BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT

ĐẶNG THỊ HẢI YẾN NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ – KỸ THUẬT TỔNG THỂ

NHẰM PHỤC VỤ CÔNG TÁC CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG

CHO CÁC MỎ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN

VÙNG HÒN GAI – CẨM PHẢ LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT

HÀ NỘI – 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT

ĐẶNG THỊ HẢI YẾN NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ – KỸ THUẬT TỔNG THỂ

NHẰM PHỤC VỤ CÔNG TÁC CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG

CHO CÁC MỎ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN

VÙNG HÒN GAI – CẨM PHẢ Ngành: Khai thác mỏ Mã số: 62520603

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1: PGS.TS BÙI XUÂN NAM 2: PGS.TS.NGƯT HỒ SĨ GIAO

HÀ NỘI - 2014

i

LỜI CẢM ƠN

Qua thời gian học tập, nghiên cứu và được đào tạo nghiên cứu sinh ngành Khai

thác mỏ tại Bộ môn Khai thác lộ thiên, Khoa Mỏ, Trường Đại học Mỏ - Địa chất

dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Bùi Xuân Nam, Trường Đại học Mỏ - Địa

chất và PGS.TS.NGƯT. Hồ Sĩ Giao, Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam, tôi

đã trau dồi thêm được các kiến thức chuyên sâu về lý luận và thực tiễn của chuyên

ngành Khai thác mỏ lộ thiên, trong đó có kỹ thuật cải tạo và phục hồi môi trường

các mỏ khai thác than lộ thiên. Đặc biệt, trong quá trình thực hiện luận án, kiến thức

chuyên ngành liên quan đến nội dung nghiên cứu của tôi đã được nâng cao, góp

phần giúp tôi hoàn thành tốt hơn công tác của bản thân tại Sở Tài nguyên và Môi

trường tỉnh Quảng Ninh.

Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án, NCS luôn

nhận được sự giúp đỡ đầy trách nhiệm và tình cảm của Tiểu ban hướng dẫn, của tập

thể các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp tại Bộ môn Khai thác lộ thiên; sự giúp

đỡ nhiệt tình của nhiều thầy, cô giáo trong Khoa Mỏ và Trường Đại học Mỏ - Địa

chất. Tôi cũng đã nhận được sự tạo điều kiện và giúp đỡ đặc biệt của Sở Tài nguyên

và Môi trường tỉnh Quảng Ninh để bản thân được tham gia những công trình nghiên

cứu của địa phương có liên quan đến nội dung luận án và tập trung thời gian hoàn

thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình.

NCS cũng đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu của các thầy công tác

tại Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam, Hội Kỹ thuật Nổ mìn Việt Nam,

Khoa Địa Lý - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội, Bộ

môn Khai thác lộ thiên - Khoa Mỏ - Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Cục thẩm định

và Đánh giá tác động Môi trường,... và nhiều ý kiến bổ ích của các nhà khoa học,

các chuyên gia về môi trường tại tỉnh Quảng Ninh.

Với tất cả lòng chân thành, NCS xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới những cá

nhân và tập thể trên đã góp phần quan trọng cho sự thành công của luận án. Nhân

dịp này, cho phép NCS gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu Trường Đại

ii

học Mỏ - Địa chất, Ban Chủ nhiệm Khoa Mỏ, Ban Chủ nhiệm Bộ môn Khai thác lộ

thiên... các cơ quan, các nhà khoa học cùng bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã

giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.

Hà Nội, ngày 08 tháng 7 năm 2014

Nghiên cứu sinh

Đặng Thị Hải Yến

iii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng bản Luận án này là công trình nghiên cứu khoa học, độc

lập của tôi. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận án này là trung thực, chưa hề

được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự tham

khảo cho việc thực hiện Luận án đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 08 tháng 7 năm 2014

Nghiên cứu sinh

Đặng Thị Hải Yến

iv

MỤC LỤC

i LỜI CẢM ƠN

iii LỜI CAM ĐOAN

iv MỤC LỤC

vii KÝ HIỆU VIẾT TẮT

viii DANH MỤC BẢNG

ix DANH MỤC HÌNH, SƠ ĐỒ

1 MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận án 1

2 2. Mục tiêu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài 3

4. Điểm mới của luận án 3

5. Luận điểm bảo vệ 4

6. Cơ sở tài liệu 4

7. Nơi thực hiện đề tài 5

8. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu 5

9. Cách tiếp cận 6

10. Quy trình nghiên cứu 8

11. Phương pháp nghiên cứu 11

12. Quan điểm nghiên cứu 12

13. Cấu trúc, nội dung của luận án 14

15 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC CẢI TẠO PHỤC HỒI

MÔI TRƯỜNG CHO CÁC MỎ LỘ THIÊN TRÊN THẾ GIỚI VÀ

Ở VIỆT NAM

15 1.1. Tổng quan về công tác CTPHMT cho các mỏ lộ thiên trên thế giới

1.1.1. Khái quát công tác CTPHMT sau khai thác tại một số mỏ lộ thiên ở 15

khu vực ASEAN

1.1.2. Trồng rừng CTPHMT và cải tạo các khu khai thác khoáng sản 16

thành các trung tâm du lịch, giải trí, thể thao

22 1.1.3. CTPHMT khai trường khai thác thành hồ chứa nước:

1.1.4. CTPHMT bãi thải để sử dụng cho nông nghiệp hoặc lâm nghiệp 22

1.1.5. Ổn định các sườn dốc 22

v

1.1.6. Hòa nhập khu vực được hoàn thổ với phong cảnh xung quanh 23

1.1.7. CTPHMT khu mỏ thành trung tâm vui chơi giải trí 24

25 1.2. Tổng quan về công tác CTPHMT tại các mỏ lộ thiên ở Việt Nam

1.2.1. Khái quát về tình hình khai thác khoáng sản ở Việt Nam 25

1.2.2. Hiện trạng công tác CTPHMT sau khai thác ở Việt Nam 28

30 1.3. Đánh giá chung về công tác CTPHMT tại các mỏ lộ thiên trên thế

giới và ở Việt Nam

1.3.1. Công tác CTPHMT cho các mỏ lộ thiên trên thế giới 30

1.3.2. Công tác CTPHMT cho các mỏ lộ thiên ở Việt Nam 32

34 1.4. Kết luận chương

36 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CẢI TẠO PHỤC HỒI

MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC MỎ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN

VÙNG HÒN GAI - CẨM PHẢ

36 2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả

37 2.2. Tài nguyên đất vùng Hòn Gai - Cẩm Phả

39 2.3. Thực trạng khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả

2.3.1. Khái quát hoạt động khai thác than lộ thiên 39

2.3.2. Đánh giá chung về những tác động môi trường chính gây ra 41

do khai thác than lộ thiên tại vùng Hòn Gai - Cẩm Phả

44 2.4. Hiện trạng công tác cải tạo, phục hồi môi trường tại các mỏ khai

thác than lộ thiên tại vùng Hòn Gai - Cẩm Phả

2.4.1. Cơ sở pháp lý và công tác CTPHMT giai đoạn 1993-2008 44

2.4.2. Cơ sở pháp lý và công tác CTPHMT giai đoạn 2008-2013 46

2.4.3. Phương án CTPHMT của các mỏ than lộ thiên được lập theo 48

quy định tại Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg.

2.4.4. Định hướng giải pháp cải tạo và phục hồi môi trường chung của 51

ngành than.

52 2.5. Công tác quản lý CTPHMT cho các mỏ khai thác than lộ

52 thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả 2.5.1. Công tác quản lý cải tạo và phục hồi môi trường của Vinacomin

vi

54 2.5.2. Công tác quản lý nhà nước về cải tạo và phục hồi môi trường

58 2.5.3. Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội và cộng đồng đối với công

tác quản lý tài nguyên và môi trường trong hoạt động khoáng sản

58 2.5.4. Công tác quản lý kỹ thuật cải tạo và phục hồi môi trường

65 2.6. Kết luận chương

68 CHƯƠNG III: NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ TỔNG

THỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI

TRƯỜNG CHO CÁC MỎ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN TẠI

VÙNG HÒN GAI – CẨM PHẢ

68 3.1. Các giải pháp quản lý hành chính

68 3.1.1. Cơ sở thực tiễn định hướng công tác quản lý hành chính

CTPHMT

69 3.1.2. Các giải pháp về tổ chức bộ máy

69 3.1.3. Các giải pháp cơ chế chính sách

71 3.1.4. Các giải pháp về khoa học công nghệ

73 3.1.5. Các giải pháp về tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức công đồng

73 3.2. Giải pháp quản lý kỹ thuật

73 3.2.1. Cơ sở thực tiễn định hướng quản lý kỹ thuật CTPHMT

75 3.2.2. Các giải pháp quản lý kỹ thuật

77 3.3. Giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng đất của khu vực

CTPHMT cho các mỏ khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả

3.3.1. Giải pháp áp dụng hệ số điều chỉnh kinh phí ký quỹ CTPHMT 77

theo vị trí khai thác

3.3.2. Giải pháp nghiệm thu công tác CTPHMT theo các tiêu chí 79

đánh giá kết quả CTPHMT

3.3.3. Giải pháp quản lý bằng một số nội dung quy định cần thiết 82

khác liên quan đến công tác CTPHMT

3.3.4. Giải pháp quản lý CTPHMT cho các mỏ than khai thác than lộ thiên 83

tại vùng trọng điểm.

3.3.5. Giải pháp quản lý môi trường vùng (trong đó có CTPHMT) bằng 85

công cụ ”Đánh giá môi trường tổng hợp”.

3.3.6. Giải pháp phân vùng chức năng sử dụng đất phục vụ công tác 99

vii

quản lý CTPHMT

3.3.7. Dự kiến kết quả mô hình định hướng vùng chức năng 105

CTPHMT phục vụ công tác quản lý CTPHMT cho một số mỏ than

KTLT vùng Hòn Gai

110 3.4. Kết luận chương

116 CHƯƠNG IV: NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP KỸ THUẬT CẢI

TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG CHO CÁC MỎ THAN LỘ

THIÊN VÙNG HÒN GAI – CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

116 4.1. Định hướng công tác kỹ thuật CTPHMT

118 4.2. Các dạng biến đổi địa hình do KTLT gây ra

4.2.1. Các dạng biến đổi địa hình khai trường mỏ lộ thiên 118

4.2.2. Các dạng bãi thải mỏ lộ thiên 119

122 4.3. Đề xuất các phương án CTPHMT

4.3.1. Phương án cải tạo, phục hồi môi trường đối với khai trường 122

4.3.2. Phương án cải tạo phục hồi môi trường đối với bãi thải đất đá 125

4.3.3. Cải tạo phục hồi môi trường đa mục tiêu 125

4.3.4. CTPHMT bờ mỏ, bãi thải... bằng giải pháp lập lại thảm thực vật 126

129 4.4. Đề xuất các giải pháp kỹ thuật cụ thể cho mỗi mỏ than KTLT lồng

ghép trong quá trình khai thác mỏ

4.4.1. Giải pháp đổ thải trên một số địa hình đặc trưng 129

4.4.2. Giải pháp kỹ thuật cải tạo hình dáng khai trường 132

4.4.3. Giải pháp kỹ thuật cải tạo mặt tầng (thực hiện ngay trong quá 134

trình khai thác tại giai đoạn kết thúc khai thác)

4.4.4. Giải pháp kỹ thuật cải tạo sườn tầng khai thác 135

4.4.5. Giải pháp kỹ thuật cải tạo bãi thải 136

4.4.6. Giải pháp giảm thiểu nguy cơ tai biến sạt lở đất và nguy cơ lũ 139

bùn đá tại vùng khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai – Cẩm Phả

154 4.5. Kết luận chương

156 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

159 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

162 TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

viii

KÝ HIỆU VIẾT TẮT

BVMT Bảo vệ môi trường

BT Bãi thải

CKBVMT Cam kết bảo vệ môi trường

CTPHMT Cải tạo phục hồi môi trường

Đánh giá môi trường chiến lược ĐMC

Đánh giá môi trường tổng hợp ĐMT

Báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM

Hoạt động khoáng sản HĐKS

Hệ thống khai thác HTKT

Hòn Gai – Cẩm Phả HG-CP

Khu công nghiệp KCN

Khoa học công nghệ KHCN

Khai thác lộ thiên KTLT

Kinh tế - xã hội KT-XH

Máy xúc tay gàu MXTG

Máy xúc thủy lực MXTL

Máy xúc thủy lực gàu ngược MXTLGN

Máy xúc thủy lực gàu thuận MXTLGT

Nghiên cứu khoa học NCKH

Quy chuẩn cho phép QCCP

Quy chuẩn môi trường QCMT

Quy chuẩn Việt Nam QCVN

Tài nguyên thiên nhiên TNTN

Tài nguyên và môi trường TN&MT

Vinacomin Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam

ix

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Sản lượng khai thác một số khoáng sản chủ yếu 27

27 Bảng 1.2: Sản lượng một số khoáng sản chủ yếu giai đoạn 20102020

Bảng 1.3: Kết quả điều tra sát hiện trạng và nhu cầu CTPHMT của một số 29

mỏ khoáng sản kim loại ở Việt Nam

Bảng 2.1: Tài nguyên đất vùng nghiên cứu Hòn Gai - Cẩm Phả 38

Bảng 2.2: Sản lượng than và đất đá bóc vùng Hòn Gai-Cẩm Phả 39

Bảng 2.3: Khối lượng đất đá thải của một số mỏ lộ thiên lớn 40

Bảng 2.4: Dự báo khối lượng đất đá thải vùng Hòn Gai-Cẩm Phả 40

Bảng 3.1: Giá trị hệ số Kv theo vùng, khu vực 78

Bảng 3.2: Quy ước hệ số Ki 82

Bảng 3.3: So sánh ĐMC, ĐTM, CKBVMT và ĐMT 87

Bảng 4.1: So sánh công tác đổ thải theo các phương thức đổ bãi thải 120

Bảng 4.2: Góc nghiêng của bờ mỏ phụ thuộc vào đặc tính đất đá 142

Bảng 4.3: Thông số đổ đường dốc 4m 151

x

DANH MỤC HÌNH, SƠ ĐỒ

Hình 0.1: Quy trình nghiên cứu giải pháp quản lý - kỹ thuật tổng thể phục 10

vụ công tác CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG - CP

Hình 1.1: Trình tự CTPHMT trong khai thác bauxit ở Nabalco 21

Hình 1.2: Minh họa kết quả của một dự án hoàn phục môi trường tại CHLB 23

Đức

Hình 1.3: Khai trường thiếc được CTPHMT với sân golf tại Clearwater 24

Sanctuary Golf Resort

Hình 1.4: Hệ sinh thái phong phú được phục hồi ở Paya Indah 24

Hình 1.5: Minh họa kết quả của một dự án hoàn phục môi trường tại CH 25

Pháp

Hình 2.1: Vị trí vùng Hạ Long và Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh 36

Hình 2.2: Bản đồ đánh giá độ dốc địa hình vùng Hòn Gai - Cẩm Phả 36

Hình 2.3: Vị trí, ranh giới khai thác than tại vùng Hòn Gai - Cẩm Phả 38

Hình 2.4: Phân bố khối lượng đổ thải các khu vực khai thác lộ thiên 41

Hình 2.5: Xói mòn đất đá thải tại bãi thải cũ khu KTLT Bù Lù - mỏ Tân Lập 42

Hình 2.6: Cảnh quan bãi thải Nam Lộ Phong sau 5 năm CTPHMT 48

Hình 2.7: Đập chắn bằng rọ đá bị mất tác dụng do đất đá bị rửa trôi tại bãi 59

thải mức +110 mỏ Tân Lập - Công ty Đông Bắc

Hình 2.8: Mặt cắt đào đắp cải tạo sườn dốc bờ moong 60

Hình 2.9: Công tác nạo vét hàng năm để duy trì hiệu quả của đập chắn đất đá trôi 61

tại bãi thải Nam Đèo Nai

Hình 2.10: CTPHMT bãi thải Đèo Nai (sử dụng Quỹ Môi trường tập trung 62

của Vinacomin và của Công ty than Đèo Nai)

Hình 2.11: Trồng cây CTPHMT trên bãi thải khu vực Khe Sim 63

Hình 3.1: Sơ đồ đề xuất các biện pháp quản lý CTPHMT cho các mỏ khai 85

thác lộ thiên tại vùng trọng điểm

Hình 3.2: Sơ đồ vị trí, ranh giới một số mỏ than KTLT vùng Hòn Gai. 113

Hình 3.3: Sơ đồ phân vùng chức năng sử dụng đất CTPHMT cho một số mỏ 114

than KTLT vùng Hòn Gai (dự kiến)

Hình 3.4: Sơ đồ phối cảnh kết quả CTPHMT của một số mỏ than KTLT 115

xi

vùng Hòn Gai (dự kiến).

Hình 4.1: Sơ đồ địa hình khai thác để lại hố sâu moong khai thác 118

Hình 4.2: Sơ đồ khai thác vỉa kéo dài, kết thúc từng khu vực làm bãi thải 118

trong

Hình 4.3: Sơ đồ địa hình đáy khai trường khi khai thác vỉa kéo dài, kết thúc 118

từng khu vực làm bãi thải trong

Hình 4.4: Sơ đồ khai thác các khai trường liền kề, khai trường kết thúc trước 119

sẽ làm bãi thải cho khai trường kết thúc sau

Hình 4.5: Sơ đồ địa hình đáy các khai trường liền kề, khai trường kết thúc 119

trước sẽ làm bãi thải cho khai trường kết thúc sau

Hình 4.6: Sơ đồ sử dụng bãi thải tạm và bãi thải trong đối với mỏ có nhiều 119

động tụ

Hình 4.7: Giải pháp đổ thải bãi thải trong khi không gian đổ thải là một 130

động tụ kín (là khai trường khai thác lộ thiên đã kết thúc khai thác)

Hình 4.8: Giải pháp đổ thải khi bãi thải cao hơn mép động tụ kín 130

Hình 4.9: Giải pháp đổ thải khi không gian đổ thải là một động tụ hở 131

Hình 4.10: Giải pháp đổ thải bãi thải trong hay bãi thải tạm tại động tụ hở 132

Hình 4.11: Hình dáng khai trường Vỉa 11, 13, 14 cánh Đông mỏ Núi Béo 133

khi kết thúc (theo thiết kế)

Hình 4.12: Hình dáng khai trường Vỉa 11, 13, 14 cánh Đông đề nghị thực 133

hiện tại giai đoạn kết thúc khai thác

Hình 4.13: Hình dáng khai trường Khu II, Bắc Hữu Nghị mỏ Hà Lầm và 134

Vỉa 14 cánh Tây mỏ Núi Béo khi kết thúc (theo thiết kế)

Hình 4.14: Hình dáng khai trường Khu II, Bắc Hữu Nghị mỏ Hà Lầm và 134

Vỉa 14 cánh Tây mỏ Núi Béo cải tạo

Hình 4.15: Hình dáng mặt tầng khai thác khi kết thúc 135

Hình 4.16: Hình dáng mặt tầng đã cải tạo 135

Hình 4.17: Hình dáng sườn tầng khai thác khi kết thúc 136

Hình 4.18: Hình dáng sườn tầng khai thác sau khi cải tạo 136

Hình 4.19: Tầng thải cao 136

Hình 4.20: Tầng thải đã cải tạo bằng giải pháp đổ bổ sung thêm các phân 136

tầng

xii

Hình 4.21: Tầng thải đã cải tạo bằng giải pháp cắt thành các phân tầng 137

Hình 4.22: Đổ thải nhiều lớp tại thung lũng 137

Hình 4.23: Đổ thải 01 lớp tại thung lũng 137

Hình 4.24: Hình dáng bãi thải Chính Bắc theo thiết kế 138

Hình 4.25: Đổ thải bãi thải Chính Bắc sau cải tạo 138

Hình 4.26: Kỹ thuật đổ thải tạo vùng trũng chứa nước cải tạo đất 139

Hình 4.27: Bản đồ nguy cơ lũ bùn đá khu vực Hạ Long - Cẩm Phả 141

Hình 4.28: Sơ đồ mô phỏng công tác thoát nước mặt và nước ngầm 142

Hình 4.29: Nâng cao độ ổn định bờ mỏ bằng neo 143

Hình 4.30: Nâng cao độ ổn định bờ mỏ bằng cọc bê tống cốt thép 144

Hình 4.31: Bảo vệ bờ mỏ bằng tường chắn ở chân mái dốc 144

Hình 4.32: Bóc bỏ toàn bộ phần không ổn định hoặc có nguy cơ trượt lở 145

Hình 4.33: Sơ đồ nạp khoan lỗ khoan nổ (a) và sơ đồ phân bố lỗ khoan 146

biên (b)

Hình 4.34: Lịch trình của các bước hình thành bãi thải đổ thải theo lớp 151

Hình 4.35: Đổ đường dốc lớp 4m 152

Hình 4.36: Sơ đồ quay đảo chiều khi đổ lớp 4 m 152

Hình 4.37: Sơ đồ xác định bờ an toàn cho xe CAT 773E và CAT 773F 153

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận án

Tỉnh Quảng Ninh nằm trong địa bàn động lực của vùng kinh tế trọng điểm Bắc

Bộ, cùng với Hà Nội và Hải Phòng, Quảng Ninh đóng vai trò là một trong những

tỉnh đầu tàu về phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), tạo ra sức lan tỏa trong quá

trình phát triển của cả vùng. Tầm nhìn chiến lược của tỉnh Quảng Ninh là tạo bước

phát triển đột phá, đưa tỉnh Quảng Ninh trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại

vào năm 2020, giữ vai trò là một trong những đầu tàu kinh tế của miền Bắc, là địa

phương đi đầu trong cả nước đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi phương thức

phát triển từ “Nâu” sang “Xanh”, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, tạo nền tảng

vững chắc để Quảng Ninh phát triển nhảy vọt, toàn diện sau năm 2020.

Trong tỉnh Quảng Ninh, có thành phố Hạ Long và Cẩm Phả có sự phát triển

KT-XH rất sôi động, tốc độ phát triển kinh tế luôn đạt trên 10% trong những năm

gần đây, đặc biệt là phát triển công nghiệp (than, xi măng), cảng biển và du lịch.

Hoạt động khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả (HG-CP) (thuộc

địa bàn thành phố Hạ Long và Cẩm Phả), phát triển ở sườn các dãy núi phía Bắc

đường 18A, trên chiều dài khoảng 50 km, chiều rộng khoảng 15 km. Các mỏ than

đều phân bố ở khu vực có địa hình đồi núi thấp (100÷300m), thuộc phạm vi các lưu

vực nước quan trọng; tiếp giáp khu vực đô thị trọng điểm, tập trung dân cư và các

hệ sinh thái cửa sông, ven biển Bái Tử Long và vịnh Hạ Long (di sản - kỳ quan

thiên nhiên thế giới).

Hiện nay, toàn vùng Hòn Gai đã cơ bản kết thúc khai thác lộ thiên (KTLT),

chuyển mạnh sang khai thác hầm lò; tại vùng Cẩm Phả, hầu hết hoạt động KTLT tại

các lộ vỉa đã kết thúc khai thác và trong giai đoạn tới một số mỏ lớn ở vùng này sẽ

chuyển sang giai đoạn chuẩn bị đóng cửa mỏ.

Việc quản lý cải tạo và phục hồi môi trường (CTPHMT) mới được xác lập rõ

ràng cách đây 5 năm, từ khi Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg, ngày 29 tháng 5 năm

2

2008 của Thủ tướng Chính phủ về ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt

động khai thác khoáng sản than (Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg), công tác quản lý

kỹ thuật CTPHMT hiện nay còn nhiều bất cập.

Lịch sử lâu dài của quá trình KTLT các mỏ than đã để lại và tiếp tục để lại

những hậu quả lâu dài, toàn diện về môi trường ngay cả khi kết thúc khai thác thì

các khai trường và bãi thải của vẫn mỏ tiếp tục là nguồn tiềm ẩn gây ô nhiễm môi

trường và các tai biến môi trường như nguy cơ xói mòn đất, trượt lở, lũ quét, bồi

lắng; môi trường không khí, môi trường đất, môi trường nước tiếp tục bị ô nhiễm

trong thời gian chưa CTPHMT và khi việc CTPHMT chưa đạt hiệu quả về môi

trường cảnh quan, chống xói mòn, trượt lở bền vững và chưa mang lại hiệu quả

kinh tế và duy trì hiệu quả CTPHMT bền vững, thì sẽ làm ảnh hưởng đáng kể đến

đời sống của nhân dân và sự phát triển của các ngành kinh tế khác từ thế hệ này

sang thế hệ khác.

Như vậy, việc nghiên cứu, tìm tòi các giải pháp quản lý - kỹ thuật tổng thể

nhằm phục vụ công tác CTPHMT cho các mỏ khai thác than lộ thiên để phục vụ lợi

ích hiện tại, tương lai cho dân cư vùng mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả nói riêng và toàn

tỉnh Quảng Ninh nói chung là cần thiết và cấp bách.

Đề tài luận án “Nghiên cứu các giải pháp quản lý - kỹ thuật tổng thể nhằm

phục vụ công tác cải tạo và phục hồi môi trường cho các mỏ khai thác than lộ

thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả” là vấn đề khoa học có tính cấp thiết và thực tiễn

cao, là cơ sở để quản lý CTPHMT khai thác than lộ thiên vùng phụ cận phát triển

kinh tế với quỹ đất hạn hẹp cho việc phát triển không gian đô thị, du lịch, phù hợp

với sự phát triển kinh tế đa dạng của địa bàn và môi trường tự nhiên, để tiếp tục

phát huy hiệu quả sử dụng đất sau khai thác mỏ nhằm đáp ứng được các mục tiêu về

CTPHMT đối với các hoạt động khai thác than lộ thiên trong khu vực.

2. Mục tiêu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

2.1. Mục tiêu

3

- CTPHMT và duy trì kết quả CTPHMT bền vững cho mỗi một dạng mỏ

KTLT nhưng vẫn thống nhất trong mỗi cụm mỏ nhằm giảm thiểu tối đa các ảnh

hưởng xấu của hoạt động KTLT trong quá trình khai thác và sau khi dừng khai thác.

- Thực hiện quản lý - kỹ thuật CTPHMT đối với khu vực có các mỏ than tiếp

giáp và lân cận các vùng phát triển kinh tế, đảm bảo việc CTPHMT theo hướng đa

mục tiêu để thuận lợi cho việc sử dụng nguồn tài nguyên đất sau này, nhằm tăng

cường hiệu quả sử dụng đất, tăng quỹ đất sử dụng cho phát triển kinh tế và mang lại

việc làm cho người lao động (khi mỏ dừng khai thác), nhằm tiếp tục phát triển kinh

tế địa phương.

- Sử dụng nguồn tiền ký quỹ và huy động vốn đầu tư hợp lý, phù hợp với khả

năng kinh tế của chủ mỏ hoặc chủ đầu tư của cộng đồng trong và ngoài nước nhằm

từng bước giải quyết ô nhiễm môi trường vùng trọng điểm, cách ly khu vực có hoạt

động khoáng sản than và tạo sự chuyển biến rõ nét về kết quả CTPHMT.

2.2. Ý nghĩa khoa học

- Đưa ra cơ sở khoa học của công cụ quản lý - kỹ thuật phục vụ công tác

CTPHMT cho các mỏ than KTLT;

- Bổ sung cơ sở khoa học trong việc định hướng phân vùng sử dụng hợp lý tài

nguyên đất và bảo vệ môi trường (BVMT) tại các mỏ than KTLT.

2.3. Ý nghĩa thực tiễn

- Góp phần nâng cao hiệu quả công tác CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng

HG-CP;

- Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất của các mỏ than KTLT vùng HG-CP

sau khai thác và nâng cao chất lượng môi trường khu vực.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

- Đối tượng nghiên cứu: các mỏ than KTLT vùng HG-CP, tỉnh Quảng Ninh.

- Phạm vi nghiên cứu: công tác CTPHMT tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP.

4. Điểm mới của luận án

4

- Lần đầu tiên đề xuất sự cần thiết phải bổ sung “Đánh giá môi trường tổng

hợp” vào khung chính sách về công cụ BVMT; đồng thời xây dựng định hướng, nội

dung, nhiệm vụ và phương pháp thực hiện báo cáo ĐMT nhằm mục tiêu đảm bảo

phát triển bền vững cho các tiểu vùng công nghiệp trọng điểm.

- Lần đầu tiên đề xuất các tiêu chí cụ thể, có tính định lượng vào việc đánh giá

kết quả hoạt động CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP.

- Đề xuất được giải pháp quản lý CTPHMT trên cơ sở định hướng phân vùng

chức năng sử dụng đất CTPHMT sau khai thác mỏ than KTLT nhằm sử dụng hợp

lý tài nguyên đất trong khu vực nghiên cứu.

- Đề xuất được các phương án CTPHMT hợp lý cho từng dạng mỏ than KTLT.

- Đề xuất được giải pháp kỹ thuật lồng ghép hoạt động CTPHMT vào quá trình

khai thác tại các mỏ than lộ thiên vùng HG-CP nhằm đảm bảo các tiêu chí về kỹ

thuật CTPHMT, tiết kiệm thời gian và giảm chi phí vận hành.

5. Luận điểm bảo vệ

- Luận điểm 1: CTPHMT đa mục tiêu cho một số mỏ than KTLT trong cụm

mỏ KTLT vùng HG-CP có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát huy Di sản

thiên nhiên thế giới - Vịnh Hạ Long và Bái Từ Long, đồng thời là động lực để phát

triển KT-XH khu vực.

- Luận điểm 2: Các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác CTPHMT sẽ đảm bảo

sự khách quan và minh bạch trong việc nghiệm thu CTPHMT cho từng mỏ than

KTLT vùng HG-CP.

- Luận điểm 3: Các hoạt động kỹ thuật CTPHMT lồng ghép trong quá trình

khai thác là yếu tố chính giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tai biến môi trường và chi

phí CTPHMT sau khai thác tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP.

6. Cơ sở tài liệu

Tài liệu về công tác CTPHMT đối với hoạt động khai thác khoáng sản của một

số mỏ lộ thiên trên Thế giới và ở Việt Nam; Các dự án CTPHMT đối với họat động

5

khai thác than lộ thiên vùng HG-CP; Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam

đến năm 2020 có xét triển vọng đến năm 2030; Tài liệu quy hoạch bảo vệ môi

trường của tỉnh Quảng Ninh và một số tài liệu kỹ thuật ngành mỏ.

7. Nơi thực hiện đề tài

Bộ môn Khai thác lộ thiên, Khoa Mỏ, Trường Đại học Mỏ - Địa Chất.

8. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu

a. Khái niệm cải tạo và phục hồi môi trường

- CTPHMT trong khai thác khoáng sản là hoạt động đưa môi trường, hệ sinh

thái (đất nước, không khí, cảnh quan thiên nhiên, thảm thực vật,…) tại khu vực khai

thác khoáng sản và các khu vực bị ảnh hưởng do hoạt động khai thác khoáng sản về

trạng thái môi trường gần với trạng thái môi trường ban đầu hoặc đạt được các tiêu

chuẩn, quy chuẩn về an toàn, môi trường và phục vụ các mục đích có lợi cho con

người (theo Quyết định số 18/2013/TT-Tg, ngày 29/3/2013 về CTPHMT đối với

hoạt động khai thác khoáng sản (Quyết định số 18/2013/TT-Tg)).

- CTPHMT đa mục tiêu là CTPHMT đạt được các tiêu chuẩn, quy chuẩn về an

toàn, môi trường và tiếp tục sử dụng tài nguyên đất phát triển kinh tế.

- CTPHMT thông thường là CTPHMT đạt được các tiêu chuẩn, quy chuẩn về

an toàn, môi trường.

b. Khái niệm đánh giá môi trường tổng hợp

Đánh giá môi trường tổng hợp (ĐMT) là việc phân tích, tổng hợp các tác động

môi trường cộng hưởng; tác động môi trường tích lũy; khả năng chịu tải của nguồn

tiếp nhận; các trọng điểm dẫn đến sự vượt ngưỡng các chỉ tiêu môi trường của các

hoạt động phát triển kinh tế trong vùng, khu vực trọng điểm để chỉ ra các vấn đề

môi trường vùng, vùng ưu tiên để đề xuất giải pháp tổng hợp và riêng lẻ nhằm tập

trung nguồn kinh phí hạn hẹp của ngân sách nhà nước và của doanh nghiệp trong

nền kinh tế đang phát triển để giải quyết triệt để.

6

c. Khái niệm phân vùng chức năng sử dụng đất đối với vùng cải tạo và phục

hồi môi trường sau khai thác mỏ lộ thiên

Không phải bất cứ một sự phân chia địa lý nào của bề mặt Trái đất cũng được

gọi là phân vùng và cũng không phải bất cứ một phạm vi nào được chia ra trên bản

đồ cũng là một vùng, nghĩa là kết quả của công tác phân vùng phải được kết hợp

giữa tính thống nhất của các yếu tố, hiện tượng bên trong và bên ngoài. Như nhiều

tác giả khẳng định “phân vùng trước hết là sự phân chia các vùng giữ được tính

toàn vẹn lãnh thổ và giữ được thống nhất nội tại xuất phát từ tính thống nhất trong

lịch sử phát triển trong địa lý, trong các quá trình địa lý và trong gắn bó về lãnh thổ

của các bộ phận cấu tạo riêng biệt” [39].

Tóm lại, “Phân vùng là một hệ thống hóa khoa học đặc biệt các sự vật và hiện

tượng tạo nên các tổng thể có quy luật về mặt lãnh thổ và đặc tính của chúng phụ

thuộc vào vị trí địa lý” [29].

Phân vùng chức năng sử dụng đất là phân vùng trong đó các vùng với các

chức năng sử dụng đất phát triển kinh tế khác nhau phù hợp với điều kiện khách

quan, đồng thời đảm bảo giá trị sử dụng thực tiễn của các vùng được phân chia.

Việc thực hiện CTPHMT theo định hướng phân vùng chức năng sử dụng đất

của vùng CTPHMT đối với hoạt động khai thác than lộ thiên nhằm tái tạo lại môi

trường; khôi phục tài nguyên đất nhằm tổ chức lại không gian, môi trường sử dụng

lại tài nguyên đất, trên cơ sở các vùng đã khai thác hết tài nguyên; khắc phục cảnh

quan xấu, mang lại cảnh quan mới về môi trường với một hệ sinh thái mới và tiếp

tục mang lại hiệu quả phát triển kinh tế phục vụ đời sống con người.

d. Khái niệm lồng ghép CTPHMT trong quá trình khai thác mỏ than lộ thiên

Việc lồng ghép CTPHMT trong quá trình khai thác mỏ than lộ thiên ở đây là

một quá trình lặp đi lặp lại việc lồng ghép các hoạt động CTPHMT với quá trình

khai thác mỏ trong các giai đoạn từ thiết kế cải tạo mở rộng mỏ đến giai đoạn kết

thúc mỏ. Quá trình này là sự lỗ lực của nhiều bên liên quan cho mục tiêu giảm thiểu

7

chi phí CTPHMT, rút ngắn thời gian CTPHMT và triệt tiêu nguy cơ tai biến môi

trường,...

9. Cách tiếp cận

Hầu hết các mỏ than lộ thiên tại vùng HG-CP đã được tiến hành khai thác từ rất

lâu (có mỏ có thời gian tồn tại đã hơn 100 năm); các mỏ than này luôn được thiết kế

mở rộng, cải tạo mỏ sau mỗi một giai đoạn khai thác.

Thực tế, hoạt động KTLT vùng HG-CP đã góp phần tạo ra sự phát triển kinh tế

khác như cảng biển, phát triển các dịch vụ, du lịch,… nhưng cũng đã làm thay đổi

địa hình, làm xấu cảnh quan và gây ra ô nhiễm môi trường xung quanh,… làm ảnh

hưởng không nhỏ đến sự phát triển của các ngành khác như: du lịch, cảng biển, nuôi

trồng thủy sản,…

Do vậy, cách tiếp cận về nghiên cứu các giải pháp quản lý - kỹ thuật CTPHMT

tổng thể nhằm phục vụ cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP như sau: coi việc

CTPHMT là một trong các khâu trong quá trình của hoạt động khai thác. Đó là một

dòng liên tục được gắn kết, xem xét lồng ghép CTPHMT ngay từ khâu thiết kế mở

rộng, trong quá trình khai thác, cho tới khi cải tạo phục hồi đất đai và việc sử dụng

đất sau đó.

Trước khi hoạt động mở rộng khai thác được tiếp tục, những dự định vạch ra

về CTPHMT chi tiết phải được lồng ghép trong quá trình thiết kế khai thác mở

rộng, ví dụ khi xem xét, nghiên cứu tạo một cảnh quan mới (sau khi kết thúc khai

thác mỏ than lộ thiên) phù hợp với địa hình, cảnh quan xung quanh, hệ thống thoát

nước,... Những khu vực này được thiết kế khai thác mở rộng và được dự định

CTPHMT thành một số loại hình sử dụng đất. Như vậy, việc chỉ rõ loại hình sử

dụng đất được xem xét trước khi bắt đầu tiến hành khai thác mở rộng.

Một phương án CTPHMT chi tiết được xem xét ngay từ khi thiết kế khai thác

mở rộng sẽ giúp cho việc thiết kế thực hiện lồng ghép giữa hoạt động khai thác và

8

những hoạt động CTPHMT đồng thời và quá trình lồng ghép kỹ thuật này mới có

thể thực hiện được.

Cách tiếp cận trên cho phép xử lý toàn bộ vấn đề CTPHMT cho một mỏ trong

tổng thể nhiều mỏ hơn là giải quyết CTPHMT cho mỗi một mỏ riêng biệt (chỉ được

thực hiện sau khi mỏ đã kết thúc khai thác) vì sẽ giảm được đáng kể thời gian và

kinh phí CTPHMT.

Nếu hoạt động khai thác than lộ thiên được thực hiện theo đúng thiết kế, đồng

thời có tính định hướng phục vụ cho công tác CTPHMT trong giai đoạn kết thúc sẽ

tạo được thuận lợi rất lớn và giảm đáng kể kinh phí đầu tư cho công tác CTPHMT.

Ngược lại, khi không quan tâm đến công tác này thì sau đó sẽ gặp rất nhiều khó

khăn và phải mất một khoản kinh phí lớn để cải tạo, phá bỏ những nội dung

CTPHMT chưa phù hợp. Ví dụ, các bãi thải của những mỏ khai thác than lộ thiên

thực hiện theo đúng thiết kế với các phân tầng (30 m/tầng), kiểu như ruộng bậc

thang, thì bãi thải đó đã có bờ tầng, mặt tầng ổn định, triệt tiêu được nguy cơ tai

biến sạt lở bãi thải, rất thuận lợi cho công tác trồng cây, thậm chí canh tác (không

phải tiêu tốn kinh phí cắt tầng, san gạt tạo mặt tầng mới giữa các tầng thải).

Tóm lại, cách tiếp cận coi CTPHMT là một quá trình BVMT lồng ghép trong

quá trình khai thác mang tính đặc thù riêng của quá trình khai thác mỏ. Chỉ khi nào

CTPHMT cùng tiến hành đồng thời với quá trình khai thác mỏ theo định hướng

chức năng sử dụng đất (được xác lập trên cơ sở ĐMT vùng trọng điểm, trong đó có

phân vùng CTPHMT), có luận cứ khoa học, có cân nhắc tính toán toàn diện về các

mặt kinh tế - xã hội - môi trường (KT-XH-MT)), thì khi đó mới có giải pháp BVMT

(giải pháp CTPHMT) thiết thực và hiệu quả.

Khi đó, hoạt động CTPHMT các mỏ than KTLT sẽ giải quyết được triệt để

vấn đề ô nhiễm, tai biến môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản và tiếp tục

là vùng đất làm cho xã hội phát triển và ổn định, đó là điều kiện để các yếu tố kinh

9

tế và kỹ thuật của hoạt động khai thác tài nguyên được đầu tư trở lại cho môi trường

được bền vững.

10. Quy trình nghiên cứu

Quy trình nghiên cứu trải qua 2 bước cơ bản được trình bày trong hình 0.1 như sau:

Bước 1: Tổng hợp, phân tích và đánh giá công tác CTPHMT của một số mỏ

khai thác lộ thiên trên thế giới và ở Việt Nam; Điều tra, phân tích và đánh giá các

điều kiện tự nhiên, KT-XH-MT lân cận và của khu vực nghiên cứu; Tổng hợp, phân

tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý hành chính - kỹ thuật CTPHMT; Các

giải pháp kỹ thuật đã và đang áp dụng cho công tác CTPHMT đối với các mỏ than

KTLT vùng HG-CP.

Bước 2: Nghiên cứu các giải pháp quản lý CTPHMT theo vùng ưu tiên

(tương ứng vùng CTPHMT ưu tiên) tại các khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế

(ở lân cận các khu đô thị trọng điểm, các khu phát triển kinh tế,...) trên cơ sở nghiên

cứu ĐMT vùng, khu vực trọng điểm; Nghiên cứu các phân vùng chức năng sử dụng

đất đối với khu vực CTPHMT của mỏ than KTLT; Đề xuất các giải pháp quản lý

hành chính CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP; mô hình định hướng tổ

chức không gian sử dụng hợp lý quỹ đất sau CTPHMT nhằm đáp ứng nhu cầu đất

sử dụng cho các vùng kinh tế phụ cận và BVMT khu dân cư, vịnh Hạ Long và Bái

Tử Long. Nghiên cứu việc đánh giá kết quả công tác CTPHMT theo một số tiêu chí

định lượng theo các công thức toán học nhằm áp dụng cho các mỏ than KTLT tại

vùng HG-CP; Nghiên cứu các giải pháp CTPHMT cho các dạng mỏ than KTLT đặc

trưng; Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật CTPHMT (cho mỗi một dạng đặc trưng

trong các dạng mỏ than KTLT kết thúc khai thác) lồng ghép trong ngay quá trình

khai thác mỏ than KTLT nhằm tăng cường hiệu quả CTPHMT và sử dụng nguồn

kinh phí ký quỹ.

10

Điều tra, phân tích và đánh giá các điều kiện tự nhiên, KT-XH và môi trường lân cận và của khu vực nghiên cứu

Tổng hợp, phân tích và đánh giá công tác CTPHMT của một số mỏ khai thác lộ thiên trên thế giới và Việt Nam

Tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý hành chính - kỹ thuật CTPHMT

Bước 1

Các giải pháp kỹ thuật đã và đang áp dụng CTPHMT cho mỏ than KTLT vùng HG-CP. (I.4)

Nghiên cứu đánh giá môi trường tổng hợp vùng, khu vực trọng điểm

Nghiên cứu phân vùng chức năng sử dụng đất đối với khu vực CTPHMT cho mỏ than KTLT

Nghiên cứu các giải pháp quản lý CTPHMT theo vùng ưu tiên tại các khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế

Bước 2

Đề xuất các giải pháp quản lý hành chính CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP; mô hình sử dụng đất sau CTPHMT vùng HG-CP

Nghiên cứu việc đánh giá kết quả CTPHMT theo tiêu chí định lượng theo công thức toán học

Nghiên cứu một số dạng bãi thải

Đề xuất các giải pháp CTPHMT cho các dạng mỏ than KTLT đặc trưng

Nghiên cứu một số dạng khai trường mỏ than KTLT đặc trưng

Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật CTPHMT lồng ghép trong quá trình khai thác mỏ lộ thiên

Hình 0.1: Quy trình nghiên cứu giải pháp quản lý - kỹ thuật tổng thể

phục vụ công tác CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP

11

11. Phương pháp nghiên cứu

a. Phương pháp phân tích và tổng hợp

Phương pháp này được sử dụng giúp làm rõ hơn cơ sở lý luận và các hướng

nghiên cứu cũng như các công trình nghiên cứu đã thực hiện ở khu vực nghiên cứu.

Việc phân tích và tổng hợp, tổng luận các tài liệu và các công trình nghiên cứu

trước đó giúp tránh sự trùng lặp trong nghiên cứu; thừa kế các kết quả nghiên cứu

trước đó; biết được hạn chế của các nghiên cứu trước đó và định hướng nghiên cứu

cho luận án.

b. Phương pháp thu thập tài liệu

Trong quá trình nghiên cứu, NCS đã thu thập 55 tài liệu tham khảo; nhiều bản

đồ, ảnh vệ tinh trong và ngoài nước có liên quan với các nội dung nghiên cứu. Các

tài liệu này được phân tích một cách chi tiết để tìm ra các nội dung phù hợp và cần

thiết cho luận án.

c. Phương pháp khảo sát thực địa

Trong quá trình nghiên cứu thực hiện, NCS đã nghiên cứu, khảo sát tổng hợp

vùng khai thác than lộ thiên vùng HG-CP vào 2 mùa khác nhau trong thời gian

nghiên cứu (mùa mưa và mùa khô).

Các kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tế đó đã giúp làm rõ hơn về các đặc

điểm tự nhiên, hiện trạng CTPHMT tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP. Đây là cơ

sở quan trọng cho các nghiên cứu và đề xuất giải pháp quản lý - kỹ thuật, đảm bảo

tính logic, tính khoa học và thực tiễn, cho phép áp dụng được ngay trong điều kiện

cụ thể của các mỏ than KTLT trong các khu vực này.

d. Phương pháp toán học

Trong quá trình thực hiện, NCS đã sử dụng toán học ứng dụng, một nhánh toán

học liên quan đến việc ứng dụng kiến thức toán học vào những lĩnh vực nghiên cứu

và sử dụng những công thức toán học thuần túy với những ứng dụng thực tiễn

thường được khám phá từ những các đại lượng, các thông số,… đặc trưng cho loại

hình nghiên cứu. Thông qua việc sử dụng những phương pháp lôgic, toán học để

tính toán, đo lường áp dụng vào nghiên cứu có hệ thống các thông số liên quan (lĩnh

12

vực nghiên cứu phù hợp với thực tế) và áp dụng các công thức toán học để thể hiện

một số kết quả nghiên cứu.

e. Phương pháp chuyên gia

Trong quá trình thực hiện, NCS đã thực hiện các cuộc trao đổi thông tin, xin ý

kiến, phỏng vấn những người có am hiểu hoặc có liên quan đến những thông tin về

công tác BVMT, CTPHMT; phân vùng, đánh giá môi trường,…. Tổ chức hội thảo

dưới các hình thức hội nghị xin ý kiến của các nhà khoa học ngành mỏ và môi

trường.

12. Quan điểm nghiên cứu

Quan điểm nghiên cứu biện pháp quản lý - kỹ thuật CTPHMT được vận dụng

và phát triển như sau:

- Quan điểm hệ thống: Có nhiều quan niệm khác nhau về hệ thống tùy thuộc

vào từng lĩnh vực nghiên cứu và sản xuất. Các nhà cảnh quan học quan niệm hệ

thống như một địa hệ - hệ thống của các yếu tố tự nhiên, là “tổng thể các thành

phần nằm trong sự tác động tương hỗ” (L. Bertalanf), là “tập hợp bất kỳ các thành

phần tác động tương hỗ” (A.Đ. Armand, 1971) và có tính thứ bậc. Các nhà kinh tế

sinh thái quan niệm hệ thống như một hệ thống xã hội - môi trường (socio-

environmental system) - những hệ thống phức tạp, tồn tại ở nhiều dạng khác nhau

và có thể thực hiện những hoạt động không thể dự báo trước (Clayton và Radcliffe,

1996), có khả năng tự điều chỉnh và có thứ bậc, bao gồm nhiều hệ thống nhỏ khác

nhau (Jennings và Reganold, 1991; Norton và Ulanowicz, 1992; Warren và Cheney,

1993; Muster et al, 1994). Các nhà quy hoạch vùng và tổ chức lãnh thổ quan niệm

hệ thống là một thể thống nhất và khách quan của mọi chủ thể tồn tại và phát triển

trên trái đất. Do đó, mọi hoạt động của hệ thống phải luôn thể hiện ở trạng thái cân

bằng và phải được điều chỉnh kịp thời khi chịu tác động, đó là tiêu chuẩn của phát

triển bền vững [31], [38]. Vì vậy, trong quá trình ĐMT phải quan niệm vùng, khu

vực ĐMT như một hệ thống hoàn chỉnh và thống nhất của các hợp phần tự nhiên

(địa chất - địa hình, khí hậu - thủy văn, đất - sinh vật), các hợp phần KT-XH mang

13

tính chất nhân sinh (cơ sở hạ tầng, các hoạt động sản xuất) và các mối liên hệ giữa

chúng .

Việc xem xét vùng, khu vực nghiên cứu biện pháp quản lý - kỹ thuật CTPHMT

như một hệ thống cũng hàm ý nhấn mạnh lợi ích, môi trường chung của vùng là

quan trọng hơn lợi ích, môi trường của một ngành hay một lĩnh vực riêng lẻ nào đó.

Do vậy, bất kỳ một hoạt động nào gây tổn hại đến lợi ích chung, đến môi trường

của vùng cũng cần phải được cân nhắc và quyết định về vị trí, quy mô, loại và thời

gian phát triển.

- Quan điểm tổng hợp: Quan điểm tổng hợp xuất phát từ quan điểm hệ thống,

nhấn mạnh mối quan hệ thống nhất và biện chứng giữa các yếu tố hệ thống trong

một tổng thể hoàn chỉnh mà mỗi yếu tố (hệ thống này) là một mắt xích trong một

mạng lưới liên hệ với các yếu tố và hệ thống khác. Do đó, quan điểm tổng hợp đòi

hỏi cần phải hiểu rõ, hiểu đúng các yếu tố cấu thành hệ thống và mối liên hệ giữa

chúng trước khi quyết định tác động vào một yếu tố. Bởi lẽ chỉ cần một tác động

nhỏ vào một yếu tố thôi thì cũng có thể làm biến đổi toàn bộ hệ thống, phá vỡ trạng

thái cân bằng và ổn định của hệ thống, dẫn đến những hậu quả khó lường.

Với quan điểm tổng hợp, nghiên cứu biện pháp quản lý - kỹ thuật CTPHMT

được thực hiện dựa trên việc xem xét tất cả các yếu tố hệ thống KT-XH-MT vùng,

phạm vi ĐMT, CTPHMT,... trong mối liên hệ với các yếu tố khác của hệ thống. Ví

dụ, hoạt động CTPHMT các mỏ than KTLT được xem xét trong mối liên hệ với các

yếu tố tự nhiên (địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, đất, thực vật), các yếu tố KT-

XH (vai trò của khai thác than trong cơ cấu kinh tế chung, cơ sở hạ tầng, các khía

cạnh xã hội như lao động, thu nhập,...), các vấn đề môi trường và tai biến thiên

nhiên (ô nhiễm không khí do bụi, tiếng ồn, khí thải; ô nhiễm môi trường nước do

rác thải rắn, chất thải độc hại từ các mỏ và khai trường),... Bản thân môi trường

nước hoặc khí lại được xem xét trong mối liên hệ không chỉ với hoạt động khai thác

than mà còn với các hoạt động khác như sản xuất công nghiệp, sản xuất vật liệu xây

dựng, nông, lâm nghiệp, thủy sản,... Điều đó cho thấy cái nhìn đa chiều và tổng hợp

14

khi xem xét một vấn đề hoặc một yếu tố phát sinh trong hệ thống trước khi đưa ra

giải pháp tổng hợp và có quyết định đúng đắn.

- Quan điểm phát triển bền vững: Quan điểm phát triển bền vững được hình

thành từ những năm 70 của thế kỷ XX và đề cập một cách hệ thống về môi trường

và phát triển quốc tế qua cuốn Chiến lược bảo tồn thế giới (1980), được phổ biến

qua báo cáo Brundland: Tương lai chung của chúng ta (1987), chi tiết hơn trong

cuốn: Chăm lo cho Trái đất (1991) và Chương trình Nghị sự 21 (1992). Cho đến

nay, phát triển bền vững trở thành một mục tiêu để hướng tới đối với bất kỳ một

chiến lược, một định hướng phát triển nào từ cấp quốc tế, quốc gia đến địa phương

[31].

Ba nội dung cơ bản của phát triển bền vững là nhằm đạt được phồn vinh về

kinh tế, ổn định về xã hội, duy trì chức năng sinh thái và đảm bảo chất lượng môi

trường.

Việc vận dụng quan điểm phát triển bền vững để nghiên cứu biện pháp quản lý

- kỹ thuật CTPHMT cần phải có một cái nhìn, một quan điểm chỉ đạo giúp định

hướng cho các hành động, các định hướng phát triển, đảm bảo sự kết hợp hài hòa

giữa phát triển kinh tế, ổn định xã hội với chất lượng môi trường.

13. Cấu trúc, nội dung của luận án

Luận án được bố cục thành 4 chương, không kể phần mở đầu, kết luận, tài liệu

tham khảo và phụ lục, như sau:

- Chương 1: Tổng quan về công tác CTPHMT cho các mỏ lộ thiên trên thế giới

và ở Việt Nam

- Chương 2: Thực trạng công tác CTPHMT tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP.

- Chương 3: Nghiên cứu các giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công

tác CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP

- Chương 4: Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả công

tác CTPHMT cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP

15

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI

TRƯỜNG TẠI CÁC MỎ LỘ THIÊN TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM

1.1. Tổng quan về công tác cải tạo và phục hồi môi trường tại các mỏ than

khai thác lộ thiên trên thế giới

1.1.1. Khái quát công tác cải tạo và phục hồi môi trường sau khai thác tại một

số mỏ than trên thế giới

Nhiều nước trên thế giới đã đạt được những thành công lớn khi CTPHMT các

khu vực kết thúc khai thác khoáng sản thành các trung tâm du lịch, giải trí, thể

thao,…. trên cơ sở các giải pháp chung được khái quát như sau:

- Đối với các khai trường khai thác than, quặng sắt,… với diện tích rộng và

chiều sâu lớn, việc san lấp tạo mặt bằng sau khi kết thúc khai thác là bất khả thi, do

đó, khu vực moong khai thác thường được cải tạo nhằm đảm bảo an toàn ổn định bờ

mỏ hoặc để nguyên trạng, sau đó tạo thành các hồ chứa nước và xung quanh tạo nên

cảnh quan thiên nhiên hoặc sử dụng vào các mục đích dân dụng.

- Đối với một số khai trường khai thác chiếm đất bề mặt rộng với độ sâu không

lớn (như bauxit, thiếc, sa khoáng titan,…), chúng thường được san gạt bề mặt, cải

tạo địa hình, cải tạo đất để trả lại đất cho canh tác (trồng lúa, cà phê, chè, cao su,...),

trồng rừng (các loại cây bản địa hoặc các loại cây mới có giá trị kinh tế,…) hoặc sử

dụng vào các mục đích KT-XH khác. Đặc biệt, nhiều nước ASEAN đã đạt được

những thành công lớn khi CTPHMT và cải tạo các khu khai thác khoáng sản thành

các trung tâm du lịch, giải trí, thể thao,…

- Đối với các bãi thải đất đá của các mỏ KTLT, chúng được cải tạo địa hình,

phủ một lớp đất màu và trồng cây có giá trị kinh tế hoặc chỉ đơn thuần cho mục tiêu

phủ xanh tạo cảnh quan.

- Các công trình hạ tầng cơ sở mà cộng đồng có nhu cầu sử dụng lại (thí dụ cho

cấp điện, cấp nước, giao thông, nhà ở, các công trình dịch vụ,…) thường được tận

dụng và cải tạo cho phù hợp.

16

- Quá trình CTPHMT mà cốt lõi là công tác cải tạo đất được thực hiện trong

khoảng 2÷4 năm kể từ khi ngừng các hoạt động khai thác, sau đó tiếp tục quan trắc

và hoàn chỉnh các mặt bằng được CTPHMT, chất lượng nước, hệ động thực vật,

thực vật cho tới khi đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn quốc gia (thường kéo dài trong

nhiều năm sau đó).

- Cộng đồng có quyền giám sát và khiếu kiện về những sai sót trong quá trình

quá trình CTPHMT kéo dài sau đó.

Dưới đây là một số ví dụ minh họa điển hình:

1.1.2. Trồng rừng cải tạo và phục hồi môi trường:

a. Tại Inđônêsia, Tập đoàn Sumitomo và các đối tác kinh doanh đã thực hiện

dự án phát triển mỏ đồng - vàng Batu Hijau trên đảo Sumbawa từ năm 1996 (là một

trong những mỏ đồng - vàng lớn nhất thế giới) với thành công lớn nhất là chính

sách liên quan đến việc trồng rừng. Nhìn chung, các khu vực có hoạt động khai thác

đều được khôi phục lại trạng thái ban đầu sau khi đóng cửa mỏ với 40.000 cây

giống mỗi năm và được trồng trong lớp đất mặt đã được bóc và bảo quản. Công

nghệ trồng rừng áp dụng đã được nghiên cứu tới 8 năm trong khuôn khổ một đề tài

nghiên cứu quy mô lớn được các kỹ sư, các nhà khoa học cộng tác thực hiện trên cơ

sở vốn vay. Các nhà nghiên cứu đã xác định được góc nghiêng phù hợp, đề xuất

một phương pháp sử dụng lưới để ngăn chặn xói mòn lớp đất mặt và cuối cùng là

định ra các phương pháp tối ưu cho việc chuẩn bị và tái trồng rừng trên các diện

tích đất đã từng khai thác mỏ [53].

Công việc trồng rừng được thực hiện song song với hoạt động của mỏ. Trồng

rừng liên tục và bền vững sẽ khôi phục lại rừng trong khoảng 4 năm, nhưng điều

này không phải dễ dàng, bởi vì đây là vấn đề có liên quan tới những quá trình mang

bản chất tự nhiên. Phát triển mỏ là một dự án dài hạn, kéo dài nhiều thập kỷ. Việc

nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học là một phần quan trọng của hoạt động kinh doanh.

Việc phủ xanh khu mỏ giai đoạn cuối được xác định là thành công mất một

khoảng thời gian có thể lên đến 10 năm sau khi CTPHMT.

17

b. Ở Ốtxtrâylia, ngành công nghiệp khai thác khoáng sản coi CTPHMT là

một phần tất yếu của quá trình khai thác. Do vậy, các kế hoạch và dự trù tài chính

cho chương trình môi trường dài hạn phải được lập trước khi bắt đầu khai thác.

Kinh phí CTPHMT thường trên 10.000 USD/ha. Quá trình CTPHMT không phải

chỉ kết thúc ở việc san gạt đất, trồng cây và gieo hạt. Hiệu quả của quá trình

CTPHMT chỉ có thể được đánh giá bằng quá trình quan trắc và điều chỉnh nhiều

năm sau đó. Người ta đã đưa ra định hướng 4 giai đoạn chủ yếu trong CTPHMT:

- Giai đoạn thứ nhất: Xác định phương thức sẽ sử dụng đối với đất sau khai

thác khoáng sản.

- Giai đoạn thứ hai: Công tác san lấp mặt bằng đã bị xáo trộn do khai thác

khoáng sản, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc trồng cây.

- Giai đoạn thứ ba: Thực hiện trồng cây bằng cách trồng trực tiếp cây giống,

gieo hạt hoặc phủ các lớp đất mặt có sẵn nguồn hạt tự nhiên.

- Giai đoạn thứ tư: Quan trắc và nghiên cứu quá trình CTPHMT, có những tác

động điều chỉnh hợp lý đề bảo đảm có được hệ sinh thái mong muốn trong dự án

CTPHMT và xác định về mặt kỹ thuật sự thành công bền vững của dự án.

Công nghệ CTPHMT được bắt nguồn ngay trong công nghệ khai thác và chế

biến khoáng sản. Đó chính là những công nghệ hiện đại đang được ứng dụng ở

Ốtxtrâylia để tận thu triệt để các thành phần có ích trong khoáng sản, có nghĩa là

những công nghệ có khối lượng thải thấp trên đơn vị sản phẩm và tác động hạn chế

tới môi trường.

Tập đoàn Alcoa sở hữu những cổ phần lớn trong công nghiệp khai thác tại

bang Western có công nghiệp khai thác quặng sắt quy mô lớn, chiếm tới 97% sản

lượng quặng sắt của Ốtxtrâylia đã thực hiện chương trình CTPHMT rất thành công

trong nhiều năm qua. Các yếu tố phục hồi ở đây bao gồm:

- Thảm thực, bao gồm các chủng loại cây tầm cao (chủ yếu là các rừng bạch

đàn) và cả các chủng loại cây tầm thấp.

- Thảm động vật, bao gồm các loại động vật có vú, các loài bò sát, các giống

chim và hệ côn trùng trên và dưới mặt đất cũng như dưới nước.

18

Alcoa đã phục hồi hàng chục nghìn ha đất kể từ khi bắt đầu khai thác vào năm

1963. Hiện nay, tại các khu vực được CTPHMT, độ phong phú của thảm thực vật

đạt trên 96%, hệ động vật có vú hầu như được phục hồi hoàn toàn, hệ chim được

phục hồi tới 90% và hệ bò sát được phục hồi tới 78%. Ở một số khu vực được

CTPHMT, độ phong phú thực vật và động vật cũng như môi trường sinh thái thậm

chí còn được cải thiện tốt hơn nguyên thủy.

Nguyên nhân những thành công của Alcoa trong việc phục hồi môi trường là:

- Có chính sách và mục tiêu đúng cho công tác CTPHMT.

- Đầu tư đúng cả về công nghệ và nhân lực cho công tác CTPHMT. Bảo đảm

đầy đủ các khoản tài chính và sử dụng chúng một cách hợp lý.

- Đặc biệt chú trọng công tác nghiên cứu các điều kiện và chuẩn bị công tác

phục hồi ngay trước khi bắt đầu khai thác và tiếp tục sau khi kết thúc khai thác.

- Xử lý tốt các mối quan hệ về quyền lợi có liên quan tới đất đai và môi trường

giữa doanh nghiệp và cộng đồng, động viên và thu hút cộng đồng cùng thực hiện

CTPHMT từ những góc độ đặc trưng và thuận lợi khác nhau.

* Mỗi năm, tại Nabalco - Gove có khoảng trên 130 ha đất rừng được đưa vào

quá trình khai thác bauxit và cũng khoảng chừng đó diện tích được CTPHMT. Công

việc CTPHMT bắt đầu trước khi bắt đầu khai thác và tiếp tục lâu dài sau khi kết

thúc khai thác.

Quá trình CTPHMT không chờ tới khi kết thúc khai thác một khu vực nào đó

mới bắt đầu, mà được bắt đầu trước khi khai thác bằng sự chuẩn bị và lưu giữ công

phu hồ sơ, vật mẫu về đất, nước, các loài sinh vật cũng như bảo quản giống, gen

động thực vật có tại khu vực dự kiến khai thác để có thể tái tạo chúng một cách gần

đúng nguyên thuỷ nhất sau khi kết thúc khai thác. Đây là công việc thực hiện trong

khoảng thời gian dài hơn cả đời mỏ, đòi hỏi vận dụng kiến thức chuyên gia, kinh

nghiệm người dân địa phương, phương tiện vật chất kỹ thuật, kinh phí và các giải

pháp tổ chức hữu hiệu [51].

Trình tự thực hiện công tác CTPHMT tại Nabalco có thể khái quát như sau:

19

(1). Trước khi bắt đầu khai thác cần thực hiện công việc chuẩn bị đối với khu

vực sẽ đưa vào khai thác

- Việc khảo sát, sưu tầm, nghiên cứu, lập hồ sơ và cất giữ các vật mẫu về đất,

nước, các loài sinh vật cũng như giống, gen động thực vật, cần được thực hiện sớm

hơn 3 năm trước khi bắt đầu khai thác với sự hợp tác chặt chẽ với người địa

phương.

- Chặt hết các loại cây tầm cao trong phạm vi mặt bằng khai thác. Các thân cây

được đốt tại chỗ làm màu cho đất. Các loại thực vật tầng thấp được tiếp tục phát

triển. Giữ trạng thái mặt bằng như vậy trong 3 năm để ổn định các quá trình sinh

hoá trong đất.

- Sau đó, bóc lớp đất màu (Topsoil) và lớp đất phủ (Subsoil) chuyển tới các vị

trí tập kết riêng biệt gần khai trường và bảo quản chúng cho tới khi được sử dụng

lại. Mặt bằng đã sẵn sàng cho khai thác.

(2). Khai thác bauxit

Tiến hành khai thác bauxit trên các mặt bằng đã được chuẩn bị. Kết thúc khai

thác từng khu vực theo kế hoạch. Mặt bằng sau khi kết thúc khai thác được kết nối

với địa hình tự nhiên nhằm tạo điều kiện thoát nước, phong hoá và thẩm thấu.

(3). Sau khi kết thúc khai thác cần thực hiện những công việc sau để tái tạo mặt

đất gần giống trạng thái nguyên thuỷ

- Sử dụng đất phủ và đất màu được cất giữ để trải lại theo thứ tự và độ dày

nguyên thuỷ trên mặt đất đã biến đổi sau khai thác.

- Tái tạo hệ thực vật nguyên thuỷ từ những hạt giống đã được sưu tầm, lập hồ

sơ và cất giữ trước đây trên mặt bằng sau khai thác đã được trả lại đất phủ và đất

màu (gieo trực tiếp hoặc ươm và trồng cây giống).

- Tại các thời điểm thích hợp tương ứng với sự tái tạo hệ thực vật, thực hiện tái

tạo hệ động vật nguyên thuỷ bằng cách kết hợp tác động nhân tạo (từ nguồn giống,

gen cất giữ) và tác động tự nhiên (sự di chuyển động vật và sự sinh sôi tự phát của

hệ côn trùng).

- Những công việc nêu trên được thực hiện trong khoảng 2 năm.

20

(4). Theo dõi và bảo đảm các điều kiện cho công tác cải tạo và phục hồi môi

trường thành công

Công tác CTPHMT không dừng lại ở việc tái tạo hệ thực vật và động vật mà

phải tiếp tục theo dõi, quan trắc và nghiên cứu các biến đổi, đề xuất các giải pháp

tiến bộ nhằm bảo đảm điều kiện tối ưu để các hệ thực vật và động vật trên mảnh đất

CTPHMT phát triển bình thường và ổn định, trở về trạng thái gần như nguyên thuỷ

với tất cả các yếu tố của hệ sinh thái tự nhiên vốn có trước khi khai thác. Quá trình

này thường kéo dài ít nhất 5 năm.

Năm 1997, Trung tâm nghiên cứu CSIRO - Ốtxtrâylia đã nghiên cứu đề ra các

chỉ tiêu đánh giá mức độ thành công của công tác CTPHMT, trong đó những chỉ

tiêu quan trọng cần được quan trắc như độ luân hồi dinh dưỡng (Nutrient cycling),

độ ổn định đất (Soil stability), mật độ cư trú của chim (Bird density), các chỉ tiêu về

chất lượng nước ngầm,... Những chỉ tiêu này được so sánh với các chỉ tiêu tương

ứng của các khu rừng nguyên thuỷ xung quanh.

Một vấn đề quan trọng là không để xảy ra cháy rừng trong các khu vực đang

CTPHMT vì cháy rừng sẽ làm huỷ hoại sự tái tạo các thành phần hữu cơ và cản trở

các hoạt động vi sinh.

Các nghiên cứu của CSIRO tiến hành năm 1993 và 1997 cũng như nghiên cứu

của trường Đại học Northern Territory sau đó đã chỉ ra rằng công tác CTPHMT của

Nabalco đã thành công tốt đẹp trong việc tái tạo các khu rừng họ tràm giống như

các khu rừng nguyên thuỷ quanh đó.

Thành công của Nabalco đã tái tạo hàng ngàn hecta đất rừng trong khai thác

bauxit trước đó, do có sự ràng buộc chặt chẽ bởi hệ thống luật pháp về tài nguyên

và môi trường rất đồng bộ của bang Northern Territory và của Ốtxtrâylia, cũng như

những cam kết pháp lý cụ thể của Nabalco với cộng đồng và các chủ đất của người

Yolngu (thổ dân).

Những người lãnh đạo Nabalco đã có ý thức rất rõ về trách nhiệm pháp lý và

giá trị khoa học, KT-XH của công tác môi trường nói chung và CTPHMT nói riêng,

coi công tác này là một khâu sản xuất trọng yếu nhất và nghiêm túc thực hiện nó.

21

Đội ngũ chuyên gia môi trường Nabalco đủ về số lượng và vị trí, có trình độ chuyên

môn cao và kinh nghiệm thực tế phong phú.

Công tác đào tạo được thực hiện khá bài bản và rất thực tế, kết hợp viêc học tập

tại nhà trường, nắm bắt các tiến bộ khoa học và công nghệ với hoạt động sản xuất

và nghiên cứu ngay tại hiện trường.

Các phòng thí nghiệm, phòng phân tích, hệ thống quan trắc, phương tiện lưu

trữ, bảo quản, phương tiện kiểm tra, hệ thống thông tin,... đều được đầu tư hiện đại

và có tính thực tiễn cao.

Kinh phí cho toàn bộ các hoạt động môi trường và CTPHMT được tính đủ

trong giá thành sản phẩm.

Các bộ lạc thổ dân người Yolngu, vốn là những người chủ nguyên thủy của

Ốtxtrâylia và hiện là chủ pháp lý nhiều vùng đất chứa bauxit được tôn trọng và bảo

đảm quyền lợi hợp lý trong quá trình khai thác. Mối quan hệ giữa hoạt động sản

xuất và cộng đồng thổ dân nói chung là tốt đẹp. Đây chính là một yếu tố đặc biệt

quan trọng, vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của các thành tựu môi trường.

Hình 1.1: Trình tự CTPHMT trong khai thác bauxit ở Nabalco [51]

1.1.3. Cải tạo và phục hồi môi trường khai trường thành hồ chứa nước

22

CHLB Đức là một nước có nền công nghiệp mỏ phát triển ở Châu Âu và thế

giới. Những loại khoáng sản rắn được khai thác nhiều ở nước này chủ yếu là than

nâu, than đá, muối mỏ, vật liệu xây dựng,… Các khoáng sản trên là nguồn nguyên

liệu quan trọng cho các ngành công nghiệp của đất nước phát triển này.

Sau khi kết thúc khai thác, trên khu mỏ đã xuất hiện nhiều hào hố không thể san

lấp được. Chúng đã tạo thành các hồ chứa nước với tổng diện tích lên tới hơn 100 ha.

1.1.4. Cải tạo và phục hồi môi trường bãi thải để sử dụng cho nông nghiệp

hoặc lâm nghiệp

Tại CHLB Đức khi chất lượng của vật liệu thải trên bãi thải không phù hợp với

các mục đích sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp thì phải phủ một lớp đất

mặt (có thể dày tới 180 cm) lên trên bề mặt bãi thải để phục vụ cho nông nghiệp

hoặc lâm nghiệp. Để tạo điều kiện cho cây phát triển tốt, người ta còn bổ sung một

số loại phân bón trong lớp đất này với khối lượng 200300 kg đạm, lân và kali/ha.

Để đảm bảo những khu vực bãi thải được CTPHMT có đủ điều kiện để phục vụ

cho nông nghiệp thì sau khi CTPHMT xong, công ty mỏ cần phải quản lý chúng ít

nhất 7 năm trước khi bàn giao cho người nông dân. Trong thời gian này, công ty mỏ

có thể khai thác, sử dụng đất và tìm ra loại cây trồng phù hợp với khu vực đó. Tiếp

đó họ còn phải bảo hành thêm một thời gian khoảng 10 năm cho những rủi ro của

các biện pháp cải tạo đất đã áp dụng. Để kiểm soát những rủi ro có thể xảy ra trong

việc quản lý và đảm bảo lợi nhuận mang lại khi khai thác vùng đất đã được

CTPHMT này, công ty mỏ cần phải bảo hành thêm 8 năm nữa. Như vậy, tổng thời

gian một công ty mỏ tại CHLB Đức phải có trách nhiệm đối với việc CTPHMT

những bãi thải của họ lên tới 25 năm [33].

1.1.5. Ổn định các sườn dốc

Việc ổn định các sườn dốc là một công việc cần được quan tâm không chỉ trong

quá trình khai thác mỏ mà còn được đặc biệt quan tâm sau khi kết thúc khai thác mỏ.

Ngoài những kỹ thuật thông thường để tạo sự ổn định cho các sườn dốc, các mỏ than

KTLT của CHLB Đức còn lưu ý sử dụng một số biện pháp khác như sau:

23

- Nén các loại vật liệu bở rời, tơi xốp ở sườn bãi thải để tạo nên một độ dốc an

toàn bằng các thiết bị chuyên dụng hoặc sử dụng các kết cấu hỗ trợ như neo để gia

cường cho các bờ kết thúc mỏ mà ở đó đất đá có dạng phân lớp;

- Làm bằng phẳng hoặc làm thoải các mỏm đá hoặc những nơi có sườn dốc

nguy hiểm, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định cho các khu vực khác [33].

1.1.6. Hòa nhập khu vực được cải tạo và phục hồi môi trường với phong

cảnh xung quanh

Tại CHLB Đức, việc hoà nhập địa hình khu vực được CTPHMT sau khai thác mỏ

với phong cảnh các khu vực xung quanh là rất quan trọng. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu

tố như: các qui hoạch về giao thông, công nghiệp, nông nghiệp và du lịch của khu vực,

đặc điểm địa hình của khu vực được CTPHMT và địa hình xung quanh, các yêu cầu về

đa dạng sinh học,… Chính vì vậy rất nhiều khu vực được CTPHMT sau khi khai thác

mỏ tại CHLB Đức đã hoàn toàn thay đổi về địa hình, cảnh quan và mục đích sử dụng

theo hướng tích cực hơn rất nhiều so với địa hình nguyên thuỷ của nó.

Hình 1.2: Minh họa kết quả của một dự án CTPHMT tại CHLB Đức [33]

Hình 1.2 minh họa một ví dụ điển hình của một khu vực mỏ than lộ thiên khai

thác than nâu phục vụ cho nhà máy nhiệt điện đã được CTPHMT sau khi kết thúc

khai thác tại CHLB Đức. Những cánh đồng lúa mì, những cánh rừng đã hình thành

cùng với những con sông và hồ nước trong xanh đã làm cho những người lần đầu

đến đây không bao giờ có thể hình dung được trước đây khu vực này đã từng là một

mỏ khai thác than nâu có sản lượng hàng chục triệu tấn một năm.

24

1.1.7. Cải tạo và phục hồi môi trường khu mỏ thành trung tâm vui chơi giải trí

Ở Malaysia, sau khi hoạt động khai thác kết thúc, quá trình CTPHMT được thực

hiện thành công và tiếp tục đầu tư để thu hút các hoạt động du lịch, nghỉ ngơi, thể

thao, vui chơi, giải trí,… Ở đây đã đầu tư vào sân golf hạng nhất ở Malaysia [52].

Hình 1.3: Khai trường thiếc được Hình 1.4: Hệ sinh thái phong phú

CTPHMT với sân golf tại Clearwater được phục hồi ở Paya Indah [52]

Sanctuary Golf Resort [52]

Khu bảo tồn Paya Indah Sanctuary có diện tích khoảng 3.200 ha, gồm 2.200 ha

rừng ngập mặn và 1.000 ha trước đây vốn là mỏ thiếc đã đóng cửa từ 1997. Quá

trình CTPHMT cũng được thực hiên thành công theo hướng cải tạo và đầu tư tiếp

để biến thành khu du lịch, nghỉ ngơi, thể thao, vui chơi, giải trí,… và với một tham

vọng lớn hơn là xây dựng một trung tâm nghiên cứu sinh thái học hàng đầu Châu Á.

Hình 1.5: Minh họa kết quả 01 dự án CTPHMT tại CH Pháp [55]

25

Trung tâm giải trí phức hợp Cap’Découverte tại CH Pháp là khu vực được hình

thành trên cơ sở sử dụng khu mỏ than KTLT đã đóng cửa Albi Carmaux. Khu mỏ

với diện tích 650 ha đóng cửa vào năm 1997, đến năm 2003 được tiến hành quy

hoạch và được thổi vào một luồng sinh khí mới. Tại đây có sân khấu kịch tròn quy

mô lớn với diện tích mặt bằng có đường kính 1.300 m, chiều sâu 230 m, thu hút

khách du lịch trên toàn châu Âu. Khu giải trí phức hợp này bao gồm các tour du lịch

ngầm qua các hầm mỏ, các môn thế thao với ván trượt như trượt ván, trượt tuyết,

các buổi trình diễn và bảo tàng về khai khoáng,... [55].

1.2. Tổng quan về công tác cải tạo và phục hồi môi trường tại các mỏ than

khai thác lộ thiên ở Việt Nam

1.2.1. Khái quát một số loại hình, đối tượng khai thác khoáng sản và phương

thức cải tạo và phục hồi môi trường tương ứng ở Việt Nam

Khai thác khoáng sản ở Việt Nam đã bắt đầu từ hơn một thế kỷ qua và trải qua

nhiều giai đoạn phát triển. Tùy thuộc vào phương thức khai thác (chủ yếu là công

nghệ), có thể tạm phân loại một số loại hình, đối tượng CTPHMT chủ yếu ở Việt

Nam như sau:

1. Đối với các đối tượng KTLT than ở Quảng Ninh, các vùng khai thác

quặng sắt ở Thái nguyên, Cao Bằng, Lào Cai, Yên Bái, Hà Tĩnh,… thì việc

CTPHMT ở những mỏ KTLT mà khai trường sau khi kết thúc khai thác còn lại là những moong lớn với dung tích hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu m3 (đặc trưng

là khai thác than, khai thác quặng sắt,…). Những moong lớn như vậy khó có thể lấp

đầy được sau khi kết thúc khai thác (trừ trường hợp chúng được sử dụng làm bãi

thải trong ngay trong quá trình khai thác) như moong khai thác tại mỏ Cọc Sáu,

Cẩm Phả. Phương thức CTPHMT khả thi nhất ở đây là cải tạo chúng thành các hồ

chứa nước và tái tạo hệ sinh thái dưới nước và vùng xung quanh bờ.

2. Đối với những mỏ KTLT có các vỉa quặng và đất đá bóc nằm trên các sườn

núi (đặc trưng là khai thác đá vôi, đôlômit, apatit,…) thì phương thức CTPHMT ở

đây là san gạt, phủ xanh phần mặt bằng phục vụ khai thác, tái tạo hệ sinh thái phù

hợp với địa hình và khí hậu khu vực. Đây là đối tượng rất phổ biến ở Việt Nam.

26

Hầu như ở tỉnh nào cũng có các mỏ khai thác đá vôi và các loại vật liệu xây dựng,

nhiều mỏ đã vôi có quy mô lớn tới hàng triệu tấn/năm.

3. CTPHMT ở những mỏ lộ thiên khai thác sa khoáng trên những diện tích lớn

với độ sâu hạn chế (đặc trưng là khai thác vàng sa khoáng, quặng thiếc, quặng titan,

cát,…), hiện trường sau khai thác thường bị đào xới tới độ sâu nhất định, nhưng

không quá lớn, quá trình CTPHMT thường được thực hiện bằng cách san lấp, cải tạo

mặt bằng ở mức độ hợp lý để có thể sử dụng đất vào các mục tiêu nông nghiệp, xây

dựng, giao thông hoặc trả lại trạng thái nguyên thủy, đồng thời tái tạo hệ sinh thái phù

hợp với khí hậu khu vực và mức độ cải tạo địa hình.

4. CTPHMT ở các mỏ lộ thiên khai thác bauxit có thể coi như một loại hình

mang những đặc điểm riêng mà ở Việt Nam còn chưa có nhiều kinh nghiệm. Trong

tương lai, CTPHMT trong khai thác bauxit sẽ trở thành đối tượng CTPHMT lớn

nhất trong ngành khai thác khoáng sản ở Việt Nam.

Các thân quặng bauxit thường có bề dày không lớn và nằm không sâu dưới

lòng đất, nên việc đào xới để khai thác bauxit được thực hiên trên những diện tích

rất lớn (có thể lên tới hàng trăm ha mỗi năm). Mặt khác, hầu hết trữ lượng bauxit ở

Việt Nam đều nằm trên vùng đất Tây Nguyên, nơi một phần là đất trồng cà phê,

chè, một phần là rừng được trồng và một phần khác là rừng cây hỗn hợp nguyên

thủy với cả một hệ thực vật phong phú tầng thấp. Hệ động vật và côn trùng ở đó

vốn rất đa dạng và mang tính đặc thù địa phương rõ dệt. Đây cũng là đất sinh sống

của nhiều dân tộc thiểu số với truyền thống và bản sắc văn hóa phong phú. Vì vậy

công tác CTPHMT trong khai thác bauxit ở Tây Nguyên là yếu tố hàng đầu để khai

thác thành công loại khoáng sản có trữ lượng lớn và giá trị này của đất nước.

Do đặc thù công nghệ khai thác bauxit, công tác CTPHMT ở đây được thực

hiện thường xuyên và song song với hoạt động khai thác.

5. CTPHMT tại các khu vực khai thác tự phát là một nhu cầu thực tế ở Việt

Nam hiện nay. Bất cứ loại khoáng sản nào có thể bán ra thị trường (vàng, thiếc, chì,

kẽm, crômit, apatit, than,…) đều có thể được người dân khai thác một cách tự phát

bằng mọi phương thức, từ đào bới thủ công đến khai thác bán cơ giới, từ lẻ tẻ tới

tập trung, từ quy mô nhỏ tới quy mô vừa,… Khai thác tự phát thường không có

27

pháp nhân chịu trách nhiệm về môi trường và CTPHMT, do vậy hậu quả môi

trường là không nhỏ vì các khai trường tự phát tuy từng đối tượng thì không lớn

nhưng rất nhiều đối tượng trải rộng sẽ gây tác hại khắp nơi.

Từ góc độ quản lý, hiện nay có 2 loại đối tượng CTPHMT trong khai thác

khoáng sản ở Việt Nam:

(1). Những đối tượng môi trường bị tác hại của khai thác khoáng sản cần

CTPHMT nhưng hiện không có chủ thể quản lý trực tiếp, hoặc chủ thể quản lý trực

tiếp không rõ ràng, thí dụ:

- Những khai trường do lịch sử để lại đã tồn tại nhiều năm không được

CTPHMT, bị hoang hóa hoặc biến dạng sinh thái có hại tới môi trường.

- Những khai trường về hình thức đã được CTPHMT và trao trả đất, nhưng

CTPHMT không đạt yêu cầu, đất được phục hồi dần bị hoang hóa trở lại hoặc hiệu

quả sử dụng đất rất thấp.

- Các khai trường do dân chúng khai thác tự phát và bất hợp pháp.

Những đối tượng này hiện chưa có phương án bố trí kinh phí cũng như phương

án CTPHMT.

(2). Những đối tượng môi trường bị tác hại của khai thác khoáng sản cần

CTPHMT hiện có chủ thể quản lý trực tiếp, thí dụ:

- Những khai trường do lịch sử để lại từ nhiều năm chưa được CTPHMT,

nhưng vẫn thuộc phạm vi quản lý của các chủ đầu tư.

- Những khai trường đã khai thác xong hoặc đang trong quá trình khai thác,

nằm trong kế hoạch CTPHMT của các chủ đầu tư.

Đối tượng CTPHMT trong khai thác khoáng sản ở Việt Nam đã được quan tâm

nhưng chưa được xử lý bằng những giải pháp đặc thù, có tính tới những điều kiện

đặc thù riêng về việc tiếp tục sử dụng đất, phù hợp với điều kiện KT-XH vùng.

1.2.2. Thực trạng công tác cải tạo và phục hồi môi trường trong khai thác

mỏ ở Việt Nam

Năm 2004, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ và Luyện kim đã thực hiện đề tài

“Điều tra khảo sát hiện trạng và nhu cầu CTPHMT của các mỏ khai thác khoáng

sản kim loại ở Việt Nam”. Đây là một trong số ít những đề tài nghiên cứu đánh giá

28

thực trạng về công tác CTPHMT trong khai thác khoáng sản ở Việt nam được thực

hiện ở phạm vi toàn quốc. Tình hình và số liệu về công tác CTPHMT thường chỉ có

trong các báo cáo của các doanh nghiệp khoáng sản Nhà nước và một số các doanh

nghiệp lớn trong thành phần tư nhân.

Kết quả điều tra, khảo sát hiện trạng và nhu cầu CTPHMT của một số mỏ

khoáng sản kim loại ở Việt Nam theo Báo cáo kết quả đề tài trên được thể hiện

trong bảng 1.3. Các số liệu cho thấy: chỉ trong phạm vi một số mỏ thiếc, sắt và sa

khoáng titan, tỷ lệ đất sau khai thác được CTPHMT chỉ chiếm 66% so với đất đã

được sử dụng và 40% so với đất đã được cấp [43]. Tỷ lệ như vậy là thấp, gây lãng

phí về sử dụng đất và chắc chắn có tác động xấu tới môi trường và xã hội.

Bảng 1.3: Kết quả điều tra sát hiện trạng và nhu cầu CTPHMT

của một số mỏ khoáng sản kim loại ở Việt Nam [43]

Địa

Diện tích

Đã

Đất sau

Chờ

phương

Đất trước khi cấp

Đã sử dụng, m2

CTPHMT

được cấp, m2

CTPHM, m2

CTPHM, m2

Khai thác ilmenite

Hà Tĩnh

8.866.065 Cồn cát

4.795.800

4.628.200 Trồng

phi

152.600

ven biển

lao, dứa dại,

hồ nuôi tôm,

trại nuôi lợn

Nghệ An

556.000

Cồn cát ven

338.000

53.000

Bãi cỏ, hồ

285.000

biển

cá, trồng lúa

Khai thác quặng thiếc

Sơn

2.221.562 Thung lũng,

1.464.219

341.328 Công

trình

1.122.891

Dương

đồi

phúc lợi, ao

Bắc

403.447

Thung lũng,

322.617

162.805

Trồng mía,

240.642

Lũng

đồi,

đất

cây

công

nông nghiệp

nghiệp

29

900.000

Thung lũng,

900.000

95.000

Nhà xưởng,

805.000

Tĩnh

đồi

nhà ăn ca

Túc

Khai thác quặng sắt

Nà Lùng

375.000 Đồi, núi đá

375.000

0

375.000

thung

lũng

Trại Cau

2.633.319 Đồi,

thung

1.582.819

1.190.900 Trồng

cây

1.281.419

lũng,

đất

công nghiệp

nông nghiệp

Cộng

16.255.393

9.778.455

6.471.233

4.211.752

1.3. Đánh giá chung về công tác cải tạo và phục hồi môi trường tại các mỏ than

khai thác lộ thiên trên thế giới và ở Việt Nam

1.3.1. Công tác cải tạo và phục hồi môi trường cho các mỏ than khai thác lộ

thiên trên thế giới

Nhiều nước trên thế giới đã đạt được những thành công lớn khi CTPHMT và

cải tạo các khu khai thác khoáng sản thành các trung tâm du lịch, giải trí, thể

thao,…. trên cơ sở các giải pháp chung được khái quát như sau:

- Có chính sách và mục tiêu đúng cho công tác CTPHMT:

+ CTPHMT là một phần tất yếu của quá trình khai thác khoáng sản.

+ Quy định các chỉ tiêu đánh giá mức độ thành công của công tác CTPHMT,

trong đó có những chỉ tiêu quan trọng như: độ luân hồi dinh dưỡng, độ ổn định đất,

mật độ cư trú của chim, các chỉ tiêu về chất lượng nước ngầm,... Những chỉ tiêu này

được so sánh với các chỉ tiêu tương ứng của các khu rừng nguyên thuỷ xung quanh.

- Đầu tư đúng cả về công nghệ và nhân lực cho công tác CTPHMT. Bảo đảm

đầy đủ các khoản tài chính và sử dụng chúng một cách hợp lý.

- Đặc biệt chú trọng công tác nghiên cứu các điều kiện và chuẩn bị công tác

phục hồi trước khi bắt đầu khai thác và tiếp tục sau khi kết thúc khai thác.

30

- Xử lý tốt các mối quan hệ về quyền lợi có liên quan tới đất đai và môi trường

giữa doanh nghiệp và cộng đồng, động viên và thu hút cộng đồng cùng thực hiện

CTPHMT từ những góc độ đặc trưng và thuận lợi khác nhau.

- Cộng đồng có quyền giám sát và khiếu kiện về những sai sót trong quá trình

CTPHMT kéo dài sau đó.

- Công nghệ CTPHMT môi trường được bắt nguồn ngay trong công nghệ khai

thác và chế biến khoáng sản.

- Có quá trình thực hiện đúng, khoa học cho công tác CTPHMT:

+ Các kế hoạch và dự trù tài chính cho chương trình môi trường dài hạn được

lập trước khi bắt đầu khai thác. Chủ đầu tư có trách nhiệm bảo đảm chương trình

môi trường của họ được thực thi và làm cho cộng đồng cũng nhận thức như vậy.

+ Đánh giá hiệu quả của quá trình CTPHMT bằng quá trình quan trắc và điều

chỉnh nhiều năm sau đó.

+ Lớp đất màu nguyên thủy được bóc khi khai thác được cất giữ để hoàn trả

hoặc sử dụng trực tiếp vào những diện tích đất khác đang được CTPHMT.

+ Trong quá trình CTPHMT cần theo dõi và điều chỉnh tính ổn định, mức độ

xói mòn và khả năng thoát nước của khu vực.

+ Trình tự thực hiện công tác CTPHMT ngay từ khi bắt đầu khai thác bằng

việc: khảo sát, sưu tầm, nghiên cứu, lập hồ sơ và cất giữ các vật mẫu về đất, nước,

các loài sinh vật cũng như giống, gen động thực vật; bóc lớp đất màu và lớp đất phủ

và chuyển tới các vị trí tập kết riêng biệt gần khai trường và bảo quản chúng cho tới

khi được sử dụng lại; kết thúc khai thác từng khu vực theo kế hoạch; kết nối mặt

bằng sau khi kết thúc khai thác được với địa hình tự nhiên nhằm tạo điều kiện thoát

nước, phong hoá và thẩm thấu; tái tạo hệ thực vật và động vật; triển khai theo dõi,

bao gồm quan trắc và nghiên cứu các biến đổi, đề xuất các giải pháp tiến bộ nhằm

bảo đảm điều kiện tối ưu để các hệ thực vật và động vật trên khu vực CTPHMT

phát triển bình thường và ổn định, dần trở về trạng thái gần như nguyên thuỷ với tất

31

cả các yếu tố của hệ sinh thái tự nhiên vốn có trước khi khai thác; không để xảy ra

cháy rừng trong các khu vực đang CTPHMT.

+ Đội ngũ chuyên gia môi trường đủ về số lượng và vị trí, có trình độ chuyên

môn cao và kinh nghiệm thực tế phong phú.

+ Các phòng thí nghiệm, phòng phân tích, hệ thống quan trắc, phương tiện lưu

trữ, bảo quản, phương tiện kiểm tra, hệ thống thông tin,... được đầu tư hiện đại và

hoạt động có hiệu quả.

+ Công tác quản lý CTPHMT ít nhất 7 năm trước khi bàn giao cho người nông

dân. Trong thời gian này, công ty mỏ có thể khai thác, sử dụng đất và tìm ra loại

cây trồng phù hợp với khu vực đó. Phải bảo hành thêm một thời gian khoảng 10

năm cho những rủi ro của các biện pháp cải tạo đất đã áp dụng. Bảo hành thêm 8

năm nữa để kiểm soát những rủi ro có thể xảy ra trong việc quản lý và đảm bảo lợi

nhuận mang lại khi khai thác vùng đất đã được CTPHMT này. Tổng thời gian một

mỏ tại CHLB Đức phải có trách nhiệm đối với việc CTPHMT những bãi thải của họ

lên tới 25 năm.

Như vậy, nhờ được quan tâm từ giai đoạn thiết kế, việc CTPHMT được quản lý

theo định hướng, nhờ thế giảm thiểu được chi phí cải tạo, loại bỏ các rủi ro do

không theo hướng đa mục tiêu, đảm bảo sự hài hòa của mỏ được cải tạo trong mối

quan hệ tổng thể các mỏ trên khu vực, đáp ứng việc tiếp tục sử dụng tài nguyên đất

và tài nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế vùng, duy trì hoạt động CTPHMT hiệu

quả, bền vững.

1.3.2. Công tác cải tạo và phục hồi môi trường cho các mỏ than khai thác lộ

thiên ở Việt Nam

Năm 2009, Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ và Luyện kim thực hiện nghiên

cứu về phục hồi môi trường với dự án “Xây dựng quy trình CTPHMT các vùng

khai thác các loại hình khoáng sản và hỗ trợ CTPHMT cho một đơn vị khai thác

khoáng sản” và Nhiệm vụ “Xây dựng mô hình ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm và

CTPHMT trong khai thác, chế biến sa khoáng ven biển”. Đây là những nghiên cứu

32

khá toàn diện các vấn đề lý thuyết và thực tiễn công tác CTPHMT trong khai thác

khoáng sản ở Việt Nam.

Từ các công trình nghiên cứu ở trên và qua việc phân tích thực trạng công tác

CTPHMT tại các mỏ than KTLT ở Việt Nam, NCS khái quát một số bất cập lớn

trong công tác CTPHMT sau khai thác khoáng sản ở Việt nam hiện nay như sau:

1. CTPHMT trong khai thác khoáng sản ở Việt Nam hiện rất thiếu những cơ sở

pháp lý cụ thể và rõ ràng, kể từ Luật Khoáng sản cho tới các văn bản dưới luật.

2. Công tác CTPHMT trong khai thác khoáng sản ở Việt Nam hiện còn thiếu

cơ sở lý luận, các tiêu chuẩn kỹ thuật, các quy định chuyên môn,... để thực hiện.

Công tác khoa học và công nghệ, tổng kết thực tế chưa được thực hiện một cách hệ

thống và đồng bộ. Phương tiện vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng

yêu cầu.

3. Nguồn tài chính cho công tác CTPHMT cũng chưa rành mạch, chưa đủ và

chưa hợp lý. Giải pháp tài chính cho những đối tượng CTPHMT hiện không có chủ

thể quản lý trực tiếp, hoặc chủ thể quản lý trực tiếp không rõ ràng.

4. Công tác CTPHMT dường như mới chỉ được thực hiện bị động trong giai

đoạn cuối của mỏ mà không được nhìn nhận và định hướng ngay từ dự án đầu tư

khai thác mỏ. Những nghiên cứu dài hạn về đối tượng hoàn phục, các số liệu thống

kê, các kế hoạch phát triển mỏ,... thường ít khi gắn kết và đồng bộ với quá trình

CTPHMT. Dự án đóng cửa mỏ nói chung còn cần phải nâng cấp về chất lượng, đặc

biệt là đối với nội dung phục hồi môi trường trong đó.

5. Công tác CTPHMT chưa được định hướng chức năng sử dụng đất để hòa

nhập khu vực được CTPHMT với cảnh quan xung quanh. Mặt khác, để thay đổi về

địa hình, cảnh quan và mục đích sử dụng của vùng CTPHMT theo hướng tích cực

hơn so với hiện trạng CTPHMT của nó thì phải tốn kém một khoản kinh phí đã

CTPHMT trước đó chưa phù hợp và tiếp tục phải mất một khoản kinh phí để phá

bỏ, cải tạo khu vực đã CTPHMT, gây lãng phí nguồn lực về tài nguyên đất và kinh

tế của xã hội [46].

33

6. Công tác CTPHMT sau khai thác thường chỉ được những công ty lớn quan

tâm và thực hiện ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, việc CTPHMT thường không kịp

thời, không triệt để và không hoàn chỉnh về mặt kỹ thuật. Nhiều diện tích sau khai

thác không được CTPHMT và vẫn giữ nguyên trạng thái hoang hóa. Một số nơi

thực hiện CTPHMT “chiếu lệ”, chất lượng thấp, không có giá trị sử dụng và cũng

dần trở thành hoang hóa. Ngay các diện tích được CTPHMT tương đối bài bản cũng

khó mà có lại được giá trị ban đầu trước khai thác. Công tác theo dõi, quan trắc,

hiệu chỉnh, duy trì chất lượng và lưu trữ số liệu cho các đối tượng sau CTPHMT

hầu như bị lãng quên.

7. Nhìn chung nhận thức và trách nhiệm về CTPHMT trong giới quản lý Nhà

nước và doanh nghiệp chưa cao. Ý thức và vai trò của cộng đồng trong việc đòi hỏi,

kiểm tra và tham gia thực hiện CTPHMT còn rất hạn chế.

1.4. Kết luận chương

Thực hiện quy định của Nhà nước, các doanh nghiệp mỏ có trách nhiệm phải

tiến hành CTPHMT, nhằm trả môi trường và hệ sinh thái về tình trạng ban đầu hoặc

đưa môi trường và hệ sinh thái tương tự như môi trường và hệ sinh thái trước khi

khai thác, đồng thời đảm bảo yêu cầu về BVMT và phục vụ các mục đích có lợi

khác cho con người.

Tuy nhiên, trên thực tế, trong các năm qua, công tác quản lý và chế tài thực

hiện và cơ sở kỹ thuật về CTPHMT còn nhiều bất cập. Trên cơ sở thực tiễn việc

CTPHMT thành công của các nước phát triển trên thế giới; việc quản lý kỹ thuật

CTPHMT cần tiếp thu có chọn lọc các phương thức quản lý cũng như các giải pháp

kỹ thuật nhằm vận dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam, tăng cường công tác

quản lý kỹ thuật CTPHMT để đạt được kết quả CTPHMT tại một số vùng tiêu biểu

phục vụ cho việc trình diễn cộng đồng.

Một số giải pháp quản lý - kỹ thuật cần được nghiên cứu áp dụng phù hợp vào

thực tiễn hoạt động khai thác khoáng sản ở nước ta nói chung và các mỏ than KTLT

vùng HG-CP nói riêng, cụ thể:

34

- Quy định định hướng vùng chức năng sử dụng đất để các mỏ phải lập đề án

CTPHMT cũng như thực hiện CTPHMT theo định hướng vùng đã quy định. Việc

CTPHMT sau khai thác mỏ phải được dựa trên định hướng CTPHMT cho vùng có

hoạt động khai thác mỏ kết thúc, đồng thời cũng phải phù hợp với qui hoạch khai

thác mỏ và các qui hoạch khác của địa phương. Do vậy, cần có định hướng chức

năng sử dụng đất trên cơ sở ĐMT vùng, để tránh lãng phí về tài nguyên đất và kinh

phí để phá bỏ các công trình CTPHMT chưa phù hợp với cảnh quan xung quanh khi

KT-XH của vùng phát triển để thay đổi về địa hình, cảnh quan và mục đích sử dụng

của vùng CTPHMT theo hướng tích cực hơn.

- Xây dựng các giải pháp quản lý kỹ thuật CTPHMT thực hiện lồng ghép trong

hoạt động khai thác khoáng sản nhằm đạt được CTPHMT đa mục tiêu.

- Quy định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của công tác CTPHMT để có cơ sở

xem xét mức độ thành công của công tác CTPHMT, đồng thời cũng là cơ sở khoa

học và thực tiễn cho phép chủ mỏ được phép đóng cửa mỏ.

35

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG TẠI

CÁC MỎ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN VÙNG HÒN GAI - CẨM PHẢ

2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên và phát triển kinh tế - xã hội vùng

Hòn Gai - Cẩm Phả

Khu vực HG-CP có địa giới hành chính thuộc thành phố Hạ Long và thành phố

Cẩm Phả có điều kiện tự nhiên đa dạng, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nằm sát

khu đô thị trung tâm thành phố. Thành phố Hạ Long và thành phố Cẩm Phả có diện

tích tự nhiên là 27.150 ha và 48.623 ha; có địa hình đồi núi thấp, dốc, gồm nhiều

sông suối chảy vào vịnh Hạ Long và Bái Tử Long [34].

Hình 2.1: Vị trí vùng Hạ Long và Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh [54]

Hình 2.2: Bản đồ đánh giá độ dốc địa hình vùng HG-CP [36]

36

Vùng HG-CP có trữ lượng than đá dồi dào (khoảng 3,5 tỷ tấn) và tài nguyên đá

vôi phong phú. Ngoài than đá, vùng HG-CP còn là nơi có tài nguyên du lịch rất đa

dạng từ du lịch tự nhiên đến du lịch văn hóa, lịch sử. Địa điểm du lịch nổi tiếng nhất

trong vùng là vịnh Hạ Long, mang ý nghĩa quốc gia và quốc tế, được UNESCO

công nhận là Di sản thiên nhiên về địa chất, địa mạo và đã được bầu chọn là một

trong 7 Kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới. Vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long

có vẻ đẹp tự nhiên thơ mộng và kỳ vĩ với các đảo đá vôi nổi lên trên nền biển xanh

biếc. Vẻ đẹp của vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long đã thu hút sự quan tâm của

nhiều du khách trong và ngoài nước. Ngoài vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long,

trong vùng còn có nhiều địa điểm du lịch tâm linh hấp dẫn như: núi Bài Thơ, chùa

Long Tiên, đền Cửa Ông, chùa Cái Bầu,….

Do có lợi thế về tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên than đá và du lịch nên hệ

thống KT-XH trong vùng có liên quan mật thiết với các nguồn tài nguyên này, các

ngành kinh tế hỗ trợ cũng có sự phát triển đa dạng và năng động.

Tất cả các nhân tố trên tạo động lực thúc đẩy phát triển KT-XH của thành phố

Hạ Long và thành phố Cẩm Phả với tốc độ thuộc loại cao nhất trong tỉnh Quảng

Ninh, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế chung của cả tỉnh và vùng kinh

tế trọng điểm phía Bắc.

2.2. Tài nguyên đất vùng Hòn Gai - Cẩm Phả

Trên cơ sở tổng hợp số liệu kiểm kê đất đai năm 2005 của các đơn vị lãnh thổ

hành chính thuộc vùng nghiên cứu, thì tổng diện tích tự nhiên của 2 thành phố Hạ

Long và Cẩm Phả là 177.202,23 ha, trong đó:

- Nhóm đất nông nghiệp có 115557.35 ha chiếm 65,2 %; nhóm đất phi nông

nghiệp 37927.81 ha, chiếm 21.4%; nhóm đất chưa sử dụng 24527.07 ha, chiếm

13,84 % tổng diện tích tự nhiên của vùng [35].

Tài nguyên đất của vùng HG-CP được thể hiện trong bảng 2.1.

37

Bảng 2.1: Tài nguyên đất vùng HG-CP [35]

Diện tích, ha

Tên

Cẩm Phả

Hạ Long

Đất khai thác than

KSK

4961.75

1592.87

Đất ở đô thị

ODT

1579.75

1724.03

Đất ở nông thôn

ONT

43.59

Rừng phòng hộ

RHP

1781.19

1086.89

Rừng sản xuất

RSX

5739.09

380.12

Đất khu công nghiệp

SKC

1041.69

268.51

các loại đất khác

Khác

4263.54

1962.70

7015.13

Tổng

19410.60

(Chi tiết được thể hiện trên hình 2.3 vị trí, ranh giới khoanh vùng khu

vực khai thác than tại vùng HG-CP )

Ghi chú:

Vùng hoạt

động khai thác

than;

Ranh

giới xác định

tài nguyên đất

vùng HG-CP

Hình 2.3: Vị trí, ranh giới khai thác than tại vùng HG-CP

2.3. Thực trạng khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả

2.3.1. Khái quát hoạt động khai thác than

Trong những năm qua cũng như hiện nay, khai thác than lộ thiên vùng HG-CP

luôn đóng vai trò chủ đạo trong việc đáp ứng sản lượng của ngành Than. Theo

38

thống kê, sản lượng than KTLT vùng HG-CP trong những năm qua chiếm khoảng

55÷65% tổng sản lượng than khai thác của toàn ngành.

Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) hiện có 5

mỏ than KTLT lớn là Đèo Nai, Cọc Sáu, Cao Sơn, Núi Béo và Hà Tu. Ngoài ra, còn

có khoảng hơn 20 mỏ nhỏ, điểm khai thác lộ vỉa thuộc Tổng Công ty Đông Bắc,

Công ty TNHH MTV Dương Huy, Quang Hanh,… và các công ty khác. Tỷ trọng

đóng góp của than KTLT trong tổng sản lượng than của Vinacomin trung bình là

5570%. Mức tăng trưởng trung bình sản lượng than nguyên khai hàng năm từ

20082012 của ngành Than là 4,3%, của KTLT là 0,86%.

Các khâu công nghệ cơ bản trong các mỏ than KTLT là chuẩn bị đất đá, xúc

bóc, vận chuyển và thải đất đá đã có những sự đổi mới về công nghệ, thiết bị, kèm

theo đó là những thay đổi trong cơ chế quản lý, làm chuyển biến rõ rệt phong cách

lao động của công nhân, tư duy công nghệ của cán bộ quản lý và điều hành sản xuất

trên các mỏ.

Bảng 2.2: Sản lượng than và đất đá bóc vùng HG-CP [14]

Sản lượng theo năm

TT

Nội dung

Đơn vị

2009

2010

2011

2012

Tổng

1 Than nguyên khai

103 tấn

31000

32500

33000

36540

133040

2 Đất đá bóc

103 m3 151000

155000

159500 165000

630500

3 Hệ số bóc

m3/tấn

4,9

4,8

4,8

4,5

4,7

Mức tăng trưởng trung bình sản lượng than nguyên khai hàng năm từ năm

20092012 của các mỏ than KTLT vùng HG-CP là 5,7%.

Lượng đất đá thải của một số mỏ than KTLT lớn ở vùng Cẩm Phả được thể

hiện trong bảng 2.3 và dự báo khối lượng đất đá thải trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

trong các giai đoạn được thể hiện trong bảng 2.4.

39

Bảng 2.3: Khối lượng đất đá thải hàng năm của một số mỏ than KTLT lớn [15]

TT

Năm

Cao Sơn, 103 m3

Cọc Sáu, 103 m3

Đèo Nai, 103 m3

Cộng, 103 m3

29.139

1

2007

23.351

72.266

19.776

32.597

2

2008

24.695

78.342

21.050

34.128

3

2009

26.666

84.544

23.750

37.644

4

2010

27.008

90.902

26.250

43.344

5

2011

32.100

105.498

30.054

Bảng 2.4: Dự báo khối lượng đất đá thải vùng HG-CP [12]

Khối lượng đất đá thải, 103 m3

Tên khu vực

Tổng số

2012 -2015

2015-2020

2021-2025

2026-2030

Sau 2030

Toàn ngành

5.822.170

1.197.458

975.656

1.025.790

674.660

1.948.615

Vùng Hòn Gai

280.313

273.867

6.446

Vùng Cẩm Phả

5.541.867

923.591

969.210

1.025.790

674.660

1.948.615

Số liệu tại bảng 2.4 cho thấy: lượng đất đá thải hàng năm của các mỏ than KTLT tại thành phố Cẩm Phả là rất lớn (gần 100 triệu m3/năm); tổng khối lượng đổ

thải của các mỏ than KTLT vùng HG-CP từ năm 2010 đến sau năm 2030 dự kiến sẽ là hơn 5 tỷ m3. Chiều cao trung bình của các bãi thải rất lớn từ 100÷300 m; khoảng

cách bãi thải đến Quốc lộ 18A và 18B sẽ từ 0,5 km đến 30 km.

Diện tích đất có thảm thực vật mà các mỏ than KTLT của Vinacomin chiếm

dụng để mở khai trường và đổ đất đá thải là rất lớn (Hình 2.4). Riêng vùng than

Quảng Ninh, có 29 mỏ than KTLT lớn nhỏ, đã sử dụng gần 5.000 ha. Trong đó,

vùng HG-CP đã chiếm tới 3.600 ha (5 mỏ lớn là Núi Béo, Hà Tu, Đèo Nai, Cao Sơn

và Cọc Sáu).

40

Hình 2.4: Phân bố khối lượng đổ thải các khu vực khai thác than lộ thiên [23]

2.3.2. Đánh giá chung về những tác động môi trường chính gây ra do khai

thác than lộ thiên tại vùng Hòn Gai - Cẩm Phả

Ảnh hưởng của hoạt động khai thác than lộ thiên nói chung và đối với vùng

HG-CP nói riêng là rất đáng kể. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng

làm ô nhiễm môi trường nước; làm biến đổi chế độ thủy văn, chế độ dòng chảy, bồi

lấp dòng chảy, đưa một số kim loại nặng và các chất độc hại vào môi trường

nước,... Việc khoan, bơm hút nước từ các moong khai thác làm cạn kiệt, suy giảm

trữ lượng nước ngầm và ô nhiễm tại một số điểm, dẫn đến xâm nhập mặn,... Phần

lớn các khai trường đều nằm ven biển, các bãi sàng tuyển, các cảng than được thiết

kế nằm ngay sát biển là nguyên nhân chính làm ô nhiễm môi trường nước biển và

gây bồi lấp tại nhiều nơi [24].

Tại các vùng khai thác than ở HG-CP, môi trường nói chung và môi trường

đất nói riêng bị suy thoái và ô nhiễm rất nặng nề. Hoạt động khai thác than đã tàn

phá địa hình và cảnh quan, đồng thời làm xuất hiện xói mòn và trượt lở đất với

nguy cơ rất cao [26].

Hiện tượng xói mòn đất trong vùng HG-CP cũng diễn ra khá mạnh mẽ khi

lớp phủ rừng đã bị suy thoái và phá hủy nhiều. Mặc dù độ che phủ rừng trong vùng

theo các con số thống kê lên tới trên 40 %, tuy nhiên, chất lượng rừng lại rất đáng lo

ngại, chủ yếu là rừng nghèo kiệt. Chính vì thế, lượng đất bị xói mòn trong vùng khá

lớn, trung bình lên tới 300÷500 tấn/ha/năm [37].

41

Hình 2.5: Xói mòn đất đá thải tại bãi thải cũ khu Bù Lù - mỏ Tân Lập

Tại các khu vực khai thác than, môi trường nói chung và môi trường đất nói

riêng bị suy thoái và ô nhiễm rất nặng nề. Hoạt động khai thác than đã tàn phá địa

hình và cảnh quan, đồng thời làm xuất hiện xói mòn và trượt lở đất với nguy cơ rất

cao.

Tại vùng HG-CP, trong thời gian gần đây đã xảy ra nhiều vụ trượt lở đất và

lũ bùn đá nguy hiểm. Hiện tượng tai biến này ngoài tác động tự nhiên còn có sự ảnh

hưởng chủ yếu của hoạt động khai thác than. Với hiện trạng khai thác than như hiện

nay, một lượng lớn đất đá được chất lên, tạo thành những bãi thải cao với vật liệu là

đất đá bở rời. Đó chính là các khu vực có nguy cơ trượt lở đất và lũ bùn đá cao.

Trong mùa mưa năm 2005, tại mỏ than Cao Sơn, gần nửa triệu m3 đất đá từ

bãi thải đã bị trượt lở, lấp kín cả hệ thống đê chắn và một cửa lò than ở mức +36 vỉa

69 của Công ty than Mông Dương, gây thiệt hại nặng nề. Trong mùa mưa năm

2006, dòng nước chứa đầy bùn đá từ bãi thải Khe Rè phá tan thân đập số 1, đưa

toàn bộ khối nước cùng bùn, đất xuống phía trước thân đập số 2. Với động năng sẵn

có, dòng bùn đất đá đã gây áp lực và phá vỡ đập chắn số 2. Dòng vật liệu này tiếp

tục di chuyển xuống đập chắn thứ 3. Với cơ chế liên tục như vậy, nó tiếp tục phá

đập số 3 và tạo ra dòng bùn đất đá lớn phá hủy khu vực dân cư ở phía dưới.

Vật liệu có nguy cơ phát sinh trượt lở cao, chính là các bãi thải của các mỏ

khai thác than lộ thiên nằm ngay ở phần thượng nguồn của các con suối. Các bãi

thải này có chiều cao lớn, đất đá thải có độ gắn kết kém, đặc biệt là có độ chênh cao

42

và độ dốc rất lớn, nên việc xảy ra hiện tượng trượt lở, đưa vật liệu ồ ạt xuống lòng

suối là chuyện khó có thể tránh được.

Tại vùng than HG-CP, hiện tượng xói mòn, trượt lở đất không chỉ làm mất

đất mà còn kéo theo nhiều chất hữu cơ trong đất, làm mất kết cấu, qua đó đe dọa

đến khả năng phục hồi và các phương án CTPHMT sau khai thác.

Sau khi kết thúc khai thác, vẫn có các tác động tiếp tục gây ô nhiễm môi

trường và là nguy cơ làm suy thoái và ô nhiễm môi trường tại nhiều nơi, làm biến

đổi địa hình và cảnh quan, xói mòn, rửa trôi và sạt lở đất, làm ảnh hưởng đến sự

phát triển du lịch và khu đô thị xanh của vùng HG-CP, làm ảnh hưởng nghiêm trọng

đến đời sống của nhân dân, đặc biệt là môi trường không khí.

Hậu quả của quá trình khai thác than đến môi trường vùng mỏ, nhất là khu vực

khai thác than tập trung như ở vùng HG-CP nói riêng và Quảng Ninh nói chung là

một vấn đề có tính chất lịch sử đã tồn đọng nhiều năm trước đây và hiện tại chưa có

điều kiện khắc phục một cách triệt để.

Để giải quyết triệt để các vấn đề môi trường của vùng HG-CP, cần nghiên cứu,

tiến hành ĐMT các vùng trọng điểm trong mối quan hệ tổng thể của các nguồn gây

ô nhiễm môi trường từ các vùng khai thác than và vùng công nghiệp nằm lân cận

các khu đô thị, du lịch,... Từ đó, xác định các vùng ưu tiên tập trung thực hiện các

giải pháp riêng biệt và tổng thể trong bối cảnh nền kinh tế còn chưa phát triển,

nguồn lực tập trung cho công tác BVMT còn hạn chế. Tạo thành vùng ưu tiên

BVMT, CTPHMT đa mục tiêu (với việc đạt hiệu quả BVMT và sử dụng đất mang

lại hiệu quả kinh tế) sau khi đóng cửa mỏ tránh lãng phí trong khi quỹ đất tại khu

vực HG-CP ngày càng hạn hẹp cho việc phát triển không gian xanh, khu vui chơi

giải trí, du lịch,…

Trên cơ sở các phân tích, thống kê và tổng hợp ở trên cho thấy: hoạt động khai

thác than lộ thiên ở vùng HG-CP đã kéo dài và gây nhiều tác động tiêu cực tới môi

trường khu vực. Những ảnh hưởng xấu trên của các mỏ than KTLT vùng HG-CP

chỉ kết thúc sau khi chúng đã được CTPHMT đúng, phù hợp với cảnh quan môi

trường, thổ nhưỡng, khí hậu và sự phát triển của khu vực,…

43

Hoạt động khai thác than nói chung và khai thác than lộ thiên nói riêng đã diễn

ra tại khu vực HG-CP từ hàng trăm năm nay, trong khi việc quan tâm đến công tác

CTPHMT mới chỉ bắt đầu từ khi có quyết định số 71/QĐ-CP ngày 29/5/2008 của

Chính phủ về ký quỹ CTPHMT trong hoạt động khoáng sản (HĐKS) và quy định

về đóng cửa mỏ theo quy định của Luật Khoáng sản 2006 và Luật Khoáng sản

chỉnh sửa, bổ sung 2010.

Mặt khác, công tác CTPHMT cho các mỏ than khai thác lộ thiên thường phải

sau 40÷50 năm mới có kết quả cụ thể. Nếu không quan tâm ngay từ khi bắt đầu khai

thác mỏ và trong quá trình sản xuất, với hậu quả nghiêm trọng của khai thác lộ thiên

tại vùng HG-CP (tạo ra các khu vực đồi núi nham nhở, bờ mỏ và bãi thải mất ổn

định, nguồn nước ngầm bị cạn kiệt và ô nhiễm,…) sẽ làm cho công tác CTPHMT,

làm xanh trở lại những vùng đất đã kết thúc khai thác tại khu vực này hết sức khó

khăn. Công tác CTPHMT cho vùng HG-CP cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, toàn

diện và phải được triển khai đồng bộ.

2.4. Hiện trạng công tác cải tạo và phục hồi môi trường tại các mỏ than

khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả

2.4.1. Cơ sở pháp lý và công tác cải tạo và phục hồi môi trường giai đoạn

1993-2008

2.4.1.1. Giai đoạn 1993-1998

Giai đoạn trước năm 1993 và trong khoảng 1993-1998 là mốc thời điểm trước và

sau khi Luật BVMT ra đời 5 năm. Luật BVMT ra đời nhưng chưa đi vào cuộc sống.

Ngành than chưa phát triển, sản lượng than thấp. Hoạt động KTLT trên cơ sở các thiết

bị chưa được đổi mới như hiện nay. Việc CTPHMT chưa được quan tâm; hầu hết các

khai trường KTLT khi kết thúc khai thác được giữ nguyên hiện trạng với các bờ tầng

phía vách và bờ trụ gần như bị chập tầng suốt từ mặt mỏ đến đáy khai trường; bãi thải

không phân tầng, không thực hiện trồng cây phủ xanh mà để thảm thực vật tự phát

triển, tự phục hồi.

Trong giai đoạn này, địa hình tại khu vực khai thác không có sự thay đổi so với

khai trường mỏ than KTLT khi kết thúc khai thác. Sau quá trình tự phục hồi từ 10÷20

44

năm, thực vật phát triển chủ yếu là lau, le với mật độ phát triển không đồng đều, còn

nhiều khu vực trơ đá gốc không có thảm thực vật.

2.4.1.2. Giai đoạn 1998-2005

Trong giai đoạn này, Luật BVMT 1993 đã đi vào cuộc sống; ngành Than đang

trong giai đoạn phát triển; KTLT với sản lượng cao trên cơ sở công nghệ khai thác

khấu theo lớp đứng với các thiết bị tiên tiến. Việc CTPHMT bắt đầu được quan tâm

bằng việc Tổng Công ty than Việt Nam đã phối hợp với UBND tỉnh lập và thực hiện

dự án khắc phục ô nhiễm do khai thác than nhiều năm (1998) với việc CTPHMT bãi

thải Nam Lộ Phong (khu vực Hòn Gai) và Bãi thải Đèo Nai (khu vực Cẩm Phả).

Trong giai đoạn này, hoạt động CTPHMT tại các khai trường, bãi thải đã kết thúc

của KTLT khác cũng chưa được CTPHMT như lộ vỉa mỏ Cao Thắng; các mỏ Giáp

Khẩu, Hà Lầm và các lộ vỉa khu vực Quang Hanh, Dương Huy và Mông Dương).

2.4.1.3. Giai đoạn 2005-2008

Luật BVMT năm 2005 đã dành riêng Điều 44 để quy định về “BVMT trong

HĐKS” có nội dung “Tổ chức, cá nhân khi tiến hành thăm dò, khai thác, chế biến

khoáng sản phải có biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và thực hiện

các yêu cầu về bảo vệ, phục hồi môi trường sau đây: phục hồi môi trường sau khi

kết thúc hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản”.

Luật Khoáng sản 2010, có điều 30 quy định trực tiếp về BVMT và CTPHMT

trong khai thác khoáng sản có nội dung như sau: “Tổ chức, cá nhân HĐKS phải sử

dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu thân thiện với môi trường; thực hiện các giải pháp

ngăn ngừa, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường và CTPHMT theo quy định của

pháp luật,… Trước khi tiến hành khai thác khoáng sản, tổ chức, cá nhân khai thác

khoáng sản phải ký quỹ CTPHMT theo quy định của Chính phủ”.

Tuy nhiên, những vấn đề về CTPHMT nêu tại Luật BVMT và Luật Khoáng

sản chưa đủ cơ sở pháp lý để thực hiện một cách hữu hiệu công tác này nên hầu hết

các đơn vị khai thác mỏ chưa ký quỹ CTPHMT và chưa thực hiện công tác

CTPHMT theo quy định của Chính phủ trong thời gian này.

45

Nội dung CTPHMT rất đơn giản, chỉ bao gồm việc trồng cây trên sườn và mặt

bãi thải; không tiến hành cắt tầng, nghiên cứu thổ nhưỡng; không thu gom nước mặt

và ổn định sườn tầng bãi thải. Do vậy, kết quả CTPHMT không cao, tỷ lệ phủ xanh

thành công không lớn, bãi thải vẫn bị xói mòn và sạt lở cục bộ [12].

2.4.2. Cơ sở pháp lý và công tác cải tạo và phục hồi môi trường giai đoạn

2008÷2013

Trong giai đoạn này, Chính phủ ban hành quy định về CTPHMT tại Quyết định

số 71/2008/QĐ-TTg về ký quỹ CTPHMT đối với HĐKS (nay là Quyết định số

18/2013/QĐ-TTg Chính phủ về ký quỹ CTPHMT đối với HĐKS thay thế Quyết

định số 71/2008/QĐ-TTg). Hầu hết các dự án hoạt động khai thác khoáng sản cũng

như hoạt động KTLT đã thực hiện lập dự án CTPHMT trình cấp có thẩm quyền phê

duyệt để thực hiện ký quỹ BVMT.

2.4.2.1. Công tác cải tạo và phục hồi môi trường một số bãi thải lớn

Một số bãi thải lớn có cao độ cao hơn các dãy núi tự nhiên, sát khu dân cư, làm

ô nhiễm môi trường và làm xấu cảnh quan khu vực khi nhìn từ vịnh Hạ Long và Bái

Tử Long, được tiến hành CTPHMT. Hiện trạng CTPHMT các bãi thải này như sau:

a. Mặt đã làm được

- Bãi thải Chính Bắc thuộc Công ty Than Núi Béo là một bãi thải lớn (thuộc

phường Hà Khánh), có nhiều đơn vị cùng đổ thải: Núi Béo, Hà Tu, Hòn Gai, Hà

Lầm), đã được đổ thải từ năm 2006, có độ cao hơn 200 m, đã cao vượt các dãy núi

cao ở khu vực Hà Khánh (khi nhìn từ Cầu Bãi Cháy, thành phố Hạ Long). Năm

2010, Công ty than Núi Béo đã lập và thực hiện riêng phương án CTPHMT cho bãi

thải Chính Bắc, hiện đang triển khai trồng thí điểm cỏ Ventiver và cây găng ở sườn

tầng, trồng keo phủ xanh mặt tầng các khu vực đã kết thúc đổ thải (từ nguồn kinh

phí quỹ môi trường của Vinacomin) [9].

- Bãi thải Nam Lộ Phong thuộc Công ty Than Hà Tu là một bãi thải lớn (thuộc

phường Hà Khánh), cũng có nhiều đơn vị cùng đổ thải: Núi Béo, Hà Tu, Hòn Gai,

Hà Lầm, đã được đổ thải từ thời Pháp thuộc đến năm 2008, có độ cao hơn 240m,

hiện đã cao hơn các dãy núi ở khu vực Hà Phong (nhìn từ cầu Hà Phong, thành phố

46

Hạ Long). Bãi thải này cũng đã được Công ty than Hà Tu tiến hành CTPHMT với

các công việc như: cải tạo lại các tầng của bãi thải, trồng cây phủ xanh sườn tầng và

mặt tầng các khu vực đã kết thúc đổ thải [41].

- Bãi thải Đèo Nai với chiều cao hơn 240 m được đổ thải thành các tầng cao

30m, với chiều rộng mặt tầng khoảng 30m và cũng đã thực hiện CTPHMT với

phương án trồng cỏ lau le, keo tai tượng xen lẫn thông (số lượng thông chiếm tỷ lệ

rất nhỏ) tại sườn tầng và trồng cây keo phủ xanh mặt tầng bãi thải và bờ tầng thải.

Ngoài ra, trên bờ tầng thải xây dựng các mương thoát nước có các bậc tiêu

năng, phía dưới bậc tiêu năng ở chân bãi thải có hố lắng và tường chắn nước, cách

chân bãi thải khoảng 30÷50m có xây dựng đê chắn kiên cố với mặt đê là đường vận

chuyển than chuyên dùng của vùng.

Hiện nay, cây keo tai tượng đã phát triển tốt trên mặt tầng với chiều cao từ

3÷5m ở chân bãi thải phía Đông đập ngăn nước, xung quanh có hàng cây liễu rủ và

rừng phi lao tạo thành hồ sinh thái có cảnh quan rất đẹp ở khu vực này. Ngoài ra,

khu vực dãy núi Tây Khe Sim với chiều dài hơn 3 km, trước kia là nơi đổ thải của

các mỏ trong khu vực, nay cũng đã được trồng cây phủ xanh [42].

b. Những tồn tại

Tuy nhiên, công tác CTPHMT chưa thực sự đạt hiệu quả: sau nhiều năm (trên

5 năm) cây keo già và gẫy nhưng chưa có thảm thực vật bậc thấp thay thế do chúng

khó phát triển dưới tán cây keo. Do sự rửa trôi, xói mòn đất đá lớn trên sườn bãi

thải nên có nguy cơ tái hồi hiện trạng trơ đất đá thải sau mưa (như một số khu vực

tại bãi thải chính Bắc và Nam Lộ Phong,…). Mặc dù cỏ ventiver trồng ở sườn bãi

thải đã hạn chế rửa trôi ở một số vị trí, nhưng các sườn bãi thải này chỉ có mầu xanh

vào mùa mưa, còn vào mùa khô đất đá lại có màu xám xịt. Như vậy cỏ ventiver

chưa mang lại cảnh quan như mong muốn.

Bên cạnh đó, các dãy núi chạy dọc theo Quốc lộ 18A từ phường Cẩm Thạch

đến Mông Dương còn nhiều khai trường, bãi thải đã và đang hoạt động chưa thể

CTPHMT, gây ảnh hưởng rất lớn đến khu vực về cảnh quan, môi trường không khí,

môi trường nước và gây bồi lắng suối ven biển,…

47

Hình 2.6: Cảnh quan bãi thải Nam Lộ Phong sau 5 năm CTPHMT

2.4.2.2. Công tác cải tạo và phục hồi môi trường tại một số khai trường

- Một số khai trường khu vực vỉa 10 Giáp Khẩu, vỉa 10 Thành công (thuộc

phường Cao Xanh); khai trường lộ vỉa khu vực Hà Lầm, Dương Huy, Mông

Dương,… đã kết thúc khai thác và đổ thải từ các năm 1995÷2008, công tác

CTPHMT được thực hiện với phương án giữ nguyên hiện trạng địa hình khai

trường, CTPHMT một cách tự nhiên.

2.4.3. Phương án cải tạo và phục hồi môi trường của các mỏ than khai thác

lộ thiên được lập theo quy định tại Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg

Phương án CTPHMT của các mỏ than KTLT trong các dự án CTPHMT được

duyệt cho các dự án tiếp tục khai thác hoặc khai thác mở rộng như sau:

Tại vùng Hòn Gai, các mỏ than KTLT lớn là khai trường vỉa 11, 14 mỏ than

Núi Béo; vỉa 7, 8, 10, 16 mỏ than Hà Tu và các khai trường khai thác lộ vỉa như vỉa

11 mỏ 917; lộ vỉa +110 mỏ Tân Lập khai thác với công suất từ 1÷3 triệu tấn/năm,

dự kiến sẽ kết thúc khai thác trước năm 2018.

Tại vùng Cẩm Phả, có các mỏ than KTLT là khai trường vỉa 11, 14 mỏ than

Đèo Nai; vỉa G4, vỉa dầy 1, 2, 3, 4 mỏ than Cọc Sáu; vỉa 13-1, 14-2, 14-4, 14-5 mỏ

than Cao Sơn và vỉa 10, 11 mỏ than Bàng nâu - Tổng công ty Đông Bắc; khai

trường mỏ Tây Nam Đá Mài; mỏ Khe Chàm,… khai thác với công suất từ 1÷3 triệu

tấn/năm, dự kiến sẽ kết thúc khai thác trước năm 2030.

48

Hầu hết các dự án CTPHMT ở vùng HG-CP đã được cơ quan có thẩm quyền

phê duyệt, được tổng hợp như sau:

2.4.3.1. Khái quát về phương án cải tạo và phục hồi môi trường

a. Cải tạo khai trường khai thác

- Trường hợp tài nguyên than còn lại sau KTLT, nếu tiếp tục KTLT phần than

này không mang lại hiệu quả kinh tế hoặc không thể thực hiện bằng khai thác hầm

lò và không đủ điều kiện để các mỏ khác sử dụng đổ thải thì đơn vị sẽ thực hiện

phương án để lại địa hình với hình dạng hố mỏ có độ sâu so với mặt bằng tự nhiên

theo mức kết thúc khai thác (đặc trưng khi địa hình khai trường mỏ kết thúc có dạng

lòng moong với chiều sâu so với bề mặt tự nhiên từ 50÷150m).

Thực hiện gia cố bờ mỏ trước và sau khi kết thúc khai thác, để lại hiện trạng

moong khai thác dạng hố mỏ (dưới mức thoát nước tự chảy) tạo thành hồ chứa

nước, lập hàng rào và biển cảnh báo nguy hiểm; thực hiện trồng cỏ trên sườn tầng

và trồng cây trên bờ tầng kết thúc khai thác trên mức thoát nước tự chảy.

- Trường hợp sau khi kết thúc KTLT, tài nguyên than còn lại phía dưới đáy

moong được tiếp tục khai thác hầm lò hoặc có đủ điều kiện để các mỏ khác sử dụng

đổ thải mang lại hiệu quả kinh tế theo định hướng phát triển ngành Than, thì khi đó

việc lấp moong có thể thực hiện bằng các phương thức sau: sử dụng đất đá thải của

mỏ hoặc của các mỏ lân cận.

Có thể dùng khai trường đã kết thúc khai thác làm bãi thải cho các mỏ lân cận

trong trường hợp các mỏ này đang hoạt động và có nhu cầu đổ thải. Khi moong

được lấp đầy, trồng cây phủ xanh tạo nguồn dự trữ đất xây dựng.

b. Cải tạo các bãi thải đất đá

- Các bãi thải dạng cao được đổ tạo tầng, tạo độ dốc và tạo hệ thống thoát

nước, sau đó san gạt cải tạo lại mặt bằng và được trồng cây phủ xanh bề mặt với

loại cây được lựa chọn là keo lá tràm và cỏ lau, le hoặc ventiver ở sườn tầng thải.

- Các bãi thải trong của các mỏ thì sau khi kết thúc đổ thải được san gạt cải tạo

lại mặt bằng để phủ xanh bề mặt với loại cây được lựa chọn là cây keo lá tràm.

c. Cải tạo và phục hồi môi trường các hạng mục công trình phụ trợ phục vụ

49

khai thác lộ thiên

- Thực hiện san gạt, cải tạo và trồng cây phủ xanh (cây keo lá tràm) cải tạo đất,

sau khi đã tháo dỡ các công trình kiến trúc tại các mặt bằng sân công nghiệp, mặt

bằng kho than, mặt bằng xưởng vận tải,…; xây dựng hệ thống thoát nước các khu

vực moong, bãi thải; kiểm tra, giám sát và xử lý chất lượng nước đảm bảo yêu cầu

trước khi xả ra môi trường; duy tu, bảo dưỡng các công trình CTPHMT; chăm sóc

và bảo vệ rừng trồng trong thời gian sau kết thúc dự án tối thiểu là 5 năm.

2.4.3.2: Một số phương án cải tạo và phục hồi môi trường cho các mỏ than lớn

vùng Hòn Gai - Cẩm Phả

1. Phương án cải tạo và phục hồi môi trường mỏ than Núi Béo

Theo kế hoạch của Vinacomin, một phần diện tích đất sau khi CTPHMT tiếp tục

là khai trường khai thác hầm lò, do đó các moong khai thác của mỏ Núi Béo được đổ

thải trong lấp đầy moong bằng đất đá thải của các mỏ Hà Tu và Hà Lầm [8].

Sau khi kết thúc khai thác, các moong dạng hố mỏ được sử dụng thành bãi thải

trong cho dự án KTLT vỉa 7 + 8, vỉa trụ Cánh Đông của mỏ than Hà Tu và dự án

KTLT mở rộng khu II vỉa 11 của mỏ than Hà Lầm. Các moong khai thác dạng hố

mỏ gồm moong Cánh Đông và moong Cánh Tây được lấp đầy đến cao độ địa hình

khu vực tạo mặt bằng, trồng cây phủ xanh toàn bộ moong.

San gạt phẳng mặt tầng và đỉnh bãi thải Phụ Bắc để tạo diện trồng cây; cải tạo

hệ thống rãnh thoát nước và các hố lắng dọc chân bãi thải; trồng cây phủ xanh,

chống xói mòn đất mặt tầng và sườn tầng bãi thải.

Loại cây trồng phủ xanh là loại keo lai với mật độ trồng là 2.500 cây/ha.

Chỉ số phục hồi đất: Ip = -2,24 (phương án CTPHMT xét về kinh tế không hiệu

quả); chi phí CTPHMT: 40.163.749.134 đồng; thời gian kết thúc CTPHMT: năm

2019 [09].

2. Phương án cải tạo và phục hồi môi trường mỏ than Cọc Sáu

Theo kế hoạch sản xuất của Vinacomin giai đoạn năm 2015 và tầm nhìn đến

năm 2025, khi mỏ Cọc Sáu kết thúc khai thác sẽ được dùng làm bãi thải trong cho

các mỏ lân cận là Ðèo Nai và Cao Sơn [10], [11].

50

Theo đó, sau khi kết thúc khai thác, moong khai thác cũ sẽ được sử dụng làm

bãi thải và được lấp đầy đến mức thông thủy tự nhiên, sau đó tạo mặt bằng trồng

cây; san gạt tạo phẳng mặt tầng và đỉnh bãi thải Nam - mỏ Cọc Sáu để tạo diện

trồng cây; xây dựng đập chắn chân bãi thải; trồng cây phủ xanh, chống xói mòn đất

mặt tầng và sườn tầng bãi thải.

Chỉ số phục hồi đất: Ip = 0,25; chi phí dự án CTPHMT (chưa có chi phí lấp

moong): 52.564.875.314 đồng; thời gian kết thúc khai thác mỏ: năm 2023 [06].

3. Phương án cải tạo và phục hồi môi trường mỏ than Đèo Nai

Theo quy hoạch chung của 3 mỏ than Cao Sơn, Cọc Sáu và Đèo Nai, moong

kết thúc khai thác của mỏ Đèo Nai sẽ được dùng để đổ thải cho mỏ Cao Sơn, do đó

toàn bộ moong khai thác của mỏ Đèo Nai được tiến hành lấp đầy đến mức thông

thủy tự nhiên, sau đó tiến hành lấp đất màu để trồng cây [16], [17].

Cải tạo các bãi thải, mặt tầng tại các vị trí xung yếu của bãi thải được tiến hành

gia cố bằng cách xây dựng tuyến kè để đảm bảo tránh sạt lở; trồng keo lá tràm trên

mặt bằng bãi, mặt tầng bãi thải và moong kết thúc với mật độ 2000 cây/ha.

Chỉ số phục hồi đất: Ip = 0,36; tổng chi phí đầu tư CTPHMT: 67.956.170.012

đồng; thời gian kết thúc khai thác: năm 2037 [10].

2.4.4. Định hướng giải pháp cải tạo và phục hồi môi trường chung của

ngành Than

Theo Quy hoạch phát triển Ngành Than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển

vọng đến năm 2030 đã dự kiến “tất cả các mỏ và công trường khai thác khi kết thúc

khai thác phải tiến hành công tác đóng cửa mỏ theo đúng quy định của Luật Khoáng

sản hiện hành. Đồng thời cần thực hiện các giải pháp để đảm bảo an toàn sau khi

mỏ và công trường khai thác kết thúc khai thác”. Đối với các mỏ và công trường

khai thác than lộ thiên vùng HG-CP, cụ thể như sau [4]:

- Tiến hành xử lý đá treo và các khu vực có nguy cơ sạt lở trên bờ tầng kết thúc

để đảm bảo bờ tầng kết thúc luôn ổn định và an toàn.

- Tiến hành lấp moong ở các khu vực cho phép nhằm đảm bảo an toàn cho

công tác khai thác hầm lò phần sâu và thuận lợi cho công tác bảo vệ, khôi phục môi

51

sinh, môi trường. Các mỏ và công trường KTLT sau khi kết thúc khai thác sẽ được

lấp toàn bộ hoặc một phần moong khai thác. Các mỏ và công trường KTLT sau sẽ

được lấp toàn bộ moong sau khi kết thúc khai thác: công trường KTLT khu Bảo Gia

mỏ Dương Huy đổ thải cho mỏ Cao Sơn; công trường KTLT 110 Lộ trí mỏ Thống

Nhất đổ thải cho mỏ Đèo Nai, mỏ than KTLT Bắc và Nam Quảng Lợi; công trường

KTLT G(9), H(10) mỏ Mông Dương đổ thải cho các mỏ Đèo Nai, Cao Sơn và Cọc

Sáu); công trường KTLT Khe Chàm III, công trường KTLT cụm vỉa 14 Khe Chàm

đổ thải cho mỏ Cao Sơn; công trường KTLT Bàng Nâu đổ thải cho mỏ Đá Mài và

Cao Sơn; công trường KTLT mỏ Hà Lầm đổ thải cho mỏ Núi Béo,… Các mỏ và

công trường KTLT sau khi kết thúc khai thác sẽ được lấp một phần moong khai

thác bao gồm: Đèo Nai, Cọc Sáu, Cao Sơn, Đá Mài, Đông Lộ Trí, công trường

KTLT mỏ Nam Khe Tam, công trường KTLT mỏ Dương Huy, mỏ Đông và Tây

Khe Sim, mỏ Hà Tu, Núi Béo, mỏ 917,...

- Tiến hành cải tạo bờ tầng, bãi thải phục vụ cho việc trồng cây gây rừng, khôi

phục môi trường sinh thái.

2.5. Công tác quản lý cải tạo và phục hồi môi trường cho các mỏ khai thác

than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả

2.5.1. Công tác quản lý cải tạo và phục hồi môi trường của Vinacomin

a. Những kết quả

Trong những năm qua, Vinacomin (trước kia là Tổng công ty Than Việt Nam)

đã có nhiều chương trình, kế hoạch cụ thể quản lý tài nguyên và môi trường

(TN&MT), trong đó có hoạt động CTPHMT đối với nguồn ô nhiễm môi trường

nghiêm trọng (CTPHMT bãi thải Nam Lộ phong, bãi thải Đèo Nai,...) và đã phối

hợp tương đối chặt chẽ với UBND tỉnh Quảng Ninh và các Sở, Ban, Ngành, địa

phương trong tỉnh để tăng cường quản lý TN&MT trong HĐKS:

- Hầu hết các doanh nghiệp đều thực hiện nghiêm túc việc ký quỹ CTPHMT

đối với HĐKS theo Quyết định số 71/QĐ-CP của Chính phủ.

- Tính đến năm 2005, tổng diện tích trồng rừng, trồng cây phủ xanh trong ranh

giới mỏ đã thực hiện được khoảng 1400 ha.

52

- Đã đầu tư CTPHMT tại một số khu vực bãi thải lớn do khai thác than nhiều

năm để lại; sử dụng quỹ môi trường của ngành Than đầu tư khoảng 200 tỷ đồng

hàng năm cho các công trình BVMT.

b. Những tồn tại

Việc lập dự án CTPHMT chưa xét đến mối liên quan giữa các doanh nghiệp

cùng có hoạt động trên cùng một địa bàn, lưu vực nước,… nên nhiều công trình của

mỏ này bị hoạt động của các mỏ khác gần đó làm mất hiệu quả, gây lãng phí kinh

phí đầu tư .

Còn rất nhiều nguồn gây ô nhiễm môi trường (bãi thải khai trường khai thác đã

kết thúc nhiều năm như toàn bộ Bãi thải chính Bắc, khu Bắc Bàng Danh,…) làm

ảnh hưởng, suy thoái các tài nguyên thiên nhiên (TNTN) khác (tài nguyên nước,…)

chưa được quan tâm đầu tư xử lý.

Trong đó, hoạt động cải tạo môi trường được thực hiện theo dự án CTPHMT

theo hướng dẫn tại Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT , ngày 31 tháng 12 năm 2009

của Bộ Tài nguyên và Môi trường, quy định về lập, phê duyệt, kiểm tra, xác nhận

dự án CTPHMT và ký quỹ CTPHMT đối với hoạt động khai thác khoáng sản

(Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT). Tuy nhiên, các nội dung của hướng dẫn cũng

như thực tế việc lập dự án CTPHMT của một mỏ chưa được xem xét trong tổng thể

nhiều mỏ; chưa được đánh giá về hiệu quả phục hồi môi trường của một mỏ trong

tổng thể nhiều mỏ (mặc định việc trồng cây keo và duy trì phát triển cây sinh trưởng

là xong việc CTPHMT); chưa đề cập đến việc sẽ duy trì hiệu quả CTPHMT và quản

lý tiếp như thế nào để đất không trở lại hoang hoá; chưa đề cập tới việc tăng hiệu

quả sử dụng đất mang lại hiệu quả kinh tế và tiếp tục phát triển trên các vùng đất

CTPHMT có vị trí, điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế.

c. Một số nguyên nhân

Công tác quản lý về TN&MT (trong đó có việc quản lý hoạt động CTPHMT)

thiếu tính hệ thống và sự phối hợp giữa các doanh nghiệp trong khu vực còn nhiều

bất cập.

53

Trong kế hoạch phát triển hiện nay của ngành Than chưa quan tâm, xem xét đến

việc CTPHMT đảm bảo phù hợp với quy hoạch phát triển KT-XH toàn vùng và quy

hoạch phát triển, bảo tồn thiên nhiên,… của các ngành, các lĩnh vực kinh tế, văn hoá,

xã hội khác trong khu vực.

Công tác khai thác than lộ thiên là một trong các hoạt động công nghiệp trong

vùng có nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều loại hình kinh tế nhưng chưa được ĐMT

để làm rõ bức tranh, khoanh vùng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ưu tiên giải

quyết và xác định vùng CTPHMT đa mục tiêu.

Chưa xem xét bố trí việc CTPHMT lồng ghép với quy trình thực hiện khai

thác, đồng thời trong quá trình khai thác để giảm thiểu ô nhiễm môi trường về bồi

lắng, môi trường nước, đất, không khí, cảnh quan….

Chưa xác lập định hướng vùng ưu tiên thực hiện chức năng phát triển kinh tế

nhằm phục vụ cho việc lập đề án CTPHMT khu vực liên mỏ đạt mục đích

CTPHMT đa mục tiêu trong quá trình khai thác và khi kết thúc hoạt động KTLT

sau này để sử dụng tập trung, hợp lý nguồn tiền ký quỹ cho vùng CTPHMT đa mục

tiêu (định hướng hình dạng trong quá trình khai thác, cải tạo địa hình và phục hồi

môi trường theo định hướng phát triển kinh tế); vùng CTPHMT thông thường (có

thể là không cần thiết phải cải tạo địa hình; chỉ cần phục hồi thảm thực vật một

phần vùng khai thác như bãi thải và một phần tự phục hồi môi trường theo thời gian

và quy luật tự nhiên).

2.5.2. Công tác quản lý nhà nước về cải tạo và phục hồi môi trường

a. Những vấn đề chung

Công tác quản lý nhà nước trong HĐKS ở Quảng Ninh dựa trên cơ sở các Luật

Khoáng sản, Luật Đất đai, Luật Môi trường, Luật Tài nguyên nước. Bên cạnh đó

công tác này còn có mối liên quan với hầu hết các bộ luật khác như Luật Giao

thông, Luật Bảo vệ rừng,…

Trong đó, công tác quản lý CTPHMT chỉ thực hiện theo quy định tại Quyết định

số 18/2013/QĐ-TTg (trước kia là 71/QĐ-TTg và Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT).

54

Tỉnh đã ban hành nhiều văn bản, quy phạm pháp luật và chỉ đạo đẩy mạnh

công tác quản lý TN&MT trong HĐKS. Chủ động lập kế hoạch phòng ngừa ô

nhiễm môi trường và sự cố môi trường do HĐKS gây ra; giải quyết kịp thời sự cố

thiên nhiên, tai biến môi trường trong HĐKS và đơn thư kiến nghị của nhân dân (sạt

lở bãi thải Khe Rè, Đông Cao Sơn,…). Lập kế hoạch và CTPHMT một số bãi thải,

khu vực KTLT lân cận các trung tâm đô thị, khu vực tập trung dân cư và các địa

bàn có hệ sinh thái, cảnh quan quan trọng.

UBND tỉnh Quảng Ninh và Vinacomin thường xuyên kiểm điểm, đánh giá kết

quả hoạt động sản xuất than và các hoạt động KT-XH khác, đề ra nhiều biện pháp

khắc phục và cải thiện môi trường trong khai thác than (trong đó có công tác

CTPHMT bãi thải Nam Đèo Nai, Lộ Phong,...).

b. Công tác quản lý nhà nước chuyên ngành

Năm 2003, hệ thống các cơ quan quản lý TN&MT các địa phương đã được

thành lập đến cấp huyện. Công tác quản lý nhà nước về TN&MT trong HĐKS từng

bước đi vào nề nếp trên cơ sở kết hợp chặt chẽ 03 mặt công tác về quản lý tài

nguyên đất đai, khoáng sản, môi trường (CTPHMT) và sự phối hợp ngày càng chặt

chẽ của Sở TN&MT với các địa phương, các ngành có liên quan. Công tác thanh

kiểm tra và xử lý vi phạm về BVMT của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên

ngành được đẩy mạnh thường xuyên hơn.

- Việc cải tạo bãi thải và xử lý sạt lở, BVMT tại các bãi thải lớn như Lộ Phong,

Nam Đèo Nai,… mới chỉ đáp ứng được yêu cầu giảm thiểu ô nhiễm môi trường,

chưa mang lại hiệu quả sử dụng đất; mức độ rửa trôi gây bồi lắng vẫn còn cao; độ

ổn định bãi thải vẫn trong giai đoạn giám sát, theo dõi.

- Nhiều công trình BVMT còn có hiệu quả thấp, cá biệt có công trình không đạt

hiệu quả, gây sự cố môi trường (Cọc Sáu, Hà Tu, Núi Béo, Khe Rè,...).

- Dự án đóng cửa mỏ và phục hồi môi trường sau khai thác được các doanh

nghiệp quan tâm thực hiện nghiêm túc việc ký quỹ môi trường theo hướng dẫn của

Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg ngày 29/5/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc

ký quỹ CTPHMT đối với HĐKS.

55

c. Một số tồn tại chính trong công tác quản lý cải tạo và phục hồi môi trường

Công tác quản lý TN&MT trong HĐKS của tỉnh Quảng Ninh còn nhiều bất cập

cần tiếp tục được quan tâm giải quyết như quản lý chất thải và nhu cầu khai thác, sử

dụng tài nguyên than, đất đai và nhiều tài nguyên khác. Nhìn chung, đến nay năng

lực quản lý Nhà nước về TN&MT còn rất hạn chế thể hiện ở các khía cạnh sau:

- Việc thẩm định hồ sơ các dự án phát triển (dự án CTPHMT) đã có nhiều

chuyển biến tích cực về chất lượng chuyên môn đối với tất cả các lĩnh vực, thời

gian thẩm định đã rút ngắn đáng kể song vẫn còn một số nhược điểm như: chất

lượng chuyên môn của ĐTM, công tác CTPHMT chuyên ngành khai thác khoáng

sản của hội đồng thẩm định chưa đáp ứng được yêu cầu; việc tổ chức các hoạt động

hỗ trợ hội đồng thẩm định đối với các dự án CTPHMT (có nguy cơ ảnh hưởng xấu

đến nguồn nước lưu vực sông, vùng ven biển, vùng có hệ sinh thái được bảo vệ)

chưa được thực hiện.

- Công tác kiểm tra theo chức năng, nhiệm vụ còn yếu kém, chưa tiến hành

thường xuyên, thiếu kế hoạch đồng bộ và hệ thống, nặng về giải quyết theo vụ việc;

chưa kịp thời phát hiện và xử lý kiên quyết một số hành vi vi phạm hành chính.

- Công tác cập nhật thông tin, giữ liệu về thực trạng và biến động về đất đai,

khoáng sản, môi trường (CTPHMT),… chưa thường xuyên, chưa hệ thống, chưa

đầy đủ và chính xác.

- Sự phối hợp quản lý về đất đai, khoáng sản, môi trường,... giữa cơ quan

chuyên ngành với các cấp chính quyền địa phương và doanh nghiệp còn thiếu chặt

chẽ.

- Công tác quy hoạch sử dụng đất và TN&MT chưa được tiến hành đồng bộ

với nhau và với các ngành khác, với quy hoạch phát triển KT-XH vùng lãnh thổ.

Chưa có định hướng sử dụng đất khi các mỏ than KTLT tại các vùng mỏ kết thúc để

làm căn cứ xem xét thẩm định mục đích sử dụng đất phù hợp của các dự án

CTPHMT.

- Công tác nghiệm thu CTPHMT chưa dựa trên cơ sở các tiêu chí đánh giá hiệu

quả các công việc của hoạt động CTPHMT.

56

Do những vấn đề trên, công tác tham mưu, đề xuất giải pháp quản lý, thẩm

định các dự án CTPHMT cũng chưa đáp ứng kịp thời với yêu cầu thực tiễn, mà

nguyên nhân là:

- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật chưa được ban hành kịp thời như

các chỉ tiêu kỹ thuật, hướng dẫn thẩm định các dự án chuyên ngành (kể cả dự án

CTPHMT), qui chuẩn kỹ thuật địa phương về chất thải phù hợp với đặc thù của địa

phương,...

- Các cơ quan quản lý TN&MT và các ngành, các cấp chính quyền địa phương

trong tỉnh có ít nhân lực; trình độ quản lý CTPHMT yếu, thiếu kinh phí, phương tiện,

cơ sở vật chất,…

Ngoài ra, theo quy định của Luật Khoáng sản, các doanh nghiệp khai thác

khoáng sản phải có trách nhiệm ký quỹ môi trường trước khi tiến hành khai thác. Đây

cũng là nguồn kinh phí rất lớn (tại tỉnh Quảng Ninh là hơn 500 tỷ đồng), cần được

triển khai cho các hoạt động quản lý tài nguyên và BVMT, đặc biệt cần tập trung cho

vùng ưu tiên CTPHMT đa mục tiêu. Đến nay, do chưa có sự đồng bộ của các văn bản

quy phạm pháp luật và sự yếu kém về nhân lực của Sở TN&MT, các doanh nghiệp

mới chỉ xây dựng dự án đóng cửa mỏ và phục hồi môi trường sau khai thác theo

Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT, mặt khác, công tác CTPHMT thực hiện theo

Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT còn nhiều bất cập, nên công tác CTPHMT chưa

thực hiện được theo định hướng giảm thiểu ô nhiễm môi trường của một mỏ trong

tổng thể chung nhiều mỏ trên một vùng rộng lớn, mang lại hiệu quả sử dụng đất,

tránh lãng phí tài nguyên đất trong vùng HG-CP “đất chật người đông”,….

2.5.3. Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội và cộng đồng đối với công tác

quản lý tài nguyên và môi trường trong hoạt động khoáng sản

Những năm gần đây, các tổ chức đoàn thể chính trị và cộng đồng nhân dân các

khu vực có HĐKS đã có nhiều hoạt động tích cực tham gia giám sát các HĐKS của

các doanh nghiệp sản xuất than nói riêng và các cơ quan quản lý nhà nước các cấp.

Đã có nhiều đơn kiến nghị của nhân dân gửi tới các cấp chính quyền và cơ

quan quản lý nhà nước phản ánh những vấn đề bức xúc trong quản lý TN&MT, đặc

57

biệt là những vấn đề về sử dụng đất, khai thác than trái phép và các hành vi gây ô

nhiễm môi trường, suy thoái TNTN. Thực tế cho thấy, với sự tham gia của các tổ

chức đoàn thể chính trị, nhiều kiến nghị của quần chúng nhân dân đã được chính

quyền địa phương và các ngành chức năng giải quyết có hiệu quả, đảm bảo thực

hiện đúng quy định của luật pháp.

Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có sự quan tâm, giám sát về việc thực hiện đánh

giá hiệu quả HĐKS (hoạt động CTPHMT) hoặc thực hiện chức năng quản lý nhà

nước về TN&MT (CTPHMT).

2.5.4. Công tác quản lý kỹ thuật cải tạo và phục hồi môi trường

Công tác quản lý kỹ thuật được thực hiện đối với các công trình môi trường;

công tác cải tạo các công trình sau kết thúc khai thác; công tác phục hồi môi trường

các công trình khai thác mỏ.

(1). Đối với các công trình môi trường sau khi kết thúc khai thác mỏ là các

công trình BVMT tồn tại trong quá trình sản xuất và được tiếp tục sử dụng lại cho

quá trình CTPHMT và tiếp tục công tác BVMT (khi cần thiết) như đê chắn đất đá

trôi, hố lắng, hồ lắng, trạm xử lý nước thải, hệ thống rãnh, mương thoát nước,...

Theo quy định các văn bản pháp luật về BVMT và khoáng sản, ngay sau khi

kết thúc khai thác mỏ, đơn vị khai thác mỏ tiếp tục có trách nhiệm quản lý các công

trình môi trường cũng như các công trình của mỏ tới khi hoàn thành công tác

CTPHMT được duyệt theo đề án CTPHMT (sau 3 đến 5 năm), sau đó đơn vị được

phép đóng cửa mỏ và bàn giao đất lại cho địa phương.

Như vậy trong quá trình CTPHMT thì các công trình BVMT nêu trên được chủ

mỏ tiếp tục quản lý và duy trì, tiếp theo là địa phương quản lý, nhưng chế tài quản

lý, kinh phí quản lý và các vấn đề kỹ thuật áp dụng để duy trì hiệu quả BVMT của

các công trình này như thế nào thì chưa được làm rõ trong dự án CTPHMT hoặc các

quy định của nhà nước, như vậy sẽ tồn tại bất cập trong công tác quản lý kỹ thuật

các công trình môi trường sau kết thúc khai thác, cụ thể:

- Các công trình BVMT trong thực tế ở vùng HG-CP bao gồm: hệ thống thoát

nước, hệ thống mương, đập (được xây kiên cố như đập Khe Rè,…), hoặc đê chắn

58

đất đá trôi bằng đất đá và hệ thống mương thoát như đập chắn chân bãi thải Nam Lộ

Phong và Đèo Nai,… hoặc đập rọ đá (rọ lưới mắt cáo bọc nhựa hoặc không bọc

nhựa, sẽ bị hư hại theo thời gian trong quá trình tồn tại) tại khu Lộ Phong, khu Cao

Sơn, Cọc Sáu (đập rọ đá Lao Cáp),….

Hình 2.7: Đập chắn bằng rọ đá bị mất tác dụng do đất đá bị rửa trôi

tại bãi thải mức +110 mỏ Tân Lập - Công ty Đông Bắc

- Tác dụng BVMT của các công trình này luôn mất hiệu quả sau mỗi mùa mưa

do bị đất đá trôi lấp hoặc sạt lở. Các mỏ luôn phải bỏ kinh phí để nạo vét hàng năm

và gia cố đập, đê chắn đất đá trôi. Mặt khác, độ bền vững và hiệu quả BVMT của

các công trình này còn phụ thuộc vào công tác giám sát kỹ thuật, bảo dưỡng duy trì

thường xuyên và định kỳ.

(2). Đối với việc cải tạo các công trình sau kết thúc khai thác:

Công trình khai thác mỏ sau khi kết thúc là khai trường KTLT, bãi thải mỏ, các

công trình phục vụ sản xuất, mặt bằng sân công nghiệp,… Công tác quản lý kỹ

thuật được áp dụng nhằm đảm bảo khai trường ổn định, không sạt lở tầng, sạt lở bãi

thải; giảm thiểu nguy cơ tai biến môi trường trong quá trình tồn tại của các công

trình này sau khi kết thúc khai thác mỏ.

Công tác cải tạo được đề cập trong dự án CTPHMT bao gồm:

- Đào mương dẫn nước, vận chuyển đất, đào mương vào lòng moong vỉa 7 và

8; san gạt mặt bằng để trồng cây và tháo dỡ các công trình trên mặt bằng công

nghiệp.

59

- Cải tạo thành hồ chứa nước, củng cố bờ moong và trồng cây xanh xung quanh

bờ moong, tháo dỡ các công trình trên mặt bằng công nghiệp, cải tạo đất mặt bằng

công nghiệp, trồng cây.

- Việc gia cố bờ moong đề cập trong dự án CTPHMT của mỏ Núi Béo được

thực hiện như trong hình 2.8. Do đó, công tác cải tạo theo đề án CTPHMT hầu như

không tác động đến hình dạng của khai trường, bãi thải (giữ nguyên hình dáng, địa

hình của bãi thải và khai trường khai thác); công tác cải tạo đề cập ở đây chỉ là san

gạt đất, địa hình của mặt bằng sân công nghiệp, mặt bằng bãi thải để trồng cây (chủ

yếu là keo lá tràm).

Trên cơ sở thực tiễn cho thấy: công tác cải tạo hình dạng của khai trường, bãi

thải; công tác cải tạo sườn tầng (gia cố sườn tầng) trước khi kết thúc khai thác,…

chưa được quan tâm quản lý; chưa có quy định cụ thể cho công tác này; chưa có cơ

quan quản lý giám sát công tác này, đồng thời chi phí cho công tác này cũng chưa

được đề cập đến; chưa định hình mặt bằng cải tạo đất nhằm tăng mức độ giữ nước,

mức độ thẩm thấu của đất, giảm lượng nước chảy tràn và giảm mức độ xói mòn,...

Hình 2.8: Mặt cắt đào đắp cải tạo sườn dốc bờ moong [8]

Kết quả của công tác quản lý CTPHMT chưa tốt nên hàng năm các đơn vị thực

hiện công tác CTPHMT vẫn phải thực hiện nạo vét và duy tu hệ thống đập chắn,

duy trì hiệu quả BVMT (Hình 2.9).

60

Hình 2.9: Công tác nạo vét hàng năm để duy trì hiệu quả

của đập chắn đất đá trôi tại chân bãi thải Nam Đèo Nai

Đến nay, công tác quản lý kỹ thuật công trình sau khai thác mỏ còn bỏ ngỏ như

quản lý kỹ thuật công tác nổ mìn tạo biên nhằm đảm bảo ổn định bờ mỏ đối với một

số mỏ KTLT thuộc vùng có nguy cơ cao về tai biến môi trường,…; công tác đổ thải

theo tầng, theo lớp để bảo đảm lèn chặt đất đá thải,… chưa quy định rõ ràng để cơ

quan quản lý giám sát việc thực hiện cải tạo khai trường, bãi thải, đảm bảo ổn định

bờ mỏ và triệt tiêu sự cố sạt lở bãi thải,... khi kết thúc khai thác tại các mỏ này.

(3). Quản lý công tác CTPHMT các công trình khai thác mỏ:

Công tác CTPHMT các công trình khai thác mỏ là công tác ổn định và cải tạo

lớp đất mặt và trồng cây phủ xanh tạo cảnh quan, giảm thiểu bụi và chống xói

mòn,…

Ví dụ, như với bãi thải Nam Đèo Nai, công tác ổn định và cải tạo lớp đất mặt,

công tác CTPHMT đã triển khai được khoảng 5 năm; cây keo tai tượng phát triển

tốt với chiều cao 3÷7 m trên mặt tầng thải do có đê chắn. Sau 5 năm, tại sườn thải,

việc trồng keo xen lẫn cỏ (thảm thực vật tầng thấp) vẫn còn có một số vị trí khó

phát triển làm cho hiệu quả chống xói mòn đất chưa cao.

Đối với kỹ thuật trồng cây, chưa bố trí kinh phí sử dụng phân Ni và P để hỗ trợ

cho cây, cỏ phát triển trong suốt quá trình tăng trưởng; chưa kiểm soát, khống chế

61

phòng cháy. Ngoài ra cũng chưa tính tới giá trị sử dụng của các loại cây này. Bởi

sau 5 năm, nếu chặt cây keo đi thì đất sẽ trở lại hoang hóa và làm xấu cảnh quan.

Hình 2.10: CTPHMT bãi thải Đèo Nai (sử dụng Quỹ Môi trường

tập trung của Vinacomin và của Công ty than Đèo Nai) [10]

Đối với các mỏ than KTLT khác hầu hết đều áp dụng trồng cây keo; có một số

mỏ đã thực hiện nghiên cứu trồng các loại cây khác như: thông, bông bạc, thạch

thất, cây cốt khí, cỏ ventiver, cây sắn dây Nhật bản, cây găng, cây điền thanh,…

Hiện tại, theo kết quả đánh giá sơ bộ thì việc áp dụng mang tính khả thi là các cây

keo, cây thông, cây găng, cỏ ventiver, cây cốt khí.

Hiện tại, công tác trồng cây phục hồi môi trường các công trình khai thác mỏ

chưa có cơ sở và quy định kỹ thuật về công tác bảo trì, duy trì tăng trưởng và thay

thế các loại cây khác theo đặc thù của mỗi loại bãi thải nhằm duy trì hiệu quả

BVMT của việc phục hồi môi trường đối với các công trình khai thác mỏ.

Tương tự, đa số các bãi thải đất đá khi kết thúc khai thác chưa được định hình

lại, chưa được phủ đất màu và trồng cây có giá trị kinh tế, mà chỉ đơn thuần cho

mục tiêu phủ xanh tạo cảnh quan. Do đó dự án CTPHMT chưa đề cập đến công tác

duy trì thảm thực vật, công tác chống cháy rừng của cả quá trình dài sau đó (phải

đến 10 năm) để đảm bảo kết quả CTPHMT. Do vậy, cần tiếp tục quan trắc và hoàn

chỉnh các mặt bằng được CTPHMT; đảm bảo chất lượng nước, hệ động thực vật

cho tới đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn quốc gia (thường kéo dài trong nhiều năm sau);

quan tâm quản lý về kỹ thuật đối với giai đoạn sau này.

62

Hình 2.11: Trồng cây CTPHMT trên bãi thải khu vực Khe Sim

Quyền giám sát của cộng đồng và khiếu kiện về những sai sót trong và sau quá

trình đóng cửa mỏ và CTPHMT kéo dài sau đó chưa được đề cập và quan tâm làm

rõ. Sự hợp tác của cộng đồng địa phương và các chủ dự án trong công tác bảo tồn

môi trường và hệ sinh thái địa phương trong quá trình hoạt động và phát triển của

mỏ và công tác CTPHMT chưa thực sự chặt chẽ.

Việc bảo tồn môi trường và sinh thái là thực sự cần thiết với quan điểm rõ ràng:

"CTPHMT mỏ là một dự án dài hạn, tồn tại nhiều năm. Chủ mỏ phải tiếp tục những

nỗ lực CTPHMT đạt được để phục hồi hệ sinh thái đa dạng như là một phần quan

trọng của hoạt động kinh doanh của mình". Các khu bảo tồn thiên nhiên nổi tiếng

với thảm rừng và cây xanh, các hồ nước sạch và hệ sinh thái phong phú sau khi hoạt

động khai thác kết thúc là minh chứng rõ nét cho quá trình phục hồi môi trường

được thực hiện thành công, đồng thời sẽ tiếp tục được đầu tư để thu hút các hoạt

động du lịch, nghỉ ngơi, thể thao, vui chơi, giải trí.

Các đề án CTPHMT chưa xem xét đến việc sử dụng và cải tạo tối đa cả các công

trình hạ tầng cơ sở và xây dựng cũ của mỏ mà cộng đồng có nhu cầu sử dụng lại (ví

dụ, cho cấp điện, cấp nước, giao thông, nhà ở, các công trình dịch vụ,…). Các công

trình cộng đồng không có nhu cầu sẽ được trả lại mặt bằng và trồng cây xanh.

Quá trình CTPHMT không chỉ kết thúc ở việc san gạt đất, trồng cây và gieo

hạt, mà hiệu quả của công tác này phải được đánh giá bằng quá trình quan trắc và

điều chỉnh hợp lý nhiều năm sau đó, để bảo đảm có được hệ sinh thái mong muốn

63

như trong dự án CTPHMT và là cơ sở xác định sự thành công bền vững của dự án

về mặt kỹ thuật.

Do vậy, các kế hoạch và dự trù tài chính cho chương trình duy trì hiệu quả dài

hạn phải được lập trước và đề cập đầy đủ trong dự án CTPHMT.

Hiện nay, trong quá trình CTPHMT, những công nghệ tiên tiến nhất về sinh

học, thổ nhưỡng học, nhân chủng học,… chưa được ứng dụng trên cơ sở những kết

quả nghiên cứu khoa học cơ bản hoặc nghiên cứu ứng dụng mới nhất, như:

- Phục hồi thảm thực vật, bao gồm các chủng loại cây tầm cao (chủ yếu là các

rừng keo) và cả các chủng loại cây tầm thấp. Do đó, cần quan tâm đến chủng loại

cây tầm thấp để triệt tiêu xói mòn và rửa trôi sau khi kết thúc khai thác.

- Phục hồi thảm động vật, bao gồm các loại động vật có vú, các loài bò sát, các

giống chim và hệ côn trùng trên và dưới mặt đất cũng như dưới nước.

Tóm lại, công tác quản lý kỹ thuật đối với công tác CTPHMT sau khai thác mỏ

được chia thành 2 giai đoạn:

- Giai đoạn I: Do chủ mỏ quản lý theo các quy chuẩn kỹ thuật chuyên ngành và

yêu cầu thực tiễn theo hình thức: theo dõi hiệu quả BVMT định kỳ, bảo dưỡng, duy

tu và loại bỏ các tác nhân làm mất hiệu quả của công trình BVMT. Giai đoạn này

kéo dài từ 1÷5 năm, song thực tế còn phụ thuộc vào các qui định trong dự án

CTPHMT, cụ thể như sau:

+ Đối với trường hợp dự án CTPHMT được duyệt theo Quyết định số

71/2008/NĐ-CP, chưa thực hiện cải tạo đa mục tiêu, thì công tác cải tạo không

nhiều và phụ thuộc vào việc thực hiện quá trình khai thác mỏ, tính chất cơ lý của

đất đá, hình dạng khai trường và kỹ thuật khai thác,…

+ Đối với trường hợp dự án CTPHMT thực hiện cải tạo môi trường đa mục

tiêu, nếu không thực hiện việc cải tạo các công trình khai thác mỏ ngay trong quá

trình khai thác thì khối lượng công tác cải tạo nhiều hay ít sẽ phụ thuộc vào mục

đích sử dụng đất.

64

- Giai đoạn II: Do địa phương quản lý, sau khi chủ mỏ đã thực hiện xong công

tác CTPHMT và bàn giao lại cho địa phương. Việc quản lý rất khó khăn do chưa có

chế tài cụ thể về nhân lực, vật lực và phương thức quản lý.

+ Đối với trường hợp dự án CTPHMT thực hiện theo Quyết định số

71/2008/NĐ-CP, thì sau công tác cải tạo sẽ tiếp tục giai đoạn phục hồi môi trường

và bàn giao lại cho địa phương quản lý. Việc quản lý cũng rất khó khăn do chưa có

chế tài cụ thể về nhân lực, vật lực và phương thức quản lý.

Do vậy, cần có quy định về việc cơ quan chủ mỏ phối hợp với chính quyền địa

phương tiếp tục quản lý và duy trì hiệu quả BVMT của các công trình sau KTLT

nêu trên, để các công trình này tiếp tục ổn định; tiếp tục giám sát, quan trắc độ ổn

định của bãi thải, duy tu bảo dưỡng đập chắn đất đá trôi đến khi có kết quả chắc

chắn về CTPHMT của các công trình này.

+ Đối với trường hợp dự án CTPHMT đa mục tiêu (chủ đầu tư có thể là chủ

mỏ hoặc một đơn vị khác), cần thực hiện quản lý và khai thác hiệu quả đầu tư lâu

dài theo quy định của cấp có thẩm quyền theo luật pháp về đầu tư. Do vậy, việc

quản lý kỹ thuật luôn được quan tâm đến hiệu quả CTPHMT và độ ổn định của

công trình sau KTLT luôn được giám sát và duy trì hiệu quả.

2.6. Kết luận chương

Trong những năm qua, UBND tỉnh Quảng Ninh và Vinacomin đã có nhiều nỗ

lực quản lý nhà nước về môi trường (trong đó có hoạt động CTPHMT), giải quyết

các vấn đề bức xúc về môi trường do khai trường, bãi thải của các mỏ than KTLT

gây ra.

Việc cải tạo môi trường, cảnh quan trên một số khu vực như bãi thải Nam Đèo

Nai (Cẩm Phả), bãi thải Nam Lộ Phong (Hòn Gai) bằng các giải pháp như: phân

tầng thải (30m/tầng), trồng cây keo tai tượng trên mặt bằng và trồng cỏ ventiver ở

sườn tầng; nạo vét sông Mông Dương,… (ngày nay bãi thải Nam Đèo Nai) đã có

cây xanh phát triển xum xuê với chiều cao từ 3÷5m; xây đập ngăn chân bãi thải

phía Đông, tạo thành hồ nước phục vụ sản xuất; tạo thành hồ sinh thái bằng cách

trồng cây liễu, cây phi lao xung quanh hồ,… đã mang lại những kết quả cụ thể.

65

Tới nay, hầu hết các đơn vị trong vùng đã lập dự án CTPHMT đối với các dự

án đầu tư khai thác mỏ theo quy định tại Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg (nay là

Quyết định số 18/2013/ QĐ-TTg) và Thông tư 34/2009/TT-BTNMT của Bộ Tài

nguyên và Môi trường. Các phương án CTPHMT tại các khu vực khai thác than tại

vùng HG-CP theo xu hướng chung là cải tạo lại moong khai thác, bãi thải, hay lấp

moong khai thác cũ để trồng cây hay trồng cỏ, phục hồi thảm thực vật,….

Tuy nhiên, tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP vẫn còn tồn tại một số vấn đề

cần ưu tiên giải quyết sau:

- Chưa thực hiện đúng mục đích CTPHMT theo quy định tại Quyết định số

18/2013/QĐ-TTg như chưa lồng ghép việc CTPHMT trong quá trình khai thác; việc

CTPHMT mới chỉ được xem xét để lại moong chứa nước hoặc lấp đất đá và cải tạo

lại mặt bằng trồng cây mà chưa xem xét phương án tiếp tục sử dụng tài nguyên đất.

- Toàn vùng than KTLT chưa được xác lập định hướng phân vùng chức năng

sử dụng đất sau khai thác để thực hiện các biện pháp kỹ thuật lồng ghép trong quá

trình khai thác theo các định hướng này, cũng như việc huy động nguồn kinh phí để

thực hiện thành công định hướng này nhằm tiếp tục đầu tư để thu hút các hoạt động

du lịch, nghỉ ngơi, thể thao, vui chơi, giải trí,… tại các vị trí lân cận các khu vực

kinh tế trọng điểm; các khu dân cư,… có tiềm năng, điều kiện thuận lợi về điều kiện

phát triển.

- Việc đánh giá kết quả CTPHMT chủ yếu dựa vào mật độ cây trồng; tỷ lệ cây

phát triển và mức độ phát triển của cây khi mới trồng mà chưa theo dõi các kết quả

thời gian sau đó, chưa có tiêu chí đánh giá cụ thể mang tính định lượng để tạo điều

kiện thuận lợi cho công tác quản lý.

- Công tác CTPHMT chỉ dừng lại ở chỗ trồng cây thuần chủng, phổ biến là keo

lá tràm, cỏ ventiver và cỏ tự mọc mà chưa quan tâm thực hiện tái tạo hệ thực vật và

động vật ban đầu. Chưa theo dõi, quan trắc và nghiên cứu các biến đổi, để đề xuất

các giải pháp bảo đảm điều kiện tối ưu cho các hệ thực động vật phát triển bình

thường và ổn định (quá trình này thường kéo dài ít nhất 5 năm).

66

- Còn để xảy ra cháy rừng trong các khu vực đang CTPHMT làm huỷ hoại sự

tái tạo các thành phần hữu cơ và cản trở các hoạt động vi sinh.

- Công tác quản lý, chế tài thực hiện và cơ sở kỹ thuật về CTPHMT còn chưa

theo hướng đa mục tiêu, phương án CTPHMT có thể sẽ chưa phù hợp với quy

hoạch phát triển kinh tế vùng, thậm chí có thể bị phá sản khi cần huy động tài

nguyên đất để tiếp tục phát triển kinh tế theo một hướng khác, gây lãng phí tiền bạc

và công sức.

Do vậy, để công tác CTPHMT của các mỏ than KTLT đáp ứng những mục tiêu

phát triển KT-XH của tỉnh Quảng Ninh trong thời kỳ CNH-HĐH, Chính phủ, tỉnh

Quảng Ninh và Vinacomin cần tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý - kỹ thuật

CTPHMT; nguồn kinh phí ký quỹ CTPHMT,... nhằm nâng cao chất lượng công tác

quản lý CTPHMT trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói chung và vùng HG-CP nói

riêng.

67

CHƯƠNG III

NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ TỔNG THỂ

NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG

CHO CÁC MỎ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN

VÙNG HÒN GAI - CẨM PHẢ

3.1. Các giải pháp quản lý hành chính

3.1.1. Cơ sở thực tiễn định hướng công tác quản lý hành chính cải tạo và

phục hồi môi trường

1. Trên cơ sở phân tích, đánh giá về công tác CTPHMT của một số nước trên

thế giới và ở Việt Nam, cũng như thực tế công tác quản lý CTPHMT cho thấy việc

sử dụng đất tại các vùng CTPHMT cần có định hướng sử dụng đất các vùng

CTPHMT ở gần khu vực đô thị trọng điểm, vùng có tiềm năng phát triển loại hình

kinh tế khác như vùng khai thác than HG-CP, theo hướng sử dụng đất vào các mục

đích phát triển kinh tế khác, có hiệu quả hơn, ngay từ trong quá trình hoạt động

khoáng sản.

2. Công tác nghiên cứu khoa học (NCKH) về CTPHMT và việc tổng kết thực

tế, xây dựng các tiêu chí đánh giá, nghiệm thu công tác CTPHMT tại các vùng ưu

tiên; tiêu chuẩn kỹ thuật, các quy định chuyên môn,... cụ thể đối với đề án

CTPHMT cũng như việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật có kiến thức về

quy hoạch, về công tác sử dụng đất,… cũng là các yêu cầu quan trọng trong công

tác quản lý và thực hiện đề án CTPHMT.

- Trong giai đoạn chuẩn bị mở rộng khai thác, phải điều tra, xử lý và xem xét

bố trí đổ thải đất đá phục vụ cho công tác CTPHMT sau này. Xây dựng tốt quy

hoạch thực hiện các dự án khai thác khoáng sản cũng là điều kiện để định hướng và

định lượng trước công tác CTPHMT.

- Áp dụng việc quản lý hành chính đối với việc áp dụng công nghệ sản xuất

thân thiện với môi trường, giảm tới mức tối thiểu các chất thải vào môi trường, sử

dụng bãi thải trong,... làm tăng hiệu quả CTPHMT trong quá trình KTLT.

68

3. Chế tài quản lý nguồn tài chính cho CTPHMT cần phải rõ ràng, đầy đủ và

hợp lý. Các giải pháp tài chính phải phù hợp cho những đối tượng CTPHMT với

chủ thể quản lý trực tiếp, đảm bảo nguồn lực tài chính mang lại hiệu quả đầu tư và

không bị ảnh hưởng của yếu tố trượt giá theo thời gian; sử dụng tập trung nguồn lực

cho các vùng ưu tiên, tránh dàn trải.

4. Xác lập định hướng và các biện pháp CTPHMT môi trường ngay từ khi lập

dự án đầu tư khai thác mỏ nhằm gắn kết đối tượng CTPHMT với các kế hoạch phát

triển mỏ,.... Đề án CTPHMT phải được nâng cấp về chất lượng, đặc biệt cần lồng

ghép việc thực hiện CTPHMT vào quá trình khai thác mỏ.

3.1.2. Giải pháp về tổ chức và bộ máy

- Kiện toàn cơ quan quản lý TN&MT từ tỉnh đến xã, phường và cụ thể hoá các

văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý TN&MT (trong đó có hoạt động

CTPHMT), đảm bảo tính khả thi và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng khu vực

có HĐKS và có chính sách đào tạo các chuyên gia về quản lý CTPHMT.

- Xác định rõ trách nhiệm, phân công, phân cấp hợp lý việc quản lý phương án

CTPHMT được duyệt của các dự án KTLT nằm trong khu vực khai thác liên mỏ

giữa Vinacomin, các ngành và địa phương nhằm kiểm soát các ô nhiễm, suy thoái,

sự cố môi trường của giai đoạn sau khai thác ngay trong hoạt động khai thác than

(đảm bảo thực hiện quy định tại các khoản 3 và 4, điều 3 của Quyết định số

18/2013/QĐ-TTg).

3.1.3. Các giải pháp cơ chế chính sách

a. Xây dựng cơ chế phối hợp quản lý tài nguyên đất và môi trường (CTPHMT)

giữa các ngành kinh tế liên quan đến HĐKS, đảm bảo sự trao đổi thông tin thường

xuyên và phối hợp các giải pháp đồng bộ quản lý TNTN và môi trường.

b. Đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho CTPHMT, sử dụng có hiệu quả các

nguồn kinh phí ký quỹ CTPHMT nhằm tập trung cho hoạt động CTPHMT tại các

vùng ưu tiên CTPHMT là các vùng có tiềm năng phát triển kinh tế đã được định

hướng phân vùng CTPHMT đa mục tiêu quy định tại phương án CTPHMT cụm các

dự án khai thác do UBND tỉnh quyết định.

69

c. Xây dựng cơ chế tạo điều kiện thuận lợi để chủ mỏ hoặc chủ mỏ liên kết với

các nhà đầu tư được chủ động CTPHMT theo phương án CTPHMT đa mục tiêu

như:

- Tổ chức giải phóng mặt bằng, giao đất, thuê đất và phân chia trách nhiệm

quản lý đất đai sau CTPHMT đối với mỏ và các nhà đầu tư liên quan, được thuận

lợi và nhanh chóng.

- Giám sát chặt chẽ quy trình, quy phạm, an toàn trong khi thực hiện CTPHMT

lồng ghép với quá trình khai thác khoáng sản than KTLT theo định hướng chức

năng sử dụng đất, đảm bảo phương án CTPHMT đa mục tiêu.

- Đối với một số khu vực có yêu cầu cao về BVMT (bảo vệ Di sản thiên nhiên

thế giới - Vịnh Hạ Long, các khu vực đông dân cư,...), cần có quy định riêng ràng

buộc và cơ chế chính sách cụ thể đảm bảo hạn chế tối đa việc xâm hại hoặc làm ô

nhiễm, suy thoái môi trường trong khi thực hiện CTPHMT đa mục tiêu.

d. Tăng cường năng lực cho cơ quan quản lý nhà nước về TNMT các cấp có đủ

năng lực để thực hiện có hiệu quả, đồng bộ các quy định của Nhà nước liên quan

đến HĐKS và BVMT (trong đó có hoạt động CTPHMT); quy định về thanh kiểm

tra thường xuyên, xử lý vi phạm đối với hoạt động CTPHMT [47].

e. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân chủ động đầu tư thực hiện (trong đó có

hoạt động CTPHMT đa mục tiêu) và cung cấp dịch vụ CTPHMT,...

- Khuyến khích Vinacomin và các doanh nghiệp có HĐKS đầu tư các dự án cải

thiện môi trường hoặc các dự án CTPHMT đa mục tiêu:

+ Đầu tư trồng và bảo vệ rừng, BVMT khu dân cư trọng điểm, bảo vệ các di

sản thế giới và các vùng nước quan trọng,...

+ CTPHMT đa mục tiêu với việc đầu tư dự án phát triển thân thiện với môi

trường tại những khu vực kết thúc HĐKS như: lập khu đồi sinh thái (có trạm dừng

chân trong hành trình du lịch); du lịch cảnh quan công nghiệp mỏ - cảnh quan sinh

thái và cảnh quan biển tại khu vực khai trường mỏ Hà Tu, mỏ Núi Béo, mỏ 917, mỏ

Tây Khe Sim, bãi thải Đèo Nai, bãi thải Núi Béo, bãi thải 917 và bãi thải Khe Rè -

Cọc Sáu,…

70

+ Sử dụng tài nguyên thay thế; áp dụng công nghệ xử lý, tái chế chất thải, công

nghệ thân thiện với môi trường,…

- Đẩy mạnh xã hội hoá công tác CTPHMT trong phạm vi toàn tỉnh; chuyển đổi

mô hình thực hiện đầu tư CTPHMT.

f. Tăng cường hợp tác quốc tế về quản lý TNTN và BVMT nói chung và trong

hoạt động CTPHMT nói riêng, cụ thể:

- Đào tạo cán bộ quản lý TN&MT có trình độ cao (quản lý và thực hiện

CTPHMT theo hướng đa mục tiêu) cho các ngành và các địa phương.

- Chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công tác CTPHMT.

- Khuyến khích tài trợ và đầu tư các đề án CTPHMT đa mục tiêu thí điểm (đề

xuất tại khu vực mỏ than KTLT Núi Béo).

3.1.4. Giải pháp về khoa học và công nghệ

a. Áp dụng công nghệ tiên tiến trong quản lý TNTN, BVMT (CTPHMT)

Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại (ảnh viễn thám, hệ thống thông tin địa

lý - GIS,...) trong công tác quản lý TN&MT (CTPHMT). Các công nghệ này có thể

giúp các cơ quan quản lý trên nhiều mặt hoạt động:

+ Lập chương trình nghiên cứu, thu thập thông tin, đánh giá tài nguyên khoáng

sản và những TNTN khác liên quan như: nguồn nước mặt, nước ngầm, rừng, đất

đai, các tác động môi trường vùng,... làm cơ sở dữ liệu cho việc xây dựng các kế

hoạch phát triển KT-XH; quản lý, khai thác và sử dụng hợp lý TNTN và BVMT

(CTPHMT),...

+ Quản trị, trao đổi các bộ cơ sở dữ liệu về TN&MT (CTPHMT) giữa các cơ

quan chuyên ngành, các địa phương.

+ Phân tích diễn biến TN&MT và cảnh báo tai biến môi trường (kể cả giai

đoạn sau CTPHMT).

+ Xây dựng các giải pháp tổng hợp quản lý môi trường theo vùng lãnh thổ; lập

hệ thống mạng, điểm kiểm soát nhằm khắc phục suy thoái và ô nhiễm môi trường

và công tác CTPHMT đạt hiệu quả cao.

b. Đầu tư ứng dụng công nghệ tiên tiến trong hoạt động CTPHMT

71

Ứng dụng các công nghệ có mức độ an toàn lao động cao, ít gây tổn thất tài

nguyên (tài nguyên khoáng sản và các tài nguyên khác) và ít gây ô nhiễm môi

trường. Nghiên cứu, lập kế hoạch làm ổn định và phủ xanh các bãi thải, tăng nhanh

tiến độ trồng rừng cải tạo đất, trồng các loại cây mang lại hiệu quả kinh tế cao trên

khu vực CTPHMT.

c. Xây dựng mạng lưới điểm quan trắc môi trường thống nhất, đồng bộ trên

toàn tỉnh: Kết nối mạng lưới điểm quan trắc môi trường do Vinacomin thực hiện

với mạng lưới điểm quan trắc môi trường do Sở TN&MT Quảng Ninh đang thực

hiện để kiểm soát chất lượng môi trường (CTPHMT).

d. Định kỳ 5 năm/lần đánh giá môi trường tổng hợp vùng trọng điểm, trong đó

có đánh giá hiệu quả của HĐKS (hoạt động CTPHMT) đến môi trường, tới sức

khoẻ cộng đồng, tình trạng TN&MT (tình trạng CTPHMT); đề xuất các giải pháp

riêng lẻ, tổng hợp nhằm triệt tiêu các mâu thuẫn trong phát triển kinh tế liên quan

đến môi trường (CTPHMT).

e. Đầu tư thích đáng xây dựng lực lượng khoa học và kỹ thuật có chuyên môn

cao kết hợp năng lực quản lý tổng hợp theo hướng phát triển bền vững trong các

ngành kinh tế. Đặc biệt lưu ý lực lượng cán bộ chuyên môn trong công tác lập quy

hoạch, kế hoạch và thẩm định, quản lý dự án phát triển (dự án CTPHMT đa mục

tiêu) và nâng cao năng lực tự kiểm tra, giám sát của các doanh nghiệp có HĐKS.

f. Nghiên cứu xây dựng bản đồ vùng chức năng sử dụng đất vùng HĐKS (sau

khi hoàn thành CTPHMT) nhằm phục vụ cho công tác lập và thẩm định đề án

CTPHMT theo hướng đa mục tiêu.

3.1.5. Giải pháp về tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng

a. Xây dựng chương trình thường xuyên tuyên truyền, giáo dục và nâng cao

nhận thức cộng đồng về TN&MT (về công tác CTPHMT) trên các phương tiện

truyền thông các cấp và chuyên ngành.

- Thông báo rộng rãi đến cộng đồng các chương trình kế hoạch, dự án phát

triển HĐKS; các dự án cải thiện và khắc phục ô nhiễm môi trường, dự án

CTPHMT, nhất là tại các khu vực dân cư.

72

- Vận động cộng đồng tham gia quản lý TN&MT, bảo vệ các công trình xử lý

chất thải và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, các khu vực CTPHMT; giám sát và

đánh giá hiệu quả công tác BVMT (hiệu quả CTPHMT).

b. Bổ sung và hoàn thiện các chương trình giáo dục TN&MT

Trong các trường học ở mọi cấp, cần bổ sung các chương trình giáo dục phù

hợp với yêu cầu nâng cao nhận thức và năng lực sáng tạo của người học (kể cả sáng

tạo nghệ thuật) về các nguồn TNTN và môi trường của tỉnh, cũng như những yêu

cầu sử dụng hợp lý tài nguyên đất sau CTPHMT.

c. Xây dựng các tiêu chí thi đua, khen thưởng và kỷ luật

Cần xây dựng các tiêu chí thi đua, khen thưởng và kỷ luật đối với công tác

quản lý TN&MT trong HĐKS (công tác CTPHMT).

3.2. Giải pháp quản lý kỹ thuật

3.2.1. Cơ sở thực tiễn định hướng quản lý kỹ thuật CTPHMT

Trên cơ sở phân tích, đánh giá về công tác CTPHMT của một số nước trên thế

giới và ở Việt Nam, cũng như thực tế hoạt động KTLT trong các năm qua và công

tác CTPHMT, tại các khai trường lộ vỉa và các mỏ than KTLT ở vùng HG-CP chỉ

có định hướng quản lý kỹ thuật trên cơ sở trạng thái kết thúc HĐKS của các dự án

KTLT mà chưa được định hướng quản lý kỹ thuật ngay trong các giai đoạn KTLT.

Hiện tại, đề án CTPHMT được lập trên cơ sở dự kiến hoạt động của các mỏ

than KTLT đã kết thúc theo thiết kế khai thác. Tuy nhiên, trong thực tế việc khai

thác đảm bảo theo đúng thiết kế là rất khó khăn, do phụ thuộc nhiều vào tính chất

đất đá, các công nghệ khai thác, giá thành khai thác, khả năng tiêu thụ than,…. Vì

vậy, tại giai đoạn kết thúc khai thác mỏ than KTLT luôn có biến động làm thay đổi

thiết kế khai thác. Cụ thể như sau:

- Trong quá trình thiết kế khai thác chưa dự kiến đầy đủ các vấn đề kỹ thuật

cần quản lý như hiện tượng chập tầng khi kết thúc khai thác nhằm giảm thiểu khối

lượng đất đá phải bóc để đảm bảo hiệu quả của hoạt động KTLT hoặc đất đá bị sạt

lở cũng tạo nên tình trạng chập tầng.

73

- Việc nổ mìn để lại mô chân tầng làm cho việc xúc nền tầng kết thúc khai thác

không đảm bảo sự bằng phẳng để trồng cây.

- Việc nổ mìn tại các tầng kết thúc khai thác gây chấn động lớn, ảnh hưởng đến

độ bền vững của đất đá tại bờ tầng kết thúc, gây sạt lở cục bộ; việc xúc xử lý đất đá

làm cho sườn tầng mấp mô không bằng phẳng và bờ kết thúc khai thác không theo

hình dáng đã thiết kế,…

- Việc KTLT chưa phù hợp với điều kiện địa chất cũng như thế nằm của vỉa;

việc lập kế hoạch khai thác và hộ chiếu xúc cũng chưa phù hợp với các điều kiện cụ

thể của mỏ.

- Việc đổ thải bị điều chỉnh trong quá trình lập kế hoạch khai thác và hộ chiếu

xúc cho phù hợp với thực tế sản xuất; dạng địa hình bãi thải không đúng theo hình

dáng thiết kế; đất đá thải đổ không đúng theo phân tầng quy định và các quy chuẩn

kỹ thuật.

Do vậy, trong quá trình thiết kế cũng như trong quá trình khai thác, chưa lồng

ghép được công tác CTPHMT để có các biện pháp quản lý kỹ thuật hợp lý (nhằm

đạt được hình dáng mỏ như thiết kế, thực hiện các yêu cầu kỹ thuật về khai trường

mỏ và bãi thải) nhằm giảm thiểu công việc, cũng như kinh phí CTPHMT và nguy

cơ mất an toàn của khu vực CTPHMT.

Do vậy, cần có quy định định lượng tổng quát về quản lý kỹ thuật, trong đó

phải dự kiến được tỷ lệ khối lượng các công việc phải cải tạo khai trường, bãi thải

mỏ ngay trong quá trình khai thác (để bố trí kinh phí thực hiện cũng như quản lý,

giám sát quá trình CTPHMT ngay trong giai đoạn kết thúc khai thác) cũng như chủ

thể quản lý các nội dung nêu trên.

Hiện nay, hầu hết các mỏ than KTLT đã đi vào hoạt động và có kế hoạch lập

dự án cải tạo, mở rộng hay nâng công suất mỏ. Do vậy, cần lồng ghép một số hoạt

động CTPHMT ngay từ khi thiết kế cải tạo, mở rộng hay nâng công suất theo biện

pháp quản lý kỹ thuật được NCS đề xuất trong 5 giai đoạn chủ yếu của công tác

CTPHMT (bắt đầu ngay từ khâu lập dự án đầu tư và thiết kế cơ sở của mỏ than

KTLT) như sau:

74

- Giai đoạn 1: Xác định phương thức sử dụng đất sau khai thác khoáng sản.

- Giai đoạn 2: Trong quá trình thiết kế khai thác, phải thiết kế lồng ghép

CTPHMT vào quá trình hoạt động khai thác theo mục tiêu sử dụng đất đã xác định.

- Giai đoạn 3: Thực hiện các giải pháp kỹ thuật trong giai đoạn kết thúc khai

thác để đảm bảo ổn định các bờ tầng và bãi thải.

- Giai đoạn 4: Thực hiện và hoàn thiện việc CTPHMT theo mục tiêu sử dụng

đất sau khai thác đã hoạch định.

- Giai đoạn 5: Quan trắc và nghiên cứu quá trình phục hồi để có những điều

chỉnh hợp lý nhằm bảo đảm sự phát triển hài hòa của hệ sinh thái.

3.2.2. Các giải pháp quản lý kỹ thuật

3.2.2.1. Quản lý các công trình môi trường sau kết thúc khai thác

- Xây dựng quy định yêu cầu các chủ mỏ tiếp tục phối hợp với chính quyền địa

phương để quản lý và duy trì hiệu quả đối với các công trình BVMT đã tồn tại trong

quá trình khai thác mỏ nhằm đảm bảo cho các công trình này tiếp tục hoạt động có

hiệu quả cho đến khi việc CTPHMT ổn định và đạt được các yêu cầu về bền vững.

3.2.2.2. Quản lý công tác cải tạo các công trình sau kết thúc khai thác

- Xác lập các quy định về việc quản lý đối với công tác cải tạo trong dự án

CTPHMT; phải cải tạo hình dạng của khai trường và bãi thải hay giữ nguyên hình

dáng của chúng?

- Quy định việc thực hiện CTPHMT lồng ghép ngay trong quá trình khai thác,

tương ứng với công tác giám sát vào giai đoạn kết thúc khai thác; sử dụng các kỹ

thuật tiến tiến trong khai thác mỏ nhằm tăng độ ổn định của bờ mỏ (nổ mìn tạo

biên); khai thác bốc xúc đất đá và san gạt đảm bảo hình dạng, định hướng của khai

trường khai thác mỏ; công tác đổ thải theo tầng theo lớp để bảo đảm mức độ đầm

nén chặt đất đá thải; độ ổn định của bãi thải phải được giám sát trong cả quá trình

dài sau đó; yêu cầu về chi phí thực hiện cho công tác này.

- Quy định về địa hình mặt bằng cải tạo; tăng độ thẩm thấu của nước; giảm

lượng nước chảy tràn và giảm mức độ xói mòn.

- Quy định sự phối hợp với địa phương và chi phí cho công tác quản lý các

công trình đã được cải tạo, duy trì hiệu quả BVMT.

75

3.2.2.3. Quản lý công tác phục hồi môi trường các công trình khai thác mỏ

- Quy định thực hiện công tác ổn định và cải tạo lớp đất mặt, hoàn thành việc

phục hồi môi trường với thảm thực vật tầng cao và thảm thực vật tầng thấp để tạo

hiệu quả chống xói mòn đất.

- Quy định quản lý quy trình kỹ thuật trồng cây cho loại hình đặc thù của vùng

mỏ đã kết thúc khai thác và cơ chế tài chính hỗ trợ cho cây, cỏ phát triển trong suốt

quá trình tăng trưởng của chúng; duy trì chế độ theo dõi và hỗ trợ sự tái lập của hệ

động vật chủ yếu là chuột, các loài chim, các loài bò sát và côn trùng trong cả quá

trình dài sau đó để đảm bảo kết quả CTPHMT theo tiêu chí của quốc gia.

- Ban hành chế tài kiểm soát, khống chế và phòng cháy.

- Quy định quyền giám sát của cộng đồng và khiếu kiện về những sai sót trong

quá trình đóng cửa mỏ và quá trình CTPHMT kéo dài sau đó, cũng như sự hợp tác

chặt chẽ của cộng đồng địa phương và các chủ dự án trong công tác bảo tồn môi

trường và hệ sinh thái địa phương trong quá trình hoạt động và phát triển của mỏ và

quá trình CTPHMT.

- Nội dung đề án CTPHMT, cần xem xét việc sử dụng và cải tạo tối đa cả các

loại công trình hạ tầng cơ sở và xây dựng cũ của mỏ mà cộng đồng có nhu cầu sử

dụng lại (ví dụ, cho cấp điện, cấp nước, giao thông, nhà ở, các công trình dịch

vụ,…). Các công trình cũ mà cộng đồng không có nhu cầu cần trả lại mặt bằng cho

trồng cây xanh.

- Nghiên cứu ứng dụng những kết quả NCKH cơ bản, những nghiên cứu ứng

dụng mới nhất và những công nghệ tiên tiến nhất về sinh học, thổ nhưỡng học, nhân

chủng học,… trong quá trình CTPHMT [48].

Tóm lại, cần phải:

- Quy định chính sách và mục tiêu kỹ thuật đầy đủ cho công tác CTPHMT.

- Quy định về đầu tư cả về công nghệ và nhân lực cho công tác CTPHMT; bảo

đảm đầy đủ các khoản tài chính và sử dụng chúng một cách hợp lý.

76

- Đặc biệt chú trọng công tác nghiên cứu các điều kiện và chuẩn bị công tác

CTPHMT ngay trước khi bắt đầu khai thác và tiếp tục sau khi kết thúc khai thác.

- Xác định quyền lợi có liên quan tới đất đai sau CTPHMT và môi trường giữa

doanh nghiệp và cộng đồng để động viên và thu hút cộng đồng cùng thực hiện

CTPHMT, có thể xã hội hóa với những góc độ đặc trưng và thuận lợi khác nhau.

3.3. Giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng đất của khu vực

CTPHMT cho các mỏ khai thác than lộ thiên vùng Hòn Gai - Cẩm Phả

3.3.1. Giải pháp áp dụng hệ số điều chỉnh kinh phí ký quỹ CTPHMT trong

HĐKS theo vị trí khai thác

- Xây dựng hệ số điều chỉnh điều chỉnh kinh phí ký quỹ CTPHMT trong

HĐKS cho công tác CTPHMT theo vùng (theo mức độ nhạy cảm, phù hợp với tiềm

năng phát triển kinh tế của khu vực lân cận nơi tập trung dân cư, khu đô thị trọng

điểm...) nhằm xác định mức kinh phí ký quỹ áp dụng cho các dự án khai thác

khoáng sản tại các vị trí khác nhau (gần khu bảo tồn, gần khu đô thị trọng điểm,

thuộc lưu vực bảo vệ di sản,... hoặc xa các khu vực nêu trên), nhằm điều chỉnh kinh

phí CTPHMT cho các HĐKS có các vị trí khác nhau, để tạo điều kiện cho các đơn

vị thực hiện đầu tư khai thác khoáng sản tại vùng sâu, vùng xa và dần hoàn thiện

các văn bản pháp lý liên quan đến việc hướng dẫn thực hiện Quyết định số

18/2013/QĐ-TTg ngày 29/3/2013 của Thủ Tướng Chính phủ về ký quỹ CTPHMT

đối với hoạt động khai thác khoáng sản, nhằm tập trung nguồn lực về tài chính, hỗ

trợ cho công tác CTPHMT theo định hướng đa mục tiêu.

Hệ số điều chỉnh chi phí CTPHMT theo vùng (Kd) được đề xuất xác định như

sau:

(3.1) Kd = 1 + (1 - Kv)

Trong đó: Kv - Hệ số vùng (được vận dụng xác định theo hệ số vùng, khu vực

Kv quy định tại Quy chuẩn Việt Nam QCVN 19, 21, 22, 23 : 2009/BTNMT) theo

bảng 3.1.

77

Bảng 3.1: Giá trị hệ số Kv và Kd tương ứng theo vùng, khu vực

Hệ số Hệ số Mức độ Vùng, khu vực Nhạy cảm Kv Kd

Lân cận nội thành đô thị loại đặc biệt(1) và đô thị loại I(1); rừng đặc dụng(2); di sản thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hóa được xếp hạng(3); Rất Loại 1 0,6 1,4 khu vực CTPHMT có khoảng cách nhạy cảm

đến ranh giới các khu vực này dưới 5

km.

Lân cận nội thành, nội thị đô thị loại II, III, IV(1); vùng ngoại thành

đô thị loại đặc biệt, đô thị loại I có 0,8 Nhạy cảm Loại 2 1,2

khoảng cách đến ranh giới nội thành

lớn hơn hoặc bằng 5 km

Lân cận khu công nghiệp; đô thị loại V(1); vùng ngoại thành, ngoại Không thị đô thị loại II, III, IV có khoảng Loại 3 1,0

1,0

nhạy cảm cách đến ranh giới nội thành, nội thị

lớn hơn hoặc bằng 5 km

(1) Đô thị được xác định theo quy định tại Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày

Chú thích:

(2) Rừng đặc dụng xác định theo Luật Bảo vệ và phát triển rừng ngày 14 tháng

07 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ về việc phân loại đô thị;

12 năm 2004 gồm: vườn quốc gia; khu bảo tồn thiên nhiên; khu bảo vệ cảnh quan;

(3) Di sản thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hóa được UNESCO, Thủ tướng Chính

khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học;

phủ hoặc bộ chủ quản ra quyết định thành lập và xếp hạng;

78

Quy định thực hiện điều chỉnh kinh phí ký quĩ CTPHMT trong công tác

CTPHMT theo quy định tại Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg ngày 29/3/2013 của

Thủ Tướng Chính phủ cho tất cả các dự án khai thác khoáng sản và cho một số

loại hình đặc thù cho các dự án khai thác khoáng sản than tại vùng khác nhau,...

để xác lập phương án CTPHMT; phương án kinh phí ký quỹ phục vụ CTPHMT đảm

bảo sử dụng tập trung nguồn lực để mang lại hiệu quả kinh tế của HĐKS và đảm

bảo CTPHMT đa mục tiêu.

3.3.2. Giải pháp nghiệm thu công tác CTPHMT theo các tiêu chí đánh giá

kết quả CTPHMT

Hiện nay công tác đánh giá kết quả CTPHMT chủ yếu dựa trên đề án

CTPHMT được duyệt, tuy nhiên việc đánh giá kết quả CTPHMT theo các nội dung

nêu tại đề án này lại chủ yếu là dựa vào mật độ cây trồng và tỷ lệ cây sống và phát

triển trên diện tích phải trồng cây CTPHMT. Như vậy là chưa đầy đủ đối với hoạt

động CTPHMT, bởi vì đây là quá trình mang bản chất tự nhiên, do vậy việc xây

dựng các tiêu chí đánh giá, nghiệm thu công tác CTPHMT theo phương án

CTPHMT được UBND tỉnh duyệt cho các dự án KTLT thuộc khu vực khai thác

liên mỏ (trong đó có CTPHMT đa mục tiêu) là rất cần thiết.

Về các tiêu chí đánh giá kết quả công tác CTPHMT, mỗi quốc gia đều có hệ

thống các tiêu chí khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm của hệ thống pháp lý và thể

chế về môi trường,… Tuy nhiên, các tiêu chí này đều được phát triển dựa trên các

nguyên tắc sau: đơn giản, dễ thực hiện, kinh phí đầu tư thấp, có độ tin cậy, khoa

học, phù hợp, đáp ứng mục tiêu trước mắt và lâu dài [49].

Trên cơ sở xem xét về điều kiện kinh tế, môi trường của khu vực lân cận, quy

mô và phân bố của các mỏ, thực trạng môi trường và nội dung các văn bản pháp

quy hiện hành, NCS đề xuất một số tiêu chí đánh giá kết quả CTPHMT đối với các

mỏ than KTLT vùng HG-CP, tỉnh Quảng Ninh như sau:

(1). Khi CTPHMT các mỏ than KTLT thuộc vùng CTPHMT thông thường cần

đáp ứng các tiêu chí sau:

79

a. Tiêu chí 1: đáp ứng ranh giới, diện tích, địa hình, qui mô công trình

CTPHMT theo đề án CTPHMT.

b. Tiêu chí 2: đáp ứng chỉ số hiệu quả xử lý môi trường.

Khi đánh giá về hiệu quả xử lý môi trường cần xem xét riêng cho từng thông số

môi trường phải xử lý. Chỉ số hiệu quả xử lý chất ô nhiễm môi trường (A, %) phải

thỏa mãn:

> 0 (3.2)

Trong đó: αo - hàm lượng thông số môi trường trước xử lý; αs - hàm lượng

thông số môi trường sau xử lý.

c. Tiêu chí 3: đáp ứng chỉ số hiệu quả chống xói mòn khe rãnh.

Chỉ số số hiệu quả chống xói mòn khe rãnh (Fx, %):

(3.3)

Trong đó: dkr - chiều rộng trung bình của các khe rãnh trên sườn tầng thứ i (m);

ni - số lượng khe rãnh trên sườn tầng thứ i; li - chiều dài tầng thải thứ i (m); mi- số

lượng tầng thải.

(2). Khi CTPHMT các mỏ than KTLT thuộc vùng định hướng chức năng

CTPHMT đa mục tiêu (BVMT và sử dụng đất phát triển kinh tế), thì ngoài việc đáp

ứng 3 tiêu chí như đối với CTPHMT thông thường còn phải đáp ứng thêm các tiêu

chí sau:

d. Tiêu chí 4: đáp ứng chỉ số đồng thuận N (%).

Chỉ số đồng thuận biểu thị sự phù hợp với quan điểm phát triển của cộng đồng

địa phương thông qua các kết quả tham khảo các ý kiến của các chuyên gia về kinh

tế, môi trường và các đơn vị lân cận.

Đây là tiêu chí quan trọng, luôn có mặt trong quá trình đánh giá CTPHMT đa

mục tiêu, được xác định theo công thức:

(3.4)

80

Trong đó: - tổng số lượng người được tham khảo các ý kiến là chuyên gia

kinh tế và môi trường hoặc là cộng đồng (với điều kiện số lượng người được tham

khảo ý kiến là cộng đồng phải lớn hơn số hộ của các tổ dân lân cận, giáp với khu

vực CTPHMT); - số lượng người tham gia ý kiến không đồng thuận.

e. Tiêu chí 5: Đáp ứng về độ ổn định bờ mỏ.

Góc dốc bờ mỏ, bãi thải phải đảm bảo luôn nằm trong giới hạn ổn định. Đối

với các mỏ có vị trí nằm trong vùng có nguy cơ xảy ra tai biến trượt lở thì phải thực

hiện các giải pháp giảm thiểu nguy cơ tai biến sạt lở đất và nguy cơ lũ bùn đá. Công

tác này được giám sát trong quá trình khai thác mỏ, nhằm đảm bảo việc thực hiện

các giải pháp kỹ thuật CTPHMT được lồng ghép trong quá trình khai thác mỏ.

f. Tiêu chí 6: đáp ứng chỉ số hiệu quả kinh tế của CTPHMT đa mục tiêu.

Chỉ số đánh giá hiệu quả kinh tế của CTPHMT đa mục tiêu (Ki) như sau:

Trong đó: Gm(n) - giá trị đất đai sau khi phục hồi, dự báo theo giá cả thị trường tại

(3.5)

thời điểm tính toán với loại đất theo chức năng sử dụng đất tương tự và lân cận khu

vực CTPHMT; Gm(i) - giá trị đất đai sau khi phục hồi theo phương thức các mỏ than

đã thực hiện theo quy định tại Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg, đã được cơ quan có

thẩm quyền phê duyệt, dự báo theo giá cả thị trường tại thời điểm tính toán; Gp(n) -

tổng chi phí phục hồi đất để đạt được chức năng sử dụng; Gp(i) - tổng chi phí phục hồi

đất theo phương thức các mỏ than đã thực hiện theo quy định tại Quyết định số

18/2013/QĐ-TTg, đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; Gc - giá trị nguyên

thuỷ của đất đai trước khi mở mỏ ở thời điểm tính toán (theo đơn giá của Nhà nước).

Bảng 3.2: Quy ước giá trị hệ số Ki

Ki Mức độ hiệu quả Vùng áp dụng*

Cao Rất nhạy cảm Ki > 1

Đạt Nhạy cảm 0≤ Ki <1

Không đạt Không nhạy cảm Ki<0

* Vùng áp dụng với mức độ nhạy cảm được xác định theo bảng 3.1.

81

3.3.3. Giải pháp quản lý bằng một số quy định cần thiết khác có liên quan

đến công tác CTPHMT

Nhằm hoàn thiện các văn bản pháp lý liên quan đến việc hướng dẫn thực hiện

Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg, ngày 29/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ, để hỗ

trợ cho công tác CTPHMT theo định hướng đa mục tiêu, cần xây dựng các quy định

cần thiết khác sau đây:

- Xây dựng quy định quản lý thống nhất về kinh phí ký quỹ CTPHMT để đảm

bảo tập trung cho việc thực hiện CTPHMT theo định hướng đa mục tiêu đối với

vùng trọng điểm có hoạt động CTPHMT trong quá trình khai thác khoáng sản;

công tác quản lý, giám sát thực hiện và nghiệm thu công tác CTPHMT đa mục tiêu.

- Xây dựng quy trình kỹ thuật thực hiện CTPHMT ngay trong quá trình khai

thác khoáng sản và công tác giám sát, nghiệm thu kỹ thuật trong giai đoạn này của

dự án.

- Xây dựng quy định về việc ĐMT, trong đó xác định vùng ưu tiên cho

CTPHMT đa mục tiêu (thuộc vùng nhạy cảm), vùng không phải CTPHMT đa mục

tiêu nhằm định hướng cho việc thực hiện CTPHMT theo hướng đa mục tiêu để thúc

đẩy, chuyển dịch hướng phát triển kinh tế thay thế, phục vụ cho việc lập phương án

CTPHMT cho các dự án KTLT thuộc khu vực khai thác liên mỏ do UBND tỉnh

quyết định (theo quy định tại khoản 4 điều 3 Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg của

Chính phủ).

- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho cộng đồng dân cư lân cận

khu vực có hoạt động khai thác than hiểu biết về hoạt động CTPHMT để cộng đồng

quan tâm giám sát và phản ánh kịp thời các hoạt động CTPHMT không phù hợp với

định hướng của địa phương; phát hiện và thông tin đầy đủ, cảnh báo kịp thời các

vùng CTPHMT có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tai biến môi trường và những

vấn đề về môi trường bức xúc do hoạt động CTPHMT gây ra.

3.3.4. Giải pháp quản lý CTPHMT cho các mỏ khai thác than lộ thiên vùng

trọng điểm

82

Hoạt động KTLT của từng dự án tại vùng HG-CP (vùng có nhiều dự án đa

ngành phục vụ phát triển kinh tế như công nghiệp, khai khoáng, cảng biển và du

lịch...) có đặc điểm là các mỏ than KTLT tại đây đa phần đều nằm gần nhau, có ảnh

hưởng và tác động lẫn nhau như mỏ 917, Hà Lầm, Núi Béo, Hà Tu (khu vực Hòn

Gai); mỏ Đèo Nai, Cọc Sáu, Cao Sơn,… (khu vực Cẩm Phả).

Quá trình CTPHMT của Vinacomin tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP trong

thời gian qua được thực hiện theo quy định của pháp luật, tuy nhiên chưa có nghiên

cứu ĐMT để xác định đúng mức những ảnh hưởng đến môi trường và các nguồn

TNTN khác là nguồn lực cho phát triển các ngành kinh tế khác trong khu vực và

phát triển KT-XH toàn vùng Quảng Ninh.

Những năm trước đây, hoạt động CTPHMT các khai trường lộ vỉa và các mỏ

than KTLT chưa có định hướng chiến lược, quản lý cụ thể theo hướng CTPHMT đa

mục tiêu; chưa xem xét việc CTPHMT theo các mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi

trường của một mỏ cụ thể trong tổng thể nhiều mỏ trên một khu vực rộng lớn như

vùng HG-CP nhằm đáp ứng việc tiếp tục sử dụng tài nguyên đất và TNTN, phát

triển kinh tế vùng, duy trì hoạt động CTPHMT bền vững cho khu vực.

Điều này dẫn đến một thực tế là trong quá trình khai thác than trên các khai

trường lộ thiên chưa gắn kết mục tiêu CTPHMT ngay trong quá trình sản xuất (đã

được đề cập tại mục 3, điều 3, Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg, nhưng chưa có

thông tư hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện nội dung này), làm gia tăng các tác

động tiêu cực tới môi trường và làm lãng phí nguồn kinh phí để tiếp tục cải tạo và

phá bỏ công trình CTPHMT (khi công trình chưa phù hợp với định hướng

CTPHMT đa mục tiêu).

Do đó, để quản lý tốt công tác CTPHMT, NCS đề xuất UBND tỉnh Quảng

Ninh cần thực hiện việc ĐMT, xác định vùng ưu tiên BVMT...và đồng thời có định

hướng vùng chức năng CTPHMT theo hướng đa mục tiêu và vùng CTPHMT thông

thường.

Đây sẽ là cơ sở cho việc quản lý việc lập dự án đầu tư mở rộng và đề án

CTPHMT cho hoạt hoạt động khai thác khoáng sản theo định hướng vùng chức

83

năng CTPHMT để triển khai thực hiện CTPHMT ngay trong quá trình sản xuất, khi

chuẩn bị kết thúc khai thác và khi kết thúc khai thác cho mỗi một dạng mỏ (có tiềm

năng) theo hình thái dạng mỏ và triệt tiêu các tai biến môi trường. Kết quả này sẽ là

nền tảng để tập trung nguồn kinh phí ký quỹ thực hiện CTPHMT đa mục tiêu mà

không phải phá bỏ hay cải tạo trên nền địa hình đã có sẵn.

Vùng đất được CTPHMT đa mục tiêu là điểm nhấn về kết quả CTPHMT phục

vụ cho cộng đồng nhân dân và lại tiếp tục mang lại hiệu quả sử dụng đất, tài nguyên

đất, phát triển kinh tế phù hợp với phát triển của các ngành kinh tế khác trong vùng

HG-CP và phát triển KT-XH toàn tỉnh Quảng Ninh. Từ đó làm cơ sở đề xuất chính

sách quản lý và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất phục vụ phát triển kinh tế phù

hợp và đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững.

Dựa vào những phân tích ở trên, NCS đề xuất quản lý CTPHMT nhằm nâng

cao hiệu quả sử dụng đất và BVMT như sau (Hình 3.1).

Các biện pháp quản lý CTPHMT nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất và bảo vệ môi trường

Các biện pháp gián tiếp

Các biện pháp trực tiếp

Các biện pháp giám sát và bảo trì kết quả

Các biện pháp kỹ thuật CTPHMT sử dụng lồng ghép trong quá trình

CTPHMT

khai thác mỏ

Các biện pháp đảm bảo hoàn thành vùng CTPHMT theo chức

năng

Chế tài; công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý và công đồng trong việc kiểm soát CTPHMT theo các

tiêu chí

Sử dụng công cụ ĐMT vùng, khu vực trọng điểm; xác định mức độ giảm thiểu ô nhiễm vùng (xác định khả năng, mức độ đáp ứng CTPHMT); định hướng phân vùng chức năng CTPHMT

Các biện pháp về pháp luật và thể chế liên quan thực hiện quản lý CTPHMT theo chức năng phân vùng CTPHMT; Tập trung nguồn kinh phí ký quỹ và huy động vốn đầu tư vào vùng CTPHMT từ nhiều nguồn lực khác nhau

Hình 3.1: Sơ đồ đề xuất các biện pháp quản lý CTPHMT

cho các mỏ khai thác than lộ thiên tại vùng trọng điểm

84

3.3.5. Giải pháp quản lý môi trường vùng (trong đó có CTPHMT) bằng công

cụ “Đánh giá môi trường tổng hợp“

1. Cơ sở thực tiễn của việc đánh giá môi trường tổng hợp

Trên thực tế, để tăng cường công tác BVMT và hướng tới mục tiêu phát triển

bền vững, bên cạnh các công cụ như chế tài hành chính, chế tài hình sự, công cụ

kinh tế (thuế môi trường, phí BVMT, ký quỹ phục hồi môi trường, Tiêu chuẩn/Quy

chuẩn Việt Nam về môi trường cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển, Luật

BVMT năm 2005 đã quy định về đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) đối với

một số chiến lược, quy hoạch, kế hoạch (CQK), đánh giá tác động môi trường

(ĐTM) và cam kết bảo vệ môi trường (CKBVMT) đối với một số loại hình dự án

đầu tư (tùy theo tính chất của dự án mà phải áp dụng ĐTM hay CKBVMT). Tiếp

theo luật BVMT năm 2005, chính phủ đã ban hành Nghị định số 80/2006/NĐ-CP

ngày 09/8/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật BVMT,

Nghị định số 21/2008/NĐ-CP, Nghị định số 29/2011/NĐ-CP; Bộ TN&MT đã có

thông tư số 26/2012/TT-BTNMT quy định chi tiết và cụ thể về ĐMC, ĐTM và

CKBVMT,... đã tạo khung pháp lý để giúp các nhà đầu tư thực thi nghiêm túc

nhiệm vụ BVMT trong quá trình vận hành của một số CQK và dự án theo quy định

của pháp luật.

Như vậy, các vấn đề về môi trường đối với từng dự án cụ thể, với từng chiến

lược quy hoạch hoặc kế hoạch phát triển của một ngành hay của một địa phương

(tỉnh, liên tỉnh) vấn đề môi trường cần được xem xét trước khi CQK hay dự án đó

triển khai thực hiện.

Trong khi đó, môi trường tại các vùng lãnh thổ trọng điểm với các tụ điểm

công nghiệp, cụm dân cư có nhiều cơ sở thực hiện các dự án khai thác mỏ hoặc

nhiều dự án phát triển kinh tế khác nhau,... đang ngày một xuống cấp. Một số nguồn

tiếp nhận (sông, suối, khu vực biển ven bờ,...) đã quá tải, vượt ngưỡng cho phép,

gây ô nhiễm môi trường. Một vài nơi đã ở cấp báo động, nhưng chưa được giải

85

quyết do không có cơ sở pháp lý, chế tài xử lý (nhất là trách nhiệm của các chủ

nguồn phát thải khi tham gia phát triển kinh tế) trong việc đền bù thiệt hại gây ô

nhiễm MT trong một vùng, một lưu vực sông, suối,… và việc qui trách nhiệm đối

với các bên liên quan trong việc giải quyết ô nhiễm môi trường.

Để đảm bảo sự phát triển bền vững cho xã hội nói chung, cho tương lai ngành

khai thác mỏ nói riêng và cho các đối tượng như đã nêu ở trên,… cần tiếp tục

nghiên cứu, bổ sung kịp thời vào khung chính sách và xây dựng hướng dẫn kỹ thuật

về “Đánh giá môi trường tổng hợp” - ĐMT, nhằm lấp khoảng trống chính sách mà

các công cụ về BVMT chưa đáp ứng được.

Sự khác nhau về mục tiêu, quy mô nhiệm vụ,… của ĐMT với các công cụ

BVMT khác (ĐMC, ĐTM, CKBVMT) được thể hiện trong bảng 3.3.

Bảng 3.3: So sánh ĐMC, ĐTM, CKBVMT và ĐMT

Chỉ tiêu TT ĐMC ĐTM, CKBVMT ĐMT so sánh

1 Mục tiêu Đảm bảo sự phát BVMT, giảm thiểu BVMT và phát

cơ bản triển bền vững ô nhiễm đối với triển bền vững

đối với khu vực khu vực tiến hành đối với khu vực

tiến hành CQK về dự án trọng điểm

kinh tế và xã hội

2 Quy mô Tỉnh, liên tỉnh, Dự án, khu vực Tất cả các dự án

tác động ngành, liên ngành tiến hành dự án triển khai trong

khu vực

3 Cơ sở lập Các CQK kinh tế Các dự án phát Các khu vực

và xã hội triển trọng điểm, các

điểm nóng về

môi trường

4 Thời điểm Đồng thời với quá Trước khi dự án Khi trong khu

tiến hành trình lập CQK được triển khai vực có nhiều dự

86

án đã, đang và

sẽ hoạt động

5 Nội dung Dự báo các biến Dự báo các ô Đánh giá hậu

đánh giá động về kinh tế, nhiễm, suy giảm quả làm suy

xã hội và môi chất lượng môi giảm chất lượng

trường trong trường trong và sau môi trường do

tương lai quá trình hoạt động hoạt động của

của dự án nhiều dự án

trong khu vực

ĐMT vùng, khu vực nhằm tạo khung pháp lý xác lập thực trạng các vấn đề môi

trường của vùng phát triển kinh tế trong một phạm vi không gian giới hạn (như

trong một vùng công nghiệp phát triển; vùng phát triển trên lưu vực sông quan

trọng,…) để có các giải pháp tổng thể, phối hợp giữa các cơ sở, liên ngành, liên

vùng nhằm giải quyết các vấn đề môi trường (trong đó bao gồm cả vấn đề

CTPHMT) và các mâu thuẫn giữa các ngành cùng phát triển trong vùng, khu vực,....

ĐMT là công cụ hỗ trợ xác định rõ trách nhiệm của mỗi nhà đầu tư, của mỗi cấp,

mỗi ngành, địa phương khi có vấn đề môi trường nghiêm trọng xảy ra trong khu

vực; xác định các vấn đề CTPHMT cần giải quyết trong vùng có vấn đề môi trường

trọng yếu; các vùng CTPHMT đa mục tiêu (định hướng đa mục tiêu: các vùng tiếp

tục có chức năng phát triển kinh tế); các vùng CTPHMT, vùng BVMT nguồn nước,

di sản,… và vùng tự CTPHMT theo tự nhiên,…; vấn đề quản lý tổng hợp giữa các

ngành kinh tế liên quan; trách nhiệm của chủ mỏ, của địa phương; của các nhà quản

lý và chế tài quản lý quỹ CTPHMT tập trung,…

Việc tiến hành ĐMT cho các vùng trọng điểm, các lưu vực sông suối,… của

các tỉnh, thành phố sẽ là công cụ chuyên môn có tính pháp lý giúp cho nhà hoạch

định chính sách các biện pháp quản lý tổng thể nhằm giải quyết xung đột giữa các

ngành kinh tế, giảm thiểu sức ép lên môi trường sinh thái và các hệ tài nguyên sinh

87

vật; góp phần đảm bảo sự phát triển hài hòa và bền vững của các hoạt động kinh tế

trong vùng và đảm bảo an sinh xã hội và chống suy thoái môi trường tại các địa

phương.

Không riêng gì khu vực Quảng Ninh, việc tiến hành ĐMT đang là vấn đề cấp

thiết đối với nhiều vùng lãnh thổ, cụm dân cư, khu công nghiệp,... trong cả nước.

Giải pháp này không chỉ là tình thế mà còn là lâu dài, nhằm lấp đầy khoảng trống

về chính sách quản lý và BVMT mà ĐTM, CKBVMT của các dự án và ĐMC của

các CQK còn bỏ sót lại. ĐMT nhằm đánh giá tổng thể thực trạng vấn đề môi trường

và sự phát triển trong một phạm vi không gian nhỏ; mối tương quan giữa các đơn vị

sản xuất và các dự án phát triển trong vùng công nghiệp trọng điểm; lưu vực đầu

nguồn sông suối quan trọng,... nhằm làm cơ sở để có các chính sách, giải pháp

nhằm giảm thiểu các mâu thuẫn phát triển giữa các ngành như du lịch - cảng biển;

du lịch và khai thác khoáng sản,… đồng thời xác định rõ trách nhiệm của mỗi nhà

đầu tư, của mỗi cấp, mỗi ngành và mỗi địa phương khi có vấn đề môi trường

nghiêm trọng xảy ra.

Cũng như ĐMC, ĐTM và CKBVMT, việc tiến hành ĐMT cần có sự tham gia

của các nhà khoa học, của cộng đồng; của các chủ đầu tư của các dự án hoạt động

thuộc vùng, thuộc lưu vực sông, suối khu vực đặc thù và các cấp, các ban ngành

hữu quan liên quan, nhưng trước hết là phải có khung pháp lý hướng dẫn chi tiết

ĐMT của cơ quan có trách nhiệm.

Việc tiến hành ĐMT cho các vùng trọng điểm của các tỉnh, thành phố sẽ giúp

cho nhà hoạch định chính sách các biện pháp tổng thể quản lý giải quyết xung đột

giữa các ngành kinh tế, giảm thiểu sức ép lên môi trường sinh thái và các hệ tài

nguyên sinh vật; góp phần đảm bảo sự phát triển hài hoà và bền vững của các hoạt

động kinh tế trong vùng và đảm bảo an sinh xã hội và suy giảm môi trường,… tại địa

phương. ĐMT vùng nghiên cứu cung cấp một bức tranh tổng hợp về KT-XH-MT

nhằm giúp định hướng cho các hành động, các kế hoạch phát triển, đảm bảo sự kết

hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, ổn định xã hội và đảm bảo chất lượng môi trường.

88

2. Nội dung chủ yếu của ĐMT

(1). Xác lập phạm vi vùng ĐMT: xác lập vùng ĐMT trên cơ sở các thu thập

thông tin về các vấn đề phát triển KT-XH-MT trong bối cảnh tổng thể thực tại của

vùng để xác lập được phạm vi về không gian và thời gian.

(2). Xác lập quy luật tương đối của sự thay đổi, biến thiên của các yếu tố khí

tượng thủy văn có liên quan đến sự khuếch tán chất ô nhiễm trong khí quyển.

- Xác định này có tính quan trọng trong quá trình ĐMT để xác lập được mức

độ ổn định của khí quyển theo sự thay đổi và biến thiên của nhiệt độ. Trong điều

kiện này, các chất ô nhiễm khuếch tán ra môi trường xung quanh được thuận lợi và

nhanh chóng,…[5]

- Xác lập được chính xác quy luật nêu trên nhằm đảm bảo ĐMT như: đánh giá

tác động cộng hưởng, tích lũy; đánh giá khả năng chịu tải của nguồn tiếp nhận; xác

lập các phương pháp mô phỏng, chất lượng môi trường khí và nước,…

(3). Kiểm kê, thống kê các nguồn ô nhiễm tự nhiên phát sinh gây ô nhiễm môi

trường; nguồn ô nhiễm nhân tạo (nguồn phát thải động và tĩnh) về thành phần, tải

lượng chất ô nhiễm,…

(4). Xác định các bên liên quan: Các cơ sở phát triển kinh tế; các cơ quan ban

ngành quản lý; cộng đồng dân cư; tổ chức phi chính phủ.

(5). Đánh giá tác động cộng hưởng các tác động môi trường từ các nguồn phát

thải nhằm xác định chính xác chất lượng thực tế các thành phần môi trường khu

vực, trên cơ sở đó xác định nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự suy giảm môi trường và

đề xuất giải pháp khắc phục. Vấn đề này đặc biệt có ý nghĩa đối với những tụ điểm

dân cư có nhiều cơ sở kinh tế với các phương thức sản xuất và chủng loại sản phẩm

khác nhau. Các yếu tố KT-XH-MT được nghiên cứu, xem xét trong mối quan hệ

tương tác đa chiều [01], [31]. Ví dụ, hoạt động khai thác và vận chuyển than (bằng

đường bộ và đường thủy) sẽ có tác động tới các yếu tố tự nhiên (địa chất, địa hình,

khí hậu, thủy văn, đất, thực vật), các yếu tố KT-XH (vai trò của khai thác than trong

cơ cấu kinh tế chung, cơ sở hạ tầng, các khía cạnh xã hội như lao động, thu

nhập,...), các yếu tố môi trường và tai biến thiên nhiên (ô nhiễm không khí do bụi,

89

tiếng ồn, khí thải; ô nhiễm môi trường nước do rác thải rắn, chất thải độc hại từ các

mỏ và khai trường),... Bản thân môi trường nước hoặc không khí cần được xem xét

trong mối tương quan không chỉ với hoạt động khai thác than mà còn với các hoạt

động khác như sản xuất công nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng, nông, lâm nghiệp,

thủy sản, cảng biển, du lịch,...

Phương pháp đánh giá: Lựa chọn các mô hình hoặc các bài toán truyền tải,

khuếch tán vật chất và ô nhiễm môi trường; xác lập các phương pháp mô phỏng

chất lượng môi trường khí và nước phù hợp, để xác lập đánh giá tác động cộng

hưởng đối với điểm hoặc tập hợp điểm; xác lập các thông số phù hợp thực tế để giải

các bài toán; mô hình lựa chọn; tổng hợp kết quả đánh giá và xử lý kết quả.

Ví dụ, sự biến thiên tình trạng ô nhiễm môi trường xung quanh không chỉ phụ

thuộc vào các nguồn thải khác nhau mà còn phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự

nhiên. Đối với môi trường không khí xung quanh thì sự biến thiên, mức độ ô nhiễm

môi trường chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện khí hậu (hướng gió và tốc độ gió),

mưa, nắng,...); Đối với ô nhiễm môi trường các dòng sông, suối, thì chủ yếu phụ

thuộc vào lưu lượng dòng chảy, tốc độ và hướng dòng chảy, nhiệt độ nước,...). Đối

với ô nhiễm môi trường nước biển ven bờ thì chủ yếu phụ thuộc vào các dòng hải

lưu và tình trạng thủy triều. Đối với ô nhiễm môi trường đất (nham thạch, thổ

nhưỡng) thì chủ yếu phụ thuộc vào tính thẩm thấu, khuyếch tán ô nhiễm môi trường

đất và điều kiện địa chất thủy văn.

Do vậy, để đánh giá tác động cộng hưởng thì không thể dùng các biện pháp

đơn lẻ mà phải lựa chọn các phương pháp phù hợp sau đó phân tích, tổng hợp kết

quả của các phương pháp để đáp ứng nội dung của ĐMT. Chính vì vậy, cần phải

lựa chọn các thông số đặc trưng cho vùng theo nguồn thải; lựa chọn điểm trong tập

hợp điểm đại diện trong vùng; lựa chọn phương pháp tính toán, được đề xuất là

tổng hợp của các phương pháp ĐTM đang áp dụng phổ biến, cụ thể như sau [19]:

Bước 1: Xác định mức độ ô nhiễm tại một điểm trong tập hợp điểm đại diện

trong vùng theo một số phương pháp sau:

- Phương pháp mô hình của Berliand, Sutton và Gauss (cho môi trường

90

không khí) và Mike, Quai2K (cho môi trường nước),…

- Phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê số liệu quan trắc môi trường

thực tế. Phương pháp này đòi hỏi phải có hệ thống các trạm quan trắc môi trường

xung quanh hoàn thiện, phân bố các điểm đo bao trùm cả khu vực nghiên cứu,

phân bố các điểm đo càng dày càng đạt được độ chính xác cao cho việc khoanh

vùng ô nhiễm. Thời gian quan trắc phải phù hợp để kết quả quan trắc phản ánh

đúng thực trạng ô nhiễm môi trường.

- Phương pháp tính toán theo mô hình khuyếch tán ô nhiễm môi trường bằng

hệ thống thông tin địa lý (GIS). Phương pháp tiếp cận này đòi hỏi phải có đầy

đủ các thông số về các nguồn thải gây ra ô nhiễm môi trường (vị trí không gian,

lưu lượng thải, chất thải, phương thức thải và các tính chất vật lý của nguồn thải) và

phải có đầy đủ các thông số về điều kiện khí hậu, thủy văn, hải văn, địa hình, địa

chất thủy văn,... của khu vực nghiên cứu. Phương pháp tiếp cận tính toán phân bố ô

nhiễm theo mô hình có thể vẽ được các đường đồng mức ô nhiễm tương đối chính

xác, tức là có thể xác định được mức độ ô nhiễm môi trường khác nhau.

- Phương pháp xác định chỉ số chất lượng môi trường tổng hợp được ký hiệu là

EQI. Mô hình EQI được đề xuất và áp dụng đầu tiên ở Mỹ vào những năm 1965-

1970 và đang được áp dụng rộng rãi ở nhiều bang. Hiện nay nhiều mô hình EQI đã

được triển khai nghiên cứu áp dụng ở nhiều quốc gia như Ấn Độ, Canada, Chilê,

Anh, Wales, Đài Loan, Úc, Malaysia,…. EQI được xem là một công cụ hữu hiệu

đối với các nhà quản lý môi trường trong giám sát, kiểm tra, quản lý chất lượng môi

trường, đánh giá hiệu quả của các nhà hoạch định chính sách,.... Với EQI, dễ áp

dụng tin học để quản lý chất lượng môi trường và bản đồ hóa khoanh vùng ô nhiễm

môi trường (chẳng hạn, màu hóa các vùng ô nhiễm theo các thang điểm xác định).

Đối với mỗi loại môi trường (môi trường không khí, môi trường nước mặt, môi

trường nước biển ven bờ,...), người ta thường chọn lựa ra một số chất ô nhiễm điển

hình i đặc trưng, có ý nghĩa quan trọng nhất của môi trường đó, để tính toán đánh

giá mức độ ô nhiễm (chỉ số chất lượng) của một môi trường nào đó, không có nước

nào tính toán với tất cả các thông số ô nhiễm trong bảng thông số tiêu chuẩn/quy

91

chuẩn chất lượng môi trường. Trong trường hợp các tác dụng sinh học của các chất

ô nhiễm i trong một môi trường tương tự hay xấp xỉ như nhau, thì người ta có thể

xác định một chỉ số chất lượng môi trường tổng hợp để đánh giá mức độ ô nhiễm

của môi trường như sau:

+ Khi đánh giá mức độ ô nhiễm của môi trường nước biển ven bờ, có thể sử

dụng công thức để tính toán thông qua một vài thông số đặc thù [20]:

(3.6)

Trong đó: j - Các thông số đặc thù; i = 1, 2, 3,…, n - Chỉ số đánh số điểm i đối

với mỗi vùng nước cụ thể; Ci - Nồng độ hay hàm lượng (TSS) thực tế xác định

được tại điểm i, là trị số trung bình năm hay trung bình quý; Co - Nồng độ hay hàm

lượng chất ô nhiễm (TSS) tối đa cho phép được quy định theo QCVN

10:2008/BTNMT; n - Số lượng điểm xác định tại nguồn nước cụ thể; Trị số 100 là

chỉ số chất lượng nước biển ven bờ quy ước, tương ứng với điều kiện nồng độ quan

trắc thực tế bằng nồng độ giá trị giới hạn cho phép được quy định theo QCVN.

Tính toán trung bình các thông số về đánh giá chất lượng như sau:

(3.7) SWQI01 =

Trong đó: k - tổng các thông số.

+ Khi tính toán ô nhiễm môi trường đất với các thông số riêng biệt, có thể sử

dụng công thức sau [18]:

(3.8)

Trong đó: Ci - nồng độ chất ô nhiễm trung bình năm hoặc trung bình ngày đặc

trưng xác định được tại điểm i trong phạm vi nghiên cứu; i = 1, 2, 3..., n; j - các

thông số đặc trưng; Co - trị số nồng độ chất ô nhiễm cho phép, tương ứng với giá trị

tối đa cho phép theo QCVN 03: 2008/BTNMT và QCVN 15: 2008/BTNMT.

Có thể đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường thông qua các thông số:

92

SOQI = (3.9) SOQIk

Trong đó: n - Tổng các thông số.

+ Khi tính toán sự ô nhiễm không khí với các thông số riêng biệt, có thể sử

dụng công thức sau [19]:

(3.10)

Trong đó: Ci - nồng độ chất ô nhiễm trung bình năm tại địa điểm i trong phạm

vi nghiên cứu; i = 1, 2, 3... n; Co - trị số nồng độ chất ô nhiễm cho phép, tương ứng

với giá trị tối đa cho phép theo QCVN:05/2009/BTNMT.

+ Khi tính toán đánh giá mức độ ô nhiễm trung bình của môi trường không

khí, có thể sử dụng công thức [19]:

AQI = (3.11) SOQIk

Trong đó: n - tổng các thông số.

Bước 2: Xác lập sự cộng hưởng (sự giao thoa) của các mô hình khuếch tán

của các nguồn thải trong vùng, các thông số ô nhiễm của khu vực theo các phương

pháp khác,…

Bước 3: Tổng hợp, phân tích kết quả và lựa chọn kết quả mang tính đại diện và

đặc trưng cho vùng.

(6). Đánh giá các tác động tích luỹ là việc xem xét và định lượng quá trình

trầm tích, lắng đọng và tích tụ các phát thải của một hoạt động phát triển nào đó

diễn biến từ quá khứ tới hiện tại và có thể tiếp tục trong tương lai. Đối với một dự

án cụ thể thì tác động tích luỹ là xác định về mặt thời gian, nhưng đối với một vùng

lãnh thổ thì tác động tích luỹ là vô định, theo bám vĩnh viễn suốt quá trình tồn tại và

phát triển của địa phương này. Tác động này có thể tăng, giảm hay giữ nguyên ở

một trạng thái nào đó tuỳ theo khả năng kiểm soát và thái độ ứng xử của con người

đối với nó [22].

93

Phương pháp để đánh giá tác động tích luỹ các thành phân ô nhiễm trong trầm

tích, lắng đọng và tích tụ các phát thải như cặn cứng, chất độc hại, kim loại nặng,...

là nghiên cứu xây dựng các mô hình thủy động lực, lan truyền trầm tích lơ lửng ở

khu vực cửa sông; xác lập khả năng tích luỹ và phân tán chất ô nhiễm trong trầm

tích theo thời gian,... để định lượng và dự báo các phát thải.

(7). Đánh giá khả năng chịu tải của nguồn tiếp nhận có nghĩa là xem xét đánh

giá một cách tổng hợp vùng nghiên cứu trong mối quan hệ vùng, đồng thời xác lập

được các giới hạn, các ngưỡng môi trường vùng nghiên cứu. Về khả năng chịu

đựng của hệ sinh thái, ví dụ như những tác động môi trường của một số dự án riêng

lẻ có thể “gặm nhấm” một cách có hiệu quả chức năng của hệ sinh thái và năng lực

sinh tồn của các động vật hoang dã; sự vượt quá ngưỡng xáo trộn của hệ sinh thái

có thể dẫn đến sự phá hủy hệ sinh thái đó trong một giai đoạn ngắn. Nhiều hoạt

động nhỏ riêng biệt không có ý nghĩa cũng có thể tạo nên kết quả tổng hợp dẫn đến

những tác động đáng kể sau một thời gian ngắn. Việc này có vai trò quan trọng

trong quá trình điều khiển và quản lý hệ thống KT-XH-MT vùng nghiên cứu, nhằm

đảm bảo mọi hoạt động phát triển được vận hành trong trạng thái ổn định, hợp lý

với mức phát thải ô nhiễm dưới ngưỡng cho phép.

(8). Xác định các trọng điểm dẫn đến sự vượt ngưỡng các chỉ tiêu môi trường

khu vực: Phân tích, xem xét các hoạt động phát triển đặc trưng trong vùng nghiên

cứu, nghiên cứu các hợp phần tự nhiên (địa chất - địa hình, khí hậu - thủy văn, đất -

sinh vật), các yếu tố KT-XH mang tính chất nhân sinh (cơ sở hạ tầng, các hoạt động

sản xuất) và các mối liên hệ giữa các hợp phần đó, làm biến đổi dòng vật chất, năng

lượng của hệ thống (các quá trình địa mạo, các tai biến thiên nhiên và nhân sinh,

chu trình vật chất và năng lượng, chu trình kinh tế tài nguyên) với vai trò trung tâm

là con người cùng các tác động của nó nhằm xác định trọng điểm phát thải ô nhiễm,

tạo ra hiệu ứng “giọt nước gây tràn ly”.

(9). Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp riêng lẻ và tổng hợp nhằm từng bước

cải thiện chất lượng môi trường: Giải pháp riêng lẻ thường mang tính cục bộ, phạm

vi ảnh hưởng không lớn và mang lại hiệu quả hạn chế, tuy nhiên có tính khả thi cao,

94

do có sự phù hợp với điều kiện tự nhiên và kỹ thuật cụ thể của đối tượng chịu tác

động. Thí dụ, để hạn chế giảm thiểu môi trường không khí do bụi, chính quyền địa

phương yêu cầu các ô tô chở đất đá và than khi chạy qua khu vực dân cư phải che

bạt kín thùng xe, chủ dự án phải tiến hành phun nước thường xuyên trên đoạn

đường xe chạy qua,... Giải pháp tổng hợp trong trường hợp này là sử dụng đồng bộ

nhiều giải pháp kết hợp (che bạt kín thùng xe, phun sương và rải nhựa mặt đường

xe chạy, trồng cây xanh 2 bên vệ đường,...), nghiêm cấm các ô tô vận tải đất đá và

than chạy qua khu vực dân cư, cách ly khu vực dân cư với các nguồn phát thải bụi

bằng hệ thống đê bao và cây xanh,.... Như vậy, giải pháp tổng hợp thường có tính

khả thi ít hơn, khó thực hiện hơn, nhưng hiệu quả và phạm vi tác động lớn hơn, triệt

để hơn [50].

(10). Đánh giá môi trường tổng hợp phải làm được chức năng hỗ trợ phát triển

kinh tế - xã hội, phải xuất phát từ trình độ phát triển KT-XH nhất định ở mỗi địa

phương, mỗi vùng lãnh thổ để có những đối sách thích hợp. ĐMT phải chú ý thích

đáng cho phát triển KT-XH, phải có sự cân nhắc, đánh giá, tính toán về môi trường;

có các đối sách, biện pháp thích hợp để bảo đảm môi trường bền vững ở những mức

độ nhất định, tương thích với các điều kiện KT-XH của vùng nghiên cứu, đồng thời

giải quyết được các xung đột giữa KT-XH-MT một cách thoả đáng.

(11). Tổ chức quản lý, giám sát môi trường khu vực trong trường hợp này đóng

vai trò là “giải pháp đầu đường ống”, bao gồm các biện pháp cưỡng chế, giáo dục,

thưởng phạt,... nhằm tạo ra một áp lực thường trực tác động lên nguồn phát thải,

không cho các chất ô nhiễm phát xả ở đó vượt quá “quota” đã được phân định.

ĐMT có trách nhiệm đề ra chương trình quản lý các vấn đề BVMT cho quá trình

vận hành của các dự án. Chương trình quản lý môi trường bao gồm các hoạt động

quan trắc, giám sát toàn diện các chỉ tiêu môi trường xung quanh của tất cả các hoạt

động phát triển trong khu vực; giám sát việc thực thi các biện pháp tổng hợp

BVMT,…[30]. Có thể nói: quản lý, giám sát, đánh giá việc thực thi ĐMT là giải

pháp quan trọng, đảm bảo cho sự ổn định và bền vững của môi trường khu vực.

3. Những đặc điểm khi tiến hành ĐMT đối với vùng HG-CP

95

Các mỏ than KTLT vùng HG-CP có vị trí lân cận với các khu đô thị trung tâm

của thành phố Hạ long, Cẩm Phả và điểm du lịch nổi tiếng nhất trong vùng là vịnh

Hạ Long, mang ý nghĩa quốc gia và quốc tế. Đây là nơi có sự phát triển KT-XH rất

sôi động về công nghiệp (than, xi măng), thủy sản, cảng biển và du lịch và quá trình

đô thị hóa cũng diễn ra rất mạnh ở vùng HG-CP.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, ở từng khu vực vẫn còn những vấn

đề bức xúc về ô nhiễm môi trường và việc phải giải quyết triệt để nhiều vấn đề môi

trường nghiêm trọng phát sinh từ hoạt động KTLT đang trở nên cấp thiết. Môi

trường không khí tại các đô thị (Hòn Gai, Cẩm Phả) bị ô nhiễm do hoạt động vận

chuyển than, hoạt động giao thông tấp nập trên đường 18A và các tuyến đường nội

thị,…. Môi trường nước biển ven bờ bị xuống cấp và ô nhiễm nặng cục bộ do sự tập

trung của các nhà máy sàng tuyển than, các cảng xuất than,… do các chất từ bãi

thải, khai trường khai thác than đưa ra bờ vịnh Hạ Long và Bái Tử Long,... Nghiêm

trọng hơn, việc khai thác than của một số mỏ than KTLT đã và đang trong giai đoạn

nạo vét, thu hồi than để chuẩn bị đóng cửa mỏ và nhiều lộ vỉa đã kết thúc khai thác

(các vùng này lận cận vùng đô thị trọng tâm của vùng HG-CP) nên đã và đang tạo

ra nguy cơ gây lãng phí lớn nguồn tài nguyên đất để mở rộng khu vực Hòn Gai và

Cẩm Phả, nhằm phát triển KT-XH khu vực (khu vực này vốn có diện tích hẹp, việc

phát triển diện tích đất từ trước đến nay chỉ bằng cách lấn biển, giải pháp này đã

góp phần gây ra nguy cơ làm mất đi các giá trị tự nhiên và vẻ đẹp vốn có của vịnh

Hạ Long và Bái tử Long).

Tất cả các vấn đề trên tạo nên một chuỗi các vấn đề bất cập về môi trường - xã

hội, là hệ quả tất yếu của một thời kỳ phát triển quá nóng, không có quy hoạch khai

thác, đổ thải hợp lý, thiếu công cụ quản lý đúng đắn, phù hợp, thiếu giải pháp quản

lý hệ thống và tổng hợp.

Giải quyết được các mâu thuẫn hiện nay trong vùng là cực kỳ quan trọng bởi

nó quyết định cho sự “sống - còn” không chỉ cho vùng HG-CP mà còn cho tỉnh

Quảng Ninh, xa hơn nữa là cho toàn vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.

96

HG-CP là vùng khai thác than rộng lớn, có vị trí lân cận các khu đô thị trọng

điểm, việc thực hiện ĐMT vùng và đề xuất các giải pháp quản lý tổng hợp vùng để

xác lập việc quản lý khai thác và BVMT trên mỗi một cụm mỏ trong một tổng thể

nhiều mỏ, nhằm đảm bảo hoạt động khai thác than không làm ảnh hưởng đến sự

phát triển KT-XH khác của vùng, là cần thiết trong thời gian hiện tại và tương lai.

Trong đó, nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu: (i) Lựa chọn và xác định các

vùng ĐMT (bao gồm cả các vùng phụ cận liên quan) theo phạm vi, diện tích, ranh

giới, tọa độ, đường bờ sông suối hoặc theo địa giới hành chính; (ii) Kiểm kê các

thông tin, dữ liệu về hiện trạng điều kiện KT-XH, hệ sinh thái vùng phụ cận; (iii)

Các vấn đề chính liên quan của quy hoạch phát triển và quy hoạch ngành, quy

hoạch sử dụng đất; (iv) Vấn đề môi trường trọng yếu của hoạt động khai thác than

đến vùng phụ cận;...; các vấn đề CTPHMT cần giải quyết trong vùng có vấn đề môi

trường trọng yếu; các vùng CTPHMT đa mục tiêu; các vùng CTPHMT thông

thường và vùng tự CTPHMT theo tự nhiên,…; vấn đề quản lý tổng hợp giữa các

ngành kinh tế liên quan; trách nhiệm của chủ mỏ, của địa phương, của các nhà quản

lý và chế tài quản lý quỹ CTPHMT tập trung,…

Đánh giá chung: Hoạt động khai thác than vùng HG -CP đã diễn ra nhiều năm

trong quá khứ, hiện tại và tương lai, do vậy việc xem xét tác động cộng hưởng, tích

lũy của các tác động đơn lẻ, lặp đi lặp lại, liên kết trong khoảng thời gian dài của các

hoạt động (khai thác than, chế biến than, các dịch vụ phụ trợ,…) đến môi trường là

thực sự bức xúc, đặc liệt đối với những khu vực tập trung dân cư, có nhiều cơ sở công

nghiệp như Hà Tu, Hà Lầm, Cửa Ông,... Bụi từ các bãi thải cao hơn núi tự nhiên đã

khuếch tán vào không khí, cộng hưởng với các nguồn phát sinh bụi, khí thải của các

hoạt động vận chuyển, phát triển công nghiệp (nhiệt điện, xi măng,…), làm ô nhiễm

trầm trọng bầu không khí các thị trấn, thị tứ, các tụ điểm dân cư; làm lấp cạn các suối

đầu nguồn lưu vực vịnh Cửa Lục; tác động tích luỹ các kim loại nặng, đất đá,… hàng

trăm năm qua từ hệ lụy trôi rửa của các khai trường, bãi thải, bãi chứa than,… kết

hợp với các hoạt động phát triển đô thị và công nghiệp khác đã làm cho hệ sinh thái

vịnh Cửa Lục và gián tiếp tới vịnh Hạ Long ngày càng cạn kiệt.

97

Việc tiến hành một cách khẩn trương ĐMT cho các khu vực này có ý nghĩa

thiết thực, nhằm duy trì được sự cân bằng giữa các hoạt động phát triển trên một địa

bàn hẹp (khai thác khoáng sản, cảng biển, vận tải thuỷ, thương mại, du lịch,…);

tăng cường hiệu quả cho các hoạt động kinh tế khu vực và trên địa bàn tỉnh, bảo vệ

các cảnh quan, tạo điều kiện cho du lịch phát triển nói chung và định hướng được

vùng ưu tiên (vùng cần thiết phải CTPHMT theo hướng đa chức năng); mức độ

CTPHMT phải thực hiện để đáp ứng các tiêu chí của công tác CTPHMT đa chức

năng trong HĐKS than KTLT tại vùng mỏ rộng lớn HG-CP, đầu nguồn sông suối

và lân cận các khu đô thị, khu du lịch [50].

3.3.6. Giải pháp phân vùng chức năng sử dụng đất phục vụ công tác quản lý

CTPHMT

1. Cơ sở thực tiễn cho việc định hướng chức năng sử dụng đất phục vụ công

tác quản lý CTPHMT

Phân vùng sử dụng đất phục vụ công tác quản lý CTPHMT (gọi tắt là phân

vùng CTPHMT) là việc phân chia vùng có hoạt động khai thác than lộ thiên thành

các đơn vị tương đối đồng nhất theo các tiêu chí và các mục tiêu sử dụng đất nhất

định và mức độ CTPHMT phải thực hiện để giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại các

vùng CTPHMT đa mục tiêu và CTPHMT thông thường, nhằm quản lý và

CTPHMT có hiệu quả kinh tế theo các đặc thù riêng của mỗi mỏ trong một nhóm

mỏ than KTLT của vùng HG-CP.

Việc thực hiện CTPHMT theo định hướng phân vùng chức năng sử dụng đất

của vùng CTPHMT đối với hoạt động KTLT nhằm duy trì kết quả CTPHMT bền

vững, tiếp tục sử dụng quỹ đất (vùng đất đã kết thúc KTLT) phục vụ cho việc phát

triển KT-XH bền vững trên một vùng rộng lớn có hoạt động khai thác mỏ, cụ thể là:

- CTPHMT để giảm thiểu tối đa các ảnh hưởng xấu của hoạt động KTLT.

- Tiếp theo là biến khu mỏ được CTPHMT đa mục tiêu thành vùng BVMT,

phục vụ công đồng dân cư và phát triển kinh tế nhằm duy trì kết quả của công tác

CTPHMT với các dạng sinh thái và cảnh quan mới trên vùng đất đã kết thúc hoạt

động KTLT.

98

Việc nghiên cứu định hướng chung trong công tác CTPHMT trên một vùng cụ

thể cũng như xác lập phạm vi vùng có chung định hướng công tác CTPHMT đối

với các mỏ than KTLT và rất quan trọng. Việc ưu tiên tập trung nguồn lực, vật lực

cho các mỏ than KTLT nằm sát các vùng trọng điểm, lân cận các khu đô thị dân cư

tập trung, vùng có tiềm năng phát triển du lịch để đề xuất kế hoạch CTPHMT phù

hợp, xử lý ô nhiễm môi trường hiệu quả, tạo ra quỹ đất nhằm phát triển kinh tế sau

khi kết thúc khai thác than là rất cần thiết.

Cần tạo ra bức tranh thu hút sự quan tâm thực hiện CTPHMT đa mục tiêu theo

định hướng tiếp tục sử dụng đất cho phát triển kinh tế của các doanh nghiệp đã kết

thúc khai thác than ở vùng HG-CP nói riêng và vùng mỏ Quảng Ninh nói chung.

Dự kiến kết quả định hướng phân vùng chức năng CTPHMT là công cụ quản lý hỗ

trợ cho công tác quản lý của cơ quan chức năng về môi trường, cũng như trong

công tác thẩm định các dự án CTPHMT và công tác đóng cửa mỏ.

2. Định hướng phân vùng chức năng sử dụng đất của vùng CTPHMT cho các

khu vực mỏ than KTLT

a. Phương pháp xác định các định hướng phân vùng CTPHMT đa chức năng

Bước 1: ĐMT cho các vùng bằng cách tích hợp kiểm kê cơ bản các thông tin,

các dữ liệu về hiện trạng điều kiện KT-XH, hệ sinh thái vùng phụ cận; các vấn đề

chính liên quan của quy hoạch phát triển và quy hoạch ngành; quy hoạch sử dụng

đất; vấn đề về môi trường nổi cộm vùng phụ cận liên quan,… nhằm xác lập vùng có

hoạt động KTLT có mức độ ô nhiễm cao; mức độ phải thực hiện để giảm thiểu ô

nhiễm môi trường; vùng ưu tiên nghiên cứu CTPHMT theo hướng đa chức năng;

vùng CTPHMT thông thường.

Bước 2: Lựa chọn và xác định các định hướng vùng CTPHMT đa chức năng

dự kiến (bao gồm cả các tiểu vùng) theo phạm vi, diện tích, ranh giới, toạ độ, đường

bờ sông suối hoặc theo địa giới hành chính và điều kiện phát triển KT-XH lân cận

và vùng ưu tiên đã được xác định.

Bước 3: Đối chiếu và xác định các giá trị tương ứng với các tiêu chí định

hướng phân vùng chức năng sử dụng đất sau KTLT; xác định chỉ số tiêu chí đáp

99

ứng CTPHMT đa mục tiêu để phân tích, lựa chọn vùng CTPHMT có cùng các vấn

đề cần giải quyết nhằm xác lập định hướng vùng CTPHMT. Định hướng chức năng

sử dụng đất của vùng CTPHMT theo một định hướng chung, đáp ứng mục đích của

công tác CTPHMT. Chỉ số CTPHMT tổng hợp là tích hợp của các giá trị định

lượng của các tiêu chí CTPHMT đáp ứng tương ứng và là trung bình cộng của tất cả

các chỉ số đánh giá theo các tiêu chí đánh giá kết quả công tác CTPHMT đã được

xác định.

Bước 4: Kết hợp các vùng có cùng chỉ số phục hồi môi trường tổng hợp để xác

định các vùng có cùng định hướng phân vùng chức năng sử dụng đất sau KTLT của

vùng CTPHMT;

Bước 5: Quy ước màu sắc các vùng có cùng định hướng phân vùng chức năng

sử dụng đất sau KTLT của vùng CTPHMT và xây dựng bản đồ vùng CTPHMT có

định hướng phân vùng chức năng sử dụng đất điển hình sau KTLT.

b. Thực hiện các bước xác định các định hướng phân vùng CTPHMT đa chức

năng sử dụng đất sau KTLT

(1). Các tiêu chí phân vùng CTPHMT

Trên cơ sở xem xét về điều kiện kinh tế, môi trường của khu vực lân cận mỏ,

quy mô và phân bố các cơ sở KTLT và thực trạng vấn đề môi trường, cùng với việc

bám sát các nguyên tắc đề xuất nêu trên và nội dung của Quyết định số 18/2012/QĐ

-TTg (quy định về lập, phê duyệt, kiểm tra, xác nhận dự án CTPHMT và ký quỹ

CTPHMT đối với hoạt động khai thác khoáng sản), NCS đã thực hiện cụ thể hóa

đối với các mỏ than KTLT vùng HG-CP và đề xuất các tiêu chí phân vùng như sau:

Tiêu chí 1: Tính đồng nhất về điều kiện tự nhiên (địa hình, địa mạo; địa chất

và cảnh quan; hệ sinh thái,…).

Đây là tiêu chí đầu tiên và là điều kiện cơ bản để quyết định vùng CTPHMT

mỏ than KTLT. Với tiêu chí này, cần đánh giá xem khu vực đó được bố trí ở vùng

có mức độ CTPHMT như thế nào?

- Hệ sinh thái: nhóm hệ sinh thái tự nhiên trên đất; hệ sinh thái nhân tác,…

- Tài nguyên sinh vật; tài nguyên nhân tạo (động, sinh vật tự nhiên,…).

100

- Địa hình: sông suối, địa hình tương đối bằng phẳng; dốc thoải; dốc lớn,…

- Địa mạo: đặc điểm địa mạo.

Tiêu chí 2: Sự phù hợp với điều kiện KT-XH vùng liên quan.

Tiêu chí này đánh giá xem khu vực đó được bố trí ở vùng tiếp giáp và lân cận

với vùng liên quan có mức độ môi trường nhạy cảm thế nào? có tình hình phát triển

kinh tế ra sao? việc CTPHMT có thiết thực, có tương thích và hỗ trợ cho sự phát

triển trong tương lai hay không? Do đó, việc phân vùng CTPHMT phải mang tính

khả thi trên cơ sở phân tích, đánh giá nguồn và khả năng thực hiện, phù hợp, tương

thích với các biến động về KT-XH-MT. CTPHMT phải căn cứ vào chiến lược phát

triển ngành Than nói chung và phát triển các mỏ than KTLT nói riêng, cũng như

quy hoạch sử dụng đất của địa phương.

Đây là chỉ tiêu quan trọng, tuy nhiên có thể có hai vùng CTPHMT kề cận với

các vùng khác nhau, tương đối đồng nhất về điều kiện tự nhiên, hệ sinh thái, song

yếu tố phát triển lại khác nhau.

Tiêu chí 3: Sự phù hợp với quy hoạch và hiện trạng phát triển ngành.

Nhiều ngành công nghiệp tuy phát sinh ra các dòng thải không mang tính độc

hại cao nhưng nếu có quy mô lớn thì cũng gây nguy hiểm đáng kể cho môi trường.

Do đó, tiêu chí này sẽ xem xét ảnh hưởng của quy mô CTPHMT phù hợp với quy

hoạch liên quan đến việc sử dụng đất đai; quy hoạch phát triển vùng, ngành, lĩnh

vực, phù hợp với các điều kiện KT-XH.

Tiêu chí 4: Sự phù hợp với quan điểm phát triển của cộng đồng địa phương

thông qua các kết quả tham khảo ý kiến của các chuyên gia về kinh tế, môi trường

và các đơn vị thực hiện.

Đây là tiêu chí quan trọng, luôn có trong quá trình đánh giá. Để xác định vùng

CTPHMT, phải xem xét trên quan điểm của cộng đồng và phục vụ cho cộng đồng.

Tuy nhiên, tiêu chí này có tính khách quan không cao nhưng lại là tiêu chí được

đánh giá quan trọng vì nó mang tính xác thực cao.

Tiêu chí 5: Xác định mức độ quan trọng về điều chỉnh theo hệ số vùng (xác

định hệ số vùng Kv ở bảng 3.1).

101

Vùng CTPHMT phân bố ở khu vực nào cũng liên quan và ảnh hưởng đến môi

trường xung quanh của khu vực đó. Nếu là khu vực nhạy cảm (tức có nhiều giá trị

khác về du lịch, hay là di sản hoặc là khu đô thị đặc biệt, đông dân,...), thì mức độ

sử dụng đất được lựa chọn để thực hiện CTPHMT sẽ có giá trị cao hơn so với các

khu vực không nhạy cảm.

Do đó, việc lựa chọn theo hệ số vùng cũng không kém phần quan trọng. Vùng

CTPHMT ở các khu vực nhạy cảm sẽ càng được quan tâm nhiều hơn vì các khu

vực này có nhiều mục đích sử dụng đất mang lại hiệu quả và nhiều khả năng đáp

ứng đối với môi trường xung quanh hơn so với các khu vực kém nhạy cảm hơn.

Tiêu chí 6: Hiệu quả về kinh tế.

Việc lựa chọn mô hình để CTPHMT đa mục tiêu mang lại hiệu quả kinh tế và

phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam sẽ giúp cho việc xử lý môi trường,

CTPHMT đạt hiệu quả cao, giảm được chi phí cho CTPHMT,… Các mô hình

CTPHMT được lựa chọn để phát triển kinh tế đồng thời đạt mục tiêu BVMT

thường phải phù hợp với đặc điểm tự nhiên (địa hình, địa chất thủy văn, khí hậu,…)

và các điều kiện KT-XH (mức sống của người dân, mức đầu tư của các doanh

nghiệp, phải phù hợp với điều kiện giao thông, cung cấp điện, khu dân cư, nguồn

lao động,…) của địa phương (trình độ người lao động; khả năng đầu tư, quản lý;

khả năng áp dụng duy trì và phát triển bền vững,…).

(2). Định lượng cho các tiêu chí phân vùng CTPHMT.

* Quy ước tầm quan trọng cho mỗi tiêu chí:

Để thuận tiện và tạo được tính logic cho việc đánh giá, trong trường hợp này sử

dụng việc đánh giá định tính theo thang điểm gắn cho mỗi tiểu vùng để đánh giá

phân vùng [40]. Ở đây, mỗi tiêu chí chính bao gồm nhiều tiêu chí nhỏ và mỗi tiêu

chí nhỏ sẽ được phân loại theo mức độ phù hợp bằng hệ số phù hợp như sau: Rất

phù hợp: 5 điểm; Phù hợp: 3 điểm; Ít phù hợp: 2 điểm; Không phù hợp: 0 điểm.

Các tiêu chí rất quan trọng và quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả đánh

giá, từ đó thấy được tính cấp thiết khi thực hiện CTPHMT nhằm đáp ứng các tiêu

102

chí đó. Các tiêu chí ít quan trọng và đặc biệt là tiêu chí không quan trọng sẽ ít ảnh

hưởng hơn, việc thiếu tiêu chí không quan trọng cũng không gây thay đổi nhiều đối

với điểm đánh giá cho việc phân vùng.

Do đây là phương pháp đánh giá bằng cách lượng hóa, nên tiểu vùng có số

điểm tương đương thì được sát nhập lại và được hiểu là các vùng đó có mức độ

tương đồng theo các tiêu chí đánh giá.

* Phân vùng theo tổng điểm đánh giá qua các tiêu chí đề xuất như sau:

Bước 1: Lựa chọn và xác lập các phân vùng trên cơ sở mục tiêu, nguyên tắc

phân vùng.

Bước 2: Đánh giá phân vùng theo tổng điểm đánh giá qua các tiêu chí đề xuất.

Việc dựa vào tổng điểm để xác lập phân vùng về CTPHMT phù hợp là một phương

pháp logic; tất cả đều được xem xét trên tất cả các yếu tố liên quan, cấu thành và

được quy ra thành định lượng bằng 1 chỉ số (chính là điểm), việc đánh giá phân

vùng sẽ đạt được các mục tiêu chung và cụ thể đã xác định.

Vùng đạt từ 30÷40% tổng điểm tối đa tất cả các tiêu chí: quy định màu vàng,

đã phù hợp nhưng chưa đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí về phân vùng, phải

xem xét điều chỉnh.

Vùng đạt từ 50÷70% tổng điểm tối đa tất cả các tiêu chí: quy định màu xanh

dương, tức đã phù hợp và đáp ứng được tương đối đầy đủ các tiêu chí về phân

vùng, tuy nhiên vẫn phải xem xét điều chỉnh thêm.

a. Vùng đạt từ 70÷100% tổng điểm tối đa tất cả các tiêu chí: quy định màu xanh

lá cây, tức đã phù hợp đáp ứng được cơ bản các tiêu chí về phân vùng.

Bước 3: Phân tích và lựa chọn điều chỉnh định hướng phân vùng theo đánh giá

qua các tiêu chí đề xuất và minh chứng sự lựa chọn bằng phương pháp kỹ thuật

đánh giá đa chỉ tiêu bằng trung bình tuyến tính theo bậc (Multi-criteria-evaluation

and Ordered weighted averaging, MCE - OWA), bao gồm những bước sau:

- Xây dựng các bản đồ độ thích nghi của từng yếu tố (chức năng vùng) ở khuôn

dạng kiểu byte (bằng kỹ thuật MCE-WLC).

103

- Xác định trọng số (tầm quan trọng) của từng yếu tố. Trọng số của các yếu tố

có thể được cố định bằng các kỹ thuật thống kê khác nhau hoặc bằng các phép đo;

người quyết định chọn trọng số một cách chủ quan dựa vào những kinh nghiệm và

hiểu biết nào đó hoặc dựa vào bộ phiếu phỏng vấn từ cư dân, chính quyền địa

phương. Ma trận Saaty thường được sử dụng rộng rãi để hỗ trợ cho việc xác định

điểm yếu tố [32].

- Sử dụng nguyên lý véctơ riêng (egeint vecto) trong toán học ma trận, nhằm

xác định các trọng số của từng yếu tố.

Bước 4: Kết quả phân vùng được thể hiện rõ qua việc sử dụng công nghệ GIS.

Định hướng phân vùng CTPHMT theo đánh giá qua các tiêu chí đề xuất là vấn đề

hết sức quan trọng và có ý nghĩa lớn trong công tác quản lý, dự báo xu thế diễn

biến chất lượng CTPHMT, từ đó giúp xây dựng các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm,

quản lý và BVMT (CTPHMT). GIS ngày càng được nghiên cứu và áp dụng rộng

rãi trong các lĩnh vực quản lý tài nguyên thiên nhiên, quản lý môi trường, đánh giá

diễn biến, giám sát và dự báo về sự biến đổi chất lượng môi trường. Cơ sở dữ liệu

được tổ chức theo cấu trúc kiểu quan hệ trong phần mềm Mapinfo và được tính

toán, phân tích, nội suy bởi phần mềm Vertical Mapper và được chuyển về cùng cơ

sở toán học theo lưới chiếu VN 2000 [02].

Việc phân tích, xác lập qui trình thực hiện định hướng phân vùng chức năng sử

dụng đất của vùng CTPHMT cho các khu vực khai thác mỏ than KTLT theo các

bước nêu trên được thể hiện chi tiết tại phần 1.1, 1.2 - Phụ lục 1.

3.3.7. Dự kiến kết quả mô hình định hướng vùng chức năng CTPHMT phục

vụ công tác quản lý CTPHMT cho một số mỏ than KTLT tại vùng Hòn Gai

a. Phân tích lựa chọn, dự báo định hướng các vùng CTPHMT tại Hòn Gai

Trên cơ sở phân tích, đánh giá về điều kiện KT-XH (chi tiết được thể hiện tại

phần 1.3 - Phụ lục 1), NCS khái quát về việc phân tích lựa chọn dự báo định hướng

các vùng CTPHMT tại Hòn Gai như sau:

Vùng khai thác than lộ thiên lân cận vùng dân cư, đô thị và vùng du lịch trọng

điểm - Thành phố Hạ Long có tốc độ tăng trưởng GDP khá cao, bình quân hàng

104

năm đạt trên 10%. Cơ cấu kinh tế có sự biến chuyển mạnh mẽ, đến nay đã phát triển

trở thành một trong những trung tâm du lịch, thương mại, dịch vụ, công nghiệp của

tỉnh Quảng Ninh và cả nước. Ngành du lịch tại Quảng Ninh đang phát triển trở

thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trong dự thảo “Chiến lược phát triển cho các thành

phố loại vừa (CDS) tại Việt Nam do nhóm tư vấn thuộc Viện Quy hoạch Đô thị

Nông thôn, Bộ Xây dựng và Ngân hàng Thế giới thực hiện, thành phố Hạ Long sẽ

trở thành trung tâm công nghiệp, cảng biển - dịch vụ, một địa chỉ hấp dẫn đầu tư về

du lịch, có môi trường sống và cơ sở hạ tầng đạt tiêu chuẩn quốc tế, là hình ảnh tiêu

biểu về sự hài hoà giữa văn hoá, thiên nhiên và con người vào năm 2020.

Do vậy, các định hướng chức năng CTPHMT ở vùng Hòn Gai như sau:

- Việc mở rộng diện tích đất đô thị thành phố Hạ Long là điều cần thiết, tuy

nhiên, các dự án lấn biển với mục tiêu mở rộng diện tích đã đến mức tới hạn. Vì

vậy, cần hình thành những khu đô thị mới, khu dân cư tập trung tại các khu vực kết

thúc khai thác mỏ. Nếu không quan tâm ngay từ bây giờ thì sẽ mất đi nguồn lợi

kinh tế lớn và sau này muốn CTPHMT thành khu đô thị sẽ phải đầu tư thêm nhiều

kinh phí để phá bỏ và cải tạo một số công trình CTPHMT đã thực hiện từ trước.

Trên mặt bằng các khu vực kết thúc KTLT ở lân cận khu đô thị tập trung ở Hạ

Long, hiện nay vẫn chưa chú ý đến việc dành các không gian nhất định cho việc mở

rộng khu đô thị, khu du lịch công nghiệp, tạo cảnh quan và mối liên hệ với biển (lợi

thế của vùng HG-CP) để tạo ra không gian sinh thái cho đô thị mới, khu vui chơi

giải trí, phục vụ du lịch công nghiệp tại các khu vực kết thúc KTLT.

Xử lý chất thải rắn của hoạt động KTLT là một vấn đề lớn trước khi thực hiện

việc đổ thải cần phải được chú ý ngay từ khi thiết kế ban đầu (tạo cảnh quan hay tạo

mặt bằng tạo quỹ đất), vì nếu không chú ý, khi diện tích bãi thải tăng lên và phát

triển không theo định hướng sẽ gây ra khó khăn cho công tác phục hồi đất sau này.

Về lâu dài trong bối cảnh phát triển kinh tế, phát triển đô thị trên diện tích hẹp như

ở khu vực Hạ Long thì những cố gắng đầu tư CTPHMT với tầm nhìn quá hạn hẹp

như hiện nay sẽ trở nên vô ích và quá lãng phí. Tất cả các hạng mục CTPHMT đều

phải được xem xét kỹ càng và tận dụng lợi thế của vùng. Điều này cần được chú ý

105

và quán triệt cho việc CTPHMT các mỏ than KTLT của vùng HG-CP nói riêng và

toàn tỉnh Quảng Ninh nói chung.

Các bãi thải sẽ tiếp tục là nguy cơ tiềm ẩn gây trượt lở, gây bồi lắng long suối,

làm tăng nồng độ đục và chất rắn lơ lửng tại vùng cửa biển. Do vậy, cần phải áp

dụng các biện pháp kỹ thuật để giảm thiểu và triệt tiêu các tai biến gây trượt lở, gây

bồi lắng lòng suối.

Việc CTPHMT nhằm hỗ trợ BVMT, nhất là môi trường du lịch sinh thái ở vịnh

Hạ Long là vấn đề phát triển chiến lược cho vùng phụ cận thành phố Hạ Long với

Di sản thiên nhiên Thế giới - Vịnh Hạ Long, cũng như ở thành phố Cẩm Phả với

vịnh Bái Tử Long và vườn quốc gia Bái Tử Long, cần được định đoạt từ những

người quản lý CTPHMT các mỏ than KTLT ngay từ ngày hôm nay.

b. Các vùng CTPHMT với các chức năng dự kiến

Trên cơ sở đó, các vùng CTPHMT tại Hòn Gai được hình thành với các chức

năng dự kiến như sau:

(1). Vùng CTPHMT tạo thành khu vực phát triển cảnh quan lâm nghiệp nhằm

BVMT vịnh Cửa Lục; bảo vệ đất nông nghiệp vùng hạ lưu bải thải Nam Lộ Phong

và Hồ Khe Cá; bảo vệ môi trường khu dân cư lân cận (gọi tắt là vùng HG1).

Các vấn đề BVMT quan trọng cần quan tâm trong khu vực này bao gồm:

- BVMT vịnh Cửa Lục; BVMT khu dân cư, phòng tránh tai biến trượt lở đất;

giảm thiểu xói mòn đất gây suy thoái tài nguyên đất nông nghiệp lân cận bãi thải

Nam Lộ Phong, bồi lắng lòng hồ Khe Cá.

- BVMT đất, nước, không khí ở các khu vực bãi thải. Hiện nay, hoạt động khai

thác than đã làm cho cảnh quan và môi trường bị biến đổi lớn, việc đổ thải đã tạo

lên các bãi thải thải lớn. Bãi thải Nam Lộ Phong nằm sát đường 18A,... nhưng chưa

được đảm bảo an toàn. Nhiều vấn đề bức xúc chưa được quan tâm giải quyết một

cách quyết liệt; hiệu quả xử lý nước thải mỏ, đất đá trôi từ các khai trường, bãi thải

cũng như xử lý bụi trên các tuyến đường có hoạt động vận chuyển than chưa cao đã

làm ảnh hưởng lớn đến đời sống, sinh hoạt, sức khỏe của nhân dân.

106

(2). Vùng CTPHMT tạo thành khu vực dân cư, du lịch công nghiệp, phát triển

khu vui chơi giải trí (sân golf) phục vụ du lịch công nghiệp, hành lang cây xanh,

cảnh quan cách ly khai thác hầm lò với khu dân cư (gọi tắt là vùng HG2).

Đây là khu vực có hoạt động khai thác than lộ thiên và hầm lò của Công ty CP

Than Núi Béo và Hà Tu, có quy mô công nghiệp, khá hiện đại; khu vực khai thác

với địa hình đa dạng, rộng trên 300ha; cách quốc lộ 18 B (300m) và quốc lộ18A

(1km) và lân cận khu dân cư trọng điểm có tiềm năng kết nối với loại hình du lịch

khác trong tỉnh. Do vậy, vùng đất này khi kết thúc KTLT có khả năng tạo thành khu

dân cư, khu du lịch công nghiệp với bảo tàng khai thác lộ thiên và hầm lò tự nhiên

và nhân tạo; tạo thành sân golf, khu ngắm vịnh Hạ Long thơ mộng và khu vui chơi

giải trí, phục vụ du lịch công nghiệp.

Các vấn đề CTPHMT quan trọng cần được quan tâm ở vùng này bao gồm:

- BVMT do ảnh hưởng của cảnh quan khu vực đến hoạt động du lịch trên Vịnh

Hạ Long.

- BVMT không khí, nước từ hoạt động sàng tuyển than của cảng Nam Cầu

Trắng và tuyến đường vận chuyển than từ các mỏ Núi Béo, Hà Lầm, Hà Tu ra cảng

Nam Cầu Trắng (Khu vực phường Hồng Hà, Hà Tu, Hà Lầm, Hà Phong).

- Trồng rừng cây xanh tạo cảnh quan cách ly khu vực sản xuất than hầm lò của

Công ty Than Núi Béo, Hà Lầm để BVMT khu dân cư, tạo cảnh quan cho khu du

lịch công nghiệp lân cận.

- Việc mở rộng diện tích thành phố Hạ Long với việc hình thành khu du lịch

công nghiệp với bảo tàng tự nhiên và nhân tạo các mỏ khai thác lộ thiên và hầm lò;

tạo thành sân golf; khu ngắm vịnh Hạ Long thơ mộng và khu vui chơi giải trí, phục

vụ du lịch công nghiệp và cộng đồng dân cư lân cận.

(3). Vùng CTPHMT nhằm phát triển lâm nghiệp và BVMT lưu vực sông Diễn

Vọng - Vịnh Cửa Lục; hành lang cây xanh tạo cảnh quan cách ly khu vực khai thác

hầm lò với khu dân cư và BVMT cảnh quan khi nhìn từ Cầu Bãi Cháy (gọi tắt là

vùng HG3).

107

Vùng này có các bãi thải cao chiếm ưu thế với độ cao tuyệt đối từ 200÷300m,

đỉnh rộng, sườn dốc trung bình 28o, sườn thải có nhiều rãnh phân cắt sâu vào sườn

thải 1,5÷20m. Dân cư tập trung đông đúc dọc các tuyến quốc lộ và hạ lưu các con

suối: Suối Lại, Hà Lầm và Hà Trung.

Lân cận là khu đô thị phát triển trên thềm biển mài mòn cao 10÷30m, nghiêng

thoải về phía biển, bị phân cắt yếu tạo địa hình gò thoải. Phía nam là địa hình bãi

triều nghiêng thoải về phía biển, độ cao 0,5÷1,5m, cấu tạo bởi bùn sét màu xám

đen; khu vực cửa các khe suối, các máng thoát nước có lẫn nhiều vật liệu thô như

mảnh dăm sét than, sét bột kết. Rừng ngập mặn kém phát triển do các hoạt động

phát triển kinh tế. Phía tây là huyện Hoành Bồ, phía đông là khu đô thị và công

nghiệp than và nhà máy nhiệt điện Hà Khánh,... Hoạt động lấn biển lấy không gian

phát triển đô thị Hà Khánh A, B, C và D đang diễn ra nhanh chóng.

Bên cạnh đó, vấn đề nguy cơ tiềm ẩn về sạt lở, tai biến của các bãi thải trong

vùng khai thác than lộ thiên trên lưu vực vịnh Cửa Lục cũng cần phải được xem xét,

giải quyết trong việc CTPHMT.

Các vấn đề CTPHMT cần quan tâm ở vùng này là:

- Phòng ngừa nguy cơ trượt lở và lũ bùn đá do đất đá thải; ngăn ngừa, giảm thiểu

xói mòn đất bằng cách bảo vệ phủ thực vật đã có; ngăn ngừa tai biến sạt lở đất tại bãi

thải; rửa trôi bãi thải, đe dọa bồi lắng vịnh Cửa Lục và các cụm dân cư lân cận.

- Trồng rừng cây xanh cách ly khu vực sản xuất than hầm lò của Công ty Than

Núi Béo để BVMT khu dân cư, tạo cảnh quan cho khu du lịch công nghiệp lân cận.

- Việc mở rộng diện tích thành phố Hạ Long với việc hình thành khu du lịch

công nghiệp với bảo tàng khu khai thác lộ thiên và hầm lò; tạo thành sân golf; khu

ngắm vịnh Hạ Long thơ mộng và khu vui chơi giải trí phục vụ du lịch công nghiệp

và cộng đồng dân cư lân cận.

Vùng CTPHMT tạo thành khu vực nhằm BVMT khu dân cư; bảo vệ đất nông

nghiệp vùng hạ lưu bải thải Nam Lộ Phong và Hồ Khe Cá, cụ thể như sau:

108

- BVMT khu dân cư, phòng tránh tai biến trượt lở đất, giảm thiểu xói mòn đất

gây suy thoái tài nguyên đất nông nghiệp lân cận bãi thải Nam Lộ Phong, bồi lắng

lòng hồ Khe Cá.

- BVMT không khí, nước từ hoạt động sàng tuyển than của cảng Nam Cầu

Trắng, tuyến đường vận chuyển than từ các mỏ Núi Béo, Hà Lầm, Hà Tu ra cảng

Nam Cầu Trắng (Khu vực phường Hồng Hà, Hà Tu, Hà Lầm, Hà Phong).

- BVMT đất, nước, không khí ở các khu vực bãi thải. Hiện nay, hoạt động khai

thác than đã làm cho cảnh quan và môi trường bị biến đổi lớn, việc đổ thải đã tạo

lên các bãi thải thải lớn. Bãi thải Nam Lộ Phong nằm sát đường 18A,... nhưng chưa

được đảm bảo an toàn. Nhiều vấn đề bức xúc chưa được quan tâm giải quyết một

cách quyết liệt, hiệu quả như xử lý nước thải mỏ, đất đá trôi từ các khai trường, bãi

thải cũng như xử lý bụi trên các tuyến đường có hoạt động vận chuyển than chưa

cao đã gây ảnh hưởng lớn đến đời sống, sinh hoạt, sức khỏe của nhân dân.

Tóm lại, dự kiến định hướng phân vùng CTPHMT cho các nhóm mỏ than KTLT

vùng Hòn Gai như sau (Hình 3.2-3.4).

a) Vùng HG1: bao gồm phần lớn khai trường, bãi thải mỏ phần phía Bắc và

Đông Nam mỏ Hà Tu; Lộ vỉa +110 Tân Lập.

b) Vùng HG2: bao gồm khai trường, bãi thải mỏ Núi Béo và một phần khai

trường, bãi thải mỏ phần phía Tây Nam, mỏ Hà Tu.

c) Vùng HG3: bao gồm phần khai thác lộ vỉa của Xí nghiệp than Thành Công;

Cao Thắng (đã kết thúc khai thác); phần khai thác lộ thiên của Xí nghiệp than 917;

phần khai thác lộ vỉa mỏ Hà Lầm.

3.4. Kết luận chương

Công tác CTPHMT theo định hướng phân vùng cho các mỏ than KTLT vùng

HG-CP có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của vịnh Hạ Long và Bái

Từ Long, là sự hỗ trợ phát triển không gian xanh và sự phát triển KT-XH khu vực.

Chỉ khi công tác CTPHMT được quan tâm, quản lý theo các giải pháp quản lý

hành chính và kỹ thuật tổng hợp ngay từ giai đoạn thiết kế và khai thác mở rộng

109

theo định hướng phân vùng CTPHMT, thì việc CTPHMT mới có thể cho kết quả

CTPHMT theo định hướng xác định.

Việc tổ chức quản lý hành chính và kỹ thuật CTPHMT theo phân vùng chức

năng, sử dụng tài nguyên đất hợp lý trên cơ sở công cụ ĐMT sẽ xác định được vùng

ưu tiên, định hướng phân vùng CTPHMT (vùng CTPHMT đa mục tiêu và thông

thường); nguồn kinh phí ký quỹ CTPHMT phải được ưu tiên sử dụng cho các mỏ

than tiếp giáp và lân cận các vùng phát triển kinh tế, vùng bảo vệ,… Kết quả thực

hiện phải đáp ứng được các tiêu chí về CTPHMT đa mục tiêu theo định hướng

chung để phục vụ cho phát triển kinh tế và BVMT và tạo ra điểm nhấn về kết quả

CTPHMT bền vững cho nhiều thế hệ trong tương lai.

Việc thực hiện các giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả CTPHMT trên cơ sở

nguồn lực và kinh phí tập trung cho công tác CTPHMT của các hoạt động khoáng

sản than sẽ tạo ra các vùng đất với cảnh quan mới phục vụ cộng đồng như khu du

lịch công nghiệp, khu sân golf và khu công viên giải trí phục vụ cộng đồng dân sinh

lân cận vùng mỏ và phát triển kinh tế xanh như một sự đền bù xứng đáng cho các

thế hệ tương lai của người dân từng sống trong sự ảnh hưởng xấu do hoạt động khai

thác than lộ thiên gây ra trong một thời gian dài.

110

Hình 3.2: Sơ đồ vị trí, ranh giới một số mỏ than KTLT vùng Hòn Gai

111

Hình 3.3: Sơ đồ phân vùng chức năng sử dụng đất CTPHMT cho một số mỏ than KTLT vùng Hòn Gai (dự kiến)

112

Hình 3.4: Sơ đồ phối cảnh kết quả CTPHMT của một số mỏ than KTLT vùng Hòn Gai (dự kiến).

113

CHƯƠNG IV

NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP KỸ THUẬT CẢI TẠO

VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG CHO CÁC MỎ

KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN VÙNG HÒN GAI - CẨM PHẢ

4.1. Định hướng công tác kỹ thuật CTPHMT

CTPHMT được thực hiện ngay trong quá trình khai thác khoáng sản cho mỗi

dạng mỏ nhằm phục vụ định hướng chức năng sử dụng đất sau CTPHMT cho tổng

thể nhiều mỏ nằm trong khu vực khai thác liên mỏ được định hướng như sau:

- Tiếp tục thực hiện kỹ thuật cải tạo khai trường KTLT, bãi thải, lồng ghép với

quá trình khai thác đảm bảo an toàn; ổn định bờ mỏ; cải tạo bãi thải có hình dạng

đáp ứng cho công tác CTPHMT đa mục tiêu (khi khu vực mỏ thuộc vùng ưu tiên

với định hướng CTPHMT đa mục tiêu).

- Phục hồi môi trường đất nhằm sử dụng cho các mục tiêu của vùng nếu được

định hướng là công tác CTPHMT đa mục tiêu.

- Phục hồi môi trường sinh thái nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tạo

chuyển biến rõ nét để khắc phục tình trạng suy thoái môi trường; cải thiện và nâng

cao chất lượng môi trường khu vực mỏ than KTLT và khu lân cận.

- Bảo vệ, khai thác và sử dụng tiết kiệm, hợp lý các nguồn tài nguyên đất của

vùng HĐKS than đã kết thúc khai thác.

- Nâng cao ổn định bờ mỏ nhằm nâng cao khả năng ứng phó và hạn chế tác

động xấu của thiên tai, sự biến đổi khí hậu bất lợi đối với môi trường; ứng cứu và

khắc phục có hiệu quả sự cố ô nhiễm môi trường do thiên tai gây ra tại khu vực đã

kết thúc KTLT.

Hiện nay, việc lập đề án CTPHMT đối với các dự án khai thác khoáng sản đã

được quy định tại Quyết định số 18/2013/CP-TTg ngày 29/3/2013 của Thủ tướng

Chính phủ quy định về CTPHMT và ký quỹ CTPHMT đối với hoạt động khai thác

khoáng sản và Thông tư 34/2009/TT-BTNMT ngày 31/12/2009 của Bộ TNMT quy

114

định về lập, phê duyệt, kiểm tra, xác nhận dự án CTPHMT và ký quỹ CTPHMT đối

với hoạt động khai thác khoáng sản.

Tuy nhiên, các văn bản trên chỉ là các hướng dẫn chung về CTPHMT cho các

hoạt động khai thác khoáng sản như khai thác than hầm lò, KTLT, khai thác đá,...

Các giải pháp kỹ thuật để thực hiện CTPHMT có liên quan đến nhiều lĩnh vực

như: khai thác mỏ than lộ thiên (trong các công tác CTPHMT như gia cố và ổn định

bờ tầng kết thúc khai thác và bờ bãi thải,...); xây dựng (trong việc xây kè chắn chân

bãi thải, xây hệ thống thoát nước,...); lâm, nông nghiệp (trong kỹ thuật cải tạo đất,

trồng cây gây rừng,...),… theo định hướng của đề án CTPHMT.

Mặt khác, các hướng dẫn kỹ thuật chuyên ngành đối với các lĩnh vực liên quan

cũng là hướng dẫn chung cho chuyên ngành (việc khai thác mỏ than KTLT; xây

dựng công trình, kiến trúc dân dụng; trồng cây lâm, nông nghiệp) chứ chưa có

hướng dẫn riêng, phù hợp với các khai trường mỏ lộ thiên đã kết thúc khai thác

được CTPHMT, ví dụ: bờ mỏ, bãi thải của mỏ lộ thiên chưa đáp ứng được các yêu

cầu như bản thiết kế khai thác; việc xây dựng với kết cấu chịu lực hay trên nền công

trình có nguy cơ trượt lở cao; việc trồng cây trên nền đá gốc, nền bãi thải trong môi

trường đất với tỷ lệ đất và đá không đồng đều, lượng đá lớn, lượng đất mùn hầu như

không có,...

Việc định hướng các giải pháp CTPHMT cho các mỏ than KTLT có vị trí lân

cận các khu đô thị trọng điểm của vùng HG-CP, phục vụ việc thực hiện CTPHMT

trên mỗi cụm mỏ (trong quá trình hoạt động và sau khi kết thúc khai thác), nhằm

giảm thiểu các ảnh hưởng xấu tới môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế là vấn đề

cấp bách hiện nay.

Do đó, việc nghiên cứu giải pháp kỹ thuật CTPHMT tổng thể và cụ thể cho

mỗi một dạng mỏ trong tập hợp nhiều mỏ than KTLT liền kề và đề xuất các giải

pháp CTPHMT với các nhà quản lý hoạch định chính sách, các giải pháp CTPHMT

cho khu vực kết thúc KTLT tại vùng HG-CP trong thời gian tới là một vấn đề có

tính khoa học và thực tiễn.

115

4.2. Các dạng biến đổi địa hình do KTLT gây ra

4.2.1. Các dạng biến đổi địa hình khai trường mỏ lộ thiên

Trong điều kiện thực tế của các mỏ than KTLT, sau khi kết thúc hoạt động khai

thác mỏ, địa hình mặt đất nguyên thủy bị biến đổi và thường có các dạng sau:

a. Dạng khai trường mỏ biến đổi lớn: địa hình khu vực khai thác bị biến đổi

lớn hoặc rất lớn, để lại hố sâu và đất đá thải làm thay đổi đáng kể địa hình khu vực.

Loại biến đổi này thường xảy ra khi khai thác các mỏ than lộ thiên có dạng như mỏ

than 917, mỏ Bàng Nâu,… (Hình 4.1).

Hình 4.1: Sơ đồ địa hình khai thác để lại hố sâu moong khai thác

b. Dạng khai trường mỏ có biến đổi: địa hình khu vực khai thác có bị biến đổi

nhưng sau đó được hoàn trả một phần hoặc gần về trạng thái ban đầu. Loại biến đổi

này thường xảy ra khi khai thác nhiều mỏ kề nhau (ví du, mỏ than Núi Béo, khai

trường Tay Phay K mỏ Hà Lầm và mỏ Hà Tu) hoặc khoáng sàng có vỉa kéo dài (mỏ

Tây Nam Đá Mài). Dạng khai trường này thường được khai thác theo hình thức

cuốn chiếu, dùng khu vực khai thác trước làm bãi thải cho khu vực khai thác sau

(Hình 4.2-4.6).

Hình 4.2: Sơ đồ khai thác vỉa Hình 4.3: Sơ đồ địa hình đáy khai

kéo dài, kết thúc từng khu vực trường khi khai thác vỉa kéo dài, kết

làm bãi thải trong thúc từng khu vực làm bãi thải trong

116

Hình 4.4: Sơ đồ khai thác các Hình 4.5: Sơ đồ địa hình đáy các

khai trường liền kề, khai trường khai trường liền kề, khai trường kết

kết thúc trước sẽ làm bãi thải cho thúc trước sẽ làm bãi thải cho

khai trường kết thúc sau khai trường kết thúc sau

Hình 4.6: Sơ đồ sử dụng bãi thải tạm

và bãi thải trong đối với mỏ có nhiều động tụ

4.2.2. Các dạng bãi thải mỏ lộ thiên

Hiện nay các mỏ than KTLT chủ yếu đều sử dụng hệ thống bãi thải ngoài với

công nghệ đổ thải sử dụng ô tô - máy ủi. Phương thức đổ thải chủ yếu là phương

thức đổ thải bãi thải một tầng (bãi thải cao) và bãi thải nhiều tầng (tầng thấp) [25].

Đổ thải theo phương thức bãi thải một tầng và bãi thải nhiều tầng có các ưu -

nhược điểm được thống kê trong bảng 4.1.

117

Bảng 4.1: So sánh công tác đổ thải theo các phương thức đổ bãi thải

TT Danh mục Một tầng thải Nhiều tầng thải

Nhỏ hơn 1 Diện tích chiếm đất Lớn hơn

Trong đó: W - khối Trong đó: W - khối

lượng đất đá cần thải, m3; Kr - hệ số nở rời của đất đá trong bãi lượng đất đá cần thải, m3; Kr - hệ số nở rời của đất đá trong bãi

thải, Kr = 1,15÷1,4; h - thải, Kr = 1,15÷1,4; h1

chiều cao của bãi thải, - chiều cao của tầng

m. thải đầu tiên (tầng

dưới cùng), m; ƞi - hệ

số sử dụng diện tích

của tầng thải thứ i; hi -

chiều cao của tầng

thải thứ i; n - số tầng

thải.

2 Chi phí Chi phí vận tải, san gạt Chi phí vận tải, san

thấp hơn gạt cao hơn

3 Độ ổn định bờ mỏ Độ ổn định thấp Độ ổn định cao

4 Điều khiển được góc Phụ thuộc vào tính chất Không phụ thuộc vào

dốc bãi thải đất đá; không điều tính chất đất đá; điều

khiển được góc dốc bãi khiển được góc dốc

thải. bãi thải.

5 Góc dốc bãi thải Theo thực tế; chiều cao Điều khiển được góc

khoảng 2/3 chiều cao

118

bãi thải (tính từ) mặt dốc bãi thải từ 30o

bãi thải; sườn bãi thải

có góc dốc khoảng 50÷60o; phần còn lại

của sườn bải thải có

góc dốc nhỏ hơn hoặc

bằng với góc đổ tự nhiên của đất đá (30o).

6 Mức độ rửa trôi Lớn hơn (do bờ dốc dài Nhỏ (do có bờ phân

và chiều cao lớn tầng và sườn tầng với

(50÷240m); làm tăng chiều cao nhỏ hơn

khả năng rửa trôi khi 20÷30m; các tầng thải

mưa. như các bậc tiêu năng

nên khả năng rửa trôi

khi mưa thấp hơn.

7 Nguy cơ sạt lở đất Cao Thấp

8 Thời gian cải tạo Lớn hơn do phải cải tạo Nhỏ hơn do không

thành tầng thấp. phải cải tạo thành

tầng thấp.

Trong điều kiện thực tế, khi đổ thải theo các phương thức nêu trên tại các mỏ

than KTLT, sau khi kết thúc hoạt động đổ thải, địa hình bề mặt nguyên thủy bị biến

đổi và thường có các dạng sau:

- Dạng núi bãi thải: làm thay đổi lớn địa hình khu vực, có cao độ vượt các dãy

núi tự nhiên. Loại biến đổi này thường xảy ra khi khai thác các mỏ than lớn như mỏ

than Hà Tu, Núi Béo, Đèo Nai, Cọc Sáu, Cao Sơn,… với khối lượng đất đá thải lớn

đã tích lũy hàng trăm năm.

119

- Dạng bãi thải đồi thấp: làm thay đổi đáng kể địa hình khu vực. Loại biến đổi

này thường xảy ra khi khai thác các mỏ than có quy mô và thời gian khai thác nhỏ

hơn như khai trường mỏ than 917, mỏ Hà Lầm, Khe Sim, Bàng Nâu,.…

- Dạng bãi thải trong khai trường mỏ đã khai thác: có biến đổi, làm cải tạo đáng

kể địa hình khu vực. Loại biến đổi này thường xảy ra khi khai thác các mỏ than dốc

thoải, các khu vực khai thác lân cận nhau và có bố trí lịch khai thác hợp lý để đất đá

thải của mỏ này đổ vào mỏ khác. Ví dụ, mỏ Tây Nam Đá Mài và mỏ Núi Béo khi

kết thúc khai thác sẽ là bãi thải cho mỏ Hà Tu; khai trường Tả Ngạn mỏ Cọc Sáu là

sẽ bãi thải cho mỏ Đèo Nai,...

4.3. Đề xuất các phương án CTPHMT

4.3.1. Phương án CTPHMT đối với khai trường

4.3.1.1. Đối với khai trường mỏ thuộc dạng biến đổi lớn

- CTPHMT ở những mỏ than KTLT mà khai trường sau khi kết thúc khai thác còn lại là những moong lớn với dung tích hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu m3

(điển hình là các mỏ than KTLT tại vùng HG-CP,…). Những moong lớn như vậy

việc lấp đầy sau khi kết thúc khai thác là rất khó khả thi (trừ trường hợp chúng được

sử dụng làm bãi thải trong ngay trong quá trình khai thác). Phương thức phục hồi

môi trường khả thi nhất ở đây là cải tạo chúng thành các hồ chứa nước và tái tạo hệ

sinh thái dưới nước và vùng xung quanh bờ.

- CTPHMT ở những mỏ than KTLT nằm trên các sườn núi, xa khu dân cư và

khuất tầm nhìn từ đường quốc lộ, ví dụ mỏ than Bàng Nâu, Tây Nam Đá Mài; các

lộ vỉa KTLT của mỏ than Dương Huy, Quang Hanh. Phương thức phục hồi môi

trường được lựa chọn ở đây là không cải tạo địa hình mà chỉ trồng cây phủ xanh

phù hợp với địa hình và khí hậu khu vực.

- Cần CTPHMT để đưa khu mỏ KTLT đã kết thúc khai thác (sau đây gọi là khu

mỏ cũ) về trạng thái ổn định; cải tạo địa hình ở mức độ cần thiết để có thể sử dụng

địa hình còn lại vào các mục đích khác hoặc phủ xanh và tái tạo hệ sinh thái theo

định hướng chức năng sử dụng đất.

120

- Cải tạo các moong khai thác cũ thành hồ chứa nước phục vụ cho hoạt động

công nghiệp (phục vụ việc khai thác hầm lò, công tác sàng tuyển than,… hoặc sinh

hoạt của nhân dân).

4.3.1.2. Đối với khai trường mỏ thuộc dạng có biến đổi

- CTPHMT để biến khu mỏ thành đất xây dựng khu công nghiệp, đất định cư,

công trình phúc lợi như công viên cây xanh, du lịch,... Phương án này có thể áp

dụng khi có nhiều mỏ kề nhau hoặc khi khoáng sàng than có vỉa kéo dài, khai thác

theo hình thức cuốn chiếu, dùng khu vực khai thác trước làm bãi thải cho khu vực

khai thác sau. Do vậy bề mặt địa hình có ít thay đổi, chiều cao không lớn và không

để lại các hố quá sâu.

Trong một số trường hợp, hoạt động KTLT trong vùng có tiềm năng cho hoạt

động du lịch, khu công nghiệp, khu đô thị,... thì phương án sử dụng đất sau khai

thác phải được đặc biệt quan tâm và lồng ghép với các giải pháp công nghệ khai

thác ngay từ khi lập dự án đầu tư khai thác mỏ để hình thành các dạng địa hình của

bãi thải và của hố mỏ theo mục tiêu của vùng chức năng. Việc này sẽ tiết kiệm được

đáng kể chi phí cho hoạt động CTPHMT sau này. Ví dụ, đối với các mỏ than KTLT

lân cận vùng phát triển du lịch Hạ Long, Bái Tử Long như mỏ Núi Béo, sẽ được lấp

đầy bởi đất đá thải của mỏ Hà Tu. Đây là khu vực rộng lớn trên 300 ha, lân cận

vùng dân cư tập trung và có tầm nhìn toàn cảnh vịnh Hạ Long từ trên cao, do đó có

thể xem xét định hướng CTPHMT thành khu du lịch công ngiệp, khu công viên và

khu đô thị kế cận phục vụ du lịch và dân sinh.

- CTPHMT để biến khu mỏ cũ thành đất canh tác, trồng rừng hoặc cây công

nghiệp. Phương án này có thể áp dụng cho trường hợp địa hình ít thay đổi theo chiều

thẳng đứng trên toàn khu vực khai trường cũ và bãi thải của các mỏ than KTLT.

- CTPHMT để đưa khu mỏ cũ về trạng thái an toàn và ổn định. Phương án này

áp dụng cho các khai trường có chiều sâu khai thác lớn, không có khả năng (về mặt

kinh tế hoặc kỹ thuật) lấp đầy moong khi kết thúc khai thác như các moong của một

số mỏ than KTLT kết thúc muộn ở vùng HG-CP.

121

- CTPHMT khai trường cũ bằng cách lấp đầy moong khai thác là phương án

luôn được khuyến cáo ưu tiên lựa chọn hàng đầu. Các phương án lựa chọn khác chỉ

được xem xét đến khi phương án lấp đầy moong không khả thi. Việc lấp đầy moong

khai thác cũ sẽ làm cho khu vực trở nên an toàn khi phía dưới hoặc lân cận còn các

công trình khai thác mỏ khác, đặc biệt đối với những mỏ nằm gần khu dân cư sinh

sống. Đây là giải pháp tích cực nhất, có điều kiện thuận lợi để hoàn trả hoặc tái lập

lại các hệ sinh thái nguyên sinh như trước khi khai thác; đồng thời cho phép chuyển

đổi mục đích sử dụng đất sang công năng khác có hiệu quả hơn. Những lưu ý đối

với phương án này bao gồm:

+ Ngay từ khi lập dự án đầu tư và thiết kế bản vẽ thi công đã phải quan tâm tới

vấn đề lưu giữ đất mặt và đất đá mềm yếu sát vỉa than, đất đá bở rời có điều kiện

thuận lợi cho cây phát triển; lựa chọn vị trí đổ thải đất đá để sau này bóc lại được dễ

dàng và tiết kiệm chi phí xúc chuyển.

+ Nếu phải sử dụng đất từ nơi khác để san lấp moong thì phải xác định cụ thể

nguồn lấy đất (đất đắp và đất mầu), khoảng cách vận chuyển, vấn đề CTPHMT cho

nơi bị lấy đất,...

+ Trước khi san lấp cần thu dọn sạch các phế thải độc hại, gây ô nhiễm như dẻ

lau dầu mỡ, xăm lốp cũ, vỏ ắc qui,...; tuyệt đối không dùng các thứ này để làm vật

liệu san lấp.

+ Việc san lấp được tiến hành theo đúng kỹ thuật yêu cầu (đổ theo từng lớp với

chiều dày từ 20÷30m) như khi thải đất đá ở bãi thải nhằm tăng độ lèn nén và độ ổn

định cho đất đá trong không gian được chèn lấp.

- Khi đáy mỏ kết thúc nằm trên mức thoát nước tự chảy (không tạo thành

moong) thì không nhất thiết phải san lấp mà chỉ cải tạo, phục hồi nhằm trả lại giá trị

sử dụng cho đất. Nội dung cải tạo trong trường hợp này như sau: trước hết, cần tiến

hành cải tạo để đưa khu mỏ về trạng thái an toàn và ổn định (san phẳng các hố sâu,

lồi lõm trên đáy mỏ, cậy bẩy đá treo trên các sườn tầng, đưa bờ mỏ về trạng thải ổn

định); sau đó, tùy theo điều kiện địa hình, mục đích sử dụng đất (theo phân vùng chức

năng), tiến hành cải tạo để thành đất xây dựng công nghiệp, đất định cư, đất dùng cho

122

công trình phúc lợi, du lịch,... hoặc thành đất canh tác, trồng rừng, cây công nghiệp,...

Nếu sử dụng cho mục đích sau cùng (đất canh tác, trồng rừng, cây công nghiệp,...),

thì ngay từ khi lập dự án đầu tư và thiết kế bản vẽ thi công phải quan tâm tới vấn đề

lưu giữ đất mặt và một phần đất đá thải đủ để cho công tác CTPHMT sau này.

- Khi để nguyên moong khai thác cũ và tháo đầy nước làm hồ chứa, thì đây là

giải pháp bất khả kháng (trừ trường hợp đặc biệt, khi địa phương đang cần hồ dự trữ

nước cho khu vực). Nội dung CTPHMT cơ bản trong trường hợp này là phải đảm

bảo được mục tiêu “an toàn tuyệt đối cho người và gia súc”, cụ thể: phải đắp đê bao,

làm hàng rào chắn, cắm biển báo xung quanh hồ. Nếu cần thiết, có thể đào thêm hào

ngăn chạy dọc phía ngoài hàng rào. Phần bờ mỏ lộ trên mực nước, được cải tạo để

đưa về trạng thái ổn định và trồng cây phủ xanh. Hồ chứa nước cần có hệ thống

cống, rãnh để lưu thông nước trong hồ với bên ngoài nhằm cải thiện chất lượng

nước trong hồ.

4.3.2. Phương án CTPHMT đối với bãi thải đất đá

Hầu hết các bãi thải của mỏ than KTLT đều có diện tích và khối lượng đất đá

thải lớn. Tùy theo vị trí và mục đích sử dụng đất (theo chức năng vùng CTPHMT),

mà chúng được tiến hành cải tạo để thành đất xây dựng công nghiệp, đất định cư, đất

dùng cho công trình phúc lợi, du lịch,... hoặc thành đất canh tác, trồng rừng, cây công

nghiệp,... Trong đó, đa phần là sử dụng cho mục đích trồng rừng và cây công nghiệp.

Đối với việc CTPHMT bãi thải, cần quan tâm tới một vấn đề lớn, đó là hiện tượng sụt

lún bãi thải và sạt lở sườn bãi thải. Nội dung CTPHMT các bãi thải bao gồm:

- San gạt bề mặt bãi thải và mặt các tầng thải đối với dạng bãi thải đồi thấp.

Nếu bãi thải có dạng núi bãi thải cao trên 40 m thì phải tiến hành cắt tầng trước khi

tiến hành các công việc cải tạo khác tương tự như dạng bãi thải đồi thấp. Chiều cao

của mỗi tầng thải là 20÷30 m.

- Củng cố góc dốc sườn tầng thải và góc nghiêng bãi thải; xây dựng hoặc gia cố

hệ thống mương, rãnh thoát nước khu vực thải, tuyệt đối không cho nước mưa chảy

tràn qua các sườn dốc tầng thải; xây dựng hoặc gia cố hệ thống kè chân bãi thải; xây

123

đê chắn, chống bùn thải bồi lấp lòng sông, suối và đất đai canh tác vùng hạ lưu; cải

tạo đất, trải đất mầu và trồng và chăm bón cây.

4.3.3. Công tác CTPHMT đa mục tiêu

Các dự án CTPHMT phải đáp ứng đa mục tiêu và phải thỏa mãn được các yêu

cầu sau:

- Đáp ứng các chỉ tiêu kỹ thuật an toàn đối với các mỏ than KTLT (kỹ thuật về

an toàn bờ mỏ, bờ tầng khai thác và bãi thải);

- Đáp ứng hình thái, hình dạng moong khai thác, hình dạng bờ mỏ, bãi thải

mang lại cảnh quan và địa hình hài hòa với cảnh quan xung quanh, phù hợp cho

việc triển khai thực hiện đầu tư các công trình, trồng cây phủ xanh để hoàn thành

CTPHMT đa mục tiêu mà không phải cải tạo hay phá bỏ một số công trình

CTPHMT đã thực hiện lồng ghép trong quá trình khai thác mỏ như đã đề ra trong

quá trình thiết kế mở rộng khai thác và quá trình khai thác mỏ;

- Đáp ứng các kỹ thuật về xây dựng các công trình trên mặt bằng phục vụ mục

đích theo chức năng phân vùng;

- Đáp ứng các kỹ thuật nông, lâm nghiệp và tạo cảnh quan trong việc trồng cây

phục vụ mục đích theo chức năng phân vùng;

- Đáp ứng các chuyên ngành theo chức năng phân vùng sử dụng đất.

4.3.4. CTPHMT bờ mỏ, bãi thải bằng giải pháp lập lại thảm thực vật

Nhiệm vụ chung của công tác phục hồi thảm thực vật bao gồm:

(1). Gây trồng thảm thực vật bậc thấp, phủ kín các sườn bãi thải và bờ mỏ đã

ngừng hoạt động nhằm chống xói lở sườn dốc và dần phục hồi rừng cây gỗ cũng

như điều kiện tự nhiên của khu vực, tiến tới gây trồng các khu rừng cây lấy gỗ, cây

bản địa, tạo cảnh quan hoặc cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế trên bề mặt khai

trường và bãi thải.

(2). Gây trồng các rừng cây ngăn giữ đất đá thải và vùng kế cận tại chân các bãi

thải đang hoạt động nhằm giảm lực phá hoại của các dòng chảy, ngăn giữ đất đá,

chống bồi lấp phá hoại ra các khu vực xung quanh.

124

(3). Xây dựng các đê chắn, mương rãnh tiêu thoát nước xen kẽ, tạo điều kiện

thuận lợi cho thực vật phát triển.

(4). Bảo vệ rừng cây sẵn có lân cận mỏ và bãi thải, nhất là các khu vực gần

chân bãi thải, không để xảy ra cháy thảm thực vật.

Giải pháp CTPHMT áp dụng phổ biến và có hiệu quả đối với bờ mỏ, bề mặt

và sườn bãi thải,... là lập lại thảm thực vật, phủ xanh bề mặt bằng các loại cây trồng.

Đây là biện pháp tốt nhất để làm ổn định khu vực CTPHMT, ngăn ngừa xói mòn

đất, góp phần tạo lại cảnh quan, cải thiện chất lượng môi trường. Các bước tiến

hành bao gồm:

a. Cải tạo đất: Đất đá trên bờ mỏ, bãi thải, mặt bằng sân công nghiệp,... thường

ở dạng đá gốc, nguyên khối hoặc tảng cục có độ cứng cao, bị lèn nén, không đủ các

chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cây cối, do vậy bước đầu tiên của việc lập lại

thảm thực vật là phải tiến hành cải tạo đất.

Nếu là nền đá gốc thì cần đổ thêm một lớp đất thổ nhưỡng dày 20÷30 cm khi

dùng để trồng cỏ, 50÷70 cm khi dùng để trồng cây công nghiệp (keo, thông, bạch

đàn, cây bản địa,...) và 70÷150 cm khi dùng để trồng các cây tạo cảnh quan như cây

tre, cây bản địa, sau đó đào hố đổ đất mầu.

Nếu nền là đất đá thải thì có thể trực tiếp đào hố đổ đất mầu. Phương pháp này

đã áp dụng thành công ở các bãi thải khu vực Quảng Ninh, đặc biệt là bãi thải Nam

Đèo Nai với loại cây trồng là keo tai tượng, keo lá tràm và keo lai.

Khi đất dùng với mục đích canh tác nông nghiệp thì dưới lớp đất mầu phải rải

thêm lớp đất thổ nhưỡng dày 50÷70 cm. Bên cạnh đó phải tiến hành kiểm tra thành

phần dinh dưỡng của lớp đất để có biện pháp cải tạo. Tùy theo từng trường hợp cụ

thể mà dùng vôi hay thạch cao để điều chỉnh độ pH của đất; tùy loại giống cây

trồng, mật độ trồng, tỷ lệ sinh trưởng mà bón thêm phân đạm, phân lân hay kali để

hỗ trợ sinh trưởng cho cây. Ngoài ra, có thể bổ sung thêm phân hữu cơ như mùn

cây, bùn cống rãnh, phân gia súc đã được ủ để tăng thêm độ phì nhiêu của đất.

Việc xác định các tính chất hoá nông của đất đá thải là cơ sở để xác định

phương thức phục hồi giống cây trồng.

125

Quá trình CTPHMT bề mặt các sườn dốc cần được tiến hành lần lượt trên cùng

một độ cao (theo đường đồng mức) nhằm hạn chế tác dụng trôi rửa của nước mưa

chảy tràn, tăng thêm độ giữ nước của địa hình (tương tự như ruộng bậc thang của

đồng bào miền núi).

Trong trường hợp có đất mầu cũ để dùng lại, thì trước khi rải phải xem xét để

lựa chọn đúng loại phù hợp, phải phân phối đều tuỳ theo dự trữ đất màu sẵn có. Nếu

đất đá nền không chứa các vật chất độc hại đối với sự phát triển của cây cối thì

chiều dày lớp đất mặt cần thiết khoảng 2030 cm là đủ.

b. Gieo trồng: Việc lập lại thảm thực vật có thể thực hiện bằng các loại giống

cây trồng có nguồn gốc bản địa hoặc có nguồn gốc từ các địa phương khác. Sử dụng

các loại giống cây trồng có nguồn gốc bản địa có ưu điểm là dễ thích nghi với các

điều kiện tự nhiên của khu mỏ như loại đất, điều kiện khí hậu, các diễn biến của quá

trình sinh thái,... Phương án này mang lại hiệu quả cao khi thảm thực vật được lập

lại trên nền đất mầu cũ được cất giữ tốt và sử dụng lại.

Trên cơ sở một số thí nghiệm về các loại cây trồng theo đặc thù chung đất bãi

thải của các mỏ than KTLT vùng HG-CP, có hàm lượng dinh dưỡng nghèo, chua

nhẹ, độ mùn thấp và có sườn dốc từ 350 45o, do đó yêu cầu của công tác CTPHMT

là phải nâng cao được độ màu mỡ của đất, đồng thời chống xói mòn và mang lại

hiệu quả kinh tế phục vụ đời sống con người. Qua nghiên cứu đặc tính sinh trưởng

và công dụng của các loại cây đã trồng trên bãi thải, việc cải tạo bãi thải được thực

hiện với các nội dung sau:

(1). Đối với các bãi thải tạm ngừng đổ thải hoặc các bãi thải cần phủ xanh nhanh,

giảm thiểu xói mòn, thì nên sử dụng cây cốt khí. Loại cây này có khả năng phát triển

rất nhanh và chi phí thấp. Thực tế cho thấy, chỉ trong vòng tuần đầu sau khi gieo, cây

đã phát triển được 2 lá mầm và khoảng 2 tháng là cây đã phát triển cao 1520 cm, tạo

màu xanh cho toàn bộ khu vực thi công [13].

(2). Đối với khu vực sườn bãi thải: - Đối với khu vực có sườn dốc < 35o, tiến hành trồng keo tai tượng kết hợp với

cây cốt khí nhằm mục đích phủ xanh nhanh, chống xói mòn và tăng hàm lượng dinh

126

dưỡng cho đất, tạo điều kiện cho cây keo phát triển. Thực tế cho thấy, cây keo tai

tượng rất phù hợp với các khu vực bãi thải có độ chua nhẹ; trong vòng 3 năm đầu

đã phát triển cao từ 23m, tán phát triển tốt và bước đầu che phủ được bề mặt các

bãi thải. Để tăng cường chất dinh dưỡng phải định kỳ phát thân cây cốt khí, vùi

xuống đất để tăng độ mùn đồng thời giảm thiểu xói mòn. Để gieo cây cốt khí, có thể

sử dụng 2 cách: gieo thành luống theo đường đồng mức xen lẫn giữa các hàng keo

hoặc gieo xạ để phủ kín bề mặt toàn bộ diện tích.

- Đối với các khu vực sườn đốc lớn > 35o, sử dụng cây bản địa như cây lau, le

hoặc cỏ đót là các cây có sức sống mãnh liệt, có thể phát triển được tại các khu vực

đất nghèo dinh dưỡng, độ ẩm thấp. Các loại cây này có đặc điểm mọc thành từng

khóm, bộ rễ không dài nhưng mọc tạo thành mảng nên có khả năng phát triển ở các

khu vực sườn dốc, ngoài ra các loại cây này có khả năng phát tán tự nhiên, do đó có

thể tự phục hồi và phát triển trở lại sau khi bị sạt lở hoặc trôi lấp. Để tạo cảnh quan

và đa dạng sinh học trồng xen hoa giấy, cây bông bạc,…

(3). Đối với bề mặt bãi thải, đề xuất trồng cây keo xen kẽ cây thông, kết hợp với

cây cốt khí (cây keo kết hợp với cây cốt khí) sẽ phát triển nhanh để giảm thiểu rửa

trôi và phủ xanh bãi thải. Cây cốt khí có mục đích tăng hàm lượng dinh dưỡng cho

đất, cải tạo đất, tạo điều kiện cho cây keo phát triển. Cây thông sẽ thay thế cây keo

khi cây keo già, dễ gẫy nhằm đảm bảo thảm thực vật phát triển bền vững không trở

lại hoang hóa (cây thông đáp ứng được tiêu chí phát triển bền vững và tạo cảnh

quan đẹp). Để tạo cảnh quan và đa dạng sinh học, trồng xen cây bông bạc, cây xoan,

cây găng,…(chi tiết xem Phụ lục 2).

c. Chăm sóc và giám sát quá trình tăng trưởng: Công việc chăm sóc, tưới nước,

bón thêm phân, trồng dặm các cây chết,... phải được tiến hành thường xuyên, tối

thiểu trong 5 năm, cho đến khi đảm bảo 100% cây sống và phát triển để bàn giao

cho địa phương hoặc đơn vị chủ quản khác, sau đó các doanh nghiệp phải có trách

nhiệm cùng với địa phương tới khi kết quả CTPHMT là ổn định (không sạt lở, mức

độ xói mòn thấp,…).

127

4.4. Đề xuất các giải pháp kỹ thuật CTPHMT cụ thể cho mỗi mỏ than

KTLT lồng ghép trong quá trình khai thác mỏ

4.4.1. Giải pháp đổ thải trên một số địa hình đặc trưng

a. Giải pháp đổ thải trên nền bãi thải có dạng là một động tụ kín

Đối với công tác đổ thải mà nền bãi thải có dạng một động tụ kín và để bảo vệ

công trình lân cận hoặc thảm thực vật lân cận, thì trong phạm vi đáy động tụ có thể

đổ theo tầng cao. Mặt tầng đổ thải nằm ngang với mép trên của đáy động tụ, trình

tự đổ thải có thể từ trên xuống dưới theo một tầng.

Hình 4.7: Giải pháp đổ thải bãi thải trong khi không gian đổ thải

là một động tụ kín (là khai trường mỏ lộ thiên đã kết thúc khai thác)

Trong trường hợp cần thiết tiếp tục đổ thải lên cao hơn nữa, tức là bãi thải cao

hơn mép động tụ kín, cần phải đổ thải theo tầng có chiều cao 30 m. Trong trường

hợp này, đất đá thải có thể được đổ thải theo từng tầng (hết tầng này đến tầng

khác), từ dưới lên hoặc đổ đồng thời một số tầng.

Hình 4.8: Giải pháp đổ thải khi bãi thải cao hơn mép động tụ kín

b. Phương pháp đổ thải trên nền bãi thải có dạng là một động tụ hở

128

Đối với các bãi thải mà nền bãi thải có dạng một đáy động tụ hở, khi đổ thải

không làm ảnh hưởng tới các công trình khai thác của khu vực lân cận hoặc thảm

thực vật lân cận, đồng thời để hạn chế hiện tượng xói mòn, trượt lở và trôi chảy đất

đá thải ở sườn bãi thải phía hở của động tụ, cũng như để giảm thiểu diện tích động

của sườn tầng thải hướng về phía nhạy cảm về môi trường (như có công trình, thảm

thực vật cần bảo vệ...), thì phải đổ theo tầng thấp hđt= 25÷30 m và thực hiện các

phương pháp đổ thải như hình 4.9.

Hình 4.9: Giải pháp đổ thải khi không gian đổ thải là một động tụ hở

c. Đổ thải trên nền bãi thải có nền tương đối bằng phẳng hay đổ ở sườn núi

Đối với các bãi thải mà nền bãi thải có địa hình dạng tương đối bằng phẳng hay

đổ ở sườn núi (trường hợp sử dụng bãi thải tạm), thì sử dụng phương pháp đổ thải

theo tầng thấp và sử dụng giải pháp đổ thải đồng thời một số tầng hay từng tầng

một từ dưới lên.

Giải pháp đổ thải trong một tầng:

- Khi đổ thải trên sườn núi, nhất thiết phải tiến hành đổ từ sườn núi tới biên

giới kết thúc theo chiều dọc của tầng thải để tạo thành dải đổ thải đầu tiên trong

tầng thải, sau đó tiến hành đổ dọc theo sườn núi. Với giải pháp đổ này, bề mặt sườn

tầng thải sẽ được hình thành nhanh và sớm ổn định nhất, diện tích sườn tầng thải

động là nhỏ nhất.

- Khi đổ bãi thải tạm trên bề mặt tương đối bằng phẳng thì phía nhạy cảm với

môi trường cần được đổ thải trước, hình thành và ổn định sườn tầng sớm nhất, sau

đó mới phát triển bãi thải về phía còn lại.

- Khi đổ bãi thải trong hay bãi thải tạm trong động tụ hở, nhất thiết phải tiến

hành đổ thải phía hở trước, sau đó mới phát triển bãi thải vào phía trong.

129

Hình 4.10: Giải pháp đổ thải bãi thải trong hay bãi thải tạm tại động tụ hở

Để đảm bảo thoát nước tốt trên mặt bãi thải khi mặt bãi thải ổn định cũng như

chưa ổn định, nhất thiết phải tạo độ dốc vào phía trong bãi thải với độ dốc tương

ứng là i = 1÷2% và i = 1÷3% [46]. Trên mỗi tầng thải đã ổn định, nhất thiết phải tạo

rãnh phía dưới chân tầng để dẫn nước ra khỏi bãi thải; xung quanh chân bãi thải, để

BVMT, chống đất đá trôi nhất thiết phải xây dựng hệ thống đê chắn phù hợp để

chống trôi trượt bãi thải làm bồi lấp các công trình, diện tích đất lân cận.

Trong trường hợp khu vực nền bãi thải trong vẫn còn tài nguyên (không có khả

năng khai thác được bằng phương pháp KTLT) và trữ lượng than này sẽ tiếp tục

được khai thác bằng phương pháp hầm lò, thì nhất thiết phải sử dụng các biện pháp

gia cố nền đặc biệt như tạo nền vững chắc bằng cách trải một lớp bêtông hay dùng

đất sét, lu lèn chặt, tưới nước trước khi đầm (với độ đầm nén 0,8) để tạo thành lớp

cách nước có chiều dày 3÷5 m, sau đó mới tiếp tục tiến hành đổ thải theo tầng thấp

với chiều cao tầng thải từ 5÷10 m. Trong quá trình san gạt, máy ủi phải đảm nhiệm

cả công tác đầm nén nhằm tạo nên sự liên kết chặt chẽ của đất đá thải và làm giảm

độ rỗng giữa đất đá để hạn chế lượng nước chứa trong đất đá.

4.4.2. Giải pháp kỹ thuật cải tạo hình dáng khai trường

a. Giải pháp thiết kế trong mối liên kết tổng thể các khai trường liền kề và lân cận

Biên giới các khai trường KTLT thường biến dạng theo điều kiện địa chất, sự

uốn lượn của vỉa than và điều kiện kinh tế kỹ thuật, do đó hình dáng khai trường

thường thẳng, gấp khúc, không có tính thẩm mỹ do công tác xúc bốc đất đá chưa

quan tâm đến việc cải tạo hình dáng khai trường sẽ sử dụng sau giai đoạn kết thúc

130

khai thác. Mỗi khai trường gần nhau nhưng lại được thiết kế độc lập cho mỗi dạng

mỏ mà chưa được xem xét trong tổng thể nhiều mỏ.

Do vậy, trong quá trình thiết kế, nhất thiết phải căn cứ vào điều kiện kỹ thuật

cụ thể của mỗi một dạng mỏ, phải xem xét hình dáng mỗi khai trường trong tổng

thể nhiều mỏ liền kề với nhau mà xác định hình dáng khai trường kết thúc khai thác

(trong sự liên kết với nhau để đảm bảo tính thẩm mỹ và cảnh quan) và phù hợp với

định hướng chức năng sử dụng đất sau khi kết thúc khai thác mỏ than lộ thiên để

tránh phải tiếp tục cải tạo lại hình dáng khai trường sau khi kết thúc khai thác các

mỏ này.

b. Giải pháp chỉnh sửa thiết kế và thực hiện tại các khu vực mỏ đã có thiết kế

khai thác nhưng hình dạng chưa phù hợp trong mối liên kết tổng thể các khai

trường liền kề và lân cận

Trong trường hợp này, phương pháp thực hiện CTPHMT trong quá trình khai

thác từ khi thi công xúc bốc đến giới hạn kết thúc biên giới mỏ, cần thực hiện xúc

bốc chỉnh sửa các khu vực nêu trên thành những đường cong, tròn tạo cảnh quan.

Các khu vực góc cạnh trên biên giới khai trường sẽ được tổ chức thi công bo

góc cho mềm mại, tạo hình phù hợp với mục đích sử dụng đất sau khi kết thúc khai

thác mỏ lộ thiên.

Hình 4.11: Hình dáng khai trường Hình 4.12: Hình dáng khai trường

vỉa 11, 13, 14 cánh Đông mỏ Núi Béo vỉa 11, 13, 14 cánh Đông đề nghị thực

khi kết thúc (theo thiết kế) hiện tại giai đoạn kết thúc khai thác

131

c. Giải pháp thi công liên thông các khai trường gần nhau, tạo hình dáng tổng

thể khai trường theo vùng

Tổ chức thi công san gạt, xúc bốc liên thông các khai trường, tạo thêm quỹ đất

giữa 2 khai trường, hình dáng khai trường được cải tạo đáng kể.

Hình 4.13: Hình dáng khai Hình 4.14: Hình dáng khai

trường Khu II, Bắc Hữu Nghị mỏ trường Khu II, Bắc Hữu Nghị

Hà Lầm và Vỉa 14 cánh Tây mỏ mỏ Hà Lầm và Vỉa 14 cánh Tây

Núi Béo khi kết thúc (theo thiết kế) mỏ Núi Béo cải tạo

4.4.3. Giải pháp kỹ thuật cải tạo mặt tầng (thực hiện ngay trong quá trình

khai thác tại giai đoạn kết thúc khai thác)

a. Giải pháp thực hiện trong quá trình khai thác

- Khoan - nổ mìn làm tơi đất đá: tăng cường sử dụng máy khoan có đường kính

nhỏ khi khoan lỗ mìn và nổ mìn theo đúng cốt nền thiết kế để hạn chế phá hủy nền

tầng khai thác. Do công tác khoan - nổ mìn đối những khu vực có chiều cao tầng

thấp, thường gây phá hủy nền tầng, nên đối với những khu vực hào dốc nhất thiết

không được sử dụng giải pháp nổ mìn mà sử dụng các giải pháp làm tơi, tạo độ ổn

định bờ mỏ tốt hơn phương pháp khoan - nổ mìn bằng cách dùng các thiết bị cơ giới

như: máy xới, đầu đập thủy lực, máy xúc có răng gầu tích cực,...

132

- Xúc bốc đất đá: thực hiện thi công xúc bốc theo giới hạn, cao độ thiết kế,

giám sát chặt chẽ khâu xúc bốc đối với những khu vực kết thúc khai thác, không

xúc tạo đá treo sườn tầng và tạo mô chân tầng,...

b. Giải pháp cải tạo mặt tầng sau khi kết thúc khai thác

- Khi kết thúc khai thác, mặt tầng bãi thải sẽ tồn tại các bờ an toàn với kích

thước lớn phục vụ sản xuất; rãnh thoát nước chân tầng, mặt tầng lồi lõm do thiết bị

có tải trọng lớn hoạt động thường xuyên. Sau khi kết thúc, tiến hành san gạt lại bề

mặt bãi thải; bờ an toàn sẽ thấp hơn, nhỏ hơn; đất đá thừa tại các bờ an toàn sẽ được

bồi vào những vùng lõm; hệ thống rãnh thoát nước chỉ tồn tại dưới dạng cắt nghiêng

ở chân tầng.

- Trồng cây trên bề mặt tầng kết thúc khai thác; bố trí tuyến đường phục vụ,

chăm sóc cây.

4.4.4. Giải pháp kỹ thuật cải tạo sườn tầng khai thác

a. Giải pháp thực hiện trong quá trình khai thác

- Khoan - nổ nìn: làm tơi đất đá bằng phương pháp nổ mìn tạo biên tại khu vực

kết thúc khai thác, đảm bảo taluy sườn tầng theo đúng thiết kế khai thác.

- Xúc bốc: tổ chức giám sát thi công xúc bốc theo giới hạn, góc dốc sườn taluy,

giám sát chặt chẽ khâu xúc bốc đối với những khu vực sườn tầng kết thúc khai thác.

Hình 4.15: Hình dáng mặt tầng Hình 4.16: Hình dáng mặt

khai thác khi kết thúc tầng đã cải tạo

b. Giải pháp thực hiện sau khi kết thúc khai thác

133

- Sườn tầng khai thác khi kết thúc thường có góc dốc lớn ( ≥ 45o), sau khi kết

thúc, trải qua các mùa mưa có khả năng hình thành các rãnh nước nhỏ, gây biến

dạng bề mặt sườn tầng khai thác. Do đó, khi kết thúc khai thác cần phải cải tạo lại

sườn tầng khai thác, giảm góc đốc taluy sườn tầng; đối với bề mặt sườn tầng bị chia

cắt bởi các rãnh nước, tiến hành bồi, xén sườn tầng đảm bảo tính ổn định.

- Trồng cây trên sườn tầng khai thác góp phần ổn định sườn tầng.

Hình 4.17: Hình dáng sườn tầng Hình 4.18: Hình dáng sườn tầng

khai thác khi kết thúc khai thác sau khi cải tạo

4.4.5. Giải pháp kỹ thuật cải tạo bãi thải

a. Giải pháp kỹ thuật cải tạo bãi thải cao

Đối với các bãi thải cao (Hình 4.19) luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ sạt lở tầng,

mất an toàn và có thể gây trôi sạt đất đá tạo thành thảm họa phá hoại nhà cửa, cây

cối hoa mầu của nhân dân. Đối với các bãi thải cao, thực hiện 2 phương án cải tạo:

- Đổ thải bổ sung, gia cố chân bãi thải, hình thành các tầng thải trung gian: đây

là giải pháp có tính kinh tế cao, nhưng chỉ áp dụng được trong điều kiện quỹ đất

phục vụ đổ thải còn có khả năng mở rộng, hình thành các đai tầng thải trung gian và

gia cố chân bãi thải (Hình 4.20).

Hình 4.19: Tầng thải cao Hình 4.20: Tầng thải đã cải tạo bằng

giải pháp đổ bổ sung thêm các phân tầng

134

- San gạt, cắt hình thành tầng thải trung gian vì tầng thải cao đã đạt giới hạn

kết thúc, không có khả năng cải tạo bằng giải pháp đổ thải bổ sung; sử dụng các

thiết bị thi công gạt, cắt, xúc bốc,... để tạo nên tầng thải trung gian (Hình 4.21).

Hình 4.21: Tầng thải đã được cải tạo bằng giải pháp cắt thành các phân tầng

b. Giải pháp kỹ thuật cải tạo bãi thải trong thung lũng

Bãi thải trong thung lũng là những bãi thải có tính ổn định cao nhất, công tác

cải tạo giản đơn nhất; khi đổ thải tại khu vực thung lũng, chỉ đổ thải theo từng lớp,

đảm bảo độ lu nèn để tăng dung tích bãi thải. Khi thung lũng có chiều sâu lớn, đổ

thải theo lớp ngang; khi thung lũng có chiều sâu không lớn (≤ 50 m), sẽ đổ thải theo

lớp nghiêng (01 lớp) - Hình 4.22, 4.23.

Hình 4.22: Đổ thải nhiều lớp Hình 4.23: Đổ thải một lớp

tại thung lũng tại thung lũng

c. Giải pháp kỹ thuật cải tạo hình dáng bãi thải

Khi đổ thải, cần xem xét đến quy hoạch sử dụng đất sau khi kết thúc KTLT, bãi

thải là quỹ đất rất lớn có thể phục vụ các dự án phát triển KT-XH về sau như làm

sân golf, du lịch sinh thái, trồng rừng, nông trại,... Trong quá trình đổ thải, nhất thiết

135

phải ưu tiên tạo ra quỹ đất, các đai tầng ổn định với bề mặt bãi thải uốn lượn, tránh

gẫy khúc, có tính thẩm mỹ cao tạo cảnh quan.

Hình 4.24: Hình dáng bãi thải Hình 4.25: Đổ thải bãi thải

Chính Bắc theo thiết kế Chính Bắc sau cải tạo

d. Giải pháp kỹ thuật cải tạo mặt bãi thải kết thúc, đảm bảo điều kiện giữ nước

bằng cách tạo các vùng trũng trên bề mặt bãi thải để giữ độ ẩm cho cây phát triển

Trên thực tế, tại bề mặt bãi thải Nam Lộ Phong, Chính Bắc Núi Béo, vào thời

gian mùa khô nhưng trên mặt bãi thải vẫn có một vùng trũng chứa nước nhằm cung

cấp nước cho thảm thực vật lân cận phát triển tốt. Vì vậy, trên bề mặt tầng thải tại

giai đoạn kết thúc, cần phải thực hiện giải pháp kỹ thuật cải tạo mặt bãi thải kết thúc

để đảm bảo điều kiện giữ nước bằng cách tạo các vùng trũng trên bề mặt bãi thải

nhằm giữ độ ẩm cho cây phát triển tốt và tiết kiệm được kinh phí sử dụng máy ủi.

Cách thức triển khai như sau: từ gương đổ thải ban đầu, tiến hành đổ thải một

luồng thải (kích thước luồng thải đảm bảo cho xe có thể quay đảo chiều và đổ thải

bình thường) có hướng dốc 3÷5% đến hết giới hạn đổ thải. Sau đó, từ luồng đổ thải

ban đầu, đổ thải về 2 hướng, mỗi hướng đổ thải với độ dốc 3÷5%. Cuối cùng, đổ

bồi đất đá ở phía cuối gương đổ thải ban đầu, san gạt tạo hướng dốc vào trong để

hình thành vùng trũng giữ nước mưa tự nhiên, phục vụ trồng cây và cũng để giảm

thiểu rửa trôi mặt tầng thải.

136

Hình 4.26: Kỹ thuật đổ thải tạo vùng trũng chứa nước cải tạo đất

4.4.6. Giải pháp giảm thiểu nguy cơ tai biến sạt lở đất và nguy cơ lũ bùn đá

cho các mỏ than KTLT vùng HG-CP

Trong quá trình hoạt động, các mỏ than KTLT sâu với các bờ dốc, sườn tầng,

bờ mỏ, bở bãi thải có độ ổn định phụ thuộc vào tính chất cơ lý của đất đá, cấu trúc

địa chất, địa chất thủy văn,… Do vậy, độ ổn định của các đối tượng nêu trên chỉ

được đảm bảo với một góc nghiêng tối thiểu nhất định. Thực tế, nhiều mỏ than

KTLT ở vùng HG-CP đều xuất hiện hiện tượng trượt lở ở bờ mỏ, làm tăng biên giới

khai thác, tăng hệ số bóc, giảm sản lượng, tăng chi phí sản xuất và giá thành khai

thác,…

Việc sạt lở không được xem xét trong giai đoạn kết thúc khai thác sẽ tiềm ẩn

nguy cơ sạt lở bờ mỏ và bãi thải. Đây là nguy cơ khó kiểm soát đối với hoạt động

CTPHMT, gây ảnh hưởng không nhỏ tới an toàn của cộng đồng dân cư. Do vậy,

cần thực hiện giải pháp kỹ thuật đánh giá độ ổn định bờ mỏ, xác định các vùng có

nguy cơ tai biến sạt lở khai trường, bãi thải và thực hiện giải pháp ổn định bờ mỏ

trong giai đoạn kết thúc khai thác đối với vùng có nguy cơ sạt lở cao nhằm đảm bảo

độ ổn định bờ mỏ thực hiện hoạt động CTPHMT, đồng thời nhằm ổn định bờ mỏ

lồng ghép trong giai đoạn kết thúc khai thác các mỏ than lộ thiên ở vùng HG-CP.

4.4.6.3. Giải pháp giảm thiểu nguy cơ tai biến sạt lở đất và nguy cơ lũ bùn đá

tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP

137

Trên cơ sở các tài liệu phân tích, đánh giá về các vùng cảnh báo tai biến trượt

lở đất, lũ bùn đá khu vực Hạ Long - Cẩm Phả (xem chi tiết tại Phụ lục 3), các mỏ

than KTLT vùng HG-CP có nguy cơ chịu ảnh hưởng của tai biến trượt lở, lũ bùn đá

ở mức độ khác nhau, phục vụ cho công tác CTPHMT nhằm giảm thiểu tai biến

thiên nhiên như sau:

Vùng (I) phía Bắc của khu vực, phía Nam của thành phố Cẩm Phả và toàn bộ

khu vực khai thác than tại thành phố Hạ Long. Khu vực này là toàn bộ phần khai

thác than lộ thiên chính của vùng HG-CP. Đây là khu vực chịu ảnh hưởng mạnh của

tai biến trượt lở, lũ bùn đá. Trong đó, vùng (I1) nằm toàn bộ ở phần phía Nam của

Cẩm Phả với một vài mỏ khai thác than chính như mỏ Mông Dương, Núi Béo, Cọc

6, với số lượng bãi thải lớn có thể đưa rất nhiều đất đá thải xuống vịnh Bái Tử

Long. Khu vực này là khu vực chịu ảnh hưởng và phát sinh lũ bùn đá trực tiếp, có

thể nói đây là một trong 2 khu vực chịu ảnh hưởng lớn nhất toàn bộ vùng (I). Tại

đây nguy cơ phát sinh trượt lở, lũ bùn đá rất mạnh do lượng bãi thải có bề dày rất

lớn. Đối với vùng (I2b) là khu vực bãi thải có sườn thoải hơn, phân bố từ phần rìa

của khu vực khai thác vào đến khu vực trung tâm của khu khai thác.

Cũng tương tự như vậy, đối với vùng (I2), cũng là khu vực khai thác than

chịu ảnh hưởng trực tiếp từ nguy cơ phát sinh trượt lở, lũ bùn đá. Khu vực này nằm

ở vị trí trung tâm của vùng Hòn Gai, gồm các mỏ than Hà Tu và Hà Lầm. Nguy cơ

trượt lở, lũ bùn đá ở khu vực này là rất mạnh [31].

Trên cơ sở bản đồ phân vùng nguy cơ tai biến trượt lở, lũ bùn đá để xác định

nguy cơ xảy ra tai biến trong vùng nhằm đề xuất các giải pháp kỹ thuật giảm thiểu

nguy cơ tai biến sạt lở đất và nguy cơ lũ bùn đá tại khu vực các mỏ than KTLT

vùng HG-CP như sau:

138

Hình 4.27: Bản đồ nguy cơ lũ bùn đá khu vực Hạ Long - Cẩm Phả [31]

1. Giải pháp kỹ thuật ổn định bờ mỏ trong giai đoạn kết thúc khai thác tại các

vùng có nguy cơ tai biến sạt lở khai trường và bãi thải cao

Các giải pháp ổn định bờ mỏ trong giai đoạn kết thúc khai thác sau cần được

áp dụng cho những điều kiện cụ thể, phù hợp nhằm tăng độ ổn định bờ mỏ cho các

mỏ than KTLT:

(1). Để lại các đai bảo vệ trên bờ mỏ nhằm ngăn chặn hiện tượng trôi lở đất đá

từ các tầng trên xuống tầng dưới làm sạt lở bờ mỏ.

139

(2). Có hệ thống thoát nước hợp lý trên các tầng và xung quanh mỏ than KTLT

nhằm mục đích ngăn chặn sự bào mòn, xói lở của các dòng nước mặt làm phá vỡ bờ

mỏ và làm yếu độ bền vững của đất đá.

Hình 4.28: Sơ đồ mô phỏng công tác thoát nước mặt và nước ngầm [28]

(3). Tạo góc nghiêng bờ mỏ kết thúc khai thác phù hợp với tính chất cơ lý của

đất đá trong bờ mỏ, cấu tạo địa chất, điều kiện địa chất thủy văn, chiều sâu kết thúc

khai thác.

Bảng 4.2: Góc nghiêng của bờ mỏ phụ thuộc vào đặc tính đất đá

Đặc tính Độ Góc nghiêng Góc nghiêng của bờ (độ)

của đất đá cứng f sườn tầng, độ khi chiều sâu mỏ (m)

90 180 240 300

Rất cứng 15 ÷20 75 ÷85 60 ÷68 57 ÷65 53 ÷60 48 ÷54

Cứng và 8 ÷14 65 ÷75 50 ÷60 48 ÷57 45 ÷53 43 ÷48

hơi cứng

Cứng trung 3 ÷7 55 ÷65 43 ÷50 41 ÷48 39 ÷45 36 ÷43

bình

Hơi mềm 1 ÷2 40 ÷55 30 ÷43 28 ÷41 26 ÷39 24 ÷38

và mềm

140

(4). Giảm tải trọng khối đẩy (phần trên của bờ mỏ) và làm tăng trọng lượng

khối đỡ (phần dưới của bờ) bằng cách sử dụng bờ mỏ lồi [21].

(5). Sử dụng phương pháp nổ mìn vi sai, nổ mìn tạo biên nhằm giảm sóng chấn

động, giảm hậu xung, tránh hiện tượng làm nứt nẻ và mất ổn định bờ mỏ [3].

(6). Trường hợp bờ mỏ kết thúc khai thác nằm trong khu vực có cấu tạo địa

chất phức tạp (đứt gãy, vò nhàu) và bị ảnh hưởng nhiều của nước mặt, nước ngầm,

thì góc nghiêng của bờ mỏ kết thúc giảm đi 30÷40% so với các giá trị trong bảng

4.2 [28] và khi đó cần xem xét sử dụng các giải pháp gia cố bờ mỏ như sau:

- Dùng vì neo gia cố bờ mỏ nhằm tăng thêm các lực giữ giữa các lăng trụ trượt

lở với phần đất đá ổn định phía dưới [55]. Phương pháp này áp dụng cho đá cứng,

cứng vừa ít nứt nẻ và ít phong hoá, có cấu trúc khối hay đá phiến có các khe nứt

nghiêng vào không gian khai thác một góc 2535o khi chiều dài lăng trụ trượt lở

không lớn.

Chiều dài cần thiết của các thanh neo được xác định căn cứ vào chiều dày của

đới đá yếu, thường lấy bằng 56m. Tuỳ theo tính chất của các loại đá mà sử dụng

loại neo làm bằng cọc thép hoặc cọc bê tông cốt thép. Khi cần gắn kết mái dốc thì

áp dụng biện pháp liên kết các cọc neo với nhau trên bề mặt (34 cọc với nhau)

bằng các tấm bê tông hay kim loại.

Hình 4.29: Nâng cao độ ổn định bờ mỏ bằng neo

Với những loại đá phân lớp, nứt nẻ kiến tạo, các đới phá huỷ có góc nghiêng bề

mặt yếu cắm vào không gian khai thác 2540o, đặc biệt đối với loại đất đá phân lớp

yếu như sét kết, bột kết hoặc với bờ mỏ cao, chiều dày lăng trụ trượt lở lớn thì có

141

thể dùng phương pháp khoan cọc nhồi. Đầu tiên, khoan các lỗ có đường kính từ

100÷400mm, sau đó thả các cốt thép xuống tận đáy và phun vữa bê tông đầy lỗ

khoan. Chiều dài của cột nhồi phải ăn sâu vào tầng đá gốc ổn định ít nhất là 1m.

Việc lựa chọn kết cấu cọc và khoảng cách giữa các cọc cần được tính toán cẩn thận

căn cứ vào đặc điểm cụ thể của từng khu vực nghiên cứu [28].

Hình 4.30: Nâng cao độ ổn định bờ mỏ bằng cọc bê tống cốt thép

- Đối với những sườn dốc có đất đá mềm, chiều cao không lớn thì có thể dùng

phương pháp kè đá để bảo vệ sườn dốc khỏi bị phá hủy của nước ngầm và các tác

động của ngoại lực khác hoặc dùng phương pháp xây tường chắn ở chân sườn dốc

để hạn chế sự sụt lở của đất đá trong sườn dốc.

Hình 4.31: Bảo vệ bờ mỏ bằng tường chắn ở chân mái dốc

- Phủ kín các sườn dốc, bờ mỏ bằng thảm thực vật như lau, sậy, cỏ, cây cối

nhằm chống sự phong hóa bờ mỏ do tác động của không khí, nhiệt độ, xói lở bờ mỏ

do nước mưa, nước mặt.

142

- Trong trường hợp khẩn cấp, bờ mỏ có nguy cơ trượt lở, cần nhanh chóng xúc

bốc đất đá tầng trên cùng đổ xuống chân của các tầng dưới cùng nhằm giảm lực đẩy

và tăng lực giữ của bờ.

Hình 4.32: Bóc bỏ toàn bộ phần không ổn định hoặc có nguy cơ trượt lở

Để giữ ổn định bờ mỏ khi kết thúc khai thác đảm bảo hiệu quả công tác

CTPHMT, cần thiết áp dụng đồng bộ một số giải pháp phòng chống cần thiết. Đặc

biệt là các mỏ than KTLT có điều kiện phức tạp về địa chất và địa chất thủy văn

như ở vùng HG-CP (mỏ Hà Tu, Cọc Sáu và Đèo Nai,…), thì khâu ngăn thoát nước

là hết sức quan trọng, sau đó là cải tạo bờ mỏ kết thúc khai thác với góc nghiêng

hợp lý nhằm đảm bảo ổn định cho bờ mỏ khi đã dừng khai thác.

2. Giải pháp kỹ thuật ổn định bờ mỏ bằng nổ mìn tạo biên để giảm nguy cơ sạt

lở bờ mỏ vào giai đoạn kết thúc khai thác

Khi tiến hành công tác nổ mìn làm tơi đất đá tại những nơi giáp ranh biên giới

kết thúc khai thác của mỏ, cần thiết áp dụng phương pháp nổ mìn tạo biên để tạo

điều kiện cho máy xúc tạo được mặt sườn tầng bằng phẳng (nhằm tạo cảnh quan)

và giảm tác dụng chấn động lên bờ mỏ, góp phần làm biên giới mỏ không bị phá

huỷ, đảm bảo độ ổn định bờ mỏ khi kết thúc khai thác [3], [27].

a. Thực hiện phương pháp nổ mìn tạo biên

- Công tác khoan tạo biên: Phân bố những lỗ khoan tạo biên dọc theo biên khai

thác với khoảng cách nhỏ. Những lỗ khoan này không nạp thuốc.

143

Đường kính lỗ khoan tạo biên 5075mm, khoảng cách giữa chúng bằng 24

lần đường kính, nghĩa là 1030 cm. Những lỗ khoan của bãi nổ cách những lỗ

khoan tạo biên bằng 5070% khoảng cách giữa các hàng lỗ khoan.

- Công nghệ nạp thuốc nổ: Những lỗ khoan được nạp bằng dây thuốc (bao gồm

những thỏi thuốc nổ được buộc vào dây nổ), phần còn lại của lỗ khoan chứa đầy cát.

Sử dụng phương pháp này có lợi khi đường kính lỗ khoan lớn (100÷200 mm).

Hình 4.33: Sơ đồ nạp khoan lỗ khoan nổ (a) và sơ đồ phân bố lỗ khoan biên (b)

1 - Thỏi thuốc; 2 - Cát; 3 - Dây nổ; 4 - Đường phân bố lỗ khoan biên; 5 - Lỗ mìn.

Loại thuốc nổ nêu trên có sức công phá trung bình, mật độ nạp thấp và đặc biệt

là loại thuốc nổ có dạng dẻo, dễ sử dụng. Có thể đặt nhà sản xuất cung cấp các sản

phẩm có kích thước theo yêu cầu phù hợp với từng loại đường kính lỗ khoan.

144

b. Cấu trúc lượng thuốc và mật độ chất nổ

* Cấu trúc lượng thuốc:

Sức chứa của một mét lỗ khoan xác định căn cứ vào mật độ nạp và đường

kính lỗ khoan:

, g/m (4.1)

Trong đó: d - Đường kính lỗ khoan, cm;  - Mật độ nạp thuốc, g/cm3; k - Hệ

số tính đến sự lấp đầy thuốc trong lỗ khoan, k = 0,85.

Với đường kính lỗ khoan khấu d = 250 mm, thuốc nổ thường được sử dụng là

ANFO có =1 g/cm3, thì:

P = 78,5 .252 .1. 0,85 = 41703 g/m  42 kg/m

Với các lỗ khoan tạo biên, loại thuốc nổ được lựa chọn sử dụng là EE31 hoặc

NT13 có =0,9 g/cm, d = 102 mm = 10,2 cm. Dạng thỏi có đường kính thuốc nạp

xuống lỗ đã lựa chọn là d = 60 mm = 6 cm.

Như vậy, lượng thuốc nạp của 1 m lỗ khoan biên được tính như sau:

P = 78,5.62 = 2826 g/m  2,8 kg/m

c. Khoảng cách giữa các lỗ khoan

Khu vực I bố trí mạng lỗ khoan giống như trên các tầng khai thác bình thường

có dlk = 250 mm. Khu vực II bố trí các lỗ khoan tạo biên có dlk = 102 mm.

* Bố trí mạng lỗ khoan ở khu vực I:

Bố trí mạng tam giác đều là tối ưu, mang lại chất lượng đập vỡ tốt nhất.

Với từng loại đất đá có độ cứng khác nhau, có chỉ tiêu thuốc nổ tương ứng.

Chiều cao bua được tính theo công thức: Lb = (2030)dlk.

Trị số nhỏ áp dụng cho đất đá cứng ít nứt nẻ.

Trị số lớn áp dụng cho đất đá mềm nứt nẻ nhiều.

Với mạng tam giác đều, có khoảng cách giữa các lỗ khoan là a, khoảng cách

giữa các hàng lỗ khoan là b. Công thức liên hệ giữa các đại lượng trên (theo hình

học) như sau:

145

(4.2) LB = Llk - LT , m

Trong đó: LB - Chiều cao cột bua, m; Llk - Chiều sâu lỗ khoan, m; LT - Chiều

cao cột thuốc, m.

Chiều cao cột thuốc được xác định bằng khối lượng đất đá của một lỗ mìn nhân

với chỉ tiêu thuốc nổ chia cho mật độ nạp thuốc (kg/1mét dài lỗ khoan).

, kg/m (4.3)

Trong đó: a - Khoảng cách giữa các lỗ khoan; b - Khoảng cách giữa các hàng

lỗ khoan; h - Chiều cao tầng; q - Chỉ tiêu thuốc nổ; P - Khối lượng thuốc nạp trong

1 mét dài lỗ khoan.

* Bố trí mạng lỗ khoan ở khu vực II:

Khi bố trí lỗ khoan tạo biên trong mạng khoan, để giảm hậu xung, thường bố

trí lỗ khoan tạo biên là những lỗ khoan nghiêng. Khi khoan lỗ khoan tạo biên trên

bờ trụ vỉa, nếu điều kiện đặt máy khoan cho phép, nên khoan lỗ tạo biên có góc

nghiêng bằng với góc cắm của lớp đá trụ.

Thực tế khoan nổ đường kính lỗ khoan dlk=250mm trên các mỏ than KTLT cho

thấy rằng, khi nổ mìn phần hậu xung về phía chân tầng phụ thuộc vào độ cứng đất

đá; khi f = 910, phần hậu xung sẽ tạo cho tầng khai thác góc nghiêng sườn tầng

mới có  = 650, với f = 1112 thì  = 750. Như vậy với f = 910, có thể bố trí lỗ khoan tạo biên nghiêng với góc 650 (song song với góc nghiêng sườn tầng); với

f=1112 có thể bố trí lỗ khoan tạo biên khoan nghiêng với góc 750.

Khoảng cách giữa các lỗ khoan tạo biên được xác định theo tỷ số (Tỷ số

này thay đổi trong giới hạn 10÷30 đối với tất cả các loại đất đá) và theo hệ số

Poátxông (vùng thay đổi của hệ số này không lớn đối với các loại đất đá).

146

Khoảng cách giữa các lỗ khoan có thể tính theo công thức:

, m (4.4)

Trong đó: dz – Đường kính lỗ khoan; kz - Hệ số nén, kz = 0,25 khi nén hoàn

toàn (tạo biên khi đào hốc); kz=1,0 khi tạo biên trên tầng với số hàng lỗ khoan > 3;

kz = 1,1 khi số lượng hàng lỗ khoan ≤ 3; ky - Hệ số để đến điều kiện địa chất, ky =

1,0 khi không nứt nẻ; ky=0,9 khi góc giữa hệ thống nứt nẻ và mặt phẳng biên tương ứng 900 và bằng 0,8 khi 20÷700, ky=1,15 khi bề mặt nứt nẻ trùng với mặt

biên.

Trên thực tế, khoảng cách giữa các lỗ khoan biên có thể lấy bằng (1628)d =

50÷90cm khi đường kính bằng 32100 mm.

Lượng thuốc trong 1 m dài lỗ khoan phụ thuộc vào đường kính lỗ khoan,

đường kính thỏi thuốc, độ cứng của đất đá và chiều dài bua. Chiều sâu của lỗ

khoan tạo biên thường lấy giống nhau và sâu hơn những lỗ khoan khấu.

Lượng thuốc nạp vào lỗ khoan có dạng dây, nếu góc nghiêng lỗ khoan <550

thì dây lượng thuốc được buộc vào thanh gỗ rồi thả xuống lỗ khoan.

Với đường kính lỗ khoan tạo biên d = 120mm, khoảng cách giữa các lỗ khoan

biên được tính như sau: a = 22 x 0,102 x 1,1 x 1 = 2,244  2,25 m

Những lỗ khoan của bãi nổ cách những lỗ khoan biên một khoảng bằng 1/2

khoảng cách giữa các lỗ khoan trong bãi.

* Chỉ tiêu thuốc nổ cho các lỗ khoan tạo biên:

Các lỗ khoan tạo biên có mục đích để bóc tách khối lượng đất đá tạo ra mặt

nhẵn. Do đó, chỉ tiêu thuốc nổ của các lỗ khoan tạo biên được hiểu là chi phí thuốc

nổ để tạo ra một đơn vị diện tích mặt tách:

, g/m2 (4.5)

Trong đó: - Tổng chi phí thuốc nổ, g; - Tổng diện tích mặt tách, m2.

147

Khi xác định chỉ tiêu tương ứng cho từng lỗ mìn có thể áp dụng công thức:

, g/m2 (4.6)

Trong đó: Q - Tổng chi phí thuốc nổ, g; a - Khoảng cách giữa các lỗ khoan tạo

biên, m; l - Chiều sâu lỗ khoan, m.

Khi xác định được qm hợp lý, thì lượng thuốc nổ trong lỗ khoan có thể được

tính theo công thức:

(4.7) Q = qm.a.l , g

Ví dụ, tính chi phí thuốc nổ cho một lỗ mìn có chiều sâu lỗ khoan 12 m, lỗ mìn

có đường kính 102 mm, đường kính thỏi thuốc 60 mm, nạp liên tục, thì khối lượng

nạp gần bằng 2,8 kg/m.

Với chiều cao cột bua lb= (2030) lần đường kính lỗ khoan.

lb = (2030).102 = 20403060 mm  23 m.

Trị số nhỏ áp dụng với đất đá cứng, trị số lớn áp dụng với đất đá mềm. Với

f=12 thì chiều cao cột bua là 2m.

Khoảng cách giữa lỗ khoan tạo biên với những lỗ khoan của bãi nổ b=3,5 m.

Chi phí thuốc nổ quy về 1 m3 đất đá khi nổ mìn tạo biên được tính như sau:

148

3. Giải pháp kỹ thuật ổn định bờ bãi thải bằng cách đổ thải theo lớp để đảm

bảo giảm thiểu sạt lở bãi thải

Với khối lượng đất đá đổ thải ngày càng lớn, diện tích các bãi thải ngày càng

mở rộng và chiếm nhiều diện tích, các bãi thải càng ngày càng cao, hiện tượng sụt

lún và mất an toàn xảy ra ngày càng nhiều,...

Thực hiện đổ thải theo lớp với một phương pháp xây dựng bãi thải mới cho

phép nâng cao các đặc tính của vật liệu bãi thải và độ ổn định trong nhiều lĩnh vực,

nhằm mục đích sử dụng phương án CTPHMT đa mục tiêu.

Thực hiện quy trình đổ thải theo lớp theo phương án đổ thải sau đã được thử

nghiệm tại bãi thải Chính bắc - Núi Béo (do Công ty VITE và Công ty Cổ phần

Than Núi Béo thực hiện), chi tiết xem tại Phụ lục 4.

Lịch trình đổ thải được thể hiện trong hình 4.34.

Đổ đường dốc, Tạo chiều rộng Phát triển tầng Hoàn tất tầng

chiều cao tầng tầng thải, chiều thải, chiều thải, quan trắc

thải 4 m rộng 30 m rộng > 30m dịch động

Bước1 Bước 3 Bước 4 Bước2

Hình 4.34: Lịch trình của các bước hình thành bãi thải đổ thải theo lớp

Cụ thể như sau:

Bước 1: Tạo đường dốc 4 m.

Bảng 4.3: Thông số đổ đường dốc 4 m

TT Thông số Đơn vị Giá trị

1 Thời gian đổ đường dốc 4 m Ngày 4

2 Khối lượng đất đá đổ đường dốc 4 m m3 8.155

3 Tỷ trọng đất đá vận chuyển đến bãi thải T/m3 1,81

4 Khối lượng cần san gạt (90%) m3 7.339

5 Số lượng máy ủi huy động Chiếc 1

149

Hình 4.35: Đổ đường dốc lớp 4 m

Bước 2: Tạo chiều rộng mặt tầng thải đổ lớp 4m đầu tiên.

Hình 4.36: Sơ đồ quay đảo chiều khi đổ lớp 4 m

Chiều rộng bãi quay xe nhỏ nhất hay chiều rộng diện đổ thải đầu tiên (Bqmin)

với loại ô tô CAT 773E và CAT 773F được xác định theo công thức:

(4.8) Bqmin = 2(Rô + 0,5bo) + l , m

Trong đó: Rô - Bán kính vòng nhỏ nhất của ô tô, Rô = 12 m; bo - Chiều rộng ô

tô, bo = 5,08 m; l - Chiều rộng đai an toàn, l = (0,30,4)h, h - Chiều cao tầng thải

đầu tiên, h = 2m. Vậy L = 0,6÷0,8 m.

Trên cơ sở các thông số của các phương tiện nêu trên, xác định được chiều

150

rộng tầng đổ thải đầu tiên là 30 m.

Để đảm bảo hệ thống thoát nước và yêu cầu kỹ thuật, an toàn của tuyến đường

theo quy định, độ dốc dọc mặt tầng đảm bảo thoát nước là i = 23%.

Bờ chắn an toàn cho thiết bị hoạt động có mặt cắt ngang hình tam giác.

- Chiều cao và chiều rộng bờ an toàn của bãi thải là các chỉ tiêu kỹ thuật an

toàn đặc biệt quan trọng trong công tác đổ thải đất đá bằng ô tô. Kích thước bờ an

toàn phụ thuộc vào chủng loại xe ô tô tham gia dỡ tải. Trường hợp có nhiều loại xe

ô tô cùng tham gia đổ thải ở một bãi thải thì kích thước bờ an toàn lấy theo loại xe

lớn nhất. Ở đây, trong phương án đổ thử nghiệm xác định độ nén, chỉ sử dụng một

loại ô tô có tải trọng 55 tấn CAT 773E hoặc CAT 773F.

Hình 4.37: Sơ đồ xác định bờ an toàn cho xe ô tô CAT 773E và CAT 773F

Công thức tính chiều cao bờ an toàn:

h ≥ 2/3 (4.9)

Trong đó: h - Chiều cao bờ an toàn, m; b - Chiều rộng đáy bờ an toàn, m;  -

Đường kính bánh sau của xe ô tô, m.

Đối với xe ô tô CAT 773E và 773F có tải trọng 55 tấn, thì bờ an toàn có chiều

cao h= 1,3m và chiều rộng đáy bờ là b = 2,5 m.

Bước 3: Tiếp tục phát triển đổ thải theo chiều rộng từ tầng đổ thải đầu tiên.

Bước 4: Giám sát, quan trắc tầng thải đầu tiên (là nền tầng thải cho các tầng

tiếp theo).

151

Cần xác định tốc độ dịch chuyển, véc tơ dịch chuyển và hướng dịch chuyển

của tầng trong khu vực bãi thải nhằm kịp thời dự báo nguy cơ trượt lở có thể xảy ra

gây mất an toàn cho bãi thải và các công trình dân dụng và công nghiệp nằm trong

vùng ảnh hưởng đặc biệt là mùa mưa [07].

4.5. Kết luận chương

Tại vùng HG-CP, từ nay đến giữa thế kỷ XXI, các mỏ than KTLT lớn nhỏ ở

khu vực này sẽ lần lượt đóng cửa do hết tài nguyên hoặc do hoạt động không hiệu

quả, phải chuyển sang khai thác bằng phương pháp hầm lò và sẽ để lại một vùng

địa hình nham nhở với hố lớn nhỏ (khai trường cũ) sâu tới 350÷500m, những núi

đất (bãi thải) cao tới 250÷350m, tiềm ẩn nhiều nguy cơ sụt lún, xói lở, gây nguy

hiểm đến tính mạng người và gia súc, phá vỡ cảnh quan khu vực,… mà theo luật

định, các doanh nghiệp mỏ phải có trách nhiệm CTPHMT nhằm đưa môi trường và

hệ sinh thái về tình trạng ban đầu hoặc tương tự như trước khi khai thác mỏ, đồng

thời đảm bảo yêu cầu về BVMT và phục vụ cho các lợi ích khác của con người.

Hiện tại, đối với mỗi dự án đầu tư cho hoạt động khai thác mỏ, các đơn vị đều

phải lập đề án CTPHMT nhằm thực thi các quy định về việc ký quỹ CTPHMT đối

với hoạt động khai thác khoáng sản theo Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg (trước là

Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg) của Thủ tướng Chính phủ và theo hướng dẫn tại

Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT, ngày 31/12/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi

trường. Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT đã có hướng dẫn cụ thể về phương pháp

lập các phương án CTPHMT và xác định số tiền ký quỹ môi trường, cũng như phải

lựa chọn được phương án CTPHMT theo chỉ số phục hồi đất của phương án. Tuy

nhiên trên thực tế, sau thời gian 5 năm thực hiện, các quy định phương án

CTPHMT còn nhiều bất cập cần được xem xét và hoàn thiện dần trong thời gian

tới.

Theo quy định hiện nay, việc lựa chọn phương án CTPHMT mới chỉ nhằm xác

lập khoản tiền ký quỹ CTPHMT trong quản lý hoạt động khai thác khoáng sản trên

quan điểm sao cho có thể đảm bảo bù đắp được các chi phí thực tế để CTPHMT.

Xu hướng chung hiện nay đối với việc CTPHMT tại các mỏ than KTLT chủ yếu là

152

cải tạo lại các moong khai thác, bãi thải hoặc lấp một số moong khai thác nhằm

triệt tiêu các sự cố môi trường; nâng cao tính bền vững của các công trình

CTPHMT; phục vụ cho công tác trồng cây (keo lá chàm, keo tai tượng) hay trồng

cỏ (cỏ lau le, hay cỏ ventiver) để phục hồi thảm thực vật. Do đó, chưa xác lập được

phương án CTPHMT phù hợp với sự phát triển KT-XH tại thời điểm kết thúc khai

thác để tiếp tục phát huy hiệu quả sử dụng đất sau khai thác mỏ lộ thiên.

Thực tế hiện nay, khu vực khai thác than lộ thiên vùng HG-CP là nơi kế cận và

tiếp giáp các vùng phát triển kinh tế trọng điểm. Như vậy, cần thiết phải biến đổi

các khu vực này thành các vùng vệ tinh làm động lực cho sự phát triển của các

vùng hạt nhân (vùng kinh tế phát triển). Như vậy, các khu vực CTPHMT tiếp tục là

nơi phụ cận của các vùng chức năng đặc trưng và là các vùng đất phát triển KT-

XH.

Việc thực hiện các giải pháp kỹ thuật CTPHMT nêu trên lồng ghép trong quá

trình hoạt động khai thác khoáng sản nói chung và CTPHMT của các mỏ than

KTLT nói riêng là cơ sở cho việc thực hiện CTPHMT mang lại hiệu quả CTPHMT

và phát triển kinh tế, đáp ứng được các mục tiêu chung về CTPHMT đối với các

hoạt động khai thác của các mỏ than KTLT.

153

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. KẾT LUẬN

Trong những năm qua, vùng HG-CP là nơi cung cấp chính nguồn năng lượng hóa

thạch cứng cho nhu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu, nhưng đây cũng là điểm

nóng, mang nhiều dấu ấn nặng nề do hậu quả của hoạt động khai thác mỏ, mà trong đó

KTLT là chủ yếu, gây ra đối với môi trường ngay cả khi đóng cửa mỏ cũng sẽ để lại

một vùng địa mạo nham nhở với hố lớn nhỏ sâu tới 500 m, những núi bãi thải cao

tới 350 m, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây bụi, sạt lở, lũ bùn đá, nguy hiểm đến tính

mạng người và gia súc, phá vỡ cảnh quan khu vực,…

Theo luật định, mỗi dự án đầu tư cho hoạt động khai thác mỏ, các đơn vị đều

phải lập dự án CTPHMT nhằm thực thi các quy định về việc ký quỹ CTPHMT đối

với hoạt động khai thác khoáng sản theo Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg (nay là

18/2013/QĐ-TTg) của Thủ tướng Chính phủ.

Trên thực tế, sau 5 năm thực hiện, các quy định về vấn đề CTPHMT còn nhiều

bất cập đối với các mỏ than KTLT vùng HG-CP, là nơi kế cận và tiếp giáp các

vùng phát triển kinh tế trọng điểm, lưu vực của vịnh Hạ Long và Bái Tử Long cần

bảo vệ nghiêm ngặt.

Để giải quyết vấn đề bất cập nêu trên, luận án đã nghiên cứu các giải pháp

quản lý - kỹ thuật tổng thể nhằm phục vụ công tác CTPHMT cho các mỏ than

KTLT vùng HG-CP với các nội dung sau đã được thực hiện:

1. Đã phân tích đặc điểm KT-XH đặc trưng của khu vực nghiên cứu; phân tích

hiện trạng công tác CTPHMT trên thế giới và ở Việt Nam; đánh giá hiện trạng

công tác CTPHMT tại các mỏ than KTLT vùng HG-CP.

2. Đã nghiên cứu đề xuất các giải pháp quản lý CTPHMT cho mỗi một mỏ cụ

thể trong tổng thể nhiều mỏ than KTLT trong vùng.

154

3. Đã nghiên cứu xác định các giải pháp kỹ thuật CTPHMT (cho mỗi một dạng

đặc trưng trong các dạng mỏ than KTLT kết thúc khai thác) lồng ghép trong ngay

quá trình khai thác mỏ nhằm tăng cường sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí ký quỹ.

Cụ thể như sau:

a. Các giải pháp quản lý:

- Đã đề xuất các giải pháp quản lý hành chính; các giải pháp quản lý kỹ thuật;

giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng khu vực CTPHMT:

- Đã xây dựng hệ số điều chỉnh kinh phí ký quỹ CTPHMT theo vị trí khai thác;

- Đã xây dựng tiêu chí đánh giá kết quả CTPHMT;

- Đã đề xuất biện pháp quản lý CTPHMT theo phân vùng chức năng;

- Đã đề xuất công cụ ĐMT;

- Đã đề xuất định hướng phân vùng chức năng CTPHMT để thực hiện

CTPHMT lồng ghép trong quá trình khai thác và sau KTLT tại vùng HG.

b. Các giải pháp kỹ thuật:

- Đã đề xuất phương án CTPHMT đối với khai trường;

- Đã đề xuất phương án CTPHMT đối với bãi thải đất đá;

- Đã đề xuất phương án CTPHMT cải tạo phục hồi thảm thực vật;

- Đã đề xuất các giải pháp kỹ thuật cho mỗi mỏ than lộ thiên: đổ thải trên một

số địa hình đặc trưng;

- Đã đề xuất giải pháp kỹ thuật thực hiện vào giai đoạn kết thúc khai thác để

giảm thiểu nguy cơ tai biến sạt lở đất và nguy cơ lũ bùn đá tại vùng khai

thác than lộ thiên;

- Đã đề xuất giải pháp kỹ thuật cải tạo hình dáng mỏ khi kết thúc khai thác

trong tổng thể nhiều mỏ liền kề.

Trong bối cảnh phát triển kinh tế trên diện tích hẹp ven biển của vùng HG-CP,

bên cạnh Vịnh Hạ Long - Di sản thiên nhiên Thế giới, Vườn Quốc gia Bái Tử Long

trong Vịnh Bái Tử Long thì các công tác quản lý kỹ thuật CTPHMT theo hướng đa

mục tiêu (theo lợi thế của vùng), theo định hướng phân vùng chức năng sử dụng đất

trên cơ sở ĐMT và các giải pháp kỹ thuật lồng ghép trong quá trình khai thác mỏ sẽ

155

là công cụ hữu hiệu hỗ trợ cho công tác CTPHMT tại các mỏ than KTLT vùng HG-

CP đạt được mục tiêu như các nước tiên tiến trong khu vực - là vùng phụ cận,

vùng đệm, vùng cách ly hoạt động khai thác mỏ để bảo vệ và phát huy giá trị của

các cảnh quan thiên nhiên của đất nước và của thế giới.

2. KIẾN NGHỊ

Từ những kết luận về những việc đã làm được, NCS đề xuất hướng nghiên cứu

tiếp theo là: Nghiên cứu xác lập các vùng chức năng CTPHMT nhằm phục vụ cho

công tác CTPHMT của các mỏ khai thác khoáng sản than tại vùng Uông Bí và

Đông Triều - Quảng Ninh.

156

CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Đặng Thị Hải Yến (2013), Cải tạo phục hồi môi trường theo hướng đa mục

tiêu trong hoạt động khai thác than lộ thiên vùng Hạ Long - Cẩm Phả tỉnh

Quảng Ninh, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 5/2013, tr. 56-60.

2. Đặng Thị Hải Yến (2013), Quản lý cải tạo môi trường trong khai thác mỏ lộ

thiên tại vùng Hạ Long - Cẩm Phả, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 1/2013, tr. 43-46.

3. Đỗ Ngọc Hoàn, Vũ Đình Hiếu, Nguyễn Hoàng, Đặng Thị Hải Yến (2012),

Tính toán mô phỏng phát tán bụi do hoạt động nổ mìn khai thác apatit Gia

Phú, Lào Cai, Tuyển tập báo cáo Hội nghị khoa học kỹ thuật mỏ toàn quốc lần

thứ 23, Hội Khoa học Công nghệ mỏ Việt Nam, tr. 448-453.

4. Đặng Thị Hải Yến, Nguyễn Phương Thanh (2012), Đánh giá môi trường tổng

hợp khu vực trọng điểm có hoạt động khai thác than tại Quảng Ninh, Tạp chí lý

luận, khoa học và nghiệp vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường, số 18 - (152)

2012, tr. 33-34.

5. Đỗ Ngọc Hoàn, Nguyễn Hoàng, Đặng Thị Hải Yến (2012). Tính toán sự phát

tán bụi do hoạt động vận tải bằng ô tô tại các mỏ than khai thác lộ thiên lớn

khu vực Cẩm Phả tới khu dân cư. Báo cáo Hội nghị khoa học lần thứ 20,

Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Hà Nội, tr. 142.

6. Đặng Thị Hải Yến, Nguyễn Văn Cường (2011), Công tác cải tạo và phục hồi

môi trường tại Quảng Ninh, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 3/2012, tr. 43-45.

7. Đặng Thị Hải Yến, Ngô Thành Tâm (2010), Đánh giá môi trường tổng hợp –

giải pháp hạn chế ô nhiễm môi trường ở các cụm dân cư Quảng Ninh, Tạp chí

Công nghiệp Mỏ, số 5/2010, tr. 28-30.

8. Đặng Thị Hải Yến (2010), Cơ hội tiếp cận sản xuất sạch hơn trong hoạt động

khai thác mỏ ở Việt Nam, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 01/2010, tr. 34-35.

9. Đặng Thị Hải Yến (2010), Tìm kiếm các giải pháp kỹ thuật sản xuất sạch hơn

trong hoạt động khai thác lộ thiên Quảng Ninh, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số

02/2010, tr. 35-36.

157

10. Đặng Thị Hải Yến (2008), Về tác động môi trường của việc đổ thải đất đá

trong hoạt động khai thác than Quảng Ninh tới môi trường, Tạp chí Công

nghiệp Mỏ, số 2/2008, tr. 24-26.

11. Đặng Thị Hải Yến (2008), Công tác quản lý Nhà nước trong hoạt động khoáng

sản tỉnh Quảng Ninh, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 7, tr. 39-41.

12. Nguyễn Cao Huần, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2012), Báo cáo đánh giá môi

trường chiến lược Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ninh đến

năm 2030. Đề tài được Bộ Tài nguyên Môi trường phê duyệt, Sở TNMT Quảng

Ninh thực hiện.

13. Hoàng Danh Sơn, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2012), Điều tra hiện trạng tài

nguyên môi trường biển và hải đảo tỉnh Quảng Ninh. Đề tài được UBND tỉnh

Quảng Ninh phê duyệt và Sở TNMT Quảng Ninh thực hiện.

14. Đặng Thị Hải Yến - thành viên Nhóm đối tác (2011-1013), Dự án hợp tác kỹ

thuật “Bảo vệ môi trường vịnh Hạ Long, Dự án được thực hiện giữa cơ quan

hợp tác Quốc tế Nhật Bản và UBND tỉnh Quảng Ninh.

15. Nguyễn Cao Huần, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2009), Quy hoạch Bảo vệ môi

trường các vùng trọng điểm Yên Hưng, Hạ Long, Cẩm Phả tỉnh Quảng Ninh

đến năm 2020. Đề án được UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt và Sở TNMT

Quảng Ninh thực hiện.

16. Hoàng Danh Sơn, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2007), Một số giải pháp nâng

cao năng lực quản lý TNMT trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020. Đề

án được UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt và Sở TNMT Quảng Ninh thực

hiện.

17. Hoàng Danh Sơn, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2004), Đánh giá các nguồn gây

ô nhiễm nghiêm trọng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và đề xuất giải pháp quản

lý, Đề án được UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt và Sở TNMT Quảng Ninh

158

thực hiện.

18. Đặng Thị Hải Yến và nnk (2002), Báo cáo nghiên cứu khả thi vỉa G vỉa Dày

khai trường Tây Khe Sim - Xí nghiệp Khe Sim - Công ty Đông Bắc, Đề tài được

Hội đồng quản trị Tổng Công ty than Việt Nam phê duyệt.

19. Thi Hai Yen Dang (2000), Étude préliminaire des impacts environnementaux

de la mine de charbon à ciel ouvert de Hà Tu (Vietnam), Diplôme de Formation

spécialisée en Exploitations à ciel ouvert - mines et carrères (Secrétariat d'état à

l'Industrie, Directeur de l'école Nationale Supérieure des Mines de Pasis a signé

et apposé le cachet).

159

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng việt

1. Lê Đức An, Lê Thạc Cán, Luc Hens, Nguyễn Ngọc Sinh (2008), Sổ tay hướng

dẫn đánh giá tác động môi trường chung cho các dự án phát triển, Đề án xây

dựng năng lục quản lý môi trường ở Việt Nam do Uỷ ban Châu Âu tài trợ.

2. Nguyễn Tác An, Tổng Phước Hoàng Sơn (2004), Sử dụng thông tin địa lý GIS

trong quản lý tổng hợp vùng ven bờ. Nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố

Hồ Chí Minh, Trường Đại Học Khoa học tự nhiên.

3. Nhữ Văn Bách (2008), ”Nâng cao hiệu quả phá vỡ đất đá bằng nổ mìn trong

khai thác mỏ”. Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội.

4. Bộ Công Thương (2010), Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược của Quy

hoạch phát triển ngành Than Việt Nam đến năm 2020 có xét đến 2030.

5. Trần Ngọc Chấn (2005), “Ô nhiễm không khí và xử lý khí thải”, Nhà xuất bản

Khoa học và Kỹ thuật.

6. Công ty Cổ phần tin học công nghệ và Môi trường (2011), Báo cáo Đánh giá tác

động môi trường Dự án Đầu tư xây dựng công trình mỏ than Cọc Sáu -

Vinacomin kèm theo Dự án cải tạo phục hồi môi trường.

7. Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường (2011), Phương án đổ thải

thử nghiệm theo lớp tại bãi thải Chính Bắc - Núi Béo.

8. Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường (2011-2012), Báo cáo dự

án CTPHMT mở rộng khai thác lộ thiên mỏ than Núi Béo.

9. Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường (2012), Báo cáo Đánh giá

tác động môi trường Dự án nâng công suất mỏ than Núi Béo kèm theo Dự án

cải tạo phục hồi môi trường.

10. Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường (2012), Dự án cải tạo phục

hồi môi trường dự án đầu tư xây dựng cải tạo mở rộng mỏ Đèo Nai.

11. Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường (2012), Dự án cải tạo phục

hồi môi trường của Dự án cải tạo và mở rộng sản xuất kinh doanh Công ty than

Cao Sơn.

160

12. Công ty Cổ phần Tin học, Công nghệ và Môi trường (2012), Đề án bảo vệ môi

trường vùng than Quảng Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

13. Công ty TNHH MTV Khe Sim (2012), Báo cáo quá trình chăm sóc, theo dõi và

đánh giá mô hình cây nhiên liệu trên đất suy thoái thực hiện từ tháng 6/2011

đến tháng 1/2012.

14. Công ty Tư vấn đầu tư Mỏ và Công nghiệp (2012), Dự thảo Quy hoạch phát

triển ngành Than Việt Nam tới 2020 có xét triển vọng đến năm 2030, Hà Nội.

15. Công ty Tư vấn đầu tư Mỏ và Công nghiệp (2006), Quy hoạch phát triển ngành

Than Việt Nam giai đoạn 2006-2015 có xét triển vọng đến năm 2025.

16. Công ty Tư vấn đầu tư Mỏ và Công nghiệp (2013), Báo cáo đánh giá tác động

môi trường kèm theo Đề án cải tạo phục hồi môi trường của Dự án cải tạo và

mở rộng sản xuất kinh doanh công ty than Cao Sơn (Điều chỉnh).

17. Công ty Tư vấn triển khai Công nghệ và Xây dựng mỏ địa chất (2007), Báo cáo

Đánh giá tác động môi trường Dự án cải tạo và mở rộng sản xuất kinh doanh

Công ty than Cao Sơn kèm theo Dự án cải tạo phục hồi môi trường.

18. Cục kiểm soát ô nhiễm môi trường - Tổng Cục Môi trường (2010), Xây dựng

bộ tiêu chí khoanh vùng kiểm soát ô nhiễm môi trường đất.

19. Cục kiểm soát ô nhiễm môi trường - Tổng Cục Môi trường (2010), Xây dựng

bộ tiêu chí khoanh vùng kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.

20. Cục kiểm soát ô nhiễm môi trường - Tổng Cục Môi trường (2010), Xây dựng

bộ tiêu chí khoanh vùng kiểm soát ô nhiễm môi trường nước.

21. Trần Minh Đản (2010), ”Ổn định bờ mỏ trong khai thác lộ thiên”, Trường Đại

học Mỏ - Địa chất, Hà Nội.

22. Đánh giá tác động luỹ tích (2010), Chương trình đào tạo môi trường - Uỷ viên

Hội sông Mê Kông.

23. Hoàng Việt Dũng (2012), Đánh giá ô nhiễm môi trường trong khai thác lộ thiên

trên địa bàn thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh và xây dựng các giải pháp giảm

thiểu ô nhiễm, Luận văn thạc sỹ kỹ thuật, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.

161

24. Hồ Sĩ Giao, Bùi Xuân Nam, Mai Thế Toản (2010), “Bảo vệ môi trường trong

khai thác mỏ than khai thác mỏ lộ thiên”, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa.

25. Hồ Sĩ Giao, Bùi Xuân Nam, Nguyễn Anh Tuấn (2009), “Khai thác khoáng sản

rắn bằng phương pháp lộ thiên”, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.

26. Hồ Sĩ Giao, Bùi Xuân Nam, Nguyễn Phụ Vụ (2010), “Bảo vệ môi trường và

phát triển bền vững trong khai thác mỏ lộ thiên”, Bài giảng cao học ngành Khai

thác mỏ.

27. Hồ Sĩ Giao, Đàm Trọng Thắng, Lê Văn Quyển, Hoàng Tuấn Chung (2010),

“Nổ hoá học - lý thuyết và thực tiễn”, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.

28. Lưu văn Hiển (2013), Nghiên cứu các giải pháp nâng cao độ ổn định bờ mỏ cho

một số mỏ khai thác đá ở khu vực phía Nam, Luận văn thạc sỹ Kỹ thuật,

Trường Đại học Mỏ - Địa chất.

29. Nguyễn Hiền (2005), Phân tích hệ thống trong địa lý quy hoạch và tổ chức lãnh

thổ, Bài giảng Trường Đại học Khoa học tự nhiên Hà Nội.

30. Phạm Ngọc Hồ, Đoàn Xuân Cơ (2000), “Đánh giá tác động môi trường”, Nhà

xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

31. Nguyễn Cao Huần, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2009), Quy hoạch Bảo vệ môi

trường tổng thể và một số vùng trọng điểm tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020. Đề

án được UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt và Sở TNMT Quảng Ninh thực

hiện.

32. Nguyễn Cao Huần, Đặng Thị Hải Yến và nnk (2013), Báo cáo đánh giá môi

trường chiến lược Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ninh đến năm

2030. Đề tài được Bộ Tài nguyên Môi trường phê duyệt, Sở TNMT Quảng Ninh

thực hiện.

33. Bùi Xuân Nam (2007). Những bài học kinh nghiệm từ công tác hoàn phục môi

trường sau khai thác mỏ lộ thiên tại CHLB Đức. Tuyển tập báo cáo Hội nghị

KHKT mỏ toàn quốc lần thứ 18. Hội Khoa học và công nghệ mỏ Việt Nam.

Sapa - Việt Nam. Tr. 453-457.

162

34. Sở TNMT tỉnh Quảng Ninh (2013), Dự thảo Quy hoạch môi trường tỉnh Quảng

Ninh.

35. Sở TNMT tỉnh Quảng Ninh (2013), Quy hoạch sử dụng đất tỉnh Quảng Ninh

đến năm 2020.

36. Sở xây dựng tỉnh Quảng Ninh (2103), Dự thảo quy hoạch xây dựng vùng tỉnh

đến năm 2030. Tầm nhìn đến năm 2050 và ngoài 2050.

37. Hoàng Danh Sơn (2006), “Nghiên cứu xác lập cơ sở địa lý cho việc sử dụng

hợp lý lưu vực vịnh Cửa Lục thành phố Hạ Long - tỉnh Quảng Ninh”, Luận án

Tiến sỹ địa lý, Trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội.

38. Nguyễn Thám (2006), Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu địa lý tự

nhiên, Đại học Huế.

39. Vũ Quyết Thắng (2012), “Quy hoạch môi trường”. Nhà xuất bản Đại học quốc

gia Hà Nội.

40. Hoàng Đức Triêm (2003), Cảnh quan địa lý ứng dụng. Bài giảng cho học viên

cao học chuyên ngành địa lý tự nhiên, Đại học Huế.

41. Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm khai thác mỏ (2012), Dự án cải tạo và phục

hồi môi trường của các dự án đầu tư mở rộng khai thác mỏ than Hà Tu.

42. Trung tâm Quan trắc và phân tích môi trường Quảng Ninh (2009), Báo cáo

đánh giá tác động môi trưởng dự án đầu tư xây dựng cải tạo mở rộng mỏ Đèo

Nai.

43. Viện Khoa học công nghệ Mỏ và Luyện kim (2004), Báo cáo tổng kết đề tài

“Điều tra khảo sát hiện trạng và nhu cầu hoàn thổ phục hồi môi trường của các

mỏ khai thác khoáng sản kim loại ở Việt Nam”.

44. Viện Khoa học công nghệ Mỏ và Luyện kim (2009), Dự án “Xây dựng quy

trình hoàn thổ phục hồi môi trường các vùng khai thác các loại hình khoáng sản

và hỗ trợ hoàn thổ phục hồi môi trường cho một số đơn vị khai thác khoáng

sản” và Nhiệm vụ “Xây dựng mô hình ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm và hoàn

thổ phục hồi môi trường trong khai thác, chế biến sa khoáng ven biển”.

163

45. Trần Mạnh Xuân (2003), ”Ổn định bờ mỏ, tầng và bãi thải mỏ than khai thác lộ

thiên”, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Hà Nội.

46. Đặng Thị Hải Yến (2008), Công tác quản lý Nhà nước trong hoạt động khoáng

sản tỉnh Quảng Ninh, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 7, tr. 39-41.

47. Đặng Thị Hải Yến (2013), Quản lý cải tạo môi trường trong khai thác mỏ lộ

thiên tại vùng Hạ Long - Cẩm Phả, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 1/2013, tr. 43-

46.

48. Đặng Thị Hải Yến (2013), Cải tạo phục hồi môi trường theo hướng đa mục tiêu

trong hoạt động khai thác than lộ thiên vùng Hạ Long - Cẩm Phả tỉnh Quảng

Ninh, Tạp chí Công nghiệp Mỏ, số 5/2013, tr. 56-60.

49. Đặng Thị Hải Yến, Ngô Thành Tâm (2010), Đánh giá môi trường tổng hợp -

giải pháp hạn chế ô nhiễm môi trường ở các cụm dân cư Quảng Ninh, Tạp chí

Công nghiệp Mỏ, số 5/2010, tr. 28-30.

50. Đặng Thị Hải Yến, Nguyễn Phương Thanh (2012), Đánh giá môi trường tổng

hợp khu vực trọng điểm có hoạt động khai thác than tại Quảng Ninh, Tạp chí lý

luận, khoa học và nghiệp vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường, số 18(152)

2012, tr. 33-34.

Tiếng Anh

51. Department of Industry, Tourism and Resources (2006), Mine rehabilitation.

Australian Government.

52. Federal Department of Town and Country Planning, Peninsular Malaysia (2010)

53. www. kpc.co.id/pdf/SR2010FinalEng.pdf.

54. www.quangninh.gov.vn

Tiếng Pháp

55. J.A.Flerisson, R.Cojean (2000), Stablite des pente et mouvements de versants.

164

PHỤ LỤC

1

PHỤ LỤC 1

PHÂN TÍCH LỰA CHỌN CÁC ĐỊNH HƯỚNG VÙNG CẢI TẠO

VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG ĐA CHỨC NĂNG

1.1. Định lượng cho các tiêu chí phân vùng CTPHMT:

1.1.1. Quy ước tầm quan trọng cho mỗi tiêu chí

Để thuận tiện và tạo được tính logic cho việc đánh giá, trong trường hợp này

sử dụng việc đánh giá định tính theo thang điểm gắn cho mỗi tiểu vùng để đánh giá

phân vùng. Ở đây các tiêu chí chính đều được bao gồm nhiều tiêu chí nhỏ, và mỗi

tiêu chí nhỏ đó sẽ được phân loại mức độ phù hợp bằng hệ số phù hợp theo thang

điểm như sau: Rất phù hợp: 5 điểm; Phù hợp: 3 điểm; Ít phù hợp: 2 điểm; Không

phù hợp: 0 điểm

Việc đưa ra hệ số phù hợp này sẽ giúp cho việc đánh giá theo tiêu chí có ý

nghĩa hơn. Từ tầm quan trọng của mỗi tiêu chí sẽ thể hiện được tiêu chí nào ảnh

hưởng lớn đến kết quả đánh giá. Từ kết quả đánh giá với tầm quan trọng đó thì

vùng CTPHMT cũng sẽ nhận được kết quả để xem xét bố trí, tổng hợp vào vùng.

Hơn nữa, nhờ vào các hệ số phù hợp mà cũng tránh được việc đánh giá các vùng

không phù hợp, đáp ứng với các tiêu chí cần thiết.

Các tiêu chí rất quan trọng và quan trọng là các tiêu chí ảnh hưởng rất lớn đến

kết quả đánh giá, từ đó thấy được tính cấp thiết phải khắc phục CTPHMT đáp ứng

các tiêu chí đó. Các tiêu chí ít quan trọng và đặc biệt là tiêu chí không quan trọng sẽ

ít ảnh hưởng hơn, việc thiếu tiêu chí không quan trọng cũng không gây thay đổi

nhiều lắm đối với điểm đánh giá cho việc phân vùng.

Do đây là phương pháp đánh giá bằng cách lượng hóa nên tiểu vùng có số

điểm tương đương thì được sát nhập lại như vậy thì được hiểu là vùng có mức độ

tương đồng theo các tiêu chí đánh giá.

1.1.2. Định lượng cho các tiêu chí phân vùng CTPHMT

Tiêu chí 1: Đánh giá về tính thống nhất và sự phù hợp với hệ sinh thái vùng.

Hiện nay, trong điều kiện hệ sinh thái không còn đa dạng, khu vực lân cận hầu

như không còn phong phú, hạn chế đa dạng về giống loài; việc đầu tư tài chính cho

2

công tác bảo vệ đa dạng sinh học có mức độ; do đó việc đánh giá, phân vùng theo

tiêu chí này cho các kết quả khách quan và chính xác là khó khăn. Tuy nhiên, việc

đánh giá sự phù hợp với hệ sinh thái hiện trạng vẫn là được xem xét, áp dụng và là

một trong những phương pháp đánh giá mà NCS lựa chọn. Qua các hiện trạng hệ

sinh thái, có thể đánh giá phần nào sự phù hợp của chúng.

Thực tế, việc phục hồi môi trường có thiên hướng phục hồi môi trường sinh

thái và đã được triển khai ở một số vùng mỏ. Ngoài ra, vấn đề hệ sinh thái tại vùng

lân cận cũng hỗ trợ cho việc đánh giá. Công tác đánh giá phần nào đã đạt được kết

quả nhưng vẫn còn nhiều hạn chế về dữ liệu đối với các chủng loài động thực vật

và số lượng của chúng; tiêu chí đánh giá theo hệ sinh thái vẫn là tiêu chí hàng đầu,

đảm bảo được tính phục hồi môi trường cho khu vực KTLT của các doanh nghiệp

mỏ, hơn nữa việc CTPHMT theo hướng này cũng thuận lợi cho việc đánh giá và

vẫn đảm bảo được tính thuyết phục của chương trình CTPHMT.

Tiêu chí hệ sinh thái là tiêu chí đánh giá đơn giản nhất mà lại rõ ràng và dễ

thuyết phục các doanh nghiệp thực hiện nhất.

Về mặt đa dạng sinh học, có rất nhiều loài sống rất đa dạng trước khi khai

thác, nay cần được doanh nghiệp thực hiện. Tuy nhiên, đây chỉ là tiêu chí xác định

và đánh giá sơ bộ, bước đầu sàng lọc, nên cần thiết phải đánh giá qua các yếu tố

sau:

- Một khu vực chỉ cần có một loài hoặc hai loài,… Cần thiết CTPHMT để lập

được hệ sinh thái đặc trưng, đồng thời có trách nhiệm duy trì và phát triển. Mặc dù,

có thể xác định được hệ sinh thái cần phục hồi và khả năng phục hồi để khắc phục

các hậu quả xấu mà khi kết thúc KTLT vẫn có thể gây ra, tuy nhiên chỉ tiêu này

cũng mang tính dự đoán chứ chưa mang tính thực tiễn cao. Do đó, tiêu chí này ít

quan trọng: 3 điểm. Khu vực lân cận liên quan có hiện trạng hệ sinh thái tự nhiên

đa dạng, phong phú: 5 điểm. Khu vực lân cận liên quan có hiện trạng hệ sinh thái tự

nhiên kém đa dạng (lấy mốc so sánh tính điểm là mức độ hệ sinh thái của khu vực

nghiên cứu), phong phú hơn: 5 điểm. Khu vực lân cận liên quan có hệ sinh thái

nhân tác: 0 điểm.

3

- Cần xem xét các loại canh tác như ruộng lúa, hoa mầu ở địa hình thấp; ruộng

lúa, hoa mầu địa hình cao; cây lâu năm; cây công nghiệp; mật độ cá thể; thời gian

tồn tại; nguồn thức ăn; nguồn dinh dưỡng của đất; nơi sinh sản; môi trường sống

cho một loài,…

- Cần xem sét sự phù hợp với: địa hình (bằng phẳng, dốc thoải, dốc đứng), địa

mạo, địa chất; cảnh quan vùng; hệ sinh thái đa dạng; hệ sinh thái nhân tác.

Tiêu chí 2: Đánh giá về sự phù hợp với điều kiện KT-XH vùng.

Tiêu chí này đánh giá xem khu vực đó được bố trí ở vùng giáp ranh và lân cận

vùng liên quan có mức độ nhạy cảm thế nào; có tình hình phát triển kinh tế ra sao;

việc CTPHMT có thiết thực, có tương thích và hỗ trợ cho sự phát triển tương lai,

do đó việc phân vùng CTPHMT phải mang tính khả thi trên cơ sở phân tích, đánh

giá nguồn và khả năng thực hiện; tính phù hợp và tương thích với các biến động về

KT-XH-MT.

Tiêu chí 3: Đánh giá về sự phù hợp với quy hoạch vùng và quy hoạch phát

triển ngành.

Vùng mỏ than KTLT khi kết thúc sẽ để lại treen vùng đá gốc nhiều dạng địa

hình khác nhau, nhưng vẫn là vùng sẽ được quy hoạch để sử dụng quỹ đất để phù

hợp với quy hoạch vùng lân cận và hoà nhập với vùng đó, đồng thời cũng phải

tương đồng về quy hoạch phát triển và định hướng trong tương lai. Trong vùng

này, có thể có các quy hoạch phát triển các ngành như: du lịch, nuôi trồng thuỷ sản,

công nghiệp,… Do đó, từ tiêu chí này sẽ xem xét được vùng CTPHMT phù hợp với

quy hoạch phát triển vùng và ngành liên quan (quy hoạch phát triển ngành, quy

hoạch thoát nước, quy hoạch đổ thải, quy hoạch giao thông,…). Do đó, nếu vùng

CTPHMT phù hợp với quy hoạch phát triển vùng và ngành liên quan, thì việc phát

triển trong tương lai là phù hợp và khả thi. Do đó, tiêu chí này rất quan trọng tương

ứng 10 điểm. Mức độ phù hợp cao với quy hoạch khu vực lân cận liên quan: 5

điểm; mức phù hợp trung bình với quy hoạch khu vực lân cận liên quan: 3 điểm;

mức phù hợp trung bình thấp với quy hoạch khu vực lân cận liên quan: <2 điểm;

không phù hợp với quy hoạch khu vực lân cận liên quan: 0 điểm.

4

Tiêu chí 4: Đánh giá thông qua kết quả tham khảo ý kiến của các chuyên gia

về kinh tế, môi trường và của các mỏ.

Đây là tiêu chí quan trọng, luôn có trong quá trình đánh giá để phân vùng

CTPHMT phù hợp với cộng đồng và phục vụ cho cộng đồng. Tuy nhiên, tiêu chí

này có tính khách quan không cao, nhưng lại là tiêu chí được đánh giá quan trọng

nhất vì nó mang tính xác thực cao. Đây là một tiêu chí đánh giá cần thiết.

Vùng được các chuyên gia chấp nhận với tỷ lệ 80÷100%: 5 điểm; vùng được

các chuyên gia chấp nhận với tỷ lệ 40÷70%: 3÷4 điểm; vùng được các chuyên gia

chấp nhận với tỷ lệ 10÷30%: 2 điểm; vùng được các chuyên gia chấp nhận với tỷ lệ

0÷10%: 0 điểm.

Đây là một tiêu chí quan trọng, thể hiện rõ mục đích, đó là các công cụ kinh tế

được các cơ quan chức năng sử dụng nhằm tác động tới vùng CTPHMT mang lại

hiệu quả kinh tế mà vẫn có lợi cho môi trường, góp phần làm cho công tác BVMT

có hiệu quả hơn, gia tăng nguồn thu nhập phục vụ cho công tác BVMT và cho ngân

sách Nhà nước. Vì thế, quy ước đây là tiêu chí quan trọng: 2 điểm.

Vì vậy, việc rà soát ý kiến và dư luận của người dân xung quanh cơ sở sản xuất

cũng là một tiêu chí xác thực để đánh giá sự phù hợp của vùng CTPHMT. Tiêu chí

này mang tính khách quan cao và có tính quần chúng cao. Hơn nữa, việc xem xét

các ý kiến của quần chúng cũng giúp cho việc đánh giá toàn diện hơn.

Đội ngũ các chuyên gia bao gồm: chuyên gia kinh tế, chuyên gia ngành du

lịch, chuyên gia ngành cảng biển, chuyên gia ngành phát triển đô thị, chuyên gia

các mỏ.

Tiêu chí 5: Đánh giá theo hệ số vùng.

Vùng CTPHMT phân bố ở khu vực nào cũng có liên quan và ảnh hưởng đến

môi trường xung quanh của khu vực đó. Nếu là khu vực nhạy cảm (tức có nhiều giá

trị khác về du lịch hay là di sản thiên nhiên hoặc là khu đô thị đặc biệt, đông

dân,...), thì mức độ sử dụng đất sẽ được đánh giá gắt gao hơn so với các khu vực

không nhạy cảm.

5

Do đó, việc đánh giá theo hệ số vùng cũng không kém phần quan trọng. Vùng

CTPHMT ở các khu vực nhạy cảm sẽ càng được quan tâm nhiều hơn vì các khu

vực này có nhiều mục đích sử dụng đất mang lại hiệu quả so với các khu vực kém

nhạy cảm hơn.

Khi đánh giá về vị trí vùng CTPHMT, cần xem xét đánh giá điểm theo các tiêu

chí điều chỉnh theo hệ số điều chỉnh theo vùng (Kd).

Tiêu chí 6: Hiệu quả về kinh tế.

Hệ số Ki quy ước điểm được trình bày như trong mục 3.5.1 (Bảng 3.2). Đây

cũng là cơ sở hoàn thiện các văn bản pháp lý liên quan về hướng dẫn thực hiện

Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg, ngày 29/3/2013 của Thủ Tướng Chính phủ.

Việc lựa chọn mô hình kinh tế để CTPHMT mang lại hiệu quả kinh tế phù hợp

với điều kiện cụ thể của các mỏ than KTLT vùng HG-CP sẽ giúp cho việc xử lý

môi trường, CTPHMT đạt hiệu quả cao, giảm được chi phí cho CTPHMT,… Các

mô hình CTPHMT được lựa chọn để phát triển kinh tế, đồng thời đạt mục tiêu

BVMT phải phù hợp với đặc điểm tự nhiên (địa hình, địa chất thủy văn, khí

hậu,…) và các điều kiện KT-XH (mức sống của người dân, mức đầu tư của các

doanh nghiệp, phải phù hợp với giao thông, cung cấp điện, khu dân cư, nguồn lao

động,…) của địa phương (phù hợp với trình độ người lao động; khả năng đầu tư,

quản lý; khả năng áp dụng duy trì và phát triển bền vững,…).

1.2. Lựa chọn và xác định các định hướng vùng CTPHMT đa chức năng

Việc lựa chọn và xác định các định hướng vùng CTPHMT đa chức năng dự

kiến (bao gồm cả các tiểu vùng) được thực hiện theo phạm vi, diện tích; ranh giới;

tọa độ; đường bờ sông suối hoặc theo địa giới hành chính và điều kiện phát triển

KT-XH lân cận và vùng ưu tiên đã được xác định.

Với mục tiêu định hướng vùng CTPHMT, phân vùng CTPHMT dự kiến, nhằm

phục vụ, định hướng công tác lập dự án CTPHMT đảm bảo các nội dung sau:

(1). Giảm thiểu tối đa các ảnh hưởng xấu của hoạt động khai thác than lộ thiên

ngay cả khi đã dừng khai thác để không tiếp tục gây ô nhiễm môi trường.

6

(2). CTPHMT mỗi một mỏ khai thác than lộ thiên riêng biệt nhưng vẫn phải

phù hợp và thống nhất trong cụm mỏ.

(3). Đảm bảo phù hợp với điều kiện tự nhiên, phát triển KT-XH-MT vùng phụ

cận (phù hợp với các dự án phát triển đã và đang thực hiện; thống nhất với các khu,

cụm công nghiệp, các đô thị và khu vực tập trung dân cư lận cận vùng CTPHMT).

(4). Giữ gìn hiện trạng sử dụng đất được xem là hợp lý hoặc một số thực trạng

không thể thay đổi được nữa (các khu vực đã cải tạo, phục hồi môi trường tính đến

thời điểm hiện nay).

(5) Tăng cường hiệu quả sử dụng đất và mang lại việc làm cho người lao động

(khi mỏ dừng khai thác) nhằm tiếp tục phát triển kinh tế địa phương.

(6). Tăng quỹ đất phục vụ mục đích phát triển kinh tế

(7). Vốn đầu tư hợp lý, phù hợp với khả năng kinh tế của chủ đầu tư.

Xác định định hướng phân vùng CTPHMT theo các nguyên tắc sau:

(1). Tương đối đồng nhất về đặc điểm tự nhiên, KT-XH vùng lân cận và phụ

cận.

(2). Tương đối đồng nhất về các vấn đề môi trường cần giải quyết sau khi kết

thúc khai thác than lộ thiên.

(3). Có vị trí địa lý thuộc cùng một lưu vực sông, suối, vịnh.

1.3. Phân tích, đánh giá khái quát đặc điểm tự nhiên và KT-XH vùng phụ

cận các mỏ than KTLT để dự báo định hướng phân vùng CTPHMT

1.3.1. Phân tích kế hoạch phát triển KT-XH thành phố Hạ Long đến năm

2015 định hướng đến năm 2020

- Phát triển KT-XH thành phố Hạ Long đặt trong mối quan hệ tương tác chặt

chẽ và định hướng chung của tỉnh Quảng Ninh và cả vùng kinh tế trọng điểm Bắc

Bộ. Đồng thời, đặt trong mối quan hệ với các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và các

khu kinh tế đối ngoại, cảng biển và ven biển tới Móng Cái và biên giới Trung

Quốc, tạo điều kiện phát triển nhanh và hiện đại hoá nền kinh tế thành phố.

- Dựa vào tiềm năng của thành phố Hạ Long, cần phát triển mạnh các ngành có

lợi thế như: công nghiệp, du lịch, dịch vụ thương mại, cảng và vận tải biển,...

7

hướng tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng nền kinh tế với cơ cấu công

nghiệp, dịch vụ du lịch, nông lâm thuỷ sản đa dạng,… gắn kết với việc BVMT.

- Kết hợp hài hoà phát triển sản xuất với phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và

xã hội tạo môi trường cho phát triển kinh tế thành phố ổn định và bền vững. Tăng

tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá nhất là ngành dịch vụ và công nghiệp.

Với mục tiêu đến năm 2010 đưa thành phố Hạ Long trở thành trung tâm du

lịch lớn tầm cỡ quốc gia, quốc tế, là trung tâm công nghiệp, cảng, thương mại, dịch

vụ của vùng và khu vực, trở thành động lực thúc đẩy phát triển KT-XH. Đến năm

2020 đưa Hạ Long trở thành đô thị loại I.

Cơ cấu phát triển kinh tế xác định là theo hướng phát triển mạnh khu vực dịch

vụ, đặc biệt là du lịch, dịch vụ vận tải và thương mại. Với các chỉ tiêu tăng trưởng

cụ thể như: đến năm 2010 đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân từ 14÷15%,

tỷ trọng công nghiệp và xây dựng là 53÷56% trong tổng giá trị gia tăng; dịch vụ

43÷46% và nông nghiệp dưới 1%.

Hướng phát triển công nghiệp chủ yếu của thành phố là các khu công nghiệp

tập trung và cảng như: khu công nghiệp Cái Lân và cảng Cái Lân, khu công nghiệp

Đồng Đăng (Việt Hưng). Qua đó tập trung xây dựng các ngành công nghiệp có giá

trị sản xuất cao như: công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp phụ tùng và vận

tải thuỷ, công nghiệp VLXD, công nghiệp may mặc, công nghiệp điện và điện tử,

công nghiệp cơ khí lắp ráp, công nghiệp chế biến gỗ, hàng tiêu dùng, công nghiệp

thực phẩm và công nghiệp nước giải khát phục vụ du lịch. Các khu công nghiệp

được bố trí tại khu vực rất thuận lợi về giao thông, có đường Quốc lộ 18A, đường

sắt kép và hệ thống cơ sở hạ tầng và điện nước thuận lợi. Có thể thấy đối với thành

phố Hạ Long, phát triển các khu công nghiệp tập trung có vai trò quan trọng cho

việc tạo hạt nhân phát triển vùng.

Ngoài ra, nhiều ngành công nghiệp khác như công nghiệp chế tác và cơ khí,

công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống cũng được quan tâm phát triển.

Phát triển các ngành kinh tế của thành phố Hạ Long cần được gắn chặt với việc

quản lý tốt vấn đề môi trường của ngành công nghiệp khai thác than; việc khống

8

chế lượng chất thải nguy hại và chất rắn rửa trôi xuống vịnh sẽ giảm đáng kể tiềm

năng xảy ra các tác động tích luỹ trong khu vực đối với khu vực di sản thế giới

Vịnh Hạ Long.

1.3.2. Phân tích, đánh giá khái quát về đặc điểm tự nhiên và KT-XH vùng

phụ cận các mỏ than KTLT vùng Hòn Gai

1.3.2.1. Nhóm vùng phía Tây Hạ Long

Nhóm vùng phía Tây bao gồm các phường Hà Khánh, Cao Xanh, Cao Thắng,

Hà Lầm thuộc thành phố Hạ Long.

a) Đặc điểm tự nhiên và KT-XH

Các phường Hà Khánh, Cao Xanh có vị trí nằm ven bờ vịnh Cửa Lục. Đây là

vùng hệ thống đô thị mới phát triển ven biển, có quy hoạch phát triển khu công

nghiệp Hà Khánh; nhà máy nhiệt điện Hà Khánh; các cảng than, cảng vật liệu xây

dựng.

Đây là vùng có giao thông thuận lợi về đường bộ (đường quốc lộ 337) và

đường thuỷ, là khu vực có nhiều điều kiện phát triển công nghiệp, du lịch và cảng

hàng hóa, phục vụ phát triển công nghiệp, thông thương với huyện Hoành Bồ.

Phường Cao Thắng có vị trí tiếp giáp với khu Hà Khánh và phường Hà Lầm.

Đây là vùng khu dân cư tập trung, đông đúc; việc phát triển kinh tế chủ yếu phục

vụ cho hoạt động sản xuất than tại các mỏ vùng Hòn Gai; là vùng phát triển nông

nghiệp, cung cấp rau, thực phẩm chăn nuôi cho thị trường khu vực; là vùng có giao

thông thuận lợi về đường bộ (đường quốc lộ 18B).

Chảy qua khu vực nghiên cứu có sông Sông Diễn Vọng và hệ thống suối nhỏ

chảy ra biển tại Hà khánh như suối Suối Lại, suối Bắc Bàng Danh và suối chảy qua

địa phận Hà Trung, Hà Lầm, Hà Khánh với lưu lượng nước suối phụ thuộc vào

nước thải mỏ và nước mưa.

b) Các vấn đề môi trường nổi cộm

- Khu vực Cao xanh, Hà Khánh: lân cận khu vực có hoạt động khai thác than lộ

thiên của mỏ than 917; khu lộ vỉa mỏ Thành Công (đã kết thúc khai thác 2008);

Cao Thắng (đã kết thúc khai thác 2006); khu lộ vỉa 10B của mỏ Hà Tu (sẽ kết thúc

9

khai thác năm 2018). Vùng phụ cận có khu đô thị Cao Xanh; Hà Khánh A, B, C và

nhà máy nhiệt điện Hà Khánh, nguy cơ tiếp tục gây ô nhiễm không khí tại đây do

các bãi thải dọc theo đường 337; ô nhiễm môi trường cảnh quan nhìn từ cầu Bãi

Cháy với các dãy núi bãi thải với một mầu đất xám xịt, phía sau dải đồi thấp và

dưới vùng trời xanh. Nguy cơ tiếp tục gây xói lở và bồi lắng sông Diễn Vọng và

vịnh Cửa Lục.

- Khu vực Cao Thắng, Hà Lầm: lân cận có hoạt động khai thác than lộ vỉa của

mỏ Hà Lầm, Núi Béo (sẽ kết thúc khai thác 2015); có nguy cơ tiếp tục gây ô nhiễm

không khí tại khu tập trung dân cư do các bãi thải gần khu dân cư và nguy cơ tiếp

tục gây bồi lắng hệ thống suối của khu vực và vịnh Cửa Lục.

1.3.2.2. Nhóm vùng phía Đông Hạ Long

Nhóm vùng phía Đông bao gồm các phường Hà Trung, Hà Tu, Hà Phong thuộc

thành phố Hạ Long.

a) Đặc điểm tự nhiên và KT-XH

Các phường Hà Trung có vị trí tiếp giáp với phường Hà Lầm và Hà Tu. Đây là

vùng khu dân cư tập trung, đông đúc; việc phát triển kinh tế chủ yếu phục vụ cho

hoạt động sản xuất than tại các mỏ vùng Hòn Gai là khu vực có nhiều điều kiện

phát triển dịch vụ và nông nghiệp. Trong khu vực mỏ có suối chảy qua Hà Lầm, Hà

Khánh với lưu lượng nước suối phụ thuộc vào nước thải mỏ và nước mưa.

Các phường Hà Tu, Hà Phong có vị trí nằm giáp với phường Hà Trung và

phường Hồ Hải (ven biển khu cọc 8), ven bờ vịnh Hạ Long. Đây là vùng khu dân

cư tập trung, đông đúc; việc phát triển kinh tế chủ yếu là phục vụ cho hoạt động

sản xuất than tại các mỏ vùng Hòn Gai, là vùng phát triển nông nghiệp cung cấp

rau, thực phẩm chăn nuôi cho thị trường khu vực.

Tại khu vực có suối Hà Tu, Hà Phong. Suối Hà Phong là nguồn cung cấp nước

cho hồ Khe Cá và tưới tiêu cho vùng nông nghiệp hạ lưu. Khu vực có nhiều điều

kiện phát triển nông nghiệp và công nghiệp khai thác đá.

b) Các vấn đề môi trường nổi cộm

10

- Khu vực Hà Trung: lân cận có hoạt động khai thác than lộ thiên của mỏ Núi

Béo (kết thúc khai thác vào năm 2015); khu lộ vỉa của mỏ Hà Lầm là nguy cơ tiếp

tục gây ô nhiễm không khí tại đây, đặc biệt do các bãi thải dọc theo đường 18B; ô

nhiễm môi trường cảnh quan nhìn từ đường 18B với các núi bãi thải nham nhở;

nguy cơ tiếp tục gây bồi lắng ven bờ vịnh Hạ Long.

- Khu vực Hà Tu, Hà Phong: Hoạt động khai thác than lộ thiên của mỏ Tân Lập

(kết thúc khai thác vào năm 2009); khu lộ vỉa mỏ Hà Tu có nguy cơ tiếp tục gây ô

nhiễm không khí; ô nhiễm môi trường cảnh quan khi nhìn từ vịnh Hạ Long; nguy

xói lở và bồi lắng bờ vịnh Hạ Long.

- Khu vực Hạ Long: bao gồm ngoài các phường thuộc vùng lân cận thuộc thành

phố Hạ Long (phường Bãi Cháy, Hồng Gai, Hồng Hải), là các vùng nằm ven bờ

vịnh Hạ Long. Đây là vùng có hệ thống đô thị ven biển phát triển, là vùng cảng du

lịch, phát triển thương mại và du lịch.

Môi trường không khí ít chịu ảnh hưởng của việc khai thác than lộ thiên.

Phường Hồng Hải có môi trường không khí chịu ảnh hưởng của việc vận chuyển

than, sàng tuyển chế biến than và bãi thải mỏ. Do hiện nay chưa có biện pháp cách

ly các khu vực khai thác với khu dân cư, nên ô nhiễm bụi vẫn là nguy cơ lớn, ảnh

hưởng đến sinh hoạt và phát triển dịch vụ của khu vực. Chất thải sinh hoạt, chất

thải khai thác than và khoáng sản là nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước ven bờ vịnh

Hạ Long.

- Khu vực Di sản thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long: có cảnh quan đẹp, đa

dạng sinh học cao, là khu bảo vệ thiên nhiên kết hợp du lịch độc đáo của Việt Nam.

Các vấn đề môi trường nổi cộm là ô nhiễm và bồi lắng đáy vịnh do các hoạt động

khai thác than lộ thiên và sản xuất, dịch vụ từ đất liền, dải ven biển; các hoạt động

du lịch trên biển, hang động; các hoạt động giao thông đường thủy qua cảng Cái

Lân; các hoạt động khai thác hải sản ven bờ.

1.3.3. Phân tích, dự báo định hướng các vùng CTPHMT tại Hòn Gai

Vùng khai thác than lộ thiên lân cận vùng dân cư, đô thị và vùng du lịch trọng

điểm của Thành phố Hạ Long có tốc độ tăng trưởng GDP khá cao, bình quân hàng

11

năm đạt 12÷15%. Cơ cấu kinh tế có sự biến chuyển mạnh mẽ, đến nay đã phát triển

thành một trong những trung tâm du lịch, thương mại, dịch vụ, công nghiệp lớn của

tỉnh Quảng Ninh và cả nước. Ngành du lịch tại Quảng Ninh đang phát triển trở

thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trong dự thảo “Chiến lược phát triển cho các thành

phố loại vừa tại Việt Nam” do nhóm tư vấn thuộc Viện Quy hoạch Đô thị Nông

thôn, Bộ Xây dựng và Ngân hàng Thế giới thực hiện, thành phố Hạ Long sẽ trở

thành trung tâm công nghiệp, cảng biển - dịch vụ, một địa chỉ hấp dẫn đầu tư về du

lịch, có môi trường sống và cơ sở hạ tầng đạt tiêu chuẩn quốc tế, là hình ảnh tiêu

biểu về sự hài hoà giữa văn hoá, thiên nhiên và con người vào năm 2020. Mục tiêu

phát triển KT-XH được xác định có tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng

13,3%/năm đến năm 2010 và 14,5%/năm trong giai đoạn 2011-2015.

Do vậy các định hướng chức năng CTPHMT ở vùng Hòn Gai bao gồm:

- Việc mở rộng diện tích đất đô thị thành phố Hà Long là điều cần thiết, tuy

nhiên, các dự án lấn biển với mục đích mở rộng diện tích đã ở mức tới hạn. Vì vậy,

cần hình thành những khu đô thị mới khu dân cư tập trung tại các khu vực kết thúc

khai thác mỏ. Nếu không quan tâm ngay từ bây giờ, thì sẽ mất nguồn kinh tế lớn và

sau này muốn CTPHMT thành khu đô thị sẽ phải đầu tư thêm lượng kinh phí lớn

để thực hiện.

Trên mặt bằng các khu vực kết thúc khai thác mỏ ở lân cận khu đô thị tập trung

của Hạ Long, hiện nay vẫn chưa chú ý đến việc dành các không gian nhất định cho

việc mở rộng khu đô thị, khu du lịch công nghiệp, tạo mặt nước, tạo cảnh quan và

mối liên hệ với biển (lợi thế của vùng HG-CP),… để tạo không gian sinh thái cho

đô thị mới, khu vui chơi giải trí phục vụ du lịch công nghiệp tại các khu vực kết

thúc khai thác than lộ thiên.

Vấn đề xử lý chất thải rắn của hoạt động khai thác lộ thiên là một vấn đề lớn,

trước khi thực hiện việc đổ thải, phải được chú ý ngay từ khi thiết kế ban đầu (tạo

cảnh quan hay tạo mặt bằng tạo quỹ đất). Nếu không, khi diện tích bãi thải tăng lên

và phát triển không theo định hướng sẽ gây khó khăn cho công tác phục hồi đất sau

này. Về lâu dài, trong bối cảnh phát triển kinh tế, phát triển đô thị trên diện tích hẹp

12

như khu vực Hạ Long thì công tác CTPHMT với tầm nhìn hạn hẹp như hiện nay sẽ

trở nên vô ích và quá lãng phí. Tất cả các hạng mục CTPHMT đều phải xem xét

đến mọi việc có liên quan và phải tận dụng được lợi thế của vùng. Điều này cần

được chú ý và quán triệt cho việc CTPHMT các mỏ than KTLT vùng HG-CP nói

riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung.

Các bãi thải sẽ tiếp tục là nguy cơ tiềm ẩn gây trượt lở, gây bồi lắng suối làm

tăng nồng độ độ đục và chất rắn lơ lửng tại vùng cửa biển tăng nhanh sẽ là điều

không tránh khỏi. Do vậy, phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật để giảm thiểu và

triệt tiêu các tai biến gây trượt lở, gây bồi lắng suối.

Việc CTPHMT nhằm hỗ trợ BVMT du lịch sinh thái vịnh Hạ Long là vấn đề

phát triển chiến lược cho vùng phụ cận thành phố Hạ Long với Di sản thiên nhiên

thế giới (Vịnh Hạ Long, Vịnh Bái tử Long và Vườn Quốc gia Bái Tử Long), cần

được những người quản lý CTPHMT các mỏ than KTLT quan tâm.

Trên cơ sở đó, các vùng CTPHMT tại Hòn Gai được hình thành với các chức

năng dự kiến như sau:

(1). Vùng CTPHMT tạo thành khu vực phát triển cảnh quan lâm nghiệp nhằm

BVMT vịnh Cửa Lục; bảo vệ đất nông nghiệp vùng hạ lưu bải thải Nam Lộ Phong

và Hồ Khe Cá; bảo vệ môi trường khu dân cư lân cận (gọi tắt là vùng HG1).

Các vấn đề BVMT quan trọng cần quan tâm trong khu vực này gồm:

- BVMT khu dân cư, phòng tránh tai biến trượt lở đất, giảm thiểu xói mòn đất

gây suy thoái tài nguyên đất nông nghiệp lân cận bãi thải Nam lộ phong, bồi lắng

lòng hồ Khe Cá.

- BVMT đất, nước, không khí ở các khu vực bãi thải. Hiện nay, hoạt động khai

thác than đã làm cho cảnh quan và môi trường bị biến đổi lớn, việc đổ thải đã tạo

lên các bãi thải thải lớn. Bãi thải Nam Lộ Phong nằm sát đường 18A,... nhưng chưa

được đảm bảo an toàn. Nhiều vấn đề bức xúc chưa được quan tâm giải quyết một

cách quyết liệt, hiệu quả như: xử lý nước thải mỏ, đất đá trôi từ các khai trường, bãi

13

thải cũng như việc xử lý bụi trên các tuyến đường có hoạt động vận chuyển than

chưa cao đã gây ảnh hưởng lớn đến đời sống, sinh hoạt, sức khỏe của nhân dân.

(2). Vùng CTPHMT tạo thành khu vực dân cư; du lịch công nghiệp; phát triển

khu vui chơi giải trí (sân golf) phục vụ du lịch công nghiệp; hành lang cây xanh

cảnh quan cách ly khai thác hầm lò với khu dân cư (gọi tắt là vùng HG2).

Là khu vực có hoạt động khai thác than lộ thiên và hầm lò của Công ty CP than

Núi Béo với quy mô công nghiệp lớn; khu vực khai thác có địa hình đa dạng, rộng

trên 300ha và có khoảng cách đường đến đường 18 B là 300m và đường 18A là

1km, lân cận khu dân cư trọng điểm. Do vậy, khi kết thúc khai thác than lộ thiên,

có khả năng tạo thành khu du lịch công nghiệp với bảo tàng khu vực khai thác lộ

thiên và hầm lò, tạo thành sân golf, khu ngắm vịnh Hạ Long thơ mộng và khu vui

chơi giải trí phục vụ du lịch công nghiệp.

Các vấn đề CTPHMT quan trọng cần được quan tâm ở vùng này bao gồm:

- BVMT do ảnh hưởng của cảnh quan khu vực đến du lịch vịnh Hạ Long.

- Trồng rừng bằng cây xanh cách ly khu vực sản xuất than hàm lò của Công ty

Núi Béo để BVMT khu dân cư, tạo cảnh quan cho khu du lịch công nghiệp lân cận.

- Việc mở rộng diện tích thành phố Hạ Long với việc hình thành khu du lịch

công nghiệp với bảo tàng khu vực khai thác lộ thiên và hầm lò, tạo sân golf, khu

ngắm vịnh Hạ Long thơ mộng và khu vui chơi giải trí phục vụ du lịch công nghiệp.

(3). Vùng CTPHMT nhằm phát triển lâm nghiệp và BVMT lưu vực sông Diễn

Vọng - Vịnh Cửa Lục; hành lang cây xanh cảnh quan cách ly khai thác hầm lò với

khu dân cư và bảo vệ môi trường cảnh quan nhìn từ Cầu Bãi Cháy (gọi tắt là vùng

HG3).

Vùng này với bãi thải cao chiếm ưu thế với độ cao tuyệt đối từ 200÷300m, đỉnh rộng, sườn dốc trung bình 28o, sườn thải nhiễu rãnh phân cắt vào sườn thải sâu

1,5÷20m. Dân cư tập trung đông đúc dọc các tuyến quốc lộ và hạ lưu suối Suối Lại,

Hà Lầm, Hà Trung.

Lân cận là khu đô thị phát triển trên thềm biển thoải dần về phía biển, bị phân

cắt yếu tạo địa hình gò thoải. Phía Nam là địa hình bãi triều, nghiêng thoải về phía

14

biển, độ cao 0,5÷1,5m, cấu tạo bởi bùn sét màu xám đen; khu vực cửa các khe suối,

các máng thoát nước có lẫn nhiều vật liệu thô như mảnh dăm sét than, sét bột kết.

Rừng ngập mặn kém phát triển do các hoạt động phát triển kinh tế. Phía Tây là

huyện Hoành Bồ, phía Đông là khu đô thị và công nghiệp than, các nhà máy Nhiệt

Điện Hà Khánh,... Hoạt động lấn biển lấy không gian phát triển đô thị Hà Khánh

A, B, C và Đ đang diễn ra nhanh chóng.

Bên cạnh đó, vấn đề nguy cơ tiềm ẩn về sạt lở, tai biến của các bãi thải trên

vùng khai thác than lộ thiên lưu vực vịnh Của Lục cũng cần phải được xem xét giải

quyết trong công tác CTPHMT.

Các vấn đề CTPHMT cần quan tâm ở vùng này bao gồm:

- Phòng ngừa nguy cơ trượt lở và lũ bùn đá do đất đá thải; ngăn ngừa, giảm

thiểu xói mòn đất bằng cách bảo vệ lớp phủ thực vật đã có; ngăn ngừa tai biến sạt

lở đất tại bãi thải; rửa trôi bãi thải, đe dọa bồi lắng vịnh Cửa Lục và các cụm dân cư

lân cận.

- Trồng rừng bằng cây xanh cách ly khu vực sản xuất than hầm lò của Công ty

TNHH MTV than Hòn Gai và Hà Lầm để BVMT khu dân cư lân cận, đồng thời

nâng cao chất lượng môi trường lao động của khu vực khai thác than có liên quan

đến ô nhiễm không khí.

- Xây dựng hệ thống kè kiên cố, hợp lý, hiệu quả cho khu vực từ thượng nguồn

suối, ngăn đất đá rửa trôi gây ô nhiễm môi trường nước ven biển, gây bồi lắng vùng

vịnh Cửa Lục, ảnh hưởng gián tiếp tới khu vực vịnh Hạ Long.

Tóm lại, NCS định hướng phân vùng CTPHMT cho các nhóm mỏ than KTLT

vùng Hòn Gai như sau:

a) Vùng HG1 bao gồm khu vực vỉa 7, 8 mỏ Hà Tu; khai thác lộ vỉa của Xí

nghiệp than Thành Công; Cao Thắng (đã kết thúc khai thác); khai thác lộ thiên 917

- Xí nghiệp than 917.

b) Vùng HG2: bao gồm khai trường, bãi thải mỏ Núi Béo và một phần khai

trường, bãi thải mỏ phần phía Bắc và Tây Bắc, mỏ Hà Tu.

c) Vùng HG3: bao gồm lộ vỉa mỏ Tân Lập (đã kết thúc khai thác); phần phía

Đông và Đông Bắc mỏ than Hà Tu; Lộ vỉa +110 Tân Lập.

15

PHỤ LỤC 2

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH CÁC LOẠI CÂY

TRỒNG TRÊN ĐẤT SUY THOÁI CỦA MỘT SỐ MỎ THAN KHAI

THÁC LỘ THIÊN, PHỤC VỤ CÔNG TÁC LỰA CHON LOẠI CÂY

VÀ PHỤC HỒI THẢM THỰC VẬT

2.1. Mô hình trồng cây nhiên liệu trên đất suy thoái của Công ty TNHH

MTV Khe Sim

Theo báo cáo quá trình chăm sóc, theo dõi và đánh giá mô hình cây nhiên liệu

trên đất suy thoái thực hiện từ tháng 6/2011 đến tháng 1/2012 của Công ty TNHH

MTV Khe Sim được thực hiện tại bãi thải than Đông Khe Sim trên diện tích 2,8 ha.

Cây trồng thử nghiệm gồm 7 loại cây trồng khác nhau: sắn, lúa miến ngọt, jatropha,

thanh thất, cỏ vetiver, cỏ chè vè và keo tai tượng. Cây được bắt đầu trồng từ

4/5/2011 đến 20/5/2011, trồng dặm và trồng bổ sung từ 7-11/6/2011.

Điều kiện thời tiết: Mặc dù mô hình mới được thực hiện khoảng 7 tháng thì

gặp nhiều điều kiện bất thuận của thời tiết gồm mưa lớn, bão gió và khô hạn nên

ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng và tốn nhiều công chăm

sóc. Điều kiện nắng nóng, khô hạn diễn ra nhiều, điển hình là đợt mới trồng (từ

6/5/2011 đến 11/5/2011), đợt khô hạn kéo dài từ 10/9/2011 đến 25/9/2011, từ

10/10/2011 đến 20/11/2011, đã ảnh hưởng lớn đến khả năng sinh trưởng, phát triển

của cây trồng. Việc tưới nước bổ sung phải thực hiện nhiều lần với các cây trồng,

đặc biệt là với lúa miến ngọt (trên 10 lần tưới) và jatropha (7 lần). Ngoài ra, các

cây trồng khác phải tưới bổ sung 3-4 lần ở các thời điểm khô hạn nghiêm trọng.

(1). Cây sắn (Cassava) và lúa miến (Sweet sorghum)

Qua thực tế đánh giá tình hình sinh trưởng của cây sắn và cây lúa miến trên mô

hình, chúng tôi nhận thấy: cây sắn và cây lúa miến phát triển chủ yếu dựa vào phân

bón. Nếu loại trừ ảnh hưởng của điều kiện gió bão và thời vụ muộn, với lượng phân

bón tối ưu, năng suất sắn trồng trên đất bãi thải hoàn toàn có thể đạt ngang bằng với

16

năng suất sắn bình quân của Việt Nam năm 2010 là 17.2 tấn/ha. Nhưng loại cây

này khó chống xói mòn.

Hình 1: Cây lúa miến trồng ngày 26/6 – 1/9/2011 Hình 2: Cây sắn trồng sau 4 tháng

(2). Cây Jatropha

Qua theo dõi, đánh giá cho thấy jatropha có khả năng sinh trưởng, phát triển tốt

trên đất bãi thải trong điều kiện thời tiết thuận lợi. Qua kết quả theo dõi cho thấy,

phân bón có tác động lớn đến các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển của atropha và

phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật phòng trừ. Cây không phát triển và rụng lá vào

mùa khô. Ở cây giống trồng bằng cành giâm, sau 2 tháng trồng đã có 30% số cây

có hoa và đạt 90% sau 5 tháng trồng. Ở cây giống trồng bằng hạt, số cây có hoa đạt

5% sau 3 tháng trồng, đạt 70% sau trồng 5 tháng trồng. Những cây ra hoa đều có

khả năng kết hạt và hình thành năng suất.

Hình 3: Jatropha trồng sau 4 tháng (24/9) Hình 4: Thanh thất trồng sau 5 tháng

17

(3). Cây Thanh thất (Ailanthus)

Cây giống Ailanthus được khai thác tự nhiên ở rừng núi Phú Thọ và lần đầu

tiên được trồng trên đất bãi thải than. Sau 7 tháng trồng, Ailanthus đã sinh trưởng,

phát triển tốt và được đánh giá là cây có triển vọng trồng trên đất bãi thải than. Ở

công thức không bón phân, cây sinh trưởng phát triển kém. Khác với jatropha,

thanh thất có khả năng phục sinh trưởng nhanh sau bão và vẫn giữ được bộ lá xanh

tốt cả trong điều kiện khô hạn và bụi của điều kiện Quảng Ninh (tháng 11/2011-

1/2012), tuy nhiên tốc độ tăng trưởng cả về chiều cao và đường kính tán chậm bị

chậm lại.

Hình 5: Cây keo sau trồng 5 tháng Hình 6: Cỏ chè vè sau trồng 5 tháng

(4). Cây keo (Acacia)

Phân bón quyết định đến sinh trưởng, phát triển của cây keo. Ở công thức

không bón phân, cây keo sinh trưởng, phát triển kém và còi cọc, bộ lá vàng và thiếu

sức sống. Sau 7 tháng trồng, chiều cao trung bình chỉ đạt 60 cm. Ngược lại, ở các

công thức có bón phân cây keo có tốc độ sinh trưởng, phát triển rất tốt. Dù bị gió

bão gây dập nát lá nhưng cây phục hồi rất nhanh. Hai tháng đầu mới trồng, tốc độ

tăng trưởng chiều cao cây và đường kính tán chậm nhưng càng về thời gian sau, tốc

độ tăng trưởng chiều cao cây và đường kính tán càng nhanh mặc dù không được

bón phân bổ sung so với cây trồng khác. Tuy nhiên theo thực tế tại mặt bãi thải

Nam Lộ Phong sau 5 năm phát triển tốt trên bãi thải nhưng trường hợp có gió lớn

cây sẽ bị bật gốc với tỷ lệ 10% như vậy cây có bộ rễ nông.

18

(5). Cỏ chè vè (Miscanthus)

Cỏ chè vè được phân bố tự nhiên trong khắp các vùng sinh thái Việt Nam và

xuất hiện nhiều tại Quảng Ninh, cả trên diện tích đất bãi thải như một loài cỏ dại.

khả năng sinh trưởng và tạo sinh khối phụ thuộc vào phân bón. tất cả các cây đều trổ

hoa và có hiện tượng vàng úa, giảm sức sống. Qua 7 tháng theo dõi mô hình nhận

thấy, khả năng đẻ nhánh và hình thành sinh khối của cỏ miscanthus thấp hơn nhiều

so với cỏ vertiver (lượng phân bón ở các công thức của hai cây trồng giống nhau).

(6). Cỏ Vetiver

Cỏ đem trồng tại mô hình là những bầu cỏ được ươm 50 ngày tuổi, sinh trưởng

phát triển tốt, có từ 3 đến 10 nhánh, bộ rễ phát triển tốt. Cỏ được trồng vào thời

điểm cuối tháng 5 năm 2011, thời điểm sau trồng gặp điều kiện thời tiết thuận lợi,

có mưa lên cỏ phát triển rất thuận lợi. Tăng trưởng phụ thuộc vào bón phân. Tỷ lệ

cây sống đều đạt trên 90%. công thức không bón. Ở công thức này, cây sinh trưởng

phát triển rất chậm, lá vàng úa, khả năng đẻ nhánh kém. Sau 2 tháng trồng, cây có

biểu hiện bị tàn lụi và bị chết dần. Tiến hành trồng dặm và bón phân bằng lượng tối

ưu. Sau 2 tháng, cây có phục hồi sinh trưởng nhưng rất chậm. có bón phân cây sinh

trưởng, phát triển rất tốt. Cây đẻ nhiều nhánh, tăng nhanh về chiều cao và sinh

khối. Hai tháng sau trồng, cây đã phát triển thành băng hoàn chỉnh, bộ rễ phát triển

và có khả năng chống xói mòn tốt. Vào mùa khô cây vetiver ngừng sinh trưởng,

vàng lá và rụng lá, mùa xuân đã phát triển trở lại.

Hình 7. Cỏ vetiver Hình 8. Cỏ vetiver sau

trồng sau 4 tháng 5 năm tại bãi thải Nam Lộ Phong

19

2.2. Chương trình hợp tác giữa CHLB Đức với Công ty Cổ phần Than

Núi Béo về việc trồng một số loại cây bản địa trên bãi thải chính Bắc Núi Béo

Chương trình bắt đầu từ ngày 14/5/2008 đến ngày 24/9/2012 với việc trồng

cây thử nghiệm tại mặt bằng mức +256 bãi thải Chính Bắc với tổng diện tích là 0,65

ha; qua thời gian nghiên cứu, các chuyên gia đã tìm được ba loại cây đại diện của

khu vực có khả năng thích ứng được với môi trường khô cằn như bãi thải, với các

loại cây: bông bạc, xoan, cỏ đót. Đến nay ba loại cây này vẫn đang sinh trưởng

nhưng phát triển chậm, do thời tiết khô hạn. Công ty thực hiện trồng cây găng trên

bãi thải mỏ, cây phát triển chậm và cho cảnh quan đẹp do nở hoa có mầu đỏ đẹp và

bền lâu tuy nhiên công tác bảo vệ cây phải tăng cường để phòng chông lấy trộm cây.

Hình 9: Cây găng xen lẫn cỏ lau le Hình 10: Cây bông bạc

Hình 11: Cây Xoan trồng trên bãi thải Hình 12: Cây cỏ đót trồng trên bãi thải

20

Hình 13: Cây cỏ lau le mọc tự nhiên tại bãi thải mỏ than Núi Béo (12/2013)

2.3. Chương trình trồng cây keo trên đất suy thoái tại bãi thải lộ thiên

Nam Lộ Phong của Công ty Cổ phần Than Hà Tu

Hình 14: Cây keo bật gốc khi bão lớn

21

Hình 15: Cây Jatropha sau 5 năm trồng tại bãi thải Nam Lộ Phong

Hình 16: Hố nước trên mặt bãi thải Nam Hình 17: Bãi thải Nam Lộ Phong và

Lộ Phong và cỏ ventiver (12/2013) nương ngô dưới chân bãi thải

(12/2013)

2.4. Chương trình trồng cây côt khí trên đất suy thoái tại bãi thải lộ

thiên vỉa G của Công ty Cổ phần Than Mông Dương

Loại cây cốt khí có khả năng phát triển rất nhanh và chi phí thấp. Thực tế

cho thây chỉ trong vòng tuần đầu sau khi gieo là cây đã phát triển được 2 lá mầm và

khoảng 2 tháng là cây đã phát triển cao 1520 cm tạo màu xanh cho toàn bộ khu

vực bãi thải lộ thiên vỉa G của Công ty Cổ phần Than Mông Dương.

22

Hình 18: Cây cốt khí tại bãi thải vỉa G - Công ty Cổ phần Than Mông Dương

23

PHỤ LỤC 3

PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ VỀ TAI BIẾN TRƯỢT LỞ ĐẤT,

LŨ BÙN ĐÁ KHU VỰC HẠ LONG - CẨM PHẢ

3.1. Nguồn phát sinh nguy cơ tai biến sạt lở đất

Trên những khu vực khai thác than chính vùng HG-CP, có nhiều đới đứt gãy

làm đất đá bị nén ép mạnh, cà nát, tạo thành những khe nứt có thể làm tăng cường

độ và tính thấm của đất đá, thuận lợi cho hoạt động của nước và quá trình phong

hóa, làm tiền đề cho những khe rãnh xói mòn lớn, gây phát sinh trượt lở mạnh.

Các bãi thải mỏ được thành tạo bởi đất đá thải ra từ hoạt động khai thác than

lộ thiên với đất đá bở rời, hỗn độn (nhiều kích thước khác nhau), là nơi có sự tiềm

ẩn lớn nhất các tai biến trượt lở, lũ bùn đá xảy ra sau khi kết thúc khai thác, thường

xuyên đe dọa đến các khu dân cư lân cận, các khu dân cư nằm ở hạ lưu của các

sông suối bắt nguồn từ các bãi thải.

Thời gian đầu, khi kết thúc khai thác và đổ thải thì chưa ảnh hưởng tới quá

trình địa mạo và chưa phát sinh nguy cơ tai biến. Theo thời gian, các bãi thải này sẽ

có quá trình biến đổi đất đá như bị phong hóa bởi thời tiết và khí hậu, sẽ tích luỹ

các nguy cơ tiềm ẩn tai biến.

Theo thời gian, đất đá thải tiếp tục bị phá huỷ cơ học, đặc biệt là ở các lớp phía

trên, đá rắn chắc trở nên mềm bở. Do đất đá thải không đồng đều, có độ lỗ hổng

lớn, các tác nhân phong hoá có thể tác động tới lớp cuối cùng. Đặc biệt, quá trình

phong hoá ở đới nước ngầm lưu thông - nơi tiếp giáp giữa bề mặt nguyên thuỷ và

khối đất đá thải sẽ xảy ra mạnh nhất.

Đất đá tại bãi thải luôn có một phần không nhỏ đất đá có bề mặt bị phong hóa;

đó là đất đá thải đã có sự cân bằng hoá học tương đối với môi trường bề mặt và luôn

có sự tham gia đáng kể của cấp hạt sét. Quá trình phong hóa cơ học, hóa học sẽ dần

phá hủy các mảnh vụn rắn chắc thành các mảnh có kích thước nhỏ hơn, hình thành

các khoáng vật sét và dẫn tới các đặc trưng môi trường khác so với khi mới được đổ

ra.

24

Đặc điểm chung của đất đá thải là có sự liên kết với nhau rất yếu. Khi được đổ

thải từ trên cao xuống tạo thành núi cao, nhưng thực tế, chúng tạo nên một phần bề

mặt sườn có độ dốc cao hơn góc dốc tự nhiên và chỉ một phần phù hợp với góc dốc

tự nhiên. Tuy nhiên, đây là các sườn dốc chưa ổn định và khá nhạy cảm với các tác

động bên ngoài.

Các nghiên cứu cho thấy, mức độ bảo tồn và chiều dày của vỏ phong hóa còn

có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với độ chênh cao, tuổi địa hình và tỷ lệ thuận với diện

tích của bề mặt địa hình phát triển vỏ phong hóa. Ở độ cao càng lớn thì điều kiện

phát triển vỏ phong hóa càng kém và khó được bảo tồn. Diện tích của bề mặt địa

hình phát triển vỏ phong hóa càng lớn thì vỏ phong hóa càng dày và được bảo tồn

tốt. Vỏ phong hóa phát triển trên các bề mặt địa hình có tuổi càng cổ thì càng

mỏng, nhưng nếu có diện tích rộng thì điều này sẽ ngược lại.

Trong vùng HG-CP, hoạt động khai thác than lộ thiên từ năm 1965 đến nay đã

làm cho địa hình ở đây bị biến động mạnh mẽ. Vị trí các moong khai thác đã xuống

sâu gần đến mức -200m, trong khi đó, ở các vị trí đổ thải, độ cao của bãi thải đã cao

thêm gần 350m. Điều này ảnh hưởng mạnh đến độ ổn định của đất đá trong khu vực,

ở các vị trí có độ dày lớn, quá trình trượt lở diễn ra càng mạnh, liên quan đến tỷ trọng

của đất đá thải trên sườn và kết cấu của chúng khi bị ngậm nước khi mưa.

Việc đánh giá sự biến đổi địa hình được thực hiện thông qua việc so sánh và

tính toán từ 2 mô hình số độ cao địa hình, được xây dựng từ bản đồ địa hình năm

1965 và năm 2004 (Hình 19, 20).

Hình 19: Mặt cắt biến đổi địa hình vùng HG-CP giai đoạn 1965-2004

Đối với khu vực biến động dương, việc đánh giá trọng số dựa trên cơ sở bề dày

của các bãi thải đối với nguy cơ trượt lở đất. Các khu vực biến động âm được đánh

giá riêng vì nó không liên quan bề dày của bãi thải.

25

Hình 20: Bản đồ biến đổi địa hình vùng HG-CP giai đoạn 1965-2004

Hai nhân tố có ý nghĩa quan trọng đối với trượt lở đất, đó là sự phá vỡ trạng

thái cân bằng tương đối của sườn bởi làm tăng độ dốc và tải trọng sườn. Các tác

nhân chính dẫn đến tăng độ dốc sườn đó là sự đào khoét sườn dọc theo các dòng

chảy và sự xâm thực giật lùi của các mương xói, do cắt xe taluy đường, hạ thấp

thân đường, khoét sâu vào chân sườn. Sự phát triển của mương xói ngầm trên các

sườn, đặc biệt là ở khu vực bãi thải, cộng với hoạt động làm đường, có thể làm

giảm tính bền vững của kết cấu đất đá và làm tăng nguy cơ trượt lở. Trong điều

kiện phát triển tự nhiên, ngoại trừ trên các đá rắn chắc, còn lại độ dốc của địa hình thường hiếm khi đạt được đến 35÷40o. Trong khi đó độ dốc trên sườn các bãi thải

hầu hết đều đạt giá trị này và thậm trí còn cao hơn, lại trên các vật liều mềm rời,

bởi vậy, nguy cơ phát sinh trượt lở ở đây là rất cao.

Phân tích mật độ và đặc trưng của mạng lưới khe xói cũng là cơ sở quan trọng

cho việc đánh giá và dự báo trượt lở đất. Mật độ chia cắt ngang càng lớn, số lượng

sông suối, khe rãnh càng nhiều sẽ làm tăng thêm tính bất ổn định của các sườn dốc,

dẫn đến nguy cơ trượt lở đất càng cao. Trong khu vực nghiên cứu, các khe xói phát

triển rất mạnh, rõ nhất là trên sườn các bãi thải ở các khu vực khai thác than.

26

Hình 21: Khe suối cắt vào chân bãi thải

Hình 22: Sườn dốc trên 450 trên các bãi thải từ hoạt động khai thác than

Sự xâm thực giật lùi của mương xói dẫn tới việc hình thành một dạng sườn hẹp

có trắc diện khá dốc. Sự tập trung nước ở phần chân sườn dốc này vào mùa mưa là

cơ sở cho việc phát sinh các khối trượt. Đáng lưu ý là quá trình này cung cấp một

lượng đất đá thải khá lớn tham gia vào hoạt động dòng chảy, làm tăng tính khốc liệt

của lũ quét.

Độ chia cắt sâu hay độ chênh cao của địa hình cũng có ý nghĩa quan trọng đối

với việc đánh giá nguy cơ trượt lở. Độ chênh cao của địa hình càng lớn, năng lượng

của địa hình càng cao và nguy cơ xảy ra tai biến trượt lở cũng càng mạnh. Trong

khu vực nghiên cứu, độ chia cắt sâu lớn nhất trên 200 m, trung bình là trên 100m.

Điều này cho thấy rõ tầm ảnh hưởng của chia cắt sâu tới hiện tượng trượt lở đất.

27

Hình 23: Bản đồ nguy cơ trượt lở, lũ bùn đá vùng HG-CP

3.2. Nguồn phát sinh nguy cơ lũ bùn đá

Đối với dạng tuôn chảy chủ yếu liên quan đến nguy cơ trượt lở và dòng bùn đá

trong lưu vực, độ dốc và hình dáng của lưu vực. Đối với loại lũ quét vỡ dòng, nó

phụ thuộc vào cấu trúc của thung lũng sông suối, đó là dạng thung lũng xuyên

thủng có nhiều đoạn thắt hẹp, mở rộng xen kẽ nhau.

Vùng HG-CP có mạng lưới sông suối không phải dày đặc tuy nhiên trên các

sườn hình thành nhiều khe rãnh xâm thực.

Diện tích lưu vực hứng mưa càng lớn, lòng sông suối chính càng ngắn thì dòng

lũ và vận tốc lũ càng lớn. Độ lớn của lưu vực có ảnh hưởng đến tính chất và quy

mô của lũ bùn đá. Hiện trạng lũ bùn đá ở vùng HG-CP cho thấy chúng thường xuất

hiện trên các khe suối nhỏ trên các sườn bãi thải.

28

Độ dốc lòng suối có ý nghĩa quyết định tới việc hình thành các dòng bùn đá và

lũ quét dọc các suối. Độ dốc lòng càng cao thì vận tốc dòng chảy càng lớn, khả

năng lôi cuốn bùn đá càng mạnh. Độ dốc trung bình của các lưu vực càng lớn nguy

cơ trượt lở càng mạnh và độ tập trung nước càng nhanh.

Dạng lũ bùn đá xảy ra theo cơ chế vỡ dòng hết sức nguy hiểm do liên tục có sự

tích lũy năng lượng khối nước và bùn đá. Loại lũ này thường xảy ra trên các sông

suối dạng xuyên thủng hoặc có nhiều đoạn gấp khúc đột ngột. Trong khu vực

nghiên cứu trận lũ bùn đá xảy ra ở thung lũng Khe Dè là một ví dụ điển hình.

Thông thường, sự hình thành thung lũng có dạng như thế này đều gắn với mối

quan hệ giữa phương của cấu trúc địa chất và hướng của thung lũng suối. Khi dòng

chảy cắt vuông góc với phương cấu trúc địa chất và cắt qua nhiều tập đá có độ bền

vững khác nhau, tại chỗ cắt qua đá gốc rắn chắc sẽ là nơi thung lũng bị thắt hẹp, ở

những vị trí cắt qua các đá kém bền vững, thung lũng sông thường mở rộng do ở

đây quá trình phong hóa và xâm thực bờ diễn ra mạnh hơn.

3.3. Vùng cảnh báo tai biến trượt lở đất, lũ bùn đá vùng HG-CP

Kết quả nghiên cứu của PGS.TS. Đặng Kế Bào cho thấy, nguy cơ xảy ra trượt

lở, lũ bùn đá cao nhất tập trung vào 2 khu vực khai thác than Hà Tu - Hà Lầm và

Đèo Nai - Cọc 6 - Mông Dương - Núi Béo. Ngoài ra, còn có một số vị trí khác như

ở khu vực phường Quang Hanh, ở phía Tây, Tây Bắc Bằng Tẩy và xã Cộng Hòa

nhưng với diện phân bố không đáng kể. Nguy cơ trượt lở cao ở đây, một mặt liên

quan đến đặc điểm kết cấu kém của đất đá thải, bề dày và độ dốc lớn của các bãi

thải, còn lại, các vị trí khác thì trùng với nơi có điều kiện thuận lợi về đặc điểm

thạch học và các đặc trưng hình thái. Ví dụ, ở khu vực phường Quang Hanh, vị trí trượt lở cao trùng với nơi địa hình có độ dốc lớn (>25o), bị chia cắt mạnh (chia cắt ngang trên 500m/km2, chia cắt sâu là trên 200m), các sườn, một mặt phát trên đá

của hệ tầng Hòn Gai có chứa than, mặt khác lại trùng với hướng cắm của đá gốc,

đồng thời lại trùng với một đới đứt gãy kéo dài từ Hà Tu đến Cọc 6. Các khu vực

còn lại nhìn chung khá ổn định, nguy cơ trượt lở không lớn.

29

Bảng 1: Bảng thống kê một số khu vực có nguy cơ phát sinh trượt lở

Nguy cơ trượt

Khu vực

Rất thấp Thấp TB Mạnh Rất mạnh

x Khe Dè

x x Thượng nguồn suối Lộ

Phong

x Mỏ than Đèo Nai

Những nơi có khả năng phát sinh tai biến lũ quét - bùn đá cao hầu hết tập trung

ở những lưu vực sông suối nhỏ bắt nguồn từ các bãi thải từ hoạt động khai thác

than có nguy cơ trượt lở cao. Theo cách đánh giá ngẫu nhiên này, các lưu vực suối

Lộ Phong, Khe Rè rơi vào các vị trí có nguy cơ cao nhất. Đây là những điểm đã

được khảo sát thực địa và là những vị trí có sự tập trung đất đá bở rời lớn ở phần

thượng nguồn, thung lũng suối có nhiều đoạn gấp khúc hoặc bị thắt hẹp đột ngột,

làm tăng khả năng nghẽn tắc, đồng thời có độ dốc và mật độ chia cắt ngang lớn.

Phía đông bắc huyện Cẩm Phả, nơi có mật độ chia cắt ngang khá cao, nhưng các

sườn khá ổn định do phát triển chủ yếu trên các đá rắn chắc của hệ tầng Hà Cối.

Trong khu vực này, nguy cơ phát sinh trượt lở, lũ bùn đá chỉ ở mức thấp và rất

thấp. Giữa Cẩm Phả và Hạ Long là khu vực có nguy cơ trượt lở khá cao, nhưng do

mạng lưới sông suối không phát triển, bởi vậy nguy cơ xảy ra lũ bùn đá ở đây là rất

thấp.

30

PHỤ LỤC 4

QUY TRÌNH ĐỔ THẢI THEO LỚP ĐẢM BẢO ỔN ĐỊNH BÃI THẢI

4.1. Mở bãi thải

1. Căn cứ hộ chiếu đổ thải, kiểm tra địa hình trong khu vực giới hạn và phụ

cận có thể ảnh hưởng của việc đổ thải, di chuyển hết các công trình bị ảnh hưởng

do đổ thải (công trình nhà cửa, xưởng điện…), thi công phải hướng nước chảy ra

ngoài phạm vi đổ thải (nếu có), ngăn chặn các tuyến đường mòn người hay đi qua

lại và cắm biển báo nguy hiểm do đổ thải (nếu cần).

2. Làm đường vận chuyển tới vị trí mở thải (ghi trong bình đồ hộ chiếu đổ

thải). Công việc làm đường thực hiện theo quy trình làm đường mỏ.

3. Sau đó từ vị trí mở thải kết hợp máy gạt và ô tô đổ đất tiến hành đổ bồi tạo

diện đổ thải. Ban đầu thi công mở bãi thải, ô tô chỉ được phép đổ đất trên mặt, sau

đó sử dụng máy gạt gạt bằng mặt thiết kế lớp đổ thải quy định 2m hoặc 4m.

4.2. Tiến hành đổ thải

Trình tự đổ thải được thiết lập trên cơ sở đảm bảo cho công tác đổ thải ổn định,

không ảnh hưởng đến sản xuất và đảm bảo điều kiện kỹ thuật an toàn.

1. Ở mỗi khu vực đổ thải có các vị trí: Vị trí đang đổ thải, vị trí dự phòng (nếu

có điều kiện). Việc đổ thải sẽ được luân chuyển từ vị trí này sang vị trí khác căn cứ

vào điều kiện an toàn của từng vị trí để quyết định.

2. Trong quá trình đổ thải phải thường xuyên quan sát bãi thải để xác định thời

điểm chuyển đổ thải sang vị trí khác một cách hợp lý, trên cơ sở chiều cao bãi thải,

tính chất đất đá, điều kiện thời tiết, tốc độ phát triển, chiều rộng của chu kỳ đang đổ

và hiện tượng sụt lún của vị trí đổ thải. Tuy nhiên trong mọi trường hợp, ở mỗi khu

vực không được phát triển quá 70 m chiều rộng trong một chu kỳ đổ thải.

3. Trên mỗi khu vực đang đổ thải dọc theo chu vi bãi thải phải tổ chức được tối

thiểu hai khu vực nhỏ: Khu vực ô tô lùi ra đổ đất, khu vực máy gạt đang gạt đất đá,

để đảm bảo ô tô và máy gạt đều đồng thời làm việc.

4. Ô tô đổ đất đá phải đổ ở vị trí kế tiếp nhau dọc theo chu vi và dịch chuyển vị

trí theo hướng phát triển đổ thải.

31

4.3. Củng cố bãi thải

Trong quá trình đổ thải, bãi thải có thể có hiện tượng sụt lún nứt nẻ, làm thay

đổi các thông số kỹ thuật an toàn của bãi thải. Để đảm bảo hoạt động ổn định cần

phải thường xuyên bồi dưỡng củng cố bãi thải.

1. Hàng ca phải thường xuyên kiểm tra bãi thải, khi phát hiện bãi thải có hiện

tượng sụt lún: Mặt bãi thải bị lún làm giảm độ dốc vào; xuất hiện các vết nứt trên

bề mặt; bờ an toàn không đảm bảo kích thước theo quy định, thì phải ngăn không

cho xe ra đổ thải ở khu vực có hiện tượng sụt lún và nhanh chóng tổ chức củng cố

lại để đảm bảo thông số theo quy định.

2. Củng cố bãi thải do sụt lún. Từ vị trí có hiện tượng bị sụt lún, nứt nẻ cho ô

tô đổ đất “úp bát” lên bề mặt. Lượng đất tùy theo khối lượng cần phải đổ bồi củng

cố. Sau đó sử dụng máy gạt san đất đá đổ bồi, nâng độ cao mặt bãi thải lên bằng

cao độ thiết kế để đảm bảo độ dốc thoát nước.

3. Củng cố bề mặt bãi thải khắc phục hiện tượng lồi lõm.

Trong quá trình xe ô tô ra vào đổ thải do sự tác động của bánh xe lên bề mặt

chưa ổn định nên mặt bãi thải hay có hiện tượng chỗ lồi, chỗ lõm. Để đảm bảo cho

xe ra vào đổ thải thuận lợi, cần phải thường xuyên san gạt tạo cho mặt bãi thải được

phẳng và dốc đều vào tâm bãi thải.

Nếu mức độ lồi lõm không lớn, sử dụng máy gạt trực tiếp san gạt bù trừ đất đá

chỗ lồi và chỗ lõm cho nhau.

Nếu mức độ lồi lõm lớn lựa chọn đất đá phù hợp (không sử dụng đất pha sét,

than, bùn) đổ bồi vào chỗ lõm bằng xe ô tô và san gạt. Vị trí cần đổ bồi do công

nhân máy gạt yêu cầu và công nhân chỉ dẫn đầu đường hướng dẫn cho xe đổ thải.

4. Củng cố bờ an toàn.

Khi bờ an toàn không đảm bảo kích thước theo quy định cần phải củng cố lại

ngay. Sau khi mặt bãi thải đảm bảo điều kiện kỹ thuật an toàn, chỉ dẫn cho xe đổ

đất cạnh bờ an toàn và dùng máy gạt để làm lại bờ an toàn đạt được kích thước theo

quy định. Ô tô chỉ được phép đổ đất trên mặt bãi thải và dùng máy ủi đẩy ra làm bờ

an toàn.

32

5. Củng cố bãi thải.

Cần phải đặc biệt tăng cường công tác kiểm tra và củng cố. Sau mỗi thời gian

tạm dừng đổ thải: Nghỉ giao ca; nghỉ sửa chữa máy; nghỉ do thời tiết… để tiếp tục

đổ thải trở lại, cán bộ công trường phải trực tiếp kiểm tra, củng cố, xử lý bãi thải

đảm bảo điều kiện kỹ thuật an toàn mới cho đổ.

- Cán bộ công trường trực tiếp chỉ đạo việc củng cố bãi thải.

- Hiện tượng sụt lún, nứt nẻ và việc củng cố ở ca trước phải được bàn giao chi

tiết cho ca sau, để ca sau nắm được tình trạng sụt lún của bãi thải và có biện pháp

xử lý đúng, đảm bảo an toàn cho sản xuất.

4.4. Thoát nước bãi thải

1. Có biện pháp hướng nước ra ngoài khu vực đổ thải, không cho các nguồn

nước chảy vào bãi thải, đặc biệt bãi thải đang hoạt động. Không được để cho mặt

bãi thải bị đọng nước và để nước trên bãi thải chảy ngược vào khai trường mỏ.

2. Trong quá trình đổ thải, phương hướng và trình tự đổ thải đảm bảo sao cho

mặt bãi thải có độ dốc để dồn nước (nước trên mặt bãi thải) tập trung về một khu

vực rồi theo hệ thống thoát nước chảy ra ngoài khu vực đổ thải.

3. Khi kết thúc đổ thải, sử dụng máy gạt kết hợp ô tô đổ đất cấm đường ra bãi

thải (nếu cần) làm hoàn chỉnh hệ thống thoát nước của toàn bộ khu vực bãi thải,

đảm bảo dẫn nước mặt trong khu vực bãi thải theo hệ thống thoát nước của mỏ.

33

PHỤ LỤC 5

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ KHAI THÁC THAN LỘ THIÊN VÀ CÔNG TÁC

CẢI TẠO VÀ PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG Ở VÙNG HÒN GAI

Hình 25: Bãi thải chưa trồng cây Hình 26: Bãi thải đã trồng cây

(Mỏ Núi Béo) (Mỏ Núi Béo)

Hình 27: Xói mòn ở bãi thải Hình 28: Mỏ than 917 và

của mỏ Núi Béo Nhà máy Nhiệt điện Hà Khánh

34

Hình 29: Moong khai thác mỏ than Núi Béo (12/2013)

Hình 30: Tầm nhìn từ bãi thải Hình 31: Bãi thải Nam

mỏ Núi Béo ra Vịnh Hạ Long Lộ Phong (122013)

35

Hình 32: Đập rọ đá chân Hình 33: Suối Lộ Phong

bãi thải Nam Lộ Phong (12/2013)

Hình 34: Toàn cảnh vịnh Hạ Long nhìn từ mỏ Núi Béo