HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
PHẠM THANH QUẾ
NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HOÀ BÌNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÀ XUẤT BẢN HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP - 2020
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
PHẠM THANH QUẾ
NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HOÀ BÌNH
Ngành: Mã số: Người hướng dẫn khoa học:
Quản lý đất đai 9 85 01 03 TS. Phạm Phương Nam TS. Nguyễn Nghĩa Biên
HÀ NỘI - 2020
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên
cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng dùng để bảo vệ
lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận án đã được cám ơn,
các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày… tháng… năm 2020
Tác giả luận án Phạm Thanh Quế
i
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án, tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ, động viên của bạn bè, đồng
nghiệp và gia đình.
Nhân dịp hoàn thành luận án, cho phép tôi được bày tỏ lòng kính trọng và biết
ơn sâu sắc tới thầy TS. Phạm Phương Nam và thầy TS. Nguyễn Nghĩa Biên đã tận tình
hướng dẫn, dành nhiều công sức, thời gian và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban Giám đốc, Ban Quản lý đào tạo, Bộ
môn Quản lý đất đai, Khoa Quản lý đất đai - Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tận tình
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, thực hiện đề tài và hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức và bà con
nhân dân tại tỉnh Hòa Bình đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực
hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi về mọi mặt, động viên khuyến khích tôi hoàn thành luận án./.
Hà Nội, ngày ... tháng ... năm 2020
Nghiên cứu sinh
Phạm Thanh Quế
ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan .................................................................................................................... i
Lời cảm ơn ....................................................................................................................... ii
Mục lục ........................................................................................................................... iii
Danh mục chữ viết tắt .................................................................................................... vii
Danh mục bảng ............................................................................................................. viii
Danh mục biểu đồ ............................................................................................................. x
Danh mục sơ đồ .............................................................................................................. xi
Trích yếu luận án ........................................................................................................... xii
Thesis abstract ............................................................................................................... xiv
Phần 1. Mở đầu ............................................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................ 1
1.2. Mục tiêu của đề tài ................................................................................................ 3
1.3. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 3
1.4. Những đóng góp mới của đề tài ............................................................................ 4
1.5. Ý nghĩa khoa học của đề tài .................................................................................. 4
1.5.1. Ý nghĩa khoa học .................................................................................................. 4
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn ................................................................................................... 4
Phần 2. Tổng quan tài liệu ............................................................................................. 5
2.1. Cơ sở lý luận về quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ........................... 5
2.1.1. Quản lý, sử dụng đất rừng ..................................................................................... 5
2.1.2. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ..................................................... 9
2.1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng ............................................................................................................ 20
2.2. Cơ sở pháp lý về quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ............................ 25
2.2.1. Căn cứ pháp lý về quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ...................... 25
2.2.2. Căn cứ pháp lý về giao đất, giao rừng cộng đồng .............................................. 27
2.2.3. Căn cứ pháp lý về giao khoán đất rừng cho cộng đồng ...................................... 30
2.2.4. Căn cứ pháp lý về hưởng lợi từ đất rừng cộng đồng .......................................... 30
2.2.5. Căn cứ pháp lý về đầu tư cho công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng ............................................................................................................ 32
iii
2.3. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở một số nước trên thế giới
và ở Việt Nam ..................................................................................................... 32
2.3.1. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở một số nước trên thế giới ...... 32
2.3.2. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Việt Nam ............................... 38
2.4. Những nghiên cứu về quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên thế
giới và ở Việt Nam ............................................................................................... 43
2.4.1. Một số công trình nghiên cứu về quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng trên thế giới ................................................................................................. 43
2.4.2. Một số công trình nghiên cứu về quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng ở Việt Nam ................................................................................................. 44
2.5. Định hướng nghiên cứu của đề tài ........................................................................ 46
Phần 3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 48
3.1. Địa điểm nghiên cứu ........................................................................................... 48
3.2. Thời gian nghiên cứu .......................................................................................... 48
3.3. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................... 48
3.4. Nội dung nghiên cứu ........................................................................................... 48
3.4.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh Hoà Bình .................... 48
3.4.2. Thực trạng quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình ............................................................................................................. 48
3.4.3. Đánh giá kết quả hoạt động quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
trên địa bàn tỉnh Hòa Bình .................................................................................. 49
3.4.4. Đánh giá một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng
dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình .................................................. 49
3.4.5. Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình ................................................................ 49
3.5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 49
3.5.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu ................................................................... 49
3.5.2. Phương pháp thu thập số liệu .............................................................................. 50
3.5.3. Phương pháp đánh giá kết quả hoạt động quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng ..................................................................................................... 53
3.5.4. Phương pháp thống kê so sánh ........................................................................... 54
iv
3.5.5. Phương pháp xác định các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử
dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ....................................................................... 55
3.5.6. Phương pháp đánh giá mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố đến công tác
quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng .................................................... 58
3.5.7. Phương pháp SWOT ........................................................................................... 61
3.5.8. Khung nghiên cứu ............................................................................................... 61
Phần 4. Kết quả và thảo luận ....................................................................................... 63
4.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh Hòa Bình .................... 63
4.1.1. Điều kiện tự nhiên của tỉnh Hòa Bình ................................................................ 63
4.1.2. Điều kiện kinh tế và xã hội tỉnh Hòa Bình ......................................................... 68
4.1.3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh Hoà Bình ..... 71
4.2. Thực trạng quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình ............................................................................................................. 73
4.2.1. Thực trạng sử dụng đất và biến động đất đai tại tỉnh Hòa Bình ......................... 73
4.2.2. Thực trạng công tác quản lý đất rừng dựa vào cộng đồng của tỉnh
Hòa Bình ............................................................................................................. 79
4.3. Đánh giá kết quả hoạt động quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
trên địa bàn tỉnh Hòa Bình .................................................................................. 94
4.3.1. Lĩnh vực kinh tế .................................................................................................. 94
4.3.2. Lĩnh vực xã hội ................................................................................................. 100
4.3.3. Lĩnh vực môi trường ......................................................................................... 104
4.4. Đánh giá một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng
dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình ................................................... 106
4.4.1. Xác định những yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng
dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hoà Bình ................................................ 106
4.4.2. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng
đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình .................................. 108
4.5. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng .......................................................................................................... 128
4.5.1. Phân tích SWOT trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng .......................................................................................................... 128
v
4.5.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng .......................................................................................................... 134
Phần 5. Kết luận và kiến nghị .................................................................................... 137
5.1. Kết luận ............................................................................................................. 137
5.2. Kiến nghị ........................................................................................................... 139
Danh mục các công trình công bố liên quan đến luận án ............................................. 140
Tài liệu tham khảo ........................................................................................................ 141
Phụ lục .......................................................................................................................... 153
vi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt BQL BV & PTR Nghĩa tiếng Việt Ban quản lý Bảo vệ và phát triển rừng
CP CT Chính phủ Chỉ thị
DANIDA DVMTR Cơ quan Phát triển quốc tế Đan Mạch Dịch vụ môi trường rừng
GCN GCNQSD Giấy chứng nhân Giấy chứng nhận quyền sử dụng
GĐGR HĐND Giao đất, giao rừng Hội đồng nhân dân
HTX KFW Hợp tác xã Ngân hành Tái thiết Đức
LNCĐ NĐ Lâm nghiệp cộng đồng Nghị định
NN NNPTNT Nhà nước Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
QĐ QĐKT Quyết định Quyết định kỹ thuật
QL QLBV Quản lý Quản lý bảo vệ
QLSD REDD+ Quản lý sử dụng Giảm phát thải (khí nhà kính) từ mất rừng và suy thoái rừng
SD SWOT Sử dụng Điểm mạnh – Điểm yếu – Cơ hội – Thách thức
TCĐC TCLN Tổng cục địa chính Tổng cục lâm nghiệp
TNMT TT Tài nguyên và Môi trường Thông tư
TTg TW Thủ tướng Chính phủ Trung ương
UBND WB Uỷ ban nhân dân Ngân hàng Thế giới
vii
DANH MỤC BẢNG
TT Tên bảng Trang
3.1. Thông tin số cán bộ được điều tra, phỏng vấn .................................................... 51
3.2. Thông tin hộ điều tra tại các điểm điều tra ......................................................... 52
3.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng ............................................................................................................ 57
3.4. Phân cấp mức độ đánh giá .................................................................................. 59
3.5. Phân tích SWOT công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
trên địa bàn tỉnh Hòa Bình .................................................................................. 61
4.1. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh Hòa Bình năm 2017 .................... 74
4.2. Biến động diện tích đất đai trên địa bàn tỉnh Hòa Bình giai đoạn
2014 - 2017 ......................................................................................................... 77
4.3. Diện tích đất rừng giao cho các chủ thể trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
năm 2017 ............................................................................................................. 79
4.4. Thực trạng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho diện tích đất rừng
giao cho các cộng đồng ....................................................................................... 81
4.5. Kết quả giao đất rừng của các điểm nghiên cứu ................................................. 82
4.6. Đánh giá mức độ cần thiết của việc giao đất rừng cho cộng đồng ..................... 83
4.7. Thống kê công tác tuyên truyền về quy ước tại các điểm nghiên cứu ...................... 85
4.8. Đánh giá về vai trò của quy ước bảo vệ rừng cộng đồng ................................... 86
4.9. Kết quả khai thác lâm sản ngoài gỗ tại các điểm nghiên cứu ............................. 87
4.10. Hoạt động chi trả dịch vụ môi trường rừng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình ............. 90
4.11. Các hoạt động quản lý đất rừng cộng đồng ........................................................ 94
4.12. Một số đặc điểm kinh tế, xã hội của các điểm nghiên cứu ................................. 95
4.13. Tỷ lệ thu nhập từ đất rừng cộng đồng đối với kinh tế hộ tại các điểm
nghiên cứu ........................................................................................................... 96
4.14. Tỷ lệ thu nhập từ đất rừng cộng đồng so với thu nhập hộ .................................. 98
4.15. Kết quả so sánh tỷ lệ thu nhập từ đất rừng giữa các nhóm kinh tế hộ .................... 98
4.16. Nhận thức của người dân về vai trò của thu nhập từ đất rừng cộng đồng .......... 99
4.17. Kết quả kiểm tra mối quan hệ về vai trò của thu nhập từ đất rừng cộng
đồng đối với kinh tế hộ ..................................................................................... 100
viii
4.18. Vai trò của việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng........................ 103
4.19. Đánh giá của cộng đồng về chất lượng rừng .................................................... 104
4.20. Ý kiến của cộng đồng về mức độ xói mòn đất ................................................. 105
4.21. Ý kiến của cộng đồng về chất lượng nguồn nước ............................................ 106
4.22. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình .............................................................. 107
4.23. Ý kiến đánh giá về các quy định của pháp luật trong công tác quản lý, sử
dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại các điểm nghiên cứu ............................. 109
4.24. Ý kiến đánh giá về hiện trạng tự nhiên và cơ sở hạ tầng của diện tích đất
rừng cộng đồng tại các điểm nghiên cứu .......................................................... 113
4.25. Ý kiến đánh giá về mức độ phù hợp của diện tích đất rừng cộng đồng tại
các điểm nghiên cứu ......................................................................................... 114
4.26. Ý kiến đánh giá về thực trạng các yếu tố kinh tế của cộng đồng quản lý, sử
dụng đất rừng tại điểm nghiên cứu ................................................................... 116
4.27. Ý kiến đánh giá về thực trạng các yếu tố xã hội của cộng đồng quản lý, sử
dụng đất rừng tại điểm nghiên cứu ................................................................... 119
4.28. Kết quả kiểm định chất lượng thang đo Cronbach’ Alpha ............................... 121
4.29. Kết quả kiểm định KMO và Bartlett ................................................................. 121
4.30. Tổng phương sai trích giải thích ....................................................................... 122
4.31. Bảng ma trận nhân tố xoay ............................................................................... 122
4.32. Mô hình điều chỉnh qua kiểm định Cronbach Alpha và EFA .......................... 123
4.33. Kết quả hệ số hồi quy ....................................................................................... 124
4.34. Mức độ ảnh hưởng của các nhóm yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất
rừng dựa vào cộng đồng ................................................................................... 124
4.35. Chỉ số đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác quản lý, sử
dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ..................................................................... 126
4.36. Phân tích SWOT trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại
tỉnh Hoà Bình .................................................................................................... 128
ix
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
TT Tên biểu đồ Trang
4.1. Diện tích, cơ cấu sử dụng đất của tỉnh Hòa Bình năm 2017 ................................ 73
4.2. Diện tích, cơ cấu đất nông nghiệp của tỉnh Hòa Bình .......................................... 75
4.3. Cơ cấu diện tích đất rừng giao cho các chủ thể trên địa bàn tỉnh Hòa Bình ........ 80
4.4. Cơ cấu diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng ............................................... 81
4.5. Tỷ lệ thu nhập trung bình của các nhóm dân tộc.................................................. 97
4.6. Công lao động sử dụng cho việc quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng ............ 101
4.7. Thống kê số vụ vi phạm trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng .. 102
x
DANH MỤC SƠ ĐỒ
TT Tên sơ đồ Trang
2.1. Thang đo 8 cấp độ tham gia của cộng đồng ......................................................... 11
2.2. Thang đo 5 cấp độ tham gia của cộng đồng ......................................................... 12
3.1. Sơ đồ phân tích nhân tố khám phá ....................................................................... 58
3.2. Khung nghiên cứu ................................................................................................ 62
4.1. Vị trí địa lý của tỉnh Hòa Bình ............................................................................. 63
xi
TRÍCH YẾU LUẬN ÁN
Mã số: 9 85 01 03
Tên tác giả: Phạm Thanh Quế Tên luận án: Nghiên cứu, đề xuất giải pháp quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hoà Bình. Ngành: Quản lý đất đai Tên cơ sở đào tạo: Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Mục đích nghiên cứu - Đánh giá thực trạng và kết quả công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình; - Xác định một số yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại tỉnh Hoà Bình; - Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp điều tra, thu thập tài liệu, số liệu thứ cấp; tiến hành điều tra tại 5 điểm nghiên cứu, phỏng vấn trực tiếp 219 hộ để đánh giá tình hình quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Điều tra 41 cán bộ để tham khảo ý kiến đánh giá và tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng làm căn cứ thiết kế bảng hỏi phục vụ cho công tác nghiên cứu.
Đề tài sử dụng thang đo 5 mức độ của Likert để đánh giá các yếu tố tác động đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng và sử dụng mô hình phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis) nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Các phương pháp khác được sử dụng bao gồm: Phương pháp đánh giá kết quả công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng; phương pháp thống kê so sánh và phương pháp phân tích SWOT. Kết quả chính và kết luận
1) Hòa Bình là một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, có vị trí địa lý và giao thông thuận lợi. Nguồn tài nguyên phong phú với diện tích tự nhiên lớn, trong đó diện tích đất rừng là 296.288 ha (chiếm 64,54% tổng diện tích tự nhiên của toàn tỉnh). Trên địa bàn tỉnh có nhiều dân tộc cùng sinh sống, trong đó chủ yếu là dân tộc Mường, Kinh, Dao, Tày. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình là một phương thức sử dụng đất phổ biến, truyền thống gắn với các cộng đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.
2) Tỉnh Hòa Bình đã rất quan tâm đến công tác giao đất, giao rừng cho các cộng đồng dân cư quản lý, sử dụng với diện tích được giao là 48.576 ha (chiếm 16,39% diện tích đất rừng của toàn tỉnh), cộng đồng dân cư đứng thứ 2 sau đối tượng hộ gia đình, cá nhân. Tuy nhiên, mới chỉ có 42,44% diện tích đất rừng của các cộng đồng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn lại đều chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tất cả các cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình đều đã xây dựng được các quy ước quản lý, sử dụng đất rừng và hằng năm các cấp chính quyền đều thực hiện triển khai tuyên truyền đến từng người dân trong các thôn/bản. Việc hưởng lợi các sản phẩm từ đất rừng cộng đồng đều được thực hiện theo quy ước với các sản phẩm chủ yếu là lâm sản ngoài gỗ. Tuy giá trị kinh tế không cao nhưng cũng góp một phần đáng kể đảm bảo sinh kế của người dân trong các cộng đồng.
xii
3) Việc quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng trên địa bàn tỉnh đã đem lại tác động nhất định. Thứ nhất, đã tạo được nguồn thu nhập cho người dân trong cộng đồng, góp phần ổn định sinh kế. Tuy nhiên, tỷ lệ thu nhập từ diện tích đất rừng trung bình của các hộ không cao, chỉ chiếm khoảng 9,26% đến 16,59%; đối với các hộ khá và giàu thì thu nhập từ rừng cộng đồng chỉ đóng góp khoảng 4,00% tổng thu nhập của hộ, nhưng đối với các hộ nghèo và cận nghèo thì đây là một nguồn thu đáng kể, chiếm khoảng từ 17,71% đến 21,80% tổng thu nhập của hộ. Nguyên nhân chủ yếu là do các nguồn lợi trực tiếp từ rừng ngày càng suy giảm, cơ chế quản lý, sử dụng đất chưa phù hợp, các nguồn lợi khác từ rừng như các dịch vụ chi trả môi trường rừng, du lịch, dịch vụ cacbon… chưa được triển khai thực hiện hoặc đã được thực hiện nhưng còn hạn chế, mức chi trả còn rất thấp, thiếu cơ chế quản lý, sử dụng. Thứ hai, việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đã góp phần thay đổi cơ cấu sử dụng lao động tại địa phương. Thứ ba, nhận thức của người dân trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng cũng thay đổi. Những trường hợp vi phạm quy chế quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng đã giảm đáng kể. Tuy nhiên, công tác giải quyết những tranh chấp, lấn chiếm đất rừng của cộng đồng vẫn còn rất phức tạp, số vụ lấn chiếm đất rừng của cộng đồng có giảm nhưng mới được khoảng 50%. 4) Kết quả điều tra, khảo sát cho thấy có 4 nhóm yếu tố với 29 yếu tố ảnh hưởng đến công tác QLSDĐ, bao gồm: Nhóm yếu tố liên quan đến pháp luật; nhóm yếu tố điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng; nhóm yếu tố kinh tế và nhóm yếu tố xã hội. Kết quả chạy mô hình EFA cho thấy cả 4 nhóm yếu tố trên đều ảnh hưởng đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Trong đó, nhóm yếu tố những QĐPL có ảnh hưởng lớn nhất (33,44%), sau đó đến nhóm yếu tố tự nhiên, cơ sở hạ tầng (32,27%), tiếp đến là nhóm yếu tố xã hội (25,13%) và ảnh hưởng ít nhất là nhóm yếu tố điều kiện kinh tế (9,16%).
Kết quả đánh giá cho thấy trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình có những thuận lợi như điều kiện khí hậu, đất đai, truyền thống, kiến thức bản địa, phong tục tập quán của cộng đồng. Tuy nhiên, cũng có những điểm hạn chế, khó khăn như một số chính sách pháp luật còn chưa phù hợp, cụ thể cho đối tượng là cộng đồng, các quyền của cộng đồng còn hạn chế; diện tích đất rừng giao cho cộng đồng chủ yếu là rừng nghèo; kinh phí nhà nước hỗ trợ thực hiện các hoạt động của cộng đồng còn rất hạn chế, cũng như những hạn chế tiếp cận thị trường tiêu thụ sản phẩm từ rừng cộng đồng. Bên cạnh đó cũng có nhiều cơ hội cho việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng, đó là việc quan tâm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội và cộng đồng, ý thức của người dân trong cộng đồng, mối liên kết giữa các cộng đồng và cơ hội thị trường... Từ đó có thể phát huy những điểm mạnh, những cơ hội, hạn chế những tồn tại, thách thức để phát triển. 5) Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: i) Nâng cao thu nhập từ quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng; ii) Tăng cường các hoạt động làm cải thiện sinh kế, điều kiện kinh tế của cộng đồng tham gia quản lý, sử dụng đất rừng; iii) Hoàn thiện các chính sách liên quan đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng và vận dụng những kiến thức bản địa; iv) Nâng cao hơn nữa vai trò của chính quyền địa phương và các tổ chức khác trong cộng đồng.
xiii
THESIS ABSTRACT
PhD candidate: Pham Thanh Que
Thesis title: “Researching and Promoting Solutions for Community-based Forest Land Management and Use in Hoa Binh Province”.
Major: Land management. Code: 9 85 01 03
Educational organization: Vietnam National University of Agriculture (VNUA).
Research Objectives
- To assess the current status and the results of community-based management and
use of forest land in Hoa Binh province;
- To identify the influencing factors and influencing levels of their impacts on
community-based forest land management and use in Hoa Binh province;
- To formulate some recommendations for improving community-based forest
land management and use in Hoa Binh province.
Materials and Methods
Methods of surveying and collecting secondary data: the survey was conducted at 5 study sites with 219 interviewed households to assess the current status of community-based forest land management and use, and to analyse the factors affecting it. Forty one local officials/staff were communicated to identify and assess the inluencing factors which were used for revising research questionnaires.
In order to evaluate the factors affecting community-based forest land management and use, Likert's 5-level scale was used. The Exploratory Factor Analysis (EFA) model was also used to assess the extent to which these factors affect community-based forest land management and use. The other methods used include results assessment of community-based forest land management and use, comparative statistics and SWOT analysis.
Main findings and conclusions
1) Hoa Binh is located in the northern mountainous region of Vietnam with advantegous geographical location and transportation. Natural resources is abundant including 296,288 ha of forest (accounting for 64.54% of the total geographical coverage of the province). A number of various ethnic groups including Muong, Kinh, Dao and Tay have long been living in the province. Community-based forest land management and use in Hoa Binh province has appearred as a common and traditional land use method associated with ethnic minority communities in the province.
2) Hoa Binh authority has paid attention to the allocation of land and forests to communities for management and use with an area of 48,576 ha allocated (accounting for 16.39% of the province's forest land); and local communities are holding the second position following individual households in terms of land/forest allocation. However, only 42.44% of the community forest land was granted land use rights certificates. Almost all communities in Hoa Binh province have formulated thier regulations on forest management and use which have been propagandised to every villager. Benefits
xiv
from community forest products – mostly non-timber forest products - are made according to village regulations. Although their economic value was not high, they have contributed a significant part to secure the livelihood for communities’ members.
3) The management and use of community forest land in Hoa Binh has resulted in a number of positive impacts. First, it creates a source of income for local people, contributing to stabilizing their livelihoods though the percentage of the households’ average income from forest land area was not high, only about 9.26% to 16.59%. For households with fairly high and high income, the income share from community forest land only constitutes about 4.00% of their total household income, whereas for poor and near poor households, this was more significant, accounting for about 17.71% to 21.80% of total household income. This is mainly due to the declining direct benefits from the forest, improper management and use of land, and absence of other benefits from the forest such as payment for forest environment services, tourism and so on. Second, community-based forest land management and use has contributed to the changed structure of local employment. Third, it has also contributed to changing people's awareness. As a result, violation of regulations on community forest land management and use have declined significantly in terms of number of cases and degree despite that the issue of disputes and encroachment on community forest land remains very complicated.
4) The study results showed that there were 4 categories comprised of 29 legal, natural and infrastructural, economic and social factors affecting land management and use. The results of testing EFA model confirmed that all the above factor groups affected the community-based forest land management and use. Of the four groups, the legal factors had the greatest impact (32.44%), followed by the natural and infrasturctural factors (32.27%), the social factors (25.13%), and economic factors with the lowest impact (9.16%).
The assessment results showed that the community-based forest land management and use in Hoa Binh province had many advantages including climate, land, traditions, indigenous knowledge and customs of community, the concern and care from political, administrative and social organizations, people's awareness, the community connection and network, and market opportunities. However, community-based forest land management and use has also been suffered from shortcomings and difficulties such as irrelevent legal setting and policies for local community entity, for instance the rights of the community over land management remained limited; forest land allocated to local communities is covered with mostly poor forests; lack of capital support for community performance from the authority; limited access to market for local community forest products, etc.
5) In order to improve the effectiveness of community-based forest land management and use, this research works on a number of recommendations, including: i) improving income from community-based forest land management and use; ii) strengthening activities to improve the economic status and livelihoods for local communities involved in forest land management and use; iii) revising policies on community-based management and use of forest land; and iv) applying indigenous knowledge and enhancing the role of local authorities as well as other organizations in the community.
xv
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Vùng đồi núi chiếm 2/3 diện tích lãnh thổ Việt Nam, là nơi sinh sống của
hơn 24 triệu đồng bào thuộc 54 dân tộc, đặc biệt là cộng đồng các dân tộc ít người mà cuộc sống của họ luôn gắn bó mật thiết với đất đai, rừng núi. Đây cũng
là địa bàn hoạt động chủ yếu của ngành lâm nghiệp. Do vậy, việc xã hội hoá
ngành lâm nghiệp không chỉ là một yêu cầu thực tế khách quan của Việt Nam mà
còn phù hợp với xu thế phát triển trên thế giới. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng đã hình thành và tồn tại ở nhiều nước trên thế giới, nhất là tại các nước đang phát triển (FAO, 2015; Gilmour, 2016). Ở nước ta, phương thức này đã xuất hiện, gắn liền với sự sinh tồn và văn hoá của các cộng đồng dân cư sống dựa vào
rừng. Tuy nhiên việc quản lý, sử dụng đất rừng của các cộng đồng chủ yếu dựa
vào kiến thức, kinh nghiệm truyền thống, còn nhiều khó khăn trong công tác quản
lý, sử dụng dẫn đến hiệu quả chưa cao (Nguyễn Bá Ngãi, 2009).
Quá trình chuyển hướng từ lâm nghiệp quốc doanh thuần túy sang lâm
nghiệp nhân dân/lâm nghiệp xã hội đã diễn ra tại nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam từ nhiều năm nay. Qua đó, vai trò của các chủ thể quản lý, sử
dụng đất, đặc biệt là cộng đồng dân cư địa phương, được phát huy rõ ràng
(Nguyễn Hồng Quân & Phạm Xuân Phương, 2006; William & Huỳnh Thu Ba,
2005). Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến vấn đề quản lý, sử dụng
đất rừng dựa vào cộng đồng như nghiên cứu của Guiang & cs. (2001); Pulhin &
Pulhin (2003); Calderon & Nawir (2006); Anup & cs. (2015); Royer & cs. (2016).
Ở Việt Nam cũng đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này như Nguyễn Bá Ngãi &
cs. (2009); Bảo Huy (2009); Dương Viết Tình & Trần Hữu Nghị (2012); Lê Quang Vĩnh & Ngô Thị Phương Anh (2012); Đỗ Anh Tuân (2012). Các nghiên cứu đều
cho thấy việc giao đất, giao rừng cho cộng đồng là xu hướng tất yếu. Ở Việt Nam do đặc thù về địa hình, về dân tộc và các thành phần kinh tế nên hình thức quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng là rất phù hợp, đem lại một số lợi ích nhất định cho các cộng đồng dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng. Tuy nhiên, các nghiên cứu còn mang tính định tính, chưa định lượng được các yếu tố ảnh hưởng, do vậy
gây khó khăn cho công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng.
1
Luật Đất đai năm 2003 và 2013, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 và
Luật Lâm nghiệp năm 2017 đã tạo hành lang pháp lý cho việc quản lý, sử dụng đất
rừng thông qua hình thức giao đất, giao rừng cho các cộng đồng. Cộng đồng địa
phương bắt đầu được xem như là một chủ thể thực sự, được xác lập quyền sử dụng
đất, sử dụng rừng, các quyền lợi, nghĩa vụ và cơ chế hưởng lợi từ rừng. Một số địa phương đã triển khai giao đất, giao rừng cho cộng đồng với tư cách là chủ quản
lý, sử dụng ổn định, lâu dài (Quốc hội, 2003; 2004; 2013; 2017). Thực tiễn một
số nơi cho thấy việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng địa phương là mô hình có tính khả thi về kinh tế - xã hội, phù hợp với tập quán sản xuất truyền
thống của nhiều dân tộc ở Việt Nam. Tuy nhiên, cộng đồng mới chỉ được giao đất,
giao rừng để quản lý, sử dụng, các quyền của cộng đồng đối với diện tích được giao vẫn còn bị hạn chế. Cộng đồng không có quyền được chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, tặng, cho quyền sử dụng đất, sử dụng rừng trên đất; không được
thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và quyền sử dụng rừng mà chỉ bảo vệ
và phát triển tài nguyên rừng được giao (Quốc hội, 2003; 2004; 2013a).
Hoà Bình là một tỉnh nằm ở cửa ngõ của vùng Tây Bắc. Địa hình đa dạng
chủ yếu là vùng núi, diện tích đất rừng lớn (chiếm 64,54% tổng diện tích tự nhiên).
Rừng ở Hoà Bình có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo nguồn nước,
chống xói mòn, hạn chế bồi lắng lòng hồ... và có vai trò lớn trong đời sống của
người dân. Trên địa bàn tỉnh Hoà Bình có nhiều dân tộc cùng sinh sống (Mường,
Kinh, Thái, Tày, Dao, Mông…) nên ở nhiều nơi trong tỉnh việc quản lý, sử dụng
đất rừng dựa chủ yếu vào các cộng đồng địa phương. Trong những năm gần đây,
tỉnh Hoà Bình đã thực hiện việc giao đất, giao rừng cho các chủ sử dụng đất, bao
gồm các đối tượng: các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư tỉnh
(UBND tỉnh Hòa Bình, 2018).
Tuy nhiên, thực tế triển khai cho thấy nhiều vấn đề tồn tại trong quản lý, sử
dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại Hòa Bình. Các quy định của nhà nước trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào các cộng đồng địa phương chưa được cụ thể, chủ yếu vận dụng những quy định chung nên nảy sinh mâu thuẫn trong quá trình quản lý, sử dụng đất rừng. Các cộng đồng dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng với tỷ lệ hộ nghèo vẫn cao (UBND tỉnh Hòa Bình, 2018) gây áp lực lớn đến
tài nguyên rừng. Đa phần diện tích đất rừng giao cho cộng đồng đều là rừng tự nhiên nghèo kiệt, xa cộng đồng, địa hình khó khăn, hiểm trở, hạ tầng yếu kém
gây nên sự khó khăn lớn cho việc quản lý, sử dụng đất.
2
Những câu hỏi được đặt ra đối với công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng bao gồm: Việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đã đạt
được những kết quả nào? thực chất quyền và lợi ích của cộng đồng khi được giao
quản lý, sử dụng đất rừng như thế nào? những yếu tố nào ảnh hưởng đến quá trình
quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng? trong quá trình quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng có những thuận lợi và những cản trở nào? và giải
pháp nào để việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đem lại hiệu quả
nhất, đóng góp vào lợi ích của cộng đồng. Để trả lời cho các câu hỏi này thì việc thực hiện đề tài “Nghiên cứu, đề xuất giải pháp quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hoà Bình” là cần thiết.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
- Đánh giá thực trạng và kết quả công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình;
- Xác định một số yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố
đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại tỉnh Hoà Bình;
- Đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức từ đó đề xuất
một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Phạm vi về nội dung:
+ Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu diện tích đất rừng được giao cho các cộng
đồng quản lý, sử dụng (là đất rừng phòng hộ) trên địa bàn tỉnh Hoà Bình.
+ Nghiên cứu thực trạng, một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử
dụng đất rừng dựa vào cộng đồng và đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác quản lý,
sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
- Phạm vi về không gian: Đề tài thực hiện nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, trong đó tập trung nghiên cứu điểm tại 5 cộng đồng đại diện được giao đất rừng. Đây là những cộng đồng người dân tộc thiểu số chính sống trên địa bàn tỉnh, bao gồm: 01 thôn/bản dân tộc Tày là bản Nhạc (xã Đồng Chum, huyện Đà Bắc); 03 thôn/bản dân tộc Mường là thôn Đúc (xã Nam Phong, huyện Cao Phong); thôn Củ (xã Tú Sơn, huyện Kim Bôi); thôn Thung 2 (xã Quý Hoà, huyện Lạc Sơn) và
01 thôn/bản dân tộc Dao là xóm (thôn) Suối Bến (xã Tiến Sơn, huyện Lương Sơn).
3
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu đã xác định được 29 yếu tố thuộc 4 nhóm yếu tố có ảnh hưởng
đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên định bàn tỉnh Hòa
Bình theo mức độ như sau: Nhóm yếu tố những quy định của pháp luật có ảnh hưởng lớn nhất (33,44%); sau đó đến nhóm yếu tố tự nhiên, cơ sở hạ tầng
(32,27%), tiếp đến là nhóm yếu tố xã hội (25,13%) và nhóm yếu tố điều kiện kinh
tế (9,16%) có ảnh hưởng ít nhất.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.5.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án đã hệ thống hóa và bổ sung, hoàn thiện cơ sở lý luận về quản lý, sử
dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Xác định và đánh giá được mức độ các nhóm
yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng, trong
đó nhóm yếu tố quy định của pháp luật có ảnh hưởng lớn nhất.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án đã chỉ ra những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong quản
lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng và đề xuất các giải pháp khắc phục để
quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình được
hoàn thiện hơn;
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
cho những nhà khoa học, nhà quản lý, người học và những người khác quan tâm
đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa
Bình. Đặc biệt, các giải pháp được đề xuất trong luận án có thể để các địa phương
khác trên cả nước tham khảo, áp dụng nhằm giải quyết những tồn tại, hạn chế
trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng phù hợp với điều kiện
thực tế của địa phương.
4
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
2.1.1. Quản lý, sử dụng đất rừng
2.1.1.1. Quản lý đất rừng
a. Khái niệm về quản lý đất rừng
Milbourne & cs. (2008) cho rằng đất rừng là toàn bộ đất được dành cho lâm nghiệp, có thể bao gồm cả đất không có rừng nhưng được quản lý như một phần của đơn vị quản lý rừng. Ở Việt Nam, đất rừng là đất có rừng và đất không có rừng hoặc đất trống, đồi núi trọc được quy hoạch cho mục tiêu phát triển lâm nghiệp, bao gồm: đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ và đất rừng đặc dụng theo quy định của Luật Đất đai 2013 (Quốc hội, 2013a). Việc quản lý, sử dụng đất rừng hiệu quả sẽ giúp giảm thiểu biến đổi khí hậu, góp phần ổn định sinh kế của người dân sống phụ thuộc vào rừng (Smith & cs., 2014). Theo Smith & cs. (2014) đất rừng có vai trò rất lớn trong việc cung cấp gỗ và lâm sản ngoài gỗ, ngoài ra còn cung cấp lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp nông nghiệp, xây dựng cơ bản, dược liệu quý phục vụ nhu cầu chữa bệnh và nâng cao sức khỏe cho con người. Bên cạnh đó, theo các tác giả An (2012), Chiu (2012) và Acemoglu & cs. (2015) đất rừng có vai trò đặc biệt trong phòng hộ đầu nguồn, giữ đất, giữ nước, điều hòa dòng chảy, chống xói mòn rửa trôi thoái hóa đất, chống bồi đắp sông ngòi, hồ đập, giảm thiểu lũ lụt, hạn chế hạn hán, giữ gìn được nguồn thủy năng lớn cho các nhà máy thủy điện. Ngoài ra, còn bảo vệ đồng ruộng và khu dân cư ven biển... đặc biệt là nơi dự trữ sinh quyển bảo tồn các nguồn gen quý hiếm.
Đất rừng là nơi tạo ra nguồn thu nhập chính của đồng bào các dân tộc miền núi, là cơ sở quan trọng để phân bố dân cư, điều tiết lao động xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo cho xã hội, nhất là đồng bào dân tộc các vùng trung du, miền núi (Centre for International Forestry Research (CIFOR, 2014)) và Matiku & cs. (2013). Ngoài ra, còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ an ninh, quốc phòng của đất nước (Lê Trọng Cúc & Chu Hữu Quý, 2002). Quản lý đất rừng thuộc nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Nhà nước là chủ thể duy nhất quản lý xã hội toàn dân, toàn diện bằng pháp luật. Hoạt động quản lý nhà nước về đất đai bao gồm việc thiết lập các cơ chế, các chính sách và các công cụ quản lý, các biện pháp quản lý và
5
việc vận hành cơ chế đó nhằm quản lý và sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh tế cao (Bộ Tư pháp, 2006). Quản lý nhà nước về đất rừng là tổng hợp các hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nước đối với đất rừng.
b. Nguyên tắc quản lý đất rừng
- Đảm bảo sự quản lý tập trung và thống nhất, Điều 53, Hiến pháp 2013 và Điều 4, Luật Đất đai 2013 quy định "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu". Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất thông qua các chính sách tài chính về đất đai. Đất đai là tài nguyên của quốc gia, là tài sản chung của toàn dân. Vì vậy, chỉ có Nhà nước là chủ thể duy nhất đại diện hợp pháp cho toàn dân mới có toàn quyền trong việc quyết định việc sử dụng đất, thể hiện sự tập trung quyền lực và thống nhất của Nhà nước trong quản lý nói chung và trong lĩnh vực đất đai nói riêng (Quốc hội 2013a; 2013b).
- Đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa quyền sở hữu đất đai và quyền sử dụng đất đai, giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của người trực tiếp sử dụng: Quyền sở hữu đất đai bao gồm quyền chiếm hữu đất đai, quyền sử dụng đất đai, quyền định đoạt đất đai. Quyền sử dụng đất đai là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ đất đai của chủ sở hữu đất đai hoặc chủ sử dụng đất đai khi được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng. Vì vậy, để sử dụng đất đai có hiệu quả Nhà nước phải giao đất cho các chủ thể trực tiếp sử dụng và phải quy định một hành lang pháp lý cho phù hợp để vừa đảm bảo lợi ích cho người trực tiếp sử dụng, vừa đảm bảo lợi ích của Nhà nước. Điều 17, Luật Đất đai 2013 quy định "Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất".
- Tiết kiệm và hiệu quả: Tiết kiệm và hiệu quả là nguyên tắc của quản lý kinh tế. Thực chất quản lý đất đai cũng là một dạng của quản lý kinh tế nên cũng phải tuân theo nguyên tắc này. Nguyên tắc này trong quản lý đất đai nói chung và quản lý đất rừng nói riêng được thể hiện bằng việc xây dựng các phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, có tính khả thi cao và quản lý, giám sát việc thực hiện các phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
2.1.1.2. Sử dụng đất rừng
a. Khái niệm sử dụng đất rừng
Theo lý thuyết của ATofler lịch sử nhân loại đã trải qua ba làn sóng văn minh.
6
Làn sóng thứ nhất đặc trưng bởi cuộc cách mạng nông nghiệp hàng vạn năm trước như một đột biến căn bản trong lịch sử loài người; đồng thời việc chuyển từ “săn bắn, hái lượm” sang “trồng trọt, chăn nuôi” đã mở ra một thời đại văn minh mới. Tuy nhiên, trong thời gian này việc sử dụng đất chủ yếu là sử dụng lớp đất bề mặt để canh tác. Làn sóng thứ hai chỉ rõ hai cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai (từ cuối thế kỷ XVII đến những năm 50 của thế kỷ XX). Cuộc cách mạng này đã gây ra nhiều đảo lộn lớn về kinh tế và xã hội loài người. Sức ép từ việc tăng dân số và sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã tạo điều kiện cho việc sử dụng đất lan ra cả vùng biển. Làn sóng thứ ba khởi đầu từ những năm 50 của thế kỷ XX với cuộc cách mạng về khoa học công nghệ mới (cách mạng công nghiệp lần thứ 3) đã làm thay đổi cơ bản đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của thế giới hiện đại. Việc sử dụng đất đã phát triển cả không gian bên trên và bên dưới mặt đất, phạm vi sử dụng đất đã mở rộng cả 3 chiều (dẫn theo Nguyễn Đình Bồng & cs., 2012).
Sử dụng đất được đặc trưng bởi sự sắp xếp, hoạt động và đầu vào của người dân
để sản xuất, thay đổi hoặc duy trì một loại hình sử dụng đất nhất định (FAO/UNEP, 1999). Như vậy, sử dụng đất, trong đó có sử dụng đất rừng, là một hệ thống các
biện pháp tác động vào đất nhằm điều hòa mối quan hệ giữa con người với đất đai
trong tổng hòa các mối quan hệ với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường
và các nguồn lực khác của xã hội nhằm tạo được hiệu quả mong muốn (Tô Xuân
Phúc & Trần Hữu Nghị, 2014).
b. Mục tiêu sử dụng đất rừng
Đất đai, đặc biệt là đất rừng gắn với phát triển kinh tế lâm nghiệp. Là một
ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù bao gồm tất cả các hoạt động gắn liền với sản xuất
hàng hoá và dịch vụ từ rừng như các hoạt động bảo vệ, gây trồng, khai thác, vận
chuyển, sản xuất, chế biến lâm sản và các dịch vụ môi trường có liên quan đến rừng;
đồng thời ngành lâm nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường,
bảo tồn đa dạng sinh học, xoá đói, giảm nghèo, đặc biệt cho người dân miền núi, góp
phần ổn định xã hội và an ninh quốc phòng (Tô Xuân Phúc & Trần Hữu Nghị, 2014).
Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 đã xác định rõ các mục tiêu sử dụng đất gồm các mục tiêu chính như: Sử dụng bền vững diện tích đất rừng sử dụng vào các mục đích lâm nghiệp; nâng cao tỷ lệ đất có rừng và đảm bảo có sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế và tổ chức xã hội vào phát triển lâm nghiệp nhằm đóng góp ngày càng tăng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học và cung cấp các dịch vụ
7
môi trường, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người dân nông
thôn miền núi và giữ vững an ninh quốc phòng (Thủ tướng Chính phủ, 2007; Tô
Xuân Phúc & Trần Hữu Nghị, 2014).
2.1.1.3. Mối quan hệ giữa quản lý với sử dụng đất rừng
Quản lý, sử dụng đất đai nói chung và quản lý, sử dụng đất rừng nói riêng là một
cụm từ chỉ hai mặt của một vấn đề quản lý khai thác nguồn lực đất đai trong hoạt
động kinh tế - xã hội. Nó luôn đi liền với nhau, gắn kết với nhau, không thể tách rời kể
cả trong lý luận cũng như hoạt động thực tiễn. Nếu tách bạch chỉ nghiên cứu quản lý
mà không đề cập đến cách thức sử dụng, kết quả sử dụng thì khó đánh giá được hiệu
quả quản lý và ngược lại, khi nghiên cứu vấn đề sử dụng lại thoát ly khỏi vấn đề quản
lý, các yếu tố quản lý thì không thể rút ra được nguyên nhân ảnh hưởng đến sử
dụng đất thuộc về cơ chế, chính sách để đưa ra được những giải pháp sử dụng
mang lại hiệu quả. Nếu coi quản lý đất đai như là phạm trù của quan hệ sản xuất
và sử dụng đất đai như là phạm trù của lực lượng sản xuất, thì yếu tố sử dụng đất
đai là yếu tố động luôn muốn vươn lên trong sự phát triển để tìm đến hiệu quả bằng
cách mở rộng quy mô sản xuất, chuyển mục đích sử dụng, thế chấp vay vốn, góp vốn bằng giá trị đất, nhưng nó luôn bị cơ chế chính sách quản lý đất đai chi phối có nhiều
khi chưa đáp ứng phù hợp, sẽ dẫn đến hai khuynh hướng: một là người sử dụng đất
chờ cơ chế, chờ mãi sẽ mất thời cơ; khuynh hướng thứ hai là người sử dụng đất thấy
có lợi mà vẫn cứ làm, làm trái với quy định pháp luật và chính sách quản lý, hậu quả
xảy ra khó khắc phục. Như vậy, theo lý luận về quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất thì gọi đây là hiện tượng quan hệ sản xuất kìm hãm lực lượng sản xuất. Ngược lại
nếu chỉ nghiên cứu sử dụng, không quan tâm đến chính sách quản lý sẽ dẫn đến nguy
cơ sử dụng vi phạm quy hoạch, kế hoạch, pháp luật, mất trật tự, gây tác hại đến môi
trường, phá vỡ dự định lớn của quốc gia, tạo ra hậu quả khó lường. Việc quản lý, sử
dụng đất đòi hỏi phải phù hợp, chặt chẽ, có sự gắn kết để phát triển được nền nông
nghiệp bền vững (FAO, 2016).
Chế độ quản lý, sử dụng đất rừng được quy định cụ thể tại các Điều 135, 136, 137 Luật Đất đai 2013. Theo đó đối với đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên nhà Nước giao đất cho tổ chức quản lý rừng để quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, đối với đất rừng sản xuất là rừng trồng Nhà nước giao đất, cho thuê đất đối với hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức. Đối với đất rừng phòng hộ Nhà nước giao đất rừng phòng hộ cho
tổ chức, hộ gia đình, cá nhân quản lý rừng phòng hộ để quản lý, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng và trồng rừng. Trong đó cộng đồng dân cư cũng thuộc đối tượng giao đất
8
rừng phòng hộ để bảo vệ, phát triển rừng (Quốc hội, 2013a). Việc quản lý, sử dụng
rừng được quy định cụ thể trong Luật Lâm nghiệp 2017. Theo đó việc quản lý rừng
được tổ chức theo Điều 24, Luật Lâm nghiệp Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng, tổ
chức quản lý, bảo vệ rừng, bảo đảm các diện tích rừng có chủ. Còn người sử dụng đất
(chủ rừng) phải thực hiện việc quản lý rừng bền vững; có trách nhiệm quản lý, bảo vệ,
phát triển, sử dụng rừng theo quy chế quản lý rừng (Quốc hội, 2017).
2.1.2. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
2.1.2.1. Khái niệm cộng đồng
Khái niệm cộng đồng trong thời gian gần đây đã trở lên phổ biến, nhất là trong lĩnh vực quản lý tài nguyên cả trên thế giới và ở Việt Nam. Theo Nisbet (1969) cộng đồng phải được xem là một nơi mà trong đó có nhiều người sinh sống (như làng quê, thành phố) hoặc như một nhóm dân cư với những đặc điểm tương đồng (như nhóm người già, người nông dân) hoặc là nhóm người chia sẻ những mối quan tâm chung (như tự do tôn giáo). Cộng đồng cũng được xem xét khi gắn liền với các mối quan hệ về mặt xã hội đặc trưng bởi quan hệ cá nhân, chiều sâu cảm xúc, sự liên kết về mặt xã hội và kéo dài về mặt thời gian (Dalle & cs., 2006). Theo Checkoway (1995) cộng đồng được hiểu là một nhóm người trong xã hội cùng đưa ra sáng kiến và hành động chung. Ngoài ra, cộng đồng còn có thể hiểu theo nghĩa là các nhóm dân cư có cùng sở thích, có chung lợi ích và mối quan tâm (Marcia, 2007; John & Marco, 2013).
Ở Việt Nam, Nguyễn Hồng Quân & Tô Đình Mai (2000) cũng như Tô Duy Hợp & Lương Hồng Quang (2000) đều cho rằng: Cộng đồng là một thực thể xã hội, có cơ cấu tổ chức. Bao gồm toàn thể những người sống trong một xã hội có những đặc điểm giống nhau và có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau cùng chia sẻ và chịu sự giàng buộc bởi các đặc điểm và lợi ích chung được thiết lập thông qua tương tác và trao đổi giữa các thành viên. Tuy nhiên, trong quản lý tài nguyên và đặc biệt là quản lý tài nguyên rừng và đất rừng “Cộng đồng” đã được nêu cụ thể trong Cẩm nang ngành Lâm nghiệp (2006), đó là một tập hợp những người sống gắn bó với nhau thành một xã hội nhỏ có những đặc điểm tương đồng về mặt văn hoá, kinh tế, xã hội truyền thống, phong tục tập quán, có các quan hệ trong sản xuất và đời sống gắn bó với nhau và thường có ranh giới không gian trong một thôn (bản). Theo đó, cộng đồng chính là cộng đồng dân cư thôn (bản). Mặt khác, “Cộng đồng” có thể được hiểu là những nhóm xã hội cùng chia sẻ một môi trường, trong một phạm vi địa lý; nơi họ cùng nhau nỗ lực, chung niềm tin, chung nguồn tài nguyên cùng có nhu cầu và chịu cùng rủi ro cũng như những điều kiện chung khác tác động đến cuộc sống của họ (Hoàng Thị Thanh Nhàn & Nguyễn Thị Hồng Nhung, 2015).
9
Theo Phạm Phương Nam (2015) “Cộng đồng” có thể được hiểu là tập hợp những người cùng sinh sống tại một địa điểm, trong một tổng thể hay là một nhóm người sinh sống cùng một nơi theo những luật lệ chung. Cộng đồng cũng được hiểu là toàn thể những người cùng sống, có những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội. Hay một quan điểm khác của tác giả Hoàng Thị Thanh Nhàn & Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015) “Cộng đồng” có thể được hiểu là những nhóm xã hội cùng chia sẻ một môi trường, trong một phạm vi địa lý; nơi họ cùng nhau nỗ lực, chung niềm tin, chung nguồn tài nguyên cùng có nhu cầu và chịu cùng rủi ro cũng như những điều kiện chung khác tác động đến cuộc sống của họ.
Khoản 24, Điều 2, Luật Lâm nghiệp 2017 quy định cụ thể (Quốc hội, 2017) cộng đồng dân cư bao gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, bon, phum, sóc, tổ dân phố, điểm dân cư tương tự và có cùng phong tục, tập quán. Tại Điều 5, Luật Đất đai 2013 (Quốc hội, 2013a) khái niệm “cộng đồng sử dụng đất” đã được quy định gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng một địa bàn thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc và các điểm dân cư tương tự có cùng phong tục tập quán hoặc có chung dòng họ được nhà Nước giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất. Đây cũng là quan điểm mà tác giả sử dụng thống nhất trong nghiên cứu của mình.
2.1.2.2. Quản lý dựa vào cộng đồng
a. Khái niệm quản lý dựa vào cộng đồng
Theo Taylor (1998) và Kellert & cs. (2000) quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng là những cam kết của người dân về bảo tồn và quản lý các nguồn tài nguyên, phân cấp quyền lực cho người dân địa phương, đạt được các mục tiêu về lợi ích xã hội, kinh tế và môi trường, quyền tài sản được xác định rõ ràng, đưa những giá trị truyền thống và kiến thức sinh thái vào trong quản lý tài nguyên. Bên cạnh đó Madeleen (1998) và Borrini & Tarnowski (2005) cho rằng: quản lý tài nguyên có sự tham gia trong đó có quản lý dựa vào cộng đồng. Ở đó cộng đồng trực tiếp tham gia, cộng tác và hợp tác với các đối tác khác để cùng nhau bàn bạc, đi đến thống nhất và hành động chung. Cũng quan điểm đó, Nguyễn Diệu Hằng & Lê Thanh Hà (2015) cho rằng quản lý dựa vào cộng đồng là một tập hợp mô hình quản lý có sự tham gia của cộng đồng, trong đó cộng đồng là người đưa ra quyết định cuối cùng về tất cả các vấn đề liên quan đến quá trình lập kế hoạch và triển khai thực hiện.
Một cách khác, tác giả Phạm Phương Nam (2015) lại cho rằng quản lý dựa vào cộng đồng là hình thức quản lý mà cộng đồng trực tiếp quản lý và hưởng lợi từ việc quản lý. Hay nói cách khác quản lý dựa vào cộng đồng là hình thức quản lý có sự tham gia trực tiếp của cộng đồng và hưởng lợi từ việc tham gia quản lý đó. Như vậy, quản lý
10
dựa vào cộng đồng có thể được hiểu là “hình thức quản lý được tiếp cận từ dưới lên, có sự tham gia của cộng đồng, trong đó cộng đồng là người trực tiếp tham gia và hưởng lợi từ việc quản lý nhằm đạt các mục tiêu về lợi ích kinh tế, xã hội, môi trường dựa vào những giá trị truyền thống và kiến thức bản địa trong quản lý tài nguyên”.
b. Các cấp độ tham gia của cộng đồng
Quản lý dựa vào cộng đồng là một tập hợp mô hình quản lý có sự tham gia của cộng đồng. Trong đó, cộng đồng là người đưa ra quyết định cuối cùng về tất cả các vấn đề liên quan đến quá trình lập kế hoạch và triển khai thực hiện. Thang đo cấp độ tham gia của Arnstein (1969) bao gồm 8 cấp độ, được xem là một trong những công trình đầu tiên đưa ra các mức thang khác nhau về sự tham gia của cộng đồng, tương ứng với mức độ quyền lực mà người dân có được trong quá trình ra các quyết định. Tác giả cho rằng, nếu sự tham gia mà không có yếu tố quyền lực ở trong đó thì sự tham gia đó trở nên vô nghĩa, mang tính hình thức. Chi tiết thang đo của Arnstein được thể hiện qua sơ đồ 2.1.
Cấp 8: Nhà nước hỗ trợ; người dân chủ trì, kiểm soát hoạt động quản lý
Cấp 7: Trao quyền cho các nhóm dân cư
Cấp 6: Phối hợp giữa các nhóm dân cư và Nhà nước
Cấp 5: Nhà nước đáp ứng các yếu cầu do người dân đề xuất
Cấp 4: Nhà nước tham vấn các nhóm dân cư
Cấp 2: Nhà nước ra quyết định và thông báo cho người dân
Cấp 3: Nhà nước vận động người dân làm theo
Cấp 1: Nhà nước ra quyết định, người dân tuân thủ
Sơ đồ 2.1. Thang đo 8 cấp độ tham gia của cộng đồng
Nguồn: Arnstein (1969)
11
Ở các nấc thang đầu tiên sự tham gia của cộng đồng gần như không có mà chỉ
là quá trình hợp tác có kiểm soát từ bên ngoài. Các nấc thang cuối cùng thể hiện sự
tham gia thực sự của người dân, thể hiện quyền lực của người dân. Tuy nhiên, theo
quan niệm hiện đại, các thang đo được rút ngắn hơn so với thang đo 8 cấp. Theo
Dower (2004), mức độ tham gia của người dân trong các hoạt động quản lý được
phát triển theo từng cấp độ (gồm 5 cấp độ) và phụ thuộc vào quan hệ giữa Nhà nước
và người dân. Theo đó, cấp độ tham gia của cộng đồng thể hiện vai trò kiểm soát của
Nhà nước giảm dần và mức độ hợp tác cũng như quyền làm chủ của cộng đồng tăng
lên.
Cấp 5: Chủ trì
Cấp 4: Đối tác
Cấp 3: Cùng thực hiện
Cấp2: Tham vấn
Cấp 1: Thông báo
Sơ đồ 2.2. Thang đo 5 cấp độ tham gia của cộng đồng
- Cấp độ thông báo: Nhà nước ra quyết định, thông báo và hướng dẫn cộng
đồng tham gia quản lý;
- Cấp độ tham vấn: Cộng đồng cung cấp thông tin, Nhà nước tham khảo ý
kiến của cộng đồng để đưa ra quyết định, thông báo và hướng dẫn cộng đồng tham
gia quản lý;
- Cấp độ cùng thực hiện: Cộng đồng có cơ hội và được phép tham gia thảo
luận, góp ý kiến để đưa ra quyết định và được tham gia quản lý;
Nguồn: Dower (2004)
12
- Cấp độ đối tác: Nhà nước và cộng đồng cùng quản lý;
- Cấp độ chủ trì: Cộng đồng được Nhà nước trao quyền quản lý, Nhà nước
chỉ thực hiện việc kiểm soát.
c. Các hình thức tham gia của cộng đồng
Cộng đồng tham gia vào quản lý tài nguyên ở rất nhiều mức độ khác nhau, tùy thuộc vào mục đích của sự tham gia. Theo nhóm tác giả Nguyễn Diệu Hằng & Lê Hà
Thành (2015) sự tham gia của cộng đồng trong quản lý có vai trò rất quan trọng được
thể hiện qua nhiều hình thức. Quan điểm trên cũng được khẳng định bởi tác giả Trần
Thanh Nga (2015). Mức độ tham gia của cộng đồng được thể hiện như sau:
- Tham gia cung cấp thông tin: Cộng đồng có thể tham gia cung cấp thông tin
cho các nhà quản lý về thực tế và các vấn đề kinh tế - xã hội - môi trường ở địa
phương.
- Tham gia lãnh đạo: Những người lãnh đạo của cộng đồng có thể thu hút sự
tham gia của cộng đồng bằng cách nói lên những mong muốn của người dân, tổ
chức các hoạt động, huy động mọi người tham gia vào các công việc cụ thể.
- Tham gia cung cấp các nguồn lực: Cộng đồng có thể tham gia vào các hoạt
động như cung cấp nhân lực, vật chất, các nguồn tài chính và công tác tổ chức cho
các dự án phát triển tại địa phương, thậm chí cộng đồng có thể thực hiện một số
nhiệm vụ để giảm bớt chi phí.
- Tham gia quản lý: Cộng đồng có thể tham gia quản lý bằng cách chịu trách
nhiệm hoàn toàn về quá trình thực hiện các hoạt động quản lý tài nguyên tại địa
phương.
- Tham gia kiểm tra và đánh giá: Trong suốt quá trình triển khai các hoạt
động cộng đồng có thể xem xét và đánh giá nhờ đó có thể phát hiện những vấn đề
nảy sinh và có giải pháp khắc phục kịp thời.
Bên cạnh đó Dương Viết Tình & Trần Hữu Nghị (2012) cho rằng các hình thức tham gia của cộng đồng được thể hiện qua đóng góp lao động; chia sẻ chi phí; chia sẻ trách nhiệm; chia sẻ quyền quyết định trong các chương trình hoạt động tại cộng đồng. Tất cả các hình thức tham gia này có thể thấy rằng đó là một quá trình chia sẻ vai trò trách nhiệm của các bên liên quan trong quản lý nguồn tài nguyên mà họ đang sử dụng. Tuy nhiên các cộng đồng sống gần rừng đa số là nghèo, vì
vậy sự tham gia là một quá trình vừa học hỏi để nâng cao nhận thức vừa nhận biết
13
được tầm quan trọng của họ trong sự tham gia nhằm tránh sự tham gia hình thức
hoặc bị động hoàn toàn.
Cộng đồng đóng vai trò chủ thể trong mọi hoạt động tại địa phương. Các thành
viên trong cộng đồng là người chủ động, tích cực và quyết định các hoạt động của cộng đồng bởi họ biết rõ nhất về cộng đồng của họ, biết những khó khăn, thách thức
và mong muốn của mình, họ là người hiểu được tiềm năng và lợi thế cũng như biết
cách huy động và gắn kết các thành viên trong cộng đồng và họ tự chịu trách nhiệm
về kết quả các hoạt động của họ (Lê Văn An & Ngô Tùng Đức, 2016).
d. Sự phân quyền trong quản lý đất rừng dựa vào cộng đồng
Trong nhiều năm qua mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc quản lý, bảo vệ
rừng nhưng diện tích rừng nhiệt đới trên thế giới vẫn suy giảm mạnh. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc suy giảm diện tích đất rừng tuy nhiên có nhiều ý kiến cho
rằng một trong những nguyên nhân của hiện trượng này là do rừng bị quản lý tập
trung. Tại một số nước, rừng thuộc quản lý của Nhà nước trong một thời gian dài,
tuy nhiên hệ thống này hoạt động không hiệu quả do có quá ít người trông coi trong
khi diện tích rừng lại quá lớn. Kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều nước cho thấy tình
trạng trên sẽ được cải thiện nếu như có sự phân quyền trong quản lý (Phuc, 2002).
Theo FAO (2002) sự phân quyền là sự chuyển giao một phần quyền lực của
chính quyền trung ương đến các chính quyền sơ sở. Ở một số nước trên thế giới
như Trung Quốc từ những năm 1970 đã tiến hành một số chương trình để chuyển
giao quyền quản lý, sử dụng đất rừng từ cấp Trung ương xuống địa phương.
Nhưng thời gian đầu, chính quyền trung ương chỉ chuyển giao những diện tích đất
rừng cằn cỗi cho các hộ gia đình nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt củi đun và nhu
cầu canh tác, đồng thời khuyến khích người dân trồng và bảo vệ rừng trên các
vùng đất trống, đồi trọc. Việc phân quyền này đã đem lại hiệu quả lớn, giúp người
dân nâng cao nhận thức trong việc khai thác, bảo vệ rừng, đồng thời khuyến khích
họ tham gia các dự án trồng rừng (dẫn theo Trần Đức Viên & cs., 2005).
Nepal cũng là một trong những nước có chính sách chuyển giao quyền quản lý, sử dụng đât rừng cho chính quyền địa phương. Các cấp chính quyền địa phương được phân quyền là quận, huyện, thị trấn hay ủy ban phát triển làng, bản và tổ chức quản lý, sử dụng bằng cách thành lập các ủy ban người sử dụng từ chính những người đang sử dụng rừng (dẫn theo Trần Đức Viên & cs., 2005). Ngoài ra, một số
nước khác cũng đã thực hiện chính sách phân quyền trong quản lý, sử dụng đất rừng
14
như Indonexia, Thái Lan đều đề cao sự tham gia của người dân và các tổ chức trong
quản lý, sử dụng đất rừng (dẫn theo Trần Đức Viên & cs., 2005).
Ở Việt Nam, việc phân chia đất rừng cho các hộ gia đình và các tổ chức khác
như cộng đồng quản lý, sử dụng được coi là một quyết định mang tính đột phá.
Việc phân cấp quản lý, sử dụng đất rừng được quy định cụ thể trong Luật Bảo vệ
và Phát triển rừng năm 1991 và Luật Đất đai 1993 (Quốc hội, 1993). Bên cạnh đó
Chính phủ cũng đã ban hành thêm nhiều văn bản quy định về vấn đề này. Nghị
định 02/1994/NĐCP ngày 15 tháng 1 năm 1994 được ban hành quy định về việc
giao đất, giao rừng cho các đối tượng sử dụng đất; Nghị định 163/1999/NĐ-CP
ngày 16 tháng 11 năm 1999 thay thế cho Nghị định 02/1994/NĐ-CP. Bên cạnh đó,
Nghị định 01/1995/NĐ-CP ngày 4 tháng 1 năm 1995 quy định về việc giao khoán
đất rừng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Tuy nhiên, vai trò của cộng đồng
trong các quy định đều chưa được thể hiện rõ, các địa phương vẫn thực hiện phân
quyền cho các cộng đồng, tuy nhiên chỉ thực hiện dựa trên những quy định trên mà
chưa có một quy định cụ thể nào về phân quyền cho các cộng đồng dân cư (Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2012).
Mặc dù các cuộc cải cách đã diễn ra nhưng trên thế giới cũng như ở Việt
Nam nhưng Nhà nước vẫn nắm giữ quyển quản lý theo nhiều hình thức. Chính vì
thế, việc cải cách đã đi đến việc đồng quản lý trong đó Nhà nước vẫn duy trì quyền
kiểm soát, bao gồm từ việc phê duyệt các kế hoạch quản lý, cấp phép khai thác,
đến việc xây dựng các hướng dẫn quản lý hay những quy định, yêu cầu và hạn chế
trong quá trình sử dụng đất rừng. Đồng quản lý bao gồm từ giám sát việc điều
hành và các biện pháp kiểm soát đến khuyến khích sự hợp tác giữa Nhà nước với
cộng đồng (Anne & cs., 2012).
2.1.2.3. Khái niệm quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
Theo Rozemeijer & Van (2000), quản lý, sử dụng tài nguyên mà trong đó có
tài nguyên đất rừng dựa vào cộng đồng là một phương thức để giải quyết các vấn đề
của việc sử dụng chung tài nguyên của cộng đồng. Hình thức này khuyến khích việc
sử dụng và phân bổ các nguồn lực của địa phương một cách có hiệu quả và bền
vững trên cơ sở vừa giúp bảo tồn nguồn tài nguyên vừa có thể hỗ trợ phát triển đời
sống, sinh kế của cộng đồng, đặc biệt là đối với đồng bào các dân tộc sống dựa vào
nguồn tài nguyên. Hình thức quản lý, sử dụng dựa vào cộng đồng đối với đất rừng là
15
hình thức mà quyền sử dụng đất, các quyền đối với đất và rừng là những yếu tố quan
trọng được quản lý, sử dụng dựa vào cộng đồng (Colchester, 1995; Gilmour, 2016).
Ở Việt Nam, quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng được hình thành
từ rất lâu đời, gắn với việc người dân cư trú và canh tác nương rẫy luân canh, săn bắn và hái lượm từ đầu thiên niên kỷ thứ nhất sau công nguyên. Mặc dù các cộng
đồng đã hình thành các khái niệm về quyền sử dụng đất đai, nhưng luật pháp Nhà
nước không xác nhận quyền này (Poffenberger, 1990). Hầu hết đất rừng và các tư liệu sản xuất khác đều đặt dưới quyền quản lý của hợp tác xã. Sau đổi mới năm
1986, mặc dù đã phá vỡ rào cản của hợp tác xã nhưng vẫn còn tồn tại sức nặng của
Nhà nước trong việc quản lý tài nguyên. Việc sử dụng đất để sinh sống theo truyền
thống (An, 2006), như luân canh nương rẫy, những vùng rừng thuốc nam đều bị
coi là “đất hoang” và do đó nằm dưới sự quản lý của Nhà nước. Điều đó dẫn đến các hộ gia đình nghèo trong cộng đồng bị mất quyền tiếp cận và sử dụng đất rừng
(Rambo & Jamieson, 2003). Cùng với việc hoạt động kém hiệu quả của các lâm
trường quốc doanh đã gây ảnh hưởng xấu lên hàng triệu hecta đất rừng do họ quản
lý, mà đáng ra diện tích này cần được giao cho các chủ thể khác. Trong khi các chủ
thể xứng đáng được giao lại đất rừng chính là các cộng đồng dân tộc thiểu số
(Sunderlin & cs., 2006).
Luật Đất đai 2013 ra đời đã tạo hành lang pháp lý cho việc quản lý, sử dụng
đất dựa vào cộng đồng. Cộng đồng được ghi nhận là một chủ thể sử dụng đất. Tuy
nhiên, quyền của cộng đồng vẫn chịu nhiều lực cản bất lợi và cho đến nay vẫn ít
được thực hiện do các thủ tục giao đất phức tạp cùng với nhận thức kém về các giá
trị văn hóa, xã hội của cộng đồng nói chung, đất và rừng cộng đồng nói riêng (Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2016b).
Trong nghiên cứu này, quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng được
hiểu là việc các cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng một địa bàn thôn,
làng, bản, ấp, buôn, phum sóc và các điểm dân cư tương tự có cùng phong tục tập quán hoặc có chung dòng họ được Nhà nước giao đất hoặc cộng nhận quyền sử dụng đất rừng để quản lý, sử dụng vào mục đích chung của cộng đồng dân cư
(Quốc hội, 2013a).
2.1.2.4. Các loại hình quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
Theo Nguyễn Bá Ngãi (2009) và Đỗ Anh Tuân & cs. (2012) có ba loại
hình quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng chủ yếu, bao gồm: Đất rừng
16
do cộng đồng tự công nhận theo truyền thống từ lâu đời (các cộng đồng quản lý
theo luật tục); đất rừng được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng quản
lý, sử dụng ổn định lâu dài (các cộng đồng quản lý theo quy định của pháp luật)
và đất rừng của các tổ chức nhà nước khoán cho các cộng đồng bảo vệ, khoanh
nuôi và trồng mới (cộng đồng quản lý theo hợp đồng khoán).
a. Đất rừng do cộng đồng tự công nhận theo truyền thống từ lâu đời
Đây là loại hình quản lý, sử dụng theo truyền thống của các đồng bào dân tộc thiểu số (quản lý theo luật tục). Đối với diện tích này, về mặt pháp lý, các quyền sử
dụng đất chưa được xác lập, nhưng trên thực tế nó đang được điều tiết một cách
không chính thức bởi các luật tục truyền thống. Trong phạm vi thôn, bản, các
nguồn tài nguyên thuộc quyền sử dụng công cộng và được điều hành bởi một bộ
máy tự quản do già làng hoặc trưởng thôn/bản đứng đầu. Các thành viên của làng
được quyền tự do lựa chọn một mảnh đất rừng để canh tác nương rẫy. Toàn bộ các
hoạt động quản lý tài nguyên của cộng đồng được thực hiện thông qua các luật tục
hay quy ước/hương ước. Hiệu lực của các luật tục được thực hiện thông qua sự
hợp lực gắn bó với nhau giữa xã hội và tâm linh (Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, 2006). Đối với những diện tích này có thể Nhà nước chưa cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã công nhận quyền sử dụng đất của cộng
đồng, song trên thực tế, mặc nhiên cộng đồng đang tự tổ chức quản lý, sử dụng và
hưởng lợi.
b. Đất rừng được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng
ổn định lâu dài
Trước năm 2004, mặc dù pháp luật chưa quy định cộng đồng là đối tượng
giao quyền sử dụng đất, nhưng đã có 18 tỉnh làm thí điểm giao đất, giao rừng cho
cộng đồng trên cơ sở vận dụng các quy định tại Nghị định số 02/1995/NĐ-CP, sau
đó được thay thế bằng Nghị định số 163/1999/NĐ-CP. Đối với diện tích đất rừng
giao cho cộng đồng: các thành viên của cộng đồng cùng đầu tư, quản lý và hưởng
lợi, hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi giữa các thành viên của cộng đồng. Cộng đồng thành lập tổ, nhóm để tổ chức mọi hoạt động từ bảo vệ, cung cấp đầu vào, tổ chức sản xuất, bao tiêu sản phẩm và phân phối lợi ích cho các
thành viên trong cộng đồng.
Sau khi Luật Đất đai 2003 và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 có hiệu
lực thi hành, cộng đồng dân cư chính thức được công nhận là một chủ thể sử dụng
17
đất, có rất nhiều địa phương đã thực hiện giao đất, giao rừng cho các cộng đồng. Các
chương trình thí điểm giao đất, giao rừng cho cộng đồng đã được thực hiện tại Tây
Nguyên và một số tỉnh ở miền núi phía Bắc. Nhìn chung, hình thức quản lý này đã
đem lại hiệu quả và được rất nhiều địa phương thực hiện. Tuy nhiên, vẫn còn những
khó khăn vướng mắc do nhiều cộng đồng đã có quyết định giao đất, giao rừng nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do vậy ngoài nguồn đầu
tư và hỗ trợ từ các chương trình, dự án thì các quyền cơ bản của chủ rừng theo quy
định của pháp luật, cộng đồng vẫn không được hưởng như việc vay vốn từ các tổ chức tín dụng, đầu tư hỗ trợ của Nhà nước cũng như xử lý các hành vi xâm hại đến
rừng cộng đồng là hết sức khó khăn. Theo Vũ Văn Mễ (2009) trong năm 2007, với
sự hỗ trợ của FAO, Cục Lâm nghiệp đã tiến hành điều tra 37 tỉnh có rừng trên phạm vi toàn quốc; kết quả: đến 31/12/2007 cộng đồng đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giao 1.643.251,1 ha đất rừng (có quyết định hoặc giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất).
c. Đất rừng của các tổ chức nhà nước khoán cho các cộng đồng bảo vệ, khoanh
nuôi và trồng mới
Đây là hình thức cộng đồng nhận khoán theo quy định tại Nghị định
01/1995/NĐ-CP, các tổ chức giao khoán cho cộng đồng chủ yếu là lâm trường
quốc doanh; ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; ban quản lý các dự án
327, ban quản lý dự án 661 và các dự án khác. Sau khi ký hợp đồng khoán, các cộng đồng tự tổ chức lực lượng thực hiện các công việc đã ký kết trong hợp đồng.
Quyền hưởng lợi của cộng đồng tuỳ thuộc vào tình trạng rừng lúc nhận khoán, thời
gian và công sức đã đầu tư vào đất rừng, thông qua hình thức nhận tiền và được
hưởng một phần sản phẩm khi được phép khai thác chính, ngoài ra còn được thu
hái lâm sản ngoài gỗ, sản phẩm nông lâm kết hợp trên đất rừng nhận khoán. Tính
đến 31/12/2007 cộng đồng đã nhận khoán từ các lâm trường, các Ban quản lý rừng
phòng hộ, Ban quản lý rừng đặc dụng là 902.662,7 ha. Trong đó đất rừng phòng hộ và đất rừng đặc dụng là: 657.646,7 ha; đất rừng sản xuất là 245.016 ha (Vũ Văn
Mễ, 2009).
2.1.2.5. Các hình thức tổ chức quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
Việc tổ chức quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng ở mỗi vùng miền khác nhau là không giống nhau, tùy thuộc vào phong tục tập quán, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Tuy nhiên, có 3 hình thức tổ chức phổ biến là: Tổ chức theo dòng tộc
18
(dòng họ), theo dân tộc; tổ chức theo thôn, làng, buôn, bản, ấp (gọi chung là thôn)
và theo nhóm hộ/nhóm sở thích.
a. Tổ chức theo dòng tộc (dòng họ), theo dân tộc
Cộng đồng tổ chức quản lý, sử dụng đất rừng theo dòng họ, theo dân tộc nơi có
diện tích đất rừng nhỏ, do họ tự thừa nhận hay đã mặc nhiên công nhận từ các thế hệ
trước. Những diện tích này, thường nằm gần nơi cư trú của các cộng đồng với các tên
gọi như: rừng thiêng (tôn thờ thần thánh theo tín ngưỡng), rừng ma (khu rừng chôn cất người chết – nghĩa địa), rừng mó nước (khu vực bảo vệ nguồn nước cung cấp trực tiếp
cho cộng đồng), rừng gỗ gia dụng (nơi cung cấp lâm sản và lâm sản ngoài gỗ cho
cộng đồng).
Việc quản lý, sử dụng đất rừng và rừng gắn bó chặt chẽ với những tập quán truyền thống và hệ thống tư tưởng của cộng đồng, vai trò của người trưởng tộc
hoặc già làng rất quan trọng. Hầu hết các công việc quản lý, sử dụng đất của họ
đều có sự phân công rõ ràng, các thành viên thực hiện tự giác và nghiêm túc (Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2006). Nghiên cứu của Nguyễn Bá Ngãi
(2006) cho thấy cộng đồng thôn Cài, xã Vũ Lâm, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình là
cộng đồng đồng bào Mường lại có hình thức quản lý theo nhóm hộ gia đình quản
lý 31 ha diện tích đất rừng tự nhiên với mục đích phủ xanh đất trống, lấy gỗ, tre
nứa bán ra thị trường.
b. Tổ chức theo thôn, làng, buôn, bản, ấp (gọi chung là thôn)
Đây là hình thức tổ chức quản lý, sử dụng chủ yếu hiện nay. Hình thức tổ
chức này dựa trên cơ sở vị trí địa lý và khu vực người dân sinh sống. Phần lớn các
thôn đều xây dựng quy ước/hương ước quản lý và bảo vệ đất rừng và rừng cộng
đồng, tổ chức lực lượng tuần tra chuyên trách hoặc phân công luân phiên các hộ
gia đình trong thôn. Trưởng thôn điều hành các công việc chung liên quan đến quản lý và bảo vệ. Đất rừng chủ yếu của làng xã được quản lý từ lâu đời, rừng
trồng của các hợp tác xã, rừng tự nhiên đã được giao cho các hợp tác xã trước đây
sau khi chuyển đổi hợp tác xã đã giao lại cho thôn quản lý.
Theo Nguyễn Bá Ngãi (2006), ở miền núi phía Bắc hình thức này khá phổ biến như cộng đồng bản Huổi Cáy, xã Mùn Chung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên, đây là cộng đồng đồng bào Mông. Cộng đồng này đã quản lý 81 ha rừng tự nhiên từ
lâu đời (tự công nhận là đất rừng của cộng đồng) nhằm mục đích bảo vệ nguồn nước, lấy gỗ làm nhà, các lâm sản khác tiêu dùng hằng ngày. Ngoài hình thức trên
19
thì ở miền núi phía Bắc cũng có cộng đồng thôn Páng, xã Phú Thanh, huyện Quan
Hoá, tỉnh Thanh Hoá là cộng đồng đồng bào Thái đã hợp đồng khoán bảo vệ với
khu bảo tồn Pù Hu với diện tích 98 ha với mục đích bảo vệ nguồn nước, lấy gỗ làm
nhà, các lâm sản khác tiêu dùng hàng ngày, thu nhập từ khoán bảo vệ.
c. Tổ chức theo nhóm hộ/nhóm sở thích
Hình thức này được thực hiện ở một số nơi. Nhóm hộ có thể hình thành từ một
số hộ gia đình cư trú liền nhau trong phạm vi một thôn, một xóm hoặc gồm một số hộ gia đình có quan hệ huyết thống hoặc họ hàng; cũng có trường hợp là những cá nhân
cùng lứa tuổi, cùng có mong muốn được tham gia quản lý và sử dụng. Nhóm hộ này
tự phân công có thể cả nhóm cùng tham gia tuần tra hàng ngày, hàng tuần hoặc luân
phiên nhau; một số hộ có đất gần nhau liên kết quản lý và sử dụng (Đỗ Anh Tuân &
cs., 2012). Theo Nguyễn Bá Ngãi (2006), cộng đồng thôn Páng, xã Phú Thanh, huyện
Quan Hoá, tỉnh Thanh Hoá là cộng đồng đồng bào Thái đã hình thành các nhóm hộ tự
liên kết quản lý (10 nhóm hộ tự liên kết với nhau cùng quản lý 120 ha đất rừng trồng
sản xuất với mục đích trồng rừng sản xuất cung cấp Luồng cho thị trường.
2.1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng
2.1.3.1. Nhóm yếu tố những quy định của pháp luật
Việc sử dụng linh hoạt đất đai chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như:
Chính sách, luật và những qui định về sử dụng đất đai; nhận thức của người dân về các cơ hội và khả năng sử dụng đất; khả năng ứng xử của người dân với các
cơ hội thị trường; khả năng tiếp cận tài chính và các nguồn lực khác để chuyển
đổi mục đích sử dụng đất (Sally & cs., 2007).
Theo Nguyễn Bá Ngãi (2009) việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng là thực tiễn nhưng những vấn đề liên quan đến chính sách, pháp luật và cơ chế hưởng lợi cho các cộng đồng còn chưa được quan tâm đúng mức, còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Chính sách, pháp luật đất đai đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định mức độ linh hoạt trong sử dụng đất ở Việt Nam, bao gồm các chính sách về: Thời hạn giao quyền sử dụng đất nông nghiệp. Thời gian giao đất càng dài càng làm tăng sự an toàn về sở hữu và khuyến khích việc đầu tư để chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chẳng hạn chuyển từ đất trồng cây hàng năm
sang cây lâu năm. Sự cần thiết cũng cần đặt ra trong việc cân bằng giữa sử dụng đất linh hoạt và qui hoạch vùng (Sally & cs., 2007). Theo Bùi Tuấn Anh & cs
20
(2013) việc sử dụng đất nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng bởi những cơ chế, chính
sách liên quan đến nông nghiệp như: công tác ban hành và tổ chức thực hiện các
văn bản; công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; công tác giao đất, định giá
đất, quản lý thị trường bất động sản….
Mức hạn điền có thể không khuyến khích sử dụng đất linh hoạt vì nó hạn chế việc tích tụ đất đai của những nông dân sản xuất hiệu quả và bởi sự kém chắc chắn về sở hữu đối với đất vượt hạn điền được Nhà nước cho thuê. Đất đai vượt hạn điền cũng còn phải chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất nông nghiệp cũng bị hạn chế. Bởi đất đai thuộc sở hữu toàn dân nên người sử dụng đất phải có những trách nhiệm nhất định. Đất đai phải được sử dụng có hiệu quả, luân canh thích hợp và phải luôn được cải tạo, bổ sung chất dinh dưỡng. Trên thực tế, điều này được xác định như những hạn chế về sử dụng đất và nó được thể hiện trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngoài ra, các chính sách khác của Chính phủ cũng có ảnh hưởng đến việc sử dụng đất như: chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn, giá cả thị trường, thương mại và lưu thông hàng hoá, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Bên cạnh những chính sách này thì các yếu tố khác cũng có ảnh hưởng đến việc linh hoạt trong sử dụng đất đai, đó là: Việc quy hoạch sử dụng đất đai của Chính phủ được thực hiện bởi chính quyền các cấp; qui hoạch sử dụng đất ở cấp xã như qui hoạch hệ thống thuỷ lợi, hệ thống giao thông và giao đất. Các hệ thống dịch vụ hỗ trợ ở cấp xã như dịch vụ cung ứng đầu vào, dịch vụ làm đất, bảo vệ thực vật, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới của nông dân (Sally & cs., 2007).
Theo Vũ Thị Hạnh (2014) và nhóm tác giả Nguyễn Ngọc Quan & Hoàng Liên Sơn (2007) thì các chính sách về đất đai cũng ảnh hưởng lớn đến quản lý tài nguyên rừng công bằng và bền vững. Trong đó những quy định về quyền quản lý, sở hữu rừng và đất rừng; quy định về giao đất, giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn; mối quan hệ giữa các quy định của Nhà nước với các quy ước, hương ước… được xem là các yếu tố tác động đến quản lý tài nguyên rừng công bằng và bền vững. Vấn đề này có liên quan trực tiếp đến hiệu quả quản lý, sử dụng đất rừng.
Bên cạnh đó, Hanstad (2009) cũng cho rằng pháp luật có vai trò và ảnh hưởng rất lớn đến các hệ thống sử dụng đất. Nó ảnh hưởng đến hành vi của cả cơ quan quản lý đất đai và người sử dụng đất, từ đó quyết định đến việc sử dụng đất. Pháp luật bao gồm cả những quy định của Nhà nước và những luật tục của địa phương đều có ý nghĩa đối với việc sử dụng đất, đặc biệt là đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng.
21
2.1.3.2. Nhóm yếu tố điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng
Theo quan điểm của nhóm tác giả Dương Viết Tình & Trần Hữu Nghị
(2012), cũng như tác giả Bùi Tuấn Anh & cs. (2013) sản xuất nông nghiệp nói
chung và lâm nghiệp nói riêng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố điều kiện tự nhiên như diện tích, vị trí của thửa đất có liên quan đến mức độ giàu
nghèo, trữ lượng các loài lâm sản và lâm sản ngoài gỗ. Bên cạnh đó, khoảng cách từ
nơi cư trú đến diện tích đất rừng được giao quyết định đến khả năng tiếp cận rừng.
Những diện tích đất rừng giao cho cộng đồng càng gần khu dân cư, địa hình thuận lợi thì càng dễ tiếp cận, dễ quản lý, sử dụng; còn càng xa khu dân cư, địa hình phức
tạp thì khả năng tiếp cận càng khó khăn, không thuận lợi trong việc quản lý, sử dụng
đất. Ngoài ra điều kiện hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn
đến quản lý, sử dụng đất.
Về vị trí đất rừng, có sự khác nhau, thậm chí xung đột quan điểm về vị trí
và việc giao chúng cho cộng đồng (Nguyễn Thị Hồng Mai & Hà Huy Tuấn, 2009).
Rừng gần cộng đồng thì dễ cho cộng đồng đi tuần tra nhưng lại dễ bị khai thác trái
phép. Trong khi những khu rừng ở xa khu dân cư thì rất khó khăn cho việc tuần tra
nhưng ít bị phá hủy. Tuy nhiên, nhìn chung người dân có thể không thích được
giao những khu rừng ở xa và khó tiếp cận. Các khu rừng không liên tục không nên
giao cho cộng động. Hay nói cách khác, rừng giao cho cộng đồng nên là một mảnh
liên tục và không bị ngắt quãng bởi khu dân cư hay các vùng canh tác. Những khu rừng không liên tục nên giao cho nhóm hộ hay hộ gia đình cá nhân. Diện tích
thường ít quan trọng hơn so với các nhân tố khác. Diện tích đất rừng giao cho cộng
đồng là rất linh hoạt, phụ thuộc rất nhiều vào diện tích đất rừng sẵn có ở địa
phương. Tuy nhiên diện tích đất rừng sẵn có bị hạn chế sẽ ảnh hưởng đến việc giao
thêm đất cho cộng đồng. Thêm vào đó diện tích rừng đất được quản lý bởi mỗi
cộng đồng không nên quá rộng vì nó có thể vượt quá khả năng của họ để có hiệu
quả và tạo nên sự không công bằng cho các cộng đồng xung quanh.
Một điều quan trọng qua một số nguyên cứu điển hình cho thấy tầm quan trọng của các lâm sản ngoài gỗ đối với thu nhập của các người dân trong các cộng đồng (Fisher, 2004; Mamo & EspenSjaastad, 2007; Appiah & cs., 2009). Đặc biệt, nghiên cứu của Hermans-Neumann & cs. (2016) cũng như Reyes-Garcia & cs. (2016) đã khẳng định lâm sản là nguồn thu nhập và phúc lợi quan trọng trong các
cộng đồng nông thôn trên khắp các vùng nhiệt đới. Mặc dù các sản phẩm lâm sản thường xuyên bị khai thác quá mức nhưng chất lượng của tài nguyên rừng cũng như
22
mức độ sẵn có của các tài nguyên rừng mà chủ yếu là các lâm sản ngoài gỗ như củi,
than, thực phẩm, dược phẩm, thức ăn gia súc và các lâm sản khác là những yếu tố
ảnh hưởng lớn, quyết định đến sinh kế của người dân trong các cộng đồng sống dựa
vào rừng.
2.1.3.3. Nhóm yếu tố kinh tế
Theo nghiên cứu của tác giả Dương Viết Tình & Trần Hữu Nghị (2012) điều
kiện kinh tế của hộ nói nên mức sống của người dân. Đa phần mức sống của người dân của các cộng đồng còn thấp, người dân còn thiếu đói nên gây áp lực lớn đối với
diện tích đất rừng được giao. Mặt khác với mức sống thấp, không đủ ăn buộc người
dân phải vào rừng nhiều hơn để thu hái các sản phẩm lâm sản ngoài gỗ để phục vụ
bữa ăn và góp thêm vào thu nhập gia đình. Điều này sẽ làm cho nguồn lâm sản
ngoài gỗ ngày càng giảm đi cả về số lượng và chất lượng, thậm chí có nguy cơ cạn
kiệt, ảnh hưởng đến sinh kế của người dân. Quan điểm về thị trường cũng được
nhóm tác giả đánh giá là yếu tố ảnh hưởng gián tiếp đến công tác quản lý và hưởng
lợi từ rừng. Một khi nhu cầu thị trường có xu hướng tăng cao về mặt hàng lâm sản
ngoài gỗ nào đó thì người dân sẽ ào ạt vào rừng để khai thác về bán dù đó là trái
pháp luật hoặc khai thác một cách bừa bãi sai quy định. Tuy nhiên nhu cầu về thị
trường cũng là một yếu tố ảnh hưởng tốt đến hưởng lợi của người dân, đó là nơi
giúp người dân tiêu thụ những sản phẩm thu hái từ rừng, kích thích người dân tích
cực tham gia bảo vệ rừng để có sản phẩm thu hái bán ra thị trường. Bên cạnh đó, việc tiếp cận các nguồn tài chính đối với người nông dân là rất khó khăn. Chủ yếu
đến từ các chương trình, dự án. Có rất ít các tổ chức tín dụng tham gia vào việc cho
người nông dân vay vốn sản xuất (Bien, 2000; Nguyễn Quang Tân & cs., 2008).
Để việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng thực sự đem lại hiệu
quả thì công tác gây quỹ, các nguồn gây quỹ và việc quản lý, sử dụng quỹ cũng
thực sự cần thiết và quan trọng. Theo Ivan (2006) quỹ và tài chính là thực sự cần thiết, quyết định đến sự phát triển của ngành lâm nghiệp. Các khoản tiền này có thể là từ các nhà tài trợ, các khoản đầu tư, các khoản vay, các khoản tài trợ và đến từ
trong nước hay nước ngoài, từ các tổ chức hoặc cá nhân.
2.1.3.4. Nhóm yếu tố xã hội
Theo tác giả Nguyễn Trần Hòa (2014), cũng như tác giả Hoàng Xuân Tý &
Lê Trọng Cúc (1998) kiến thức bản địa là hệ thống kiến thức của người dân sống
trong các cộng đồng tại một khu vực nào, nó tồn tại và phát triển trong những điều
23
kiện nhất định với sự đóng góp của mọi thành viên trong cộng đồng ở một vùng địa
lý xác định. Sự tham gia của các bên liên quan là yếu tố quan trọng ảnh hưởng nhiều
nhất đến hoạt động quản lý, sử dụng đất rừng và hưởng lợi từ rừng. Các bên liên
quan là những chủ thể giữ vai trò quyết định đến hiệu quả quản lý, sử dụng đất rừng
như thế nào. Bên cạnh cộng đồng thì vai trò của chính quyền địa phương là yếu tố
quyết định, hỗ trợ, thúc đẩy công tác quản lý, sử dụng đất. Trong cộng đồng, các tổ
chức xã hội khác cũng có vai trò hết sức quan trọng, điều này sẽ giúp cho công tác
quản lý, sử dụng đất được thuận lợi hơn. Có thể tổ chức thành các tổ, đội để cùng
tham gia công tác quản lý, sử dụng đất rừng. Ngoài ra, yếu tố quyết định đến công
tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng là tri thức bản địa. Đây được coi là
một trong những thành tố quan trọng góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của các dân
tộc. Đó là những thói quen, tập quán và những quy ước cộng đồng được quy ước
hóa thông qua hành vi, hoạt động thực tiễn sản xuất, ứng xử với môi trường tự nhiên
và xã hội. Việc quản lý, sử dụng đất của đồng bào các dân tộc đã được thực hiện dựa
trên các tri thức bản địa từ lâu đời và đem lại hiệu quả đối với các cộng đồng.
Theo tác giả Phạm Quang Tiến & Nguyễn Thị Hồi (2010) trong đời sống xã
hội, tập quán, luật tục có ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ, xử sự và hoạt động lao
động sản xuất của mọi người, đặc biệt là ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Những tập quán, luật tục phù hợp với ý chí của Nhà nước, nguyện vọng của nhân
dân có thể và nên được thừa nhận thành pháp luật, thành những quy tắc xử sự chung
được Nhà nước bảo đảm thực hiện, qua đó góp phần hình thành nên pháp luật.
Những tập quán, luật tục đó vì tồn tại lâu đời, ngấm sâu vào tiềm thức của nhân dân,
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, trở thành thói quen ứng xử hàng ngày của
họ và được đảm bảo thực hiện bằng dư luận xã hội, bằng các biện pháp cưỡng chế
của cộng đồng nên thường được nhân dân tự giác thực hiện, nhờ đó góp phần làm
cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác hơn.
Vai trò của trưởng bản rất lớn trong mọi hoạt động từ bảo vệ rừng, phân bố
lượng khai thác cho từng thành viên trong cộng đồng cũng như huy động nguồn
nhân lực cho các hoạt động khác (Poffenberger, 1998). Các cộng đồng đều có những
hương ước, quy ước quy định rõ ràng về việc hưởng lợi cũng như xử phạt đối với
những người vi phạm những quy định (Phạm Quốc Hùng & Hoàng Ngọc Ý, 2009).
24
2.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
2.2.1. Căn cứ pháp lý về quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
- Thời kỳ trước Luật Đất đai 2003: Ở nước ta chưa thực sự thừa nhận sự tồn tại của cộng đồng. Việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa trên các hương ước và luật tục truyền thống. Quyết định 184/QĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng năm 1982 và Chỉ thị 29/CT-TW ngày 12 tháng 11 năm 1983 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng, xây dựng rừng và tổ chức kinh doanh theo phương thức nông - lâm kết hợp là tiền đề hình thành những quy định cho việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng.
- Từ 1986 - 1992: Luật Đất đai 1987 là tiền đề cho phép giao đất, giao rừng cho tổ chức, cá nhân và hộ gia đình. Lần đầu tiên đề cập làng, bản là chủ rừng hợp pháp đối với rừng truyền thống của làng, bản.
- Từ 1993 - 2002: Nhà nước tăng cường quá trình phi tập trung hoá trong quản lý rừng, quan tâm đến xã hội hóa nghề rừng, nhưng chính sách đối với lâm nghiệp cộng đồng chưa rõ ràng. Ở một số vùng đã thực hiện nhiều mô hình quản lý đất rừng dựa vào cộng đồng nhưng ở mức độ tự phát hoặc mang tính chất thí điểm. Nhiều địa phương đã vận dụng một số văn bản của Nhà nước và của ngành cho phát triển lâm nghiệp đã thực hiện giao khoán một số diện tích đất rừng cho các hộ dân địa phương, các cộng đồng sống gần rừng và phụ thuộc vào rừng. Tuy nhiên, cơ chế khoán vẫn chưa được rõ ràng nên gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý (Nguyễn Bá Ngãi, 2009). Một số quy định vận dụng trọng việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng giai đoạn này như:
+Nghị định 01/1995/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 1995 của Chính phủ ban hành quy định về việc giao khoán đất sử dụng và mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp nhà nước.
+ Nghị định 29/1998/NĐ - CP ngày 11 tháng 5 năm 1998 về việc ban hành
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã.
+ Quyết định 245/1998/QĐ-TTg ngày 21 tháng 12 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp.
+ Thông tư 56/1999/TT- BNNPTNT ngày 30 tháng 3 năm 1999 của Bộ NN&PTNT về hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, làng, buôn, bản, ấp.
25
+ Quyết định 08/2001/QĐ-TTg ngày 11 tháng 1 năm 2001 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng
sản xuất là rừng tự nhiên.
+ Quyết định 178/2001/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ quy định về quyền lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao,
được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp.
- Từ 2003 - nay: đã hình thành khung pháp lý cơ bản cho lâm nghiệp cộng đồng. Căn cứ pháp lý thực hiện việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
giai đoạn này gồm:
+ Luật Đất đai 2003, trong đó khái niệm "Cộng đồng dân cư" đã được Luật
quy định là một trong những chủ sử dụng đất (Điều 9).
+ Luật Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 có một mục riêng quy định
về giao rừng gắn với giao đất cho cộng đồng dân cư thôn; quyền và nghĩa vụ của
cộng đồng dân cư thôn khi được giao rừng.
+ Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về
thi hành Luật Đất đai đã quy định cộng đồng dân cư thôn được giao đất rừng
phòng hộ với các quyền chung như hộ gia đình và cá nhân được giao đất lâm
nghiệp nhưng cộng đồng dân cư thôn không được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, tặng cho quyền sử dụng đất; không được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng
quyền sử đụng đất (Quốc hội, 2003).
+ Bộ luật Dân sự năm 2005 thừa nhận khái niệm sở hữu chung của cộng
đồng: Cộng đồng dân cư thôn có quyền sở hữu đối với tài sản được hình thành
theo tập quán, tài sản do các thành viên trong cộng đồng đóng góp và cùng quản
lý, sử dụng theo thoả thuận vì lợi ích của cộng đồng (Quốc hội, 2005).
+ Quyết định 106/2006/QĐ-BNN ngày 27 tháng 11 năm 2006 của bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành hướng dẫn quản lý rừng cộng đồng dân
cư thôn.
+ Thông tư 38/2007/TT-BNN ngày 25 tháng 4 năm 2007 của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn trình tự, thủ tục giao rừng, cho thuê
rừng, thu hồi rừng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư thôn.
+ Luật Đất đai 2013 có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 7 năm 2014 một lần nữa
khẳng định cộng đồng dân cư là một chủ thể sử dụng đất. Khoản 3, Điều 5, quy
26
định: Cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa
bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư tương tự có
cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ; Khoản 3, Điều 7, Luật Đất đai
2013 quy định: “Người đại diện cho cộng đồng dân cư là trưởng thôn, làng, ấp,
bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố hoặc người được cộng đồng dân cư thỏa thuận cử
ra đối với việc sử dụng đất đã giao, công nhận cho cộng đồng dân cư”. Khoản 3,
Điều 131 quy định: “Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng được quy định
như sau: Cộng đồng dân cư được Nhà nước giao đất, công nhận quyền sử dụng đất
để bảo tồn bản sắc dân tộc gắn với phong tục, tập quán của các dân tộc; cộng đồng
dân cư được Nhà nước giao đất, công nhận quyền sử dụng đất có trách nhiệm bảo
vệ đất được giao, được sử dụng đất kết hợp với mục đích sản xuất nông nghiệp và
nuôi trồng thuy sản, không được sử dụng chuyển sang mục đích khác”. Tuy nhiên,
Điều 181, vẫn quy định: “cộng đồng dân cư sử dụng đất không được chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho quyền sử dụng đất; không được thế chấp, góp
vốn bằng quyền sử dụng đất” (Phạm Thanh Quế & Phạm Phương Nam, 2014).
+ Luật Lâm nghiệp 2017 ra đời một lần nữa khẳng định cộng đồng dân cư là
chủ rừng, được:
Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng; giao đất, cho thuê đất để trồng rừng; tự
phục hồi, phát triển rừng nhận chuyển nhượng, tặng, cho, thừa kế rừng (khoản 9,
Điều 2, Luật Lâm nghiệp 2017). Cộng đồng dân cư được giao đất, giao rừng có
đầy đủ các quyền quy định đối với chủ rừng (Điều 73, Luật lâm nghiệp) và có
nghĩa vụ của một chủ rừng quy định tại Điều 74. Bên cạnh đó, cộng đồng dân cư
không được phân chia rừng cho các thành viên trong cộng đồng dân cư; không
được chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho quyền sử dụng rừng; thế chấp, góp vốn
bằng giá trị quyền sử dụng rừng.
2.2.2. Căn cứ pháp lý về giao đất, giao rừng cộng đồng
Theo Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn (2006) để bảo vệ và phát triển rừng, ngay từ những năm còn trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Đảng và Nhà nước đã chủ trương giao đất, giao rừng cho hợp tác xã, các đơn vị kinh tế và khoán cho gia đình xã viên trồng, bảo vệ rừng. Năm 1983, Ban Bí thư (khoá V) đã có Chỉ thị 29/CT- TW ngày 12 tháng 11 năm 1983 về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng. Chỉ thị đã nhấn mạnh phải làm cho mỗi khu đất, mỗi cánh rừng, mỗi quả đồi đều có người làm chủ. Chính sách giao đất, giao rừng cho pháp triển lâm nghiệp là rất đúng đắn góp
27
phần xóa đói, giảm nghèo nhất là đối với các đối tượng sống gần rừng (Trần Thị Thu
Hà, 2013). Chính sách đổi mới năm 1986 là một bước ngoặt cho sự chuyển đổi thể
chế quản lý rừng của Nhà nước sang cơ chế quản lý có sự tham gia của người dân
dưới chính sách phân quyền cho các thành phần ở địa phương, bao gồm hộ gia đình,
nhóm hộ và cộng đồng (Dương Viết Tình & Trần Hữu Nghị, 2012). Việc giao đất,
giao rừng cho cộng đồng dân cư đã được thực hiện căn cứ vào:
- Nghị định số 02/1994/NĐ-CP ngày 15 tháng 1 năm 1994 của Chính phủ
ban hành bản quy định về việc giao đất, lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Cộng đồng dân cư đã
được coi là chủ sử dụng đất và vận dụng như một tổ chức để giao đất, giao rừng.
- Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 1999 của Chính phủ
về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng
ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
- Nghị định 01/1995/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 1995 của Chính phủ ban
hành quy định về việc giao khoán đất sử dụng và mục đích sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp nhà nước. Nhằm tạo sự
liên kết với các cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp, mà đặc biệt là mối quan
hệ giữa hệ thống lâm trường và người dân sống gần rừng nên đã vận dụng nghị
định này cho việc giao, khoán quản lý bảo vệ rừng đến hộ gia đình, cá nhân và
cộng đồng (Đàm Trọng Tuấn, 2012).
- Luật Đất đai 2003 là văn bản pháp lý quan trọng quy định các quan hệ liên
quan đến quyền sử dụng đất đã quy định cộng đồng dân cư thôn được Nhà nước
giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp với tư cách là người sử
dụng đất. Khoản 3, Điều 9 quy định: “Cộng đồng dân cư sinh sống trong cùng một
địa bàn thôn... được Nhà nước giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất”. Khoản
7, Điều 33 quy định: “Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất cho cộng
đồng dân cư sử dụng đất nông nghiệp”. Khoản 2, Điều 66 quy định: “Đất nông
nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng có thời hạn ổn định lâu dài”.
- Quyết định 672/QĐ-TTg ngày 26 tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng Chính
phủ về việc lập bản đồ địa chính tỷ lệ 1/10000, xét duyệt cấp giấy CNQSDĐ lâm
nghiệp. Đây là một trong những căn cứ để các địa phương thực hiện cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cộng đồng dân cư được giao đất, giao rừng.
28
- Luật Đất đai 2013. Khoản 5, Điều 100 quy định: “Cộng đồng dân cư đang
sử dụng đất và đất đó không có tranh chấp, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có
đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng thì được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”.
Hình thức giao đất theo Luật Đất đai quy định Nhà nước giao đất rừng phòng
hộ không thu tiền sử dụng đất, diện tích rừng giao cho cộng đồng phải nằm trong
phương án giao rừng của UBND xã đã được UBND huyện phê duyệt và rừng giao
cho cộng đồng phải nằm trong phạm vi xã. Không quy định hạn mức giao đất, giao
rừng cho các cộng đồng dân cư. Người sử dụng đất là cộng đồng dân cư được cấp
GCNQSD đất đối với diện tích được giao theo quy định của Luật Đất đai (Phạm
Xuân Phương, 2008; Quốc hội, 2013).
Đất rừng đã được giao cho cộng đồng quản lý với hai hình thức: Cộng đồng
thôn và nhóm hộ. Việc giao đất, giao rừng cho cộng đồng quản lý có hiệu quả hơn
rất nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, mô hình giao đất, giao rừng cho cộng đồng
thôn quản lý thì có hiệu quả hơn mô hình giao cho nhóm hộ. Nghiên cứu này của
các tác giả đi sâu vào phân tích chính sách hưởng lợi từ việc quản lý và sử dụng
rừng là chủ yếu. Nghiên cứu cũng cho thấy chính sách giao đất, giao rừng, các thủ
tục pháp lý liên quan đến quyền sử dụng đất của cộng đồng còn nhiều bất cập cần
phải nghiên cứu (Lê Quang Vĩnh & Ngô Thị Phương Anh, 2012).
Chính sách giao đất, giao rừng đã có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của
người dân. Góp phần thay đổi nhận thức, lối sống của người dân địa phương tạo
điều kiện cho người dân được tiếp cận với nhiều nguồn tri thức mới, nhiều hoạt
động sinh kế mới, biết ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhờ vậy chất
lượng lao động ngày được nâng cao, góp phần cải thiện đời sống hộ gia đình. Tuy
nhiên bên cạnh đó, trong quá trình triển khai, chính sách đã bộc lộ một số khiếm
khuyết gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của người dân địa phương. Việc triển
khai chính sách đã làm gia tăng hiện tượng bất bình đẳng trong cộng đồng
(Nguyễn Thị Mỹ Vân, 2013).
Quy trình giao đất, giao rừng cho các cộng đồng dân tộc thiểu số được thực
hiện có sự tham gia của cộng đồng. Chính quyền địa phương vẫn giữ vai trò chủ
đạo nhưng cộng đồng dân cư phải được tham gia vào tất cả các khâu của quá trình,
thể hiện mắt xích quan trọng, không thể thiếu (Vũ Quốc Phương & cs., 2014).
29
2.2.3. Căn cứ pháp lý về giao khoán đất rừng cho cộng đồng
Nghị định 01/1995/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 1995 của Chính phủ ban
hành quy định về việc giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp nhà nước. Văn bản này đã tạo khuôn khổ pháp lý cho các tổ chức được Nhà nước giao đất có quyền giao
khoán đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; quy định thời gian giao khoán đất
lâm nghiệp đối với đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ là 50 năm, đất rừng sản
xuất theo chu kỳ kinh doanh. Cũng theo văn bản này, người chịu trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước đối với diện tích đất được giao vẫn là các tổ chức nhà nước (bên
giao khoán), còn người nhận khoán (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) chỉ chịu trách
nhiệm quản lý rừng và đất theo hợp đồng ký kết với bên giao khoán. Mặc dù
không có quy định giao khoán cho cộng đồng nhưng đã có nhiều đơn vị coi khái
niệm về "tổ chức" có thể được mở rộng hơn là cộng đồng dân cư thôn và được
nhận khoán đất rừng và rừng. Cộng đồng dân cư tham gia nhận khoán đất rừng và rừng với tư cách như một hộ nhận khoán (Chínhh phủ, 1995; Nguyễn Nghĩa Biên
& cs., 2013).
2.2.4. Căn cứ pháp lý về hưởng lợi từ đất rừng cộng đồng
- Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 quy định cộng đồng được giao đất, giao rừng được khai thác, sử dụng lâm sản và các lợi ích khác của rừng vào mục đích công cộng và gia dụng cho thành viên trong cộng đồng. Tuy nhiên, xét về khía cạnh pháp lý, đến nay chưa có văn bản nào quy định cộng đồng được khai thác, sử dụng rừng và hưởng lợi từ đất rừng được giao như thế nào. Mặc dù vậy, từ trước khi Luật Bảo vệ phát triển rừng có quy định về việc hưởng lợi chúng ta đã vận dụng một số quy định về hưởng lợi cho các cộng đồng dân cư như:
- Quyết định 08/2001/QĐ-TTg ngày 11 tháng 1 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên.
- Quyết định 178/2001/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ quy định về quyền lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp.
- Thông tư liên tịch số 80/2003/TTLT-BNN-BTC ngày 3 tháng 9 năm 2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài chính hướng dẫn Quyết định 178/2001/QĐ-TTg.
30
Các văn bản này quy định đối với đất rừng phòng hộ là rừng tự nhiên sẽ được phép khai thác tận dụng cây đổ gãy, cây sâu bệnh, nơi có mật độ cây quá dày được phép khai thác tỉa với cường độ không quá 20%. Rừng tre nứa khi đã đạt yêu cầu phòng hộ (có độ che phủ trên 80%) được phép khai thác với cường độ tối đa 30% và được khai thác măng. Nếu đất rừng phòng hộ có rừng trồng do Nhà nước đầu tư thì được phép khai thác các loại cây phù trợ và tỉa thưa, khi rừng trồng có mật độ lớn hơn mật độ quy định được khai thác với cường độ khai thác không quá 20%. Đối với đất rừng sản xuất có rừng tự nhiên, các văn bản này quy định được khai thác sản phẩm tận dụng trong quá trình nuôi dưỡng làm giàu và tỉa thưa rừng, được khai thác tận dụng cây chết đứng, tận thu gỗ nằm…
Hiện nay ở một số địa phương, những diện tích rừng tự nhiên do cộng đồng dân cư tự quản lý (mặc dù chưa được pháp luật thừa nhận), các cộng đồng thường xây dựng quy ước/hương ước nội bộ với những điều khoản qui định về quản lý, bảo vệ rừng, khai thác và hưởng lợi các sản phẩm từ rừng như: khai thác gỗ phục vụ cho nhu cầu chung của cộng đồng, hộ gia đình có nhu cầu làm nhà mới để tách hộ hoặc thay thế nhà cũ, sửa chữa lớn nhà ở được cộng đồng cho phép khai gỗ trên rừng của cộng đồng; người dân trong thôn được khai thác các loại lâm sản ngoài gỗ...
Các khu rừng tự nhiên được giao cho cộng đồng hầu hết là rừng nghèo, mặc dù cơ chế hưởng lợi từ rừng của cộng đồng đã có tác dụng khuyến khích người dân tham gia, tuy vậy thủ tục khai thác phức tạp khó để cộng đồng thực hiện. Sự hỗ trợ của các dự án đã phần nào làm động lực thúc đẩy, nhưng thời gian hỗ trợ ngắn; sự phối hợp giữa các bên liên quan với cộng đồng trong quá trình quản lý bảo vệ rừng chưa được chặt chẽ (Lê Quang Vĩnh & Ngô Thị Phương Anh, 2012).
Hai định hướng hưởng lợi rừng trong quản lý rừng cộng đồng cần được quan tâm và nghiên cứu để mở rộng và thể chế hoá, đó là: Thứ nhất, thừa nhận và thể chế hoá khai thác thương mại và cơ chế hưởng lợi sản phẩm rừng thương mại từ rừng cộng đồng; thứ hai, dần tiến tới cơ chế hưởng lợi rừng từ dịch vụ môi trường (Nguyễn Bá Ngãi & cs., 2009).
Cộng đồng có thể hưởng lợi từ 3 nguồn sau: Cộng đồng hưởng lợi từ gỗ thương mại, cộng đồng hưởng lợi lâm sản ngoài gỗ và cộng đồng hưởng lợi các DVMTR (Bảo Huy, 2009). Để có thể nhân rộng, phát triển phương thức quản lý đất rừng và rừng dựa vào cộng đồng và cơ chế hưởng lợi, cần có: Quy hoạch và giao đất, giao rừng cho cộng đồng thôn, buôn ổn định lâu dài; cần có các thủ tục hành chính và cơ quan chuyên trách về quản lý rừng cộng đồng; xem xét và thể chế hóa cơ chế hưởng lợi (Trương Tất Đơ, 2013).
31
2.2.5. Căn cứ pháp lý về đầu tư cho công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
Hiện nay cộng đồng dân cư được giao đất, giao rừng và đang đầu tư trên đất rừng được giao nhưng xét về mặt pháp lý đến nay chưa có văn bản nào quy định cụ thể cộng đồng được hưởng chính sách đầu tư đó như thế nào. Tuy nhiên, có thể vận dụng Quyết định 661/TTg ngày 29 tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng để đầu tư hỗ trợ cho cộng đồng đã được Nhà nước giao đất, giao rừng hoặc tham gia nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh và trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Văn bản này quy định rõ, vốn đầu tư của Nhà nước tiếp tục dành cho hoạt động bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Người tham gia bảo vệ rừng được hưởng tiền công bảo vệ là 50.000 đồng/ha/năm. Thời gian trả tiền công bảo vệ không quá 5 năm. Tiền công khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung không quá 1 triệu đồng/ha với thời hạn không quá 6 năm. Nhà nước hỗ trợ bình quân 2 triệu đồng/ha cho các đối tượng tự bỏ vốn trồng rừng sản xuất là các loại cây gỗ đặc biệt quý hiếm có chu kỳ trên 30 năm. Suất đầu tư hỗ trợ trồng rừng phòng hộ là 4 triệu đồng/ ha (Thủ tướng Chính phủ, 1998). Ngoài ra có thể vận dụng Quyết định 147/TTg ngày 10 tháng 09 năm 2007 về một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007 - 2015. Văn bản quy định rõ Nhà nước hỗ trợ trồng giống tối đa 1,5 triệu đồng, hỗ trợ cộng đồng trồng rừng khảo nghiệm bằng 60% giá thành trồng rừng được phê duyệt, hỗ trợ chi phí khuyến lâm là 200.000 đồng/ha trong 4 năm. Ngoài ra Nhà nước còn hỗ trợ chi phí vận chuyển lâm sản chế biến.
Về kế hoạch đầu tư trên đất Nhà nước kêu gọi quy hoạch đất trồng rừng, yêu cầu đẩy nhanh công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức cộng đồng theo luật, cho phép sử dụng 30% diện tích đất rừng được giao chưa có rừng phục vụ cho dịch vụ hoạt động sinh thái, du lịch. Ngoài ra Nhà nước kêu gọi các tổ chức đầu tư nước ngoài, cộng đồng dân cư đầu tư trồng rừng tại khu đất trống giao cho cộng đồng.
2.3. QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở MỘT
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
2.3.1. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở một số nước trên
thế giới
2.3.1.1. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Philippines
Nghiên cứu của Guiang & cs. (2001), cũng như nghiên cứu của Pulhin & Pulhin (2003) đã chỉ ra rằng, trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Philippines
32
là một trong những ít quốc gia đi đầu trong phát triển chính sách và tiên phong để tiến đến mục tiêu quản lý rừng bền vững dựa vào cộng đồng. Việc tiếp cận và hưởng lợi từ quản lý rừng được dân chủ hoá bằng cách chuyển quyền và trách nhiệm quản lý nhất định cho các cộng đồng. Nền tảng của quản lý rừng bền vững là một chính sách luật định được quy định ổn định và rõ ràng. Các “quyền mềm” trong một số quy định về sử dụng đất mà không được luật hoá đã không cung cấp đủ động lực để khuyến khích cộng đồng đầu tư về nhân lực và tài chính vào quản lý và phát triển rừng. Những quyền này rất dễ bị thay đổi và dễ dàng dẫn đến bất lợi về kinh tế, xã hội và môi trường. Hơn nữa, việc luật hóa chính sách đối với quản lý dựa vào cộng đồng cần được "cho phép" hơn là "thực thi". Cần đủ linh hoạt áp dụng tại các địa phương có điều kiện khác nhau, thuận lợi hơn là hạn chế và đủ đơn giản cho cộng đồng hiểu và thực thi. Bắt đầu từ truyền thống pháp lý hoặc chức năng lập chính sách mà cơ quan lâm nghiệp có được trong nhiều thế kỷ nhưng cần hỗ trợ nhiều hơn và thuận lợi hơn để hỗ trợ cộng đồng cải thiện sinh kế của họ. Để đạt được điều này đòi hỏi phân cấp trách nhiệm không chỉ cho chính quyền mà còn cho các cộng đồng địa phương. Thay đổi những quy định lỗi thời của chính sách và thủ tục.
Philippines đã thực hiện giao đất, giao rừng cho các cộng đồng dân cư từ những năm 1970 và đến những năm 1990 thì trở thành phương thức phổ biến và rộng rãi. Các cộng đồng được quản lý, sử dụng một diện tích đất rộng lớn hơn rất nhiều so với các đối tượng khác (5,3 triệu ha so với 1,4 triệu ha). Điều này cho thấy sự thay đổi đáng kể trong cách tiếp cận quản lý, sử dụng đất rừng của Chính phủ có lợi cho các cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng (Guiang & cs., 2001). Calderon & Nawir (2006) đã nghiên cứu tính khả thi và lợi ích của mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng và quản lý rừng của các đối tượng không phải là cộng đồng tại Philippines và chỉ ra rằng cả hai hình thức đều đem lại tính khả thi và lợi ích cho việc quản lý, sử dụng đất rừng. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất trong sản xuất đó là thị trường tiêu thụ sản phẩm từ rừng, do việc nhập khẩu có chi phí thấp hơn chi phí bỏ ra để sản xuất trong nước. Điều quan trọng trong quản lý dựa vào cộng đồng ở Philippines là việc phân quyền và trách nhiệm cụ thể hơn cho các cộng đồng (Pulhin, 2003).
2.3.1.2. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Indonesia
Theo nghiên cứu của Yanti & Martua (2001) có thể thấy rằng vào trước những năm 70 việc quản lý tài nguyên rừng của Indonesia được đánh dấu bằng sự
bùng nổ của việc khai thác gỗ thương mại. Những khu rừng rộng lớn, chủ yếu là trên các hòn đảo bắt đầu được cho các tập đoàn trong và ngoài nước thuê để khai
33
thác gỗ, sử dụng trồng rừng với quy mô lớn nhằm mục đích thu được lợi nhuận tối
đa. Từ 152 triệu ha rừng có trữ lượng cao của Indonesia đã có vào năm 1950 giảm
xuống dưới 95 triệu ha trong những năm 90.
Sau Hội nghị Lâm nghiệp thế giới tổ chức tại Jakarta vào năm 1978 (FAO, 1978), nơi các thành viên chỉ trích và ngăn chặn khai thác thương mại và đề cao
việc bảo tồn rừng thì chính phủ Indonesia mới nỗ lực tăng cường hợp tác với các
cộng đồng trong hoạt động quản lý tài nguyên. Có rất nhiều các chương trình, dự
án đã được thực hiện nhằm mục tiêu quản lý, sử dụng đất rừng hiệu quả dựa vào
cộng đồng.
Tuy nhiên, việc bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng ở Indonesia vẫn còn gặp rất nhiều những tồn tại, bất cập cần phải khắc phục như: Chưa có quy định rõ ràng liên quan đến quyền kiểm soát, quyền sở hữu đất và tài sản trên đất. Căn cứ nào để Nhà nước kiểm soát đất và các nguồn lực: Trên nguyên tắc kết nối không thể tách rời giữa đất rừng và tài nguyên rừng hay dựa trên nguyên tắc tách ngang giữa đất và tài nguyên rừng. Luật Nông nghiệp Indonesia thừa nhận cả hai nguyên tắc, trong khi Luật Lâm nghiệp thì không hướng dẫn rõ ràng 2 nguyên tắc này. Những khu vực rừng được giao cho các đồn điền công nghiệp quy mô lớn theo nguyên tắc tách biệt giữa đất rừng và tài nguyên trên đất, trong khi các chương trình lâm nghiệp cộng đồng thì lại có sự kết nối không thể tách rời giữa đất rừng và tài nguyên rừng. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều xung đột, chồng chéo của các cơ quan và việc phân cấp trong quản lý tài nguyên rừng, nhất là đối với cộng đồng còn chưa rõ ràng. Đến nay, các cộng đồng phải tuân theo quy định rất khắt khe của Chính phủ, phải tham gia hệ thống đảm bảo tính hợp pháp của gỗ Indonesia trong rừng cộng đồng với những quy định cụ thể để được công nhận (De Royer & cs., 2016).
2.3.1.3. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Ấn Độ
Ở các nước đang phát triển theo nghiên cứu của tác giả Priya & Rucha (2011) ước tính có khoảng 22% diện tích đất rừng thuộc quyền sử dụng của cộng đồng và các nhóm người dân bản địa. Nghiên cứu của Priya & Rucha (2011) cho thấy, việc quản lý đất rừng và rừng dựa vào cộng đồng có thể làm giảm mất rừng và cộng đồng địa phương được hưởng lợi nhiều hơn từ rừng. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: Ở Ấn Độ việc quản lý đất rừng và rừng dựa vào cộng đồng đã thành công trong điều tiết các nguồn lợi từ rừng và cho thấy rừng thuộc quyền quản lý cộng đồng không bị suy thoái hơn rừng do Nhà nước quản lý hoặc ít nhất là như các bộ phận rừng của Nhà nước.
34
Nhưng nhìn chung, quản lý đất rừng dựa vào cộng đồng không phải là tối ưu,
không có mô hình chung cho tất cả các cộng đồng. Thay vào đó, nó nên được triển
khai bằng nhiều hình thức. Vấn đề phân cấp quản lý là nguyên nhân lớn nhất dẫn
đến sự thất bại trong quản lý dựa vào cộng đồng. Nhiều chính quyền địa phương
chưa được thực sự phân cấp quản lý trong việc quản lý rừng và đất rừng. Nhiều cộng đồng địa phương đã bị ảo giác về sức mạnh trong quyền quản lý cộng đồng.
Cộng đồng ở nhiều nơi có trách nhiệm bảo vệ rừng, nhưng không có quyền xử
phạt, không được sử dụng các khoản thu từ rừng. Ngoài ra, các cộng đồng còn thường xuyên xảy ra xung đột do chưa phân định rõ ranh giới, chưa có quyền sử
dụng đất. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các nhà hoạch định chính sách cần tập trung
vào việc cải thiện quyền sở hữu rừng, tăng cường giám sát tại địa phương để hạn chế những bất đồng liên cộng đồng và việc phân cấp quản lý đất rừng cho các cộng
đồng (Priya & Rucha, 2011).
Agrawal & Chhatre (2006) đã nghiên cứu các cộng đồng quản lý, sử dụng đất rừng ở dãy núi Himalaya của Ấn Độ và chỉ ra rằng có một số yếu tố ảnh
hưởng đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng, trong đó có 2 nhóm yếu
tố ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý, sử dụng đất của cộng đồng là yếu tố độ
cao và yếu tố thị trường.
2.3.1.4. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Nepal
Nghiên cứu của DoF & DRFS (2002) đã chỉ ra rằng từ năm 1845 đến năm
1951, Nepal bị cai trị dưới chế độ gia đình Rana và ngành lâm nghiệp được quản
lý theo hệ thống phong kiến. Do hình thức quản lý này không đem lại thu nhập nên
các khu rừng của Terai (khu vực tương đối bằng phẳng ở miền nam Nepal) dọc
theo biên giới với Ấn Độ đã bị khai thác quá mức để mở rộng ngành nông nghiệp
và tạo ra doanh thu. Ngược lại, các khu rừng nằm trên đồi được quản lý theo hệ
thống cộng đồng bản địa và tương đối được tự do khai thác thương mại. Để công tác bảo vệ rừng tư nhân đuợc bảo đảm, Chính phủ đã ban hành riêng Đạo luật quốc hữu hóa rừng cá nhân vào năm 1957, nhưng việc quản lý không mang lại hiệu quả, rừng dần có xu hướng trở thành đối tượng được tiếp cận mở. Kết quả là tình trạng
chặt phá rừng bừa bãi và chuyển đổi đất rừng thành đất phi rừng.
Nghiên cứu của Bartlett & Malla (1992) cho thấy từ năm 1976 Chính phủ đã cố gắng hướng theo một cách tiếp cận khác bằng cách ban hành Kế hoạch Lâm nghiệp Quốc gia. Trong khuôn khổ kế hoạch này, năm 1978, Chính phủ đưa
35
ra quy định mới về bàn giao rừng quốc gia cho các cơ quan được lựa chọn tại địa
phương, trong đó có các nhóm người sử dụng gọi là cộng đồng. Từ đó, việc quản
lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trở thành xu thế chủ đạo của các chính
sách và chương trình phát triển rừng ở Nepal.
Nghiên cứu của Keshav (2013) đã khẳng định, đóng góp lớn nhất của
Nepal là đã hình thành các nhóm quản lý, sử dụng, đây là những nhóm được coi
là các cộng đồng mà có thể hình thành từ nhóm các hộ trong cùng một cộng
đồng; nhóm các hộ nghèo hoặc nhóm các hộ có cùng thành phần, lịch sử tôn giáo và được pháp luật thừa nhận. Người sử dụng có quyền tiếp cận, khai thác và quản
lý nhưng không có quyền chuyển nhượng. Được giao quyền sử dụng đất với thời
hạn sử dụng vĩnh viễn nhưng không được bồi thường khi Chính phủ thu hồi.
Cũng theo nghiên cứu này, kết quả ở Nepal có 16.937 nhóm cộng đồng quản lý,
sử dụng đất rừng, với hơn 40% dân số tham gia. Thu nhập mang lại từ các diện
tích đã giao cho cộng đồng là nhiều hơn diện tích còn lại của quốc gia.
Mặc dù vậy, nghiên cứu của Anup & cs. (2011) đã chỉ ra rằng quản lý, sử
dụng đất dựa vào cộng đồng ở Nepal cũng không giải quyết được vấn đề sinh kế cho
người dân trong cộng đồng như mong đợi, các chính sách cũng chưa hỗ trợ tối ưu
cho việc quản lý, sử dụng đất và nhóm người nghèo là những người phụ thuộc rất
lớn vào rừng nhưng cũng chưa được hỗ trợ để đảm bảo sinh kế.
Bằng phương pháp phân tích lợi ích chi phí của việc quản lý, sử dụng đất
rừng cộng đồng tại Nepal nghiên cứu của Anup & cs. (2015) đã chỉ ra rằng lợi ích
chủ yếu từ rừng cộng đồng là củi và thức ăn gia súc mà không phải từ gỗ. Nguồn
hưởng lợi khác của cộng đồng là từ các chính sách quản lý và nguồn tài trợ của quốc
gia và các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, điểm hạn chế của nghiên cứu này là chỉ tập
trung nghiên cứu trên một khu rừng cộng đồng ở miền trung Nepal, nên chưa phản
ánh hết được những lợi ích và chi phí từ việc quản lý, sử dụng đất rừng của các
cộng đồng.
2.3.1.5. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Canada
Ở Canada mô hình quản lý dựa vào cộng đồng cũng đã được hình thành từ những năm 1990. Hầu hết các mô hình quản lý dựa vào cộng đồng thời điểm này đều dựa vào sự bảo trợ của các tổ chức phi chính phủ (khoảng 60%), còn lại khoảng 40% các cộng đồng hoạt động thông qua quản lý của chính quyền địa phương. Tại
Canada chỉ có khoảng 25% dân số sống tại các vùng nông thôn, đây là những cộng
36
đồng xa xôi, sống dựa vào tài nguyên. Tại các địa phương này các cộng đồng đều
được giao đất, giao rừng và đây trở thành một phần quan trọng để phát triển nông
thôn, vừa bảo vệ môi trường và thu được lợi ích kinh tế. Cộng đồng địa phương và
tài nguyên rừng có mối liên kết rất chặt chẽ. Chúng cung cấp vật liệu xây dựng cho
người dân địa phương, cung cấp các vật liệu thủ công, quần áo, thực phẩm, thuốc và nhiều thứ khác. Ngoài ra, đây còn là nơi gắn liền với văn hóa, tâm linh của người
dân sống trong các cộng đồng. Những năm 90 vai trò của các cộng đồng chưa được
thể hiện mạnh mẽ, họ chưa được trao các quyền đầy đủ mà toàn bộ đều nằm dưới sự
quản lý của chính quyền địa phương (Peter & cs., 1994).
Hiện nay, các cộng đồng được tổ chức rất chặt chẽ. Chính quyền địa phương
chỉ đóng vai trò quản lý thông qua việc giao trách nhiệm cho các cộng đồng địa
phương. Đa số các cộng đồng có Hội đồng quản trị là các thành viên hội đồng được
bầu (chiếm khoảng 88% trong tổng số). Một số cộng đồng có ủy ban tư vấn công
cộng, nhưng đây không phải là xu hướng chủ đạo. Đối với các cộng đồng khác tiến hành thành lập các ban giám đốc, bao gồm các đại diện được chỉ định từ các tổ chức
có liên quan trong cộng đồng, các cư dân được bổ nhiệm hoặc bầu từ cộng đồng nói
chung, hoặc bổ nhiệm cư dân cộng đồng có chuyên môn về lâm nghiệp (Teitelbaum
& cs., 2006).
2.3.1.6. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Anh
Theo nghiên cứu của Sally (2001) tại Anh cũng như một số nước châu Âu
quyền sở hữu rừng và đất rừng được chia thành 2 loại lớn là sở hữu tư nhân và sở
hữu cộng đồng. Một số quốc gia, trong đó có Anh sở hữu tư nhân chiếm khoảng
70%, còn sở hữu cộng đồng chỉ chiếm khoảng 30%.
Tại Vương Quốc Anh quản lý dựa vào cộng đồng rất đa dạng. Trước thực
trạng diện tích rừng bị suy giảm, cùng với quá trình đô thị hóa, mật độ dân số tăng
cao đã hình thành nên các cộng đồng quản lý rừng với mục đích gìn giữ bản sắc
dân tộc và đảm bảo phát triển kinh tế, tạo sự kết nối với các vùng xung quanh.
Nghiên cứu của Lawrence & cs. (2009) chỉ ra rằng việc hỗ trợ tài chính cho việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đang giảm và các ưu tiên phải được xem xét kỹ lưỡng, thay vào đó là việc xem xét trao quyền cho cộng đồng, giúp
cộng đồng có quyền quyết định trong hoạt động sản xuất.
Cũng theo nghiên cứu này công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa và cộng
đồng ở vương quốc Anh đã đem lại hiệu quả rất lớn về mặt kinh tế, xã hội và môi
37
trường. Rất nhiều mô hình rừng cộng đồng được áp dụng, tuy nhiên không có mô
hình mẫu chuẩn nào được áp dụng. Bên cạnh đó, trong quá trình quản lý dựa vào
cộng đồng cũng gặp một số các thách thức lớn như: Các chính sách quản lý đất
rừng cộng đồng, cách tiếp cận cộng đồng còn nhiều bất cập; hỗ trợ tài chính đối
với cộng đồng chưa nhiều, thiếu các cơ chế; mối liên kết giữa các cộng đồng còn khó khăn cũng như mối liên kết giữa cộng đồng với chính quyền địa phương còn
hạn chế.
2.3.2. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Việt Nam
2.3.2.1. Công tác quản lý, sử dụng đất rừng ở vùng núi phía Bắc
- Ở Lào Cai: cộng đồng quản lý, sử dụng đất rừng tại xã Lùng Sui, huyện Si
Ma Cai là một điển hình trong công tác quản lý, sử dụng đất dựa vào cộng đồng. Xã Lùng Sui có tổng diện tích tự nhiên 2.065 ha, trong đó đất rừng là 665 ha,
chiếm 32,3% tổng diện tích tự nhiên và là xã thuộc huyện giáp ranh biên giới của
tỉnh Lào Cai với Trung Quốc. Thôn Lùng Sán nằm ở trung tâm của xã Lùng Sui,
có tổng diện tích đất tự nhiên là 313,9 ha, trong đó diện tích đất rừng gồm: 124,38
ha là đất rừng tự nhiên phòng hộ, 13,83 ha đất rừng tự nhiên sản xuất và 1,39 ha
đất rừng trồng. Theo truyền thống, các đối tượng tham gia quản lý, sử dụng đất
rừng tại thôn Lùng Sán rất đa dạng, bao gồm quản lý theo cộng đồng dân cư thôn,
dòng họ và gia đình. Phần lớn cộng đồng quản lý, bảo vệ đất rừng chủ yếu là để
duy trì không gian tín ngưỡng và quỹ tài nguyên cho sinh kế. Việc bảo vệ đất gắn
liền với bảo vệ môi trường của thôn, đặc biệt là bảo vệ, duy trì nguồn nước cho
cộng đồng, góp phần vào việc đáp ứng những yêu cầu về xã hội như niềm tin tín
ngưỡng bản địa, văn hóa truyền thống. Các thành viên trong cộng đồng cùng nhau
quản lý, bảo vệ hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi (Đàm Trọng
Tuấn, 2012).
- Ở Cao Bằng: Kết quả thống kê của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Cao Bằng cho
thấy, tại địa phương các cộng đồng chủ yếu là đồng bào dân tộc Tày và Nùng sinh
sống. Diện tích đất rừng do cộng đồng quản lý là 125.199,51 ha chiếm 10,5% diện tích đất lâm nghiệp của cả tỉnh. Trong đó, diện tích được giao đất, giao rừng là 66.804,09 ha chiếm 53,36%; diện tích do cộng đồng quản lý theo truyền thống là 31.025,76 ha chiếm 24,78% và diện tích còn lại là cộng đồng nhận khoán bảo vệ. Công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tương đối tốt như của các hộ gia đình, tuy nhiên vẫn chưa huy động hết được công sức của cộng đồng trong
38
công tác quản lý, sử dụng. Đã có một số huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho cộng đồng, tuy nhiên chưa phổ biến, chưa có cơ chế và chưa xác định các
quyền cụ thể. Chính các cộng đồng nhận đất, nhận rừng cũng không biết có những
quyền gì, chủ yếu là quản lý theo truyền thống (Vũ Long, 2003).
- Ở Sơn La: Theo Võ Đình Tuyên (2012) hiệu quả quản lý, sử dụng đất rừng
cộng đồng thể hiện khá rõ nét ở các cộng đồng vùng cao nơi sản xuất hàng hoá và
thị trường chưa phát triển, nơi còn đang tồn tại nhiều phương thức sử dụng đất rừng
với mục đích chung. Điểm này thể hiện khá rõ tại cộng đồng bản Lằn (Sơn La). Nơi đây quản lý đất rừng mang lại hiệu quả trên các mặt xã hội và môi trường hơn là
hiệu quả kinh tế. Trong khi đó, khi sản xuất hàng hoá phát triển việc quản lý rừng
cộng đồng chuyển sang một hình thức mới, đó là tạo thành xu hướng cộng đồng
nhóm hộ trong quản lý rừng. Trong trường hợp này hiệu quả quản lý nhấn mạnh đến
hiệu quả kinh tế hơn. Từ đây dễ nhận thấy rằng hình thành hai loại hình quản lý, sử
dụng đất rừng cộng đồng, đó là: đáp ứng nhu cầu sinh kế của địa phương và tiếp cận với sản xuất hàng hoá ở các vùng sản xuất và thị trường. Kết quả nghiên cứu thực tế
cho thấy người dân chưa quan tâm nhiều đến tỷ lệ hưởng lợi từ sản phẩm khai thác
vì thời gian chờ đợi quá dài, mà thay vào đó là quan tâm đến diện tích đất có thể sản
xuất nông nghiệp và mức đầu tư trồng rừng. Nguồn thu từ sản xuất lâm nghiệp
không cao, hiệu quả sinh thái của rừng tự nhiên cao nhưng chưa có giá, hiệu quả
sinh thái rừng trồng thấp phần lớn xói mòn vượt quá mức cho phép, hiệu quả xã hội
rừng tự nhiên, rừng trồng thấp… tất cả đều dẫn đến người dân chưa thực sự cuốn hút
vào quản lý bảo vệ phát triển rừng, xã hội đánh giá chưa cao ngành lâm nghiệp.
2.3.2.2. Công tác quản lý, sử dụng đất rừng ở Trung Bộ
- Ở Nghệ An: Từ năm 2012 đến nay, huyện Quế Phong – tỉnh Nghệ An đã
phối hợp với viện Nghiên cứu Sinh thái chính sách xã hội (Viện SPERI), UBND xã
Hạnh Dịch, Hạt kiểm lâm huyện cùng các cơ quan, đơn vị tiến hành giao đất, giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho năm cộng đồng bản. Đó là bản Pỏm Om với diện tích đất rừng 426,52 ha; bản Khốm, Pà Cọ, Pà Kỉm với diện tích đất rừng 130,68 ha và bản Chiếng với diện tích đất rừng 56,45 ha (Trọng Chàm, 2014). Công tác quản lý, sử dụng đất rừng trên địa bàn được thực hiện dựa vào các tổ chức đoàn thể của cộng đồng: Thành lập các cụm liên gia tự quản, thanh niên, dân quân. Các tổ, đội này hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền các thôn
(bản) trong đó người giữ vai trò chủ đạo và các già làng, trưởng bản. Họ cùng nhau liên kết để thực hiện tuyên truyền để bà con thực hiện tốt quy chế biên giới, kết hợp
39
với bộ đội biên phòng bảo vệ rừng và tham gia giữ gìn an ninh trật tự vùng biên giới.
Cộng đồng có kế hoạch, giải pháp quản lý đối với từng vùng đất (đất rừng đầu
nguồn nước, rừng thiêng; đất dùng cho khoanh nuôi tái sinh; đất dùng cho vùng
chăn thả gia súc; đất dùng cho vùng sản xuất nông - lâm nghiệp; đất dùng cho vùng
bảo tồn và phát triển thuốc nam; đất dùng cho vùng nghĩa địa). Từ khi được giao đất, giao rừng, mọi người dân trong cộng đồng bản có ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ
và phát triển rừng. Đa số nhân dân và cán bộ các bản đều biết rõ được ranh giới,
hiện trạng khu vực đất của mình, nhận thức được khó khăn, thách thức và nhu cầu giải quyết khó khăn. Đồng bào ổn định sinh kế, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho bà
con sản xuất, phát triển kinh tế từ rừng.
- Ở Thừa Thiên - Huế: theo Lê Quang Vĩnh & Ngô Thị Phương Anh (2012)
chất lượng rừng do cộng đồng dân cư thôn quản lý bảo vệ ngày càng được nâng cao,
cơ cấu thu nhập của người dân thay đổi so với trước khi giao rừng. Nhận thức của
người dân về vai trò của rừng cộng đồng cũng có sự thay đổi có lợi cho việc quản lý bảo vệ. Nhờ đó mà rừng cộng đồng hạn chế được hiện tượng xói mòn, lở núi, cát
bay; bảo đảm được nguồn nước cho sinh hoạt, sản xuất và hoạt động du lịch sinh
thái ở các thôn. Cộng đồng dân cư thôn quản lý bảo vệ có hiệu quả hơn so với nhóm
hộ. Tính đến hết năm 2012, trên địa bàn huyện Phú Lộc – tỉnh Thừa Thiên - Huế đã
thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sử dụng rừng cho 7 cộng đồng
dân cư thôn và 7 nhóm hộ (trong 1 thôn) quản lý bảo vệ với diện tích 1.849,7 ha.
Tuy nhiên, công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn vẫn
còn gặp rất nhiều khó khăn do: các thủ tục pháp lý cho việc giao đất, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, sử dụng rừng còn chưa rõ ràng; cơ chế hưởng lợi từ diện
tích đất rừng được giao còn chưa thống nhất, chưa có hướng dẫn cụ thể, thủ tục khai
thác phức tạp khó để cộng đồng thực hiện. Sự hỗ trợ của các dự án đã phần nào làm
động lực thúc đẩy sự phát triển, nhưng thời gian hỗ trợ ngắn. Sự phối hợp giữa các
bên liên quan với cộng đồng trong quá trình quản lý, sử dụng chưa được chặt chẽ.
2.3.2.3. Công tác quản lý, sử dụng đất rừng ở Tây Nguyên
- Ở Gia Lai: Theo Bảo Huy (2005) và Phùng Nhuệ Giang (2007) quản lý, sử dụng đất và rừng dựa vào cộng đồng ở Tây Nguyên, trong đó có tỉnh Gia Lai, đã được hình thành từ lâu đời gắn với phong tục, tập quán, truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây. Đây là địa bàn sinh sống lâu đời của các dân tộc
Jrai, Bahnar có tập quán sống thành từng làng, bản. Đồng bào ở các địa phương này đều sống dựa chủ yếu vào sản xuất nông lâm nghiệp, mà chủ yếu là dựa vào các khu
40
rừng tự nhiên. Thời gian trước dân số ít, nhu cầu sinh kế của người dân chưa lớn,
chưa đa dạng vì thế nguồn tài nguyên rừng về cơ bản có thể đáp ứng được. Bên cạnh
đó, trong các cộng đồng dân tộc thiểu số việc quản lý, sử dụng đất rừng có sự trợ
giúp đắc lực của các định chế, luật tục truyền thống trong cộng đồng và trong một
thời gian dài trước đây chúng đã phát huy hiệu quả tốt, do vậy công tác này được thực hiện khá tốt. Nhưng hiện nay, nhu cầu của người dân tăng cao, sự phát triển
mạnh về dân số, vấn đề di dân tự do, khai phá đất rừng trồng cây công nghiệp đã
làm suy giảm cả về số lượng và chất lượng tài nguyên rừng. Chính điều đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc quản lý, sử dụng đất rừng và ảnh hưởng cả đến nhận
thức, cách đối xử của người dân với diện tích đất rừng.
Kết quả nghiên cứu của các tác giả cũng đã khẳng định rằng, trước những
khó khăn tồn tại trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng thì tỉnh Gia
Lai đã thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng cho cộng đồng, với mong muốn là
thực hiện chính sách giao đất, giao rừng đến nhóm hộ, cộng đồng để sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Người dân sẽ là chủ thực sự trên khoảnh rừng được
giao, góp phần cải thiện đời sống người dân bằng hoạt động lâm nghiệp, nâng cao
năng lực cộng đồng và thu hút được nguồn lực của nhân dân, truyền thống quản lý
của cộng đồng vào tiến trình quản lý bảo vệ và kinh doanh trên đất rừng.
Để thực hiện mục tiêu trên, tỉnh Gia Lai đã thực hiện dự án lâm nghiệp cộng
đồng thí điểm với tên: “Xây dựng mô hình quản lý rừng và đất rừng dựa vào cộng đồng dân tộc thiểu số Jrai và Bahnar”. Dự án đã tiếp cận giao đất rừng ở hai làng
của hai cộng đồng dân tộc thiểu số làng Đê Tar, Ea Chă Wâu. Trong tiến trình của
dự án, tổng cộng có 82 người tham gia. Kết quả là tại Gia Lai đã xây dựng được 2
phương thức giao đất rừng, bao gồm: Phương án giao đất rừng, giao rừng cho
nhóm hộ dân tộc thiểu số Bahnar, làng Đê Tar và phương án giao đất, giao rừng
cho cộng đồng làng, dân tộc thiểu số Jrai, làng Ea Chă Wâu. Với nghiên cứu này
tác giả Bảo Huy (2005) đã khẳng định, 2 cộng đồng được thực hiện với những đặc điểm chung như: Phương thức nhận đất, nhận rừng được cộng đồng đề xuất là nhóm hộ hoặc cộng đồng làng; ranh giới giao được cộng đồng quy hoạch chủ yếu dựa vào ranh giới quản lý rừng truyền thống của làng và bao lấy một lưu vực; hình thành ban quản lý rừng cộng đồng và có quy ước riêng để quản lý rừng; ngoài mục
đích kinh doanh gỗ củi, mục đích bảo vệ đầu nguồn, lưu vực hầu như xuất hiện ở
cả hai nơi và đóng vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng…
41
Cũng qua nghiên cứu của Bảo Huy (2005), sau khi dự án được triển khai việc
giao đất, giao rừng cho cộng đồng đã đem lại những kết quả khả quan là: đã hình
thành ban quản lý của cộng đồng ở từng thôn (bản), xây dựng và tổ chức thực thi
quy ước quản lý của cộng đồng; ban quản lý của cộng đồng cùng với các nhóm
trưởng nhận đất rừng tổ chức xây dựng, thực thi và giám sát kế hoạch quản lý đất
rừng của chính mình; kế hoạch quản lý sẽ được trình lên xã, sau đó sẽ trình lên
huyện để phê duyệt và cho phép thực thi; người dân đã biết phát triển, mở rộng và
ứng dụng những thử nghiệm thành công để tổ chức sản xuất nông - lâm nghiệp
trên diện tích đất được giao đã có thể ứng dụng phương thức làm việc theo nhóm,
theo cộng đồng để giải quyết những công việc tác động đến tài nguyên rừng, đất
rừng. Chính điều đó đã làm cho cuộc sống, thu nhập của người dân càng ngày càng
được nâng cao, các sản phẩm thu được từ rừng đa dạng, liên tục hơn, năng suất cây
trồng được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu dự án chỉ trong 2
năm và thực hiện trên 2 cộng đồng nên để áp dụng việc quản lý, sử dụng đất rừng
dựa vào cộng đồng tại tỉnh Gia Lai cần có các chính sách mở rộng vùng dự án
cũng như có những chính sách hỗ trợ để triển khai rộng ra các cộng đồng khác trên
toàn tỉnh.
- Ở Đắk Nông: Theo Võ Đình Tuyên (2012) thực tế cho thấy giao đất, giao
rừng cho cộng đồng được quản lý tốt hơn, người dân có niềm vui và ý thức được
rừng là tài sản của mình. Người dân đã quan tâm đầu tư vào các khu rừng của
mình, một số khu rừng giao cho cộng đồng đầu tư chăm sóc, làm giàu rừng, áp
dụng kiến thức bản địa để kinh doanh. Ở thôn Phú Lợi (tỉnh Đăk Nông) hoạt động
sau giao đất, giao rừng cho cộng đồng đã tổ chức phân công bảo vệ rừng, đặc biệt
là hoạt động kinh doanh rừng với sự tham gia trực tiếp của cộng đồng tạo ra thu
nhập từ rừng thông qua công tác lâm sinh như tỉa thưa. Tác giả cũng khẳng định
việc giao đất, giao rừng cho các cộng đồng quản lý, sử dụng đã tạo ra công ăn việc
làm cho người dân thông qua các hoạt động tuần tra, bảo vệ rừng. Bình quân 1
năm cả bản sử dụng 1/4 quỹ thời gian của năm để thực hiện các hoạt động này.
Xoá đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập, tuy kinh tế thị trường chưa thực sự phát
triển song cũng đã có sự trao đổi các sản phẩm khai thác từ rừng. Cho nên mô hình
này đã đóng góp vào cơ cấu thu nhập, xoá đói giảm nghèo tại địa phương.
42
2.4. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA
VÀO CỘNG ĐỒNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
2.4.1. Một số công trình nghiên cứu về quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng trên thế giới
Trên thế giới quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đã trở thành
phương thức khá phổ biến. Có nhiều dự án cũng như các nghiên cứu về lĩnh vực
này được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới như các nghiên cứu của Guiang & cs. (2001) và của Pulhin & Pulhin (2003), Calderon & Nawir (2006), Royer &
cs. (2016), Anup & cs. (2015), Agrawal & Chhatre (2006)….
Các nghiên cứu của Guiang & cs. (2001) và của Pulhin & Pulhin (2003) chủ
yếu sử dụng phương pháp thống kê cơ bản theo dõi lịch sử của quản lý dựa vào cộng đồng, kiểm tra các thành tựu của quản lý rừng dựa vào cộng đồng và các mối
quan tâm của cộng đồng. Đồng thời đưa ra những triển vọng của việc quản lý dựa
rừng dựa vào cộng đồng đối với việc phát triển các vùng cao của Philippines
(Pulhin & Pulhin (2003). So sánh tính khả thi và lợi ích của mô hình quản lý rừng
cộng đồng và quản lý rừng của các đối tượng không phải là cộng đồng tại
Philippines. Từ đó đánh giá được hiệu quả của các mô hình quản lý rừng tại địa
phương và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các mô hình quản lý rừng
cộng đồng (Calderon & Nawir, 2006). Một số nghiên cứu được thực hiện tại các
cộng đồng sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp (Royer & cs., 2016), thực
hiện tại 03 cộng đồng của Indonesia. Tuy nhiên, số lượng mẫu phỏng vấn nhỏ (mỗi
làng chỉ phỏng vấn 10 cá nhân) và mỗi làng tổ chức 1 cuộc thảo luận nhóm về lợi
ích và mối quan tâm của người dân về quản lý đất rừng của cộng đồng và thống
kê, so sánh giữa các làng với nhau. Phân tích những thuận lợi, khó khăn, tồn tại và
đề xuất một số giải pháp phát triển mô hình quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng tại địa phương. Nhưng những đề xuất giải pháp chỉ mang tính chung
chung, chưa có mô hình cụ thể.
Một số nghiên cứu khác đã sử dụng các phương pháp có tính hệ thống và khoa học hơn như phương pháp phân tích lợi ích, chi phí (Anup & cs., 2015), nghiên cứu đã tính toán hiệu quả kinh tế trung bình hàng năm từ rừng cộng đồng bằng việc điều tra trực tiếp 50% các hộ gia đình trong cộng đồng được giao quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng tại Nepal. Mô hình phân tích hồi quy (Agrawal & Chhatre, 2006) đã đánh giá một số yếu tố ảnh hưởng đến quản lý, sử dụng đất rừng
43
của các cộng đồng tại ở Ấn Độ và cho thấy có 2 nhóm yếu tố ảnh hưởng lớn đến
công tác quản lý, sử dụng đất của cộng đồng là yếu tố độ cao và yếu tố thị trường.
Như vậy có thể thấy, đã có nhiều nghiên cứu về quản lý sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng và cho thấy mô hình này đã đem lại hiệu quả, nhất là đối với các dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng. Tuy nhiên, tất cả các nghiên cứu này đều mới
chỉ nghiên cứu trên các cộng đồng nhỏ, sử dụng các phương pháp đơn giản, chưa
đánh giá được đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố
đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng.
2.4.2. Một số công trình nghiên cứu về quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, mô hình quản lý dựa vào cộng đồng đã được hình thành từ rất lâu đời, đặc biệt gắn với các cộng đồng dân tộc thiểu số (Nguyễn Bá Ngãi & cs,
2009). Đã có nhiều tác giả thực hiện các nghiên cứu tại khắp các vùng miền Bắc,
miền Trung và miền Nam như Nguyễn Bá Ngãi & cs. (2009); Bảo Huy (2009);
Viết Tình & Trần Hữu Nghị (2012); Lê Quang Vĩnh & Ngô Thị Phương Anh
(2012); Võ Đình Tuyên (2012); Nghiên cứu của Đỗ Anh Tuân (2012); Vũ Quốc
Phương & cs. (2014)….
Các nghiên cứu đã thực hiện tại các cộng đồng dân tộc thiểu số được giao
hoặc nhận khoán đất rừng. Nghiên cứu của Vũ Quốc Phương & cs. (2014) đã tiến
hành nghiên cứu công tác quản lý, sử dụng đất rừng của một số cộng đồng tại một
số địa phương, từ đó đưa ra quy trình giao đất rừng cho các cộng đồng. Nghiên
cứu đã thông qua các hoạt động tập huấn, tọa đàm, đối thoại, hội thảo, tham quan
học tập để đưa ra quy trình giao đất rừng cho các cộng đồng dân tộc thiểu số. Đây
là nghiên cứu cơ bản chủ yếu sử dụng các công cụ thu thập và xử lý thông tin
thông thường.
Một số nghiên cứu khác như của tác giả Nguyễn Bá Ngãi & cs. (2009),
Dương Viết Tình & Trần Hữu Nghị (2012), Lê Quang Vĩnh & Ngô Thị Phương Anh (2012), Võ Đình Tuyên (2012) đã sử dụng phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA) sử dụng các công cụ như: Khảo sát thôn bản, phân tích kinh tế hộ gia đình bằng cách phỏng vấn bán cấu trúc để thu thập các thông tin. Từ đó đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng và rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm nâng
cao hiệu quả giao đất, giao rừng cho các đối tượng sử dụng đất trong đó có các
44
cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng. Đồng thời, qua nghiên cứu của mình các tác
giả cũng đánh giá các chính sách hưởng lợi từ rừng cộng đồng. Từ đó điều chỉnh
các chính sách hưởng lợi từ rừng và đất rừng do các cộng đồng quản lý, sử dụng
(Nguyễn Bá Ngãi & cs., 2009). Bên cạnh đó nghiên cứu của Lê Quang Vĩnh &
Ngô Thị Phương Anh (2012) còn đánh giá được cơ cấu thu nhập, đời sống kinh tế của cộng đồng, các hoạt động tham gia của cộng đồng từ đó khẳng định mô hình
quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng hợp lý và có hiệu quả hơn mô hình
quản lý của các nhóm hộ. Qua nghiên cứu này cũng cho thấy mô hình quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đã khuyến khích người dân trong các cộng đồng
tham gia tích cực hơn vào công tác chăm sóc, bảo vệ rừng và dẫn đến chất lượng
rừng ngày càng được nâng cao.
Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở mỗi vùng khác nhau lại có
đặc trưng khác nhau. Tác giả Bảo Huy (2009) đã thực hiện nghiên cứu trong vòng
6 năm đối với một số cộng đồng dân tộc thiểu số sống gần rừng ở Tây Nguyên. Tác giả vẫn sử dụng phương pháp điều tra nhanh nông thôn, sử dụng các công cụ
phân tích kinh tế hộ gia đình về cơ cấu thu nhập, đời sống của người dân trong
cộng đồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình quản lý đất rừng dựa vào cộng
đồng của các dân tộc thiểu số rất có hiệu quả, có thể nhân rộng và phát triển. Điểm
đặc biệt của nghiên cứu này là đã đánh giá được một số yếu tố ảnh hưởng đến công
tác quản lý, sử dụng đất rừng của các cộng đồng dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên,
sử dụng phương pháp chấm điểm từ kết quả phỏng vấn người dân và cho thấy có
một số yếu tố ảnh hưởng đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng như
chính sách sử dụng đất; cơ sở hạ tầng; phong tục, tập quán. Nghiên cứu đã đề xuất
cần có cải thiện về chính sách hưởng lợi từ rừng và giao đất, giao rừng ổn định lâu
dài cho các thôn/buôn cũng như các thủ tục hành chính cần được thực hiện một
cách đơn giản hơn. Trong khi đó tác giả Đỗ Anh Tuân (2012) đã tiến hành điều tra 18 thôn, bản, thuộc 17 xã ở 13 huyện của 8 tỉnh Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lạng
Sơn, Cao Bằng, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và Đăk Nông. Nghiên cứu vẫn sử dụng phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA) và cho thấy các mô hình quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng cũng có hiệu quả, góp phần ổn định sinh kế và tạo thêm thu nhập cho người dân trong cộng đồng. Tuy nhiên, hiệu quả thực sự của mô hình này vẫn chưa cao, tỷ lệ đóng góp cho tổng thu nhập hộ từ rừng cộng đồng không lớn. Còn nhiều khó khăn vướng mắc trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng như: cộng đồng chưa thực sự
45
có quyền sử dụng đất giống như các chủ sử dụng khác; các chính sách áp dụng như
giao đất, giao rừng hay hưởng lợi đều chưa có quy định cụ thể và đang dựa vào các
quy định của các loại đất khác; thị trường tiêu thụ các sản phẩm lâm sản phụ thu
được từ rừng cộng đồng còn bấp bênh… Điều này là do có một số yếu tố ảnh
hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng như các quy định của pháp luận cho đối tượng cộng đồng còn thiếu, chưa cụ thể; tài nguyên sẵn có của diện tích đất
rừng còn nghèo, do diện tích giao cho cộng đồng chủ yếu là đất rừng phòng hộ
nghèo kiệt; địa hình khó khăn, phức tạp trong khi hạ tầng còn yếu kém; người dân trong cộng đồng chưa phát huy hết được những kiến thức bản địa trong quản lý, sử
dụng đất rừng dựa vào cộng đồng.
2.5. ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Qua nghiên cứu và phân tích tổng quan tài liệu có liên quan đến đề tài luận
án, có thể rút ra một số nhận xét như sau:
- Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đã và đang trở thành một trong những phương thức quản lý đất rừng phổ biến trên thế giới và ở Việt Nam, góp phần ổn định sinh kế của người dân tại các cộng đồng dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng.
- Các cộng đồng thôn (bản) đều có tổ chức xây dựng các quy định quản lý, sử dụng đất rừng. Tuy nhiên, cần được tổ chức chặt chẽ hơn và có cơ chế phân chia quyền lợi về các sản phẩm thu được từ rừng trên cơ sở bình đẳng giữa các thành viên trong cộng đồng.
- Ở nhiều cộng đồng việc quản lý, sử dụng đất rừng đã đem lại hiệu quả rõ rệt về môi trường, tuy nhiên hiệu quả về mặt kinh tế thì còn khá hạn chế. Chính vì vậy, việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng cần phải đảm bảo cân bằng các mục tiêu: khả năng kinh tế, công bằng xã hội và môi trường.
- Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Việt Nam đa dạng về mặt hình thức tổ chức, bao gồm cả các hình thức quản lý theo thôn, bản, dân tộc và theo nhóm hộ. Trên thực tế, không có một hình thức quản lý nào được coi là tối ưu và duy nhất mà chỉ thích hợp trong một giai đoạn nhất định đối với cộng đồng cụ thể.
- Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đã góp phần thay đổi cơ cấu thu nhập của người dân tuy không lớn nhưng lại rất có ý nghĩa đối với những người nghèo sống trong cộng đồng, góp phần thay đổi ý thức của người dân về vai trò của rừng đối với đời sống và với môi trường.
46
- Tuy nhiên, có thể khẳng định chưa có nghiên cứu nào thực hiện đánh giá
kết quả của công tác quản lý, sử dụng đất rừng một cách toàn diện trên cả ba khía
cạnh kinh tế, xã hội, môi trường trong điều kiện cụ thể của một địa phương. Chưa
phân tích được mối liên hệ giữa thu nhập từ đất rừng cộng đồng với điều kiện kinh
tế hộ để trả lời câu hỏi thu nhập từ đất rừng của cộng đồng có ý nghĩa như thế nào đối với hộ. Bên cạnh đó các nghiên cứu cũng chưa thể đánh giá được việc quản lý,
sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đối với mỗi dân tộc khác nhau thì kết quả có
khác nhau không... điều này làm hạn chế khả năng đánh giá toàn diện cũng như đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng.
- Mặc dù đã có một số nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến công tác
quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng, nhưng chưa có nghiên cứu về việc
sử dụng phương pháp định lượng để xác định các yếu tố ảnh hưởng và mức độ
ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng, dẫn đến các kiến nghị chưa mang tính thuyết phục và có tính khả thi cao.
- Từ thực trạng công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên
cơ sở kết quả nghiên cứu tổng quan tài liệu, luận án định hướng tập trung nghiên
cứu vào những vấn đề sau: (1) Thực trạng công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình (Hiện trạng sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng; hiện trạng diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng; vai trò của đất rừng được giao đối với cộng đồng; việc xây dựng quy ước; công tác hưởng lợi từ
đất rừng cộng đồng); (2) Kết quả quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
theo các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường; (3) Các yếu tố ảnh hưởng đến
công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng; (4) Những thuận lợi, khó
khăn trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng; và (5) Giải
pháp hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa
bàn tỉnh Hòa Bình.
47
PHẦN 3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Đề tài được thực hiện trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, là cửa ngõ của vùng núi Tây Bắc, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội; đặc biệt trên địa bàn tỉnh có đường QL 6 chạy qua, đây là con đường huyết mạch nối liền thủ đô Hà Nội và các tỉnh miền xuôi với vùng Tây Bắc của Tổ quốc. Tổng diện tích tự nhiên của toàn tỉnh là 459.062 ha, chiếm 1,39% diện tích cả nước và 12,33% diện tích của vùng Tây Bắc, gồm 11 đơn vị hành chính cấp huyện và 210 đơn vị hành chính cấp xã (UBND tỉnh Hòa Bình, 2018). Tỉnh Hoà Bình là nơi cư trú của đồng bào nhiều dân tộc, trong đó 6 dân tộc đông người nhất (Mường, Kinh, Thái, Tày, Mông, Dao) (Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018). Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình đã được thực hiện từ rất lâu. Đã có nhiều cộng đồng tham gia vào công tác quản lý, sử dụng đất rừng trong đó tập trung vào các cộng đồng dân tộc thiểu số sống trên địa bàn tỉnh, chủ yếu là cộng đồng người Mường, cộng đồng người Tày và cộng đồng người Dao.
3.2. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Thời gian thực hiện đề tài luận án: từ năm 2014.
- Thời gian thu thập số liệu:
+ Số liệu thứ cấp được thu thập trong giai đoạn từ năm 2011 – 2017;
+ Số liệu sơ cấp được thu thập vào năm 2015.
3.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Hoạt động quản lý, sử dụng đất rừng giao cho cộng đồng trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình và các yếu tố ảnh hưởng.
3.4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
3.4.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh Hoà Bình
- Điều kiện tự nhiên của tỉnh Hoà Bình;
- Điều kiện kinh tế và xã hội tỉnh Hoà Bình.
3.4.2. Thực trạng quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
- Thực trạng sử dụng đất và biến động đất đai của tỉnh Hòa Bình;
- Thực trạng công tác quản lý đất rừng dựa vào cộng đồng của tỉnh Hòa Bình.
48
3.4.3. Đánh giá kết quả hoạt động quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
- Lĩnh vực kinh tế;
- Lĩnh vực xã hội;
- Lĩnh vực môi trường.
3.4.4. Đánh giá một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hoà Bình;
- Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng
đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
3.4.5. Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
- Phân tích SWOT trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng.
- Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hoà Bình.
3.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.5.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Việc lựa chọn điểm nghiên cứu đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số chủ yếu dựa vào tiêu chí thành phần dân tộc và quy mô dân số của các cộng đồng (Donova & cs., 1997). Các cộng đồng cùng chung một dân tộc hoặc một dân tộc chiếm đa số (trên 70%) cùng số trên một thôn/bản, có cùng phong tục tập quán và được giao đất, giao rừng. Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình có nhiều dân tộc cùng chung sống trong đó chủ yếu là người Mường (chiếm khoảng 60% dân số toàn tỉnh), người Kinh (chiếm khoảng 30% dân số toàn tỉnh), người Dao, người Tày sống tập trung tại một số thôn/bản, còn lại là người Thái và người Mông sống rải rác trên địa bàn tỉnh.
Để lựa chọn các điểm nghiên cứu tác giả đã sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp các cán bộ quản lý của các đơn vị có liên quan đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng từ cấp tỉnh đến cấp xã, kết hợp với khảo sát thực địa. Các điểm nghiên cứu được lựa chọn đảm bảo tiêu chí: Thôn (bản) được giao đất, giao rừng; đa dạng các thành phần dân tộc sống trên địa bàn tỉnh; phù hợp với quy mô dân số của các dân tộc (Donova & cs., 1997). Số điểm nghiên cứu được chọn là 5 thôn (bản). Trong đó:
49
- Các cộng đồng người Mường có truyền thống quản lý, sử dụng đất rừng đã từ
lâu năm, sống chủ yếu ở vùng núi có độ cao trung bình (so với mặt biển khoảng
600 - 700 m): nằm về phía Tây Bắc (gồm các huyện Cao Phong, Kim Bôi, Lạc
Sơn...). Do vậy, tại khu vựa này chọn 03 cộng đồng người Mường gồm: thôn Đúc
(xã Nam Phong, huyện Cao Phong), thôn Củ (xã Tú Sơn, huyện Kim Bôi), thôn
Thung 2 (xã Quý Hòa, huyện Lạc Sơn).
- Cộng đồng dân tộc Tày chủ yếu sống ở vùng núi cao (so với mặt nước biển
lớn hơn 700 m, có một số đỉnh núi cao trên 1.000 m, trong đó đỉnh cao nhất là Phu Canh (huyện Đà Bắc) cao 1.373 m, đỉnh núi Dục Nhan (huyện Đà Bắc) cao 1.320
m, đỉnh núi Psi Lung (huyện Mai Châu) cao 1.287 m; địa hình hiểm trở, đi lại khó
khăn). Tại đây, ngoài các cộng đồng người Tày thì còn có các cộng đồng người
Mường, nhưng ở các vùng địa hình cao thì chỉ có các cộng đồng người Tày. Do vậy,
điểm nghiên cứa được chọn là 01 cộng đồng người Tày là bản Nhạc (xã Đồng
Chum, huyện Đà Bắc).
- Cộng đồng dân tộc Dao sống chủ yếu ở vùng núi thấp nằm ở phía Đông
Nam, chiếm 56,2% diện tích của tỉnh, địa hình gồm các dải núi thấp, độ cao trung
bình từ 100 - 200 m, ít bị chia cắt và ít hiểm trở so với vùng cao. Ở đây chủ yếu là
người Kinh, người Mường và người Dao sinh sống. Tuy nhiên, điển hình về quản lý,
sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng là dân tộc Dao. Do vậy, điểm nghiên cứu được
chọn là 01 cộng đồng người Dao là xóm Suối Bến (xã Tiến Sơn, huyện Lương Sơn).
3.5.2. Phương pháp thu thập số liệu
3.5.2.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
- Các tài liệu có liên quan đến các điều kiện về tự nhiên, kinh tế - xã hội của
tỉnh Hòa Bình được thu thập tại UBND tỉnh Hoà Bình, sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Hoà Bình và các cơ quan, đơn vị có liên quan.
- Các văn bản pháp quy có liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng và các văn bản, tài liệu có liên quan đến công tác giao đất, giao rừng
cho cộng đồng; cho thuê đất, rừng cho cộng đồng; giao, khoán đất, rừng cho cộng
đồng được thu thập tại UBND tỉnh Hoà Bình, các cơ quan quan lý nhà nước về đất
đai các cấp trên địa bàn tỉnh Hòa Bình (cục Thống kê tỉnh Hoà Bình, sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh Hoà Bình, chi cục Thống kê, phòng Tài nguyên và Môi trường
các huyện, UBND các cấp trong tỉnh Hòa Bình,...).
50
3.5.2.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
a. Phỏng vấn trực tiếp cán bộ, công chức liên quan đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
Tại mỗi đơn vị tác giả đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp 01 lãnh đạo đơn vị và 01 cán bộ phụ trách trực tiếp công tác quản lý, sử dụng đất rừng của đơn vị. Cụ thể như sau: sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hòa Bình (01 lãnh đạo và 01 cán bộ phụ trách), sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (01 lãnh đạo và 01 cán bộ phụ trách); Chi cục Lâm nghiệp (01 lãnh đạo và 01 cán bộ phụ trách); phòng Tài nguyên và Môi trường các huyện (5 huyện có các điểm nghiên cứu được lựa chọn, mỗi huyện 01 lãnh đạo và 01 cán bộ phụ trách), phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các huyện (5 huyện có các điểm nghiên cứu được lựa chọn, mỗi huyện 01 lãnh đạo và 01 cán bộ phụ trách), tại các xã có điểm nghiên cứu được lựa chọn (mỗi xã 01 lãnh đạo xã, cán bộ địa chính xã và trưởng các thôn/bản). Tổng số cán bộ được phỏng vấn là 41 người (Bảng 3.1).
Bảng 3.1. Thông tin số cán bộ được điều tra, phỏng vấn
TT Đơn vị Số lượng (người)
1 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hòa Bình 2
2 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hòa Bình 2
3 Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Hòa Bình 2
4 Phòng Tài nguyên và Môi trường các huyện 10
5 Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các huyện 10
6 Các xã nghiên cứu 15
Kết quả phỏng vấn nhằm đánh giá một phần kết quả công tác quản lý, sử
dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình; tìm hiểu được một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình và vai trò của các yếu tố này đối với công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại tỉnh Hòa Bình, những nhận định, kiến nghị đề xuất giải pháp cho công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh. Trên cơ sở phỏng vấn các chuyên gia, các cán bộ quản lý làm
căn cứ để tác giả thiết kế bảng hỏi phục vụ cho công tác nghiên cứu.
Tổng số: 41
51
b. Phỏng vấn trực tiếp người dân
- Để thực hiện các nội dung nghiên cứu tác giả đã tiến hành điều tra,
phỏng vấn các hộ dân trong cộng đồng. Việc điều tra, thu thập thông tin của các
hộ được thực hiện bằng phương pháp phỏng trực tiếp thông qua phiếu điều tra.
Số lượng hộ điều tra (n) được xác định dựa trên công thức 3.1.
(Yamane Taro, 1967; Lê Huy Bá, 2006) (3.1)
n =
N 1+N∗𝑒2
Trong đó: N là số lượng các hộ trong các thôn/bản; e là sai số cho phép
(e=5% - 15%). Do điều kiện thực hiện điều tra, phỏng vấn tại các cộng đồng là
rất khó khăn vì địa hình phức tạp, dân cư ở không tập trung cũng như sự khác
biệt trong phong tục, tập quán nên sai số chọn mẫu áp dụng trong nghiên cứu là
10% (là giá trị trung bình của sai số cho phép). Tổng số hộ phải điều tra là 219 hộ
(Bảng 3.2).
Việc phân loại hộ giai đoạn 2011 – 2015 được thực hiện theo Quyết định
09/2011/QĐ-TTg (phân loại hộ theo thu nhập), đến giai đoạn 2016 - 2020 phân
loại hộ được thực hiện theo Quyết định 59/2015/QĐ-TTg (phân loại hộ theo
chuẩn tiếp cận đa chiều). Tuy nhiên, do số liệu điều tra sơ cấp tác giả tiến hành
vào năm 2015 nên tiêu chí phân loại hộ được thực hiện theo Quyết định
09/2011/QĐ-TTg và thực tế áp dụng tại địa phương (Thủ tướng Chính phủ,
2011; 2015). Các hộ điều tra được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu
nhiên phân tầng theo các tiêu chí: phân loại hộ theo thu nhập (hộ khá và giàu, hộ
trung bình, hộ cận nghèo và hộ nghèo). Thông tin hộ điều tra theo phân loại kinh
tế hộ được thể hiện qua bảng 3.2.
Bảng 3.2. Thông tin hộ điều tra tại các điểm điều tra
Số hộ điều tra (hộ)
STT Địa điểm điều tra Tổng Tổng số hộ của thôn/ bản (hộ) Hộ khá và giàu Hộ nghèo Hộ cận nghèo
1 2 3 4 5
Bản Nhạc Thôn Đúc Thôn Củ Thôn Thung 2 Xóm Suối Bến Tổng 56 64 95 94 88 397 Hộ TB 13 21 17 19 28 98 3 8 8 7 13 39 11 5 10 10 3 39 9 5 14 12 3 43 36 39 49 48 47 219
52
Về số lượng mẫu điều tra, theo Bollen (1989), Hair & cs. (1998) số lượng mẫu điều tra tối thiểu được lựa chọn theo chuẩn 5:1 tức là mẫu nghiên cứu tối thiểu (N) phải gấp 5 lần số lượng biến quan sát (n). Bên cạnh đó, đối với mô hình hồi quy, dữ liệu ở dạng chéo (cross-sectional data) để tiến hành phân tích một cách tốt nhất thì mẫu quan sát tối thiểu tính theo công thức N > 50 + 8*k (k là biến độc lập) (Tabachnick & Fideel, 1996; Green, 2003). Như vậy, đối với nghiên cứu này tác giả chọn 29 biến quan sát của 4 biến độc lập. Do vậy, dung lượng mẫu tối thiểu là N > max (5*29; 50+8*4) = (145; 82) = 145 quan sát. Như vậy, số lượng hộ điều tra đã được tác giả đã tính toán theo công thức 3.1 với 219 hộ điều tra là hoàn toàn phù hợp để đảm bảo độ tin cậy cho nghiên cứu.
3.5.3. Phương pháp đánh giá kết quả hoạt động quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
* Chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh tế
Theo Anup & cs. (2015) giá trị kinh tế của rừng cộng đồng được phân tích bằng lợi ích và chi phí từ việc thu hoạch lâm sản điều tra từ các hộ gia đình trong cộng đồng. Các lâm sản chủ yếu là gỗ, củi, thức ăn gia súc, rau và các lâm sản khác. Tổng lợi ích trong năm được tính bằng tổng thu nhập trừ đi tổng chi phí.
Trong nghiên cứu này, hiệu quả kinh tế được giới hạn ở cấp hộ gia đình tập trung vào chỉ số tỷ lệ (%) nguồn thu nhập của hộ từ rừng cộng đồng. Nguồn thu của hộ bao gồm thu từ các hoạt động bán hoặc để lại tiêu dùng các sản phẩm thu được từ rừng cộng đồng như gỗ, củi, tre, luồng, mây, cây dược liệu, mật ong... Giá trị thu nhập bằng số tiền thu được từ bán sản phẩm, hoặc giá bình quân sản phẩm tại thị trường địa phương đối với những sản phẩm hộ để lại cho tiêu dùng.
TN = TT – CPVC – TC (3.2)
Trong đó:
- TN: Thu nhập của hộ
- TT: Tổng thu là các khoản thu trong năm của tất cả các thành viên trong hộ gia đình bao gồm: thu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ nông, lâm nghiệp, thuỷ sản; từ các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ phi nông, lâm nghiệp, thuỷ sản; thu từ tiền công, tiền lương và các khoản thu nhập khác không bao gồm các khoản thu trợ cấp xã hội 1 lần, như: tiền mai táng phí, hỗ trợ thiếu đói giáp hạt…Trong đó khoản thu từ đất rừng cộng đồng bao gồm: thu từ tiền nhận khoán chăm sóc, bảo vệ; từ dịch vụ môi trường rừng; từ bán củi, lâm sản ngoài gỗ…
53
- CPVC: chi phí vật chất gồm các khoản chi phí hợp lý liên quan, tương
ứng với phạm vi nguồn thu trong năm của hộ.
- TC: tiền công thuê ngoài bao gồm toàn bộ tiền công phải trả để thuê lao
động bên ngoài phục vụ cho các hoạt động tạo ra nguồn thu của hộ.
* Chỉ tiêu đánh giá kết quả xã hội
Trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng việc đánh giá
các kết quả về mặt xã hội được thể hiện thông qua một số chỉ tiêu sau:
- Sự tham gia của người dân trong quản lý, sử dụng đất rừng (Lê Quang Vĩnh & Ngô Thị Phương Anh, 2012) thể hiện bằng số công lao động trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng sau khi giao đất cho cộng đồng có sự thay đổi so với trước khi giao đất cho cộng đồng.
- Nhận thức của người dân trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng (Đỗ Anh Tuân, 2012; Lê Quang Vĩnh & Ngô Thị Phương Anh, 2012), đây là chỉ tiêu phản ảnh sự thay đổi nhận thức của người dân trong công tác quản lý, sử dựng đất rừng dựa vào cộng đồng. Thể hiện bằng các tiêu chí so sánh số vụ cháy rừng, số vụ khai thác trộm, số trường hợp lấn chiếm đất rừng cộng đồng.
- Sự thay đổi nhận thức của người dân về vai trò của rừng: Đây là chỉ tiêu đánh giá về mặt xã hội, nhưng chỉ tiêu này rất khó khăn trong việc đánh giá, chủ yếu sử dụng những đánh giá từ người dân địa phương (Đỗ Anh Tuân, 2012; Phạm Văn Dũng, 2016; Lê Quang Vĩnh & Ngô Thị Phương Anh, 2012).
* Chỉ tiêu đánh giá kết quả môi trường
Các chỉ tiêu đánh giá kết quả về mặt môi trường gồm: Sự thay đổi chất lượng rừng; giảm xói mòn đất; Sự thay đổi chất lượng nguồn nước. Đây là những chỉ tiêu đánh giá kết quả về mặt môi trường của các diện tích đất rừng quản lý, sử dụng dựa vào cộng đồng vì phần lớn những diện tích này đều là rừng phòng hộ đầu nguồn nước. Tuy nhiên, việc phân tích chất lượng rừng, quá trình xói mòn đất, chất lượng nguồn nước rất khó khăn, phức tạp nên chỉ có thể sử dụng phương pháp định tính đánh giá có sự tham gia từ người dân địa phương (Đỗ Anh Tuân, 2012; Lê Quang Vĩnh & Ngô Thị Phương Anh, 2012).
3.5.4. Phương pháp thống kê so sánh
Để đánh giá ảnh hưởng của kinh tế hộ đến thu nhập mang lại từ việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng và giữa các nhóm kinh tế hộ đến tầm quan trọng của thu nhập mang lại từ việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng nghiên cứu đã sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để đánh giá. Cụ thể như sau:
54
- Kiểm định tính độc lập theo tiêu chuẩn 2: Nội dung cơ bản của phương pháp này là kiểm định mức chênh lệch giữa tần số quan sát ft và tần số lý thuyết fl, dựa vào tiêu chuẩn 2 với:
(3.3)
Trong trường hợp này, tần số quan sát thực nghiệm ft chính là số hộ gia
đình. Còn tần số lý thuyết là số hộ gia đình tính theo phân bố 2. Nếu > tra bảng thì H0 bị bác bỏ. Trường hợp ngược lại ta chấp nhận giả thuyết H0. Tuy nhiên, trong SPSS giá trị Sig được sử dụng để kết luận cho giả thuyết H0. Nếu Sig ≥ 0,05 thì H0 được chấp nhận, ngược lại nếu Sig < 0,05 thì giả thuyết H0 bị bác bỏ (Nguyễn Hải Tuất & Vũ Tiến Hinh, 2009).
- So sánh hai mẫu quan sát dựa vào thành số: Thành số hay còn gọi là số tỷ lệ giữa những phần tử mang đặc điểm A với số phần tử ở mẫu n. Trong thống kê, thành số mẫu là một ước lượng không chệch của thành số tổng thể p và tuân theo luật chuẩn khi dung lượng n đủ lớn (np >5 và n(1-p) >5) (Nguyễn Hải Tuất & Vũ Tiến Hinh, 2009). Giá trị U được dùng để kết luận giả thuyết H0. Nếu trị tuyệt đối
của U > U/2 ( = 0,05 thì U/2 = 1,96) thì giả thuyết bị bác bỏ. Khi đó ta nói
rằng thành số của 2 mẫu là khác nhau (Nguyễn Hải Tuất & Vũ Tiến Hinh, 2009).
3.5.5. Phương pháp xác định các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
Để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tác giả đã nghiên cứu những tài liệu có liên quan trên thế giới và tại Việt Nam, kết hợp việc phỏng vấn trực tiếp các cán bộ quản lý có liên quan.
Theo các nghiên cứu của Sally & cs. (2007), Hanstad & cs. (2009), công tác
quản lý, sử dụng đất dựa vào cộng đồng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm: quy định của pháp luật, việc ban hành và thực hiện các văn bản pháp luật, những
quy định về giao đất, giao rừng, những quy định về chính sách hưởng lợi từ rừng, khả năng tiếp cận tài chính, điều kiện kinh tế của hộ gia đình, cơ sở hạ tầng, những chính sách tín dụng, thị trường. Nghiên cứu của các tác giả Fisher (2004), Mamo & EspenSjaastad (2007), Appiah & cs. (2009), Hermans-Neumann & cs. (2016) cũng như Reyes-Garcia & cs. (2016) cho rằng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác
quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng bao gồm: chất lượng của tài nguyên
rừng, mức độ sẵn có của các tài nguyên rừng, yếu tố địa hình, cơ sở hạ tầng, quy
55
mô diện tích của đất rừng... Bên cạnh đó, theo Ivan (2006) và FAO (2015) công
tác gây quỹ, các nguồn gây quỹ và việc quản lý, sử dụng quỹ cũng thực sự cần
thiết và quan trọng trong quản lý, sử dụng đất rừng. Theo Poffenberger (1998) vai
trò của trưởng bản rất lớn trong mọi hoạt động từ bảo vệ rừng, phân bố lượng khai
thác cho từng thành viên trong cộng đồng cũng như huy động nguồn nhân lực cho các hoạt động khác, cùng với đó là vai trò của các tổ chức phối hợp trong cộng
đồng như các cán bộ chuyên môn, các tổ, hội khác trong cộng đồng.
Các nghiên cứu ở trong nước cũng cho kết quả tương tự. Nghiên cứu của Nguyễn Bá Ngãi (2009), Vũ Thị Hạnh (2014), Nguyễn Ngọc Quan & Hoàng Liên
Sơn (2007) cho thấy chính sách, pháp luật đất đai đóng vai trò quan trọng trong việc
quyết định mức độ linh hoạt trong sử dụng đất ở Việt Nam, bao gồm các chính sách
về: giao đất, giao rừng; quyền và nghĩa vụ trong quản lý, sử dụng đất rừng; các quy
định, quy chế, quy ước trong quản lý đất rừng; chính sách hưởng lợi, chính sách hỗ
trợ. Nghiên cứu của Dương Viết Tình & Trần Hữu Nghị (2012), Bùi Tuấn Anh & cs (2013), Nguyễn Thị Hồng Mai & Hà Huy Tuấn (2009) cho thấy sản xuất nông
nghiệp nói chung và lâm nghiệp nói riêng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó
có yếu tố điều kiện tự nhiên như diện tích, vị trí của thửa đất có liên quan đến mức
độ giàu nghèo, trữ lượng các loài lâm sản và lâm sản ngoài gỗ. Bên cạnh đó, khoảng
cách từ nơi cư trú đến diện tích đất rừng được giao quyết định đến khả năng tiếp cận
rừng (Đỗ Anh Tuân, 2011). Theo Dương Viết Tình & Trần Hữu Nghị (2012) yếu tố
ảnh hưởng gián tiếp đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng là
điều kiện kinh tế hộ, bên cạnh đó điều kiện về thị trường cũng là yếu tố quyết định
đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Theo Nguyễn Quang Tân & cs.
(2008) việc tiếp cận các nguồn tài chính đối với người nông dân là rất khó khăn, chủ
yếu đến từ các chương trình, dự án; đây là yếu tố ảnh hưởng lớn đến quản lý, sử
dụng đất rừng. Theo Nguyễn Trần Hòa (2014), Hoàng Xuân Tý & Lê Trọng Cúc (1998), Phạm Quang Tiến & Nguyễn Thị Hồi (2010) kiến thức bản địa tập quán,
luật tục có ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ, xử sự và hoạt động lao động sản xuất của mọi người, đặc biệt là ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, cùng với đó là vai trò của các tổ chức xã hội và chính quyền địa phương... Còn theo Phạm Quốc Hùng & Hoàng Ngọc Ý (2009) các cộng đồng đều có những hương ước, quy ước quy định rõ ràng về việc hưởng lợi cũng như xử phạt đối với những người vi phạm những quy định, điều này sẽ quyết định đến sự thành công của việc quản lý, sử dụng đất rừng
tại các cộng đồng dân tộc thiểu số.
56
Bảng 3.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng
dựa vào cộng đồng
STT Yếu tố ảnh hưởng
Nhóm 1: Những quy định của pháp luật 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Ban hành các văn bản pháp luật Tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật QĐPL về công tác giao đất, giao rừng cho cộng đồng QĐPL về loại đất rừng giao cho cộng đồng QĐPL về vấn đề hưởng lợi QĐPL về chính sách hỗ trợ QĐPL về các quyền, nghĩa vụ của cộng đồng QĐPL về các hành vi vi phạm pháp luật Quy ước, hương ước của thôn (bản)
Nhóm 2: Yếu tố tự nhiên và cơ sở hạ tầng 10 11 12 13 14 15 16 Quy mô diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng Khoảng cách từ nơi cư trú của cộng đồng đến đất rừng Địa hình của đất rừng được giao Cơ sở hạ tầng xã hội (hệ thống dịch vụ, thị trường) Cơ sở hạ tầng kỹ thuật (giao thông, thủy lợi) Chất lượng tài nguyên rừng Khả năng sẵn có của tài nguyên rừng
Nhóm 3: Yếu tố kinh tế 17 18 19 20 21 22 23 24 Điều kiện kinh tế hộ gia đình Các sản phẩm gỗ, củi ít được bán trên thị trường Các lâm sản ngoài gỗ được bán trên thị trường Mức độ phụ thuộc vào rừng của người dân Thị trường tiêu thụ các sản phẩm thu được từ rừng Việc vay vốn từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng Việc sử dụng quỹ quản lý rừng cộng đồng Các nguồn gây quỹ quản lý rừng cộng đồng
Nhóm 4: Yếu tố xã hội 24 26 27 28 29 Kiến thức bản địa của người dân trong cộng đồng Phong tục, tập quán, tín ngưỡng Vai trò của lãnh đạo địa phương Vai trò của các cán bộ kiểm lâm, cán bộ nông nghiệp Vai trò của các tổ chức (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên)
57
Như vậy, qua các nghiên cứu lý thuyết cũng như kết quả phỏng vấn 41 cán
bộ tại địa phương có 4 nhóm yếu tố với 29 yếu tố có ảnh hưởng đến công tác quản
lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Bao gồm: Nhóm yếu tố những quy định
của pháp luật; nhóm yếu tố tự nhiên và cơ sở hạ tầng; nhóm yếu tố kinh tế và
nhóm yếu tố xã hội. Chi tiết các yếu tố ảnh hưởng được thể hiện qua bảng 3.4.
3.5.6. Phương pháp đánh giá mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố đến công
tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
Dựa trên nghiên cứu của Đinh Phi Hổ (2012), để đánh giá mức độ ảnh
hưởng của một số yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng nghiên cứu đã thực hiện theo quy trình sau:
Đo lường độ tin cậy
Kiểm tra hệ số Crobach’s Alpha để đánh giá độ tin cậy của các thang đo Cronbach’s Alpha
- Kiểm tra phương sai trích
- Kiểm tra các nhân tố rút trích - Loại các biến có mức tải nhân Phân tích nhân tố khám phá EFA không đạt.
Phân tích hồi quy đa biến - Kiểm tra đa cộng tuyến - Kiểm tra sự tương quan - Kiểm tra sự phù hợp - Đánh giá mức độ quan trọng
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ phân tích nhân tố khám phá
3.5.6.1. Phương pháp đánh giá các yếu tố tác động đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
Để đánh giá một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tác giả đã sử dụng phương pháp điều tra thông qua
58
phiếu phỏng vấn với 4 nhóm yếu tố có 29 biến quan sát. Đề tài sử dụng thang đo 5 mức độ trong Thang đo Likert (Likert, 1932) để đánh giá các yếu tố tác động đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Các chỉ tiêu đánh giá được đo lường bằng thang đo Liker 5 (Likert, 1932), xác định mức độ giá trị thấp nhất (Min = 1) và giá trị cao nhất (Max = 5). Tương ứng: 1 – Không quan trọng/Rất kém; 2 - Ít quan trọng/Kém; 3 - Trung bình; 4 - Quan trọng/Tốt; 5 - Rất quan trọng/Rất tốt. Độ lớn của khoảng chia (a) là:
a =
(3.4)
Max − Min n
Trong đó: n là số bậc của thang đo.
Sử dụng thang đo 5 bậc nên n = 5. Từ đó, xác định thang đo như sau:
+ Rất quan trọng/ Rất tốt: ≥ (min + 4a);
+ Quan trọng/ Tốt: (min + 3a) đến < (min + 4a);
+ Trung bình: (min+2a) đến < (min + 3a);
+ Ít quan trọng/ Kém: từ (min + a) đến < (min + 2a);
+ Không quan trọng/ Rất kém: < (min + a).
Theo nguyên tắc tính trên phân cấp mức độ đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng xác định theo bảng 3.3.
Bảng 3.4. Phân cấp mức độ đánh giá
Thang đo
STT 1 2 3 4 5 Rất quan trọng/ Rất tốt Quan trọng/ Tốt Trung bình Ít quan trọng/ Kém Không quan trọng/ Rất kém Hệ số 5 4 3 2 1 Chỉ số đánh giá >=4,20 Từ 3,40 đến 4,19 Từ 2,60 đến 3,39 Từ 1,80 đến <2,59 <1,80
Nguồn: Likert (1932)
3.5.6.2. Phương pháp phân tích nhân tố khám phá
Để kiểm định và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác
quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng nghiên cứu sử dụng phương pháp
phân tích nhân tố khám phá (Hair & cs. (1998). Để mô hình phân tích nhân tố
khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis) đảm bảo độ tin cậy đòi hỏi phải
thực hiện các kiểm định:
59
(1) Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình
Sử dụng hệ số KMO (Kaiser - Meyer - Olkin) để đánh giá sự thích hợp của
mô hình EFA đối với ứng dụng của dữ liệu nghiên cứu. Khi trị số KMO thỏa mãn
điều kiện: 0,5 ≤ KMO ≤ 1 thì mô hình được cho là phù hợp phân tích khám phá là
thích hợp cho dữ liệu thực tế.
(2) Kiểm định tương quan của các biến quan sát trong thước đo đại diện
Sử dụng kiểm định Bartlett để đánh giá các biến quan sát có tương quan
với nhau trong một thang đo (nhân tố). Khi mức ý nghĩa của kiểm định Bartlett
có mức ý nghĩa Sig< 0,05, các biến quan sát có tương quan tuyến tính với nhân tố
đại diện.
(3) Kiểm định mức độ giải thích của các biến quan sát đối với nhân tố
Mức độ giải thích của các biến quan sát đối với nhân tố được đo bằng giá trị
phương sai trích (Cumulative %), giá trị này phải lớn hơn 50% thì nghiên cứu mới
có tính thực tiễn. Ví dụ khi giá trị phương sai trích là 65%, có nghĩa là 65% sự
thay đổi của các nhân tố được giải thích bởi các biến quan sát trong mô hình
(thành phần_Factor).
Mô hình phân tích hồi quy đa biến được sử dụng đất xem xét ảnh hưởng
của các biến đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng được xác
định thông qua mô hình hồi quy tuyến tính sau:
KQ = f (PL, TN, KT, XH) (3.5)
Trong đó, biến phụ thuộc là công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng (KQ); các biến độc lập gồm nhóm yếu tố pháp luật (PL), nhóm yếu tố
điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng (TN), nhóm yếu tố kinh tế (KT) và nhóm yếu
tố xã hội (XH). Số liệu sau khi được điều tra, thu thập được xử lý bằng phần
mềm SPSS 20.0 để phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha; phân tích nhân tố
EFA và sử dụng phân tích hồi quy tuyến tính (Linear Regression analysis) để
nhận diện các nhân tố ảnh hưởng có ý nghĩa và vai trò của từng nhân tố.
Mô hình trên được cụ thể hóa bằng phương trình hồi quy tuyến tính sau:
KQ = β0 + β1 F_PL + β2 F_TN + β3 F_KT + β4 F_XH (3.6)
60
3.5.7. Phương pháp SWOT
Khung phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (SWOT -
Strenghs, Weaknesses, Opportunities, Threats) đối với công tác quản lý, sử dụng đất
rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình được thể hiện tại bảng 3.5.
Phân tích SWOT được xây dựng trên cơ sở tổng hợp ý kiến của những hộ dân trực
tiếp tham gia công tác quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng bằng phương pháp
phỏng vấn trực tiếp qua phiếu điều tra và ý kiến của những chuyên gia là những cán
bộ, những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực này bằng phương pháp phỏng vấn
trực tiếp. Kết quả phân tích là căn cứ quan trọng để đề xuất các giải pháp nhằm tăng
cường công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình.
Bảng 3.5. Phân tích SWOT công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
Điểm mạnh (S) Điểm yếu (W)
Là những thuận lợi bên trong trong công tác Là những khó khăn nội tại có thể khắc
QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Các điểm mạnh này cần được duy trì, phát huy làm phục được trong QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng từ đó có giải pháp phù
nền tảng thúc đẩy cho công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. hợp để hoàn thiện công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng.
Cơ hội (O) Thách thức (T)
Là những yếu tố thuận lợi bên ngoài tác động đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Những cơ hội này cần được tận dụng, nắm bắt Là những khó khăn khách quan ảnh hưởng tiêu cực đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Những khó khăn
kịp thời để hoàn thiện công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng.
này cần có những giải pháp phù hợp để thúc đẩy công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng.
3.5.8. Khung nghiên cứu
Xuất phát từ vấn đề thực tiễn cần nghiên cứu cùng với quá trình khảo sát,
thu thập thông tin, đồng thời kết hợp quá trình nghiên cứu cơ sở lý thuyết, tổng
quan nghiên cứu và tham khảo ý kiến của các chuyên gia, cán bộ và người dân
quá trình nghiên cứu được thực hiện theo khung nghiên cứu (Sơ đồ 3.2).
61
Nội dung nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Đặc điểm của vùng nghiên cứu
Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội của tỉnh Hoà Bình
Thực trạng QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
Thực trạng QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng của tỉnh Hòa Bình
- Phương pháp chọn điểm nghiên cứu - Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp. - Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp - Phương pháp đánh g iá kết quả SD đất - Phương pháp thống kê so sánh
Đánh giá thực trạng và kết quả công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình..
- Kết quả kinh tế - Kết quả xã hội - Kết quả môi trường
Đánh giá kết quả QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
6 2
Đánh giá một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng tại tỉnh Hòa Bình
Mô hình hồi quy các yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng tại tỉnh Hòa Bình
Xác định một số yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng tại Tỉnh Hoà Bình
- Phương pháp chọn điểm nghiên cứu - Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp - Phương pháp xác định các yếu tố ảnh hưởng đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng - Phương pháp đánh giá mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng - Phương pháp SWOT
- Phương pháp SWOT
Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
Sơ đồ 3.2. Khung nghiên cứu
62
PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI CỦA
TỈNH HÒA BÌNH
4.1.1. Điều kiện tự nhiên của tỉnh Hòa Bình
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Hòa Bình là một tỉnh miền núi, cửa ngõ của vùng Tây Bắc, có đường Quốc
lộ 6 chạy qua, đây là con đường huyết mạch nối liền Thủ đô Hà Nội và các tỉnh miền xuôi với vùng Tây Bắc của Tổ quốc, tỉnh Hòa Bình nằm ở tọa độ 20o39’ đến 21o08’ vĩ độ Bắc, 104o48’ đến 104o51’ kinh độ Đông, với thành phố Hòa Bình là trung tâm chính trị, kinh tế - xã hội cách thủ đô Hà Nội 73 km, có 11 đơn vị hành chính cấp huyện gồm thành phố Hòa Bình và 10 huyện với 210 xã,
phường (Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018). Phía Bắc giáp tỉnh Phú Thọ; phía
Nam giáp tỉnh Hà Nam, Ninh Bình; phía Đông giáp thành phố Hà Nội; và phía
Tây giáp tỉnh Sơn La, Thanh Hóa (Sơ đồ 4.1).
Sơ đồ 4.1. Vị trí địa lý của tỉnh Hòa Bình
Nguồn: UBND tỉnh Hòa Bình (2016a)
63
Nhờ vị trí địa lý thuận lợi, Hòa Bình có nhiều điều kiện thuận lợi để hợp
tác phát triển kinh tế, thương mại và giáo dục - đào tạo với nhiều địa phương trong nước, nhất là các địa phương ở vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế
trọng điểm Tây Bắc, các thành phố lớn và khu công nghiệp lớn.
4.1.1.2. Địa hình, địa mạo
Theo UBND tỉnh Hòa Bình (2017b), đặc điểm nổi bật của địa hình Hòa
Bình là vùng núi cao, chia cắt phức tạp, độ dốc lớn theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam, chia thành 02 vùng rõ rệt là vùng núi cao và vùng núi thấp.
- Vùng núi cao nằm về phía Tây Bắc, chiếm 29,39% diện tích của tỉnh; độ dốc trung bình 200 - 350, độ cao trung bình so với mặt biển khoảng 600 - 700 m, có một
số đỉnh núi cao trên 1.000 m, trong đó đỉnh cao nhất là Phu Canh (huyện Đà Bắc)
cao 1.373 m, tiếp đến là đỉnh núi Dục Nhan (huyện Đà Bắc) cao 1.320 m, đỉnh núi
Psi Lung (huyện Mai Châu) cao 1.287 m; địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn.
- Vùng núi có độ cao trung bình (so với mặt biển khoảng 600 - 700 m); độ
dốc trung bình từ 100 – 200, địa hình khá hiểm trở, đi lại khá khó khăn, nằm về
phía Tây Bắc (gồm huyện Cao Phong, huyện Kim Bôi, huyện Lạc Sơn, huyện
Tân Lạc, huyện Lạc Thủy, huyện Yên Thủy), chiếm 55,07% diện tích toàn tỉnh.
- Vùng núi thấp nằm ở phía Đông Nam, chiếm 15,54% diện tích toàn tỉnh
(gồm các huyện Kỳ Sơn, lương Sơn, TP Hòa Bình); địa hình gồm các dải núi thấp, độ dốc trung bình từ dưới 100, độ cao trung bình từ 100 - 200 m, ít bị chia cắt và ít hiểm trở so với vùng cao.
4.1.1.3. Khí hậu
Do nằm ở chí tuyến Bắc trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu, nên khí hậu
của tỉnh Hòa Bình là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong năm có hai mùa rõ rệt,
mùa nóng (mưa nhiều) từ cuối tháng 4 đến cuối tháng 10 và mùa lạnh (mưa ít) từ
tháng 11 đến cuối tháng 3 năm sau. Tuy có sự khác nhau về khí hậu ở các khu vực, song nhìn chung khí hậu ở Hòa Bình có nền nhiệt cao, lượng mưa tương đối lớn và tập trung trong các tháng mùa mưa. Nhiệt độ trung bình năm 25,10C; lượng mưa bình quân đạt gần 2.000 mm/năm (UBND tỉnh Hòa Bình, 2016a; Cục
Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018).
Đặc điểm khí hậu của Hòa Bình phù hợp phát triển nông nghiệp đa dạng
đặc biệt là phát triển lâm nghiệp, cho phép gieo trồng nhiều vụ trong năm và đảm bảo năng suất cao với các cây trồng, nhiệt đới, á nhiệt đới; ở khu vực núi cao có
64
thể phát triển cây trồng có nguồn gốc ôn đới. Tuy nhiên do địa hình và khí hậu
vùng cao nên cần phải lựa chọn cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện thời tiết của từng vùng để khai thác có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp (UBND
tỉnh Hòa Bình, 2016a).
4.1.1.4. Thủy văn
Chế độ thủy văn của tỉnh ảnh hưởng bởi hệ thống sông, suối, hồ đập trên địa
bàn. Hệ thống sông ngòi trên địa bàn tỉnh phân bố tương đối dày và đồng đều ở các huyện. Sông Ðà là sông lớn nhất chảy qua tỉnh có lưu vực 15.000 km2 chảy qua các huyện Mai Châu, Ðà Bắc, Tân Lạc, Cao Phong, thành phố Hòa Bình và huyện Kỳ Sơn với tổng chiều dài là 151 km. Hồ sông Ðà có dung tích 9,5 tỷ m3 nước nối liền với Sơn La, phần hạ lưu chảy qua Phú Thọ, Hà Nội thông với sông
Hồng, được điều tiết nước bởi hồ sông Đà. Ngoài ra còn có các sông chảy trên địa
bàn tỉnh như sông Bưởi bắt nguồn từ xã Phú Cường, huyện Tân Lạc, dài 55 km;
sông Bôi bắt nguồn từ xã Thượng Tiến, huyện Kim Bôi, chảy trên địa bàn tỉnh dài
60 km; sông Bùi bắt nguồn từ xã Lâm Sơn huyện Lương Sơn, dài 32 km; sông
Lạng bắt nguồn từ xã Bảo Hiệu huyện Yên Thuỷ, dài 30 km (UBND tỉnh Hòa
Bình, 2016a). Ngoài hồ Hòa Bình, trên địa bàn tỉnh còn có hồ Đồng Chanh, hồ Re,... đảm bảo tích trữ nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân
(UBND tỉnh Hòa Bình, 2016a; Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018).
4.1.1.5. Tài nguyên đất
Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 459.062 ha; trong đó: nhóm đất nông
nghiệp 387.116 ha (chiếm 84,33% diện tích tự nhiên), nhóm đất phi nông nghiệp
52.904 ha (chiếm 11,52% diện tích tự nhiên) và nhóm đất chưa sử dụng 19.042
ha (chiếm 4,15% diện tích tự nhiên) (UBND tỉnh Hòa Bình, 2018).
Về tính chất thổ nhưỡng, theo UBND tỉnh Hòa Bình (2016a) có 7 nhóm đất
đất chính như: Nhóm đất phù sa: Có 13.669 ha, chiếm 2,98% diện tích tự nhiên,
đây là nhóm đất phổ biến nằm dọc các con sông trên địa bàn tỉnh, phù hợp với trồng các loại cây ngắn ngày; nhóm đất lầy và than bùn: 397 ha, chiếm 0,09% diện tích tự nhiên. Đây là loại đất được hình thành ở những nơi thấp, ứ đọng nước và những nơi có mực nước ngầm nông, đất có phản ứng chua, giàu hữu cơ, nghèo lân và ka li; nhóm đất đen: 4.860 ha, chiếm 1,06% diện tích tự nhiên. Nhóm đất này có thành phần cơ giới nặng, phản ứng chua trung tính, độ no bazơ
cao, hàm lượng chất hữu cơ giàu, lân, kali từ trung bình đến giàu; đất này thích
65
hợp cho trồng lúa, hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày; nhóm đất đỏ vàng:
370.896 ha, chiếm tới 80,79% diện tích tự nhiên. Đây là nhóm đất chính, chiếm phần lớn diện tích các huyện trên địa bàn tỉnh, nhóm đất này phù hợp với việc
trồng các loại cây dài ngày như cây chè, cây ăn quả và phát triển sản xuất lâm
nghiệp; nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi: 28.531 ha, chiếm 6,22% diện tích tự nhiên. Nhóm đất này phân bố rải rác trên địa bàn các huyện phù hợp với trồng
rừng và làm nương rãy; Nhóm đất dốc tụ: 10.022 ha, chiếm 2,18% diện tích tự
nhiên; loại đất này thường được hình thành ở những nơi thấp ứ đọng nước và
những nơi có mực nước ngầm gần mặt đất và nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá: 5.668
ha, chiếm 1,23% diện tích tự nhiên, phân bố tập trung ở huyện Tân Lạc và Lạc
Sơn. Đất thường có lớp thảm thực vật thưa thớt, sỏi đá nổi lên bề mặt; thích hợp
trồng cây lâm nghiệp để cải tạo. Định hướng trong thời gian tới tỉnh Hòa Bình vẫn
tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp với lâm nghiệp là chủ đạo để phù hợp với
điều kiện đất đai của địa phương (UBND tỉnh Hòa Bình, 2013a).
4.1.1.6. Tài nguyên nước
Theo thống kê của Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình (2018) nguồn nước mặt trên
địa bàn tỉnh tương đối ổn định và dồi dào đảm bảo cung cấp đủ cho sản xuất và sinh hoạt. Hòa Bình có mạng lưới sông, suối tương đối nhiều và phân bố khá đều
trên địa bàn tỉnh. Trong đó có khoảng 50% sông suối có lưu lượng thường xuyên trên 3 lít/s; tổng lượng dòng chảy của hệ thống sông suối đạt khoảng 5 tỷ m3 nước. Các sông lớn có lưu lượng dòng chảy khá gồm: sông Đà, sông Bôi, sông Bùi, sông
Bưởi và sông Lạng. Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh còn có trên 500 hồ chứa thủy
lợi và hệ thống ao, đầm. Hồ sông Đà có diện tích khoảng 8.000 ha với dung tích khoảng 9,5 tỷ m3, ngoài nhiệm vụ cung cấp nước cho nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, hồ sông Đà còn có nhiệm vụ điều tiết cung cấp nước cho vùng đồng bằng
sông Hồng. Ngoài ra còn có các đầm, hồ Đồng Chanh (huyện Lương Sơn), diện
tích 45 ha và hồ Re (huyện Lạc Sơn), có diện tích 15 ha. Bên cạnh đó, nguồn nước ngầm trên địa bàn tỉnh khá dồi dào, nhưng phân bố không đồng đều, tập trung nhiều ở các lưu vực sông và vùng ven hồ. Nhìn chung chất lượng nước ngầm ở Hòa Bình phần lớn là nước ngọt, mềm, chưa bị ô nhiễm, có khả năng khai thác phục vụ sản xuất và đời sống, đặc biệt là việc khai thác nguồn nước ngầm để cấp nước sinh hoạt cho cư dân của tỉnh. Tuy nhiên trong quá trình sử dụng cần tiết
kiệm nước, có các giải pháp khai thác hợp lý và phù hợp với điều kiện của nguồn
nước ở từng khu vực.
66
4.1.1.7. Tài nguyên rừng
Theo UBND tỉnh Hòa Bình (2018) tính đến hết ngày 31/12/2017 tổng diện tích đất rừng tỉnh Hoà Bình là 296.288 ha (chiếm 64,54% tổng diện tích tự
nhiên), trong đó: đất rừng sản xuất là 153.392 ha (chiếm 33,41% tổng diện tích tự
nhiên); đất rừng phòng hộ là 114.360 ha (chiếm 24,91% tổng diện tích tự nhiên);
đất rừng đặc dụng là 28.536 ha (chiếm 6,22% tổng diện tích tự nhiên). Toàn bộ diện tích đất rừng trên địa bàn tỉnh đã được giao cho các đối tượng quản lý, sử
dụng gồm: các hộ gia đình, cá nhân, UBND các xã, cộng đồng dân cư, các ban
quản lý rừng phòng hộ, các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên lâm
nghiệp, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh, các đơn vị lực
lượng vũ trang và các tổ chức khác.
Hệ thực vật rừng khá phong phú với thảm thực vật rừng thường xanh nhiệt
đới và á nhiệt đới. Trên địa bàn tỉnh Hoà Bình có các khu bảo tồn thiên nhiên,
vườn quốc gia, bao gồm: Khu Bảo tồn thiên nhiên Hang Kia - Pà Cò, Khu Bảo
tồn thiên nhiên Thượng Tiến, Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông (chung với
Thanh Hoá), Khu Bảo tồn thiên nhiên Phu Canh, Khu Bảo tồn thiên nhiên Ngọc
Sơn, Vườn Quốc gia Cúc Phương (chung với Ninh Bình và Thanh Hoá), Vườn Quốc gia Ba Vì (chung với Hà Nội) và khu bảo tồn đất ngập nước lòng hồ Hoà
Bình. Đây là các khu vực có đa dạng sinh học cao, có giá trị đối với phát triển du
lịch. Tuy nhiên, trữ lượng rừng nhìn chung còn thấp. Độ che phủ rừng của tỉnh
Hòa Bình ở mức trung bình so với các địa phương khác. Theo thống kê của
UBND tỉnh Hòa Bình (2016b) độ che phủ rừng của tỉnh Hòa Bình là 51,2%,
trong đó có một số huyện có độ che phủ cao như huyện Mai Châu 68,8%, huyện
Đà Bắc 63,9%, huyện Lạc Sơn 53,6%, nhưng cũng có những huyện có độ che
phủ đạt thấp như huyện Kỳ Sơn 39,2%, huyện Yên Thủy 38,2% cá biệt huyện
Lương Sơn chỉ đạt 32,1%. Hệ động vật rừng nhìn chung nghèo về cả số loài và
số lượng của từng loài.
4.1.1.8. Tài nguyên nhân văn
Hòa Bình là vùng đất cổ - nơi lưu giữ nhiều di chỉ và các truyền thống văn hóa của người Việt cách đây hàng vạn năm (thời kỳ đồ đá giữa), có 06 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Mường chiếm 60% dân số, dân tộc Kinh 30%, còn lại dân tộc Tày, Thái, Mông, Dao. Đây là yếu tố tạo nên sự đa dạng, nét độc đáo của văn hóa các dân tộc của tỉnh tạo nên sức hấp dẫn chủ yếu đối với khách du lịch, đặc biệt là
67
khách du lịch quốc tế. Nét độc đáo của văn hóa các dân tộc ít người của Hòa Bình
thể hiện qua hình thức quần cư và kiến trúc nhà ở, lễ hội, ẩm thực, nghệ thuật múa hát, thi ca, trang phục, nghề thủ công truyền thống,... đặc biệt là truyền thống quản
lý, sử dụng đất rừng cộng đồng đã được hình thành từ lâu đời, người dân gắn bó
với rừng, sống dựa vào rừng (UBND tỉnh Hòa Bình, 2017b).
4.1.2. Điều kiện kinh tế và xã hội tỉnh Hòa Bình
4.1.2.1. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trong tỉnh năm 2017 (theo giá so sánh 2010) đạt 26.140,7 tỷ
đồng, tăng 8,67% so với năm trước. Trong đó nhóm nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 1,59%; nhóm công nghiệp, xây dựng tăng 14,37%; nhóm dịch vụ tăng
6,57%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 6,10%. Tổng sản phẩm trong
tỉnh năm 2017 có tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng của năm 2016 là 1,05% (Cục
Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018).
Quy mô tổng sản phẩm năm 2017 theo giá hiện hành đạt 37.394,99 tỷ
đồng; GDP bình quân đầu người đạt 44,58 triệu đồng, tương đương 1.959 USD,
tăng 108 USD so với năm 2016. Về cơ cấu nền kinh tế năm 2017, khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 22,30%; khu vực công nghiệp và xây
dựng chiếm 43,26%; khu vực dịch vụ chiếm 30,46%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp
sản phẩm chiếm 3,98% (Cơ cấu tương ứng của năm 2016 là 24,33%, 41,95%,
29,66%, 4,06%). Như vậy cơ cấu kinh tế năm 2017 đang có sự chuyển dịch theo
chiều hướng khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm; khu vực công
nghiêp - xây dựng và khu vực dịch vụ tăng, song mức độ chuyển dịch còn chậm.
4.1.2.2.Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
- Nông, lâm nghiệp và thủy sản
Theo Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình (2018), năm 2017 sản xuất nông nghiệp
gặp nhiều khó khăn do tác động của thời tiết khắc nghiệt như: Rét đậm, rét hại đầu năm kéo dài; mưa, lũ gây thiệt hại nặng nề về con người, tài sản, nhất là sản xuất nông nghiệp. Sản lượng lúa đạt 180.592 tấn, giảm 35.286 tấn (Sản lượng lúa đông xuân đạt 91.923 tấn, giảm 2.766 tấn; sản lượng lúa mùa đạt 88.669 tấn,
giảm 32.520 tấn) so với năm 2016.
Trong măm 2017 diện tích trồng rừng mới tập trung trên địa bàn tỉnh đạt
7.092 ha, giảm 15,41% so với năm 2016, trong đó rừng sản xuất đạt 6.749 ha, giảm 15,62%. Sản lượng gỗ khai thác đạt 349.782 m3, tăng 14,52% so với năm
68
2016. Thời tiết hạn hán, nắng nóng kéo dài và do tập quán canh tác cùng với ý
thức của một số ít nguời dân nên tình trạng cháy rừng vẫn tiếp tục xảy ra. Năm 2017 toàn tỉnh xảy ra 03 vụ cháy rừng làm thiệt hại 2,3 ha rừng tự nhiên và rừng
trồng, giá trị thiệt hại ước tính 47,5 triệu đồng.
Tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện các chương trình dự án phát triển nuôi trồng thuỷ sản, tăng cường công tác khuyến ngư, khuyến khích các địa phương trong tỉnh tận dụng ao hồ, đập, ruộng, các công trình thủy lợi để nuôi trồng thuỷ sản. Diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 2.220 ha, giảm 0,76% so với năm 2016, trong đó diện tích nuôi cá đạt 2.209 ha, chiếm 99,5% tổng diện tích, giảm 0,72% so với năm 2016. Sản lượng thủy sản đạt 6.480 tấn, tăng 4% so với năm 2016, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 4.870 tấn, tăng 3,86%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 1.610 tấn, tăng 4,55% (Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018).
- Công nghiệp
Theo thống kê chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp năm 2017 tăng 15,77% so với năm trước, cao hơn mức tăng 4,67% của năm 2016 và 10,43% của năm 2015 do ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng chiếm tỷ trọng lớn tăng mạnh. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 7,14%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 21,96%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng tăng 14,46%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,17% (Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018).
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2017 đạt 74,8% so với năm 2016. Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời kỳ 31/12/2017 đạt 96,79% so với cùng thời điểm năm 2016 (Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018).
- Thương mại và du lịch
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2017 đạt 10.656,2 tỷ đồng, tăng 5,82% so với năm trước (năm 2016 tăng 6,84%). Chia ra, tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 9.072 tỷ đồng, tăng 5,95%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 1.581 tỷ đồng, tăng 4,98%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 3,2 tỷ đồng, tăng 94,11% so với năm 2016 (Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018).
Vận tải hành khách năm 2017 đạt 4.329 nghìn người, tăng 5,10% so với năm trước và số lượt hành khách luân chuyển 281nghìn lượt khách, tăng 5,13%. Vận tải hàng hóa năm 2017 đạt 8.144 nghìn tấn, tăng 5,37% so với năm trước và khối lượng hàng hóa luân chuyển 276 nghìn tấn, tăng 5,18% so với năm trước (Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018).
69
4.1.2.3. Dân số, lao động và việc làm
Theo số liệu thống kê dân số trung bình năm 2017 toàn tỉnh có 838.843 người,
tăng 7.486 người, tương đương tăng 0,9% so với năm 2016, bao gồm dân số thành
thị 123.868 người, chiếm 14,76%; dân số nông thôn 714.975 người, chiếm 85,24%;
dân số nam 419.134 người, chiếm 49,96%; dân số nữ 419.709 người, chiếm 50,04%
(Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018). Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên toàn tỉnh
năm là 553.673 người, tăng 529 người so với năm 2016. Lao động từ 15 tuổi trở lên
đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2017 ước tính 551.435 người, tăng 1.030
người so với năm 2016. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo năm đạt
18,20%, cao hơn mức 17,50% của năm trước (Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018).
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi năm 2017 là 0,43%, trong đó
khu vực thành thị là 2,30%; khu vực nông thôn là 0,15%. Tỷ lệ thiếu việc làm của
lực lượng lao động trong độ tuổi năm 2017 là 2,23%, trong đó khu vực thành thị là
0,45%; khu vực nông thôn là 2,55% (Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018).
Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống. Trong
đó, dân tộc Kinh chiếm khoảng 30% dân số toàn tỉnh, còn lại là các dân tộc Mường,
Tày, Dao, Thái và Mông sống rải rác trên địa bàn tỉnh. Cộng đồng dân tộc Mường
chiếm 60% dân số toàn tỉnh. Người Mường sống tập trung tại các huyện phía Tây
Bắc của tỉnh, gồm các huyện Cao Phong, Kim Bôi, Lạc Sơn, Yên Thủy... Người
Tày chiếm khoảng 5% dân số toàn tỉnh, sống tập trung tại một số thôn/bản tại các
vùng núi cao của tỉnh ở các huyện Đà Bắc, Mai Châu. Người Dao chiếm khoảng 3%
dân số của tỉnh sống tại vùng núi thấp nằm ở phía Đông Nam chủ yếu ở các huyện
Kỳ Sơn, Lương Sơn.
4.1.2.4. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng
Trên địa bàn tỉnh Hoà Bình có nhiều tuyến quốc lộ (QL) chạy quan như: QL 6,
QL 15, QL 21, QL 12B và đường Hồ Chí Minh với tổng chiều dài khoảng 297,1 km. Về tiêu chuẩn kỹ thuật, ngoài QL 6 và đường Hồ Chí Minh đã được nâng lên cấp III, mặt đường phủ bê tông nhựa, các QL còn lại (QL 15, QL 21, QL 12B) đều có cấp kỹ thuật thấp (cấp V, cấp VI), mặt đường láng nhựa và bê tông xi măng. Các cầu trên hệ thống quốc lộ đều là bê tông cốt thép vĩnh cửu, khổ cầu đa số đạt 2 làn xe (7 m), tải trọng cơ bản là H13 và H30 (Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018). Bên
cạnh đó, trên toàn tỉnh hiện tại có 21 tuyến đường tỉnh với tổng chiều dài 389 km và 6 tuyến CT 229 với tổng chiều dài 186,3 km. Các tuyến CT 229 và đường tỉnh, về
70
tiêu chuẩn kỹ thuật, chủ yếu chỉ đạt cấp VI và thấp hơn. Hệ thống giao thông đô thị
của TP Hòa Bình có đường đạt tiêu chuẩn đường đô thị. Các thị trấn huyện lỵ có các đoạn tuyến QL, tỉnh lộ đi qua được mở rộng theo tiêu chuẩn. Các tuyến đường
huyện có mặt đường đá dăm láng nhựa, mặt đường bê tông xi măng, mặt đường cấp
phối, mặt đường đất nhìn chung đã đảm bảo đi lại cho người dân, tuy nhiên vẫn còn
nhiều tuyến đường đất, đã xuống cấp khó khăn trong đi lại nhất là mùa mưa lũ.
Các tuyến đường xã chủ yếu là đường loại B-GTNT và thấp hơn (nền
đường nhỏ hẹp, độ dốc dọc lớn, không đủ tiêu chuẩn cấp đường). Kết cấu mặt
đường các tuyến đường xã chủ yếu là: mặt đường đá dăm láng nhựa; mặt đường
bê tông xi măng, mặt đường cấp phối và mặt đường đất chiếm tỷ lệ lớn. Trong
thời gian qua, các tuyến đường đến trung tâm xã đã được đầu tư sửa chữa, nâng cấp và cải tạo bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Chương trình kiên cố hóa
đường giao thông nông thôn (vốn vay Ngân hàng Phát triển) thực hiện tốt đã tạo
điều kiện thuận lợi trong việc đi lại, giao lưu phát triển kinh tế - xã hội của các
xã, thôn bản (Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018). Hệ thống nước sinh hoạt được
đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, nguồn vốn ODA (ADB, WB, Hàn
Quốc), nhiều công trình nước sinh hoạt đã hoàn thành đưa vào sử dụng như: Cấp
nước thị trấn Chi Nê, Yên Thuỷ, Mai Châu (nguồn XDCB tập trung). Tỷ lệ số hộ
sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh tăng từ 63,58% năm 2012 lên 76,74% năm
2014 (Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2018).
4.1.3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh Hoà Bình
4.1.3.1. Tiềm năng và cơ hội
Vị trí địa lý và giao thông giúp mở rộng thị trường hàng hóa, kích thích phát
triển sản xuất trên các lĩnh vực và tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiệu quả cho
Hòa Bình. Vị trí tiếp giáp với thủ đô Hà Nội tạo điều kiện cho Hòa Bình có thể thu
hút và tiếp cận được các nguồn vốn đầu tư, khoa học công nghệ và lao động có
chất lượng cao, đồng thời nhận tác động lan tỏa về phát triển kinh tế, xã hội của
các vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, đồng bằng sông Hồng.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, bao gồm tài nguyên đất, rừng, tiểu khí hậu sinh thái vùng cao, tài nguyên du lịch thiên nhiên (hồ Hòa Bình, nước khoáng Kim Bôi, các hang động...) và du lịch văn hoá (văn hóa Mường,...); những nguồn tài nguyên này gắn với truyền thống sản xuất của các cộng đồng
dân tộc nhằm phát triển các loại hình sản xuất truyền thống, tạo điều kiện phát
71
triển kinh tế, nâng cao đời sống của người dân. Danh lam thắng cảnh, bản sắc
văn hóa truyền thống tốt đẹp là điểm thuận lợi giúp Hòa Bình có khả năng phát triển du lịch mũi nhọn với các loại hình như du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du
lịch cộng đồng, du lịch mạo hiểm, du lịch tâm linh,… Cùng với việc phát triển du
lịch sẽ kéo theo sự phát triển của lĩnh vực giao thông vận tải, khôi phục và phát
triển các ngành nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, rượu cần…
Cơ hội của nền kinh tế mở trên cơ sở liên kết kinh tế vùng và mở rộng các quan hệ kinh tế trong nước cũng là một thuận lợi để Hòa Bình phát huy các tiềm năng, lợi thế của tỉnh hội nhập với tiến trình phát triển kinh tế - xã hộ trong vùng và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước. Hòa Bình có thể nhận được sự hợp tác hỗ trợ về công nghiệp khai thác, chế biến, điện, giấy, phân bón, thiết bị kỹ thuật, thị trường trao đổi hàng hóa và dịch vụ, đồng thời có thể tham gia trực tiếp vào các dự án, chương trình phát triển lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản, phát triển du lịch, bảo vệ tài nguyên môi trường của toàn vùng Tây Bắc. Trên cơ sở đó, các tài nguyên khoáng sản và tiềm năng kinh tế đa dạng của tỉnh sẽ được quy hoạch, khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn. Lực lượng sản xuất và lao động xã hội sẽ được tổ chức, phân bố hợp lý hơn, thích ứng với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4.1.3.2. Các yếu tố hạn chế và thách thức
Trình độ phát triển chung của tỉnh còn thấp so với cả nước, thể hiện trên một số mặt kinh tế, xã hội như sau: Thu nhập bình quân đầu người thấp; cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn chỉ sản xuất nông nghiệp là chính; nông lâm ngư nghiệp, nhất là lâm nghiệp có tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế; kinh tế hàng hóa chưa phát triển; trình độ dân không đồng đều, nhận thức và vận dụng chính sách nhà nước không đồng đều; chất lượng lao động, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp. Điều này hạn chế khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ, chưa đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ hội nhập của nền kinh tế thị trường gắn với cộng nghiệp hóa, đô thị hóa nông nghiệp, nông thôn. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật mặc dù đã được đầu tư nâng cấp khá nhiều trong mấy năm trở lại đây nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu để phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông tại vùng sâu, vùng xa, hạ tầng dịch vụ thương mại.
Tập quán sản xuất đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển một phần không nhỏ dân cư sống ở vùng sâu, vùng xa với tập quán sản xuất, tư duy, tâm lý sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp chưa thể thay đổi trong một thời gian ngắn sẽ ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận khoa học kỹ thuật và kinh tế thị trường - sản xuất hàng hóa.
72
Với đặc thù gần một nửa diện tích của tỉnh là địa hình phức tạp, đồi núi cao khiến vùng này khó có thể phát triển sản xuất nông nghiệp đại trà, vẫn phải chú trọng phát triển nông – lâm nghiệp đặc biệt là lâm nghiệp. Dân số chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, tập quán canh tác gắn bó với rừng nên phương thức quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đã tồn tại từ lâu đời và ngày càng phát triển, tuy nhiên việc quản lý, sử dụng đất dựa vào cộng đồng từ trước đến nay chủ yếu vẫn chỉ dựa vào cộng đồng, người dân canh tác theo truyền thống lâu đời mà chưa có những quy định cụ thể.
4.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÒA BÌNH
4.2.1. Thực trạng sử dụng đất và biến động đất đai tại tỉnh Hòa Bình
4.2.1.1. Cơ cấu sử dụng đất của tỉnh Hòa Bình
Theo số liệu thống kê của UBND tỉnh Hòa Bình năm 2018 diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 459.062 ha; trong đó: nhóm đất nông nghiệp 387.116 ha (chiếm 84,33% diện tích tự nhiên), nhóm đất phi nông nghiệp 52.904 ha (chiếm 11,52% diện tích tự nhiên) và nhóm đất chưa sử dụng 19.042 ha (chiếm 4,15% diện tích tự nhiên).
Đất chưa sử dụng 19.042 ha (4,15%)
Đất phi nông nghiệp 52.904 ha (11,52%)
Đất nông nghiệp 387.116 ha (84,33%)
Biểu đồ 4.1. Diện tích, cơ cấu sử dụng đất của tỉnh Hòa Bình năm 2017
Nguồn: UBND tỉnh Hoà Bình (2018)
73
Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ
trọng lớn, trong khi diện tích đất phi nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ. Diện
tích đất chưa sử dụng còn nhiều, tuy nhiên có đến 10.123 ha (chiếm 53,16% tổng
diện tích đất chưa sử dụng) là đất núi đá không có rừng cây, rất khó hoặc không
có khả năng cải tạo để đưa vào sử dụng cho các mục đích lâm nghiệp cũng như
các mục đích khác. Chỉ có 1.948 ha đất bằng chưa sử dụng (chiếm 10,23% tổng
diện tích đất chưa sử dụng) và 6.971 ha đất đồi núi chưa sử dụng (chiếm 36,61%
tổng diện tích đất chưa sử dụng) là có khả năng cải tạo, đưa một phần diện tích
vào sản xuất lâm nghiệp và các mục đích khác (UBND tỉnh Hòa Bình, 2018).
Tuy nhiên, để khai thác được tiềm năng đất đai thì tỉnh Hòa Bình cần có các
chính sách thích hợp, thu hút người dân và các đối tượng khác, thu hút các nguồn
lực từ bên trong và bên ngoài vào công tác khai hoang, trồng rừng cải tạo đất.
4.2.1.2. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh Hòa Bình
Diện tích đất nông nghiệp của tỉnh Hòa Bình phân bố trên tất cả các huyện
và thành phố của tỉnh Hòa Bình, với diện tích 387.116 ha (chiếm 84,33% diện
tích tự nhiên).
Bảng 4.1. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh Hòa Bình năm 2017
Diện tích Tỷ lệ Thứ tự LOẠI ĐẤT Mã (ha) (%)
Đất nông nghiệp NNP 387.116 100
Đất sản xuất nông nghiệp 1 SXN 88.511 22,86
1.1 Đất trồng cây hàng năm CHN 64.264 16,60
1.1.1. Đất trồng lúa LUA 31.373 8,10
1.1.2. Đất trồng cây hàng năm khác HNK 32.891 8,50
Đất trồng cây lâu năm 1.2 CLN 24.247 6,26
Đất rừng (Đất lâm nghiệp) 2 LNP 296.288 76,54
Đất rừng sản xuất 2.1 RSX 153.392 39,62
Đất rừng phòng hộ 2.2 RPH 114.360 29,54
Đất rừng đặc dụng 2.3 RDD 28.536 7,37
Đất nuôi trồng thủy sản 3 NTS 1.772 0,46
Đất nông nghiệp khác 4 NKH 545 0,14
Nguồn: UBND tỉnh Hoà Bình (2018)
74
Đất nông nghiệp của tỉnh gồm 4 loại chủ yếu bao gồm: đất sản xuất nông
nghiệp 88.511 ha (chiếm 22,86 diện tích đất nông nghiệp); đất rừng (đất lâm
nghiệp) 296.288 ha (chiếm 76,54% diện tích đất nông nghiệp); các loại đất khác
chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích đất nông nghiệp như: đất nuôi trồng thủy sản
chỉ chiếm 0,46% diện tích đất nông nghiệp; đất nông nghiệp khác chỉ chiếm tỷ lệ
0,14% diện tích đất nông nghiệp. Như vậy, có thể thấy đất rừng có diện tích lớn
nhất và ngành lâm nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo của tỉnh Hòa Bình, đây là tiềm
năng rất lớn trong việc quản lý, sử dụng đất nhưng cũng đặt ra thách thức rất lớn
trong quá trình quản lý, sử dụng để đem lại hiệu quả cao nhất cho người dân sống
bằng nghề rừng, gắn bó với rừng. Cơ cấu các loại đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh
được thể hiện qua biểu đồ 4.2 (UBND tỉnh Hòa Bình, 2018).
Đất nông nghiệp khác 545 ha (0,14%)
Đất nuôi trồng thủy sản 1.772 ha (0,46%)
Đất sản xuất nông nghiệp 88.5111 ha (22,86%)
Đất rừng 296.288 ha (76,54%)
Biểu đồ 4.2. Diện tích, cơ cấu đất nông nghiệp của tỉnh Hòa Bình
Nguồn: UBND tỉnh Hoà Bình (2018)
- Đất sản xuất nông nghiệp: Là một tỉnh miền núi của vùng Tây Bắc,
diện tích đất sản xuất nông nghiệp ít, chỉ chiếm 22,86% tổng diện tích đất nông
nghiệp. Trong đó diện tích đất trồng lúa nước chỉ chiếm 8,10% tổng diện tích đất
75
nông nghiệp, là tỉnh có diện tích đất trồng lúa nước thấp nhất của vùng Tây Bắc.
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp phân bố tương đối đều trên tất cả các huyện
trong tỉnh, trong đó thành phố Hòa Bình có bình quân đất lúa trên đầu người thấp
nhất, chỉ đạt 100 m2/người, huyện Kỳ Sơn có mức bình quân cao nhất với 465
m2/người (UBND tỉnh Hòa Bình, 2016a; 2018). Diện tích đất trồng cây lâu năm
với một số loại cây chủ yếu như: Chè phân bố chủ yếu ở huyện Lạc Thủy và
Lương Sơn; cây ăn quả chủ yếu ở huyện Cao Phong, Mai Châu, Kim Bôi… và
cây lâu năm khác phân bố trong khu dân cư nông thôn, hiện có hiệu quả kinh tế
thấp cần phải được đầu tư, cải tạo để chuyển sang đất trồng cây ăn quả hoặc đất
trồng cây lâu năm có hiệu quả kinh tế cao hơn.
- Đất rừng: Với diện tích 296.288 ha (chiếm 76,54% tổng diện tích đất
nông nghiệp), trong đó: diện tích đất rừng sản xuất chiếm 39,62% diện tích đất
nông nghiệp, phân bố chủ yếu trên địa bàn các huyện: Đà Bắc, Kim Bôi, Tân Lạc
và Lạc Sơn. Tỉnh Hòa Bình có diện tích đất rừng sản xuất lớn thứ 3 trong vùng,
sau tỉnh Điện Biên và Sơn La. Diện tích đất rừng phòng hộ 114.361 ha (chiếm
29,54% diện tích đất nông nghiệp), phân bố chủ yếu trên địa bàn các huyện: Đà
Bắc, Tân Lạc và Mai Châu; diện tích đất rừng phòng hộ rất có ý nghĩa, đặc biệt
trên địa bàn tỉnh Hòa Bình có diện tích đất rừng phòng hộ cho thủy điện Hòa
bình nên công tác quản lý, sử dụng diện tích đất này rất được quan tâm. Diện tích
đất rừng đặc dụng là 28.536 ha (chiếm 7,37% diện tích đất nông nghiệp), phân bố
chủ yếu trên địa bàn các huyện: Đà Bắc, Tân Lạc và Kim Bôi chủ yếu thuộc các
vườn quốc gia và các khu bảo tồn (UBND tỉnh Hòa Bình, 2016a; 2018).
4.2.1.3. Biến động sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
Diện tích tự nhiên của tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn 2014 - 2017 không có
sự biến động. Diện tích một số loại đất có sự biến động chủ yếu do chuyển mục
đích sử dụng đất phục vụ quá trình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Diện tích nhóm đất nông nghiệp là giảm 242 ha so với năm 2014; diện tích nhóm
đất phi nông nghiệp tăng 371 ha so với năm 2014 và diện tích nhóm đất chưa sử
dụng giảm 129 ha so với năm 2014 (Bảng 4.2).
76
Bảng 4.2. Biến động diện tích đất đai trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
giai đoạn 2014 – 2017
STT
Loại đất
Mã
Năm 2014 (ha)
Năm 2017 (ha)
Tăng (+) Giảm (-)
I
Tổng diện tích tự nhiên
459.062
459.062
0
1
Nhóm đất nông nghiệp
387.358
387.116
-242
NNP
1.1
Đất sản xuất nông nghiệp
88.688
88.511
-177
SXN
1.1.1
Đất trồng cây hàng năm
64.427
64.264
-163
CHN
1.1.2
Đất trồng cây lâu năm
24.260
24.247
-13
CLN
1.2
Đất lâm nghiệp
296.500
296.288
-211
LNP
1.2.1
Đất rừng sản xuất
153.558
153.392
-166
RSX
1.2.2
Đất rừng phòng hộ
114.404
114.360
-43
RPH
1.2.3
Đất rừng đặc dụng
28.538
28.536
-2
RDD
1.3
Đất nuôi trồng thuỷ sản
1.756
1.772
16
NTS
1.4
Đất nông nghiệp khác
415
545
130
NKH
2
Nhóm đất phi nông nghiệp
52.533
52.904
371
PNN
2.1
Đất ở
13.937
13.971
34
OCT
2.1.1
Đất ở tại nông thôn
12.960
12989
29
ONT
2.1.2
Đất ở tại đô thị
977
982
5
ODT
2.2
Đất chuyên dùng
30.585
31.041
456
CDG
2.2.1
Đất xây dựng trụ sở cơ quan
208
211
3
TSC
2.2.2
Đất quốc phòng
3.310
3331
22
CQP
2.2.3
Đất an ninh
177
181
4
CAN
2.2.4
1.281
1288
7
Đất xây dựng công trình sự nghiệp DSN
2.2.5
3.139
3454
315
CSK
Đất SX, KD phi nông nghiệp
2.2.6
105
CCC
Đất SD vào mục đích công cộng
22.471
22576
2.3
16
16
0
TON
Đất cơ sở tôn giáo
2.4
34
34
0
TIN
Đất cơ sở tín ngưỡng
2.5
2.190
2189
-1
NTD
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
2.6
5.696
5576
-120
SON
Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối
2.7
76
77
1
Đất có mặt nước chuyên dùng
MNC
2.8
0
0
0
PNK
Đất phi nông nghiệp khác
3
19.171
19.042
-129
CSD
Nhóm đất chưa sử dụng
3.1
1.946
1948
2
BCS
Đất bằng chưa sử dụng
3.2
6.985
6971
-14
DCS
Đất đồi núi chưa sử dụng
3.3
-117
10.240
10123
NCS
Núi đá không có rừng cây
Nguồn: UBND tỉnh Hòa Bình (2015; 2018)
77
a. Biến động diện tích đất nông nghiệp
Trong giai đoạn này, diện tích đất nông nghiệp của tỉnh giảm 242 ha chủ yếu
là do chuyển mục đích sử dụng sang các mục đích phi nông nghiệp. Trong đó, diện
tích đất sản xuất nông nghiệp giảm 177 ha, chủ yếu là chuyển sang mục đích đất ở
và đất xây dựng các công trình công cộng, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp.
Diện tích đất rừng có sự biến động giảm 211 ha (chủ yếu là đất rừng sản xuất giảm
166 ha, đất rừng phòng hộ giảm 43 ha, trong khi đất rừng đặc dụng chỉ giảm 2 ha).
Nguyên nhân gây biến động diện tích đất rừng là do quá trình rà soát, xác định diện
tích giữ lại phục vụ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các Khu Bảo tồn thiên
nhiên, Vườn Quốc gia Cúc Phương, Vườn Quốc gia Ba Vì. Bên cạnh đó việc cải
tạo, nắn thẳng dòng chảy một số công trình kênh, suối cũng là nguyên nhân gây ra
biến động diện tích một số loại đất nhưng không lớn. Nguyên nhân khác là do
chuyển mục đích sử dụng khi thực hiện quy hoạch 3 loại rừng (UBND tỉnh Hòa
Bình, 2018).
c. Biến động diện tích đất phi nông nghiệp
Trong giai đoạn này, diện tích đất phi nông nghiệp của tỉnh tăng 371 ha, cụ thể
do một số nguyên nhân sau: Do thực hiện chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông
nghiệp sang đất ở 34 ha, sang các loại đất chuyên dùng; do tách riêng phần diện tích
đất vườn liền kề với đất ở theo hạn mức quy định tại địa phương. Do các mỏ khoáng
sản khai thác đá đã hết thời hạn nay được cấp phép, gia hạn khai thác và ký hợp
đồng thuê đất nên được xác định theo mục đích phi nông nghiệp. Bên canh đó, việc khoanh vẽ cụ thể ranh giới các khu nghĩa địa, diện tích được tính bằng máy tính điện
tử nên có sự thay đổi. Bên cạnh đó, việc đưa 129 ha đất chưa sử dụng (chủ yếu là đất
núi đá không rừng cây) và khai thác vật liệu xây dựng đã gây lên sự biến động về
diện tích đất phi nông nghiệp (UBND tỉnh Hòa Bình, 2015; 2018).
d. Biến động đất chưa sử dụng
Diện tích đất chưa sử dụng năm 2014 so với năm 2017 giảm 129 ha nguyên nhân chủ yếu do: một phần diện tích đồi núi chưa sử dụng và đất bằng chưa sử dụng trước đây chưa đạt tiêu chuẩn rừng, nay đã phục hồi và phát triển đạt tiêu chuẩn rừng. Bên cạnh đó diện tích lớn núi đá không có rừng cây đủ tiêu chuẩn cấp phép khai thác vật liệu xây dựng nên diện tích đất chưa sử dụng có xu hướng
giảm đi (UBND tỉnh Hòa Bình, 2015; 2018).
78
4.2.2. Thực trạng công tác quản lý đất rừng dựa vào cộng đồng của tỉnh Hòa Bình
4.2.2.1. Công tác giao đất, giao rừng cho cộng đồng tại tỉnh Hòa Bình
a. Thực trạng diện tích đất rừng được giao cho các cộng đồng tại tỉnh Hòa Bình
Thực hiện Nghị định số 02/NĐ-CP ngày 15/1/1994, UBND tỉnh đã ban
hành Quyết định số 548/QĐ-UBND, ngày 29/11/1999 quy định hướng dẫn về
giao đất, khoán rừng. Tiếp đó trên cơ sở Quyết định số 672/QĐ-TTg, ngày 26/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh Hòa Bình đã có Chỉ thị số
04/CT-UBND của UBND tỉnh Hòa Bình, ngày 17/4/2013 về việc tập trung chỉ
đạo và tăng cường các biện pháp thực hiện việc cấp GCNQSD đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, kết quả đến nay toàn bộ diện tích đất rừng trên địa bàn tỉnh đã được giao cho các đối tượng quản lý, sử dụng. Mặc dù không
có quy định cụ thể về việc giao đất, giao rừng cho các cộng đồng dân cư nhưng
trên cơ sở vận dụng những quy định của Nhà nước, tỉnh Hòa Bình đã thực hiện
giao đất, giao rừng cho các cộng đồng như các đối tượng sử dụng đất khác.
Các cộng đồng trên địa bàn tỉnh sống tập trung theo các thôn, bản và có truyền
thống QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Toàn bộ diện tích đất đai của tỉnh đã
được giao cho các đối tượng quản lý, sử dụng trong đó cộng đồng dân cư đã được
giao 48.576 ha đất rừng, chiếm 16,39% tổng diện tích đất rừng của toàn tỉnh, đứng
thứ 2 so với các đối tượng khác trong tỉnh (Bảng 4.3). Điều này cho thấy công tác
giao đất, giao rừng cho các cộng đồng dân cư đã rất được quan tâm và hình thức
QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng đã được trú trọng trên địa bàn tỉnh.
Bảng 4.3. Diện tích đất rừng giao cho các chủ thể
trên địa bàn tỉnh Hòa Bình năm 2017
Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) STT Các chủ thể
1 Hộ gia đình, cá nhân 173.377 58,52
2 Tổ chức kinh tế 17.881 6,04
3 Cơ quan đơn vị của nhà nước 28.375 9,58
4 Tổ chức sự nghiệp công lập 82 0,03
5 Cộng đồng dân cư 48.576 16,39
6 UBND cấp xã 27.997 9,45
Tổng cộng 296.288 100,00
Nguồn: UBND tỉnh Hòa Bình (2018)
79
Trong tổng số 296.288 ha đất rừng thì phần diện tích mà các cộng đồng
được giao quản lý, sử dụng chiếm tỷ lệ cao thứ hai chỉ sau giao cho hộ gia đình, cá nhân, chiếm 16,39% tổng diện tích đất rừng của tỉnh (UBND tỉnh Hòa Bình,
2018). So với cả nước thì tỷ lệ diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng của Hòa
Bình cao gấp 2,45 lần diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng trung bình trên cả
nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016).
58,52%
ha 180,000 160,000 140,000 120,000 100,000 80,000
16,39%
60,000
9,45%
9,58%
6,04%
40,000 20,000
3,03%
0
Tổ chức kinh tế
UBND cấp xã
Hộ gia đình, cá nhân
Cơ quan đơn vị của nhà nước
Tổ chức sự nghiệp công lập
Cộng đồng dân cư
Biểu đồ 4.3. Cơ cấu diện tích đất rừng giao cho các chủ thể
trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
So sánh với một số địa phương khác ở miền Bắc thì tỷ lệ diện tích đất rừng giao cho cộng đồng của tỉnh Hòa Bình chỉ thấp hơn tỉnh Sơn La (thấp hơn 1,8 lần) (chiếm 59,71%), còn lại đều cao hơn các tỉnh khác như: cao gấp 6,58 lần tỉnh Bắc Giang (chiếm 2,49%), cao gấp 3,13 lần của tỉnh Lạng Sơn (chiếm 5,24%), cao gấp 2,12 lần tỉnh Điện Biên (chiếm 7,73%) (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2016a). Điều này cho thấy tỉnh Hòa Bình đã rất quan tâm đến công tác giao đất, giao rừng cho các cộng đồng và việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Đối với phần diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng quản lý, sử dụng thì cộng đồng dân tộc Mường chiếm chủ yếu (chiếm 58,68%), tiếp đó là cộng đồng người Tày (chiếm 18,25%) và cộng đồng người Dao (chiếm 16,11%), còn lại 6,96% diện tích đất rừng được giao cho cộng đồng các dân tộc người Kinh và một số cộng đồng người Mông, người Thái sống rải rác trên địa bàn tỉnh.
Nguồn: UBND tỉnh Hòa Bình (2018)
80
Cộng đồng dân tộc Kinh 6,96%
Cộng đồng dân tộc Dao 16,11%
Cộng đồng dân tộc Mường…
Cộng đồng dân tộc Tày 18,25%
Biểu đồ 4.4. Cơ cấu diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng
Mặc dù diện tích đất rừng đã được giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng
tương đối lớn nhưng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các diện
tích đất này còn rất khó khăn, phức tạp, mới chưa đến 50% diện tích được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nguồn: UBND tỉnh Hòa Bình (2018)
Bảng 4.4. Thực trạng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho diện tích
đất rừng giao cho các cộng đồng
Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) STT Tình trạng giao quyền sử dụng đất
1
Đã cấp GCN QSD đất Không có tranh chấp 20.618 15.712 42,44 32,35
Đang có tranh chấp 4.906 10,09
2
Chưa cấp GCN QSD đất Không có tranh chấp Đang có tranh chấp 27.958 26.765 1.193 57,56 55,10 2,46
Tổng 48.576 100,00
Qua điều tra cho thấy diện tích đất rừng giao cho cộng đồng quản lý và sử dụng là 48.576 ha (chiếm 16,39% tổng diện tích đất rừng) trong đó diện tích đất rừng cộng đồng đã được cấp GCNQSD đất là 20.618 ha (chỉ chiếm 42,44% tổng diện tích đất rừng được giao), diện tích chưa được cấp GCNQSD đất là 27.958 ha (chiếm 57,56%).
Nguồn: UBND tỉnh Hòa Bình (2018); Sở NT&PTNT tỉnh Hòa Bình (2018).
81
b. Hiện trạng diện tích đất rừng được giao cho các cộng đồng nghiên cứu
Kết quả điều tra tại khu vực nghiên cứu cho thấy các cộng đồng được giao đất, giao rừng từ năm 1994 (UBND xã Đồng Chum, 2017; UBND xã Nam Phong,
2017; UBND xã Tú Sơn, 2017; UBND xã Quý Hoà, 2017; UBND xã Tiến Sơn,
2017). Tuy nhiên, những diện tích này đều chưa được cấp GCNQSD đất cho đến
khi Quyết định số 672/QĐ-TTg, ngày 26/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị số 04/CT-UBND của UBND tỉnh Hòa Bình ngày 17/4/2013 có hiệu lực thi
hành thì một số cộng đồng mới được cấp GCNQSD đất.
Bảng 4.5. Kết quả giao đất rừng của các điểm nghiên cứu
Tình trạng cấp STT Địa điểm Diện tích đất rừng được giao (ha) GCNQSD đất
1 2 Bản Nhạc Thôn Đúc 61 120 Chưa có GCNQSD đất Đã có GCNQSD đất
3 4 Thôn Củ Thôn Thung 2 605,5 166 Chưa có GCNQSD đất Đã có GCNQSD đất
Trong số 5 điểm điều tra mới chỉ có 2 cộng đồng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thôn Đúc (xã Nam Phong, huyện Cao Phong) và thôn Thung 2 (xã Quý Hòa, huyện Lạc Sơn), còn lại 3 cộng đồng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần lớn các diện tích đất rừng đã giao cho cộng đồng chủ yếu là đất rừng tự nhiên, rừng tự nhiên sau khai thác nghèo kiệt, trữ lượng gỗ thấp, việc hưởng lợi từ rừng được giao còn rất thấp. Bên cạnh đó, lại cách quá xa các khu dân cư, đi lại rất khó khăn, hệ thống bản đồ, hồ sơ giao đất còn chưa đầy đủ, nên vẫn còn các hiện tượng vi phạm như chồng lấn và tranh chấp, gây khó khăn trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng. Đối với cộng động người Mường diện tích rừng cộng đồng đã gắn bó với người dân trong cộng đồng từ lâu năm, ranh giới sử dụng đất của khu rừng rõ ràng, không bị chồng lấn do đó việc cấp GCNQSD đất thuận lợi hơn. Còn khu rừng của thôn Củ do còn rừng ở quá xa khu dân cư, cộng đồng khi được giao đất cũng không có ranh giới rõ ràng nên khi cấp GCNQSD đất còn khó khăn do một phần bị người dân địa phương phát rãy làm nông nghiệp dẫn đến chưa phân định được ranh giới, nên chưa được cấp GCNQSD đất. Đối với cộng đồng người Dao và cộng đồng người Tày do các khu rừng này đều là rừng truyền thống của địa phương, các cộng đồng đều cho rằng việc có GCNQSD đất hay không đều không ảnh hưởng gì đến quyền lợi của cộng đồng, bên cạnh đó cộng đồng cũng chưa có kinh phí, nên chưa làm thủ tục cấp GCNQSD đất.
5 Xóm Suối Bến 131,02 Chưa có GCNQSD đất
82
Việc cấp GCNQSD đất cho các cộng đồng không làm thay đổi các lợi ích thu được từ rừng vì theo quy định tại Khoản 2, Điều 181, Luật Đất đai 2013 thì cộng đồng bị hạn chế tất cả các quyền không được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho quyền sử dụng đất; không được thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Hiện tại, về diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng tỉnh chưa có quy định mà chỉ vận dụng các quy định cho các đối tượng khác, căn vào quỹ đất của địa phương và nhu cầu sử dụng đất của cộng đồng để giao. Diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng chủ yếu đều do lịch sử để lại đây là những khu rừng truyền thống mà các cộng đồng đã quản lý, sử dụng từ lâu đời hoặc những khu rừng do UBND xã quản lý nay giao lại cho các cộng đồng.
Các GCNQSD đất giao cho cộng đồng đều đang đứng tên của một người đại diện cho cộng đồng, điều này chưa đúng theo quy định của Luật Đất đai 2013, gây ra tình trạng tranh chấp quyền sử dụng đất, cũng như khó khăn trong công tác quản lý đất đai.
Đánh giá về mức độ cần thiết của diện tích đất rừng giao cho cộng đồng, đa phần người dân đều cho rằng rất cần thiết (59,82%) do đây là nơi tất cả người dân trong cộng đồng cùng chung tay bảo vệ, cùng được hưởng những sản phẩm từ rừng, đảm bảo nhu cầu cho cuộc sống, góp phần tăng thêm thu nhập cho các gia đình. Khi cộng đồng được giao đất, giao rừng thì có quyền quản lý, sử dụng, được áp dụng các quy chế của cộng đồng khi có người vi phạm nếu không được giao thì sẽ khó khăn cho việc áp dụng các quy chế khi có người vi phạm.
Bảng 4.6. Đánh giá mức độ cần thiết của việc giao đất rừng cho cộng đồng
Mức độ Tổng (Hộ) Tỷ lệ (%) Bản Nhạc (Hộ) Thôn Đúc (Hộ) Thôn Củ (Hộ) Thôn Thung 2 (Hộ) Xóm Suối Bến (Hộ)
21 20 29 33 28 131 59,82 Rất cần thiết
10 13 16 9 11 59 26,94 Cần thiết
5 6 4 6 8 29 13,24 Trung bình
0 0 0 0 0 0 0,00 Ít cần thiết
0
Như vậy, có thể thấy việc giao đất, giao rừng cho các cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số quản lý, sử dụng là rất cần thiết, giúp cho các cộng đồng có được
khu rừng sử dụng chung, góp phần ổn định sinh kế, giúp người dân ổn định
cuộc sống.
0 36 0 39 0 49 0 48 0 47 0,00 219 100,00 Không cần thiết Tổng
83
4.2.2.2. Công tác xây dựng quy ước, hương ước quản lý bảo vệ rừng cộng đồng
Sau khi nhận đất, nhận rừng, với sự hỗ trợ của các tổ chức/dự án hầu hết
các cộng đồng đều thành lập được các Ban quản lý rừng cộng đồng, xây dựng
quy ước, hương ước quản lý, bảo vệ rừng của cộng đồng cũng như kế hoạch phát
triển rừng của cộng đồng. Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, dưới sự hỗ trợ của Dự án
Phát triển Lâm nghiệp của Ngân hàng tái thiết Đức (KFW7) đã triển khai giao
đất, giao rừng cho các cộng đồng dân cư từ năm 2004 và hỗ trợ các cộng đồng
xây dựng các quy ước, hương ước quản lý rừng của cộng đồng. Toàn tỉnh đã xây
dựng và thực hiện được 1566 bản quy ước/hương ước thuộc địa bàn 215 xã có
rừng và đất rừng (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2016).
Các quy ước được xây dựng trên nguyên tắc có sự tham gia của người dân
nhằm mục đích tăng cường hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên rừng đã
được Nhà nước giao cho các cộng đồng. Đảm bảo sự nhất quán trong chỉ đạo và
thực hiện. Các quy ước đã tạo cơ hội cho người dân duy trì và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc đã có từ lâu đời, gắn liền với truyền thống, phong tục, tập quán
của cộng đồng.
Tại các cộng đồng điều tra, việc xây dựng quy ước/hương ước đã được thực
hiện từ khi cộng đồng được Nhà nước giao đất, giao rừng. Dưới sự hỗ trợ của các
dự án, chương trình khác nhau các cộng đồng đều đã xây dựng được quy ước
quản lý rừng cộng đồng của mình. Đến nay, riêng các cộng đồng có dự án KFW7
đều đã xây dựng được quy ước bảo vệ rừng cộng đồng; quy chế quản lý rừng
cộng đồng và kế hoạch quản lý rừng cộng đồng 5 năm và từng năm giai đoạn
2013 - 2017. Nội dung của các bản quy ước quy định cụ thể về những việc được
làm và không được làm như: quy định việc phát đốt rừng làm nương rẫy, về
phòng cháy chữa cháy rừng, về việc khai thác, vận chuyển gỗ và lâm sản ngoài
gỗ, về việc chăn thả gia súc, săn bắn động vật cũng như việc xây dựng quỹ bảo
vệ rừng của thôn, bản. Bên cạnh đó quy ước cũng quy định rõ trách nhiệm và
nghĩa vụ của từng người dân trong thôn, bản và quy định về việc xử lý vi phạm
quy ước cũng như khen thưởng, biểu dương những cá nhân, hộ gia đình trong
cộng đồng có thành tích trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng.
84
Sau khi xây dựng được quy ước thì các địa phương đều tổ chức triển khai
thực hiện quy ước. Công tác tuyên truyền được thực hiện đến tận các hộ gia đình,
cá nhân trong cộng đồng bằng nhiều hình thức (phát tài liệu, tổ chức họp dân,
treo bản quy ước tại nhà cộng đồng, cắm các biển hiệu tại các vị trí dễ thấy…).
Bảng 4.7. Thống kê công tác tuyên truyền về quy ước tại các điểm nghiên cứu
Làm biển Treo tại nhà
Cộng đồng Quy ước (bản) Họp dân (buổi) báo (chiếc) cộng đồng (bản)
Bản Nhạc Thôn Đúc 56 64 13 15 10 10 10 10
Thôn Củ Thôn Thung 2 95 94 15 12 15 15 10 10
Kết quả điều tra cho thấy, tại các thôn, bản đều đã triển khai công tác thực
hiện quy ước quản lý rừng cộng đồng đến từng người dân trong thôn, bản. Người
dân được tham gia trực tiếp vào việc xây dựng quy ước thông qua các buổi họp
dân. Sau khi quy ước được xây dựng mỗi năm các thôn, bản đều tổ chức họp dân
từ 1 đến 2 lần nhằm tuyên truyền, phổ biến quy ước cũng như tổng kết công tác
thực hiện quy ước và đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong công tác thực
hiện riêng thôn Củ và thôn Đúc cộng đồng người Mường có truyền thống quản lý
lâu đời, có dự án của KFW7 nên số buổi họp dân được triển khai nhiều hơn (15
buổi). Ngoài ra còn có các buổi tổng kết, khen thưởng những người có thành tích
tốt trong công tác quản lý, bảo vệ rừng cộng đồng. Riêng xóm Suối Bến do sống
ở vùng núi thấp, điều kiện tiếp cận các dịch vụ khác thuận lợi hơn, người dân
trong xóm ít phụ thuộc vào rừng do có các ngành nghề khác thay thế như đi làm
thuê hay buôn bán… nên việc triển khai thực hiện các công tác liên quan đến
quản lý rừng cộng đồng cũng ít thường xuyên (chỉ có 10 buổi họp), các hoạt
động khác cũng ít hơn như: số lượng biển báo chỉ có 8 chiếc trong khi các thôn
khác từ 10 đến 15 chiếc. Bên cạnh việc họp dân các thôn, bản còn thực hiện việc
in các quy ước phát cho từng hộ gia đình trong thôn, cắm các biển tuyên truyền
cỡ lớn tại các vị trí mà người dân dễ thấy, trên các con đường lớn… và treo quy
ước tại nhà sinh hoạt chung của cộng đồng, nơi người dân thường xuyên có mặt
trong các dịp lễ, tết, hội, hè…
Xóm Suối Bến 88 10 8 10
85
Bảng 4.8. Đánh giá về vai trò của quy ước bảo vệ rừng cộng đồng
ĐVT: Hộ
Tham gia xây dựng Sự phù hợp của Vai trò của quy ước quy ước quy ước
Không Cộng đồng Được Rất Không Rất Chưa
được tham Không biết Trung bình Phù hợp tham gia quan trọng quan trọng phù hợp phù hợp gia
36 Bản Nhạc 0 0 30 6 0 5 23 8
39 Thôn Đúc 0 0 35 4 0 8 22 9
49 Thôn Củ 0 0 46 3 0 16 20 13
48 Thôn Thung 2 0 0 42 6 0 13 25 10
47 Xóm Suối Bến 0 0 35 12 0 6 30 11
0 0 188 31 0 51 Tổng 219 48 120
Kết quả điều tra cho thấy, 100% người dân đều được tham gia vào công tác xây dựng quy ước của cộng đồng. Có trên 85% người dân cho rằng quy ước có
vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý, bảo vệ rừng. Trong quá trình triển
khai thực hiện, đa phần người dân đều tuân thủ theo quy ước đã đề ra, có trên
50% người dân cho rằng quy ước là rất phù hợp và phù hợp. Tuy nhiên, vẫn còn
trên 20% người dân cho rằng quy ước chưa thực sự phù hợp đòi hỏi phải có sự
thay đổi cho phù hợp hơn. Đa phần ở các thôn do bản quy ước đã được xây dựng
từ những năm 2011 chỉ có thôn Củ là xây dựng năm 2013 nên các quy định đến
nay đã không còn phù hợp. Như quy định về việc không được khai thác gỗ dẫn
đến cộng đồng hạn chế nguồn thu để gây quỹ, làm giảm các hoạt động quản lý, bảo vệ rừng. Hay quy định xử phạt các hành vi vi phạm bằng số kg thóc và mức phạt còn ít, dẫn đến khó thực hiện và các hành vi vi phạm vẫn tái diễn. Hay quy định khi người dân tham gia vào công tác quản lý, bảo vệ rừng thì trên tinh thần tự nguyện theo sự huy động của thôn, bản mà không được tính công dẫn đến
không khuyến khích được người dân trong cộng đồng tham gia.
Tỷ lệ (%) 100,00 0,00 0,00 85,84 14,16 0,00 21,92 54,79 23,29
86
4.2.2.3. Công tác hưởng lợi từ đất rừng giao cho cộng đồng trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình
a. Hưởng lợi từ khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ
Các khu rừng của các cộng đồng được giao phần lớn đều là đất rừng
phòng hộ, rừng nghèo với chủ yếu là cây tái sinh, dây leo, bụi rậm, giang nứa. Do số lượng và chất lượng gỗ trong rừng cộng đồng là không cao, ít cây có giá trị
nên nhiều cộng đồng quy định không khai thác gỗ trong rừng để giữ rừng, bảo vệ
nguồn nước đầu nguồn đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của các
hộ dân trong thôn, bản.
Lâm sản khác ngoài gỗ được chia làm 3 nhóm chính: Cây dược liệu, thực
phẩm và gia dụng. Theo quy ước của các cộng đồng thì việc khai thác lâm sản
ngoài gỗ đều được mở cho cả người dân ngoài cộng đồng, việc khai thác phải
theo quy định của quy ước, nếu vi phạm đều bị xử lý theo quy chế của cộng
đồng. Tổng hợp kết quả khai thác lâm sản ngoài gỗ tại các điểm điều tra được thể
hiện tại bảng 4.9 và phụ lục 4.
Bảng 4.9. Kết quả khai thác lâm sản ngoài gỗ tại các điểm nghiên cứu
Loại lâm sản Số hộ tham gia bình quân (hộ) Số lượt khai thác TB/hộ/ năm (lần) Khối lượng khai thác TB/lần/hộ (kg)
4,9 6,7 5,6 9,6 3,7 4,0 10,3 14,5 8,3 16,4 16,1 5,8 16,0 17,6 9,8 21,8 26,8 13,6
2,4 16,3 18,9 3,3 18,2 9,3 5,2 3,8 25,0 14,6 8,8 6,2
Nhóm cây dược liệu Sa nhân Giảo cổ Lam Chuối hột Xạ đen Cỏ máu Huyết đằng Nhóm thực phẩm Rau Măng Sấu, trám Mật ong Nhóm gia dụng
Củi 27,9 12,8 24,0
Tre, nứa Mây Phong lan 39,6 19,2 4,2 5,9 4,8 3,3 17,8 14,2 7,8
87
Hoạt động khai thác lâm sản ngoài gỗ của người dân tại các điểm nghiên cứu cơ bản đều được thực hiện theo quy định trong quy ước của địa phương, từ khi có quy ước và quy ước được xây dựng có sự tham gia của cộng đồng nên các hoạt động khai thác đều đảm bảo đúng quy định. Tại các cộng đồng nghiên cứu các hộ gia đình đều được phép vào rừng cộng đồng khai thác lâm sản. Cộng đồng quy định không được khai thác quá 10 kg/lần. Đối với nhóm lâm sản là cây dược liệu do Hòa Bình là địa phương có truyền thống sử dụng cây dược liệu làm thuốc, người dân trong các địa phương đều có truyền thống thu hái cây dược liệu để phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, bên cạnh đó còn bán trên thị trường nên việc khai thác cây dược liệu là hoạt động mà người dân trong cộng đồng rất tích cực tham gia. Vừa tạo nguồn thu nhập cho gia đình và vừa có sản phẩm sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình có hai loại cây dược liệu nổi tiếng là trà Giảo Cổ Lam và trà Xạ đen đã được các cơ sở chế biến, đóng gói và bán trên thị trường. Do vậy, khối lượng khai thác 2 loại cây dược liệu này tại địa phương cũng cao hơn các loại khác. Cộng đồng người Tày và người Dao có truyền thống hái và sử dụng các cây thuốc từ lâu đời hơn cộng đồng người Mường. Nhưng chủ yếu đều sử dụng trong gia đình, thị trường còn rất hạn chế. Cộng đồng người Mường không tập trung vào hái cây thuốc mà họ khai thác tất cả các sản phẩm từ rừng nhưng do điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn nên sản phẩm của họ đã được bán ra thị trường và tạo ra nguồn thu nhập đáng kế cho người dân.
Các loại cây dược liệu có số lần khai thác và khối lượng khai thác không lớn do chưa có thị trường tiêu thụ các sản phẩm và phần lớn đều chỉ để gia đình dùng và một phần bán cho một số cơ sở chế biến, hoặc một số thương lái tại địa phương với giá cả bấp bênh và không cao. Theo số liệu điều tra đối với tất cả các cây dược liệu được khai thác số lượng khai thác đều không quá 10 kg/lần (phù hợp với quy ước). Bên cạnh đó, rừng cộng đồng còn cung cấp cho người dân địa phương những thực phẩm thiết yếu như rau, măng, sấu, trám, mật ong… Tuy nhiên, đối với việc khai thác các sản phẩm thực phẩm này người dân chủ yếu để sử dụng trong gia đình, lượng bán ra thị trường rất ít. Khối lượng khai thác theo điều tra trung bình khoảng 2,4 kg/lần thấp hơn nhiều so với quy định (10 kg/lần). Đối với cây măng khi người dân khai thác ngoài việc dùng cho gia đình thì có bán trên thị trường. Theo quy định không được khai thác quá 20 kg/lần nhưng do mùa khai thác măng tại địa phương rất ngắn và số lượng quy định được khai thác không nhiều nên lượng măng người dân khai thác được cũng rất hạn chế trung bình khoảng 16,3 kg/lần.
88
Việc thu hái măng cộng đồng người Mường cũng lợi thế hơn, do người dân chăm chỉ vào rừng, họ có khả năng tiếp cận thị trường tốt hơn và học hỏi kỹ thuật nhanh hơn. Người Tày chủ yếu sử dụng trong gia đình còn lại bán cho người dân trong thôn, trong xã. Họ không có kỹ thuật sơ chế nên sản phẩm không để được lâu và giá thành thấp. Còn cộng đồng người Dao do sống ở vùng sát đô thị nên họ không quan tâm nhiều đến sản phẩm từ rừng, người dân thu hái chủ yếu để dùng trong gia đình, không bán ra thị trường. Các sản phẩm khác như sấu, trám, mật ong… số lượng khai thác không lớn, chủ yếu sử dụng trong gia đình, hoặc bán cho những người trong địa phương với giá cả bấp bênh. Theo quy định không được đốt lửa để khai thác ong, người dân cũng ý thức được tác hại của việc đốt lửa nên cũng hạn chế khai thác.
Người dân địa phương còn có thể khai thác các sản phẩm thuộc nhóm gia dụng như: củi, tre, nứa, mây, phong lan... Tuy nhiên, do quy định của địa phương về việc khai thác củi rất chặt chẽ, người dân chỉ được khai thác cây khô, cành mục, tuyệt đối không được khai thác những cây có triển vọng về kinh tế, không được chặt cây trong rừng làm củi. Do vậy, khối lượng khai thác cũng không lớn trung bình 27,9 kg/lần, số lượt khai thác cũng ít khoảng 12,8 lượt/năm, chủ yếu là để dùng trong gia đình. Một số hộ có bán trên thị trường nhưng chủ yếu là bán tại địa phương, giá cả bấp bênh. Đối với sản phẩm tre, nứa, mây đây là sản phẩm người dân khai thác và có bán trên thị trường nhưng do khối lượng khai thác theo quy định không cao (đối với tre, nứa tối đa 50 cây/lần, với mây được tối đa 20 kg/lần) người dân lại không tự chế biến được, thị trường phụ thuộc hoàn toàn vào một số thương lái tại địa phương nên giá cả rất thấp, bấp bênh không tương sứng với công sức người dân bỏ ra. Ngoài ra người dân cũng khai thác được một số loại hoa như phong lan trong rừng nhưng cũng không có thị trường tiêu thụ nên khối lượng cũng như số lượt khai thác không lớn (tối đa 10 kg/lần).
Ngoài những hưởng lợi về lâm sản ngoài gỗ thì người dân tại các cộng đồng còn được phép chăn thả gia súc trong rừng cộng đồng. Tuy nhiên, việc chăn thả gia súc cũng phải tuân theo những quy định trong quy ước của cộng đồng như chỉ được chăn thả tại những khu vực được quy định trong quy ước. Nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của thôn. Đối với việc săn bắn động vật rừng do quy định đây là tài nguyên của toàn thôn, có ý nghĩa lớn trong việc cân bằng sinh thái và cảnh quan môi trường nghiên cứu khoa học… Vì vậy, tất cả các cộng đồng đều nghiêm cấm săn bắt trong khu vực rừng cộng đồng của thôn. Nếu các cá nhân vi phạm đều bị xử lý theo quy định của thôn.
89
b. Hưởng lợi từ chi trả dịch vụ môi trường rừng
Thực hiện Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006- 2020 và chủ trương xã hội hóa nghề rừng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/09/2010 về Chính sách chi trả DVMTR. Hòa Bình là một trong những địa phương đã triển khai thực hiện chính sách chi trả DVMTR. Ngày 31/12/2011 UBND tỉnh Hòa Bình đã ban hành quyết định 2642/QĐ-UBND về việc thành lập Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Hoà Bình. Tiếp đó là Quyết định số 190/QĐ-UBND, ngày 09/02/2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về việc thành lập Ban điều hành Quỹ bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Hoà Bình. Dự án thực hiện chính sách chi trả DVMTR tại lưu vực nhà máy thủy điện Hòa Bình đã được UBND tỉnh Hòa Bình phê duyệt tại Quyết định số 2008/QĐ-UBND, ngày 23/8/2013.
Bảng 4.10. Hoạt động chi trả dịch vụ môi trường rừng trên địa bàn
tỉnh Hòa Bình
Các hoạt động ĐVT Số lượng
1. Thành lập các tổ chức
Ban chỉ đạo chi tra DVMTR Ban 1
Quỹ bảo vệ và PTR Tổ chức 1
Ban điều hành quỹ BV&PTR Ban 1
2. Ký kết hợp đồng
Cơ sở sản xuất thủy điện Cơ sở 5
Cơ sở sản xuất nước sạch Cơ sở 3
3. Tuyên truyền
Qua báo Lần 2
Qua đài truyền thanh Lần 20
Qua biển báo, áp phích Chiếc 120
Tờ rơi Tờ 5.000
Sổ tay tuyên truyền Quyển 100
4. Tập huấn
Tổ chức khóa tập huấn Khóa 2
Số lượt người tham gia Người 150
5. Chi trả DVMTR
17.748 Số hộ gia đình được chi trả Hộ
242 Số cộng đồng dân cư được chi trả Cộng đồng
788 Số tổ chức được chi trả Tổ chức
90
Đến nay, trên địa bàn tỉnh Hòa Bình các loại DVMTR đã được thực hiện
bao gồm: Bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối; điều tiết và duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội; còn lại các dịch vụ
khác như: Hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng, giảm phát thải khí gây hiệu ứng
nhà kính bằng các biện pháp ngăn chặn suy thoái rừng, giảm diện tích rừng và phát triển bền vững; bảo vệ cảnh quan tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học của các hệ
sinh thái rừng phục vụ cho dịch vụ du lịch; dịch vụ cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn
và con giống tự nhiên, sử dụng nguồn nước từ rừng cho nuôi trồng thủy sản đều
chưa được thực hiện. Tỉnh Hòa Bình đã thành lập một ban chỉ đạo Nghị định
99/2010/NĐ-CP; thành lập Quỹ bảo vệ và Phát triển rừng và một ban điều hành.
Chi tiết các hoạt động chi chả DVMTR được thể hiện như sau (UBND tỉnh Hoà
Bình, 2013; 2014; 2017b):
Các hợp đồng chi trả DVMTR đã ký với các cơ sở, bao gồm 5 cơ sở sản
xuất thủy điện, trong đó chủ yếu là các cơ sở sản xuất của thủy điện Hòa Bình và
thủy điện Bá Thước II, 3 cơ sở sản xuất nước sạch. Các đối tượng được chi trả
DVMTR bao gồm: tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư. Các hoạt
động liên quan đến hoạt động chi trả DVMTR trên địa bàn tỉnh Hòa Bình được
thể hiện qua bảng 4.10.
Chính sách chi trả DVMTR đã từng bước thúc đẩy, tạo lập cơ chế thị
trường có sự định hướng và thể hiện vai trò điều tiết của Nhà nước; thể hiện mối
quan hệ trong giao dịch kinh tế giữa một bên mua là bên sử dụng DVMTR (đối
tượng thụ hưởng DVMTR) và bên bán là bên cung ứng (chủ rừng). Việc triển
khai chính sách chi trả DVMTR tại địa bàn tỉnh Hòa Bình đã mang lại hiệu quả
thiết thực, tác động tích cực đối với đời sống của người dân. Nhận thức của các
chủ rừng được nâng lên, tăng cường công tác bảo vệ rừng, góp phần đẩy lùi tình
trạng đốt rừng làm nương rẫy, chặt phá rừng. Đời sống của đồng bào vùng sâu
vùng xa đang sinh sống trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, những nơi chưa có nguồn thu từ rừng phần nào được cải thiện. Thu nhập bình quân của chủ rừng là hộ gia đình, cộng đồng được nâng lên. Mặc dù vậy việc thực hiện chính sách chi trả DVMTR còn nhiều hạn chế do mức chi trả quá thấp, không phù hợp với biến động thị trường. Hiện nay, mức chi trả DVMTR theo số tuyệt đối, cố định đối với cơ sở sản xuất thủy điện 36 đồng/kwh, cơ sở sản xuất và cung cấp nước sạch 52 đồng/m3 quy định tại Nghị định 99/NĐ-CP về chính sách chi trả DVMTR ban hành ngày 24/9/2010 đến nay không còn phù hợp với tình hình lạm
91
phát và biến động tăng giá, không đảm bảo thu nhập và tạo ra động lực, khuyến
khích người dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng (Chính phủ, 2010).
Việc chi trả DVMTR theo từng lưu vực của từng cơ sở sử dụng DVMTR
đã tạo sự chênh lệch rất lớn. Hiện mức thu nhập từ cung ứng DVMTR của hộ gia
đình vào khoảng 600.000 đồng/hộ/năm với diện tích thuộc lưu vực Nhà máy
Thủy điện Hòa Bình; 21.000 đồng/hộ/năm với lưu vực Nhà máy Thủy điện Bá Thước II. Tuy nhiên, hiện tại trên địa bàn tỉnh Hòa Bình đang thực hiện chi trả
mức bình quân cho các chủ rừng là 151,782 đồng/ha/năm cho cả hai hình thức
chủ rừng là tổ chức nhà nước có thực hiện khoán bảo vệ rừng và chủ rừng là tổ
chức được nhà nước giao trực tiếp quản lý; chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân được
Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng; cộng đồng dân cư thôn được Nhà nước giao rừng để sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
Các cộng đồng thôn, bản trên địa bàn tỉnh Hòa Bình cũng là một trong
những đối tượng được chi trả DVMTR, những thôn, bản thuộc đối tượng chi trả
DVMTR cũng có sự khác biệt so với những thôn, bản chưa được chi trả
DVMTR. Làm thay đổi hoạt động quản lý, bảo vệ rừng trong thôn, nâng cao
nhận thức của người dân về vai trò của rừng, tạo ra được nguồn quỹ cho cộng đồng, hạn chế phần đóng góp của người dân vào quỹ cộng đồng, tạo nguồn thu
ổn định cho cộng đồng… Sự khác biệt trong các hoạt động quản lý, bảo vệ rừng
của các cộng đồng được chi trả DVMTR so với các cộng đồng chưa được chi trả
DVMTR tại các điểm điều tra được thể hiện qua bảng 4.11.
Tại các điểm nghiên cứu, có thôn Thung 2 và bản Nhạc được chi trả
DVMTR. Hai thôn là thôn Củ và thôn Đúc không được chi trả DVMRT nhưng lại có sự hỗ trợ của dự án KFW7, chỉ có xóm Suối Bến là không nhận được chính
sách nào chỉ có tiền hỗ trợ của Nhà nước. Đối với 2 cộng đồng được chi trả
DVMTR việc quản lý rừng cộng đồng là do các lãnh đạo thôn, bản chịu trách
nhiệm. Đã thành lập được cả đội tuần tra rừng với số lượng tổ và số người trong một tổ nhiều hơn so với các cộng đồng khác. Việc tổ chức tuần tra do các đội tuần tra tự quản, có huy động người dân tham gia với tinh thần tự nguyện và mỗi tháng thực hiện tuần tra thường xuyên 2 lần, nhiều hơn so với xóm Suối Bến. Kinh phí chi trả DVMTR đều góp vào quỹ thôn, phục vụ cho các hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triên rừng. Mặc dù tiền chi trả DVMTR còn thấp, thấp hơn cả mức Nhà nước hỗ trợ đối với những nơi không có chi trả DVMTR và đặc biệt là những nơi có các dự án. Tuy nhiên, nguồn kinh phí này là rất ổn định và đang có
92
xu thế tăng khi có thêm các dịch vụ môi trường khác và khi các cơ sở tăng mức
chi trả phù hợp với thị trường.
c. Hưởng lợi từ hoạt động hỗ trợ của dự án
Công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình đã được sự hỗ trợ của rất nhiều dự án nhằm mục đích bảo vệ, phát triển rừng, ổn định sinh kế của người dân sống dựa vào rừng. Hiện tại, trên địa bàn
tỉnh Hòa Bình dự án của KFW7 đang được triển khai thực hiện nhằm hỗ trợ xây
dựng mô hình quản lý rừng cộng đồng hiệu quả tại địa phương. Cộng đồng được
hưởng lợi từ dự án bao gồm:
- Được tham gia tập huấn về công tác quản lý, bảo vệ rừng cộng đồng, các
hoạt động tập huấn bao gồm:
+ Lập kế hoạch quản lý rừng cộng đồng: toàn bộ kế hoạch đều được xây
dựng có sự tham gia trực tiếp của người dân trong cộng đồng (gồm: kế hoạch
khai thác gỗ, kế hoạch khai thác tre, nứa và lâm sản ngoài gỗ; kế hoạch phát triển
rừng; kế hoạch bảo vệ rừng);
+ Điều tra rừng: Hướng dẫn người dân thực hiện điều tra tài nguyên rừng
của cộng đồng có sự tham gia;
+ Xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng của cộng đồng;
+ Thiết lập quỹ và quy chế quản lý quỹ bảo vệ phát triển rừng của cộng đồng.
- Được hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động quản lý rừng cộng đồng: Các
cộng đồng được hỗ trợ với kinh phí 1.200.000 đồng/6 năm/ha.
Tại các điểm điều tra, 2 thôn được nhận hỗ trợ từ dự án là thôn Củ và thôn
Đúc, cả hai thôn đều được nhận sự hỗ trợ từ năm 2013. Kết quả hưởng lợi của 2 thôn được thể hiện trong bảng 4.11. Số liệu điều tra cho thấy, do có sự hỗ trợ của
dự án nên các hoạt động quản lý, bảo vệ rừng cộng đồng của 2 thôn này có sự
khác biệt so với những cộng đồng không có sự hỗ trợ. Các cộng đồng đã thành lập được ban quản lý rừng cộng đồng của thôn, bản. Ban gồm có trưởng ban, kế toán và thủ quỹ, hoạt động theo nguyên tắc được xây dựng riêng và chịu trách nhiệm trước cộng đồng. Đã thành lập được Tổ bảo vệ rừng gồm 6 người. Tổ bảo vệ rừng chia làm 2 nhóm, hoạt động liên tục kết hợp với người dân trong cộng đồng trong công tác tuần tra, bảo vệ rừng của cộng đồng. Đây là điểm khác biệt so với những cộng đồng không có sự hỗ trợ của dự án. Tuy nhiên, quỹ hoạt động
93
của cộng đồng hiện tại hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của dự án, các nguồn
gây quỹ khác của cộng đồng không có, chủ yếu là từ số tiền phạt các hành vi vi phạm quy ước của cộng đồng. Do vậy, khi không còn sự hỗ trợ của dự án thì các
cộng đồng cần phải có nguồn gây quỹ khác ổn định hơn. Có thể từ các hoạt động
khai thác các sản phẩm từ rừng hoặc các hoạt động kết hợp dưới tán rừng để tạo nguồn quỹ ổn định cho cộng đồng, hạn chế tình trạng người dân trong cộng đồng
phải đóng thêm tiền quỹ cho hoạt động quản lý rừng cộng đồng. Các hoạt động
được triển khai trong quá trình quản lý đất rừng của các cộng đồng được thể hiện
chi tiết tại bảng 4.11 và phụ lục 5.
Bảng 4.11. Các hoạt động quản lý đất rừng cộng đồng
Chi trả DVMTR
Dự án KFW7
Nhà nước
STT
Tiêu chí
ĐVT
Thôn Củ Thôn Đúc
Thôn Thung 2
Bản Nhạc
Xóm Suối Bến
1
Lãnh đạo
Người
2
2
2
2
2
2
Lực lượng BVR
Tổ/đội
4
3
1
1
2
3
Người
7 – 8
8
6
6
5
Số lượng người trong tổ
4
151.782
151.782
200.000
200.000
200.000
Kinh phí thực hiện
Đồng/ha/ năm
5
Hoạt động BVR
Tháng/lần
2
2
3
6
Tổ chức quản lý
Tự quản
Tự quản
Tự quản
-
Ban quản lý
Hoạt động liên tục Ban quản lý
7
-
Sự tham gia của cộng đồng
Tình nguyện
Tình nguyện
Theo sự phân công
Theo sự phân công
Tình nguyện
4.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT
RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÒA BÌNH
4.3.1. Lĩnh vực kinh tế
4.3.1.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội của các cộng đồng được giao đất, giao rừng
Hòa Bình là một tỉnh miền núi phía Bắc với thành phần dân tộc đa dạng,
qua kết quả điều tra một số đặc điểm kinh tế - xã hội chính của các điểm nghiên
cứu, ta thấy hầu hết các thôn này đều là các thôn mà thành phân dân tộc chính là
94
các dân tộc thiểu số. Có những thôn dân tộc thiểu số chiếm 100%, chính vì vậy
công tác quản lý, sử dụng đất cũng gặp không ít những khó khăn.
Bảng 4.12. Một số đặc điểm kinh tế, xã hội của các điểm nghiên cứu
STT Điểm nghiên cứu
Số liệu điều tra cho thấy, các cộng đồng dân tộc đều có điều kiệu rất khó
khăn, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo rất cao. Bản Nhạc, xã Đồng Chum, huyện Đà
Bắc là bản vùng sâu, vùng xa của huyện Đà Bắc có 100% dân số là người Tày, tỷ
lệ hộ nghèo và cận nghèo theo Quyết định 09/2011/QĐ-TTg ngày 30 tháng 1
năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, cận nghèo
là 57,11%. Xóm Suối Bến của huyện Lương Sơn có tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo
thấp hơn (12,5%) là do đây là địa phương nằm ở khu vực đồi núi thấp của tỉnh
Hòa Bình, khoảng cách đến các trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị gần hơn, có
điều kiện phát triển hơn, vì vậy tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo thấp hơn so với
những cộng đồng khác.
1 2 3 4 5 Bản Nhạc Thôn Đúc Thôn Củ Thôn Thung 2 Xóm Suối Bến Dân tộc chính Tày Mường Mường Mường Dao Dân số (người) 268 246 472 482 450 Số hộ (hộ) 56 64 95 94 88 Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo (%) 57,11 24,8 50,5 46,5 12,5
4.3.1.2. Thu nhập từ rừng cộng đồng
Hầu hết các diện tích đất rừng do cộng đồng quản lý, sử dụng là rừng tự
nhiên cấm khai thác nên nguồn lợi từ rừng chủ yếu từ khai thác lâm sản ngoài gỗ.
Các cộng đồng đều xây dựng quy chế quản lý rừng cộng đồng. Trong đó, các sản
phẩm chủ yếu được khai thác là củi, mây, măng, tre, mật ong và cây dược liệu.
Ngoài ra, các hộ có nhu cầu gỗ làm nhà được thực hiện theo thủ tục xin khai thác
gỗ làm nhà nhưng không được mua bán thương mại. Bên cạnh đó, cộng đồng còn
được nhận tiền chi trả DVMTR theo Nghị định số 99/2010/NĐ-TTg ngày
24/9/2010 và Thông tư số 62/2012/TTLT-BNNPTNT-BTC ngày 16/11/2012
nhưng chỉ những cộng đồng nằm trong lưu vực nhà máy thủy điện Hòa Bình mới
được chi trả. Tại mỗi cộng đồng số tiền sau khi chi trả đều có quy chế quản lý
riêng, tuy nhiên hầu hết các cộng đồng đều không thực hiện chia cho các hộ mà
sử dụng để làm quỹ chung cho cộng đồng.
95
Bảng 4.13. Tỷ lệ thu nhập từ đất rừng cộng đồng đối với kinh tế hộ tại các
điểm nghiên cứu
STT Dân tộc Điểm nghiên cứu Thu nhập trung bình của hộ (triệu đồng/năm)
1 Bản Nhạc Tày 10,91 Thu nhập trung bình từ đất rừng cộng đồng của hộ (triệu đồng/năm) 1,01 Tỷ lệ thu nhập từ đất rừng cộng đồng (%) 9,26
2 Thôn Đúc Mường 12,58 1,44 11,45
3 Thôn Củ Mường 10,97 1,82 16,59
4 Thôn Thung 2 Mường 11,20 1,61 14,38
Kết quả điều tra hộ cho thấy tỷ lệ thu nhập từ đất rừng đối với kinh tế hộ không lớn dao động từ 9,26% đến 16,59% tổng thu nhập trung bình của một hộ.
Các sản phẩm khai thác được từ rừng để tạo nguồn thu nhập cho hộ chủ yếu là
lâm sản ngoài gỗ như củi, măng, mây, mật ong, cây dược liệu… Tuy nhiên mỗi
cộng đồng khác nhau có những phong tục, tập quán khác nhau và quy chế quản
lý khác nhau nên các sản phẩm thu được cũng có giá trị khác nhau.
Đối với cộng đồng người Dao do dân số ít lại có truyền thống về khai thác
cây dược liệu và sử dụng các cây dược liệu phục vụ cho đời sống nên họ rất gắn
bó với rừng, đặc biệt là rừng của cộng đồng. Việc khai thác các sản phẩm trong
rừng cộng đồng được quy định cụ thể trong quy chế, tất cả người dân trong cộng
đồng cũng như ngoài cộng đồng đều có thể vào rừng khai thác.
Nhưng đối với đồng bào dân tộc Tày, do sinh sống ở vùng núi cao, cộng
đồng dân tộc Tày coi rừng của cộng đồng là của cải chung của thôn (bản), rừng
đối với đồng bào rất quý, là nơi thiêng liêng, người dân có ý thức, cùng nhau gìn
giữ, bảo vệ, chỉ khai thác các sản phẩm phục vụ đời sống hàng ngày, rất ít khi mang bán ngoài thị trường. Quy chế của cộng đồng người Tày cũng quy định rất rõ về thời gian được vào rừng khai thác như đối với việc khai thác măng thì chỉ được khai thác vào tháng 5 tháng 6 và tháng 7, còn các tháng khác thì cấm khai thác, các sản phẩm khác thì được khai thác với số lượng giới hạn nhưng cũng vẫn
được mở rộng cho cả người dân các thôn khác vào khai thác.
Còn đối với cộng đồng dân tộc Mường, đây là cộng đồng có dân số đông nhất trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, cuộc sống của họ gắn bó với rừng, các lâm sản
5 Xóm Suối Bến Dao 14,06 1,91 13,58
96
khai thác trên rừng là nguồn thu nhập của rất nhiều hộ dân sống trong các thôn
(bản), việc vào rừng lấy lâm sản, đặc biệt là cây dược liệu là truyền thống của
đồng bào dân tộc Mường, vì vậy mà tỷ lệ thu nhập từ rừng cộng đồng của họ cao
hơn các nhóm dân tộc khác. Đối với việc khai thác các sản phẩm từ rừng cộng
đồng của người Mường cũng được quy định rất chặt chẽ trong quy chế cộng đồng. Theo đó, việc khai thác được mở rộng cho cả người dân ngoài thôn tuy
nhiên có giới hạn về khối lượng khai thác đối với từng sản phẩm. Mặc dù nguồn
thu từ diện tích đất rừng chung của cộng đồng không phải là nguồn thu nhập chính của hầu hết các hộ, nhưng đây là nguồn thu khá quan trọng vì đại đa số các
cộng đồng còn rất khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn cao.
Số liệu điều tra cho thấy mỗi dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh có tỷ lệ
đóng góp thu nhập từ rừng cộng đồng vào kinh tế hộ khác nhau.
13,58%
14,14%
16.00
14.00
12.00
9,26%
10.00
8.00
6.00
4.00
2.00
0.00
%
Tày Dao Mường
Biểu đồ 4.5. Tỷ lệ thu nhập trung bình của các nhóm dân tộc
Mặc dù nguồn thu từ diện tích đất rừng chung của cộng đồng không lớn, nhưng tỷ trọng này có khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế của mỗi hộ. Trung bình đối với các hộ từ khá trở lên thì nguồn thu nhập này là không đáng kể (chiếm
khoảng 4,00% tổng thu nhập của hộ), nhưng đối với các hộ nghèo và cận nghèo thì tỷ lệ này cao hơn nhiều, chiếm khoảng 17,71% đến 21,80% tổng thu nhập của hộ. Điều này cho thấy, thu nhập từ rừng cộng đồng có đóng góp nhất định vào việc xói
đói giảm nghèo, tạo thu nhập cho người nghèo và cận nghèo.
97
Căn cứ số liệu điều tra và phân loại kinh tế của các hộ theo tiêu chí của Quyết định 09/2011/QĐ-TTg ngày 30 tháng 1 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, cận nghèo, tỷ lệ thu nhập từ đất rừng cộng đồng so với thu nhập hộ được thể hiện chi tiết qua bảng 4.14.
Bảng 4.14. Tỷ lệ thu nhập từ đất rừng cộng đồng so với thu nhập hộ
Số hộ phỏng vấn Nhóm kinh tế hộ Tỷ lệ thu nhập từ đất rừng so với tổng thu nhập hộ (%) (hộ)
Khá và giàu 4,00 39
Trung bình 12,04 98
Cận nghèo 17,71 43
Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ thu nhập từ đất rừng cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình rất thấp, nguyên nhân do việc khai thác lâm sản ngoài gỗ chủ yếu
là củi và một số loài lâm sản như mây, măng và cây thuốc trên thực tế được mở
cho tất cả các hộ trong thôn và cho cả người ngoài vào lấy củi và lâm sản ngoài
gỗ khác. Tất cả các hộ dân hầu như không phải xin phép thôn mà tự do vào rừng
và hầu như cũng không phải đóng bất cứ một loại lệ phí nào.
Kết quả điều tra trên địa bàn cho thấy do tỷ lệ thu nhập từ đất rừng của
cộng đồng quản lý, sử dụng chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng thu nhập của hộ,
nhưng có sự khác biệt giữa kinh tế hộ nên vai trò của thu nhập từ rừng cộng đồng
đối với kinh tế hộ của các đối tượng khác nhau cũng có sự khác nhau.
Nghèo 21.80 39
Bảng 4.15. Kết quả so sánh tỷ lệ thu nhập từ đất rừng giữa các nhóm kinh tế hộ
Nhóm so sánh Giá trị của U
Khá và giàu – Trung bình Khá và giàu – Cận nghèo -1,77 -1,97
Kết quả so sánh bằng tiêu chuẩn U cho thấy tỷ lệ thu nhập từ diện tích đất rừng được quản lý, sử dụng dựa vào cộng đồng giữa các nhóm kinh tế hộ là khác nhau về mặt thống kê. Sự khác biệt về tỷ lệ thu nhập từ rừng giữa nhóm hộ khá
và giàu so với nhóm hộ nghèo và cận nghèo là rõ rệt, bởi vì giá trị tuyệt đối của
U lớn hơn 1,96 điều này cho thấy các hộ nghèo và cận nghèo có cuộc sống phụ thuộc vào rừng rất nhiều. Ngược lại, đối với nhóm khác có trị tuyệt đối của U
Khá và giàu – Nghèo -2,05 Kết luận + Ho + Ho - Ho
98
nhỏ hơn 1,96. Điều này chứng tỏ thu nhập từ rừng không phải là nguồn thu chính
của các nhóm hộ này.
4.3.1.3. Nhận thức của người dân trong cộng đồng về vai trò của thu nhập từ
rừng cộng đồng
Số liệu điều tra cho thấy do tỷ lệ thu nhập từ đất rừng của các cộng đồng còn rất thấp chủ yếu chỉ có ý nghĩa đối với những hộ nghèo và cận nghèo. Đa phần người dân đều cho rằng thu nhập từ diện tích này không có vai trò quan trọng đóng góp vào kinh tế hộ mặc dù thu nhập của hộ trên các điểm nghiên cứu vẫn chưa cao.
Bảng 4.16. Nhận thức của người dân về vai trò của thu nhập
từ đất rừng cộng đồng
Nghèo
Tỷ lệ (%) Tổng số hộ (hộ) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Loại hộ Mức độ
Khá và giàu Trung bình Số hộ (hộ) 1 5 5 22 Số hộ (hộ) 5 23 45 20 2,56 12,82 12,82 56,41 5,10 23,47 45,92 20,41 Cận nghèo Số hộ (hộ) 8 16 10 9 18,60 37,21 23,26 20,93 Số hộ (hộ) 13 16 10 0 33,33 41,03 25,64 0,00 27 60 70 51 12,33 27,40 31,96 23,29
6 15,38 5 5,10 0 0,00 0 0,00 11 5,02
Trong số 219 hộ được phỏng vấn chỉ có 27 hộ (chiếm 12,33%) cho rằng
thu nhập từ rừng của cộng đồng đóng vai trò rất quan trong đối với kinh tế hộ, 60
hộ (chiếm 27,4%) có câu trả lời là quan trọng, có 51 hộ (chiếm 23,29%) trả lời ít
quan trọng và chỉ có 11 hộ (chiếm 5,02%) cho rằng không quan trọng. Nguyên
nhân chủ yếu khiến đa phần người dân trong cộng đồng cho rằng vai trò của thu
nhập từ đất rừng cộng đồng ít quan trọng là do tỷ lệ thu nhập từ đất rừng thấp,
chiếm một phần rất nhỏ trong tổng thu nhập hộ. Các nguồn thu từ đất rừng đối
với các cộng đồng hiện nay chủ yếu mới chỉ là lâm sản ngoài gỗ, người dân
không được khai thác cũng không kết hợp sản xuất khác. Tuy nhiên, đối với
những hộ nghèo và cận nghèo lại có đánh giá thu nhập từ rừng cộng đồng khác
hẳn so với những hộ khá và giàu. Có từ 30% đến 40% người nghèo và cận nghèo
cho rằng quan trọng và rất quan trọng nhưng, chỉ có từ 2% đến 10% người khá và
giàu cho rằng rất quan trọng. Kết quả kiểm tra tính độc lập về nhận thức của
người dân về vai trò của thu nhập đối với kinh tế hộ được thể hiện qua bảng 4.17.
Rất quan trọng Quan trọng Trung bình Ít quan trọng Không quan trọng Tổng cộng 39 100,00 98 100,00 43 100,00 39 100,00 219 100,00
99
Bảng 4.17. Kết quả kiểm tra mối quan hệ về vai trò của thu nhập từ đất
rừng cộng đồng đối với kinh tế hộ
Chi-Square Tests
Value df
Asymp. Sig. (2-sided)
Pearson Chi-Square Likelihood Ratio 44,640a 44,080 6 6 0,000 0,000
1 0,000
a. 3 cells (25,0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 2,73.
Kết quả trên cho thấy giá trị Sig. hai chiều của tiêu chuẩn
nhỏ hơn
0,05. Vì vậy, có thể thấy các nhóm kinh tế hộ khác nhau có ảnh hưởng rõ rệt đến
đến nhận biết tầm quan trọng của thu nhập từ quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng đến thu nhập hộ. Đối với những hộ nghèo và cận nghèo thì thu nhập
từ đất rừng là rất quan trọng nhưng ngược lại đối với những hộ khác thì thu nhập
từ loại đất này là ít quan trọng.
Linear-by-Linear Association N of Valid Cases 40,533 219
4.3.2. Lĩnh vực xã hội
4.3.2.1. Sự tham gia của người dân trong cộng đồng vào công tác quản lý, sử
dụng đất rừng
Trước đây, do chưa được giao đất nên người dân chủ yếu chỉ vào rừng để
khai thác, không bảo vệ và chăm sóc rừng. Từ khi được giao quyền sử dụng đất các
cộng đồng đã tự xây dựng các quy chế tổ chức bảo vệ, chăm sóc rừng. Vì vậy, số lao
động bình quân (LĐBQ) cho việc bảo vệ và chăm sóc đã tăng, tuy nhiên tỷ lệ tăng
không đáng kể, nhất là việc chăm sóc rừng gần như vẫn không thay đổi, do người
dân vẫn quan niệm đây là đất chung của cộng đồng, không phải của cá nhân nên
không cần chăm sóc. Các hoạt động chăm sóc rừng chủ yếu là phát thực bì, dây leo.
Vì vậy, theo số liệu điều tra số công chăm sóc chỉ chiếm khoảng 10% tổng số công
chăm sóc, bảo vệ rừng. Việc bảo vệ ở hầu hết các cộng đồng chủ yếu được tổ chức
dưới hình thức tổ, đội cắt cử người trong cộng đồng thay nhau đi tuần tra, một tuần
đi kiểm tra khoảng 1 đến 2 lần. Việc tuần tra, chăm sóc, bảo vệ rừng được thực hiện
theo quy ước của cộng đồng, là trách nhiệm của tất cả các thành viên trong cộng
đồng và không được trả công vì nguồn quỹ rất hạn chế.
100
30
25
20
15
10
88,5%
5
0
11,5% 0% 0%
Chăm sóc Bảo vệ
Công LĐ BQ sau khi giao cho CĐ Công LĐ BQ trước khi giao cho CĐ
Biểu đồ 4.6. Công lao động sử dụng cho việc quản lý, sử dụng đất rừng
cộng đồng
Do các diện tích đất rừng mà cộng đồng được giao đều xa khu dân cư,
đường sá đi lại khó khăn nên công tác bảo vệ cũng rất khó khăn. Việc sử dụng
lao động trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng tập trung vào việc
bảo vệ và chăm sóc rừng, do cộng đồng không tổ chức khai thác rừng nên không
có công lao động sử dụng trong khai thác. Trước đây, do đất rừng chưa được giao
cho cộng đồng nên không có hoạt động bảo vệ rừng, sau này khi đất rừng đã
được giao cho các cộng đồng thì công tác này được chú trọng hơn. Việc sử dụng
công lao động trong bảo vệ rừng tăng lên và chiếm phần lớn số công lao động
(chiếm 88,5% tổng số công lao động).
Việc chăm sóc rừng của các cộng đồng trước khi được giao đất, giao rừng
thì không được quan tâm, tuy nhiên từ khi cộng đồng được giao đất, giao rừng thì
người dân trong các cộng đồng cũng ý thức hơn, hàng tháng vẫn cử các thành
viên của cộng đồng vào rừng để chăm sóc rừng chủ yếu vẫn chỉ là phát dây leo,
bụi rậm..., chiếm khoảng 11,5% tổng số công. Việc phân công lao động trong quá
trính quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng được thực hiện theo quy ước của
các cộng đồng, tất cả người dân có trách nhiệm như nhau trong công tác quản lý,
bảo vệ, không phân biệt giữa người giàu và người nghèo.
101
4.3.2.2. Thay đổi nhận thức của người dân trong công tác chăm sóc, quản lý
và bảo vệ tài nguyên rừng
Bắt đầu từ năm 1994, khi tỉnh Hòa Bình thực hiện giao đất, giao rừng cho
các cộng đồng thì các vi phạm như số vụ cháy rừng, khai thác trộm hay lấn
chiếm đất rừng đã giảm đi đáng kể. Hiện tượng vi phạm pháp luật tại các điểm
nghiên cứu được thể hiện qua biểu đồ 4.7:
Vụ
50
45
40
35
30
25
20
15
10
5
0
Số vụ cháy Số vụ khai thác trộm Số trường hợp lấn chiếm
Năm 1994 26 43 46
Năm 2007 18 30 30
Năm 2015 2 8 23
Biểu đồ 4.7. Thống kê số vụ vi phạm trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng
Cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn, phụ thuộc chủ yếu
vào sản xuất nông nghiệp nhưng lại thiếu đất sản xuất nên tình trạng đốt rừng
làm nương rẫy, người dân lấn chiếm diện tích đất rừng của cộng đồng diễn ra rất
nghiêm trọng và rất khó khăn trong công tác giải quyết. Sau khi thực hiện giao
đất cho cộng đồng (năm 1994), tiếp đó là thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho các cộng đồng cùng với việc rà soát lại diện tích đất đai và thực
hiện chính sách định canh, định cư thì đã giải quyết được một phần tình trạng lấn
chiếm đất, khai thác trộm và cháy rừng. Mặc dù vậy, do việc cấp GCNQSD đất
chỉ thực hiện được ở một số cộng đồng vào năm 2006 và năm 2013 nên những
tranh chấp, lấn chiếm đất rừng của cộng đồng vẫn còn rất phức tạp, số vụ người
102
dân địa phương lấn chiếm đất rừng cộng đồng tuy có giảm nhưng vẫn còn xảy ra
và khó khăn trong việc giải quyết. Các vi pham còn lại chủ yếu là do người dân
trong thôn lấn chiếm đất rừng của cộng đồng.
4.3.2.3. Thay đổi nhận thức của người dân về vai trò của rừng
Cộng đồng tham gia quản lý, sử dụng đất rừng đã được hình thành từ lâu đời.
Đến nay với chính sách giao đất, giao rừng và thực hiện nhiều chính sách khác nhận
thức của người dân về vai trò của việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
đã được thay đổi đáng kể. Số liệu điều tra cho thấy, đa phần người dân cho rằng việc
quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng có vai trò rất lớn đối với việc duy trì
và nâng cao chất lượng nguồn nước (trên 70% cho rằng rất quan trọng); trên 60% số
người được hỏi cho rằng rất quan trọng đối với việc cung cấp lâm sản ngoài gỗ, chủ
yếu là củi, dược liệu, măng, mây, mật ong… nhưng đa phần người dân lại cho rằng
ít quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ.
Bảng 4.18. Vai trò của việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
ĐVT: hộ
Đối với nguồn nước
Đối với kinh tế hộ
Đối với việc cung cấp lâm sản ngoài gỗ
TT
Điểm nghiên cứu
Quan trọng
Quan trọng
Quan trọng
Rất quan trọng
ít quan trọng
Rất quan trọng
ít quan trọng
Rất quan trọng
ít quan trọng
1 Bản Nhạc
28
8
0
3
11
22
20
13
3
2 Thôn Đúc
28
11
0
4
11
24
26
8
5
3 Thôn Củ
36
13
0
10
11
28
31
12
6
4 Thôn Thung 2
34
14
0
8
15
25
29
13
6
5 Xóm Suối Bến
29
18
0
4
13
30
26
16
5
Tổng
155
64
0
29
61
129
132
62
25
Tỷ lệ (%)
70,8
0
29,2
13,2
27,9
58,9
60,3
28,3
11,4
Kết quả nghiên cho thấy việc quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng có vai trò hết sức quan trọng đối với nguồn nước, giúp người dân duy trì nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt. Bên cạnh đó, cũng góp phần đảm bảo sinh kế cho người dân trong cộng đồng, cung cấp lương thực, thực phẩm và các lâm sản ngoài gỗ phục vụ cho sinh hoạt của cộng đồng. Tuy nhiên, nguồn thu từ rừng cộng đồng là không lớn nên đóng góp không nhiều vào kinh tế hộ. Mặc dù vậy,
các khoản nguồn lợi từ rừng cộng vẫn đóng vai trò quan trọng đối với những
người nghèo, sống phụ thuộc vào rừng.
103
4.3.3. Lĩnh vực môi trường
4.3.3.1. Thay đổi chất lượng rừng
Việc giao đất, giao rừng cho các cộng đồng quản lý, sử dụng cùng với các
quy định do cộng đồng đưa ra đã làm cho chất lượng rừng thay đổi rõ rệt. Các
khu rừng từ khi giao cho cộng đồng quản lý, bảo vệ hệ thực vật tái sinh và phát
triển rất tốt, xuất hiện nhiều tầng tán và thảm tươi, tầng thảm mùn dưới đất rừng.
Đây là một yếu tố quan trọng trong việc làm giảm sức công phá của nước mưa
xuống bề mặt đất đồng thời làm giảm tốc độ dòng chảy, hạn chế xói mòn đất, và
tăng khả năng giữ nước của rừng. Biểu hiện cụ thể bằng mắt thường có thể nhìn
thấy được và kết quả phỏng vấn người dân được thể hiện qua bảng 4.19.
Bảng 4.19. Đánh giá của cộng đồng về chất lượng rừng
Tốt hơn Kém đi
ST Điểm nghiên cứu Tỷ lệ (%)
Bản Nhạc 1 Thôn Đúc 2 Thôn Củ 3 4 Thôn Thung 2 5 Xóm Suối Bến Tổng Số hộ (hộ) 32 36 42 40 39 189 Không thay đổi Tỷ lệ Số hộ (%) (hộ) 11,1 4 3 7,7 14,3 7 16,7 8 17,0 8 13,7 30 88,9 92,3 85,7 83,3 83,0 86,3 Số hộ (hộ) 0 0 0 0 0 0 Tỷ lệ (%) 0 0 0 0 0 0
Kết quả điều tra cho thấy đa phần người dân trong các bản (86,3%) số người được hỏi đều cho rằng chất lượng rừng tốt hơn so với trước đây, không có ai đánh giá chất lượng rừng kém đi. Điều này cho thấy việc giao đất, giao rừng cho cộng đồng quản lý, sử dụng đã góp phần nâng cao chất lượng rừng. Đối với thôn Đúc chất lượng rừng được cải thiện rất rõ rệt. Số lượng cây lớn không thay đổi so với trước khi giao đất, giao rừng; hệ thống thảm thực vật phong phú do cộng đồng rất có ý thức, thực hiện rất tốt quy chế quản lý rừng cộng đồng. Nhiều năm không có vụ vi phạm lớn trong việc quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng. Đối với các cộng đồng khác cũng tương tự do từ khi được giao đất, giao rừng các cộng đồng đã xây dựng được các quy chế quản lý rừng cộng đồng và người dân trong các cộng đồng đa phần đều thực hiện theo các quy chế đã được quy định.
4.3.3.2. Giảm xói mòn đất
Xói mòn đất là quá trình các tác nhân như khí hậu (mưa gió), đôi khi cả con người (các hoạt động chặt phá rừng để lấy đất canh tác, phát triển cơ sở hạ
104
tầng như xây nhà, làm đường...) tác động lên mặt đất làm cho lớp mặt của đất, keo mùn, những tầng đá tơi xốp, các vụn đất và đá sét bị mất đi hoặc trôi theo hướng sườn dốc (Dương Viết Tình & Trần Hữu Nghị, 2012). Bằng phương pháp đánh giá định tính (sự xuất hiện các khe rãnh, khe xói mòn, tỷ lệ lớp đất mặt bị rửa trôi và sự hình thành lớp phủ thực vật) thông qua việc phỏng vấn người dân, nhằm đánh giá gián tiếp của sự xói mòn đất (Bảng 4.20).
Bảng 4.20. Ý kiến của cộng đồng về mức độ xói mòn đất
STT Điểm nghiên cứu Giảm đi (hộ) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)
Kết quả điều tra cho thấy do diện tích giao cho các cộng đồng đều là đất
rừng tự nhiên nghèo kiệt và thực bì tại các vùng đất trống chủ yếu là các loài cây
bụi, cỏ, vì vậy tình hình xói mòn xảy ra khá mạnh, có những nơi lớp đất mặt bị
suy thoái nghiêm trọng, trơ sỏi đá. Qua quan sát bằng mắt thường của người dân
có thể thấy đất ở nhiều nơi đã bị xói mòn và rửa trôi mạnh, đặc biệt nhiều khu vực đất trơ sỏi đá hệ thực vật rất nghèo kiệt. Nhưng đến nay tình trạng đó không
còn nữa, thay vào những mảng đất trống là màu xanh của cây rừng tái sinh, của
thảm cỏ, cây bụi… lớp thảm mục dưới rừng đã làm tăng lượng mùn (đất tầng mặt
có màu đen hơn).
Số liệu điều tra cho thấy có 79,0% số người được hỏi cho rằng rừng cộng
đồng góp phần làm hạn chế xói mòn đất. Biểu hiện là không có hoặc còn rất ít
ruộng đất bị tạo các khe xói, lớp đất mặt không bị rửa trôi. Chỉ có 4,6% người
được hỏi cho rằng mức độ xói mòn tăng lên do những hộ này cho rằng đất đã bị cuốn trôi trên diện tích hoa màu và đất bị rửa trôi mạnh trong một trận mưa lớn.
1 2 3 4 5 Bản Nhạc Thôn Đúc Thôn Củ Thôn Thung 2 Xóm Suối Bến Tổng 29 30 39 40 35 173 80,6 76,9 79,6 83,3 74,5 79,0 Không thay đổi (hộ) 6 7 8 6 9 36 16,7 17,9 16,3 12,5 19,1 16,4 Tăng lên (hộ) 1 2 2 2 3 10 2,8 5,1 4,1 4,2 6,4 4,6
4.3.3.3. Thay đổi chất lượng nguồn nước
Nguồn nước để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của các cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Hòa Bình phụ thuộc rất lớn vào tự nhiên, chủ yếu là từ các sông, suối. Tuy nhiên, nguồn nước này hiện nay đang có xu hướng bị suy giảm về chất lượng do việc sử dụng hóa chất của người dân trong
canh tác nông nghiệp. Việc sử dụng hóa chất (đặc biệt là thuốc trừ cỏ) trong canh
105
tác những diện tích đất nông nghiệp ở đầu nguồn gây lên tình trạng ô nhiễm. Kết
quả điều tra cho thấy trên 42% người dân cho rằng nguồn nước kém hơn so với
trước đây, chỉ có một phần nhỏ khoảng 15% số người được hỏi cho rằng tốt hơn.
Điều này cho thấy cần phải có sự quan tâm hơn nữa đến những diện tích rừng
đầu nguồn, bảo vệ nguồn nước để đảm bảo nguồn nước phục vụ cho sản xuất và
sinh hoạt của các cộng đồng.
Bảng 4.21. Ý kiến của cộng đồng về chất lượng nguồn nước
Nước cho sản xuất Nước cho sinh hoạt Tiêu chí Số hộ (hộ) Tỷ lệ (%) Số hộ (hộ) Tỷ lệ (%)
Tốt hơn Không thay đổi 35 91 16,0 41,6 33 87 15,1 39,7
Kém hơn 93 42,5 99 45,2
Tổng 219 100,0 219 100,0
4.4. ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÒA BÌNH
4.4.1. Xác định những yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hoà Bình
Nghiên cứu lý thuyết và kết quả điều tra, phỏng vấn trực tiếp 41 cán bộ của địa phương có liên quan đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng cho thấy: có trên 90% số cán bộ được hỏi cho rằng các yếu tố liên quan đến những quy định của pháp luật có ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Trong đó có các yếu tố liên quan đến các quy định pháp luật về quản lý, sử dụng đất rừng; các quy định về giao đất, giao rừng cho cộng đồng dân cư; các quy định về hưởng lợi, hỗ trợ tài chính; quyền về nghĩa vụ của cộng đồng dân cư; và quy ước, quy chế quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng.
Yếu tố được các cán bộ quan tâm (trên 80%) về các điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng liên quan đến diện tích đất rừng được giao cho cộng đồng. Đây là những yếu tố có ảnh hưởng lớn như quy mô diện tích đất rừng; khoảng cách từ nơi cư trú của cộng đồng đến đất rừng được giao; cơ sở hạ tầng; và đặc biệt là chất lượng tài nguyên rừng cũng như mức độ sẵn có của tài nguyên rừng. Những yếu tố liên quan đến yếu tố kinh tế cũng được quan tâm (trên 80%) như: điều kiện kinh tế hộ, thị trường các sản phẩm thu được từ rừng cộng đồng, việc vay vốn và sử dụng vốn vay của các cộng đồng...
106
Bảng 4.22. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng
dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
Kí hiệu Yếu tố ảnh hưởng
PL01 PL02 PL03 PL04 PL05 PL06 PL07 PL08 PL09
TN01 TN02 TN03 TN04 TN05 TN06 TN07
KT01 KT02 KT03 KT04 KT05 KT06 KT07 KT08
Một trong số những yếu tố được quan tâm đặc biệt liên quan trực tiếp đế các cộng đồng (trên 90%) là kiến thức bản địa của các cộng đồng; phong tục, tập quan, tín ngưỡng; vai trò của lãnh đạo địa phương cũng như các tổ chức khác trong cộng đồng, đây là những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Một số yếu tố ít được quan tâm như trình độ dân trí (24,38%), vai trò của giới (21,95%) hay độ tuổi của các lao động (36,59%); điều này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước, do đây là hình thức quản lý, sử dụng
XH01 XH02 XH03 XH04 STT Nhóm 1 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Nhóm 2 10 11 12 13 14 15 16 Nhóm 3 17 18 19 20 21 22 23 24 Nhóm 4 24 26 27 28 29 XH05 Những QĐPL Ban hành các văn bản pháp luật Tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật QĐPL về công tác giao đất, giao rừng cho cộng đồng QĐPL về loại đất rừng giao cho cộng đồng QĐPL về vấn đề hưởng lợi QĐPL về chính sách hỗ trợ QĐPL về các quyền, nghĩa vụ của cộng đồng QĐPL về các hành vi vi phạm pháp luật Quy ước, hương ước của thôn (bản) Yếu tố tự nhiên và cơ sở hạ tầng Quy mô diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng Khoảng cách từ nơi cư trú của cộng đồng đến đất rừng Địa hình của đất rừng được giao Cơ sở hạ tầng xã hội (hệ thống dịch vụ, thị trường) Cơ sở hạ tầng kỹ thuật (giao thông, thủy lợi) Chất lượng tài nguyên rừng Khả năng sẵn có của tài nguyên rừng Yếu tố kinh tế Điều kiện kinh tế hộ gia đình Các sản phẩm gỗ, củi ít được bán trên thị trường Các lâm sản ngoài gỗ được bán trên thị trường Mức độ phụ thuộc vào rừng của người dân Thị trường tiêu thụ các sản phẩm thu được từ rừng Việc vay vốn từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng Việc sử dụng quỹ quản lý rừng cộng đồng Các nguồn gây quỹ quản lý rừng cộng đồng Yếu tố xã hội Kiến thức bản địa của người dân trong cộng đồng Phong tục, tập quán, tín ngưỡng Vai trò của lãnh đạo địa phương Vai trò của các cán bộ kiểm lâm, cán bộ nông nghiệp Vai trò của các tổ chức khác (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên)
107
đất rừng dựa vào cộng đồng nên các yếu tố này ảnh hưởng không nhiều như các
hình thức quản lý, sử dụng của các đối tượng khác (Phụ lục 3).
4.4.2. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
4.4.2.1. Ý kiến của người dân về các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
a. Nhóm yếu tố những quy định của pháp luật
Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai đòi hỏi phải có các văn bản pháp luật liên quan đến công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Nhà nước cũng như địa phương đã ban hành và triển khai thực hiện nhiều quy định có liên quan đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng tại địa phương. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có những quy định về cụ thể công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương mà chỉ là sự vận dụng những quy định chung của các đối tượng sử dụng đất khác. Bên cạnh đó, địa phương cũng đã xây dựng những quy định riêng thể hiện trong các quy ước, hương ước của làng, bản. Tuy nhiên, những quy định này lại chưa ổn định, thay đổi theo thời gian và chưa chặt chẽ điều đó gây khó khăn rất lớn cho công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương. Kết quả điều tra cho thấy có một số quy định của pháp luật ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng như: quy định về giao đất, giao rừng; quy định về việc hỗ trợ, đầu tư phát triển rừng; hưởng lợi từ rừng; những quy định về việc xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai; đặc biệt những quy ước, hương ước được thực hiện trong các cộng đồng. Kết quả điều tra cho thấy tình hình thực hiện những quy định của pháp luật đối với công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng đã được triển khai tại địa phương tuy nhiên có những nội dung được thực hiện khá tốt nhưng cũng có những nội dung chưa được thực hiện tốt. Đánh giá của người dân về các quy định của pháp luật trong quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng được thể hiện qua bảng 4.23.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nhìn chung các vấn đề liên quan đến các quy định của pháp luật trong công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng đều ở mức kém và trung bình. Điều này cho thấy, những quy định có liên quan đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng đang rất cần được quan tâm.
Về việc ban hành các văn bản quy định về công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng được người dân đánh giá không cao 46,58% mức kém và 30,59% mức trung bình. Đa phần người dân cho rằng công tác này chưa thực sự được quan tâm và hiện nay các văn bản có liên quan đến công tác này có rất ít, phần lớn đề vận dụng các chính sách khác chứ không có quy định riêng.
108
Bảng 4.23. Ý kiến đánh giá về các quy định của pháp luật trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại các điểm nghiên cứu
Tổng
Tỷ lệ
Tổng
Tỷ lệ
STT
Tiêu chí đánh giá
STT Tiêu chí đánh giá
(%)
(hộ)
(hộ)
(%)
1
100,00
6
Quy định về hỗ trợ
219
219
100,00
Ban hành văn bản pháp luật
Rất tốt
Rất tốt
0
0,00
5
2,28
Tốt
Tốt
14
6,39
31
14,16
Trung bình
Trung bình
67
30,59
101
46,12
Kém
Kém
102
46,58
56
25,57
Rất kém
36
16,44
Rất kém
26
11,87
2
7
219
100,00
219
100,00
Tổ chức thực hiện các văn bản
Quy định quyền, nghĩa vụ
Rất tốt
Rất tốt
0
0,00
0
0,00
Tốt
Tốt
23
10,50
27
12,33
Trung bình
Trung bình
98
44,75
99
45,21
Kém
Kém
86
39,27
78
35,62
12
15
3
5,48 100,00
219
8
6,84 100,00
219
Rất kém Quy định về giao đất, giao rừng
Rất kém Quy định về xử lý vi phạm
Rất tốt
Rất tốt
0
0,00
0
0,00
Tốt Trung bình
Tốt Trung bình
12 96
5,48 43,84
22 102
10,04 46,58
Kém
Kém
88
40,18
82
37,44
Rất kém Quy định về loại đất rừng
4
Rất kém Quy ước, hương ước
9
23 219
10,50 100,00
13 219
5,94 100,00
Rất tốt
Rất tốt
0
0,00
13
5,94
Tốt
Tốt
10
4,57
68
31,05
Trung bình Kém
Trung bình Kém
42 102
19,18 46,58
86 52
39,27 23,74
Rất kém
Rất kém
65
29,68
0
0,00
5
Quy định hưởng lợi Rất tốt Tốt
219 6 53
100,00 2,74 24,20
Trung bình
93
42,47
Kém
52
23,74
Rất kém
15
6,85
109
Về việc tổ chức thực hiện các văn bản được người dân đánh giá khá tốt. Mặc
dù các văn bản liên quan đến công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng chưa
được quan tâm đúng mức nhưng tỉnh Hòa Bình đã vận dụng những quy định và triển
khai thực hiện khá tốt. Trên 40% người dân được hỏi đánh giá mức trung bình. Tuy
nhiên, do chưa có các văn bản cụ thể nên việc triển khai thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống văn bản có liên quan. Điền này cũng dẫn đến
những quy định về công tác giao đất, giao rừng cho cộng đồng tại địa phương gặp
nhiều khó khăn, công tác này đã được thực hiện tại địa phương, vận dụng Nghị định
02/1994/NĐ-CP, Nghị định 163/1999/NĐ-CP và Quyết định số 672/QĐ-TTg.
Tuy nhiên, việc giao đất, giao rừng tại địa phương cũng được người dân đánh giá chưa cao, có đến 40,18% người dân được hỏi đánh giá công tác giao đất, giao rừng ở địa phương thực hiện kém, 10,5% đánh giá là rất kém. Chủ yếu người dân cho rằng, vì chưa có văn bản quy định cụ thể về công tác giao đất, giao rừng cho cộng đồng nên đã giao cho người đại diện cộng đồng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng đứng tên người đại diện cộng đồng, điều này dẫn đến mâu thuẫn trong quá trình sử dụng đất. Đồng thời, khi giao đất, giao rừng cho cộng đồng chủ yếu là giao trên giấy tờ, chưa gắn với thực địa do các diện tích đất này chủ yếu đều rất xa khu dân cư, địa hình đi lại khó khăn nên dẫn đến hiện tượng lấn chiếm đất rừng của cộng đồng.
Về loại đất rừng giao cho các cộng đồng, đối với quy định này có đến 46,58% người dân được hỏi đánh giá ở mức kém, 29,68% đánh giá mức rất kém. Phần lớn diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng đều là những diện tích đất rừng truyền thống của cộng đồng trước kia (là các rừng làng, rừng bản, rừng thiêng, rừng mó nước...). Những diện tích này chủ yếu là đất rừng phòng hộ (là rừng tự nhiên nghèo kiệt), chính vì vậy ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý, sử dụng đất của cộng đồng.
Về những quy định về chính sách hưởng lợi đối với diện tích rừng cộng đồng cũng đều vận dụng của các đối tượng khác, nên rất khó khăn trong công tác triển khai. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng quy định cộng đồng được giao đất, giao rừng được khai thác, sử dụng lâm sản và các lợi ích khác của rừng vào mục đích công cộng và gia dụng cho thành viên trong cộng đồng. Tuy nhiên, xét về khía cạnh pháp lý, đến nay chưa có văn bản nào quy định cộng đồng được khai thác, sử dụng rừng và hưởng lợi từ đất rừng được giao như thế nào. Mặc dù vậy, mỗi cộng đồng đều cũng đã tự xây dựng cho mình những quy chế về hưởng lợi riêng mà người dân được trực tiếp tham gia xây dựng. Vấn đề này được người dân đánh giá khá tốt với giá trị trung bình 2,92%, có 24,20% người dân được hỏi đánh giá ở mức tốt, mức
110
kém chỉ có 23,74% và có một số người còn đánh giá mức rất tốt (2,74%). Số liệu điều tra cho thấy những quy định về hưởng lợi đối với các cộng đồng đã tương đối đảm bảo. Người dân chỉ mong muốn Nhà nước có các chính sách khác để tăng mức hưởng lợi cho cộng đồng, để có thể người dân trong cộng đồng có thể cải thiện cuộc sống.
Ngoài những quy định về chính sách hưởng lợi thì các cộng đồng còn được hưởng sự hỗ trợ, đầu tư từ Nhà nước và các tổ chức bên ngoài. Việc hỗ trợ đối với các cộng đồng đều có những quy định cụ thế, nhất là các dự án. Từ trước đến nay đều là vận dụng các chính sách như Quyết định 661/QĐ-TTg ngày 29 tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 147/QĐ-TTg ngày 10 tháng 09 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ và vận dụng một số chính sách khác của địa phương cho việc quản lý, sử dụng đất rừng đã được giao cho cộng đồng. Do vậy, có đến trên 50% người dân đánh giá ở mức trung bình và tốt. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy việc hỗ trợ đối với các cộng đồng hiện nay chỉ mới từ Nhà nước và các dự án, khi dự án kết thúc thì sẽ không còn sự hỗ trợ nào khác dẫn đến cộng đồng không còn nguồn thu. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng.
Về quyền và nghĩa vụ của cộng đồng Nhà nước đã có quy định nhưng chưa cụ thể, rõ ràng. Tại mỗi cộng đồng điều này được thể hiện rõ trong các quy ước, hương ước nhưng các cộng đồng đều bị hạn chế quyền, không có đầy đủ các quyền như các chủ sử dụng đất khác. Do vậy chỉ có 12,33% người dân đánh giá mức tốt, còn gần 40% đánh giá mức kém và rất kém.
Về những quy định về xử phạt vi phạm trong QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng không có quy định riêng cho cộng đồng mà chỉ vận dụng các quy định chung như các đối tượng sử dụng đất khác. Tuy nhiên, các cộng đồng cũng có những quy định cụ thể thể hiện trong quy ước, hương ước cộng đồng. Việc xây dựng những quy định này đều có sự tham gia của người dân và người dân đều tự nguyện thực hiện. Tuy nhiên, do những quy định này đã được xây dựng lâu, đến nay cũng không còn phù hợp với tình hình thực tế. Do vậy, vẫn có gần 40% người dân đánh giá ở mức kém. Việc xây dựng cũng như thực hiện những quy định này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng đòi hỏi phải có sự thay đổi.
Về việc xây dựng quy ước, hương ước: đây là điều mà tất cả các cộng đồng được giao đất, giao rừng đã thực hiện được. Tuy nhiên, có những cộng đồng đã thực hiện rất tốt, nhưng cũng có những cộng đồng thực hiện chưa tốt. Kết quả điều tra cho thấy, có trên 60% người dân đánh giá ở mức trung bình và
111
tốt, 5,9% đanh giá mức rất tốt. Điều này cho thấy, công tác này tại địa phương đã được quan tâm. Một số địa phương được sự hỗ trợ của các dự án hoặc chương trình của Nhà nước thì đã xây dựng được bộ quy chế, kế hoạch phát triển rừng, quy ước quản lý, bảo vệ rừng (như cộng đồng thôn Củ, cộng đồng thôn Đúc), hay một số cộng đồng được chi trả DVMTR (như cộng đồng thôn Thung 2, Cộng đồng bản Nhạc) đều đã xây dựng được quy ước, kế hoạch bảo vệ, phát triển rừng, còn với các cộng đồng không có sự hỗ trợ thì mới chỉ xây dựng được các quy ước hoặc hương ước nhưng đã được xây dựng từ lâu, đến nay nhiều điều không còn phù hợp, đòi hỏi phải có sự thay đổi.
b. Nhóm yếu tố tự nhiên, cơ sở hạ tầng
Đây là nhóm yếu tố có ảnh hưởng lớn đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Đa phần các diện tích đất rừng được QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng đều ở rất xa các khu dân cư sinh sống, điều kiện địa hình khó khăn, phức tạp, điều kiện cơ sở hạ tầng yếu kém. Các khu rừng cộng đồng được giao chủ yếu là những khu rừng truyền thống của cộng đồng từ trước, quy mô diện tích khác nhau có cộng đồng thì được giao diện tích rất lớn vài trăm ha, nhưng có cộng đồng thì được giao diện tích nhỏ chỉ vài chục ha.
Các diện tích đất này chủ yếu là đất rừng phòng hộ là rừng tự nhiên nghèo kiệt, nguồn tài nguyên sẵn có rất hạn chế. Điều này làm cho QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng thực sự khó khăn đối với người dân. Ý kiến đánh giá của người dân về các yếu tố liên quan đến điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng trong công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng tại các điểm nghiên cứu thể hiện qua bảng 4.24.
Về diện tích đất rừng cộng đồng: Đến nay, các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giao đất cho các cộng đồng đều không quy định hạn mức giao đất rừng cho cộng đồng (Luật Đất đai, Nghị định 02/1994/NĐ-CP, Nghị định 163/1999/NĐ-CP). Chỉ quy định đối với hộ gia đình, cá nhân còn đối với các tổ chức thì tùy thuộc vào quỹ đất của địa phương và nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong các dự án của các tố chức để giao cho phù hợp. Diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình phần lớn đều do lịch sử để lại đây là những khu rừng truyền thống mà các cộng đồng đã quản lý, sử dụng từ lâu đời hoặc những khu rừng do UBND xã quản lý nay giao lại cho các cộng đồng. Chính vì vậy có những cộng đồng quản lý, sử dụng diện tích đất rừng nhỏ (bản Nhạc – thôn Đồng Chum diện tích 61 ha) nhưng có cộng đồng lại quản lý, sử dụng diện tích đất rừng rất lớn (thôn Củ - xã Tú Sơn diện tích 605,5 ha). Diện tích đất rừng sẽ ảnh hưởng quyết định đến khả năng cung cấp lâm sản và các sản phẩm khác từ rừng.
112
Bảng 4.24. Ý kiến đánh giá về hiện trạng tự nhiên và cơ sở hạ tầng của diện tích đất rừng cộng đồng tại các điểm nghiên cứu
Tổng
Tỷ lệ
Tiêu chí đánh
Tổng
Tỷ lệ
STT
Tiêu chí đánh giá
STT
(hộ)
(%)
(hộ)
(%)
giá
1
Quy mô diện tích đất
219
100,00
5 Cơ sở hạ tầng
219
100,00
kỹ thuật Rất thuận lợi
0
0,00
Rất thuận lợi
11
5,02
Thuận lợi
0
0,00
Thuận lợi
58
26,48
Trung bình
66
30,14
Trung bình
72
32,88
Không thuận lợi
86
39,27
Không thuận lợi
40
18,26
Rất không thuận
67
30,59
Rất không thuận lợi
38
17,35
lợi
2
Khoảng cách từ nơi
219
100,00
6 Chất lượng tài
219
100,00
nguyên rừng
cư trú
Rất thuận lợi
0
0,00
Rất thuận lợi
0
0,00
Thuận lợi
23
10,50
Thuận lợi
2
0,91
Trung bình
62
28,31
Trung bình
38
17,35
Không thuận lợi
Không thuận lợi
69
31,51
71
32,42
Rất không thuận lợi
108
49,32
Rất không thuận
65
29,68
lợi
3
Địa hình
219
100,00
7 Khả năng sẵn
219
100,00
có
của
tài
Rất thuận lợi nguyên rừng
0
0,00
Rất thuận lợi
0
0,00
Thuận lợi
5
2,28
Thuận lợi
0
0,00
Trung bình
69
31,51
Trung bình
40
18,26
Không thuận lợi
78
35,62
Không thuận lợi
87
39,73
Rất không thuận
67
30,59
Rất không thuận lợi
92
42,01
lợi
4 Cơ sở hạ tầng xã hội
219
100,00
Rất thuận lợi
0
0,00
Thuận lợi
3
1,37
Trung bình
65
29,68
Không thuận lợi
88
40,18
Rất không thuận lợi
63
28,77
113
Qua điều tra cho thấy với bản Nhạc – thôn Đồng Chum đây là đất rừng
truyền thống của cộng đồng từ lâu đời với diện tích 61 ha có đến trên 80% người
dân được hỏi cho rằng diện tích đất rừng của cộng đồng còn chưa hợp lý, nguyên
nhân chủ yếu là diện tích này rất nhỏ, người dân không kết hợp canh tác nông
nghiệp được thêm. Cả cộng đồng vào khai thác các sản phẩm phụ nên số lượng rất ít, chưa cung cấp đủ cho nhu cầu của người dân. Còn riêng đối với thôn Củ thì
diện tích lại quá lớn (605,5 ha) nên khó khăn cho công tác quản lý, sử dụng đất,
đặc biệt là việc phân định ranh giới với các chủ sử dụng đất liền kề rất khó khăn nên còn xảy ra tình trạng lấn chiếm. Vì vậy, ở thôn Củ cũng có khoảng 60%
người dân cho rằng diện tích này còn chưa hợp lý. Còn đối với các thôn Đúc,
thôn Thung 2 và xóm Suối Bến quản lý, sử dụng diện tích đất rừng từ 120 ha đến 166 ha người dân ở những thôn này đều đánh giá quy mô diện tích như vậy khá
phù hợp, không có người dân nào đánh giá là rất không thuận lợi và khoảng 40%
người dân đánh giá ở mức thuận lợi, rất thuận lợi.
Bảng 4.25. Ý kiến đánh giá về mức độ phù hợp của diện tích đất rừng cộng đồng tại các điểm nghiên cứu
Bản Nhạc
Thôn Đúc
Thôn Củ
Thung 2
Suối Bến
Số
Số
Số
Số
Số
Tiêu chí
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ (%)
hộ (hộ)
hộ (hộ)
hộ (hộ)
hộ (hộ)
hộ (hộ)
3
0
0
0,00
4
8,3
4
Rất phù hợp
0,00
7,69
8,51
12
0
5
10,20
22
45,8
19
Phù hợp
0,00
30,77
40,43
17
6
12
24,49
17
35,4
20
Trung bình
16,67
43,59
42,55
7
10
14
28,57
5
10,4
4
Không phù hợp
27,78
17,95
8,51
0
20
18
36,73
0
0,0
0
Rất không phù hợp
55,56
0,00
0,00
36
100
49
47
100
100
39
100
48
Tổng
100
Về khoảng cách từ nơi cư trú của cộng đồng đến đất rừng cộng đồng: đa phần các diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng quản lý, sử dụng đều xa nơi cư trú. Gần nhất là xóm Suối Bến cách đất rừng được giao 3 km còn lại đều cách khoảng 4 km. Đây là một trong những yếu tố gây khó khăn lớn cho các cộng đồng trong công tác tổ chức quản lý, sử dụng đất. Ý kiến của đa phần người dân đều cho rằng khoảng cách như vậy là quá xa rất không thuận lợi chiếm 49,32%; không thuận lợi chiếm 32,42%. Do vậy, cần có những giải pháp cụ thể giao cho các cộng đồng những diện tích đất gần nơi cư trú hơn để thuận lợi cho quá trình quản lý, sử dụng để nâng cao hiệu quả.
114
Về yếu tố địa hình: cùng với khoảng cách xa thì địa hình của các diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng đều ở những vùng núi cao, địa hình phức tạp, đường sá đi lại khó khăn, độ dốc cao rất khó khăn trong công tác quản lý, sử dụng đất. Số người trả lời rất không thuận lợi chiếm 42,01%, không thuận lợi chiếm 39,73%.
Về cơ sở hạ tầng, cả hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật: đối với các cộng đồng đều là những thôn, bản thuộc vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, người dân là đồng bào dân tộc thiểu số cuộc sống khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn cao, ít cho điều kiện tiếp cận với thị trường, hệ thống dịch vụ vừa thiếu, vừa yếu; hệ thống giao thông, thủy lợi phục vụ sản xuất còn rất khó khăn. Đặc biệt đối với những diện tích đất rừng cộng đồng được giao do khoảng cách từ nơi cư trú rất xa, lại có địa hình phức tạp, độ dốc lớn nên hệ thống đường giao thông đi lại phục vụ cho sản xuất còn rất khó khăn.
Về chất lượng tài nguyên rừng cũng như khả năng sẵn có của tài nguyên rừng: kết quả điều tra cho thấy, đa phần diện tích đất rừng giao cho cộng đồng đều là rừng tự nghiên nghèo kiệt do vậy chất lượng rừng rất thập, chủ yếu chỉ có cây bụi, dây leo, cây gỗ lớn còn lại rất ít, khả năng sẵn có của tài nguyên rừng tuy hiện tại vẫn đảm bảo cho người dân về nhu cần khai thác lâm sản ngoài gỗ nhưng có xu thế giảm dần. Điều này đòi hỏi Nhà nước cần có các chính sách giao cho các cộng đồng diện tích đất rừng có chất lượng tốt hơn, khả năng sẵn có của tài nguyên nhiều hơn, giúp cho người dân được hưởng lợi nhiều hơn từ rừng, góp phần nâng cao thu nhập, ổn định sinh kế cho người dân và đóng góp nhiều hơn cho cộng đồng.
c. Nhóm yếu tố kinh tế
Cộng đồng các dân tộc thiểu số có truyền thống sống dựa vào rừng. Do vậy, các yếu tố về điều kiện kinh tế hộ, thị trường các sản phẩm khai thác được từ đất rừng cộng đồng, các nguồn vốn, việc gây quỹ và sử dụng quỹ chính là các yếu tố có ảnh hưởng đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Ý kiến của người dân về các yếu tố kinh tế của cộng đồng trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng hiện tại được thể hiện qua bảng 4.26.
Về điều kiện kinh tế của các hộ gia đình: các hộ gia đình trong các cộng đồng có điều kiện kinh tế hệ tương đối khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn cao, số hộ khá, giàu không nhiều. Tuy nhiên, qua điều tra đa phần người dân cho rằng điều kiện kinh tế hộ không tác động đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng do trong cộng đồng mọi thành viên đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với đất rừng cộng đồng. Tuy nhiên, với những hộ nghèo và cận nghèo mức độ phụ thuộc vào rừng còn lớn, họ chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp và nghề rừng còn những hộ
115
khá và giàu thì mức độ phụ thuộc vào rừng giảm đi.
Về các sản phẩm khai thác là gỗ, củi: do chính sách đóng cửa rừng cũng như quy chế của các cộng đồng tra thời gian tới đều không được phép khai thác gỗ. Bên cạnh đó, nguồn tài nguyên rừng cộng đồng đều rất nghèo kiệt, chỉ còn lại rất ít cây gỗ lớn, chất lượng không tốt. Cùng với đó việc khai thác củi trong rừng cộng đồng cũng được quy định rất chặt chẽ trong quy ươc của cộng đồng, đa phần người dân chỉ khai thác củi để phục vụ cho nhu cầu của gia đình, rất ít người dân đem bán trên thị trường. Có trên 80% người dân đánh giá ở mức không thuận lợi và rất không thuận lợi.
Bảng 4.26. Ý kiến đánh giá về thực trạng các yếu tố kinh tế của cộng đồng quản lý, sử dụng đất rừng tại điểm nghiên cứu
STT
Tiêu chí đánh giá
STT
Tiêu chí đánh giá
Tổng (hộ)
Tỷ lệ (%)
Tổng (hộ)
Tỷ lệ (%)
1
Kinh tế hộ
219
100,00
5
Thị trường tiêu thụ
219
100,00
Rất thuận lợi
6
2,74
Rất thuận lợi
0
0,00
Thuận lợi
20
9,13
Thuận lợi
0
0,00
Trung bình
106
48,40
Trung bình
39
17,81
Không thuận lợi
75
34,25
Không thuận lợi
94
42,92
2
12 219
5,48 100,00
6
Rất không thuận lợi Việc vay vốn
86 219
39,27 100,00
Rất không thuận lợi Sản phẩm khai thác gỗ, củi
Rất thuận lợi
0
0,00
0
0,00
Rất thuận lợi
Thuận lợi
0
0,00
0
0,00
Thuận lợi
Trung bình
38
17,35
23
10,50
Trung bình
Không thuận lợi
69
31,51
63
28,77
Không thuận lợi
3
112 219
51,14 100,00
7
133 219
60,73 100,00
Rất không thuận lợi Sản phẩm khai thác lâm sản ngoài gỗ
Rất không thuận lợi Việc sử dụng quỹ cộng đồng
Rất thuận lợi
20
9,13
41
18,72
Rất thuận lợi
Thuận lợi
92
42,01
108
49,32
Thuận lợi
Trung bình
92
42,01
59
26,94
Trung bình
Không thuận lợi
15
6,85
11
5,02
Không thuận lợi
Rất không thuận lợi 4 Mức độ phụ thuộc vào
0 219
0,00 100,00
8
0 219
0,00 100,00
rừng Rất thuận lợi Thuận lợi Trung bình Không thuận lợi
16 87 97 19
7,31 39,73 44,29 8,68
0 0 42 81
0,00 0,00 19,18 36,99
Rất không thuận lợi Việc gây quỹ cộng đồng Rất thuận lợi Thuận lợi Trung bình Không thuận lợi
Rất không thuận lợi
0
0,00
96
43,84
Rất không thuận lợi
116
Về sản phẩm khai thác là lâm sản ngoài gỗ: Đây là sản phẩm khai thác chủ yếu của người dân trong cộng đồng. Các sản phẩm mà người dân khai thác được trong rừng cộng đồng khá đa dạng thuộc 3 nhóm: Nhóm cây dược liệu (Sa nhân, Giảo Cổ Lam, chuối Hột, Xạ đen,...), trong đó có 2 loại được cho là chủ đạo là Giảo Cổ Lam và Xạ đen được người dân khai thác ngoài mục đích phục vụ cho gia đình còn có thể bán trên thị trường. Nhóm cây thực phẩm (rau, măng, sấu, trám, mật ong...) là những sản phẩm người dân khai thác chủ yếu dùng trong gia đình, một số hộ có sản phẩm bán trên thị trường nhưng còn ít do thị trường bấp bênh, giá trị không cao. Nhóm gia dụng (củi, tre, nứa, mây, phong lan...) là nhóm lâm sản mà người dân trong cộng đồng khai thác và có sản phẩm bán trên thị trường, tạo nguồn thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, thị trường các sản phẩm này cũng khó khăn, giá cả bấp bênh. Hiện tại, việc khai thác các sản phẩm này khá thuận lợi, người dân trong và ngoài cộng đồng được tự do vào rừng khai thác theo quy chế của cộng đồng. Do vậy có đến trên 50% người dân được hỏi đều cho rằng việc khai thác lâm sản ngoài gỗ là thuận lợi và rất thuận lợi.
Về mức độ phụ thuộc vào rừng của cộng đồng: Mặc dù lâm sản ngoài gỗ đang là nguồn thu chính của cộng đồng nhưng do quy chế cho cả người ngoài vào khai thác và việc khai thác quá mức của người dân trong cộng đồng nên dẫn đến mức độ phụ thuộc của người dân trong cộng đồng còn quá lớn. Bên cạnh đó, do các cộng đồng đều ở vùng sâu, vùng xa, cuộc sống của người dân còn khó khăn, sản xuất chủ yếu vẫn là nông nghiệp nên mức độ phụ thuộc của người dân vào rừng còn rất cao. Đa phần người dân đánh giá sự phụ thuộc đang khá thuận lợi. Tuy nhiên, điều này cũng sẽ dẫn đến làm suy giảm nhanh tài nguyên rừng, gây khó khăn cho công tác quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng.
Về thị trường tiêu thụ các sản phẩm từ rừng cộng đồng: Do các cộng đồng đều ở vùng sâu, vùng xa, địa hình khó khăn, hiểm trở, đường sá đi lại không thuận tiện. Bên cạnh đó các sản phẩm khai thác từ rừng cộng đồng của người dân lại có số lượng ít, không tập trung. Do vậy, thị trường không phát triển, bấp bênh, phụ thuộc chủ yếu vào một số thương lái tại địa phương. Qua điều tra, có đến trên 80% người dân đánh giá thị trường tiêu thụ sản phẩm từ rừng cộng đồng ở mức không thuận lợi và rất không thuận lợi.
Về việc vay vốn từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng (Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Chính sách xã hội, Quỹ tín dụng xã) cho công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng: Do các quy định của pháp luật cộng đồng không có tư cách pháp nhân nên không đủ điều kiện để vay vốn của bất cứ tổ chức nào. Điều
117
này dẫn đến các cộng đồng rất khó khăn trong việc xây dựng nguồn vốn để quản lý, bảo vệ rừng. Có đến gần 90% người dân cho rằng việc vay vốn là không thuận lợi và rất không thuận lợi. Do vậy, hiện nay ở hầu hết các cộng đồng việc quản lý, bảo vệ chỉ dựa vào nguồn quỹ cộng đồng và chủ yếu chỉ duy trì hoạt động bảo vệ rừng còn không có vốn để thực hiện các hoạt động phát triển rừng.
Về việc sử dụng quỹ cộng đồng trong công tác quản lý, sử dụng đất: Hiện nay, hầu hết các cộng đồng đều đã có quy ước cụ thể trong việc sử dụng quỹ vào công tác quản lý, sử dụng đất. Việc xây dựng quy ước đã được tất cả người dân trong các cộng đồng tham gia bàn bạc và thống nhất nên việc sử dụng các nguồn quỹ vào công tác quản lý, sử dụng đất rừng là khá thuận lợi. Có trên 60% người dân đánh giá ở mức thuận lợi và rất thuận lợi.
Về việc gây quỹ cho công tác quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng: Hiện nay, nguồn quỹ cho cộng đồng chủ yếu từ: phí chi trả DVMTR, tiền nhận khoán quản lý, bảo vệ, tài trợ của một số dự án… Việc chi trả tiền cho các cộng đồng được thực hiện tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, các nguồn gây quỹ cho cộng đồng còn rất hạn chế, số tiền ít, chủ yếu là hỗ trợ cộng đồng do đó không đủ cho các hoạt động của cộng đồng trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng. Ngoài ra, cộng đồng không có nguồn gây quỹ nào khác, các hoạt động gây quỹ cũng không có ngoài việc xử phạt một số vi phạm trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng. Tuy nhiên, đây không phải là nguồn gây quỹ lớn và cũng không khuyến khích. Do vậy, hiện nay việc gây quỹ cho công tác quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng còn rất khó khăn, có đến gần 80% người dân đánh giá ở mức không thuận lợi và rất không thuận lợi. Do vậy, trong thời gian tới cần có những giải pháp để đa dạng các nguồn gây quỹ cũng như nâng cao mức chi trả các DVMTR và các hình thức chi trả DVMTR để các cộng đồng có nguồn quỹ ổn định, đủ cho công tác quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng.
d. Nhóm yếu tố xã hội
Công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng chủ yếu phải dựa vào cộng
đồng với những phong tục tập quán, kiến thức bản địa và vai trò của lãnh đạo địa phương, trong đó các già làng, trưởng bản và những tổ chức xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trong. Đây chính là những yếu tố ảnh hưởng quyết định đến công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Kết quả điều tra ý kiến đánh giá của người dân về thực trạng các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến công tác QLSD đất rừng dựa
vào cộng đồng tại các điểm điều tra được thể hiện qua bảng 4.27.
118
Bảng 4.27. Ý kiến đánh giá về thực trạng các yếu tố xã hội của cộng đồng
quản lý, sử dụng đất rừng tại điểm nghiên cứu
STT Tiêu chí đánh giá STT Tiêu chí đánh giá Tổng (hộ) Tỷ lệ (%) Tổng (hộ) Tỷ lệ (%)
1 Kiến thức bản địa 219 100,00 4 219 100,00
Vai trò của cán bộ kiểm lâm, cán bộ nông nghiệp
Rất tốt 43 19,63 Rất tốt 0 0,00
Tốt 98 44,75 Tốt 37 16,89
Trung bình 65 29,68 Trung bình 159 72,60
Kém 13 5,94 Kém 23 10,50
Rất kém 0 0
2 Phong tục tập quán 0,00 219 100,00 5 0,00 219 100,00 Rất kém Vai trò của các tổ chức khác
Rất tốt 46 21,00 Rất tốt 76 34,70
Tốt 116 52,97 Tốt 88 40,18
Trung bình 57 26,03 Trung bình 55 25,11
Kém 0 0,00 Kém 0 0,00
Rất kém 0
3 Vai trò của lãnh đạo 0,00 219 100,00 Rất kém 0 0,00 địa phương
Rất tốt 84 38,36
Tốt 114 52,05
Trung bình 21 9,59
Kém 0 0,00
Về kiến
thức bản địa của người dân
trong các cộng đồng: QLSDĐRDVCD là hoạt động mà người dân trong cộng đồng là người tham gia tổ chức quản lý, sử dụng đất và chủ yếu đều dựa vào kiến thức và kinh nghiệm
của người dân địa phương. Họ là những người gắn bó với rừng, hiểu rừng nhất, có kiến thức trong công tác quản lý, bảo vệ những diện tích rừng mà chủ yếu là của cộng đồng từ lâu đời nay. Số liệu điều tra (bảng 4.27) cho thấy trên 60%
người dân cho rằng kiến thức bản địa của người dân đều tốt và rất tốt trong công
tác quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng.
Về phong tục, tập quán của người dân trong công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng: Có thể nói rằng, rừng cộng đồng là rừng của thôn (bản), cùng với
Rất kém 0 0,00
119
kiến thức bản địa thì những khu rừng của cộng đồng đều gắn với phong tục, tập
quán của các cộng đồng, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong
cộng đồng tham gia công tác quản lý, sử dụng đất. Khi xây dựng các quy ước,
hương ước đều phải dựa trên phong tục, tập quán của người dân trong cộng đồng,
chính người dân sẽ là người tham gia trực tiếp xây dựng quy ước và cũng là người sẽ thực hiện quy ước. Số liệu điều tra cho thấy đa phần người dân chiếm
trên 70% đánh giá phong tục tập quán của người dân trong các cộng đồng là tốt
và rất tốt trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng.
Về vai trò của lãnh đạo địa phương: Đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số thì lãnh đạo địa phương trong đó già làng, trưởng bản là những người có vài trò quyết định trong mọi công việc. Đây là những người có uy tín, được người dân trong cộng đồng tín nghiệm bầu ra và mọi người dân trong cộng đồng đều rất tin tưởng và làm theo. Qua điều tra cho thấy, có đến trên 90% người dân đánh giá lãnh đạo địa phương có vai trò tốt trong công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương.
Về vai trò của các cán bộ kiểm lâm, cán bộ lâm nghiệp: Do diện tích đất rừng cộng đồng là rừng do cộng đồng tự tổ chức quản lý, sử dụng đất theo quy ước chung của cộng đồng nên người dân cho rằng hiện nay cán bộ kiểm lâm và cán bộ nông nghiệp không có vai trò nhiều trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng. Số liệu điều tra người dân đánh giá vai trò của các cán bộ hỗ trợ chỉ ở mức trung bình trên 70%. Trong trời gian tới, các cán bộ hỗ trợ trong công tác nông lâm nghiệp cần nâng cao hơn nữa vai trò của mình nhằm phát triển rừng của cộng đồng.
Về vai trò của các tổ chức khác trong cộng đồng (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên): Đây là những tổ chức có vai trò lớn trong cộng đồng, việc quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng được tổ ngoài các tổ bảo vệ thì các tổ chức như Hội Nông dân, Đoàn thanh niên là lực lượng hỗ trợ lớn cho công tác này. Kết quả điều tra cho thấy, các tổ chức này tại các cộng đồng được người dân đánh giá khá tốt có 34,7% người dân đánh giá mức rất tốt, 40,18% đánh giá mức tốt, không có ai đánh giá mức kém và rất kém.
4.4.2.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại tỉnh Hòa Bình
a. Kết quả phân tích nhân tố khám phá
- Kết quả kiểm định chất lượng thang đo: Để kiểm định độ tin cậy của
thang đo, nghiên cứu sử dụng kiểm định Cronbach’s Alpha. Các biến quan sát có
120
thể hiện được ý nghĩa của nhân tố hay không chính là độ tin cậy của thang đo. Hệ
số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0,6 khi đo thang đo được cho là phù hợp, đảm bảo
độ tin cậy.
Bảng 4.28. Kết quả kiểm định chất lượng thang đo Cronbach’ Alpha
Tên biến Ký hiệu biến Cronbach’s Alpha
Kết quả phân tích số liệu cho thấy, giá trị Cronchbach’s Alpha của các biến đặc trưng đều lớn hơn 0,6 cho thấy số liệu điều tra là phù hợp, đảm bảo độ tin cậy của nghiên cứu.
- Kết quả kiểm định mức độ phù hợp của mô hình: Hệ số KMO (Kaiser- Meyer- Olkin) được dùng để đánh giá sự thích hợp của mô hình khi sử dụng mô hình nhân tố khám phá EFA. Khi 0,5 ≤ KMO ≤ 1 thì mô hình được cho là phù hợp.
TT 1 2 3 4 Yếu tố quy định của pháp luật Yếu tố điều kiện tự nhiên Yếu tố kinh tế Yếu tố xã hội PL TN KT XH 0,873 0,809 0,890 0,852
Bảng 4.29. Kết quả kiểm định KMO và Bartlett
Trị số KMO 0,901
Kiểm định Chi bình phương 2723,019 Kiểm định Bartlett
Kết quả nghiên cứu cho thấy KMO = 0,901 đã thỏa mãn điều kiện 0,5 < KMO < 1 như vậy dữ liệu thực tế trong nghiên cứu này phù hợp cho phân tích EFA. Bên cạnh đó, kết quả kiểm định Bartlett có Sig. = 0,000 ≤ 0,05. Đây là kiểm định được sử dụng để đánh giá mức về độ tương quan giữa các biến quan sát trong tổng thể. Nghĩa là các biến quan sát có tương quan tuyến tính với nhân tố đại diện (Bảng 4.29). Như vậy, các biến quan sát có tương quan tuyến tính với nhân tố đại diện với mức ý nghĩa 99%.
- Kết quả kiểm định mức độ giải thích của các biến quan sát: kết quả kiểm định mức độ giải thích của các biến quan sát đại diện với mức ý nghĩa 99%, sử dụng để đánh giá mức về độ tương quan giữa các biến quan sát trong tổng thể. Giá trị phương sai trích là 54,088, nghĩa là 54,088% sự thay đổi của kết quả được giải thích bởi các biến quan sát.
Tổng bình phương các sai lệch (df) Mức ý nghĩa (Sig.) 406 0,000
121
Bảng 4.30. Tổng phương sai trích giải thích
Giá trị riêng ban đầu Xoay tổng tải bình phương
Thành phần Tổng Tích lũy Tổng Tích lũy
- Kết quả xác định nhân tố khám phá: Trong phân tích EFA việc sử dụng nhân tố xoay cho phép nhóm các nhân tố ban đầu thành các nhóm có quan hệ tuyến tính để hình thành nhân tố đại diện. Kết quả chạy mô hình nhân tố khám phá được thể hiện tại bảng 4.31.
1 2 3 4 8.649 2.969 2.263 1.805 Phương sai 29.824 10.236 7.804 6.224 29.824 40.060 47.864 54.088 4.581 4.527 3.390 3.188 Phương sai 15.798 15.610 11.689 10.992 15.798 31.407 43.096 54.088
Bảng 4.31. Bảng ma trận nhân tố xoay
Nhân tố STT Biến quan sát
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 CS04 CS02 CS06 CS05 CS01 CS03 CS08 CS09 CS07 KT06 KT02 KT08 KT07 KT01 KT05 KT03 KT04 TN07 TN05 TN06 TN03 TN04 TN01 TN02 XH02 XH01 XH05 XH03 XH04 2 0,738 0,737 0,721 0,704 0,704 0,697 0,667 0,589 3 0,681 0,674 0,667 0,659 0,622 0,613 0,575 4 0,794 0,766 0,742 0,730 0,727 1 0,707 0,705 0,701 0,695 0,683 0,681 0,675 0,642 0,634
122
Kết quả chạy ma trận nhân tố xoay cho thấy các biến đặc trưng đều có hệ số tải nhân tố lớn hơn 0,5. Điều này khẳng định các nhân tố đã lựa chọn đưa vào
mô hình đều ảnh hưởng đến kết quả. Qua đó nhận diện được 4 thang đo đại diện
cho các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng. Các nhóm nhân tố ban đầu được sắp xếp lại thành 4 nhóm nhân tố được thể
hiện ở bảng 4.32.
Bảng 4.32. Mô hình điều chỉnh qua kiểm định Cronbach Alpha và EFA
Biến đặc trưng Giải thích thang đo Nhân tố Thang đo
1 F_PL
PL1, PL2, PL3, PL4, PL5, PL6, Yếu tố quy định pháp luật ảnh hưởng đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng PL7, PL8, PL9
2 F_TN
TN1, TN2, TN3, TN4, TN5, TN6,
Yếu tố tự nhiên, cơ sở hạ tầng của đất rừng ảnh hưởng đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng
TN7 F_KT KT1, KT2, KT3, 3
Yếu tố điều kiện kinh tế ảnh hưởng đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng KT4, KT5, KT6, KT7, KT8
4 F_XH XH1, XH2, XH3,
Trên cơ sở các nhóm yếu tố trên tiến hành hồi quy các biến này theo biến phụ thuộc (biến KQ) để thấy mức độ ảnh hưởng của các biến này đến kết quả công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng.
b. Kết quả phân tích hồi quy đa biến
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiểm định F với mức ý nghĩa (Sig.) = 0,000
< 0,01, điều này cho thấy mô hình hồi quy luôn tồn tại các biến độc lập có tương
quan tuyến tính với biến phụ thuộc với mức độ tin cậy 99%. Hệ số VIF (hệ số
phóng đại phương sai) đều nhỏ hơn 10, nghĩa là các biến độc lập không có tương
quan với nhau và mô hình hồi quy không có hiện tượng đa cộng tuyến của các
biến độc lập. Hệ số Durbin Watson 1 XH4, XH5 Yếu tố xã hội ảnh hưởng đến QLSD đất rừng
dựa vào cộng đồng 123 Hệ số hồi quy
chưa chuẩn hóa Thống kê đa
cộng tuyến Mô hình t Mức ý
nghĩa
(Sig.) β Tolerance VIF Hệ số hồi
quy chuẩn
hóa
Beta
0,369
0,382
0,108
0,330 Sai số
0,144
0,025
0,032
0,035
0,038 (Constant) 0,379
0,236
F_XH
0,314
F_PL
0,086
F_KT
0,303
F_TN 2,638
9,488
9,638
2,453
8,026 0,773
0,787
0,600
0,693 1,293
1,271
1,666
1,443 Kết quả hồi quy cũng cho thấy, cả 4 biến độc lập đều có ý nghĩa thống kê
ở mức độ tin cậy 95% (Sig = 0,000 < 0,05). Do đó, hàm hồi quy được viết lại
như sau: KQ = 0,379 + 0,314*F_PL + 0,303*F_TN + 0,236*F_XH + 0,086*F_KT Kết quả phân tích trên cho thấy, cả 4 nhóm yếu tố đều có ảnh hưởng đến
QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Trong đó, nhóm yếu tố những quy định của
pháp luật (F_PL) có ảnh hưởng lớn nhất, sau đó đến nhóm yếu tố tự nhiên, nhóm
yếu tố xã hội và ảnh hưởng ít nhất là nhóm yếu tố điều kiện kinh tế. 0,009
0,000
0,000
0,015
0,000
- Biến phụ thuộc: Công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng (KQ)
- Hệ số tương quan R bình phương (R Square): 0,750
- Hệ số tương quan R bình phương hiệu chỉnh: 0,745
- Kiểm định F với mức ý nghĩa: (Sig.) = 0,000
- DurbinWatson: 2,116
- Dung lượng mẫu: N = 219 Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng được thể hiện qua bảng 4.34. F_PL 0,314 33,44 1 1 Yếu tố quy định của pháp luật
2 Yếu tố điều kiện tự nhiên, cơ F_TN 0,303 32,27 2 sở hạ tầng
3 Yếu tố kinh tế F_KT 0,086 9,16 4 4 Yếu tố xã hội 124 Số liệu thống kê cho thấy mức độ ảnh hưởng của các nhóm yếu tố đến công
tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình được sắp xếp theo thứ tự sau: Thứ nhất: Nhóm yếu tố quy định của pháp luật; Thứ hai: Nhóm yếu tố điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng; Thứ ba: Nhóm yếu tố xã hội; Thứ tư: Nhóm yếu tố kinh tế. Chỉ số đánh giá của các biến quan sát đều nằm trong mức từ 3 đến 5 trên thang đo Likert. Như vậy, tất cả các yếu tố đều ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố trong các nhóm yếu tố đến kết quả quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình được thể hiện thông qua kết quả phân tích thống kê mô tả (Bảng 4.35). - Nhóm yếu tố QĐPL: Kết quả nghiên cứu cho thấy tất cả các yếu tố trong nhóm đều ảnh hưởng đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng sử dụng thang đo Likert của từng yếu tố có sự khác nhau. Yếu tố QĐPL về “vấn đề hưởng lợi”, QĐPL về “loại đất, loại rừng giao cho cộng đồng”, các “quy ước, hương ước của cộng đồng”, “QĐPL về công tác giao đất, giao rừng”, “tổ chức thực hiện các văn bản” là những yếu tố có ảnh hưởng lớn hơn với chỉ số đánh giá trong khoảng từ 3,81 đến 4,03. Các yếu tố khác có mức ảnh hưởng ít hơn do có chỉ số nhỏ hơn. Như vậy, có thể thấy trong quá trình thực hiện Nhà nước cần quan tâm hơn đến các chính sách hưởng lợi, các quy ước, hương ước của cộng đồng, các QĐPL và tổ chức thực hiện những quy định cho các cộng đồng. - Nhóm yếu tố điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng: Kết quả phân tích cho thấy tất cả các yếu tố đều có sự ảnh hưởng đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Tuy nhiên, các yếu tố về “cơ sở hạ tầng xã hội” như hệ thống dịch vụ, thị trường có liên
quan đến các sản phẩm khai thác từ rừng cộng đồng, cùng với “khả năng sẵn có của tài nguyên rừng” và “khoảng cách từ nơi cư trú của cộng đồng đến đất rừng
được giao” là những yếu tố có ảnh hưởng lớn, do có các chỉ số từ 3,80 đến 4,05
lớn hơn các yếu tố khác. Do vậy, cần có những chính sách phù hợp để phát triển hệ
thống dịch vụ, thị trường đối với các sản phẩm khai thác từ rừng, có chính sách
giao cho các cộng đồng những diện tích có khoảng cách đến nơi cư trú của cộng
đồng gần hơn để thuận lợi cho quá trình quản lý, sử dụng và đặc biệt quan tâm tới 125 khả năng sẵn có của nguồn tài nguyên rừng, giao cho cộng đồng những diện tích đất rừng có nguồn tài nguyên phong phú hơn thay vì rừng tự nhiên nghèo kiệt như hiện nay. 126 Thực hiện Nghị quyết số 28/NQ-TW ngày 16/6/2003 của Bộ Chính trị và Nghị định số 200/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về đổi mới, sắp xếp và phát triển lâm trường quốc doanh, Nghị định số 170/2004/NĐ-CP ngày 22/9/2004 của Chính phủ về đổi mới, sắp xếp và phát triển nông trường quốc doanh, Nghị định số 118/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 của Chính phủ về sắp xếp đổi mới và phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp. Tỉnh Hòa Bình đã xây dựng phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới các công ty nông nghiệp trên địa bàn tỉnh và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận. Đến nay, tỉnh Hòa Bình đã thu hồi và còn 14.577,19 ha đất các loại do các công ty nông, lâm nghiệp không có nhu cầu sử dụng hiện tại đang giao cho UBND các xã quản lý. Đây chính là quỹ đất có thể giao cho các cộng đồng quản lý, sử dụng phù hợp với thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các cộng đồng. - Nhóm yếu tố điều kiện kinh tế: Đây là nhóm yếu tố có mức ảnh hưởng ít nhất đến công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Tuy nhiên, từng yếu tố trong nhóm vẫn ảnh hưởng đến công tác này với mức độ khác nhau. Trong đó, những yếu tố có mức độ ảnh hưởng lớn hơn như “mức độ phụ thuộc vào rừng của người dân”, “các nguồn gây quỹ quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng” và “thị trường tiêu thụ sản phẩm” do có chỉ số đánh giá lớn hơn từ 3,81 đến 4,05. Còn các yếu tố khác cũng có ảnh hưởng đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng nhưng mức độ ít hơn do có chỉ số đánh giá thấp hơn. Như vậy, trong quá trình QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng cần quan tâm hơn đến các hộ gia đình, tạo điều kiện để người dân chuyển sang các hoạt động khác để cải thiện kinh tế hộ nhằm giảm mức độ phụ thuộc vào rừng cũng như tạo thêm các nguồn gây quỹ cho cộng đồng để có điều kiện hoạt động. - Nhóm yếu tố xã hội: yếu tố về “vai trò lãnh đạo của địa phương” và “kiến thức bản địa của người dân trong cộng đồng” và “vai trò của các cán bộ” có ảnh hưởng lớn hơn các yếu tố khác do có chỉ số đánh giá lớn hơn từ 3,74 đến 4,28. Do vậy, cần quan tâm hơn đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo của chính quyền địa phương cũng như phát huy hơn nữa những kiến thức bản địa của cộng đồng, nâng cao vai trò của các cán bộ kiểm lâm, cán bộ lâm nghiệp, phát huy những phong tục, tập quán của địa phương cũng như vai trò của các tổ chức khác như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên tại địa phương. 127 Căn cứ vào kết quả đánh giá công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng ở phần trên, nhằm chỉ ra một cách tổng thể các điểm mạnh, điểm yếu,
cơ hội và thác thức trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng làm cơ sở
đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
tại địa phương. Kết quả phân tích SWOT được thể hiện qua bảng 4.36 Điểm mạnh (S)
- Điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi cho
việc sử dụng đất rừng.
- Có tiềm năng trong việc quản lý, sử
dụng đất rừng dựa vào cộng đồng.
- Có tiềm năng đất đai cho phát triển hình
thức quản lý, sử dụng dựa vào cộng đồng.
- Các cộng đồng có truyền thống quản lý,
sử dụng đất từ lâu đời.
- Công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng đã góp phần cải thiện thu
nhập nhất là đối với người nghèo, thay đổi
nhận thức của người dân về vai trò của
rừng, thay đổi sự phân công lao động
trong cộng đồng. Điểm yếu (W)
- Chính sách, pháp luật có liên quan đến
công tác quản lý, sử dụng đất rừng còn chưa
có những quy định cụ thể cho đối tượng là
cộng đồng dân cư.
- Diện tích đất rừng đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất còn ít, các quyền sử
dụng đất của cộng đồng bị giới hạn.
- Đất rừng giao cho các cộng đồng có địa
hình hiểm trở, xã khu dân cư, điều kiện hạ
tầng còn thiếu và khó khăn.
- Đất rừng giao cho cộng đồng là đất rừng tự
nhiên nghèo kiệt, nguồn tài nguyên từ rừng
hạn chế, nguồn thu từ rừng ít, chiếm tỷ lệ
nhỏ trong tổng thu nhập hộ.
- Thị trường các sản phẩm thu được từ rừng
cộng còn bấp bênh. Cơ hội (O)
- Hình thành các chuỗi liên kết trong quá
trình quản lý, sử dụng đất rừng (Đồng
quản lý; mối liên kết trong tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ…).
- Phương thức quản lý, sử dụng đất rừng
dựa vào cộng đồng được quan tâm nhiều
hơn do ở nhiều địa phương nó đã phát huy
được hiệu quả. Thách thức (T)
- Các quy định của pháp luật về quyền sử
dụng đất của cộng đồng khó thay đổi.
- Việc mở rộng diện tích đất rừng giao cho
các cộng đồng khó khăn.
- Nguồn thu trong tương lai từ đất rừng khó
có thể tăng do các nguồn lợi từ rừng ngày
càng khan hiếm.
- Việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
rất khó khăn. 128 Về điều kiện tự nhiên tỉnh Hòa Bình là địa phương nằm ở cửa ngõ của vùng Tây Bắc. Địa hình chủ yếu là đồi núi với 43,8% diện tích là núi cao, 56,2%
diện tích là đồi núi thấp, độ dốc trung bình từ 8 - 350, mang đặc trưng của khí hậu
nhiệt đới, nhiệt độ trung bình 25,10C, lượng mưa trung bình đạt gần 2.000
mm/năm, với đặc điểm khí hậu và đất đai rất phù hợp cho phát triển nông nghiệp đa dạng, đặc biệt là sản xuất lâm nghiệp. Theo thống kê của UBND tỉnh Hoà Bình (2018) tổng diện tích đất rừng tỉnh Hoà Bình là 296.288 ha (chiếm 76,54%
tổng diện tích tự nhiên), toàn bộ diện tích đất rừng trên địa bàn tỉnh đã được giao cho các đối tượng quản lý, sử dụng. Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình có 6 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số như: dân tộc Mường chiếm tộc Tày, Thái, Mông, Dao… Đồng bào dân tộc thiểu số có truyền thống quản lý, sử dụng đất rừng từ lâu đời, người dân gắn bó với rừng, sống dựa vào rừng. Trước đây việc quản lý, sử dụng đất của các cộng đồng đều chưa được công nhận, các cộng đồng tự công nhận quyền sử dụng đất của mình và coi nó thuộc quyền sử dụng của mình, không ai được quyền xâm phạm. Sau Nghị định 02/NĐ-CP, mặc dù không có quy định cụ thể cho việc giao đất cho cộng đồng nhưng tỉnh Hòa Bình đã vận dụng nghị định này và bắt đầu tiến hành giao đất cho các cộng đồng. Sau này, tiếp tục thực hiện những quy định của pháp luật và đã tiến hành giao đất cho tất cả các cộng đồng quản lý, sử
dụng đất rừng cộng đồng. Tuy nhiên, diện tích đất mà các cộng đồng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn còn ít (chiếm chưa đến 50% diện tích được giao). Hiện tại, tiềm năng đất rừng có thể giao cho các cộng đồng quản lý, sử dụng vẫn còn khá dồi dào: có thể giao các diện tích đất đã giao cho UBND các xã quản lý, sử dụng cho các cộng đồng, hoặc các diện tích đất chưa sử dụng, có thể cải tạo đưa vào sử dụng giao cho các cộng đồng quản lý, sử dụng. Người dân sống trong các cộng đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình có truyền thống gắn bó với rừng, diện tích đất rừng cộng đồng là nơi
người dân có thể khai thác các sản phẩm chủ yếu là lâm sản ngoài gỗ như: củi,
măng, mây, mật ong và đặc biệt đồng bào dân tộc sống trên địa bàn tỉnh Hòa
Bình có truyền thống hái cây thuốc… Đây là nguồn thu nhập cho bà con, mặc dù
tỷ lệ đóng góp vào tổng thu nhập hộ không đáng kể nhưng đối với các hộ nghèo thì đây cũng là nguồn thu rất đáng kể do trên địa bàn tỉnh tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn
rất cao. Ngoài ra, việc chi trả DVMTR đã được thực hiện trên địa bàn tỉnh, mặc 129 dù không phải tất cả các cộng đồng đều được chi trả và mức chi trả chưa cao, nhưng đây cũng là một nguồn thu nhập cho các cộng đồng nếu trong thời gian tới nguồn thu này tăng lên hoặc việc đa dạng hóa các loại DVMTR được thực hiện. Bên cạnh đó, việc quản lý, sử dụng đất rừng giúp cho người dân nâng cao nhận thức về vai trò của rừng cộng đồng, giúp ổn định nguồn nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. Phân công lao động trong cộng đồng cũng có sự thay đổi, nhất là từ khi thực hiện giao đất, giao rừng cho các cộng đồng quản lý, sử dụng thì người dân
đã chú trọng hơn vào việc chăm sóc, bảo vệ. Trước đây không sử dụng lao động trong chăm sóc, bảo vệ rừng cộng đồng. Tuy nhiên sau khi giao đất, giao rừng cho cộng đồng thì đã có sự phân công lao động, tuy nhiên vẫn chỉ tập trung cho việc bảo vệ (85% số công lao động) và chỉ có 15% dành cho việc chăm sóc. Bên cạnh đó, việc giao đất, giao rừng cho cộng đồng cũng giúp người dân nâng cao vai trò trong công tác quản lý, sử dụng đất, số vụ vi phạm pháp luật đã giảm đi
rất đáng kể trước khi giao đất giao rừng tổng số vụ vi phạm là 115 vụ (26 vụ cháy, 43 vụ khai thác trộm, 46 trường hợp lấn chiếm) nhưng sau khi giao đất, giao rừng cho cộng đồng thì số vụ vi phạm đã giảm đi rất nhiều chỉ còn lại 33 vụ ở cả 5 thôn/bản được điều tra (chỉ có 2 vụ cháy, 8 vụ khai thác trộm, 33 trường hợp vi phạm lấn chiếm đất rừng của cộng đồng), trong đó có những thôn cả năm 2013 không xảy ra cháy rừng, khai thác trộm (như thôn Đúc). Kết quả nghiên cứu cho thấy trong quá trình quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng còn rất nhiều yếu tố ảnh hưởng, đây chính là những điểm yếu cần khắc phục nhằm tăng cường công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương. - Việc ban hành các chính sách, pháp luật có liên quan đến quản lý, sử dụng đất rừng còn chưa cụ thể. Chưa có quy định cụ thể về loại đất rừng giao cho
cộng đồng, trong khi đó ở địa phương chủ yếu giao cho cộng đồng các diện tích
đất rừng phòng hộ là rừng tự nhiên nghèo kiệt, nguồn tài nguyên sẵn có của rừng
rất hạn chế. Công tác giao đất, giao rừng cũng chưa có văn bản cụ thể mà chỉ vận
dụng các quy định về giao đất, giao rừng cho các đối tượng khác như hộ gia đình,
cá nhân hay tổ chức, vì vậy các diện tích giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng 130 nhưng người đứng tên nhận đất, nhận rừng hay trên GCNQSD đất lại là cá nhân (người đại diện cho cộng đồng), đây là khó khăn rất lớn trong quá trình quản lý, sử dụng đất rừng gây lên tình trạng tranh chấp, rất khó giải quyết. Các quyền của người sử dụng đất là cộng đồng cũng bị hạn chế, cộng đồng không được công nhận quyền nào trong các quyền của người sử dụng đất, điều này gây khó khăn
cho các cộng đồng trong quá trình phát triển sản xuất. Các chính sách hưởng lợi, hay hỗ trợ cho các cộng đồng cũng không cụ thể mà chỉ vận dụng theo quy định của các đối tượng sử dụng đất khác. Việc xây dựng quy ước, hương ước hay xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng đều do các cộng đồng tự xây dựng, vận dụng mà không có quy định cụ thể nào. - Bên cạnh đó, đa phần các diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng
quản lý có điều kiện tự nhiên rất khó khăn, cơ sở hạ tầng rất thiếu. Phần lớn đều
là những diện tích có địa hình phức tạp, khoảng cách đến nơi cư trú rất xa (đều
trên 4 km), hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, dịch vụ còn rất khó khăn
trong khi chất lượng và khả năng sẵn có của tài nguyên rừng thì lại rất hạn chế.
Quy mô diện tích các khu đất giao cho cộng đồng chủ yếu là diện tích trước đây
cộng đồng đã quản lý, sử dụng và nay chỉ công nhận quyền sử dụng đất cho cộng
đồng. Có cộng đồng thì quản lý sử dụng diện tích quá lớn (thôn Củ được giao
605,5 ha) trong khi bản Nhạc lại được giao diện tích quá ít (61 ha). Không có quy
định về định mức giao đất cho các cộng đồng do vậy gây khó khăn trong quá
trình quản lý, sử dụng và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất rừng. - Các cộng đồng chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, điều kiện kinh tế hộ
còn rất khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn rất cao (thôn Củ và bản Nhạc tỷ
lệ hộ nghèo và cận nghèo trên 50%), cuộc sống phụ thuộc rất lớn vào rừng. Trong
khi đó việc tiêu thụ các sản phẩm thu được từ rừng còn rất khó khăn, thị trường
bấp bênh, có rất ít thị trường tiêu thụ sản phẩm, chủ yếu chỉ để tự tiêu dùng. Việc
tiếp cận các nguồn vốn vay để quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng đều không
có quy định, các cộng đồng không nhận được sự hỗ trợ nào từ các ngân hàng, các
tổ chức tín dụng do cộng đồng không có tư cách pháp nhân. Việc gây quỹ quản lý,
sử dụng đất rừng của cộng đồng cũng còn khó khăn, có rất ít nguồn để gây quỹ,
các cộng đồng chủ yếu đều lấy khoản tiền hỗ trợ của nhà nước hoặc tiền chi trả
DVMTR để gây quỹ. Nhưng khoản tiền này là không đáng kể (khoảng từ 120.000
đồng đến 200.000 đồng) và không phải cộng đồng nào cũng được hưởng. Ngoài
ra, việc quản lý, sử dụng quỹ của cộng đồng cũng không có quy định cụ thể mà
mỗi cộng đồng sẽ có những quy định riêng. 131 - Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng là hình thức mà vai trò của cộng đồng được thể hiện rất rõ. Trong đó những kiến thức bản địa của người dân, phong tục, tập quán, tín ngưỡng là những yếu tố quyết định quá trình quản lý, sử dụng. Tuy nhiên, mỗi địa phương khác nhau thì các yếu tố này lại có sự khác nhau, điều này gây khó khăn rất lớn trong công tác quản lý, sử dụng đất. Bên
cạnh đó, trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng các lãnh đạo địa phương (các già làng, trưởng bản) là những người có vai trò rất lớn cùng với đó là các tổ chức xã hội như hội nông dân, hội phụ nữ… Tuy nhiên, ở mỗi
cộng đồng khác nhau lại có sự thể hiện khác nhau, chưa có quy định cụ thể về quyền hạn, trách nhiệm của các già làng, trưởng bản, các tổ chức xã hội trong cộng đồng. Chủ yếu đều làm việc theo truyền thống, tự lập các quy ước chung,
không có quy định của Nhà nước. Đều này cũng gây khó khăn rất lớn cho công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Hiện nay Nhà nước và nhiều địa phương đã quan tâm hơn đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Đã có những quy định riêng cho việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng mặc dù chưa được thực hiện rộng rãi nhưng đây cũng là tiền đề để công tác này được thực hiện hiệu quả hơn. Chương trình thí điểm lâm nghiệp cộng đồng đã được Chính phủ giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện trên 40 tỉnh, theo đó đã tiến hành
giao đất, giao rừng cho rất nhiều cộng đồng, từ đây sẽ rút kinh nghiệm và tiến hành nhân rộng ra các địa phương khác. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều các chương trình, dự án đã tiến hành trên nhiều địa phương trong đó có tỉnh Hòa Bình về giao đất, giao rừng cho các cộng đồng quản lý, sử dụng. Hòa Bình là địa phương có nhiều cộng đồng tham gia quản lý, sử dụng đất rừng, địa phương cũng đã tiến hành giao đất, giao rừng cho các cộng đồng như các đối tượng sử dụng đất khác với diện tích 48.576 ha (chiếm 16,39% tổng diện tích đất rừng của tỉnh), đứng thứ 2 trong tổng số các đối tượng sử dụng đất trên địa bàn tỉnh. - Công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng từ trước đều dựa
vào cộng đồng, cộng đồng quản lý theo truyền thống. Mỗi cộng đồng đều lập các
quy ước riêng trong việc quản lý, sử dụng đất rừng. Đến nay, đã hình thành các
mối liên kết thể hiện vai trò quản lý của Nhà nước, Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho các cộng đồng quản lý, sử dụng (có thể cấp GCNQSD đất hoặc chưa cấp
GCNQSD đất) nhưng đã thể hiện rõ được chức năng quản lý nhà nước về đất đai. 132 Cộng đồng với vai trò là người sử dụng đất, được thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, các cộng đồng cũng đã chủ động tạo các mối liên kết trong quản lý, sử dụng đất. Tổ chức quản lý, bảo vệ thành các tổ đội, có tổ chức, có quy chế hoạt động riêng. Liên kết với các doanh nghiệp sử dụng DVMTR với mục đích cung cấp DVMTR. Mặc dù không phải cộng
đồng nào cũng thực hiện được nhưng đây là cơ hội cho sự phát triển của hình thức liên kết này. - Bên cạnh đó, thấy được lợi ích từ việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng nên người dân cũng có ý thức hơn. Thể hiện ở việc các cộng đồng đã tự xây dựng được các quy ước, hương ước trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng. Người dân thực hiện rất nghiêm túc các quy ước đã được lập ra, thể hiện ở số vụ vi phạm trong quản lý, sử dụng đất (số vụ cháy, số vụ khai thác trộm, số vụ tranh chấp, lấn chiếm đất rừng của cộng đồng) giảm đi rất đáng kể trong thời gian qua. - Hiện nay, theo quy định của pháp luật các cộng đồng sử dụng đất rừng đều bị giới hạn các quyền. Điều này gây khó khăn lớn cho các cộng đồng nhưng cũng rất khó có thể thay đổi quyền của cộng đồng do Bộ Luật dân sự 2015 vẫn chưa công nhận cộng đồng là pháp nhân, do vậy cộng đồng cũng chưa có đủ tư cách pháp nhân như các đối tượng sử dụng đất khác. - Tiềm năng đất rừng để giao cho các cộng đồng cũng là một thách thức trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Do hiện nay, quỹ đất rừng đã được giao hết cho các đối tượng quản lý, sử dụng. - Các nguồn thu từ đất rừng cộng đồng đều là những sản phẩm tự có trong rừng, chưa có sự thay đổi về phương thức khai thác từ rừng, điều này dẫn đến
nguồn tài nguyên rừng sẽ ngày càng cạn kiệt. Do đó, cần phát triển các sản phẩm ngay trong diện tích đất rừng cộng đồng để tạo nguồn thu khác từ rừng, nâng cao thu nhập cho người dân. - Thị trường tiêu thụ các sản phẩm từ rừng của các cộng đồng hiện nay chủ
yếu theo hình thức tự cung, tự cấp, chưa tạo được mối liên kết, mở rộng thị trường
tiêu thụ. Do vậy, cần có những cơ chế riêng đối với các cộng đồng, khuyến khích các loại hình dịch vụ trong cộng đồng, cộng đồng có thể tự làm dịch vụ để thay đổi các hình thức tiêu thụ sản phẩm, nâng cao giá trị của rừng. 133 - Ban hành quy định về tăng quỹ đất để giao cho các cộng đồng từ các diện tích đã giao cho UBND các xã quản lý, sử dụng không hiệu quả hoặc từ diện tích đất do các tổ chức khác quản lý, sử dụng nhưng không hiệu quả. Bên cạnh
đó, cần có quy định giao cho cộng đồng các diện tích đất rừng có nguồn tài nguyên phong phú hơn như đất rừng sản xuất; đất rừng phòng hộ là rừng sản xuất cho cộng đồng thay vì chỉ giao đất rừng tự nhiên. Các hình thức có thể áp dụng cho đối tượng là cộng đồng dân cư như: Khoán, liên kết hoặc đồng quản lý. - Ban hành quy định, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ghi tên người sử dụng đất là tên cộng đồng cụ thể, không ghi tên người đại diện cộng đồng như hiện nay để tránh tình trạng tranh chấp về quyền và nghĩa vụ như tại một số cộng đồng.Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ giao đất, giao rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cộng đồng nhằm tạo được sự ổn định trong việc quản lý, sử dụng đất rừng của các cộng đồng. - Hoàn thiện những quy định về hưởng lợi và hỗ trợ, đầu tư cho đối tượng là cộng đồng như cho phép cộng đồng được thực hiện thế chấp đất rừng để vay vốn tại các tổ chức tín dụng hay góp vốn bằng quyền sử dụng đất để phát triển rừng nâng cao thu nhập. - Cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên xem xét giao cho các cộng đồng đất rừng có diện tích phù hợp hơn và gần nơi cư trú của cộng đồng hơn để quản lý, sử dụng đất rừng được thuận tiện hơn, bớt thời gian và chi phí đi lại. Bên cạnh đó,
Nhà nước cũng nên hỗ trợ cộng đồng một phần chi phí đi lại trong quá trình quản
lý, khai thác rừng hoặc đổi cho cộng đồng những diện tích đất có điều kiện tự
nhiên và cơ sở hạ tầng thuận lợi hơn như tại các bản Nhạc (xã Đồng Chum), thôn Thung 2 (xã Quý Hoà)… - Để việc đi lại được thuận tiện hơn, Nhà nước cần quan tâm đầu tư xây
dựng, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn, nhất là hệ thống giao thông nông
thôn như tại thôn Củ (xã Tú Sơn), thôn Thung 2 (xã Quý Hoà), bản Nhạc (xã Đồng
Chum). 134 - Xây dựng các nhà sinh hoạt cộng đồng vừa là nơi tổ chức sinh hoạt cộng đồng nhưng cũng là nơi sơ chế các sản phẩm lâm sản phụ thu hái từ rừng nhằm đảm bảo chất lượng các sản phẩm và thuận lợi cho việc trao đổi trên thị trường. - Phát huy hơn nữa những kiến thức bản địa của người dân địa phương trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Duy trì việc cho người dân vào rừng thu hái các lâm sản ngoài gỗ. Nhưng nên sửa đổi, bổ sung quy chế của cộng đồng trong quản lý, sử dụng đất rừng cho phù hợp với phong tục, tập quán và thế mạnh của từng cộng đồng. Cụ thể, đối với cộng đồng người Mường và người Dao do có truyền thống khai thác và chế biến cây thuốc nên có thể tăng thêm khối lượng sản phẩm dược liệu được khai thác từ rừng để người dân có thêm thu nhập. Cộng đồng người Tày chủ yếu sống ở vùng núi cao, rừng cộng đồng chủ yếu là rừng truyền thống, gắn với yếu tố tâm linh nên không cho người ngoài thôn/bản vào khai thác. Mở rộng và nhân rộng các mô hình tự sơ chế các sản phẩm
thu hái từ rừng: Sơ chế dược liệu, măng, song, mây… Tăng cường các biện pháp bảo vệ và phát triển các loài cây thuốc trong tự nhiên. Tổ chức nhiều hơn các buổi sinh hoạt cộng đồng nhằm phổ biến, quán triệt, học tập các chủ trương, chính sách, kiến thức đồng thời bảo tồn văn hóa sinh hoạt cộng đồng. - Trong quá trình quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng cần phát huy hơn nữa vai trò, tinh thần trách nhiệm của những người đứng đầu các địa
phương, nhất là các già làng, trưởng bản, người đứng đầu các tổ chức chính trị, xã hội hay những người khác có uy tín trong cộng đồng. - Khuyến khích người dân trong cộng đồng thay đổi cơ cấu nguồn thu nhập, hạn chế phụ thuộc vào rừng bằng cách chuyển sang hoạt động ở các lĩnh
vực kinh tế khác như: sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, dịch vụ,… để nâng cao nguồn thu nhập cho người dân. Đối với các hộ nghèo và cận nghèo do họ sống
phụ thuộc nhiều vào rừng nên có thể tập trung phân công các công việc có liên
quan đến quản lý rừng cộng đồng cho những người này để họ có thêm các nguồn
thu nhập khác ngoài việc khai thác các sản phẩm từ rừng, từ đó giảm mức phụ thuộc vào rừng vừa cải thiện điều kiện kinh tế hộ của các gia đình. - Do đất rừng các cộng đồng được giao quản lý, sử dụng dù đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa thì theo quy định đều không có 135 quyền được thế chấp, góp vốn. Chính vì vậy, để cộng đồng có vốn sản xuất cần mở rộng thêm các quyền của cộng đồng (có thể cho các cộng đồng được góp vốn bằng quyền sử dụng đất để liên doanh, liên kết hoặc thế chấp quyền sử dụng đất để có vốn thực hiện công tác quản lý, sử dụng đất). Nên có chính sách ưu đãi đối với các cộng đồng trong hỗ trợ nguồn vốn. - Cần mở rộng thị trường các sản phẩm lâm sản mà người dân tại các cộng đồng khai thác được từ rừng. Khuyến khích cộng đồng thực hiện các hình thức liên kết (liên kết giữa các cộng đồng với nhau, giữa cộng đồng với các cá nhân,
cộng đồng với các doanh nghiệp, tổ chức...) để đảm bảo nguồn lâm sản của người dân khai thác đem lại hiệu quả cao nhất. - Mở rộng các diện tích đất rừng của các cộng đồng tham gia các dịch vụ như: du lịch sinh thái, giải trí, hấp thu và lưu giữ các bon…. Cần tính toán cụ thể để nâng cao mức chi trả dịch vụ môi trường rừng xứng đáng với công sức của cộng đồng và có thể tạo nguồn thu cho các cá nhân trong cộng đồng. Tạo động lực để cộng đồng tham gia tích cực hơn vào chăm sóc, bảo vệ rừng của cộng đồng. - Mở rộng hình thức bán thuốc, chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian kết hợp với du lịch sinh thái, nghỉ ngơi để thu hút nhiều người đến cộng động và có thời gian lưu trú dài hơn góp phần tăng thu nhập từ dịch vụ như tại cộng đồng người Dao và cộng đồng người Mường. 136 1) Hòa Bình là một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, có vị trí địa lý và giao thông thuận lợi. Nguồn tài nguyên phong phú với diện tích tự nhiên lớn, trong đó diện tích đất rừng là 296.288 ha (chiếm 64,54% tổng diện tích tự nhiên của toàn tỉnh). Trên địa bàn tỉnh có nhiều dân tộc cùng sinh sống, trong đó chủ yếu là dân tộc Mường (chiếm 60% dân số toàn tỉnh), dân tộc Kinh (chiếm 30% dân số toàn tỉnh), còn lại là người Dao, người Tày, người Thái và người Mông. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình là một phương thức sử dụng đất đã có từ lâu đời và chịu ảnh hưởng rõ nét từ các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội nơi các cộng đồng sinh sống và tham gia quản lý, sử dụng đất rừng. 2) Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình đã thực hiện giao đất, giao rừng cho các cộng đồng dân cư quản lý, sử dụng với diện tích 48.576 ha (chiếm 16,39% diện tích đất rừng của toàn tỉnh) và đứng thứ hai về diện tích sau diện tích đã giao cho hộ gia đình, cá nhân. Tuy nhiên, chỉ có 42,44% tổng diện tích đất rừng của các cộng đồng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn lại chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tất cả các cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình đã xây được các quy ước quản lý, sử dụng đất rừng và hàng năm các cấp chính quyền đều thực hiện triển khai tuyên truyền đến từng người dân trong các cộng đồng. Việc hưởng lợi các sản phẩm từ đất rừng cộng đồng đều được thực hiện theo quy ước với các sản phẩm chủ yếu là lâm sản ngoài gỗ. 3) Quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình góp phần tăng thu nhập cho người dân trong cộng đồng, góp phần ổn định sinh kế của người dân. Mặc dù vậy, tỷ lệ thu nhập từ diện tích đất rừng trung bình của các hộ không cao, chỉ chiếm khoảng 9,26% đến 16,59%; đối với các hộ khá và giàu thì thu nhập từ rừng cộng đồng chỉ đóng góp khoảng 4,00% tổng thu nhập của hộ; nhưng đối với các hộ nghèo và cận nghèo thì đây là một nguồn thu đáng kể, chiếm khoảng từ 17,71% đến 21,80% tổng thu nhập của hộ. Nguyên nhân chủ yếu là do các nguồn lợi trực tiếp từ rừng ngày càng suy giảm, cơ chế quản lý, sử dụng đất chưa phù hợp, các nguồn lợi khác từ rừng như các dịch vụ chi trả môi trường rừng, du lịch, dịch vụ các bon… chưa được triển khai thực hiện hoặc đã 137 được thực hiện nhưng còn hạn chế, mức chi trả còn rất thấp, thiếu cơ chế quản lý, sử dụng. Việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đã góp phần thay đổi cơ cấu sử dụng lao động tại địa phương. Nhận thức của người dân trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng cũng thay đổi. Những trường hợp vi phạm quy chế quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng đã giảm đáng kể. Công tác giải quyết những tranh chấp, lấn chiếm đất rừng của cộng đồng vẫn còn rất phức tạp, số vụ lấn chiếm đất rừng của cộng đồng có giảm nhưng mới được khoảng 50%. 4) Kết quả nghiên cứu cho thấy có 29 yếu tố thuộc 4 nhóm yếu tố có ảnh hưởng đến công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng, bao gồm: nhóm yếu tố liên quan đến pháp luật; nhóm yếu tố điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng; nhóm yếu tố kinh tế và nhóm yếu tố xã hội. Kết quả chạy mô hình EFA cho thấy cả 4 nhóm yếu tố trên đều ảnh hưởng đến QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Trong đó, nhóm yếu tố những QĐPL có ảnh hưởng lớn nhất (33,44%), sau đó đến nhóm yếu tố tự nhiên, cơ sở hạ tầng (32,27%), tiếp đến là nhóm yếu tố xã hội (25,13%) và ảnh hưởng ít nhất là nhóm yếu tố điều kiện kinh tế (9,16%). 5) Trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình có những thuận lợi như điều kiện khí hậu, đất đai, truyền thống, kiến thức bản địa, phong tục tập quán của cộng đồng. Bên cạnh đó, còn có những điểm hạn chế, khó khăn như: một số chính sách pháp luật còn chưa phù hợp, cụ thể cho đối tượng là cộng đồng, các quyền của cộng đồng còn hạn chế; về điều kiện địa hình, địa mạo; diện tích đất giao cho cộng đồng; kinh phí thực hiện các hoạt động của cộng đồng. Cùng với đó là những thách thức khó giải quyết như việc thay đổi những quy định, quy chế; tiềm năng đất giao cho cộng đồng; nguồn thu từ rừng cộng đồng hay thị trường tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó cũng có nhiều cơ hội cho việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng, đó là việc quan tâm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội và cộng đồng, ý thức của người dân trong cộng đồng, mối liên kết giữa các cộng đồng và cơ hội thị trường... Từ đó có thể phát huy những điểm mạnh, những cơ hội, hạn chế những tồn tại, thách thức để phát triển. Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp như: nâng cao thu nhập từ quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng; tăng cường các hoạt động làm thay đổi điều kiện kinh tế của cộng đồng tham gia quản lý, sử dụng đất rừng; khắc phục những 138 khó khăn về điều kiện tự nhiên; hoàn thiện các chính sách, pháp luật liên quan đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng và vận dụng những kiến thức bản địa, nâng cao hơn nữa vai trò của chính quyền địa phương và các tổ chức khác trong cộng đồng. - Nghiên cứu chỉ tập trung vào công tác quản lý, sử dụng đất rừng được giao cho các cộng đồng quản lý, sử dụng với loại đất rừng phòng hộ mà chưa nghiên cứu công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng với các hình thức sử dụng đất khác như đất rừng được nhận khoán, hay đất rừng được thuê
hoặc liên kết và các loại đất rừng khác là đất rừng sản xuất và đất rừng đặc dụng. Do vậy, để đánh giá một cách toàn diện quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng cần có những nghiên cứu tiếp theo về các hình thức và các loại đất này. Đồng thời, cần có nghiên cứu tiếp để so sánh hiệu quả quản lý, sử dụng đối với diện tích rừng do cộng đồng tự công nhận (chưa được Nhà nước giao đất) so với các cộng đồng đã được Nhà nước giao đất; giữa các loại đất rừng khác nhau. Bên cạnh đó, cần có các nghiên cứu tiếp theo để định lượng các chỉ tiêu đánh giá kết quả về mặt môi trường như: sự thay đổi chất lượng rừng, mức độ xói mòn đất hay đánh giá sự thay đổi của chất lượng nguồn nước. - Kiến nghị UBND tỉnh Hòa Bình giao các sở, ban, ngành xem xét, sử dụng các kết quả đánh giá và các giải pháp tăng cường quản lý đất rừng dựa vào cộng đồng trong luận án khi soạn thảo các văn bản liên quan đến quản lý đất đai nói chung và quản lý đất rừng nói riêng tại tỉnh Hòa Bình. 139 1. Phạm Thanh Quế, Phạm Phương Nam & Nguyễn Nghĩa Biên (2017). Giải
pháp nâng cao thu nhập từ rừng của một số cộng đồng đồng bào dân tộc tỉnh
Hòa Bình. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 14. 139-146. 2. Phạm Thanh Quế, Phạm Phương Nam & Nguyễn Nghĩa Biên (2018). Một số
yếu tố ảnh hưởng đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại tỉnh Hòa Bình. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. 10. 885-895. 3. Phạm Thanh Quế, Phạm Phương Nam & Nguyễn Nghĩa Biên (2018).
Community forest management (CFM) in Hoa Binh province: status and solutions. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm nghiệp. 5. 183-192. 4. Phạm Thanh Quế (2019). Chính sách hưởng lợi từ đất rừng cộng đồng trên
địa bàn tỉnh Hòa Bình: Thực trạng và giải pháp. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 3+4. 257-266. 140 Tiếng Việt: 1. Anne M. L., Deborah B., Ganga R. D. & Carol J. P. C. (2012). Thừa nhận các quyền cộng đồng: Tiềm năng và những thách thức của việc cái cách quyền hưởng dụng rừng. InfoBrief. (45). Tháng 1 năm 2012. 2. Bảo Huy (2005). Báo cáo dự án “Xây dựng mô hình quản lý rừng và đất rừng dựa
vào cộng đồng dân tộc thiểu số Jrai và Bahnar, tỉnh Gia Lai”. Đề tài khoa học cấp
Nhà nước mã số: KX GL 06 (2002). 3. Bảo Huy (2009). Quản lý rừng và hưởng lợi trong giao đất giao rừng - Nghiên cứu
điểm tại Tây Nguyên. Kỷ yếu Diễn đàn Quốc gia về giao đất giao rừng tại Việt Nam. Hà Nội, tháng 5. 4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006). Cẩm nang ngành lâm nghiệp. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2012). Báo cáo Kết quả Tọa đàm:
“Những bất cập, tồn tại về chính sách và thực tiễn trong công tác giao đất, giao
rừng và sau giao đất, giao rừng”. 6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2016a). Quyết định số 4290/QĐ-BNN-
TCLN ngày 21 tháng 10 năm 2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
về phê duyệt kết quả điều tra kiểm kê rừng tại 25 tỉnh năm 2014 – 2015 thuộc dự
án “Tổng điều tra, kiểm kê rừng toàn quốc giai đoạn 2013 - 2016”. 7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2016b). Báo cáo đánh giá thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong công đồng dân cư thôn, làng, bản, ấp. 8. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016). Báo cáo số 45/BC-BTNMT ngày 24 tháng 6 năm 2016 về kết quả kiểm kê đất đai năm 2014. 9. Bộ Tư pháp (2006). Từ điển Luật học. NXB Tư pháp, Hà Nội. Tr. 633.
10. Bùi Tuấn Anh, Nguyễn Đình Bồng & Đỗ Thị Tám (2013). Một số yếu tố tác động
đến quản lý sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội. Tạp
chí Khoa học và Phát triển. 11(5): 654-662. 11. Chính phủ (1995). Nghị định số 01/1995/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 1995 của
Chính phủ ban hành quy định về giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp nhà nước. 12. Chính phủ (2010). Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. 13. Cục Thống kê tỉnh Hòa Bình (2018). Niên giám Thống kê tỉnh Hòa Bình năm 2017. NXB Thống kê, Hà Nội. 14. Đàm Trọng Tuấn (2012). Giao đất, giao rừng tại cộng đồng dân tộc thiểu số miền núi. Viện Nghiên cứu Sinh thái Chính sách xã hội – SPERI. 141 15. Đinh Phi Hổ (2012). Phương pháp nghiên cứu định lượng và những nghiên cứu
thực tiễn trong kinh tế phát triển - nông nghiệp. NXB Phương Đông. 66-89.
16. Đỗ Anh Tuân (2011). Quản lý cộng đồng về tài nguyên rừng ở Việt Nam: Cấu
trúc thể chế và hiệu quả trong quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam. Tạp chí Dân
tộc học. 6. 52-59. 17. Đỗ Anh Tuân (2012). Báo cáo kết quả và bài học kinh nghiệm trong quản lý rừng cộng đồng. 18. Đỗ Anh Tuân, Nguyễn Bá Ngãi, Võ Đình Tuyên & Lê Tuấn Anh (2012). Cấu trúc quản
lý rừng cộng đồng ở Việt Nam: Thừa nhận sự đa dạng trong cấu trúc quản trị. Truy cập từ
https://www.recoftc.org/sites/default/files/public/publications/resources/recoftc- 0000044-0003-vn.pdf ngày 6/5/2015. 19. Dower M. (2004). Bộ cẩm nang đào tào và thông tin về phát triển nông thôn toàn diện. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 20. Dương Viết Tình & Trần Hữu Nghị (2012). Lâm nghiệp cộng đồng ở Miền Trung Việt Nam. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 21. Hoàng Thị Thanh Nhàn & Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015). Quản lý dựa vào cộng
đồng: lý luận và thực tiễn. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia: Cơ sở lý luận và thực tiễn ứng dụng mô hình quản lý dựa vào cộng đồng trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam. Viện Kinh tế và Chính trị thế giới, tháng 5. 1-16. 22. Hoàng Xuân Tý & Lê Trọng Cúc (1998). Kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc
vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 23. Keshav R. K. (2013). Kinh nghiệm quốc tế trong quản lý rừng cộng đồng. Kỷ yếu
hội thảo quốc tế về lâm nghiệp cộng đồng tại Việt Nam: Thực trạng và định hướng
phát triển chính sách, Hà Nội. 6. 33-36. 24. Lê Huy Bá (2006). Phương pháp nghiên cứu khoa học. NXB Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh. 25. Lê Quang Vĩnh & Ngô Thị Phương Anh (2012). Đánh giá hiệu quả quản lý rừng
cộng đồng tại huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tạp chí Khoa học, Đại học
Huế. 75 (6). 26. Lê Trọng Cúc & Chu Hữu Quý (2002). Phát triển bền vững miền núi Việt Nam 10 năm nhìn lại và những vấn đề đặt ra. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 27. Lê Văn An & Ngô Tùng Đức (2016). Sổ tay hướng dẫn phát triển cộng đồng. NXB Thanh Niên, Hà Nội. 28. Nguyễn Bá Ngãi (2006). Kết quả nghiên cứu quản lý rừng cộng đồng của đồng
bào dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc Việt Nam. Tạp chí Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn. 1. 78-80. 142 29. Nguyễn Bá Ngãi (2009). Quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam: Thực trạng, vấn đề
và giải pháp. Kỷ yếu Hội thảo quốc gia: Quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam:
Chính sách và thực tiễn. Hà Nội. 6. 4-20. 30. Nguyễn Bá Ngãi, Phạm Đức Tuấn, Vũ Văn Triệu & Nguyễn Quang Tân (2009).
Lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam: chính sách và thực tiễn. Kỷ yếu Hội thảo
quốc gia. Quản lý rừng cộng đồng Việt Nam: Chính sách và thực tiễn. Hà Nội. 6. 1-3. 31. Nguyễn Diệu Hằng & Lê Hà Thanh (2015). Sự tham gia của cộng đồng trong quản
lý tài nguyên nước kinh nghiệm quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam. Kỷ
yếu hội thảo khoa học quốc gia: Cơ sở lý luận và thực tiễn ứng dụng mô hình quản lý dựa vào cộng đồng trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Viện
Kinh tế và Chính trị thế giới. 5. 132-141. 32. Nguyễn Đình Bồng, Phạm Minh Hạnh & Bùi Anh Tuấn (2012). Cơ chế, chính sách
quản lý đất nông nghiệp bền vững. Quản lý bền vững đất nông nghiệp hạn chế thoái
hóa và phòng chống sa mạc hóa. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 152-171. 33. Nguyễn Hải Tuất & Vũ Tiến Hinh (2009). Thống kê sinh học. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 86-89. 34. Nguyễn Hồng Quân & Phạm Xuân Phương (2006). Một số vấn đề về lâm nghiệp
từ triển rừng ở Việt Nam. Truy cập tồn và phát cộng đồng bảo
http://vafs.gov.vn/vn/2006/03/mot-so-van-de-ve-lam-nghiep-cong-dong-bao-ton-
va-phat-trien-rung-o-viet-nam/ ngày 15/10/2015. 35. Nguyễn Hồng Quân & Tô Đình Mai (2000). Hiện trạng và xu hướng phát triển
quản lý rừng cộng đồng. Kỷ yếu Hội thảo: Những kinh nghiệm và tiềm năng của
quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam. Hà Nội. 36. Nguyễn Nghĩa Biên, Noriyoshi K. & Đỗ Thị Thu Thúy (2013). Báo cáo nghiên
cứu rà soát, điều chỉnh, bổ sung chính sách giao, khoán, cho thuê rừng và đất lâm
nghiệp. NXB Nông nghiệp. Hà Nội. 37. Nguyễn Ngọc Quan & Hoàng Liên Sơn (2007). Ảnh hưởng của một số nhân tố
đến thể chế trong quản lý rừng cộng đồng tại Việt Nam. Truy cập từ
http://vafs.gov.vn/vn/2007/01/anh-huong-cua-mot-so-nhan-to-den-the-che-trong-
quan-ly-rung-cong-dong-tai-viet-nam/ ngày 20/8/2016. 38. Nguyễn Quang Tân, Nguyễn Văn Chỉnh & Vũ Thu Hạnh (2008). Đánh giá các rào
cản ảnh hưởng tới quản lý rừng bền vững và công bằng. Nghiên cứu điểm ở Việt
Nam. Dự án Tăng cường những tiếng nói để có sự lựa chọn tốt hơn. IUCN. Hà Nội. 39. Nguyễn Thị Hồng Mai & Hà Huy Tuấn (2009). Các điều kiện và tổ chức quản lý
rừng cộng đồng: Bài học kinh nghiệm từ tỉnh Thừa Thiên - Huế. Kỷ yếu Hội thảo
quốc gia. Quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam: Chính sách và thực tiễn. Hà Nội,
tháng 6. 143 40. Nguyễn Thị Mỹ Vân (2013). Các yếu tố gây rủi ro cho sinh kế của các tộc người ở
huyện vùng núi A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam
Á. 10. 43-50. 41. Nguyễn Trần Hòa (2014). Tri thức bản địa của người Chăm trong quản lý tài nguyên
rừng (Khảo sát ở huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định). Tạp chí Kinh tế - Xã hội Đà
Nẵng. 52. 41-52. 42. Phạm Phương Nam (2015). Những vấn đề lý luận và thực tiễn triển khai mô hình
quản lý dựa vào cộng đồng. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia: Cơ sở lý luận và thực tiễn ứng dụng mô hình quản lý dựa vào cộng đồng trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam. Viện Kinh tế và Chính trị thế giới. 5. 17-25. 43. Phạm Quang Tiến & Nguyễn Thị Hồi (2010). Tập quán và luật tục bảo vệ môi
trường của một số dân tộc ít người ở Việt Nam. Tạp chí Luật học. 6. 35-62.
44. Phạm Quốc Hùng & Hoàng Ngọc Ý (2009). Nghiên cứu tri thức bản địa của người
Mông tại Khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hòa Bình trong bảo vệ rừng. Dự án
Thí điểm tiếp cận thị trường tổng hợp nhằm hỗ trợ công tác bảo tồn thiên nhiên: Nâng cao đời sống cộng đồng vùng đệm để giảm thiểu tác động lên tài nguyên tại
Khu Bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Trung tâm Con người và Thiên nhiên, Hà Nội, Việt Nam. 45. Phạm Thanh Quế & Phạm Phương Nam (2014). Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả quản lý và sử dụng đất rừng giao cho cộng đồng tại Việt Nam. Kỷ yếu hội
thảo: Pháp luật, chính sách đất đai đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân ở Việt Nam hiện nay. Học viện Nông nghiệp Việt Nam. 12. 76-80. 46. Phạm Văn Dũng (2016). Báo cáo kết quả nghiên cứu mô hình quản lý rừng cộng
đồng xã Sơn Lĩnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Trung tâm Tư vấn Quản lý
Bền vững Tài nguyên và Phát triển Văn hóa Cộng đồng Đông Nam Á (CIRUM). 47. Phạm Xuân Phương (2008). Tổng quan về chính sách giao đất giao rừng tại Việt
Nam, thực trạng và định hướng trong thời gian tới. Kỷ yếu Diễn đàn Quốc gia về
giao đất giao rừng tại Việt Nam. Hà Nội. 48. Phùng Nhuệ Giang (2007). Tình hình Phát triển Lâm nghiệp Cộng đồng ở tỉnh Gia Lai. Truy cập từ http://ipsard.gov.vn/news/newsdetail.asp?targetID=2069 ngày 20/1/1016. 49. Quốc hội (1993). Luật Đất đai. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 50. Quốc hội (2003). Luật Đất đai. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 51. Quốc hội (2004). Luật Bảo vệ và Phát triển rừng. NXB Lao động, Hà Nội. 52. Quốc hội (2005). Bộ Luật dân sự. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 53. Quốc hội (2013a). Luật Đất đai. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 144 54. Quốc hội (2013b). Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 55. Quốc hội (2017). Luật Lâm nghiệp. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 56. Sally P., Marsh T., Gordon M. & Phạm Văn Hùng (2007). Phát triển nông nghiệp
và chính sách đất đai ở Việt Nam. Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế
của Ôx-trây-lia. 57. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hòa Bình (2018). Báo cáo kết quả triển khai thực hiện Tái cơ cấu Lâm nghiệp. 58. Thủ tướng Chính phủ (1998). Quyết định 661/TTg ngày 29 tháng 7 năm 1998 của
Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng để đầu tư hỗ trợ cho cộng đồng đã được Nhà nước giao
đất, giao rừng hoặc tham gia nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh và trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. 59. Thủ tướng Chính phủ (2007). Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg, ngày 5 tháng 2
năm 2007 phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020. 60. Thủ tướng Chính phủ (2011). Quyết định 09/2011/QĐ-TTg ngày 30 tháng 1 năm
2011 của Thủ tướng chính phủ về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, cận nghèo áp
dụng cho giai đoạn 2011 - 2015. 61. Thủ tướng Chính phủ (2015). Quyết định 59/2015/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm
2015 của Thủ tướng chính phủ về việc ban hành chuẩn hộ nghèo tiếp cận đa chiều
áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020. 62. Tô Duy Hợp & Lương Hồng Quang (2000). Phát triển cộng đồng lý thuyết – vận dụng. NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 63. Tô Xuân Phúc & Trần Hữu Nghị (2014). Giao đất giao rừng trong bối cảnh tái cơ
cấu ngành lâm nghiệp: Cơ hội phát triển rừng và sinh kế vùng cao. Truy cập ngày
từ http://www.forest-trends.org/documents/files/doc_4832.pdf ngày 15/10/2015. 64. Trần Đức Viên, Nguyễn Vinh Quang & Mai Văn Thành (2005). Phân cấp trong quản lý tài nguyên rừng và sinh kế người dân. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 65. Trần Thanh Nga (2015). Một số nhân tố quyết định sự thành công của mô hình
quản lý dựa vào cộng đồng. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: Thực trạng và triển
vọng ứng dụng mô hình quản lý dựa vào cộng đồng ở Việt Nam và Campuchia.
NXB Đại học Kinh tế Quốc dân. 22-36. 66. Trần Thị Thu Hà (2013). Giao khoán rừng và đất lâm nghiệp tại tỉnh Bình Phước
thực trạng và giải pháp. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm nghiệp 1. 88-95.
67. Trọng Chàm (2014). Mô hình giao đất, giao rừng ở Quế Phong. Truy cập từ
http://www.baomoi.com/Mo-hinh-giao-dat-giao-rung-o-Que-Phong/c/15247563.epi
ngày 15/10/2015. 145 68. Trương Tất Đơ (2013). REDD+ tại Việt Nam: Tổng quan và một số vấn đề cần
từ từ khía cạnh nghiên cứu và chính sách. Truy cập tâm quan
http://www.nature.org.vn/vn/tai-lieu/restraining2013/2-Truong-Tat-Do-PPP.pdf
ngày 15/10/2015. 69. UBND tỉnh Hòa Bình (2013a). Quy hoạch sử dụng đất tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2010 – 2020. 70. UBND tỉnh Hòa Bình (2013b). Quyết định số 2008/QĐ-UBND ngày 23 tháng 8
năm 2013 của UBND tỉnh Hòa Bình về việc phê duyệt dự án thực hiện chính sách
chi trả dịch vụ môi trường rừng tại lưu vực nhà máy thủy điện Hòa Bình. 71. UBND tỉnh Hòa Bình (2014). Quyết định 2082/QĐ-UBND ngày 15 tháng 12 năm
2014 của UBND tỉnh Hòa Bình về việc phê duyệt sử dụng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng năm 2014 tại lưu vực nhà máy thủy điện Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
72. UBND tỉnh Hòa Bình (2015). Báo cáo số 279/BC-UBND ngày 04/11/2015 Báo
cáo kết quả kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2014 tỉnh Hòa
Bình. 73. UBND tỉnh Hòa Bình (2016a). Báo cáo điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối 2016 - 2020 tỉnh Hòa Bình. 74. UBND tỉnh Hòa Bình (2016b). Báo cáo tổng kết thực hiện dự án kiểm kê rừng tại
tỉnh Hòa Bình năm 2015 thuộc dự án tổng điều tra kiểm kê rừng toàn quốc giai đoạn 2013 - 2016. 75. UBND tỉnh Hòa Bình (2017a). Báo cáo đanh giá tình hình thực hiện chính sách
chi trả dịch vụ môi trường rừng theo nghị định 99/2010/NĐ-CP trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình. 76. UBND tỉnh Hòa Bình (2017b). Báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Hòa Bình năm 2017. 77. UBND tỉnh Hòa Bình (2018). Báo cáo kết quả thực hiện công tác thống kê, kiểm kê đất đai của tỉnh Hòa Bình tính đến 31/12/2017. 78. UBND xã Đồng Chum (2017). Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội và sử dụng đất đai của xã Đồng Chum, huyện Đà Bắc, tỉnh Hoà Bình năm 2017. 79. UBND xã Nam Phong (2017). Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội và sử
dụng đất đai của xã Nam Phong, huyện Cao Phong, tỉnh Hoà Bình năm 2017.
80. UBND xã Tú Sơn (2017). Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội và sử dụng đất đai của xã Tú Sơn, huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình năm 2017. 81. UBND xã Quý Hoà (2017). Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội và sử dụng đất đai của xã Quý Hoà, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình năm 2017. 82. UBND xã Tiến Sơn (2017). Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội và sử dụng đất đai của xã Tiến Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình năm 2017. 146 83. Võ Đình Tuyên (2012). Nghiên cứu xác định các nguồn hưởng lợi của cộng đồng
dân cư thôn tham gia quản lý rừng ở Việt Nam. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 8. 84 – 89. 84. Vũ Long (2003). Đánh giá hiệu quả quản lý rừng thôn bản tại tỉnh Cao Bằng. Kỷ
yếu hội thảo về giao rừng tự nhiên và quản lý rừng cộng đồng. Hà Nội, tháng 5. tr.
66-79. 85. Vũ Quốc Phương, Trương Minh Đến, Phạm Ngọc Dũng & Nguyễn Văn Tình
(2014). Tài liệu hướng dẫn giao đất rừng cộng đồng có sự tham gia. NXB Thanh Niên. 86. Vũ Thị Hạnh (2014). Tác động của chính sách, pháp luật đến quản lý tài nguyên
rừng công bằng và bền vững. Truy cập từ http://www.l-psd.org/nghien-cuu-trao-
doi/tac-dong-cua-chinh-sach-phap-luat-den-quan-ly-tai-nguyen-rung-cong-bang- va-ben-vung-a209.html ngày 28/12/2017. 87. Vũ Văn Mễ (2009). Xác lập quyền quản lý và sử dụng rừng của cộng đồng. Kỷ
yếu hội thảo quốc gia. Quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam: Chính sách và thực
tiễn”. Hà Nội, tháng 6. 88. Wililam D. S. & Huỳnh Thu Ba (2005). Giảm nghèo và rừng ở Việt Nam. Truy
từ http://doc.edu.vn/tai-lieu/giam-ngheo-va-rung-o-viet-nam-22893 ngày cập 10/11/2016. Tiếng Anh:
89. Acemoglu D., Garcia-Jimeno C. & Robinson J. A. (2015). State capacity and
economic development: a network approach. The American Economic Review,
105(8): 2364–2409. 90. Agrawal A. & Chhatre A. (2006). Explaining success on the commons:
community forest governance in the Indian Himalaya. World Development, 34(1): 149-166. 91. An L. (2012). Modeling human decisions in coupled human and natural systems: review of agent-based models. Ecological Modelling, 229. 25–36. 92. An L. V. (2006). Towards upland sustainable development: livelihood gains and
resource management in central Vietnam in Tyler, Stephen R. (ed.), Communities,
Livelihoods and Natural Resources: Action Research and Policy Change in Asia,
Ottawa: International Development Research Centre, 2006, Chapter 5. 85-105.
93. Anup G., Rahul K. & Rajesh B. (2011). Commulity – based forest management in
Nepal: Opportunities and challenges. Retrieved on 15 March 2017 at
https://www.researchgate.net/publication/291284280_Community_based_forest_
management_in_Nepal_Opportunities_and_Challenges. 147 94. Anup K. C., Koirala I. & Adhikari N. (2015). Cost Benefit Analysis of a
Community Forest in Nepal. Journal of Sustainable Forestry. 34(3): 199–213.
95. Appiah M., Blay D., Damnyag L., Dwomoh F. K., Pappinen A. & Luukkanen O.
in (2009). Dependence on tropical deforestation resources and forest Ghana. Environment, Development and Sustainability. June 2009, Volume
11, Issue 3. 471–487. 96. Arnstein S. R. (1969), A Ladder of Citizen Participation, Journal of the Planning Association, 35(4): 216-224. 97. Bartlett A. G. & Malla Y. B. (1992). Local forest management and forest policy in Nepal. Journal of World Forest Resource and Management, 6. 99-116. 98. Bien N. N. (2000). Forest Management Systems in the Uplands of Vietnam: Social, Economic and Environmental Perspectives. 99. Bollen K. A. (1989). Structural Equations with Latent Variables, New York: John Wiley & Sons, Inc. 100. Borrini F. G. & Tarnowski K. (2005). Participatory Democracy in Natural
Resource Management. A Columbus’s Egg? In Brosius, J.P., Tsing and Zerner (eds). (2005). Communities and Conservation: Histories and Politics of
Community-Based Natural Resource Management. Pp. 69-90. Walnut Creek, CA: Altamira Press. 101. Calderon M. M. & Nawir A. A. (2006). An evaluation of the feasibility and
benefits of forest partnerships to develop tree plantations: case studies in the
Philippines. CIFOR Working Paper. 27. 72. 102. Centre for International Forestry Research (CIFOR) (2014). Forests, food security
and nutrition, Fact sheet, CIFOR, Bogor, Indonesia, Retrieved on 15 March 2017 at http//www.cifor.org/publications/pdf_files/factsheet/4876-factsheet.pdf. 103. Checkoway B. (1995). Six strategies of comminity change. Community Development Journal. Volume 30, Issue 1, 1 January. 2-20. 104. Chiu Y. B. (2012). Deforestation and the environmental Kuznets curve in
developing countries: a panel smooth transition regression approach. Canadian
Journal of Agricultural Economics, 60(2): 177–194. 105. Colchester M. (1995). Sustaining the Forests. The Community-based Approach in South and South-east Asia. Development and Change. 25 (1): 69-100. 106. Dalle S. P., de Blois S., Caballero J. & Johns T. (2006). Integrating analyses of
local land-use regulations, cultural perceptions and land-use/land cover data for
assessing the success of communitybased conservation. Forest Ecology and Management. 222(1/3): 370-383. 148 107. De Royer S., Van Noordwijk M. & Roshetko J. M. (2016). Does community-based
forest management in Indonesia devolve social justice or social costs?. International Forestry Review. 20(2): 167 – 180. 108. Department of Forest and Department of Research and Forest Survey (DoF and
DRFS) (2002). National Forest Policy Review (An Assessment of
the
Effectiveness and Efficiency of the Forest Policy of Nepal). EC-FAO Partnership Project, GCP/RAS/173/EC. Department of Forests and Department of Forest
Research and Survey, Kathmandu, Nepal. 109. Donovan D., Rambo A. T., Fox J., Le Trong Cuc & Tran Duc Vien (1997).
Development Trends in Vietnam’s Northern Moutain Region. National Political Publishing House. Hanoi. 110. FAO (1978). Forestry Paper 7: Forestry for Local Community Development, Rome. 111. FAO (2002). A History of Decentralization. Retrieved on 15 March 2017 at http://www.ciesin.org/decentralization/English/General/history_fao.html. 112. FAO (2015). A framework to assess extent and effectiveness of Community Based Forestry (CBF).33. 113. FAO (2016). State of the World’s Forests 2016. Forests and agriculture: land-use challenges and opportunities. Rome. 114. FAO and UNEP (1999). The Future of Our Land. Retrieved on 16 March 2016 at http://www.fao.org/docrep/004/x3810e/x3810e00.htm. 115. Fisher M. (2004). Household welfare and forest dependence in Southern Malawi. Environmental and Development Economics. Volume 9, Issue 2, 135-154. 116. Gilmour D. (2016). Forty years of community-based forestry - A review of its
extent and effectiveness, Rome, Italy: Food and Agriculture Organization of the
United Nations. 117. Green W. H. (2003). Econometric Analysis, 5th ed. Upper Saddle River NJ: Prentice-Hall 118. Guiang E., Borlagdan S. & Pulhin J. (2001). Community-based forest
management in the Philippines: A Preliminary assessment. Project Report.
Institute of Philippine Culture, Ateneo de Manila University and Department of
Social Forestry and Forest Governance, College of Forestry and Natural
Resources, University of the Philippines Los Baños. Quezon City, Philippines. 119. Hair Jr. J. F., Anderson R. E., Tatham R. L. & Black W.C.
(1998). Multivariate Data Analysis (5th ed.). New York: Macmillan Publishing
Company. 120. Hanstad T. (2009). Poverty, Law and Land Tenure Reform. In: Prosterman, R. L.
et al. (editors), One Billion Rising: Law, Land and the Alleviation of Global
Poverty, Leiden University Press. 149 121. Hermans-Neumann K., Katharina G., Ilse R. G., Martin H., Ralf S. &
SvenWunder D. (2016). Why do forest products become less available? A pan - tropical comparison of drivers of forestresource degradation. Environmental
Research Letters, Volume 11, Number 12. 122. Ivan T. (2006). Report Brief study on funding and finance for forestry and foresr –
based sector. Retrieved on 18 March 2015 at http:// www.un.org/esa/forests/wp- content/uploads/2015/06/brief_funding_tomaselli.pdf. 123. John M. A. & Marco A. J. (2013). Sustaining the commons. Retrieved on 10 March 2017 at https://lib.hpu.edu.vn/handle/123456789/21654. 124. Kellert S. R., Mehta J. N., Syma A. E. & Lichtenfeld L. L. (2000). Community
natural Resource management: Promise rhetoric and reality. Society and Natural
Resouces. 13. 705-715. 125. Lawrence A., Anglezarke B., Frost B., Nolan P. & Owen R. (2009). What does
community forestry mean in a devolved Great Britain?. International Forestry Review. 11(2). 281-279. 126. Likert R. (1932). A Technique for the Measurement of Attitudes. Archives of Psychology, 1932. Vol. 140 (55). New York University, USA. 127. Madeleen W. S. (1998). Community management models for small scale water supply systems. IRC International Water and Sanitation Center. 128. Mamo G. & EspenSjaastad P. (2007). Economic dependence on forest resources:
A case from Dendi District, Ethiopia. Forest Policy and Economics. Volume 9,
Issue 8. 916 - 927. 129. Marcia L. C. (2007). Online Community Development, Ageless Learner, 1997-
at Retrieved March 2007. 2017 15 on http://www.agelesslearner.com/intros/community.html. 130. Matiku P., Caleb M. & Callistus O. (2013). ‘The impact of participatory forest
the Arabako Sokoke Forest, local in livelihoods management on
Kenya’, Conservation and Society 11(2): 12 - 129. 131. Milbourne P., Marsden T. & Kitchen L. (2008). Scaling Post-Industrial Forestry:
The Complex Implementation of National Forestry Regimes in the Southern Valleys of Wales. Antipode. 40. 612–631. 132. Nisbet R. (1969). The quest for community. Oxford University Press, New York.
133. Peter N. D., Patrick W. M., Florence C. & Luc B. (1994). Community forests in
Canada: An overview. Retrieved on 15 March 2017 at https://pubs.cif-
ifc.org/doi/pdf/10.5558/tfc70711-6. 134. Phuc T. X. (2002). Forest Policies and People’s Livelihood in an Upland Community of Northern Vietnam. Ateneo de Manila University. 150 135. Poffenberger (1990). Keepers of the Forest: Land management alternatives in Southeast Asia, Kumarian Press. West Hartford, CT. 136. Poffenberger (1998). Stewards of Vietnam’s upland forests. Asia forest networkresearch report. 137. Priya S. S. & Rucha G. S. (2011). Rights, Responsibilities and Resources:
Examining Community Forestry in South Asia, economic and the enviroment. Nagpur, India, Number 54-11. 59-11. 138. Pulhin J. M. & Pulhin P. M. (2003). Community based forest management in the
Philippines: Retrospect and prospects. In: Inoue, M. (ed.). People and forest in
Southeast Asia, Fareast Russia, and Japan: Forest policy and local reality. Kluwer Academic Publishers, The Netherlands. 139–156. 139. Pulhin J. M. (2003). Trends in forest policy of the Philippines. Policy trend report
2003, IGES Forest Conservation Project. Retrieved on 20 March 2017
https://www.iges.or.jp/en/publication_documents/pub/policyreport/en/180/03_Phil
ippines.pdf 140. Rambo A. & Jamieson L. (2003). Upland Areas, Ethnic Minorities and
Development, in Hy Van Luong (ed.), Postwar Vietnam: Dynamics of a
Transforming Society, Rowman and Littlefield, Oxford. 139–170. 141. Reyes-Garcia V., Babigumira R., Pyhälä A., Wunder S., Zorondo-Rodríguez F. &
Angelsen A. (2016). Subjective wellbeing and income: empirical patterns in the
rural developing world. Journal of Happiness Studies. April 2016. Volume
17, Issue 2. 773–791. 142. Rozemeijer N. & Van D. J. (2000). Community - based natural resources
management in Botswana: How community - based is community - based natural
resources management in Botswana?, in Shackleton & B Campbell (eds).
Empowering communities to manage natural resources: Case studies from
Southern Africa. SADC Wildlife Sector – Natural Resources Management
Programme and CSIR, Lilongwe, Malawi. 143. Sally J. (2001). Communities and forest management in Western Europe.
at March 2017 on 15 Retrieved
https://portals.iucn.org/library/efiles/documents/2001-061.pdf 144. Smith P. M., Bustamante M., Ahammad H., Clark H., Dong H., Elsiddig E. A.,
Haberl H., Harper R., House J., Jafari M., Masera O., Mbow C., Ravindranath N.
H., Rice C.W., Robledo Abad C., Romanovskaya A., Sperling F. & Tubiello F.
(2014). Agriculture, forestry and other land use (AFOLU). In Climate change
2014: mitigation of climate change. Contribution of working group III to the fifth
assessment report of the Intergovernmental Panel on Climate Change. IPCC,
Cambridge University Press, Cambridge, United Kingdom. 151 145. Sunderlin W. D., Angelsen A., Belcher B., Burgers P., Nasi R., Santoso L. &
Wunder S. (2006). Livelihoods, Forests and Conservation in Developing Countries: An Overview. World Development. 33(9): 1383 -1402. 146. Tabachnick A. & Fideel F. (1996). Using Multivariate Statistics (3rd ed.). New York: Harper Collins. 147. Taylor C. (1998). Where seeing is believing: exploring and reflecting upon the
implications for community based natural resource management. Occasionnal
paper series no 72. Edinburgh University: Centre for African Studies. 148. Teitelbaum S., Tom B. & Solange N. (2006). A national portrait of community
foerstry o public land in Canada. Forestry Chronicle, vol 82, #3. pp 416-428.
149. Yamane T. (1967). Statistics: An Introductory Analysis, 2nd Edition, New York: Harper and Row. 150. Yanti K. & Martua T. S. (2001). Community Participation in Forest Resource
Management in Indonesia. Policies, Practices, Constraints and Opportunities. Southeast Asia Policy Research Working Paper. 28. 152 PHỤ LỤC DANH MỤC PHỤ LỤC Phụ lục 1. Phiếu phỏng vấn cán bộ ............................................................................ 154 Phụ lục 2. Phiếu phỏng vấn hộ gia đình ..................................................................... 156 Phụ lục 3. Thống kê ý kiến phỏng vấn cán bộ về các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình ............................................................................................ 164 Phụ lục 4. Mức độ khai thác các sản phẩm từ rừng cộng đồng của các điểm nghiên cứu ................................................................................................. 166 Phụ lục 5. Các hoạt động quản lý đất rừng cộng đồng ............................................... 169 Phụ lục 6. Kết quả kiểm tra tầm quan trọng của thu nhập đối với kinh tế hộ ............ 168 Phụ lục 7. Kết quả kiểm tra Cronbach alpha .............................................................. 169 Phụ lục 8. Kết quả chạy EFA ..................................................................................... 172 Phụ lục 9. Kết quả chạy hồi quy đa biến .................................................................... 175 Phụ lục 10. Thống kê chung về các biến quan sát ........................................................ 176 Phụ lục 11. Tổng hợp thông tin điều tra hộ .................................................................. 177 Phụ lục 12. Một số hình ảnh khảo sát thực tế ............................................................... 185 Phụ lục 13. Quy ước quản lý, bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng ............................. 189 153 PHỤ LỤC 1. PHIẾU PHỎNG VẤN CÁN BỘ Với mục tiêu tìm hiểu thực trạng công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
(QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng), đánh giá được những thuận lợi, khó khăn từ đó đề xuất
giải pháp hoàn thiện công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương, nghiên cứu
sinh Phạm Thanh Quế tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu, đề xuất giải pháp
QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình”. Thực hiện đề tài này nghiên
cứu sinh tiến hành thu thập ý kiến của các cán bộ tại địa phương về các nội dung liên quan đến
công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Thông tin trong phiếu khảo sát này chỉ để phục vụ
mục tiêu nghiên cứu trên nên rất mong quý Ông (Bà) trả lời phù hợp với thực tế tại địa phương và thể hiện đúng quan điểm cá nhân. Xin trân trọng cảm ơn Ông (Bà)! PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG Họ tên người được phỏng vấn: ……………………………………………………… Cơ quan công tác……………………………………………………………………… Chức vụ: ………………………………………………………………………………. Trình độ học vấn: …………………………………………………………………….. PHẦN 2: THÔNG TIN VỀ ĐẤT RỪNG CỘNG ĐỒNG ĐỊA PHƯƠNG QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG 1. Ông/bà đánh giá như thế nào về công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương? …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… 2. Ông/bà đánh giá như thế nào về chính sách hưởng lợi đối với các cộng đồng
được giao đất, giao rừng? …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… 3. Ông/bà cho ý kiến về những thuận lợi, khó khăn trong công tác quản lý, sử dụng
đất rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương? …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… 154 4. Theo ông/bà những yếu tố nào có ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng tại địa phương không? 5. Ông/bà có đề xuất giải pháp gì để hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng
dựa vào cộng đồng tại địa phương?
…………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………… Xin trân trọng cảm ơn! 155 PHỤ LỤC 2. PHIẾU PHỎNG VẤN HỘ GIA ĐÌNH Xin trân trọng cảm ơn Ông (Bà)! Với mục tiêu tìm hiểu thực trạng công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
(QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng), đánh giá được những thuận lợi, khó khăn từ đó đề xuất
giải pháp hoàn thiện công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương, nghiên cứu
sinh Phạm Thanh Quế tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất
giải pháp QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình”. Thực hiện đề tài
này nghiên cứu sinh tiến hành thu thập ý kiến của các hộ dân trong cộng đồng thôn (bản) về
các nội dung liên quan đến công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Thông tin trong phiếu
khảo sát này chỉ để phục vụ mục tiêu nghiên cứu trên nên rất mong quý Ông (Bà) trả lời phù hợp
với thực tế tại địa phương và thể hiện đúng quan điểm cá nhân.
PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG
Thôn/bản:…..……..… xã: …………………huyện: …………… Tỉnh ……………….
Họ tên người được phỏng vấn: …………………………………………………………
Tuổi: …………………………… Dân tộc: ………………………….
Trình độ văn hóa: ……………….. số lao động trong gia đình: ……………………
Kinh tế gia đình theo chuẩn: [ ] Giàu [ ] Khá [ ] Trung bình [ ] Cận nghèo [ ] Nghèo
PHẦN 2: THÔNG TIN VỀ THU NHẬP CỦA HỘ
1. Gia đình có nguồn thu nào sau đây?
[ ] Làm ruộng [ ] Làm nương [ ] Chăn nuôi [ ] Từ rừng riêng của hộ
[ ] Từ rừng cộng đồng [ ] Khác
2. Chi tiết các nguồn thu trong năm của gia đình? Tổng thu Tổng chi Các nguồn thu Chi
khác Công
thuê
ngoài Sản
phẩm
bán
(đồng) Sản
phẩm để
dùng
(đồng) Giống,
vật tư,
thức
ăn… Phân
bón,
thuốc
BVTV 1. Làm lúa nước
2. Làm nương
3. Từ cây khác
4. Từ chăn nuôi
5. Từ đất rừng của gia đình
6. Từ đất rừng cộng đồng
Gỗ
Củi
Lâm sản ngoài gỗ
(Cụ thể từng loại) 7. Thu khác 156 PHẦN 3: THÔNG TIN VỀ ĐẤT RỪNG ĐƯỢC QUẢN LÝ DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG 1. Gia đình tham gia quản lý, sử dụng đất của cộng đồng từ năm nào? ……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………… 2. Khi tham gia quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng gia đình phải đóng góp
tiền/hiện vật và công sức bao nhiêu/năm: - Bằng tiền:................................................ - Công lao động: ……………………….. - Bằng hiện vật khác:....................................... 3. Công lao động gia đình đóng góp cho việc quản lý, sử dụng đất rừng của cộng
đồng như thế nào? Công LĐ trước khi giao cho CĐ 1994
(công/năm/hộ) Công LĐ Sau khi giao cho CĐ (2015)
(công/năm/hộ) chăm sóc Bảo vệ Khác chăm sóc Bảo vệ Khác 4. Ông/bà đánh giá như thế nào về việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng? Mức độ Tiêu chí Không
quan trọng Ít quan
trọng Bình
thường Quan
trọng Rất quan
trọng Có GCN quyền sử dụng đất Bảo vệ đất, bảo vệ nguồn nước Nơi linh thiêng của Bản Nguồn cung cấp gỗ, củi cho
gia đình Nguồn thu nhập của gia đình 5. Theo Ông/bà chất lượng rừng có thay đổi so với trước khi được giao đất, giao
rừng không? [ ] Tốt hơn [ ] Không thay đổi [ ] Kém đi 6. Theo Ông/bà mức độ xói mòn đất có thay đổi so với trước đây ko? [ ] Giảm đi [ ] Không thay đổi [ ] Tăng lên 157 7. Theo Ông/bà chất lượng nguồn nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt có thay
đổi so với trước khi được giao đất, giao rừng không? Chất lượng nước so với trước khi giao cho cộng đồng Tiêu chí Tốt hơn Không thay đổi Kém hơn Nước dùng cho sản xuất Nước dùng cho sinh hoạt 8. Mục đích gia đình tham gia quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng là gì? [ ] Để có thêm thu nhập [ ] Để bảo vệ nguồn nước [ ] Để có gỗ, củi [ ] Để được khai thác các lâm sản (măng, cây thuốc) 9. Cộng đồng đã có quy ước trong công tác quản lý bảo vệ rừng chưa? [ ] Đã có [ ] Chưa có 10. Ông/ bà biết đến quy ước thông qua hình thức nào? [ ] Được phát [ ] Họp dân [ ] Đọc trên biển báo [ ] Đọc tại nhà cộng đồng [ ] Khác: ….. 11. Ông/ bà có được tham gia xây dựng quy ước không? [ ] Được tham gia [ ] Không được tham gia [ ] Không biết 12. Ông/ bà đánh giá như thế nào về vai trò của quy ước trong công tác quản lý,
bảo vệ rừng cộng đồng? [ ] Rất quan trọng [ ] Quan trọng [ ] Trung bình [ ] Ít quan trọng [ ] Không quan trọng 13. Ông/bà đánh giá thế nào về công tác quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng hiện nay? [ ] Rất tốt [ ] Tốt [ ] Bình thường [ ] Kém [ ] Rất kém 14. Ông/bà có muốn tiếp tục tham gia quản lý, sử dụng đất rừng theo hình thức
cộng đồng nữa không? Tại sao? [ ] Có tham gia [ ] Không tham gia Lý do: …………………………………………………………………………………. … ……………………………………………………………………………………………. 15. Diện tích đất rừng cộng đồng được giao dưới hình thức nào? [ ] Tự cộng nhận (không có quyết định giao đất) [ ] Thuê đất [ ] Nhà nước giao đất (có quyết định giao đất) [ ] Hợp đồng khoán 158 PHẦN 4: ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ, SỬ
DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Đối với mỗi nhận định/ đánh giá ông (bà) hãy khoanh tròn vào một trong các con số từ 1 đến 5 theo quy ước: 1 – Rất kém; 2 – Kém; 3 – Trung bình; 4 – Tốt; 5 – Rất tốt Các nhận định/ đánh giá Mức độ STT
I. Ông (bà) đánh giá như thế nào về tình hình thực hiện những quy định của pháp luật về
công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương? 1 1 2 3 4 5 2 1 2 3 4 5 3 1 2 3 4 5 4 1 2 3 4 5 5 1 2 3 4 5 6 1 2 3 4 5 7 1 2 3 4 5 8 1 2 3 4 5 9 1 2 3 4 5 Việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về công tác QLSD đất
rừng dựa vào cộng đồng
Công tác tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật quy định về công tác
QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng
Những quy định pháp luật về công tác giao đất, giao rừng cho cộng đồng
của địa phương
Những quy định của pháp luật về loại đất rừng giao cho cộng đồng quản
lý, sử dụng
Những quy định pháp luật về vấn đề hưởng lợi đối với công tác QLSD
đất rừng dựa vào cộng đồng
Những quy định của pháp luật về chính sách hỗ trợ đối với công tác
QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng.
Những quy định pháp luật về các quyền, nghĩa vụ của cộng đồng trong
công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng.
Những quy định về xử lý các hành vi vi phạm pháp luật có liên quan đến
công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng (khai thác trộm, tranh chấp,
lấn chiếm đất rừng, cháy rừng…)
Những quy ước, hương ước của thôn (bản) trong công tác QLSD đất rừng
dựa vào cộng đồng. II. Ông (bà) đánh giá như thế nào về thực trạng các yếu tố tự nhiên, cơ sở hạ tầng của diện
tích đất rừng được QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng? 1 1 2 3 4 5 2 1 2 3 4 5 3 1 2 3 4 5 4 1 2 3 4 5 5 1 2 3 4 5 Quy mô diện tích đất rừng thực tế giao cho các cộng đồng quản lý, sử
dụng
Khoảng cách từ nơi cư trú của cộng đồng đến đất rừng được giao (tính từ
trung tâm của thôn (bản))
Địa hình của đất rừng giao cho các cộng đồng (thuận lợi, hiểm trở, phức
tạp)
Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội (cơ sở dịch vụ, thị trường) phục vụ công
tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng
Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật (hệ thống giao thông, thủy lợi) phục vụ
công tác quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng 159 Chất lượng tài nguyên rừng khi giao cho cộng đồng 6
7 Khả năng sẵn có của tài nguyên rừng (lâm sản, lâm sản ngoài gỗ) 1 2 3 4 5
1 2 3 4 5 III. Ông (bà) đánh giá như thế nào về thực trạng các yếu tố liên quan đến kinh tế của diện
tích đất rừng được QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng? 1 1 2 3 4 5 2 1 2 3 4 5 3 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5
1 2 3 4 5 6 1 2 3 4 5 7 1 2 3 4 5 8 1 2 3 4 5 Điều kiện kinh tế của các hộ gia đình tham gia vào công tác QLSD đất
rừng dựa vào cộng đồng.
Hầu hết các sản phẩm như gỗ, củi khai thác từ rừng cộng đồng được sử
dụng cho mục đích làm nhà cửa, làm bàn ghế, sử dụng trong đun nấu của
người dân trong cộng đồng mà ít khi được bán ra bên ngoài.
Các lâm sản ngoài gỗ (tre, luồng, măng, mây, mật ong…) thu thu được từ
rừng cộng đồng được bán ra bên ngoài.
4 Mức độ phụ thuộc vào rừng của người dân
Thị trường tiêu thụ các sản phẩm từ rừng
5
Việc vay vốn (vay tiền) từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng (Ngân hàng
nông nghiệp, ngân hàng chính sách xã hội, Quỹ tín dụng xã) cho công tác
QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng.
Việc sử dụng quỹ của cộng đồng trong công tác quản lý, chăm sóc, bảo
vệ rừng cộng đồng
Các nguồn gây quỹ quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng (phí chi trả
DVMTR, tiền nhận khoán quản lý, bảo vệ, tài trợ của một số dự án….) IV. Ông (bà) đánh giá như thế nào về thực trạng các yếu tố liên quan đến xã hội của diện
tích đất rừng được QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng? 1 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 2 1 2 3 4 5 3 1 2 3 4 5 4 1 2 3 4 5 Kiến thức bản địa (như: nhận biết các loài cây rừng, động vật rừng, kiến
thức về trồng trọt, chăn nuôi, khai thác và sử dụng các sản phẩm từ rừng).
Phong tục, tập quán, tín ngưỡng của các cộng đồng khác nhau trong công
tác quản lý, sử dụng đất rừng
Vai trò của lãnh đạo địa phương (chủ tịch xã, chủ tịch hợp tác xã, trưởng
thôn, già làng) trọng trong việc chỉ đạo, hướng dẫn người dân QLSD đất
rừng dựa vào cộng đồng.
Vai trò của các cán bộ kiểm lâm, cán bộ nông nghiệp trong việc hướng
dẫn người dân quản lý, chăm sóc, bảo vệ và khai thác các sản phẩm trong
rừng của cộng đồng.
Các tổ chức khác như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên thôn
(bản) đã hỗ trợ nhiều cho người dân về kỹ thuật, kinh nghiệm trong việc
chăm sóc,bảo vệ rừng và khai thác gỗ, củi cũng như các lâm sản ngoài gỗ
khác từ rừng cộng đồng. 160 PHẦN 5: ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ông (bà) vui lòng cho biết những nhận định/ đánh giá về mức độ ảnh hưởng của
một số yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn
tỉnh Hòa Bình. (Đối với mỗi nhận định/ đánh giá ông (bà) hãy khoanh tròn vào một
trong các con số từ 1 đến 5 theo quy ước: 1 – Không quan trọng; 2 – Ít quan trọng; 3 –
Trung bình; 4 – Quan trọng; 5 – Rất quan trọng) STT Các nhận định/ đánh giá Mức độ I 1 1 2 3 4 5 2 1 2 3 4 5 Đánh giá/nhận định liên quan đến những quy định của pháp luật về công tác quản lý,
sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
Việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về công tác QLSD đất
rừng dựa vào cộng đồng.
Công tác tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật quy định về công
tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Những quy định pháp luật về công tác giao đất, giao rừng cho cộng đồng 3 1 2 3 4 5 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 6 1 2 3 4 5 7 1 2 3 4 5 8 1 2 3 4 5 9 1 2 3 4 5 II của địa phương.
Những quy định của pháp luật về loại đất rừng giao cho cộng đồng
quản lý, sử dụng.
Những quy định pháp luật về vấn đề hưởng lợi đối với công tác
QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng.
Những quy định của pháp luật về chính sách hỗ trợ đối với công tác
QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng.
Những quy định pháp luật về các quyền, nghĩa vụ của cộng đồng trong
công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng.
Những quy định về xử lý các hành vi vi phạm pháp luật có liên quan
đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng (khai thác
trộm, tranh chấp, lấn chiếm đất rừng, cháy rừng…)
Những quy ước, hương ước của thôn (bản) trong công tác QLSD đất
rừng dựa vào cộng đồng.
Đánh giá/ nhận định liên quan đến yếu tố tự nhiên, cơ sở hạ tầng ảnh hưởng đến việc
quản lý và sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng 1 Quy mô diện tích đất rừng thực tế giao cho các cộng đồng QLSD 1 2 3 4 5 2 1 2 3 4 5 3 1 2 3 4 5 4 1 2 3 4 5 5 1 2 3 4 5 Khoảng cách từ nơi cư trú của cộng đồng đến đất rừng được giao
(tính từ trung tâm của thôn (bản).
Địa hình của đất rừng giao cho các cộng đồng (thuận lợi, hiểm trở,
phức tạp).
Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội (cơ sở dịch vụ, thị trường) phục vụ
công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng.
Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật (hệ thống giao thông, thủy lợi) phục
vụ công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. 161 Các nhận định/ đánh giá Chất lượng tài nguyên rừng khi giao cho cộng đồng Mức độ
1 2 3 4
1 2 3 4 STT
6
7 Khả năng sẵn có của tài nguyên rừng (lâm sản, lâm sản ngoài gỗ). III 1 2 3 4 1 5 1 2 3 4 2 5 1 2 3 4 3 5 5
5
Đánh giá/ nhận định về những yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến việc QLSD đất rừng
dựa vào cộng đồng
Điều kiện kinh tế của các hộ gia đình tham gia vào công tác QLSD
đất rừng dựa vào cộng đồng.
Hầu hết các sản phẩm như gỗ, củi khai thác từ rừng cộng đồng được
sử dụng cho mục đích làm nhà cửa, làm bàn ghế, sử dụng trong đun
nấu của người dân trong cộng đồng mà ít khi được bán ra bên ngoài.
Các lâm sản ngoài gỗ (tre, luồng, măng, mây, mật ong…) thu thu
được từ rừng cộng đồng được bán ra bên ngoài. 4 Mức độ phụ thuộc vào rừng của người dân.
5 1 2 3 4 5 6 1 2 3 4 5 7 1 2 3 4 5 8 1 2 3 4 5 Thị trường tiêu thụ các sản phẩm từ rừng.
Việc vay vốn (vay tiền) từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng (Ngân
hàng nông nghiệp, ngân hàng chính sách xã hội, Quỹ tín dụng xã) cho
công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng.
Việc sử dụng quỹ của cộng đồng trong công tác quản lý, chăm sóc,
bảo vệ rừng cộng đồng.
Các nguồn gây quỹ quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng (phí chi
trả DVMTR, tiền nhận khoán quản lý, bảo vệ, tài trợ của một số dự
án….). IV Nhóm yếu tố xã hội ảnh ảnh hưởng đến việc QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng 1 1 2 3 4 5 2 1 2 3 4 5 3 1 2 3 4 5 4 1 2 3 4 5 5 1 2 3 4 5 Kiến thức bản địa (như: nhận biết các loài cây rừng, động vật rừng,
kiến thức về trồng trọt, chăn nuôi, khai thác và sử dụng các sản phẩm
từ rừng).
Phong tục, tập quán, tín ngưỡng của các cộng đồng khác nhau trong
công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng.
Vai trò của lãnh đạo địa phương (chủ tịch xã, chủ tịch hợp tác xã,
trưởng thôn, già làng) trọng trong việc chỉ đạo, hướng dẫn người dân
về QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng.
Vai trò của các cán bộ kiểm lâm, cán bộ nông nghiệp trong việc
hướng dẫn người dân quản lý, chăm sóc, bảo vệ và khai thác các sản
phẩm trong rừng của cộng đồng.
Các tổ chức khác như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên
thôn (bản) đã hỗ trợ nhiều cho người dân về kỹ thuật, kinh nghiệm
trong việc chăm sóc,bảo vệ rừng và khai thác gỗ, củi cũng như các
lâm sản ngoài gỗ khác từ rừng cộng đồng. 162 PHẦN 6. ĐÁNH GIÁ VỀ KẾT QUẢ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA
VÀO CỘNG ĐỒNG Ông (bà) vui lòng cho biết những nhận định/ đánh giá về kết quả công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. (Đối với mỗi nhận định/ đánh giá ông (bà) hãy khoanh tròn vào một trong các con số từ
1 đến 5 theo quy ước: 1 – Rất kém; 2 – Kém; 3 – Trung bình; 4 – Tốt; 5 – Rất tốt) STT Mức độ 1 2 3 4 5 1 1 2 3 4 5 2 1 2 3 4 5 3 1 2 3 4 5 4 1 2 3 4 5 5 1 2 3 4 5 6 1 2 3 4 5 7 Các nhận định/ đánh giá
Việc QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng là phù hợp và mang lại
nhiều lợi ích cho người dân sống bằng nghề rừng, góp phần tích
cực trong công tác bảo vệ và phát triển rừng.
Việc QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng góp phần nâng cao thu
nhập của người dân trong cộng đồng.
Việc QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng góp phần xóa đói, giảm
nghèo.
Việc QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng góp phần nâng cao nhận
thức của người dân về vai trò của rừng.
Việc QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng góp phần thay đổi sự phân
công lao động trong cộng đồng.
Việc QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng góp phần duy trì nguồn
nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt.
Việc QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng góp phần giảm vi phạm
trong quá trình sử dụng đất rừng. Người cung cấp thông tin Người điều tra (Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, ghi rõ họ tên) 163 Phụ lục 3: Thống kê ý kiến phỏng vấn cán bộ về các yếu tố ảnh hưởng đến công
tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình Không Đồng ý Tỷ lệ Tỷ lệ STT Yếu tố ảnh hưởng đồng ý (người) (%) (%) (người) Nhóm I Những QĐPL Ban hành các văn bản pháp luật 87,80 5,00 12,20 36 1 Tổ chức thực hiện các văn bản 92,68 3,00 7,32 38 2 pháp luật QĐPL về công tác giao đất, giao 40 97,56 1,00 2,44 3 rừng cho cộng đồng QĐPL về loại đất rừng giao cho 85,37 6,00 14,63 35 4 cộng đồng QĐPL về vấn đề hưởng lợi 100,00 0,00 0,00 41 5 QĐPL về chính sách hỗ trợ 82,93 7,00 17,07 34 6 QĐPL về các quyền, nghĩa vụ của 97,56 1,00 2,44 40 7 cộng đồng QĐPL về các hành vi vi phạm 30 73,17 11,00 26,83 8 pháp luật Quy ước, hương ước của thôn 41 100,00 0,00 0,00 9 (bản) Nhóm II Yếu tố tự nhiên và cơ sở hạ tầng Quy mô diện tích đất rừng giao cho 35 85,37 6,00 14,63 10 các cộng đồng Khoảng cách từ nơi cư trú của cộng 92,68 3,00 7,32 38 11 đồng đến đất rừng Địa hình của đất rừng được giao 87,80 5,00 12,20 36 12 Cơ sở hạ tầng xã hội (hệ thống 80,49 8,00 19,51 33 13 dịch vụ, thị trường) Cơ sở hạ tầng kỹ thuật (giao 68,29 13,00 31,71 28 14 thông, thủy lợi) Chất lượng tài nguyên rừng 97,56 1,00 2,44 40 15 164 Khả năng sẵn có của tài nguyên 16 41 100,00 0,00 0,00 rừng Nhóm III Yếu tố kinh tế 17 Điều kiện kinh tế hộ gia đình 100,00 0,00 0,00 41 Các sản phẩm gỗ, củi ít được bán 18 60,98 16,00 39,02 25 trên thị trường Các lâm sản ngoài gỗ được bán 19 39 95,12 2,00 4,88 trên thị trường Mức độ phụ thuộc vào rừng của 20 26 63,41 15,00 36,59 người dân Thị trường tiêu thụ các sản phẩm 21 25 60,98 16,00 39,02 thu được từ rừng Việc vay vốn từ các ngân hàng, tổ 22 30 73,17 11,00 26,83 chức tín dụng Việc sử dụng quỹ quản lý rừng 23 41 100,00 0,00 0,00 cộng đồng Các nguồn gây quỹ quản lý rừng 24 41 100,00 0,00 0,00 cộng đồng Nhóm IV Yếu tố xã hội 25 24,39 31,00 75,61 Trình độ dân trí 10 Kiến thức bản địa của người dân 26 41 100,00 0,00 0,00 trong cộng đồng 27 Phong tục, tập quán, tín ngưỡng 100,00 0,00 0,00 41 28 Vấn đề về giới 21,95 32,00 78,05 9 29 Độ tuổi của lao động 36,59 26,00 63,41 15 30 Vai trò của lãnh đạo địa phương 100,00 0,00 0,00 41 Vai trò của các cán bộ kiểm lâm, 31 41 100,00 0,00 0,00 cán bộ nông nghiệp Vai trò của các tổ chức khác (Hội 32 Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn 35 85,37 6,00 14,63 thanh niên) 165 Phụ lục 4. Mức độ khai thác các sản phẩm từ rừng cộng đồng của các điểm nghiên cứu Sa nhân 9 7,6 5,2 10 10,3 4,5 25 12,3 12,3 5,4 26 4,8 10 8,9 4,8 16,0 10,3 4,9 12 14,3 5,9 13 12,6 6,2 28 15,6 13,5 8,2 20 6,9 15 16,5 6,1 17,6 14,5 6,7 5 6,5 5,5 7 8,6 4,3 15 10,2 7,6 6,8 16 3,6 6 8,6 7,6 9,8 8,3 5,6 Giảo cổ
Lam
Chuối
hột Không quá 10
kg/lần Xạ đen 16 15,4 8,2 18 16,4 7,8 32 18,5 15,1 10,5 28 12,5 15 16,8 9,0 21,8 16,4 9,6 Cỏ máu 23 18,3 3,8 22 15,6 4,2 35 15,4 16,2 3,8 30 3,2 24 15,2 3,3 26,8 16,1 3,7 11 6,4 4,6 13 5,2 4,6 16 6,5 4,9 3,4 18 3,6 10 5,8 3,7 13,6 5,8 4,0 Rau 15 13,4 2,6 20 22,4 2,2 36 24,6 20,1 2,8 34 10,6 2,2 25,0 18,2 2,1 20 2,4 Măng 12 8 16,8 13 10,5 15,6 20 12,5 11,2 18,9 18 14,6 10 4,5 15,8 14,6 9,3 16,3 7 4,5 15,7 6 6,8 16,5 15 6,4 5,2 20,4 10 15,7 6 3,2 26,3 8,8 5,2 18,9 Sấu,
trám Không quá 10
kg/lần
Không quá 20
kg/lần
Không được
chặt, hạ, đào
gốc Mật ong 3 2 3,0 4 6 4,4 10 5,5 4,1 3,4 9 3,4 5 1,5 2,4 6,2 3,8 3,3 Không đốt lửa Củi 15 12 30,5 21 13,9 23,4 36 12,5 12,9 30,5 30 26,7 18 27,9 12,5 28,5 24,0 12,8 Tre, nứa 15 2,5 40,6 16 6,5 40,8 23 8,4 7,6 41,2 20 36,8 15 4,6 38,6 17,8 5,9 39,6 Mây 10 3 21,5 13 4,5 18,5 20 5,6 5,2 20,1 16 15,9 12 5,8 20,2 14,2 4,8 19,2 Không được
chặt cây làm củi
Không quá 50
cây/lần
Không quá 20
kg/lần 4 1,2 4,1 6 3 4,5 13 5,2 3,4 5,3 10 3,6 6 3,7 3,6 7,8 3,3 4,2 Phong
lan Không quá 10
kg/lần 166 Phụ lục 5. Các hoạt động quản lý đất rừng cộng đồng Lãnh đạo Người 2 2 2 2 2 Lực lượng BVR Tổ/đội 4 1 1 2 3 Số lượng người trong tổ Người 7 - 8 6 6 5 8 Kinh phí thực hiện Đồng/ha/năm Tiền chi trả
DVMTR: 151.782 Tiền dự án chi trả:
200.000 Tiền dự án chi trả:
200.000 Nhà nước hỗ trợ:
200.000 Hoạt động BVR Tháng/lần Tiền chi trả
DVMTR:
151.782
2 3 2 Tổ chức quản lý - Cộng đồng tự quản:
Lãnh đạo thôn chịu
trách nhiệm Bảo vệ theo từng lô,
hoạt động liên tục
Ban quản lý RCĐ:
Trưởng ban; Kế toán;
Thủ quỹ Bảo vệ theo từng lô,
hoạt động liên tục
Ban quản lý RCĐ:
Trưởng ban; Kế
toán; Thủ quỹ - Sự tham gia của cộng
đồng Kết hợp với Tổ bảo
vệ, theo sự phân công Cộng đồng tự
quản: Lãnh đạo
thôn chịu trách
nhiệm
Kết hợp với đội
tuần tra rừng, tinh
thần tự nguyện Kết hợp với đội tuần
tra rừng, tinh thần tự
nguyện Kết hợp với Tổ bảo
vệ, theo sự phân
công Cộng đồng tự
quản: Lãnh đạo
thôn chịu trách
nhiệm
Kết hợp với đội
tuần tra rừng,
tinh thần tự
nguyện 167 Phụ lục 6. Kết quả kiểm tra tầm quan trọng của thu nhập đối với kinh tế hộ
Chi-Square Tests Value df Asymp. Sig. (2-sided) Pearson Chi-Square 44.640a 6 .000 Likelihood Ratio 44.080 6 .000 Linear-by-Linear 40.533 1 .000 Association N of Valid Cases 219 a. 3 cells (25.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 2.73. 168 Phụ lục 7. Kết quả kiểm tra CRONBACH ALPHA
5.1. Biến pháp luật liên quan đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng Reliability Statistics
N of
Cronbach's
Items
Alpha .873 9 Item-Total Statistics Scale Mean if Item
Deleted Scale Variance if
Item Deleted Corrected Item-
Total Correlation Cronbach's Alpha
if Item Deleted 30.68
30.64
30.63
30.56
30.42
30.68
30.72
30.68
30.60 28.090
28.102
28.207
27.743
28.043
28.235
28.800
28.595
29.222 .631
.619
.624
.641
.632
.631
.561
.600
.551 .857
.858
.858
.856
.857
.857
.864
.860
.864 PL01
PL02
PL03
PL04
PL05
PL06
PL07
PL08
PL09 Reliability Statistics Cronbach's Alpha N of Items .809 7 Scale Mean if Item
Deleted Item-Total Statistics
Scale Variance if
Item Deleted Cronbach's Alpha
if Item Deleted Corrected Item-
Total Correlation
.522
.494
.561
.539
.556
.581
.547 13.084
13.278
12.639
12.917
12.748
12.458
12.778 22.87
22.82
22.85
22.93
22.87
22.86
22.58 .787
.792
.780
.784
.781
.776
.783 TN01
TN02
TN03
TN04
TN05
TN06
TN07 169 Reliability Statistics Cronbach's Alpha N of Items .890 8 Scale Mean if Item
Deleted Item-Total Statistics
Scale Variance if
Item Deleted Corrected Item-
Total Correlation Cronbach's
Alpha if Item
Deleted KT01
KT02
KT03
KT04
KT05
KT06
KT07
KT08 26.85
26.87
26.82
26.55
26.79
26.81
26.84
26.71 22.615
22.556
22.783
23.092
22.659
22.712
23.123
23.050 .683
.681
.661
.610
.694
.676
.647
.659 .874
.875
.877
.882
.873
.875
.878
.877 5.4. Biến xã hội có ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa Reliability Statistics Cronbach's Alpha N of Items .852 5 Scale Mean if Item
Deleted Item-Total Statistics
Scale Variance if
Item Deleted Corrected Item-
Total Correlation Cronbach's
Alpha if Item
Deleted XH01
XH02
XH03
XH04
XH05 14.46
14.57
13.96
14.50
15.47 11.158
10.880
13.709
11.508
12.039 .682
.718
.545
.690
.707 .818
.808
.851
.815
.812 170 Reliability Statistics Cronbach's Alpha N of Items .842 7 Scale Mean if Item
Deleted Item-Total Statistics
Scale Variance if
Item Deleted Corrected Item-
Total Correlation Cronbach's
Alpha if Item
Deleted KQ01
KQ02
KQ03
KQ04
KQ05
KQ06
KQ07 23.40
23.38
23.36
23.24
23.25
23.24
23.24 10.176
10.934
10.323
10.732
10.884
11.283
10.907 .731
.588
.637
.619
.620
.553
.552 .814
.835
.829
.831
.831
.840
.841 171 Phụ lục 8. Kết quả chạy EFA Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of
Sphericity Approx. Chi-Square
df
Sig. .901
2723.019
406
.000 KMO and Bartlett's Test 8.649
2.969
2.263
1.805 29.824
10.236
7.804
6.224 15.798
15.610
11.689
10.992 15.798
31.407
43.096
54.088 29.824 4.581
40.060 4.527
47.864 3.390
54.088 3.188 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29 8.649
2.969
2.263
1.805
.979
.941
.853
.765
.711
.709
.653
.636
.621
.595
.566
.537
.510
.489
.463
.430
.400
.386
.378
.345
.324
.293
.267
.247
.215 29.824
10.236
7.804
6.224
3.377
3.246
2.943
2.638
2.451
2.445
2.252
2.193
2.141
2.051
1.953
1.852
1.758
1.688
1.596
1.484
1.381
1.331
1.304
1.188
1.116
1.012
.922
.851
.741 29.824
40.060
47.864
54.088
57.465
60.711
63.654
66.292
68.743
71.188
73.440
75.633
77.774
79.825
81.777
83.629
85.387
87.075
88.671
90.155
91.536
92.866
94.171
95.359
96.475
97.486
98.408
99.259
100.000 Extraction Method: Principal Component Analysis. 172 Rotated Component Matrixa Component 1 2 3 4 .707
.705
.701
.695
.683
.681
.675
.642
.634 PL04
PL02
PL06
PL05
PL01
PL03
PL08
PL09
PL07
KT06
KT02
KT08
KT07
KT01
KT05
KT03
KT04 .738
.737
.721
.704
.704
.697
.667
.589 TN07 .681 .674
.667
.659
.622
.613
.575 TN05
TN06
TN03
TN04
TN01
TN02
XH02
XH01
XH05
XH03
XH04 .794
.766
.742
.730
.727 Extraction Method: Principal Component Analysis.
Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.
a. Rotation converged in 6 iterations. 173 KMO and Bartlett's Test Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Approx. Chi-Square .857
581.713 df 21 Bartlett's Test of
Sphericity Sig. .000 Total Variance Explained Component Initial Eigenvalues Extraction Sums of Squared Loadings Total Total % of
Variance Cumulative
% % of
Variance Cumulative
% 3.726 53.225 53.225 1
2
3
4
5
6
7 3.726
.894
.670
.526
.461
.448
.275 53.225
12.776
9.574
7.515
6.580
6.398
3.932 53.225
66.002
75.576
83.091
89.671
96.068
100.000 Extraction Method: Principal Component Analysis. Component Matrixa Component 1 KQ01
KQ03
KQ02
KQ06
KQ05
KQ07
KQ04 .827
.753
.734
.733
.711
.670
.668 Extraction Method: Principal
Component Analysis.
a. 1 components extracted. 174 Phụ lục 9. Kết quả chạy hồi quy đa biến R R Square Durbin-Watson Mode
l Model Summaryb
Adjusted R
Square Std. Error of the
Estimate 1 .866a .750 .745 .27257 2.116 a. Predictors: (Constant), F_XH, F_CS, F_TN, F_KT
b. Dependent Variable: F_KQ Sum of Squares Mean Square F ANOVAa
df Model 47.625 4 160.260 Sig.
.000b Regression 15.899 1 Residual 11.906
.074 63.524 214
218 Total a. Dependent Variable: F_KQ
b. Predictors: (Constant), F_XH, F_CS, F_TN, F_KT Coefficientsa Model t Sig. Unstandardized
Coefficients Standardized
Coefficients Collinearity
Statistics B Std. Error Beta Tolerance VIF (Constant) .379 2.638 F_PL .236 .144
.025 9.488 .009
.000 .369 .773 1.293 F_TN .314 .032 9.638 .000 .382 .787 1.271 F_KT .086 .035 2.453 .015 .108 .600 1.666 F_XH .303 .038 8.026 .000 .330 .693 1.443 a. Dependent Variable: F_KQ 175 Phụ lục 10. Thống kê chung về các biến quan sát N Minimum Maximum Mean Std. Deviation 3.76
3.81
3.78
3.80
3.76
3.77
4.05 3.78
3.67
4.28
3.74
3.01 5 3.77
5 3.81
5 3.82
5 3.89
5 4.03
5 3.77
5 3.74
5 3.77
5 3.85
5
5
5
5
5
5
5
5 3.76
5 3.74
5 3.79
5 4.05
5 3.81
5 3.79
5 3.76
5 3.89
5
5
5
5
4
5 3.79
5 3.80
5 3.82
5 3.95
5 3.94
5 3.95
5 3.95 .945
.958
.939
.978
.950
.926
.935
.915
.888
.835
.828
.883
.852
.866
.896
.871
.909
.919
.910
.922
.892
.903
.877
.874
1.172
1.182
.851
1.101
.989
.757
.725
.807
.740
.707
.682
.764 1
1
1
1
1
1
1
1
1
2
2
1
1
1
1
1
2
1
2
2
2
2
1
2
1
1
1
1
1
2
2
2
2
2
2
2 PL01
PL02
PL03
PL04
PL05
PL06
PL07
PL08
PL09
TN01
TN02
TN03
TN04
TN05
TN06
TN07
KT01
KT02
KT03
KT04
KT05
KT06
KT07
KT08
XH01
XH02
XH03
XH04
XH05
KQ01
KQ02
KQ03
KQ04
KQ05
KQ06
KQ07
Valid N (listwise) 219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219
219 176 Phụ lục 11. Tổng hợp thông tin điều tra hộ Phụ lục 11.1. Tổng hợp thông tin điều tra ý kiến đánh giá về vai trò của các yếu tố
về chính sách đối với công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng Bản Thôn Thôn Suối STT Tiêu chí đánh giá Thung
2 (hộ) Tổng
(hộ) Tỷ lệ
(%) Nhạc
(hộ) Đúc
(hộ) Củ
(hộ) Bến
(hộ) 36 39 47 219 100,00 48 49 Ban hành văn bản
pháp luật Rất tốt 0 0 0 0 0,00 0 0 Tốt 4 1 3 3 6,39 14 3 1 Trung bình 14 11 16 12 30,59 67 14 Kém 22 20 23 17 46,58 102 20 Rất kém 7 4 8 6 16,44 36 11 Tổ chức thực hiện 48 36 49 39 219 100,00 47 các văn bản Rất tốt 0 0 0 0 0,00 0 0 Tốt 7 3 7 2 10,50 23 4 2 Trung bình 19 16 24 18 44,75 98 21 Kém 18 14 17 17 39,27 86 20 Rất kém 4 3 1 2 5,48 12 2 Quy định về giao 48 36 49 39 219 100,00 47 đất, giao rừng Rất tốt 0 0 0 0 0,00 0 0 Tốt 4 2 3 1 5,48 2 12 3 Trung bình 21 14 20 15 43,84 26 96 Kém 17 16 22 18 40,18 15 88 Rất kém 6 4 4 5 10,50 4 23 48 36 49 39 219 100,00 47 Quy định về loại
đất rừng Rất tốt 0 0 0 0 0,00 0 0 Tốt 3 2 3 1 4,57 10 1 4 Trung bình 8 4 10 8 19,18 42 12 Kém 22 20 20 17 46,58 102 23 Rất kém 15 10 16 13 29,68 65 11 48 36 49 39 47 5 Quy định hưởng lợi 219 100,00 177 Rất tốt 1 2 1 1 1 6 2,74 Tốt 9 11 10 13 10 53 24,20 Trung bình 14 24 15 21 19 93 42,47 Kém 9 8 11 11 13 52 23,74 Rất kém 3 4 2 2 4 15 6,85 Quy định về hỗ trợ 36 219 100,00 49 39 48 47 Rất tốt 0 2 1 1 1 5 2,28 Tốt 5 6 6 7 7 31 14,16 6 19 18 Trung bình 21 22 21 101 46,12 Kém 9 12 9 12 14 56 25,57 Rất kém 3 8 5 6 4 26 11,87 Quy định quyền, 36 39 219 100,00 49 48 47 nghĩa vụ Rất tốt 0 0 0 0 0 0 0,00 Tốt 4 5 6 5 7 27 12,33 7 Trung bình 15 24 16 22 22 99 45,21 Kém 14 17 15 17 15 78 35,62 Rất kém 3 3 2 4 3 15 6,84 36 49 39 48 47 219 100,00 Quy định về xử lý
vi phạm Rất tốt 0 0 0 0 0 0 0,00 Tốt 3 6 4 4 5 22 10,04 8 Trung bình 16 23 17 24 22 102 46,58 Kém 13 18 14 19 18 82 37,44 Rất kém 4 2 4 1 2 13 5,94 Quy ước, hương 36 49 39 48 47 219 100,00 ước Rất tốt 2 2 3 4 2 13 5,94 Tốt 10 18 14 12 14 68 31,05 9 Trung bình 14 18 13 20 21 86 39,27 Kém 10 11 9 12 10 52 23,74 Rất kém 0 0 0 0 0 0 0,00 178 Phụ lục 11.2. Tổng hợp thông tin điều tra ý kiến đánh giá về hiện trạng tự nhiên và
cơ sở hạ tầng của diện tích đất rừng cộng đồng tại các điểm nghiên cứu Bản Thôn Thôn Suối STT Tiêu chí đánh giá Thung
2 (hộ) Tổng
(hộ) Tỷ lệ
(%) Đúc
(hộ) Nhạc
(hộ) Củ
(hộ) Bến
(hộ) 36 49 219 100,00 Quy mô diện tích 48 47 39 Rất thuận lợi 0 4 4 11 5,02 0 3 Thuận lợi 0 22 19 58 26,48 5 12 1 Trung bình 6 17 20 72 32,88 12 17 Không thuận lợi 10 5 4 40 18,26 14 7 Rất không thuận lợi 20 0 0 38 17,35 18 0 36 48 47 219 100,00 49 39 Khoảng cách từ nơi
cư trú Rất thuận lợi 0 0 0 0 0,00 0 0 Thuận lợi 0 1 0 2 0,91 0 1 2 Trung bình 8 9 7 38 17,35 7 7 Không thuận lợi 12 15 15 71 32,42 16 13 Rất không thuận lợi 16 23 25 108 49,32 26 18 Địa hình 36 48 47 219 100,00 49 39 Rất thuận lợi 0 0 0 0 0,00 0 0 Thuận lợi 0 0 0 0 0,00 0 0 3 Trung bình 8 8 8 40 18,26 7 9 Không thuận lợi 12 21 20 87 39,73 21 13 Rất không thuận lợi 16 19 19 92 42,01 21 17 36 48 47 219 100,00 49 39 Cơ sở hạ tầng xã
hội Rất thuận lợi 0 0 0 0 0,00 0 0 Thuận lợi 0 1 1 3 1,37 0 1 4 Trung bình 10 14 14 65 29,68 15 12 Không thuận lợi 12 20 21 88 40,18 22 13 Rất không thuận lợi 14 13 11 63 28,77 12 13 Cơ sở hạ tầng kỹ 36 48 47 219 100,00 49 39 thuật Rất thuận lợi 0 0 0 0 0,00 0 0 5 Thuận lợi 0 0 0 0 0,00 0 0 Trung bình 11 14 14 66 30,14 15 12 179 Không thuận lợi 11 14 22 20 19 86 39,27 Rất không thuận lợi 14 13 12 14 14 67 30,59 Chất lượng tài 36 39 49 48 219 100,00 47 nguyên rừng Rất thuận lợi 0 0 0 0 0 0 0,00 Thuận lợi 5 5 4 6 3 23 10,50 6 Trung bình 10 12 15 12 13 62 28,31 Không thuận lợi 8 10 17 18 16 69 31,51 Rất không thuận lợi 13 12 13 12 15 65 29,68 36 39 49 48 47 219 100,00 Khả năng sẵn có
của tài nguyên rừng Rất thuận lợi 0 0 0 0 0 0 0,00 Thuận lợi 1 1 1 2 0 5 2,28 7 Trung bình 12 13 17 14 13 69 31,51 Không thuận lợi 10 13 18 18 19 78 35,62 Rất không thuận lợi 13 12 13 14 15 67 30,59 180 Phụ lục 11.3. Tổng hợp thông tin điều tra ý kiến đánh giá về thực trạng các yếu tố
kinh tế của cộng đồng quản lý, sử dụng đất rừng tại điểm nghiên cứu Thung Tổng Tỷ lệ Bản
Nhạc Thôn
Đúc Thôn
Củ Suối
Bến STT Tiêu chí đánh giá 2 (hộ) (hộ) (%) (hộ) (hộ) (hộ) (hộ) 219 100,00 Kinh tế hộ 36 49 39 48 47 Rất thuận lợi 1 1 2 2 0 2,74 6 Thuận lợi 5 5 4 4 2 9,13 20 1 Trung bình 17 24 19 23 23 48,40 106 Không thuận lợi 12 16 13 16 18 34,25 75 Rất không thuận lợi 1 3 1 3 4 5,48 12 36 49 39 48 47 219 100,00 Sản phẩm khai thác
gỗ, củi
Rất thuận lợi 0 0 0 0 0 0,00 0 Thuận lợi 0 0 0 0 0 0,00 0 2 Trung bình 5 10 7 8 8 17,35 38 Không thuận lợi 8 18 10 15 18 31,51 69 Rất không thuận lợi 23 21 22 25 21 51,14 112 36 49 39 48 47 219 100,00 Sản phẩm khai thác
lâm sản ngoài gỗ
Rất thuận lợi 5 5 4 5 1 9,13 20 3 Thuận lợi 15 26 16 22 13 42,01 92 Trung bình 14 15 17 18 28 42,01 92 Không thuận lợi 2 3 2 3 5 6,85 15 36 49 39 48 47 219 100,00 Mức độ phụ thuộc
vào rừng
Rất thuận lợi 4 4 3 4 1 7,31 16 Thuận lợi 14 22 14 18 19 39,73 87 4 Trung bình 14 20 19 22 22 44,29 97 Không thuận lợi 4 3 3 4 5 8,68 19 Rất không thuận lợi 0 0 0 0 0 0,00 0 Thị trường tiêu thụ 36 39 49 48 47 219 100,00 Rất thuận lợi 0 0 0 0 0 0,00 0 Thuận lợi 0 0 0 0 0 0,00 0 5 Trung bình 4 5 6 6 18 17,81 39 Không thuận lợi 13 21 17 22 21 42,92 94 Rất không thuận lợi 19 23 16 20 8 39,27 86 181 Việc vay vốn 36 39 49 48 47 219 100,00 Rất thuận lợi 0 0 0 0 0 0 0,00 Thuận lợi 0 0 0 0 0 0 0,00 6 Trung bình 4 5 4 5 5 23 10,50 Không thuận lợi 12 11 14 13 13 63 28,77 Rất không thuận lợi 20 23 31 30 29 133 60,73 36 39 49 48 47 219 100,00 Việc sử dụng quỹ
cộng đồng Rất thuận lợi 8 9 10 9 5 41 18,72 Thuận lợi 17 19 25 23 24 108 49,32 7 Trung bình 9 9 12 14 15 59 26,94 Không thuận lợi 2 2 2 2 3 11 5,02 Rất không thuận lợi 0 0 0 0 0 0 0,00 Việc gây quỹ cộng 49 48 47 36 39 219 100,00 đồng Rất thuận lợi 0 0 0 0 0 0 0,00 Thuận lợi 0 0 0 0 0 0 0,00 8 8 9 11 9 5 42 19,18 Trung bình 20 18 20 81 36,99 Không thuận lợi 12 11 18 21 22 96 43,84 Rất không thuận lợi 16 19 182 Phụ lục 11.4. Tổng hợp thông tin điều tra ý kiến đánh giá về thực trạng các yếu tố
xã hội của cộng đồng quản lý, sử dụng đất rừng tại điểm nghiên cứu 14
17
5
0
0 15
20
4
0
0 20
25
4
0
0 18
26
4
0
0 17
26
4
0
0 84
114
21
0
0 38,36
52,05
9,59
0,00
0,00 0
7
24
5
0 0
10
25
4
0 0
8
35
6
0 0
8
36
4
0 0
4
39
4
0 0
37
159
23
0 0,00
16,89
72,60
10,50
0,00 13
16
7
0
0 14
16
9
0
0 17
21
11
0
0 17
19
12
0
0 15
16
16
0
0 76
88
55
0
0 34,70
40,18
25,11
0,00
0,00 183 Phụ lục 12. Một số hình ảnh khảo sát thực tế Hình 12.2. Cơ sở làm thuốc nam của lương y Hoàng Anh Tuấn
tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình 184 Hình 12.3. Đi khảo sát thực tế công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại xóm Suối Biến, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình Hình 12.4. Phỏng vấn người dân về công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng tại bản Nhạc, xã Đồng Chum, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình 185 Hình 12.5. Phỏng vấn người dân về công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng tại thôn Đúc, xã Nam Phong, huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình Hình 12.6. Họp nhóm người dân về về công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng tại thôn Củ, xã Tú Sơn, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình 186 Hình 12.7. Họp nhóm người dân về công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng tại thôn Thung 2, xã Quý Hòa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình Hình 12.8. Đoàn khảo sát mó nước tại rừng cộng đồng xóm Xuối Bến, xã Tiến Sơn,
huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình 187 Hình 12.9. Phỏng vấn trực tiếp cán bộ chi cục Lâm nghiệp tỉnh Hòa Bình và tìm
hiểu thực tế tại khu rừng cộng đồng thôn Thung 2, xã Quý Hòa, huyện Lạc Sơn Hình 12.10. Phỏng vấn trực tiếp người dân trong thôn Củ, xã Tú Sơn, huyện Kim
Bôi về công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương 188 Phụ lục 13. Quy ước quản lý, bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng 189 190 191 192 193 194 195 196 197Bảng 4.33. Kết quả hệ số hồi quy
4.4.2.3. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất
rừng dựa vào cộng đồng
Bảng 4.34. Mức độ ảnh hưởng của các nhóm yếu tố đến công tác quản lý, sử
dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
STT
Yếu tố
Mức độ ảnh
hưởng (%)
Ký
hiệu
Giá trị
tuyệt đối
Thứ tự
ảnh hưởng
Tổng
F_XH
0,236
0,937
25,13
100,00
3
Bảng 4.35. Chỉ số đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác
quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
Nhóm
Chỉ số
Yếu tố ảnh hưởng
yếu tố
đánh giá
Nhóm 1
PL01
PL02
PL03
PL04
PL05
PL06
PL07
PL08
PL09
Nhóm 2
TN01
TN02
TN03
TN04
TN05
TN06
TN07
Nhóm 3
KT01
KT02
KT03
KT04
KT05
KT06
KT07
KT08
Nhóm 4
XH01
XH02
XH03
XH04
XH05
Những QĐPL
Ban hành các văn bản pháp luật
Tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật
QĐPL về công tác giao đất, giao rừng cho cộng đồng
QĐPL về loại đất rừng giao cho cộng đồng
QĐPL về vấn đề hưởng lợi
QĐPL về chính sách hỗ trợ
QĐPL về các quyền, nghĩa vụ của cộng đồng
QĐPL về các hành vi vi phạm pháp luật
Quy ước, hương ước của thôn (bản)
Yếu tố tự nhiên và cơ sở hạ tầng
Quy mô diện tích đất rừng thực tế giao cho các cộng đồng quản lý, sử dụng
Khoảng cách từ nơi cư trú của cộng đồng đến đất rừng được giao
Địa hình của đất rừng được giao
Cơ sở hạ tầng xã hội (hệ thống dịch vụ, thị trường)
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật (giao thông, thủy lợi)
Chất lượng tài nguyên rừng
Khả năng sẵn có của tài nguyên rừng
Yếu tố kinh tế
Điều kiện kinh tế hộ gia đình
Các sản phẩm gỗ, củi ít được bán trên thị trường
Các lâm sản ngoài gỗ được bán trên thị trường
Mức độ phụ thuộc vào rừng của người dân
Thị trường tiêu thụ các sản phẩm thu được từ rừng
Việc vay vốn từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng
Việc sử dụng quỹ quản lý rừng cộng đồng
Các nguồn gây quỹ quản lý rừng cộng đồng
Yếu tố xã hội
Kiến thức bản địa của người dân trong cộng đồng
Phong tục, tập quán, tín ngưỡng
Vai trò của lãnh đạo địa phương
Vai trò của các cán bộ kiểm lâm, cán bộ nông nghiệp
Vai trò của các tổ chức khác (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên)
3,77
3,81
3,82
3,89
4,03
3,77
3,74
3,77
3,85
3,76
3,81
3,78
3,80
3,76
3,77
4,05
3,76
3,74
3,79
4,05
3,81
3,79
3,76
3,89
3,78
3,67
4,28
3,74
3,01
4.5. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT
RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
4.5.1. Phân tích SWOT trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng
Bảng 4.36. Phân tích SWOT trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng tại tỉnh Hoà Bình
4.5.1.1. Những điểm mạnh trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
4.5.1.2. Những điểm yếu cần khắc phục trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng
4.5.1.3. Cơ hội trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
4.5.1.4. Những thách thức trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
4.5.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng
4.5.2.1. Hoàn thiện và thực thi chính sách, pháp luật liên quan đến công tác
quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
4.5.2.2. Khắc phục những khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng
4.5.2.3. Nâng cao vai trò của các tổ chức xã hội trong cộng đồng
4.5.2.4. Tăng cường các hoạt động làm thay đổi điều kiện kinh tế
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. KẾT LUẬN
5.2. KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
Yếu tố ảnh hưởng
STT
Yếu tố ảnh hưởng
Bản Nhạc
Thôn Đúc
Thôn Củ
Thôn Thung 2
Xóm Suối Bến
Bình quân của các điểm nghiên cứu
Loại
lâm sản
Quy định của
địa phương
Số hộ
tham
gia
(hộ)
Số hộ
tham
gia
(hộ)
Số hộ
tham
gia
(hộ)
Số hộ
tham
gia
(hộ)
Số hộ
tham
gia
(hộ)
Khối
lượng
khai thác
TB/lần/hộ
(kg)
Khối
lượng
khai thác
TB/lần/hộ
(kg)
Khối
lượng
khai thác
TB/lần/hộ
(kg)
Khối
lượng
khai thác
TB/lần/hộ
(kg)
Khối
lượng
khai thác
TB/lần/hộ
(kg)
Số hộ
tham
gia
bình
quân
Khối
lượng
khai thác
TB/lần/hộ
(kg)
Số lượt
khai
thác
TB/hộ/
năm
(lần)
Số lượt
khai
thác
TB/hộ/
năm
(lần)
Số lượt
khai
thác
TB/hộ/
năm
(lần)
Số lượt
khai
thác
TB/hộ/
năm
(lần)
Số lượt
khai
thác
TB/hộ/
năm
(lần)
Số lượt
khai
thác
TB/hộ/
năm
(lần)
Nhóm Cây dược liệu
Huyết
đằng
Nhóm thực phẩm
Nhóm gia dụng
Cộng đồng được chi trả DVMTR
Cộng đồng hưởng lợi từ dự án KFW7
Tiêu chí
ĐVT
Cộng đồng
nhận sự hỗ trợ
của nhà nước
Thôn Thung 2
Bản Nhạc
Thôn Củ
Thôn Đúc
Xóm Suối Bến
đồng (PL)
5.2. Biến tự nhiên ảnh hưởng đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
(TN)
5.3. Biến kinh tế có ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng (KT)
vào cộng đồng (XH)
5.5. Biến kết quả của công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
(KQ)
6.1. Kết quả chạy biến độc lập
Total Variance Explained
Component
Initial Eigenvalues
Rotation Sums of Squared Loadings
Total
Total
Total
% of
Variance
Cumulative
%
% of
Variance
Cumulative
%
Extraction Sums of Squared
Loadings
% of
Variance
Cumulative
%
6.2. Kết quả chạy biến phụ thuộc
Descriptive Statistics
STT
Tiêu chí đánh giá
Thung
2 (hộ)
Tổng
(hộ)
Tỷ lệ
(%)
Bản
Nhạc
(hộ)
Thôn
Đúc
(hộ)
Thôn
Củ
(hộ)
Suối
Bến
(hộ)
1
Kiến thức bản địa
Rất tốt
Tốt
Trung bình
Kém
Rất kém
36
10
15
10
1
0
39
8
18
11
2
0
49
9
25
12
3
0
48
9
24
12
3
0
47
7
16
20
4
0
219
43
98
65
13
0
100,00
19,63
44,75
29,68
5,94
0,00
2
Phong tục tập quán
Rất tốt
Tốt
Trung bình
Kém
Rất kém
36
10
17
9
0
0
39
10
18
11
0
0
49
10
29
10
0
0
48
9
29
10
0
0
47
7
23
17
0
0
219
46
116
57
0
0
100,00
21,00
52,97
26,03
0,00
0,00
36
39
49
48
47
219
100,00
3
Vai trò của lãnh đạo địa
phương
Rất tốt
Tốt
Trung bình
Kém
Rất kém
36
39
49
48
47
219
100,00
4
36
39
49
48
47
219
100,00
5
Vai trò của cán bộ kiểm
lâm, cán bộ nông nghiệp
Rất tốt
Tốt
Trung bình
Kém
Rất kém
Vai trò của các tổ chức
khác
Rất tốt
Tốt
Trung bình
Kém
Rất kém
Hình 12.1. Đoàn khảo sát công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại khu
rừng cộng đồng của thôn Đúc, xã Nam Phong, huyện Cao Phong