BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ QUỐC PHÒNG
VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108
--------------------
NGUYỄN ĐĂNG ĐỨC
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ
HỖ TRỢ SUY GAN CẤP BẰNG PHƯƠNG PHÁP
THAY HUYẾT TƯƠNG THỂ TÍCH CAO
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI – 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108
--------------------
NGUYỄN ĐĂNG ĐỨC
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ
HỖ TRỢ SUY GAN CẤP BẰNG PHƯƠNG PHÁP
THAY HUYẾT TƯƠNG THỂ TÍCH CAO
Chuyên ngành: Gây mê hồi sức
Mã số: 972.01.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. BẾ HỒNG THU
2. TS. LÊ LAN PHƯƠNG
HÀ NỘI - 2023
i
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận án tiến sỹ với Đề tài
"Nghiên cứu hiệu quả điều trị hỗ trợ suy gan cấp bằng phương pháp hay huyết
tương thể tích cao". Luận án không chỉ là công sức của cá nhân tác giả mà còn
có sự giúp đỡ, hỗ trợ tích cực của nhiều cá nhân, tập thể đã đồng hành cùng tôi
trong quá trình nghiên cứu.
Trước hết, tôi xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Phó Giáo
sư – Tiến sỹ Bế Hồng Thu – Nguyên phó Giám đốc trung tâm Chống độc bệnh
viện Bạch Mai, người đã trực tiếp hướng dẫn Luận án cho tôi. Với sự quan tâm
sâu sắc và kiến thức khoa học uyên thâm, cô là nguồn động viên, nâng đỡ, cung
cấp cho tôi các kiến thức khoa học quý báu trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu cũng như quá trình công tác sau này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới Tiến sỹ Lê Lan Phương – Chủ nhiệm khoa Hồi sức tích cực, chống
độc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Từ những góp ý chuyên khoa sâu
sắc, sự nghiêm khắc nhưng đầy quan tâm, chia sẻ, cô đã tận tình hướng dẫn,
giúp tôi vượt qua nhiều khó khăn về chuyên môn cũng như thời gian hạn chế
trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận án.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô đã luôn bên tôi trong
quá trình nghiên cứu như Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Gia Bình, nguyên Trưởng
trung tâm Hồi sức tích cực bệnh viện Bạch Mai, Chủ tịch Hội Hồi sức Cấp cứu
và Chống độc Việt Nam; Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Quốc Kính, nguyên Giám
đốc Trung tâm Gây mê và Hồi sức Ngoại khoa, Phó chủ tịch thường trực Hội
Gây mê Hồi sức Việt Nam; Phó Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Phương Đông
nguyên Chủ nhiệm khoa A11 Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 ; Phó Giáo
sư – Tiến sỹ Nguyễn Minh Lý, Chủ nhiệm khoa GMHS Bệnh viện Trung ương
Quân đội 108, Chủ nhiệm bộ môn GMHS Viện nghiên cứu khoa học Y Dược
lâm sàng 108, Tiến sỹ Tống Xuân Hùng, Phó chủ nhiệm khoa GMHS Bệnh
viện Trung ương Quân đội 108, Tiến sỹ Nguyễn Trung Nguyên, Giám đốc
ii
Trung tâm Chống độc bệnh viện Bạch Mai… Các thầy cô là những tấm gương
nghiên cứu khoa học, luôn đồng hành, giúp đỡ, khuyến khích và đóng góp nhiều
ý kiến chuyên khoa quý báu cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc – Bệnh viện Bạch Mai, Ban
Lãnh đạo và tập thể nhân viên Trung tâm Chống độc, Phòng Kế hoạch tổng
hợp – Bệnh viện Bạch Mai, Bộ môn Gây mê hồi sức Viện nghiên cứu Y dược
học lâm sàng 108, các bác sỹ sau đại học chuyên ngành Hồi sức cấp cứu, chống
độc đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi về công tác chuyên môn cũng
như các thủ tục hành chính cần thiết để hoàn thành luận án.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới các bệnh nhân đã và đang điều trị
tại Trung tâm Chống độc bệnh viện Bạch Mai, những người dù trong quá trình
điều trị nhiều mệt mỏi về thể chất nhưng vẫn luôn lạc quan, không chỉ là thực
tiễn sinh động cho tôi hoàn thành các nhiệm vụ đề ra của luận án mà còn là tấm
gương giúp tôi vượt qua nhiều thời điểm khó khăn trong quá trình nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời tri ân tới tất cả các bạn bè, đồng nghiệp và người
thân đã luôn khuyến khích, nâng đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận án. Tình
thương yêu, sự sẻ chia và giúp đỡ về mọi mặt của cha mẹ, anh chị em trong gia
đình, vợ và các con yêu quý luôn là nguồn động viên, khích lệ lớn lao, tiếp thêm
động lực để tôi hoàn thành luận án này./.
Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2022
Nguyễn Đăng Đức
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ một công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2022
Tác giả luận án
Nguyễn Đăng Đức
iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................... viii
DANH MỤC BẢNG BIỂU ............................................................................ ix
DANH MỤC HÌNH, SƠ ĐỒ ........................................................................... ix
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN .......................................................................... 3
1.1. Suy gan cấp ............................................................................................... 3
1.1.1. Định nghĩa .............................................................................................. 3
1.1.2. Phân loại: ................................................................................................ 3
1.1.2.1. Phân loại suy gan cấp theo thời gian ................................................... 3
1.1.2.2. Phân loại theo nguyên nhân ................................................................ 3
1.1.2.3. Phân loại theo tình trạng có thể ghép gan hay không ghép gan .......... 6
1.1.3. Dịch tễ suy gan cấp ................................................................................ 6
1.1.4. Cơ chế bệnh sinh .................................................................................... 7
1.1.4.1. Cơ chế tổn thương gan trực tiếp .......................................................... 8
1.1.4.2. Cơ chế tổn thương gan qua trung gian miễn dịch ............................... 8
1.1.5. Chẩn đoán ............................................................................................. 13
1.1.5.1. Triệu chứng lâm sàng ........................................................................ 13
1.1.5.2. Triệu chứng cận lâm sàng .................................................................. 13
1.1.5.3. Một số căn nguyên suy gan cấp có xét nghiệm cận lâm sàng đặc trưng .. 14
1.1.6. Điều trị .................................................................................................. 15
1.1.6.1. Kiểm soát tình trạng não gan và phù não ........................................ 15
1.1.6.2. Bảo vệ đường thở .............................................................................. 18
1.1.6.3. Điều trị rối loạn về huyết động ......................................................... 18
1.1.6.4. Điều chỉnh về rối loạn đông máu ...................................................... 19
v
1.1.6.5. Điều trị tổn thương thận cấp ............................................................ 19
1.1.6.6. Điều trị nhiễm khuẩn ......................................................................... 20
1.1.6.7. Điều chỉnh các rối loạn về tiêu hóa và chuyển hóa .......................... 20
1.1.6.8. Hệ thống hỗ trợ gan nhân tạo ............................................................ 21
1.1.6.9. Ghép gan cấp cứu .............................................................................. 22
1.1.6.10. Điều trị cụ thể khác theo nguyên nhân ............................................ 22
1.1.7. Tiên lượng ............................................................................................ 23
1.1.7.1. Mô hình bệnh gan giai đoạn cuối (MELD) ....................................... 23
1.1.7.2. Một số tiêu chí tiên lượng khác ......................................................... 24
1.2. Thay huyết tương .................................................................................... 25
1.2.1. Khái niệm và lịch sử hình thành các thuật ngữ về thay huyết tương. .. 25
1.2.2. Nguyên lý của Thay huyết tương ......................................................... 26
1.2.2.1. Thay huyết tương bằng phương pháp ly tâm .................................... 26
1.2.2.2. Thay huyết tương bằng phương pháp dùng màng ............................ 27
1.2.3. Phân loại các hình thức thay huyết tương ............................................ 28
1.2.3.1. Thay huyết tương thể tích thấp ......................................................... 29
1.2.3.2. Thay huyết tương thể tích bình thường ............................................. 29
1.2.3.3. Thay huyết tương thể tích cao ........................................................... 29
1.2.4. Chỉ định – chống chỉ định của thay huyết tương ................................. 30
1.2.5. Các tác dụng không mong muốn, biến chứng của thay huyết tương thể
tích cao ........................................................................................................... 37
1.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về thay huyết tương thể
tích cao ........................................................................................................... 39
1.3.1. Trên thế giới ......................................................................................... 39
1.3.2. Tại Việt Nam ........................................................................................ 41
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........ 42
2.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 42
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân ................................................................. 42
vi
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân .............................................................. 42
2.1.3. Tiêu chuẩn loại khỏi nghiên cứu .......................................................... 43
2.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 43
2.2.1. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu ..................................................... 43
2.2.2. Thiết kế nghiên cứu ............................................................................. 43
2.2.3. Các phương tiện phục vụ cho nghiên cứu ............................................ 43
2.2.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu ........................................................................ 46
2.2.5. Các bước tiến hành nghiên cứu: ........................................................... 51
2.2.6. Tiến hành thay huyết tương thể tích cao. ............................................. 52
2.3. Phân tích và xử lý số liệu ........................................................................ 63
2.4. Đạo đức trong nghiên cứu ....................................................................... 65
2.5. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu ........................................................................ 66
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................... 67
3.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố liên quan đến tử vong
ở bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể tích cao ....................... 67
3.1.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân suy gan cấp .................. 67
3.1.2. Một số yếu tố liên quan đến tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp được thay
huyết tương thể tích cao ................................................................................. 77
3.2.1. Hiệu quả phương pháp thay huyết tương thể tích cao trong điều trị hỗ trợ
suy gan cấp. .................................................................................................... 86
3.2.2. Một số tác dụng không mong muốn của phương pháp thay huyết tương
thể tích cao trong điều trị hỗ trợ suy gan cấp. ................................................ 97
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN .......................................................................... 100
4.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố liên quan đến tử vong
ở bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể tích cao ..................... 100
4.2. Hiệu quả và một số tác dụng không mong muốn của phương pháp thay
huyết tương thể tích cao trong điều trị hỗ trợ suy gan cấp. ......................... 116
vii
4.3. Một số tác dụng không mong muốn và biến chứng của thay huyết tương
thể tích cao: .................................................................................................. 120
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN .......................................................................... 125
5.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố liên quan đến tử vong
ở bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể tích cao ..................... 125
5.2.Hiệu quả và một số tác dụng không mong muốn của phương pháp thay
huyết tương thể tích cao trong điều trị hỗ trợ suy gan cấp. ......................... 125
KIẾN NGHỊ ................................................................................................ 127
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÃ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..................................................... 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
viii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT Viết tắt Viết đầy đủ
1 APACHE II Bảng điểm đánh giá mức độ nặng trong 24 giờ đầu (Acute Physiology and Chronic Health Evaluation)
Polymerase chain reaction - Kỹ thuật phản ứng chuỗi 2 PCR polymerase
3 HATB Huyết áp trung bình
4 INF Interferon
5 IL Interleukin
Bảng điểm đánh giá suy tạng (Sequential Organ 6 SOFA Failure Assessment score)
7 BMI Body mass index (chỉ số khối cơ thể)
8 TTCĐ Trung tâm chống độc
Model for End-Stage Liver Disease (Mô hình bệnh 9 MELD gan giai đoạn cuối)
10 PEX Plasma exchange (Thay huyết tương)
High volume plasma exchange (Thay huyết tương thể 11 HPEX tích cao)
ix
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang Bảng Tên bảng
Bảng 1. 1. Phân loại suy gan theo thời gian [20], [21], [22] ............................ 4
Bảng 1. 2. Phân loại nguyên nhân suy gan cấp [1], [24], [25], [26], [27] ...... 5
Bảng 1. 3. Các yếu tố quyết định tiên lượng .................................................. 24
Bảng 1.4. Chỉ định thay huyết tương ............................................................. 31
Bảng 2.1. Thang điểm SOFA đánh giá mức độ suy tạng .............................. 47
Bảng 2.2. Đánh giá chỉ số BMI theo khuyến cáo của WHO dành riêng cho
người trưởng thành châu Á [102] .................................................................. 63
Bảng 3.1. Đặc điểm tuổi, giới ........................................................................ 67
Bảng 3.2. Đặc điểm thể trạng đối tượng nghiên cứu ..................................... 67
Bảng 3.3. Đặc điểm bệnh lý kết hợp .............................................................. 68
Bảng 3.4. Nguyên nhân gây suy gan cấp ....................................................... 69
Bảng 3.5. Đặc điểm lâm sàng trước khi thay huyết tương ............................ 70
Bảng 3.6. Phân độ não gan trước khi thay huyết tương ................................. 70
Bảng 3.7. Đặc điểm về huyết động trước thay huyết tương .......................... 71
Bảng 3.8. Đặc điểm về hô hấp trước thay huyết tương ................................. 71
Bảng 3.9. Giá trị xét nghiệm công thức máu trước khi thay huyết tương ..... 72
Bảng 3.10. Giá trị xét nghiệm đông máu cơ bản trước khi thay huyết tương ...... 74
Bảng 3.11. Giá trị xét nghiệm sinh hóa máu trước khi thay huyết tương ...... 74
Bảng 3.12. Giá trị xét nghiệm IL6 trước khi HPEX ...................................... 75
Bảng 3.13. Kết quả khí máu động mạch trước khi thay huyết tương ............ 75
Bảng 3.14. Mức độ nặng của bệnh nhân trước khi thay huyết tương ............ 77
Bảng 3.15. So sánh đặc điểm tuổi, giới, BMI của nhóm sống và tử vong .... 78
Bảng 3.16.. So sánh bệnh lý kết hợp của nhóm sống và tử vong .................. 78
x
Bảng 3.17. So sánh nguyên nhân suy gan cấp của nhóm sống và nhóm tử vong
........................................................................................................................ 79
Bảng 3.18. Đặc điểm lâm sàng trước khi thay huyết tương của nhóm sống và
nhóm tử vong ................................................................................................. 79
Bảng 3.19. So sánh mức độ não gan trước thay huyết tương của nhóm sống và
nhóm tử vong ................................................................................................. 80
Bảng 3.20. So sánh mức tình trạng hô hấp trước thay huyết tương của nhóm
sống và nhóm tử vong .................................................................................... 80
Bảng 3.21. So sánh tình trạng đông cầm máu của nhóm sống và nhóm tử vong .. 81
Bảng 3.22. So sánh các chỉ số sinh hóa máu của nhóm sống và nhóm tử vong . 81
Bảng 3.23. So sánh nồng độ của IL6 của nhóm sống và nhóm tử vong ........ 82
Bảng 3.24. So sánh kết quả khí máu động mạch trước khi thay huyết tương
giữa nhóm sống và nhóm tử vong .................................................................. 83
Bảng 3.25. So sánh mức độ nặng, thời gian nằm viện của bệnh nhân suy gan
cấp ở nhóm sống và tử vong .......................................................................... 83
Bảng 3.26. Mối tương quan của một số yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng với nguy
cơ tử vong ....................................................................................................... 84
Bảng 3.27. Một số yếu tố nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp ........... 85
Bảng 3.28. Số bệnh nhân qua các lần thay huyết tương thể tích cao ............. 86
Bảng 3.29. Hiệu quả cải thiện độ não gan, SOFA qua lần thay huyết tương thế
tích cao đầu tiên .............................................................................................. 88
Bảng 3.30. Hiệu quả cải thiện độ não gan, SOFA qua lần thay huyết tương thế
tích cao lần 2 .................................................................................................. 88
Bảng 3.31. Hiệu quả cải thiện độ não gan, SOFA qua lần thay huyết tương thế
tích cao lần 3 .................................................................................................. 89
Bảng 3.32. Hiệu quả cải thiện các chỉ số sinh hóa trước và sau lọc thay huyết
tương thứ 1 ..................................................................................................... 91
xi
Bảng 3.33. Hiệu quả cải thiện các chỉ số sinh hóa trước và sau lọc thay huyết
tương thứ 2 ..................................................................................................... 92
Bảng 3.34. Hiệu quả cải thiện các chỉ số sinh hóa trước và sau lọc thay huyết
tương thứ 3 ..................................................................................................... 93
Bảng 3.35. Hiệu quả cải thiện các chỉ số đông cầm máu trước và sau khi thay
huyết tương lần 1 ............................................................................................ 95
Bảng 3.36. Hiệu quả cải thiện các chỉ số đông cầm máu trước và sau thay huyết
tương lần 2 ...................................................................................................... 95
Bảng 3.37. Hiệu quả cải thiện các chỉ số đông máu trước và sau lọc lần 3 ... 96
Bảng 3.38. Các biến chứng qua các lần thay huyết tương ............................. 97
Bảng 3.39. Mức độ phản vệ qua các lần thay huyết tương ............................ 98
Bảng 3.40. Các biến chứng của thay huyết tương thể tích cao theo nhóm bệnh
nhân sống và tử vong ..................................................................................... 99
xii
DANH MỤC HÌNH, SƠ ĐỒ
Hình 1. 1. Cơ chế suy gan cấp [8], [33], [34] ................................................. 7
Trang Hình/sơ đồ Tên hình/sơ đồ
Sơ đồ 1.1. Suy đa tạng trong suy gan cấp [39] ............................................. 10
Hình 2.1. Bộ catheter lọc máu 2 nòng ............................................................ 53
Hình 2.2. Bộ quả lọc thay huyết tương Prismaflex TPE 2000 của hãng Gambro
......................................................................................................................... 53
Biểu đồ 3.1. Kết cục của bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể tích
cao .................................................................................................................. 77
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy gan cấp là tình trạng gan mất chức năng một cách đột ngột và nghiêm
trọng do các tác nhân khác nhau tác động vào gan dẫn tới sự khởi phát các dấu
hiệu não gan và bất thường về đông máu (INR > 1,5), trên những bệnh nhân
không có bệnh gan trước đó và thời gian từ khi vàng da đến khi xuất hiện dấu
hiệu não gan dưới 26 tuần [1], [2].
Theo thống kê của Trung tâm Chống độc (TTCĐ) Bệnh viện Bạch Mai từ
năm 2009 - 2011 cho thấy tỷ lệ ngộ độc thuốc gây độc cho gan có xu hướng
tăng từ 5,0% lên 8,7% trên tổng số bệnh nhân ngộ độc vào điều trị, trong đó tỷ
lệ tiến triển thành suy gan cấp rất cao, tử vong 50 - 66,7% [3], [4].
Trên thế giới, có nhiều nghiên cứu về suy gan cấp cả về dịch tễ, nguyên
nhân, cơ chế bệnh sinh, chẩn đoán và điều trị, tuy nhiên cho đến nay tỷ lệ tử
vong do suy gan cấp vẫn còn rất cao, nếu không được ghép gan, hiệu quả của
các các biện pháp hỗ trợ điều trị vẫn còn tranh cãi [1], [2], [5], [6]. Nguyên tắc
trong điều trị suy gan cấp là ngừng và loại bỏ ngay các tác nhân nghi ngờ gây
suy gan cấp, sử dụng thuốc giải độc đặc hiệu nếu do ngộ độc các chất [7], điều
trị hỗ trợ chờ gan hồi phục tự nhiên hoặc chờ đợi tiến hành ghép gan nếu có chỉ
định. Hiện nay ghép gan là giải pháp tối ưu để điều trị suy gan cấp. Tuy nhiên,
trong bối cảnh khan hiếm nguồn tạng và chi phí quá đắt, không phải bao giờ
cũng thực hiện được kỹ thuật này tại Việt Nam.
Thay huyết tương là một phương thức hỗ trợ gan suy đã được chứng minh
có hiệu quả tốt như giúp đào thải các độc tố [8], [9] cải thiện tình trạng tưới
máu não, điều hòa miễn dịch, thay huyết tương giúp kéo dài thời gian sống,
giảm tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp [10], [11], [12]. Từ những năm
đầu của thế kỷ 19, đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về thay huyết tương
trong điều trị hỗ trợ một số bệnh lý nói chung và hỗ trợ điều trị suy gan cấp nói
riêng [13], [14], [15]. Mặc dù hiệu quả của các phương thức thay huyết tương
với các thể tích khác nhau theo các nghiên cứu vẫn còn chưa thống nhất, nhưng
2
phương thức Thay huyết tương thể tích cao hiện nay được coi là biện pháp hỗ
trợ điều trị suy gan cấp hiệu quả hơn thay huyết tương thể tích thông thường ở
mức độ 2B, còn thay huyết tương thể tích cao đã được đưa vào khuyến cáo của
Hiệp hội thay huyết tương Hoa Kỳ với cấp độ bằng chứng 1A [14], [15], [16],
[19].
Trong nước hiện nay còn ít các nghiên cứu về hiệu quả, tác dụng không
mong muốn của phương pháp thay huyết tương ở bệnh nhân suy gan cấp đặc
biệt là phương pháp thay huyết tương thể tích cao. Vì vậy đề tài “Nghiên cứu
hiệu quả điều trị hỗ trợ suy gan cấp bằng phương pháp thay huyết tương thể
tích cao” được thực hiện với 2 mục tiêu:
1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trước thay huyết tương thể
tích cao ở bệnh nhân suy gan cấp và một số yếu tố liên quan đến tỷ lệ tử vong.
2. Đánh giá hiệu quả hỗ trợ điều trị suy gan cấp và một số tác dụng không
mong muốn của phương pháp thay huyết tương thể tích cao.
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Suy gan cấp 1.1.1. Định nghĩa
Suy gan cấp được Trey C và Davidson cùng cộng sự mô tả lần đầu tiên
vào năm 1970, là tình trạng mất chức năng một cách nghiêm trọng và đột ngột
của gan do các tác nhân khác nhau tác động vào gan dẫn tới sự khởi phát các
dấu hiệu não gan và bất thường về đông máu (INR > 1,5) trên những bệnh nhân
không có bệnh gan trước đó và diễn biến bệnh từ khi vàng da cho đến khi xuất
hiện dấu hiệu não gan dưới 26 tuần [20], [21].
1.1.2. Phân loại
Có 3 cách phân loại thường được sử dụng: - Phân loại theo thời gian: từ khi có dấu hiệu vàng da đến khi có dấu hiệu
não gan.
- Phân loại theo nguyên nhân gây suy gan cấp. - Phân loại theo tình trạng có thể ghép gan. 1.1.2.1. Phân loại suy gan cấp theo thời gian
Các tiêu chí phân loại suy gan cấp theo thời gian từ khi có dấu hiệu vàng
da đến khi có dấu hiệu não gan được đưa ra bởi 3 tác giả tiêu biểu là O’Grady
(1993) [22], Bernuau (1986) [21] và Fujiwara cùng Sugawara (2012) [22] thành
suy gan tối cấp, cấp và bán cấp (Bảng 1.1). 1.1.2.2. Phân loại theo nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân gây suy gan cấp khác nhau, từ các nguyên nhân
nội sinh trong cơ thể như di truyền, miễn dịch...gây nên suy gan cấp, đến các
yếu tố bên ngoài tác động trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên suy gan cấp và có
thể tập trung thành các nhóm nguyên nhân nhân tại Bảng 1.2.
4
Bảng 1. 1. Phân loại suy gan theo thời gian [20], [21], [22]
Thời gian từ khi vàng da Các nguyên nhân Phân loại đến não gan
1. O’Grady [22]
Paracetamol, ischaemia, phản
Tối cấp 0–1 tuần ứng với thuốc, các ngộ
độc(amanita)
Cấp 1–4 tuần Viêm gan virus B, A và E
Tổn thương gan liên quan
4–26 tuần đến thuốc không phải Bán cấp
paracetamol, Viêm gan thể
ẩn
2. Bernuau [23]
Viêm gan do virus, Cấp <2 tuần paracetamol, các ngộ độc
Viêm gan do virus, Bán cấp >2 tuần tới vài tháng paracetamol, các ngộ độc
3. Fujiwara [24]
Cấp <10 ngày Viêm gan virus A, B
Mang virus viêm gan B Bán cấp 11 ngày –8 tuần không triệu chứng
Suy gan khởiphát Viêm gan tự miễn, Viêm gan >8 tuần muộn (LOHF) thể ẩn
5
Bảng 1. 2. Phân loại nguyên nhân suy gan cấp [1], [24], [25], [26], [27]
Phân nhóm Các nguyên nhân
Virus Viêm gan A, B, D, E, EBV, CMV, HSV-1, 2, VZV,
Parvovirus B19, adenovirus, virus Dengue
Các thuốc kháng sinh: co-amoxiclav, erythromycin, septrin,
nitrofurantoin, flucloxacillin
Các thuốc kháng nấm: fluconazole, itraconazole
Thuốc kháng lao: isoniazid, rifampicin, pyrazinamide
Các thuốc kháng virus: nelfinavir, nevirapine, abacavir,
efavirenz Liên quan đến Thuốc hoá chất: thalidomide thuốc Các thuốc chống co giật: phenytoin, valproate, carbamazepine
Các thuốc giảm đau: paracetamol, NSAIDs
Nguyên nhân khác: total parenteral nutrition, statins,
halothane, oral hypoglycaemics, β-interferon, herbal
remedies, cocaine, MDMA (ecstasy), propylthiouracil, các
thuốc chống loạn thần
Liên quan đến AFLP, HELLP, tiền sản giật, sản giật
có thai
Amanita phalloides, dung môi công nghiệp, phosphorus, Ngộ độc carbon tetrachloride
Mạch máu Hội chứng Budd- Chiari, viêm gan do thiếu máu cục bộ gan,
huyết khối mạch gan
Xâm lấn Lymphoma, carcinoma, di căn , haemophagocytic syndromes
Khác Viêm gan tự miễn, sốc nhiệt, chấn thương vùng gan, bệnh
Wilson cấp, AIH
6
1.1.2.3. Phân loại theo tình trạng có thể ghép gan hay không ghép gan
[28]
- Tình trạng có thể ghép gan: Bệnh nhân có thể ghép gan với các nguyên
nhân gây suy gan do ngộ độc thuốc (paracetamol), viêm gan virus (A,B,E),
viêm gan tự miễn.
- Tình trạng không thể ghép gan: Trong trường hợp suy gan do thâm nhiễm
ác tính, các bệnh hệ thống, thiếu máu gan cấp tính, giai đoạn muộn của suy tim
ứ huyết.
- Tình trạng trung gian: có thể ghép gan hoặc không ghép gan phụ thuộc
vào tình trạng của bệnh nhân và các nguyên nhân gây suy gan như hội chứng
Budd-Chiari, ngộ độc nấm, suy gan cấp do sốc nhiệt, HELLP, sau cắt gan…
1.1.3. Dịch tễ suy gan cấp
Suy gan cấp là một hội chứng lâm sàng hiếm gặp với tỉ lệ mắc bệnh hàng
năm ít hơn 10 trường hợp trên 1.000.000 dân ở các nước phát triển. Theo
Sameer Patel (2016), suy gan cấp có khoảng 8 ca mắc trên 1.000.000 dân ở các
nước Châu Âu. Các nguyên nhân phổ biến của suy gan cấp trên thế giới là do
acetaminophen (paracetamol) và virus viêm gan A, B, E [29], [30], [31]. Ở
Anh, nguyên nhân gây suy gan cấp phần lớn là do paracetamol (chiếm 57%)
[25]. Tại Mỹ có khoảng 2000 ca được chẩn đoán mỗi năm, suy gan cấp thường
xảy ra ở những người trẻ, có tỉ lệ mắc bệnh và tử vong cao [32]. Nguyên nhân
gây suy gan cấp chủ yếu ở Mỹ là do các thuốc acetaminophen (paracetamol
39%). Ở Nhật Bản, tỉ lệ suy gan cấp do viêm gan B lại chiếm tỉ lệ rất lớn (42%)
[24]. Ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu chính thức nào về mặt dịch tễ của suy
gan cấp, đây là khoảng trống nghiên cứu khoa học cần được bù đắp để góp phần
vào việc nâng cao chất lượng của hoạt động phòng ngừa và điều trị suy gan
cấp. Nghiên cứu tại Trung tâm chống độc Bạch Mai trong 3 năm 2009, 2010,
2011 cho thấy tỉ lệ bệnh nhân suy gan cấp chiếm 5% - 7,5% - 8,7%, tương ứng,
7
với tỉ lệ tử vong cao 50-66,7%, các nguyên nhân chủ yếu là ngộ độc thuốc nam,
paracetamol, virus và ngộ độc các kim loại nặng [3], [4].
1.1.4. Cơ chế bệnh sinh
Cơ chế bệnh sinh gây nên suy gan cấp gồm có: cơ chế gây tổn thương gan
trực tiếp, Cơ chế tổn thương gan qua trung gian miễn dịch.
Các nguyên nhân khác nhau của suy gan cấp
Tổn thương trực tiếp các tế bào tổ chức
Con đường chết tế bào gan nội sinh
Con đường chết tế bào gan ngoại sinh
Tổn thương màng
Hoại tử
Chết tế bào
Hình 1. 1. Cơ chế suy gan cấp [8], [33], [34]
Cơ chế gây suy gan cấp: Nghiên cứu hồi quy từ tổn thương gan. Cơ chế
tổn thương gan dẫn đến suy gan cấp được chia thành 2 nhóm. Nhóm 1, các chất
độc hoặc các chất sinh bệnh trực tiếp gây tổn thương các cấu trúc bên trong tế
bào, gây rối loạn nội môi bên trong tế bào. Nhóm 2, những đáp ứng miễn dịch
(gồm bẩm sinh và mắc phải), dẫn đến các con đường bệnh sinh chết tế bào gan
bao gồm chết và hoại tử theo chương trình gây tổn thương gan qua trung gian
miễn dịch.
8
1.1.4.1. Cơ chế tổn thương gan trực tiếp
Gan bị tổn thương sẽ dẫn đến quá trình hoại tử các tế bào gan. Khi các dấu
hiệu hoại tử tế bào gan và các dấu hiệu chết dần theo chương trình xuất hiện,
đó là lúc các tế bào gan chết nhiều hơn các tế bào tái tạo và gây ra tình trạng
suy gan cấp. Suy gan cấp dẫn đến quá trình đáp ứng viêm hệ thống và suy giảm
chức năng gan. Ảnh hưởng của quá trình đáp ứng viêm hệ thống gây nên tình
trạng suy đa tạng và có thể xuất hiện các dấu hiệu não gan và tổn thương thận
cấp…Suy giảm chức năng gan đồng nghĩa với việc giảm tổng hợp các chất tại
gan, đặc biệt là các yếu tố tham gia quá trình tạo máu và dẫn đến rối loạn đông
máu. Suy giảm chức năng gan cũng dẫn đến tình trạng rối loại chuyển hoá các
chất [33].
Chết tế bào gan xảy ra theo hai cơ chế: hoại tử và chết dần theo chương
trình. Hoại tử là do các ATP cạn kiệt, tế bào gan sưng viêm dẫn đến màng tế
bào vỡ và tế bào chết. Chết dần theo chương trình được hiểu là quá trình tế bào
gan teo lại, chết dần nhưng vẫn giữ được màng tế bào, xảy ra theo hai con
đường nội sinh và ngoại sinh. Nội sinh bắt đầu bằng sự mất căn bằng oxy hoá,
mất cân bằng sự hình thành các gốc tự do có oxy và sự kháng oxy hoá như
DNA hoặc P53 hoạt hoá. Ngoại sinh bắt đầu bằng sự kết hợp TNFα, FasL với
protein giữa màng tế bào (TNF-R1, Fas) dẫn đến hoạt hoá caspase 8,3 … dẫn
đến chết dần tế bào [35].
1.1.4.2. Cơ chế tổn thương gan qua trung gian miễn dịch
Cơ chế qua các tế bào và phân tử khác nhau đặc biệt là qua các cytokines
và hệ thống miễn dịch bẩm sinh. Các cytokines lưu hành trong máu và ở gan
đóng một vai trò đáng kể trong cơ chế bệnh sinh của suy gan cấp gây nên hoại
tử các tế bào gan, tổn thương các cơ quan ngoài gan, ảnh hưởng tới quá trình
tái tạo tế bào gan. Chính vì vậy quá trình sản sinh các cytokines không được
kiểm soát sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng. Xét nghiệm các cytokines
tiền viêm trong suy gan cấp có giá trị tiên lượng kết quả [33] [36], [37], [38]
9
Đáp ứng miễn dịch bẩm sinh thường nhiều và nhanh hơn so với đáp ứng
viêm mắc phải, đặc biệt trong tổn thương gan cấp có rất ít thời gian để khởi
phát một đáp ứng viêm mắc phải.
Ở giai đoạn muộn của suy gan cấp có tình trạng suy đa tạng. Suy đa tạng
trong suy gan cấp có thể gây ra tổn thương phổi cấp, tình trạng này dẫn đến hội
chứng suy hô hấp cấp ở người lớn. Tổn thương tim mạch, gây nên tình trạng
giảm hoặc mất chức năng của tim mạch làm giảm tưới máu các tạng gây tổn
thương các tạng khác thứ cấp. Tổn thương ở gan, làm tăng áp lực tĩnh mạch
cửa. Ở tuyến thượng thận, nó làm thiếu các hormone của tuyến thượng thận,
gây suy thận. Ở cơ, nó làm tăng tích tụ dịch trong cơ do giảm áp lực keo. Ở hệ
thống miễn dịch, nó sẽ làm suy chức năng của các tế bào bạch cầu đa nhân. Ở
não, gây hội chứng não gan, phù não và tăng áp lực nội sọ
10
Sơ đồ 1.1. Suy đa tạng trong suy gan cấp [39]
hoại tử tế bào gan
Tăng nguy cơ nhiễm Tổn thương gan gây chết, khuẩn
Suy chức năng
đào thải
Độc tố nội sinh
của gan
Tổn thương Hoạt động của Suy đa tạng
đường tiêu các đại thực bào
hoá
Giải phóng các Thiếu oxy mô Rối loạn tuần hoàn Cytokines TNF,
IL6, IL1
- Rối loạn miễn dịch
Hệ miễn dịch đóng vai trò quan trọng trong suy gan cấp, vừa là nguyên
nhân gây ra suy gan cấp, đồng thời cũng là hậu quả của suy gan cấp. Đáp ứng
viêm hệ thống và hoạt hoá miễn dịch là yếu tố chính trong suy gan cấp dẫn đến
não gan. Trong suy gan cấp, đáp ứng viêm rất mạnh, các yếu tố tiền viêm
(TNFα, IL 1-β, IL6) và yếu tố kháng viêm (IL4, IL 10, …) đều rất cao. Mất
cân bằng điều hoà hệ miễn dịch dẫn đến tiên lượng bệnh nhân suy gan cấp
thường rất xấu. Gan còn tham gia quá trình tổng hợp bổ thể, nên trong suy gan
cấp nồng độ bổ thể C3, C5 giảm dần dẫn đến giảm hoạt hoá bạch cầu. Các
11
monocyte hoạt hoá, sinh ra một lượng lớn cytokine tiền viêm và kháng viêm
[39], [40].
- Tổn thương thần kinh
Tổn thương thần kinh trong suy gan cấp nổi bật lên là hội chứng não gan
(HE). Dấu hiệu não gan ở bệnh nhân suy gan cấp gồm não gan tiềm ẩn và não
gan rõ ràng. Swaninathan Mirashini (2018), chia hội chứng não gan rõ ràng
thành 4 giai đoạn [41], [42]:
+ Giai đoạn 1- 2: 25% bệnh nhân có phù não, > 70% bệnh nhân hồi phục
gan.
+ Giai đoạn 3-4: 75% bệnh nhân có phù não, 20% bệnh nhân hồi phục
gan.
Cơ chế gây hội chứng não gan gồm 2 cơ chế chính: cơ chế độc tế bào thần
kinh và cơ chế mạch máu [32]:
+ Cơ chế độc tế bào thần kinh: Quá trình tạo NH3 và các cytokine tăng, đi
vào tế bào não chuyển hóa thành glutamin gây phù não. Khi NH3 tăng > 150
µmol/l gây chết tế bào não, khi NH3 tăng đến hơn 200 µmol/l tiên lượng bệnh
nhân tử vong là rất cao. Tuy nhiên còn phụ thuộc vào thời gian xét nghiệm NH3
sớm hay muộn. Nếu NH3 được xét nghiệm muộn thì nồng độ cao ít có ý nghĩa
tiên lượng bệnh.
+ Cơ chế mạch máu: Trong suy gan cấp, sức cản mạch máu giảm, làm hạ
huyết áp, nên làm giảm áp lực tưới máu não gây phù não. Ngoài ra, mất cân
bằng chức năng hàng rào máu não, tăng lưu lượng dịch vào não gây phù não và
tăng áp lực nội sọ.
- Tổn thương thận cấp
Các kết quả nghiên cứu cho thấy 40% đến 85% bệnh nhân suy gan cấp có
tổn thương thận. Cơ chế tổn thương thận được mô tả bắt đầu từ việc thiếu máu
thận dẫn đến hoại tử tế bào thận và hoại tử ống thận. Suy gan cấp dẫn đến đáp
ứng viêm miễn dịch hệ thống (SIRS) và giải phóng các cytokine (IL1, TNα,
12
IL6 ...), do đó hoạt hóa thần kinh giao cảm và hệ renin-angiotensin – aldosterol
(RAAS), dẫn đến giải phóng vasopressin và giảm dòng máu tới thận, giảm chức
năng thận, hoại tử ống thận. Khoảng 22% đến 50% bệnh nhân suy gan cấp có
hoại tử ống thận, 78% bệnh nhân có tình trạng đáp ứng viêm hệ thống và dẫn
đến tổn thương thận cấp [32], [43], [44].
- Rối loạn đông máu
Suy gan cấp làm giảm khả năng tổng hợp các yếu tố đông máu (II, V, VII,
IX, X, ...). Plasmin và α-antiplasmin giảm. Kéo dài thời gian prothrombin và
INR. Đặc biệt, quá trình tổng hợp thrombopoietin (TPO) ở gan giảm gây giảm
tiểu cầu. Ngoài ra giảm tiểu cầu trong suy gan cấp còn do giảm nồng độ
fibrinogen do tăng tiêu sợi huyết trong hội chứng DIC. Chảy máu thường chỉ
xảy ra khi tiểu cầu < 20 G/L. Không khuyến cáo truyền plasma tươi đông lạnh
(FFP) thường qui để cải thiện rối loạn đông máu do dễ sai lệch tiên lượng đối
với bệnh nhân có chỉ định ghép gan [32], [45], [46].
- Rối loạn chuyển hóa
Suy gan cấp gây rối loạn chuyển hóa tại gan từ mức độ nhẹ đến nặng. Mức
độ nhẹ biểu hiện ở hạ đường máu đến rối loạn toan kiềm. Mức độ nặng là hạ
đường máu có thể do rối loạn sự tổng hợp glucose, giảm kho dự trữ glycogen,
và giảm ăn qua đường tiêu hóa. Hạ đường máu làm tăng tỉ lệ tử vong và mức
độ nặng của bệnh. Giảm chuyển hóa lactat trong gan sẽ làm tăng lactat máu.
Tăng các gốc acid béo tự do, acetoacetate và pyruvate.
- Rối loạn hô hấp tuần hoàn [32]
Rối loạn về tuần hoàn trong suy gan cấp dẫn đến tình trạng giảm sức cản
mạch ngoại vi, giảm thể tích tuần hoàn, tăng cung lượng tim.
Rối loạn về hô hấp có thể dẫn đến tình trạng xẹp phổi, tràn dịch màng phổi
do quá trình tổng hợp acid amine kém, tăng các vòng nối tắt trong phổi gây mất
cân bằng thông khí và tưới máu, hội chứng gan phổi, có thể nặng hơn là hội
chứng suy hô hấp cấp.
13
Nói chung, cơ chế bệnh sinh của suy gan cấp rất phức tạp, bao gồm các
tổn thương tại gan, các đáp ứng viêm hệ thống và dẫn tổn thương nhiều cơ
quan. Khi nhận biết sớm các nguyên nhân gây suy gan cấp, giai đoạn suy gan
cấp và cơ chế bệnh sinh gây suy gan cấp thì có thể giúp cho việc điều trị bệnh
nhân suy gan cấp kịp thời và hiệu quả.
1.1.5. Chẩn đoán 1.1.5.1. Triệu chứng lâm sàng
Suy gan cấp triệu chứng lâm sàng không rõ ràng, thường có các triệu
chứng ban đầu gồm mệt, khó chịu, buồn nôn, nôn, giai đoạn sau có vàng da,
đau bụng vùng gan và cuối cùng là xuất hiện dấu hiệu não gan ở các mức độ
khác nhau [39], [47].
West Haven chia thành 4 độ như sau [48], [49]: - Độ 1: Thay đổi về hành vi, hầu như không thay đổi về ý thức. - Độ 2: Rối loạn về định hướng, ngủ gà, có thể có dấu hiệu run giật 2 bàn
tay, có những hành vi không thích hợp.
- Độ 3: Rối loạn ý thức, lời nói không rõ ràng, ngủ nhiều nhưng vẫn đáp
ứng với nói to.
- Độ 4: Hôn mê, không đáp ứng với đau. 1.1.5.2. Triệu chứng cận lâm sàng [39], [50]
Suy gan cấp có sự tăng bất thường của INR và sự bất thường của các xét
nghiệm đặc hiệu của gan, các xét nghiệm không đặc hiệu của gan.
- INR : INR > 1.5
- Các xét nghiệm đặc hiệu của gan: Tăng các men gan, tăng bilirubin.
- Các xét nghiệm không đặc hiệu của gan: toan hoá máu, tăng lactat, giảm
nồng độ oxy máu, hạ đường huyết, tăng ammoniac NH3, tăng Amylase và lipid,
tăng creatinine và giảm tiểu cầu.
- Các xét nghiệm về bệnh gan tự miễn: Antinuclear antibody (ANA), anti-
smooth muscle antibody (ASMA), Ds DNA…
14
- Xét nghiệm vi sinh:
+ Tìm nguyên nhân gây suy gan cấp do các loại virus viêm gan và một số
loại virus khác.
+ Cấy máu cho những bệnh nhân nghi ngờ nhiễm khuẩn.
- Điện não đồ EEG (Electroencephalography): Có thể thấy hình ảnh co
giật ngay cả khi không có co giật trên lâm sàng.
- Siêu âm doppler gan, CT (computed tomography) ổ bụng có thuốc cản
quang, MRI (magnetic resonance imaging) ổ bụng có tiêm đối quang từ.
+ Tìm các bệnh mạch máu ở gan, carcinome nguyên phát, thứ phát ở gan.
- Sinh thiết gan khi các xét nghiệm và hình ảnh không xác định được
nguyên nhân [35]. Có thể xác định được một số căn nguyên gây suy gan cấp
[29], [31]:
+ Ung thư tại gan hoặc di căn tới gan.
+ Viêm gan tự miễn.
+ Bệnh Wilson.
+ Viêm gan do nhiễm virus herpes simple (HSV).
+ Gan nhiễm mỡ cấp tính ở phụ nữ có thai. 1.1.5.3. Một số căn nguyên suy gan cấp có xét nghiệm cận lâm sàng
đặc trưng [9], [25], [51], [52]
- Ngộ độc acetaminophen: Men gan tăng cao có thể tới trên 3500 UI/l,
nhưng nồng độ bilirubin thấp.
- Bệnh Wilson: Nồng độ bilirubin trong huyết tương tăng rất cao có thể
trên 20mg/dl đồng thời với nó là alkaline phosphatase rất thấp, nếu chỉ số giữa
bilirubin trong máu /alkaline phosphatase trên 2 thì khả năng bệnh Wilson là
rất cao.
- Viêm gan do thiếu máu cục bộ: Men gan tăng nhanh và cải thiện cũng
nhanh, ổn định. Lactat dehydrogenase cũng có thể tăng là dấu hiệu của hoại tử
tế bào gan.
15
- Viêm gan do virus: Men gan tăng cao nhưng xu hướng giảm dần sẽ kéo
dài hơn so với viêm gan do thiếu máu cục bộ, tỉ lệ AST/ALT <1
- Viêm gan do rượu cấp tính: Có tỉ lệ AST/ALT trên 1,5.
- Hội chứng Reye và viêm gan do thuốc kháng sinh linezolid: Toan lactic
nặng, chỉ tăng nhẹ men gan và bilirubin.
1.1.6. Điều trị 1.1.6.1. Kiểm soát tình trạng não gan và phù não [41], [42], [48]
Những bệnh nhân suy gan cấp có tình trạng não gan giai đoạn 1 có thể
điều trị tại các đơn vị y tế cơ sở, nhưng phải kiểm tra tình trạng ý thức thường
xuyên. Khi bệnh nhân tiến triển xấu đi, tình trạng não gan từ giai đoạn 2 trở lên
thì phải đưa bệnh nhân đến các đơn vị chăm sóc đặc biệt để được chăm sóc,
điều trị sớm, tích cực. Cần chụp CT sọ não không cản quang để loại trừ tổn
thương não như xuất huyết não, nhồi máu não, khối choán chỗ trong não…
Thuốc an thần nên tránh dùng để theo dõi đánh giá tình trạng thần kinh.
Nếu bệnh nhân kích động mà không thể kiểm soát được có thể điều trị với thuốc
an thần liều thấp. Cố gắng tránh để bệnh nhân kích thích.
Điều trị giai đoạn 1 và 2 hội chứng não gan có thể dùng lactulose. Có bằng
chứng cho rằng amonia (NH3) đóng một vai trò bệnh sinh trong sự phát triển
của phù não. Vì vậy, làm giảm nồng độ NH3 tăng cao bằng lactulose có thể
giúp phòng ngừa hoặc điều trị phù não. Trong những giai đoạn muộn của não
gan, để tránh nguy cơ sặc do hít thì không nên dùng lactulose đường miệng
hoặc qua ống sonde dạ dày khi chưa đặt ống nội khí quản. Bệnh nhân có dấu
hiệu não gan giai đoạn 3 trở lên phải đặt nội khí quản và thông khí nhân tạo để
giữ PaO2 trong giới hạn 25-35 mmHg tránh phù não và giảm tưới máu não [6],
[39], [53].
- Phù não và tăng áp lực nội sọ xảy ra ở những bệnh nhân suy gan cấp có
liên quan đến mức độ nghiêm trọng của bệnh não gan. Phù não hiếm khi quan
sát được ở bệnh nhân có dấu hiệu não gan giai đoạn 1 và giai đoạn 2. Nguy cơ
16
phù não lên tới 25% đến 35% khi bệnh nhân từ giai đoạn 3 của não gan và tăng
nguy cơ phù não tới 65% đến 75% hoặc hơn nữa trên những bệnh nhân có hôn
mê gan giai đoạn 4 [ [54].
- Bệnh nhân trong các giai đoạn tiến triển của bệnh não gan cần được theo
dõi, chăm sóc chặt chẽ. Theo dõi và điều chỉnh các thông số về huyết động,
thận, đường máu, điện giải và tình trạng toan kiềm là quan trọng, đánh giá thần
kinh thường xuyên để phát hiện các dấu hiệu tăng áp lực nội sọ .
Theo dõi áp lực nội sọ ( Intracranial Pressure monitoring)
Những bệnh nhân suy gan cấp có dấu hiệu não gan giai đoạn 3, giai đoạn
4 nên được đặt máy theo dõi áp lực nội sọ. Theo dõi áp lực nội sọ bằng máy
giúp sớm nhận ra tình trạng phù não. Tuy nhiên biện pháp theo dõi áp lực nội
xâm lấn dễ gây biến chứng chảy máu và nhiễm trùng đặc biệt ở những bệnh
nhân suy gan cấp nặng, vì vậy các biện pháp theo dõi không xâm lấn khác được
khuyến cáo như: CT sọ não, siêu âm dopller xuyên sọ, đo đồng tử, bão hòa oxy
xoang tĩnh mạch cảnh [55].
Mục tiêu cuối cùng của các biện pháp can thiệp là nhằm duy trì tính toàn
vẹn của não và kéo dài sự sống khi bệnh nhân đang chờ đợi ghép gan hoặc chờ
đợi sự hồi phục của khối tế bào gan suy để đảm bảo được chức năng gan. Nếu
não liên tục chịu áp lực cao hoặc chịu sự giảm áp lực tưới máu có thể không
được chỉ định thay thế gan trong nhiều trung tâm. Nên duy trì áp lực nội sọ
dưới 20-25mmHg, và áp lực tưới máu não trên 50-60mmHg [41].
Điều trị tăng áp lực nội sọ [41], [42]
Tăng áp nội sọ sẽ đe doạ đến sự sống của bệnh nhân nếu không được kiểm
soát bằng truyền manitol và các điều chỉnh khác.
- Manitol: Một số nghiên cứu cho thấy mannitol làm giảm áp lực nội sọ
và cải thiện tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp. Nhờ tác dụng thẩm thấu,
manitol làm giảm dịch trong não và tăng tưới máu não, giảm tình trạng kiềm
và co mạch não vì thế cải thiện tình trạng phù não và tănng áp lực nội sọ. Liều
17
được khuyến cáo để điều trị tăng áp nội sọ trong suy gan cấp là truyền tĩnh
mạch: Bolus (0,5 g đến 1g/kg hoặc 50-100g) liều này có thể được nhắc lại một
đến hai lần khi cần thiết nhưng áp lực thẩm thấu máu không nên vượt quá
320mOsm/L. Quá tải dịch là một nguy cơ khi sử dụng manitol trên những người
bệnh có tổn thương thận và có thể phải lọc máu để rút dịch thừa.
- Tăng thông khí nhân tạo: có thể làm giảm áp lực nội sọ, phòng tránh tụt
não. Tăng thông khí làm giảm một phần áp lực của carbon dioxide trong máu
(PCO2), do đó làm giảm nhanh áp lực nội sọ qua việc co mạch gây nên giảm
dòng máu tới não, nhưng tác dụng này rất ngắn.
- Sử dụng dung dịch muối ưu trương (NaCl 2-3%): Chỉ được xét dùng khi
áp lực nội sọ cao liên tục. Một số thử nghiệm dùng dung dịch muối 3%, 5 đến
20 ml/giờ để duy trì nồng độ natri trong máu từ 145 đến 155mmol/L với những
bệnh nhân suy gan cấp và bệnh não gan nghiêm trọng do suy gan cấp làm giảm
áp lực nội sọ [39].
- An thần bằng Barbiturates (Thiopental hoặc phenobarbital) được xem
xét sử dụng khi tăng áp lực nội sọ một cách nghiêm trọng mà không đáp ứng
với các biện pháp khác. Các loại thuốc này đã được chỉ ra có tác dụng làm giảm
áp lực nội sọ, nhưng chúng thường gây hạ huyết áp do đó hạn chế việc sử dụng
và có thể phải thêm các biện pháp nhằm duy trì đủ áp lực động mạch trung
bình.
Liều thuốc barbiturates cho tăng áp lực nội sọ trong một nghiên cứu của
Hàn Quốc năm 2015 do Tae Kyong Kim, Young Jin Lim và cộng sự đưa ra:
+ Thiopental: 2 - 5 mg/kg liều nạp tiêm tĩnh mạch, sau đó duy trì 3- 7
mg/kg/giờ truyền tĩnh mạc liên tục [56].
+ Phenobarbital: 15 mg/kg liều nạp tiêm tĩnh mạch, sau đó duy trì 5
mg/kg/giờ truyền tĩnh mạch liên tục được tác giả J Clin Pharmacol nghiên cứu năm 2003 thấy có hiệu quả chống co giật và giảm áp lực nội sọ [57].
- Hạ thân nhiệt chỉ huy: Hạ thân nhiệt ở mức trung bình (32°C - 34°C) có
18
thể kiểm soát áp lực nội sọ ở bệnh nhân suy gan cấp. Các nguy cơ tiềm tàng
của hạ thân nhiệt bao gồm: tăng nguy cơ nhiễm trùng, rối loạn đông máu và rối
loạn nhịp tim.
1.1.6.2. Bảo vệ đường thở
Các bệnh nhân suy gan tối cấp thường dẫn đến tình trạng hôn mê, do đó
khả năng bảo vệ đường thở của họ là rất kém. Khi bệnh nhân tiến triển đến giai
đoạn 3 của hôn mê gan nên được đặt ống nội khí quản, thông khí nhân tạo, giữ
PaCO2 trong khoảng 25-35 mmHg để tránh tăng áp lực sọ và đảm bảo tưới máu
não. Chọn thuốc an thần và giãn cơ phù hợp, ít ảnh hưởng đến tăng áp lực nội
sọ, thuốc thường được lựa chọn dùng trước khi đặt ống nội khí quản là Propofol
và Sisatracrium. Đặt sonde dạ dày để làm giảm áp trong dạ dày và ổ bụng [39].
Khuyến cáo sử dụng lidocain bơm vào ống nội khí quản trước khi hút đờm qua
ống nội khí quản mười phút [58].
1.1.6.3. Điều trị rối loạn về huyết động
Rối loạn huyết động: Hạ huyết áp (HA tâm thu < 80mmHg) có thể xảy ra
ở 15% bệnh nhân suy gan cấp. Một nghiên cứu của R. Williams và P N Trewby
năm 1977 cho thấy 82 bệnh nhân trong số 94 bệnh nhân suy gan cấp có tình
trạng hạ huyết áp với huyết áp tâm thu nhỏ hơn 80 mmHg [59].
Hầu hết các bệnh nhân sẽ cần hồi sức dịch khi nhập viện. Thiếu hụt thể
tích dịch trong lòng mạch khi nhập viện do giảm dịch vào hoặc mất máu qua
đường tiêu hoá… Rối loạn huyết động trong suy gan cấp giống như nhiễm trùng
huyết hoặc xơ gan với hội chứng gan thận, sức cản mạch máu hệ thống (SVR)
giảm với cung lượng tim bình thường hoặc tăng.
Catheter động mạch nên được đặt nhằm theo dõi huyết áp liên tục, hoặc
đặt ống thông Swan – Ganz, các dịch thay thế nên dùng bằng albumin, dịch
dạng keo...Nếu huyết áp thấp có thể sử dụng Dopamine và Norepinephrine để
điều chỉnh [1], [39].
19
1.1.6.4. Điều chỉnh về rối loạn đông máu
Trường hợp không có chảy máu không cần phải điều chỉnh các bất thường
về đông máu bằng huyết tương tươi đông lạnh (FFP), cần phải điều chỉnh các
bất thường về đông máu trường hợp thực hiện thủ thuật xâm lấn hoặc rối loạn
đông máu mức độ nặng ( INR > 7) [1].
Thời gian prothrombin (PT) và thời gian hoạt hóa thromboplastin toàn
phần (APTT) kéo dài khi các thành phần đông máu huyết tương bị pha loãng
dưới 30% và chảy máu bất thường xảy ra khi huyết tương bị pha loãng nhỏ hơn
17%. Một đơn vị huyết tương tươi đông lạnh (FFP) làm tăng yếu tố đông máu
lên 5%; hai đơn vị tăng lên 10%. Truyền plasma đông lạnh (FFP) 15ml/kg trọng
lượng cơ thể hoặc 4 đơn vị sẽ điều chỉnh được sự thiếu hụt các yếu tố đông
máu. Khi fibrinogen rất thấp (< 80 mg/dL), thì xem xét việc sử dụng tủa Cryo.
Truyền tiểu cầu khi số lượng tiểu cầu giảm dưới 10.000/µl hoặc số lượng
tiểu cầu ít hơn 50.000/µl và có thủ thuật xâm lấn sẽ được thực hiện. Sáu đến
tám đơn vị tiểu cầu của người hiến ngẫu nhiên sẽ tăng số lượng tiểu cầu lên hơn
50.000/µl. Số lượng tiểu cầu nên được kiểm tra sau 1 giờ và 24 giờ. Tiểu cầu
được truyền tồn tại 3 đến 5 ngày.
1.1.6.5. Điều trị tổn thương thận cấp [43], [44]
Tổn thương thận cấp là biến chứng thường gặp trong suy gan cấp, 40%-
80% bệnh nhân suy gan cấp có tổn thương thận cấp và liên quan với tăng tỷ lệ
tử vong và ngày nằm điều trị. Nguy cơ tổn thương thận cấp bao gồm: tuổi, suy
gan cấp do quá liều paracetamol, huyết áp thấp, hội chứng đáp ứng viêm hệ
thống, nhiễm trùng…Để ngừa suy thận cấp nên tránh sử dụng các thuốc độc
với thận (aminoglycoside, các thuốc cản quang…), vì vậy nên cân nhắc giữa
lợi ích và tác hại khi sử dụng thuốc trong chẩn đoán và điều trị suy gan cấp.
Thời điểm lọc máu thay thế thận vẫn còn tranh cãi, lọc máu thường áp dụng
trong trường hợp tăng ure, NH3 huyết, tăng K+, thừa dịch hoặc rối loạn điện
20
giải, toan chuyển hóa và các loại rối loạn chuyển hóa khác. Lọc máu liên tục
nên áp dụng sớm ở bệnh nhân có NH3 tăng cao và nguy cơ hội chứng não gan
tiến triển. Lọc máu liên tục (CRRT) được lựa chọn nhiều hơn lọc máu ngắt
quãng. Phần lớn tổn thương thận cấp ở bệnh nhân suy gan cấp hồi phục hoàn
toàn trong quá trình điều trị hoặc sau ghép gan.
1.1.6.6. Điều trị nhiễm khuẩn
Nguy cơ nhiễm khuẩn và nhiễm nấm ở bệnh nhân suy gan cấp là rất cao
chiếm tới 60%-80 % bệnh nhân trong đó 50% thường do viêm phổi,12% đến
22 % nhiễm khuẩn huyết do catheter, 16% do các nguyên nhân khác, vi khuẩn
chủ yếu là trực khuẩn Gram (-) và cầu khuẩn Gram (+), nấm Candidas, virus
CMV thường ở bệnh nhân nặng. Nhiễm khuẩn là nguyên nhân hàng đầu gây tử
vong ở bệnh nhân suy gan cấp. Nhiễm khuẩn không được điều trị là tiêu chuẩn
loại trừ bệnh nhân ghép gan hoặc những biến chứng nặng nề sau phẫu thuật
[60] [61].
Theo khuyến cáo kháng sinh phổ rộng nên sử dụng ở bệnh nhân suy gan
cấp giai đoạn 3,4, hoặc các bệnh nhân có bằng chứng nhiễm khuẩn ngay từ đầu
hoặc có tụt huyết áp mặc dù chưa định danh được vi khuẩn. Kháng sinh được
lựa chọn là kháng vi khuẩn Gram (-), vi khuẩn kỵ khí và vancomycin khi có
nghi ngờ nhiễm khuẩn huyết do catheter. Kháng sinh dự phòng đường tĩnh
mạch làm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn ở bệnh nhân suy gan cấp, tuy nhiên chưa
có bằng chứng giảm tỷ lệ tử vong [2]. Lựa chọn kháng sinh cũng cần căn cứ
theo tình hình nhiễm khuẩn tại từng khu vực.
1.1.6.7. Điều chỉnh các rối loạn về tiêu hóa và chuyển hóa
Bệnh nhân suy gan cấp có nguy cơ xuất huyết tiêu hóa cao mặc dù thấp
hơn so với những bệnh nhân đợt cấp của suy gan mạn thường xuất huyết do
giãn vỡ tĩnh mạch thực quản. Những bệnh nhân thở máy hoặc rối loạn chức
21
năng gan nặng khuyến cáo nên sử dụng ngay từ đầu dự phòng xuất huyết tiêu
hóa bằng ức chế H2 hoặc ức chế bơm proton.
Nuôi dưỡng đường tiêu hóa và tĩnh mạch được khuyến cáo ở bệnh nhân
suy gan cấp, tuy nhiên năng lượng và protein phụ thuộc vào tình trạng bệnh
nhân. Tiêu thụ năng lượng cơ bản ở bệnh nhân suy gan cấp tăng 18%-30% so
với người bình thường. NH3 phải được theo dõi hàng ngày để tránh tăng quá
cao. Nhũ dịch lipid là an toàn nhưng nên kiểm soát triglyceride < 3.0 mmol/L.
Đối với bệnh nhân có hội chứng não gan tiến triển nên tránh cho ăn qua sonde
dạ dày [62].
1.1.6.8. Hệ thống hỗ trợ gan nhân tạo
Hệ thống hỗ trợ gan gần đây được chú ý như biện pháp “cầu nối” với ghép
gan hoặc phục hồi chức năng gan, giảm nhu cầu ghép gan, có thể được phân
thành hai loại chính: sinh học và phi sinh học.
Gan sinh học nhân tạo: bao gồm một bộ lọc máu với các tế bào gan của
động vật có vú hoặc các tế bào gan lợn lấp đầy không gian ngoại bào. Những
thiết bị này đã trải qua các thử nghiệm kiểm soát. Một thử nghiệm đa trung tâm
cho thấy cải thiện khả năng sống sót ngắn hạn cho một nhóm bệnh nhân bị suy
gan cấp tính, những bệnh nhân này được điều trị bằng gan nhân tạo dựa trên tế
bào gan lợn .
Các hệ thống hỗ trợ gan ngoài cơ thể không sinh học: như chạy thận nhân
tạo, lọc máu bằng cột than hoạt, thay huyết tương…đã được sử dụng. Những
phương thức này cho phép hỗ trợ gan tạm thời cho đến khi tìm được gan người
hiến phù hợp. Trong số các hệ thống hỗ trợ gan hiện có sẵn, lọc albumin sử
dụng hệ thống hấp phụ phân tử tái tuần hoàn (MARS) là một hệ thống đã được
nghiên cứu rộng rãi nhất. Trong thiết bị này, máu được thẩm tách qua màng
thấm albumine, các cột nhựa trao đổi than hoạt và anion trong mạch máu làm
sạch và tái tạo thẩm tách albumine. Các nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng hệ
thống này giúp cải thiện tình trạng tăng bilirubin máu và bệnh não gan [10].
22
Liệu pháp thay huyết tương: Thay huyết tương với huyết tương tươi có
hiệu quả loại bỏ chất độc và các sản phẩm chuyển hóa ở gan, một số nghiên
cứu cho thấy thay huyết tương kết hợp điều trị nội khoa chuẩn giảm tỷ lệ tử
vong, giảm INR, NH3, bilirubin các dấu hiệu đáp ứng viêm hệ thống [14], [16],
[63].
1.1.6.9. Ghép gan cấp cứu
Ghép gan là biện pháp điều trị suy gan cấp đã được phát triển cách đây 40
năm và cứu sống được nhiều bệnh nhân. Tỷ lệ sống sau 1 năm ở bệnh nhân
ghép gan cấp cứu thấp hơn bệnh nhân ghép gan theo kế hoạch tuy nhiên đạt
gần 80%. Lựa chọn bệnh nhân ghép gan dựa trên tiên lượng sống sót nếu không
ghép gan và khả năng sống sau ghép cũng như các yếu tố nguyên nhân, kinh tế
và xã hội khác [28], [60].
1.1.6.10. Điều trị cụ thể khác theo nguyên nhân
- Điều trị ngộ độc Acetaminophen [25]: Một số nghiên cứu đưa ra giả
thiết rằng thuốc giải độc (N-acetylcysteine -NAC) hoạt động theo một số cơ
chế bảo vệ. Ngay sau khi quá liều Acetaminophen, NAC ngăn chặn sự hình
thành và tích luỹ của N-Acetyle-P- benzoquinone Imine (NAPQI), một gốc tự
do liên kết với những protein nội bào NAC làm tăng các dự trữ glutathione, kết
hợp trực tiếp với NAPQI như một chất thay thế glutathione và tăng cường liên
hợp với Sulfate. NAC cũng có các chức năng như một chất chống viêm và
chống oxy hoá, có tác dụng gây co mạch và giãn mạch tích cực, giúp cải thiện
lưu lượng máu vi tuần hoàn và cung cấp oxy đến các mô.
Tác dụng bảo vệ của NAC lớn nhất khi được dùng trong vòng 8 giờ sau
uống acetaminophen. Tuy nhiên, khi được chỉ định, dùng NAC bất kể thời gian
nào từ khi quá liều. Điều trị với NAC đã được chứng minh giảm tỷ lệ tử vong
ở những bệnh nhân xuất hiện muộn nhưng có suy gan nặng (trường hợp không
có acetaminophen trong huyết thanh). Nếu bệnh nhân xuất hiện triệu chứng sau
khi dùng quá liều acetaminophen trong vòng 4 giờ, sử dụng than hoạt tính ngay
trước khi bắt đầu NAC.
23
- Điều trị ngộ độc nấm: điều trị ngộ độc nấm Amanita Phalloides bằng
tiêm tĩnh mạch penicillin G, cơ chế hoạt động không rõ ràng. Silibinin, một dẫn
xuất tan trong nước của Silymarin dùng đường uống và uống than hoạt có tác
dụng tốt do có liên kết mạnh với độc tố nấm [62].
1.1.7. Tiên lượng
Theo tổng hợp nghiên cứu của Eric Goldberg và cs (2020) [54], [61] tỉ lệ
sống sót ở bệnh nhân điều trị suy gan cấp tính lớn hơn 60%. Khoảng 55%, bệnh
nhân sẽ sống sót mà không cần ghép gan. Tiên lượng của bệnh nhân ghép gan
là khác nhau và không thể luôn luôn dự đoán được chính xác. Sau ghép gan, tỉ
lệ sống sót sau một năm là xấp xỉ 80%. Phần lớn các trường hợp tử vong ở
những bệnh nhân được ghép gan là do biến chứng thần kinh hoặc nhiễm trùng
huyết, xảy ra trong vòng 3 tháng sau khi ghép.
Các bảng điểm tiên lượng bệnh nhân suy gan cấp: 1.1.7.1. Mô hình bệnh gan giai đoạn cuối (MELD) [29], [64], [65]
Chỉ số MELD được thiết lập rất hiệu quả với vai trò là mô hình dự đoán
xác thực về tỷ lệ tử vong ngắn hạn ở bệnh nhân xơ gan và hiện đang được sử
dụng để phân bổ các nội tạng hiến tặng cho những bệnh nhân đang chờ ghép
gan ở Mỹ. Một số nghiên cứu hồi cứu cho thấy chỉ số MELD có giá trị dự đoán
tương đương với tiêu chí của trường đại học King’s College về tỷ lệ tử vong
liên quan đến ALF. Dữ liệu tiến cứu từ nhóm nghiên cứu suy gan cấp tính của
Hoa Kỳ cho thấy chỉ số MELD ≥ 30 ở bệnh nhân dùng quá liều acetaminophen
có giá trị dự đoán âm tính cao là 82%, như vậy bệnh nhân có chỉ số MELD <30
có xác suất sống sót cao. Ở ALF không dùng acetaminophen, điểm MELD ≥
30 có giá trị dự đoán dương tính là 81%, tuy nhiên những giá trị này không
chính xác hơn tiêu chí của đại học King’s College. Dựa trên những kết quả từ
một phân tích tổng hợp quy mô lớn, chỉ số MELD có thể có vai trò trong việc
dự đoán tử vong tại bệnh viện, đặc biệt là ở bệnh nhân ALF không sử dụng
acetaminophen.
24
Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cần phải thực hiện cho mô hình
MELD: creatinine, bilirubin toàn phần và INR.
• MELD = 9,57 × log ^ e (creatinine) + 3,78 × log ^ e (bilirubin) + 11,2 ×
log ^ e (INR) +6,43.
1.1.7.2. Một số tiêu chí tiên lượng khác [66]
Bảng 1. 3. Các yếu tố quyết định tiên lượng
Các yếu tố quyết định Tiên lượng tốt hơn Tiên lượng xấu hơn tiên lượng
Không Dấu hiệu lâm sàng của Có
việc suy thất phải
Chậm Tỉ lệ tiến triển của các Nhanh
triệu chứng
Không Có Ngất
I, II IV Phân loại theo chức
năng của WHO
Dài hơn 6MWT Chậm hơn
Mức tiêu thụ O2 cao Nghiệm pháp gắng sức Mức tiêu thụ cao nhất O2
nhất > 15ml/phút/kg hô hấp tim mạch < 12ml/phút/kg
Bình thường hoặc gần Nồng độ BNP/NT- Rất cao và tăng lên
mức bình thường proBNP trong huyết
tương
Không tràn dịch ngoài Kết quả siêu âm tim Tràn dịch ngoài màng tim
TAPSE ± > 1.5cm màng tim
TAPSE ± > 2.0 cm
RAP < 8mmHg và Huyết động học RAP > 15mmHg hoặc Cl
Cl ≥ 2.5l/phút/m2 ≤ 2.0 l/phút/m2
25
1.2. Thay huyết tương 1.2.1. Khái niệm và lịch sử hình thành các thuật ngữ về thay huyết
tương.
Thay huyết tương là một kỹ thuật y khoa dùng để điều trị nhiều bệnh lý
khác nhau bằng cách loại bỏ và thay thế một lượng lớn huyết tương. Thuật ngữ
thay huyết tương “apheresis” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “aphairesis” nghĩa là
“tách ra” và “loại bỏ”. Năm 1914, Abel và cs. sử dụng thay huyết tương
(apheresis) trong thực hành lâm sàng [13], [14].
Có sự khác biệt giữa hai thuật ngữ “thay huyết tương – therapeutic plasma
exchange – TPE” và “lọc tách huyết tương – plasmapheresis”. Thay huyết
tương dùng trong điều trị là thay thế một lượng lớn huyết tương bệnh nhân bằng
huyết tương người bình thường hoặc albumin. Lọc tách huyết tương thường là
lấy huyết tương từ người cho khỏe mạnh để phục vụ mục đích điều chế các chế
phẩm như albumin, IVIG...
Phương pháp Thay huyết tương (TPE: therapeutic plasma exchange) là
loại bỏ và Thay huyết tương, cùng với việc trả lại tất cả các thành phần tế bào
máu cho bệnh nhân được đưa như một phương pháp điều trị hội chứng tăng độ
nhớt trong máu bởi Abel JJ và cộng sự [67].
Tuy nhiên, đến năm 1952, Thay huyết tương (TPE) lần đầu tiên mới được
sử dụng trong bệnh đa u tủy để kiểm soát độ nhớt. Năm 1970, Thay huyết tương
(TPE) đã phát triển như một phương thức điều trị đối với một số bệnh thần kinh
với mục đích để loại bỏ tác nhân trong huyết tương như kháng thể, độc tố hoặc
protein bất thường. Các chất này sẽ gây ra các triệu chứng lâm sàng của bệnh.
Thay huyết tương cũng được sử dụng để thay thế một yếu tố hoặc chất bị hỏng
hoặc bị thiếu trong huyết tương của bệnh nhân. Bất kể mục đích là gì, một
lượng lớn huyết tương của người bệnh được loại bỏ trong quá trình Thay huyết
tương và thay thế đủ bằng dịch sinh lý (huyết tương tươi đông lạnh hoặc
albumin) để duy trì khoang nội mạch. Hiệu quả của Thay huyết tương phụ thuộc
26
vào thể tích huyết tương (PV) được loại bỏ, liên quan đến tổng lượng thể tích
huyết tương của bệnh nhân, sự phân bố của chất sinh bệnh cần loại bỏ giữa các
khoang trong và ngoài mạch, tỷ lệ tổng hợp và cân bằng của chất đó giữa các
khoang.
1.2.2. Nguyên lý của Thay huyết tương
Thay huyết tương là quá trình thông qua việc loại bỏ một khối lượng lớn
huyết tương và thay thế bằng huyết tương tinh khiết hơn hoặc albumin, đồng
thời loại bỏ các chất bệnh lý như các kháng thể bệnh lý, các phức hợp miễn
dịch, cytokine và các độc chất [68], [69], [70], [71]. Người ta cho rằng việc loại
bỏ các chất này là cơ chế hoạt động chính của phương pháp Thay huyết tương.
Thay huyết tương thì máu toàn phần của bệnh nhân được phân tách ra thành
huyết tương và các thành phần tế bào máu bằng hai phương pháp cơ bản là
dùng màng tách huyết tương hoặc bằng phương pháp ly tâm máu toàn phần ra
thành huyết tương và các thành phần tế bào, phương pháp này được thực hiện
chủ yếu ở Mỹ, tách huyết tương bằng màng lọc chủ yếu được thực hiện ở Đức
và Nhật Bản [13].
1.2.2.1. Thay huyết tương bằng phương pháp ly tâm
Nguyên lý của thay huyết tương bằng phương pháp ly tâm là dựa trên tỷ
trọng của các thành phần trong máu toàn phần. Máu toàn phần được bơm vào
một buồng phân tách huyết tương và huyết cầu, rồi quay với tốc độ rất nhanh.
Các thành phần trong máu toàn phần được tách ra thành các lớp dựa trên tỉ
trọng của nó. Thành phần có tỉ trọng lớn nhất là hồng cầu sẽ ở xa trục quay
nhất, thành phần có tỉ trọng thấp nhất là huyết tương sẽ ở gần trục quay nhất,
các thành phần có tỉ trọng trung gian lần lượt từ phía trục quay đi ra phía ngoài
là tiểu cầu, lympho bào và đại thực bào .
Chính vì các phân lớp tỉ trọng như vậy mà có sự trộn lẫn các thành phần
với nhau nhất là giữa các lớp gần nhau như huyết tương và tiểu cầu làm cho
tiểu cầu bị giảm đi sau mỗi lần Thay huyết tương.
27
1.2.2.2. Thay huyết tương bằng phương pháp dùng màng
Hình 1.2. Thay huyết tương bằng phương pháp dùng màng
Nguyên lý của nó dựa vào kích thước của các thành phần trong máu toàn
phần so với kích thước lỗ qủa lọc để lọc các thành phần gây bệnh trong máu
toàn phần [68], [70].
Quả lọc là một màng bán thấm có lỗ lọc thông thường là 0.3 – 0.5µm vì
vậy không cho các thành phần tế bào trong máu toàn phần đi qua, chỉ cho phép các protein huyết tương đi qua, [13].
Kỹ thuật này đã bắt đầu được thực hiện sau 25 năm (1978) từ khi kỹ thuật
Thay huyết tương bằng ly tâm ra đời (1952).
Dù là phương pháp ly tâm hay phương pháp dùng quả lọc với màng bán
thấm để thay huyết tương thì đều cần có dịch thay thế.
Dịch thay thế được sử dụng phổ biến nhất là albumin 5% pha với nước
muối sinh lý. Giải pháp này có ưu điểm là tránh được sự lây truyền bệnh và các
phản ứng truyền máu (ví dụ như tổn thương phổi cấp tính liên quan đến truyền
28
máu), mà cả hai điều trên đều có thể xảy ra với huyết tương. Nhược điểm chính
của albumin là chi phí của nó đắt hơn so với huyết tương nhiều. Dịch thay thế
này có vẻ ưu trương so với huyết tương do đó có thể làm tăng thể tích nội
mạch. Tác dụng này có thể có lợi trong việc tránh giảm thể tích tuần hoàn. Vì
vậy dịch thay thế albumin là thành phần đắt tiền nhất của thủ thuật Thay huyết
tương, việc sử dụng 100% albumin để thay thế sẽ làm tăng thể tích nội mạch,
do đó một số bác sĩ sẽ sử dụng nồng độ albumin thấp hơn, chẳng hạn như 70%
albumin và 30% nước muối.
Có quan điểm cho rằng bắt buộc phải có đường vào tĩnh mạch trung tâm
để có một đợt Thay huyết tương thành công. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu về
Thay huyết tương của Canada cho thấy 67% trong số 5234 thủ thuật Thay huyết
tương có thể được hoàn thành thành công chỉ với việc đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi [72].
Trong một thử nghiệm lâm sàng về việc sử dụng Thay huyết tương để điều
trị bệnh đa xơ cứng, 96% bệnh nhân được dùng đường mạch máu ngoại vi và
trong số những bệnh nhân được Thay huyết tương ấy chỉ 4% không thể thay
huyết tương do không có khả năng đặt đường truyền tĩnh mạch ngoại vi. Tại
sao chúng ta phải xem xét đường vào tĩnh mạch ngoại vi trong quá trình thực
hiện Thay huyết tương. Bởi vì nhiều nghiên cứu cho thấy các biến chứng trong
thay huyết tương chủ yếu do đặt ống thông tĩnh mạch trung tâm.
1.2.3. Phân loại các hình thức thay huyết tương
Thay huyết tương ra đời từ những năm 1914 bởi John Abel và được tiến
hành thực nghiệm trên động vật. Ban đầu, dịch thay thế còn được để trong chai
thuỷ tinh, đến 1950, dịch thay thế mới được chuyển đựng từ chai thuỷ tinh sang
túi nhựa. Năm 1952, Thay huyết tương được thực hiện lần đầu tiên trên người
để điều chỉnh làm giảm tình trạng tăng độ nhớt trong máu [67]. Từ năm 1970,
phương pháp thay huyết tương ở người mới được phát triển rộng rãi để điều trị
các bệnh về thần kinh.
29
Mục đích của thay huyết tương là lấy ra các chất độc, tự kháng thể hoặc
các protein bất thường hoặc có thể thay thế các yếu tố, các chất không có hoặc
thiếu hụt trong huyết tương của người bệnh [73].
Một lượng lớn huyết tương của bệnh nhân sẽ được lấy ra và thay thế bằng
huyết tương tươi đông lạnh hoặc albumin. Hiệu quả của Thay huyết tương phụ
thuộc vào lượng huyết tương được trao đổi so với tổng huyết tương của bệnh
nhân. Nếu lượng huyết tương được trao đổi là một thể tích thì lấy ra khoảng
65% các chất trong huyết tương, 1.5 thể tích huyết tương sẽ lấy ra 75% các chất
trong huyết tương, còn nếu 2 thể tích huyết tương được trao đổi sẽ lấy ra 85%
các chất trong huyết tương [74] .
Căn cứ vào lượng huyết tương của bệnh nhân được thay thế người ta phân
loại ra các hình thức Thay huyết tương: thay huyết tương thể tích thấp, thay
huyết tương thể tích bình thường và thay huyết tương thể tích cao. 1.2.3.1. Thay huyết tương thể tích thấp [75], [76], [77]
Là hình thức Thay huyết tương để điều trị và hỗ trợ điều trị nhiều bệnh
khác nhau mà ở đó người ta thường trao đổi một lượng huyết tương tươi đông
lạnh bằng 5 đến 7.5% trọng lượng cơ thể lý tưởng.
1.2.3.2. Thay huyết tương thể tích bình thường [63], [78], [79]
Là hình thức Thay huyết tương để điều trị hoặc hỗ trợ điều trị một số bệnh
khác nhau mà ở đó lượng huyết tương tươi đông lạnh trao đổi được tính theo
công thức:
Tổng huyết tương trao đổi một lần PEX = 0.065 x P x (1 – Hematocrit)
Trong đó P là trọng lượng của cơ thể bệnh nhân. 1.2.3.3. Thay huyết tương thể tích cao
Là hình thức Thay huyết tương để điều trị hoặc hỗ trợ điều trị một số bệnh
khác nhau mà ở đó lượng huyết tương tươi đông lạnh trao đổi được tính theo
công thức:
30
V ( lít) = (8 đến 15%) x P (trọng lượng cơ thể lý tưởng) [16], [17], [77],
[80]
Trong đó:
V: Thể tích huyết tương ước tính của mỗi lần Thay huyết tương
P: Trọng lượng cơ thể lý tưởng được tính theo công thức của ARDS [81]
P (kilogram) đối với nam giới = 50 + 0,91 x [ chiều cao (centimet) – 152,4]
P (kilogram) đối với nữ giới = 45,5 + 0,91 x [ chiều cao (centimet) – 152,4]
1.2.4. Chỉ định – chống chỉ định của thay huyết tương
Thay huyết tương là một phương pháp điều trị và hỗ trợ điều trị được chỉ
định với nhiều bệnh khác nhau, theo nhiều tài liệu nghiên cứu thì thường chia
thành thay huyết tương cho các bệnh thuộc về thần kinh và các bệnh không
thuộc về thần kinh.
Tuy nhiên, theo hiệp hội lọc máu Hoa Kỳ thì Thay huyết tương chỉ định
đối với các trường hợp sau [19], [82], [83], [84], [85], [86], [87], [88], [89]:
31
Bảng 1.4. Chỉ định thay huyết tương
Cấp độ Bệnh Loại lọc máu bằng chứng
Hội chứng Guillain Barre Thay huyết tương 1A
Suy gan cấp Thay huyết tương thể tích 1A
cao hoặc thay huyết tương 2B
Thiếu máu tan máu tự miễn, Thay huyết tương 2C
nặng
Hội chứng Goodpasture Thay huyết tương 1C
Hội chứng kháng Thay huyết tương 2C
Phospholipid
Tăng cholesterol có tính gia Thay huyết tương 1B
đình
Hội chứng HELLP Thay huyết tương 2C
Viêm tuỵ tăng Triglycerid Thay huyết tương Nặng 1C
Vừa 2C
Tan máu do miễn dịch (TTP) Thay huyết tương 2C
Sốt rét Trao đổi Hồng cầu 2B
Xơ cứng đa cơ Thay huyết tương Cấp 1A
Mạn 2B
Bệnh nhược cơ Thay huyết tương 1B
Ngộ độc nấm độc, một số Thay huyết tương 2C
loại thuốc
Não Hashimoto Thay huyết tương 2C
Cơn bão giáp Thay huyết tương 2C
Wilson Thay huyết tương 1C
Viêm mạch liên quan tự miễn Thay huyết tương 1A
32
Theo hiệp hội lọc máu Hoa Kỳ, thay huyết tương thể tích cao được chỉ
định trong suy gan cấp với mức độ bằng chứng IA trong khi thay huyết tương
thông thường chỉ đạt mức bằng chứng 2B [19]
33
34
35
36
Hình 5. Chỉ định thay huyết tương theo hiệp hội lọc máu Hoa Kỳ 2019 [19]
37
- Không có chống chỉ định tuyệt đối.
- Cần thận trọng trong các trường hợp:
Chống chỉ định trong các trường hợp sau:
+ Nhiễm khuẩn tại vùng đặt catheter.
+ Bệnh nhân dị ứng với dịch thay thế.
+ Người bệnh đang hạ huyết áp, cần nâng huyết áp trước khi tiến hành
kỹ thuật.
+ Người bệnh đang có rối loạn đông máu cần chú ý trong quá trình đặt
catheter: PT <50%, tiểu cầu < 50 G/l. 1.2.5. Các tác dụng không mong muốn, biến chứng của thay huyết
tương thể tích cao [90]
Phương pháp thay huyết tương thể tích cao dùng trong hỗ trợ điều trị suy
gan cấp cũng là một thủ thuật do đó cũng tiềm ẩn các tác dụng không mong
muốn hoặc biến chứng như tổn thương mạch máu, tắc mạch khí, huyết khối,
nhiễm trùng, quá tải thể tích dịch và các phản ứng truyền máu khác.
- Tổn thương mạch máu: Chọc thủng động mạch ghi nhận khoảng 3-15%
các trường hợp nhưng thường được nhận biết ngay tức thì và có các biện pháp
ngăn ngừa các biến chứng tiếp theo. Nhận biết muộn sẽ làm tăng nguy cơ chảy
máu và có khi đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật. Vì vậy quy trình đặt catheter
nên được thực hiện dưới sự hướng dẫn của siêu âm.
- Tắc mạch khí: Lượng khí khoảng 20ml đi vào trong lòng mạch có thể
gây tử vong, nó có thể được hút vào trong lòng mạch trong vài giây đối với
catheter lớn.
- Huyết khối: Dự phòng và điều trị huyết khối catheter là một vấn đề quan
trọng. Để ngăn ngừa huyết khối, lòng catheter nên được tráng và giữ bằng dung
dịch có pha Heparin sau khi thay huyết tương xong.
- Nhiễm khuẩn: Cần thực hiện đúng và đủ 5 bước theo quy trình để giảm
nhiễm khuẩn huyết liên quan đến catheter: (1) rửa tay, (2) sát khuẩn da bề mặt
38
bằng Chlohexidin, (3) sử dụng các phương tiện bảo vệ như mũ, khẩu trang, mặc
quần áo vô khuẩn khi làm thủ thuật, (4) hạn chế đặt catheter qua tĩnh mạch đùi,
(5) rút catheter khi không cần thiết.
Ngoài ra huyết tương có nguồn gốc từ máu người và do đó nó có nguy cơ
lây nhiễm các bệnh truyền nhiễm.
- Quá tải thể tích:
Truyền một số lượng lớn huyết tương hoặc các chế phẩm máu khác có thể
gây nên tình trạng quá tải thể tích dịch và dẫn đến tình trạng phù phổi, đặc biệt
là ở những người lớn tuổi, trẻ nhỏ và những người có bệnh tim tồn tại trước đó.
Điều này có thể tránh được bằng cách giảm tốc độ truyền xuống 1 mL /kg mỗi
giờ ở những bệnh nhân có nguy cơ.
- Sốt và phản ứng dị ứng:
Truyền huyết tương có thể dẫn đến các phản ứng dị ứng, sốt. Nên được
điều trị triệu chứng.
- Phản ứng phản vệ:
Phản ứng phản vệ sau khi truyền huyết tương có thể xảy ra ở những bệnh
nhân thiếu IgA và có kháng thể với IgA [91].
- Ngoài các biến chứng chính trên bệnh nhân có thể gặp các biến chứng
phụ khác: Hạ calci huyết và hoặc hạ magie huyết trong và sau thay huyết tương,
được điều trị bằng canxi và magie thay thế, tương ứng [76].
Những bệnh nhân có thể bị hạ huyết áp do thay đổi lượng dịch quá nhanh
hoặc có tiền sử dùng thuốc ức chế men chuyển (ACE, angiotensin-converting
enzyme). Cơ chế là do tăng bradykinin gây nên [92].
Sự tích tụ kinin dẫn đến hạ huyết áp, đỏ bừng và các triệu chứng tiêu hóa.
Do đó, bệnh nhân được khuyến cáo ngừng tất cả các thuốc ức chế men chuyển
ít nhất 24 giờ trước khi bắt đầu thay huyết tương .
39
Bệnh nhân có thể bị giảm tiểu cầu và giảm fibrinogen sau khi thay
huyết tương (đặc biệt nếu albumin được sử dụng là một sản phẩm thay thế), cần
được theo dõi các dấu hiệu chảy máu.
1.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về thay huyết
tương thể tích cao
1.3.1. Trên thế giới
Đã có nhiều nghiên cứu về hiệu quả của thay huyết tương trong điều trị
suy gan cấp. Nhiều nghiên cứu đã chứng mình được hiệu quả cải thiện chức
năng gan cũng như cải thiện tỷ lệ sống còn ở các bệnh nhân suy gan cấp đặc
biệt là các bệnh nhân không thể ghép gan.
Larsen và cộng sự, năm 2016, tiến hành thủ nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên,
có đối chứng, đa trung tâm trên 182 bệnh nhân suy gan cấp. Các tiêu chí chính
là sống sót không cần ghép gan trong thời gian nằm viện, tiêu chí phụ bao gồm
khả năng sống sót sau khi ghép gan khi có hoặc không có thay huyết tương thể
tích cao. Kết quả cho thấy, tỷ lệ sống chung tại viện là 58,7% ở nhóm thay
huyết tương thể tích cao so với 47,8% đối với nhóm chứng. Tỷ lệ các tác dụng
không mong muốn là tương tự nhau ở hai nhóm. Hội chứng đáp ứng viêm hệ
thống (SIRS) và điểm đánh giá suy cơ quan tuần tự (SOFA) giảm ở nhóm được
điều trị thay huyết tương thể tích cao so với nhóm chứng trong suốt thời gian
nghiên cứu (p <0,001) [16]. Một số kết quả của các nghiên cứu khác cũng bước
đầu cho thấy sự khác biệt và có ý nghĩa khi điều trị bệnh nhân suy gan cấp bằng
thay huyết tương thể tích cao so với nhóm thay huyết tương thể tích thấp hoặc
thể tích trung bình. [18], [47], [63], [76], [80].
Andre A. Kaplan, năm 2017, nghiên cứu thay huyết tương thể tích cao
nhằm loại bỏ các độc tố với sự kết hợp tốt nhất giữa khối lượng trao đổi, tần
suất và thời gian thay huyết tương nhằm loại bỏ độc tố hiệu quả nhất. Các thông
số được quan tâm của độc tố bao gồm trọng lượng phân tử, thể tích phân bố
40
biểu kiến, mức độ liên kết với protein, thời gian bán huỷ sinh học và mức độ
nghiêm trọng của độc tính [91], [94].
Tiến sĩ Kristin Ricci, giám đốc Trung tâm y tế học thuật đa chuyên khoa
Cleveland Clinic, Hoa Kỳ công bố thông tin về một bệnh nhân nữ, 27 tuổi nhập
viện trong tình trạng nguy cấp, được chẩn đoán là suy gan tối cấp do uống quá
liều acetaminophen, đồng thời mắc Covid 19. Bệnh nhân được đưa vào điều trị
tại đơn vị hồi sức tích cực và được hỗ trợ điều trị gan bằng phương pháp thay
huyết tương thể tích cao. Sau đó, bệnh nhân được ghép gan và có sự hồi phục
khả quan. Kết quả bệnh nhân ổn định sức khoẻ và được xuất viện. Giám đốc
Phẫu thuật của Chương trình Cấy ghép tạng tại bệnh viện Cleveland Clinic, ông
Cristiano Quintini cho biết “Trong trường hợp này, việc Thay huyết tương thể
tích cao là một phương pháp làm thay đổi tình trạng bệnh và cứu sống bệnh
nhân” [95].
Landon Tam, Constantine Karrvellas và Eric Sy, năm 2020, đề cập tới một
trường hợp bệnh nhân nam 34 tuổi, viêm gan do rượu, dẫn đến suy gan cấp và
được chỉ định hỗ trợ điều trị bằng phương pháp Thay huyết tương thể tích cao
(HVPE). Kết quả nghiên cứu cho thấy việc sử dụng phương pháp thay huyết
tương thể tích cao có hiệu quả cải thiện chức năng gan rõ rệt [ [96].
Eunice Xiang-Xuan Tan, Min-Xian Wang và cộng sự, năm 2020, công
bố một nghiên cứu tổng hợp, có tính hệ thống về hiệu quả của phương pháp
thay huyết tương thể tích cao đối với bệnh nhân suy gan cấp và ảnh hưởng của
nó đối với tỉ lệ tử vong ở những bệnh nhân không được ghép gan. Nghiên cứu
được thực hiện thông qua việc phân tích các kết quả nghiên cứu đáng tin cậy
(báo cáo thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, nghiên cứu thuần tập và báo cáo
trường hợp…) được công bố về hiệu quả của thay huyết tương thể tích cao với
suy gan cấp. Trong 324 tài liệu nghiên cứu về hiệu quả của thay huyết tương
cho bệnh nhân suy gan cấp, các nhà khoa học đã lựa chọn 44 nghiên cứu tin
cậy, bao gồm: 2 trường hợp là thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, 14 nghiên
41
cứu thuần tập, 12 loạt trường hợp, 16 báo cáo trường hợp. Thay huyết tương
giúp cải thiện tỷ lệ sống sót ở ngày thứ 30 và ngày thứ 90 của bệnh nhân suy
gan cấp. Qua đó các tác giả đề xuất việc thiết kế các nghiên cứu để xác định
lượng huyết tương cũng như thời gian cần thiết để đem lại hiệu quả tối ưu của
thay huyết tương ở bệnh nhân suy gan cấp và mở rộng thêm đối tương suy gan
cấp trên nền bệnh gan mạn tính [97].
1.3.2. Tại Việt Nam
Vương Xuân Toàn (2019), nghiên cứu 30 bệnh nhân suy gan cấp do các
nguyên nhân khác nhau được lọc máu liên tục và thay huyết tương thể tích cao
thấy rằng, bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể tích cao kết hợp
lọc máu liên tục, chức năng gan có cải thiện, giảm tỷ lệ rối loạn đông máu, giảm
nồng độ NH3 và bilirubin máu so với trước điều trị. Tác giả cũng xác định một
số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị như mức độ hôn mê gan, điểm Child-
Pugh, điểm MELD. Tỷ lệ thành công giảm theo mức độ nặng của bệnh, đặc
biệt tỷ lệ thành công chỉ đạt 25% ở các bệnh nhân hôn mê gan độ 3,4; Child-
Pugh C và MELD trên 40 điểm [98].
Lê Quang Thuận (2017) nghiên cứu hiệu quả phối hợp thay huyết tương
tích cực điều trị bệnh nhân viêm gan nhiễm độc cấp nặng so với thay huyết
tương thường qui thấy thay huyết tương tích cực có hiệu quả cao hơn thay huyết
tương thường qui thông qua việc cải thiện tỷ lệ prothrombin, giảm INR và
bilirubin đồng thời thay huyết tương tích cực giảm 50% nguy cơ tử vong so với
nhóm thay huyết tương thường qui [99].
42
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu gồm 45 bệnh nhân suy gan cấp do các nguyên nhân khác nhau,
được điều trị hỗ trợ thay huyết tương thể tích cao tại Trung tâm Chống độc
Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 6/2017 đến tháng 4/2021.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Bệnh nhân lựa chọn vào nghiên cứu gồm các bệnh nhân suy gan cấp được
điều trị hỗ trợ bằng thay huyết tương thể tích cao với các tiêu chuẩn sau:
- Có dấu hiệu não gan từ độ 2 trở lên theo phân loại của West Haven [49],
cụ thể:
+ Độ 1: Thay đổi về hành vi, hầu như không thay đổi về ý thức.
+ Độ 2: Rối loạn về định hướng, ngủ gà, có thể có dấu hiệu run giật 2 bàn
tay, có những hành vi không thích hợp.
+ Độ 3: Rối loạn ý thức, lời nói không rõ ràng, ngủ nhiều nhưng vẫn đáp
ứng với nói to.
+ Độ 4: Hôn mê, không đáp ứng với đau.
- Bất thường về đông máu với INR > 1,5.
- Không có bệnh gan trước đó.
- Thời gian từ khi vàng da đến khi xuất hiện dấu hiệu não gan < 26 tuần.
- Bệnh nhân và gia đình đồng ý tham gia nghiên cứu. 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân
- Bệnh nhân có bệnh gan tim.
+ Tiền sử bệnh tim mạch từ trước.
+ Thường tổn thương gan ở giai đoạn muộn của bệnh tim.
+ Khám lâm sàng và siêu âm tim cho phép loại trừ.
- Suy gan cấp nặng trên nền gan xơ không có khả năng phục hồi.
- Rối loạn đông máu do ngộ độc hóa chất diệt chuột loại kháng vitamin K.
+ Tiền sử dùng hóa chất diệt chuột.
43
+ Xét nghiệm thấy rối loạn đông máu do thiếu Vitamin K.
2.1.3. Tiêu chuẩn loại khỏi nghiên cứu
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu hoặc tham gia nghiên cứu
nhưng không tuân thủ theo phác đồ điều trị. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu - Cỡ mẫu thuận tiện trong thời gian nghiên cứu.
- Phương pháp chọn mẫu: Tất cả các bệnh nhân suy gan cấp đủ tiêu chuẩn
lựa chọn, điều trị tại Trung tâm chống độc bệnh viện Bạch Mai trong khoảng
thời gian nghiên cứu từ tháng 6/2017 đến tháng 4/2021.
2.2.2. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, tiến cứu can thiệp điều trị, tự chứng trước và sau điều
trị.
- Tất cả các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn được lựa chọn vào nghiên cứu. - Bệnh nhân được thay huyết tương thể tích cao 3 lần liên tục vào 3 ngày
liên tiếp nhau theo qui trình. Sau 3 lần thay huyết tương thể tích cao, diễn biến
lâm sàng và cận lâm sàng cải thiện tốt, dừng thay huyết tương. Nếu không cải
thiện, bệnh nhân chuyển ghép gan (nếu có) hoặc tử vong tại bệnh viện/xin về
để tử vong.
- Nhận xét các yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng trước khi thay huyết tương
thể tích cao.
- Suy tạng tiến triển, nguy cơ tử vong. - Tìm hiểu các yếu tố tiên lượng tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp được
điều trị bằng thay huyết tương thể tích cao.
- Nhận xét các tác dụng không mong muốn và đánh giá hiệu quả của
phương pháp thay huyết tương thể tích cao.
2.2.3. Các phương tiện phục vụ cho nghiên cứu
- Sử dụng máy thở Purritan Bennet 840 cho các bệnh nhân có chỉ định
44
thông khí cơ học.
- Máy monitoring theo dõi của Lifescope của hãng NIHON KOHDEN
Nhật Bản cho phép theo dõi liên tục các chỉ số chức năng sống gồm mạch, nhiệt
độ, huyết áp, SpO2.
- Máy thay huyết tương PrismaFlex của hãng Baxter (Thụy Điển). Máy sử dụng
bộ quả lọc thay thế huyết tương TPE 2000 của hãng Gambro Industries (Thụy
Điển).
45
- Bộ quả lọc thay thế huyết tương TPE 2000 của hãng Gambro Industries
(Thụy Điển).
- Bộ catheter 2 nòng được đặt vào tĩnh mạch đùi hoặc tĩnh mạch cảnh để
lọc thay huyết tương.
- Máy siêu âm tại giường LOGIQ P7 của Mỹ có đủ 3 đầu dò cả đầu dò
mạch máu để xác định mạch máu khi đặt Catheter lọc máu.
46
- Máy X quang tại giường Visitor AR30 của Nhật Bản để theo dõi thường
qui, chụp phổi đánh giá, theo dõi khi có viêm phổi cho bệnh nhân tại giường.
- Bơm tiêm điện, máy truyền dịch của hãng Terumo Nhật Bản.
- Máy khí máu động mạch đặt tại khoa GEM Premier 3000 của Mỹ để làm
khí máu động mạch tại giường.
- Cân Scale- Tronix của Nhật Bản để cân tại giường cho bệnh nhân.
- Thước đo chiều cao chuyên dụng để đo chiều cao tính cân nặng lý tưởng
cho bệnh nhân.
- Máy xét nghiệm công thức máu, đông máu cơ bản, sinh hoá máu đặt tại
khoa huyết học và khoa sinh hoá của bệnh viện Bạch Mai.
2.2.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu
Mục tiêu 1: Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố
liên quan đến tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể
tích cao.
Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng:
- Đặc điểm chung: tuổi, giới.
- Đặc điểm về dân tộc bao gồm dân tộc kinh và dân tộc thiểu số.
47
- Chiều cao, cân nặng, phân nhóm BMI theo chuẩn người Châu Á.
- Khảo sát các bệnh mạn tính đi kèm:
+Đái tháo đường.
+ Tăng huyết áp.
+ Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
- Nguyên nhân gây suy gan cấp:
+ Do ngộ độc cấp, phân chia thành các nhóm: • Ngộ độc thuốc đông y. • Ngộ độc paracetamol. • Ngộ độc khác: thuốc chống lao, nấm…
+ Do nguyên nhân chuyển hóa: bệnh rối loạn chuyển hóa đồng.
+ Do nguyên nhân miễn dịch: Có dấu hiệu suy gan và xét nghiệm miễn
dịch dương tính (kháng thể kháng nhân dương tính) và đã loại trừ các nguyên
nhân virus và nhiễm độc, nhiễm khuẩn, tự miễn.
+ Do phối hợp nhiều nguyên nhân chia thành nhóm có 1 nguyên nhân, 2
nguyên nhân.
- Mức độ bệnh não gan theo phân loại của West Haven. - Mức độ nặng lúc vào viện theo điểm SOFA.
Bảng 2.1. Thang điểm SOFA đánh giá mức độ suy tạng
Chỉ số Điểm SOFA
PaO2/FiO2
< 400 1
< 300 2
< 200 3
< 100 4
Tiểu cầu
< 150000 1
48
< 100000 2
< 50000 3
< 20000 4
Bilirubin
20 - 32 1
33 - 101 2
102 - 204 3
> 204 4
HA và vận mạch
HA trung bình < 70 mmHg 1
Dopamin hoặc Dobutamin ≤ 5 µg/kg/phuts 2
Dopamin > 5 µg/kg/phút hoặc
Noradrelanin ≤ 0.1 µg/kg/phúthoặc 3
Adrenalin ≤ 0.1 µg/kg/ph
Dopamin> 15 µg/kg/ph hoặc
Noradrelanin > 0.1 µg/kg/phút hoặc 4
Adrenalin > 0.1 µg/kg/phút
Glasgow
13 - 14 1
10 - 12 2
6 - 9 3
< 6 4
Creatinin
110 - 170 1
171 - 299 2
300 - 440 hoặc nước tiểu < 500ml/ngày 3
> 440 hoặc nước tiểu < 200ml/ngày 4
49
- Các triệu chứng lâm sàng: phù, vàng da, xuất huyết, ... được đánh giá
vào thời điểm bệnh nhân được chẩn đoán suy gan cấp và đánh giá hàng ngày
khi thăm khám.
- Đặc điểm về huyết động: mạch, huyết áp, sử dụng thuốc vận mạch.
- Đặc điểm về hô hấp: tỷ lệ bệnh nhân phải thở oxy, thở máy, tỷ lệ bệnh
nhân không cần hỗ trợ hô hấp.
- Đặc điểm cận lâm sàng lúc được chẩn đoán suy gan cấp:
+ Công thức máu.
+ Đông máu cơ bản: tỷ lệ prothrombin, aPTT, fibrinogen, INR.
+ Sinh hóa: bilirubin toàn phần, bilirubin trực tiếp, AST, ALT, GGT, ALP,
protein, albumin; ure, creatinin; NH3, điện giải đồ, canxi.
+ Định lượng nồng độ một số độc chất trong máu và nước tiểu như:
paracetamol, ochratoxin.
+ Khí máu: pH, PaO2, PaCO2,, HCO3, BE, tính P/f cho các bệnh nhân thở
máy.
+ Định lượng nồng độ Interleukin 6.
- Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trước và sau khi thay huyết tương thể
tích cao gồm:
+ Sự thay đổi tri giác, mức độ bệnh não gan.
+ Sự thay đổi huyết động.
+ Sự thay đổi các phương pháp hỗ trợ hô hấp.
+ Đánh giá sự thay đổi điểm SOFA.
+ Sự thay đổi các chỉ số công thức máu, đặc biệt là tiểu cầu.
+ Sự thay đổi các chỉ số đông máu cơ bản.
+ Sự thay đổi các chỉ số sinh hóa máu đánh giá tình trạng tổn thương gan
và suy gan như bilirubin toàn phần và trực tiếp, AST, ALT, tỷ số ALT/ALP,
protein, albumin, NH3, điện giải đồ.
+ Biến đổi khí máu động mạch.
50
Một số yếu tố liên quan đến tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp:
- Đánh giá kết cục cuối cùng của bệnh nhân:
+ Sống: khỏi ra viện, chuyển khoa, chuyển viện để được ghép gan.
+ Tử vong: tử vong tại viện, xin về để tử vong (trong vòng 28 ngày sau
khi ra viện)
- So sánh các đặc điểm lâm sàng của nhóm sống và tử vong bao gồm: tuổi,
giới, BMI, căn nguyên gây ngộ độc, bệnh lý nền, tình trạng hô hấp, tuần hoàn,
điểm SOFA, mức độ bệnh não gan.
- So sánh các đặc điểm cận lâm sàng của nhóm sống và tử vong bao gồm:
các chỉ số chức năng đông cầm máu, chỉ số sinh hóa chức năng gan, interleukin
6, khí máu.
- Tìm hiểu một số yếu tố làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan
cấp:
+ Các yếu tố lâm sàng như nguyên nhân suy gan cấp (ngộ độc, không ngộ
độc, 1 nguyên nhân, phối hợp từ 2 nguyên nhân trở lên), SOFA, độ não gan,
mức độ hỗ trợ về hô hấp (thở máy/ không thở máy), dân tộc, bệnh lý đồng mắc.
+ Các yếu tố cận lâm sàng: tiểu cầu, INR, NH3, Bilirubin, men gan, IL6.
Prothrombin.
Mục tiêu 2: Đánh giá hiệu quả và một số tác dụng không mong muốn
của phương pháp thay huyết tương thể tích cao trong điều trị hỗ trợ suy gan
cấp.
Đánh giá hiệu quả của phương pháp thay huyết tương thể tích cao:
- Đánh giá sự cải thiện mức độ não gan, điểm SOFA trước và sau các lần
thay huyết tương thể tích cao.
- Hiệu quả cải thiện các chỉ số chức năng gan như GOT, GPT, bilirubin
toan phần, bilirubin trực tiếp, NH3 trước và sau mỗi lần thay huyết tương thể
tích cao.
51
- Hiệu quả cải thiện các chỉ số chức năng đông máu trước và sau mỗi lần
thay huyết tương thể tích cao.
Các tai biến, biến chứng thường gặp trong quá trình thay huyết tương:
- Tai biến trong quá trình đặt catheter bao gồm:
+ Chảy máu chân catheter.
+ Nhiễm khuẩn catheter. - Tai biến trong quá trinh thay huyết tương:
+ Phản vệ: ban mày đay, tụt huyết áp, sốc phản vệ, mức độ phản vệ.
+ Hạ calci máu.
+ Chảy máu do do rối loạn đông máu.
+ Nhiễm trùng.
+ Tắc quả lọc. - So sánh mức độ xuất hiện, thời gian xuất hiện các biến chứng trên qua
các lần thay huyết tương.
- So sánh việc xuất hiện các biến chứng theo nhóm sống – tử vong. 2.2.5. Các biện pháp điều trị nền ngoài PEX
- Đảm bảo hô hấp: Bệnh nhân được hỗ trợ hô hấp ở các mức độ (nếu cần):
thở oxy gọng kính, thở oxy mask, thở máy xâm nhập.
- Đảm bảo tuần hoàn: duy trì huyết áp trung bình đạt trên 65mmHg, có thể
dùng các thuốc vận mạch.
- Nhanh chóng loại bỏ các tác nhân gây bệnh ngộ độc cấp nếu xác định
được (qua khai thác thông tin gia đình, giấy chuyển tuyến) bằng cách gây nôn,
rửa dạ dày, uống than hoạt, sorbitol.
- Định lượng độc chất với bệnh phẩm máu, nước tiểu nếu nghi ngờ ngộ
độc các chất có thể làm được tại Trung tâm Chống độc.
- Kiểm soát mức độ não gan bằng cách nhanh chóng thải trừ NH3, chống
phù não bằng manitol 20% hoặc muối Natriclorua 2%.
52
- Kiểm soát tình trạng rối loạn đông máu bằng cách bù các chế phẩm máu
tương ứng cùng nhóm.
- Bù đủ dinh dưỡng, nước và điện giải bằng cách truyền dịch thông thường
và các dịch nuôi dưỡng một cách tối ưu nhất.
- Cân bằng toan kiềm, điện giải.
- Kiểm soát đường máu
- Chống nhiễm khuẩn, virus, ký sinh trùng, bổ sung kháng sinh, kháng
nấm nếu cần thiết.
2.2.6. Tiến hành thay huyết tương thể tích cao
Tiến hành thay huyết tương theo Hướng dẫn quy trình kỹ thuật chuyên
ngành Hồi sức - Cấp cứu và Chống độc, năm 2014 [100].
a. Chuẩn bị
- 1 bác sỹ và 2 điều dưỡng được đào tạo và có chứng chỉ thực hành thay
* Nhân lực:
- Bác sĩ: đội mũ, đeo khẩu trang, rửa tay, mặc áo, đi găng vô khuẩn.
- Điều dưỡng: đội mũ, đeo khẩu trang, phụ giúp bác sĩ làm thủ thuật, đuổi
huyết tương.
khí quả lọc, kết nối máy lọc.
* Trang thiết bị:
- Bộ catheter tĩnh mạch 2 nòng:
53
Hình 2.1. Bộ catheter lọc máu 2 nòng
- Máy lọc máu Prismaflex.
- Bộ quả lọc thay huyết tương Prismaflex TPE 2000 của Hãng Gambro
(Pháp).
Hình 2.2. Bộ quả lọc thay huyết tương Prismaflex TPE 2000 của
Hãng Gambro
54
- Dịch thay thế: lựa chọn 1 loại dịch thay thế là huyết tương tươi đông
lạnh. Thể tích huyết tương bằng 15% thể tích tuần hoàn của bệnh nhân tính theo
cân nặng lý tưởng.
V ( lít) = (15 x P) /100
Trong đó:
V: Thể tích huyết tương ước tính của mỗi lần thay huyết tương
P: Trọng lượng cơ thể lý tưởng được tính theo công thức [81]:
P (kilogram) đối với nam giới = 50 + 0,91 x [ chiều cao (centimet) – 152,4]
- Để đảm bảo chất lượng huyết tương thì huyết tương sau khi được rã đông
P (kilogram) đối với nữ giới = 45,5 + 0,91 x [ chiều cao (centimet) – 152,4]
được chi thành 2-3 túi, mỗi túi 3000ml (tương đương khoảng 2 giờ chạy máy).
Các túi huyết tương chưa được sử dụng sẽ được bảo quản trong ngăn mát tủ
lạnh (nhiệt độ 2-8 độ C) và sẽ được lấy ra ngoài 30 phút trước khi túi huyết
tương trước đó hết.
- Dịch mồi để khởi động, chuẩn bị máy: sử dụng dung dịch NaCl 0,9%
- Bộ túi, dây, quả lọc.
- Bàn làm thủ thuật, bộ tiểu thủ thuật, áo phẫu thuật, săng có lỗ vô khuẩn,
4000ml được pha Heparin theo tỷ lệ 5000UI/1000ml dịch.
- Monitor theo dõi các chức năng sống nhịp tim, SpO2, nhịp thở, huyết áp...
- Các thiết bị và thuốc cấp cứu: dây thở oxy, mask thở, bóng ambu, máy
găng vô khuẩn, bơm tiêm 10ml.
thở, nội khí quản.
- Dung dịch sát khuẩn Betadin 10%, cồn 70o .
- Thuốc cấp cứu: adrenalin, dimedrol 1%, methylprednisolo.
- Chống đông: Heparin.
- Canxiclorua dự phòng ngộ độc citrate.
- Gây tê khi đặt catheter: lidocain 2% 2 ml.
* Chuẩn bị thuốc:
55
- Giải thích cho bệnh nhân và gia đình bệnh nhân về lợi ích và tác dụng
* Chuẩn bị bệnh nhân và hồ sơ bệnh án:
- Gia đình hoặc bệnh nhân ký cam kết đồng ý làm thủ thuật sau khi đã
không mong muốn của thay huyết tương thể tích cao.
được giải thích về lợi ích và tác dụng phụ của thay huyết tương thể tích cao.
- Bệnh nhân ký bản đồng ý tham gia nghiên cứu.
Các chi phí liên quan đến kỹ thuật theo qui định của cơ quan bảo hiểm y tế.
b. Tiến hành thay huyết tương thể tích cao
- Chuẩn bị bệnh nhân
+ Bệnh nhân nằm ngửa, đầu cao 30o (nếu không có hạ huyết áp).
+ Chân bên đặt catheter tĩnh mạch đùi 2 nòng duỗi thẳng, dạng nhẹ 15-30
độ, xoay ngoài.
+ Nếu đặt tĩnh mạch cảnh trong làm đường vào thì đặt tư thế đầu bằng,
mặt quay sang bên đối diện.
- Sát khuẩn vùng đặt catheter.
- Tê tại chỗ theo lớp bằng lidocain 2%
- Đặt catheter tĩnh mạch 2 nòng vào tĩnh mạch đùi/tĩnh mạch cảnh trong 2
- Bơm rửa catheter thông thoáng.
- Cố định catheter.
bên.
- Bật nguồn điện máy Prismaflex, nhập tên, tuổi, cân nặng bệnh nhân, chọn
- Lắp quả lọc và hệ thống dây dẫn theo chỉ dẫn trên máy lọc.
- Đuổi khí trong hệ thống dây dẫn và quả lọc bằng dung dịch NaCl 0,9%
chế độ lọc thay huyết tương.
có pha Heparin theo tỷ lệ 5000UI/1000ml.
- Kiểm tra toàn bộ hệ thống an toàn của vòng tuần hoàn ngoài cơ thể (các
- Lắp bơm Heparin vào hệ thống thay huyết tương.
khóa, đầu tiếp nối của máy).
- Tiến hành kết nối máy với bệnh nhân:
56
+ Lắp dịch thay thế vào đường quy định: huyết tương tươi sau khi được rã
đông được dồn vào 2 – 3 túi lớn (mỗi túi từ 3 -5 lít).
+ Lắp túi huyết tương vào đường qui định (màu tím).
+ Đối với túi huyết tương chưa dùng đến được cất vào ngăn mát tủ lạnh
(2- 8 độ C) để đảm bảo chất lượng huyết tương. Trước khi túi cũ sắp hết 30
phút thì lấy túi mới ra để huyết tương được làm ấm trở lại trước khi thay cho
túi huyết tương cũ.
+ Nối đường máu ra (đường màu đỏ) với hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể,
mở bơm máu và bơm plasma tốc độ khoảng 50-70ml/phút.
+ Khi máu đến 1/3 quả lọc thì ngừng bơm máu và nối tuần hoàn ngoài cơ
thể với đường vào bệnh nhân (đường màu xanh), tăng tốc độ máu lên 80-
- Trước khi
100ml/phút tùy thuộc vào huyết áp của bệnh nhân.
tiến hành thay huyết tương 30 phút, nên dùng
methylpresnisolon 40mg, Canxiclorua 0,5g tiêm tĩnh mạch chậm. Quá trình
thay huyết tương có thể duy trì dung dịch NaCl 0,9% có pha Calciclorua 0,5g
để chủ động phòng ngừa các biến chứng hạ calci máu.
c. Chống đông trong thay huyết tương:
Trước khi tiến hành thay huyết tương, các bệnh nhân đều được xét
nghiệm đánh giá các chỉ số đông cầm máu bao gồm xét nghiệm chỉ số tiểu cầu,
prothrombin, thời gian aPTT, Fibrinogen, INR làm căn cứ để điều chỉnh liều
Heparin trong quá trình thay huyết tương. Nguy cơ chảy máu và liều Heparin
ở bệnh nhân suy gan cấp được chia thành các mức độ [4], [101]:
- Nguy cơ cao khi đang chảy máu, tiểu cầu < 60 G/L hoặc APTTs ≥ 60:
không dùng heparin;
- Nguy cơ chảy máu thấp khi 50 ≤ APTTs < 60, 60 G/L ≤ tiểu cầu < 150
G/L: duy trì heparin 5 UI/kg/giờ, không bolus;
57
- Không nguy cơ chảy máu khi tiểu cầu ≥ 150 G/L, khi đó nếu APTTs <
30 thì bolus heparin 20 UI/kg và duy trì 10 UI/kg/giờ, nếu 30 ≤ APTTs < 40
thì bolus heparin 10 UI/kg và duy trì 10 UI/kg/giờ, nếu 40 ≤ APTTs < 50 thì
bolus heparin 5 UI/kg và duy trì 5 UI/kg/giờ.
d. Cài đặt các thông số máy thay huyết tương:
- Tốc độ dòng máu:
+ Tốc độ dòng máu khởi đầu từ 20 – 30 ml/ phút.
+ Sau đó tăng tốc độ lên mỗi lần 20 – 30 ml/ phút và đo huyết áp, nếu
huyết áp ổn định thì tiếp tục tăng để đạt tốc độ từ 120 – 150 ml/ phút.
- Tốc độ dịch thay thế (Plasma tươi đông lạnh):
+ Bắt đầu 1000ml/ giờ khi tốc độ dòng máu đạt 80- 100ml/phút
+ Vận hành tốc độ 1000ml/ giờ trong 30- 60 phút, tăng dần tốc độ để đạt
mục đích điều trị > 35ml/kg/giờ.
+ Lựa chọn phương pháp hoà loãng trước quả lọc: • Với chống đông bằng Heparin tỉ lệ 30%. • Với không dùng chống đông tỉ lệ 100%.
e. Theo dõi:
- Ý thức, mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở, SpO2, các thông số máy thở
(nếu bệnh nhân thở máy).
- Các phản ứng phản vệ: mẩn ngứa, mề đay, khó thở, sốc phản vệ, hạ calci
máu.
- Các biến chứng chảy máu các vị trí đặt catheter hoặc chảy máu tự nhiên
do suy gan cấp.
- Nhiễm trùng chân catheter.
- Các báo động của máy lọc máu.
f. Thời gian thay huyết tương:
- Thời gian trung bình khoảng 5-6 giờ tùy thuộc vào bệnh nhân, việc xuất
hiện và xử lý các biến chứng.
58
- Nếu bệnh nhân bị tắc quả thì tiến hành thay quả lọc mới ngay.
g. Tiêu chuẩn dừng thay huyết tương:
- Khi đạt được mục tiêu điều trị:
+ Giữ được đông máu, INR < 1.5.
+ Cải thiện ý thức và giữ được độ não gan < 2.
- Khi bệnh nhân có biến chứng nghiêm trọng như sốc phản vệ trong các
lần thay huyết tương thể tích cao thứ 1 và 2.
h. Theo dõi quá trình thay huyết tương vào các thời điểm:
- Các số liệu được theo dõi liên tục trong quá trình điều trị và thay huyết
tương thể tích cao.
- Các thời điểm thu thấp số liệu:
+ Thời điểm được chẩn đoán suy gan cấp
+ Trước khi bắt đầu thay huyết tương lần 1 (trong vòng 60 phút trước khi
thay huyết tương lần 1)
+ Sau thay huyết tương lần 1 (trong vòng 60 phút sau khi thay huyết tương
lần 1)
+ Trước thay huyết tương lần 2 (trong vòng 60 phút trước khi thay huyết
tương lần 2)
+ Ngay sau thay huyết tương lần 2 (trong vòng 60 phút sau khi thay huyết
tương lần 2)
+ Trước thay huyết tương lần 3 (trong vòng 60 phút trước khi thay huyết
tương lần 3)
+ Ngay sau thay huyết tương lần 3 (trong vòng 60 phút sau khi thay huyết
tương lần 3)
+ Khi kết thúc thay huyết tương, với các chỉ tiêu .
- Các chỉ tiêu theo dõi:
+ Toàn thân: • Mạch, huyết áp
59
• Nhiệt độ • Điểm Glasgow • Độ não gan • Điểm SOFA • Tình trạng hô hấp và thở máy • Khí máu • Tỉ lệ PaO2/ FiO2 • Lactat • HCO3 - , BE…
- Tiết niệu: • Ure, Creatinin • Điện giải đồ
- Tình trạng đông máu: • INR • aPTT • Tỷ lệ prothrombin • Fibrinogen • Tiểu cầu
- Chức năng gan: • AST, ALT, Bilirubin toàn phần, Bilirubin trực tiếp, NH3
- Các xét nghiệm khác: • Đường máu mao mạch • Interleukin 6
- Các biến chứng xuất hiện trong quá trinh thay huyết tương và cách xử
lý, kết quả của biến chứng.
i. Kết thúc thay huyết tương:
- Sau mỗi lần thay huyết tương, bác sĩ tiến hành bơm rửa catheter, sát
khuẩn chân catheter và băng kín cố định catheter. Bác sĩ ghi biên bản thay huyết
60
tương với các thông tin: lần thay huyết tương thứ, số lượng dịch thay thế, thời
gian bắt đầu, kết thúc, diễn biến và các phản ứng trong quá trình thay huyết
tương, các thuốc và các phương pháp can thiệp đã dùng.
- Điều dưỡng tiến hành tháo quả lọc và vệ sinh máy lọc.
- Ghi các xét nghiệm ngay sau lọc máu.
k. Đánh giá kết quả thay huyết tương thể tích cao:
- Đánh giá hiệu quả của phương pháp thay huyết tương thể tích cao ở bệnh
nhân suy gan cấp sau mỗi lần điều trị:
+ Hiệu quả cải thiện chỉ số lâm sàng: toàn trạng chung, ý thức, tình trạng
huyết động, tình trạng hô hấp, mức độ bệnh não gan, mức độ rối loạn đông chảy
máu, cải thiện điểm SOFA.
+ Cải thiện các chỉ số cận lâm sàng bao gồm cải thiện sinh hóa chức năng
gan và chức năng đông cầm máu, khí máu, IL6, glucose máu.
- Đánh giá hiệu quả của thay huyết tương thể tích cao trong điều trị bệnh
nhân suy gan cấp theo kết cục chung: nhóm sống và nhóm tử vong.
- Đánh giá cải thiện tỉ lệ sống, kéo dài thời gian sống chờ ghép gan.
- Biến chứng của thay huyết tương thể tích cao:
+ Biến chứng trong quá trình làm kỹ thuật.
+ Biến chứng trong quá trình chạy máy: • Phản vệ với huyết tương trao đổi. • Tắc quả lọc. • Chảy máu, nhiễm trùng chân Catheter. • Tụt huyết áp. • Hạ calci máu.
- Đánh giá tỷ lệ tử vong sau điều trị suy gan cấp do nhiễm độc bằng thay
huyết tương thể tích cao:
61
+ Tỷ lệ sống/ tử vong sau mỗi lần PEX: được tính bằng số bệnh nhân
sống/tử vong (xin về để tử vong) sau mỗi lần PEX trên tổng số bệnh nhân
được chỉ định PEX của lần đó.
+ Tỷ lệ sống chung: được tính bằng tỷ lệ bệnh nhân sống trong vòng 28
ngày kể từ khi kết thúc thay huyết tương lần 3 trên tổng số bệnh nhân tham
gia nghiên cứu.
+ Tỷ lệ tử vong chung: được tính bằng tỷ lệ bệnh nhân tử vong tại bệnh
viện/xin về để chết sau khi kết thúc thay huyết tương lần 3 trên tổng số
bệnh nhân tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn điều trị thành công: bệnh nhân được xác nhận điều trị thành
công với thay huyết tương thể tích cao khi các triệu chứng lâm sàng suy
gan cấp cải thiện: bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, vàng da giảm dần, ăn uống
được, không sốt. Đồng thời các xét nghiệm thấy tỷ lệ prothrombin tăng
dần trên 40% và bilirubin toàn phần giảm dần dưới 250 μmol/L trong 3
lần xét nghiệm liên tiếp; các xét nghiệm khác đang cải thiện với xu hướng
về giá trị bình thường.
- Tiêu chuẩn xác định bệnh nhân tử vong: bệnh nhân tử vong tại bệnh viện
hoặc tình trạng bệnh nặng gia đình xin về để chết.
2.2.6. Một số tiêu chuẩn dùng trong nghiên cứu
- Tăng huyết áp: áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán tăng huyết áp của AHA
(2017) [99], [100]:
+ Bệnh nhân có tiền sử THA đang điều trị bằng các thuốc hạ huyết áp hoặc
hiện tại huyết áp tâm thu ≥ 140 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương ≥ 90 mmHg
.
- Đái tháo đường: áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường của ADA
năm 2018, bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo đường khi có 1 trong 3 tiêu
chuẩn sau [104]:
- Glucose máu lúc đói (sau ăn 8 giờ) ≥ 126 mg/dl (≥ 7 mmol/l). - Glucose máu bất kỳ ≥ 200mg/dl (≥ 11,1 mmol/l) kèm theo các triệu
62
chứng của đái tháo đường như uống nhiều, khát nhiều, gầy sút cân.
- Glucose máu khi làm nghiệp pháp dung nạp glucose đường uống với
75gam glucose sau 2 giờ ≥ 200 mg/dl (≥ 11,1 mmol/l).
- Rối loạn lipid máu: dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn lipid máu của
Hội tim mạch học Việt Nam (2015), khi có rối loạn một trong những thành
phần lipid cơ bản như sau [105]:
+ Cholesterol toàn phần ≥ 5,2 mmol/L.
+ HDL - C ≤ 0,9 mmol/L.
+ LDL - C ≥ 3,1 mmol/L.
+ Triglycerid ≥ 2,3 mmol/L.
- Tính chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index - BMI):
BMI = Cân nặng (kg)/ [chiều cao (m)]2
- Suy tim: Chẩn đoán suy tim theo tiêu chuẩn của hội tim mạch Châu Âu
(2016)
Tiêu chuẩn Suy tim phân suất tống máu bảo tồn Suy tim có phân suất tống máu giảm Suy tim có phân suất tống máu khoảng giữa
1
Triệu chứng ± dấu hiệu (dấu hiệu có thể không có trong giai đoạn sớm của suy tim hoặc ở những BN đã điều trị lợi tiểu) Triệu chứng ± dấu hiệu (dấu hiệu có thể không có trong giai đoạn sớm của suy tim hoặc ở những BN đã điều trị lợi tiểu)
Triệu chứng ± dấu hiệu (dấu hiệu thể có không có trong giai đoạn sớm của suy tim hoặc ở những BN đã điều trị lợi tiểu)
2 EF < 40% EF 40-49% EF ≥ 50%
3
1.Peptide lợi niệu Na tăng (BNP > 35 pg/ml, NT-proBNP > 125 pg/ml) 1.Peptide lợi niệu Na tăng (BNP > 35 pg/ml, NT-proBNP > 125 pg/ml)
63
thất trái thất trái
2.Có ít nhất 1 trong các tiêu chuẩn thêm vào sau: a. Dày và/hoặc lớn nhĩ trái 2.Có ít nhất 1 trong các tiêu chuẩn thêm vào sau: a. Dày và/hoặc lớn nhĩ trái
b. RL chức năng tâm trương b. RL chức năng tâm trương
+ Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD): theo chiến lược toàn cầu về
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (2017): COPD là bệnh phổ biến, được đặc trưng
bởi bởi sự hiện diện của triệu chứng hô hấp và giới hạn dòng khí do đường dẫn
khí và/hoặc bất thường phế nang thường do bởi tiếp xúc với hạt và khí độc hại.
Bảng 2.2. Đánh giá chỉ số BMI theo khuyến cáo của WHO dành riêng
cho người trưởng thành châu Á [106]
BMI (kg/m2) Phân loại
Nhẹ < 18,5
Bình thường 18,5 - 22,9
Thừa cân 23
Tiền béo phì 23 – 24,9
Béo phì ≥ 25
2.3. Phân tích và xử lý số liệu
- Các số liệu thu được được quản lý bằng phần mềm Excel (Microsoft,
version 365, USA) và được xử lý bằng các thuật toán thống kê với phần mềm
SPSS 26.0 (IBM, USA).
- Biến số rời: tính tỷ lệ phần trăm.
- Biến liên tục phân phối chuẩn: tính trung bình và độ lệch chuẩn và được
kiểm định bằng thử nghiệm χ2 test với độ tin cậy 95%.
- Biến liên tục, phân phối không theo luật chuẩn: tính số trung vị, khoảng
tứ phân vị, kiểm định bằng kiểm định phi tham số với test Mann – Whitney.
* Phân tích đơn biến: để xác định rõ các yếu tố nguy cơ tử vong của bệnh
64
nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể tích cao.
- Biến số rời rạc: tiến hành kiểm định mối liên hệ giữa các biến số với
kết quả điều trị (sống – tử vong) bằng thử nghiệm χ2 test. Xác định tỷ suất
chênh (odd ratio - OR) và khoảng tin cậy 95% (95% confidence interval - 95%
CI) của một số yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng với kết cục chung của bệnh nhân
suy gan cấp được điều trị hỗ trợ bằng thay huyết tương thể tích cao.
- Biến liên tục: so sánh 2 giá trị trung bình của biến liên tục giữa các nhóm
sống – tử vong bằng test t-student. Nếu biến liên tục có nhiều phân tầng sử dụng
ANOVA test. Nếu so sánh trung bình của biến liên tục tại các thời điểm khác
nhau sử dụng t-test. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
* Tính hệ số tương quan: để tìm mối liên quan của một số yếu tố lâm sàng,
cận lâm sàng với nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết
o r ≥ 0,7
tương thể tích cao:
o 0.7 > r ≥ 0,5 : Tương quan chặt
o 0,5 > r ≥ 0,3 : Tương quan vừa
o r < 0,3
: Tương quan rất chặt
o r (-)
: Ít tương quan
o r (+)
: Tương quan nghịch
o p < 0,05
: Tương quan thuận
o p ≥ 0,05
: Tương quan có ý nghĩa
: Tương quan không có ý nghĩa
Khống chế sai số - Dùng mẫu bệnh án nghiên cứu rõ ràng để thu thập thông tin. - Các thông tin về chẩn đoán và phân loại áp dụng cùng 1 tiêu chuẩn
thống nhất rõ ràng ngay từ trước khi bắt đầu nghiên cứu.
- Các kết quả xét nghiệm đều được xử lý tại các đơn vị xét nghiệm thuộc
Bệnh viện Bạch Mai.
- Các bệnh nhân được theo dõi sát từ khi vào Trung tâm chống độc cho
65
đến khi bệnh nhân ổn định ra viện, chuyển khoa khác, chuyển viện khác điều
trị hoặc đến khi tử vong tại Trung tâm.
- Các kết quả xử lý số liệu được kiểm chứng bởi chuyên gia y tế công
cộng thuộc bộ môn Y tế công cộng trường Đại học Y Hà Nội.
2.4. Đạo đức trong nghiên cứu
- Nghiên cứu này đã được thông qua hội đồng đạo đức trong nghiên cứu
y sinh, Bệnh viện Bạch Mai.
- Quá trình nghiên cứu tuân thủ theo các quy định trong Quy chế hoạt
động của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học ban hành kèm theo
Quyết định số 5129/2002/QĐ-BYT ngày 19/12/2002 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
- Bệnh nhân được bác sĩ giải thích cặn kẽ đầy đủ về tác dụng của phương
pháp thay huyết tương thể tích cao hỗ trợ cùng với phương pháp điều trị chuẩn,
các tai biến, biến chứng có thể gặp phải, chi phí liên quan đến điều trị.
- Bệnh nhân và gia đình đồng ý phải ký vào bản cam đoan đồng ý làm
phẫu thuật thủ thuật và bản đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Bệnh nhân và gia đình có quyền dừng tham gia nghiên cứu bất kỳ lúc
nào mà không ảnh hưởng đến các biện pháp điều trị nền.
66
2.5. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu
Bệnh nhân suy gan cấp
Có chỉ định thay huyết tương thể tích cao
Thay huyết tương
thể tích cao
Tử vong Sống
Mục tiêu 1 - Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trước thay huyết tương bệnh Mục tiêu 2 - Hiệu quả điều trị (cải thiện độ não gan, chức năng đông
nhân suy gan cấp
- Một số yếu tố liên quan đến cầm máu, sinh hóa) - Tác dụng không mong muốn
tử vong
67
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân suy
gan cấp trước thay huyết tương thể tích cao và một số yếu tố liên quan đến
tỷ lệ tử vong
3.1.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân suy gan cấp
Bảng 3.1. Đặc điểm tuổi, giới
Kết quả Đặc điểm
Tuổi (X±SD) (tuổi) (n=45) 47,0 ± 16,31
MIN-MAX (17-88)
Giới
Nam (n,%) 24 (53,33)
Nữ (n,%) 21 (46,67)
Dân tộc Kinh (n,%) 36 (80)
Dân tộc thiểu số (n,%) 9 (20)
Nhận xét: Tuổi trung bình là 47,0 ± 16,31 tuổi, trẻ nhất là 17 tuổi, cao nhất
là 88 tuổi. Nam giới chiếm ưu thế với 53,3%. Dân tộc kinh chiếm đa số với
80%. Các dân tộc thiếu số khác chỉ chiếm 20%.
Bảng 3.2. Đặc điểm thể trạng đối tượng nghiên cứu
Kết quả
(n=45)
Chiều cao (X±SD) (cm) 160,42 ± 6,97
Cân nặng (X±SD) (kg) 57,0 ± 9,87
(X±SD) (kg/m2) 22,18 ± 3,12
BMI < 18,5 (n,%) 5 (11,11) BMI 18,5< BMI< 23 (n,%) 24 (53,33)
BMI≥ 23 (n,%) 16 (35,56)
68
Nhận xét: Đa số bệnh nhân có BMI trong giới hạn bình thường. Có 35,56%
bệnh nhân có thừa cân và 11,11% bệnh nhân có BMI dưới mức trung bình.
Bảng 3.3. Đặc điểm bệnh lý kết hợp
Kết quả Bệnh kết hợp (n=45)
10 (22,22) Tăng huyết áp (n,%)
4 (8,89) Đái tháo đường (n,%)
1 (2,22) Suy tim (n,%)
1 (2,22) COPD (n,%)
Nhận xét: Tăng huyết áp là bệnh lý kết hợp chiếm tỷ lệ cao nhất (22,22%).
69
Bảng 3.4. Nguyên nhân gây suy gan cấp
Kết quả Nguyên nhân (n=45)
Chung (n, %) 37 (82,22)
Thuốc đông y (n, %) 23 (51,11)
Ngộ độc Paracetamol (n, %) 9 (20,0)
Nấm (n, %) 3 (6,67)
Khác (n, %) 2 (4,44)
Miễn dịch (n,%) 12 (26,67)
Chuyển hóa (n,%) 1 (2,22)
1 nguyên nhân (n, %) 40 (88,89)
2 nguyên nhân (n, %) 5 (11,11)
Nhận xét: 82,22% bệnh nhân suy gan cấp là do ngộ độc trong đó hàng
đầu là thuốc đông y (51,11%) tiếp đến là paracetamol (20%), nấm (6,67%) và
các nguyên nhân ngộ độc khác chỉ chiếm (4,44%). Có 26,67% bệnh nhân suy
gan cấp có liên quan đến bệnh lý miễn dịch và 1 trường hợp liên quan đến
chuyển hóa (1 bệnh nhân mắc bệnh Willson). Có 40 bệnh nhân (chiếm 88,89%)
suy gan cấp chỉ do 1 nguyên nhân gây ra và 5 bệnh nhân suy gan cấp do đồng
thời 2 nguyên nhân gây ra.
70
Bảng 3.5. Đặc điểm lâm sàng trước khi thay huyết tương
Kết quả Triệu chứng (n = 45)
42 (93,33) Vàng da, niêm mạc (n,%)
8 (17,78) Phù (n,%)
6 (13,33) Cổ chướng (n,%)
2 (4,44) Xuất huyết (n,%)
Nhận xét: Vàng da là triệu chứng thường gặp nhất với 93,33% bệnh nhân, tiếp
đến là phù và cổ trướng. Có 2 bệnh nhân gặp triệu chứng xuất huyết (1 bệnh
nhân xuất huyết bàng quang và 1 bệnh nhân xuất huyết tiêu hóa).
Bảng 3.6. Phân độ não gan trước khi thay huyết tương
Kết quả Mức độ não gan (n = 45)
2,53±0,59 Trung bình (X±SD)
23 (51,11) Độ 2 (n, %)
20 (44,44) Độ 3 (n, %)
2 (4,44) Độ 4 (n, %)
Nhận xét: Trước khi thay huyết tương, độ não gan trung bình là
2,53±0,59 trong đó não gan mức độ 2 chiếm 51,11%, có 2 bệnh nhân có não
gan mức độ 4 (hôn mê gan).
71
Bảng 3.7. Đặc điểm về huyết động trước thay huyết tương
Kết quả Chỉ số (n = 45)
Mạch (lần/phút) (X±SD) 91,91 ± 16,10
Huyết áp tâm thu (mmHg) (X±SD) 118,78 ± 13,11
Huyết áp tâm trương (mmHg) (X±SD) 73 ± 12,45
Huyết áp trung bình mmHg (X±SD) 88,24 ± 11,85
Dùng vận mạch (n,%) 0
Nhận xét: Các bệnh nhân suy gan cấp trước khi thay huyết tương thể tích cao
cơ bản huyết động ổn định, không có trường hợp nào phải dùng vận mạch trước
khi tiến hành thay huyết tương thể tích cao lần đầu tiên.
Bảng 3.8. Đặc điểm về hô hấp trước thay huyết tương
Kết quả Đặc điểm (n = 45)
19 (42,22) Tự thở khí phòng (n,%)
5 (11,11) Thở oxy (n,%)
21 (46,67) Thở máy (n,%)
Nhận xét: Có 46,67% bệnh nhân suy gan cấp phải thở máy và 11,11%
bệnh nhân phải thở oxy.
72
Bảng 3.9. Giá trị xét nghiệm công thức máu trước khi thay huyết tương
Kết quả Chỉ số (n = 45)
Hồng cầu (X±SD) (T/l) 3,79 ± 0,93
(MIN-MAX) (1,78-5,64)
Huyết sắc tố (X±SD) (g/l) 115,56 ± 25,65
(MIN-MAX) (66-163)
(X±SD) (G/l) 12,27 ± 6,33
Bạch cầu (MIN-MAX) (1,46-32)
> 10 G/l (n,%) 25 (55,56)
4-10 G/l (n,%) 18 (40,0)
< 4 G/l (n,%) 2 (4,44)
(X±SD) (G/l) 135,31 ± 82,16
Tiểu cầu (MIN-MAX) (21-357)
> 150 G/l (n,%) 19 (42,22)
100 – 150 G/l (n,%) 8 (17,78)
< 100 G/l (n,%) 18 (40)
Nhận xét: Trước khi thay huyết tương, các bệnh nhân suy gan cấp có
chỉ số hồng cầu, huyết sắc tố bình thường, bạch cầu tăng nhẹ với 55,56% bệnh
nhân có bạch cầu > 10 G/l và 4,44% bệnh nhân có giảm bạch cầu < 4 G/l. Tiểu
cầu trung bình dưới ngưỡng bình thường trong đó chỉ có 19 bệnh nhân (42,22%)
73
có tiểu cầu trong giới hạn bình thường (trên 150 G/l), đặc biệt có 18 bệnh nhân
(40%) có tiểu cầu dưới 100 G/l.
74
Bảng 3.10. Giá trị xét nghiệm đông máu cơ bản trước khi thay huyết tương
Kết quả Chỉ số (n = 45)
Prothrombin (%) (X±SD) 27,40 ± 15,72
(MIN-MAX) (5-72,9)
< 40% (n,%) 37 (82,2)
APTT (giây) (X±SD) 46,58 ± 35,08
(MIN-MAX) (22,8-180)
> 60 (giây) (n,%) 11 (24,4)
INR (X±SD) 3,38 ± 2,21
(MIN-MAX) (1,21-10,7)
> 3 (n,%) 18 (40)
Fibrinogen (g/l) (X±SD) 1,58 ± 0,51
(MIN-MAX) (0,54-2,76)
Nhận xét: Trước khi được thay huyết tương các bệnh nhân có rối loạn
đông máu nặng với đặc điểm giảm tỷ lệ prothrombin và fibrinogen, kéo dài thời
gian APTT và tăng INR trong đó 82,2% bệnh nhân có tỉ lệ prothrombin < 40%
và 40% bệnh nhân có INR > 3.
Bảng 3.11. Giá trị xét nghiệm sinh hóa máu trước khi thay huyết tương
Chỉ số
Kết quả (n = 45) 199 (133-750)
501 (121-1317)
323,4 (196,1-477,3)
203,3 (100 – 334,8)
93 (46 – 111)
9 ± 5,16
137,11 ± 6,23
3,41 ± 0,56
AST (U/l) * ALT (U/l) * Bilirubin toàn phần (mmol/l) * Bilirubin trực tiếp (mmol/l) * NH3 (U/l) * Glucose (mmol/l) (X±SD) Na- (mmol/l) (X±SD) K+ (mmol/l) (X±SD) Ca2+ (mmol/l) (X±SD) 0,85 ± 0,18
75
3,8 (2,4- 6,1)
61 (49-98) Ure (mmol/l) * Creatinin (µmol/l) *
* Kết quả được thể hiện ở dạng trung vị, khoảng tứ vị
Nhận xét:
- Trước khi thay huyết tương, các bệnh nhân có chỉ số men gan (AST,
ALT), Bilirubin (toàn phần và trực tiếp), NH3 tăng rất cao, đường máu tăng nhẹ.
- K+ và Ca2+ có xu hướng thấp dưới ngưỡng bình thường. - Các chỉ số ure, creatinin trong giới hạn bình thường.
Bảng 3.12. Giá trị xét nghiệm IL6 trước khi HPEX
Kết quả Chỉ số (n = 45)
IL6 (Trung vị, khoảng tứ vị) (pg/ml) 26,66
(16-47,6)
Nhận xét: IL6 tăng hơn giá trị bình thường với giá trị trung vị là 26,66
pg/ml.
Bảng 3.13. Kết quả khí máu động mạch trước khi thay huyết tương
Kết quả Chỉ số (n = 45)
pH (X±SD) 7,47 ± 0.08
(MIN-MAX) (7,19-7,6)
> 7,45 30 (66,67)
< 7,35 3 (6,67)
PaCO2 (mmHg) (X±SD) 35 ± 8,22
(MIN-MAX) (20-53)
76
PaO2 (mmHg) (X±SD) 96,78 ± 56,39
(MIN-MAX) (26-270)
- (mmHg) (X±SD)
HCO3 25,28 ± 6,92
(MIN-MAX) (11-42,5)
BE (mmHg) (X±SD) 2,37 ± 6,94
(MIN-MAX) ((-14,2) – 17,9)
Lactat (mmol/l) (X±SD) 3,7 ± 2,57
(MIN-MAX) 1-12,5
> 2 (n, %) 35 (77,78)
Nhận xét: Trước khi thay huyết tương, các bệnh nhân suy gan cấp có xu
hướng nhiễm kiềm hô hấp. Nồng độ lactat máu trung bình tăng trong đó có
77,78% bênh nhân có lactat máu > 2 mmol/l.
77
Bảng 3.14. Mức độ nặng của bệnh nhân trước khi thay huyết tương
Kết quả Triệu chứng (n = 45)
SOFA (X±SD) 9,67±2,39
SOFA ≤ 8 (n, %) 15 (33,33)
SOFA >8 (n, %) 30 (66,67)
27 (60) Suy ≥ 2 tạng (n,%)
Nhận xét: Điểm SOFA trung bình là 9,67±2,39, trong đó 2/3 bệnh nhân
có SOFA > 8 điểm, 60% bệnh nhân có suy từ 2 tạng trở lên.
3.1.2. Một số yếu tố liên quan đến tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp
được thay huyết tương thể tích cao
Sống
Tử vong
21 (46,67%) 24 (53,33%)
Biểu đồ 3.1. Kết cục của bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể
tích cao
Nhận xét: Có 46,67 bệnh nhân suy gan cấp tử vong dù được thay huyết
tương thể tích cao.
78
Bảng 3.15. So sánh đặc điểm tuổi, giới, BMI của nhóm sống và tử vong
Kết quả
p Đặc điểm Sống Tử vong
(n=24) (n=21)
Tuổi (X±SD) (tuổi) 48,96 ± 16,67 44,76 ± 15,99 > 0,05
MIN-MAX (17-88) (19-79)
Giới Nam (n,%) 12 (50,0) 12 (57,14) > 0,05
Nữ (n,%) 12 (50,0) 9 (42,86)
BMI (X±SD) (kg/m2) 21,56 ± 2,81 22,68 ± 3,41 > 0,05
Nhận xét: Không có sự khác biệt về tuổi, giới, BMI giữa nhóm sống và
nhóm tử vong do suy gan cấp.
Bảng 3.16. So sánh bệnh lý kết hợp của nhóm sống và tử vong
Kết quả
p Bệnh kết hợp Sống Tử vong
(n=24) (n=21)
1 (4,16) Tăng huyết áp (n,%) 9 (42,86) < 0,01
1 (4,16) Đái tháo đường (n,%) 3 (14,29) > 0,05
0 Suy tim (n,%) 1 (4,76)
0 COPD (n,%) 1 (4,76)
Nhận xét: Nhóm tử vong có nhiều bệnh lý nền hơn nhóm sống trong đó
tăng huyết áp gặp nhiều hơn có ý nghĩa thống kê.
79
Bảng 3.17. So sánh nguyên nhân suy gan cấp của nhóm sống và nhóm tử
vong
Kết quả
p Nguyên nhân
> 0,05
Ngộ độc
Chung (n, %) Thuốc đông y (n, %) Paracetamol (n, %) Nấm (n, %) Khác (n, %)
> 0,05 > 0,05
Sống (n=24) 19 (79,16) 12 (50,0) 5 (20,83) 1 (4,16) 1 (4,16) 7 (29,16) 0 21 (87,5) 3 (12,5) Tử vong (n=21) 18 (85,71) 11 (52,38) 4 (19,05) 2 (9,52) 1 (4,76) 5 (23,81) 1 (4.76) 19 (90,48) 2 (9,52) Miễn dịch (n,%) Chuyển hóa (n,%) 1 nguyên nhân (n,%) 2 nguyên nhân (n,%)
Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thông kê về nguyên nhân
gây suy gan cấp giữa nhóm sống và tử vong. Bảng 3.18. Đặc điểm lâm sàng trước khi thay huyết tương của nhóm sống và nhóm tử vong
Kết quả
p Đặc điểm Nhóm sống Nhóm tử vong
(n= 24) (n= 21)
Vàng da (n,%) 21 (87,5%) 21 (100%) > 0,05
2 (8,33%) 6 (28,57%) > 0,05 Phù (n,%)
2 (8,33%) 4 (19,05%) > 0,05 Cổ trướng (n,%)
2 (8,33%) 0 (0%) Xuất huyết (n,%)
Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thông kê giữa 2 nhóm sống
và tử vong.
80
Bảng 3.19. So sánh mức độ não gan trước thay huyết tương của nhóm
sống và nhóm tử vong
Kết quả
p Độ não gan Nhóm sống Nhóm tử vong
(n= 24) (n= 21)
Trung bình (X±SD) 2,42±0,58 2,67±0,58 > 0,05
Độ 2 (n, %) 15 (62,5) 8 (38,1)
> 0,05 Độ 3 (n, %) 8 (33,33) 12 (57,14)
Độ 4 (n, %) 1 (4,17) 1 (4,76)
Nhận xét: Nhóm tử vong có mức độ bệnh não gan trung bình cao hơn
nhóm sống. Tỷ lệ độ não gan mức độ 3,4 cao hơn ở nhóm tử vong, tuy nhiên
sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Bảng 3.20. So sánh mức tình trạng hô hấp trước thay huyết tương của
nhóm sống và nhóm tử vong
Kết quả
p Chỉ số Nhóm sống Nhóm tử vong
(n= 24) (n= 21)
Tự thở khí phòng (n,%) 16 (66,67) 3 (14,29)
< 0,001 2 (8,33) 3 (14,29) Thở oxy (n,%)
6 (25,0) 15 (71,42) Thở máy (n,%)
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân cần can thiệp hô hấp ở nhóm tử vong cao
hơn nhóm sống có ý nghĩa thống kê.
81
Bảng 3.21. So sánh tình trạng đông cầm máu của nhóm sống và nhóm tử vong
Kết quả
p Chỉ số Nhóm sống Nhóm tử vong
(n= 24) (n= 21)
Tiểu cầu (G/l) (X±SD) 148,79 ±94,99 119,90 ±63,31 > 0,05
< 100 (n,%) 9 (37,5) 9 (42,9%)
Prothrombin (X±SD) 32,11 ±15,13 22,01 ±14,94 < 0,05
(%) > 40 (n,%) 6 (25) 2 (9,5)
APTT (s) (X±SD) 46,79 ± 17,02 67,76 ± 46,12 < 0,05
> 60 (n,%) 3 (12,5) 8 (38,1)
INR (X±SD) 2,61±1,19 4,26 ±2,76 < 0,05
> 3 (n,%) 7 (29,2) 11 (52,4)
Fibrinogen (g/l) (X±SD) 1,65 ± 0,52 1,5 ± 0,5 > 0,05
Nhận xét:
Các chỉ số đông cầm máu ở nhóm sống tốt hơn nhóm tử vong.
Nhóm sống có tỷ lệ prothrombin cao hơn, số bệnh nhân đạt tỉ lệ
Prothrobin > 40% cao hơn nhóm tử vong, khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Nhóm sống có chỉ số INR thấp hơn và aPTT ngắn hơn đồng thời tỷ lệ
bệnh nhân có aPTT kéo dài trên 60 giây và INR > 3 thấp hơn so với nhóm tử
vong, khác biệt có ý nghĩa thống kê với P < 0,05.
Bảng 3.22. So sánh các chỉ số sinh hóa máu của nhóm sống và nhóm tử vong
Kết quả
(n = 45) p Chỉ số Nhóm sống Nhóm tử vong
(n= 24) (n= 21)
512,5 197 > 0,05 AST (U/l) * (148-1018,5) (85-297)
82
523 394 > 0,05 ALT (U/l) * (132,5-2077) (104-758)
Bilirubin toàn phần 337,9 282,9 > 0,05
(mmol/l) * (125,18-474,13) (222,8-477,3)
Bilirubin trực tiếp 239,95 165 > 0,05
(mmol/l) * (107,88 – 343,75) (96,5-318,6)
85,5 102 > 0,05 NH3 (U/l) * (30 – 103,5) (55-120,7)
Glucose (mmol/l) 6,98 ±2,40 11,3 ± 6,45 < 0,01
(X±SD) (MIN-MAX) (3,2-10,8) (2,7-27,8)
Ure (mmol/l)* 5,3 3 > 0,05
(2,8- 6,5) (2,1-4,6)
Creatinin (µmol/l)* 65 60 > 0,05
(54,75-113,75) (45-79)
* Kết quả được thể hiện ở dạng trung vị, khoảng tứ vị
Nhận xét: - Đường máu của nhóm sống trong giới hạn bình thường và thấp hơn
nhóm tử vong, khác biệt có ý nghĩa thống kê.
- Các chỉ số AST, ALT, bilirubin (toàn phần và trực tiếp), ure, creatinin
không có sự khác biệt giữa nhóm sống và nhóm tử vong.
Bảng 3.23. So sánh nồng độ của IL6 của nhóm sống và nhóm tử vong
Kết quả
p Chỉ số Nhóm sống Nhóm tử vong
(n= 24) (n= 21)
IL6 (pg/ml) (Trung vị, 26,70 > 0,05 26,66
khoảng tứ vị) (14,08-37,1) (17,2-53,6)
83
Nhận xét: không có sự khác biệt có ý nghĩa thông kê về nồng độ IL6
của nhóm sống và tử vong.
Bảng 3.24. So sánh kết quả khí máu động mạch trước khi thay huyết
tương giữa nhóm sống và nhóm tử vong
Kết quả
p Chỉ số Nhóm sống Nhóm tử vong
(n= 24) (n= 21)
pH (X±SD) 7,45 ± 0,08 7,49 ± 0,08 > 0,05
PaCO2 (mmHg) (X±SD) 35,46 ± 9,11 34,48 ± 7,27 > 0,05
PaO2 (mmHg) (X±SD) 85 ± 37,99 110,24 ± 70,56 > 0,05
HCO3-(mmol/l) (X±SD) 24,41 ± 7,8 26,28 ± 5,8 > 0,05
BE (mmol/l) (X±SD) 1,78 ± 7,89 3,05 ± 5,78 > 0,05
Lactat (mmol/l) (X±SD) 3,07 ± 2,39 4,43 ± 2,64 > 0,05
Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các chỉ số khí
máu giữa nhóm sống và tử vong.
Bảng 3.25. So sánh mức độ nặng, thời gian nằm viện của bệnh nhân suy
gan cấp ở nhóm sống và tử vong
Kết quả
p Chỉ số Nhóm sống Nhóm tử vong
(n= 24) (n= 21)
SOFA (X±SD) 8,88 ± 2,25 10,57 ± 2,27 < 0,001
11 (45,8) 16 (76,2) < 0,01 Suy ≥ 2 tạng (n,%)
84
Số ngày nằm viện (X±SD) 10,79 ± 8,38 8,62 ± 5,9 > 0,05
(MIN-MAX) (3-40) (1-21)
Nhận xét: Điểm SOFA lúc vào viện của nhóm sống thấp hơn nhóm tử
vong, có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Nhóm tử vong có tỷ lệ bệnh nhân suy từ 2 tạng trở lên cao hơn nhóm
sống, khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Ngày nằm viện điều trị của nhóm sống dài hơn nhóm tử vong, khác biệt
không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.26. Mối tương quan của một số yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng với
nguy cơ tử vong
Yếu tố Tương quan
Độ não gan trước HPEX 0,215
SOFA trước HPEX 0,358
NH3 trước HPEX 0,224
IL6 trước HPEX 0,073
Độ não gan lúc dừng HPEX 0,907
SOFA lúc dừng HPEX 0,598
NH3 lúc dừng HPEX 0,496
IL6 lúc dừng HPEX 0,539
Nhận xét: - Trước khi bắt đầu thay huyết tương thể tích cao:
+ Độ não gan, chỉ số NH3 và IL6 ít tương quan với nguy cơ tử vong ở
bệnh nhân suy gan cấp.
+ Điểm SOFA có mối tương quan thuận, mức độ vừa với nguy cơ tử
vong ở bệnh nhân suy gan cấp.
- Sau khi dừng thay huyết tương (kết thúc thay huyết tương thể tích cao
lần 3) :
85
+ Độ não gan có mối tương quan thuận, mức độ rất chặt với nguy cơ tử
vong ở bệnh nhân suy gan cấp.
+ SOFA, chỉ số NH3 và IL6 có mối tương quan thuận, mức độ chặt với
nguy cơ tử vong do suy gan cấp.
+ Chỉ số NH3 có mối tương quan thuận, mức độ vừa với nguy cơ tử vong
do suy gan cấp.
Bảng 3.27. Một số yếu tố nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp
OR 95%CI p Yếu tố Kết quả
Sống Chết
11 19 SOFA trước HPEX >8 11,23 2,12-59,26 < 0,001
9 13 Độ não gan trước HPEX 2,7 0,81-9,1 > 0,05
≥ 3
6 15 Thở máy 7,5 2,0-28,2 < 0,001
15 NH3 trước HPEX >70 13 2,12 0,6 -7,3 < 0,05
U/l
Lactat trước HPEX > 3 9 16 5,33 1,45-19,57 < 0,01
mmol/l
IL6 trước HPEX > 38 5 8 2,24 0,6-8,8 < 0,001
pg/ml
INR trước HPEX >2 16 19 4,75 0,88-25,65 < 0,001
Nhận xét:
- SOFA trước thay huyết tương thể tích cao trên 8 điểm làm tăng nguy
cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp lên 11,23 lần so với nhóm suy gan cấp có
SOFA ≤ 8 điểm.
86
- Độ não gan trước HPEX ≥ 3 làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy
gan cấp lên 2,7 lần so với nhóm suy gan cấp có độ não gan ≤ 3, tuy nhiên khác
biệt không có ý nghĩa thống kê.
- Thở máy làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp lên 7,5 lần
so với nhóm suy gan cấp không thở máy, có ý nghĩa thông kê với p < 0,001.
- NH3 trước HPEX >70 U/l làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy
gan cấp lên 2,12 lần so với nhóm suy gan cấp có NH3 ≤ 70 U/l, với p < 0,05.
- Lactat trước HPEX > 3 mmol/l làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân
suy gan cấp lên 5,33 lần so với nhóm suy gan cấp có lactat ≤ 3 mmol/l, với p<
0,01.
- INR trước HPEX > 2 làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan
cấp lên 4,75 lần so với nhóm suy gan cấp có INR ≤ 2 với p < 0,001.
- IL6 trước HPEX > 38 pg/ml làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy
gan cấp lên 2,24 lần so với nhóm suy gan cấp có IL6 ≤ 38 pg/ml với p < 0,001.
3.2. Đánh giá hiệu quả hỗ trợ điều trị suy gan cấp và một số tác dụng
không mong muốn của phương pháp thay huyết tương thể tích cao
3.2.1. Hiệu quả hỗ trợ điều trị suy gan cấp phương pháp thay huyết
tương thể tích cao
Bảng 3.28. Số bệnh nhân qua các lần thay huyết tương thể tích cao
Số bệnh nhân
Thay huyết tương Dừng
HPEX Tổng số Sống Chết
45 41 4 4 Lần 1
37 33 4 2 Lần 2
31 18 13 18 Lần 3
87
Nhận xét: - Có 45 bệnh nhân được lựa chọn vào nghiên cứu được thay huyết tương
thể tích cao.
- Sau lần thay huyết tương đầu tiên, có 4 bệnh nhân tử vong, 4 bệnh nhân
ổn định không còn chỉ định thay huyết tương được dừng HPEX.
- Sau lần thay huyết tương thứ 2, có 4 bệnh nhân tử vong, 2 bệnh nhân ổn
định, không còn chỉ định thay huyết tương thể tích cao được dừng HPEX.
- Sau lần thay huyết tương thứ 3, 18 bệnh nhân diễn biến suy gan cấp cải
thiện được dừng HPEX. 13 bệnh nhân còn lại không cải thiện suy gan. Số bệnh
nhân này tử vong tại bệnh viện/xin về để chết trong thời gian 28 ngày sau khi
kết thúc thay huyết tương lần 3.
Bảng 3.29. Lượng huyết tương qua các lần thay huyết tương thể tích cao
Lần thay huyết tương Thể tích dịch lọc trung bình (ml)
Lần 1 (X±SD) 8271 ± 1201
(n=45)
Lần 2 (X±SD) 8309 ± 1173
(n=37)
Lần 3 (X±SD) 8250 ± 1165
(n=31)
Tổng (X±SD) 8277 ± 1172
(MIN-MAX) (6000 – 10500)
Nhận xét:
Thể tích huyết tương trung bình của 3 lần lọc là tương đương nhau.
88
Bảng 3.30. So sánh độ não gan, SOFA trước và sau khi thay huyết tương
thể tích cao lần 1
Sau HPEX Trước HPEX p Chỉ số (n=45) (n=45)
SOFA (X±SD) 9,67±2,39 7,98±2,69 < 0,01
Độ não gan (X±SD) 2,53±0,59 1,82±0,68 < 0,001
Nhận xét: - SOFA sau HPEX lần 1 giảm so với trước HPEX, có ý nghĩa thống kê
với p < 0,01.
- Độ não gan sau HPEX lần 1 giảm có ý nghĩa thống kê so với trước
HPEX với p < 0,001.
Bảng 3.31. So sánh độ não gan, SOFA trước và sau khi thay huyết tương
thế tích cao lần 2
Sau HPEX Trước HPEX p Chỉ số (n=37) (n=37)
8,54±2,65 8,08±3,07 > 0,05 SOFA (X±SD)
2,35±0,48 1,76±0,8 < 0,001 Độ não gan (X±SD)
Nhận xét: - SOFA sau HPEV lần 2 giảm so với trước HPEX, tuy nhiên khác biệt
không có ý nghĩa thống kê.
- Độ não gan sau HPEX lần 2 giảm so với trước HPEX, có ý nghĩa thống
kê với p < 0,001.
89
Bảng 3.32. So sánh độ não gan, SOFA trước và sau lần thay huyết tương
thế tích cao lần 3
Sau HPEX Trước HPEX p Chỉ số (n=31) (n=31)
8,13±3,16 7,90±3,14 > 0,05 SOFA (X±SD)
2,48±0,68 1,74±1,34 < 0,01 Độ não gan (X±SD)
Nhận xét: - SOFA sau HPEV lần 3 giảm so với trước HPEX, tuy nhiên khác biệt
không có ý nghĩa thống kê.
- Độ não gan sau HPEX lần 3 giảm so với trước HPEX, có ý nghĩa thống
kê với p < 0,01.
Bảng 3.33. Hiệu quả cải thiện độ não gan, SOFA sau các lần thay huyết
tương thế tích cao
Sau HPEX
Chỉ số Lần 1 Lần 2 Lần 3
(n=45) (n=37) (n=31)
Tăng (n,%) 2 (4,4) 8 (21,6) 8 (25,8)
SOFA Giảm (n,%) 37 (82,2) 23 (62,2) 15 (48,4)
Không đổi (n,%) 6 (13,3) 6 (16,2) 8 (25,8)
Tăng (n,%) 0 1 (2,7) 3 (9,7)
Độ não gan Giảm (n,%) 31 (68,9) 23 (62,2) 20 (64,5)
Không đổi (n,%) 14 (31,1) 13 (35,1) 8 (25,8)
Nhận xét: - Độ não gan, điểm SOFA sau thay huyết tương thể tích cao xu hướng chung là có cải thiện (giảm so với trước thay huyết tương thể tích cao) trong đó
ở lần thay thứ 1 là cải thiện nhiều nhất.
14
Chung
Sống
Chết
12
10
8
6
4
Sau HPEX 1
Sau HPEX 2
Sau HPEX 3
Trước HPEX 1
Trước HPEX 2
Trước HPEX 3
90
Biểu đồ 3.3. Diễn biến điểm SOFA qua 3 lần thay huyết tương thể tích cao
Nhận xét:
Điểm SOFA có xu hướng giảm dần sau các lần thay huyết tương thể -
tích cao nhưng có xu hướng tăng trở lại trước khi thay huyết tương thể tích cao
lần kế tiếp.
Ở nhóm sống điểm SOFA xu hướng chính là giảm trong khi ở nhóm -
Chung
Sống
Chết
4,00
3,50
3,00
2,50
2,00
1,50
1,00
0,50
0,00
Sau HPEX 3
Trước HPEX 1
Sau HPEX 1 Trước HPEX 2 Sau HPEX 2 Trước HPEX 3
tử vong SOFA giảm nhẹ ở lần HPEX 1 và 2 nhưng tăng lên sau HPEX 3.
Biểu đồ 3.4. Diễn biến độ não gan qua 3 lần thay huyết tương thể tích cao
91
Nhận xét:
- Độ não gan có xu hướng giảm dần sau các lần thay huyết tương thể
tích cao nhưng có xu hướng tăng trở lại ở lần thay huyết tương kế tiếp.
- Ở nhóm sống độ não gan sau thay huyết tương thể tích cao giảm nhiều nhưng
ở nhóm chết độ não gan cải thiện ít và không cải thiện sau lần thay huyết tương
thể tích cao lần 3.
Bảng 3.34. So sánh các chỉ số sinh hóa trước và sau thay huyết tương thể
tích cao lần thứ 1
Sau HPEX Trước HPEX p Chỉ số (n=45) (n=45)
199 74 < 0,001 AST (U/l) * (133-750) (38-162)
501 96 < 0,001 ALT (U/l) * (38-331) (121-1317)
323,4 97,7 < 0,001 Bilirubin toàn phần (mmol/l) * (196,1-477,3) (63,5-154,4)
203,3 57,4 < 0,001 Bilirubin trực tiếp (mmol/l) * (100-334,8) (33,7-82)
NH3 (U/l)) (X±SD) 93,22±63,1 61,46±48,64 < 0,01
* Kết quả được thể hiện ở dạng trung vị, khoảng tứ vị
Nhận xét: Ở lần thay huyết tương thể tích cao thứ 1, các chỉ số các chỉ
số AST, ALT, bilirubin toàn phần, bilirubin trực tiếp, NH3 sau khi thay đều
giảm so với trước, khác biệt có ý nghĩa thống kê.
92
Bảng 3.35. So sánh các chỉ số sinh hóa trước và sau thay huyết tương thể
tích cao lần thứ 2
Sau HPEX Trước HPEX p Chỉ số (n=37) (n=37)
94 39 p< 0,001 AST (U/l) *
(59-186) (27-91)
143 45 < 0,001 ALT (U/l) *
(75-223) (28-67)
206 74,6 < 0,001
Bilirubin toàn phần (mmol/l) *
(136,1-268,3) (47,6-116,9)
98,4 34,9 < 0,001 Bilirubin trực tiếp (mmol/l) *
(54,9-177) (27,1-54,2)
NH3 (U/l)) (X±SD) 76,7±39,11 69,91±75,3 > 0,05
* Kết quả được thể hiện ở dạng trung vị, khoảng tứ vị
Nhận xét: Ở lần thay huyết tương thứ 2, các chỉ số các chỉ số AST, ALT,
bilirubin toàn phần, bilirubin trực tiếp sau khi thay đều giảm so với trước, khác
biệt có ý nghĩa thống kê. Chỉ số NH3 có giảm so với trước thay huyết tương lần
2 nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
93
Bảng 3.36. So sánh các chỉ số sinh hóa trước và sau thay huyết tương thể
tích cao lần thứ 3
Sau HPEX Trước HPEX p Chỉ số (n=31) (n=31)
77 40 < 0,001 AST (U/l) *
(30,5-58) (52,5-144,5)
79 31 < 0,001
ALT (U/l) *
(47-134) (22,5-73)
143,8 58,2 < 0,001 Bilirubin toàn phần (mmol/l) *
(45,15-79,9) (99,65-184)
71,1 27,45 < 0,001 Bilirubin trực tiếp (mmol/l) *
(53,1-99,3) (23,45-42,375)
NH3 (U/l) (X±SD) 86,4±41,4 74,1±49,5 > 0,05
* Kết quả được thể hiện ở dạng trung vị, khoảng tứ vị
Nhận xét: Ở lần thay huyết tương thứ 3, các chỉ số các chỉ số AST, ALT,
bilirubin toàn phần, bilirubin trực tiếp sau khi thay huyết tương đều giảm so
với trước, khác biệt có ý nghĩa thống kê. Chỉ số NH3 có giảm so với trước thay
huyết tương lần 2 nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
94
Bảng 3.37. Hiệu quả cải thiện các chỉ số sinh hóa gan sau các lần thay huyết
tương thế tích cao
Sau HPEX
Chỉ số Lần 2 Lần 3 Lần 1
(n=37) (n=31) (n=45)
Tăng (n,%) 1 (2,7) 4 (12,9) 3 (6,7)
AST Giảm (n,%) 42 (93,3) 36 (97,3) 27 (87,1)
Tăng (n,%) 4 (8,9) 1 (2,7) 4 (12,9)
ALT Giảm (n,%) 41 (91,1) 36 (97,3) 26 (83,9)
Không đổi (n,%) 1 (3,2) 0
Bilirubin Tăng (n,%) 2 (5,4) 1 (3,2) 0
toàn phần Giảm (n,%) 45 (100) 37 (94,6) 30 (96,8)
Bilirubin Tăng (n,%) 2 (5,4) 2 (6,4) 0
trực tiếp Giảm (n,%) 45 (100) 37 (94,6) 29 (93,6)
Tăng (n,%) 10 (22,2) 10 (27) 7 (22,6)
NH3 Giảm (n,%) 34 (75,6) 27 (73) 24 (77,4)
Không đổi (n,%) 1 (2,2) 0 0
IL6 Tăng (n,%) 0 1 (2,7) 1 (3,2)
Giảm (n,%) 45 (100) 36 (97,3) 30 (96,8)
Nhận xét: - Hầu hết các chỉ số sinh hóa gan giảm sau khi được thay huyết tương
thể tích cao so với trước thay.
- Tỷ lệ bệnh nhân có chỉ số NH3 trong máu tăng lên mặc dù được thay
huyết tương thể tích cao chiếm trên 20% số bệnh nhân được thay huyết tương
IL6 giảm ở hầu hết bệnh nhân qua cả 3 lần thay huyết tương thể tích thể tích cao. -
cao.
95
Bảng 3.38. So sánh các chỉ số đông cầm máu trước và sau khi thay huyết
tương thể tích cao lần 1
p Chỉ số
Trước HPEX (n=45) 135,3 ± 82,2 Sau HPEX (n=45) 105 ± 64,9 > 0,05
27,4 ± 15,7 71,75 ± 9,8 < 0,001
1,5 ± 0,5 2,2 ± 0,4 < 0,001
3,3 ± 2,2 1,2 ± 0,2 < 0,001
Tiểu cầu (G/l) (X±SD) PT (%) (X±SD) Fibrinogen (g/l) (X±SD) INR (X±SD)
Nhận xét: Sau khi thay huyết tương thể tích cao lần thứ 1, chỉ số INR giảm,
Fibrinogen và prothrombin tăng có ý nghĩa thống kê, với p < 0,001. Tiểu cầu
sau thay huyết tương có xu hướng giảm hơn so với trước PEX nhưng sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.39. So sánh các chỉ số đông cầm máu trước và sau khi thay huyết
tương thể tích cao lần 2
p Chỉ số
Trước HPEX (n=37) 112,7 ± 68,6 Sau HPEX (n=37) 91,3 ± 53,1 > 0,05
36,2 ± 18,6 72,5 ± 9,4 < 0,001
1,84 ± 0,66 2,2 ± 0,6 < 0,001
2,7 ± 2,2 1,2 ± 0,1 < 0,001
Tiểu cầu (G/l) (X±SD) PT (%) (X±SD) Fibrinogen (g/l) (X±SD) INR (X±SD)
Nhận xét: Sau khi thay huyết tương thể tích cao lần thứ 2, chỉ số INR giảm,
Fibrinogen và prothrombin tăng có ý nghĩa thống kê, với p < 0,001. Tiểu cầu
sau thay huyết tương có xu hướng giảm hơn so với trước nhưng sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê.
96
Bảng 3.40. So sánh các chỉ số đông cầm máu trước và sau khi thay huyết
tương thể tích cao lần thứ 3
Sau HPEX Trước HPEX p Chỉ số (n=31) (n=31)
Tiểu cầu (G/l) 92,5 ± 54,1 76,3 ± 55,0 > 0,05
(X±SD)
39,6 ± 18,4 70,8 ± 10,6 PT (%) < 0,001
(X±SD)
Fibrinogen (g/l) 1,8 ± 0,6 2,2 ± 0,7 > 0,05
(X±SD)
2,5 ± 2,2 1,2 ± 0,3 INR < 0,001
(X±SD)
Nhận xét:
Sau khi thay huyết tương thể tích cao lần thứ 3, chỉ số INR giảm và
prothrombin tăng có ý nghĩa thống kê, với p < 0,001. Tiểu cầu sau thay huyết
tương tiếp tục giảm còn Fibrinogen có xu hướng tăng hơn so với trước PEX
nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
97
Bảng 3.41. Hiệu quả cải thiện các chỉ số đồng cầm máu sau các lần thay
huyết tương thế tích cao
Sau HPEX
Chỉ số Lần 1 Lần 2 Lần 3
(n=45) (n=37) (n=31)
Tiểu cầu Tăng (n,%) 4 (8,9) 7 (18,9) 4 (12,9)
Giảm (n,%) 41 (91,1) 30 (81,1) 27 (87,1)
Prothrombin Tăng (n,%) 44 (97,8) 35 (94,6) 29 (93,5)
Giảm (n,%) 1 (2,2) 2 (5,4) 2 (6,5)
Fibrinogen Tăng (n,%) 37 (82,2) 30 (81,1) 28 (90,3)
Giảm (n,%) 8 (17,8) 7 (18,9) 3 (9,7)
INR Tăng (n,%) 0 3 (8,1) 2 (6,5)
Giảm (n,%) 45 (100) 34 (91,9) 29 (93,5)
Nhận xét: - Ở hầu hết các bệnh nhân, các chỉ số prothrombin, fibrinogen đều tăng
và INR đều giảm sau thay huyết tương thể tích cao.
- Tiểu cầu giảm chiếm ưu thế trong nhóm bệnh nhân thay huyết tương
thể tích cao do suy gan cấp.
3.2.2. Một số tác dụng không mong muốn của phương pháp thay
huyết tương thể tích cao trong điều trị hỗ trợ suy gan cấp.
Bảng 3.42. Các biến chứng qua các lần thay huyết tương
Lần 1 Lần 2 Lần 3 Biến chứng (n=45) (n=37) (n=31)
Phản vệ (n,%) 13 (28,89) 2 (5,41) 1 (3,23)
Chảy máu vị trí catheter 1 (2,22) 0 1 (3,23) lọc máu (n,%)
98
Nhiễm trùng catheter lọc 0 0 0 máu (n,%)
Hạ canxi máu (n,%) 29 (64,4) 11 (29,7) 15 ((48,4)
Nhận xét: Hạ calxin máu là biến chứng thường gặp nhất khi thay huyết tương
thể tích cao ở bệnh nhân suy gan cấp. Phản vệ là biến chứng gặp ở 16 lần trong
đó hay gặp ở lần 1 với 28,89%, có 2 bệnh nhân gặp ở lần 2 (5,41%) và 1 bệnh
nhân gặp phản vệ ở lần 3 (3,23%). Không ghi nhận trường hợp nào nhiễm trùng
catheter tĩnh mạch dùng thay huyết tương. Tắc qua lọc cũng gặp khi thay huyết
tương thể tích cao.
Bảng 3.43. Mức độ phản vệ qua các lần thay huyết tương
Lần 1 Lần 2 Lần 3
Biến chứng (n=45) (n=37) (n=31)
Phản vệ độ 1 (n,%) 13 (28,89) 2 (5,41) 1 (3,23)
Phản vệ độ 2,3,4 (n,%) 0 0 0
Nhận xét: Tất cả các trường hợp phản vệ trong thay huyết tương đều là mức
độ 1.
99
Bảng 3.44. Các biến chứng của thay huyết tương thể tích cao theo nhóm
bệnh nhân sống và tử vong
Nhóm sống Nhóm tử vong p Biến chứng (n=24) (n=21)
Phản vệ (n,%) 12 (41,67%) 4 (14,29%) < 0,05
Chảy máu vị trí catheter 0 2 (9.52%) lọc máu (n,%)
Nhiễm trùng catheter lọc 0 0 máu (n,%)
Hạ canxi máu (n,%) 14 (58,3) 15 (71,4) > 0,05
Nhận xét: Phản vệ ở nhóm sống gặp nhiều hơn ở nhóm tử vong, khác biệt có
ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Các biến chứng chảy máu vị trí catheter lọc máu, nhiễm trùng catheter và hạ
calxi máu không khác biệt giữa 2 nhóm.
100
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
4.1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trước thay huyết
tương thể tích cao của bệnh nhân suy gan cấp và một số yếu tố liên quan
đến tỷ lệ tử vong
Trong nghiên cứu của chúng tôi thấy độ tuổi trung bình các bệnh nhân
trong nghiên cứu là 47 ± 16,31; tuổi thấp nhất là 17; tuổi cao nhất là 88, tỉ lệ
bệnh nhân nam giới mắc suy gan cấp nhiều hơn nữ giới với tỉ lệ lần lượt là
53,3% và 46,7%. (Bảng 3.1). Kết quả này thấp hơn về tuổi và giới so với nghiên
cứu của Nguyễn Gia Bình, độ tuổi trung bình là 54,64 ± 12,2 tuổi, nam giới
chiếm 80% [107]; và nghiên cứu của Hồ Quang Tuấn có tuổi trung bình là
50,13 ± 13,5 tuổi, nam giới chiếm 67,6% [108]. Nhưng cao hơn tác giả Filho
(2017) nghiên cứu trên 40 bệnh nhân suy gan cấp, tuổi trung bình là 44,3 ± 12,8
tuổi, nam giới chiếm 22,5% [109]. Ji Eun Kim (2021) nghiên cứu trên 32 bệnh
nhân suy gan cấp chờ ghép gan thì tuổi trung bình là 48,3 ± 13 tuổi, tương đồng
với nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ nam giới chỉ chiếm 31% thấp hơn nghiên
cứu của chúng tôi, nhưng kết quả của tác giả này phù hợp với dịch tễ suy gan
cấp và tương đồng với nhận xét của nhiều nghiên cứu [110]. Sở dĩ có sự khác
biệt này có thể do việc lựa chọn bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là
có chọn lọc và chỉ tập trung vào nhóm bệnh nhân suy gan cấp do ngộ độc cấp
(mà ngộ độc thường chiếm tỷ lệ cao ở nam giới) và độ não gan trước khi thay
huyết tương từ độ 2 trở lên trong khi các nghiên cứu của tác giả Nguyễn Gia
Bình và Hồ Quang Tuấn thì chọn tất cả các bệnh nhân suy gan cấp mà không
giới hạn về mức độ bệnh não gan, không tập trung vào nhóm nguyên nhân nào
cơ bản, còn Filho (2017) thì chọn bệnh nhân suy gan cấp do nguyên nhân chính
là virus (chiếm 37,5%) và Ji Eun Kim (2021) thì chọn bệnh nhân suy gan cấp
(50% do ngộ độc) đã có chỉ định ghép gan.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, dân tộc kinh chiếm tỷ cao lên tới 80%,
các dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ chỉ 20% (Bảng 3.1). Có sự khác biệt lớn này
do dân tộc kinh chiếm đa số trong dân số Việt Nam, theo kết quả báo cáo của
101
cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 dân tộc kinh chiếm tới 85,3% tổng
dân số của cả nước. Mặt khác, sự tiếp cận với y tế của nhóm bệnh nhân dân tộc
kinh cũng dễ dàng, thuận lợi hơn người dân tộc thiểu số.
Các đặc điểm về chiều cao, cân nặng và chỉ số BMI được trình bày ở
bảng 3.2. Kết quả nghiên cứu nhận thấy 53,3% số bệnh nhân có mức BMI ở
trong giới hạn bình thường từ 18,5 kg/m2 đến dưới 23kg/m2 theo chuẩn BMI
của người Châu Á [106] còn lại tỷ lệ bệnh nhân có BMI dưới 18,5 chỉ có 5
bệnh nhân chiếm tỷ lệ 11,11% và bệnh nhân thừa cân, béo phì (BMI trên
23kg/m2) là 16 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 35,56%. Chiều cao trung bình của bệnh
nhân trong nhóm nghiên cứu là 160,42 ± 6,97 (cm), cân nặng trung bình là 57
± 9,87 (kg) đều nằm trong giới hạn bình thường của chỉ số người Việt Nam
[111].
Khi khảo sát bệnh đồng mắc ở bệnh nhân suy gan cấp chúng tôi nhận
thấy, bệnh đồng mắc chủ yếu là tăng huyết áp chiếm 22,2%, đái tháo đường
chiếm 8,89% còn lại suy tim và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính mỗi bệnh gặp ở
1 bệnh nhân (Bảng 3.3). Đặc điểm trên có thể do đối tượng ngộ độc cấp trong
nghiên cứu của chúng tôi đa phần trẻ, nên các bệnh đồng mắc cũng vì thế mà ít
gặp hơn. Mặt khác cỡ mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi có thể chưa đủ lớn
(45 bệnh nhân) nên việc tìm hiểu các bệnh đồng mắc trên nhóm bệnh nhân suy
gan cấp do ngộ độc còn chưa đầy đủ. Do đó cần nghiên cứu thêm với cỡ mẫu
lớn hơn để tìm mối liên hệ giữa các bệnh đồng mắc này với tình trạng suy gan
cấp. Trong nghiên cứu nguyên nhân gây suy gan cấp gặp nhiều nhất là do ngộ
độc, chiếm đến 82,22%. Trong số các nguyên nhân ngộ độc cấp thì hàng đầu là
thuốc đông y (51,11%), tiếp đến là paracetamol và các ngộ độc cấp khác như
ngộ độc nấm (3 bệnh nhân), ngộ độc thuốc chống lao (1 bệnh nhân). Các
nguyên nhân khác như miễn dịch và chuyển hoá ít gặp hơn chỉ chiếm 26,67%
bệnh nhân suy gan cấp. Trong nghiên cứu của chúng tôi có duy nhất 1 bệnh
nhân bị suy gan cấp do chuyển hoá (bệnh Wilson). 88,89% bệnh nhân suy gan
cấp chỉ do 1 nguyên nhân gây ra. Có 05 bệnh nhân (chiếm 11,11%) suy gan cấp
102
có đồng thời cả 2 nguyên nhân (Bảng 3.4). Kết quả này cao hơn so với nghiên
cứu của Nguyễn Gia Bình (2011) nguyên nhân chủ yếu là nhiễm độc nhưng chỉ
chiếm 46,7% [107] và trong nghiên cứu của Vương Xuân Toàn, nguyên nhân
suy gan cấp chủ yếu là viêm gan virus B chiếm tới 46,67%, nguyên nhân ngộ
độc ít gặp hơn chỉ với 2 bệnh nhân chiếm tỉ lệ 6,67% [98]. Hầu hết bệnh nhân
suy gan cấp trong nghiên cứu là do 1 nguyên nhân gây ra (hoặc ngộ độc cấp
hoặc miễn dịch hoặc chuyển hóa) có 5 bệnh nhân bị suy gan do sự phối hợp
của 2 nguyên nhân trong đó thường có sự kết hợp với 1 nguyên nhân ngộ độc
paracetamol hoặc thuốc đông y. Tác giả Lê Thái Bảo (2011) báo cáo 37 bệnh
nhân suy gan cấp do ngộ độc cấp điều trị tại Trung tâm Chống độc, bệnh viện
Bạch Mai thấy tỷ lệ bệnh nhân suy gan cấp do thuốc đông y chiếm tỷ lệ cao
nhất (62,2%) tiếp đến là do ong đốt và nấm độc (đều chiếm 8,1%), paracetamol
chiếm 5,4% [101]. Tác giả Lê Quang Thuận (2017) báo cáo 62 bệnh nhân viêm
gan cấp (nhóm nghiên cứu) được thay huyết tương tích cực và 52 bệnh nhân
suy gan cấp được thay huyết tương thường qui (nhóm chứng) tại Trung tâm
Chống độc, Bệnh viện Bạch Mai thấy suy gan cấp do thuốc đông y cũng vẫn
chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các nguyên nhân nhiễm độc (27,5% và 44,2%),
tiếp đến là ngộ độc nấm, thuốc điều trị lao, paracetamol. Tỷ lệ bệnh nhân suy
gan cấp do nguyên nhân hỗn hợp lần lượt là 16,1% và 17,3%. Kết quả này cũng
tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi nguyên nhân hỗn hợp gây suy gan
cấp chiếm 11,1% [99]. Filho (2017) báo cáo 40 bệnh nhân suy gan cấp trong
đó virus chiếm tỷ lệ cao nhất (37,5%), ngộ độc thuốc (22,5%) và có 20% bệnh
nhân không xác định được nguyên nhân [109]. Ji Eun Kim (2021) báo cáo trên
16 bệnh nhân suy gan cấp thì nguyên nhân ngộ độc cấp do thuốc chiếm 50%,
virus (22%), miễn dịch (13%) và 1 bệnh nhân (3%) do kết hợp các nguyên nhân
[110]. Qua đó thấy rằng, tỷ lệ bệnh nhân suy gan cấp do ngộ độc trong nghiên
cứu của chúng tôi tương đồng với các báo cáo trong nước nhưng cao hơn các
báo cáo trên thế giới. Sự khác nhau này có thể do sự khác nhau giữa các cách
chọn mẫu là suy gan cấp đơn thuần hay có cả suy gan cấp trên nền bệnh gan
103
mạn tính, có tuyển chọn bệnh nhân viêm gan virus vào nghiên cứu hay không.
Một phần nữa là thói quen dùng thuốc đông y không rõ nguồn gốc theo kiểu
truyền miệng vốn vẫn diễn ra phổ biến trong các cộng đồng dân cư Việt Nam,
đặc biệt là dân cư vùng sâu, dân tộc thiểu số điều này là khác biệt với các nước
khác trên thế giới. Mặt khác nghiên cứu này được thực hiện hoàn toàn tại trung
tâm chống độc Bệnh viện Bạch Mai là cơ sở tuyến cuối, chuyên sâu của cả
nước trong thu dung, chẩn đoán và điều trị bệnh nhân ngộ độc cấp nên số lượng
bệnh nhân được chẩn đoán ra nguyên nhân ngộ độc gây suy gan cấp nhiều hơn
và chính xác hơn so với các cơ sở y tế khác.
Về các dấu hiệu lâm sàng khi bệnh nhân suy gan cấp vào viện nổi bật
vẫn là triệu chứng vàng da chiếm tới 93,3%. Các triệu chứng khác như phù, cổ
trướng chiếm tỷ lệ lần lượt là 17,8% và 13,3%, xuất huyết chiếm tỷ lệ rất thấp
với 2 bệnh nhân (4,44%) (Bảng 3.5). Đặc điểm này phù hợp với đối tượng bệnh
nhân của nghiên cứu là các bệnh nhân suy chức năng gan cấp tính do nguyên
nhân chính là ngộ độc cấp và cũng đã loại trừ các bệnh nhân suy gan cấp trên
nền bệnh gan mạn tính. Kết quả này của chúng tôi cũng tương đồng với nghiên
cứu của tác giả Lê Quang Thuận (2017), tỷ lệ vàng da chiếm 98,2% [99].
Khi khảo sát mức độ bệnh não gan chúng tôi thấy rằng, trước khi thay
huyết tương, độ não gan trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu là 2,53 ±
0,59. 100% bệnh nhân có độ não gan mức độ 2,3,4 trong đó não gan độ 2 chiếm
51,11%, tiếp đến là độ 3 chiếm 44,44%. Có 2 bệnh nhân bệnh não gan độ 4
(4,44%) (Bảng 3.6). Kết quả này của chúng tôi cao hơn trong báo cáo của Lê
Quang Thuận với 62 bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương tích cực có
độ não gan ở tất cả các mức độ từ 0,1,2,3,4 với tỷ lệ lần lượt tương ứng là
47,4%, 22,8%, 19,3%, 9,6%, 0,9% [99]. Tỷ lệ này trong báo cáo trên 16 bệnh
nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể tích cao của Ji Eun Kim lần lượt
là 6%, 13%, 6%, 31%, 44% [110]. Sở dĩ có sự khác biệt này so với các nghiên
cứu do tiêu chí lựa chọn vào nghiên cứu của chúng tôi chỉ bao gồm các bệnh
nhân suy gan cấp có mức độ não gan từ độ 2 trở lên.
104
Khi đánh giá tình trạng huyết động của bệnh nhân suy gan cấp lúc vào
viện chúng tôi thấy rằng, mạch, huyết áp trung bình và nhiệt độ đều nằm trong
giới hạn bình thường, không có bệnh nhân nào cần sử dụng thuốc vận mạch
(Bảng 3.7). Nhận định này trong nghiên cứu của chúng tôi cũng giống kết quả
nghiên cứu của tác giả Wiersema (2015) báo cáo 15 bệnh nhân suy gan cấp
trong đó chủ yếu là ngộ độc cấp tính thấy mạch trung bình trước thay huyết
tương là 105 (92,5-111), huyết áp trung bình 82 (72-92,5) [112]. Kết quả này
cũng tương tự như báo cáo của Larsen (2016), cho thấy huyết áp động mạch
trung bình của nhóm bệnh nhân suy gan cấp trước khi được thay huyết tương
thể tích cao vẫn trên 60 mmHg, không có hỗ trợ thuốc vận mạch [16]. Qua đó
cho thấy các triệu chứng toàn thân, huyết động của bệnh nhân suy gan cấp khi
vào viện chưa bị ảnh hưởng nhiều do việc lựa chọn đối tượng bệnh nhân nghiên
cứu là tình trạng suy gan cấp do ngộ độc cấp tính hơn nữa bệnh nhân có các
bệnh lý đồng mắc chiếm tỷ lệ thấp.
Khảo sát đặc điểm hô hấp ở bệnh nhân suy gan cấp trước khi tiến hành
thay huyết tương thể tích cao chúng tôi nhận thấy rằng có 19 bệnh nhân
(42,22%) tự thở khí phòng còn lại phải can thiệp hỗ trợ hô hấp, đặc biệt 21 bệnh
nhân chiếm tỷ lệ 46,67% phải thở máy với thời gian thở máy trung bình là 5,35
± 3,66 ngày (Bảng 3.8). Kết quả này tương đồng với báo cáo của Ji Eun Kim
(2021) với tỷ lệ thở máy trước thay huyết tương thể tích cao là 47%. Larsen
(2016) và Filho (2017) báo cáo tỷ lệ thở máy trong suốt thời gian nằm viện của
bệnh nhân suy gan cấp tương ứng lần lượt là 70% và 77,7%. Điều này cũng
phù hợp với tỷ lệ bệnh nhân có hội chứng não gan, hôn mê chiếm tỷ lệ cao
(48,9%) nên cần các can thiệp hỗ trợ hô hấp.
Kết quả công thức máu của các bệnh nhân suy gan cấp trong nghiên cứu
trước khi tiến hành thay huyết tương thể tích cao được trình bày ở bảng 3.9.
Chúng tôi thấy rằng về cơ bản các chỉ số hồng cầu, huyết sắc tố trong giới hạn
bình thường. Chỉ số bạch cầu tăng nhẹ với 55,56% bệnh nhân có bạch cầu > 10
105
G/l và 4,44% bệnh nhân có bạch cầu < 4 G/l. Thời điểm nhập viện các chỉ số
hồng cầu, bạch cầu trong giới hạn bình thường vì hầu hết tình trạng suy gan cấp
không ảnh hưởng đến chỉ số này trừ trường hợp có nhiễm khuẩn hoặc tình trạng
mất máu do rối loạn đông máu hoặc giảm tiểu cầu kèm theo. Tiểu cầu ở bệnh
nhân suy gan cấp trong nghiên cứu của chúng tôi là 135,31±82,16 G/l, trong đó
chỉ có 19 bệnh nhân (42,22%) có chỉ số tiểu cầu trên 150 G/l, đặc biệt 18 bệnh
nhân (40%) có tiểu cầu dưới 100 G/l. Điều này cho thấy tiểu cầu đã giảm ở thời
điểm nhập viện, điều này phù hợp với việc lựa chọn bệnh nhân và tình trạng
suy gan cấp lúc nhập viện của các bệnh nhân nhưng tiểu cầu không giảm quá
thấp như trong các trường hợp bệnh nhân suy gan cấp trên nền bệnh gan mạn
tính. Vương Xuân Toàn (2019) báo cáo kết quả trên 30 bệnh nhân suy gan cấp
cho thấy tiểu cầu trước khi thay huyết tương thể tích cao ở nhóm suy gan cấp
không có bệnh gan trước đó là 97,1 ± 58,6 G/l, kết quả này cao hơn ở nhóm
suy gan cấp trên nền bệnh gan mạn tính là 90,5 ± 53,5 G/l [98]. Ji Eun Kim
(2021) cũng cho thấy chỉ số bạch cầu trung bình của các bệnh nhân suy gan cấp
được thay huyết tương thể tích cao trong nghiên cứu của tác giả là 9290 (7595
– 11935), huyết sắc tố trong giới hạn bình thường, giá trị trung vị của tiểu cầu
ở các bệnh nhân trong nghiên cứu của Ji Eun Kim ( 2021) là 138 G/l (81-203)
[106]. Điều này phù hợp với lâm sàng của suy gan cấp trong những ngày đầu.
Ở các bệnh nhân suy gan cấp do ngộ độc, rối loạn đông máu theo con
đường ngoại sinh với đặc trưng là giảm prothrombin và tăng cao INR. Vì vậy
trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu đối tượng bệnh nhân là suy gan cấp do
ngộ độc chiếm phần lớn nên thấy rõ tỷ lệ prothrombin giảm thấp với giá trị
trung bình của tỷ lệ prothrombin trong nghiên cứu là 27,40 ± 15,72 (%), trong
đó 82,2% bệnh nhân có tỷ lệ prothrombin dưới 40%; chỉ số INR trung bình là
3,38 ± 2,21 trong đó 40% bệnh nhân có INR trên 3. (Bảng 3.10). Pawaria báo
cáo 43 bệnh nhân suy gan cấp do rối loạn chuyển hóa đồng thấy chỉ số INR
trung bình của các bệnh nhân nghiên cứu là 3,2 (2,83-4) [113]. Phạm Duệ
106
(2012) báo cáo tình trạng rối loạn đông máu trước khi thay huyết tương ở 77
bệnh nhân suy gan cấp do nhiễm độc tại Trung tâm chống độc, Bệnh viện Bạch
Mai thấy đặc trưng là giảm đông với tỷ lệ prothrombin trung bình là 31,0 ±
24,4%, INR trung bình là 3,1 ± 1,9, aPTT(s) trung bình là 51,8 ± 31,2 (%) và
Fibrinogen trung bình là 2,1 ± 2,1 g/l [4] , kết quả này cũng tương đồng với kết
quả trong nghiên cứu của chúng tôi. Do đó rối loạn đông máu là một lý do để
chỉ định thay huyết tương của 60% bệnh nhân suy gan cấp do nhiễm độc [3].
Khi khảo sát các chỉ số sinh hóa tại thời điểm trước khi thay huyết tương
thể tích cao chúng tôi thấy rằng, thời điểm nhập viện nồng độ AST, ALT tăng
cao nhưng không đồng đều giữa các nhóm bệnh nhân. Bilirubin toàn phần,
Bilirubin trực tiếp, NH3 tăng cao, rối loạn chuyển hóa glucose máu theo xu
hướng tăng đường máu và tăng lactat máu với lactat trung bình của các bệnh
nhân trong nghiên cứu là 3,7 ± 2,57 (mmol/l) và có tới 77,78% bệnh nhân trong
nghiên cứu có tăng lactat máu ở thời điểm trước khi tiến hành thay huyết tương
(Bảng 3.13). Các chỉ số sinh hóa khác như ure, creatinin, điện giải đồ trong
giới hạn bình thường trong khi khí máu có xu hướng kiềm hô hấp với 2/3 số
bệnh nhân có pH> 7,45 (Bảng 3.11, bảng 3.13). Suy gan cấp biểu hiện bằng
hủy hoại tế bào gan và rối loạn chức năng tạo mật được thể hiện thông qua nồng
độ AST, ALT, Bilirubin toàn phần, trực tiếp tăng cao. Kết quả này tương đồng
với báo cáo của Ngô Đức Ngọc và cộng sự (2011) với nồng độ trung bình của
ALT là 704,7±1157,0 UI/L, bilirubin toàn phần trung bình là 390,4 ± 231,83
µmol/L [3] và Đặng Thị Xuân cũng cho kết quả tương ứng là 914,1 ± 1258,78
UI/L và 390,4 ± 231,83 µmol/L [114]. Giá trị trung vị của nồng độ NH3 trong
máu trong nghiên cứu của chúng tôi là 93 µmol/l tăng cao tương ứng với mức
độ bệnh não gan chủ yếu là mức độ 2,3,4. Vương Xuân Toàn báo cáo kết quả
nồng độ NH3 trong máu là 111,8 ± 93,6 µmol/l [98]. Larsen cũng thấy rằng, tại
thời điểm ngày đầu tiên khi nhập viện, các thông số khí máu của nhóm suy gan
cấp được điều trị chuẩn và nhóm được kết hợp điều trị chuẩn và thay huyết
107
tương thể tích cao cơ bản không khác biệt, các thông số toan kiềm, oxy hóa
máu bình thường và có tăng nhẹ lactat máu [16].
Xét nghiệm IL6 gần đây được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu để
đánh giá các phản ứng viêm trong cơ thể. Ở những bệnh nhân bị bệnh gan cấp
tính, nội độc tố có thể kích thích các bạch cầu đơn nhân sản xuất một lượng lớn
các cytokin trong đó có IL-6, dẫn đến hoại tử hàng loạt tế bào gan [115], [116].
Chao và cộng sự báo cáo rằng IL-6 có hoạt tính cao ở những bệnh nhân bị viêm
gan B, có tương quan chặt chẽ với tổn thương tế bào gan và mức độ nghiêm
trọng của bệnh gan [117]. Nghiên cứu của chúng tôi thấy nồng độ IL-6 của các
bệnh nhân trong nghiên cứu là 26,66 pg/ml (khoảng tứ vị là 16 – 47,6) (Bảng
3.12). Kết quả này tương đương với báo cáo của Lei li (2021), nồng độ IL-6
trung bình ở bệnh nhân suy gan cấp trong nghiên cứu là 22,36 ± 6,21 pg/mL [115]. Kết quả IL-6 ở nghiên cứu của chúng tôi cao hơn báo cáo của Yu Sun
(2020) với nồng độ IL-6 trước khi thay huyết tương thể tích cao là 16,6 ± 9,5
pg/ml [116].
Đánh giá mức độ nặng của bệnh nhân thông qua đánh giá mức suy tạng
nói chung và suy gan cấp nói riêng chúng tôi dùng thang điểm SOFA. Kết quả
của chúng tôi cho thấy điểm SOFA trung bình của các bệnh nhân ở thời điểm
vào viện là 9,67 ± 2,39 trong đó 2/3 số bệnh nhân có SOFA trên 8 điểm đồng
thời 60% bệnh nhân có suy từ 2 tạng trở lên (Bảng 3.14). Kết quả này tương
đồng với nghiên cứu của Vương Xuân Toàn (2019) với điểm SOFA trung bình
là 8,2 ± 2,8 [98] và Nguyễn Gia Bình điểm SOFA trung bình là 10,83 ± 5,4
[107].
Kết thúc liệu trình điều trị thay huyết tương thể tích cao trên 45 bệnh nhân
suy gan cấp chủ yếu do nguyên nhân ngộ độc chúng tôi nhận thấy 46,67% bệnh
nhân tử vong/xin về (Biểu đồ 3.2). Kết quả này tương tự một số báo cáo của
các tác giả trên thế giới và Việt Nam. Phạm Duệ (2012) nghiên cứu 64 bệnh
nhân suy gan cấp do ngộ độc cấp, kết cục cuối cùng có 51,6% bệnh nhân chắc
108
chắn sống, 39,1% bệnh nhân tử vong tại bệnh viện và 9,4% bệnh nhân xin về
không rõ kết cục cuối cùng [4]. Larsen và cộng sự (2016) nghiên cứu 182 bệnh
nhân suy gan cấp trong đó 90 bệnh nhân điều trị phác đồ chuẩn (nhóm chứng)
và 92 bệnh nhân được điều trị phác đồ chuẩn và bổ sung bằng thay huyết tương
thể tích cao (nhóm nghiên cứu) thấy tỷ lệ sống tại viện của nhóm được thay
huyết tương thể tích cao là 58,7% cao hơn có nghĩa thống kê so với nhóm
chứng (tỷ lệ sống tại viện chỉ là 47,8%) với p < 0,01 [16]. Keith (2020) nghiên
cứu trên 80 bệnh nhân chia thành 2 nhóm (1 nhóm 40 bệnh nhân được thay
huyết tương và 1 nhóm 40 bệnh nhân không được thay huyết tương) thấy rằng
tỷ lệ tử vong ở ngày 28 của nhóm được thay huyết tương là 40% ít hơn có ý
nghĩa thống kê so với nhóm không được thay huyết tương, với p < 0,05 [118].
Ji Eun Kim (2021) cũng cho thấy, các bệnh nhân suy gan cấp thay huyết tương
thể tích cao, tỷ lệ sống thêm sau 30 ngày cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm không thay huyết tương thể tích cao, với p < 0,05 [110]. Pawaria (2021)
nghiên cứu 37 bệnh nhân suy gan cấp thấy rằng ở bệnh nhân suy gan cấp được
thay huyết tương thể tích cao tỷ lệ sống thêm ở ngày 90 là 47,3% trong khi tỷ
lệ này ở bệnh nhân suy gan cấp không được thay huyết tương chỉ là 16,6%,
khác biệt có nghĩa thống kê với p < 0,05 [113].
Khi tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tử vong ở bệnh nhân suy gan
cấp chúng tôi thấy rằng không có sự khác biệt về tuổi, giới, BMI giữa nhóm
sống và nhóm tử vong do suy gan cấp (Bảng 3.15). Filho (2018) nghiên cứu
trên 40 bệnh nhân suy gan cấp thấy tỷ lệ tử vong tại viện là 57,5%, không có
sự khác biệt về giới giữa nhóm sống và nhóm tử vong, đồng thời trong nghiên
cứu cũng chỉ ra nhóm tử vong có tuổi trung bình cao hơn, bệnh nhân tuổi cao
gặp nhiều ở nhóm tử vong hơn nhóm sống, tuy nhiên khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê [109]. Cheng và cộng sự (2018) nghiên cứu trên 55 bệnh nhân
suy gan cấp trong đó 45 bệnh nhân suy gan cấp trên nền bệnh gan mạn tính và
10 bệnh nhân suy gan cấp không có bệnh gan trước đó. Khi phân tích các đặc
109
điểm dựa trên phân loại sống, tử vong của cả 2 nhóm, nhóm nghiên cứu cũng
thấy rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi, giới giữa nhóm
sống và tử vong trên 2 đối tượng suy gan cấp có và không có bệnh gan mạn
tính trước đó [119].
Khi phân tích bệnh đồng mắc theo kết cục sống và tử vong thấy rằng
trong nghiên cứu của chúng tôi ở nhóm tử vong có nhiều bệnh lý nền hơn nhóm
sống trong đó tăng huyết áp gặp nhiều hơn ở nhóm tử vong (42,86% bệnh nhân
tử vong do suy gan cấp có tăng huyết áp) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm sống (chỉ chiếm 4,16% bệnh nhân suy gan cấp có bệnh đồng mắc là tăng
huyết áp), với p < 0,01. Trong nghiên cứu có 1 bệnh nhân suy tim và 1 bệnh
nhân có bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính có suy gan cấp nhưng đều nằm trong
nhóm tử vong (Bảng 3.16). Mặc dù chưa tìm thấy mối liên hệ rõ nét nào giữa
nguy cơ tử vong và bệnh lý đồng mắc nhưng chúng tôi thấy rằng, nhóm suy
gan cấp mà tuổi cao hơn, bệnh lý nền nhiều hơn thì tỷ lệ tử vong cũng nhiều
hơn, cần có khảo sát với cỡ mẫu lớn hơn để làm rõ mối liên quan này.
Khi so sánh các nguyên nhân gây suy gan cấp theo nhóm sống và tử
vong, chúng tôi thấy rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa thông kê về nguyên
nhân gây suy gan cấp giữa nhóm sống và tử vong (Bảng 3.17). Kết quả này
tương đồng với kết quả trong báo cáo của Y-M Hung (2004), nghiên cứu 30
bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương thấy rằng, không có sự khác biệt
về nguyên nhân gây suy gan cấp giữa nhóm sống (20 bệnh nhân) và nhóm tử
vong (10 bệnh nhân) [120].
Khi so sánh triệu chứng lâm sàng của nhóm sống và tử vong bao gồm
các triệu chứng lâm sàng suy gan cấp, mức độ não gan trước khi được thay
huyết tương chúng tôi thấy rằng, triệu chứng lâm sàng suy gan cấp tương đối
đồng nhất ở 2 nhóm, không có triệu chứng nào chiếm ưu thế ở nhóm sống hoặc
tử vong (Bảng 3.18). Mức độ não gan trung bình của nhóm tử vong cao hơn
nhóm sống, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05
110
(Bảng 3.19). Khi phân tích theo từng nhóm, chúng tôi thấy nhóm tử vong tỷ lệ
bệnh nhân có hội chứng não gan mức độ 3,4 cao hơn nhóm sống tuy nhiên sự
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05 (Bảng 3.19). Y-M Hung
(2004) cũng thấy rằng tại thời điểm nhập viện, mức độ bệnh não gan của nhóm
tử vong cao hơn nhóm sống với p < 0,05 và mức độ não gan cải thiện trong
tuần đầu điều trị thay huyết tương nhưng tăng dần trong tuần thứ 2 cho đến lúc
tử vong [120].
Tỷ lệ bệnh nhân cần can thiệp hô hấp ở nhóm tử vong là 85,71% trong
đó thở máy là 71,42%, thở oxy là 14,29% cao hơn nhóm sống có ý nghĩa thống
kê với p < 0,001 (Bảng 3.20). Tuy nhiên các thông số khí máu, toan kiềm giữa
2 nhóm lại không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 3.24). Nhóm tử
vong có áp lực riêng phần oxy trong máu cao hơn vì nhóm này tỷ lệ được hỗ
trợ hô hấp (thở oxy và thở máy) cũng cao hơn nhóm sống. Nghiên cứu của
Filho và cộng sự (2018) thấy rằng tỷ lệ bệnh nhân suy gan cấp có suy hô hấp là
32,5% trong đó 70% bệnh nhân cần hỗ trợ thở máy. Khi phân tích theo nhóm
sống còn, nhóm nghiên cứu thấy rằng tỷ lệ bệnh nhân suy hô hấp ở nhóm tử
vong là 84,6% cao hơn nhóm sống (15,4% bệnh nhân suy hô hấp), khác biệt
này có ý nghĩa thống kê. Trong số bệnh nhân suy hô hấp cần hỗ trợ máy thở,
75% số bệnh nhân sẽ tử vong [109], kết quả của Filho cho thấy cũng tương tự
kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân thở máy và tử vong chiếm
71,42%.
Rối loạn đông cầm máu ở bệnh nhân suy gan cấp luôn nặng nề và là một
trong những chỉ định để bác sĩ điều trị phải quyết định thay huyết tương. Phạm
Duệ (2012) báo cáo 60% chỉ định thay huyết tương là vì suy gan nặng dần,
nguy cơ chảy máu cao [4]. Filho (2018) thấy rằng, INR trung bình của bệnh
nhân suy gan cấp là 5,2 ± 4,9 trong đó nhóm tử vong là 7,1 ± 5,7 cao hơn có ý
nghĩa thống kê so với nhóm sống (2,7 ± 1,4), với p < 0,01. Tương tự khi định
lượng yếu tố V, Filho và nhóm nghiên cứu thấy nồng độ yếu tố V cao hơn ở
111
nhóm sống, có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 [109]. Báo cáo của Cheng ( 2018)
cũng cho thấy bên cạnh các chỉ số đông máu trước thay huyết tương ở nhóm
sống tốt hơn thì tiểu cầu cũng có xu hướng cao hơn ở nhóm sống so với nhóm
tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp với tiểu cầu trung bình tương ứng là 149 G/l
(61-236) so với 131 G/l (21-159) [119]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy các chỉ số đông cầm máu ở nhóm sống tốt hơn nhóm tử vong, trong đó tỷ
lệ prothrombin, INR thấp hơn, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (Bảng
3.21).
Bên cạnh chức năng đông cầm máu thì các chỉ số sinh hóa chức năng
gan cũng có biến đổi nhưng không có nhiều khác biệt giữa nhóm sống và tử
vong (Bảng 3.22). Đường máu trung bình của nhóm sống trong giới hạn bình
thường và thấp hơn nhóm tử vong tạo nên sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p < 0,01 trong khi đó các chỉ số AST, ALT, bilirubin (toàn phần và trực tiếp),
NH3 ure, creatinin không có sự khác biệt giữa nhóm sống và nhóm tử vong.
Báo cáo của Filho, Y-M Hung và Cheng thấy rằng các chỉ số AST, ALT,
bilirubin toàn phần, NH3 không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, thậm chí
nhóm sống còn cao hơn nhóm tử vong. Điều này cho thấy rằng các tổn thương
tế bào gan đặc trưng là hủy hoại tế bào gan có hoặc không có tắc mật kèm theo
có vai trò phản ánh không nhiều tới mức độ suy gan cấp. Sau khi hồi phục các
chỉ số này giảm đi nhanh chóng [109], [119], [120]. Trong khi đó rối loạn
đường máu lại có xu hướng tăng hơn ở nhóm suy gan cấp nặng. Tỷ lệ glucose
máu của nhóm tử vong cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm sống. Cheng
(2018) thấy rằng, bệnh nhân tử vong do suy gan cấp có tăng đường máu (14,3%
bệnh nhân suy gan cấp đơn thuần và 17,6% bệnh nhân suy gan cấp trên nền
bệnh gan mạn tính) trong khi tỷ lệ này ở nhóm sống lần lượt là 0% và 9,1%,
tuy nhiên khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê [119]. Báo cáo của Vương
Xuân Toàn (2019) cho thấy tại thời điểm trước thay huyết tương, các chỉ số
112
NH3, Bilirubin toàn phần và creatinin của nhóm sống và tử vong là tương đương
nhau [98].
IL6 là yếu tố viêm mới được đưa vào trong đánh giá các rối loạn miễn
dịch trong nhiều bệnh lý khác nhau trong đó có suy gan cấp.Trong nghiên cứu
của chúng tôi thấy mặc dù IL6 có tăng hơn ngưỡng bình thường nhưng lại
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ IL6 của nhóm sống và
tử vong do suy gan cấp (Bảng 3.23). Lasenz C và cộng sự (2019) tìm thấy mối
liên quan thuận giữa IL6 và việc xuất hiện bệnh não gan [121]. Wang (2022)
cũng thấy rằng IL6 tăng cao hơn ở nhóm bệnh nhân tử vong do bệnh gan giai
đoạn cuối ( 7,13 ± 12,18 pg/mL so với 9,72 ± 5,56 pg/mL ở nhóm sống, với p
<0,001) [122].
Khi so sánh điểm SOFA trước khi thay huyết tương của nhóm sống và
nhóm tử vong, chúng tôi thấy rằng trong nghiên cứu, điểm SOFA trung bình
của nhóm sống thấp hơn nhóm tử vong, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
với p < 0,001 (Bảng 3.25). Điều này cũng tương đồng với tỷ lệ bệnh nhân phải
thở máy, nồng độ bilirubin cao hơn và tiểu cầu thấp hơn của nhóm tử vong so
với nhóm sống. Filho thấy rằng điểm SOFA trung bình của nhóm sống là 8,2 ±
3,7 thấp hơn nhóm tử vong là 13,5 ± 4,3, có ý nghĩa thống kê với p < 0,001
[109]. Vandana Saluja (2022) nghiên cứu 100 bệnh nhân suy gan cấp, theo dõi
điểm SOFA lúc nhập viện và sau 48 giờ. Theo dõi đích sống – tử vong, tác giả
thấy rằng, SOFA trung bình của nhóm sống là 9,39 ± 2,49 thấp hơn nhóm tử
vong là 10,88 ± 2,20 với p < 0,01. Theo dõi sau 48 giờ nhập viện, SOFA trung
bình của nhóm sống giảm xuống còn 8,61 ± 2,34 trong khi SOFA của nhóm tử
vong tăng lên 12,74 ± 3,24, khác biệt có ý ngĩa thống kê với p < 0,001 [122].
Ngày nằm điều trị tại Trung tâm Chống độc của nhóm sống cao hơn nhóm tử
vong mặc dù sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Có thể do nghiên cứu của
chúng tôi có tới 8 bệnh nhân chỉ lọc 1 lần trong đó 4 bệnh nhân tử vong, 6 bệnh
nhân lọc 2 lần trong đó cũng có 4 bệnh nhân tử vong. Điều này làm ngắn thời
113
gian điều trị chung của cả nhóm chứ không phản ánh một cách đầy đủ mức độ
nặng của bệnh. Báo cáo của Cheng cũng cho thấy thời gian nằm viện của nhóm
sống do suy gan cấp trên nền bệnh gan mạn tính là 44 ngày, của nhóm suy gan
cấp không có bệnh gan mạn là 45 ngày trong khi đó con số này ở nhóm bệnh
nhân tử vong của 2 nhóm lần lượt là 30 ngày và 28 ngày, với p > 0,05 [119].
Khi tìm hiểu mối liên quan của một số yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng với
nguy cơ tử vong chúng tôi chia các yếu tố này thành 2 nhóm gồm các yếu tố
trước thay huyết tương và các yếu tố sau thay huyết tương thể tích cao. Trước
khi bắt đầu thay huyết tương thể tích cao, độ não gan, chỉ số NH3 và IL6 ít
tương quan với nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp. Điểm SOFA có mối
tương quan thuận, mức độ vừa với nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp.
Tuy nhiên, sau khi dừng thay huyết tương (kết thúc thay huyết tương thể tích
cao lần 3) độ não gan có mối tương quan thuận, mức độ rất chặt với nguy cơ tử
vong ở bệnh nhân suy gan cấp. SOFA, chỉ số NH3 và IL6 có mối tương quan
thuận, mức độ chặt với nguy cơ tử vong do suy gan cấp. Chỉ số NH3 có mối
tương quan thuận, mức độ vừa với nguy cơ tử vong do suy gan cấp (Bảng 3.26)
. Như vậy thay huyết tương thể tích cao góp phần thay đổi tiên lượng của nhóm
bệnh nhân suy gan cấp.
Điểm SOFA có mối tương quan thuận, mức độ vừa với nguy cơ tử vong
ở bệnh nhân suy gan cấp nhưng SOFA lúc dừng thay huyết tương có mối tương
quan thuận, mức độ chặt với nguy cơ tử vong do suy gan cấp. Khi khảo sát mối
liên quan giữa một số yếu tố liên quan đến tử vong chúng tôi nhận thấy, SOFA
trước HPEX > 8 điểm làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp lên
11,23 lần so với nhóm suy gan cấp có SOFA ≤ 8 điểm. Saluja và cộng sự (2019)
cũng thấy rằng SOFA lúc nhập viện có giá trị tiên lượng tử vong ở bệnh nhân
suy gan cấp với điểm cắt là 10 điểm, diện tích dưới đường cong AUC là 0,687
(95%CI = 0,583 – 0,791) [123]. Lê Quang Thuận cũng thấy rằng SOFA có giá
114
trị tiên lượng tử vong ở người bệnh suy gan cấp với diện tích dưới đường cong
là 0,967, điểm uốn là 13,5 điểm, độ nhạy là 90,7% và độ đặc hiệu là 100% [99].
Độ não gan trước HPEX ít tương quan với nguy cơ tử vong ở bệnh nhân
suy gan cấp nhưng độ não gan lúc kết thúc thay huyết tương thể tích cao có mối
tương quan thuận, mức độ chặt với nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp.
Độ não gan trước HPEX ≥3 làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp
lên 2,7 lần so với suy gan cấp có độ não gan ≤ 3, tuy nhiên khác biệt lại không
có ý nghĩa thông kê. Khá đồng nhất với mức độ bệnh não gan là chỉ số NH3
trong máu. Trước khi thay huyết tương thể tích cao nồng độ NH3 ít tương quan
với nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp nhưng sau thay huyết tương thể
tích cao NH3 có mối tương quan thuận, mức độ vừa với nguy cơ tử vong do suy
gan cấp. NH3 >70 U/l làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp lên
2,12 lần suy gan cấp có NH3 ≤ 70 U/l. Khi khảo sát các mức độ NH3 với nguy
cơ tử vong chúng tôi thấy với điểm cắt 70 U/l, NH3 tăng cũng làm tăng nguy
cơ tử vong lên 2,12 lần (95% CI dao động trong khoảng khá rộng 0,6 -7,3 cho
thấy giá trị của NH3 cũng chưa đủ mạnh giống như độ não gan). Chỉ số NH3
tăng cao và bệnh não gan giai đoạn 3 trong suy gan cấp tương ứng với tình
trạng rối loạn không gian thời gian nặng. Với việc độ não gan lớn hơn 3 tăng
nguy cơ tử vong cho bệnh nhân suy gan cấp do ngộ độc sẽ cung cấp thêm bằng
chứng khoa học giúp các bác sĩ lâm sàng cân nhắc lựa chọn can thiệp sớm hoặc
không can thiệp khi nguy cơ tử vong quá cao. Tuy nhiên cũng phải nhận thấy
rằng mặc dù được thay huyết tương thể tích cao 3 lần nhưng sau khi kết thúc
thay huyết tương lần 3 (kết thúc phác đô HPEX) mà độ não gan không cải thiện
thì tiên lượng bệnh nhân cũng khó khăn, nguy cơ tử vong cao, việc tiếp tục thay
huyết tương thể tích cao sẽ không đem lại hiệu quả nhiều cho tiên lượng sống
còn mà còn làm tăng chi phí điều trị, ảnh hưởng đến nguồn huyết tương dùng
cho thay huyết tương do đó mà gián tiếp ảnh hưởng đến cơ hội sống còn của
bệnh nhân khác. Lê Quang Thuận thấy rằng NH3 có giá trị tiên lượng bệnh nhân
115
suy gan cấp với diện tích dưới đường cong AUC là 0,933, điểm uốn là 134,5
U/l cho độ nhạy là 88,9% và độ đặc hiệu là 100% [99]. Tăng NH3 liên quan
chặt chẽ với tình trạng phù não và tụt kẹt não [124], [125]. Giá trị NH3 trong
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn trong nghiên cứu của Lê Quang Thuận vì
đối tượng chúng tôi chọn đa phần là ngộ độc cấp mà không có các bệnh lý gan
mật từ trước. Nó cũng tương đồng với chỉ số NH3 khá thấp nhưng bệnh nhân
vẫn có độ não gan mức độ 2 trở lên.
IL6 trước thay huyết tương thể tích cao ít tương quan với nguy cơ tử vong
ở bệnh nhân suy gan cấp vì IL6 tăng chung ở các bệnh nhân có bệnh gan. Tuy
nhiên IL6 lúc dừng thay huyết tương có mối tương quan thuận, mức độ vừa với
nguy cơ tử vong do suy gan cấp. IL6 > 38 pg/ml làm tăng nguy cơ tử vong ở
bệnh nhân suy gan cấp lên 2,24 lần so với nhóm suy gan cấp có IL6 ≤ 38 pg/ml.
Như vậy, thay huyết tương làm giảm nồng độ IL6 so với trước thay nhưng sau
khi kết thúc thay mà nồng độ IL6 > 38 pg/ml là một yếu tố nguy cơ tử vong của
bệnh nhân suy gan cấp, cần được bác sĩ điều trị cân nhắc kết hợp với các yếu
tố lâm sàng khác để chỉ định dừng HPEX khi cần thiết. Lei Li và cộng sự (2021)
cũng chứng minh được vai trò tiên lượng bệnh nhân suy gan cấp của IL6. IL6
có mối tương quan thuận mức độ chặt chẽ với mức độ nặng và nguy cơ tử vong
của suy gan cấp với r bằng 0,999 [115]. Wang cũng báo cáo thấy IL6 tăng cao
ở bệnh nhân suy gan cấp tử vong, phân tích hồi qui đơn biến thấy IL-6 tăng làm
tăng nguy cơ tử vong thêm 1,48 lần (95%CI=1,196-1,833), với diện tích dưới
đường cong AUC là 0.838,(95%CI = 0,687-0,989) [122].
Lactat > 3 mmol/l làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp lên
5,33 lần so với nhóm bệnh nhân suy gan cấp có Lactat ≤ 3 mmol/l. Suy gan cấp
nói chung làm tăng chỉ số lactat máu. Tuy nhiên trong ngộ độc cấp nếu Lactat
máu trên 3 mmol/l là yếu tố tiên lượng xấu làm tăng nguy cơ thất bại. Karvellas
phân tích hồi qui đơn biến dự đoán tiên lượng tử vong ở ngày thứ 21 của bệnh
116
nhân suy gan cấp không do paracetamol thấy lactat làm tăng nguy cơ là 1,017
(95%CI 0,994 – 1,040) với p > 0,05 [126].
INR > 2 làm tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp lên 4,75 lần
so với nhóm suy gan cấp có INR ≤ 2. Lê Quang Thuận nhận thấy rằng INR có
giá trị tiên lượng khá tử vong do suy gan cấp với điểm uốn là 1,875 cho độ nhạy
là 69,8 và độ đặc hiệu là 100%.
4.2. Đánh giá hiệu quả hỗ trợ điều trị suy gan cấp và một số tác dụng
không mong muốn của phương pháp thay huyết tương thể tích cao
4.2.1. Đánh giá hiệu quả hỗ trợ điều trị suy gan cấp của phương
pháp thay huyết tương thể tích cao
Trong nghiên cứu 45 bệnh nhân được thay huyết tương trong đó có 6
bệnh nhân lọc 2 lần và 8 bệnh nhân lọc 1 lần, những bệnh nhân này có thể cải
thiện nhanh ngay sau những lần đầu vì được giải quyết nguyên nhân ngộ độc
cấp kết hợp thay huyết tương thế tích cao. Sau lần thay huyết tương đầu tiên,
có 4 bệnh nhân tử vong, 4 bệnh nhân ổn định không còn chỉ định thay huyết
tương. Sau lần thay huyết tương thứ 2, có 4 bệnh nhân tử vong, 2 bệnh nhân
ổn định, không còn chỉ định thay huyết tương thể tích cao nữa. Sau lần thay
huyết tương thứ 3, 18 bệnh nhân ổn định, không còn chỉ định thay huyết tương,
13 bệnh nhân còn lại không cải thiện suy gan cấp. Số bệnh nhân này tử vong
tại bệnh viện/xin về để chết trong vòng 28 ngày sau khi kết thúc thay huyết
tương lần 3.
Với việc thống nhất sử dụng tỷ lệ huyết tương thay thế là 15% trọng
lượng cân nặng lý tương ở cả ba lần thay huyết tương thể tích cao thì lượng
huyết tương trung bình là 8277 ± 1172 ml, thấp nhất là 6000ml, cao nhất là
10500ml. Mặc dù số bệnh nhân có giảm dần qua các lần thay huyết tương (do
không còn chỉ định hoặc đã tử vong) nhưng lượng huyết tương trung bình của
3 lần là tương đương nhau.
117
Có nhiều căn cứ để đánh giá mức độ cải thiện chức năng gan trong đó
các chỉ số lâm sàng (não gan, SOFA) và cận lâm sàng (men gan, bilirubin, đông
máu, tiểu cầu) luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Kết quả so sánh độ não gan, điểm SOFA trước và sau thay huyết tương
thể tích cao lần 1,2,3 được trình bày ở các bảng 3.30, 3.31, 3.32. Chúng tôi nhận
thấy độ não gan sau thay huyết tương thể tích cao đều giảm so với trước thay
huyết tương thể tích cao của lần tương ứng, khác biệt có ý nghĩa thông kê. Điểm
SOFA sau thay huyết tương thể tích cao đều giảm so với trước thay huyết
tương, tuy nhiên chỉ có lần thay huyết tương đầu tiên, điểm SOFA giảm có ý
nghĩa thống kê. Larsen (2016) nghiên cứu trên 182 bệnh nhân suy gan cấp (92
bệnh nhân được thay huyết tương thể tích cao và 90 bệnh nhân được điều trị
chuẩn) thấy điểm SOFA giảm dần trong 7 ngày điều trị có ý nghĩa thống kê ở
nhóm bệnh nhân suy gan cấp có điều trị chuẩn và phối hợp thay huyết tương
thể tích cao [16]. Pawaria và cộng sự (2021) thấy rằng sau thay huyết tương
lần đầu tiên SOFA giảm 1,26 điểm ở nhóm suy gan cấp được thay huyết tương
thể tích cao, con số này ở nhóm chỉ được điều trị chuẩn thông thường là 0,388
điểm, khác biệt này có ý nghĩa thống kê [113]. Lê Quang Thuận (2016) sử
dụng thang điểm Glasgow để đáng giá mức độ rối loạn ý thức của bệnh nhân
suy gan cấp do nhiễm độc. Tác giả thấy rằng điểm Glasgow cải thiện rõ rệt sau
mỗi lần thay huyết tương, ở nhóm được thay huyết tương tích cực, điểm
Glasgow tăng từ 13,6±0,22 lên 13,9±0,19 (điểm), với mức thay đổi 0,3±0,67
(điểm/1 lần thay thay huyết tương). Một số nghiên cứu trên thế giới cho rằng
mặc dù làm giảm nồng độ NH3 trong máu, nhưng thay huyết tương chỉ giúp
cải thiện nhẹ tình trạng lâm sàng ở bệnh nhân hôn mê gan. Nghiên cứu của
Singer và cs cho thấy mỗi lần thay huyết tương giảm được 20 μmol/L NH3,
đồng thời ý thức của bệnh nhân cải thiện rõ rệt sau lần thay huyết tương đầu
tiên. Tuy nhiên ở những lần sau mức độ cải thiện kém hơn, và cho rằng nguyên
nhân là do tồn tại các chất độc khác ảnh hưởng lên thần kinh không thể đào thải
được bằng thay huyết tương [127]. Nghiên cứu của chúng tôi cũng nhận thấy,
118
dù giảm sau thay huyết tương nhưng điểm SOFA và mức độ não gan đều có xu
hướng tăng nhẹ trở lại (SOFA, não gan trước thay lần 2 cao hơn sau thay lần 1,
trước thay lần 3 cao hơn sau thay lần 2). Sự cải thiện thể hiện rõ ở nhóm sống
và diễn biến xấu hơn thể hiện rõ ở nhóm chết (Biểu đồ 3.3, 3.4). Điều này cho
thấy suy gan vẫn tiếp tục tiếp diễn trong những ngày đầu được chẩn đoán suy
gan cấp và thay huyết tương đã loại bỏ được nhiều độc chất ảnh hưởng lên thần
kinh trung ương, chức năng các tạng nên SOFA và não gan cải thiện nhưng khi
dừng thay để chờ lần thay tiếp theo vào ngày kế tiếp đã có sự tăng trở lại của
các yếu tố gây tổn thương thần kinh trung ương và chức năng các tạng.
Khi so sánh hiệu quả cải thiện chức năng gan ở bệnh nhân suy gan cấp
trước và sau khi thay huyết tương thể tích cao chúng tôi thấy rằng, ở cả 3 lần
thay huyết tương, các chỉ số chức năng gan AST, ALT, bilirubin toàn phần,
bilirubin trực tiếp đều giảm. NH3 giảm ở cả 3 lần thay huyết tương nhưng chỉ
có lần lọc thứ 1, NH3 giảm có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu Lê Quang
Thuận (2016) cho thấy sau một lần thay huyết tương men gan giảm rõ rệt với
46,6% giảm AST (AST giảm từ 1142,2 ± 164,79 xuống 612,3 ± 75,75 UI/L)
và 47,7% giảm ALT (ALT từ 677,8 ± 69,49 xuống 354,7 ± 34,04 UI/L) [99].
Nghiên cứu của Ngô Đức Ngọc (2011) cho thấy AST giảm từ 680,4 ± 1069,6
xuống 229,8 ± 282,8 UI/L, ALT giảm từ 704,7 ± 1157,0 UI/L xuống 239,9 ±
324,8 [3]. Đặng Thị Xuân (2011) thấy AST giảm từ 1141,79 ± 2148,11 xuống
621,70 ± 1533,97 UI/L, ALT giảm từ 914,08 ± 1258,78 xuống 429,05 ± 731,03 UI/L [114]. Larsen (2016) khi so sánh hiệu quả cải thiện các chỉ số chức năng
gan ở 92 bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể tích cao so với nhóm
điều trị chuẩn thấy rằng, nhóm thay huyết tương thể tích cao giảm các chỉ số
AST, ALT, bilirubin, NH3 hơn nhóm được điều trị chuẩn có nghĩa thống kê
[16]. Ji Eun Kim (2021) nghiên cứu 16 bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết
tương thể tích cao thấy rằng, sau khi được thay huyết tương thể tích cao, các chỉ số chức năng gan cải thiện, bilirubin toàn phần giảm từ 22,6 mg/dl [9,1-
26,4] trước khi thay huyết tương giảm còn 8,9 mg/dl [5,6-11,3], với p < 0,05;
119
ALT giảm từ 506 U/l [341-1963] xuống 120 U/l [88-315], với p < 0,05; NH3
giảm từ 130,6 µmol/L [123,7-143,8] xuống 98,2 µmol/L [84,2-116,5] với p <
0,05 [110]. Phạm Duệ (2012) báo cáo sự thay đổi nồng độ bilirubin toàn phần
và NH3 sau thay huyết tương thấy rằng cả bilirubin và NH3 đều cải thiện sau
lọc, có 55,8 % bệnh nhân đạt mục tiêu bilirubin dưới 250 µmol/l sau lần thay
huyết tương đầu tiên. Như vậy sau lọc tất cả các chỉ số AST, ALT, bilirubin
toàn phần, trực tiếp và NH3 đều giảm mạnh [4]. Trong hầu hết các nghiên cứu
về suy gan cấp, các tác giả coi bilirubin là chất đại diện cho các chất độc gắn
với albumin và NH3 đại diện cho các chất độc hòa tan trong nước, có thể dựa
vào 2 chỉ số cận lâm sàng này để đánh giá hiệu quả điều trị và tiên lượng bệnh
nhân suy gan cấp [128].
Khi phân tích tỷ lệ bệnh nhân cải thiện các chỉ số sinh hóa máu chúng tôi
thấy rằng hầu hết các bệnh nhân có giảm các chỉ số AST, ALT, bilirubin, IL6
sau khi được thay huyết tương thể tích cao trong khi tỷ lệ bệnh nhân giảm NH3
thấp hơn (dao động từ 73-77,4%) (Bảng 3.37). Điều này cho thấy ở các bệnh
nhân ngộ độc cấp, chỉ số NH3 trong những ngày đầu thấp nhưng xu hướng lại
tăng dần theo thời gian. Điều này cũng phù hợp với diễn tiến mức độ não gan
của bệnh nhân.
Khi khảo sát sự thay đổi chức năng đông cầm máu trước và sau khi được
thay huyết tương thể tích cao chúng tôi thấy rằng các chỉ số INR đều giảm trong
khi fibrinogen và prothrombin đều tăng có ý nghĩa thống kê, với p < 0,001.
Tiểu cầu sau thay huyết tương thể tích cao có xu hướng giảm hơn so với trước
thay huyết tương thể tích cao nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Lê Quang Thuận (2016) thấy tỷ lệ prothrombin tăng từ 37,8 ± 22,10 lên 61,2 ±
15,10 (%), INR giảm từ 2,6 ± 1,60 xuống 1,4 ± 0,27. Đồng thời, APTTs giảm
từ 65,7 ± 34,31 xuống 41,4 ± 21,84 giây có nghĩa thống kê nhưng fibrinogen
không thay đổi (1,9 ± 0,93 trước và 1,9 ± 0,83 (g/L) sau thay huyết tương, p >
0,05) [99]. Kết quả này tương đồng với kết quả của Ngô Đức Ngọc (2011) với
prothrombin tăng từ 27,8 ± 14,9 lên 45,7 ± 13,5 % sau thay huyết tương [3].
120
Nghiên cứu của Phạm Duệ (2012) thấy prothombin tăng từ 31,0 ± 24,4 lên 50,8
± 20,3 %; INR giảm từ 3,1 ± 1,9 xuống 1,5 ± 0,5; APTTs giảm từ 51,8 ± 31,2
xuống 40,2 ± 16,2 giây [4]. Larsen (2016) khi so sánh hiệu quả cải thiện các
chỉ số chức năng gan ở 92 bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể
tích cao so với nhóm điều trị chuẩn thấy rằng, nhóm thay huyết tương thể tích
cao cải thiện các chỉ số đông máu có ý nghĩa thống kê [16]. Ji Eun Kim (2021)
nghiên cứu 16 bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể tích cao thấy
rằng, sau khi được thay huyết tương thể tích cao các chỉ số chức năng đông
máu cũng đã được cải thiện INR giảm từ 4,46 [2,32-6,02] xuống còn1,48 [1,33-
1,76], p <0,05 [110].
Khi đánh giá hiệu quả cải thiện được các chỉ số đông cầm máu, chúng
tôi thấy rằng hầu hết các bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể tích
cao tăng tỉ lệ prothrombin, Fibrinogen và giảm INR. Riêng đối với chỉ số tiểu
cầu thì hầu hết lại giảm sau thay huyết tương. Điều này được giải thích do việc
thay huyết tương phải sử dụng hệ thống màng lọc để trao đổi huyết tương của
bệnh nhân với huyết tương người khỏe mạnh đưa vào, quá trình này làm tiểu
cầu bám dính trên bề mặt màng lọc làm giảm tiểu cầu trong máu. Mặt khác
chức năng năng gan chưa thể hồi phục ngay nên ảnh hưởng đến chức năng tiểu
cầu, làm số lượng tiểu cầu vì đó mà cũng giảm đi. Guerrero (2022) báo cáo
kinh nghiệm trên 102 bệnh nhân được thay huyết tương với tổng số 655 lượt
thay huyết tương thấy rằng 41% bệnh nhân có giảm tiểu cầu sau thay huyết
tương [129].
4.2.2. Một số tác dụng không mong muốn của phương pháp thay
huyết tương thể tích cao
Các biến chứng của điều trị thay huyết tương có thể gặp là những biến
chứng liên quan đến đặt catheter lọc máu và các biến chứng liên quan đến quá
trình thay huyết tương (Bảng 3.42). Nhóm biến chứng liên quan đến catheter
lọc máu có thể gặp là chảy máu vị trí catheter do kỹ thuật đặt catheter và do
tình trạng rối loạn đông máu ở bệnh nhân suy gan cấp hoặc biến chứng nhiễm
121
khuẩn huyết liên quan đến catheter. Nhóm biến chứng này chúng tôi gặp 2
trường hợp bệnh nhân chảy máu vị trí đặt catheter lọc máu, biến chứng này gặp
ngay lần lọc máu đầu tiên và 1 lần gặp ở cuộc lọc thứ 3. Cả 2 trường hợp đều
gặp ở bệnh nhân tử vong. Nguyên nhân tử vong không phải vì sốc mất máu do
chảy máu nặng mà là do tình trạng suy gan cấp nặng không đáp ứng với điều
trị. Biến chứng này có thể do khắc phục được nếu tối ưu kỹ thuật đặt catheter
lọc máu, đặc biệt khi hiện nay chúng ta đặt catheter dưới hướng dẫn của siêu
âm nên hạn chế được nhóm biến chứng này.
Với biến chứng nhiễm khuẩn huyết liên quan đến catheter trong nghiên
cứu của chúng tôi không gặp trường hợp nào. Điều này có thể do thời gian thay
huyết tương của bệnh nhân thường ngắn (thiết kế nghiên cứu chỉ áp dụng thay
huyết tương thể tích cao trong 3 ngày liên tiếp, nếu đáp ứng thì dừng kỹ thuật
sau 3 lần, nếu không đáp ứng thì tiên lượng cải thiện suy gan cấp rất thấp số ít
bệnh nhân được chuyển ghép gan cấp cứu, số còn lại chủ yếu là nhóm tử vong).
Tỷ lệ nhiễm khuẩn tăng lên theo số ngày lưu catheter nên việc chỉ áp dụng thay
huyết tương trong thời gian ngắn cũng hạn chế tình trạng nhiễm khuẩn catheter
ở nhóm bệnh nhân này.
Với nhóm biến chứng liên quan đến việc thay huyết tương, nghiên cứu
của chúng tôi thấy rằng hạ canxi máu là biến chứng thường gặp nhất, tiếp theo
là phản vệ được ghi nhận 16 bệnh nhân trong cả 3 lần thay huyết tương thể tích
cao (Bảng 3.42). Hạ canxi máu là biến chứng thường gặp nhất ở các bệnh nhân
được thay huyết tương do citrate có trong huyết tương tươi đông lạnh. Việc
phải dùng lượng lớn huyết tương để thay huyết tương làm tăng nguy cơ hạ
canxi máu ở các bệnh nhân được thay huyết tương nói chung và suy gan cấp
được thay huyết tương nói riêng. Mặc dù trong các lần thay huyết tương, các
bệnh nhân đã được bù canxi chủ động tuy nhiên sau khi thay huyết tương, xét
nghiệm lượng canxi toàn phần và canxi ion hóa của bệnh nhân vẫn giảm dưới
ngưỡng của phòng xét nghiệm, tuy nhiên về lâm sàng không có trường hợp nào
có biểu hiện điển hình của hạ canxi máu. Guerrero (2022) báo cáo kinh nghiệm
122
trên 102 bệnh nhân được thay huyết tương với tổng số 655 lượt thay huyết
tương thấy rằng 18% bệnh nhân gặp triệu chứng hạ canxi máu [129]. Coirier
nghiên cứu hồi cứu 1895 lượt thay huyết tương của 185 bệnh nhân được thay
huyết tương bằng huyết tương tươi đông lạnh, albumin và albumin kết hợp
huyết tương tươi đông lạnh thấy rằng 171 bệnh nhân tương ứng với 805 lượt
thay huyết tương (khoảng 42% lần thay huyết tương có xuất hiện 1 loại tác
dụng không mong muốn) trong đó hạ canxi máu gặp ở 19,6% số cuộc lọc trong
đó thay huyết tương sử dụng huyết tương tươi đông lạnh gặp 28%, huyết tương
tươi đông lạnh + albumin gặp 26%, albumin đơn thuần gặp 11,7% các trường
hợp có hạ canxi máu [130]. Halpin báo cáo 19 bệnh nhân được thay huyết tương
sử dụng huyết tương tươi đông lạnh thấy 19% các cuộc thay huyết tương gặp
hạ canxi máu trong đó 1 trường hợp hạ canxi máu có biểu hiện lâm sàng, các
trường hợp còn lại được phát hiện khi xét nghiệm canxi máu sau khi thay huyết
tương thấy giảm hơn chỉ số bình thường của quần thể cư dân [131]. Tỷ lệ gặp
hạ canxi máu trong nghiên cứu của chúng tôi gặp nhiều hơn các nghiên cứu
khác trên thế giới là do nghiên cứu của chúng tôi sử dụng thay huyết tương thể
tích cao sử dụng huyết tương tươi đông lạnh (15% trọng lượng cơ thể lý tưởng)
trong khi các báo cáo biến chứng hạ canxi máu của các tác giả khác được ghi
nhận ở các trường hợp bệnh nhân thay huyết tương thể tích thông thường (5%
trọng lượng cơ thể lý tưởng) và dịch thay thế là huyết tương tươi đông lạnh có
thể kết hợp thay bằng dung dịch albumin nên tỷ lệ xảy ra các biến chứng chung
và biến chứng hạ canxi máu cũng vì thế mà giảm hơn.
Phản vệ là biến chứng thường gặp thứ 2 và ảnh hưởng nhiều đến cuộc
lọc. Trong báo cáo của chúng tôi, 16 bệnh nhân găp biến chứng phản vệ (13 lần
ở cuộc lọc đầu tiên, 2 lần ở lượt lọc thứ 2 và 1 lần ở lượt lọc thứ 3, không gặp
trường hợp nào xảy ra 2 lần phản vệ liên tiếp), tất cả các biến chứng phản vệ
đều ở mức độ 1 với biểu hiện chủ yếu là ban dị ứng ở da. Các bệnh nhân hầu
hết gặp ngay lại lần lọc đầu tiên. Các trường hợp phản vệ khi thay huyết tương
có thể phản vệ với riêng từng túi huyết tương do đây là tập hợp của huyết tương
123
của nhiều người, hoặc phản vệ với từng lô huyết tương do chất bảo quản, chính
vì điều này thương những bệnh nhân này sau phản vệ lần đầu vẫn có thể không
phản vệ với những lần sau. Tình trạng phản vệ khi thay huyết tương là không
thể dự phòng được chính vì thế điều duy nhất có thể làm để khắc phục trong
các trường hợp này là phát hiện sớm bệnh nhân có dấu hiệu phản vệ và xử lý
kịp thời cho bệnh nhân, đánh giá mức độ để đưa ra quyết định tiếp tục thay hay
kết thúc quá trình thay huyết tương lần đó. Việc dự phòng bằng
methyprednisolon cũng cho thấy giảm mức độ ban dị ứng của các bệnh nhân
được thay huyết tương. Coirier báo cáo tác dụng không mong muốn khi thay
huyết tương thấy phản ứng dị ứng gặp ở 3% số cuộc lọc và chỉ gặp ở các bệnh
nhân thay huyết tương sử dụng huyết tương tươi đông lạnh [130].
Vì tình trạng rối loạn đông máu nặng ở các bệnh nhân suy gan cấp nên
quá trình thay huyết tương ở bệnh nhân nghiên cứu sẽ không dùng heparin
chống đông kèm theo đó thay huyết tương với thể tích cao nên nguy cơ tắc quả
lọc sẽ xảy ra. Biến chứng tắc quả lọc xảy ra ở cả 3 cuộc lọc. Tắc quả lọc có thể
thay thế quả lọc để tiếp tục lọc cho đủ số huyết tương nên hiệu quả lọc sẽ hầu
như không thay đổi vì vậy không khác biệt ở nhóm sống và nhóm tử vong. Để
khắc phục được biến chứng này cần theo dõi sát quá trình lọc máu để thay đổi
các thông số máy lọc, xử trí tối ưu đường hút máu ở catheter, rửa quả lọc nếu
cần thiết. Báo cáo của Phạm Duệ (2012) trên 134 cuộc lọc cho 40 bệnh nhân
thấy rằng 87,2% các cuộc lọc là thành công, có 12,8% các cuộc lọc xảy ra sự
cố. Các biến chứng thường gặp là dị ứng (19,4%), chảy máu chân catheter
(7,5%), nhiễm trùng chân catheter (5,2%) [4].
Khi so sánh việc xuất hiện các tác dụng không mong muốn theo nhóm
sống/chết ở các bệnh nhân được thay huyết tương thể tích cao chúng tôi thấy
rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tần xuất xuất hiện các tác
dụng không mong muốn ở bệnh nhân suy gan cấp được thay huyết tương thể
tích cao. Do các bệnh nhân đều được áp dụng các qui trình thay huyết tương
giống nhau nên việc kết cục cuối cùng thường ít phụ thuộc vào việc xuất hiện
124
các biến chứng do kỹ thuật thay huyết tương mà chủ yếu liên quan đến tình
trạng bệnh nhân, mức độ suy gan, mức độ suy chức năng các tạng.
125
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 45 bệnh nhân suy gan cấp được hỗ trợ điều trị bằng
phương pháp thay huyết tương thể tích cao tại Trung tâm Chống độc Bệnh viện
Bạch Mai từ tháng 06/ 2017 đến tháng 04/2021 chúng tôi đưa ra một số kết luận
sau:
5.1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trước thay huyết tương
thể tích cao ở bệnh nhân suy gan cấp và một số yếu tố liên quan đến tỷ lệ tử vong
- Nguyên nhân gây suy gan cấp chủ yếu là ngộ độc cấp chiếm 82,22%,
trong đó chủ yếu là ngộ độc thuốc đông y.
- Vàng da là triệu chứng lâm sàng có ở hầu hết các bệnh nhân nghiên cứu
(93.3%).
- Tỷ lệ tử vong/xin về chiếm 46,67%.
- Độ não gan, SOFA, NH3 và IL6 có mối tương quan thuận, mức độ chặt
với nguy cơ tử vong của bệnh nhân suy gan cấp.
- Một số yếu tố có vai trò tiên lượng tử vong chung ở bệnh nhân suy gan
cấp gồm SOFA > 8 điểm, thở máy, NH3 >70 U/l, lactat > 3 mmol/l, INR > 2 và
IL6 > 38 pg/ml
5.2. Đánh giá hiệu quả hỗ trợ điều trị suy gan cấp và một số tác dụng
không mong muốn của phương pháp thay huyết tương thể tích cao
- Ở cả 3 lần thay huyết tương, độ não gan sau PEX giảm có ý nghĩa thống
kê so với trước PEX.
- SOFA sau PEX giảm ở cả 3 lần thay huyết tương nhưng chỉ có lần 1,
mức giảm SOFA có ý nghĩa thống kê.
- Ở cả 3 lần thay huyết tương, các chỉ số AST, ALT, bilirubin toàn phần,
bilirubin trực tiếp, INR đều giảm, Fibrinogen và prothrombin đều tăng có ý
nghĩa thống kê, với p < 0,001.
- NH3 giảm ở cả 3 lần thay huyết tương nhưng chỉ có lần lọc thứ 1, NH3
giảm có ý nghĩa thống kê.
126
- Tiểu cầu sau thay huyết tương có xu hướng giảm hơn so với trước PEX
nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
- Hạ canxi máu là biến chứng thường gặp nhất khi thay huyết tương thể
tích cao.
- Phản vệ gặp ở 16 lần thay huyết tương thể tích cao trong đó hay gặp ở
lần 1 với 28,89%, lần 2 với 5,41% và lần 3 với 3,23%.
127
HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài này được tiến hành trong thời gian diễn ra dịch bệnh COVID -19,
số lượng bệnh nhân chưa đủ lớn, bản thân tác giả phải tăng cường chống dịch
tại Thành phố Hồ Chí Minh nên ít nhiều ảnh hưởng đến việc thu thập số liệu.
Chưa có nhóm chứng bệnh để làm rõ hiệu quả của thay huyết tương thể
tích cao với thay huyết tương thể tích thông thường, thay huyết tương thể tích
thấp cũng như thay huyết tương kết hợp với lọc máu liên tục.
128
KIẾN NGHỊ
Qua kết quả rút ra từ nghiên cứu này, chúng tôi xin kiến nghị như sau:
- Nên thực hiện phương pháp thay huyết tương thể tích cao cho các bệnh
nhân suy gan cấp đặc biệt là các bệnh nhân suy gan cấp do ngộ độc nhằm hỗ
trợ điều trị chờ gan hồi phục tự nhiên hoặc kéo dài thời gian chờ đợi được ghép
gan.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1 Nguyễn Đăng Đức, Bế Hồng Thu, Lê Lan Phương, (2022) “Nghiên cứu
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và nguyên nhân gây bệnh ở bệnh nhân
suy gan cấp được điều trị hỗ trợ thay huyết tương thể tích cao”, Tạp chí
Y Dược lâm sàng 108 , tập 17, số 7 (2022), 44-50.
2 Nguyễn Đăng Đức, Bế Hồng Thu, Lê Lan Phương, (2022) “Đánh giá
kết quả điều trị hỗ trợ suy gan cấp bằng phương pháp thay huyết tương
thể tích cao”, Tạp chí Y Dược lâm sàng 108, tập 17, số 7 (2022); 31-36.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Jayalakshmi V.T. and Bernal W. (2020). Update on the management of acute liver failure. Curr Opin Crit Care, 26(2), 163–170. Rajaram P. and Subramanian R. (2018). Acute Liver Failure. Semin Respir Crit Care Med, 39(5), 513–522. Ngô Đức Ngọc, Nguyễn Thị Dụ, Phạm Duệ (2011). Nghiên cứu hiệu quả của biện pháp thay huyết tương trong điều trị bệnh nhân suy gan cấp do ngộ độc nặng. Tạp chí Thông tin Y Dược, 3(2011), 23–27. Phạm Duệ. (2012), Nghiên cứu ứng dụng các kỹ thuật lọc máu ngoài cơ thể trong điều trị bệnh nhân ngộ độc cấp nặng, Đề tài KHCN cấp Bộ y tế Stravitz R.T., Kramer A.H., Davern T et al. (2007). Intensive care of patients with acute liver failure: recommendations of the U.S. Acute Liver Failure Study Group. Crit Care Med, 35(11), 2498–2508. European Association for the Study of the Liver. Electronic address: easloffice@easloffice.eu, Clinical practice guidelines panel, Wendon et al. (2017). EASL Clinical Practical Guidelines on the management of acute (fulminant) liver failure. J Hepatol, 66(5), 1047–1081. Roberts D.M., Hall M.J., Falkland M.M. et al. (2013). Amanita phalloides poisoning and treatment with silibinin in the Australian Capital Territory and New South Wales. Med J Aust, 198(1), 43–47. Tujios S. and Fontana R.J. (2011). Mechanisms of drug-induced liver injury: from bedside to bench. Nat Rev Gastroenterol Hepatol, 8(4), 202–211. Sgro C., Clinard F., Ouazir K. et al. (2002). Incidence of drug-induced hepatic injuries: a French population-based study. Hepatology, 36(2), 451–455.
10. Schwartz J., Padmanabhan A., Aqui N. et al. (2016). Guidelines on the Use of Therapeutic Apheresis in Clinical Practice-Evidence-Based Approach from the Writing Committee of the American Society for Apheresis: The Seventh Special Issue. J Clin Apher, 31(3), 149–162.
11. Goto H., Matsuo H., Nakane S. et al. (2001). Plasmapheresis affects T type-2 balance of circulating peripheral type-1/T helper
helper lymphocytes. Ther Apher, 5(6), 494–496.
12. Nakae H., Yonekawa C., Wada H. et al. (2001). Effectiveness of combining plasma exchange and continuous hemodiafiltration (combined modality therapy in a parallel circuit) in the treatment of patients with acute hepatic failure. Ther Apher, 5(6), 471–475.
13. Ahmed S. and Kaplan A. (2020). Therapeutic Plasma Exchange Using Membrane Plasma Separation. Clin J Am Soc Nephrol, 15(9), 1364– 1370.
14. Chris-Olaiya A., Kapoor A., Ricci K.S. et al. (2021). Therapeutic plasma
exchange in liver failure. World J Hepatol, 13(8), 904–915.
15. Ye W., Li L., Yu H. et al. (2005). [Clinical research of plasma exchange with continuous veno-venous hemofiltration in treating mid- and late- stage chronic severe viral hepatitis B patients]. Zhonghua Gan Zang Bing Za Zhi, 13(5), 370–373.
16. Larsen F.S., Schmidt L.E., Bernsmeier C. et al. (2016). High-volume plasma exchange in patients with acute liver failure: An open randomised controlled trial. J Hepatol, 64(1), 69–78.
17. Brar H.S., Dadlani A., and Ng A.M. (2021). Successful High-Volume
Plasmapheresis in Acute Liver Failure. Cureus, 13(7), e16143.
18. Chen K.-J., Chen T.-H., Sue Y.-M. et al. (2014). High-volume plasma exchange in a patient with acute liver failure due to non-exertional heat stroke in a sauna. J Clin Apher, 29(5), 281–283.
19. Padmanabhan A., Connelly-Smith L., Aqui N. et al. (2019). Guidelines on the Use of Therapeutic Apheresis in Clinical Practice - Evidence- Based Approach from the Writing Committee of the American Society for Apheresis: The Eighth Special Issue. J Clin Apher, 34(3), 171–354. 20. Sugawara K., Nakayama N., and Mochida S. (2012). Acute liver failure in Japan: definition, classification, and prediction of the outcome. J Gastroenterol, 47(8), 849–861.
21. Trey C. and Davidson C.S. (1970). The management of fulminant
hepatic failure. Prog Liver Dis, 3, 282–298.
22. O’Grady J.G., Schalm S.W., and Williams R. (1993). Acute liver failure:
redefining the syndromes. Lancet, 342(8866), 273–275.
23. Bernuau J., Rueff B., and Benhamou J.P. (1986). Fulminant and subfulminant liver failure: definitions and causes. Semin Liver Dis, 6(2), 97–106.
24. Sugawara K., Nakayama N., and Mochida S. (2012). Acute liver failure in Japan: definition, classification, and prediction of the outcome. J Gastroenterol, 47(8), 849–861.
25. Bunchorntavakul C. and Reddy K.R. (2018). Acetaminophen (APAP or N-Acetyl-p-Aminophenol) and Acute Liver Failure. Clin Liver Dis, 22(2), 325–346.
26. Gao Q., Ma Y., Zhang J. et al. (2022). Risk factors assessment in patients with acute fatty liver of pregnancy treated without plasma exchange or renal replacement therapy. J Matern Fetal Neonatal Med, 35(11), 2036– 2040.
27. Toma D., Lazar O., and Bontas E. (2019). Acute Liver Failure. Liver
Diseases, 369–380.
28. Alqahtani S.A. (2012). Update in liver transplantation. Discov Med,
14(75), 133–141.
29. Sedhom D., D’Souza M., John E. et al. (2018). Viral Hepatitis and Acute
Liver Failure: Still a Problem. Clin Liver Dis, 22(2), 289–300.
30. Zu H. and Gao D. (2021). Non-viral Vectors in Gene Therapy: Recent
Development, Challenges, and Prospects. AAPS J, 23(4), 78.
31. Rosenblatt R. and Brown R.S. (2018). Nonviral or Drug-Induced Etiologies of Acute Liver Failure. Clin Liver Dis, 22(2), 347–360. 32. Pievsky D., Rustgi N., and Pyrsopoulos N.T. (2018). Classification and Epidemiologic Aspects of Acute Liver Failure. Clinics in liver disease, 22(2), 229–241.
33. Wu Z., Han M., Chen T. et al. (2010). Acute liver failure: mechanisms
of immune-mediated liver injury. Liver Int, 30(6), 782–794.
34. Fyfe B., Zaldana F., and Liu C. (2018). The Pathology of Acute Liver
Failure. Clinics in Liver Disease, 22(2), 257–268.
35. Neuman M.G., Cameron R.G., Haber J.A. et al. (1999). Inducers of cytochrome P450 2E1 enhance methotrexate-induced hepatocytoxicity. Clin Biochem, 32(7), 519–536.
36. Stravitz R.T., Lefkowitch J.H., Fontana R.J. et al. (2011). Autoimmune liver failure: proposed clinical and histological criteria.
acute Hepatology, 53(2), 517–526.
37. Czaja A.J. (2013). Review article: the management of autoimmune hepatitis beyond consensus guidelines. Aliment Pharmacol Ther, 38(4), 343–364.
38. P I., Jc D.-V., C G. et al. (2007). Usefulness of corticosteroids for the treatment of severe and fulminant forms of autoimmune hepatitis. Liver transplantation official publication of the American Association for the Study of Liver Diseases and the International Liver Transplantation Society, 13(7).
39. European Association for the Study of the Liver. Electronic address: easloffice@easloffice.eu, Clinical practice guidelines panel, Wendon et al. (2017). EASL Clinical Practical Guidelines on the management of acute (fulminant) liver failure. J Hepatol, 66(5), 1047–1081.
40. Nj S., Sf M., and A A. (2011). Anti-inflammatory mechanisms of sepsis.
Contributions to microbiology, 17.
41. Ferenci P. (2017). Hepatic encephalopathy. Gastroenterol Rep (Oxf),
5(2), 138–147.
42. Swaminathan M., Ellul M.A., and Cross T.J. (2018). Hepatic encephalopathy: current challenges and future prospects. Hepat Med, 10, 1–11.
43. Cullaro G., Kanduri S.R., and Velez J.C.Q. (2022). Acute Kidney Injury in Patients with Liver Disease. Clin J Am Soc Nephrol, CJN.03040322. 44. Allegretti A.S., Solà E., and Ginès P. (2020). Clinical Application of Kidney Biomarkers in Cirrhosis. Am J Kidney Dis, 76(5), 710–719. 45. Costello R.A. and Nehring S.M. (2022). Disseminated Intravascular
Coagulation. StatPearls. StatPearls Publishing, Treasure Island (FL).
46. Levi M. and Ten Cate H. (1999). Disseminated intravascular
coagulation. N Engl J Med, 341(8), 586–592.
47. Bernuau J. (2016). High volume plasma exchange in patients with acute
liver failure. J Hepatol, 65(3), 646–647.
48. Dharel N. and Bajaj J.S. (2015). Definition and Nomenclature of Hepatic
Encephalopathy. J Clin Exp Hepatol, 5(Suppl 1), S37–S41. (2014). Acute Liver Failure. N Engl J Med, 370(12), 1170–1171. 49. 50. Gökçe S., Çermik B.B., Kutlu N.O. et al. (2021). The role of plasma exchange in acute liver failure of autoimmune etiology. Turk J Pediatr, 63(2), 329–333.
51. Lee W.M., Stravitz R.T., and Larson A.M. (2012). Introduction to the revised American Association for the Study of Liver Diseases Position Paper on acute liver failure 2011. Hepatology, 55(3), 965–967.
52. Amini M. and Runyon B.A. (2010). Alcoholic hepatitis 2010: a clinician’s guide to diagnosis and therapy. World J Gastroenterol, 16(39), 4905–4912.
53. Azhie A., Sheth P., Hammad A. et al. (2021). Metabolic Complications in Liver Transplantation Recipients: How We Can Optimize Long-Term Survival. Liver Transpl, 27(10), 1468–1478.
54. Aqel B., Wijarnpreecha K., Pungpapong S. et al. (2021). Outcomes following liver transplantation from HCV-seropositive donors to HCV- seronegative recipients. J Hepatol, 74(4), 873–880.
55. Maloney P.R., Mallory G.W., Atkinson J.L.D. et al. (2016). Intracranial Pressure Monitoring in Acute Liver Failure: Institutional Case Series. Neurocrit Care, 25(1), 86–93.
56. Kim T.K., Lim Y.-J., Ju J.-W. et al. (2015). The effects of propofol and thiopental continuous infusion on serum potassium disturbances in neurosurgical patients. J Korean Neurosurg Soc, 57(3), 197–203.
57. Kokwaro G.O., Ogutu B.R., Muchohi S.N. et al.
(2003). Pharmacokinetics and clinical effect of phenobarbital in children with severe falciparum malaria and convulsions. Br J Clin Pharmacol, 56(4), 453–457.
58. Bilotta F., Branca G., Lam A. et al. (2008). Endotracheal lidocaine in in cerebral preventing endotracheal suctioning-induced changes
hemodynamics in patients with severe head trauma. Neurocrit Care, 8(2), 241–246.
60.
59. Trewby P.N. and Williams R. (1977). Pathophysiology of hypotension in patients with fulminant hepatic failure. Gut, 18(12), 1021–1026. Idossa D.W. and Simonetto D.A. (2017). Infectious Complications and Malignancies Arising After Liver Transplantation. Anesthesiol Clin, 35(3), 381–393.
61. Tujios S.R., Hynan L.S., Vazquez M.A. et al. (2015). Risk factors and outcomes of acute kidney injury in patients with acute liver failure. Clin Gastroenterol Hepatol, 13(2), 352–359.
63.
62. Kandiah P.A., Olson J.C., and Subramanian R.M. (2016). Emerging strategies for the treatment of patients with acute hepatic failure. Curr Opin Crit Care, 22(2), 142–151. Jauniaux B., Ho T., Karakantza M. et al. (2021). P039 Standard-volume plasma exchange in acute liver failure: assessment of laboratory parameters and clinical outcomes. Gut, 70(Suppl 3), A30–A30.
64. Botta F., Giannini E., Romagnoli P. et al. (2003). MELD scoring system is useful for predicting prognosis in patients with liver cirrhosis and is correlated with residual liver function: a European study. Gut, 52(1), 134–139.
65. Delis S.G., Bakoyiannis A., Biliatis I. et al. (2009). Model for end-stage liver disease (MELD) score, as a prognostic factor for post-operative morbidity and mortality in cirrhotic patients, undergoing hepatectomy for hepatocellular carcinoma. HPB (Oxford), 11(4), 351–357.
66. Duseja A., Choudhary N.S., Gupta S. et al. (2013). APACHE II score is superior to SOFA, CTP and MELD in predicting the short-term mortality in patients with acute-on-chronic liver failure (ACLF). J Dig Dis, 14(9), 484–490.
67. Bobati S.S. and Naik K.R. (2017). Therapeutic Plasma Exchange - An Emerging Treatment Modality in Patients with Neurologic and Non- Neurologic Diseases. J Clin Diagn Res, 11(8), EC35–EC37.
68. Gashti C.N. (2016). Membrane-based Therapeutic Plasma Exchange: A
New Frontier for Nephrologists. Semin Dial, 29(5), 382–390.
69. Sakai K. (2000). Dialysis membranes for blood purification. Front Med
Biol Eng, 10(2), 117–129.
70. Samtleben W., Randerson D.H., Blumenstein M. et al. (1984). Membrane plasma exchange: principles and application techniques. J Clin Apher, 2(2), 163–169.
71. Williams M.E. and Balogun R.A. (2014). Principles of separation: indications and therapeutic targets for plasma exchange. Clin J Am Soc Nephrol, 9(1), 181–190.
72. Plasma exchange: concepts, mechanisms, and an overview of the PubMed. for Apheresis guidelines Society -
American
73. Fernández-Zarzoso M., Gómez-Seguí I., and de la Rubia J. (2019). Therapeutic plasma exchange: Review of current indications. Transfus Apher Sci, 58(3), 247–253.
74. Cortese I., Chaudhry V., So Y.T. et al. (2011). Evidence-based guideline the the
update: Plasmapheresis in neurologic disorders: report of Therapeutics and Technology Assessment Subcommittee of American Academy of Neurology. Neurology, 76(3), 294–300.
75. Davenport A., Drüeke T.B., Nangaku M. et al. (2015). High-volume plasma exchange in patients with acute liver failure: an open randomized controlled trial. Kidney International, 88(6), 1215–1216.
76. Kumar S.E., Goel A., Zachariah U. et al. (2022). Low Volume Plasma Exchange and Low Dose Steroid Improve Survival in Patients with Alcohol-Related Acute on Chronic Liver Failure and Severe Alcoholic Hepatitis - Preliminary Experience. J Clin Exp Hepatol, 12(2), 372–378. 77. Chen Y.-Y., Li H., Xu B.-Y. et al. (2021). Plasma Exchange-Based Non- bioartificial Liver Support System Improves the Short-Term Outcomes of Patients with Hepatitis B Virus-Associated Acute-on-Chronic Liver Failure: A Multicenter Prospective Cohort Study. Front Med (Lausanne), 8, 779744.
78. Maiwall R., Bajpai M., Singh A. et al. (2022). Standard-Volume Plasma Exchange Improves Outcomes in Patients with Acute Liver Failure: A Randomized Controlled Trial. Clin Gastroenterol Hepatol, 20(4), e831– e854.
79. Eapen C.E. and Venkataraman J. (2021). Rodenticide (Yellow Phosphorus Poison)-Induced Hepatotoxicity in India: Constraints During Management. J Clin Exp Hepatol, 11(4), 414–417.
83.
80. Clemmesen J.O., Kondrup J., Nielsen L.B. et al. (2001). Effects of high- volume plasmapheresis on ammonia, urea, and amino acids in patients with acute liver failure. Am J Gastroenterol, 96(4), 1217–1223. 81. Acute Respiratory Distress Syndrome Network, Brower R.G., Matthay M.A. et al. (2000). Ventilation with lower tidal volumes as compared with traditional tidal volumes for acute lung injury and the acute respiratory distress syndrome. N Engl J Med, 342(18), 1301–1308. 82. Guillevin L. and Pagnoux C. (2007). Indication for plasma exchange for systemic necrotizing vasculidities. Transfus Apher Sci, 36(2), 179–185. Ipe T.S. and Marques M.B. (2018). Vascular access for therapeutic plasma exchange. Transfusion, 58 Suppl 1, 580–589.
84. Osman C., Jennings R., El-Ghariani K. et al. (2020). Plasma exchange in
neurological disease. Pract Neurol, 20(2), 92–99.
85. Pham H.P., Staley E.M., and Schwartz J. (2019). Therapeutic plasma exchange - A brief review of indications, urgency, schedule, and technical aspects. Transfus Apher Sci, 58(3), 237–246.
86. Nagral A., Sarma M.S., Matthai J. et al. (2019). Wilson’s Disease: Clinical Practice Guidelines of the Indian National Association for Study of the Liver, the Indian Society of Pediatric Gastroenterology, Hepatology and Nutrition, and the Movement Disorders Society of India. J Clin Exp Hepatol, 9(1), 74–98.
89.
87. Proost R., Cassiman D., Levtchenko E. et al. (2020). Fulminant Wilson Disease in Children: Recovery After Plasma Exchange Without Transplantation. J Pediatr Gastroenterol Nutr, 71(6), 720–725. 88. Kido J., Matsumoto S., Momosaki K. et al. (2017). Plasma exchange and chelator therapy rescues acute liver failure in Wilson disease without liver transplantation. Hepatol Res, 47(4), 359–363. Jiang Y., Tian X., Gu Y. et al. (2019). Application of Plasma Exchange in Steroid-Responsive Encephalopathy. Front Immunol, 10, 324. 90. Park G.E., Peck K.R., Kim J.M. et al. (2020). Infectious Complications in Patients Who Received High-Volume Plasma Exchange Prior to Liver Transplant: A Case Report. Exp Clin Transplant, 18(3), 392–395. 91. Kumar N.D., Sharma S., Sethi S. et al. (1993). Anaphylactoid transfusion reaction with anti-IgA antibodies in an IgA deficient patient: a case report. Indian J Pathol Microbiol, 36(3), 282–284.
92. Owen H.G. and Brecher M.E. (1994). Atypical reactions associated with inhibitors and apheresis.
use of angiotensin-converting enzyme Transfusion, 34(10), 891–894.
93. Kaplan A.A. (2017). Moderator’s view: High-volume plasma exchange:
pro, con and consensus. Nephrol Dial Transplant, 32(9), 1464–1467.
95.
Consult Liver
94. Liu C.-T., Chen T.-H., and Cheng C.-Y. (2013). Successful treatment of
drug-induced acute liver failure with high-volume plasma exchange. J
Clin Apher, 28(6), 430–434.
(2020). High-Volume Plasma Exchange in a Young COVID-19 Patient
QD,
Failure.
with
Plasmapheresis in Acute Liver Failure. Cureus, 12(6), e8721.
97. Tan E.X.-X., Wang M.-X., Pang J. et al. (2020). Plasma exchange in patients with acute and acute-on-chronic liver failure: A systematic review. World J Gastroenterol, 26(2), 219–245.
98. Vương Xuân Toàn (2019). Đánh giá tác dụng của phương pháp thay huyết tương thể tích cao kết hợp lọc máu liên tục trong phối hợp điều trị suy gan cấp, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Y Hà Nội.
99. Lê Quang Thuận (2017), Nghiên cứu hiệu quả điều trị viêm gan nhiễm độc cấp nặng bằng biện pháp thay huyết tương tích cực. Luận án tiến sĩ y học, Viện nghiên cứu y dược lâm sàng 108.
100. Bộ Y tế Hướng dẫn quy trình kỹ thuật chuyên ngành Hồi sức - Cấp cứu
và Chống độc, 2014.
101. Lê Thái Bảo Nghiên cứu đặc điểm rối loạn đông máu và tác dụng điều trị giảm đông của thay huyết tương ở bệnh nhân suy gan cấp do viêm gan nhiễm độc, Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
102. Ali A., Abu Zar M., Kamal A. et al. (2018). American Heart Association High Blood Pressure Protocol 2017: A Literature Review. Cureus, 10(8), e3230.
103. Yano Y., Reis J.P., Colangelo L.A. et al. (2018). Association of Blood Pressure Classification in Young Adults Using the 2017 American College of Cardiology/American Heart Association Blood Pressure Guideline with Cardiovascular Events Later in Life. JAMA, 320(17), 1774–1782.
104. Standards of Medical Care in Diabetes. (2018). Abridged for Primary
Care Providers. Clin Diabetes, 36(1), 14–37. học mạch Tim 105. Hội Việt Nam.
107. Nguyễn Gia Bình (2011). Nghiên cứu ứng dụng hệ thống hấp phụ phân tử tái tuần hoàn (MARS) trong điều trị suy gan cấp, đề tài KHCN độc lập cấp nhà nước, Bộ khoa học và công nghệ.
108. Hồ Quang Tuấn Đánh giá hiệu quả phương pháp thay huyết tương trong
điều trị suy gan cấp. Luận văn CKII, trường ĐHY Hà Nội.
109. Rodrigues-Filho E.M., Fernandes R., and Garcez A. (2018). SOFA in the first 24 hours as an outcome predictor of acute liver failure. Rev Bras Ter Intensiva, 30(1), 64–70.
110. Kim J.E., Chun S., Sinn D.H. et al. (2021). Initial experience with high- volume plasma exchange in patients with acute liver failure. J Clin Apher, 36(3), 379–389.
111. Phạm Thị Bích Ngân, Nguyễn Thị Hiền, Nguyễn Đức Hồng (2019), Một số nhận xét tổng quát về đặc điểm nhân trắc người Việt Nam trong lứa tuổi lao động năm 2018-2019, Báo cáo nghiên cứu Viện khoa học an toàn và vệ sinh lao động Việt Nam,
112. Wiersema U.F., Kim S.W., Roxby D. et al. (2015). Therapeutic plasma exchange does not reduce vasopressor requirement in severe acute liver failure: a retrospective case series. BMC Anesthesiol, 15, 30.
113. Pawaria A., Sood V., Lal B.B. et al. (2021). Ninety days transplant free survival with high volume plasma exchange in Wilson disease presenting as acute liver failure. J Clin Apher, 36(1), 109–117.
114. Đặng Thị Xuân, Phạm Duệ. Đánh giá hiệu quả của thay huyết tương trong điều trị suy gan cấp ở bệnh nhân viêm gan nhiễm độc. Tạp chí Dược lâm sàng 108, Số 4(Tập 6), 17–25.
115. Li L., Chen L., Lin F. et al. (2021). Study of the Expression of Inflammatory Factors IL-4, IL-6, IL-10, and IL-17 in Liver Failure Complicated by Coagulation Dysfunction and Sepsis. J Inflamm Res, 14, 1447–1453.
116. Sun J.-K., Zou L., Liu Y. et al. (2020). Acute gastrointestinal injury in critically ill patients with coronavirus disease 2019 in Wuhan, China. 2020.03.25.20043570.
117. Zhou C., Zhang N., He T.-T. et al. (2020). High levels of serum interleukin-6 increase mortality of hepatitis B virus-associated acute-on- chronic liver failure. World J Gastroenterol, 26(30), 4479–4488. 118. Keith P.D., Wells A.H., Hodges J. et al. (2020). The therapeutic efficacy of adjunct therapeutic plasma exchange for septic shock with multiple organ failure: a single-center experience. Critical Care, 24(1), 518. 119. Cheng Y.-L., Chang C.-H., Chen W.-T. et al. (2018). Prognostic factors and treatment effect of standard-volume plasma exchange for acute and acute-on-chronic liver failure: A single-center retrospective study. Transfus Apher Sci, 57(4), 537–543.
120. Hung Y.-M., Hung G.-C., Hsu P.-I. et al. (2004). Short-term survival advantage after plasma exchange in the treatment of acute on chronic liver failure or acute liver failure. Clinical Intensive Care, 15(2–3), 93– 99.
121. Labenz C., Toenges G., Huber Y. et al. (2019). Raised serum Interleukin- 6 identifies patients with liver cirrhosis at high risk for overt hepatic encephalopathy. Aliment Pharmacol Ther, 50(10), 1112–1119.
122. Wang Y., Xu Y., Sun W. et al. (2022). Value of interleukin-6 combined with Model for End-Stage Liver Disease score in predicting the prognosis of hepatitis B virus-related acute-on-chronic liver failure. lcgdbzz, 38(8), 1774–1779.
Decision be to
123. Vandana Saluja Comparison of Prognostic Models in Acute Liver
Failure:
Dynamic.
is
124. Clemmesen J.O., Larsen F.S., Kondrup J. et al. (1999). Cerebral herniation in patients with acute liver failure is correlated with arterial ammonia concentration. Hepatology, 29(3), 648–653.
125. Blei A.T., Olafsson S., Therrien G. et al. (1994). Ammonia-induced brain edema and intracranial hypertension in rats after portacaval anastomosis. Hepatology, 19(6), 1437–1444.
126. Karvellas C.J., Fix O.K., Battenhouse H. et al. (2014). Outcomes and complications of intracranial pressure monitoring in acute liver failure: a retrospective cohort study. Crit Care Med, 42(5), 1157–1167.
127. Singer A.L., Olthoff K.M., Kim H. et al. (2001). Role of plasmapheresis in the management of acute hepatic failure in children. Ann Surg, 234(3), 418–424.
128. Broux B., Lefère L., Deprez P. et al. (2015). Plasma Exchange as a in 2 Foals with Neonatal
Treatment for Hyperbilirubinemia Isoerythrolysis. J Vet Intern Med, 29(2), 736–738.
129. Ramírez-Guerrero G., Müller-Ortiz H., Jara-Vilugrón F. et al. (2022). [Therapeutic plasma exchange. Experience in 102 patients]. Rev Med Chil, 150(2), 147–153.
130. Coirier V., Lesouhaitier M., Reizine F. et al. (2022). Tolerance and complications of therapeutic plasma exchange by centrifugation: A single center experience. J Clin Apher, 37(1), 54–64.
131. Halpin M.R., Chen B., and Singer R.F. (2022). Efficacy, Safety, and Calcium Balance of an Accelerated Citrate Anticoagulated Membrane- Based Plasma Exchange Algorithm. Blood Purif, 51(1), 70–74.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU
Số NC: Số lưu trữ: Số hồ sơ:
I.HÀNH CHÍNH
Họ và tên:
Giới: Tuổi:
Dân tộc:
Ngày vào
viện:
Chẩn đoán:
II.CÁC BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU
A. Tiền sử
1. Nguyên nhân gây ngộ độc:
2. Bệnh đồng mắc
Tăng huyết áp Đái tháo đường
COPD Đột quỵ não
Hen phế quản Bệnh mạch vành
Khác
B. Toàn thân
Cân nặng: Chiều cao:
C. Lâm sàng
Phù Sao mạch
Cổ trướng Xuất huyết tiêu hóa
Vàng da Tuần hoàn bàng hệ
Thở máy Ngày bắt đầu:
Ngày kết thúc
D. CÁC THÔNG SỐ TRƯỚC VÀ SAU THAY HUYẾT TƯƠNG
Lần 1 Lần 2 Lần 3 Kết
thúc Các chỉ tiêu Sau Sau Sau Trước Trước Trước
PEX PEX PEX PEX PEX PEX
SOFA
Mạch
(ck/phút)
HA tâm thu
(mmHg)
HA tâm
trương
(mmHg)
Độ não gan
PT%
INR
Fibrinogen
(g/l)
APTT (s)
Hồng cầu (T/l)
HGB (g/l)
Hct (L/l)
Tiểu cầu (G/l)
Bạch cầu (G/l)
Bilirubin TP
(mmol/l)
Lần 1 Lần 2 Lần 3 Kết
thúc Các chỉ tiêu Sau Sau Sau Trước Trước Trước
PEX PEX PEX PEX PEX PEX
Bilirubin TT
(mmol/l)
AST (U/l)
ALT (U/l)
Glucose
(mmol/l)
Ure (mmol/l)
Creatinin
(µmol/l)
NH3 (µmol/l)
IL6
Na+ (mmol/l)
K+ (mmol/l)
Ca++ (mmol/l)
pH
PaCO2
(mmHg)
PaO2 (mmHg)
HCO3-
(mmol/l)
BE (mmol/l)
Lần 1 Lần 2 Lần 3 Kết
thúc Các chỉ tiêu Sau Sau Sau Trước Trước Trước
PEX PEX PEX PEX PEX PEX
Lactat
(mmol/l)
Chỉ số P/F
E. KẾT QUẢ LỌC VÀ BIẾN CHỨNG
1. Tổng số lần PEX:
2. Biến chứng:
Phản vệ: Không Mức độ:
Lần pex xuất hiện:
Đặt catheter Chảy máu
Nhiễm trùng
Khác
Tắc quả lọc
3. Kết quả điều trị:
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Đăng Đức