BBỘỘ GGIIÁÁOO DDỤỤCC VVÀÀ ĐĐÀÀOO TTẠẠOO BBỘỘ NNÔÔNNGG NNGGHHIIỆỆPP VVÀÀ PPTTNNTT

TTRRƯƯỜỜNNGG ĐĐẠẠII HHỌỌCC LLÂÂMM NNGGHHIIỆỆPP

NNGGUUYYỄỄNN VVĂĂNN TTHHAANNHH

NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG QUẦN THỂ, MỘT SỐ ĐẶC

ĐIỂM SINH THÁI, TẬP TÍNH CỦA BÒ TÓT (BOS GAURUS)

Ở VƯỜN QUỐC GIA CÁT TIÊN VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP

QUẢN LÝ BẢO TỒN

LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSỸỸ KKHHOOAA HHỌỌCC LLÂÂMM NNGGHHIIỆỆPP

__________HHàà NNộộii ,, 22000099__________

BBỘỘ GGIIÁÁOO DDỤỤCC VVÀÀ ĐĐÀÀOO TTẠẠOO BBỘỘ NNÔÔNNGG NNGGHHIIỆỆPP VVÀÀ PPTTNNTT

TTRRƯƯỜỜNNGG ĐĐẠẠII HHỌỌCC LLÂÂMM NNGGHHIIỆỆPP

NNGGUUYYỄỄNN VVĂĂNN TTHHAANNHH

NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG QUẦN THỂ, MỘT SỐ ĐẶC

ĐIỂM SINH THÁI, TẬP TÍNH CỦA BÒ TÓT (BOS GAURUS)

Ở VƯỜN QUỐC GIA CÁT TIÊN VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP

QUẢN LÝ BẢO TỒN

CChhuuyyêênn nnggàànnhh:: LLââmm ssiinnhh

MMãã ssốố:: 44..0044..0044

LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSỸỸ KKHHOOAA HHỌỌCC LLÂÂMM NNGGHHIIỆỆPP

NNggưườờii hhưướớnngg ddẫẫnn kkhhooaa hhọọcc:: PPGGSS.. TTSS.. NNgguuyyễễnn XXuuâânn ĐĐặặnngg

________HHàà NNộộii,, NNăămm 22000099________

iii

LỜI CẢM ƠN

Hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn Phó giáo sư – Tiến

sĩ Nguyễn Xuân Đặng, Trưởng Phòng Động vật học Có xương sống, Viện

Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã hướng dẫn khoa học tận tình cho tôi.

Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Thạc sĩ Trần Văn Mùi, Nguyên Giám

đốc Vườn Quốc gia Cát Tiên; Ban giám đốc Vườn Quốc gia Cát Tiên; các bạn

bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và

hoàn thành luận văn.

Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu Trường đại học Lâm nghiệp, Ban giám

hiệu Trường Trung học lâm nghiệp 2 (nay là Cơ sở 2 trường Đại học lâm

nghiệp) đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi hoàn thành chương trình học

và luận văn tốt nghiệp. Xin cảm ơn Dự án Bảo tồn Bò Hoang dã Vườn Quốc

gia Cát Tiên (AFD/CIRAD) đã hỗ trợ kinh phí học tập cho tôi. Xin cảm ơn

Quỹ Bảo vệ Môi trường Tự nhiên Nagao (NEF) đã tài trợ cho tôi chi phí

nghiên cứu.

Đặc biệt, tôi xin cảm ơn các nhân viên phòng Khoa học – Kỹ thuật và

Hạt Kiểm lâm Vườn Quốc gia Cát Tiên đã cùng tôi thực hiện các đợt nghiên

cứu thực địa.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người thân trong gia đình,

cha, mẹ và vợ, các anh chị em đã động viên và tạo tất cả các điều kiện thuận

lợi nhất để tôi hoàn thành khóa học và bản luận văn này.

Nguyễn Văn Thanh

iv

Trang

Trang phụ bìa Mục lục DANH MỤC CÁC BẢNG.........................................................................................V DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, BẢN ĐỒ ..................................................................V ĐẶT VẤN ĐỀ.............................................................................................................1 CHƯƠNG 1TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU...............................................3 1.1. Sơ lược đặc điểm sinh học, sinh thái của bò tót..........................................................................3 1.1.1. Đặc điểm nhận dạng ......................................................................................3 1.1.2. Sinh học, sinh thái .........................................................................................4 1.2. Tình trạng của loài bò tót trên Thế giới........................................................................................5 1.3. Tình hình nghiên cứu bảo tồn bò tót ở Việt Nam và Vườn Quốc gia Cát Tiên.....................6 1.3.1. Các nghiên cứu bò tót ở Việt Nam................................................................6 1.3.2. Vùng phân bố của bò tót ở Việt Nam............................................................9 1.3.3. Tình hình nghiên cứu bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên ............................12 1.4. Điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội Vườn Quốc gia Cát Tiên....................................13 1.4.1. Điều kiện tự nhiên .......................................................................................13 1.4.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ............................................................................20 1.4.3. Hệ động vật và thực vật Vườn Quốc gia Cát Tiên ........................................22 CHƯƠNG 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...........................................................................................................................26 2.1. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................................26 2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................................................26 2.3. Nội dung nghiên cứu....................................................................................................................27 2.4. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................................27 CHƯƠNG 3KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ..............................................................36 3.1. Vùng cư trú và cấu trúc quần thể Bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên....................................36 3.1.1. Vùng cư trú..................................................................................................36 3.1.2. Cấu trúc quần thể.........................................................................................40 3.2. Đặc điểm sinh cảnh và sử dụng sinh cảnh của bò tót ..............................................................44 3.2.1. Sinh cảnh sống của bò tót............................................................................44 3.2.2. Nơi kiếm ăn, trú ẩn và hoạt động của bò tót ..................................................45 3.2.3. Nguồn nước uống và điểm khoáng ...............................................................45 3.3. Thức ăn và tập tính ăn, uống của bò tót .....................................................................................48 3.3.1. Loài cây thức ăn...........................................................................................48 3.3.2. Tập tính kiếm ăn ..........................................................................................49 3.3.3. Nhu cầu nước uống và khoáng ....................................................................51 3.4. Một số tập tính hoạt động của bò tót..........................................................................................52 3.4.1. Nhịp điệu hoạt động hàng ngày ..................................................................52 3.4.2. Chu kỳ hoạt động theo mùa .........................................................................52 3.4.3. Tập tính bầy đàn...........................................................................................53 3.4.4. Sinh sản........................................................................................................54

MỤC LỤC

v

3.5. Các mối đe dọa đối với quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên .....................................54 3.5.1. Nhóm đe dọa trực tiếp..................................................................................55 3.5.2. Nhóm đe dọa gián tiếp.................................................................................58 3.6. Một số giải pháp tăng cường quản lý bảo tồn quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên59 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................................64 I. Kết luận...............................................................................................................................................64 II. Kiến nghị...........................................................................................................................................65 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................66 PHỤ LỤC..................................................................................................................71 CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ADN: AFD: CIRAD:

Acid deroxyribonucleic. Cơ quan phát triển Pháp. Trung tâm Hợp tác Quốc tế về nghiên cứu Nông nghiệp cho mục đích phát triển. Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên. Quỹ Bảo vệ Môi trường Tự nhiên Nagao.

IUCN: NEF: UNESCO: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc. UTM: VQG: WWF:

Universal Transverse Mercator Vườn Quốc gia Quỷ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên.

Bảng 1.1. Chỉ tiêu khí hậu ở Vườn Quốc gia Cát Tiên.............................................17 Bảng 1.2. Diện tích và trạng thái rừng ở Vườn Quốc gia Cát Tiên ..............................24 Bảng 3.1. Các điểm ghi nhận bò tót hoạt động theo khu vực ...................................36 Bảng 3.2. Số lượng cá thể và số đàn bò tót theo khu vực .........................................40 Bảng 3.3. Tỷ lệ các dạng đàn bò tót theo khu vực ....................................................42 Bảng 3.4. Cấu trúc tuổi, giới tính của 05 đàn bò tót được quan sát..........................43 Bảng 3.5. Số loài thức ăn của bò tót theo dạng sống thực vật ..................................49 Bảng 3.6. Các mối đe dọa đến quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên..............55

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bản đồ 1.1. Phân bố của bò tót ở Việt Nam trước năm 1999 ...................................11 (Nguồn: Nguyễn Mạnh Hà, 2008) ............................................................................11 Bản đồ 1.2. Bản đồ hành chính Vườn Quốc gia Cát Tiên ........................................15 Bản đồ 3.1. Các vùng cư trú của bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên .........................39 Bản đồ 3.2. Các điểm nước uống cố định của bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên..............47 Biểu đồ 3.2. Các họ thực vật có nhiều loài là thức ăn của bò tót..............................48 Biểu đồ 3.5. So sánh các mối đe dọa tới quần thể bò tót ..........................................55

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, BẢN ĐỒ

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Việt Nam là một trong những nước có nguồn tài nguyên đa dạng sinh

học bậc nhất ở Châu Á, nhờ có những điều kiện khí hậu và địa lý rất đặc biệt,

các hệ sinh thái biển cũng như đất liền của Việt Nam rất đa dạng. Ở Việt Nam

có 4 trung tâm đa dạng sinh học đã được xác định dựa trên những nét đặc thù

về khí hậu và địa lý là: Hoàng Liên Sơn, Bắc Trường Sơn, Tây nguyên và

Đông Nam Bộ.

Các hoạt động thống kê đa dạng sinh học ở Việt Nam đã góp phần phát

hiện và phát hiện lại nhiều loài thú lớn, đưa Việt Nam trở thành một trong

những nước được ưu tiên trên Thế giới về công tác bảo tồn đa dạng sinh học.

Trong tổng số 10 loài thú mới được phát hiện trên Thế giới trong những năm

90, có tới 04 loài được tìm thấy ở Việt Nam, trong đó có 03 loài thú móng

guốc là Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), phát hiện năm 1992; Mang lớn

(Muntiacus vuquangensis), phát hiện năm 1993 và Mang trường sơn

(Muntiacus truongsonensis), phát hiện năm 1997. Ngoài ra, với một tỷ lệ cao

các loài đặc hữu và các loài có nguy cơ đe dọa cao, Việt Nam còn là một

trong những quốc gia có tầm quan trọng đặc biệt trong bảo tồn các loài động

vật quý hiếm của Thế giới.

Vườn Quốc gia Cát Tiên được xem là điểm nóng về đa dạng sinh học ở

Việt Nam và trong khu vực, nổi bật là hệ sinh thái rừng kín ẩm nhiệt đới thường

xanh, độ cao so với mặt nước biển thấp nhất dưới 115m và cao nhất 626m. Vườn

quốc gia Cát Tiên nằm trong hệ thống các Vùng sinh thái Global 2000 của WWF

(các vùng sinh thái có giá trị đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới đồng thời là

những điểm nóng về bảo tồn đa dạng sinh học của thế giới), cũng như trong hệ

thống các Khu dự trữ sinh quyển (Biosphere Reserves) của Chương trình MAB

của UNESCO năm 2001. Nhờ vào sự ưu ái của điều kiện tự nhiên, các dạng sinh

2

cảnh và hiệu quả của các hoạt động bảo tồn, Vườn Quốc gia Cát Tiên đang trở

thành một trong những nơi trú ngụ cuối cùng của nhiều loài thú lớn ở Việt Nam

như tê giác Java, voi Châu Á, bò tót (Bos gaurus) và nhiều loài khác.

Bò tót, ngoài giá trị về mặt kinh tế trong sử dụng sừng, da, lông, thịt làm

thực phẩm, mỹ nghệ và dược liệu, còn có giá trị sinh học nội tại và giá trị di sản

đối với quốc gia, bò tót còn là nguồn gen quan trọng để cải tạo đàn bò nuôi. Đặc

biệt trong tình trạng hiện nay các giống bò nuôi thường dễ mắc các dịch bệnh.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, số lượng bò tót trên cả nước

hiện nay đã giảm xuống rất thấp, khoảng dưới 500 cá thể. Trong đó, ở Vườn

Quốc gia Cát Tiên hiện có một quần thể bò tót với số lượng khoảng 90 - 120 cá

thể, là một trong các quần thể bò tót quan trọng ở Việt Nam. Bò tót là một trong

các loài thú lớn đang bị đe dọa tuyệt chủng cao ở Việt Nam, Sách Đỏ Việt Nam

(2007) xếp bò tót ở cấp độ Nguy cấp (EN). Trên thế giới, Danh lục đỏ IUCN

(2008) xếp ở loài bò tót ở mức độ Sắp bị đe dọa (VU); Bò tót cũng được xếp

trong nhóm IB (nghiêm cấm khai thác và sử dụng vì mục đích thương mại) của

Nghị định 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ.

Đến nay, đã có một số chương trình nghiên cứu về bò tót ở Vườn Quốc

gia Cát Tiên (Ling, 2000; Hayes, 2004; Nguyễn Mạnh Hà, 2007: 2008, ...).

Tuy nhiên, những nghiên cứu này còn tản mản, không có hệ thống, do đó các

thông tin thu được ít hữu ích trong việc bảo tồn loài. Trong khuôn khổ luận

văn cao học, chúng tôi đã chọn thực hiện đề tài: “Nghiên cứu hiện trạng

quần thể, một số đặc điểm sinh thái, tập tính của bò tót (Bos gaurus) ở

Vườn Quốc gia Cát Tiên và đề xuất biện pháp quản lý bảo tồn” nhằm

cung cấp những thông tin một cách toàn diện và hệ thống về tình trạng quần

thể, đặc điểm sinh thái, tập tính của loài bò tót tại Vườn Quốc gia Cát Tiên, từ

đó đề xuất các biện pháp bảo tồn một cách hữu hiệu quần thể bò tót này.

3

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Sơ lược đặc điểm sinh học, sinh thái của bò tót

1.1.1. Đặc điểm nhận dạng

Bò tót (Bos gaurus) là loài thú móng guốc, ngón chẵn, cỡ lớn, có thân

hình to khỏe. Bò tót trưởng thành có đầu to, trán dẹp hơi lõm, có đốm trắng

vàng trên đỉnh; vùng trán giữa 2 sừng nhô cao; cặp sừng rỗng lớn, gốc sừng

to, màu vàng xám và cân đối, uốn cong lên phía trên tạo vòng cung hình bán

nguyệt; mút sừng nhọn đen bóng. Bò tót có bộ lông ngắn và mượt, màu lông

thay đổi theo từng cá thể, từ nâu đen (con đực) và màu nâu vàng (con cái). Ở

phần bụng lông dài hơn, màu nâu nhạt. Mông đen, bốn chân từ kheo trở

xuống bàn chân màu trắng nhạt. Đuôi dài màu đen. Ở điểm chính giữa của hai

gốc sừng có phủ lớp lông dài màu nâu nhạt hoặc xám trắng. Bò tót non mới

sinh màu vàng với đám lông sẩm dọc sống lưng, sau 4 - 5 tháng chuyển dần

sang màu nâu đỏ.

Bò tót đực có u thịt lớn, khá đặc trưng chạy từ gáy đến giữa lưng, được

tạo bởi sự phát triển của gờ đốt sống thứ 3 đến 11. Lớp da ở cổ và trước ngực

dài tạo thành yếm nhỏ. Bò tót cái cũng có u thịt và yếm nhưng không phát

triển như bò tót đực. Bò tót cũng là loài duy nhất trong họ Trâu bò có các

tuyến tiết dầu ở da, có tác dụng để chống côn trùng, ký sinh trùng trên da và

có thể có tác dụng đánh dấu sinh học. Đặc điểm tiết dầu trên da có thể quan

sát rõ ở các cá thể bò tót đực vào mùa khô.

Bò đực trưởng thành có thể đạt khối lượng trên 1.000kg, con cái

thường nhỏ hơn con đực. Các kích thước cơ bản của bò tót như sau: dài thân:

250 - 300cm, đuôi: 70 - 105cm, tai: 30 - 35cm, cao vai: 130 - 180cm.

4

1.1.2. Sinh học, sinh thái

Bò tót thường sinh sống ở các vùng tương đối bằng phẳng, độ cao dưới

1.800m, trong các kiểu rừng khác nhau (rừng khộp, rừng thường xanh, rừng hỗn

giao tre nứa, … ) và khu vực đồng cỏ (Schaller, 1967). Chúng hoạt động trong

nhiều kiểu sinh cảnh khác nhau và có xu hướng sinh sống thường xuyên hơn trong

các khu rừng thường xanh và những khu vực cao hơn vào mùa khô

(Prayurasiddhi, 1997). Vùng đất ven rừng, ven dòng nước, trong đó có những bãi

cỏ mọc sau khi bị đốt cháy là những nơi bò tót đến kiếm ăn thường xuyên nhất.

Bò tót có thể sống trong vùng sinh cảnh bị suy thoái do hoạt động của

con người. Chúng thường kiếm ăn trong khu vực canh tác của người dân. Bò

tót ăn đồng thời cả cỏ và lá cây. Chúng ăn lá cây nhiều hơn các loài bò hoang

dã khác. Thức ăn của bò tót chủ yếu là cỏ, mầm lá non của lau sậy, chuối rừng,

măng non tre nứa, dương xỉ và lá cây. Măng tre là một trong những thức ăn

thường xuyên nhất của bò tót vào mùa mưa ở Thái Lan (Prayurasiddhi, 1997).

Nguồn nước đảm bảo quanh năm là yếu tố rất quan trọng cho loài này.

Nói chung, bò tót không đi xa nguồn nước quá một ngày đường (Conry,

1981). Các điểm khoáng và suối giàu khoáng là những yếu tố rất quan trọng

đối với bò tót. Phạm vi sinh sống của bò tót thay đổi theo giới tính, theo mùa, theo từng khu vực và quy mô đàn, dao động từ 27km2- 137km2 ở Malaixia

(Conry, 1989). Phạm vi vùng hoạt động của bò tót vào mùa mưa rộng hơn vào

mùa khô và đàn lớn có phạm vi hoạt động hàng năm rộng hơn đàn nhỏ. Tuy

nhiên, phạm vi di chuyển mỗi ngày của bò tót lại không thay đổi giữa mùa

khô và mùa mưa và chỉ khoảng 3 km/ngày (Prayurasiddhi, 1997).

Thời điểm bò tót hoạt động nhiều là ban đêm. Ban ngày, chúng nằm

nhai lại thức ăn ở nơi quang đảng trong rừng hoặc trong những khu vực có cỏ

cao. Bò tót sống thành từng đàn từ 3 - 40 cá thể. Trong đàn có con đực, con

5

cái trưởng thành, con bán trưởng thành (gần trưởng thành) và con non. Cơ cấu

đàn không thay đổi theo mùa. Trong đàn, mỗi cá thể có một vị trí riêng và vị

trí thống trị được phân hạng bằng cách đánh nhau (Thomas, 1996). Khi con

cái già nhất rời đàn đi kiếm ăn thì những con đực thống trị giữ vai trò bảo vệ

cả đàn (Prayurasiddhi, 1997). Vị trí thống trị đàn được phân định bằng kích

cỡ cơ thể (Schaller, 1967; Thomas, 1996). Đôi khi, đàn bò tót đi kiếm ăn cùng

với nai (Cervus unicolor). Khi bị tấn công những con đực khoẻ mạnh quây

thành vòng tròn bảo vệ cho con non và con già ở giữa.

Bò tót cái động dục và sinh sản vào bất kỳ thời điểm nào trong năm,

nhưng có thời điểm sinh sản nhiều nhất vào tháng 6 – 7 và phụ thuộc vào điều

kiện môi trường. Mỗi lứa bò tót chỉ đẻ một con, thời gian mang thai khoảng

270 – 290 ngày. Tuổi đời tối đa của cá thể nuôi nhốt là 24 năm (Thomas,

1996). Có rất nhiều loài thú ăn thịt săn bắt bò tót mới sinh và con non như hổ

(Panthera tigris), báo hoa mai (Panthera pardus), báo gấm (Neofelis

nebulosa), sói đỏ (Cuon alpinus),.. nhưng chỉ có hổ là đủ dũng mãnh để có

thể giết được những con bò tót trưởng thành.

1.2. Tình trạng của loài bò tót trên Thế giới

Theo Danh lục Đỏ của IUCN (2008), trên Thế giới bò tót phân bố tự

nhiên ở các nước Nepan, Băngladesh, Butan, Ấn Độ, Myanma, Lào,

Cămpuchia, Thái Lan, Trung Quốc, Malaixia và Việt Nam. Nhưng ngày nay

số lượng bò tót trên thế giới còn lại ước tính từ 13.000 đến 30.000 cá thể và

hiện đang suy giảm nghiêm trọng do sự gia tăng dân số cao ở khu vực Đông

Nam Á. Nguyên nhân chính khiến số lượng bò tót suy giảm như vậy là do nạn

săn bắn, tình trạng phá hoại sinh cảnh, cạnh tranh nguồn thức ăn và nguy cơ

lây bệnh từ bò nuôi. Ví dụ, số lượng bò tót ở Thái lan đã giảm tới 60% chỉ

trong vòng 20 năm qua (Srikosamatara và Suteethorn, 1995). Nạn săn bắn bò

6

tót lấy sừng bán (vì sừng được coi là biểu tượng của uy quyền) là nguyên

nhân chính dẫn tới sự suy giảm số lượng các quần thể còn sót lại.

Bò tót được đánh giá là đang bị đe dọa ở mức độ toàn cầu, Danh lục Đỏ

IUCN, 2008 xếp bò tót ở mức độ Sắp bị đe dọa (VU). Do vậy, các chương

trình bảo tồn nội vi (in situ) và ngoại vi (ex situ) đối với loài bò tót hiện nay là

rất cần thiết. Tuy nhiên, việc bảo tồn ngoại vi chỉ có thể áp dụng với các quần

thể rất nhỏ và vì vậy sẽ có nguy cơ đồng huyết cao.

1.3. Tình hình nghiên cứu bảo tồn bò tót ở Việt Nam và Vườn Quốc gia

Cát Tiên

1.3.1. Các nghiên cứu bò tót ở Việt Nam

Ở Việt Nam, các nghiên cứu liên quan đến bò tót được quan tâm từ lâu

và gắn liền với các giai đoạn lịch sử chủ yếu của đất nước.

• Giai đoạn trước năm 1954

Các nghiên cứu liên quan đến bò tót ở Việt Nam được bắt đầu sau khi

người Pháp đến Đông Dương (cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20). Trong thời gian

này, các nghiên cứu được các nhà nghiên cứu và thám hiểm nước ngoài thực

hiện như Pháp, Anh và Mỹ. Các nghiên cứu được thực hiện chung cho nhiều

nhóm động vật, chủ yếu về phân loại học và thu mẫu cho các bảo tàng như: Bảo

tàng Lịch sử Tự nhiên Pari, Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Luân Đôn, Bảo tàng Lịch

sử Tự nhiên Hoa Kỳ và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Field, Chicago.

Các kết quả điều tra và thu mẫu đã được công bố trong các công trình

của các tác giả như De Pousargues (1904), Bonhote (1907), Kloss (1916),

Robinson & Kloss (1922), Thomas (1927:1928), Bourret (1927:1942),

Osgood (1932) và Delacour (1940). Tuy nhiên, rất ít các thông tin về bò tót

được nêu trong các báo cáo, kết quả nghiên cứu ở giai đoạn này. Các thông

tin chủ yếu ở dạng liệt kê các mẫu động vật thu thập được ở vùng Đông

7

Dương. Ngoài ra, có một số sách viết về hoạt động săn bắn thú lớn ở Đông

Dương, trong đó có các thông tin chung về bò tót cũng được một số tác giả

như De Monestrol (1952), Demariaux (1949), Fraisse (1954) xuất bản. Các

thông tin về phân bố và nguồn gốc mẫu vật thu được ở Việt Nam trong thời

kỳ này chỉ được ghi nhận theo các vùng như: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ,

mà không theo địa phương cụ thể như tỉnh hoặc chi tiết hơn, nên khó xác định

vùng phân bố thực sự của bò tót.

• Giai đoạn năm 1954 – 1975

Đây là giai đoạn đất nước trong thời kỳ chiến tranh, do vậy các nghiên

cứu chủ yếu được các nhà khoa học Việt Nam thực hiện ở miền Bắc. Các

nghiên cứu được thực hiện chung cho nhiều nhóm động vật, không có nghiên

cứu chuyên khảo cho bò tót. Cũng như trước năm 1954, rất ít các thông tin về

bò tót trong các nghiên cứu ở giai đoạn 1954 - 1975. Tuy nhiên, một số thông

tin về phân bố của bò tót có nêu trong các báo cáo không xuất bản về kết quả

điều tra động vật ở miền Bắc.

Ở phía Nam, nghiên cứu về thú móng guốc và bò tót hầu như không

được thực hiện do chiến tranh. Chỉ có Van Peenen et al. (1969) đề cập thông

tin về thú ở các tỉnh phía Nam trong giai đoạn này là thông tin về phân bố của

bò tót ở Tây Nguyên và Bình Phước.

• Giai đoạn năm 1975 đến nay

Đặng Huy Huỳnh và cộng sự (1981), trong nghiên cứu “Kết quả điều

tra nguồn lợi thú miền Bắc Việt Nam (1962-1976)”. Các tác giả đã ghi nhận

được một số vùng phân bố của bò tót ở phía Bắc như các tỉnh Lai Châu,

Thanh Hóa và Nghệ An.

Đặng Huy Huỳnh và cộng sự (1982), trong công trình “Khu hệ thú

(Mammalia) ở Tây Nguyên” đã nêu thành phần loài, tiềm năng và giá trị

8

kinh tế, bảo tồn của thú lớn và bò tót ở Tây Nguyên.

Đặng Huy Huỳnh (1986) trong tài liệu “Sinh học và sinh thái các loài thú

Móng guốc ở Việt Nam” lần đầu tiên các thông tin về sinh học và sinh thái của

bò tót ở Việt Nam được đề cập. Đây là công trình nghiên cứu đầy đủ nhất về bò

tót được thực hiện trong giai đoạn này.

Trần Hồng Việt (1986), trong công trình “Thú hoang dại vùng Sa Thầy

(Gia Lai - Kon Tum) và ý nghĩa kinh tế của chúng” nêu thành phần loài, tiềm

năng và giá trị kinh tế, bảo tồn của thú lớn và bò tót ở Gia Lai – Kon Tom.

Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu về thú ở các tỉnh và các

vùng thuộc Tây Nguyên cũng có ghi nhận những thông tin về bò tót. Đây là

các nghiên cứu chung cho nhiều loài thú, các thông tin về bò tót chỉ rất đơn

giản như ghi nhận sự có mặt, đánh giá về giá trị kinh tế và giá trị bảo tồn.

Đặng Huy Huỳnh và Lê Xuân Cảnh (1986), trong công trình “Bước

đầu thử tính toán 3 loài thú móng guốc ở hệ sinh thái rừng ẩm nhiệt đới Kon

Hà Nừng (Gia Lai - Kon Tum)” đã thử áp dụng một số phương pháp điều tra

và tính mật độ của thú móng guốc lớn cho khu vực Kon Hà Nừng (Gia Lai).

Đặng Huy Huỳnh và Hoàng Minh Khiên (1987) trong công trình “Nhu

cầu dinh dưỡng và khả năng cung cấp thức ăn cho 3 loài thú móng guốc

trong hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm thường xanh” đã bước đầu tính toán nhu

cầu dinh dưỡng và khả năng cung cấp thức ăn của hệ sinh thái vùng Kon Hà

Nừng cho 3 loài thú móng guốc, trong đó có bò tót.

Lê Xuân Cảnh và cộng sự (1997) trong nghiên cứu về thú lớn ở tỉnh

Đắk Lắk đã đưa ra một số thông tin về quần thể, phân bố của bò tót ở 3 khu

vực là Yok Đôn, Ea Súp và Ea Sô, cùng một số quan sát bước đầu về sinh thái

của bò tót. Các tác giả đã xác định khu vực Yok Đôn, Ea Súp và Ea Sô là các

vùng phân bố quan trọng của bò tót và bò rừng ở Việt Nam.

9

Từ năm 1994 đến nay, có 4 Danh lục thú của Việt Nam được xuất bản,

trong đó có các thông tin về phân bố của bò tót. Đặng Huy Huỳnh và cộng sự

(1994) với“Danh lục các loài thú (Mammalia) Việt Nam” ; Lê Vũ Khôi

(2000) với “Danh lục các loài thú ở Việt Nam”; Đặng Ngọc Cần và cộng sự

(2008) “Danh lục các loài thú (Mammalia) hoang dã ở Việt Nam” và Nguyễn

Xuân Đặng và Lê Xuân Cảnh (2009) với "Danh lục các loài thú Việt Nam"

trong "Phân loại học lớp Thú (Mammalia) và đặc điểm khu hệ thú hoang dã

Việt Nam". Nhiều vùng phân bố và thông tin về quần thể của bò tót được nêu

trong các công trình trên. Tuy nhiên, có nhiều khu vực phân bố của bò tót

chưa được cập nhật đầy đủ trong các tài liệu này.

Nguyễn Mạnh Hà (2008), trong tài liệu “Nghiên cứu một số đặc điểm

sinh học-sinh thái và bảo tồn loài bò tót (Bos gaurus Smith, 1827) ở Việt

Nam” đã xác định vùng phân bố, ước tính số lượng cá thể, thành phần loài

cây thức ăn, một số đặc điểm sinh thái, di truyền và đánh giá các mối đe dọa

đối với bò tót ở Việt Nam. Đây là công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ và

mới nhất về bò tót ở Việt Nam hiện nay.

Ngoài các nghiên cứu nêu trên, còn có một số kết quả điều tra, nghiên

cứu về thú được thực hiện ở các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên,

nhưng là các nghiên cứu chuyên đề, báo cáo nhanh và các bản luận chứng

kinh tế kỹ thuật xây dựng các khu rừng đặc dụng.

1.3.2. Vùng phân bố của bò tót ở Việt Nam

Theo Nguyễn Mạnh Hà (2008), hiện nay ở Việt Nam bò tót còn ghi

nhận được ở 27 khu vực thuộc 15 tỉnh theo 04 khu vực sau:

1. Tây Bắc - Điện Biên: Mường Nhé (Mường Tè).

2. Bắc Trung Bộ - Thanh Hóa: Pù Hu (Mường Lát), Xuân Liên

(Thường Xuân); Nghệ An: Pù Hoạt (Quế Phong), Pù Mát (Con Cuông); Hà

10

Tĩnh: Vũ Quang (Vũ Quang); Quảng Bình: Thượng Hóa (Minh Hóa), U Bò

(Quảng Ninh); Quảng Trị: Vĩnh Ô (Vĩnh Linh), Triệu Nguyên (ĐaKrông), Sa

Mù (Hướng Hoá).

3. Tây Nguyên - Kon Tum: Chư Mom Rây (Sa Thầy); Gia Lai: Chư

Prông; Đắk Lắk: Yok Đôn (Buôn Đôn, Cư Jút), Ea Súp, Ea Sô (Ea Kar), Chư

Yang Sin (Krông Bông, Lắc); Đắk Nông: Tà Đùng (Đắk R’lấp), Nam Nung

(Đak Min); Lâm Đồng: Bi Đúp - Núi Bà (Lạc Dương), Bảo Lộc, Cát Lộc.

4. Đông Nam Bộ - Bình Phước: Tân Lập, Nghĩa Trung (Đồng Phú), Bù

Gia Mập (Phước Long), Lộc Ninh; Đồng Nai: Cát Tiên (Tân Phú), Vĩnh Cửu,

La Ngà; Ninh Thuận: Phước Bình (Bắc Ái), Ninh Sơn.

Như vậy, vùng phân bố hiện nay của bò tót ở Việt Nam có giới hạn cực Bắc ở vĩ tuyến 22024’10” tại Mường Nhé (Điện Biên); giới hạn cực Đông Nam là vĩ tuyến 11007’52” tại Vĩnh Cửu (Đồng Nai); và giới hạn ở cực Tây Nam là vĩ tuyến 11040’54” ở Lộc Ninh (Bình Phước).

11

Bản đồ 1.1. Phân bố của bò tót ở Việt Nam trước năm 1999

(Nguồn: Nguyễn Mạnh Hà, 2008)

12

Với số lượng cá thể bò tót hiện tại khoảng 344 cá thể, đã giảm 32 - 45%

so với số lượng đã ước tính trước năm 2000 (489 - 630). Sự suy giảm cá thể theo

vùng địa lý cho thấy các khu vực có tốc độ suy giảm mạnh là: Nam Trung Bộ

(100%), Tây Bắc (81%) và Tây Nguyên (39 - 61%) (Nguyễn Mạnh Hà, 2008).

Với số lượng cá thể (344) và tồn tại ở dạng các đàn nhỏ như hiện nay

quần thể bò tót ở Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị đe tiêu diệt rất cao.

Sách Đỏ Việt Nam (2007) xếp bò tót ở cấp độ Nguy cấp (EN). Bò tót cũng

được xếp trong nhóm IB (nghiêm cấm khai thác và sử dụng vì mục đích

thương mại) trong Nghị định 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ.

1.3.3. Tình hình nghiên cứu bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên

Ở Vườn Quốc gia Cát Tiên đã có một số nghiên cứu sau liên quan đến

bò tót như:

Ling, S.D (2000), Điều tra bò hoang dã và các loài động vật có vú,

Vườn quốc gia Cát Tiên, Việt Nam. Dự án bảo tồn Vườn quốc gia Cát Tiên,

Đồng Nai, Việt Nam.

Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Vườn Quốc gia Cát Tiên

(2001), Báo cáo kết quả bước đầu điều tra xây dựng danh lục động vật hoang

dã (thú, chim, bò sát, ếch nhái) ở Vườn Quốc gia Cát Tiên.

David Murphy (2001), Quan sát động vật có vú ở Vườn quốc gia Cát Tiên,

Việt Nam 2000 – 2001. Dự án bảo tồn Vườn Quốc gia Cát Tiên, báo cáo số 35.

Hayes, B. (2004), Điều tra bò hoang dã ở Vườn quốc gia Cát Tiên -

Việt Nam. Báo cáo kỹ thuật số 47, WWF - Dự án bảo tồn Vườn quốc gia Cát

Tiên, Việt Nam.

David Murphy (2004), Hiện trạng và Bảo tồn của Tê giác Java, Cá sấu

nước ngọt, chim họ trĩ và Bò tót ở Vườn quốc gia Cát Tiên, Việt Nam, Dự án

13

Bảo tồn Vườn Quốc gia Cát Tiên, Báo cáo số 50.

Nguyễn Mạnh Hà (2007), Đánh giá quần thể bò tót (Bos gaurus) và Bò

rừng (Bos javanicus) ở Vườn Quốc gia Cát Tiên và Khu bảo tồn thiên nhiên,

miền Nam Việt Nam. Trung tâm tài nguyên môi trường/Qũy bảo vệ môi

trường tự nhiên Nagao.

Các nghiên cứu trên tản mạn và chỉ tập trung vào việc phát hiện nơi cư

trú và vùng hoạt động của bò tót, phát hiện các tác động tiêu cực đến quần thể

bò tót. Chưa có các nghiên cứu chuyên sâu về hiện trạng và các đặc điểm sinh

học sinh thái của loài và sinh cảnh.

1.4. Điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội Vườn Quốc gia Cát Tiên

1.4.1. Điều kiện tự nhiên

• Vị trí địa lý

Vườn Quốc gia Cát Tiên nằm về phía Đông Bắc của tỉnh Đồng Nai,

cách Thành Phố Hồ Chí Minh 150km theo quốc lộ 20, trên địa bàn 03 tỉnh

Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phước.

- Toạ độ địa lý:

Vĩ độ Bắc:

Kinh độ Đông: 11020’50” đến 11050’20” 107009’05” đến 107035’20”

- Phạm vi ranh giới:

Phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Đắk Nông và tỉnh Bình Phước.

Phía Nam có ranh giới là đường 323, giáp Công ty lâm nghiệp

La Ngà, tỉnh Đồng Nai.

Phía Đông giáp với tỉnh Lâm Đồng.

Phía Tây giáp với Khu bảo tồn Thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu

(Đồng Nai).

14

• Diện tích

Vườn Quốc gia Cát Tiên bao gồm 2 vùng riêng biệt:

- Phần Phía Bắc (Cát Lộc) nằm ở huyện Bảo lâm và Cát Tiên tỉnh Lâm

Đồng.

- Phần Phía Nam (Nam Cát Tiên) nằm ở huyện Tân Phú, Vĩnh Cửu tỉnh

Đồng Nai, Bù Đăng tỉnh Bình Phước.

Tổng diện tích của Vườn là 71.350 ha, được chia thành 3 phân khu:

- Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt (35.448ha).

- Phân khu phục hồi sinh thái (34.102ha).

- Phân khu hành chính dịch vụ (1.800ha).

Diện tích vùng đệm là 252.015ha.

15

Bản đồ 1.2. Bản đồ hành chính Vườn Quốc gia Cát Tiên

16

• Địa hình

Vườn Quốc gia Cát Tiên nằm trong vùng địa hình chuyển tiếp từ cao

nguyên Nam Trung bộ đến Đồng bằng Nam bộ, bao gồm các kiểu địa hình

đặc trưng của phần cuối dãy Trường Sơn và địa hình vùng Đông Nam bộ, có

05 kiểu địa hình chính:

- Kiểu địa hình núi cao, sườn dốc: Chủ yếu ở phía Bắc Vườn Quốc gia Cát Tiên. Độ cao so với mặt nước biển từ 200 - 600m, độ dốc 15o-20o, có nơi trên 30o. Địa hình bao gồm các dạng sườn dốc, phân bố giữa thung lũng sông,

suối và đỉnh bào mòn. Mức độ chia cắt sâu phức tạp, là đầu nguồn của các

suối nhỏ chảy vào sông Đồng Nai.

- Kiểu địa hình trung bình sườn dốc ít: ở phía Tây Nam Vườn Quốc gia Cát Tiên. Độ cao so với mặt nước biển từ 200 - 300m, độ dốc 15o - 20o. Đây

là vùng thượng nguồn của nhiều con suối lớn chảy ra sông Đồng Nai như suối

Đaklua, Datapok.

- Kiểu địa hình đồi thấp, bằng phẳng: ở phía Đông Nam Vườn Quốc gia Cát

Tiên . Độ cao so với mặt nước biển từ 130 - 150m, độ dốc 5 - 70. Độ chia cắt thưa.

- Kiểu địa hình bậc thềm sông Đồng Nai và dạng đồi bát úp tiếp giáp

đầm hồ: Độ cao so với mặt nước biển 130m, chạy dọc theo sông Đồng Nai và

vùng ven sông Đồng Nai phía Tây Bắc Vườn từ khu vực giáp ranh Bình

Phước - Đồng Nai đến Tà Lài, bề rộng khoảng 1.000m.

- Kiểu địa hình thềm suối xen kẽ với hồ đầm: Độ cao so với mực nước

biển thấp hơn 130m, như các bầu nước: Bàu Cá, Bàu Chim, Bàu Sấu.

Toàn bộ Vườn Quốc gia Cát Tiên có cấu trúc địa hình mang đặc trưng

của kiểu địa hình chuyển tiếp từ cao nguyên cực Nam Trung Bộ đến đồng

17

bằng Nam Bộ và mang đặc trưng của các kiểu địa hình phần cuối dãy Trường

Sơn và miền Đông Nam Bộ.

• Địa chất

Cấu trúc địa chất của Vườn Quốc gia Cát Tiên nguyên là sa phiến

thạch, quá trình hoạt động của núi lửa thuộc vùng cao nguyên mà những phần

thấp của khu vực đã bị phủ lấp của lớp đá bazan. Cùng với quá trình phun trào

phủ lấp là quá trình bào mòn, bồi tụ đã tạo nên một lớp phù sa suối, phù sa

sông, quá trình diễn biến niên đại tiếp theo đã tạo ra địa hình Vườn Quốc gia

Cát Tiên ngày nay. Từ nền địa chất với 03 kiến tạo chính là: Trầm tích, Bazan

và Sa phiến thạch đã phát triển thành 04 loại đất chính là:

- Đất feralit phát triển trên đá bazan (Fk).

- Đất feralit phát triển trên đá cát (Fq).

- Đất feralit phát triển trên phù sa cổ (Fo).

- Đất feralit phát triển trên phiến sét (Fs).

• Chế độ nhiệt

Vườn Quốc gia Cát Tiên nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa

rõ rệt. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau và mùa mưa từ tháng 5 đến

tháng 10.

Bảng 1.1. Chỉ tiêu khí hậu ở Vườn Quốc gia Cát Tiên

TT Mô tả Vùng Cát Lộc Vùng Cát Tiên

1 Nhiệt độ trung bình năm (oC) 21,7 26,5

2 Nhiệt độ trung bình cao nhất (oC) 23,0 28,6

3 Nhiệt độ trung bình thấp nhất (oC) 21,1 20,5

18

4 Lượng mưa trung bình hàng năm (mm) 2.675 2.175

5 Lượng mưa trung bình tháng cao nhất (mm) 494,8 368

6 Lượng mưa trung bình tháng thấp nhất (mm) 23,8 11

7 Số ngày mưa trung bình hằng năm (ngày) 182 145

8 Độ ẩm trung bình hằng năm (%) 87 82

10 8 9 Thời gian mưa trung bình trong mùa mưa (tháng)

97,4 88,3 10 Lượng mưa mùa mưa / lượng mưa hàng năm (%)

• Chế độ thuỷ văn

Điều kiện thủy văn ở Vườn Quốc gia Cát Tiên phụ thuộc hoàn toàn vào

chế độ dòng chảy của sông Đồng Nai và các hệ thống suối, các bàu nước.

Hệ thống sông Đồng Nai có diện tích lưu vực sông 40.800km2 gồm địa

phận các tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, Long An, Thành

Phố Hồ Chí Minh và một phần địa phận các tỉnh Đắk Nông và Bình Thuận. Phía

Bắc của lưu vực sông Đồng Nai giáp với lưu vực sông Xrê-pốc, phía Tây Nam

và Nam giáp với đồng bằng sông Cửu Long. Sông Đồng Nai là sông đứng thứ

ba ở Việt Nam sau sông Mê Kông và sông Hồng về chiều dài và diện tích lưu

vực sông.

Hệ thống sông Đồng Nai gồm sông Đồng Nai là dòng chính và các sông

nhánh là sông La Ngà, sông Bé, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ. Sông Đồng

Nai bắt nguồn từ dãy núi Lâm Viên, Bi Doup trên cao nguyên Lang Biang, tỉnh

Lâm Đồng, có chiều dài 635km, đổ ra biển tại cửa Soài Rạp và cửa Lòng Tàu.

Trong hệ thống sông Đồng Nai có nhiều hồ chứa nhân tạo như hồ Trị An, hồ

Thác Mơ, hồ Dầu Tiếng, hồ Hàm Thuận – Đa Mi, hồ Đơn Dương.

19

Sông Đồng Nai chảy qua Vườn Quốc gia Cát Tiên dài khoảng 90km

làm thành ranh giới tự nhiên bao bọc 1/3 chu vi của Vườn về phía Bắc, phía

Tây và phía Đông. Các suối lớn nhỏ trong Vườn đều chảy ra sông Đồng Nai.

Đoạn sông Đồng Nai ở Vườn Quốc gia Cát Tiên rộng trung bình khoảng 100m, lưu lượng nước bình quân khoảng 405m3/giây. Mực nước cao nhất 8,03m,

mực nước trung bình 5m. Mùa kiệt 2 - 3m.

Suối Đắk Lua là suối lớn nhất bắt nguồn từ vùng núi có cao độ khoảng

350m, nằm ở ranh giới phía Nam của tỉnh Bình Phước. Suối có nước quanh

năm, chảy theo hướng Đông Nam và đổ ra sông Đồng Nai. Ngoài việc thoát

nước từ các bàu ra sông, trong những năm nước lớn suối Đắk Lua còn đưa

nước từ sông Đồng Nai vào các bàu trong khoảng 30 ngày/năm vào những

tháng mùa nước (thường là vào tháng 10 – 11).

Vào mùa mưa, suối Đắk Lua trở thành cầu nối giữa sông Đồng Nai với

các vùng đất ngập nước trong Vườn Quốc gia làm cho vùng lưu vực này trở

thành hệ sinh thái đất ngập nước mở. Điều này rất quan trọng bởi vì một số

lượng lớn phù sa và sinh vật thủy sinh sẽ vào sâu trong nội địa các bàu, cung

cấp dinh dưỡng cho hệ sinh thái này. Các bàu liên thông với nhau và nối với

suối Đắk Lua và qua đó nối với hệ thống các bàu ở phía Bắc của suối này

(Bàu C4, Bàu Thái, Bàu Ngang, và một phần đất trũng của suối Đắk Lua).

Vào mùa khô, nước rút ra sông Đồng Nai qua con suối Đắk Lua, nước

ở các Bàu Cá Trê, Bàu Sen, Bàu Tròn, và có khi cả Bàu Chim gần như cạn

kiệt. Các bàu còn nước như Bàu Sấu, Bàu Gốc, Bàu Thái Bình Dương có mức

nước rất thấp (khoảng 0,5 – 1m). Ở các vùng bán ngập hình thành các sinh

cảnh đồng cỏ hấp dẫn các loài thú móng guốc như bò tót, nai, heo rừng, ....

Vào mùa này các suối cạn (suối treo) cũng hầu như không có nước và các bàu

20

không thông với nhau. Biên độ nước chênh lệch cực đại giữa mùa khô và mùa

mưa khoảng 4m.

Nguồn nước vào các bàu ngoài lượng mưa trực tiếp tại chỗ còn có

nguồn nước trên lưu vực thượng nguồn của suối Đắk Lua. Những năm mưa

nhiều, khu vực này còn chịu ảnh hưởng trực tiếp nguồn nước từ thượng nguồn

sông Đồng Nai, gây ngập lụt trong phạm vi tương đối lớn và kéo dài.

Suối Đắk Lua có vai trò rất lớn đến chế độ thủy văn của các bàu và chế

độ thông thương trong trao đổi nước và vật chất giữa chúng. Điều đó đã đảm

bảo cho sự tồn tại và phát triển của hệ thống bàu và toàn bộ vùng đất ngập

nước Vườn Quốc gia Cát Tiên.

1.4.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

• Dân số

Vườn Quốc gia Cát Tiên có vùng đệm tương đối rộng, với diện tích

252.015ha, gồm 36 xã, thị trấn của 8 huyện thuộc 4 tỉnh: Đồng Nai, Lâm

Đồng, Bình Phước và Đắk Nông. Theo số liệu thống kê năm 2000, có khoảng

17 vạn người đang cư trú và sinh sống trong vùng đệm Vườn Quốc gia Cát

Tiên. Dân số chủ yếu từ nơi khác chuyển đến, tập trung trong khoảng thời

gian từ năm 1990 - 1998.

Theo số liệu điều tra dân số năm 2005, hiện trong vùng lõi Vườn Quốc gia

Cát Tiên có 834 hộ, 3.947 khẩu đang sinh sống và canh tác, trong đó có 131 hộ, 634

khẩu là người Kinh, các hộ này thường sang nhượng đất của đồng bào thiểu số để

canh tác, đồng thời làm dịch vụ cho đồng bào như cung cấp vật tư, nhu yếu phẩm,

thậm chí cho vay, mua lại những hàng hoá do đồng bào sản xuất với giá rẻ.

• Canh tác

21

- Nông nghiệp là hoạt động kinh tế chính của người dân sống trong

Vườn, chiếm khoảng 95- 98%. Đa số người Kinh có tập quán canh tác lúa

nước. Theo thống kê, có khoảng 1.816,9ha lúa nước đang được canh tác trong

Vườn Quốc gia Cát Tiên. Trong khi đó, phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số

trong vùng có tập quán du canh, du cư, phát rừng làm rẫy, kỹ thuật canh tác

lạc hậu. Người Kinh và một số nhóm đồng bào dân tộc thiểu số như Tày,

Nùng có kinh nghiệm làm vườn nhà, trồng các loại cây ăn trái, rau, củ, cây

thuốc, kết hợp với chăn nuôi gia súc trong chuồng và nuôi cá. Ngoài sản xuất

lương thực (lúa, bắp), người dân còn trồng các loại cây công nghiệp như điều,

tiêu, dâu tằm.

- Hình thức chăn nuôi chủ yếu vẫn là chăn nuôi hộ gia đình theo hình thức

quảng canh, tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên, phụ phẩm nông nghiệp (từ trồng

trọt) và tận dụng lao động nhàn rỗi. Vật nuôi chính là gia súc, gia cầm.

• Thu nhập và đời sống

Thu nhập của người dân địa phương thấp, chủ yếu dựa vào nông nghiệp,

trong đó trồng trọt chiếm từ 60 – 80% tổng thu nhập, năng suất thấp, bình quân

từ 150 – 200kg/ha (năm 2001). Ở Phước Cát 2, chỉ đạt khoảng 75.000 –

80.000đ/tháng. Tại Gia Viễn là 127.000đ/tháng. Tà Lài là 170.000đ/tháng. Đắk

Lua có mức thu nhập cao hơn nhưng cũng chỉ đạt khoảng 190.000đ/tháng. Tỷ lệ

hộ thuộc diện đói nghèo trong vùng cao, chiếm khoảng 30% .

• Y tế và giáo dục

Các phương tiện giáo dục và y tế ở hầu hết các thôn và cộng đồng sống

trong Vườn đều thiếu thốn. Mỗi xã có một trạm xá, thường là nhà cấp 4, thiết

bị, phương tiện nghèo nàn, lực lượng cán bộ y tế địa phương còn yếu và thiếu.

Những bệnh thông thường là sốt rét, bệnh phổi, bướu cổ, tiêu hóa kém, các

bệnh ngoài da và mắt đỏ.

22

Một số thôn có 1 đến 3 lớp tiểu học, nhưng các thiết bị, phương tiện

giáo dục còn thiếu. Cả xã và thôn trong Vườn đã cố gắng xóa mù chữ nhưng

có thôn đến 80 – 90% người dân vẫn không biết chữ.

• Giao thông

Nhìn chung cơ sở hạ tầng giao thông và mạng lưới đường xá trong vùng

kém phát triển, nhiều đoạn đường chỉ đi lại được vào mùa khô. Tuy nhiên đến

các thôn đi bằng xe máy đều được. Có những đường mòn đến các thôn rất sâu

trong rừng như thôn 4, thung Cọ. Việc sử dụng các đường mòn trong rừng có tác

động rất lớn đến sinh cảnh của các loài động vật hoang dã như tiến nổ của động

cơ xe máy, người đi qua lại và gây phân cách về mặt sinh thái (PRA, 2002).

1.4.3. Hệ động vật và thực vật Vườn Quốc gia Cát Tiên

• Hệ thực vật

Vườn Quốc gia Cát Tiên nằm giữa hai vùng sinh học địa lý chuyển tiếp

từ vùng cao nguyên Trường Sơn xuống vùng đồng bằng Nam Bộ, do vậy hội tụ

các luồng hệ thực vật, hệ động vật phong phú, đa dạng, đặc trưng cho hệ sinh

thái rừng ẩm nhiệt đới thường xanh của các tỉnh Đông Nam Bộ, Việt Nam.

Với thành phần gồm các loài ưu thế thuộc họ Sao Dầu

(Dipterocarpaceae), họ Đậu (Fabaceae) và họ Tử vi (Lythraceae). Cho đến

nay Vườn Quốc gia Cát Tiên đã xác định được 1.610 loài, 75 bộ, 162 họ, 724

chi. Trong đó: Cây gỗ lớn: 176 loài; Cây gỗ nhỏ: 335 loài; Cây tiểu mộc

(bụi): 345 loài; Thảm tươi: 311 loài; Dây leo: 238 loài; Thực vật phụ sinh, ký

sinh: 143 loài; Khuyết thực vật: 62 loài.

Các loài cây quí hiếm: gồm có 38 loài thuộc 13 họ: như gõ đỏ (Afzelia

xylocarpa), cẩm lai (Dalbergia sp.), dáng hương (Pterocarpus macrocarpus),

gõ mật (Sindora siamensis), cẩm thị (Diospyros maritima), căm xe (Xylia

xylocarpa),... có trên trong sách Đỏ Việt Nam năm 2007.

23

Nguồn gen đặc hữu bản địa: 22 loài thuộc 12 họ, như thiên thiên Đồng

Nai, vệ tuyền ngọt,... thuộc họ Thiên lý.

Rừng ở Vườn Quốc gia Cát Tiên được chia làm 5 kiểu chính:

- Rừng lá rộng thường xanh: Ưu thế là các loài cây gỗ thuộc họ Dầu

(Dipterocarpaceae) như dầu rái (Dipterocarpus alatus), dầu lông (D. intricatus),

cẩm lai Bà Rịa (Dalbergia bariensis), cẩm lai vú (D. mammosa), gõ đỏ (Afzelia

xylocarpa), dáng hương (Pterocarpus macrocarpus), ...

- Rừng lá rộng nữa rụng lá: Thành phần các loài cây gỗ rụng lá từng phần

trong mùa khô như bằng lăng (Lagerstroemia calyculata), tung (Tetrameles

nudiflora), râm (Anogeissus acuminata), gáo (Haldina cordifolia), ...

- Rừng hỗn giao gỗ, tre nứa: Đây là kiểu phụ thứ sinh nhân tác của rừng

thường xanh và rừng nữa rụng lá, do bị lửa rừng, chất độc hóa học, rừng bị

mở tán và tre nứa xen vào. Thành phần cây gỗ thường gặp là vắp (Mesua sp.),

bằng lăng (Lagerstroemia calyculata), căm xe (Xylia xylocarpa), hai loài tre

chủ yếu là lồ ô (Bambusa procera) và mum (Gigantochloa sp.).

- Rừng tre nứa thuần loại: Đây cũng là kiểu phụ thứ sinh nhân tác, sau

khi rừng bị phá làm nương rẫy rồi bỏ hóa, các loài tre nứa xâm nhập và phát

triển. Hai loài tre phổ biến là lồ ô (Bambusa procera) và mum (Gigantochloa

sp) tạo thành các rừng lớn, những nơi ngập nước chỉ có tre La Ngà tồn tại.

- Thảm thực vật đất ngập nước: Vườn Quốc gia Cát Tiên có diện tích

Bàu nước lớn, nguồn nước chưa bị ô nhiễm. Trong mùa mưa, diện tích Bàu

khoảng 2,500ha. Mùa khô rút đi để lại nhiều bàu, đầm lầy diện tích thu hẹp

khoảng 100 - 150ha, đây cũng là nơi sâu nhất của các bàu nước như: Bàu Sấu,

Bàu Chim, Bàu Cá, ...

24

Thảm thực vật đất ngập nước là sinh cảnh thích hợp của loài cá Sấu

xiêm, các loài động thực vật thủy sinh, các loài chim nước và cá nước ngọt.

Các loài thú lớn như: Heo rừng, Nai, Bò tót,... cũng thường quần cư ở khu

vực này vào mùa khô. Thực vật ưu thế là các loài cây gỗ chịu nước như đại

phong tử, lộc vừng, săng đá, ... xen lẫn lau, lách, cỏ đế, sậy...

Hiện trạng rừng và các loại đất đai trong Vườn Quốc gia Cát Tiên (Bảng 1.2):

+ Diện tích đất có rừng: 61.819,54ha, chiếm 86,64%;

+ Diện tích đất không có rừng: 4.837,85ha, chiếm 6,78%;

+ Diện tích đất khác: 4.692,61ha, chiếm 6,58%;

Bảng 1.2. Diện tích và trạng thái rừng ở Vườn Quốc gia Cát Tiên

TT Loại đất, loại rừng Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)

1. Rừng giàu (IIIB) 283,45 0,40

2. Rừng trung bình (IIIA3 - IIIA2) 10.298,57 14,43

3. Rừng nghèo (IIIA1) 5.196,81 7,28

4. Rừng non (IIB) 10.475,41 14,68

5. Rừng hỗn giao (HG) 15.961,12 22,37

6. Rừng tre nứa, lồ ô 18.489,43 25,91

7. Rừng trồng 1.14,75 1,56

8. Đất cỏ, cây bụi, gỗ rải rác (IA-IB-IC) 4.837,85 6,78

Cộng: 61.819,54 86,64

• Hệ động vật

Khu hệ động vật của Vườn Quốc gia Cát Tiên có những nét đặc trưng

của khu hệ động vật vùng bình nguyên Đông Trường Sơn và quan hệ chặt chẽ

với Tây Nguyên.

25

- Thú: Đến nay đã xác định được 113 loài thuộc 32 họ, 12 bộ, trong đó

có 43 loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam 2007 và Danh lục Đỏ IUCN 2008,

như: bò tót, hổ, gấu chó, voi, báo hoa mai, báo lửa, chó sói, chà vá chân đen,

vượn đen má vàng, sóc bay lớn,... Đặc biệt, ở Vườn Quốc gia Cát Tiên còn

tồn tại một quần thể loài tê giác Việt Nam (Rhinoceros sondaicus

annamiticus), là phân loài của tê giác Java, còn khoảng 3 - 5con.

- Chim: Đến nay đã xác định được 351 loài thuộc 64 họ của 18 bộ. Trong

đó có 31 loài quý hiếm đã được phát hiện và có tên trong Sách Đỏ Việt Nam 2007

và Danh lục Đỏ IUCN 2008. Các loài chim quý hiếm như hạc cổ trắng, công, già

đẩy Java, cò quắm cánh xanh, ngan cánh trắng, gà so cổ hung,... Trong đó, loài gà

so cổ hung là loài quý hiếm và đặc hữu của Việt Nam, trước đây đã được xem là

bị tuyệt chủng hoàn toàn. Tuy nhiên năm 1997, các nhà khoa học đã phát hiện ra

loài này còn có mặt ở Vườn Quốc gia Cát Tiên.

- Bò sát: Đến nay đã xác định được 79 loài thuộc 17 họ và 4 phân họ, 4

bộ trong đó có 23 loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam 2007 và Danh lục Đỏ

IUCN 2008, như cá sấu xiêm, trăn gấm, trăn đen,...

- Lưỡng cư: Đến nay đã xác định được 41 loài thuộc 6 họ, 2 bộ.

- Cá: Đến nay đã xác định được trên 168 loài, thuộc 29 họ, 9 bộ trong đó

có 10 loài mới cho Việt Nam, 1 loài nằm trong Danh lục Đỏ IUCN 2008 là cá

mơn hay còn gọi là cá rồng, 9 loài của Sách Đỏ Việt Nam 2007 như cá lăng bò,

cá chài, cá lóc bông, cá rồng,...

- Côn trùng: Đã điều tra được 819 loài thuộc 58 họ, 10 bộ trong đó có 4

loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam.

26

CHƯƠNG 2

MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG

VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

• Đánh giá hiện trạng và cấu trúc của quần thể bò tót tại Vườn Quốc gia Cát

Tiên;

• Tìm hiểu một số đặc điểm sinh thái của quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia

Cát Tiên;

• Xác định các nguyên nhân đe dọa đến sự tồn tại của bò tót và đề xuất các

biện pháp quản lý bảo tồn quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên.

2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

• Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là loài bò tót

(Bos gaurus) ở Vườn Quốc gia Cát Tiên.

• Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu của luận văn được tiến hành ở trong địa

phận Vườn Quốc gia Cát Tiên. Trong đó:

- Nghiên cứu về quần thể được tiến hành ở cả vùng Cát Lộc và Nam Cát

Tiên, Tây Cát Tiên thuộc Vườn Quốc gia Cát Tiên;

- Nghiên cứu về các đặc điểm sinh thái sẽ tập trung vào quần thể bò tót ở

khu vực Nam Cát Tiên thuộc Vườn Quốc gia Cát Tiên.

• Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 6/2006 đến

tháng 10/2009.

27

2.3. Nội dung nghiên cứu

2.3.1. Đánh giá hiện trạng và cấu trúc của quần thể bò tót tại Vườn Quốc gia

Cát Tiên.

- Cấu trúc đàn;

- Cấu trúc giới tính;

- Cấu trúc tuổi;

- Vùng cư trú của quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên.

2.2.3. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái của quần thể bò tót ở Vườn Quốc

gia Cát Tiên.

- Các loài thực vật thức ăn;

- Đặc điểm sinh cảnh sống;

- Vùng sống;

- Hoạt động và di chuyển;

- Nguồn nước uống; các điểm/suối khoáng;

- Hoạt động bầy đàn, sinh sản,…

2.3.3. Xác định các nguyên nhân đe dọa đến sự tồn tại của bò tót và đề xuất

các biện pháp quản lý bảo tồn quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên.

- Các mối đe dọa trực tiếp;

- Các mối đe dọa gián tiếp;

- Đề xuất các biện pháp quản lý, bảo tồn trên cơ sở kết quả nghiên cứu.

2.4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là các phương pháp điều tra động

vật truyền thống và kết hợp với một số phương pháp mới hiện nay như sau:

• Phương pháp kế thừa

Tất cả các thông tin và kết quả nghiên cứu về thú, đặc biệt là bò tót ở

Cát Tiên sẽ được thu thập và đánh giá để sử dụng trong luận văn. Các thông

28

tin thứ cấp cũng sẽ cung cấp các thông tin quan trọng bước đầu về đối tượng

nghiên cứu và giúp cho việc định hướng, lên kế hoạch nghiên cứu thực địa chi

tiết. Các thông tin về tình hình cơ bản, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và

tính đa dạng sinh học của khu vực nghiên cứu và các thông tin về Bò tót trong

và ngoài nước được tổng hợp, chọn lọc và đánh giá để phục vụ cho luận văn.

• Phương pháp phỏng vấn thợ săn, dân địa phương và Kiểm lâm

Phỏng vấn các thợ săn, dân địa phương và các nhân viên kiểm lâm của

Vườn, là những người sống trong và gần rừng, có đời sống gắn bó với rừng và

hiểu biết nhiều về rừng. Tuy độ tin cậy của các kết quả phỏng vấn có thể bị

hạn chế, song phương pháp này sẽ cung cấp cho chúng ta một số thông tin cơ

bản, cần thiết.

Các cuộc phỏng vấn cũng tập trung nhằm xác định địa điểm dễ gặp Bò

tót nhất. Một bộ câu hỏi cũng đã được soạn thảo để phỏng vấn gồm:

1. Có bao nhiêu loài thú mà Ông/Anh đã gặp ở rừng địa phương?

2. Ông/Anh có thể miêu tả chi tiết từng loài được không?

3. Ông/Anh có biết Bò tót, Bò rừng, Bò xám không? Nếu biết, tên địa

phương gọi nó là gì?

4. Ông/Anh có thể cho biết ở đâu thường gặp được những loài trong các

bức ảnh này không? Lần cuối cùng gặp loài đó ở đâu?

5. Nơi nào nhiều nhất và dễ gặp nhất trong các điểm mà Ông/Anh nói?

6. Liệu chúng ta ở trong rừng 3 đến 4 ngày thì có thể gặp được chúng không?

7. Ông/Anh có thể cung cấp thêm một số thông tin khác?

8. Thường một đàn có bao nhiêu con? Trong đó có bao nhiêu con đực,

cái, con nhỏ?

9. Hoạt động thường ngày của chúng như thế nào? Thường chúng đi kiếm

ăn khi nào, ở đâu? Gặp vào thời điểm nào trong ngày nhiều nhất?

29

10. Chúng thường ngủ ở đâu và ngủ như thế nào?

11. Chúng thường kiếm ăn ở đâu? Ăn những loại gì? Ông/Anh có thể kể

tên những loại đó bằng tên địa phương? …

• Điều tra theo tuyến

Khảo sát thực địa được tiến hành trong các mùa khác nhau của năm,

trong các thời điểm ban ngày và trên các dạng sinh cảnh. Đòi hỏi quan trọng

nhất trong khảo sát thực địa là kỹ năng quan sát. Quan sát trên tuyến là phương

pháp quan trọng nhất. Các tuyến điều tra được thiết lập ở khắp các vùng điều

tra và càng đi qua nhiều dạng sinh cảnh càng tốt. Đặc biệt chú ý các điểm cao,

các vũng nước, điểm có muối khoáng, ven sông, suối, đầm, … Một số đường

mòn nhỏ được sử dụng bởi thợ săn hoặc những người thợ rừng trước đây được

sử dụng làm tuyến điều tra. Thời gian khảo sát hàng ngày, sáng sớm từ 4 –

10giờ, chiều tối từ 16 – 21giờ. Người điều tra trên tuyến phải di chuyển nhẹ

nhàng, cẩn thận, không nói chuyện, không hút thuốc, tốc độ di chuyển từ 1,5 -

2,5km/giờ. Ngoài việc tìm gặp trực tiếp bò tót, chúng tôi cũng chú ý phát hiện

dấu vết hoạt động của Bò tót như dấu chân, vết ăn, phân, nơi ngủ, …

• Khảo sát ven sông suối

Đi bằng thuyền (máy, chèo tay, cano) hay đi bộ dọc theo sông suối, bàu

nước để quan sát. Bò tót thường kiếm ăn ven các sông, suối, bàu nước, đầm

mình hoặc ra uống nước. Khi đó ta có thể tiếp cận gần để ghi hình, chụp ảnh,

đếm số lượng con trong đàn. Phương pháp này giúp chúng ta dễ quan sát và

dễ phân biệt giới tính nhất vì không vướng vật cản khi quan sát. Khi phát hiện

bò tót thì tiến hành xác định: tổng số con, số con trưởng thành, con non, con

bán trưởng thành và kết hợp nghiên cứu tập tính, xác định dấu chân khi con

vật để lại.

• Khảo sát trong đêm bằng đèn pin

30

Mắt của bò tót và hầu hết các loài thú kiếm ăn đêm thường phản xạ lại

khi có ánh đèn chiếu vào. Có thể dùng đèn pin hay đèn đội đầu để tiến hành

điều tra các loài thú rừng vào những đêm trời tối. Bò tót có ánh mắt màu xanh

khi ta dùng đèn pin chiếu vào. Khi bắt được mắt con vật, chúng ta giữ nguyên

và chiếu đèn pha để xác định có đúng là bò tót không.

• Điều tra qua dấu vết

Rất khó nhìn thấy trực tiếp Bò tót trong thiên nhiên vì số lượng của

chúng còn ít và chúng lại rất tinh khôn do thường xuyên bị đe dọa bởi nhiều

hoạt động. Vì vậy, việc ghi nhận sự có mặt của loài Bò tót qua dấu vết là

phương pháp dễ tiến hành và dễ áp dụng hiện nay. Khi phát hiện dấu vết của

bò tót thì tiến hành mô tả chi tiết như sau:

- Dấu chân: Đặt trên dấu chân một tấm kính và trên tấm kính để tờ giấy

bóng mờ. Dùng bút dạ quang không xóa vẽ theo hình dạng của dấu chân. Mô tả

chi tiết thêm những thông tin cần thiết khác như: thời gian, tọa độ, sinh cảnh, số

lượng dấu chân, cách sắp xếp các ngón chân, nền đất mềm hay cứng, độ dốc, …

đo các kích thước về chiều dài, chiều rộng, khe bàn chân, … Xác định tọa độ và

độ cao nơi phát hiện dấu vết.

- Các bãi phân: mô tả các thành phần chất chứa trong bãi phân như lá,

cành, quả và màu sắc của chúng và ghi nhận thêm thông tin về thời gian, tọa

độ, sinh cảnh, … Xác định tọa độ và độ cao nơi phát hiện dấu vết.

- Các dấu vết khác (vết nằm, vết húc sừng, vết ăn cây,...): dự đoán mức

độ và thời gian xuất hiện của dấu vết theo các trường hợp sau: dấu rất mới

(trong ngày), dấu mới (dưới 1 tuần), dấu cũ (hơn một tuần). Xác định tọa độ

và độ cao nơi phát hiện dấu vết.

Dựa trên số lượng các dấu vết, xác định hay đoán số lượng cá thể đã để

lại dấu vết, qua đó có thể ước lượng số cá thể của đàn.

31

• Trực và quan sát tại các điểm quan trọng

Đối với các điểm và khu vực được đánh giá là vùng hoạt động quan

trọng của bò tót như: khu vực kiếm ăn chính, nơi ngủ, điểm khoáng và điểm

uống nước được khoanh vùng để điều tra chi tiết và thiết lặp điểm quan sát.

Từ các điểm quan sát, sử dụng ống nhòm có độ phóng đại lớn để tìm và quan

sát bò tót. Ở các khu vực địa hình bằng phẳng và trống, như trảng cỏ, sử dụng

ống nhòm hồng ngoại để tìm và quan sát bò tót vào ban đêm. Khảo sát theo

điểm chủ yếu được sử dụng trong các nghiên cứu về sinh thái.

• Phương pháp máy bẫy ảnh

Sử dụng 08 bẩy ảnh đặt tại các điểm được xác định là bò tót thường

xuất hiện và hoạt động, với phim chụp có độ nhậy sáng 200 (ISO). Thời gian

đặt máy trung bình từ 03 - 15 ngày ở 1 điểm điều tra, 1 máy được đặt tại một điểm quan sát. Như vậy, có tất cả 08 điểm quan sát cùng được điều tra đồng

thời với 08 máy bẫy ảnh. Các địa điểm đặt máy ảnh là những điểm khoáng,

điểm nước, vùng kiếm ăn và khu vực bò tót thường hoạt động. Điều tra bằng

bẫy ảnh được thực hiện chủ yếu vào mùa khô, từ tháng 12 đến tháng 4 hàng

năm. Vì đây là mùa khô nên các đàn bò tót hoạt động tập trung tại các điểm

có nước để uống và đầm mình.

• Phương pháp xác định vùng phân bố

Vùng phân bố hay nơi cư trú của bò tót tại Vườn quốc gia Cát Tiên là

các khu vực ghi nhận sự xuất hiện tự nhiên của bò tót. Thông tin về phân bố

quá khứ của bò tót được tổng hợp dựa trên các thông tin phỏng vấn và các báo

cáo khoa học từ trước năm 2006.

Phân bố hiện tại của bò tót được tổng hợp dựa trên kết quả nghiên cứu

của tác giả từ năm 2006 - 2009. Các thông tin được thu thập, ghi chú cụ thể

32

thời gian, địa danh và tọa độ địa lý nếu có thể. Từ các thông tin điều tra, tác

giả xây dựng bản đồ phân bố của bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên.

• Phương pháp phân tích đánh giá một số đặc điểm sinh thái

a) Quần thể và cấu trúc quần thể

Số lượng cá thể của quần thể bò tót ở được ước tính bằng cách thống kê

các đàn và cá thể bò tót ở các khu vực có phân bố của Vườn Quốc gia Cát

Tiên. Dựa trên số lượng cá thể thực tế của các đàn bò tót ở Vườn Quốc gia

Cát Tiên và tham khảo các nghiên cứu về cấu trúc đàn của bò tót ở Ấn Độ,

Thái Lan, Mã Lai, tác giả chia 3 nhóm đàn như sau:

1. Đàn ít: từ 1 – 3 cá thể;

2. Đàn trung bình: từ 4 - 12 cá thể;

3. Đàn lớn: > 12 cá thể.

Để thuận tiện cho việc đếm và nhóm số lượng cá thể theo tuổi của các

đàn bò tót, chúng tôi phân nhóm cá thể trong các đàn bò tót theo 3 nhóm tuổi

như sau:

1. Bò trưởng thành: > 2,5năm tuổi; kích thước dấu chân > 9cm.

2. Bò nhỡ (gần trưởng thành): 1 - 2,5 năm tuổi; kích thước dấu chân 8 - 9cm.

3. Bò non < 12 tháng tuổi; kích thước dấu chân < 8cm.

Việc phân chia nhóm tuổi của các cá thể trong đàn theo cách này dựa

trên các nghiên cứu về bò tót trong điều kiện nuôi nhốt và dựa trên một số đặc

điểm cơ bản của bò tót như màu sắc, kích cỡ cơ thể, độ dài của sừng và răng.

Tỷ lệ giới tính của các con đực và con cái trưởng thành trong các đàn

bò tót được tính toán dựa trên kết quả thống kê theo nhóm tuổi và giới tính

của các đàn bò tót. Phân biệt và nhận dạng các con cái, con đực và con non

33

dựa vào các quan sát trực tiếp về hình dạng, màu sắc, kích cỡ cơ thể và sừng

của các cá thể trong đàn. Để tránh việc điều tra và đếm các đàn trùng lắp

nhau. Tác giả cùng với nhóm cộng tác chia thành 2 – 3 nhóm nhỏ để tiến hành

điều tra trong cùng một khoảng thời gian đối với những khu vực gần nhau và

có sự lặp lại từ 2 – 3 lần.

b) Sinh sản của bò tót

Thông tin về sinh sản của bò tót được thống kê dựa trên kết quả quan

sát trực tiếp và ước tính tuổi của bò non, kết hợp với kết quả ước tính tuổi của

bò non từ các ghi nhận về dấu chân của bò non và bò nhỡ ở các khu vực

nghiên cứu vào các thời gian khác nhau. Kết quả đánh giá về sinh sản của bò

tót ở ngoài tự nhiên được tổng hợp và so sánh với các nghiên cứu tương tự

trong vườn thú và ngoài tự nhiên ở các nước trong khu vực.

c) Sinh cảnh

Các ô tiêu chuẩn 10 x 10m được lập trên các tuyến điều tra cố định ở

các khu vực bò tót phân bố và kiếm ăn để đánh giá về kiểu thảm thực vật,

thành phần loài thực vật và dạng địa hình, độ cao của sinh cảnh. Các thông tin

về vùng hoạt động, kiếm ăn và di chuyển được ghi nhận, đánh giá và xác định

dạng sinh cảnh chính của bò tót. Các nguyên nhân và yếu tố ảnh hưởng tới sự

lựa chọn sinh cảnh của bò tót cũng được tìm hiểu và so sánh.

d) Vùng sống

Vùng sống của các đàn bò tót được xác định trên hiện trường bằng máy

định vị toàn cầu (GPS) và khoanh vẽ trên bản đồ địa hình hệ tọa độ UTM tỷ lệ

1:25.000 cho từng đàn. Xác định sự thay đổi vùng sống của các đàn bò tót

theo mùa mưa và mùa khô. Kích thước trung bình của vùng sống được thống

kê dựa trên các kết quả thống kê về vùng sống của 05 đàn bò tót ở Vườn quốc

gia Cát Tiên. Chúng tôi cũng nghiên cứu sự lựa chọn vùng sống theo độ cao

34

và địa hình. Các thông tin và đánh giá về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó

tới sự lựa chọn vùng sống của bò tót cũng được đánh giá.

e) Thức ăn

Thông tin sơ bộ về thức ăn của bò tót được thu thập bằng phương pháp

phỏng vấn các thợ săn và những người có hiểu biết nhiều về loài bò tót tại các

vùng có bò tót sinh sống.

Quan trọng nhất là quan sát hoạt động kiếm ăn của bò tót ngoài tự

nhiên để thu thập mẫu vật và giám định các loài thực vật bò tót ăn. Các ô tiêu

chuẩn (10 x 10m) được lập ở các khu vực bò tót kiếm ăn để thu các mẫu thực

vật chúng ăn. Các loài thực vật được xác định là thức ăn của bò tót chỉ được

thống kê và thu mẫu khi quan sát ít nhất bò tót ăn ở 3 khu vực khác nhau và

so sánh với các thông tin phỏng vấn. Điều tra và thu mẫu thức ăn của bò tót

được thực hiện trong cả mùa khô và mùa mưa để đảm bảo số loài thực vật

được ghi nhận đại diện nhất.

Việc giám định các loài thực vật được thực hiện bởi các cán bộ Khoa

học – Kỹ thuật của Vườn Quốc gia Cát Tiên và sự giúp đỡ của Giáo sư - Tiến

sĩ Võ Văn Chi thực hiện. Danh pháp và danh lục thực vật được sắp xếp theo

hệ thống phân loại thực vật của Phạm Hoàng Hộ.

Các dạng thức ăn của bò tót như lá, thân, ngọn, măng được thống kê để

so sánh tỷ lệ giữa các dạng thức ăn. Số loài thực vật là thức ăn cũng được

thống kê theo dạng sinh cảnh để xác định nơi bò tót thường kiếm ăn.

f) Nhu cầu nước và khoáng

Chúng tôi đã tiến hành thông kê số lượng và đánh giá mối liên hệ giữa

điểm nước và muối khoáng trong vùng sống của các đàn bò tót. Các điểm

uống nước được thống kê là các khu vực có nước quanh năm như suối, sông,

35

hồ, hố nước, không bao gồm các điểm nước hình thành tạm thời. Điểm uống

nước được thống kê là các điểm tách rời nhau. Điểm khoáng được thống kê là

các vùng đất, suối nước giàu khoáng mà bò tót và các loài động vật thường

xuyên sử dụng.

Khoảng cách trung bình từ nơi ngủ đến các điểm uống nước, điểm

muối khoáng của các đàn bò tót cũng được đo tính để đánh giá mối liên hệ,

vai trò của nước và khoáng trong sự lựa chọn vùng sống của bò tót. Tần suất

đến uống nước và ăn khoáng cũng được thống kê để đánh giá nhu cầu nước

và khoáng của bò tót.

• Đánh giá về các mối đe dọa và các khu vực phân bố của bò tót

Để đánh giá được các mối đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của bò tót,

chúng tôi xây dựng thang điểm đánh giá và sắp xếp theo mức độ cao, thấp của

sự đe dọa.

Để đánh giá được mức độ quan trọng và giá trị bảo tồn của các khu vực

phân bố của bò tót, chúng tôi xây dựng thang điểm để đánh giá theo các tiêu

chí bảo tồn để xác định ý nghĩa bảo tồn.

Dựa trên kết quả đánh giá về các mối đe dọa và tầm quan trọng của các khu

vực phân bố, từ đó đưa ra các đề xuất bảo tồn cho loài bò tót ở Vườn Quốc

gia Cát Tiên.

• Phương pháp phân tích thống kê, xử lý thông tin và số liệu

Tất cả các thông tin, số liệu thu được sẽ được tập hợp và phân tích,

thống kê trên các chương trình Microsoft office Excel 2003, Microsoft World

2003 và Mapinfor 7.5, ...

36

CHƯƠNG 3

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Vùng cư trú và cấu trúc quần thể Bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên

3.1.1. Vùng cư trú

Qua nghiên cứu đã xác định được ở Vườn Quốc gia Cát Tiên có 33

điểm có bò tót hoạt động thuộc 3 khu vực: Nam Cát Tiên (Đồng Nai) có 22

điểm, Tây Cát Tiên (Bình Phước) có 03 điểm và Cát Lộc (Lâm Đồng) có 08

điểm (Bảng 3.1).

Bảng 3.1. Các điểm ghi nhận bò tót hoạt động theo khu vực

Số đàn Số cá thể TT Khu vực Tọa độ X Y

Nam Cát Tiên

0755634 1265994 Bàu cá trê 1

0755628 1267345 Bàu Sấu 2

0753991 1270553 3 Đồi Hổ 2 27

0756577 1269523 Bàu Sen 4

Bàu Nai Cạp 754701 1266800 5

Bàu chim - Đắk Lua 0759284 1270012 6

Cây si 0759622 1271928 7

Bàu Đất Sét 0762504 1272653 8 2 16

Bàu Trâu - Đắk Lua 0762661 1270484 9

10 Bàu 105 0753749 1271686

11 Bàu Rau Muống 0762492 1262761 2 10

12 Bàu Bộ đội Núi Tượng 0760224 1262209

13 Trảng Dầu Núi Tượng 0760658 1262052

14 Đồi Tượng 0763273 1263093

37

15 Trảng cỏ Núi Tượng 0761006 1262580

16 Trảng Bò Sa Mách 0742473 1258051

17 Suối K' Rai 0743887 1261420 1 4

18 Suối Sa Mách 0743948 1263474

19 Trảng Thùng Phi 0767572 1269471 2 6

20 Bàu Trảng Cỏ 0765260 1269336

2 7 21 Bàu Voi Lớn 0763193 1268514

22 Bàu Bo Bo - Đà Lắk 0763283 1270628 1 2

Cát Lộc

0751356 1286940 1 2 23 Bàu chim - Phước Sơn

25 Đồi chín Lưỡng-Bàu Đá 0752509 1286696

1 3 24 Bàu Trâu - Bàu Đăk Lớ 0753834 1290170

1 5 0753223 1293203 26 Hang Dơi

0754259 1293207 27 Bàu Mum

0755201 1293482 29 Bàu Đình Giang

0753433 1293759 1 3 30 Đầm Cau

0752481 1293715 28 Bàu Đình Rách

Tây Cát Tiên

0751760 1271490 31 Trảng Tranh

1 4 0738226 1275825 32 Bàu Đung

0752727 1273354 33 Trảng 102 1 2

Như vậy, số các điểm bò tót hoạt động ghi nhận được rất cao (22 điểm)

ở khu vực Nam Cát Tiên. Nguyên nhân là ở đây rừng được bảo vệ tốt và

không bị chia cắt bởi các khu dân cư hay đất nông nghiệp. Ngoài ra, rừng ở

đây còn liên hoàn với diện tích rừng rộng lớn thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên

và Di tích Vĩnh Cửu và Công ty Lâm nghiệp La Ngà. Ngược lại, số các điểm

38

ghi nhận ở các khu vực Cát Lộc và Tây Cát Tiên thấp hơn đáng kể vì rừng ở

đây đã bị nhiều tác động mạnh, bị chia cắt bởi các khu dân cư và đất sản xuất

nông nghiệp và áp lực săn bắn cao hơn.

Tất cả các điểm ghi nhận vùng hoạt động của bò tót là những nơi cách

biệt với dân cư, rừng được bảo vệ tốt. Chúng tôi chưa quan sát trực tiếp hoặc

ghi nhận được các dấu vết hoạt động của bò tót ở các khu vực rẫy nông

nghiệp của người dân. Nguyên nhân có lẽ do tiếng ồn từ hoạt động sản xuất

nông nghiệp và nguy cơ bị săn bắn cao ở khu vực này.

39

Bản đồ 3.1. Các vùng cư trú của bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên

40

3.1.2. Cấu trúc quần thể

• Số lượng cá thể và cấu trúc đàn

Qua kết quả ghi nhận vùng hoạt động và dấu vết của bò tót (dấu chân,

vết ăn, phân, nơi ngủ, … ) và kế thừa có chọn lọc các thông tin điều tra về bò

tót được thực hiện gần đây cho thấy, ở Vườn Quốc gia Cát Tiên hiện có

khoảng 91 cá thể bò tót sinh sống và hoạt động theo 18 đàn khác nhau (Bảng

3.2, Biểu đồ 3.1).

Bảng 3.2. Số lượng cá thể và số đàn bò tót theo khu vực

TT Khu vực Số lượng cá thể Tỷ lệ % cá thể Số đàn Tỷ lệ % đàn

1 Nam Cát Tiên 72 79,1 12 66,67

2 Tây Cát Tiên 6 6,6 2 11,11

3 Cát Lộc 13 14,3 4 22,22

Cát Lộc, 14,3%

Tây Cát Tiên, 6,6%

Nam Cát Tiên, 79,1%

Tổng 91 100,0 18 100,0

Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ số lượng cá thể bò tót theo khu vực

Số lượng cá thể và số đàn bò tót ghi nhận ở khu vực Nam Cát Tiên cao

hơn đáng kể so với các khu vực còn lại với 72 cá thể, chiếm 79,1% tổng số cá

thể ghi nhận được và 12 đàn, chiếm 66,67% tổng số đàn đã ghi nhận được.

Nguyên nhân là ở khu vực này rừng được bảo vệ tốt, diện tích rừng lớn và liên

41

hoàn nhau, cấu trúc rừng đa dạng, với nhiều trảng cỏ rộng và bàu nước rất phù

hợp với các loài thú móng guốc như bò tót. Phần nhỏ số cá thể còn lại với 19 cá

thể, chiếm 20,9% và 06 đàn, chiếm 33,33% được ghi nhận ở khu vực Tây Cát

Tiên và Cát Lộc, nơi có địa hình nhiều đồi dốc cao, sinh cảnh rừng bị chia cắt và

chịu nhiều sự tác động từ người dân.

Số cá thể bò tót ghi nhận được hiện nay ở Vườn Quốc gia Cát Tiên (91

cá thể) đã tăng 30% so với trước năm 2000 (70 cá thể) [12] và tăng 5,8% so

với sau năm 2000 (86 cá thể) [12]. Kết quả trên là do trong thời gian gần đây

hoạt động bảo tồn ở Vườn Quốc gia Cát Tiên được thực hiện tốt và các khu

vực vùng ven Vườn bị nhiều tác động dẫn đến các đàn bò tót tập trung về

Vườn sinh sống, làm gia tăng số lượng cá thể như ghi nhận hiện nay.

Với số lượng 91 cá thể đang tồn tại ở Vườn Quốc gia Cát Tiên, chiếm

26,45% tổng số cá thể bò tót hiện còn ở Việt Nam, thì quần thể bò tót ở đây có

thể được xem là một trong những quần thể bò tót lớn nhất ở Việt Nam và do vậy

có vai trò rất quan trọng trong bảo tồn loài bò tót ở Việt Nam và trên Thế giới.

• Cấu trúc đàn và mật độ cá thể

Tổng số 91 cá thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên hiện nay đang sinh

sống theo 18 đàn riêng lẻ. Nghiên cứu cho thấy số lượng cá thể trung bình của

các đàn theo các khu vực là Tây Cát Tiên là 3,0 cá thể/đàn, Cát Lộc 3,3 cá

thể/đàn, Nam Cát Tiên 6,0 cá thể/đàn. Như vậy, khu vực Tây Cát Tiên có số

cá thể trung bình trong các đàn thấp nhất và số cá thể trung bình trong các đàn

cao nhất là ở Nam Cát Tiên. Số lượng cá thể trung bình của các đàn trên toàn

Vườn Quốc gia Cát Tiên là 5,1 cá thể/đàn. Như vậy, có sự khác biệt đáng kể

về số lượng cá thể giữa các đàn và các khu vực. Kiểu đàn ít 8/18 đàn, chiếm

44,4%; kiểu đàn trung bình 9/18 đàn, chiếm 50% và kiểu đàn nhiều 1/18 đàn,

chiếm 5,6% (Bảng 3.3).

42

Bảng 3.3. Tỷ lệ các dạng đàn bò tót theo khu vực

Số Tỷ lệ Nam Cát Cát Tây Cát TT Dạng đàn đàn % Tiên Lộc Tiên

1 Ít (1-3) cá thể 8 44,4 4 3 1

2 Trung bình (4-12) cá thể 9 50,0 7 1 1

3 Nhiều (>12) cá thể 1 5,6 1 0

Tổng số 18 100% 12 4 2

Như vậy, quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên hiện nay bao gồm

các đàn nhỏ với có số lượng cá thể từ 2 – 24 cá thể/đàn và trung bình là 5,1 cá

thể/đàn. Đa số các đàn có số lượng cá thể từ 4 – 12 cá thể. Các đàn lớn phân

bố chủ yếu ở khu vực Nam Cát Tiên, trong đó có đàn lớn nhất gồm 24 cá thể.

Sự hiện diện của các đàn nhỏ có thể do bò tót ở đây đang chịu nhiều tác động

bất lợi, sự ảnh hưởng do chia cắt sinh cảnh và hoạt động săn bắn.

Mật độ trung bình của bò tót tại Vườn Quốc gia Cát Tiên là 1,3 cá

thể/1.000ha. Tuy nhiên, phân bố của bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên là

không đều, ở khu vực Nam Cát Tiên, mật độ cá thể trung bình ở đây là 1,8 cá

thể/1.000ha, khu vực Tây Cát Tiên là 1,4 cá thể/1.000ha, khu vực Cát Lộc là

0,5 cá thể/1.000ha.

• Cấu trúc tuổi và tỷ lệ giới tính

Kết quả nghiên cứu về cấu trúc tuổi cho thấy, trong số 05 đàn bò tót

được quan sát thì tất cả các đàn đều có đầy đủ con đực trưởng thành, con cái

trưởng thành, con bán trưởng thành và con non (Bảng 3.4). Kết quả phân tích

kích thước của 175 dấu chân thu được tại 33 điểm có phân bố bò tót trên toàn

Vườn Quốc gia Cát Tiên cho thấy, có 72 dấu chân con trưởng thành (kích

thước dấu chân > 9cm), 25 dấu chân con bán trưởng thành (kích thước dấu

chân từ 8 – 9cm) và 30 dấu chân con non (kích thước dấu chân < 8cm).

43

Bảng 3.4. Cấu trúc tuổi, giới tính của 05 đàn bò tót được quan sát

Bán Số cá Đực trưởng Cái trưởng trưởng Non TT Địa điểm thành thể thành thành

1 Bàu Sấu 24 5 8 4 7

2 Núi Tượng 6 2 2 1 1

3 Bàu Chim 7 2 3 1 1

4 Bàu Trảng cỏ 5 1 2 1 1

5 Hang dơi - Đầm Cau 5 1 2 1 1

Tổng 47 11 17 8 11

Nhìn chung với cấu trúc tuổi của quần thể bò tót ở Vườn quốc gia Cát

Tiên cho thấy đây là quần thể đang phát triển.

Nghiên cứu về tỷ lệ giới tính của 05 đàn bò tót được quan sát cho kết

quả 11 con đực trưởng thành và 17 con cái trưởng thành. Như vậy, tỷ lệ giới

tính quan sát được là 11♂/17♀ = 0,65. Về tỷ lệ đực/cái của các con non và

con bán trưởng thành chúng tôi chưa có đủ số liệu để xác định.

Tổng số 258 mẫu phân của bò tót đã được thu thập để phân tích cấu

trúc ADN. Việc phân tích này do Viện chăn nuôi (Hà Nội) thực hiện và có

131 mẫu cho kết quả, gồm 61 mẫu là con đực và 70 mẫu là con cái. Vậy, tỷ lệ

giới tính theo phân tích ADN mẫu phân sinh học là 61♂/70♀ = 0,87.

Như vậy, nghiên cứu tỷ lệ giới tính của bò tót cả qua quan sát trực tiếp

và phân tích ADN đều cho thấy bò đực ít hơn bò tót cái; đó cũng là cấu trúc

giới tính tự nhiên của đa số các loài thú. Với tỷ lệ bò cái không cao như hiện

tại thì khả năng phát triển tự nhiên của các đàn bò tót ở Vườn Quốc gia Cát

Tiên có thể sẽ diễn ra chậm.

44

3.2. Đặc điểm sinh cảnh và sử dụng sinh cảnh của bò tót

3.2.1. Sinh cảnh sống của bò tót

Có thể xác định 8 dạng sinh cảnh phổ biến của Vườn Quốc gia Cát Tiên

là: 1) Rừng thường xanh lá rộng; 2) Rừng hỗn giao nữa rụng lá; 3) Rừng thứ

sinh hỗn giao tre nứa; 4) Rừng tre nứa thuần loại; 5) Trảng song mây; 6)

Trảng cây bụi ven suối và bàu sình; 7) Trảng cỏ, cây bụi; 8) Rừng trồng và

nương rẫy. Trong 8 sinh cảnh trên, đã ghi nhận được bò tót hoạt động ở 5

dạng sinh cảnh (trừ các dạng sinh cảnh 1, 5 và 8). Trong đó, các sinh cảnh:

Trảng cỏ, cây bụi và Rừng thứ sinh hỗn giao tre nứa là những nơi ghi nhận

được tần số xuất hiện và hoạt động của bò tót nhiều nhất. Các dạng sinh cảnh:

Trảng cây bụi ven suối và bàu sình; Rừng tre nứa thuần loại và Rừng hỗn giao

nữa rụng lá là những sinh cảnh có tần suất ghi nhận bò tót ít hơn. Các dạng

sinh cảnh trên ở Vườn Quốc gia Cát Tiên có độ cao và địa hình khác nhau.

Trong đó, nơi có cao độ thấp nhất là Nam Cát Tiên (129m so với mặt biển)

thuộc khu vực Bàu Sấu với địa hình tương đối bằng phẳng (độ cao 129 –

363m so với mặt biển). Nơi có cao độ cao nhất là Cát Lộc, với độ cao 450m

và địa hình nhiều đồi dốc, dao động từ độ cao 240 – 450m.

Như vậy, nguyên nhân chính bò tót lựa chọn các dạng sinh cảnh để

hoạt động là sự đa dạng, phong phú của cấu trúc rừng đa dạng, thành phần các

loài thực vật. Ở các dạng sinh cảnh này, các loài thực vật đều đang phát triển,

nhiều cây bụi và cỏ, tạo ra nguồn thức ăn dồi dào và phong phú, phù hợp với

nhu cầu của bò tót. Độ cao và địa hình tỏ ra không ảnh hưởng nhiều đến sự

lựa chọn sinh cảnh sống của bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên.

Việc không ghi nhận được hoạt động và các dấu vết của bò tót ở các dạng

sinh cảnh: Rừng thường xanh lá rộng, Trảng song mây và Rừng trồng và nương

rẫy có thể do ở đây tán rừng kín, thảm thực vật tầng thấp như cây bụi và cỏ

45

nghèo nàn, nhiều gai và dây leo, sự tác động của con người mạnh. Ngoài ra, ở

sinh cảnh rừng thường xanh lá rộng có nhiều đá lộ đầu, nên không phải là

những nơi thích hợp cho hoạt động đi lại và kiếm ăn của bò tót.

3.2.2. Nơi kiếm ăn, trú ẩn và hoạt động của bò tót

Ở Vườn Quốc gia Cát Tiên, bò tót thường kiếm ăn và hoạt động trong các

dạng sinh cảnh: Trảng cỏ, cây bụi; Rừng thứ sinh hỗn giao tre nứa; Trảng cây

bụi ven suối và bàu sình; Rừng tre nứa thuần loại và Rừng hỗn giao nữa rụng lá.

Trong đó, kiểu sinh cảnh trảng cỏ cây bụi và rừng thứ sinh hỗn giao tre nứa là

những nơi bò tót kiếm ăn và hoạt động nhiều nhất.

Kết quả nghiên cứu cho thấy khi trời bắt đầu nhá nhem tối thì bò tót rời

nơi ngủ, nghỉ và đi kiếm ăn. Bò tót thường chỉ xuất hiện ở vùng trống, trảng cỏ

vào lúc trời đã tối, từ khoảng 18 giờ đến 5 giờ sáng hôm sau. Quảng thời gian

vào lúc giữa trưa và đêm sau khi ăn, các đàn bò tót thường tìm nơi thoáng mát

trong rừng hay giữa các đám cỏ cao nằm nghỉ ngơi và nhai lại. Thời gian còn lại

bò tót nằm ngủ. Bò tót thường ngủ và ẩn nấp ở các dạng sinh cảnh rừng thứ sinh

hỗn giao tre nứa và rừng hỗn giao nữa rụng lá. Bò tót cũng không di chuyển theo

một lối cố định mà thường xuyên thay đổi, cũng như nơi trú ẩn và nơi ngủ của

bò tót cũng không cố định.

3.2.3. Nguồn nước uống và điểm khoáng

Chúng tôi đã xác định được 35 điểm bò tót đến uống nước vào mùa mưa

(từ tháng 5 đến tháng 10). Danh sách các địa điểm nước uống cố định nêu trong

Phụ lục 2. Tính trung bình số điểm cung cấp nước uống cho 18 đàn bò tót ở

Vườn Quốc gia Cát Tiên thì có đến 1,9 điểm/đàn. Vào mùa khô (từ tháng 11

đến tháng 4), do thời tiết khô nóng kéo dài nên đã làm một số điểm nguồn nước

uống của bò tót bị cạn kiệt và chỉ còn lại 22 điểm. Vì vậy, vào mùa mưa,

khoảng cách di chuyển từ nơi bò tót kiếm ăn và hoạt động đến nguồn nước

46

uống ngắn hơn vào mùa khô. Ở các khu vực có địa hình dốc, phức tạp như ở

Cát Lộc, khoảng cách di chuyển của bò tót từ nơi kiếm ăn đến nguồn nước

cũng xa hơn ở khu vực Nam Cát Tiên và Tây Cát Tiên.

Kết quả nghiên cứu cũng ghi nhận được 08 điểm muối khoáng trong

vùng hoạt động của 18 đàn bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên. Trong đó có 6/8

điểm trùng với các điểm nước cố định của bò tót. Như vậy, số điểm muối

khoáng thấp hơn nhiều so với điểm nguồn nước uống của bò tót. Vì vậy,

khoảng cách di chuyển từ nơi kiếm ăn của bò tót đến các điểm khoáng cũng

xa hơn so với các điểm cung cấp nguồn nước uống.

47

Bản đồ 3.2. Các điểm nước uống cố định của bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên

48

3.3. Thức ăn và tập tính ăn, uống của bò tót

3.3.1. Loài cây thức ăn

Chúng tôi đã xác định được ở Vườn Quốc gia Cát Tiên có 144 loài thực

vật thuộc 18 họ được bò tót sử dụng làm thức ăn (Phụ lục 3). Các họ thực vật

có số loài cây thức ăn của bò tót nhiều nhất lần lược là: họ Cỏ (Poaceae) với

64 loài, (chiếm 44,4% số tổng số loài); họ Gừng (Zingiberaceae) với 18 loài

(12,5%); họ Thanh thất (Simarabaceae) với 07 loài (4,9%); họ Đậu (Fabaceae)

với 07 loài (4,9%); họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) với 06 loài (4,2%); họ Cam

quýt (Rutaceae) với 05 loài, (3,5% ); họ Gai (Urticaceae) với 05 loài (3,5% ).

i

à o

70

l

Cỏ (Poaceae) 64

ố S

60

50

40

30

20

Thanh thất (Simarabaceae) 7

Gai (Urticaceae) 5

Thầu dầu (Euphorbiaceae) 6

10

0

Họ

Gừng (Zingiberaceae) 18

Đậu (Fabaceae) 7

Cam qúyt (Rutaceae) 5

Biểu đồ 3.2. Các họ thực vật có nhiều loài là thức ăn của bò tót

Kết quả thống kê các loài thực vật là thức ăn của bò tót theo dạng sống

cho thấy: dạng cỏ chiếm tỷ lệ vượt trội với 82 loài, chiếm 57,0%; tiếp theo là

dạng cây bụi với 34 loài, chiếm 23,6%; và dạng gỗ nhỏ với 13 loài, chiếm

9,0%; dạng dây leo với 11 loài, chiếm 7,6%. Như vậy, bò tót là loài động vật

chủ yếu ăn cỏ và lá cây tiểu mộc (Bảng 3.5).

49

Bảng 3.5. Số loài thức ăn của bò tót theo dạng sống thực vật

TT Dạng sống Số loài Tỷ lệ %

1 Dạng Cỏ (C) 82 57,0

2 Dạng cây bụi hay tiểu mộc (T) 34 23,6

3 Dạng gỗ nhỏ (g) 13 9,0

4 Dạng dây leo (D) 11 7,6

5 Dạng gổ lớn (G) 3 2,1

6 Dạng khuyết thực vật (K) 1 0,7

Tổng 144 100

3.3.2. Tập tính kiếm ăn

Trong 144 loài thực vật là thức ăn của bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên

thì những sinh cảnh có số lượng loài thực vật thức ăn cao nhất là: Rừng thứ sinh

với 60 loài, Trảng cỏ với 56 loài và Rừng hỗn giao gỗ + tre nứa là 47 loài (Biểu

70

60

50

40

đồ 3.3).

i à o l ố S

60

30

56

47

20

10

14

11

0

Trảng cỏ

Tre nứa

Rừng hỗn giao

Rừng thứ sinh

Ven suối, cây bụi và Bàu sình

Kiểu sinh cảnh

Biểu đồ 3.3. Số loài thực vật là thức ăn của bò tót theo các kiểu sinh cảnh

50

Như vậy, các kiểu sinh cảnh: Rừng thứ sinh, Trảng cỏ và Trảng cây bụi

ven suối và bàu sình là những nơi bò tót thường kiếm ăn nhất vì đó là những nơi

có sự phong phú của các loài thực vật thân dạng cỏ và cây bụi là thức ăn chủ yếu

của bò tót.

Về bộ phận thực vật bò tót chọn ăn thì có: lá, thân, ngọn và măng.

Trong đó, lá chiếm tỷ lệ 61%, ngọn với 30%, măng với 5% và thân với 4%.

Khi ăn bò tót thường sử dụng lưỡi để thu thức ăn vào miệng. Sau đó

dùng răng để làm đứt thức ăn hay vẫn sử dụng lưỡi để làm đứt thức ăn. Khi

đang ăn, bò tót không nhai kỹ thức ăn mà chủ yếu ăn được nhiều thức ăn vào

dạ dày. Khi đã no thì bò tót tìm nơi vắng và thoáng để nằm nghỉ và nhai lại

thức ăn. Đôi khi với các cây măng đã cao thì bò tót sử dụng sừng, đầu hay

Măng 5%

Ngọn 30%

Lá 61%

Thân 4%

Lá Thân Ngọn Măng

thân làm cho cây măng đổ ngã và tiến hành ăn phần ngọn măng.

Biểu đồ 3.4. So sánh các bộ phận thực vật bò tót sử dụng làm thức ăn

51

3.3.3. Nhu cầu nước uống và khoáng

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong mùa khô, bò tót đến uống nước tại

các điểm nước cố định trung bình từ 4 – 6 lần trong ngày; trong mùa mưa,

trung bình từ 2 - 3 lần trong ngày. Như vậy, số lần đến các điểm nước cố định

của bò tót trong mùa khô cao hơn mùa mưa. Nguyên nhân có thể do trong

mùa mưa các loài thực vật trong thức ăn của bò tót chứa nhiều nước hơn mùa

khô nên nhu cầu nước của bò tót thấp, và có nhiều vũng nước đọng lại ở trong

các vùng sống nên bò tót dễ dàng tìm nước mà không phải đến các điểm nước

cố định. Vào mùa khô, nước trong thức ăn của bò tót giảm và thời tiết nắng

nóng nên nhu cầu nước của bò tót cao, lúc này nguồn nước chỉ còn tập trung ở

vài khu vực, nên bò tót phải đến các điểm nước cố định này uống nước. Đây

cũng là lý do thường quan sát được bò tót hoạt động ở các khu vực có nước

vào mùa khô.

Nghiên cứu nhu cầu muối khoáng cho thấy bò tót thường đến các

điểm muối khoáng trung bình 2 – 3 lần/tuần. Tại các điểm khoáng ngoài

việc ghi nhận dấu vết của bò tót đến liếm khoáng, còn ghi nhận được sự

xuất hiện đồng thời của các loài thú móng guốc khác như: tê giác Java

(Rhinoceros sondaicus annamiticus), voi châu á (Elephas maximus), heo

rừng (Sus scrofa), nai (Cervus unicolor), mang (Muntiacus muntjak) đến

liếm khoáng. Bò tót thường đến các điểm khoáng không theo quy luật cố

định về thời gian và chúng đến liếm khoáng cả trong mùa khô và mùa mưa.

Kết quả phân tích mẫu nước thu được tại 35 điểm cố định bò tót đến

uống cho thấy pH ở mức trung tính, trong đó pH dao động cao nhất ở Bàu

Rau Muống (6,9) và pH thấp nhất là ở Bàu Đắk Lớ (4,9). Hàm lượng các chất khoáng Ca2+, Mg2+, Fe2+, P, K+, Na+ có sự chênh lệch nhau rất lớn giữa

các điểm nước, từ một vệt nhỏ đến vài chục mg/l (Phụ lục 2). Theo các nhà

52

hóa học phân tích chất lượng nước thì hàm lượng các chất khoáng trong 35

điểm nước cố định trên ở mức bình thường theo nước suối tự nhiên. Do một

số khó khăn của tác giả nên luận văn chưa có điều kiện phân tích hàm lượng

các chất khoáng có trong 08 điểm khoáng để so sánh hàm lượng khoáng

trong 35 điểm nước cố định và trong 08 điểm khoáng. Như vậy, các điểm

nước cố định và điểm muối khoáng có vai trò quan trọng đối với bò tót.

Chúng cùng với nguồn thức ăn là những yếu tố quan trọng quyết định đối

với vùng sống của bò tót. Ngoài ra, các điểm khoáng không những quan

trọng đối với bò tót, mà còn đối với một số loài thú móng guốc khác sinh

sống trong cùng khu vực.

3.4. Một số tập tính hoạt động của bò tót

3.4.1. Nhịp điệu hoạt động hàng ngày

Kết quả nghiên cứu cho thấy, thời gian hoạt động và kiếm ăn của bò tót

hàng ngày diễn ra trong 02 khoảng thời gian: sáng từ 4 – 5 giờ đến 8 – 9 giờ và

chiều từ 15 – 16 giờ đến 20 – 21 giờ. Quãng thời gian còn lại trong ngày, lúc

giữa trưa, buổi tối và sau khi ăn bò tót thường chọn nơi kín đáo, thoáng mát, yên

tĩnh nằm nghỉ ngơi, nhai lại và nằm ngủ. Như vậy, bò tót là loài thú hoạt động

kiếm ăn cả ngày lẫn đêm. Những đêm trăng sáng, thường bắt gặp bò tót bắt đầu

và kết thúc hoạt động, kiếm ăn trễ hơn bình thường.

3.4.2. Chu kỳ hoạt động theo mùa

Nghiên cứu chu kỳ hoạt động của bò tót theo mùa cho thấy không có sự

khác biệt lớn về vùng sống của các đàn bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên giữa

mùa mưa và mùa khô. Nghĩa là vùng sống của các đàn bò tót ở Vườn Quốc gia

Cát Tiên hầu như không có sự thay đổi theo mùa, mà chỉ có sự thay đổi nhỏ ở

một số đàn bò tót do nước dâng cao làm ngập một số khu vực có bò tót sinh

sống vào mùa mưa. Chẳng hạn, vào mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11), ở khu

53

vực Bàu Sấu và Núi Tượng, phần lớn diện tích trảng cỏ là những vùng thấp,

nơi kiếm ăn chính của bò tót ở khu vực này bị nước dâng cao làm ngập tạm

thời, nên bò tót phải di chuyển đi hoạt động và kiếm ăn ở các khu vực cao hơn.

Vào mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 4), nước rút ở các vùng đất thấp tại

khu vực Sấu và Núi Tượng nên đã hình thành các trảng cỏ rộng lớn, các đàn bò

tót có điều kiện mở rộng vùng kiếm ăn ở các trảng cỏ mới hình thành.

3.4.3. Tập tính bầy đàn

Kết quả quan sát 05 đàn bò tót cho thấy trong mỗi đàn đều có một con

đực làm đầu đàn. Con đực đầu đàn là con to, khỏe nhất trong đàn. Trong lúc

di chuyển có sự thể hiện vai trò đầu đàn của con đực, con đực đi đầu và có

thái độ chú ý nghe ngóng, cảnh giác xung quanh. Con non thường đi cạnh bên

bò tót mẹ ở cuối đàn và con bán trưởng thành cùng các con trưởng thành khác

đi giữa đàn.

Trong lúc kiếm ăn thì sơ đồ di chuyển như trên không được duy trì, mà

các con trong đàn tách ra và kiếm ăn trên một khu vực theo các hướng khác

nhau, nhưng không quá xa đàn. Vai trò đầu đàn của con đực đầu đàn phát huy

khi chúng phát hiện có dấu hiệu lạ hay tiếng động bất thường, lúc đó con đực

đầu đàn sẽ vễnh tai nghe ngóng và ngẩng cao đầu để quan sát, cảnh giới cho

đàn. Khi có dấu hiệu bất lợi, bò tót đầu đàn sẽ báo cho các thành viên còn lại

trong đàn và thường chúng bỏ chạy sau đó.

Bò tót thường tự vệ bằng cách sử dụng sừng để húc nhau, đó cũng là

hành động để phân chia đẳng cấp giữa các con trong đàn, giành quyền giao

phối với con cái trong đàn hay đơn thuần chỉ là sự chơi đùa giữa các con

trong một đàn.

54

Trong khi nằm ngủ, nghỉ, các con trong đàn thường nằm riêng lẽ, cách xa

nhau từ 2 – 5m trong cùng một khu vực. Chỗ nằm của bò tót thường không cố

định, mà có thể thay đổi vị trí hàng ngày.

3.4.4. Sinh sản

Kết quả nghiên cứu đã ghi nhận được sự xuất hiện của bò tót non đi

cùng với bò mẹ với bộ lông màu vàng tươi và dấu chân của chúng (dưới 7cm)

vào các tháng 1, 2, 3, 5, 7, 8, 10, 11 trong năm. Kết quả nghiên cứu và ghi

nhận cũng cho thấy bò tót mang thai khoảng 265 – 270ngày. Mỗi năm bò tót

đẻ 01 lứa và mỗi lứa bò tót đẻ 01 con.

Chúng tôi cũng đã quan sát được bò tót giao phối, động dục và ve vãn

hay nghe được bò tót rống (được cho là biểu hiện động dục) vào các tháng 1,

5, 7, 9 và 11 của năm.

3.5. Các mối đe dọa đối với quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên

Nghiên cứu các mối đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của quần thể bò

tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên cho thấy hiện nay có 05 yếu tố, gồm: Săn bắn

và đánh bẫy; Sinh cảnh bị thu hẹp; dịch bệnh tự nhiên; Hạn chế trao đổi di

truyền; Sinh cảnh bị tác động. Đánh gía bằng cách cho điểm (xem phụ lục 4)

các yếu tố ảnh hưởng theo 03 khu vực cho thấy săn bắn bất hợp pháp hiện

đang là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đến sự tồn tại và phát triển của quần

thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên. Và tiếp theo là vùng sống bị giới hạn và

sinh cảnh bị tác động. Trong đó mức độ đe dọa cao nhất là ở khu vực Cát Lộc.

55

Bảng 3.6. Các mối đe dọa đến quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên

Săn bắn Sinh Dịch Hạn chế Sinh cảnh Tổng

đánh cảnh bị bệnh tự trao đổi bị tác điểm

Khu vực bẫy thu hẹp nhiên di truyền động

Nam Cát Tiên 4 1 1 1 2 9

Tây Cát Tiên 4 1 2 2 2 11

Cát Lộc 4 1 2 3 3 13

m ể

14

i

12

10

8

12

6

4

7

6

5

2

3

0

đ o e h t a ọ d e đ ộ đ c ứ M

Săn bắn đánh bẫy

Vùng sống bị gới hạn

Dịch bệnh tự nhiên

Giới hạn di truyền

Sinh cảnh bị tác động

Tổng 12 3 5 6 33 7

Mối đe dọa

Biểu đồ 3.5. So sánh các mối đe dọa tới quần thể bò tót

Dựa trên các mối đe dọa, tác giả phân chia thành 02 nhóm nguyên nhân

chính như sau: nhóm đe dọa trực tiếp và nhóm đe dọa gián tiếp:

3.5.1. Nhóm đe dọa trực tiếp

- Săn bắn, đánh bẫy: Nạn săn bắn, đánh bẫy và buôn bán các sản phẩm

từ bò tót là nguyên nhân trực tiếp làm suy giảm quần thể bò tót ngoài tự nhiên

ở các khu vực phân bố của chúng, không chỉ ở Vườn Quốc gia Cát Tiên, mà

cũng là tình trạng chung của cả nước từ trước đến nay. Kết quả thống kê từ

56

năm 2006 đến nay ở Vườn Quốc gia Cát Tiên đã phát hiện 06 bộ xương của

bò tót bị săn bắn hay đánh bẫy để lại trong rừng. Như vậy, có ít nhất 06 cá thể

bò tót đã bị săn bắn, đánh bẫy và đã làm suy giảm 6/91 cá thể, tương đương

với 6,6% số cá thể của quần thể bò tót hiện nay ở Vườn Quốc gia Cát Tiên.

Hiện nay, theo kết quả thống kê cho thấy trong 2 năm 2007 và 2008,

mỗi năm Vườn Quốc gia Cát Tiên đã thu trên 20.000 bẫy lớn nhỏ các loại và

khoảng 15 cây súng săn các loại. Do vậy, nạn săn bắn, đánh bẫy đang là

nguyên nhân đe dọa trực tiếp, gây nguy hiểm đến sự tồn tại và phát triển của

quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên.

- Vùng sống bị thu hẹp (mất sinh cảnh): Hiện nay việc phát rừng làm

rẫy trong vùng lõi Vườn Quốc gia Cát Tiên đang được kiểm soát chặt chẽ, dù

vậy hàng năm các vụ phát rừng làm nương rẫy trong vùng lõi của Vườn vẫn

còn xảy ra. Tuy nhiên, hầu hết các vụ phát rừng này đều là nhỏ lẽ, và chủ yếu

do người dân phát lấn diện tích rừng quanh ranh giới đất nông nghiệp của họ.

Do đó, nguyên nhân phát rừng làm nương rẫy trong vùng lõi của Vườn gây

tác động không lớn sinh cảnh của bò tót và các loài động vật khác ở Vườn

Quốc gia Cát Tiên.

Nhưng hiện nay, hầu hết các diện tích rừng ở vùng đệm của Vườn Quốc

gia Cát Tiên ở khu vực Cát Lộc và Tây Cát Tiên, nơi trước đây là vùng phân bố

tự nhiên của bò tót và có sự di chuyển của các đàn bò tót với nhau trong khu

vực đã được chuyển đổi mục đích sử dụng sang sản xuất nông nghiệp và trồng

cây cao su. Vì vậy, đã làm mất sinh cảnh và giới hạn vùng sống của các đàn bò

tót trong các khu vực này chỉ trong phạm vi vùng lõi của Vườn.

Cháy rừng cũng là một nguyên nhân làm mất sinh cảnh và gây ảnh

hưởng đến các loài động vật hoang dã. Tuy nhiên, ở Vườn Quốc gia Cát Tiên

nguyên nhân này không có ảnh hưởng đáng kể hay có thể nói là không ảnh

57

hưởng. Thực tế là trong 2 năm 2007 và 2008 đã không có vụ cháy rừng nào

xảy ra ở Vườn Quốc gia Cát Tiên. Do hàng năm Vườn Quốc gia Cát Tiên đã

thực hiện tốt công tác Phòng cháy chửa cháy rừng, mà điển hình là thực hiện

trước việc đốt trước có kiểm soát các trảng cỏ. Việc làm này ngoài tác dụng

xử lý các trảng cỏ già cổi có nguy cơ cháy cao, còn tạo nên tro tàn mà bò tót

và các loài thú móng guốc khác rất thích đến ăn để bổ sung hàm lượng muối

và những bãi cỏ non, cung cấp thức ăn cho chúng.

Sự xâm lấn của loài ngoại lai, mà cụ thể là loài cây mai dương (Mimosa

pigra) cũng là nguyên nhân làm mất sinh cảnh của loài bò tót và các loài động

vật khác ở các vùng đất ngập nước thuộc Vườn Quốc gia Cát Tiên. Hiện loài

mai dương đã xâm lấn và phát triển rất nhanh, làm thu hẹp các bãi cỏ non khi

nước ở các bàu khô đi, và cũng gây cản trở hoạt động di chuyển, kiếm ăn của

bò tót và các loài động vật khác, cũng như gây khó khăn trong công tác tuần

tra bảo vệ rừng tại Vườn Quốc gia Cát Tiên.

Hiện nay, một tín hiệu lạc quan là Khu bảo tồn thiên nhiên và Di tích

Vĩnh Cửu nằm ở phía Tây Nam của Vườn Quốc gia Cát Tiên được thành lập từ

năm 2003, do được bảo vệ tốt nên đã có sự di chuyển qua lại của các đàn bò tót

từ Vườn Quốc gia Cát Tiên đến khu bảo tồn này và ngược lại. Cụ thể có lúc đã

ghi nhận sự xuất hiện và hoạt động của đàn bò tót lên đến 20 cá thể ở khu bảo

tồn trên. Như vậy, đã tạo điều kiện tốt để kết nối và mở rộng sinh cảnh cho bò

tót và các loài động vật khác về hướng Tây Nam Vườn Quốc gia Cát Tiên.

- Dịch bệnh tự nhiên: đến nay, ở Vườn Quốc gia Cát Tiên chưa ghi

nhận bò tót bị chết do sự xuất hiện của dịch bệnh. Vì vậy, đây là yếu tố đe dọa

thấp đến quần thể bò tót ở Vườn. Tuy nhiên, đây cũng là một mối đe dọa tiềm

ẩn, do hiện nay ngày càng có nhiều dịch bệnh trên gia súc nuôi ở vùng ven

Vườn Quốc gia Cát Tiên như lỡ mồm long móng, … Đặc biệt trong bối cảnh

58

hiện nay người dân vùng ven vẫn còn hoạt động chăn thả gia súc trong vùng

lõi Vườn Quốc gia Cát Tiên nên rất dễ xãy ra sự lây nhiểm dịch bệnh từ gia

súc nuôi sang bò tót và các loài động vật khác.

- Giới hạn di truyền: do qui mô của nhiều đàn bò tót ở Vườn Quốc gia

Cát Tiên nhỏ, cộng với việc sinh cảnh sống bị chia cắt, nên quần thể bò tót ở

Vườn sẽ bị giới hạn trong việc trao đổi di truyền với các quần thể bò tót khác.

Tuy đây không phải là nguyên nhân trực tiếp trước mắt, nhưng về lâu dài nó

sẽ là nguy cơ đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của quần thể bò tót ở Vườn

Quốc gia Cát Tiên do nguy cơ suy thoái di truyền do giao phối cận huyết, đặc

biệt là ở khu vực Cát Lộc.

3.5.2. Nhóm đe dọa gián tiếp

- Dân số: theo kết quả thống kê dân số, hiện nay có hơn 170.000 người

dân đang sinh sống trong vùng đệm Vườn Quốc gia Cát Tiên và có trên 834

hộ với 3.947 khẩu đang sinh sống trong vùng lõi Vườn. Với tỷ lệ dân số hiện

tại đang sinh sống trong vùng lõi và ở vùng đệm Vườn Quốc gia Cát Tiên,

cộng với sự gia tăng dân số trong tương lai, thì dân số đã, đang và sẽ gây sức

ép về săn bắn, đánh bẫy và làm mất sinh cảnh, … ngày càng lớn đến công tác

quản lý bảo vệ rừng nói chung và công tác bảo tồn tại Vườn Quốc gia Cát

Tiên hiện nay, cũng như trong tương lai. Trong đó, có đe dọa đến sự tồn tại và

phát triển của loài bò tót.

- Phát triển cơ sở hạ tầng: việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng

cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiến đến sự

tồn tại của loài bò tót nói riêng và công tác bảo tồn đa dạng sinh học của

Vườn Quốc gia Cát Tiên nói chung. Hiện nay, ở Vườn Quốc gia Cát Tiên

đang tiến hành các hoạt động xây dựng nhà trạm phục vụ làm việc và kinh

doanh du lịch, ngoài ra còn có hoạt động sửa chữa nâng cấp đường giao thông

59

để phục vụ công tác đi lại tuần tra bảo vệ rừng và phát triển du lịch sinh thái.

Chúng sẽ có ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động của các loài động vật có sự

nhạy cảm như loài bò tót. Tuy nhiên, cũng cần phải có sự đánh giá cụ thể về

mức độ tác động.

Đặc biệt, hiện nay ở khu vực Cát Lộc đang diễn ra hoạt động xây dựng

đường giao thông và kéo lưới điện đến xã Đồng Nai Thượng sẽ gây tác động

lớn đến các loài động vật trong khu vực như bò tót, tê giác, vượn đen má vàng

hay các loài gấu, … Và các thủy điện Đồng Nai 6 và Đồng Nai 6A hiện đang

trong quá trình xúc tiến, nếu được triển khai xây dựng ở khu vực Cát Lộc

thuộc vùng lõi Vườn Quốc gia Cát Tiên thì sẽ có tác động to lớn, đe dọa đến

công tác quản lý bảo vệ rừng và bảo tồn tại khu vực Cát Lộc thuộc Vườn

Quốc gia Cát Tiên.

Ngoài ra, do hầu hết ranh giới Vườn Quốc gia Cát Tiên đều tiếp giáp

trực tiếp với cộng đồng dân cư hay các diện tích đất rẫy canh tác nông nghiệp

của người dân, nên tiếng ồn từ các loại máy nông cụ trong sản xuất nông

nghiệp hay từ các phương tiện giao thông, từ sinh hoạt của người dân cũng

làm quấy nhiểu đến hoạt động của bò tót.

3.6. Một số giải pháp tăng cường quản lý bảo tồn quần thể bò tót ở Vườn

Quốc gia Cát Tiên

Căn cứ trên việc xác định và đánh giá các mối đe dọa, cùng với mức độ

đe dọa của các yếu tố ảnh hưởng đến công tác bảo tồn và phát triển quần thể

bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên. Chúng tôi đề xuất các giải pháp sau nhằm

góp phần bảo tồn và phát triển quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên:

1. Giải pháp kiểm soát săn bắn, đánh bẫy

Hoạt động săn bắn, đánh bẫy là mối đe dọa hàng đầu đối với sự tồn tại

và phát triển của quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên. Vì vậy, yếu tố

60

quan trọng để đảm bảo được sự tồn tại và phát triển lâu dài của quần thể bò tót

ở Vườn Quốc gia Cát Tiên là tăng cường các biện pháp quản lý, kiểm soát các

hoạt động săn bắn, đánh bẫy và buôn bán các sản phẩm từ bò tót. Các hoạt

động chống săn bắn, đánh bẫy cần được tiến hành đồng bộ và thường xuyên ở

các khu vực bò tót phân bố và điểm nóng về săn bắn, đánh bẫy động vật rừng

như Bàu Sấu, Đắk Lua, Núi Tượng, Phước Sơn, Đa Bông Cua, Đăng Hà, Đất

Đỏ… và các khu vực xung quanh Vườn Quốc gia Cát Tiên. Trong đó, đặc biệt

cần chú ý tập trung đối với những nơi bò tót thường hoạt động như các điểm

khoáng, điểm uống nước, các trảng cỏ, và những khu vực sau khi xử lý phòng

chống cháy bằng cách đốt có kiểm soát. Tùy từng thời điểm trong năm, ví dụ

như cuối mùa khô và đầu mùa mưa là thời điểm hoạt động săn bắn, đánh bẫy

xãy ra nhiều thì cần tiến hành thêm hoạt động truy quét để kiểm soát nạn săn

bắn đánh bẫy bò tót, cũng như các loài động vật khác.

Ngoài ra, nhằm kích thích, tăng cường hoạt động kiểm soát săn bắn,

đánh bẫy bò tót và các loài động vật khác đối với lực lượng Kiểm lâm thì cũng

cần phải tiến hành hoạt động khen thưởng cho lực lượng Kiểm lâm khi bắt giữ

được các vụ vi phạm săn bắn, đánh bẫy, thu gỡ bẫy và tịch thu súng săn.

2. Giải pháp bảo vệ và mở rộng sinh cảnh

Do hiện nay Vườn Quốc gia Cát Tiên như là một ốc đảo, nằm giữa bốn

bề là các khu dân cư, diện tích rừng bị chia cắt và không thể kết nối với các

vùng rừng khác trong khu vực hiện còn phân bố tự nhiên của bò tót, nhất là

khu vực Cát Lộc và Tây Cát Tiên. Vì vậy, việc bảo vệ, duy trì và phát triển

sinh cảnh hiện có của Vườn Quốc gia Cát Tiên cũng có ý nghĩa rất quan trọng

đối với sự tồn tại và phát triển quần thể bò tót trong tương lai, quan trọng là

các trảng cỏ, các điểm khoáng, các điểm uống nước. Để thực hiện tốt việc này

thì cần tiến hành kiểm soát chặt chẻ việc phát lấn rừng làm nương rẫy của

61

người dân vào mùa khô. Và cũng cần xem xét đến việc bổ sung các điểm

muối khoáng nhân tạo nhằm cung cấp thêm muối khoáng cho bò tót và khôi

phục lại những sinh cảnh do người dân đã lấn chiếm canh tác nông nghiệp

trước đây, cùng với việc cải tạo sinh cảnh ở những vùng đất bán ngập nước

đang bị loài cây mai dương xấm chiếm.

Việc đánh giá tác động môi trường đối với các công trình, dự án xây

dựng cơ sở hạ tầng và chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong và ven Vườn

Quốc gia Cát Tiên cũng cần phải được đảm bảo thực hiện nghiêm túc, nhằm

tránh những tác động xấu đến sinh cảnh của loài bò tót, làm ảnh hưởng đến

công tác bảo vệ và phát triển quần thể bò tót ở đây, như các dự án xây dựng

thủy điện, làm đường giao thông, … có thể dừng triển khai thực hiện đối với

những dự án, chương trình mà trong báo cáo đánh giá tác động môi trường xét

thấy cần thiết.

Mặt khác, việc duy trì sự kết nối với Khu Bảo tồn thiên nhiên và Di

tích Vĩnh Cửu cũng là nhiệm vụ chiến lược nhằm mở rộng sinh cảnh cho loài

bò tót, qua đó góp phần trong việc bảo vệ và phát triển quần thể bò tót ở

Vườn Quốc gia Cát Tiên.

3. Giám sát quần thể

Hoạt động giám sát quần thể cũng cần phải được thực hiện thường

xuyên. Để thực hiện việc này, trước tiên cần phải tập huấn cho nhân viên

phòng Khoa học – Kỹ thuật và các nhân viên Kiểm lâm Vườn Quốc gia Cát

Tiên để xây dựng mạng lưới cộng tác viên trên toàn Vườn. Sau đó sẽ xây

dựng các phiếu giám sát để cung cấp cho các cộng tác viên tại các trạm Kiểm

lâm và bộ cơ sở dữ liệu cho nhân viên kỹ thuật để tổng hợp dữ liệu về bò tót

theo tháng hay theo quí từ thông tin của mạng lưới cộng tác viên. Qua hoạt

động giám sát thì Vườn Quốc gia Cát Tiên sẽ biết được tình trạng của các đàn

62

bò tót, khu vực phân bố, qui luật hoạt động và di chuyển, … Hàng tháng hay

hàng quí, nhân viên kỹ thuật sẽ tổng hợp và báo cáo, tham mưu cho lãnh đạo

Vườn những khu vực và những giải pháp cần thiết để bảo vệ các đàn bò tót.

Ngoài ra, nếu điều kiện cho phép thì nên tiến hành gắn hoa tiêu định vị vệ tinh

trên một số cá thể bò tót để thuận lợi cho hoạt động giám sát bò tót.

4. Kiểm soát hoạt động chăn thả gia súc

Chăn thả gia súc là một trong các mối đe dọa tiềm ẩn đối với sự tồn tại

và phát triển của quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên do nguy cơ lây

lan dịch bệnh. Vì vậy, cần phải kiểm soát và hạn chế các tác động từ việc

chăn thả gia súc của người dân trong khu vực ven Vườn Quốc gia Cát Tiên,

để thực hiện tốt hoạt động này, cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:

- Xây dựng hàng rào ở các khu vực người dân thường chăn thả gia súc

nhằm ngăn cản gia súc vào Vườn Quốc gia Cát Tiên.

- Phối hợp với địa phương qui hoạch khu vực chăn thả gia súc tập trung

cho người dân ven Vườn.

- Cùng với chính quyền địa phương tuyên truyền người dân thay đổi tập

quán chăn thả rông gia súc. Hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi gia súc, cung cấp cỏ

giống và hướng dẫn kỹ thuật trồng cỏ tạo thức ăn cho gia súc đối với người dân.

Ngoài ra, cũng cần phải phối hợp với địa phương và người dân thực

hiện hoạt động tiêm ngừa và kiểm soát dịch bệnh cho gia súc nuôi, nhằm

phòng ngừa, ngăn chặn lây lan dịch bệnh từ gia súc nuôi sang bò tót và các

loài động vật hoang dã khác.

5. Hoạt động tuyên truyền giáo dục

Hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về bảo tồn đa

dạng sinh học, bảo vệ môi là một trong các biện pháp hữu hiệu, ít tốn kém, có

63

tác động lâu dài, vì vậy đã được Vườn Quốc gia Cát Tiên quan tâm thực hiện,

trong đó hoạt động chuyên đề về bò tót, như tổ chức cuộc thi vẽ tranh với chủ

đề các đe dọa đối với bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên cho đối tượng là học

sinh cấp Trung học cơ sở ven Vườn; in ấn tờ rơi, áo thun, nón, thời khóa biểu,

…. thể hiện các nội dung tuyên truyền bảo vệ bò tót. Tuy nhiên, những hoạt

động trên cần phải được quan tâm thực thực hiện thường xuyên, liên tục đối

với nhiều đối tượng, từ cán bộ địa phương, người dân sống ven rừng, giáo viên,

học sinh, ….

6. Biện pháp tăng cường hiệu lực của pháp luật

Ở Việt Nam, Bò tót là một trong số các loài động vật được ưu tiên bảo

tồn cao trong nhiều năm nay. Chúng được qui định bảo vệ trong các Nghị

định 39/CP, 18/HĐBT, 48/2002/NĐ-CP, 32/2006/NĐ-CP. Tuy nhiên, các vụ

săn bắn, đánh bẫy và buôn bán bất hợp pháp bò tót và các sản phẩm từ bò tót

vẫn diễn ra và là mối đe dọa chính đối với sự tồn tại và phát triển của loài này

ở Vườn Quốc gia Cát Tiên. Do việc xử lý các vụ vi phạm liên quan đến bò tót

chưa nghiêm, hình thức xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo

vệ rừng và quản lý lâm sản hiện nay đang áp dụng theo Nghị định số

159/2007/NĐ-CP, ngày 30/10/2007 là còn thấp, chưa đủ sức răn đe, giáo dục

người vi phạm. Vì vậy, cần phải có tăng cường quản lý bằng pháp luật để bảo

vệ loài bò tót bằng cách xử lý nghiêm các vụ vi phạm liên quan đến bò tót và

tăng nặng hơn hình thức xử phạt để đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với các

vụ vi phạm săn bắn, bẫy bắt và buôn bán bò tót và các sản phẩm từ bò tót.

Ngoài ra, cũng cần tăng cường quản lý bằng pháp luật thông qua tăng

nặng khung xử phạt đối với các vụ việc vi phạm như phát rừng làm nương

rẫy, chăn thả gia súc nuôi vào rừng, … các hoạt động vi phạm khác làm ảnh

hưởng đến sinh cảnh và đe dọa sự tồn tại và phát triển của bò tót.

64

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên ước tính có 91 cá thể, với 18 đàn

I. Kết luận

được ghi nhận trên 33 khu vực, tập trung chủ yếu ở khu vực Nam Cát Tiên.

Số cá thể trung bình của mỗi đàn là 5,1 cá thể; đa số các đàn nhỏ (1-12 cá

thể), đàn nhiều nhất là trên 12 cá thể. Tỷ lệ cấu trúc tuổi của cá thể trưởng

thành, bán trưởng thành và con non khoảng: 36 : 10 : 15. Tỷ lệ giới tính đực

trưởng thành/ cái trưởng thành khoảng 0,65 - 0,85. Mật độ cá thể trung bình

trên toàn Vườn 1,3 cá thể/1.000ha, cao nhất ở Nam Cát Tiên với 1,8 cá

2. Trong số 8 dạng sinh cảnh chính ở VQG Cát Tiên, bò tót hoạt động ở 5

thể/1.000ha.

dạng: Rừng hỗn giao nữa rụng lá, Rừng thứ sinh hỗn giao tre nứa, Rừng

tre nứa thuần loại, Trảng cây bụi ven suối và bàu sình và Trảng cỏ cây bụi.

Các kiểu sinh cảnh: Trảng cỏ cây bụi và Rừng thứ sinh hỗn giao tre nứa là

những nơi bò tót thường ra kiếm ăn và hoạt động nhiều nhất. Tại VQG Cát

Tiên đã xác định được 35 điểm cung cấp nước uống cố định cho bò tót và 8

3. Đã xác định được 144 loài thực vật là thức ăn của bò tót, thuộc 28 họ, 64% số

điểm muối khoáng bò tót đến liếm.

loài cây thức ăn thuộc họ Cỏ (Poaceae). Bộ phận thực vật bò tót hay ăn nhất

4. Bò tót thường hoạt động buổi sáng (từ 4 – 5 giờ đến 8 – 9 giờ) và buổi chiều

lá cỏ và lá cây bụi (61%) và ngọn cây (30%).

(từ 15 – 16 giờ đến 20 – 21 giờ). Bò tót luôn sống và hoạt động theo đàn, có

con đực khỏe là đầu đàn. Bò sinh sản mỗi năm 1 lứa và mỗi lứa 1con và sinh

con rải rác vào nhiều tháng trong năm.

5. Có 5 mối đe dọa đến quần thể bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên là sắn bắn và

65

bẫy bắt; sinh cảnh bị thu hẹp, dịch bệnh tự nhiên, hạn chế trao đổi di truyền

6. Đã đề xuất 6 nhóm giải pháp cơ bản để tăng cường bảo tồn quần thể bò tót ở

và sinh cảnh bị tác động. Trong đó, săn bắn, đánh bẫy là mối đe dọa cao nhất.

Vườn Quốc gia Cát Tiên: Kiểm soát săn bắn, đánh bẫy; Bảo vệ sinh cảnh

và mở rộng sinh cảnh; Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức và tăng

cường hiệu lực của pháp luật.

1. Vườn Quốc gia Cát Tiên cần phối hợp với địa phương, các ngành chức năng

II. Kiến nghị

tiến hành đồng thời 6 giải pháp theo đề xuất trên để bảo vệ quần thể bò tót ở

2. Cần tiến hành các nghiên cứu sâu hơn về sinh học sinh thái của quần thể bò

Vườn Quốc gia Cát Tiên.

tót ở VQG Cát Tiên để có cơ sở xây dựng các biện pháp quản lý và bảo tồn

tốt hơn.

66

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Sách Đỏ Việt Nam - Phần 1: Động

vật, Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.

2. Chính phủ Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2006, Nghị

Định số 32/2006/NĐ-CP về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy

cấp quý hiếm.

3. Cục Kiểm lâm, Dự án SPAM, 2003, Sổ tay hướng dẫn giám sát và điều

tra đa dạng sinh học, NXB Giao thông vận tải.

4. Dự án bảo tồn bò hoang dã Việt Nam, 2006, Hợp phần quốc gia và hợp

phần địa phương, báo cáo hoạt động số 4, tháng 10/2005 – 10/2006.

5. Dự án bảo tồn bò hoang dã Việt Nam, 2007, Hợp phần quốc gia và hợp

phần địa phương, báo cáo hoạt động số 5, tháng 11/2006 – 12/2007.

6. Đặng Huy Huỳnh (1986), Sinh học và sinh thái học các loài thú móng

guốc ở Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

7. Đặng Huy Huỳnh và Hoàng Minh Khiêm (1987), “Nhu cầu dinh dưỡng

và khả năng cung cấp thức ăn cho 3 loài thú móng guốc trong hệ sinh

thái rừng nhiệt đới ẩm thường xanh”, Tạp chí Sinh học.

8. Đặng Huy Huỳnh, Đào Văn Tiến, Cao Văn Sung, Phạm Trọng Ảnh,

Hoàng Minh Khiên (1994), Danh lục các loài thú (Mammalia) Việt

Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

9. Đỗ Tước (2005), “Chuyên đề đánh giá tài nguyên động vật rừng toàn

quốc”, Chương trình điều tra, đánh giá và theo dõi diễn biến tài nguyên

rừng toàn quốc 2001-2005, Trung tâm Tài nguyên và Môi trường, Viện

Điều tra và Quy hoạch Rừng, Hà Nội.

10. Lê Vũ Khôi (2000), Danh lục các loài thú ở Việt Nam, Nxb Nông

67

nghiệp, Hà Nội.

11. Nguyễn Mạnh Hà (2005), Kết quả điều tra bò tót (Bos gaurus H.

Smith, 1827) ở Khu Bảo tồn Thiên nhiên Ea Sô, tỉnh Đăk Lắc. Trung

tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường/Nagao Natural

Environment Foundation, Hà Nội.

12. Nguyễn Mạnh Hà (2008), Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học – sinh

thái và bảo tồn loài bò tót (Bos gaurus smith, 1827) ở Việt Nam.

13. Nguyễn Xuân Đặng, Hà Văn Tuế và nnk 1999, Kết quả điều tra cây

thức ăn tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus annamitucus) ở Vườn

Quốc gia Cát Tiên.

14. Nguyễn Xuân Đặng và Lê Xuân Cảnh, 2009, Phân loại học lớp thú

(Mammalia) và đặc điểm khu hệ thú hoang dã Việt Nam, NXB Khoa

học tự nhiên và Công nghệ quốc gia.

15. Phạm Nhật, Nguyễn Xuân Đặng, Gert Polet, 2001, Sổ tay ngoại nghiệp

nhận diện các loài thú của Vườn Quốc gia Cát Tiên, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh.

16. Vườn Quốc gia Cát Tiên, 2000, Báo cáo điều tra thảm thực vật rừng

Vườn Quốc gia Cát Tiên.

17. Vườn Quốc gia Cát Tiên, 2001, Báo cáo kết quả điều tra xây dựng

danh lục động vật hoang dã ở Vườn Quốc gia Cát Tiên.

18. Vườn Quốc gia Cát Tiên, 3/2004, Điều tra danh lục các loài động thực

vật thuỷ sinh ở Vườn Quốc gia Cát Tiên.

TIẾNG ANH

19. Byers, O., S. Hedges, & U.S. Seal (1995), Asian wild cattle conservation

assessment anti management plan workshop, World Conservation Union

68

and Species Survival Commission, Gland, Switzerland.

20. Choudhury, A. ( 2002), “Distribution and conservation of the Gaur

Bos gaurus in the Indian Subcontinent”, Mammal Review, 32(3).

21. Conry, P.J. (1981), Habitat selection and Use, Movement, and Home

range of Malayan gaur (Bos gaurus hubbacki) in central Pahang,

Malaysia, Master of Science Thesis, Univeristy of Montana, USA.

22. Conry, P. J. (1989), “Gaur (Bos gaurus) and development in

Malaysia”, Biological Conservation.

23. David Murphy, 2001, Mammal observations in Cat Tien National Park,

Viet Nam 2000 – 2001, Teachical report No 35, WWF, CTNP

conservation project.

24. Duckworth, J.W., and S. Hedges (1998), A Review of the Status of

Tiger, Asian Elephant, Gaur, and Banteng in Viet Nam, Lao,

Cambodia, and Yunnan (China), with Recommendations for Future

Conservation Action, WWF Indochina Programme, Hanoi, Viet Nam.

25. Lekagul B. et Me Nely J.A., 1977: Mammals of Thailand. Bangkok

26. Le Vu Khoi (1995), “The status of wild cattle and their conservation in

Vietnam”, Asian wild cattle conservation assessment and management

plan workshop, IUCN/SSC Conservation Breeding Specialist Group.

27. Ling, S. D. (2000). A survey of wild cattle and other mammals, Cat

Tien National Park, Vietnam. Dong Nai, Vietnam: Cat Tien National

Park Conservation Project.

28. Hayes, B. (2004), Wild cattle survey of Cat Tien National Park -

Vietnam. Technical Report No. 47, WWF - Cat Tien National Park

Conservation Project, Vietnam.

69

29. Hedges, S. (1995), Asian wild cattle and buffalo: draft status report

and conservation action plan (parts I and II), World Conservation

Union and Species Survival Commission, Gland, Switzerland.

30. Heinen, J.T. and Srikosamatara S. (1995), “Status and Protection of Asian

Wild Cattle and Buffalo”, Conservation Biology, 10(4).

31. Nguyen Manh Ha (2007), Assessment the population of the gaur (Bos

gaurus) and the banteng (Bos javanicus) in Cat Tien National Park and

Ea So Nature Reserve, Southern Vietnam, CRES/Nagao Natural

Environment Foundation, Hanoi, Vietnam.

32. Nguyen, M. H. (2008). Declining of the gaur and banteng in Ea So

Nature Reserve, Yok Don National Park and Cat Tien National Park,

Vietnam. Oryx.

33. IUCN (2009), The 2009 IUCN Red List of Threatened Species

(www.iucnredlist.org).

34. Men Soriyun (2001), “Status and distribution of wild cattle in

Cambodia”, Tigerpapper.

35. Prayurasiddhi, T. (1997), The Ecological separation of Gaur (Bos

gaurus) and Banteng (Bos javanicus) in Huai Kha Khaeng Sanctuary,

Thailand, Thesis of Doctor of Philosophy, The University of

Minnesota, USA.

36. Srikosamatara, S., and V. Suteethorn (1995), “Populations of gaur and

banteng and their management in Thailand”, Natural History Bulletin

of the Siam Society.

37. Steinmetz, R. (2004), “Gaur (Bos gaurus) and Banteng (B. javanicus)

in the lowland forest mosaic of Xe Pian Protected AreaLao PDR:

70

abundance, habitat use, and conservation”, Mammalia.

38. Nguyen Trung Thanh, Sem Genini, Linh Chi Bui, Peter Voegeli,

Gerald Stranzinger, Jean-Paul Renard, Jean-Charles Maillard, and Bui

Xuan Nguyen (2007), Genomic conservation of cattle microsatellite

loci in wild gaur (Bos gaurus) and current genetic status of this species

in Vietnam. BMC Genet.

71

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Tổng hợp số đo kích thước của 175 dấu chân bò tót

STT

Tuyến/Khu vực điều tra

Số đo kích thước dấu chân (cm)

Số đo

(cm)

>9cm 8 - 9cm

< 8cm

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

1 Ven bàu Sấu - Bàu Sấu

9

1

2

9

1

Bàu cá Trê - Bàu sấu

3

10

1

4

10.5

1

5

8.5

1

6

8

1

Bàu nai cạp - Bàu Sấu

7

13

1

Bàu 105 - Đồi hổ-Bàu Sấu

8

7

1

Trảng Bò - Sa Mách

9

9.9

1

10 Tuyến số 6 - Sa Mách

9.9

1

11 Bàu rau Muống - Núi Tượng

8.3

1

12

10

1

13

8.5

1

14

8.3

1

15 Trảng Dầu suối cạn - Núi Tượng

10

1

16

8.4

1

17

7.2

1

18

9.1

1

19 Bàu Voi lớn-Bàu mẹ con

10

1

20 Bàu trảng cỏ,bàu cây dầu

10

1

21

13.5

1

22

12.2

1

72

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(1)

23

10.5

1

24 Trảng tranh-Đa bông cua

11

1

25

9

1

26 Bàu đất sét - Đăk Lua

9.5

1

27

10

1

28 Trảng Đồng bào- Đắk Lua

12

1

29 Bàu Trâu - Đắk Lua

6

1

30 Mốc 1-Mốc 2 - Bàu đung

11

1

31 Trảng Bò - Sa Mách

12

1

32

6

1

33 Ranh giới CT- Vĩnh An

8.7

1

34 Suối cá lóc- Suối con

11

1

35

14.5

1

36

10

1

37

14

1

38

10.5

1

39

8

1

40

11

1

41

8

1

42

7

1

43

6.1

1

44

8.7

1

45

14.5

1

46

10

1

47

14

1

48

10.5

1

49 Bàu chim - Đồi khoáng

11

1

73

(4)

(5)

(6)

(1)

(2)

(3)

50 Suối Lớn - TK 531

8

1

51

8.5

1

52 Suối Lớn - TK 513

8

1

53 TK 497 - Bến Cầu

10

1

54 TK 497 + 504a - Bcầu

10.2

1

55 Hang dơi - Bàu Mum - BC

12.5

1

56

11.5

1

57

12

1

58

6

1

59 Hang Dơi - Bến Cầu

12

1

60

Bến Cầu - Bù Sa

11

1

61 Bù Sa - Mốc 50

8

1

62 Tiểu khu 423 - Bù Sa

12

1

63 TK 424 - Bù Sa

9.5

1

64 Phía Bắc Suối Đạ Lây

11

1

65 Bản K' Lo - K' Ích

14

1

66 Bản K' Lo

11

1

67 Bản K' Siêu 1

13

1

68 Bản K' Siêu 3

11

1

69 Trạm Tiên Hoàng

7.9

1

70

10

1

71

9.5

1

72

11

1

73

10

1

74 Trạm Tiên Hoàng - Đồi Mây

12.6

1

75 Trạm Đà cộ - Đồi Hoa thị

10.2

1

76

10

1

74

(1)

(2)

(4)

(6)

(3)

(5)

77 Trạm Đà cộ - Bàu Bo Bo

8.8

1

7

1

78

9.9

1

79

9.2

1

80 Bàu Bo Bo - Bàu Trâu

6.2

1

81 Bàu Trâu - Bàu Đất sét- ĐL

12

1

82 Tuyến Đất Đỏ - Suối Ràng

11

1

83 Suối K' Rai

8

1

84

12

1

85

9.5

1

86

11

1

87

14

1

88 Đầu nguồn suối Sa Mách

7.4

1

89

11

1

90

13

1

91

11

1

92 Trảng Cỏ Núi Tượng

7.9

1

93

8.5

1

94

10.5

1

95

9.2

1

96

7.5

1

97

7.2

1

98

11.5

1

99 Trung tâm Vườn - Bàu sấu

10.5

1

100 Ven Bàu sấu

10

1

101 Bàu sấu - Bàu Sen

9.2

1

102 Ven Bàu sấu - Đồi hổ

7.5

1

103

75

(1)

(2)

(4)

(5)

(3)

(6)

104 Bàu sấu - Trung tâm Vườn

7

1

105 Khu vực cây Si - Bàu C6

11

1

106 Khu vực Bàu Chim

8.5

1

107

10.5

1

108

9.4

1

109 Bàu Trâu- Đak Lua

9.2

1

110

7.5

1

111

6.2

1

112

7.2

1

113 B. KRít - B. Mẹ Con - B. 15 phút

11.5

1

114

12

1

115 Bàu Voi Lớn - Bàu Voi Nhỏ

10.5

1

116

9.2

1

117 Trung Tâm - Núi Tượng

11.4

1

118

7.1

1

119 Bàu Bộ Đội - Láng Dầu

10.5

1

120

9.2

1

121 Núi Tượng - Suối Hang Cá

9.8

1

122 Đồi Tượng - Bàu Ốc

8.6

1

123 Đồi Xanh A,B - Hang Dơi

12

1

124 Trạm KL Tà Lài - Thác C3

12.5

1

125

6.2

1

126 Thác C3 - Bàu Bo Bo

13.5

1

127 Bàu C6 - Bàu Chim

13

1

128

13.5

1

129

11.9

1

130 Sa Mách - Suối Ràng

11.7

1

76

(2)

(4)

(5)

(6)

(1)

(3)

131

6.5

1

132

7

1

133

11

1

134

9.2

1

135

11.5

1

136

9.4

1

137 Trảng Bò - Sa Mách

10

1

138

12

1

139

6.2

1

140

9.5

1

141

11.5

1

142

12.5

1

143

12

1

144

10.5

1

145

13.5

1

146

9.2

1

147

12.5

1

148 Bàu Chim

11.4

1

149

7.6

1

150

13.2

1

151 Suối lớn - Bàu Đắk lớ - Bàu Trâu

11

1

152 Suối lớn - Bàu Mum - Bàu Đình

9.8

Giang - Hang Dơi

1

153 Hang Dơi - Đầm Cau

8.6

1

154 Tuyến Cây Si

12

1

155 Đăng Hà - Bàu Đung

13

1

156

13.5

1

77

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(1)

157

11.9

1

158

11.7

1

159

6.5

1

160

6.5

1

161

6

1

162 Bàu Sấu - Bàu Sen Nhỏ

11.6

1

163

6

1

164

13.2

1

165

11.5

1

166

10

1

167

12

1

168

9.9

1

169

9.5

1

170 Núi Tượng

11

1

171

7

1

172

10.6

1

173

10.3

1

174

8.3

1

175

8.8

1

Tổng số

175

120

25

30

Phụ lục 2. Kết quả phân tích 35 mẫu nước uống cố định của bò tót tại Vườn

Quốc gia Cát Tiên

Kết quả phân tích (mg/l)

TT

Địa điểm

pH

P

K+ Na+

Ca2+ Mg2+ Fe2+

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

1 Bàu Sấu (*)

6,42 16,83

5,0

0,23 0,213 0,6

5,0

2 Bàu Cá trê

5,79 12,62

5,0

0,85 1,12

3,1

5,4

3 Bàu Cánh Máy bay

6,68 45,89 33,30 0,07 0,084 3,4

8,3

4 Đồi Nai Cạp

6,62 20,84 17,81 2,16 0,553 6,6

12,3

5 Bàu Sen lớn

6,78 16,83 10,12 Vệt 0,216 0,5

4,8

6 Bàu Sen nhỏ

6,59 20,84 22,93 0,14 0,195 0,7

6,6

7 Bàu 105

5,93 10,42 1,34

0,72 0,999 2,5

9,0

8 Bàu 102

5,14 10,42 3,90

0,12 0,976 3,5

7,8

9 Bàu Rau Muống

6,9 25,05 25,37 Vệt 5,42 61,0 42,0

10 Chòi chim-Núi Tượng

6,23

6,41

6,34 Vệt 0,126 2,4

6,7

11 Trảng dầu - Núi Tượng (*)

6,49 12,62 15,25 0,11 1,85

5,4

7,0

12 Bàu Bộ đội

5,31 12,62 10,12 0,07 2,45

4,4

2,3

13 Suối C 10- Núi Tượng

6,68 10,42 8,90

0,16 0,743 3,2

2,3

14 Bàu Trảng cỏ

6,44 15,63 8,29

0,24 0,601 0,7

5,2

15 Bàu Đà Mý

6,41

4,20

3,17

0,53 0,42 1.00

2,5

16 Bàu cây dầu

6,46

6,41

6,95

0,27 0,234 1,7

4,6

17 Bàu Krit

6,49

8,41

6,95

0,09 0,162 2,5

6,3

18 Bàu 15 phút

6,44

7,21

6,34

0,16 1,73

3,8

4,1

19 Bàu Đất sét (*)

6,53 10,42 3,90

0,56 1,07

3,4

5,2

20 Bàu Chim

6,22

8,41

2,56

0,23 0,629 0,7

3,5

21 Bàu Trâu (Đắk Lua)

6,13

8,41

2,80

5,36 1,17

0,5

3,8

22 Suối Đôi

6,15

2,20

1,22

0,12 0,109 0,3

2,3

23 Bàu Khoáng (Sa mách) (*)

6,84 31,26 29,28 0,11 1,04 5.00 65,0

78

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

24 Suối Krai lớn

6,45

5,21

1,95 Vệt 0,141 0,9

2,9

25 Bàu Chim ( Phước Sơn) (*)

6,45

5,21

3,17

0,08 0,173 1,3

6,2

26 Bàu Trâu

4,96

1,20

0,61 Vệt 0,084 0,8

1,6

27 Suối Đá

6,44

6,41

2,44

0,1 0,131 1,2

3,7

28 Suối Đa Thai (Hang dơi)

6,47

4,20

1,34

0,16 0,272 0,9

2,6

29 Bàu Đăk lớ

4,9

1,20

0,61 Vệt 0,103 0,6

2,1

30 Suối Lạnh

6,35

4,20

1,95 Vệt 0,164 0,5

3,3

31 Bàu Đá (Phước Sơn)

6,7

4,20

3,78 Vệt 0,408 1.00

6,2

32 Bàu Đình Rách

4,85

1,20

0,61 Vệt 0,089 0,5

1,9

33 Bàu Đình Giang

5

2,20

1,83

0,07 1,31

2,1

3,4

34 Đầm Cau

5,03

4,20

1,34

0,08 0,356 0,4

2,0

35 Bàu Dung- Đăng Hà (*)

5,28

2,20

2,56 Vệt 0,079 0,3

2,2

79

Ghi chú: (*) Là các điểm khoáng trùng với điểm nước cố định

Phụ lục 3. Danh lục các loài cây thức ăn của bò tót ở Vườn Quốc gia Cát Tiên

STT TÊN VIỆT NAM

TÊN KHOA HỌC

Dạng sống

Sinh cảnh ghi nhận

Bộ phận sử dụng

1. HỌ THƯ DỰC

THLYPTERIACEAE Thelypteris triphylla (Sw.) Iwats..

Lá, thân RTS

K

1 Ráng thư dực 3 lá 2. HỌ GẮM

GNETACEAE

Lá,

Gnetum gnemon L.var.griffithii Margf.. ACANTHACEAE

Thunbergia fragrans Roxb.. Lá, thân

4. HỌ RAU DỀN

AMARANTHACEAE

2 Bét (lá nhíp) 3. HỌ Ô RÔ 3 Cát đằng thơm 4 Cỏ xước

Lá, thân

D D C

RTS TC TC

Achyranthes aspera L.

5. HỌ TRÚC ĐÀO

APOCYNACEAE

Lòng mức Trung bộ

5

T

Lá, thân RHG

6 Lòng mức ngờ

T

Lá, thân RHG

Lá, thân RHG

Wrightia annamensis Eb.& Dub.. Wrightia dubia (Sims) Spreng. Wrightia pubescens R. Br. Subsp. Lnata. (Bl.) Ugin

80

ASTERACEAE

g

8

C

Lá, thân RTS

7 Thừng mức lông 6. HỌ CÚC Cúc áo hoa vàng (Kim hoa) Bọ xít (Cúc bọ xít)

Spilanthes iabadacensis A.H.Moore. Synedrella nodiflora (L.) Lá, thân RTS Gaertn Vernonia cinerea (L.) Less. Lá, thân RTS

7. HỌ CHÙM ỚT

BIGNONIACEAE

Lá, ngọn RTS

Stereospermum sp.

EUPHORBIACEAE

C C G T g T

Lá, ngọn VSCB RTS RTS

Antidesma Sp. Bridelia balansae Tutcher. Lá Bridelia harmandii Gagn.. Lá Mallutus philippensis (Lamk.) Muell.Arg. Phylanthus reticulata Poit. Lá, ngọn Sauropus sp.

Lá, ngọn RTS TC RTS/TC

9. HỌ ĐẬU

FABACEAE

9 10 Cúc hoa tím 11 Quao núi 8. HỌ THẦU DẦU 12 Chòi mòi 13 Đỏm Balanse 14 Đỏm Harmand Cách kiến (Ba 15 chia) 16 Chùm ruột 17 Bồ ngót 18 Móng bò 19 Sục sạc tái 20 Trắc bàm 21 Tràng qủa 22 Mắc mèo

g g T D C D T D

23 Đậu ma

T

Lá, ngọn RTS

D

Lá, ngọn RTS Bauhinia sp Crotalaria pallida Aiton. Lá, ngọn RTS Lá, ngọn RTS Dalbergia sp Lá Desosdium sp. RTS Mucuna pruriens (L.) DC.. Lá RTS Pueraria phaseoloides (Roxb.) Banth.. Pueraria montana (Lour.) Merr..

Lá, ngọn RTS

24 Sắn dây rừng 10. HỌ LỘC VỪNG

LECYTHIDACEAE Barringtonia acutangula (L.) Gaertn.

LEEACEAE

Leea sp

RTS TC

25 Chiếc (Lộc vừng) 11. HỌ CỦ RỐI 26 Củ rối

12. HỌ BÔNG

MALNACEAE

g T

Abelmoschus moschatus ssp. Lá, ngọn RHG/TC C Lá, ngọn TC/RHG C Sida rhombifolia L.

81

MYRSINACEAE

27 Bụp nhân sâm 28 Ké hoa vàng 13. HỌ ĐƠN NEM 29 Cơm nguội

Ardisia sp.

RHG/TC T

14. HỌ RAU MƯƠNG 30 Rau dừa nước

VSCB C

ONAGRACEAE L.adscendens (L.)Hara.

PIPERACEAE

15. HỌ HỒ TIÊU 31 Lấu tuyến

Psychotria adenophyla Wall. Lá, ngọn RHG/TC T

RUTACEAE

Lá Clausena dimidiata Tan. Euodia. lepta Spreng.) Merr. Lá Lá Lá Lá

RHG RHG

17. HỌ BỒ HÒN

SAPINDACEAE

RTS/RHG g RTS/RHG T RTS/RHG T T T TC/TN g

16. HỌ CAM QUÝT 32 Mơ rây 33 Ba gạc 34 Dấu dầu háo ẩm E. oreophila Guill. 35 Ba gạc lá dẹp E. calophylla Guill. 36 Ba gạc lá xoan E. meliaefolia Benth. 37 Chôm chôm mật Nephenium meliferum Gagn Lá

18. HỌ HOA MÕM CHÓ

38 Cam thảo nam

TC/TN C

SCROPHULARIACEAE. Scoparia dulcis L.

SIMARUBACEAE

19. HỌ THANH THẤT

T

RTS

39 Sầu dâu cứt chuột Brucea javanica (L.) Merr. Lá

T

40 Bá bịnh

RTS

Lá Lá Lá

G G C

41 Lười ươi 42 Trôm hôi 43 Bố dại (Rộp)

RTS RTS RTS

Cò ke rũ (Giám lá rộng)

Eurycoma longifolia Jack.Subsp. Longifolia Scaphium macroporium Beumee S. foetida L. Corchorus aestuans L.. Grewia abutilifolia Vent,ex Juss

Lá Lá

T T

RTS RTS

44 45 Gai dầu hình thoi Triumfetta sp.

20. HỌ GAI

URTICACEAE

46 Đề gia Wallich 47 Mò đỏ

C T

Lá, ngọn RTS Lá, ngọn RTS

Debregeasia wallichiana (Wedd.) Wedd. Clerodendrum sp.

g g g

Lá RTS Lá, ngọn RTS Lá, ngọn RTS

82

21. HỌ A GẠO

AGAVACEAE

48 Tu hú bầu dục G. elliptica J.E.Sm. 49 Ba gạt V. canescens Kurz. 50 Bình linh vàng chanh V. limonifolia Wall. 51 Phát dủ bầu dục Dracaena elliptica. Thunb Lá Lá 52 Phát dủ Lá 53 Phất dủ mảnh

C T T

RTS/RHG RTS/RHG RTS/RHG

Trâm dài (Đuôi phượng)

Dracaena sp Dracaena gracilis. Wall Rhaphidophora decursiva (Roxb.) Schott.

ARECACEAE Areca triandra Roxb..

Lá Lá

23. HỌ CÓI

CYPERACEAE

Lá Lá

C.rotundus L.. Scleria leevis Retzius.

24.HỌ CỦ MÀI

DIOSCOREACEA

VSCB RTS/RHG TC TC RTS

54 22. HỌ CAU DỪA 55 Cau dừa 56 Cau núi (Cau lào) A.laosensis Becc.. 57 Củ gấu 58 Cương láng 59 Củ mài (Hoài sơn) D.persimilis Prain & Bruck. Lá

25. HỌ CỎ

RTS/RHG D T T C C D

POACEAE

Lá, ngọn

C

60 Cỏ lá tre

TC

Lá, ngọn Lá, ngọn Lá, ngọn

C C C

61 Cỏ dị dình 62 Cỏ dị dĩnh 63 Sậy núi

TC TC TC

Lá, ngọn

C

64 Cỏ lá gừng

TC TN/RH G

g T g T T

65 Lồ ô 66 Tre gai 67 Tre lộc ngộc 68 Tre lồ ô 69 Tre gai nhỏ

Lá, măng Lá, măng VSCB Lá, măng VSCB Lá, măng TN/RHG Lá, măng VSCB

T

70 Nứa

Lá, măng VSCB

Lá, ngọn

C

71 Vĩ thảo dạng sâu

TC

Lá, ngọn

TC

C C

72 Cỏ vĩ thảo san 73 Dinh trú cong

Acroceras munroanum (Bal.) Henr. Aniselytron treutleri (O.Ktze.) Sojak. Aniselytron sp. Arundo donax Bl. Axonopus compressus (Sw.) P.Beauv. Bambusa procera A.Chev.& A Cam. B.blumeana Schultes. B. bambos ( L.) Voss. B. balcoa Roxb. B. flexuosa Schultes. B. chirostachyoides Kurz ex. Gamble. Brachiaria eruciformis (J.E.Sw.) Griseb. B. paspaloides (Presl.) C.E.Hubb. Cephalostachyum virgatum Lá, măng TN/RH

(Lồ ô)

Kurz.

G

74 Cỏ chỉ 75 Cỏ chỉ cong

C C

TC TC

76 Cầu dĩnh bò

Lá, ngọn

C

TC

77 Cỏ chân gà 78 Túc hình

C C

TC TC

Cynodon dactylon (L.) Pers. Lá, ngọn Lá, ngọn C. arcuatus Presl. Cyrtococcum patens (L.) A. Cam. Dactyloctenium Lá, ngọn aegyptiacum (L.) Willd. Digitaria violascens Link. Lá, ngọn D. setigera Roth.ex Roem.&Sch.var Setigera.

TC TC TC TC

79 Túc hình tơ Lá, ngọn 80 Cỏ túc hình hai sừngD. bicornis (Lam.) Roem& Sch Lá, ngọn 81 Túc hình đảo Timor D. timorensis (Kunth.) Bal. Lá, ngọn Lá, ngọn 82 Túc hình Patelot D. petelotti Henry.

C C C C

83 Cỏ mật 84 Cỏ lồng vực 85 Cỏ cát vĩ lông 86 Mần trầu

C C C C

TC TC TC TC

87 Cỏ tinh thảo lông

Lá, ngọn

C

TC

88 Tinh thảo đỏ 89 Tinh thảo hôi

C C

TC TC

Cỏ trứng nhện - Bần thảo rìa

90

C

Lá, ngọn

TC

91 Lau (đế)

T

Lá, ngọn

TC

92 Tre Nam bộ

T

Lá, măng RHG/TN

93 Tre rìa đen 94 Mum

G T

Lá, măng RHG/TN Lá, ngọn TN/RHG

95 Cỏ mồm mỡ

Lá, ngọn

C

TC

96 Cỏ tranh 97 Cỏ mồm u

C C

TC TC

98 Cỏ mồm nốt 99 Cỏ kê thảo

C C

TC TC

Echinochloa procera Lá, ngọn (Retz.) Hubb. E. crus-galli (L.) P.Beauvoir. Lá, ngọn Lá, ngọn Eulalia velutina O.Ktze. Eleusine indica (L.) Gaertn. Lá, ngọn Eragrostis pilosa (L.) P. Beauv. E. unioloides (Retz.) Lá, ngọn Nees.ex Stend. E. cilianensis (All.) Lindl. Lá, ngọn Eremochloa ciliaris (L.) Merr. Erianthus arundinaceus (Retz.) Jeswiel. Gigantochloa cochinchinencis A.Cam. Gigantochloa nigro-ciliata (Buse.) Kurz. Gigantochloa sp. Hymenachne acutigluma Gilliland. Imperata cylindrica (L.) P. Lá, ngọn Beauv. Ischaemum rugosum Salisb. Lá, ngọn I. barbatum var lodiculare Lá, ngọn (Nees.) Jans. Kerriochloa siamensis Hub. Lá, ngọn

83

TC

100 Hồng lô 101 Lưa 102 Le 103 Le lông trắng 104 Tre ba lá

C C T Lá, măng TN/RHG T Lá, măng TN/RHG C

Lá, ngọn Lá, ngọn Lá, ngọn Lá, ngọn Lá, ngọn

TC TC TC TC TC

TC TC TC

C C C C C C C C C T

105 Tu thảo đều 106 Cỏ ống 107 Kê to 108 Kê nước 109 Kê cao 110 San nước 111 Cỏ đuôi voi 112 Cỏ đuôi voi tím 113 Cỏ đuôi voi tơ 114 Sậy

C

Cỏ gạo (Nhẫn trục)

115

Lá, ngọn

TC

TC

C C

116 Cỏ lắt léo 117 Lách

Lá, ngọn Lá, ngọn VSCB

C C C

Cỏ bấc đuôi 118 chuột 119 Cỏ đuôi chó 120 Đuôi chồn tre

TC TC TC

Lá, ngọn

C

121 Cỏ đuôi chồn

TC

T

122 Nưa nhỏ

Lá, ngọn VSCB

C

123 Chít, dót

Narenga porphyrocoma Lá, ngọn (Hance.) Bor. Lá, ngọn VSCB Oryza sativa L. Oxytenanthera stockessi Burre. Lá, ngọn VSCB O. albociliata Munro. O. tenuispiculata A.Cam. Oplismenus compositus (L.) P.Beauv. Panicum repens L. P. maximum Jacq. P. paludosum Roxb. P. wallense Mez. Paspalum paspalodes Seribn. Lá, ngọn VSCB Lá, ngọn P. purpureum Schumach. P. alopecuroides (L.) Spreng. Lá, ngọn Lá, ngọn P. setaceum Forssk. Phragmites vallatoria (L.) Lá, ngọn VSCB Pseudoraphis brunoniana Griff. Rottboellia cochinchinensis (Lour.) W.D.Clayt. S. spontaneum L. Sacciolepis myosuroides Lá, ngọn (R.Br.) A.Cam Setaria viridis (L.) P. Beauv. Lá, ngọn S. palmifolia (Koen.) Staf .f. Lá, ngọn S. pallide-fusca (Schum.) Stap.f.& Hubb Schizostachyum aciculare Gamble. Thysanolaena maxima (Boxb.) O. Kize

Lá, ngọn VSCB

84

26. HỌ KIM CANG

SMILACACEAE

124 Kim cang

Smilax sp.

27. HỌ BÁCH BỘ

125 Bách bộ Pierre 126 Bách bộ củ

Lá Lá

STEMONACEAE Stemona pierrei Gagn. S. tuberosa Lour.

RTS/RHG RTS/RHG RTS/RHG

D D D

28. HỌ GỪNG

ZINGIBERACEAE

Riềng sẻ lớn ( 127 Mè tré) 128 Riềng rừng 129 Riềng xiêm 130 Lương khương 131 Mè tré bà

C C C C C

RTS/RHG RTS/RHG RTS/RHG RTS/RHG RTS/RHG

132 Sa nhân (Hu)

C

RTS/RHG

Alpinia globosa (Lour.) Lá Horaninov. Lá A.conchigera Griff. Lá A. siamensis K.Schum. A. chinensis (Retz.) Roscoe. Lá Lá Amomum villosum Lour. Amomum villosum var. xanthoides (Wall.) Hu. Boesenbergia rotunda (L.) Lá Mans.f. Catimbium bracteatum Roxb. Lá Lá

C C C

RTS/RHG RTS/RHG RTS/RHG

133 Bông nga truật 134 Riềng bẹ 135 Riềng không mũi C. muticun (Roxb.) Hott.

C. breviligulatum (Gagn.) Phamh. Costus speciosus Smith.

C C

136 Riềng mép ngắn 137 Chóc hoa trắng

Lá, ngọn

C C C

138 Mía dò (Cát lôi) Costus sp. 139 Lô ba trung bộ 140 Lô ba treo

Lá RTS/RHG Lá, ngọn RTS/RHG RTS/RH G/TC RTS/RHG RTS/RHG

Lá Lá Lá Lá

C C C C

141 Gừng nhọn 142 Gừng một lá 143 Gừng tía 144 Gừng gió

RTS/RHG RTS/RHG RTS/RHG RTS/RHG

Globba annamensis Gagn. Lá Lá G. pendula Roxb. Zinggiber acuminatum Valeton. Z. monophyllum Gagn. Z. purpureum Roseoe. Z. zerumbet (L.) J.E.Sm.

85

Ghi chú: Dạng sống: + C: Cỏ + T: Cây bụi hay Tiểu mộc;

+ D: Dây leo; + g: Gỗ nhỏ;

+ G: Gỗ lớn; + K: Khuyết thực vật;

Sinh cảnh ghi nhận: + RTS: Rừng thứ sinh; + RHG: Rừng hỗn giao;

+ TC: Trảng cỏ; + TN: Tre nứa;

+ VSCB: ven suối, cây bụi và bàu sình

Phụ lục 4: Cách cho điểm các mối đe dọa

TT Yếu tố đe dọa Thang điểm Tiêu chí xác định điểm

1 Săn bắn đánh bẫy 1 – 4 1: Ghi nhận trong vòng 5 năm

2: Ghi nhận trong vòng 3 năm

86

3: Ghi nhận trong vòng 2 năm

4: Ghi nhận trong vòng 1 năm

2 Sinh cảnh bị thu hẹp 1 – 4 1: Có thể bị thu hẹp sinh cảnh

2: Thu hẹp nhưng không đáng kể

3: Thu hẹp trong 3 năm gần đây

4: Thu hẹp liên tục hàng năm

3 Dịch bệnh tự nhiên 1 – 4 1: Có thể có dịch bệnh

2: Xãy ra trong khi nghiên cứu

3: Dịch nhỏ đối với bò tót

4: Dịch lớn làm chết bò tót

4 Hạn chế trao đổi di truyền 0 – 0: Quần thể > 100con, sinh

cảnh không bị chia cắt

1: Quần thể > 50 con, sinh

cảnh không bị chia cắt

2: Quần thể < 20 con, sinh

cảnh bị chia cắt ít

3: Quần thể < 20 con, sinh

cảnh bị chia cắt nhiều

4 Sinh cảnh bị tác động 1 – 4 1: Ít tác động

2: Tác động trung bình do khai

thác lâm sản ngoài gỗ

3: Tác động nhiều do canh tác

nông nghiệp trong vùng

sống của bò tót

4: Tác động cao do giao thông

và canh tác nông nghiệp

trong vùng sống của bò tót

87

Phụ lục 5: Một số hình ảnh minh họa

Ảnh 1: Nơi nằm nghỉ của bò tót

Ảnh 2: Đàn bò tót chụp tại Núi Tượng

88

Ảnh 3: Trảng cỏ ngập nước theo mùa (sinh cảnh ưa thích của bò tót)

Ảnh 4: Trảng cỏ sau kho đốt có kiểm soát (nơi bò tót thích ăn cỏ non và

liếm tro)

89

Ảnh 5: Điểm khoáng

Ảnh 6: Bò tót chết do bị đánh bẫy

90

Ảnh 7, 8, 9: Một số đe dọa đối với bò tót