ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

---------------------

Nguyễn Thị Kim Ngọc

NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG VÀ BIẾN ĐỔI CÁC HỆ SINH THÁI NHÂN

SINH HÌNH THÀNH DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN TRANH HÓA HỌC

HUYỆN GIO LINH, QUẢNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội - 2014

~ 1 ~

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

---------------------

Nguyễn Thị Kim Ngọc

NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG VÀ BIẾN ĐỔI CÁC HỆ SINH THÁI NHÂN

SINH HÌNH THÀNH DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN TRANH HÓA HỌC

HUYỆN GIO LINH, QUẢNG TRỊ

Chuyên ngành: Khoa học Môi trường

Mã số: 60440301

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. Nguyễn Đăng Hộ

Hà Nội - 2014

~ 2 ~

LỜI CẢM ƠN

Được sự đồng ý của nhà trường, Khoa Môi trường, Bộ môn Sinh thái Môi

trường, trường Đại học Khoa học tự nhiên, tôi thực hiện luận văn “Nghiên cứu

hiện trạng và biến đổi các hệ sinh thái nhân sinh hình thành dưới tác động của

chiến tranh hóa học huyện Gio Linh, Quảng Trị.”

Trong thời gian thực hiện và hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực của bản

thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của các thầy, cô

giáo, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài trường.

Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn khoa học TS.

Nguyễn Đăng Hội, người thầy đã định hướng, khuyến khích và trực tiếp hướng dẫn

tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Môi trường, Bộ

môn Sinh thái môi trường đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và

hoàn thành luận văn thạc sỹ.

Tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể cán bộ Trung tâm Nhiệt đới Việt Nga và

Viện Hóa học – Môi trường quân sự đã nhiệt tình giúp đỡ và cung cấp những thông

tin, số liệu tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn thạc sỹ.

Luận văn tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận

được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp

để luận văn được hoàn thiện hơn.

Trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2014

Học viên

Nguyễn Thị Kim Ngọc

~ 3 ~

MỤC LỤC

1 PHẦN 1: MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 2

Chƣơng 1 4

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

4 1.1. Tổng quan về chất diệt cỏ

1.1.1. Khái niệm chất diệt cỏ (Dioxin và các hợp chất tương tự Dioxin) 4

1.1.2. Các đặc tính của Dioxin 6

1.2. Tình hình sử dụng CĐHH trong chiến tranh tại Việt Nam 14

1.2.1. Ảnh hưởng của CĐHH đến thảm và hệ thực vật 14

1.2.2. Tình hình sử dụng CĐHH vào mục đích quân sự trên thế giới 19

19 1.2.3. Tình hình sử dụng CĐHH trong chiến tranh tại Việt Nam

1.3. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội, tài nguyên & môi 27 trƣờng huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị

27 1.3.1. Đặc điểm các yếu tố tự nhiên

1.3.1.1. Vị trí địa lý, cấu trúc không gian lãnh thổ 27

27 1.3.1.2. Địa hình

29 1.3.1.3. Khí hậu

1.3.1.4. Thủy văn 29

1.3.1.5. Đất (thổ nhưỡng) 30

1.3.1.6. Thảm thực vật 31

1.3.2. Một số đặc điểm dân số, dân tộc và hoạt động nhân sinh của 34 huyện Gio Linh, Quảng Trị

~ 4 ~

1.3.2.1. Dân số, lao động và dân tộc 34

34 1.3.2.2. Một số ngành nghề chủ yếu của khu vực

1.3.2.3. Một số loại hình hoạt động liên quan tới khai tác, sử dụng tài 39 nguyên, HST khu vực

Chƣơng 2 42

ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

42 2.1. Đối tƣợng nghiên cứu

2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 42

Chƣơng 3 46 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

46 3.1. Hiện trạng và sự biến đổi các hệ sinh thái rừng dƣới tác động của chiến tranh hóa học và hoạt động nhân sinh

3.1.1. Hiện trạng và sự biến đổi thành phần & đất rừng 46

3.1.1.1. Khu vực đồng bằng, gò đồi ven biển huyện Gio Linh 46

3.1.1.2. Khu vực Linh Thượng huyện Gio Linh 48

3.1.2. Đặc điểm chế độ vi khí hậu trong HST rừng và trảng cỏ cây bụi 60

3.1.2.1. Trong sinh cảnh rừng thứ sinh 60

3.1.2.2. Trong sinh cảnh trảng cỏ cây bụi 62

3.2. Đánh giá sơ bộ nền nhiệt ẩm đất giữa sinh cảnh trảng cỏ cây bụi với 68 rừng thứ sinh vào thời kỳ mùa hạ

3.3. Giải thích về sự biến đổi của HST rừng dƣới tác động của chiến 69 tranh hóa học và những tác động nhân sinh khác

3.4. Đề xuất một số giải pháp phục hồi các HST nhân sinh huyện Gio 76 Linh, Quảng Trị Bản đồ các HST nhân sinh huyện Gio Linh, Quảng Trị

3.4.1. Thành lập bản đồ sinh thái cảnh quan khu vực 77

3.4.2. Có biện pháp khai thác hợp lý các HST theo đai cao 78

~ 5 ~

3.4.3. Tác động một số biện pháp kỹ thuật thích hợp 79

3.4.4. Phòng, chống cháy rừng 80

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 82

TÀI LIỆU THAM KHẢO 84

PHỤ LỤC 88

~ 6 ~

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Trang

Thời gian bán hủy của các dioxin trong các môi trường khác Bảng 1 8

nhau

Bảng 2 Biến động diện tích rừng Việt Nam giai đoạn 1943- 1995 16

Bảng 3 16 Các loại hoá chất phun rải rừng nội địa Việt Nam giai đoạn 1961 - 1971

Bảng 4 Trạng thái vật lý và mục đích sử dụng các CĐHH chủ yếu 21

Bảng 5 Lượng chất diệt cỏ phun rải ở miền Nam Việt Nam 22

Bảng 6 58 Tính chất đất dưới rừng thứ sinh

Bảng 7 62

Giá trị nhiệt độ đất theo phẫu diện khu vực rừng thứ sinh (oC)

Bảng 8 Biến đổi nhiệt độ không khí ngày ở độ cao 120cm theo mùa 63

Bảng 9 66 Giá trị nhiệt độ đất theo phẫu diện khu vực trảng cỏ cây bụi

~ 7 ~

DANH MỤC HÌNH ẢNH

Trang

Hình 1 Mật độ phun rải chất diệt cỏ trong chiến tranh ở Quảng Trị 26

Hình 2 Biểu đồ thể hiện lao động phân theo ngành huyện Gio Linh 34

Hình 3 Sự thay đổi pH và lượng mùn theo phẫu diện 54

Hình 4 Sự thay đổi hàm lượng lân và kali dễ tiêu theo phẫu diện 55

Mặt cắt rừng cây gỗ tự nhiên đặc trưng khu vực gò đồi Hình 5 57

huyện Gio Linh Sù thay ®æi hµm l îng mïn vµ thµnh phÇn Hình 6 59

tæng sè Biến đổi hàm lượng lân và kali dễ tiêu theo phẫu diện Hình 7 59

BiÕn tr×nh nhiÖt ®é kh«ng khÝ trong Hình 8 60 rõng thø sinh (9/2013)

BiÕn tr×nh nhiÖt ®é ®Êt trong sinh c¶nh Hình 9 61

rõng thø sinh Biến trình nhiệt độ quan trắc (tháng 9/2013) Hình 10 64

Hình 11 64 Biến trình nhiệt độ trong trảng cỏ, cây bụi (Ở độ cao 10cm, 50cm, 120cm)

Hình 12 65

Hình 13 67 BiÕn tr×nh ®é Èm kh«ng khÝ trung b×nh trong tr¶ng cá c©y bôi Sù thay ®æi nhiÖt ®é ®Êt khu vùc tr¶ng cá c©y bôi

Hình 14 68 So s¸nh nhiÖt ®é kh«ng khÝ gi÷a 2 sinh c¶nh

Hình 15 69 So sánh nhiệt độ đất giữa 2 sinh cảnh

Hình 16 71 Sự hình thành quần xã cỏ từ rừng nhiệt đới

Hình 17 75 Cây gỗ tiên phong đới chuyển tiếp giữa rừng và quần xã cỏ

Hình 18 76 Diễn thế thảm thực vật rừng nhiệt đới dưới các tác động tự nhiên – nhân sinh, trong đó có chiến tranh

~ 8 ~

BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTNĐ Biến trình nhiệt độ

CDC Chất diệt cỏ

CTHH Chiến tranh hóa học

HST Hệ sinh thái

NĐTB Nhiệt độ trung bình

NN & PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn

QXTV Quần xã thực vật

~ 9 ~

LỜI CẢM ƠN

Được sự đồng ý của nhà trường, Khoa Môi trường, Bộ môn Sinh thái Môi

trường, trường Đại học Khoa học tự nhiên, tôi thực hiện luận văn “Nghiên cứu

hiện trạng và biến đổi các hệ sinh thái nhân sinh hình thành dưới tác động của

chiến tranh hóa học huyện Gio Linh, Quảng Trị.”

Trong thời gian thực hiện và hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực của bản

thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của các thầy, cô

giáo, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài trường.

Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn khoa học TS.

Nguyễn Đăng Hội, người thầy đã định hướng, khuyến khích và trực tiếp hướng dẫn

tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Môi trường, Bộ

môn Sinh thái môi trường đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và

hoàn thành luận văn thạc sỹ.

Tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể cán bộ Trung tâm Nhiệt đới Việt Nga và

Viện Hóa học – Môi trường quân sự đã nhiệt tình giúp đỡ và cung cấp những thông

tin, số liệu tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn thạc sỹ.

Luận văn tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận

được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp

để luận văn được hoàn thiện hơn.

Trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2014

Học viên

Nguyễn Thị Kim Ngọc

~ 10 ~

PHẦN 1: MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Khí hậu Việt Nam mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới điển hình. Do có địa hình trải dài từ 8o30' đến 23o27' vĩ bắc kèm theo sự chênh lệch

về độ cao đã làm cho HST tự nhiên có sự phân hóa theo đai cao. Sự khác biệt đó đã

dẫn đến tính phong phú, đa dạng các HST nhiệt đới và á nhiệt đới tự nhiên Việt

Nam.

Trải qua quá trình lịch sử phát triển lâu đời của các cộng đồng trên các vùng

lãnh thổ với những tác động nhân sinh khác nhau đã dần dần làm biến đổi cấu trúc,

chức năng của các HST nguyên sinh, hình thành nên những HST bị biến đổi nhân

sinh, thậm chí là HST nhân sinh có các thành phần và yếu tố môi trường được xây

dựng hoặc hình thành do những tác động khác nhau từ phía con người.

Trong khoảng nửa thế kỷ trở lại đây, nhất là trong cuộc chiến tranh chống

Mỹ, Việt Nam đã hứng chịu những tác động tiêu cực từ phía con người. Các yếu tố

tác động nổi bật trước hết phải kể đến chất diệt cỏ do quân đội Mỹ sử dụng, bom

đạn cùng với những tập tục có tính chất truyền thống của đồng bào các dân tộc bản

địa như khai thác gỗ, củi, canh tác nương rẫy trên đất dốc… đã làm thay đổi nhiều

diện tích HST rừng Việt Nam. Những cánh rừng nguyên sinh giàu có về gỗ, về đa

dạng loài thực vật, phong phú tầng tán biến thành những HST rừng nhân sinh có trữ

lượng gỗ trung bình hoặc nghèo kiệt, thậm chí trở thành trảng cỏ, trảng cỏ + cây bụi

mà đến nay vẫn còn phổ biến ở nhiều tỉnh phía Nam và Tây Nguyên nước ta. Sự

biến mất hoặc thay đổi của thảm thực vật rừng đã kéo theo hàng loạt biến đổi nảy

sinh của điều kiện tài nguyên và môi trường: là sự suy giảm nghiêm trọng tài

nguyên sinh học, tài nguyên và môi trường đất, tài nguyên và môi trường nước, tài

nguyên và điều kiện khí hậu… Nghiêm trọng hơn, những khu vực là "điểm nóng",

"vùng nóng" về dioxin đã và đang có những tác động xấu tới sức khoẻ và cuộc sống

của người dân.

~ 11 ~

Huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị nổi lên như một "điểm nóng" về sự tàn phá

của chiến tranh đối với môi trường tự nhiên. Nhiều diện tích rừng tự nhiên đã biến

mất vì chất diệt cỏ và bom đạn. Nhiều làng mạc đã phải di chuyển cũng vì chất diệt

cỏ hoặc bị đốt cháy, phá huỷ nghiêm trọng… Hậu quả là qua nhiều thập niên nhưng

dấu tích vẫn còn in đậm trên nhiều bản làng, nhiều HST khu vực.

Mặc dù vậy, những nghiên cứu về thực trạng của các HST hình thành sau

chiến tranh hoá học tại đây còn khá khiêm tốn. Đặc biệt, chưa có nghiên cứu, quan

trắc cụ thể nào để đánh giá hiện trạng cũng như sự biến đổi của các HST nhân sinh

hình thành sau chiến tranh. Điều đó gây khó khăn cho việc làm sáng tỏ cơ chế tác

động và biến đổi của các HST hình thành sau những tác động mạnh mẽ của chiến

tranh hoá học và những tác động tiêu cực từ phía con người.

Xuất phát từ những lý do nêu trên tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu hiện

trạng và biến đổi các HST nhân sinh hình thành dưới tác động của chiến tranh

hóa học huyện Gio Linh, Quảng Trị”.

2. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

- Xác định thực trạng cấu trúc các HST đặc trưng tại huyện Gio Linh hình thành do

tác động của chất diệt cỏ và những tác động tiêu cực từ phía con người.

- Đánh giá sự biến đổi và xu thế phát triển các thành phần của HST và môi trường

khu vực.

PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Các HST rừng tự nhiên, rừng phục hồi, trảng cỏ, cây bụi và các đặc điểm chế độ

vi khí hậu tác động lên chúng tại huyện Gio Linh – tỉnh Quảng Trị

CẤU TRÚC LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận-kiến nghị và tài liệu than khảo, Luận văn được chia

làm 3 phần chính.

~ 12 ~

Chương 1: Tổng quan tài liệu

Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận.

~ 13 ~

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan về chất diệt cỏ

1.1.1. Khái niệm chất diệt cỏ (Dioxin và các hợp chất tương tự Dioxin)

Chất diệt cỏ là những hóa chất nông nghiệp dùng để giết chết hoặc ngăn trở

quá trình sinh trưởng và phát triển bình thường của cây cỏ.

Trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, quân đội Mỹ đã sử dụng hàng triệu lít

chất diệt cỏ - một loại chất độc hóa học có chứa dioxin (sau đây gọi chung là chất

da cam/dioxin) nhằm phát quang các vùng trọng yếu, phá hủy mùa màng, tạo vành

đai trắng ngăn cản sự tiến quân của quân đội nhân dân Việt Nam cũng như phong

trào cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh hoá học có tính rộng lớn

và lâu dài, bắt đầu từ năm 1961 đến năm 1971 trên hầu hết các tỉnh thành ở miền

Nam Việt Nam. Đây cũng là cuộc chiến tranh hoá học có quy mô lớn nhất trong lịch

sử chiến tranh trên thế giới. Trong cuộc chiến tranh này, nhiều vùng rừng núi, trung

du, đồng bằng đã bị tác động mạnh mẽ; nhiều diện tích rừng bị phá huỷ; nước, đất

bị nhiễm độc, từ đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới nhiều hợp phần của HST,

trong đó có thực vật và động vật [5].

Với đặc tính hoạt động của mình, dioxin đã để lại nhiều di họa tức thời và

lâu dài đối với thiên nhiên và con người. Trong đó, những cơ thể sống thực vật là

một trong những đối tượng mẫn cảm nhất, chịu tác động và để lại hậu quả nặng nề

không chỉ cho thế hệ hiện tại mà còn cho các thế hệ tiếp theo mà cho đến nay chúng

ta vẫn chưa đánh giá hết được.

Dioxin là một trong 12 chất, nhóm chất theo Công ước Stockholm [36] về các

chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POPs: Persistent Organic Pollutants), gây ô nhiễm

môi trường: (1) Policlobiphenyl (PCB), (2) Policlodibenzo-p-dioxin (PCDD), (3)

Policlodibenzofuran (PCDF), (4) Aldrin, (5) Dieldrin, (6) Diclodiphenyltricloetan

(DDT), (7) Endrin, (8) Clordan, (9) Hexaclobenzen (HCB), (10) Mirex, (11) Toxaphen,

(12) Heptaclo.

Trong 12 chất POPs đầu tiên này, dưới cái tên chung “Dioxin”, thường được

hiểu là các chất policlodibenzo-p-dioxin (PCDD) và policlodibenzofuran (PCDF);

PCB được hiểu là các hợp chất tương tự dioxin vì chúng có cùng cơ chế gây nhiễm

~ 14 ~

độc như dioxin. Trừ PCDD và PCDF là nhóm các chất không chủ định sản xuất, các

chất còn lại đã được sản xuất ra để sử dụng: policlobiphenyl (PCB) được sử dụng

trong chế tạo dầu biến thế, tụ điện lỏng, làm chất hóa dẻo…, các chất còn lại đã

được sản xuất làm thuốc trừ sâu, trừ muỗi, trừ côn trùng có hại,…

“Dioxin” thường được hiểu là hai nhóm chất gồm

- 75 chất đồng loại (congener) của PCDD, tùy thuộc vào số lượng nguyên tử clo

chứa trong phân tử, chia ra tám nhóm đồng phân (isomer).

- 135 chất đồng loại của PCDF, tương tự như PCDD, PCDF chia ra tám nhóm

đồng phân. Cũng thường gọi tách ra là dioxin và furan.

Công thức cấu tạo chung của dioxin và furan như sau:

Ngoài ra, trong các nghiên cứu phơi nhiễm tổng hợp, thường được tính đến cả

các hợp chất tương tự dioxin, đó là PCB có công thức cấu tạo chung như sau:

Không phải tất cả các đồng loại của dioxin và furan đều độc, chỉ có những chất

mà trong phân tử của nó chứa 4 nguyên tử clo ở các vị trí 2,3,7,8 là có độc tính.

Dioxin có 7, còn furan có 10 chất như vậy, tổng cộng là 17 chất độc.

1.1.2. Các đặc tính của Dioxin

a) Dioxin có độ bền vững rất cao

~ 15 ~

Một trong những đặc điểm nổi bật của dioxin là độ bền vững cao về các phương

diện vật lý, hóa học và sinh học. Ở điều kiện bình thường, dioxin đều là những chất

rắn, có nhiệt độ nóng chảy khá cao, áp suất hơi rất thấp và rất ít tan trong nước.

Những tính chất này có ý nghĩa lớn đối với sự tồn tại của chúng trong tự nhiên.

Nhiệt độ sôi của 2,3,7,8-TCDD, chất độc nhất trong các dioxin, được đánh giá vào

khoảng 412,2º C [12]. Độ hòa tan của nó trong chất da cam vào khoảng 580 ppm,

trong các dung môi hữu cơ như sau: o-diclobenzen: 1.400 mg/l, clobenzen: 720

mg/l,benzen: 570 mg/l, cloroform: 370 mg/l, axeton: 110 mg/l, metanol: 10 mg/l.

[22].

Sự khác nhau về độ hòa tan của dioxin trong nước và trong các dung môi

hữu cơ quan hệ trực tiếp hệ số phân bố của chúng trong hệ hữu cơ/nước, đặc biệt là

trong hệ octanol/nước.

b) Dioxin ái mỡ và kỵ nước

Đặc tính ái mỡ (lipophilic) và kỵ nước (hydrophobic) của dioxin liên quan

chặt chẽ với độ bền vững của chúng trong cơ thể sống cũng như trong tự nhiên và

sự phân bố của chúng trong các cơ quan của cơ thể.

Hệ số phân bố của 2,3,7,8-TCDD trong cơ thể như sau [29]: Mô mỡ: 300;

da: 30; gan: 25; sữa mẹ: 13; thành ruột: 10; máu: 10; thận: 7; bắp thịt: 4; mật: 0,5;

nước tiểu: 0,00005. Vì vậy, khi nghiên cứu đánh giá độ tồn lưu của dioxin trong cơ

thể người, thường lấy mỡ, máu và sữa mẹ. Trong sữa mẹ có khoảng 3-4% mỡ, còn

trong máu khoảng 0,3-0,7% [38].

c) Dioxin rất bền vững hóa học

Về mặt hóa học, dioxin rất bền vững, không bị phân hủy dưới tác dụng của các

axít mạnh, kiềm mạnh, các chất oxy hóa mạnh khi không có chất xúc tác ngay ở cả

nhiệt độ cao. Dioxin không bị thủy phân trong nước ở điều kiện bình thường. Nước siêu tới hạn [28] tức nước ở điều kiện: nhiệt độ T = 375oC, áp suất p = 222atm và tỷ

khối d = 0,307 g/cm3, hòa tan và ôxy hóa được dioxin với hiệu suất rất cao (quy mô

phòng thí nghiệm): 99,9999%.

d) Dioxin rất bền nhiệt

~ 16 ~

Dioxin có nhiệt độ nóng chảy khá cao, nhiệt độ sôi của 2,3,7,8-TCDD lên tới

412º C, các quá trình cháy tạo dioxin cũng xảy ra ở khoảng nhiệt độ khá cao. Nhiệt

độ 750-900º C vẫn là vùng tạo thành 2,3,7,8-TCDD, ngay cả ở nhiệt độ1.200º C,

quá trình phân hủy dioxin vẫn là quá trình thuận nghịch, dioxin chỉ bị phân hủy

hoàn toàn ở trong khoảng nhiệt độ 1.200-1.400º C và cao hơn. [22]

e) Thời gian bán hủy của dioxin

Thời gian bán hủy là một thông số quan trọng để đánh giá độ bền vững của

dioxin trong các đối tượng khác nhau. Theo Paustenbach và cộng sự [34], thời gian

bán hủy của dioxin là 9-12 năm chỉ trên lớp đất bề mặt 0,1 cm, ở các lớp đất sâu

hơn là 25-100 năm. [31]

Trong cặn đáy, dioxin có thể tồn tại hàng trăm năm [37]. Theo tài liệu này,

T1/2 của các nhóm đồng phân của PCDD và PCDF trong cặn đáy như sau:

Nhóm đồng phân PCDD PCDF

79 năm 102 năm Tetra

59 “ 153 “ Penta

54 “ 173 “ Hexa

32 “ 128 “ Hepta

29 “ 139 “ Octa

Các số liệu này cho thấy: độ bền vững của PCDD và PCDF trong trầm tích rất

khác nhau và có thể xếp theo thứ tự như sau:

PCDD > PCDF

Tetra > Penta > Hexa > Hepta > Octa Đối với PCDF:

Đối với PCDD: Hexa > Penta > Octa > Hepta > Tetra

Trên cơ sở mô hình về sự suy giảm của dioxin trong các môi trường khác

nhau, Sinkkonen và Paasivirta đã đưa ra bảng số liệu về về thời gian bán hủy của

từng chất của dioxin trong các môi trường không khí, nước, đất và trầm tích ở điều

kiện nhiệt độ trung bình của vùng Bantic là 7º C.

Bảng số liệu không đưa ra chu kỳ bán phân hủy của toàn bộ các chất dioxin

mà chỉ lựa chọn đưa ra một số chất dioxin nhất định để thấy được sự khác biệt về

~ 17 ~

chu kỳ bán phân hủy của các chất dioxin này trong các môi trường khác nhau thì rất

khác nhau. [23]

Bảng 1. Thời gian bán hủy của các dioxin trong các môi trƣờng khác nhau

Chu kỳ bán hủy T1/2

Chất

Trong không khí Đơn vị: ngày Trong nước Đơn vị: tháng Trong đất và trầm tích Đơn vị: năm

2,3,7,8-ТCDD 8 5 103

1,2,3,7,8-PeCDD 15 10 114

1,2,3,4,7,8- HxCDD 31 20 274

1,2,3,6,7,8- HxCDD 31 20 63

1,2,3,7,8,9- HxCDD 31 20 80

1,2,3,4,6,7,8-HpCDD 63 41 103

2,3,7,8-ТCDF 13 9 63

1,2,3,7,8-PeCDF 28 18 51

2,3,4,7,8-PeCDF 58 38 68

1,2,3,6,7,8-HxCDD 58 38 80

1,2,3,7,8,9-HxCDD 58 38 57

2,3,4,6,7,8-HxCDD 58 38 51

1,2,4,6,7,8-HxCDD 58 38 57

1,2,3,4,6,8-HxCDD 58 38 51

1,2,4,6,8,9-HxCDD 58 38 17

1,2,3,4,6,7,8-HpCDF 133 88 40

~ 18 ~

1,2,3,4,7,8,9-HpCDF 133 88 34

1,2,3,4,6,8,9-HpCDF 133 88 23

OCDF 400 263 29

Nguồn: Sinkkonen và Paasivirta, 2000 [37]

Sự phù hợp với thực tế của các số liệu trong bảng trên cần phải được kiểm tra

cụ thể đối với từng khu vực, song các số liệu này đã cung cấp một cái nhìn tổng

quát về độ bền vững rất cao của dioxin trong môi trường và độ bền vững này: trong

đất > trong nước > trong không khí.

f) Các trạng thái tồn lưu và di chuyển của dioxin trong tự nhiên

Những tính chất lý hóa và đặc trưng của dioxin như độ hòa tan trong nước,

áp suất hơi, hằng số Henry (KHenry), hệ số phân bố trong hệ octanol/nước (Kow), áp

suất riêng phần trong pha hơi và pha hạt, hệ số riêng phần cacbon hữu cơ (Koc) (log

Koc= -0,54 log S + 0,4; trong công thức này, S là độ hòa tan của dioxin trong nước

tính theo mol [22]) đều có ý nghĩa trong đánh giá độ tồn lưu và sự di chuyển của

dioxin trong và giữa các môi trường khác nhau: không khí, nước, đất hoặc trầm tích.

 Trong không khí

Các quá trình đốt cháy, mà trước hết là các nhà máy, các lò đốt rác sinh hoạt,

rác công nghiệp, rác y tế, là nguồn phát thải dioxin vào không khí.

Theo quy luật, trạng thái tồn tại của các hợp chất cùng loại phụ thuộc vào áp

suất hơi của chúng và nhiệt độ của môi trường.

Những chất có áp suất hơi lớn hơn 10-4 mmHg chủ yếu tồn tại trong không khí ở pha hơi, ngược lại, những chất có áp suất hơi nhỏ hơn 10-8 mmHg lại tồn tại

chủ yếu trong pha hạt, ở đây pha hạt được hiểu là các loại hạt bụi, hạt vật chất khác

nhau lơ lửng trong không khí, mà trên đó các phân tử dioxin bám dính (hấp phụ), còn các chất có áp suất hơi nằm trong khoảng 10-8 - 10-4 mmHg có thể tồn tại cả

trong pha hơi lẫn pha hạt 2,3,7,8-TCDD là loại hợp chất có áp suất nằm trong khoảng 7,4.10-10 - 3,4.10-5 [34] vì vậy, nó có thể tồn tại cả trong hai pha hơi lẫn pha hạt.

~ 19 ~

Nhìn chung, áp suất hơi của các nhóm đồng phân của PCDD có thể xếp theo

thứ tự giảm dần như sau:

PTCDD > PPeCDD > PHxCDD > PHpCDD > POCDD

Chính vì vậy mà tỷ lệ tồn tại ở các pha của các nhóm đồng phân này trong không khí khác nhau. Những hạt có kích thước > 10 micron (1 micron = 10-4 cm) rất nhanh

chóng lắng đọng khô hoặc lắng đọng ướt (theo mưa, sương, tuyết…) xuống mặt đất,

mặt nước và xuống cặn đáy, bám trên cỏ cây thực vật, chỉ có những hạt nằm trong

khoảng 5-0,1 micron mới tạo thành được sol khí (aerosol) bền vững trong không khí

và là nguồn lan tỏa dioxin trong không khí. Loại sol khí nhiễm dioxin này có thể di

chuyển theo chiều gió đi khắp nơi và bị pha loãng, tiếp tục lắng đọng. Trong không

khí, dioxin có thể bị quang phân hủy (quang hóa) dưới tác động của ánh sáng mặt

trời, nhất là đối với tia cực tím.

 Trong nước

Trong nước, dioxin chủ yếu liên kết với các hạt vật chất lơ lửng trong nước,

hấp phụ trên các phần trong nước của các thực vật thủy sinh, tích tụ trong các động

vật thủy sinh như cá với hệ số tích tụ sinh học 37.900-128.000 [27] và vì dioxin có

hệ số riêng phần cacbon hữu cơ Koc lớn, độ tan trong nước quá nhỏ, nên phần lớn

hấp phụ vào các trầm tích, phần còn lại trong nước rất thấp, nồng độ toàn phần của

các TCDD, PeCDD, HxCDD, HpCDD và OCDD trong nước thô chỉ ở mức từ dưới

các giới hạn phát hiện đến 3,6 ppm, trong khi đó trong trầm tích do huyền phù tạo

thành, nồng độ của chúng lên tới 228 ppm tức là lớn gấp khoảng 63.000 lần. [18]

Hằng số Henry, một thông số phản ánh tỷ số nồng độ của một chất hóa học

trong pha khí so với nồng độ của nó trong dung dịch ở điều kiện cân bằng, của dioxin rất nhỏ, cỡ 10-6 - 10-5 nên dioxin khó bay hơi từ nước vào không khí.

 Trong đất và trầm tích

Do cấu trúc electron của dioxin có đồng thời hai trung tâm cho và nhận, tại

hai trung tâm nhận, mật độ electron cực tiểu và là đặc trưng cho p-ocbital, tại trung

tâm cho, mật độ electron cực đại, đặc trưng cho n-ocbital. Với cấu trúc electron như

~ 20 ~

vậy, TCDD có thể tham gia vào các tương tác n-p và p-p. Chính vì vậy, dioxin dễ

dàng kết hợp không thuận nghịch với các hợp chất hữu cơ trong đất, đặc biệt là các

polyme sinh học mà tiêu biểu là các axít humic – thành phần mùn của đất (có đến

10%). Có từ 35 đến 92% trong humic là các chất hữu cơ vòng thơm [32].

Giá trị log Koc = 6-7,39 [35] của 2,3,7,8-TCDD chứng tỏ dioxin rất khó di

chuyển trong đất, nhưng nếu có dung môi hữu cơ thì chúng dễ dàng di chuyển hơn

theo chiều thẳng đứng (chiều sâu).

Khi đất nhiễm dioxin bị xói mòn do mưa, gió, dioxin theo đó mà lan tỏa đi

các nơi khác, đây là con đường di chuyển chính của dioxin trong đất.

 Đối với thực vật

Dioxin hầu như không tan trong nước, nhưng lại dễ dàng hấp phụ trên bề mặt

các vật thể. Đặc điểm này thể hiện rõ trong mối quan hệ giữa dioxin với hệ thực vật.

Trước hết nói đến thực vật thủy sinh. Dioxin trong nước tích lũy trên bề mặt

và hệ rễ của các thực vật thủy sinh với hệ số tích tụ sinh học BCF (Bioconcentration

Factor) nằm trong khoảng 208 - 2.038 [27]. Phân tích các phần của cây sen sinh

sống trong một hồ mà bùn hồ bị nhiễm 3.371 ppt dioxin cho các kết quả: củ và rễ

tích tụ 498 ppt, thân cây sen 69,4 ppt, lá sen bồng bềnh trên mặt nước 8,3 ppt [2],

trong khi đó nồng độ dioxin trong nước hồ nằm dưới mức phát hiện và trong hạt sen

thì không tìm thấy. Kết quả này cho thấy, dioxin hấp phụ vào các phần tiếp xúc với

bùn và nước chứ không di chuyển vào hạt.

Đối với thực vật trên cạn, có khá nhiều công trình nghiên cứu về sự tích lũy

và di chuyển của dioxin trong thực vật trên cạn.

Sự di chuyển của các chất trong đất đối với thực vật đất thông thường có hai

con đường:

+ Rễ thu nhận và di chuyển trong thực vật lên các phần trên đất.

+ Các chất bay hơi từ đất và sự lắng đọng lên các phần trên đất của thực vật.

Tính trội của các quá trình này phụ thuộc vào độ hòa tan của các chất [22].

Sự tiếp nhận của thực vật đối với các hợp chất hóa học nói chung, dioxin nói riêng

từ đất và vận chuyển lên phần trên đất phụ thuộc vào độ hòa tan của các chất đó

~ 21 ~

trong nước và có quan hệ trực tiếp với hệ số phân bố trong hệ octanol/nước (Kow).

Các chất hòa tan trong nước chủ yếu được rễ thu nhận từ đất và di chuyển trong

thực vật lên các phần trên đất. Còn các chất ái mỡ, kỵ nước như PCDD, PCDF thì

quá trình bay hơi và lắng đọng lên phần trên đất của thực vật giữ vai trò chủ đạo.

Các kết quả nghiên cứu cho thấy: Đối với thực vật trên cạn có phần trong đất

và phần trên đất. Phần trong đất là bộ rễ và củ hoặc cả hai tiếp xúc trực tiếp với đất,

còn phần trên đất ở trong không khí. Nếu đất bị nhiễm dioxin, thì phần trong đất

hấp phụ dioxin từ đất, còn phần trên đất bị nhiễm do lắng đọng dioxin từ không khí,

sự di chuyển dioxin từ rễ lên phần trên đất là không đáng kể, vì dioxin là loại chất ái

mỡ, kỵ nước (độ hòa tan trong nước ~ 2 ppb), hấp phụ mạnh vào đất (Koc = 2,3*106). Theo Scientific report (2000) [35], thì đại bộ phận thực vật không hấp thụ

các chất độc hữu cơ kỵ nước như dioxin, PCB và nhiều PAH (chúng có log Kow> 4).

BCF đối với TCDD trong thực vật được đánh giá là 0,0002, một con số không đáng

kể [27].

Sự di chuyển của các chất hữu cơ clo từ rễ đến lá, quả, hạt của thực vật hòa

thảo (gramieae) rất không đáng kể. Môt thí dụ điển hình là sau vụ tại nạn dioxin ở

Seveso, Italia vào năm 1976, không tìm thấy vết của 2,3,7,8-TCDD trong các quả

táo, lê, đào, hạt ngô được trồng ở gần nhà máy xảy ra tai nạn, mặc dù ở phía vỏ

ngoài của các loại quả và hạt này, lượng dioxin đạt tới 100 ppt, điều này chứng tỏ

dioxin từ không khí lắng đọng bám vào lớp vỏ sáp của các loại quả này [32].

Ngoại lệ có lẽ là đối với thực vât họ bầu, bí (Cucurbitacea), đối với bí xanh,

bí ngô, rễ thu nhận dioxin và chuyển vào chồi cây và đi vào quả là con đường

nhiễm độc chủ yếu của loại thực vật này. Trường hợp ngoại lệ này được giải thích

như sau: nhựa rễ và cây bí xanh có chứa một hợp chất hóa học có khả năng tạo phức

không thuận nghịch với TCDD, còn trong lá có các phân tử có đặc trưng của một

loại protein, có khả năng làm tăng độ tan biểu kiến của TCDD, vì vậy, loài thực vật

này hấp thụ được dioxin từ đất và dẫn truyền lên lá và chồi non.

~ 22 ~

1.2. Tổng quan về nghiên cứu và sử dụng CĐHH/Dioxin

1.2.1. Ảnh hƣởng của CĐHH đến thảm và hệ thực vật

Việc nghiên cứu ảnh hưởng của chất diệt độc nói chung, chất độc hoá học da

cam/dioxin sử dụng trong chiến tranh nói riêng đã được nhiều tác giả trong nước và

ngoài nước quan tâm, nghiên cứu. Những nghiên cứu đó có thể được diễn ra ở Việt

Nam nhưng cũng có khi là ở một khu vực nào đó trên thế giới. Tuy vậy, hầu hết đều

chú trọng vào sự thay đổi diện tích, sự phá huỷ lớp thảm phủ. Những nghiên cứu

sâu về cơ chế, đặc điểm phá huỷ và tác động lâu dài đến cơ thể thực vật còn hạn chế

và mang tính đơn lẻ.

 Cơ chế tác động của chất da cam/dioxin đối với thực vật

Trước đây, để diệt cỏ, phá huỷ thảm thực vật tự nhiên, người ta thường dùng

chất khai quang (như trên đã gọi là chất da cam/dioxin) từ hỗn hợp 2,4-D (Dichloro

phenoxy acetic acid) và 2,4,5-T (Trichloro phenoxy acetic acid) được trộn theo tỷ lệ

50:50 [9]. Hỗn hợp được sử dụng trên thực tế từ dẫn xuất của các Acid và thường

gọi là chất da cam và sau này người ta đã phát hiện có chứa hàm lượng đáng kể

dioxin.

Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy lớp sáp lá (dày mỏng khác nhau), lớp

lông tơ phủ bề mặt, vốn ngăn chặn hiệu quả sự thấm trực tiếp của nước mưa vào

bên trong lá cây lại không có tác động ngăn chặn sự xâm nhập của chất da

cam/dioxin. Chất da cam được ester hóa bám dính khá tốt trên bề mặt lá và bốc hơi

dưới nhiệt độ cao của không khí và ánh sáng mặt trời vào mùa khô có thể thâm

nhập vào lá và sau đó vào cây khi lá hô hấp qua các khí khổng. Thực tế là cây bị

rụng lá 10-15% khi bị rải lần đầu tiên, mặc dù đa số lá cây tầng vượt tán đều có lớp

sáp khá dày và số lượng chất da cam /dioxin được rải chỉ vừa đủ bám một lớp rất

mỏng lên bề mặt lá. Từ các số liệu về hình thái và sinh lý các loài cây nền,

Kuznetsov và cộng sự đã đi đến kết luận: yếu tố hình thái không có vai trò quyết

định trong việc giải thích khả năng sống sót của rừng [9].

~ 23 ~

Chất 2,4-D và 2,4,5-T đều là chất kích thích sinh trưởng nhân tạo. Thực vật

hấp thu chúng trong chất diệt cỏ qua lá, thân chồi và rễ. Dấu hiệu bị tác động rất

khác nhau, có thể xuất hiện sau vài ngày, vài tuần hay thậm chí vài tháng sau khi bị

phơi rải. Lá cây thường bị héo, cong, xoắn vặn và các kiểu biến dạng khác. Các loại

hỗn hợp hoá chất này tác động mạnh, yếu tới thực vật tùy thuộc vào lượng chất

được sử dụng và độ mẫn cảm riêng của từng loài.

Một vài nghiên cứu đơn lẻ cũng cho thấy tính mẫn cảm rất khác nhau

của các loài cây rừng đối với chất độc da cam/dioxin, ảnh hưởng tới cấu trúc tổ

thành loài, song chưa chỉ ra được mức độ cụ thể [4]. Hơn nữa, chưa có nghiên

cứu nào cho thấy sự ảnh hưởng của dioxin có chứa trong hỗn hợp chất độc đối

với thực vật. Hiện nay, những nghiên cứu, phân tích hàm lượng tích tụ dioxin

trong một số thành phần thực vật (đặc biệt là rễ, củ, quả) không chỉ ra được

mối liên hệ này.

 Tác động đối với thảm và hệ thực vật

Hầu hết các nghiên cứu đều đi đến nhận định rằng, trước hết, chất da

cam/dioxin có khả năng phá vỡ hoàn toàn cấu trúc thảm thực vật. Trong cuộc chiến

tranh hoá học ở miền Nam Việt Nam, chất da cam/dioxin đã phá huỷ trên 2 triệu ha

rừng, trong đó chủ yếu là rừng tự nhiên. Vì lẽ đó, diện tích rừng tự nhiên đã suy

giảm nghiêm trọng mà nguyên nhân có sự đóng góp của chất da cam/dioxin. Số liệu

so sánh sự biến động của diện tích rừng từ năm 1943 đến năm 1995 được chỉ ra

trong bảng 2.

Bảng 2. Biến động diện tích rừng Việt Nam giai đoạn 1943- 1995

Loại Rừng tự rừng Rừng trồng Tổng cộng Độ che phủ nhiên (1000ha) (1000ha) (%) (1000ha) Năm

1943 14.000 0 14.000 43,0

~ 24 ~

1976 11.077 92 11.169 33,8

1985 9.308 584 9.892 30,0

1995 8.252 1.050 9.302 28,2

Nguồn: Phùng Tửu Bôi, 1993[4]

Giai đoạn 1943 – 1976 tuy khá dài, song sự suy giảm diện tích từ 43% xuống

còn 33,8% độ che phủ có nguyên nhân quan trọng của chất da cam/dioxin. Trong

chiến dịch Ranch Hand, chất da cam/dioxin được sử dụng để phun rải ngay từ vĩ

tuyến 17 đến mũi Cà Mau. Trong số các đối tượng thực vật bị phá huỷ, thảm thực

vật rừng nội địa là đối tượng chịu nặng nề nhất, chiếm 86% tổng số phi vụ phun rải

[4]. Bảng 2 cho thấy lượng hoá chất đã phun rải xuống rừng nội địa trong chiến

tranh Việt Nam, từ năm 1961 – 1971.

Bảng 3. Các loại hoá chất phun rải rừng nội địa Việt Nam giai đoạn 1961 - 1971

Khối lƣợng Tỷ lệ TT Loại hoá chất sử dụng (triệu lít) (%)

1 Chất da cam 39,816 66

2 Chất trắng 19,094 32

3 Chất xanh 1,684 2

Cộng 60,594 100

Nguồn: Phùng Tửu Bôi, 1993[4]

Sự thử nghiệm đầu tiên chất da cam/dioxin đối với thảm thực vật rừng chính

là khu vực Sa Thầy - Ngọc Hồi tỉnh Kon Tum [31]. Trong số các kiểu rừng bị tác

động thì kiểu rừng kín thường xanh bị tác động mạnh nhất và để lại hậu quả nặng

nề. Cùng với bom cháy Napal, chất da cam/dioxin đã làm biến đổi “tận gốc” thảm

thực vật. Từ kiểu rừng kín thường xanh nguyên sinh, giàu có về trữ lượng gỗ, thành

phần loài và đa dạng về dạng sống đã dẫn đến đất trống, trảng cỏ, trảng cỏ cây

bụi… trong khoảng thời gian ngắn. Tuy nhiên, thực tế nghiên cứu [17] đã chứng

~ 25 ~

minh: tuỳ thuộc vào số lượng và mật độ phun rải cũng như những tác động nhân

sinh khác mà thảm thực vật bị thay đổi, biến đổi ở các mức độ khác nhau. Trong

trường hợp bị phun rải nhiều lần, với hàm lượng cao thì hầu hết cây rừng đều bị

rụng lá, và bom napal sẽ là tác nhân tiếp theo để làm phá huỷ hoàn toàn cấu trúc

nguyên sinh của rừng.

Trong những trường hợp bị phun rải ít lần, hàm lượng thấp hoặc sau khi

phun rải, trời đổ mưa thì thảm thực vật sẽ có cơ hội vượt qua quãng thời gian “khó

khăn”, dù rằng nhiều loài vẫn bị rụng lá (rụng một phần hoặc rụng hoàn toàn).

Mức độ tác động của chất da cam/dioxin đối với mỗi nhóm thực vật khác

nhau là không giống nhau. Chẳng hạn cây Đước Rhizophora apiculata ở vùng rừng

ngập mặn là loài rất nhạy cảm với chất da cam/dioxin. Vì lẽ đó hầu hết diện tích

rừng ngập mặn với thành phần chủ yếu là Đước ở TP Hồ Chí Minh và Cà Mau đều

bị phá huỷ hoàn toàn sau khi bị phun rải chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn [4][18].

Theo một số tác giả (Kuznetsov, Phan Lương, 2007; Phùng Tửu Bôi, 2002), những

loài cây có mức độ mẫn cảm cao và khá cao với chất da cam/dioxin là khá đa dạng.

Trong số các loài được cho là bị ảnh hưởng mạnh bởi chất da cam/dioxin, có nhiều

loài có nhựa (mủ) như mít nài, thừng mức, máu chó… Điều này cho thấy tính mẫn

cảm hơn của thực vật có nhựa so với những nhóm thực vật khác (không kể nhóm

cây thuộc lớp Một lá mầm) [6].

Sự thiệt hại của chất da cam/dioxin không chỉ với đặc điểm cấu trúc của

thực vật rừng mà ảnh hưởng trực tiếp tới trữ lượng gỗ. Về vấn đề này đã được nhiều

tác giả trong nước đề cập như Phan Nguyên Hồng, Phùng Tửu Bôi [4][18]. Theo kết

quả tính toán sơ bộ, việc bị phun rải chất da cam/dioxin đã làm thiệt hại 90.284.000m3 gỗ [4].

Sau khi bị tác động của chất da cam/dioxin, sự phục hồi của thảm thực vật

vẫn có khả năng diễn ra ở nhiều nơi, tuy rất khác nhau về mức độ (Nguyễn

Quang Hà, 1993; Phùng Tửu Bôi, 1993, 2002; Nguyễn Đăng Hội, 2001; Phan

Nguyên Hồng, 1993; Trần Văn Ba, 1993…). Về sự phục hồi của rừng sau khi

~ 26 ~

bị phá huỷ bởi chất da cam/dioxin cho đến nay vẫn có nhiều cách giải thích khác

nhau, thậm chí trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng, chủ yếu là do sự thiếu hụt

nguồn giống và những tác động đốt rừng sau này [16], song một số lại cho rằng,

đó là do sự phá huỷ hoàn toàn của điều kiện môi trường khu vực [24].

Với quan điểm có khả năng phục hồi và sau một số năm nghiên cứu tại

khu vực A Lưới và đặc biệt là vùng núi thấp Sa Thầy - Ngọc Hồi, Nguyễn Đăng

Hội đã xây dựng được mô hình quá trình diễn thế thảm thực vật sau khi chịu tác

động của chất độc hoá học. Kết quả cũng cho thấy khả năng phục hồi, tái tạo

thảm thực vật rừng tự nhiên, song đặc điểm và chất lượng đã khác nhiều so với

thảm thực vật và cảnh quan nguyên sinh [17].

Ngoài việc nghiên cứu, đánh giá tác động lâu dài của chất da cam/dioxin đối

với sự phá huỷ, phục hồi của thực vật rừng, nhiều tác giả cũng quan tâm tới việc

trồng lại rừng trên các vùng đất rừng đã bị mất, môi trường đã bị biến đổi, ô nhiễm

ở các mức độ khác nhau [10][16].

1.2.2. Tình hình sử dụng CĐHH vào mục đích quân sự trên thế giới

Người Anh đã nghiên cứu sử dụng các CĐHH vào mục đích quân sự từ năm

1940 và năm 1953, lần đầu tiên họ đã sử dụng Triclophenoxyaxetic axit (2,4,5-T)

vào việc khai quang đường rừng để hạn chế các cuộc phục kích của du kích và phá

hoại nông nghiệp bản địa tại Malaixia.

Quân đội Mỹ cũng đã vào cuộc từ đầu những năm 40, khi cuộc chiến tranh Thế

giới còn chưa kết thúc. Chiến tranh hóa học ở Đông Dương nói chung và Việt Nam

nói riêng không tách rời với quá trình nghiên cứu và thử nghiệm các CĐHH của

quân đội Mỹ. Theo Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga [16] và William A.

Buckingham, J.R. (1983) từ năm 1941 đến năm 1970, việc nghiên cứu và thử nghiệm

hàng nghìn chất hóa học có khả năng phá hoại mùa màng và làm rụng lá cây, trong đó có

các chất 2,4-Diclophenoxyaxetic axit (2,4-D), Triclophenoxyaxetic axit (2,4,5-T) và một

số ester của chúng đã được tiến hành tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến tranh Hóa học của

~ 27 ~

quân đội Mỹ tại Fort Detrick (bang Maryland), căn cứ không quân Eglin (bang Florida)

và ở Camp Drum (bang New York).

Cuối chiến tranh Thế giới Lần thứ II, không quân Mỹ đã có kế hoạch sử dụng

một số CĐHH trên những đồng lúa vùng ngoại ô của 6 thành phố của Nhật Bản,

song chưa kịp sử dụng thì chiến tranh kết thúc.

1.2.3. Tình hình sử dụng CĐHH trong chiến tranh tại Việt Nam

a) Mức độ phun rải CĐHH trong chiến tranh tại Việt Nam

Chương trình phun rải CĐHH từ trên không được thử nghiệm và phát triển trên

toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam, trong suốt một thời gian dài 1961-1971, có trọng

tâm, trọng điểm cho từng vùng chiến thuật, trong đó CĐHH được sử dụng nhiều nhất

trong chiến dịch Cranch Hand. Chiến dịch Ranch Hand là mật danh của phương thức

phun rải các chất phát quang phá hoại hoa mầu từ trên không bằng máy bay, mà chủ yếu

là máy bay vận tải C-123, đây là phương thức chủ yếu mà quân đội Mỹ đã sử dụng để

thực hiện việc phun rải các CĐHH. Bên cạnh phương thức chủ đạo này, việc phun rải

các CĐHH còn được tiến hành bằng máy phun tay, máy phun đặt trên xe tải trên bộ, trên

ca nô, xuồng chiến trên sông, bình phun đeo lưng. Các phương thức này thực hiện trong

phạm vi hẹp và chiếm tỷ lệ không lớn, 10-12%. Đây là chiến dịch cột trụ của chương

trình, phun rải CĐHH bắt đầu từ 10-1-1962 và kết thúc ngày 31-10-1971. Ở thời điểm

cao nhất (1968-1969), quân đội Mỹ đã sử dụng tới 30 chiếc C-123 để phun rải.

Với mục đích “phát quang” để tấn công, phát quang để phòng vệ và phá hoại mùa

màng của đối phương, quân đội Mỹ, sau thử nghiệm nhiều chất, nhiều lần, nhiều năm, đã

tập trung sử dụng 3 chất da cam, xanh và trắng với phương tiện chủ yếu là máy bay vận

tải C-123. Các chất này đáp ứng được yêu cầu của Mỹ– Nguỵ đạt được các mục đích

phát quang và phá hoại mùa màng.

Để phát quang chủ yếu sử dụng các chất da cam và trắng, để phá hoại mùa màng chủ

yếu là chất xanh.

- Chất Da cam (Agent Orange – AO): Là một chất lỏng mầu nâu đỏ hay mầu nâu,

không tan trong nước, nhưng tan trong diezen và các dung môi hữu cơ, tỷ trọng riêng ở

25oC là 1,28 kg/lít. Thành phần gồm khoảng 50:50 phần trọng lượng của n-butylic este

~ 28 ~

2,4-D và 2.4.5-T. Trong quá trình sản xuất 2,4,5-T, tạp chất 2,3,7,8-Tetraclodibenzo-p-

dioxin (2,3,7,8-TCDD), một chất độc tổng hợp đầu bảng được tạo thành và là nguồn gốc

của mọi tai họa do chất da cam và những chất có chứa 2,4,5-T và dẫn xuất của nó gây

nên. Chất da cam được pha trong dầu diezen làm tăng khả năng bám dính trên lá cây,

làm rụng lá cây, khi lá không mọc lại được nữa có nghĩa là chấm dứt quá trình quang

hợp dẫn đến sự chết của cây.

- Chất trắng: Là một chất lỏng mầu nâu đen, có độ nhớt cao, tan tốt trong nước,

nhưng không tan trong nhiên liệu diezen và các dung môi hữu cơ khác, thành phần

gồm có:

+ Triisopropanolamin và các cấu thành khác 50,2%

+ Muối Triisopropanolamin của 2,4-D 39,6%

+ Muối Triisopropanolamin của picloram 10,2%.

Picloram là một chất diệt cây tồn tại lâu dài nhất trong đất, chủ yếu dùng để

phát quang cây rừng, nhất là rừng lâu năm (rừng già nhiệt đới).

- Chất xanh: Là một chất lỏng màu nâu sáng, thành phần gồm:

+ Nước 59,5%

+ Natri cacodylat 26,4%

+ Axit cacodylic 4,7%

+ Natri clorua 5,5%

+ Chất hoạt bề mặt 3,4%

+ Chất chống tạo bọt 0,5%.

Axit cacodylic rút nước của lá cây làm cho lá khô héo, khó thấm hơn vào màng

tế bào của lá cây so với chất da cam, nhưng khi đã thấm vào rồi nó di chuyển đến

tận rễ của cây làm cho cây chết, tác dụng nhanh. Chất xanh vừa dùng để phát quang

vừa dùng để phá hoại mùa màng, đặc biệt là lúa.

~ 29 ~

Bảng 4. Trạng thái vật lý và mục đích sử dụng các CĐHH chủ yếu

Nguồn: MB, 2002[21]

Về số lượng chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong Chiến dịch Ranch Hand, có

nhiều tác giả đã nghiên cứu và công bố những con số khác nhau. Sở dĩ có sự khác

nhau vì do sự tiếp cận và tổng hợp số liệu từ các tài liệu chưa đầy đủ. Dưới đây là

bảng thống kê kết quả nghiên cứu của một số tác giả nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên

cứu về chất độc này.

Bảng 5. Lƣợng chất diệt cỏ phun rải ở miền Nam Việt Nam

Chú thích: Các số liệu trong bảng này chuyển đổi 1 gallon Mỹ = 3,78 lít [30]

Ngoài ra, còn có nhiều số liệu khác như của Viện Hàn lâm Mỹ, NAS (1974):

85.212.306 lít; Westing (1998): 86.025.874 lít. Có thể đây là tổng lượng chất diệt cỏ

đưa vào miền Nam Việt Nam chứ không phải lượng phun rải [33].

~ 30 ~

Trong các số liệu của Stellman (đăng trong Tạp chí Nature, Vol.17, April, 2003) có

những số liệu chỉ ghi trong hồ sơ cung cấp cụ thể là 413.852 lít chất hồng, 31.025 lít

chất xanh mạ, hoặc 3.691.000 lít chất da cam đã được đưa tới miền Nam Việt Nam.

Tổng cộng các số liệu này là 4.135.877 lít, nhưng không khẳng định đã được sử

dụng chưa, nên không đưa vào bảng thống kê này. Nếu cộng với cả số liệu này nữa,

thì con số của Stellman sẽ là 77.054.805 lít (~ 77 triệu lít). Còn số liệu của Young

(2005) là con số mà tác giả khẳng định là đã sử dụng, con số đã đưa vào là

76.764.480 lít (~ 76,8 triệu lít), đã sử dụng 71.542.640, và đưa trở về Mỹ 5.221.840

lít (25.105 phuy dung tích 208 lít).

Theo các nhà khoa học Việt Nam, tổng lượng chất phát quang Mỹ phun rải

tại Việt Nam là 74.349.360 lít [33].

b) Độ tồn lưu và di chuyển của dioxin trong môi trường miền Nam Việt Nam

Độ tồn lưu và sự lan truyền của bất cứ một loại chất độc hại nào trong môi

trường, trong đó có dioxin phụ thuộc vào các yếu tố chính sau đây:

+ Tính chất và đặc điểm của các chất, mà trước hết là độtan trong nước, áp suất

hơi, độ bền hóa học, độ bền sinh học, độ bền nhiệt, khả năng hấp phụ.

+ Điều kiện khí hậu tự nhiên của môi trường đất, nước, không khí: nhiệt độ, lượng

mưa, gió và tốc độ gió, lưu lựơng dòng chảy, thành phần thổ nhưỡng của đất, bức xạ

mặt trời, v.v…

+ Quy mô và tốc độ khai phá tự nhiên của con người. Trước hết về tính chất và đặc

điểm của dioxin: Dioxin là một nhóm chất hóa học hữu cơ vòng thơm chứa clo có nhiệt

độ nóng chảy cao, ái mỡ, kỵ nước, áp suất hơi rất thấp, có độ bền rất cao đối với nhiệt

độ; các axit, các kiềm và các chất oxy hóa mạnh; các tác nhân sinh học, có khả năng

hấp phụ rất cao, là một nhóm chất rất bền vững trong môi trường.

Về điều kiện khí hậu tự nhiên của các tỉnh miền Nam Việt Nam nước ta là khí hậu nhiệt đới ẩm, nắng nóng quanh năm, nhiệt độ trung bình 25-27o C, bức xạ măt

trời mạnh, đây là những điều kiện thuận lợi cho quá trình quang phân hủy các chất

~ 31 ~

độc sinh thái nói chung, dioxin nói riêng trong không khí, trên bề mặt đất, lá cây,

v.v… Hệ thống sông ngòi dày đặc, trung bình khoảng 1 km/km2, đa số sông ngòi là

ngắn, hướng chảy ra Biển Đông, năm nào cũng có mưa to gió lớn, bão lụt; đất đai,

đồng ruộng bị ngập lụt mênh mông, những đặc điểm thủy văn này làm cho đất đai

bị xói mòn, cuốn theo dòng nước lan tỏa đi khắp nơi và cuối cùng là chảy ra biển,

các hợp chất dioxin hấp phụ mạnh vào đất cũng theo đó mà lan tỏa đi các nơi và ra

biển, nồng độ loãng dần hàng năm. Đây là hai yếu tố tự nhiên có tác động đáng kể

đến độ tồn lưu, sự suy giảm nồng độ và sự di chuyển của dioxin trong môi trường

miền Nam Việt Nam.

Để đánh giá độ tồn lưu và sự lan truyền của dioxin trong môi trường miền Nam

Việt Nam cần phân biệt hai loại khu vực bị nhiễm dioxin: Các khu vực bị phun rải

(khu vực PR) các CĐHH chứa dioxin mà chủ yếu là chất độc da cam, các khu vực

này chiếm khoảng 2,63 triệu ha, bị phun rải 60.631 tấn các CĐHH chứa dioxin và

phân bố trên toàn miền Nam, trong đó trọng tâm là vùng Chiến thuật III – các khu

vực xung quanh Sài Gòn. Còn khu vực thứ hai là những nơi tàng trử, nạp-rửa (nơi

TTNR) để nạp lên máy bay đi phun rải, đó là các sân bay quân sự chủ yếu. Diện

tích bị nhiễm dioxin ở những nơi này không lớn, khoảng 2-4 ha mỗi nơi (các sân bay Đà Nẵng, Biên Hòa), hoặc ít hơn chỉ vài nghìn m2 (Phù Cát).

Theo số liệu Bộ Quốc phòng Mỹ mới công khai, do Giáo sư Young (2005),

trình bày tại hội thảo Việt – Mỹ do Bộ Quốc phòng Việt Nam tổ chức tháng 8 năm

2005 tại Hà Nội, các sân bay tàng trử chính là: Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Đà Nẵng,

còn các sân bay cất giữ tạm thời với số lượng hạn chế là: Phù Cát, Nha Trang và

Tuy Hòa. Tuy nhiên, việc nạp lên máy bay đi phun rải được thực hiện chủ yếu ở hai

sân bay lớn là Biên Hòa, sân bay Đà Nẵng và một phần ở sân bay Phù Cát.

c) Tình hình phun rải CĐHH ở Quảng Trị

Với vị trí địa chiến lược và quân sự quan trọng, Quảng Trị được xem là tuyến

lửa của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Để thiết lập vành đai trắng, quân đội Mỹ đã sử

~ 32 ~

dụng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó tác động nổi bật đối với tài nguyên và

môi trường là việc sử dụng CDC có chứa dioxin rải xuống khu vực.

Hiện chưa thống kê được cụ thể số lượng chất diệt cỏ rải xuống khu vực,

nhưng nhiều diện tích rừng đã bị phun một lượng đáng kể chất diệt cỏ với

cường độ phun rải khác nhau. Diện tích rừng bị tác động tập trung nhiều nhất là

tuyến lửa ở vĩ tuyến 17 dọc sông Bến Hải. Một dải kéo dài từ khu vực Cồn Tiên

– Dốc Miếu lên tận biên giới Việt Lào thuộc địa bàn các xã Linh Thượng, Hải

Thái, Linh Hải, Gio Sơn, Gio Hoà, Gio Châu (huyện Gio Linh); xã Cam Tuyền,

Cam Nghĩa (huyện Cam Lộ); xã Hướng Sơn, Hướng Phùng (huyện Hướng

Hóa) bị phun rải nhiều lần, trong đó có một số diện tích chịu nồng độ lên đến >1.000gal/km2. Ở khu vực phía nam, diện tích bị phun rải tập trung ở các xã

Hải Phúc, Ba Lòng (huyện Đắc Krông); xã Hải Lâm, Hải Sơn, Hải Trường

(huyện Hải Lăng). Ngoài ra còn có các điểm không tập trung thuộc lãnh thổ các

huyện Đắc Krông, Triệu Phong cũng bị phun rải nhưng với mật độ thấp hơn.

Theo các tài liệu của Mỹ, khu vực Quảng Trị chịu sự phun rải chất diệt

cỏ ở mức độ trung bình và khá cao (không cao như ở A Lưới, Thừa Thiên Huế

và một số tỉnh phía Nam). Mật độ rải chất diệt đỏ thường nằm trong khoảng 200-1.000gal/km2. Tuy vậy, cùng với tác động hỗn hợp của bom đạn và bom

cháy, những diện tích bị phun rải đã trở thành đất trống hoặc trảng cỏ. Sau này

mới có một phần diện tích phục hồi thành rừng.

Kết quả điều tra còn cho thấy, không những diện tích rừng tự nhiên bị biến

mất mà nhiều diện tích thảm thực vật nhân sinh cũng bị tàn phá nặng nề, trong

đó điển hình là quần xã cây trồng trong các khu dân cư với ưu thế là những loài

cây ăn quả, cây lấy bóng mát.

~ 33 ~

Hình 1: Mật độ phun rải chất diệt cỏ trong chiến tranh ở Quảng Trị

Nguồn: Tài liệu tham khảo từ Chương trình 33[2]

~ 34 ~

1.3. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội, tài nguyên & môi trƣờng

huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị

1.3.1. Đặc điểm các yếu tố tự nhiên

1.3.1.1. Vị trí địa lý, cấu trúc không gian lãnh thổ

Quảng Trị là tỉnh ven biển thuộc Bắc Trung Bộ và đóng vai trò như cửa ngõ

thông thương giữa miền Bắc với miền Trung (MT) và miền Nam (MN). Diện

tích tự nhiên toàn tỉnh là 474.700ha, chiếm 1,43% lãnh thổ cả nước. Quảng Trị có vị trí địa lý: từ 16o18‟13” đến 17o10‟00” vĩ bắc và từ 106o30‟51” đến 107o23‟48” kinh đông

Chiều dài theo phương Bắc Nam khoảng 80km, chiều rộng từ 55-72km (Lao

Bảo - Cửa Việt). Phía bắc tiếp giáp với tỉnh Quảng Bình; phía tây, tây nam tiếp giáp

với Lào (khoảng 200km đường biên giới); phía nam, đông nam tiếp giáp tỉnh Thừa

Thiên – Huế và phía đông tiếp giáp biển Đông với chiều dài đường bờ biển khoảng

75km.

Quảng Trị còn có tuyến đường sắt Bắc – Nam và quốc lộ 1A, tuyến đường

cao tốc Bắc Nam chạy qua. Quốc lộ 9 cắt ngang qua tỉnh nối liền miền duyên hải

phía đông với Lào.

Mặc dù có diện tích không rộng, nhưng Quảng Trị có vị trí rất quan trọng về

nhiều mặt, vừa mang tính chất vùng, vừa mang tính chất quốc gia và quốc tế.

1.3.1.2. Địa hình

Cũng giống như đặc trưng của nhiều tỉnh miền Trung, Quảng Trị có địa hình

dốc nghiêng từ tây sang đông, tạo nên một mái nghiêng của Đông Trường Sơn. Địa

hình đồi và núi chiếm tới 81% lãnh thổ, trong khi đồng bằng chỉ có 11,5%, còn lại

là bãi cát và cồn cát ven biển (7,5%). Địa hình ở đây có sự chia cắt khá mạnh. Nếu

như ở phía tây địa hình bị chia cắt bởi hệ thống đồi và núi thấp thì phía đông chủ

yếu do sông suối và đầm phá.

~ 35 ~

Địa hình đồng bằng có diện tích nhỏ và hẹp, bị phân cắt thành các bồn

trũng theo các lưu vực sông (sông Mỹ Chánh, sông Thạch Hãn, sông Hiếu và

sông Bến Hải). Hệ thống cửa sông dạng phễu là nơi thuận tiện hình thành các

cảng vận chuyển hàng hóa. Có thể tạm chia địa hình của Quảng Trị ra một số

dạng sau:

+ Địa hình đồng bằng: Hình thành do phù sa của các hệ thống sông bồi đắp

(chủ yếu trong kỷ Đệ tứ). Phù sa thường dày từ 3-4m nhưng nhiều chỗ độ dày

không tới 1m. Độ cao tuyệt đối dao động trong khoảng 4-6m. Dạng địa hình

này phân bố dọc theo bờ biển phía đông của tỉnh.

+ Địa hình đồi gò và núi thấp: Là dạng địa hình trung gian giữa đồng bằng

ở phía đông và núi ở phía tây. Độ cao của dạng địa hình này dao động trong

khoảng 100-600m, có thể lên tới 700-800m, tập trung trong lưu vực sông Đắc

Krông, sông Ba Lòng. Nhìn chung địa hình vẫn có xu hướng giảm dần độ cao

từ tây sang đông, đồng thời độ chia cắt sâu cũng giảm đáng kể.

+ Địa hình núi trung bình: Có độ cao từ 800m trở lên và chủ yếu phân bố ở

phía tây của Quảng Trị. Các núi ở đây thuộc dãy Trường Sơn Bắc, dốc và rất

dốc về đông nhưng thoải dần về tây. Núi chạy theo hướng đông bắc – tây nam,

tạo nên bức thành chắn gió đông bắc về mùa đông, gió tây nam về mùa hạ dẫn

đến sự khác biệt rõ rệt của khí hậu hai miền Đông và Tây Trường Sơn.

+ Địa hình cát nội đồng và ven biển: Tuy diện tích không lớn nhưng là một

trong những dạng địa hình đặc trưng ở Quảng Trị. Là dạng địa hình trung gian

nối liền giữa đồng bằng và biển. Dạng địa hình này kéo dài từ nam Cửa Tùng

đến giáp Thừa Thiên - Huế. Chiều rộng trung bình của dải cát 4-5m, cao 5-

15m, thậm chí đến 20-25m. Trong nội đồng có các “truông” cát là dấu tích của

đầm phá cổ.

1.3.1.3. Khí hậu

Là vùng có chế độ khí hậu nhiệt đới không thực sự điển hình: khô nóng về mùa

hạ, ẩm ướt về mùa đông. Quảng Trị có nền nhiệt cao với tổng lượng nhiệt hoạt động

~ 36 ~

năm đạt 9.000oC (ở miền núi phía tây cũng đạt >8.000oC). Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23-25oC, tháng có nền nhiệt cao nhất là tháng V, VI, VII, thấp nhất là tháng

XII, I.

Khí hậu Quảng Trị có 2 mùa khá rõ rệt: Mùa lạnh từ cuối tháng X đến tháng III

năm sau. Tuy nhiên, khoảng thời gian mùa lạnh ngắn hơn ở vùng đồng bằng. Mùa

nóng kéo dài từ tháng IV đến tháng X nhưng có sự lệch pha giữa đồng bằng và

miền núi. Mặc dù chịu ảnh hưởng của gió Tây khô nóng nhưng lượng mưa bình

quân năm ở Quảng Trị khá cao, đạt 2.300 - 2.700mm ở đồng bằng và 2.000mm ở

miền núi. Lượng mưa chủ yếu tập trung vào các tháng IX, X và XI. Ngược với đặc

điểm khí hậu đồng bằng Bắc Bộ, ở Quảng Trị thời kỳ ẩm rơi vào tháng II, III

(không kể tây Trường Sơn), trong khi độ ẩm mùa hạ thấp hơn nhiều do chịu ảnh

hưởng của gió khô và nóng (gió Lào). Kết quả quan trắc cho thấy, Quảng Trị là khu

vực có thời gian và cường độ hoạt động mạnh nhất của gió tây khô nóng (40-50

ngày/năm). Khí hậu Quảng Trị càng khắc nghiệt khi bên cạnh thời kỳ khô hạn là

thời kỳ của bão và áp thấp nhiệt đới, lũ lụt (VIII-X).

1.3.1.4. Thủy văn

Quảng Trị có hệ thống sông suối khá dày, mật độ khoảng 1,9km/km2. Hầu hết

các sông và suối lớn đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn phía tây nên không dài, lòng

hẹp, dốc, nhiều ghềnh. Toàn lãnh thổ có 60 phụ lưu đổ vào 3 hệ thống sông chính là

sông Bến Hải, sông Thạch Hãn và sông Mỹ Chánh:

* Sông Bến Hải có chiều dài 59km với diện tích lưu vực 936km2 chảy theo

hướng chủ đạo là tây - đông và đổ ra biển qua Cửa Tùng.

* Hệ thống sông Thạch Hãn gồm nhiều phụ lưu (Thạch Hãn, Hiếu, Vĩnh Phước,

Vĩnh Định…) với tổng chiều dài 768km. Là hệ thống sông có diện tích lưu vực lớn nhất ở đây, với 2.800km2, cuối cùng đổ ra biển qua Cửa Việt.

* Hệ thống sông Mỹ Chánh gồm 2 phụ lưu chính là sông Mỹ Chánh và sông Ô Khê với tổng chiều dài 66km, diện tích lưu vực 931km2. Hệ thống sông này nằm ở

~ 37 ~

phía nam của lãnh thổ, cùng với sông Ô Lâu chảy vào phá Tam Giang ở Thừa Thiên

- Huế.

Trên phần lãnh thổ thuộc tây dãy Trường Sơn còn có một số sông thuộc hệ

thống sông Xê Băng Hiêng và Xê Pôn. Các sông này có hướng ngược lại với 3 hệ

thống sông nói trên, chảy qua đất Lào rồi đổ vào hệ thống sông Mê Công theo

hướng đông tây.

Nhìn chung lưu lượng và chế độ dòng chảy của sông phụ thuộc chặt chẽ vào

chế độ mưa. Mùa khô sông thường ít nước, lưu lượng thấp nhưng mùa mưa, lưu

lượng và tốc độ dòng chảy thường tăng đột biến, thậm chí gây nên hiện tượng lũ,

lụt ở cả vùng gò đồi núi thấp và dải đồng bằng ven biển miền đông.

Bên cạnh hệ thống sông suối, ở Quảng Trị còn có một số hồ nước tự nhiên và nhân

tạo có khả năng điều hòa khí hậu, cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt, nuôi trồng thủy

sản. Trong số đó phải kể đến là hồ Bàu Thủy Ứ (Vĩnh Linh), Mai Xá, Hồ Hà Thượng (Gio

Linh), hồ Bàu Đá, hồ Mai Lộc (Cam Lộ) …

1.3.1.5. Đất (thổ nhưỡng)

Quảng Trị có sự phong phú và đa dạng về chủng loại đất: 11 nhóm với 32 loại.

Tầng đất thường có độ dày từ trung bình đến mỏng. Đất có tầng dày >70cm chỉ

chiếm 30% tổng diện tích, tầng dày <30cm chiếm 38%. Đất thường phát triển trên địa hình có độ dốc lớn. Đất có độ dốc >20o chiếm trên 65% tổng diện tích lãnh thổ.

Trong các nhóm loại đất, điển hình gồm một số nhóm loại sau:

* Đất đỏ vàng trên đá sét (Fs): chiếm 30% diện tích đất tự nhiên. Tầng dày từ

mỏng đến trung bình (<70cm). Đất thường bị xói mòn mạnh ở những nơi thảm thực

vật tự nhiên đã bị tàn phá. Hàm lượng mùn, đạm, kali tổng số trung bình, lân tổng

số thấp. Đất có phản ứng chua, nghèo dinh dưỡng.

* Đất vàng nhạt trên đá cát (Fq): chiếm 13,5% diện tích lãnh thổ. Đất có tầng

dày mỏng (50%) và trung bình (30%). Đất phát triển trên địa hình gò, đồi. Phần lớn

diện tích đất có tầng dày mỏng, bị chia cắt, xói mòn mạnh.

~ 38 ~

* Một số loại đất tuy diện tích không lớn, song có ý nghĩa quan trọng đối với

ngành trồng trọt như: đất phát triển trên đá bazan (khoảng 20.000ha), đất phù sa

mới (42.000ha) và đất phát triển trên phù sa cổ (khoảng 11.000ha)… Hầu hết các

loại đất này có tầng dày khá trở lên (>70cm), hàm lượng dinh dưỡng trung bình,

khá, phân bố ở địa hình ít dốc, gần khu dân cư. Những loại đất này hiện nay đã và

đang được khai thác vào sản xuất lúa, cao su, hồ tiêu, cà phê…

Ngoài ra ở Quảng Trị còn có các loại đất cát, cát trắng ven biển. Tuy vậy,

những loại đất này có độ phì thấp và thường bị chua hoặc phèn hóa.

1.3.1.6. Thảm thực vật

Trải qua quãng thời gian dài chịu những tác động nhân sinh khác nhau (chất

diệt cỏ, bom đạn, khai thác gỗ, củi, nương rẫy…), đến nay ở Quảng Trị có sự phong

phú về kiểu loại thảm thực vật. Điểm đáng lưu ý là diện tích thảm thực vật tự nhiên

ngày càng suy giảm. Cùng với quá trình đó là chất lượng rừng cây gỗ tự nhiên

không còn giữ được trạng thái nguyên sinh mà suy giảm nhiều. Cho đến nay, ở

Quảng Trị có một số thảm thực vật đăc trưng:

a) Thảm thực vật tự nhiên:

Phân bố trên diện rộng nhưng đã bị tác động ở các mức độ khác nhau. Thảm thực

vật rừng tự nhiên chỉ còn tập trung ở phía tây và một dải hẹp và nhỏ ở ven biển (Rú Lịnh,

Gio Châu...). Thảm thực vật tự nhiên gồm một số kiểu sau:

* Thảm thực vật ngập mặn: phân bố thành dải hẹp ven biển, gồm chủ yếu các loài

thực vật nhiệt đới thường xanh ngập mặn với quần xã cây lá rộng. ưu thế gồm các loài

như bần (Sonneratia caseolaris), trang (Kandelia candel), sú (Rhizophora mucronata)...

Bên cạnh đó còn có trảng cây bụi ngập mặn với đặc trưng của các quần xã sú, vẹt

(Bruguiera gymnorhiza), ô rô gai (Acanthus ilicifolius).

* Thảm thực vật trên cát và đất cát ven biển: Với loài cỏ chông (Spinifex littereus),

rau muống biển (Ipomoea pes-caprea) là những loài tiên phong trên đất cát mới hình

thành ven biển. Trên vùng đất cát cố định ven biển có khả năng thoát nước tốt chủ yếu là

~ 39 ~

quần hệ: tràm (Melaleuca leucadendron), tra làm chiếu (Hibiscus tiliaceus), hếp

(Scaevola koenigii). Ở khu vực này còn xuất hiện quần xã dứa dại hay còn gọi là dứa gỗ

(Pandanus tectorius), hếp, tra...

* Thảm thực vật vùng gò đồi và núi thấp dưới 700m: Gồm các kiểu rừng nhiệt đới

thường xanh phát triển trên nhiều loại đất khác nhau. Nơi có mức độ tác động yếu, trung

bình, thường tồn tại quần xã thực vật (QXTV) với ưu thế các loài như gụ (Sindora

cochinchinensis), xoay (Dialium cochinchinensis) lim xẹt (Peltophorum pterocarpum),

huỷnh (Tarrietia cochinchinensis), gội (Amoora gigantea), sao mặt quỉ (Hopea

mollissima), muồng đen (Cassia siamea) và nhiều loài trong họ Dâu tằm (Moraceae).

Nơi bị tác động mạnh thường là các quần hệ thứ sinh biểu hiện hình thái của rừng nghèo

điển hình với các loài bằng lăng (Lagerstroemia calyculata), thành ngạnh (Cratoxylon

formosum), hu đay (Trema angustifolia), sau sau (Liquidambar formosana).

Ngoài ra, còn bắt gặp các quần xã cây bụi thứ sinh gồm nhiều cây gỗ nhỏ, cây bụi,

cây bụi có gai như thành ngạnh, sim, mua, cỏ lào, găng, bọ nẹt... cùng với chúng là các

loại trảng cỏ, trảng cỏ + cây bụi.

* Thảm thực vật núi thấp và trung bình (>700m): Gồm các kiểu thảm thực vật rừng

nhiệt đới và á nhiệt đới. Tuy vậy, thảm thực vật á nhiệt đới là đặc trưng của đai với các

loài trong họ Dẻ (Fagaceae), họ De (Lauraceae) như dẻ đá (Pasania dinhensis), dẻ lá tre

(Quercus bambusifolia), sồi (Lithocarpus sp.), de các loại thuộc chi Cinnamomum. Bên

cạnh đó còn có các cá thể trong họ Chè (Theaceae), họ Đỗ quyên (Ericaceae), họ Ngọc

Lan (Magnoliaceae)...

b) Thảm thực vật trồng

Thảm thực vật trồng ở Quảng Trị cũng tương đối phong phú và đa dạng. Trong

đó điển hình là rừng trồng, các quần hệ cây công nghiệp, cây nông nghiệp và cây ăn quả.

Thảm thực vật rừng trồng chủ yếu là thông (Pinus merkusiana), phi lao (Casuarina

equisetifolia), bạch đàn (Eucalyptus sp.), keo các loại và một số loài cây bản địa.

Thảm thực vật cây công nghiệp lâu năm gồm cao su (Hevea brasiliensis), cà phê

(Coffea sp.), hồ tiêu (Piper nigrum)…

~ 40 ~

Trong các khu dân cư, vườn nhà thường trồng cà phê, hồ tiêu và nhiều loài cây ăn

quả, cây lấy gỗ như mít (Artocarpus heterophyllus), dừa (Cocos nucifera), xoài

(Mangifera indica), vú sữa (Chrysophyllum cainito), chanh, cam (Citrus spp),

xoan (Melia azedarach), tre các loại (Bambusa spp)…

Quần xã cây trồng hàng năm chủ yếu là cây lương thực và hoa màu. Đây là

những cây có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế đối với cộng đồng người ở Quảng

Trị. Những cây chủ đạo là lúa nước (Oryza sativa), ngô (Zea mays), sắn, lạc, đỗ...

1.3.2. Một số đặc điểm dân số, dân tộc và hoạt động nhân sinh của huyện

Gio Linh, Quảng Trị

1.3.2.1. Dân số, lao động và dân tộc

Gio Linh là huyện có diện tích trung bình của tỉnh Quảng Trị, khoảng 473 km2,

với 2 thị trấn và 19 xã, dân số tính đến năm 2010 là 72.807 người, tỷ lệ dân thành

thị khoảng 17%.

Dân cư trên địa bàn huyện chủ yếu là người Kinh, chiếm đến 98% tổng dân số.

Ngoài ra còn một vài dân tộc thiểu số như Bru - Vân Kiều, Tà Ôi phân bố rải rác ở

các xã.

Nguồn lao động tại Gio Linh tương đối dồi dào, chiếm 58,27% tổng dân số của

huyện. Đây là một yếu tố thuận lợi để phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, phần lớn

là lao động phổ thông, tập trung đông trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp.

Hình 2. Biểu đồ thể hiện lao động phân theo ngành huyện Gio Linh

Nguồn: Số liệu thống kê huyện Gio Linh, 2010[25]

~ 41 ~

1.3.2.2. Một số ngành nghề chủ yếu của khu vực

Hiện nay các hoạt động công nghiệp, dịch vụ và du lịch đang dần định hình

rõ và có bước phát triển tốt. Tuy vậy, do mục tiêu và địa điểm thực hiện đề tài chú

trọng đến khu vực nông thôn, gắn với các HST tự nhiên đã chịu tác động nhân sinh

và vấn đề sử dụng tài nguyên đất, nước nên luận văn chỉ đề cập tới những hoạt động

có liên hệ chặt chẽ đối với tài nguyên đất, rừng, nước... của khu vực.

a) Nông nghiệp

Hoạt động nông nghiệp vẫn chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của

huyện. Về trồng trọt, chủ yếu là cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày. Do

tình hình thời tiết thay đổi thất thường nên năng suất các loại cây trồng không cao.

Vào vụ đông xuân, trời thường rét đậm, rét hại khiến cho lúa, ngô và lạc bị chết còn

vào vụ hè thu lại chịu ảnh hưởng của bão lũ gây ra ngập úng. Hệ thống cung cấp

nước cho sản xuất chưa được đầu tư đồng bộ, chưa có hệ thống thủy lợi tưới tiêu

cho vùng cát ven biển, đặc biệt là việc tiêu úng; sản xuất phụ thuộc nước trời nên

nhiều diện tích bị bỏ hoang, nhất là những vùng đất cát.

Sản xuất lương thực chủ yếu là trồng lúa. Năm 2010, diện tích lúa của huyện

Gio Linh là 6.991ha đạt sản lượng 32.726,7 tấn.

Gio Linh có nhiều điều kiện thích hợp để trồng và phát triển cây lạc. Mặc dù

có lợi thế về đất đai nhưng cây lạc vẫn chưa được chú trọng đầu tư nhiều. So với

những năm trước đây thì diện tích và năng suất của cây lạc giảm mạnh do trình độ

thâm canh còn thấp trong khi thời tiết khắc nghiệt hơn, vụ đông xuân thì rét đậm rét

hại còn vụ hè thu lại diễn ra hạn hán nghiêm trọng.

Bên cạnh đó, tại Gio Linh còn có trồng các cây công nghiệp dài ngày gồm

cao su (6220,4ha) và hồ tiêu (442,3ha). Phần lớn đây là những diện tích cây lâm

~ 42 ~

nghiệp được chuyển đổi sau khi khai thác hoặc rừng tự nhiên nghèo nên huyện cho

chuyển sang trồng cây cao su.

Trên địa bàn còn trồng các loại cây ăn quả như cam, dứa, chuối, xoài,…với

tổng dịên tích 313ha.

Về chăn nuôi, chủ yếu là các loại gia súc như trâu, bò, lợn. Tuy nhiên do tình

hình dịch bệnh gia tăng và giá cả biến động nên số lượng gia súc liên tục có sự thay

đổi từ năm 2007 đến nay.

b) Lâm nghiệp

Theo chương trình 661 và các dự án, hàng năm công tác trồng rừng sản xuất và

rừng phòng hộ tại hai huyện được quan tâm và chú trọng phát triển. Ban quản lý các dự

án cơ sở thường xuyên cử cán bộ hướng dẫn người dân kỹ thuật trồng và chăm sóc

rừng. Các cây được ưu tiên là keo tai tượng, keo lá chàm.

Đến đầu năm 2011, huyện Gio Linh có khoảng 17.054ha rừng, trong đó rừng tự

nhiên 5.221ha và 11.833ha rừng trồng. Năm 2010, trồng được 186,7ha rừng tập

trung. Trung bình mỗi năm huyện cũng trồng được khoảng 10 vạn cây phân tán.

Nhiều gia đình cũng đã tự bỏ vốn ra trồng rừng, toàn huyện đã có 500ha tự trồng. Tổng sản lượng gỗ khai thác năm 2010 đạt 32.197m3.

Song song với công tác trồng rừng, huyện còn chú trọng đến các công tác chăm

sóc và bảo vệ rừng, cụ thể là xây dựng đường băng cản lửa, trạm bảo vệ rừng, xây

dựng nội quy bảo vệ rừng,…Hạt kiểm lâm cũng hướng dẫn cho các chủ rừng cách

khai thác và tỉa thưa rừng.

Các hoạt động trên góp phần nâng cao tỉ lệ che phủ rừng, bảo vệ môi trường

sinh thái, ngăn chặn tình trạng xói mòn đất, đồng thời giải quyết việc làm và cải

thiện đời sống cho người dân địa phương.

c) Công nghiệp

Gio Linh có điều kiện giao thông khá thuận lợi cả về đường bộ, đường sắt và

đường thủy. Đi qua địa phận của huyện có các tuyến giao thông huyết mạch như:

~ 43 ~

Quốc lộ 1A, tuyến đường sắt Bắc - Nam; đặc biệt là nằm cuối tuyến đường xuyên Á

thông ra Biển Đông bằng cảng Cửa Việt là một nút quan trọng trong mối liên kết

của hành lang kinh tế Đông - Tây, cho phép huyện mở rộng giao lưu kinh tế với các

địa phương trong tỉnh, cả nước, cũng như hội nhập khu vực và Quốc tế. Mạng lưới

tỉnh lộ trên địa bàn huyện có mật độ khá lớn, cùng với việc xây dựng tuyến đường

cơ động ven biển Cửa Việt - Cửa Tùng và hai cầu Cửa Tùng, Cửa Việt đã tạo điều

kiện thuận lợi để mở rộng lưu thông hàng hóa, liên kết phát triển với các huyện

Vĩnh Linh, Triệu Phong, Hải Lăng và các địa phương khác trong tỉnh.

Mặt khác lại nằm ở vị trí tiếp giáp với Thành phố Đông Hà - vùng trung tâm

động lực phát triển của tỉnh ra các vùng lân cận nên Gio Linh có nhiều điều kiện để

phát triển sản xuất công nghiệp, dịch vụ. Hơn nữa, hệ thống cơ sở hạ tầng như mạng

lưới điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông, kết cấu hạ tầng xã hội không

ngừng được đầu tư nâng cấp, mở rộng, tạo thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế

- xã hội của huyện. Giai đoạn 2005 - 2010, tổng giá trị sản xuất công nghiệp – xây

dựng của huyện tăng bình quân 23%/năm. Tỷ trọng công nghiệp – xây dựng chiếm

16% tổng giá trị sản xuất của các ngành kinh tế.

Một số ngành công nghiệp nổi bật là chế biến nông sản, hải sản, cơ khí, sửa

chữa đóng mới tàu thuyền, khai thác vật liệu xây dựng (cát, đá). Chiếm tỷ trọng lớn

nhất là công nghiệp chế biến nông - hải sản (84% tổng giá trị công nghiệp), tập

trung ở thị trấn Cửa Việt, xã Gio Việt.

Cùng với sự phát triển đi lên của tỉnh, trên địa bàn Gio Linh đã hình thành các

vùng trọng điểm kinh tế lớn của tỉnh như khu Công nghiệp Quán Ngang, đầu tư vào

khu vực làng nghề Đông Gio Linh.

Trên đây là những thành quả bước đầu đạt được góp phần thúc đẩy sự phát triển

nền công nghiệp của tỉnh Quảng Trị nhưng nhìn chung, sản xuất công nghiệp tại

huyện vẫn mang tính chất nhỏ lẻ, chưa có sự đầu tư về chiều sâu.

d) Thuỷ sản

~ 44 ~

Huyện Gio Linh có đường bờ biển dài 15km thuộc 3 xã và 1 thị trấn (xã

Trung Giang, Gio Hải, Gio Việt, thị trấn Cửa Việt) nên có nhiều lợi thế để phát triển

kinh tế biển với khoảng 20 nghìn người dân sinh sống bằng hoạt động đánh bắt hải

sản. Theo báo cáo kinh tế - xã hội huyện năm 2010, tổng sản lượng thủy sản đạt trên

10.000 tấn, chiếm gần 50% sản lượng toàn tỉnh, trong đó hải sản xuất khẩu trên

3.000 tấn. Đặc biệt, năng lực khai thác, đánh bắt thủy hải sản ngày càng tăng. Toàn

huyện có hơn 800 tàu thuyền các loại, trong đó có 50 tàu xa bờ, 100 tàu trung bờ,

với tổng công suất trên 18.500 CV, chiếm gần một nửa tổng công suất trong toàn

tỉnh.

Sản lượng hải sản tăng đã tạo nguồn nguyên liệu dồi dào cho ngành chế biến

hải sản phát triển. Đến nay, toàn huyện có hơn 70 cơ sở chế biến hải sản có công suất

và quy mô tương đối lớn, cho ra đời những sản phẩm chất lượng cao phục vụ cho

xuất khẩu như cá khô, mực, tôm, cá đông lạnh, sứa, nuốt khô... góp phần vào việc

nâng cao thu nhập và giải quyết việc làm cho ngư dân.

Bên cạnh đó, công tác nuôi trồng thuỷ hải sản trên địa bàn huyện tiếp tục

phát triển và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Huyện đã mạnh dạn chuyển đổi một số

diện tích đất cát hoang hoá sang nuôi trồng thủy sản.

Những kết quả nêu trên đã phần nào khích lệ nền kinh tế phát triển song

chưa thực sự phát huy được lợi thế của địa phương. Thực trạng kinh tế biển và

vùng cát ven biển của huyện Gio Linh hiện nay đang đặt ra những vấn đề đáng

quan tâm, đó là: Năng suất, sản lượng khai thác, đánh bắt, nuôi trồng, chế biến

thủy hải sản đạt thấp; sản phẩm thủy hải sản chủ yếu là sản phẩm thô, sức cạnh

tranh thấp, đầu ra của sản phẩm thiếu tính ổn định. Mặt khác, cơ sở hạ tầng còn

thiếu và chưa được đầu tư khai thác có hiệu quả; trình độ dân trí các địa

phương vùng biển còn thấp, đời sống gặp khó khăn, các chính sách hỗ trợ vốn

vay ưu đãi để phát triển kinh tế biển hạn chế; tỷ lệ lao động thiếu việc làm, lao

động chưa qua đào tạo còn cao.

e) Du lịch

~ 45 ~

Quảng Trị nổi tiếng với những địa danh gắn liền với lịch sử cách mạng,

trong đó huyện Gio Linh được biết đến với nhiều di tích lịch sử văn hoá được

xếp hạng, đặc biệt là các di tích được xếp hạng quốc gia như Căn cứ Dốc

Miếu, hàng rào điện tử Macnamara, cầu treo Bến Tắt, Nghĩa trang liệt sĩ

Trường Sơn, Căn cứ Tân Sở, Trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà

miền NamViệt Nam (6/1973 - 5/1975),...Ngoài ra, còn có các địa điểm du lịch

hấp dẫn khác như khu du lịch sinh thái Khe Gió, bãi tắm Cửa Việt, Gio Hải

hay suối nước nóng Tân Lâm.

Với nguồn tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng đó, hiện nay huyện đã và

đang đầu tư phát triển ngành du lịch góp phần phát triển kinh tế và bảo tồn các giá

trị văn hoá lịch sử. Một số tour du lịch hấp dẫn như: Đông Hà - Cửa Việt - Cồn Cỏ;

Cửa Việt - Cửa Tùng - Hiền Lương; Dốc Miếu - Hiền Lương - Nghĩa trang liệt sỹ

Quốc gia Trường Sơn.

1.3.2.3. Một số loại hình hoạt động liên quan tới khai tác, sử dụng tài

nguyên, HST khu vực

a) Hoạt động khai thác gỗ, củi

Có thể khẳng định, hoạt động khai thác lâm sản nói chung, khai thác gỗ, củi

nói riêng là những hoạt động đặc trưng của hầu hết các vùng, khu vực đã và đang có

thảm thực vật rừng. Quảng Trị nói chung, Gio Linh nói riêng cũng không phải là

trường hợp ngoại lệ. Trải qua thời gian dài, thảm thực vật rừng tự nhiên đã bị giảm

rất nhiều cả về số lượng và chất lượng mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là do hoạt động

khai thác gỗ, củi, phá rừng làm nương rẫy.

Hiện tại thảm thực vật rừng nguyên sinh hoặc tự nhiên bị tác động yếu chỉ

còn tập trung ở khu vực phía tây trong Khu bảo tồn thiên nhiên Đắc Krông. Những

khu rừng tự nhiên khác còn lại hoặc là do tái sinh hoặc do những mức độ tác động

khác nhau của con người. Các hoạt động làm nương rẫy vẫn còn nhưng mức độ

biến động đã giảm đáng kể.

~ 46 ~

Qua điều tra, hoạt động khai thác gỗ chỉ còn lẻ tẻ ở khu vực có rừng huyện

Đắc Krông, Gio Linh, huyện Hướng Hóa. Hoạt động khai thác củi, lâm sản ngoài

gỗ vẫn diễn ra ở hầu hết các khu vực có rừng tự nhiên với mức độ khác nhau.

b) Hoạt động sử dụng đất

Hoạt động sử dụng đất được xem như là tấm gương phản ánh trung thực, đầy

đủ nhất, cụ thể nhất việc sử dụng tài nguyên, lãnh thổ ở một khu vực nhất định. Đối

với khu vực nghiên cứu, địa hình phân hóa khá phức tạp (đồng bằng, gò đồi, núi)

nên hoạt động sử dụng đất cũng phong phú và đa dạng. Tuy vậy, do địa phương có

mức độ phát triển kinh tế chậm nên hoạt động sử dụng đất vào mục đích nông

nghiệp và lâm nghiệp vẫn là chủ đạo. Trong hai nhóm loại sử dụng đất là nông

nghiệp và lâm nghiệp thì diện tích đất dùng cho lâm nghiệp vẫn chiếm ưu thế. Chỉ

tính riêng diện tích đất có rừng cho toàn tỉnh Quảng Trị đã có 191.429,1ha, chiếm

40,33% diện tích toàn tỉnh; đất trống, đồi núi không rừng (trảng cỏ, trảng cỏ cây

bụi…) có 153.195,6ha, chiếm 32,27% diện tích. Như vậy, với 2 nhóm loại sử dụng

đất trên đã chiếm 72,6%, tức là 2/3 diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Điều đó cho thấy ý

nghĩa quan trọng của các loại hình sử dụng đất này trong cơ cấu phát triển kinh tế

xã hội, bảo vệ môi trường của Quảng Trị nói chung, Gio Linh nói riêng.

Trong cơ cấu sử dụng đất của khu vực, diện tích đất có rừng đang có chiều

hướng tăng. Đây là dấu hiệu đáng mừng, bởi việc khoanh nuôi phục hồi, trồng mới

rừng đã có những triển vọng. Tuy vậy, chất lượng rừng qua điều tra khảo sát cho

thấy vẫn còn thấp, chủ yếu là rừng mới trồng hoặc rừng non đang trong quá trình

phục hồi tự nhiên.

Diện tích trảng cỏ, trảng cỏ + cây bụi giảm khá nhiều, song vẫn còn chiếm

tỷ trọng lớn trong cơ cấu sử dụng đất. Hầu hết diện tích này là những HST có trữ

lượng sinh học và chất lượng kém, hiệu quả kinh tế thấp nếu không nói là nhiều

diện tích chưa mang lại hiệu quả kinh tế. Hơn nữa đó là những HST kém bền

vững và đang gây những hậu quả xấu tới môi trường khu vực.

~ 47 ~

Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng mà luận văn hướng tới nghiên cứu là các HST rừng tự nhiên (đối chứng),

rừng phục hồi và trảng cỏ, cây bụi hình thành trên những khu vực bị rải chất diệt cỏ

trong chiến tranh tại huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Đây là khu vực chịu ảnh

hưởng nặng nề của chiến tranh hóa học, cho đến hiện nay vẫn còn diện tích lớn đất

trống, trảng cỏ cây bụi hình thành sau chiến tranh.

Các thành phần HST được nghiên cứu chủ yếu là thực vật, đất. Bên cạnh

đó còn nghiên cứu đặc điểm, sự biến đổi của thuỷ văn, khí hậu rừng.

2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

2.2.1. Phương pháp quan trắc, đo đạc số liệu

Là phương pháp truyền thống và không thể thiếu trong thực hiện đề tài.

Đây thực chất là tổ hợp của những phương pháp khác nhau như: phương pháp

phỏng vấn, phương pháp mô tả, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp thu

mẫu môi trường… Việc điều tra thực địa được tiến hành theo các tuyến và điểm.

Trong mỗi HST và sinh cảnh, các phương pháp được vận dụng lặp lại để thu thập

số liệu so sánh (có điều chỉnh cho phù hợp với đặc trưng của từng địa điểm

nghiên cứu).

Việc đo đạc số liệu khí hậu được tiến hành trong 2 loại sinh cảnh đặc

trưng là rừng thứ sinh nhân tác và trảng cỏ + cây bụi. Sử dụng các thiết bị để

quan trắc sự biến đổi của nhiệt độ và độ ẩm theo không gian và thời gian (theo

ngày, mùa), gồm nhiệt độ đất, nhiệt độ và độ ẩm không khí.

- Đo nhiệt độ, độ ẩm không khí:

+ Sử dụng nhiệt ký và ẩm ký để đo nhiệt độ và độ ẩm không khí bề mặt

(5-10cm) và ở độ cao 50cm. Thời gian quan trắc được tiến hành suốt 24 giờ. Tuy

nhiên, do số lượng thiết bị ít và để đồng bộ số liệu, những kết quả đo của ẩm ký

~ 48 ~

và nhiệt ký chỉ được sử dụng cho khoảng thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến

6 giờ ngày hôm sau.

+ Sử dụng nhiệt kế thuỷ ngân (nhiệt kế thường) có độ chia vạch chính xác tới 0,1 và 0,2oC treo cố định trên giá ở độ cao khác nhau (50cm, 100cm,

120cm…). Các ốp quan trắc cách nhau 1 giờ và đo liên tục từ 6 đến 22 giờ.

Nhiệt kế Assman cũng được đo theo các mức độ cao và ốp quan trắc được áp

dụng như đối với nhiệt kế thường.

- Đo nhiệt độ đất: Sử dụng bộ nhiệt kế cong đo nhiệt độ đất trong các sinh

cảnh nghiên cứu. Độ sâu quan trắc1-2cm (đất bề mặt), 5cm, 10cm và 20cm.

Thiết bị đo được chôn cố định; thời gian quan trắc từ 7 giờ đến 17 giờ hàng

ngày.

2.2.2. Phương pháp đánh giá môi trường có sự tham gia của cộng đồng

Đánh giá môi trường có sự tham gia của cộng đồng (Participatory

Enviromental Rapid Appraisal hay PERA) là hệ phương pháp thu thập kinh

nghiệm sâu, hệ thống nhưng bán chính thức, thực hiện trong cộng đồng nhằm

khai thác thông tin về hiện trạng môi trường dựa vào tri thức của cộng đồng kết

hợp với kiểm tra thực địa. Kỹ thuật của đánh giá nhanh môi trường có sự tham

gia của cộng đồng đã được sử dụng trong quá trình thực hiện trong luận văn là:

Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp

Phương pháp thu thập thông tin cần thiết từ những tài liệu, các công trình

nghiên cứu có liên quan đến khu vực nghiên cứu. Tài liệu thu thập phải được xử

lý, đưa lên thành bảng biểu, đồ thị và phân tích, phân loại để từ đó xác định

những vấn đề cần đánh giá.

Phương pháp phỏng vấn bán chính thức –Semistructural interview (SSI):

Phỏng vấn bán chính thức SSI là trò chuyện thân mật với cộng đồng dân

cư tại khu vực nghiên cứu, có thể là người dân thường hay lãnh đạo, có thể là cá

nhân, nhóm người hay một gia đình. Người được phỏng vấn thường là gặp tình

cờ hoặc hẹn trước để họ bố trí thời gian.

~ 49 ~

Phỏng vấn bán chính thức khác phỏng vấn chính thức ở không khí cởi mở,

thân mật giữa nhóm đánh giá và người được phỏng vấn, câu hỏi được đặt ra tuỳ

thuộc vào câu chuyện, không đưa trước ra câu hỏi để người được phỏng vấn suy

nghĩ và hoạch định trước cách trả lời, bởi vì trong phỏng vấn bán chính thức

nhóm đánh giá chỉ liệt kê vấn đề cần đánh giá.

Trong quá trình làm luận văn chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn bán chính

thức: tập trung vào những người trung niên, có độ tuổi từ 50 trở lên sinh ra và

lớn lên tại khu vực Gio Linh, Quảng Trị. Việc phỏng vấn này đã mang lại sự

khẳng định chắc chắn các tác động của CDC đối với HST nhân sinh tại khu vực

nghiên cứu.

Quan sát thực tế: Quan sát là phương pháp thu thập thông tin sơ cấp về

đối tượng nghiên cứu bằng giá trị trực tiếp và ghi chép lại những nhân tố có liên

quan đến đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu. Quan sát cho phép phát

hiện vấn đề, kiểm tra và hiệu chỉnh những thông tin đã thu được qua phỏng vấn

và từ tài liệu thứ cấp. Trong khi đi thực địa, việc quan sát giúp có được những

nhận định sơ bộ về hiện trạng môi trường, các điều kiện môi trường sinh thái và

các tác động của CĐHH lên các HST nhân sinh tại khu vực Gio Linh, Quảng Trị.

2.2.3. Phương pháp so sánh, đánh giá tổng hợp

Để phân tích và đánh giá sự biến đổi của HST, thảm thực vật và các thành

phần môi trường, việc so sánh số liệu thu thập được là rất quan trọng. Cơ sở tài liệu

cũng như số liệu có được từ quan trắc, phân tích rất phong phú, đa dạng, vì vậy việc

lựa chọn thông tin là khâu rất có ý nghĩa của quá trình thực hiện đề tài.

Từ hệ thống cơ sở dữ liệu đã được xử lý đồng bộ, đã tiến hành so sánh, đánh giá để

xác định đặc điểm cấu trúc chức năng của HST; đặc điểm thực trạng và biến đổi các

yếu tố và thành phần môi trường, đồng thời đưa ra những khuyến nghị cần thiết trên

cơ sở đánh giá tổng hợp các yếu tố thành phần.

~ 50 ~

Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Hiện trạng và sự biến đổi các HST rừng dƣới tác động của chiến tranh

hóa học và hoạt động nhân sinh

3.1.1. Hiện trạng và sự biến đổi thành phần & đất rừng

3.1.1.1. Khu vực đồng bằng, gò đồi ven biển huyện Gio Linh

Cho đến nay, trên đồng bằng của huyện Gio Linh (khu vực Gio Châu) còn

giữ được những khoảnh rừng cây gỗ rộng vài trăm mét vuông do người dân quản lý.

Tuy nhiên, tại những mảnh rừng như vậy, không có những cây gỗ lớn ở tầng trên

của rừng và cũng không có được cấu trúc đặc trưng cho rừng cây gỗ thân cao. Dù

vậy, đã phát hiện và ghi nhận được những loài thực vật mà sự hiện diện của chúng ở

thời điểm hiện tại chứng tỏ là trước đây đã từng tồn tại ở khu vực này những loài

cây gỗ thân cao đa trội, cao tới 30 - 35 m với cấu trúc rừng đa dạng.

Tại khu vực này, đã ghi nhận những cây gỗ có tuổi khác nhau - chủ yếu ở

dạng cây non và các chồi nhánh mọc lên từ những gốc cụt, có chiều cao từ 1,5 đến

4m, đó là: chi Bưởi bung (Acronychia), họ Cam (Rutaceae); chi Sữa (Alstonia), họ

Trúc đào (Apocynaceae), chi Mán đỉa (Archidendron), phân họ Trinh nữ

(Mimosoideae); chi Trắc (Dalbergia), họ Đậu (Fabaceae); chi Cơm nguội

(Ardisia), họ Cơm nguội (Myrsinoideae); chi Mít (Artocarpus), chi Ruối (Streblus),

họ Dâu tằm (Moraceae); họ Thầu dầu (Euphorbiaceae); chi Móc (Caryota), họ Cau

dừa (Arecaceae); chi Quế (Cinnamomum), chi Bời lời (Litsea), chi Bời lời nước

(Neolitsea), chi Kháo (Phoebe), Gen. sp. Họ Long não (Lauraceae); chi Thành

ngạnh (Cratoxylum), chi Bứa (Garcinia), họ Măng cụt (Clusiaceae); chi Đức diệp

(Daphyiphylum), họ Đức diệp (Daphnyphylaceae); chi Thị (Diospyros), họ Thị

(Ebenaceae); chi Côm (Elaeocarpus), họ Côm (Elaeocarpaceae); chi Cò ke

(Grewia), họ Đay (Tiliaceae); chi Đơn (Ixora), chi Lấu (Psychotria), chi Găng

(Randia), họ Cà phê (Rubiaceae); chi Máu chó (Knema), họ Máu chó

(Myristicaceae); chi Bằng lăng (Lagerstroemia), họ Tử vi (Lithraceae); chi Sầm

(Memecylon), họ Mua (Melastomataceae); chi Nhọc (Polyalthia), Gen. sp. Họ Na

~ 51 ~

(Annonaceae); chi Trôm (Sterculia), họ Trôm (Sterculiaceae); chi Đẻn (Vitex), họ

Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), Gen. sp. Họ Xoan (Meliaceae).

Cũng ghi nhận được những loài dây leo như chi Bạc thau (Argyreia), họ

Khoai lang (Convolvulaceae); chi Mây (Calamus), họ Cau dừa (Arecaceae), chi

Gắm (Gnetum), họ Dây gắm (Gnetaceae); chi Ngấy (Rubus), họ Hoa hồng

(Rosaceae); chi Chạc chìu (Tetracera), họ Sổ (Dilleniaceae); chi Bù dẻ (Uvaria), họ

Na (Annonaceae), Gen. sp. Họ Dây khế (Connaraceae), Gen sp. Họ Tiết dê

(Menispermaceae), và các loài thân thảo – chi Rẻ quạt (Dianella), họ Hành

(Phormiaceae); chi Huyết giác (Dracaena), họ Hành (Dracaenaceae); chi Dạ cẩm

(Hedyotis), họ Cà phê (Rubiaceae); Cùng với những loài cây rừng, ở đây cũng phát

triển những loài cây đặc trưng của khu vực bị phá huỷ như chi Lá nến (Macaranga),

họ Thầu dầu (Euphorbiaceae); chi Hoàng mộc (Zanthoxylum), họ Cam (Rutaceae);

chi Thôi ba (Alangium), họ Thôi ba (Alangiaceae).

Rừng phát triển trên đất bazan, tầng dày lớn. Tiến hành đào phẫu diện xuống

độ sâu trên 2m, đất vẫn có cấu tạo đồng nhất. Theo màu sắc, có thể tạm phân ra một

số tầng: tầng trên cùng dày 6cm màu đỏ xám do chứa nhiều mùn; tầng tiếp theo dày

7 đến 10 сm, màu màu hạt dẻ hơi sẫm. Về cấu trúc, tầng đất trên cùng không khác

với các tầng dưới, đất ẩm ướt, tơi và khá xốp với thành phần thịt trung bình – thịt

nặng, hạt mịn, đều. Từ độ sâu 50cm đến 200cm, độ ẩm của đất tăng đáng kể. Từ độ

sâu 70 cm, đất có cấu tạo chặt hơn, điều này cũng có thể phân chia toàn bộ phẫu

diện theo độ nén chặt – tơi xốp của đất.

Đến độ sâu 210cm, vẫn còn bắt gặp được rễ cây gỗ, song tập trung nhiều

nhất là ở lớp đất từ 0 – 30 cm. Ở đới này chủ yếu là những rễ cây thuộc dạng nhỏ

mảnh, hoạt động tích cực về mặt lý sinh. Càng xuống sâu hơn mật độ rễ cây càng

giảm, từ độ sâu 40 cm đến 200 cm mật độ rễ không có thay đổi. Những rễ chính

thường gặp ở độ sâu 50 cm và chúng phát triển theo phương nằm ngang. Đường

kính rễ cây đạt khoảng 10 - 20 сm. Trong đất bắt gặp các tổ mối, ở các độ sâu 40

~ 52 ~

cm, 60 cm và thậm chí ở 120 cm. Những loài mối này có kích thước nhỏ, tiêu thụ

những rễ cây bị mục chết. Đây có thể là loài mối thuộc chi Odontotermis.

3.1.1.2. Khu vực Linh Thượng huyện Gio Linh

Khu vực Linh Thượng, huyện Gio linh trong những năm chiến tranh là

“vùng sáng” (pháo sáng liên tục cả đêm), mục đích là để ngăn chặn sự xâm nhập

của Quân đội Nhân dân Việt Nam với sự trợ giúp của các phương tiện quan sát từ

trên không. Để thực hiện mục đích này, các cánh rừng tự nhiên đã bị phun rải nhiều

lần CDC và bom napal, khu vực thường xuyên bị bắn phá, hàng đêm pháo sáng

được thả sáng rực cả một vùng rộng lớn.

a) Trảng cỏ và trảng cỏ - cây bụi

Hậu quả của nhiều năm rừng bị tàn phá là sự xuất hiện trên toàn khu vực các

dạng trảng cỏ - cây bụi, diện tích lên tới 10.000 ha, không kể đến khả năng là những

hạt cỏ dại được thả xuống từ máy bay - hiện tượng này đã có ở miền Nam Việt

Nam. Thời gian tồn tại và phát triển của các loài cỏ dại ở đây khoảng 40 năm, và

theo lời kể của dân địa phương, những trảng cỏ này được hình thành vào khoảng

những năm 1964 - 1967, tức là trong thời gian chiến tranh. Sau chiến tranh, trên mặt

đất còn lại một lượng lớn bom mìn, đạn pháo, phần lớn là chưa nổ, vì vậy dân cư

địa phương khi khai thác những khu vực này thường gặp phải những tai nạn và

thương vong. Quá trình tháo gỡ bom mìn kéo dài hàng chục năm, cho đến nay vẫn

còn phát hiện được bom, mìn và đạn pháo chưa nổ bị han gỉ. Đây là những yếu tố

có ảnh hưởng trong chu trình vật chất của HST.

Tại nhiều địa điểm thuộc huyện Gio Linh, những nơi mà trước chiến tranh còn

bao phủ rừng nguyên sinh tự nhiên, có sự cư trú và sinh sống của dân tộc Vân Kiều – đây

là những cư dân trong suốt quãng thời gian dài có cuộc sống gắn liền với rừng. Họ sống

bằng săn bắn, đánh bắt cá, hái cây thuốc và chặt cây, đốt rẫy để trồng trọt. Tại các khu

vực này, toàn bộ cây cối bị chặt và đốt, trước khi mùa mưa tới họ gieo hạt ngô vào các kẽ

đất hoặc trồng lúa nương. Đất ở đây không được cày cuốc, các gốc cây không được đào

lên. Những dạng nương rẫy này sau khoảng 3 năm thu hoạch với sản lượng khá, sau đó

~ 53 ~

giảm mạnh vì đất bạc màu, đồng thời nhiều loài cây khác mọc trở lại, dây leo phát triển.

Sự phát triển của cây rừng làm cho mặt đất thiếu ánh sáng, không trồng trọt được, nương

rẫy bị bỏ hoang để đi tìm chỗ khác - có thể là địa điểm ngay bên cạnh, hoặc xa hơn. Một

số nương rẫy có thể khai thác trong chu kỳ 5 năm. Đồng bào Vân Kiều có thói quen là

“chạy theo rừng”, tức là đi tìm và chọn những địa điểm thích hợp nhất trong rừng. Đến

khi hết chỗ tốt trong rừng, họ lại quay về những chỗ mà họ đã bỏ cách đây hàng chục

năm.

Sự tàn phá rừng trong thời gian chiến tranh và sự xuất hiện của những trảng cỏ

phục hồi tự nhiên rộng lớn thay thế rừng đã làm cho những người dân sống ở Gio Linh

không có khả năng trồng các cây lương thực bằng cách thông thường - chặt cây đốt rẫy.

Sự chuyển đổi sang trồng cây lúa nước là không thể được vì không đủ số lượng đất đai

thích hợp cũng như không có nước tưới ruộng. Ngoài ra, nước ăn uống sinh hoạt ngày

càng thiếu khi mùa khô đến, bởi vì khi đã mất rừng, chế độ thuỷ văn sẽ trở nên khắc

nghiệt, nhiều dòng suối không còn dòng chảy về mùa khô.

Sự che phủ của thảm thực vật cây bụi - trảng cỏ tại khu vực huyện Gio Linh

mang tính chất của địa hình đồi lượn sóng, đồi bát úp đến độ cao 200m. Tại những bãi

trống xuất hiện sau khi rừng bị chiến tranh phá huỷ đã hình thành những quần xã có tính

chất trảng cỏ - cây bụi, trong đó, đồng ưu thế là Cỏ đuôi voi (Pennisetum cf.

Polystachyon) và Lau (Erianthus arundinaceus), tại một số nơi bắt gặp loài Cỏ tranh

(Imperata cylindrica). Loài Cỏ đuôi voi (Pennisetum cf. Polystachyon) đạt tới chiều cao

120 - 150сm (có cây tới 170 cm), loài Lau (Erianthus arundinaceus) có kích thước lớn

hơn, tới 220 сm chiều cao.

Ngoài những loài cỏ kể trên, trong khu vực này còn ghi nhận được những loài

thực vật như:

- Dương xỉ (Pteridium aquilinum), chiều cao tới 120 сm, tại một số điểm chúng

tạo thành những đám cây trội. Phần cây trên mặt đất bị chết trong mùa khô và có thể trở

thành nguồn gây cháy rừng. Dương sỉ sinh sản vô tính và hữu tính. Trong trường hợp

~ 54 ~

hữu sinh, ở độ sâu 5 – 20 cm dưới mặt đất chúng phát triển những thân cây ở dạng „rễ”

và nhờ đó dương xỉ không bị chết do cháy rừng.

- Cỏ lào (Chromolaena odorata) - loài thường gặp, thỉnh thoảng bắt gặp những

nhóm mọc bên lề đường đất, chiều cao cây đạt từ 30 đến 200 cm.

- Rẻ quạt (Dianella nemorosa) - loài ít gặp, là thực vật sống trong rừng.

- Lưỡi thảo (Lindernia sp.), họ Mõm chó (Scrophulariaceae) - loài thực vật có

thân bò trên mặt đất, thường ghi nhận tại những bãi trống không có cây cối.

Độ che phủ tại những khu vực này đạt tới gần 100%. Tầng cỏ dày đặc nhất ở độ

cao 30 - 80 cm. Ở một vài nơi, những khóm cây cỏ nằm cách nhau khoảng 30 - 50 cm.

Vào mùa khô, thực vật vẫn tiếp tục phát triển mạnh và những phần thân và lá trên mặt

đất không bị khô chết. Tuy nhiên, trên mặt đất cũng quan sát thấy những lá cỏ chết,

nhưng chúng không đủ để tạo thành lớp lá rụng – đây là điểm khác biệt so với những

trảng cỏ và đồng cỏ ở khu vực ôn đới.

Khi tiến hành nghiên cứu hệ rễ những loài thân cỏ, nhận thấy có những loài,

rễ ăn sâu vào lòng đất đến 140 - 170 cm. Tại những điểm đó, mặt cắt của đất trong

mùa khô không có những mép mao dẫn nước do mưa tích tụ lại tại lớp đất đá bên

dưới vào mùa mưa. Dù vậy, qua quan sát sức sống, những loài này không biểu hiện

dấu hiệu rõ rệt về sự thiếu nước vào mùa khô. Phần lớn rễ tập trung ở tầng đất sâu

từ 0 đến 60 cm, một phần rễ bị chết trong thời gian mùa khô – đó cũng là nguồn bổ

sung các chất hữu và khoáng cho đất.

Những quần xã cây cỏ được nghiên cứu chỉ có một phần bị cháy do tác động

của con người. Tại những địa điểm khảo sát, ghi nhận được khoảng 30 - 50% diện

tích cỏ trên sườn đồi bị đốt. Tuy nhiên, không loại trừ là vào những năm quá khô

hạn, khi phần trên của mép mao dẫn hạ xuống thấp hơn, tức là rễ cây không thể lấy

được nước và khoáng dẫn đến chết. Khi xuất hiện cháy, một diện tích lớn cây cỏ sẽ

bị cháy thành than đồng thời tạo muối khoáng. Chính điều này cho phép QXTV

trong một thời gian dài duy trì trong thành loài những cây trội và tạo nên đặc điểm

cấu trúc không gian của mình trong quần xã và HST.

~ 55 ~

Trong những trảng cỏ, đã ghi nhận được những loài tiên phong và một số cây

gỗ rừng. Những loài tiên phong thuộc chi Ba soi (Macaranga), Ba bét (Mallotus),

họ Thầu dầu (Euphorbiaceae); chi Mua (Melastoma), họ Mua (Melastomataceae);

chi Hu đay (Trema), họ Du (Ulmaceae) và chi Hoàng mộc (Zanthoxylum), họ Cam

(Rutaceae). Chiều cao của cây tới 2,5 m. Những loài tiên phong này thường là các

cây thích nghi với với đời sống có độ chiếu sáng mạnh (ven đường và ở những nơi

mà lớp cỏ đã bị con người phá huỷ). Tại những địa điểm này, không quan sát thấy

trường hợp khi mà các nhóm cây tiên phong hình thành, tán cây sát vào nhau, che

ánh sáng mặt trời và loại bỏ được lớp cây cỏ bên dưới, giống như quan sát thấy ở

những rừng cây đang phục hồi.

Những cây rừng có chiều cao tới 6 m, thường là những loài thuộc tầng thấp

nhất của rừng cây gỗ như Trúc tiết (Carallia suffruticosa), họ Đước

(Rhizophoraceae), Chòi mòi sp. (Antidesma sp.), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae);

Đức diệp sp. (Daphniphyllum sp.), họ Đức diệp (Daphniphyllaceae), Đơn sp. (Ixora

sp.), họ Cà phê (Rubiaceae). Ngoài ra, tại những địa hình thấp và dọc theo những bờ

suối (suối rộng khoảng 0,7 - 1,5 m) thường gặp các nhóm cây rừng và chúng tạo ra những mảnh rừng diện tích nhỏ (khoảng 400 -500m2) hay những đám rừng tách rời.

Trong thành phần loài của những mảnh rừng, đã ghi nhận được các loài như Kơ nia

(Irvingia malayna), họ Hà nu (Irvingiaceae); Sữa (Alstonia cf. Sholaris), họ Trúc

đào (Apocynaceae); chi Thành ngạnh (Cratoxylum), họ Thành ngạnh

(Hypericaceae) (Guttiferae); chi Cò ke (Grewia), họ Đay (Tiliaceae), chi Xăng máu

(Horsfieldia), họ Cơm nguội (Myristicaceae); chi Sồi (Lithocarpus), họ Dẻ

(Fagaceae); chi Cọ (Livistona), họ Cau dừa (Arecaceae); chi Ngũ gia bì

(Schefflera), họ Ngũ gia bì (Araliaceae); chi Trâm (Syzygium), họ Sim (Myrtaceae).

Dưới tán rừng của những loài cây trên, độ phủ của cây cỏ chỉ chiếm khoảng

10 - 30%, lẫn trong đó là các loài cây gỗ rừng. Bên trong rừng thường quan sát thấy

có nhiều tổ mối (thuộc giống Sulphureus). Đây là những loài không quan sát thấy ở

những khu vực cây cỏ phát triển. Mặc dù các cây gỗ rừng có ra hoa, kết quả, nhưng

những cây non của chúng không thể phát triển được vì bị những đám cây cỏ che

~ 56 ~

phủ, không thể thoát ra ngoài chỗ trống, và những mảnh rừng như thế không có

được xu hướng phát triển rộng. Như vậy, ở đây không thấy xảy ra quá trình mà

trong đó các cây gỗ rừng phát triển có thể lấn chiếm được những lãnh thổ mới và

loại bỏ các trảng cỏ - cây bụi (thậm chí khi những lãnh thổ đó nằm ngay cạnh các

khu rừng khác) khi mà trên đó còn sinh sống và phát triển các quần xã cây cỏ.

Sườn đồi có độ dốc 4 - 7o, độ cao 150 -190m. Thực vật cao tới 140 сm, với

ưu thế là những loài Cỏ lào spp. (Chromolaena spp.), họ Cúc (Compositae), chỉ ghi

nhận được vài cây gỗ đơn lẻ. Cây cỏ mọc thành từng khóm, đường kính khóm

khoảng 30 - 50 сm, thân cây có đường kính khoảng 7 - 9 mm, khoảng cách giữa

các khóm khoảng 120 сm.

Đất dưới rừng có tầng dày thay đổi rất khác nhau. Tại một số địa điểm khảo

sát, độ sâu phẫu diện đất đạt >100cm. Đất phát triển trên nền phiến thạch, có thành

phần thịt trung bình, lẫn sét. Quá trình feralit diễn ra khá mạnh, tạo nên màu của đất

tương đối đồng nhất là màu vàng lẫn nhiều hạt màu hồng và những hạt sét nhỏ màu

trắng, kích thước 2 – 3mm. Theo nghiên cứu của Trung tâm nhiệt đới Việt-Nga, vào

thời gian cuối tháng 6, đất khá ẩm, mép mao dẫn gần như lên đến bề mặt đất. Rễ

của cây ăn sâu đến 80 сm, một số rễ lên đến 120 сm. Lớp trên cùng bị phong hoá

triệt để, song từ độ sâu 30 cm trở xuống quan sát thấy những thành phần của đá mẹ.

Ở độ sâu 1m, quan sát thấy những tổ mối, đường kính tới 20 cm. Tầng đất trên cùng

dày khoảng 10 cm chứa nhiều mùn, màu xám và có những yếu tố feralit. Tầng đất

bị nén khá chặt, vào mùa khô đất càng chặt hơn và cứng lại, trên bề mặt đất tạo ra

những lớp vỏ và xuất hiện nhiều kẽ nứt. Từ độ sâu 10 đến 35 сm đất có màu nâu

sáng, đất có kết von. Từ độ sâu 35 - 83 сm – đất vàng điểm những hạt hồng và bị

nén chặt, với nhiều những hạt vón màu hồng, có nhiều hạt lớn, đường kính tới 2 - 3

сm, cạnh sắc nhọn; độ sâu 83 - 120 сm – lớp đất sét màu nâu hoặc nâu-vàng loang

lổ do các hợp phần cao lanh và hoàng thổ lẫn vào. Rễ cây nhỏ tập trung ở lớp đất

trên cùng, với đa số có đường kính dưới 1 mm và đều là rễ cây cỏ; từ lớp đất 7 đến

20 cm, bắt gặp dạng rễ cọc. Nhìn chung, tới độ sâu 50 cm rễ cây giảm dần đều và ở

độ sâu dưới 80 cm còn rất ít rễ.

~ 57 ~

Tiến hành nghiên cứu tại một phẫu diện điển hình trên dạng địa hình sườn ở

độ cao 130-160m thấy rằng đất có tầng dày rất khác nhau. Hai phẫu diện đào cho

thấy ở nơi bị bào mòn mạnh, tầng đất chỉ dày khoảng 30cm. Trong khi đó cũng ở địa

điểm lân cận, phẫu diện đất dày >100cm. Ở đây đất phân tầng không rõ rệt nhưng cũng

tạm chia thành 4 tầng:

- Tầng 1 dày 10cm, màu nâu xám, cấu trúc viên cục, thịt trung bình, lẫn nhiều rễ

cỏ và rễ cây nhỏ, đất hơi ẩm. Đất có phản ứng chua, pHKCl=3,91, lượng mùn khá

(2,15%), hàm lượng đạm, lân và kali tổng số trung bình, hàm lượng lân và kali dễ tiêu

thấp.

- Tầng 2 dày 25cm màu nâu vàng, thịt trung bình đến nặng, lẫn rễ cỏ, đất khá ẩm.

Hàm lượng mùn đã giảm đáng kể so với tầng trên, chỉ đạt 1,10%. Hàm lượng đạm, lân

và kali không giảm hoặc giảm không đáng kể. Hàm lượng lân dễ tiêu giảm mạnh (còn

0,11mg/100g) trong khi lượng kali tăng khoảng 2 lần so với tầng 1. Cation trao đổi cũng

giảm đáng kể nhưng dung tích hấp phụ tăng.

Hình 3. Sự thay đổi pH và lƣợng mùn theo phẫu diện

- Tầng 3 dày 45cm màu nâu vàng (sáng), đất có cấu trúc viên cục, cục tảng,

thịt nặng, lẫn ít mảnh tầng phong hóa dở dang. Cũng như tầng 2, pH thay đổi không

~ 58 ~

nhiều. Lượng mùn ở tầng 3 chỉ còn 0,72%. Lượng kali tổng số và dễ tiêu đều tăng.

Dung tích hấp phụ thay đổi không nhiều.

- Tầng 4 dày 50cm màu nâu vàng sáng, cục tảng, lẫn nhiều mảnh tầng phong

hóa dở dang (15-20%), thịt nặng. Trong khi hầu hết các chỉ tiêu đều có xu hướng

giảm thì lượng kali vẫn tăng. Hình 4 biễu diễn sự thay đổi một số chỉ tiêu theo các

tầng đất.

Hình 4. Sự thay đổi hàm lƣợng lân và kali dễ tiêu theo phẫu diện

Nhìn chung đất dưới trảng cỏ hoặc trảng cỏ cây bụi có tính chất khác nhau và phụ

thuộc vào mức độ tác động và hiện trạng thảm thực vật. Tuy vậy, kết quả khảo sát và

những số liệu phân tích cho thấy đa số có tầng dày 30-70cm, độ phì trung bình, một số

khu vực độ phì khá, hoàn toàn đủ điều kiện trồng mới rừng.

a) Rừng thứ sinh tự nhiên

Kết quả khảo sát thực địa cho thấy, tại các khu vực tiếp giáp với các quần xã cây cỏ cho

đến nay vẫn còn duy trì được những mảnh rừng tự nhiên mặc dù chúng đã bị tác động và

bị phá huỷ một phần. Cây gỗ rừng mang tính đa trội. Tuy vậy, tại một số địa điểm, tính

trội chỉ có ở một số họ, và cấu trúc rừng được phân hoá thành 3 tầng tương đối rõ rệt.

~ 59 ~

- Tầng trên cùng (tầng 1) có chiều cao 17 - 20 m, đường kính than cây 40 - 70 сm, ở gốc

nhiều loài cây phát triển những rễ bạnh vè nhỏ; tán dày, nén chặt, hình ô van hoặc cầu,

bán kính tán khoảng 2 - 3 m. Tổ thành loài (TTL) gồm Sữa (Alstonia scholaris), họ Trúc

đào (Apocynaceae); Kơ nia (Irvingia malayana), họ Hà nu (Irvingiaceae); Bằng lăng

(Lagerstroemia cf. Caliculata), họ Tử vi (Lythraceae); Dâu tằm (Morusalbum), họ Dâu

tằm (Moraceae); Huỷnh (Tarrietia javanica), Long mang sp. (Pterospermum sp.), họ

Trôm (Sterculiaceae); Thâu lĩnh (Alphonsea sp.), họ Na (Annonaceae); Dẻ spp.

(Castanopsis spp.), Sồi spp. (Lithocarpus spp.), họ Dẻ (Fagaceae); Quế sp.

(Cinnamomum sp.), họ Re (Lauraceae); Côm sp. (Elaeocarpus sp.), Nhím nước sp.

(Sloanea sp.), họ Côm (Elaeocarpaceae); Bời lời sp. (Litsea sp.), họ Re (Lauraceae);

Chân chim sp. (Schefflera sp.), họ Ngũ gia bì (Araliaceae); Gen. sp. Họ Đậu (Fabaceae).

Ở khu vực chân sườn, nơi có nhiều suối và thác nước, tính trội thuộc về cây Chân chim

sp. (Schefflera sp.), trong khi trên dạng địa hình sườn, đỉnh tính trội thuộc về các loài của

họ Dẻ (Fagaceae).

Tầng 2 cao 6 - 11 m, có cấu trúc từ các loài Bưởi bung (Acronychia pedunculata),

họ Cam (Rutaceae); Lộc vừng sp. (Barringtonia sp.), họ Lộc vừng (Lecythidaceae);

Thành ngạnh sp. (Cratoxylum sp.), họ Thành ngạnh (Hypericaceae), Bứa sp. (Garcinia

sp.), họ Bứa (Clusiaceae); Chôm chôm sp. (Nephelium sp.), họ Bồ hòn (Sapindaceae);

Nhọc sp. (Polyalthia sp.), họ Na (Annonaceae); Trâm sp. (Syzygium sp.), họ Sim

(Myrtaceae); Đẻn sp. (Vitex sp.), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Điểm đặc trưng của tầng

2 là sự có góp mặt của loài cau (cây) kích thước lớn Cọ (Livistona saribus) (Palmae), cây

cao tới 6 - 8 m. Tại một số điểm, loài Cọ (Livistona saribus) mọc thành khóm. Loài này

ghi nhận được cả ở khu vực chân, sườn và đỉnh đồi.

Tầng 3 cấu tạo từ những cây cao 2 - 5 m, bao gồm các loài: Móc đùng đình

(Caryota mitis), Móc cọc sp. (Licuala sp.) (Palmae), họ Cau dừa (Arecaceae); Bách

bệnh (Eurycoma longifolia), họ Thanh thất (Simaroubaceae); Thụ đào (Gonocaryum

subrostratum), họ Thụ đào(Icacinaceae); Chòi mòi sp. (Antidesma sp.), Dé sp. (Breynia

sp.), Diệp hạ châu ssp. (Phyllanthus ssp.), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae); Cơ nguội sp.

(Ardisia sp.), Đơn nem sp. (Maesa sp.), họ Cơm nguội (Myrsinaceae); Cồng sp.

~ 60 ~

(Calophyllum sp.), họ Bứa (Clusiaceae); Đơn sp. (Ixora sp.), Xú hương sp (Lasianthus

sp.), Lấu sp. (Psychotria sp.), họ Cà phê (Rubiaceae).

Hình 5. Mặt cắt rừng cây gỗ tự nhiên đặc trƣng khu vực gò đồi

huyện Gio Linh

Trong đó: Alst – Alstonia, Cin – Cinnamomum, Dios – Diospyros, El –

Elaeocarpus, Eur – Eurycoma, Fic – Ficus, Gar – Garcinia, Gir – Gironniera, Gon

– Gonocarium, Lag – Lagerstroemia, Laur – Lauraceae, Lith – Lithocarpus, Lits –

Litsea, Liv – Livistona, Mngf – Mangifera, Pod.n – Podocarpus nerifolius, Pol –

Polyalthia, Pter – Pterospermum, Q – Quercus, Scf – Schefflera, Str – Streblus, Tar

– Tarrietia, Vit – Vitex.sp. (Rubiaceae), Streblus sp., Ficus sp. (Moraceae),

Tabernaemontana sp. (Apocynaceae); Dưới tán cây rừng, cỏ mọc thưa thớt, đôi chỗ

ghi nhận được những đám cây cỏ tạo ra từ loài Dương xỉ (Taenitis blechnoides).

Dipterocarpus dyeri (Dipterocarpaceae) – loài chủ đạo của rừng cây họ Dầu thân

cao trên bình nguyên

(Nguồn: Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga)

Đất dưới rừng có tầng dày khá (>70cm). Đất thường có màu đỏ vàng,

nâu đỏ, hàm lượng mùn trung bình đến khá và giảm mạnh theo chiều sâu phẫu

diện. Đất thường có cấu trúc viên cục, thịt trung bình đến thịt nặng.

~ 61 ~

Để đánh giá điều kiện đất ở khu vực này, chúng tôi đã tiến hành đào một

số phẫu diện, đã mô tả và nghiên cứu kỹ 2 phẫu diện với tổng số mẫu phân tích

là 5.

Bảng 6. Tính chất đất dƣới rừng thứ sinh

5

DÔ tiªu (mg/100 Tæng sè (%) Mïn Cation trao ®æi g) CEC PhÉu diÖn (meq/10 (%) pHKC l N P2O5 K2O P2O K2O 0g)

3,8 3,5 0,32 0,26 1,5 1,2 11, 0,9 0,6 9,32 7 5 0 0 2 2 14 1 6 PD1 (tÇng 1)

3,9 1,6 0,20 0,18 1,3 0,9 12, 0,4 0,4 7,50 4 8 0 0 7 2 06 7 0 PD1 (tÇng 2)

3,9 1,4 0,15 0,02 0,6 0,4 3,2 0,9 0,2 8,13 5 2 3 8 0 6 5 0 5 PD2 (tÇng 1)

4,0 0,9 0,13 0,07 0,5 0,1 1,5 1,0 0,3 9,20 4 4 6 9 9 0 0 5 0 PD2 (tÇng 2)

4,1 0,6 0,13 0,09 0,5 0,1 1,5 1,4 0,4 10,5

8 6 5 1 9 0 0 5 5 0 PD3 (tÇng 3)

Trong đó: PD1: phẫu diện 1; PD2 : Phẫu diện 2; CEC: Dung tích

hấp phụ

+ Phẫu diện thứ nhất (PD1) thuộc địa hình sườn, sự phân tầng khá rõ rệt:

- Tầng1: dày 12cm, đất có màu xám đen do chứa khá nhiều mùn

(3,55%). Đất có phản ứng chua, hàm lượng nitơ, lân và kali tổng số khá; hàm

lượng kali dễ tiêu rất cao (11,14mg/100g đất), cation trao đổi thấp.

- Tầng 2: dày 50cm, màu nâu đỏ, thịt nặng, pH tăng lên không nhiều

nhưng hàm lượng mùn giảm mạnh, từ 3,55% ở tầng 1 xuống còn 1,68 ở tầng

2. Các giá trị tổng số và dễ tiêu, cation trao đổi và dung tích hấp phụ đều giảm

(trừ kali dễ tiêu).

~ 62 ~

H×nh 6. Sù thay ®æi hµm l îng mïn vµ thµnh phÇn

+ Phẫu diện 2 (PD2) cũng thuộc địa hình sườn, độ dốc khoảng 15o. Đất phân tæng sè

thành 3 tầng tương đối rõ.

- Tầng 1: dày 10cm màu đỏ thẫm, lượng mùn trung bình (1,42), cấu trúc viên

cục, thịt trung bình, lẫn nhiều rễ cây nhỏ.

- Tầng 2: dày 40cm màu nâu đỏ, cấu trúc viên cục (có góc cạnh), thịt nặng,

nghèo mùn (0,94%).

- Tầng 3: dày khoảng 60cm màu nâu đỏ, thịt nặng, lẫn nhiều mảnh của tầng

phong hóa dở dang, nghèo mùn (0,66%).

Nhìn chung hàm lượng thành phần tổng số ít biến động và ở mức trung bình

nhưng khác với phẫu diện 1, hàm lượng lân và kali dễ tiêu giảm mạnh từ tầng mặt (tầng

1) xuống tầng 2 và không thay đổi xuống tầng 3 (Hình 7).

Hình 7. Biến đổi hàm lƣợng lân và kali dễ tiêu theo phẫu diện

~ 63 ~

Hàm lượng cation trao đổi ở mức trung bình và có chiều hướng tăng. Dung

tích hấp phụ cũng tăng từ 8,13meq/100g đất lên 9,20meq/100g đất ở tầng 2 và 10,50

meq/100g đất ở tầng 3.

Như vậy quy luật phân bố thành phần hóa học và các chất dinh dưỡng

trong đất ở 2 phẫu diện dưới rừng thứ sinh không giống nhau, thậm chí có

nhiều khác biệt, trong đó rõ nét là hàm lượng chất dễ tiêu và dung tích hấp phụ.

3.1.2. Đặc điểm chế độ vi khí hậu trong HST rừng và trảng cỏ cây bụi

Do không có điều kiện quan trắc về chế độ vi khí hậu của rừng và trảng cỏ

cây bụi trong một thời gian dài, chúng tôi chỉ tiến hành quan trắc một đợt vào tháng

9 năm 2013 và kết hợp tham khảo dữ liệu của Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga quan

trắc trong năm 2007.

3.1.2.1. Trong sinh cảnh rừng thứ sinh

Nhìn chung nhiệt độ dưới tán rừng có sự biến động khá mạnh. Nền nhiệt lúc 9h sáng là 26,2oC và 26,5oC ở các độ cao lần lượt là 50cm và 120cm, cùng đạt cực đại lúc 13h với giá trị ở độ cao 120cm tới 32,3oC. Như vậy biên độ nhiệt trong khoảng thời gian quan trắc vào khoảng 6oC (Hình 8).

Hình 8. BiÕn tr×nh nhiÖt ®é kh«ng khÝ trong rõng thø sinh

(9/2013)

~ 64 ~

Đồng thời, chế độ ẩm đo được cũng dao động mạnh, trong khoảng 48-96%.

Như vậy, cả nhiệt độ và độ ẩm trong sinh cảnh rừng thứ sinh có mức độ dao động

khá mạnh.

* Chế độ nhiệt của đất:

Biến trình nhiệt độ (BTNĐ) đất trong ngày có sự khác biệt khá rõ rệt. Từ số

liệu quan trắc cho thấy có sự dao động chủ yếu của nhiệt độ đất bề mặt, đạt cực tiểu trong khoảng thời gian đo (lúc 6h) là 26,2oC, đạt cực đại (lúc 13h) là 33,7oC với biên độ đạt tới 7oC. Trong khi đó, nhiệt độ càng xuống sâu càng ổn định và tăng từ

từ trong ngày. Nếu ở lớp độ sâu 10cm, giá trị cực đại đạt lúc 13h thì ở lớp độ sâu 20cm, giá trị cực đại đạt lúc 17h. Hơn nữa, biên độ ở tầng dưới cùng chỉ có 0,4oC.

Pha đảo nhiệt độ chủ yếu là do sự tăng giảm khá mạnh của nhiệt độ tầng trên mà

không phải dao động lên xuống đều ở tất cả các lớp.

Hình 9. BiÕn tr×nh nhiÖt ®é ®Êt trong sinh c¶nh rõng thø sinh

Do không có điều kiện quan trắc chế độ nhiệt độ đất để có sự so sánh

trong hai mùa: mùa xuân và mùa hạ, chúng tôi sử dụng dữ liệu quan trắc của

Trung tâm nhiệt đới Việt – Nga thực hiện trong năm 2007 và thấy rằng, dữ

~ 65 ~

liệu quan trắc được trong tháng 9 năm 2013 khá tương đồng với dữ liệu năm

2007.

Bảng 7. Giá trị nhiệt độ đất theo phẫu diện khu vực rừng thứ sinh (0C) [15]

t (giê) 1 1 1 1 1 1 1 9 Mïa 0 1 2 3 4 5 6

§é s©u

B 2

2 2,0 2 2,0 2 3,5 2 2,5 2 3,0 2 3,0 2 2,0 2,0 Ò mÆt

2 Mïa xu©n 1 2,1 2 2,3 2 2,5 2 2,5 2 2,0 2 2,5 2 2,5 2 1,5 0cm

2

2 2,3 2 2,5 2 2,5 2 2,0 2 1,5 2 2,0 2 2,0 2 1,5 0cm

B 3

2 8,4 2 8,8 2 9,0 2 9,7 2 0,5 3 0,5 3 1,5 7,8 Ò mÆt

Mïa 2 h¹ 5 7,3 2 7,0 2 7,5 2 7,5 2 8,0 2 8,0 2 8,5 2 8,8 cm

2

2 6,8 2 6,5 2 6,5 2 6,5 2 6,7 2 6,8 2 7,0 2 7,0 0cm

3.1.2.2. Trong sinh cảnh trảng cỏ cây bụi

* Chế độ nhiệt – ẩm của không khí:

Theo kết quả quan trắc điều kiện nhịêt ở 2 khu vực trong sinh cảnh

trảng cỏ cây bụi trên địa hình đồi (độ cao 120 - 160m so với mực nước biển)

theo các mùa khác nhau cho thấy có sự biến đổi phù hợp quy luật: mùa xuân

~ 66 ~

nền nhiệt thấp, biên độ dao động trong ngày nhỏ; mùa hạ nền nhiệt cao, và rất

cao, biên độ nhiệt trong ngày lớn (Bảng 8).

Bảng 8. Biến đổi nhiệt độ không khí ngày ở độ cao 120cm theo mùa [15]

8 9 1 1 1 1 1 1 1 1 t (giờ)

0 1 2 3 4 5 6 7

t

(mùa)

M

ùa 2 3 3 3 3 3 2 2 2 3 xuân 5,8 1,0 2,5 4,0 4,0 4,0 8,0 5,8 3,4 5,0 (tháng

2)

M

3 3 3 3 3 2 3 3 2 3 ùa hạ

1,0 8,2 8,0 6,0 8,2 6,8 3,4 0,5 9,7 9,0 (tháng

7)

Mùa xuân, nhiệt độ trong trảng cỏ cây bụi đạt giá trị thấp nhất trong khoảng thời gian quan trắc vào lúc 8h là 23,4oC, cao nhất vào lúc 13h là 35,0oC, biên độ dao động nhiệt là 6,5oC; Trong khi đó, vào mùa hạ, nền nhiệt trung bình 34-37oC và đạt cực đại (39-40oC) muộn hơn, lúc 15h.

Trong đợt khảo sát tháng 9/2013, số liệu quan trắc ở khu vực trảng cỏ cây

bụi cho thấy sự biến đổi có tính qui luật của yếu tố nhiệt trong ngày. Nhiệt độ đạt

giá trị cực tiểu quan trắc được ở cả hai mức độ cao 50 cm và 120cm vào lúc 4 hoặc

5 giờ sáng; đạt cực đại từ 12h đến 15h. Điểm đáng lưu ý là biên độ nhiệt dao động mạnh, đạt tới 16-20oC.

~ 67 ~

Nhìn chung, nền nhiệt không khí tăng mạnh khi có ánh nắng trực xạ (từ 7 giờ

sáng) và tăng liên tục để đạt cực đại vào lúc 15 giờ cùng ngày. Giá trị cực đại của

các mức độ cao trong trảng cỏ có khác nhau, song đều phụ thuộc chặt chẽ vào mức

độ có mây hay không có mây của bầu trời. Vào ngày có mây, thời gian đạt cực đại

có thể sớm hoặc muộn hơn [15].

Đồng thời, vào những ngày nắng và chịu ảnh hưởng của gió tây khô nóng (gió

Lào), nền nhiệt biến đổi một cách đều đặn gần như quy luật tự nhiên của nó ở vùng nhiệt

đới. Nhưng vào ngày có mưa, quy luật đó bị phá vỡ và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện

mây - nắng. Như vậy, có thể thấy rằng khả năng điều tiết chế độ nhiệt của trảng cỏ, cây

bụi rất kém và ít có sự khác biệt giữa các mức độ cao (bên trong và trên trảng cỏ) [15].

Hình 10. Biến trình nhiệt độ quan trắc (tháng 9/2013)

Vào thời điểm 7h, nhiệt độ trong trảng cỏ cây bụi và đất trống gần bằng nhau.

Tuy vậy do sự nung nóng của ánh sáng mặt trời, nền nhiệt trong trảng cỏ dần tăng lên và đạt cực đại trong ngày vào lúc 14h (42,3oC), trong khi ở ngoài bãi trống giá trị cực đại đạt lúc 13h (37oC).

Ta thử xem xét sự khác biệt của yếu tố nhiệt độ trong cùng trạng thái trảng cỏ cây

bụi ở độ cao khác nhau: Độ cao 10cm: dưới gốc; Độ cao 50cm: khoảng thân cỏ; Độ cao

120cm: Khoảng ngọn cỏ (tiếp xúc trực tiếp ánh sáng trực xạ)

~ 68 ~

Hình 11. Biến trình nhiệt độ trong trảng cỏ, cây bụi (Ở độ cao 10cm, 50cm, 120cm)

Như vậy, với cấu trúc của trảng cỏ cây bụi, chỉ có nhiệt độ ở gần mặt đất

được cải thiện đáng kể. Từ độ cao khoảng 50cm trở lên đến đầu ngọn, nhiệt độ

trong những ngày nắng có sự khác biệt không nhiều (mặc dù nền nhiệt ở độ cao

ngọn lớn hơn).

Đồng thời, giá trị độ ẩm giữa bãi đất trống so với trảng cỏ cây bụi có sự

biến đổi khá tuyến tính. Tuy nhiên vào buổi sáng sớm và chiều muộn độ ẩm

trong trảng cỏ cao hơn.

H×nh 12. BiÕn tr×nh ®é Èm kh«ng khÝ trung b×nh trong tr¶ng cá c©y bôi

~ 69 ~

Số liệu quan trắc cho thấy giá trị độ ẩm không có nhiều khác biệt ở độ cao

50 và 120cm. Tuy vậy, biến trình của độ ẩm cũng có sự dao động lớn. Vào sáng

sớm, độ ẩm lên tới 96% và đạt cực tiểu trên dưới 50% lúc 12-13h. Ở thời điểm

13h và 16h sự biến đổi nền ẩm không khí không thực sự tương đồng giữa 2 lớp

độ cao (50 và 120cm), nhưng điều đó chỉ xảy ra có tính cục bộ. Tóm lại, cũng

như nhiệt độ, độ ẩm không khí khu vực trảng cỏ có sự dao động mạnh và phụ

thuộc nhiều vào cấu trúc và độ cao của thảm thực vật.

* Chế độ nhiệt của đất:

Nhìn chung, những ngày quan trắc điều kiện thời tiết đều nắng, có gió, ít

mây, vì vậy ánh sáng chiếu xuống chủ yếu là ánh sáng trực xạ. Độ sâu đo ở 4

mức (lớp):

- Mức bề mặt đất (tạm gọi là 1cm)

- Mức 5cm

- Mức 10cm

- Mức 20cm

Giá trị đo được trình bày trong bảng 9:

B¶ng 9. Gi¸ trÞ nhiÖt ®é ®Êt theo phÉu diÖn khu

vùc tr¶ng cá c©y bôi

t (giê) 1 1 1 1 1 1 1 1 7 8 9 0 1 2 3 4 5 6 7 t (ngµy) §é s©u

3 3 3

M 8,8 2 8,8 2 9,0 2 0,5 3 4,6 3 6,2 3 6,0 3 5,0 3 5,2 5,5 4,0

Æt ®Êt

3 3 3 27/9 /2013 cm 1,5 1,5

2 2 2

0cm 5 8,0 2 7,5 2 7,9 2 7,4 2 8,0 2 7,2 2 8,0 2 7,0 2 9,0 2 7,5 2 0,5 2 7,5 3 1,0 2 7,5 3 1,0 2 8,0 3 1,0 2 8,0 8,0 8,5

~ 70 ~

3 3 3

M 8,2 2 8,5 2 9,5 2 2,5 3 3,0 3 3,4 3 4,2 3 5,6 3 5,5 4,0 2,5

Æt ®Êt

3 3 3 28/9 /2013 cm 2,3 2,3

2 2 2

0cm 5 8,0 2 6,5 2 8,0 2 7,7 2 8,5 2 7,7 2 9,0 2 7,8 2 9,8 2 7,8 2 1,0 2 8,0 3 1,8 2 8,1 3 1,6 2 8,4 3 2,0 2 8,5 8,6 8,7

Từ bảng 9 cho thấy: Nếu như nhiệt độ đất bề mặt trong trảng cỏ cây bụi ngày

27/9/2013 đạt giá trị cực đại trong khoảng 11-12h thì ở độ sâu lớn hơn, các giá trị cực đại đạt được vào cuối thời gian quan trắc. Độ sâu 5cm giá trị cực đại đạt 31,5oC

lúc 16h và không thay đổi đến 17h; trong khi đó ở độ sâu 20cm, giá trị cực đại là 28,5oC muộn hơn, lúc 17h. Như vậy, pha lên của yếu tố nhiệt chậm dần theo chiều

sâu phẫu diện. Có thể nhận thấy điều này qua hình 13.

H×nh 13. Sù thay ®æi nhiÖt ®é ®Êt khu vùc tr¶ng cá c©y bôi

Giá trị quan trắc tại sinh cảnh này vào ngày 28/9/2013 cũng cho những giá trị và sự biến động tương tự. Nhiệt độ đất bề mặt lúc 7h là 28,2oC, đạt giá trị cao nhất lúc 14h (35,6oC) sau đó giảm dần. Trong khi đó, ở độ sâu 5cm và 20cm, giá trị nhiệt lúc 7h lần lượt là 28,0oC và 26,5oC. Điều đáng lưu ý là ở độ sâu 5cm,

~ 71 ~

giá trị cực đại đạt lúc 16h, ổn định đến 17h và ở độ sâu 20cm, giá trị cực đại đạt

chậm hơn, lúc 17h. Bên canh đó, biên độ nhiệt theo chiều sâu phẫu diện đất ở 3 mức (bề mặt, 5cm và 20cm) giảm lần lượt là: 7,4oC, 4,0oC và 2,2oC.

Nhìn chung nhiệt độ đất bề mặt phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ không khí.

Điều đó được biểu hiện qua biên độ dao động nhiệt: ở bề mặt, biên độ dao động mạnh (>8oC), đến độ sâu 20cm chỉ còn 0,7oC - 1,5oC. Pha đảo nhiệt diễn ra vào

khoảng 7- 8h sáng và 17 - 19h chiều, khi đó nhiệt độ những lớp trên tăng mạnh và

cao hơn lớp dưới (buổi sáng) hoặc giảm mạnh và thấp hơn lớp dưới (buổi chiều tối).

Như vậy, trong khu vực trảng cỏ cây bụi, nhiệt độ đất có tính biến đổi phù hợp qui

luật: càng xuống sâu nền nhiệt càng ổn định, thấp về ban ngày, cao về ban đêm (so

các lớp với nhau). Tuy vậy, để khẳng định được mức độ cải thiện của trảng cỏ cây

bụi đối với nhiệt độ đất, cần so sánh với nhiệt độ đất dưới thảm thực vật rừng thứ

sinh.

3.2. Đánh giá sơ bộ nền nhiệt - ẩm đất giữa sinh cảnh trảng cỏ cây bụi với rừng

thứ sinh vào thời kỳ mùa hạ

Tính qui luật của chế độ nhiệt - ẩm trong các sinh cảnh rừng khác nhau đã ít

nhiều được khẳng định qua những kết quả nghiên cứu thực nghiệm. Các nghiên cứu

đều chỉ ra rằng, nền nhiệt của không khí dưới tán rừng (nói chung cho tất cả các

kiểu rừng đã khép tán, gồm cả rừng nhân sinh) bao giờ cũng thấp hơn nền nhiệt

không khí trong các loại trảng cỏ cây bụi vào những ngày có ánh sáng trực xạ.

H×nh 14. So s¸nh nhiÖt ®é kh«ng khÝ gi÷a 2 sinh c¶nh

~ 72 ~

Dễ nhận thấy là nền nhiệt trước 6h sáng không có nhiều khác biệt, nhưng từ

khi xuất hiện ánh sáng mặt trời, nhiệt độ không khí trong trảng cỏ cây bụi tăng

nhanh và cao hơn dưới tán rừng, đồng thời đạt giá trị cực đại sớm hơn (lúc 12h).

Tuy nhiên nền nhiệt độ ở đó cũng giảm nhanh sau khi đạt cực đại và tiệm cận đến

giá trị trong rừng lúc 16-17h. Đặc biệt, sau 19h nền nhiệt độ không khí ở cả 2 lớp độ

cao trong trảng cỏ có giá trị thấp hơn dưới tán rừng. Điều này cho thấy quá trình

bức xạ nhiệt bề mặt trong trảng cỏ cây bụi diễn ra mạnh mẽ ngay từ khoảng16-17h.

Số liệu quan trắc cũng cho thấy sự khác biệt rõ rệt nhiệt độ đất giữa 2 sinh

cảnh. Nếu như nhiệt độ đất bề mặt có sự biến đổi rõ rệt và phụ thuộc chặt chẽ vào

nguồn ánh sáng trực xạ thì nhiệt độ đất bề mặt trong rừng thứ sinh biến đổi ít hơn nhiều; sự tăng giảm cũng diễn ra chậm hơn với biên độ dao động tối đa là 3,4oC (trong khi dưới trảng cỏ giá trị biên độ này là 10,2oC).

Hình 15. So sánh nhiệt độ đất giữa 2 sinh cảnh

Sự biến thiên của nhiệt độ đất ở độ sâu 20cm không có nhiều khác biệt: sự biến

thiên diễn ra từ từ và không phụ thuộc nhiều vào sự thay đổi đột biến của ánh sáng mặt

trời. Điểm khác biệt có thể nhận thấy khá rõ ở đây là nền nhiệt ở khu vực trảng cỏ luôn cao hơn (khoảng 2oC vào buổi sáng, 2,5oC vào buổi chiều).

~ 73 ~

Độ ẩm trong các sinh cảnh cũng phụ thuộc và biến đổi tương tự như nền nhiệt

độ. Có thể nhận thấy rõ điều này qua biến trình ẩm độ ở độ cao 50cm trong trảng cỏ

cây bụi và rừng thứ sinh.

3.3. Giải thích về sự biến đổi của HST rừng dƣới tác động của chiến tranh hóa

học và những tác động nhân sinh khác

Trong thời gian chiến tranh do quân đội Mỹ gây ra ở Việt Nam, nhất là giai

đoạn 1964-1971, nhiều cánh rừng ở miền Nam và miền Trung Việt Nam đã bị rải chất

diệt cỏ. Khi đó, Việt Nam trở thành “phòng thí nhiệm tự nhiên” cho quân đội Mỹ thử

nghiệm và lựa chọn quy trình hủy diệt rừng nhiệt đới. Việc sử dụng các loại hoá chất

(chất khai quang) làm cho cây gỗ rừng và dây leo bị rụng lá. Tuy vậy, sau khi rừng bị

phun rải chất khai quang lần đầu thì phần lớn cây gỗ rừng sẽ phát triển lá mới. Do vậy,

nếu rừng bị phun rải nhiều lần sẽ dẫn đến chết cây gỗ và các loại thực vật khác, và sau

đó bom napan được sử dụng để huỷ diệt hoàn toàn thảm thực vật rừng. Quy trình các

bước nhằm huỷ diệt giới thực vật trên qui mô lớn như vậy làm thay đổi cảnh quan được

gọi là “chiến tranh sinh thái - ecoxit”.

Khi bị con người tác động bằng các quy trình công nghệ khác nhau, cũng

như do bị khai thác ở quy mô công nghiệp, trong HST rừng đã diễn ra quá trình

mất dần tấm chắn bảo vệ vốn được tạo thành từ tán lá cây và dây leo. Lớp đất

mặt bị bức xạ mặt trời và mưa tác động trực tiếp. Mùa khô, nhiệt độ cao làm

cho mặt đất bị nung đốt, còn mùa mưa làm cho đất bị nén chặt. Quá trình đó

gián tiếp dẫn đến hình thành lớp feralite hoặc vỏ cứng có độ dày 3 -7 cm (đôi

khi lên tới 12cm) với đặc tính không thấm nước. Sự hình thành lớp vỏ như vậy

trên bề mặt làm ngăn cản quá trình thấm nước mưa, tăng tốc độ dòng nước trên

mặt đất, và hệ quả là tăng cường xói mòn đất bề mặt.

Vì lý do này hay lý do khác, trên những khu vực bị mất đi thảm thực vật rừng,

hạt của các loài thực vật tiên phong được gió đem tới, mà chủ yếu là các loài cỏ với

đại diện của chi Imperata, Pennisetum, Themeda (Gramineae) và Eupatorium

(Compositae). Sau một mùa mưa, các loài cỏ này phát triển đạt chiều cao tới 2m, hình

~ 74 ~

thành các bụi cỏ, ra hoa và cho hạt rất nhiều. Như vậy, chỉ sau một thời gian ngắn các

khu vực trống đã bị những loài cỏ thân cứng xâm chiếm. Thêm nữa, trong thời gian

mùa khô, trên những trảng cỏ như vậy thường hay xảy ra cháy.

Hình 16. Sự hình thành quần xã cỏ từ rừng nhiệt đới

Trong đó: 1- rừng cây gỗ thân cao điển hình; 2- khai thác quy mô công nghiệp; 3-

rừng bị phun rải nhiều lần CDC; 4- sử dụng bom cháy na pan; 5- sự phát triển

QXTV với ưu thế là các loài cỏ tiên phong.

Kết quả nghiên cứu cho thấy rất rõ những khu vực rừng bị huỷ diệt trong

chiến tranh bằng các biện pháp khác nhau, ngay trong thời gian chiến tranh thì tại

đó đã hình thành những quần xã cỏ. Từ khi kết thúc chiến tranh đến nay, vẫn chưa

hề có hoạt động cải tạo đất nào (thậm chí có nơi vẫn chưa rà phá xong bom mìn).

Điển hình trong số đó phải kể đến xã Linh Thượng thuộc huyện Gio Linh, tỉnh

Quảng Trị, là một trong những nơi chịu hậu quả nặng nề nhất. Cho đến nay, có

nghĩa là sau khoảng 38 năm chiến tranh đã đi qua, các trảng cỏ ở đây không hề bị

thay đổi theo hướng thay thế bằng cây rừng hoặc cây bụi. Tổng diện tích dạng savan trên nền đất bị bào mòn vào khoảng 120 km2.

Điều đáng lưu ý là trong điều kiện tự nhiên, những loài cây gỗ tạo rừng lại

phục hồi được trên đất dốc bằng diễn thế “màn rừng - cửa sổ”. Cây rừng không có

cơ chế phát tán hạt ra cự ly xa. Hạt và quả của một số loài cây chỉ có thể phát tán đi

~ 75 ~

xa nhờ gió. Đối với nhiều loài chim – chủ thể gieo hạt, thì chúng cần phải có chỗ

đậu, nhưng ở trảng cỏ thì không có điều kiện này. Nhưng theo chúng tôi, điều cơ

bản là cây gỗ rừng nhiệt đới không có khả năng phát triển trên những khu vực trống

là do đặc điểm sinh học của chúng. Chẳng hạn, để hạt và cây non của loài

Dipterocarpus dyeri (Dipterocarpaceae) – loài chủ đạo của rừng cây họ Dầu thân

cao trên bình nguyên có thể nảy mầm và sinh trưởng được thì cần phải có những

điều kiện sau: nhiệt độ lớp không khí gần sát mặt đất trong cả năm dao động từ 24oC đến 32oC, nhiệt độ đất ở độ sâu từ 0 đến 20cm là 25 – 27oC, độ ẩm không khí

không dưới 70%, độ chiếu sáng 200 – 400lux (hoặc 0,04 – 0,08% của bức xạ toàn

phần). Với độ chiếu sáng thấp như vậy thì dây leo và cỏ không phát triển được, lúc

đó cây non của loài D. dyeri mới tránh được sự cạnh tranh của các loài thực vật này.

Biên độ dao động hẹp như vậy của các tham số nhiệt độ và độ ẩm chỉ có thể được

duy trì khi mặt đất được che bởi tán cây với các tầng khác nhau. Sự phát triển của

D. dyeri ở giai đoạn cây non diễn ra khá nhanh nhưng khi đạt đến độ cao nhất định

lại diễn ra rất chậm. Ví dụ, phải mất khoảng 5 năm cây con có độ cao 20-25cm mới

đạt tới độ cao 30cm, 10 năm là 50-70cm. Đến khi cây D. dyeri ra hoa, kết trái và bắt

đầu cho ra thế hệ kế tiếp, theo tính toán sơ bộ của chúng tôi, thì phải mất tới 60 – 80

năm. Đặc điểm sinh học tương tự của cây gỗ lớn thuộc họ Dầu cũng được mô tả

trong công trình của P. Aston.

Khác với các loài cây gỗ rừng, các loài cây thuộc nhóm tiên phong lại phát triển

rất tốt trong điều kiện nhiệt độ, mức độ chiếu sáng gần với điều kiện ở khu vực

trống trải. Kết quả nghiên cứu ở Gio Linh và nhiều khu vực khác ở Việt Nam trong

khoảng 20 năm qua cho thấy, những loài thực vật này thuộc các họ: Araliaceae

(Đơn châu chấu - Aralia armata); Euphorbiaceae (Sòi tía - Sapium discolor, Sòi

trắng - S. sebiferum); 14 loài thuộc chi Macaranga, trong đó ở Miền Nam có loài

đặc trưng Ba soi lông sao - M. trichocarpa và 30 loài thuộc chi Mallotus);

Lauraceae (Màng tang - Litsea cubeba); Melastomataceae (14 loài thuộc chi

Melastoma, trong đó ở Miền Nam có loài Muôi an bích - M. osbeckoides);

Ulmaceae (Hu đay lông - Trema orientalis, Hu đay - T. velutina); Rubiaceae (Gáo

~ 76 ~

tàu - Anthocephalus chinensis); Rutaceae (Ba chạc - Euodia lepta, Cóc hôi -

Zanthoxylum rhetsa); Simaroubaceae (Khổ sâm nam - Brucea javanica);

Verbenaceae (không dưới 26 loài thuộc chi Callicarpa).

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, trong điều kiện bình thường, sau 1 mùa mưa,

các loài Macaranga trichocarpa, Trema velutina, Anthocephalus chinensis đã có

chiều cao tới 150 cm. Trong khi đó, chiều cao lớn nhất khi trưởng thành của 2 loài

Macaranga trichocarpa, Trema velutina là 8m, còn loài Anthocephalus chinensis là

20m. Sau một thời gian sinh trưởng ngắn cây đã ra hoa, kết trái. Quan sát thực tế

cho thấy, Trema velutina đã ra hoa chỉ sau 3 tháng sinh trưởng. Vòng đời của các

cây tiên phong, theo ước tính là từ 10 đến 15 năm. Hàng năm, các cây tiên phong

đều ra trái và rất sai quả, tuy vậy không thấy những cây con của chúng mọc ngay

dưới tán cây mẹ. Những loài cây tiên phong kể trên thường có mặt ở những “cửa

sổ” rừng, trên những nơi rừng bị khai thác chọn và cả những bãi trống. Tại Gio Linh

cũng như nhiều vùng bị rải chất diệt cỏ ở Miền Nam Việt Nam, các cây gỗ tiên

phong mọc quanh, bao bọc lấy rừng cây thân cao, hình thành một dải đệm, còn gọi

là đới chuyển tiếp rất đặc thù giữa rừng tự nhiên (có thể nguyên sinh) và các quần

xã cỏ, thực vật dạng savan. Chiều rộng của đới chuyển tiếp dao động phổ biến trong

khoảng 3 đến 7m. Các cây tiên phong với tốc độ sinh trưởng nhanh, có vai trò quan

trọng là bảo vệ bề mặt đất tránh bị bức xạ mặt trời và tránh bị nước mưa bào mòn.

Đồng thời, đây cũng là con đường khôi phục lại những tham số vi khí hậu ở sát mặt

đất rừng (lớp không khí từ 0 đến 20cm).

Dưới tán những cây gỗ tiên phong, theo thời gian (3 - 4 năm), mầm của những loài

cây phát tán từ phía rừng có thể sẽ phát triển tốt. Trong đới chuyển tiếp, đã phát

hiện mầm và cây non của các loài Thành ngạnh - Cratoxylum formosanum

(Hypericaceae), Kơ nia - Irvingia malayana (Irvingiaceae), Sao đen - Hopea

odorata, Sến cát - Shorea roxburghii (Diperocarpaceae) và Cám - Parinari

annamense (Chrysobalanaceae). Quá trình này diễn ra từ khi những cành thấp nhất

của tán cây tiên phong đạt tới độ cao 1,5 – 2m cách mặt đất. Song song với sự lớn

lên của các loài cây gỗ rừng, tán che do cây tiên phong tạo ra trong đới chuyển tiếp

~ 77 ~

bị chia cắt, mặc dù cây rừng mới chỉ đạt tới độ cao của lớp cỏ. Dải bóng râm do cây

gỗ rừng tạo ra cùng với cây non trong đới chuyển tiếp dần đẩy lùi ranh giới của các

quần xã cỏ và tạo điều kiện mở rộng diện tích phía dưới thực vật rừng. Sự biến đổi

dần dần điều kiện vi khí hậu dưới tán cây theo hướng tiếp cận với các tham số vi

khí hậu trong rừng, cũng như sự xuất hiện gần khu vực đất trống. Những cây đến

tuổi trưởng thành, ra hoa kết quả thuộc lớp trên cùng của rừng, sẽ thúc đẩy quá trình

khôi phục rừng cây nhiệt đới bản địa tại khu vực đó. Tuy nhiên, quá trình “quay trở

lại” này của các loài cây thuộc tầng trên cùng của tán rừng (cho dù chỉ là một số

loài cây nào đó) diễn ra trong thời gian rất dài, khoảng từ 50 đến 80 năm. Trong

điều kiện thực tại tại Gio Linh cũng như nhiều vùng khác ở Việt Nam, do mối quan

hệ “con người - rừng nhiệt đới”, quá trình diễn thế như vậy đã và sẽ rất khó diễn ra,

vì như thường thấy, hoạt động của con người không ngừng gây ra những tác động

tiêu cực lên các khu vực này. Đó là việc chặt đốn những cây gỗ lớn (mà thông

thường lại trong giai đoạn chúng đang cho ra quả), cũng đồng nghĩa với việc chặt

đốn cả thế hệ cây con.

Theo kết quả điều tra, ở Gio Linh, các cây thuộc đới chuyển tiếp không có khả

năng xâm lấn thành diện tích rộng lớn khi hoàn toàn không có cây rừng bản địa. Những

nơi như vậy chỉ xuất hiện những đại diện đơn lẻ và hiếm khi gặp những cụm 3-7 cây

đới chuyển tiếp. Bên trong những cụm cây như vậy, dưới tán của chúng không diễn ra

quá trình phục hồi cây rừng. Cây đới chuyển tiếp không chen lấn được vào tầng cỏ rậm

rạp, không phát triển được trên nền đất bị bào mòn, rửa trôi, đó là những nơi mà thành

phần lý-hoá của đất đã bị thay đổi, thậm chí một số nơi đã hình thành lớp vỏ feralit rắn

chắc không hoặc ít thấm nước. Như vậy, quá trình cạnh tranh sự sống của những cây

gỗ có khả năng sinh sôi ở khu vực phục hồi bên trong rừng, nhưng lại không có khả

năng tồn tại được ở những khu vực bị mất rừng, không hoàn toàn thoả mãn khái niệm

“tiên phong” đã từng được thừa nhận. Đây là những cây chỉ tồn tại được trong điều

kiện chuyển tiếp, hay còn gọi là chuyển tiếp sinh thái.

~ 78 ~

Hình 17. Cây gỗ tiên phong đới chuyển tiếp giữa rừng và quần xã cỏ

Khác với cây gỗ, các loài cỏ hoàn toàn có khả năng xâm lấn những khu vực

trống trải. Trên nền đất vừa lộ ra sau khi rừng bị mất, cũng như đất bị bào mòn, rửa

trôi là điều kiện thích hợp cho các loài cỏ và dương xỉ phát triển. Hạt của nhiều loài

cỏ dễ dàng phát tán nhờ gió, các bộ phận dưới đất của chúng phát triển rất mạnh và

mầm tái tạo của chúng vẫn tồn tại được sau những trận cháy rừng. Trên khu vực rừng

đã bị tàn phá, hình thành các quần xã cỏ đạt tới cực đỉnh về khí hậu. Trên địa hình

vùng đồng bằng, gò đồi ở Gio Linh, trong những quần xã như vậy chiếm ưu thế

vẫn là các loài cỏ cọng to và cứng. Quá trình diễn thế của thảm thực vật tiếp tục

diễn ra trong chu trình như vậy nếu như không có những đột biến về điều kiện tự

nhiên hoặc biện pháp kỹ thuật từ phía con người.

SỰ RỐI LOẠN TRONG QUẦN XÃ THỰC VẬT RỪNG NHIỆT ĐỚI

Sự phá hủy tự nhiên Sự phá hủy mang tính

mang tính nội nhân sinh Khai thác sinh Cửa sổ rừng Trượt đất chọn Tác động của chiến Khai thác tập trung

tranh Diễn thế phục hồi

Sự gián đoạn chuỗi diễn thế

Sự phục hồi thành phần loài và cấu trúc đứng QXTV bản địa

Hình thành QXTV

phi địa đới bền vững

~ 79 ~

với ưu thế của các loài cỏ

Hình 18. Diễn thế thảm thực vật rừng nhiệt đới dƣới các tác động

tự nhiên – nhân sinh, trong đó có chiến tranh

3.4. Đề xuất một số giải pháp phục hồi các HST nhân sinh huyện Gio Linh,

Quảng Trị

Qua quá trình nghiên cứu về hiện trạng các HST nhân sinh hình thành dưới

tác động của chiến tranh hóa học huyện Gio Linh, Quảng Trị nhận thấy rằng tại đây

đang tồn tại hai HST nhân sinh đặc trưng là HST rừng thứ sinh và HST trảng cỏ cây

bụi. Trước thực trạng bị phá hủy của các HST kèm theo điều kiện khắc nghiệt tại

khu vực nghiên cứu, để đẩy nhanh tốc độ phục hồi của các HST nhân sinh cần đề ra

những giải pháp kỹ thuật thích hợp, kết hợp với quản lý bền vững.

3.4.1. Thành lập bản đồ sinh thái cảnh quan khu vực

Với sự phân hóa của các HST khu vực, đặc biệt là sự phân hóa theo đai cao,

nhằm kiểm soát tốt các HST nên thành lập bản đồ sinh thái cảnh quan khu vực theo

tỷ lệ lớn (1/10.000 – 1/25.000). Việc xây dựng bản đồ sinh thái cảnh quan sẽ giúp

cho các nhà quản lý có cái nhìn toàn diện về hiện trạng HST tại từng khu vực, từ đó

có các biện pháp khác nhau để tác động một cách thích hợp giúp rừng được phục

hồi với tốc độ nhanh hơn & bảo vệ tốt hơn.

Việc thành lập bản đồ sinh thái cảnh quan khu vực có thể dựa vào các

nguyên tắc chính sau:

- Nguyên tắc phát sinh hình thái: Do sự khác biệt về các hợp phần tự

nhiên, nhân sinh nên điều đầu tiên cần phải làm để xây dựng bản đồ đó là phân

~ 80 ~

tích quy luật phân hoá lãnh thổ để tạo thành các đơn vị HST khác nhau.

Nguyên tắc này cho phép xác định được quá trình phát sinh, phát triển của

HST. Đối với khu vực nghiên cứu, nguyên tắc này còn làm rõ được nguồn gốc

phát sinh từ các hoạt động của con người như chiến tranh hoá học, canh tác

nông nghiệp, hoạt động lâm nghiệp… Chính nguyên tắc này là nguyên nhân

dẫn đến sự khác nhau về kiểu HST khu vực.

- Nguyên tắc đồng nhất tương đối: Mỗi cấp bậc trong HST nhân sinh có tính

đồng nhất các hợp phần cấu thành. Tuy vậy, trong cấu trúc nội tại của chúng đã

chứa đựng các thành phần không hoàn toàn giống nhau, thậm chí ở một mặt nào đó

là khác nhau, vì vậy sự đồng nhất đó chỉ là tương đối. Nguyên tắc đồng nhất tương

đối cho phép xác định các thuộc tính đối tượng trên bản đồ một cách tương đối; lấy

yếu tố trội làm chủ đạo mà không cần để ý nhiều tới sự giống hay khác nhau của

yếu tố thứ yếu.

- Nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ: Mỗi đơn vị HST thể hiện trên bản đồ có tính

toàn vẹn về lãnh thổ, tức là một khoanh vi kín, có diện tích cụ thể và được xác định

ranh giới bởi các đơn vị HST khác liền kề.

3.4.2. Có biện pháp khai thác hợp lý các HST theo đai cao

Quản lý các HST cần đi kèm với việc sử dụng hợp lý các HST. Đặc trưng

của các kiểu HST tại Do Linh là phân hóa theo đai cao, do đó khi muốn khai thác

các HST này cần lưu ý đến đặc trưng của thực vật ở từng độ cao khác nhau.

+ Đối với kiểu HST trảng cỏ cây bụi ở độ cao < 100m: ước tính, HST này có

diện tích 7.716,11ha phân bố chủ yếu ở phía đông, dọc thung lũng sông Bến Hải và

phần tây của huyện. Đặc trưng địa hình của khu vực phân bố chủ yếu là thung lũng,

đất dốc tụ. Do đó, biện pháp thích hợp là trồng các cây công nghiệp ngắn ngày như

các cây nguyên liệu giấy, cây cho sợi... (tuyệt đối không trồng các cây thực phẩm,

đặc biệt là các loại cây lấy củ vì có khả năng các cây này sẽ hấp thụ từ đất một

lượng CĐHH nhất định, gây hại cho con người trong quá trình sử dụng).

~ 81 ~

+ Đối với kiểu HST trảng cỏ cây bụi ở độ cao > 100m: ước tính diện tích của

HST này là 10.607,54ha, phân bố chủ yếu ở phần phía nam và trung tâm của xã

Linh Thượng. Với HST này, nên khoanh nuôi, phục hồi để tái tạo thảm thực vật với

các cây bản địa. Những loài cây phù hợp với khu vực này là các cây họ dầu và cây

họ đậu. Tuy nhiên, do điều kiện khắc nghiệt, lượng mưa thấp, chủ yếu tập trung vào

đầu mùa do đó chỉ thích hợp trồng các cây công nghiệp tại những vị trí có khả năng

xây dựng được các hồ chứa nước (có khả năng cung cấp nước cho cây trồng).

+ Đối với kiểu HST rừng thứ sinh tồn tại ở độ cao từ 100m trở lên: ước tính

diện tích của HST này vào khoảng 2.697,91ha tập trung chủ yếu ở phần phía tây và

tây bắc của xã Linh Thượng. Với kiểu HST này, cần tăng cường công tác bảo vệ,

khoanh nuôi, phục hồi kết hợp với việc trồng rậm ở các đới chuyển tiếp.

3.4.3. Tác động một số biện pháp kỹ thuật thích hợp

a) Trồng đan xen các cây công nghiệp và cây bản địa

Dưới tác động của các chất diệt cỏ, bom napan cùng các tác động nhân sinh

của con người và điều kiện khí hậu khắc nghiệt tại Gio Linh, Quảng Trị, hiện nay

thảm thực vật khu vực đới chuyển tiếp giữa rừng và thảm cỏ đang rất nghèo nàn về

cả lượng và loại. Mặt khác, địa hình khu vực nghiên cứu là địa hình đất đồi và núi

thấp. Các HST trảng cỏ cây bụi và HST rừng thứ sinh chủ yếu tồn tại trên địa hình

dốc thấp. Với điều kiện địa hình như trên cùng với điều kiện nhiệt độ khô nóng

khiến cho lớp đất bề mặt rất dễ bị rửa trôi, và kết cấu đất không chắc chắn. Để cải

tạo tính chất đất, nên nghiên cứu trồng các cây công nghiệp thích hợp với điều kiện

khí hậu và thổ nhưỡng của khu vực. Đồng thời, để đẩy nhanh tốc độ phát triển của

rừng, cũng cần nghiên cứu và tìm ra những cây bản địa thích hợp. Trồng đan xen

các cây bản địa này với các loại cây hiện có để đẩy nhanh tốc độ phát triển của

rừng.

b) Xây dựng các hồ chứa nước

Để đảm bảo các cây công nghiệp này có thể phát triển trên khu vực điều kiện

khí hậu khắc nghiệt như trên, cần tìm ra những biện pháp kỹ thuật thích hợp trong

~ 82 ~

quá trình trồng và chăm sóc, kết hợp với xây dựng hồ chứa nước với dung tích từ

1.000 – 10.000 m3 nhằm cung cấp nước đầy đủ trong mùa khô (Do đặc điểm khu

vực, vào mùa khô nước tại các suối sẽ bị khô kiệt). Đây là một trong những biện

pháp vừa có tác dụng cải tạo điều kiện thổ nhưỡng, HST khu vực, vừa tăng cường

điều kiện kinh tế cho người dân khu vực huyện Gio Linh, Quảng Trị.

Đồng thời, cần tăng cường điều tra, khảo sát phát hiện các mạch nước ngầm

để có thể cung cấp nước tốt hơn.

c) Nghiên cứu, quan trắc diễn thế của các HST

Cần đẩy mạnh nghiên cứu, quan trắc diễn thế của các HST nhất là những

HST đã bị phá hủy mạnh trong chiến tranh. Từ đó, nắm được xu hướng diễn thế để

có biện pháp bảo vệ hoặc tác động một cách thích hợp nhằm phục hồi lại HST khu

vực theo mong muốn với tốc độ nhanh nhất có thể.

3.4.4. Phòng, chống cháy rừng

Phòng cháy chữa cháy rừng luôn là một yêu cầu cấp thiết được đặt ra cho mọi

thành viên trong cộng đồng, từ các nhà hoạch định, nhà quản lý, xác cơ quan

chuyên ngành đến các tầng lớp dân cư. Mỗi thành viên trong cộng đồng đều phải

nhận thức được tầm quan trọng của rừng đối với mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội,

ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống và lợi ích của cá nhân. Từ đó, nhận thức được vai

trò của bản thân với việc bảo vệ rừng, đặc biệt là công tác phòng cháy chữa cháy

rừng.

Hiểm họa cháy rừng luôn tiềm ẩn. Cháy rừng đồng nghĩa với tài nguyên và

môi trường rừng bị hủy hoại, hao tốn nhân lực, của cải. Phương châm đưa ra phòng

cháy rừng là chính, chữa cháy rừng phải khẩn trương, kịp thời, triệt để và an toàn

với nguyên tắc bốn tại chỗ gồm (1) chỉ huy tại chỗ, (2) lực lượng tại chỗ, (3)

phương tiện tại chỗ và (4) hậu cần tại chỗ.

Những biện pháp chủ yếu phòng cháy rừng gồm:

- Tổ chức hành chính.

~ 83 ~

- Tuyên truyền, giáo dục cảnh báo, nâng cao nhận thức của cộng đồng về

phòng cháy chữa cháy rừng.

- Áp dụng các biện pháp lâm sinh như xây dựng đường băng cản lửa đai rừng

phòng cháy, chọn cây trồng có tác dụng phòng cháy.

- Xây dựng hệ thống hồ đập kênh mượng giữ ẩm và phục vụ chữa cháy rừng,

quy định vùng sản xuất nương rẫy đề phòng cháy lan vào rừng; chủ động làm giảm

khối lượng vật liệu cháy.

- Xây dựng hệ thống chòi canh phát hiện lửa kịp thời.

Như vậy, để có thể đẩy nhanh tốc độ phục hồi HST tại khu vực Gio Linh,

Quảng Trị, cần thiết phải kết hợp nhiều biện pháp kỹ thuật và quản lý khác nhau.

Đồng thời với các biện pháp này, cần khoanh nuôi, bảo vệ HST, nhất là các khu vực

đang phục hồi. Việc phục hồi này không những có ý nghĩa về mặt tự nhiên mà còn

mang lại hiệu quả kinh tế to lớn cho người dân trong khu vực, đặc biệt là khu vực

còn nghèo do tác động của chiến tranh và điều kiện khí hậu khắc nghiệt như Gio

Linh, Quảng Trị.

~ 84 ~

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

I. Kết luận

Qua quá trình nghiên cứu nhận thấy rằng, huyện Gio Linh là địa bàn có sự

phân hóa đa dạng về điều kiện tự nhiên. Trải qua thời gian dài, chịu những tác động

của chiến tranh hoá học cùng nhiều tác động nhân sinh khác nhau đã làm biến đổi

cấu trúc và chức năng của HST tự nhiên, tạo nên HST nhân sinh có cấu trúc đa

dạng, kém bền vững. Trong đó, trảng cỏ cây bụi và rừng thứ sinh trên đất đồi và núi

thấp là những HST đặc trưng của lãnh thổ với sự biến đổi mạnh mẽ của nhiều yếu

tố cấu thành.

Ngoài cấu trúc đa dạng và kém bền vững, HST nhân sinh ở Gio Linh còn

chưa đạt đến độ ổn định và có nhiều khác biệt, phụ thuộc vào mức độ tác động và vị

trí của chúng:

+ Trong HST rừng thứ sinh, thảm thực vật có tầng tán chưa ổn định, nhiều dây

leo nhưng ở một số khu vực đã cho thấy sự phân hoá với 3 tầng chủ đạo.

~ 85 ~

+ HST trảng cỏ cây bụi có cấu trúc ít phức tạp, với thành phần loài gồm có

thân cứng như Chít, Lau và cỏ Tranh; cây bụi gồm có Sim, Mua, Cỏ lào, Bồ cu vẽ,

Me rừng, Thành ngạnh cùng nhiều cá thể trong họ Ulmaceae, họ Rubiaceae...

Theo xu hướng diễn thế, trong điều kiện hiện tại, khả năng phục hồi của rừng

là hoàn toàn có thể diễn ra tại những đới chuyển tiếp giữa rừng và trảng cỏ cây bụi,

song tốc độ rất chậm. Sở dĩ có điều này là do trong HST bị phá huỷ đang tồn tại

những yếu tố tiêu cực khiến thảm thực vật rừng khó có khả năng phát sinh và tồn

tại, trong đó có chế độ nhiệt - ẩm của không khí và đất; độ chiếu sáng và sự biến đổi

các yếu tố theo mùa.

II. Kiến nghị

Từ việc nghiên cứu đặc điểm, sự biến đổi cấu trúc, chức năng và các yếu tố

môi trường trong các HST nhân sinh đặc trưng của Quảng Trị, đặc biệt là khu vực

huyện Gio Linh, luận văn đưa ra một số kiến nghị sau:

1) HST trảng cỏ cây bụi chiếm diện tích lớn nhưng chức năng có nhiều hạn

chế, nhất là trong cải thiện môi trường. Với điều kiện chế độ nhiệt ẩm tương đối

khắc nghiệt cần được nghiên cứu kỹ và lựa chọn đối tượng cây trồng hợp lý để tái

tạo rừng ở khu vực này (thực tế điều tra cho thấy có nhiều khu vực cây trồng bị chết

khô khi trồng ở khu vực trảng cỏ).

2) HST rừng thứ sinh tương đối nghèo, tầng tán chưa ổn định nhưng có vai

trò cải thiện đáng kể điều kiện môi trường, nhất là chế độ nhiệt - ẩm. Vì vậy cần

tích cực duy trì, mở rộng diện tích rừng thứ sinh và có biện pháp bảo vệ tốt những

diện tích rừng đã có ở khu vực này.

3) Nên có điều tra, khảo sát lại nguồn và chất lượng nước phục vụ cho sinh

hoạt và cho sản xuất ở các huyện của huyện Gio Linh, Quảng Trị, nhất là những

khu vực đã bị phun rải chất diệt cỏ trong chiến tranh để có giải pháp khai thác, sử

dụng hợp lý, đảm bảo điều kiện vệ sinh môi trường cho cư dân trong vùng.

~ 86 ~

4) Để có thể khai thác, sử dụng và cải tạo những diện tích rộng lớn trảng cỏ

cây bụi hình thành sau chiến tranh và những tác động nhân sinh theo hướng tiêu cực

ở Gio Linh, cần có sư kết hợp của các giải pháp quản lý và những biện pháp kỹ

thuật thích hợp; đặc biệt chú trọng tới các biện pháp đắp đập, xây dựng các hồ chứa

nước nhỏ để cải tạo điều kiện tự nhiên khu vực, phục hồi rừng và khai thác theo

hướng bền vững. Mặt khác, cần chú trọng tới các biện pháp phòng chống cháy rừng,

một trong những nguyên nhân hàng đầu phá hủy hàng ngàn ha rừng tại nước ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Lê Huy Bá, Lâm Minh Triết (2000), Sinh thái môi trường ứng dụng, Nxb.

Khoa học - Kỹ thuật, Hà Nội.

2. BCĐ-33 (Ban chỉ đạo 33), 2002. Chuyên khảo độc học về các dibenzo-p-

dioxin chlo hóa, Hà Nội.

3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2005), Diện tích rừng và đất chưa sử dụng quy hoạch cho lâm nghiệp năm 2004, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

4. Phùng Tửu Bôi, Lê Văn Chẩm, 1993, “Ảnh hưởng của chất khai quang đối với thảm thực vật rừng Việt Nam”, Báo cáo khoa học Hội thảo Quốc tế lần 2 về chất diệt cỏ trong chiến tranh, Hà Nội.

~ 87 ~

5. Đặng Kim Chi (2001), Hoá học môi trường, Nxb. Khoa học - Kỹ thuật, Hà

Nội.

6. Hoàng Anh Cung, 1993. “Ảnh hưởng của 2,4, 5 T đến cây lúa và vi sinh vật trong đất lúa”, Báo cáo khoa học Hội thảo Quốc tế lần 2 về chất diệt cỏ trong chiến tranh, Hà Nội.

7. Lê Văn Khoa và nnk (2003), Đất và môi trường, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

8. Kuznetsov A.N., Kuznetsova S.P, Nguyễn Đăng Hội (2011), “Biến động quần xã thực vật rừng nhiệt đới qua ví dụ rừng cây gỗ thân cao ở Việt Nam”, Tạp chí Sinh học, Số3.

9. Kuznetsov A.N., Phan Lương, (2007), Hậu quả việc sử dụng chất khai quang của quân đội Mỹ ở Việt Nam - hiện trạng rừng nhiệt đới và phản ứng của rừng khi bị rải (tài liệu lưu trữ, TTNĐ Việt – Nga), Hà Nội.

10. Kuznetsov A.N., Kuznetsova S.P, Phan Lương, Nguyễn Đăng Hội, (2009) “Nghiên cứu tác động của HST và bom Napal lên rừng nhiệt đới gió mùa ở MN Việt Nam”, Báo cáo khoa học tại Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ 3 về Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật năm 2009, Hà Nội.

11. Trương Quang Học và nnk (2004), "Nghiên cứu những vấn đề kinh tế-xã hội- môi trường vùng sinh thái đặc thù Quảng Bình-Quảng Trị", Kỷ yếu Hội nghị Khoa học về Tài nguyên và Môi trường 2003-2004, Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội.

12. Nguyễn Đăng Hội (1995), “Về phương pháp mô hình hóa trong nghiên cứu

sinh thái ứng dụng”, Tạp chí Kinh tế – Sinh thái, (Số 4).

13. Nguyễn Đăng Hội (1997), "Phát triển bền vững nông thôn miền núi Việt

Nam", Tạp chí Kinh tế - Sinh thái, (Số 5).

14. Nguyễn Đăng Hội (2000), "Ứng dụng phương pháp đánh giá tổng hợp cho việc khai thác, sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên rừng", Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp, (Số 1+2).

15. Nguyễn Đăng Hội, Kuzznetsov A.N và nnk, (2008), “Đặc điểm cơ bản các HST bị biến đổi nhân sinh ở huyện Gio Linh tỉnh Quảng Trị”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội, Số 1.

~ 88 ~

16. Nguyễn Đăng Hội và nnk, (2001ª). Nghiên cứu ảnh hưởng của chiến tranh hoá học và nhân sinh lên các HST vùng Sa Thầy-Ngọc Hồi tỉnh Kon Tum, Kết quả đề tài cấp cơ sở, Hà Nội.

17. Nguyễn Đăng Hội, Trần Văn Thịnh, Vũ Văn Liên (2001), "Tác động tiêu cực của chiến tranh hoá học lên tài nguyên môi trường tự nhiên huyện Sa Thầy tỉnh Kon Tum", Tuyển tập Hội nghị khoa học Tài nguyên và Môi trường Việt Nam, Nxb. Khoa học – Kỹ thuật, Hà Nội.

18. Phan Nguyên Hồng và nnk, 1993, “Nghiên cứu hậu quả lâu dài của chiến tranh hoá học lên các vùng rừng ngập mặn - đề xuất biện pháp khắc phục”, Báo cáo khoa học Hội thảo Quốc tế lần 2 về chất diệt cỏ trong chiến tranh, Hà Nội.

19. Phạm Việt Hùng (2004), "Về vùng sinh thái đặc thù khu vực Quảng Bình- Quảng Trị", Kỷ yếu Hội nghị Khoa học về Tài nguyên và Môi trường 2003- 2004, Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội.

20. Vũ Tự Lập (2004), Địa lý tự nhiên Việt Nam, Nxb. Đại học Sư phạm Hà

Nội.

21. Martin Van den Berg et all, 2002. “Tác động của các hợp chất dạng dioxin và PCB lên cuộc sống hoang dã: Liệu có còn một vấn đề toàn cầu không?”, Báo cáo các công trình khoa học tại Hội nghị khoa học Việt - Mỹ về dioxin, Hà Nội.

22. Nguyễn Xuân Nết (2008), Hiểu biết về chất độc hóa học và diễn biến của

chúng trong môi trường, Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga.

23. Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Trị (2005), Báo cáo hiện trạng môi

trường của tỉnh năm 2005, Quảng Trị.

24. Võ Quý, Phan Nguyên Hồng và nnk (2004), "Hậu quả lâu dài của chiến tranh hoá học đối với môi trường, tài nguyên rừng và đa dạng sinh học ở Việt Nam", Kỷ yếu Hội nghị Khoa học về Tài nguyên và Môi trường 2003- 2004, Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội.

~ 89 ~

25. UBND huyện Gio Linh (2003), Báo cáo tổng hợp quy hoạch sử dụng đất đai huyện Gio Linh-tỉnh Quảng Trị thời kỳ 2002-2010, Gio Linh – Quảng Trị.

26. Trầm Yêm, Nguyễn Thị Thanh (1996), Giáo trình ô nhiễm môi trường,

Trường Đại học KHTN, Hà Nôi.

Tiếng Anh

27. ATSDR, 1989. Toxicological profile for 2,3,7,8-Tetrachlorodibezo-p-

dioxin.

28. CACDT, 1993. Alternative Technologies for the Destruction of Chemical

Agents and Munition, Washington, D.C.

29. Fedorov, (1993), Dioxins as a ecological danger: retrospective and

perspective, Moscow.

30. Geoffrey E. B., John D.E., Anton I., Nichael N. (1974), Sự tồn lưu và phân hủy của hóa chất khai quang trong đất nhiệt đới (Tờ trình công tác 2/1974, Phần B), Viện Hàn Lâm Khoa học Mỹ, Washington D.C.

31. Kjeller O., Rapper C., 1994. PCDD and PCDF in sediment core from the

Baltic proper, Dioxin 1994, vol.20.

32. Maisterenko V.N, Kluev N.A., 2004. Ecologoanalichitreski monitoring

stoykik organicheskik zagriaznicheli, Moscova.

33. Nguyen Xuan Quynh et all, (2009), Long

term effects of agent orange/dioxin on aquatic invertebrate fauna in Ma Da area, Dong Nai Province, Southern Vietnam

34. Paustenbach, D.J., Fehling, K., Scott, P. Harris, M. Kerger, B.D., 2006. Identifying soil cleanup criteria for dioxins in urban residential soils: How have 20 years of research and risk assessment experience affected the analysis? J. Toxicol. and Environ. Health,

35. Scientific Report, 2000.

http://www.dijon.inra.fr/cost838/scientific_meetings/sorrento/sorrentoSRep ort.htm, Lausanne 20 December 2000.

~ 90 ~

36. UNEP (2001), Công ước Stockholm, http://vea.gov.vn

37. Sinkkonen S., 2000. J. Paasivirta, Degradation half-life times of PCDDs,

PCDFs and PCBs for environmental fate modeling, Chemosphere.

38. White A., Hangler F., Smith E., et al., (1981). Principles of Biochemistry,

Moscova.

~ 91 ~

PHỤ LỤC

92

Hình 1: Hệ sinh thái trảng cỏ cây bụi (phía trước - phía sau) và hệ sinh thái

rừng nhân sinh (giữa)

Hình 2: Hệ sinh thái rừng thứ sinh phục hồi xen kẽ trảng cỏ cây bụi

93

Hình 3: Hệ sinh thái trảng cỏ xã Linh Thượng - Gio Linh

Hình 4: Hệ sinh thái trảng cỏ (trên sườn đồi) và rừng nhân sinh (thung lũng).

94