặt bằng mức +256 bãi thải Chính Bắc với tổng diện tích là 0,65
ha; qua thời gian nghiên cứu, các chuyên gia đã tìm được ba loại cây đại diện của
khu vực có khả năng thích ứng được với môi trường khô cằn như bãi thải, với các
loại cây: bông bạc, xoan, cỏ đót. Đến nay ba loại cây này vẫn đang sinh trưởng
nhưng phát triển chậm, do thời tiết khô hạn. Công ty thực hiện trồng cây găng trên
bãi thải mỏ, cây phát triển chậm và cho cảnh quan đẹp do nở hoa có mầu đỏ đẹp và
bền lâu tuy nhiên công tác bảo vệ cây phải tăng cường để phòng chông lấy trộm cây.
Hình 9: Cây găng xen lẫn cỏ lau le Hình 10: Cây bông bạc
Hình 11: Cây Xoan trồng trên bãi thải Hình 12: Cây cỏ đót trồng trên bãi thải
20
Hình 13: Cây cỏ lau le mọc tự nhiên tại bãi thải mỏ than Núi Béo (12/2013)
2.3. Chương trình trồng cây keo trên đất suy thoái tại bãi thải lộ thiên
Nam Lộ Phong của Công ty Cổ phần Than Hà Tu
Hình 14: Cây keo bật gốc khi bão lớn
21
Hình 15: Cây Jatropha sau 5 năm trồng tại bãi thải Nam Lộ Phong
Hình 16: Hố nước trên mặt bãi thải Nam Hình 17: Bãi thải Nam Lộ Phong và
Lộ Phong và cỏ ventiver (12/2013) nương ngô dưới chân bãi thải
(12/2013)
2.4. Chương trình trồng cây côt khí trên đất suy thoái tại bãi thải lộ
thiên vỉa G của Công ty Cổ phần Than Mông Dương
Loại cây cốt khí có khả năng phát triển rất nhanh và chi phí thấp. Thực tế
cho thây chỉ trong vòng tuần đầu sau khi gieo là cây đã phát triển được 2 lá mầm và
khoảng 2 tháng là cây đã phát triển cao 1520 cm tạo màu xanh cho toàn bộ khu
vực bãi thải lộ thiên vỉa G của Công ty Cổ phần Than Mông Dương.
22
Hình 18: Cây cốt khí tại bãi thải vỉa G - Công ty Cổ phần Than Mông Dương
23
PHỤ LỤC 3
PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ VỀ TAI BIẾN TRƯỢT LỞ ĐẤT,
LŨ BÙN ĐÁ KHU VỰC HẠ LONG - CẨM PHẢ
3.1. Nguồn phát sinh nguy cơ tai biến sạt lở đất
Trên những khu vực khai thác than chính vùng HG-CP, có nhiều đới đứt gãy
làm đất đá bị nén ép mạnh, cà nát, tạo thành những khe nứt có thể làm tăng cường
độ và tính thấm của đất đá, thuận lợi cho hoạt động của nước và quá trình phong
hóa, làm tiền đề cho những khe rãnh xói mòn lớn, gây phát sinh trượt lở mạnh.
Các bãi thải mỏ được thành tạo bởi đất đá thải ra từ hoạt động khai thác than
lộ thiên với đất đá bở rời, hỗn độn (nhiều kích thước khác nhau), là nơi có sự tiềm
ẩn lớn nhất các tai biến trượt lở, lũ bùn đá xảy ra sau khi kết thúc khai thác, thường
xuyên đe dọa đến các khu dân cư lân cận, các khu dân cư nằm ở hạ lưu của các
sông suối bắt nguồn từ các bãi thải.
Thời gian đầu, khi kết thúc khai thác và đổ thải thì chưa ảnh hưởng tới quá
trình địa mạo và chưa phát sinh nguy cơ tai biến. Theo thời gian, các bãi thải này sẽ
có quá trình biến đổi đất đá như bị phong hóa bởi thời tiết và khí hậu, sẽ tích luỹ
các nguy cơ tiềm ẩn tai biến.
Theo thời gian, đất đá thải tiếp tục bị phá huỷ cơ học, đặc biệt là ở các lớp phía
trên, đá rắn chắc trở nên mềm bở. Do đất đá thải không đồng đều, có độ lỗ hổng
lớn, các tác nhân phong hoá có thể tác động tới lớp cuối cùng. Đặc biệt, quá trình
phong hoá ở đới nước ngầm lưu thông - nơi tiếp giáp giữa bề mặt nguyên thuỷ và
khối đất đá thải sẽ xảy ra mạnh nhất.
Đất đá tại bãi thải luôn có một phần không nhỏ đất đá có bề mặt bị phong hóa;
đó là đất đá thải đã có sự cân bằng hoá học tương đối với môi trường bề mặt và luôn
có sự tham gia đáng kể của cấp hạt sét. Quá trình phong hóa cơ học, hóa học sẽ dần
phá hủy các mảnh vụn rắn chắc thành các mảnh có kích thước nhỏ hơn, hình thành
các khoáng vật sét và dẫn tới các đặc trưng môi trường khác so với khi mới được đổ
ra.
24
Đặc điểm chung của đất đá thải là có sự liên kết với nhau rất yếu. Khi được đổ
thải từ trên cao xuống tạo thành núi cao, nhưng thực tế, chúng tạo nên một phần bề
mặt sườn có độ dốc cao hơn góc dốc tự nhiên và chỉ một phần phù hợp với góc dốc
tự nhiên. Tuy nhiên, đây là các sườn dốc chưa ổn định và khá nhạy cảm với các tác
động bên ngoài.
Các nghiên cứu cho thấy, mức độ bảo tồn và chiều dày của vỏ phong hóa còn
có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với độ chênh cao, tuổi địa hình và tỷ lệ thuận với diện
tích của bề mặt địa hình phát triển vỏ phong hóa. Ở độ cao càng lớn thì điều kiện
phát triển vỏ phong hóa càng kém và khó được bảo tồn. Diện tích của bề mặt địa
hình phát triển vỏ phong hóa càng lớn thì vỏ phong hóa càng dày và được bảo tồn
tốt. Vỏ phong hóa phát triển trên các bề mặt địa hình có tuổi càng cổ thì càng
mỏng, nhưng nếu có diện tích rộng thì điều này sẽ ngược lại.
Trong vùng HG-CP, hoạt động khai thác than lộ thiên từ năm 1965 đến nay đã
làm cho địa hình ở đây bị biến động mạnh mẽ. Vị trí các moong khai thác đã xuống
sâu gần đến mức -200m, trong khi đó, ở các vị trí đổ thải, độ cao của bãi thải đã cao
thêm gần 350m. Điều này ảnh hưởng mạnh đến độ ổn định của đất đá trong khu vực,
ở các vị trí có độ dày lớn, quá trình trượt lở diễn ra càng mạnh, liên quan đến tỷ trọng
của đất đá thải trên sườn và kết cấu của chúng khi bị ngậm nước khi mưa.
Việc đánh giá sự biến đổi địa hình được thực hiện thông qua việc so sánh và
tính toán từ 2 mô hình số độ cao địa hình, được xây dựng từ bản đồ địa hình năm
1965 và năm 2004 (Hình 19, 20).
Hình 19: Mặt cắt biến đổi địa hình vùng HG-CP giai đoạn 1965-2004
Đối với khu vực biến động dương, việc đánh giá trọng số dựa trên cơ sở bề dày
của các bãi thải đối với nguy cơ trượt lở đất. Các khu vực biến động âm được đánh
giá riêng vì nó không liên quan bề dày của bãi thải.
25
Hình 20: Bản đồ biến đổi địa hình vùng HG-CP giai đoạn 1965-2004
Hai nhân tố có ý nghĩa quan trọng đối với trượt lở đất, đó là sự phá vỡ trạng
thái cân bằng tương đối của sườn bởi làm tăng độ dốc và tải trọng sườn. Các tác
nhân chính dẫn đến tăng độ dốc sườn đó là sự đào khoét sườn dọc theo các dòng
chảy và sự xâm thực giật lùi của các mương xói, do cắt xe taluy đường, hạ thấp
thân đường, khoét sâu vào chân sườn. Sự phát triển của mương xói ngầm trên các
sườn, đặc biệt là ở khu vực bãi thải, cộng với hoạt động làm đường, có thể làm
giảm tính bền vững của kết cấu đất đá và làm tăng nguy cơ trượt lở. Trong điều
kiện phát triển tự nhiên, ngoại trừ trên các đá rắn chắc, còn lại độ dốc của địa hình thường hiếm khi đạt được đến 35÷40o. Trong khi đó độ dốc trên sườn các bãi thải
hầu hết đều đạt giá trị này và thậm trí còn cao hơn, lại trên các vật liều mềm rời,
bởi vậy, nguy cơ phát sinh trượt lở ở đây là rất cao.
Phân tích mật độ và đặc trưng của mạng lưới khe xói cũng là cơ sở quan trọng
cho việc đánh giá và dự báo trượt lở đất. Mật độ chia cắt ngang càng lớn, số lượng
sông suối, khe rãnh càng nhiều sẽ làm tăng thêm tính bất ổn định của các sườn dốc,
dẫn đến nguy cơ trượt lở đất càng cao. Trong khu vực nghiên cứu, các khe xói phát
triển rất mạnh, rõ nhất là trên sườn các bãi thải ở các khu vực khai thác than.
26
Hình 21: Khe suối cắt vào chân bãi thải
Hình 22: Sườn dốc trên 450 trên các bãi thải từ hoạt động khai thác than
Sự xâm thực giật lùi của mương xói dẫn tới việc hình thành một dạng sườn hẹp
có trắc diện khá dốc. Sự tập trung nước ở phần chân sườn dốc này vào mùa mưa là
cơ sở cho việc phát sinh các khối trượt. Đáng lưu ý là quá trình này cung cấp một
lượng đất đá thải khá lớn tham gia vào hoạt động dòng chảy, làm tăng tính khốc liệt
của lũ quét.
Độ chia cắt sâu hay độ chênh cao của địa hình cũng có ý nghĩa quan trọng đối
với việc đánh giá nguy cơ trượt lở. Độ chênh cao của địa hình càng lớn, năng lượng
của địa hình càng cao và nguy cơ xảy ra tai biến trượt lở cũng càng mạnh. Trong
khu vực nghiên cứu, độ chia cắt sâu lớn nhất trên 200 m, trung bình là trên 100m.
Điều này cho thấy rõ tầm ảnh hưởng của chia cắt sâu tới hiện tượng trượt lở đất.
27
Hình 23: Bản đồ nguy cơ trượt lở, lũ bùn đá vùng HG-CP
3.2. Nguồn phát sinh nguy cơ lũ bùn đá
Đối với dạng tuôn chảy chủ yếu liên quan đến nguy cơ trượt lở và dòng bùn đá
trong lưu vực, độ dốc và hình dáng của lưu vực. Đối với loại lũ quét vỡ dòng, nó
phụ thuộc vào cấu trúc của thung lũng sông suối, đó là dạng thung lũng xuyên
thủng có nhiều đoạn thắt hẹp, mở rộng xen kẽ nhau.
Vùng HG-CP có mạng lưới sông suối không phải dày đặc tuy nhiên trên các
sườn hình thành nhiều khe rãnh xâm thực.
Diện tích lưu vực hứng mưa càng lớn, lòng sông suối chính càng ngắn thì dòng
lũ và vận tốc lũ càng lớn. Độ lớn của lưu vực có ảnh hưởng đến tính chất và quy
mô của lũ bùn đá. Hiện trạng lũ bùn đá ở vùng HG-CP cho thấy chúng thường xuất
hiện trên các khe suối nhỏ trên các sườn bãi thải.
28
Độ dốc lòng suối có ý nghĩa quyết định tới việc hình thành các dòng bùn đá và
lũ quét dọc các suối. Độ dốc lòng càng cao thì vận tốc dòng chảy càng lớn, khả
năng lôi cuốn bùn đá càng mạnh. Độ dốc trung bình của các lưu vực càng lớn nguy
cơ trượt lở càng mạnh và độ tập trung nước càng nhanh.
Dạng lũ bùn đá xảy ra theo cơ chế vỡ dòng hết sức nguy hiểm do liên tục có sự
tích lũy năng lượng khối nước và bùn đá. Loại lũ này thường xảy ra trên các sông
suối dạng xuyên thủng hoặc có nhiều đoạn gấp khúc đột ngột. Trong khu vực
nghiên cứu trận lũ bùn đá xảy ra ở thung lũng Khe Dè là một ví dụ điển hình.
Thông thường, sự hình thành thung lũng có dạng như thế này đều gắn với mối
quan hệ giữa phương của cấu trúc địa chất và hướng của thung lũng suối. Khi dòng
chảy cắt vuông góc với phương cấu trúc địa chất và cắt qua nhiều tập đá có độ bền
vững khác nhau, tại chỗ cắt qua đá gốc rắn chắc sẽ là nơi thung lũng bị thắt hẹp, ở
những vị trí cắt qua các đá kém bền vững, thung lũng sông thường mở rộng do ở
đây quá trình phong hóa và xâm thực bờ diễn ra mạnh hơn.
3.3. Vùng cảnh báo tai biến trượt lở đất, lũ bùn đá vùng HG-CP
Kết quả nghiên cứu của PGS.TS. Đặng Kế Bào cho thấy, nguy cơ xảy ra trượt
lở, lũ bùn đá cao nhất tập trung vào 2 khu vực khai thác than Hà Tu - Hà Lầm và
Đèo Nai - Cọc 6 - Mông Dương - Núi Béo. Ngoài ra, còn có một số vị trí khác như
ở khu vực phường Quang Hanh, ở phía Tây, Tây Bắc Bằng Tẩy và xã Cộng Hòa
nhưng với diện phân bố không đáng kể. Nguy cơ trượt lở cao ở đây, một mặt liên
quan đến đặc điểm kết cấu kém của đất đá thải, bề dày và độ dốc lớn của các bãi
thải, còn lại, các vị trí khác thì trùng với nơi có điều kiện thuận lợi về đặc điểm
thạch học và các đặc trưng hình thái. Ví dụ, ở khu vực phường Quang Hanh, vị trí trượt lở cao trùng với nơi địa hình có độ dốc lớn (>25o), bị chia cắt mạnh (chia cắt ngang trên 500m/km2, chia cắt sâu là trên 200m), các sườn, một mặt phát trên đá
của hệ tầng Hòn Gai có chứa than, mặt khác lại trùng với hướng cắm của đá gốc,
đồng thời lại trùng với một đới đứt gãy kéo dài từ Hà Tu đến Cọc 6. Các khu vực
còn lại nhìn chung khá ổn định, nguy cơ trượt lở không lớn.
29
Bảng 1: Bảng thống kê một số khu vực có nguy cơ phát sinh trượt lở
Nguy cơ trượt
Khu vực
Rất thấp Thấp TB Mạnh Rất mạnh
x Khe Dè
x x Thượng nguồn suối Lộ
Phong
x Mỏ than Đèo Nai
Những nơi có khả năng phát sinh tai biến lũ quét - bùn đá cao hầu hết tập trung
ở những lưu vực sông suối nhỏ bắt nguồn từ các bãi thải từ hoạt động khai thác
than có nguy cơ trượt lở cao. Theo cách đánh giá ngẫu nhiên này, các lưu vực suối
Lộ Phong, Khe Rè rơi vào các vị trí có nguy cơ cao nhất. Đây là những điểm đã
được khảo sát thực địa và là những vị trí có sự tập trung đất đá bở rời lớn ở phần
thượng nguồn, thung lũng suối có nhiều đoạn gấp khúc hoặc bị thắt hẹp đột ngột,
làm tăng khả năng nghẽn tắc, đồng thời có độ dốc và mật độ chia cắt ngang lớn.
Phía đông bắc huyện Cẩm Phả, nơi có mật độ chia cắt ngang khá cao, nhưng các
sườn khá ổn định do phát triển chủ yếu trên các đá rắn chắc của hệ tầng Hà Cối.
Trong khu vực này, nguy cơ phát sinh trượt lở, lũ bùn đá chỉ ở mức thấp và rất
thấp. Giữa Cẩm Phả và Hạ Long là khu vực có nguy cơ trượt lở khá cao, nhưng do
mạng lưới sông suối không phát triển, bởi vậy nguy cơ xảy ra lũ bùn đá ở đây là rất
thấp.
30
PHỤ LỤC 4
QUY TRÌNH ĐỔ THẢI THEO LỚP ĐẢM BẢO ỔN ĐỊNH BÃI THẢI
4.1. Mở bãi thải
1. Căn cứ hộ chiếu đổ thải, kiểm tra địa hình trong khu vực giới hạn và phụ
cận có thể ảnh hưởng của việc đổ thải, di chuyển hết các công trình bị ảnh hưởng
do đổ thải (công trình nhà cửa, xưởng điện…), thi công phải hướng nước chảy ra
ngoài phạm vi đổ thải (nếu có), ngăn chặn các tuyến đường mòn người hay đi qua
lại và cắm biển báo nguy hiểm do đổ thải (nếu cần).
2. Làm đường vận chuyển tới vị trí mở thải (ghi trong bình đồ hộ chiếu đổ
thải). Công việc làm đường thực hiện theo quy trình làm đường mỏ.
3. Sau đó từ vị trí mở thải kết hợp máy gạt và ô tô đổ đất tiến hành đổ bồi tạo
diện đổ thải. Ban đầu thi công mở bãi thải, ô tô chỉ được phép đổ đất trên mặt, sau
đó sử dụng máy gạt gạt bằng mặt thiết kế lớp đổ thải quy định 2m hoặc 4m.
4.2. Tiến hành đổ thải
Trình tự đổ thải được thiết lập trên cơ sở đảm bảo cho công tác đổ thải ổn định,
không ảnh hưởng đến sản xuất và đảm bảo điều kiện kỹ thuật an toàn.
1. Ở mỗi khu vực đổ thải có các vị trí: Vị trí đang đổ thải, vị trí dự phòng (nếu
có điều kiện). Việc đổ thải sẽ được luân chuyển từ vị trí này sang vị trí khác căn cứ
vào điều kiện an toàn của từng vị trí để quyết định.
2. Trong quá trình đổ thải phải thường xuyên quan sát bãi thải để xác định thời
điểm chuyển đổ thải sang vị trí khác một cách hợp lý, trên cơ sở chiều cao bãi thải,
tính chất đất đá, điều kiện thời tiết, tốc độ phát triển, chiều rộng của chu kỳ đang đổ
và hiện tượng sụt lún của vị trí đổ thải. Tuy nhiên trong mọi trường hợp, ở mỗi khu
vực không được phát triển quá 70 m chiều rộng trong một chu kỳ đổ thải.
3. Trên mỗi khu vực đang đổ thải dọc theo chu vi bãi thải phải tổ chức được tối
thiểu hai khu vực nhỏ: Khu vực ô tô lùi ra đổ đất, khu vực máy gạt đang gạt đất đá,
để đảm bảo ô tô và máy gạt đều đồng thời làm việc.
4. Ô tô đổ đất đá phải đổ ở vị trí kế tiếp nhau dọc theo chu vi và dịch chuyển vị
trí theo hướng phát triển đổ thải.
31
4.3. Củng cố bãi thải
Trong quá trình đổ thải, bãi thải có thể có hiện tượng sụt lún nứt nẻ, làm thay
đổi các thông số kỹ thuật an toàn của bãi thải. Để đảm bảo hoạt động ổn định cần
phải thường xuyên bồi dưỡng củng cố bãi thải.
1. Hàng ca phải thường xuyên kiểm tra bãi thải, khi phát hiện bãi thải có hiện
tượng sụt lún: Mặt bãi thải bị lún làm giảm độ dốc vào; xuất hiện các vết nứt trên
bề mặt; bờ an toàn không đảm bảo kích thước theo quy định, thì phải ngăn không
cho xe ra đổ thải ở khu vực có hiện tượng sụt lún và nhanh chóng tổ chức củng cố
lại để đảm bảo thông số theo quy định.
2. Củng cố bãi thải do sụt lún. Từ vị trí có hiện tượng bị sụt lún, nứt nẻ cho ô
tô đổ đất “úp bát” lên bề mặt. Lượng đất tùy theo khối lượng cần phải đổ bồi củng
cố. Sau đó sử dụng máy gạt san đất đá đổ bồi, nâng độ cao mặt bãi thải lên bằng
cao độ thiết kế để đảm bảo độ dốc thoát nước.
3. Củng cố bề mặt bãi thải khắc phục hiện tượng lồi lõm.
Trong quá trình xe ô tô ra vào đổ thải do sự tác động của bánh xe lên bề mặt
chưa ổn định nên mặt bãi thải hay có hiện tượng chỗ lồi, chỗ lõm. Để đảm bảo cho
xe ra vào đổ thải thuận lợi, cần phải thường xuyên san gạt tạo cho mặt bãi thải được
phẳng và dốc đều vào tâm bãi thải.
Nếu mức độ lồi lõm không lớn, sử dụng máy gạt trực tiếp san gạt bù trừ đất đá
chỗ lồi và chỗ lõm cho nhau.
Nếu mức độ lồi lõm lớn lựa chọn đất đá phù hợp (không sử dụng đất pha sét,
than, bùn) đổ bồi vào chỗ lõm bằng xe ô tô và san gạt. Vị trí cần đổ bồi do công
nhân máy gạt yêu cầu và công nhân chỉ dẫn đầu đường hướng dẫn cho xe đổ thải.
4. Củng cố bờ an toàn.
Khi bờ an toàn không đảm bảo kích thước theo quy định cần phải củng cố lại
ngay. Sau khi mặt bãi thải đảm bảo điều kiện kỹ thuật an toàn, chỉ dẫn cho xe đổ
đất cạnh bờ an toàn và dùng máy gạt để làm lại bờ an toàn đạt được kích thước theo
quy định. Ô tô chỉ được phép đổ đất trên mặt bãi thải và dùng máy ủi đẩy ra làm bờ
an toàn.
32
5. Củng cố bãi thải.
Cần phải đặc biệt tăng cường công tác kiểm tra và củng cố. Sau mỗi thời gian
tạm dừng đổ thải: Nghỉ giao ca; nghỉ sửa chữa máy; nghỉ do thời tiết… để tiếp tục
đổ thải trở lại, cán bộ công trường phải trực tiếp kiểm tra, củng cố, xử lý bãi thải
đảm bảo điều kiện kỹ thuật an toàn mới cho đổ.
- Cán bộ công trường trực tiếp chỉ đạo việc củng cố bãi thải.
- Hiện tượng sụt lún, nứt nẻ và việc củng cố ở ca trước phải được bàn giao chi
tiết cho ca sau, để ca sau nắm được tình trạng sụt lún của bãi thải và có biện pháp
xử lý đúng, đảm bảo an toàn cho sản xuất.
4.4. Thoát nước bãi thải
1. Có biện pháp hướng nước ra ngoài khu vực đổ thải, không cho các nguồn
nước chảy vào bãi thải, đặc biệt bãi thải đang hoạt động. Không được để cho mặt
bãi thải bị đọng nước và để nước trên bãi thải chảy ngược vào khai trường mỏ.
2. Trong quá trình đổ thải, phương hướng và trình tự đổ thải đảm bảo sao cho
mặt bãi thải có độ dốc để dồn nước (nước trên mặt bãi thải) tập trung về một khu
vực rồi theo hệ thống thoát nước chảy ra ngoài khu vực đổ thải.
3. Khi kết thúc đổ thải, sử dụng máy gạt kết hợp ô tô đổ đất cấm đường ra bãi
thải (nếu cần) làm hoàn chỉnh hệ thống thoát nước của toàn bộ khu vực bãi thải,
đảm bảo dẫn nước mặt trong khu vực bãi thải theo hệ thống thoát nước của mỏ.
33
PHỤ LỤC 5
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN VÀ CÔNG TÁC
CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG Ở VÙNG HÒN GAI
Hình 25: Bãi thải chưa trồng cây Hình 26: Bãi thải đã trồng cây
(Mỏ Núi Béo) (Mỏ Núi Béo)
Hình 27: Xói mòn ở bãi thải Hình 28: Mỏ than 917 và
của mỏ Núi Béo Nhà máy Nhiệt điện Hà Khánh
34
Hình 29: Moong khai thác mỏ than Núi Béo (12/2013)
Hình 30: Tầm nhìn từ bãi thải Hình 31: Bãi thải Nam
mỏ Núi Béo ra Vịnh Hạ Long Lộ Phong (122013)
35
Hình 32: Đập rọ đá chân Hình 33: Suối Lộ Phong
bãi thải Nam Lộ Phong (12/2013)
Hình 34: Toàn cảnh vịnh Hạ Long nhìn từ mỏ Núi Béo