BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108
************
NCS. NGUYỄN THỊ LỆ MỸ
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU ĐƯỜNG
NGOÀI MÀNG CỨNG DO BỆNH NHÂN TỰ ĐIỀU KHIỂN BẰNG
ROPIVACAIN HOẶC BUPIVACAIN PHỐI HỢP FENTANYL SAU
PHẪU THUẬT THAY KHỚP HÁNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI
LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC
Hà Nội - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108
************
NCS. NGUYỄN THỊ LỆ MỸ
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU ĐƯỜNG
NGOÀI MÀNG CỨNG DO BỆNH NHÂN TỰ ĐIỀU KHIỂN BẰNG
ROPIVACAIN HOẶC BUPIVACAIN PHỐI HỢP FENTANYL SAU
PHẪU THUẬT THAY KHỚP HÁNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI
Chuyên ngành: Gây mê hồi sức
Mã số: 62720122
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Công Quyết Thắng
Hà Nội - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Thị Lệ Mỹ, nghiên cứu sinh Viện Nghiên cứu Khoa
học Y dược Lâm sàng 108, chuyên ngành Gây mê hồi sức, xin cam đoan:
1. Đây là luận án do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Công Quyết Thắng.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ luận văn, luận án nào
khác đã được công bố tại Việt Nam.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam
kết này.
Người viết cam đoan
Nguyễn Thị Lệ Mỹ
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nỗ lực học tập và nghiên cứu tôi đã hoàn thành luận án
này với sự giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể và cá nhân. Trước hết, tôi xin gửi
lời cảm ơn tới Ban Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Phòng Sau
đại học thuộc Viện Nghiên cứu Khoa học Y Dược lâm sàng 108; Bộ môn Gây
mê - Hồi sức thuộc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, lời tri ân tới Thầy
PGS.TS. Công Quyết Thắng, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành GS. Nguyễn Thụ, GS. TS.
Nguyễn Quốc Kính, PGS. TS. Trịnh Văn Đồng, PGS. TS. Lê Thị Việt
Hoa, PGS. TS. Nguyễn Minh Lý, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thạch, TS.
Tống Xuân Hùng, PGS.TS. Trần Duy Anh, PGS.TS. Nguyễn Phương
Đông, TS. Hoàng Văn Chương … đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu giúp
tôi hoàn thành luận án.
Xin cảm ơn tập thể Khoa Gây mê – Hồi sức, Khoa B1C - Viện
Chấn thương chỉnh hình – Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã giúp
đỡ tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu. Xin gửi lời cám ơn chân thành
tới các bệnh nhân đã đồng ý tham gia nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành
công trình nghiên cứu này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Đảng Ủy - Ban Giám đốc
Bệnh viện Thanh Nhàn, tập thể khoa Gây mê hồi sức – Bệnh viện Thanh
Nhàn đã luôn giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận án.
Cuối cùng, tôi xin dành một lời tri ân đặc biệt gửi tới toàn thể gia
đình hai bên nội ngoại, anh em bạn bè, vợ và con tôi đã động viên giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án này.
Nguyễn Thị Lệ Mỹ
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CÁM ƠN MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC HÌNH DANH MỤC BẢNG DANH MỤC BIỂU ĐỒ ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................... 1
Chương 1 TỔNG QUAN.................................................................... 3
1.1 Người cao tuổi và vấn đề liên quan tới gây mê - phẫu thuật...... 3
1.1.1 Thay đổi sinh lý, giải phẫu ở người cao tuổi ......................................... 3
1.1.2 Ảnh hưởng của gây mê và phẫu thuật lên người cao tuổi ................... 6
1.1.3 Quản lý đau sau phẫu thuật ở người cao tuổi ........................................ 8
1.2 Phẫu thuật thay khớp háng ..................................................... 11
1.2.1 Giải phẫu khớp háng............................................................................... 11
1.2.2 Phẫu thuật thay khớp háng..................................................................... 13
1.2.3 Chuẩn bị phẫu thuật khớp háng ............................................................ 14
1.2.4 Đau sau phẫu thuật thay khớp háng...................................................... 15
1.3 Phương pháp giảm đau đường ngoài màng cứng do bệnh nhân
tự điều kiển.................................................................................... 16
1.3.1 Gây tê ngoài màng cứng ........................................................................ 16
1.3.2 Giảm đau ngoài màng cứng do bệnh nhân tự điều khiển .................. 19
1.3.3 Nguyên lý hoạt động .............................................................................. 21
1.3.4 Thông số trên máy PCEA ...................................................................... 23
1.3.5 Tác dụng không mong muốn ................................................................ 26
1.3.6 Một số thiết bị PCEA ............................................................................. 27
1.4 Thuốc tê ropivacain ................................................................. 29
1.4.1 Công thức cấu tạo ................................................................................... 29
1.4.2 Cơ chế tác dụng ....................................................................................... 30
1.4.3 Dược lý, dược động học......................................................................... 31
1.5 Một số nghiên cứu về PCEA .................................................... 36
1.5.1 Tại Việt Nam ........................................................................................... 36
1.5.2 Trên thế giới............................................................................................. 39
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 44
2.1 Đối tượng nghiên cứu .............................................................. 44
2.1.1 Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân vào nghiên cứu ....................................... 44
2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ .................................................................................. 44
2.1.3 Tiêu chuẩn đưa ra khỏi nghiên cứu ...................................................... 44
2.2 Phương pháp nghiên cứu ......................................................... 44
2.2.1 Thiết kế nghiên cứu ................................................................................ 44
2.2.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu ........................................................ 44
2.2.3 Cỡ mẫu nghiên cứu................................................................................. 45
2.2.4 Tiến hành nghiên cứu ............................................................................. 46
2.2.4 Các thời điểm theo dõi ........................................................................... 54
2.2.5 Các tiêu chí đánh giá chủ yếu ................................................................ 55
2.2.6 Một số tiêu chuẩn và định nghĩa sử dụng trong nghiên cứu ............. 57
2.2.7 Xử trí một số tác dụng không mong muốn.......................................... 59
2.2.8 Xử lý số liệu............................................................................................. 60
2.2.9 Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ......................................................... 61
2.2.10 Sơ đồ nghiên cứu .................................................................................. 62
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................. 63
3.1 Đặc điểm chung ....................................................................... 63
3.1.1 Đặc điểm chung về người bệnh ............................................................ 63
3.1.2 Đặc điểm chung về gây tê và phẫu thuật ............................................. 65
3.1.3 Đặc điểm về gây tê ngoài màng cứng .................................................. 68
3.2 Hiệu quả giảm đau sau mổ ...................................................... 69
3.2.1 Điểm VAS 2 nhóm khi nghỉ ngơi......................................................... 69
3.2.2 Điểm VAS 2 nhóm khi vận động ......................................................... 71
3.2.3 Lượng thuốc tê sử dụng ở hai nhóm..................................................... 73
3.2.4 Tỷ lệ A/D của hai nhóm ......................................................................... 75
3.2.5 Giải cứu đau của hai nhóm .................................................................... 77
3.2.6 Mức độ phong bế vận động và cảm giác ............................ 77
3.2.7 Mức độ hài lòng của người bệnh .......................................................... 79
3.3 Ảnh hưởng lên tuần hoàn, hô hấp và tác dụng không mong muốn ……80
3.3.1 Tỷ lệ thay đổi huyết áp sau liều đầu ...................................................... 80
3.3.2 Thay đổi huyết áp trung bình theo thời điểm nghiên cứu .................. 81
3.3.3 Thay đổi tần số tim theo thời điểm nghiên cứu................................... 83
3.3.3 Thay đổi tần số thở theo thời điểm nghiên cứu................................... 85
3.3.4 Thay đổi SpO2 theo thời điểm nghiên cứu.......................................... 87
3.3.5 Số ngày nằm viện sau mổ ...................................................................... 89
3.3.6 Tác dụng không mong muốn trong nghiên cứu.................................. 90
Chương 4 BÀN LUẬN ..................................................................... 91
4.1 Đặc điểm chung ....................................................................... 91
4.1.1 Đặc điểm của bệnh nhân ........................................................................ 91
4.1.2 Đặc điểm bệnh lý phẫu thuật ................................................................. 97
4.2 Hiệu quả giảm đau sau mổ ....................................................... 100
4.2.1 Đánh giá theo thang điểm VAS .......................................................... 100
4.2.2 Lượng thuốc ngoài màng cứng ........................................................... 104
4.2.3 Đặc điểm gây tê..................................................................................... 109
4.2.4 Các chỉ số theo cài đặt của PCEA....................................................... 111
4.2.5 Ảnh hưởng lên vận động...................................................................... 113
4.3 Ảnh hưởng lên tuần hoàn và hô hấp...................................... 115
4.3.1 Ảnh hưởng lên tuần hoàn..................................................................... 115
4.3.2 Ảnh hưởng lên hô hấp .......................................................................... 117
4.4 Tác dụng không mong muốn .................................................................. 121
KẾT LUẬN .................................................................................... 123
KIẾN NGHỊ ................................................................................... 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PCEA Patient controlled epidural analgesia
Bệnh nhân tự kiểm soát đau đường ngoài màng cứng
PCA Patient controlled analgesia
Bệnh nhân tự kiểm soát đau
NMC Ngoài màng cứng
NSAID non-steroid anti-inflammatory drug
Thuốc hạ sốt giảm đau chống viêm không steroid
BN Bệnh nhân
VAS Visual Analogue Scale
Đánh giá đau bằng hình đồng dạnh
NRS numerical rating scale
Đánh giá đau bằng thang điểm số
IASP International Association the Study of Pain
Hiệp hội quốc tê về nghiên cứu đau
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Sự thay đổi nồng độ thuốc trong máu .................................. 22
Hình 1.2: Thiết bị PCA của hãng Bbraun ........................................... 27
Hình 1.3: Thiết bị PCA automed 3400 .............................................. 29
Hình 1.4: Công thức cấu tạo của ropivacain ....................................... 30
Hình 2.1: Bộ catheter ngoài màng cứng Perifix của hãng Bbraun .......... 46
Hình 2.2: Máy giảm đau PCEA Auto Med 3400 ................................. 47
Hình 2.3: Thang điểm VAS của hãng Astrazeneca .............................. 47
Hình 2.4 Thuốc tê ropivacain (Anaropin) của hãng Astrazeneca ........... 48
Hình 2.5: Theo dõi bệnh nhân trong phòng mổ ................................... 49
Hình 2.6: Tư thế bệnh nhân và các mốc giải phẫu ............................... 50
Hình 2.7: Đặt catheter vào khoang NMC ........................................... 51
Hình 2.8: Thông số cài đặt trên máy giảm đau PCEA .......................... 54
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Thay đổi sinh lý trên người cao tuổi .......................................................7 Bảng 1.2: Liều lượng ropivacain sử dụng trên lâm sàng .....................................34 Bảng 3.1: Đặc điểm về tuổi, chiều cao, cân nặng của hai nhóm..........................63 Bảng 3.2: Phân bố về giới tính của hai nhóm ........................................................64 Bảng 3.3: Phân bố về phân loại sức khỏe theo ASA ............................................64 Bảng 3.4 Phân bố tỷ lệ bệnh mạn tính của hai nhóm ............................................65 Bảng 3.5: Về xét nghiệm hồng cầu, huyết sắc tố, hematocrid .............................66 Bảng 3.6: Thời gian phẫu thuật của hai nhóm .................................................66
Bảng 3.7: Thuốc sử dụng gây tê tủy sống ..............................................................67 Bảng 3.8: Khoảng cách từ da tới NMC và chiều dài catheter trong NMC 68 Bảng 3.9: Vị trí chọc kim gây tê ngoài màng cứng...............................................68 Bảng 3.10: Điểm VAS lúc nghỉ ngơi của hai nhóm .............................................69 Bảng 3.11: Điểm VAS của hai nhóm khi vận động .............................................71 Bảng 3.12: Đặc điểm liều đầu của hai nhóm .........................................................73 Bảng 3.13: Thể tích thuốc NMC sử dụng của hai nhóm (ml)..............................74
Bảng 3.14: Số lần bấm yêu cầu của hai nhóm .......................................................75 Bảng 3.15: Số lần bấm yêu cầu thành công của hai nhóm ...................................75 Bảng 3.16: Tỷ lệ A/D của hai nhóm nghiên cứu ...................................................76 Bảng 3.17: Số bệnh nhân giải cứu đau của hai nhóm ...........................................77 Bảng 3.18: Số khoanh tủy phong bế cảm giác của hai nhóm ..............................77 Bảng 3.19: Mức độ ức chế vận động theo Bromage ............................................78 Bảng 3.20: Tỷ lệ thay đổi huyết áp sau liều đầu của hai nhóm ............................80 Bảng 3.21: Thay đổi huyết áp trung bình của hai nhóm (mmHg).......................81
Bảng 3.22: Thay đổi tần số tim của hai nhóm (lần/phút)......................................83 Bảng 3.23: Thay đổi tần số thở của hai nhóm (lần/phút)......................................85 Bảng 3.24: Thay đổi SpO2 của hai nhóm (%) .......................................................87 Bảng 3.25: Số ngày nằm viện sau phẫu thuật ........................................................89 Bảng 3.26: Tác dụng không mong muốn của hai nhóm ......................................90
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Bệnh lý phẫu thuật của hai nhóm.......................................65
Biểu đồ 3.2: Phân bố loại phẫu thuật của hai nhóm................................67
Biểu đồ 3.3: Thay đổi điểm VAS lúc nghỉ của hai nhóm........................70
Biểu đồ 3.4: Điểm VAS của hai nhóm khi vận động ..............................72
Biểu đồ 3.5: Lượng thuốc tê sử dụng của hai nhóm mỗi 24 giờ ..............74
Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ A/D của hai nhóm trong thời gian nghiên cứu ...........76
Biểu đồ 3.7: Mức độ ức chế vận động theo Bromage sau liều đầu ..........78
Biểu đồ 3.8: Mức độ hài lòng của người bệnh trong nghiên cứu .............79
Biểu đồ 3.9: Tỷ lệ thay đổi huyết áp sau liều đầu của hai nhóm..............80
Biểu đồ 3.10: Thay đổi huyết áp trung bình theo thời điểm nghiên cứu..........82
Biểu đồ 3.11: Thay đổi tần số tim của hai nhóm ....................................84
Biểu đồ 3.12: Thay đổi tần số thở của hai nhóm nghiên cứu ..................86
Biểu đồ 3.13: Thay đổi SpO2 theo thời điểm nghiên cứu........................88 Biểu đồ 3.14: Phân tích bằng Kaplan – Meier về số ngày nằm viện sau mổ của hai nhóm .......................................................................................89
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thay khớp háng là phẫu thuật thường gặp trên người cao tuổi để
điều trị các bệnh lý như thoái hóa khớp háng, gẫy cổ xương đùi, gẫy liên
mấu chuyển… [122] Đây là phẫu thuật lớn, xâm lấn nhiều vào cả xương
và tổ chức phần mềm. Vì vậy, sau phẫu thuật khớp háng bệnh nhân
thường phải chịu đựng cơn đau nặng kéo dài, trong khi người bệnh cần
vận động sớm để tăng cường hồi phục và phòng tránh các tai biến có
nguy cơ cao như tắc mạch do huyết khối tĩnh mạch sâu… [6] [19] [127]
Giảm đau sau mổ là một trong những yếu tố giúp người bệnh có
thể thực hiện vận động sớm sau mổ. Ngoài ra, giảm đau sau mổ còn giúp
người bệnh giảm bớt các ảnh hưởng không tốt do đau sau mổ gây nên
như giảm lo lắng sợ hãi, giảm các biến chứng về tim mạch, nội tiết…
[107]. Có nhiều phương pháp giảm đau sau phẫu thuật khớp háng đã
được nghiên cứu và áp dụng trên lâm sàng như gây tê ngoài màng cứng,
gây tê thân thần kinh, gây tê tại vết mổ, giảm đau do bệnh nhân tự điều
khiển đường tĩnh mạch… [25] [41] [92]
Gây tê ngoài màng cứng là phương pháp có hiệu quả giảm đau tốt
đặc biệt trên các phẫu thuật lớn có mức độ đau nặng và kéo dài như phẫu
thuật vào lồng ngực, phẫu thuật vào ổ bụng, phẫu thuật cột sống, phẫu
thuật vào khớp lớn như khớp háng, khớp gối… [82] Phương pháp dễ
dàng kéo dài thời gian giảm đau bằng cách đặt catheter vào khoang
ngoài màng cứng để truyền thuốc tê liên tục hoặc tiêm ngắt quãng. Tuy
nhiên, gây tê ngoài màng cứng cũng gây ra các tác dụng không mong
muốn như tụt huyết áp, ức chế vận động… Nguyên nhân gây nên các
vấn đề trên là do lượng thuốc tê sử dụng vượt quá mức cần thiết để giảm
đau dẫn tới mức phong bế trên vận động và thần kinh giao cảm lớn, từ đó gây
nên các tác dụng không mong muốn [13] [57] [87]
2
Phương pháp giảm đau ngoài màng cứng do bệnh nhân tự điều khiển
(PCEA: patient contronlled epidural analgesia) là phương pháp giảm đau
ngoài màng cứng, trong đó bệnh nhân tự điều khiển lượng thuốc gây tê được
đưa vào khoang ngoài màng cứng. Phương pháp này giúp giảm liều lượng
thuốc sử dụng, từ đó làm giảm bớt vùng phong bế của thuốc tê, hạn chế các
tác dụng không mong muốn [13] [16] [35] [66] [107].
Ropivapcain là thuốc tê thuộc nhóm amino amid. Thuốc có hiệu
quả giảm đau tốt với độc tính trên tim ít hơn so với bupivacain. Ngoài ra
thuốc có tác dụng ức chế cảm giác nhiều hơn so với tác dụng ức chế vận
động. Thuốc được sử dụng rộng rãi trên lâm sàng trong nhiều phương
pháp gây tê khác nhau như gây tê tủy sống, gây tê ngoài màng cứng, gây tê
đám rối và truyền liên tục thuốc tê tại vết mổ. [49] [55] [78] [112] [115]
Trên thế giới, đã có nghiên cứu sử dụng ropivacain trong giảm đau
do bệnh nhân tự điều khiển đường ngoài màng cứng [35] [102] [112].
Tuy nhiên ở Việt Nam, nghiên cứu về giảm đau đường ngoài màng cứng
do bệnh nhân tự điều khiển sử dụng ropivacain sau phẫu thuật thay khớp
háng trên người cao tuổi còn ít. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu
trên với các mục tiêu sau:
1. So sánh hiệu quả giảm đau và ức chế vận động của hỗn hợp
ropivacain 0,1% - fentanyl 1 mcg/ml với bupivacain 0,1% - fentanyl 1
mcg/ml trong giảm đau đường ngoài màng cứng do bệnh nhân tự điều
khiển sau phẫu thuật thay khớp háng ở người cao tuổi.
2. Đánh giá ảnh hưởng lên tuần hoàn, hô hấp và các tác dụng
không mong muốn của hai phương pháp giảm đau trên.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1 Người cao tuổi và vấn đề liên quan tới gây mê - phẫu thuật
Số lượng người cao tuổi đang gia tăng nhanh chóng ở Việt Nam cũng
như các quốc gia trên thế giới. Theo quy định hiện tại ở Việt Nam, người cao
tuổi được tính từ 60 trở lên. Trong đó, tỷ lệ người cao tuổi phải thực hiện phẫu
thuật cao hơn so với lứa tuổi trưởng thành. Sự thay đổi về giải phẫu, sinh lý do
quá trình già hóa là nguyên nhân kéo dài thời gian điều trị và gia tăng nguy cơ
tử vong ở người cao tuổi cần phải phẫu thuật [11] [15] .
1.1.1 Thay đổi sinh lý, giải phẫu ở người cao tuổi
* Tim mạch
Khoảng 50 - 60% người cao tuổi mắc bệnh tim mạch có ý nghĩa.
Xơ cơ tim và thành thất dày lên làm giảm co bóp của tim, từ đó thay đổi
nhỏ về thể tích làm đầy sẽ có ảnh hưởng lớn đến lưu lượng tim và huyết áp.
Bệnh lý thường gặp như rung nhĩ có thể làm thể tích nhát bóp (stroke volume)
giảm do mất sự đóng góp của nhĩ trong thì tâm thu vào sự làm đầy thất.
Lưu lượng tim tối đa khi gắng sức giảm 1%/năm ở người >50 tuổi.
Giảm độ đàn hồi của hệ thống mạch, gây tăng huyết áp tâm thu và nới
rộng khoảng cách huyết áp tâm thu và tâm trương. Tính đáp ứng thần
kinh tự động giảm dần, làm giảm đáp ứng với tụt huyết áp và tác dụng
gây tụt huyết áp của thuốc gây mê sẽ rõ rệt hơn. Tăng tính thấm mao
mạch làm gia tăng nguy cơ phù phổi [11].
* Hô hấp
Qúa trình già hóa dẫn tới những thay đổi đáng kể của hệ thống hô hấp.
Chức năng phổi đạt đến tối đa khoảng 20 tuổi và được duy trì trong khoảng 10
- 20 năm tiếp theo. Sau đó chức năng phổi giảm khoảng 1% mỗi năm.
Thay đổi nhu mô phổi: Ở tuổi 80 số lượng phế nang giảm khoảng
30% so với năm 20 tuổi. Sự sụt giảm này gây ra các hậu quả sau:
4
- Tăng thể tích cặn chức năng, giảm dung tích sống và thể tích thở
ra trong giây đầu tiên.
- Mất tương xứng giữa thông khí và tưới máu cùng với giảm phân
áp oxy máu động mạch tăng dần theo tuổi.
- Tăng khoảng chết sinh lý và giảm khả năng khuếch tán.
Thay đổi thành ngực: nhiều yếu tố dẫn đến giảm vận động của
thành ngực. Sự thay đổi về thông khí để đáp ứng với các yếu tố nguy cơ
như giảm O2 và tăng CO2 giảm dần khi độ tuổi tăng lên. Phản xạ bảo vệ
đường thở giảm nên tăng nguy cơ sặc sau mổ do khả năng ho khạc suy giảm.
Ở các bệnh nhân không còn răng có thể khó duy trì thông suốt đường thở và
khó thông khí bằng mask [11] [15] .
* Thận - tiết niệu
Chất lượng và số lượng cầu thận giảm dần (mất 30% ở tuổi 80 tuổi)
dẫn đến giảm mức lọc cầu thận. Độ thanh thải creatinin giảm tương đối, mặc
dù creatinin máu có thể không tăng do giảm sản xuất creatinin.
Chức năng ống thận xấu đi dẫn đến đáp ứng renin-aldosteron
giảm, giảm độ nhạy ADH và giảm khả năng cô đặc nước tiểu. Hậu quả là
chức năng ổn định nội môi của thận bị kém, nên bệnh nhân cao tuổi kém
dung nạp với thừa hoặc thiếu khối lượng tuần hoàn. Tăng và giảm natri
máu cũng dễ xảy ra hơn.
Giảm độ thanh thải của các thuốc được bài tiết qua thận cho nên
cần điều chỉnh liều lượng và đặc biệt chú ý các thuốc độc thận như nhóm
aminoglycosid. Trương lực bàng quang kém và phì đại tuyến tiền liệt ở
nam giới nên dễ bí tiểu sau mổ.
* Gan
Trọng lượng gan và lưu lượng máu gan đều giảm đến 40% vào 90
tuổi. Mặc dù chức nang tế bào gan tương đối được bảo tồn ở người khỏe
mạnh nhưng giảm kích thước gan làm giảm độ thanh thải thuốc và kéo
5
dài tác dụng các thuốc được chuyển hóa và được bài tiết ở gan như các
opioid, propofol, benzodiazepin và các thuốc giãn cơ không khử cực.
* Hệ thần kinh trung ương
Giảm kích thước não và số lượng tế bào thần kinh. Trọng lượng
não trung bình giảm 18% ở 80 tuổi. Suy giảm trí nhớ (dementia) chiếm
10% số bệnh nhân trên 60 tuổi và 20% số bệnh nhân trên 80 tuổi. Tuy
nhiên, cần phân biệt suy giảm trí nhớ với các tình trạng lú lẫn, nhưng có
thể phục hồi gây ra do thiếu oxy, nhiễm trùng, đau, rối loạn hoặc ức chế
chuyển hóa. Thường gặp rối loạn nhận thức sau mổ ở người cao tuổi đặc
biệt sau các phẫu thuật lớn kéo dài. Đây là một tình trạng phức tạp với
đặc điểm suy giảm trí nhớ và kích thích kéo dài sau mổ. Rối loạn tưới
máu não và cung cấp oxy tế bào thần kinh có thể là yếu tố làm tăng rối
loạn nhận thức. Thay đổi nồng độ acetylcholin và tác dụng steroid do stress
lên thần kinh trung ương được cho là có vai trò ảnh hưởng nhất định [48].
* Thay đổi về chuyển hóa và đào thải thuốc
Lượng nước toàn cơ thể giảm khi lượng mỡ tăng lên. Giảm thể
tích phân bố của các thuốc tan trong nước nên cần giảm nhu cầu thuốc,
trong khi tăng thể tích phân bố của các thuốc tan trong mỡ nên kéo dài
sự thanh thải thuốc. Thể tích phân bố ban đầu giảm do lưu lượng tim,
cho nên cần giảm nhu cầu thuốc và đặc biệt là lúc khởi mê. Thời gian
tuần hoàn tay – não kéo dài làm tăng thời gian từ khi dùng thuốc khởi
mê đến lúc thuốc có tác dụng. Nồng độ albumin huyết tương thấp làm
giảm nhu cầu liều của các thuốc như barbiturat khởi mê do thuốc này
gắn vào albumin [120] .
Nồng độ phế nang tối thiểu (MAC) giảm dần theo đuổi (giảm 6%
mỗi 10 tuổi) và giảm khoảng 40% ở 80 tuổi, điều này có thể liên quan
đến giảm khối lượng tế bào thần kinh trung ương. Giảm hệ số phân tách
6
máu/khí và giảm lưu lượng tim ở người cao tuổi dẫn đến thời gian khởi
phát ngắn hơn [120].
Các thuốc chống viêm không steroid làm tăng nguy cơ chảy máu
tiêu hóa, nguy cơ suy thận cấp khi có giảm tưới máu thận, nguy cơ suy
tim ở bệnh nhân cao tuổi nhạy cảm do thuốc làm ứ dịch [107].
* Một số thay đổi khác
Điều nhiệt: Điều nhiệt bị tổn hại làm tăng nguy cơ hạ thân nhiệt ở
người cao tuổi. Rét run sau mổ làm tăng tiêu thụ oxy của cơ vân.
Nội tiết: Người cao tuổi ngày càng kém dung nạp với nhập
glucose. Tỷ lệ đái tháo đường tăng đến 25% ở tuổi 80.
Dinh dưỡng: Tình trạng dinh dưỡng thường kém ở người cao tuổi.
Dinh dưỡng trước mổ tốt có thể giảm biến chứng chu phẫu và số ngày
nằm viện.
Hệ huyết học và miễn dịch: Tăng đông máu và huyết khối tĩnh
mạch sâu hay gặp hơn khi tuổi càng cao.
1.1.2 Ảnh hưởng của gây mê và phẫu thuật lên người cao tuổi
Tỷ lệ tử vong chu phẫu tăng theo tuổi và phụ thuộc vào sức khỏe,
tính chất phẫu thuật và mổ phiên hay cấp cứu. Tỷ lệ tử vong tại viện đối
với phẫu thuật khớp háng ở bệnh nhân trên 70 tuổi là 5-24%. Các bệnh
nhân trên 80 tuổi được mổ phiên bệnh lý ung thư ổ bụng có tỷ lệ tử vong
tại viện là 0-15% đối với ASA 1 và tăng lên 20-30% đối với ASA 3. Khi
được đánh giá trước mổ tốt, lựa chọn phương pháp vô cảm phù hợp và
chế độ chăm sóc sau mổ hợp lý sẽ giúp cải thiện tỷ lệ tử vong chu phẫu [48] .
* Ảnh hưởng của một số thuốc gây mê trên người cao tuổi
Thuốc an thần: Cần giảm liều của các thuốc khi khởi mê như
thiopental, propofol, etomidat và cần dò liều theo đáp ứng trên lâm sàng.
Hạn chế sử dụng midazolam, thuốc được ghi nhận làm tăng nguy cơ loạn
thần sau mổ đặc biệt trên người cao tuổi. Tác động trên tuần hoàn của
7
propofol thường xuất hiện muộn hơn với mức độ nặng hơn. Tuy nhiên,
thời gian thay đổi nồng độ propofol trong máu giảm không bị kéo dài.
Các thuốc mê hô hấp có sự thay đổi rõ rệt về nồng độ MAC, nồng độ
này giảm theo tuổi ở tất cả các thuốc mê hô hấp [25].
Bảng 1.1: Thay đổi sinh lý trên người cao tuổi [131]
Thay đổi Ảnh hưởng
Huyết áp không ổn định. Nhạy cảm với tụt huyết áp Nhạy cảm với quá tải dịch. Suy giảm quá mức chức năng tim khi giảm tiền gánh.
Hô hấp
Cơ quan Tuần hoàn Giảm đáp ứng của hệ giao cảm Giảm độ đàn hồi của tĩnh mạch Giảm tiền gánh Giảm đáp ứng của các thụ thể cảm nhận Rối loạn chức năng tim thì tâm trương Tăng áp lực động mạch phổi Giảm đáp ứng với tình trạng thiếu oxi và thừa carbonic Giảm khối lượng cơ hô hấp và độ đàn hồi của phổi Giảm phản xạ ho và vận động thực quản
Thần kinh Giảm dẫn truyền thần kinh
Nội tiết
Giảm khả năng dung nạp glucose Giảm tỷ lệ thông khí – tưới máu Nhạy cảm với thiếu O2 và thừa CO2 Nhạy cảm với tổn dư của thuốc mê Tăng công hô hấp Tăng khoảng chết thông khí Nguy cơ trào ngược. Tăng nguy cơ loạn thần và rối loạn nhận thức sau mổ Nguy cơ tăng glucose máu trong mổ
Gan, thận Chuyển hóa thuốc bị thay
Giảm độ thanh thải thuốc Tăng nguy cơ suy thận cấp
Tăng nguy cơ hạ thận nhiệt.
đổi Giảm khối lượng thận Giảm khối lượng cơ Giảm phản ứng mạch máu Điều hòa nhiệt
8
Thuốc họ opioid: hệ thống thần kinh trung ương tăng nhạy cảm với các
opioid, các bằng chứng đều cho thấy cần giảm liều opioid trên người cao tuổi.
Trong giảm đau sau mổ, liều opioid cần được chuẩn độ với thời gian giữa hai
lần chuẩn độ dài hơn so với người trưởng thành. [25]
Thuốc giãn cơ: Thường khởi phát chậm với tác dụng kéo dài trừ
thời gian tác dụng của altracurium và cisaltracurium. Nên chọn thuốc
giãn cơ không chuyển hóa qua các tạng và đảm bảo không còn tồn dư
giãn cơ trước khi chuyển bệnh nhân khỏi phòng hồi tỉnh. Sử dụng các
thuốc đối kháng như neostigmin một cách hệ thống được khuyến cáo đặc
biệt trên các phẫu thuật ổ bụng, lồng ngực…[15]
1.1.3 Quản lý đau sau phẫu thuật ở người cao tuổi
Vì nhiều lý do mà đau sau phẫu thuật ở người cao tuổi thường
không được công nhận hoặc điều trị đúng cách. Tỷ lệ mắc bệnh của nó
có thể được đánh giá thấp hoặc đánh giá không đúng mà nguyên nhân
thường xuất phát từ những quan niệm sai lầm và thiếu hụt kiến thức cần
thiết để chẩn đoán. Trên người cao tuổi, các vấn đề như suy giảm nhận
thức, các triệu chứng liên quan đến tuổi tác hoặc các triệu chứng không
điển hình của quá trình bệnh lý là nguyên nhân dẫn tới đánh giá không
đúng tình trạng bệnh. Hơn nữa, kiểm soát đau sau phẫu thuật không đầy
đủ có thể dẫn đến ảnh hưởng xấu tới chức năng các cơ quan, nhận thức,
cảm xúc và xã hội. [31] [38] [59]
Theo IASP [59], cần thêm nhiều nghiên cứu và đánh giá về chống
đau cho người cao tuổi. Sự thay đổi về sinh lý, tâm lý và điều kiện xã hội
khiến cho việc đánh giá và điều trị đau trên người cao tuổi có những khó
khăn nhất định. Việc đánh giá bệnh nhân trước mổ có vai trò quan trọng,
sử dụng nhiều phương pháp đánh giá đau giúp tăng cao hiệu quả chẩn
đoán và điều trị. Việc đánh giá và điều trị đau ở người cao tuổi cần được
cá thể hóa, mỗi bệnh nhân cần được đánh giá và điều trị khác nhau.
9
* Đánh giá trước mổ
Đánh giá trước phẫu thuật nên bao gồm tiền sử tiêu chuẩn và xem xét
một cách hệ thống để ghi nhận cơn đau từ trước và các tình trạng khác không
chỉ liên quan đến bệnh lý phẫu thuật mà còn các bệnh lý liên quan.
Duy trì ổn định các chức năng hệ hô hấp, tuần hoàn, chuyển hóa
… Đánh giá và giảm thiếu các nguy cơ gây loạn thần sau mổ.
Điều trị các bệnh đồng thời nên được lưu ý, đặc biệt là khi điều trị
như hóa trị liệu có thể làm thay đổi chức năng tim hoặc phổi hoặc bệnh
lý tiểu đường gây nên tổn thương thần kinh ngoại vi.
Tiền sử sử dụng thuốc là một phần không thể thiếu trong việc
kiểm soát cơn đau ở tất cả bệnh nhân, đặc biệt trên người cao tuổi.
Điều quan trọng là phải đánh giá tuổi theo thời gian và tuổi sinh
học, trạng thái tinh thần và nhận thức, tình trạng chức năng và tình trạng
đau mãn tính. Việc kiểm tra thể chất cần dành sự chú ý đặc biệt không
chỉ cho khả năng giao tiếp và vận động của bệnh nhân mà còn đánh giá
các dấu hiệu thần kinh khu trú hoặc lan tỏa.[59]
* Đánh giá đau sau phẫu thuật
Cần xem xét bổ các phương pháp đánh giá đau cho người bệnh
bên cạnh các phương pháp đánh giá chủ quan như sử dụng thang điểm
VAS, NRS…[85]. Một số đánh giá được khuyến cao như:
Đánh giá quan sát và hành vi, bao gồm các dấu hiệu đau không lời.
Đánh giá và ghi nhận cường độ đau theo chu kỳ thường xuyên và
đều đặn.
Đánh giá đau khi vận động hoặc gắng sức như mức độ ảnh hưởng
của ho với khả năng chịu đựng cơn đau của người bệnh.
Đối với quản lý đau sau phẫu thuật nên có sự đánh giá phù hợp
với từng bệnh nhân. [59]
10
Có sự trao đổi với người bệnh và gia đình về lựa chọn phương
pháp giảm đau, kỳ vọng đạt được khi thực hiện phương pháp giảm đau.
Phối hợp sử dụng thuốc với các phương pháp hỗ trợ khác.
* Sử dụng thuốc trong giảm đau cho người cao tuổi
Bắt đầu với các liều thấp, tăng dần về liều và tần xuất sử dụng.
Ưu tiên sử dụng thuốc đạt hiệu quả giảm đau nhanh và dễ sử dụng.
Cân nhắc chuyển từ tiêm tĩnh mạch sang uống thuốc giảm đau khi
bệnh nhân có thể dùng chúng an toàn.
Đánh giá chức năng gan và thận đặc biệt là sau phẫu thuật khi
người bệnh bị mất máu sau phẫu thuật và sử dụng các thuốc có ảnh
hưởng tới chức năng thận.
Ưu tiên các loại thuốc không chứa opioid khi bị đau nhẹ đến trung
bình và xem xét opioid khi bị đau từ trung bình đến nặng.
Xem xét sử dụng thuốc giảm đau trước khi kết thúc phẫu thuật. [59]
* Thuốc và các phương pháp giảm đau thường sử dụng ở người cao tuổi
- Acetaminophen: Là thuốc điều trị đầu tiên vì hiệu quả và an toàn
của nó, đặc biệt là trong cơn đau từ nhẹ đến trung bình. Liều tối đa
không quá 4g/ 24 giờ. Sử dụng thận trọng ở bệnh nhân mắc bệnh gan.
- NSAID: Thuốc có tác dụng giảm đau tốt tuy nhiên tác dụng
không mong muốn cần phải xem xét. Sử dụng liều thấp nhất trong thời
gian ngắn nhất. Theo dõi chặt chẽ các tác dụng phụ bao gồm xuất huyết
tiêu hóa, độc tính thận và mê sảng [18]
- Opioid: Thường được sử dụng đường tĩnh mạch hoặc qua đường
ngoài màng cứng trong 24-48 giờ sau phẫu thuật. Giảm đau do bệnh
nhân tự điều khiển mang lại hiệu quả cao trên những bệnh nhân có thể
phối hợp để sử dụng máy PCA. Tăng độ nhạy cảm với tác dụng an thần
của opioid thường được thấy ở người cao tuổi. [25]
11
Theo dõi chặt chẽ các tác dụng không mong muốn như ức chế hô
hấp, an thần, bí tiểu và táo bón.
- Gây tê vùng: Là phương pháp giảm đau tốt, có tác dụng kéo dài
như giảm đau ngoài màng cứng mang lại hiệu quả giảm đau tốt với thời
gian kéo dài tới 72 giờ. Sử dụng gây tê thân thần kinh trong điều kiện
cho phép. [64] [108] [131]
Kết hợp gây tê vùng với opioid trong giảm đau đa phương thức
giúp tăng hiệu quả giảm đau và giảm các tác dụng không mong muốn.
Nhân viên y tế cần được đào tạo về thực hiện giảm đau bằng gây tê vùng
cả về kỹ thuật, thuốc sử dụng, cách theo dõi và xử trí các tai biến, biến
chứng. Đặc biệt là đề phòng ngộ độc thuốc tê.
- Giảm đau đa phương thức: Phối hợp các nhóm thuốc khác nhau
trong đó giảm đau bằng gây tê vùng, thuốc opioid và các thuốc giảm đau
phi steroid được coi là thành phần chủ yếu. Các thuốc phối hợp được lựa
chọn như thuốc tác động chống động kinh, lidocain tĩnh mạch, ketamin,
nefopam… là các thuốc dự phòng đau được phối hợp với các thuốc giảm
đau mạnh với mục đích tăng hiệu quả giảm đau và giảm lượng thuốc cần
sử dụng đặc biệt là với opioid. Phối hợp với các phương pháp không sử
dụng thuốc can thiệp như tác động tâm lý, vật lý trị liệu, châm cứu…[7]
[59] [101]
1.2 Phẫu thuật thay khớp háng
1.2.1 Giải phẫu khớp háng
* Thành phần cầu tạo khớp háng
Khớp háng là khớp chỏm điển hình tiếp nối xương đùi vào chậu
hông. Khớp nằm giữa bẹn và mông, có nhiều cơ che phủ nên phẫu thuật
khó khăn.
Thành phần chính của khớp gồm chỏm xương đùi, ổ cối của
xương chậu và sụn viền.
12
Khớp được che phủ và bảo vệ bởi bao khớp, các dây chằng. Có
hai loại dây chằng là dây chằng tròn trong khớp bám từ hõm chỏm
xương đùi đến đáy ổ cối rồi vòng xuống bám vào khuyết ổ cối. Dây
chằng ngoài khớp gồm ba dây chằng chính là dây chằng ngồi đùi, dây
chằng chậu đùi và dây chằng mu đùi.
Khớp háng có liên quan tới nhiều thành phần trong đó mặt trước
khớp liên quan với tam giác đùi có bó mạch thần kinh đùi. Phía sau liên
quan tới mạch máu, cơ và thần kinh khu mông trong đó đặc biệt là dây
thần kinh hông to.
Khớp háng là khớp chỏm điển hình với động tác rộng rãi hay bị chấn
thương. Đường rạch vào khớp an toàn và thuận lợi là đường rạch từ gai chậu
trước dưới dọc theo bờ ngoài của cơ may để vào ổ khớp. [3] [10] [17]
* Chi phối thần kinh cho khớp háng
Chi phối thần kinh chính cho khớp háng là thần kinh bịt. Đây là
thần kinh được tách ra từ đám rối thắt lưng. Thần kinh bịt được tạo thành
bởi các nhánh trước của các dây thần kinh đốt sống LII, III, IV tạo nên.
Thần kinh bịt chi phối vận động cho các cơ ở đùi trong và chi phối cảm
giác của khớp háng, khớp gối, mặt trong đầu gối. [17]
Trong phẫu thuật, ngoài tổn thương tại vị trí khớp háng cảm giác
đau còn được nhận cảm tại vị trí đường rạch da, các tổ chức bị tổn
thương khi phẫu thuật viên phẫu tích bộc lộ khớp. Các vùng da và tổ
chức này thường được chỉ phối bởi dây thần kinh đùi bì ngoài là dây
thần kinh được tạo thành bởi các nhánh sau của thần kinh LII, III với vùng
chi phối cảm giác cho mặt ngoài đùi và phần ngoài của mông. Các cơ
liên quan tới phẫu thuật như nhóm cơ tứ đầu đùi, cơ mông lớn, cơ mông
bé… thường được chi phối bởi dây thần kinh đùi và dây thần kinh chậu
hạ vị, chậu bẹn. Đây là các dây thần kinh được tác ra từ đám rối thần
13
kinh thắt lưng. Đám rối này được tạo thành bởi ngành trước của bốn dây
thần kinh thắt lưng đầu tiên là LI, II, III, IV. [17]
1.2.2 Phẫu thuật thay khớp háng
Phẫu thuật thay khớp háng là phẫu thuật với mục đích thay thế
khớp bị tổn thương bởi một khớp nhân tạo. Khớp nhân tạo có các thành
phần là ổ cối, chỏm khớp và cán khớp, các thành phần này có thể được
làm từ kim loại, vật liệu sinh học hoặc gốm. Các vật liệu được sử dụng
thay thế có tính chất tương hợp sinh học - có nghĩa là chúng được chấp
nhận bởi cơ thể - và có thể chống ăn mòn.[77]
Thay thế khớp háng thường được sử dụng cho những người bị tổn
thương khớp háng từ bệnh lý nội khoa như viêm khớp, hoại tử khớp hoặc
chấn thương. Cùng với phục hồi chức năng, thay khớp háng có thể làm
giảm đau và phục hồi khả năng vận động và chức năng của khớp. [8]
Trên lâm sàng, việc thay khớp sẽ được bác sỹ phẫu thuật quyết
định dựa vào các yếu tố như tổn thương của bệnh lý, tuổi của bệnh nhân,
mức độ cần thay thế của khớp… Thay khớp háng được phân thành hai
loại chính là thay khớp toàn phần và thay khớp bán phần. Trong đó, thay
khớp háng toàn phần là thay thế toàn bộ khớp với các thành phần ổ cối,
chỏm khớp. Phẫu thuật thay khớp háng bán phần là phẫu thuật chỉ thay
phần chỏm xương đùi hoặc ổ cối bị hư hỏng bằng chỏm xương đùi hoặc
ổ cối nhân tạo. Thông thường, trong hầu hết các trường hợp, ổ cối vẫn
được giữ nguyên và chỉ thay thế chỏm xương đùi bị tổn thương bằng
chỏm xương đùi nhân tạo.[19] [47] [135]
Hiện nay, khớp háng nhân tạo bán phần đã được cải tiến và gồm
nhiều phần cấu trúc (module) liên kết với nhau, giúp bệnh nhân vận động
linh hoạt hơn và không bị hạn chế. Hình thức phổ biến của nhất của
khớp háng nhân tạo bán phần là khớp lưỡng cực. Thay khớp háng bán
phần được chỉ định cho tổn thương cổ hoặc chỏm xương đùi ở người già,
14
cần rút ngắn thời gian phẫu thuật. Một số trường hợp gãy phức tạp khối
mấu chuyển ở người lớn tuổi cũng được chỉ định thay khớp háng bán
phần để giúp bệnh nhân vận động sớm ngay sau khi mổ. Phần chỏm
khớp được gắn với xương đùi của người bệnh bằng phần cán khớp. Phần
cán này có thể được cố định tự nhiên hoặc được gắn thêm xi măng sinh
học để tăng thêm độ vững chắc.[44]
Phẫu thuật thay thế khớp háng nói chung là an toàn, nhưng như
với bất kỳ phẫu thuật, biến chứng có thể xảy ra. Các biến chứng của thay
khớp háng như huyết khối tĩnh mạch sâu, thuyên tắc phổi do cục máu
đông… Nguy cơ nhiễm trùng vết mổ, trật khớp sau mổ, lỏng khớp, cứng
khớp và khớp giả sẽ bị bào mòn theo thời gian… Vì vậy, bệnh nhân cần
được tư vấn cụ thể và chi tiết trước khi phẫu thuật để có sự chuẩn bị tốt
nhất. Đồng thời, gia đình cũng cần phải lưu ý chăm sóc sau phẫu thuật
để bệnh nhân phục hồi tốt nhất [8] [54] [67] [114]
1.2.3 Chuẩn bị phẫu thuật khớp háng
Chuẩn bị bệnh nhân được tiến hành sớm ngay từ khi bệnh nhân có
chỉ định phẫu thuật. Khám và chuẩn bị trước gây mê là bước bắt buộc
phải thực hiện. Phương pháp vô cảm sẽ được bác sĩ gây mê lựa chọn để
phù hợp nhất với từng người bệnh cụ thể. Gây mê nội khí quản có ưu
điểm về kiểm soát đường thở và huyết động, tuy nhiên đối với người cao
tuổi phương pháp vô cảm thường được lựa chọn là gây tê tủy sống hoặc
gây tê thân thần kinh. Đây là các phương pháp có mức vô cảm tốt, gây tê
tủy sống có những ảnh hưởng đặc biệt trên tuần hoàn của bệnh nhân
nhưng gây tê thân thần kinh giúp hạn chế ảnh hưởng trên tuần hoàn cũng
như toàn thân [64] [99] [121].
Việc dự phòng các tai biến như là nhiễm trùng và huyết khối tĩnh
mạch đòi hỏi phải được tiến hành ngay từ trước khi phẫu thuật. Kháng
15
sinh dự phòng, pha loãng máu, dự phòng huyết khối là những việc được
ưu tiên.
* Dự phòng huyết khối
Sau khi phẫu thuật, nguy cơ hình thành các cục máu đông ở chi
dưới đặc biệt ở các tĩnh mạch sâu [27]. Biện pháp có thể để ngăn ngừa
biến chứng này bao gồm:
Vận động sớm được khuyến khích để ngồi dậy và thậm chí cố
gắng đi bộ với nạng hay khung tập đi ngay sau khi phẫu thuật. Điều này
có thể bắt đầu trong cùng một ngày phẫu thuật hoặc vào ngày hôm sau.
Tất áp lực được duy trì cả trong và sau khi phẫu thuật, có thể mặc
tất đàn hồi hoặc tất bơm hơi ở chi dưới. Áp lực tác dụng làm giảm lượng
máu bị ứ đọng trong các tĩnh mạch chi dưới, đặc biệt là các tĩnh mạch bị
giãn hoặc suy van tĩnh mạch. Từ đó làm giảm nguy cơ hình thành các
cục máu đông [27].
Thuốc chống đông có thể được sử dụng trên các bệnh nhân có
nguy cơ tắc mạch cao như rung nhĩ, tiền sử huyết khối… Các thuốc được
sử dụng có thể là heparin trọng lượng phân tử thấp, các thuốc kháng vitamin
K… Các thuốc được sử dụng có chỉ dịnh và phác đồ rõ ràng [27] [127]
1.2.4 Đau sau phẫu thuật thay khớp háng
Đau sau phẫu thuật khớp háng nói riêng và đau sau mổ nói chung là
đau có nguồn gốc xuất phát từ tổn thương ở vị trí phẫu thuật. Trong phẫu thuật
khớp háng, thành phần tổn thương bao gồm đầu trên xương đùi, khớp háng và
ổ cối ở xương chậu. Ngoài ra, tồn thương da và tổ chức phần mềm theo đường
mở vào khớp. Một số trường hợp, đau còn do nguyên nhân dẫn tới phải thay
khớp háng như viêm khớp, thoái hóa … [46] [119]
Đau sau phẫu thuật thay khớp háng ngoài vấn đề ảnh hưởng lên
toàn thân như những đau cấp tính sau mổ khác. Việc hạn chế vận động
do đau sau mổ còn là nguyên nhân dẫn tới nhiều biến chứng nguy hiểm.
16
Việc giảm đau sau mổ tốt là yếu tố quan trọng giúp bệnh nhân sớm phục
hồi và có thể xuất viện sớm. [8] [32] [47]
* Giảm đau sau phẫu thuật thay khớp háng
Có nhiều phương pháp giảm đau được áp dụng trong quản lý đau
sau phẫu thuật thay khớp háng. Sử dụng thuốc giảm đau toàn thân như
NSAID [18], nefopam, các opioid… [20] [51] Phương pháp gây tê vùng
thường được áp dụng như gây tê ngoài màng cứng, gây tê đám rối thần
kinh thắt lưng, gây tê thân thần kinh cũng mang lại hiệu quả cao [130]
[29]. Mô hình giảm đau đa phương thức với việc phối hợp các phương
pháp giảm đau với nhau để nâng cao hiệu quả giảm đau và giảm lượng
thuốc sử dụng, qua đó giảm các tác dụng không mong muốn, tai biến và
biến chứng. [28] [33]
1.3 Phương pháp giảm đau đường ngoài màng cứng do bệnh nhân
tự điều kiển.
1.3.1 Gây tê ngoài màng cứng
1.3.1.1 Giải phẫu khoang ngoài màng cứng
Những hiểu biết về sự khác nhau giữa khoang ngoài màng cứng
góp phần vào thành công của kỹ thuật giảm đau ngoài màng cứng. Vị trí
gây tê ngoài màng cứng thường được tiến hành ở vùng cột sống thắt lưng
và cột sống ngực. Một số chuyên ngành có sử dụng phương pháp gây tê
ngoài màng cứng đoạn cổ nhưng có chỉ định hạn chế. Phương pháp gây
tê khoang ngoài màng cứng đoạn xương cùng có kỹ thuật thực hiện khác
với kỹ thuật gây tê ngoài màng cứng ngực và lưng. Có 12 đốt sống ngực
và 5 đốt sống thắt lưng, giới hạn phía trước là giây chằng dọc sau. Giới
hạn trước bên được tạo nên từ các cuống sống, giới hạn sau bên là bản
mỏng và dây chằng vàng. Dây chằng vàng nằm ngay sát phía trong các
dây chằng liên gai. Các dây chằng trên ̉ người cao tuổi thường xơ dày,
17
đôi khi vôi hóa làm cản trở việc tiến kim gây tê ngoài màng cứng. Các
gai sau được liên kết theo độ nghiêng dốc từ trên xuống. [14]
Khoang ngoài màng cứng là khoang ảo và không liên tục và phân
bố theo phân đoạn. Màng cứng dính trực tiếp vào thành ống sống ̉ vùng
thắt lưng và khoang ngoài màng cứng thắt lưng chứa nhiều mỡ hơn.
Ngược lại, khoang ngoài màng cứng ngực chứa ít mỡ hơn và màng cứng
ít gắn kết với thành ống sống hơn. Phía trước khoang ngoài màngcứng
ngực có nhiều tĩnh mạch nối với đám rối tĩnh mạch đốt sống thân nền và
tĩnh mạch azygos. Đường kính rễ thần kinh vùng ngực chỉ bằng một nửa
rễ thần kinh vùng lưng.
Khi tiêm vào khoang ngoài màng cứng, thuốc lan tỏa qua các kênh
nhỏ, thể tích càng lớn sự lan tỏa càng nhiều. Thuốc lan tỏa theo hướng ra
rễ thần kinh qua lỗ gian đốt. Khoang ngoài màng cứng phía trước hẹp,
phía sau có chỗ rộng từ 1 - 3 mm, rộng nhất ngang mức L2 tới 5 - 6 mm
rồi hẹp dần lên phía cổ. Có tất cả 58 lỗ nối thông khoang ngoài màng
cứng với khoang cạnh sống. Thể tích khoang ngoài màng cứng khoảng
100 - 150 ml. Sự lan tỏa của thuốc tê trong khoang ngoài màng cứng
rộng hơn ở người cao tuổi. [14]
1.3.1.2 Ảnh hưởng của tuổi tới phân bố trong khoang ngoài màng cứng
Thể tích thuốc tê cho mỗi phân đốt tăng dần từ 10 - 20 tuổi, cao
nhất là 2 ml/phân đốt, sau đó giảm dần cho tới tuổi 80, thấp nhất là 0,8
ml/phân đốt. Cùng một thể tích thuốc tê được tiêm vào khoang NMC, ở
nhóm trên 60 tuổi thuốc lan tỏa và ức chế lên cao hớn 3-8 đốt sống so
với nhóm bệnh nhân dưới 40 tuổi.
Giảm số lượng các sợi thần kinh được bọc myelin, sự thoái hóa
lớp mucopolysaccharid trong chất nền tế bào thần kinh trên người cao
tuổi làm thuốc tê dễ dàng thâm nhập vào các rễ thần kinh hơn.
18
Thể tích thuốc tê: Là yếu tố quan trọng nhất xác định số phân đốt
bị ức chế, thể tích càng cao số phân đốt bị ức chế càng nhiều. Thể tích
cần để ức chế 1 phân đốt tỷ lệ nghịch với tuổi. [14] [22]
1.3.1.3 Ảnh hưởng của gây tê ngoài màng cứng
* Ảnh hưởng lên tuần hoàn
Phẫu thuật làm tăng nhu cầu oxy của cơ tim trong khi lại làm co
mạch vành (giảm cung cấp) là nguyên nhân chính gây thiếu máu cục bộ
và nhồi máu cơ tim giai đoạn chu phẫu. Gây tê ngoài màng cứng bằng
thuốc tê nồng độ thấp phối hợp với thuốc opioid có tác dụng giảm đau
tốt, giảm kích thích của đau lên hệ tuần hoàn, cải thiện sự cân bằng giữa
nhu cầu và cung cấp oxy cho cơ tim. Mức độ ảnh hưởng tới tuần hoàn
phụ thuộc vào lượng thuốc tê sử dụng, vùng phong bế rộng hay hẹp.
Vùng phong bế càng rộng, thì mức độ ức chế giao cảm càng nhiều, từ đó
dẫn tới hiện tượng thiếu khối lượng tuần hoàn do giãn các mạch máu ở
ngoại vi làm giảm tuần hoàn về gây giảm tiền gánh.
* Ảnh hưởng lên chức năng hô hấp
Sau phẫu thuật lớn, người bệnh thường có thời gian nằm trên
giường bệnh kéo dài mà nguyên nhân chủ yếu là đau sau mổ. giảm đau
sau phẫu thuật tốt có thể giúp người bệnh vận động sau mổ sớm, có thể
thay đổi tư thế, tập ngồi và đứng dậy sớm. Từ đó làm giảm các biến
chứng về hô hấp như viêm phổi do ứ đọng… giảm đau ngoài màng cứng
là phương pháp có mức giảm đau tốt nhất, đặc biệt là hiệu quả giảm đau
khi vận động. Do đó, giảm đau ngoài màng cứng có ảnh hưởng tốt lên
chức năng hô hấp của người bệnh, đặc biệt là người cao tuổi có nhiều
yếu tố nguy cơ suy hô hấp.
* Ảnh hưởng lên hệ tiêu hóa – tiết niệu
Gây tê ngoài màng cứng bằng thuốc tê làm tăng tưới máu ruột,
giảm hoạt tính giao cảm ruột, tăng nhu động và lưu thông ruột. Ngược
19
lại, gây tê ngoài màng cứng bằng thuốc opioids làm giảm nhu động ruột
và gây táo bón. Các opioid làm tăng tỷ lệ bí tiểu khi được sử dụng trong
phong bế thần kinh trung ương. Tuy nhiên, mức độ giảm đau tốt có ảnh
hưởng tốt lên chức năng thận.
* Ảnh hưởng lên vận động
Một trong những ảnh hưởng không mong muốn của gây tê ngoài
màng cứng ở thấp là nguy cơ gây ức chế vận động. Đây là tác động dẫn
tới sự khó chịu trên người bệnh. Khi tiến hành gây tê ngoài màng cứng,
thuốc tê sẽ ức chế thần kinh giao cảm, thần kinh cảm giác rối mới tới
thần kinh vận động. Việc ức chế vận động có nhiều tác động không tốt
trên người bệnh. Ức chế vận động làm giảm khả năng vận động sớm của
người bệnh, gia tăng nguy cơ tắc mạch sau mổ … Trong giảm đau sau
mổ, người bệnh cũng như bác sĩ mong muốn ức chế cảm giác đau và hạn
chế ức chế vận động. Thuốc tê ropivacain là thuốc tê có mức độ ức chế
cảm giác nhiều hơn so với ức chế vận động. Đây là ưu điềm nổi bật của
ropivacain so với các thuốc tê khác đang sử dụng như bupivacain hay
levobupivacain. [14]
1.3.2 Giảm đau ngoài màng cứng do bệnh nhân tự điều khiển
Từ những năm 60 của thế kỷ trước đã có những nghiên cứu chứng
minh hiệu quả của việc sử dụng morphin tĩnh mạch giúp kiểm soát đau
tốt hơn so với tiêm bắp. Tuy nhiên việc duy trì morphin tĩnh mạch còn
khó khăn do thiếu thốn trang thiết bị. Năm 1968 tác giả Phillip Sechzer
đã đưa ra vấn đề sử dụng morphin theo nhu cầu của người bệnh nhưng
việc tiêm thuốc được thực hiện bởi y tá. Phương pháp trên đã chứng
minh được tính hiệu quả, tuy nhiên việc giảm đau với số lượng lớn bệnh
nhân lại không khả thi do không có đủ nhân lực. Do đó, nhu cầu có một
trang thiết bị giúp cung cấp thuốc cho người bệnh một cách có kiểm soát
là cần thiết [53].
20
Đến năm 1976, máy PCA đầu tiên được đưa ra thị trường. Cardiff
Palliator là thương hiệu máy PCA đầu tiên được giới thiệu bởi Trường Y
Khoa quốc gia Welsth. Sau đó, nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật
người ta không ngừng cải tiến máy PCA, cho đến nay, PCA đã trở thành
một thiết bị nhỏ gọn, dễ vận hành, có thể di chuyển cùng người bệnh. [53]
Ưu điểm của PCA hiện nay là tính linh động cao, có thể thay đổi
các thông số cài đặt trên máy một cách đơn giản (liều bolus, giới hạn
liều, thời gian khóa, liều duy trì liên tục…). Các thông số cài đặt này cho
phép bác sỹ kiểm soát lượng thuốc sử dụng, người bệnh dễ dàng sử dụng
máy do chỉ cần bấm máy khi có nhu cầu sử dụng thuốc [23] [53].
Một số máy PCA nhỏ gọn đã được nghiên cứu và đưa ra thị trường,
máy PCA sử dụng một lần cũng được giới thiệu, thiết bị này giảm bớt sự
phụ thuộc vào nguồn điện, giúp bệnh nhân có thể di chuyển dễ dàng hơn,
ít sai sót khi phải cài đặt thông số. Tuy nhiên giá thành cao, việc tiếp cận
với bộ phận chứa thuốc dễ dàng cũng là những vấn đề cần lưu ý.
Ngày nay, có rất nhiều phương pháp giảm đau được nghiên cứu và
áp dụng trên lâm sàng nhưng PCA vẫn là phương pháp giảm đau tiêu
chuẩn, an toàn và hiệu quả. Phương pháp còn dễ dàng kết hợp với các
phương pháp khác trong giảm đau đa phương thức. [53]
Cùng với phát triển giảm đau PCA đường tĩnh mạch, giảm đau
PCA cũng được nghiên cứu và phát triển với các kỹ thuật gây tê như gây
tê ngoài màng cứng.
Nhiều nghiên cứu kết luận PCEA giảm đau tốt hơn, bệnh nhân hài
lòng hơn và tiêu thụ ít thuốc giảm đau hơn, ít tác dụng không mong
muốn như ít ức chế giao cảm và vận động hơn so với gây tê ngoài màng
cứng liên tục CEI (Continuous Epidural Infusion). [2]
Giảm đau tự điều khiển đường ngoài màng cứng vẫn sử dụng các
thông số cài đặt như khi giảm đau tự điều khiển đường tĩnh mạch như
21
liều nạp ban đầu, liều yêu cầu, khoảng thời gian khóa, tốc độ nền, liều
giới hạn trong 1 giờ hoặc 4 giờ. Tuy nhiên, thuốc sử dụng trong PCEA
hiện nay là sự phối hợp giữa thuốc tê nồng độ thấp với thuốc họ morphin
để vừa tăng cường chất lượng giảm đau, vừa giảm tác dụng không mong
muốn so với khi dùng các thuốc đơn thuần liều cao. [128]
Cho đến nay, PCA tĩnh mạch opioid và PCEA là hai kỹ thuật tiên
tiến trong điều trị đau cấp tính sau phẫu thuật. Phần mềm tự điều khiển
được tích hợp vào bơm tiêm điện giúp bệnh nhân chủ động điều chỉnh
liều thuốc giảm đau trong giới hạn cài đặt của bác sỹ. [63] [74]
1.3.3 Nguyên lý hoạt động
Patient controlled epidural analgesia là phương pháp đưa thuốc
giảm đau vào đường ngoài màng cứng qua một thiết bị cho phép bệnh
nhân tự sử dụng các liều thuốc theo nhu cầu giảm đau của bản thân.
Thuốc và liều thuốc đưa vào được kiểm soát bởi bác sĩ thông qua việc cài
đặt thông số trên máy.
Bằng việc sử dụng thiết bị này, bác sĩ có thể sử dụng nhiều loại
thuốc khác nhau, sử dụng nhiều đường khác nhau như tĩnh mạch với các
thuốc họ opioid hoặc ngoài màng cứng với các thuốc gây tê.
Nguyên lý vận hành máy PCA dựa vào vòng phản hồi ngược đơn
giản, trong đó sau khi được thiết lập, khi người bệnh xuất hiện đau ở
mức độ mong muốn sử dụng thuốc, người bệnh chỉ phải thực hiện với
máy qua một nút bấm để thông báo nhu cầu sử dụng thuốc giảm đau tới
máy PCA, lúc này dựa vào thông số được đặt trên máy, một lượng thuốc
giảm đau được tiêm vào tĩnh mạch cho người bệnh
22
Hình 1.1: Sự thay đổi nồng độ thuốc trong máu
Jeffrey A. Grass, Anesth Analg. Vol 101, pg. S44–S61. [53]
Như vậy, lượng thuốc giảm đau sẽ phụ thuộc vào chính người
bệnh, việc cài đặt thông số máy giúp kiểm soát tổng lượng thuốc đưa
vào, quá trình phân bố thuốc trong suốt thời gian giảm đau. Điều này
giúp giảm bớt tai biến do quá liều thuốc và các tác dụng không mong
muốn khi sử dụng một lượng thuốc lớn.
Khi sử dụng PCA, người bệnh tự điều chỉnh mức độ đau, từ đó
giảm bớt lượng thuốc sử dụng mà vẫn đảm bảo hiệu quả giảm đau, giảm
các tác dụng không mong muốn. Đây cũng là một ưu điểm nổi bật so với
các phương pháp giảm đau khác. [53] [107]
Bằng việc duy trì cung cấp một liều nhỏ thuốc giảm đau theo nhu
cầu tối thiểu của người bệnh giúp duy trì nồng độ thuốc giảm đau trong
máu của người bệnh ở trong ngưỡng có mức giảm đau, như vậy lượng
thuốc giảm đau được sử dụng là tối ưu. Về điểm nay, PCA thể hiện ưu
23
thế vượt trội so với các phương pháp giảm đau thông thường khác như
tiêm bắp hoặc tiêm dưới da [107].
1.3.4 Thông số trên máy PCEA
Trên bất kỳ máy PCA nào cũng có phần cài đặt, một số máy PCA
sử dụng một lần phần cài đặt được mặc định sẵn. Các thông số cài đặt
trên máy giúp cho bác sĩ kiểm soát được lượng thuốc người bệnh sử
dụng và sự phân bố thuốc trong thời gian sử dụng, từ đó giúp tối ưu hóa
lượng thuốc, cân bằng giữa giảm đau và tác dụng không mong muốn.
Các yếu tố trên đảm bảo sự an toàn cho người bệnh trong quá trình thực
hiện giảm đau.
1.3.4.1 Liều tấn công
Khi bắt đầu sử dụng giảm đau, theo nguyên tắc nên đưa mức độ
đau của người bệnh theo thang điểm VAS < 4. Do đó, các máy giảm đau
tự điều khiển có cài đặt để sử dụng liều tấn công khi bắt đầu, tuy nhiên
do nhu cầu lúc này của mỗi bệnh nhân là khác nhau, với một liều tấn
công cố định thường hiệu quả không cao, một số bệnh nhân không đủ để
giảm VAS < 4, trong khi một số khác có thể quá thừa thuốc dẫn đến các
tác dụng không mong muốn. Hiện nay, trên thực hành lâm sàng các bác
sĩ thường tiến hành chuẩn độ với liều nhỏ thuốc opioid tới khi điểm đau
dưới 4, sau đó cài đặt máy PCA cho người bệnh. Khi sử dụng đường
ngoài màng cứng, liều tấn công thường được các bác sỹ lựa chọn tính
theo công thức liên quan tới chiều cao, một số tác giả cũng sử dụng liều
chuẩn độ bằng đường ngoài màng cứng. [53] [107]
1.3.4.2 Liều bolus
Còn gọi là liều yêu cầu, là lượng thuốc giảm đau được tiêm sau
mỗi lần bấm nút yêu cầu thành công. Đây là phần cài đặt quan trọng,
người đặt cân nhắc tính toán liều lượng thuốc thông qua liều bolus vì
lượng thuốc sử dụng chính thông qua liều bolus. Mỗi bệnh nhân đáp ứng
24
với một lượng thuốc khác nhau, do đó nếu đặt chung cho tất cả các bệnh
nhân dẫn tới thừa hoặc thiếu thuốc trong mỗi lần yêu cầu.
Liều bolus có ảnh hưởng lớn tới sự thành công hay thất bại của
phương pháp PCA, nếu lượng thuốc quá nhỏ không đủ để giảm đau, nếu
lượng thuốc quá lớn có thể gây ra nhiều tác dụng không mong muốn.
Ngoài việc điều chỉnh liều bolus, người bệnh cũng có thể tự điều
chỉnh liều thuốc bằng tăng số lần bấm. Tuy nhiên nếu liều đặt bolus
không phù hợp thường làm tăng số lần bấm yêu cầu giảm đau, tăng mức
độ khó chịu của người bệnh. Một số tác giả cho rằng PCA không phải là
một phương tiện trong đó “một chế độ phù hợp cho tất cả các bệnh nhân”
và đây không phải là phương pháp được sử dụng theo “kiểu cài đặt rồi
quên”. Cần có sự phối hợp giữa người bệnh, máy và nhân viên y tế, sự
hiệu chỉnh liều là cần thiết giúp phương pháp đạt hiệu quả tối đa.
Khi tiến hành đặt liều bolus cần tính tới các yếu tố ảnh hưởng đến
nhu cầu sử dụng thuốc giảm đau của người bệnh, một số yếu tố ảnh
hưởng như tuổi của người bệnh, tiền sử sử dụng opioid… ngoài ra trong
quá trình vận hành liều bolus nên được hiệu chỉnh để đạt cân bằng giữa
hiệu quả giảm đau và tác dụng không mong muốn.[107]
Trong thực hành lâm sàng, có hai thông số liên quan tới liều bolus
là số lần bấm nút yêu cầu của người bệnh (D = demand) và số lần bấm
nút yêu cầu thành công (A = actual) có nghĩa là có bơm thuốc vào người
bệnh, dựa vào tỷ lệ giữa A/D cũng có thể có sự điều chỉnh liều bolus cho
phù hợp. Tuy nhiên, tỷ lệ A/D nhiều khi chịu ảnh hưởng bởi tâm lý của
người bệnh như quá lo lắng, sợ hãi, hoặc do người bệnh chưa thực sự
hiểu cách sử dụng máy PCA. Một yếu tố quan sát thấy trên lâm sàng là
sau khi bấm bolus mà chưa đạt hiệu quả mong muốn, người bệnh có xu
hướng liên tục bấm nút yêu cầu thêm thuốc.
25
1.3.4.3 Thời gian khóa
Là khoảng thời gian giữa hai lần bolus thành công gần nhất nghĩa
là sau một liều bolus thì phải đợi hết thời gian khóa PCA mới thực hiện
liều bolus tiếp theo. Đây là một yếu tố giúp kiểm soát lượng thuốc đưa
vào và kiểm soát cả tiến trình phân bố sử dụng thuốc của người bệnh.
Thời gian khóa phải đạt được tiêu chí như sau liều bolus đã đạt được
hiệu quả giảm đau không, có xuất hiện tác dụng phụ không trước khi sử
dụng liều thuốc bolus tiếp theo.
Có thể thấy rằng mỗi loại thuốc khác nhau yêu cầu có thời gian
khóa khác nhau, mỗi liều bolus khác nhau cũng yêu cầu một thời gian
khóa khác nhau nó phụ thuộc vào đường dùng thuốc, thời gian tác dụng,
thời gian đạt tác dụng tối đa. Tuy nhiên, các khuyến cáo đều đưa ra thời
gian khóa của thuốc họ morphin thường từ 5-10 phút. Các nghiên cứu chỉ
ra rằng không có sự khác biệt về mức độ giảm đau và tác dụng phụ với
thời gian khóa của một thuốc opioid. Khi một bệnh nhân chưa đạt đủ
mức độ giảm đau có thể hiệu chỉnh thời gian khóa, tuy nhiên nếu thời
gian khóa là 5-6 phút thì xem xét thay đổi cả liều bolus để mang lại hiệu
quả tốt nhất. [107]
1.3.4.4 Giới hạn liều
Là lượng thuốc tối đa mà người bệnh có thể sử dụng trong một
khoảng thời gian, tùy theo từng cách cài đặt có thể là trong 1 giờ hoặc
trong 4 giờ. Trong khoảng thời gian này, cho dù người bệnh có bấm máy
rất nhiều lần nhưng lượng thuốc tối đa không thể vượt quá liều giới hạn.
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, các triệu chứng ngộ độc opioid có
thể xuất hiện trước khi tới liều giới hạn. Đây vẫn là một phần quan trọng
để kiểm soát lượng thuốc được đưa vào người bệnh nhân.
Bằng cách thay đổi nhu cầu opiod của bệnh nhân, chúng ta có thể
làm giảm lượng thuốc và tăng tính hiệu quả của PCA.
26
Mặc dù đã có các cơ chế giúp kiểm soát liều, nhưng công tác đào tạo
nhân viên y tế về theo dõi, kiểm tra và xử trí tình huống vẫn là yếu tố tiên
quyết không thể thay thế. Việc giáo dục bệnh nhân, đào tạo nhân viên y tế là
hết sức quan trọng trong việc sử dụng hiệu quả phương pháp giảm đau và
giám sát sự an toàn của phương pháp. [53]
1.3.4.5 Liều duy trì
Các máy PCA đều có chế độ đặt liều duy trì liên tục. Mục đích là
giữ cho nồng độ thuốc trong máu hằng định, như vậy bệnh nhân ít phải
bấm nút yêu cầu thuốc. Người ta hy vọng với liều duy trì người bệnh có
thể nghỉ ngơi nhiều hơn do không bị làm phiền bởi cơn đau. Không nên
đặt liều duy trì vượt quá 50% tổng liều trong 24 giờ. Nếu đặt lượng thuốc
duy trì cao có thể dẫn tới tăng cao tác dụng không mong muốn.
Liều duy trì không khuyến cáo khi sử dụng PCA các thuốc họ
morphin đường tĩnh mạch, tuy nhiên trong giảm đau ngoài màng cứng do
bệnh nhân tự điều khiển, liều duy trì có vai trò quan trọng trong việc duy
trì tác động liên tục của thuốc tê. [53]
1.3.5 Tác dụng không mong muốn
Tác dụng không mong muốn của PCEA bao gồm các tác dụng liên
quan tới sử dụng thuốc như các thuốc opioid và thuốc tê. Các tác dụng
không mong muốn thường gặp như ức chế hô hấp, an thần, ngứa, buồn
nôn, nôn, giảm nhu động dạ dày ruột, bí đái… Các thuốc gây tê thường
dẫn tới tụt huyết áp, ức chế vận động… Ngoài ra còn có thể gặp phải các
vấn đề khi vận hành máy PCEA như đường truyền thuốc không tốt, trào
ngược thuốc vào hệ thống dây truyền, cài đặt sai chương trình, pha nhầm
nồng độ thuốc hay phối hợp không đúng thuốc… Một số nghiên cứu của
các tác giả cho thấy nguy cơ gặp phải các tác dụng không mong muốn
của PCEA tương tự như việc sử dụng truyền liên tục khoang ngoài màng
27
cứng thông thường. Các nghiên cứu cũng chỉ ra sai sót xảy ra chủ yếu do
lỗi trong quá trình cài đặt với 7,9% có hại cho người bệnh [107].
Cùng với giảm đau PCA các thuốc họ morphine đường tĩnh mạch,
giảm đau ngoài màng cứng do bệnh nhân tự điều khiển (PCEA) được
nghiên cứu và áp dụng trong điều trị đau cấp tính trên lâm sàng cho
người bệnh. Phương pháp giảm đau PCEA đã được ứng dụng rộng rãi
đểu giảm đau cho các phẫu thuật ngực, bụng, chi dưới .... Tương tự như
PCA đường tĩnh mạch, PCEA tối ưu hóa hiệu quả giảm đau nhưng giảm
lượng thuốc tê cần sử dụng so với truyền liên tục từ đó giảm thiểu tác
dụng không mong muốn như ức chế thần kinh giao cảm và ức chế vận động.
1.3.6 Một số thiết bị PCEA
Lịch sử ra đời của các phương tiện PCA cho thấy, khởi điểm đầu
tiên các liều bolus được thực hiện bởi nhân viên y tế. Điều này cho thấy
sự phức tạp trong việc sử dụng thuốc cho bệnh nhân, thời gian chờ đợi
kéo dài. Việc thực hiện gây khó khăn cho cả nhân viên y tế và người bệnh.
Hình 1.2: Thiết bị PCA của hãng Bbraun
28
Cùng với sự phát triển, các máy móc thay thế dần trong việc cung
cấp thuốc cho bệnh nhân. Tuy nhiên, các phương tiện cung cấp thuốc
theo phương pháp PCA lúc đầu còn phức tạp, khó di chuyển.
Các thiết bị PCA này có tính chính xác cao. Các phương thức
cung cấp thuốc được thiết lập tốt. Sau cài đặt của bác sĩ đảm bảo cung
cấp giảm đau cho bệnh nhân và an toàn khi dùng thuốc.
Tuy nhiên, máy thường phải lắp đặt cố định do thiết bị có kích thước lớn,
trọng lượng nặng và cần để gần nguồn điện. Một số thiết bị có pin, tuy
nhiên thời gian dự trữ của pin thường chỉ kéo dài 6-8 giờ nên máy luôn
cần nguồn điện để sạc hoặc cắm liên tục. Do đó hạn chế việc vận động
sớm và tập luyện của người bệnh. [96]
* Bóng PCA
Bóng PCA là thiết bị nhỏ, gọn, dễ sử dụng. Các bóng PCA thường
được thiết kế sẵn các chỉ số bolus, thời gian khóa. Bóng PCA cho phép
bác sĩ cài đặt theo một số chỉ số đã được thiết lập sẵn có. Ưu điểm là
giúp bệnh nhân dễ mang theo thiết bị PCA khi di chuyển, khi tập vận
động sớm. Tuy nhiên, nhược điểm bóng PCA là khó thay đổi liều cài đặt,
một số bóng PCA có liều cài đặt cố định, một số bóng PCA có thể thay
đổi liều cài đặt theo một số chương trình được cài đặt sẵn. [96]
* Thiết bị PCA phối hợp
Thiết bị PCA mới kết hợp của thiết bị điện tử với phần túi chứa
thuốc bằng nhựa. Thiết bị giúp kiểm soát chính xác lượng thuốc được sử
dụng theo cài đặt của bác sỹ. Đồng thời đây cũng là các thiết bị với thiết
kế nhỏ, gọn, có thể mang theo dễ dàng trong quá trình di chuyển.
Thiết bị PCA mới dễ dàng thiết lập quá trình cung cấp thuốc qua
phần thiết bị điện tử một cách chính xác. Lượng pin có thể kéo dài và dễ
dàng thay thế trong quá trình sử dụng.
29
Hình 1.3: Thiết bị PCA automed 3400 [89]
Ưu điểm: Thiết bị cung cấp liều lượng thuốc chính xác, dễ dàng.
Người bệnh có thể dễ dàng vận động. Nhân viên y tế có thể dễ dàng thay
đổi cài đặt cho phù hợp với từng đối tượng sử dụng máyMáy sử dụng
nhiều lần, mỗi người bệnh chỉ cần thay túi chứa thuốc tê. [61]
1.4 Thuốc tê ropivacain
Ropivacain là thuốc tê được đưa vào sử dụng từ năm 1997, đây là
thuốc tê họ amino – amid, thuốc được cho là có tác dụng gây tê tương tự
như bupivacain nhưng có độc tính trên tim mạch thấp hơn. [55]
1.4.1 Công thức cấu tạo
Ropivacaine HCl được mô tả về mặt hóa học như s-(-)-1-propyl-2
', 6'-pipecoloxylidide hydrochloride monohydrate. Thuốc ở trạng thái rắn
30
là một loại bột tinh thể màu trắng, với một công thức phân tử C17H26N2O
– HCl – H2O, trọng lượng phân tử 328,89 và công thức cấu trúc như sau:
Hình 1.4: Công thức cấu tạo của ropivacain [55]
Ở 25 °C ropivacaine hidroclorid có khả năng hòa tan 53,8 mg/ml
trong nước, tỷ lệ phân phối giữa n-octanol và đệm phosphat là 14:01 ở
pH 7,4 và pKa của ropivacain là 8.07. Ropivacaine có pka gần giống
bupivacain (8.1) và levobupivacain. Tuy nhiên, ropivacaine có khả năng
hòa tan thấp hơn so với bupivacain và mepivacain.
Ropivacaine HCl dạng tiêm có nhiều nồng độ khác nhau 2mg/ml
(0,2%), 5mg/ml (0,5%), 7,5mg/ml (0,75%). Trọng lượng riêng của
Ropivacaine HCl trong các dung dịch tiêm là đẳng trọng (trong khoảng
1,002 - 1,005 ở 25°C).
1.4.2 Cơ chế tác dụng
Giống như các thuốc tê amino amid khác, ropivacain ở dạng liên
hợp đi qua màng tế bào vào trong tế bào, tại đây thuốc phân li trở lại
dạng tự do và gắn với các receptor tại mặt trong màng tế bào. Thuốc có tác động trực tiếp lên các kênh Na+ – K+ và kênh K+ - Ca2+, thuốc ức chế
hoạt động của các kênh vận chuyển làm ức chế quá trình tái cực và khử
cực màng, từ đây làm mất điện thế hoạt động tại màng tế bào. Chính bởi
quá trình này làm cho các xung thần kinh không thể dẫn truyền qua các
31
tế bào bị thuốc tê tác động từ đó làm gián đoạn dẫn truyền thần kinh cả
hai chiều hướng tâm và ly tâm [21] [25]
Khả năng ức chế của thuốc có liên quan đến đường kính dây thần
kinh, sự myelin hóa. Thuốc có khả năng ức chế cảm giác nhiều hơn so
với ức chế vận động. Ở cùng nồng độ, thuốc ức chế cảm giác tương
đương bupivacain nhưng ít ức chế vận động hơn.
Các phân tử thuốc tê dưới dạng ion tác động lên mặt trong màng tế
bào thân thần kinh. Chúng vừa làm chậm tốc độ khử cực vừa kéo dài
thời gian nghỉ. Nếu đậm độ thuốc tê tại vùng xung quanh thần kinh ở
mức đủ cao, sợi thần kinh trở nên mất kích thích và không còn điện thế
hoạt động. Lúc này các tế bào thần kinh không còn khả năng tiếp nhận
và dẫn truyền các xung thần kinh. Chỉ khi nào nồng độ thuốc tê giảm
xuống dưới một mức nhất định thì sợi thần kinh mới bị kích thích trở lại.
Ngưỡng của đậm độ thuốc tê này được gọi là nồng độ ức chế tối thiểu.
1.4.3 Dược lý, dược động học
1.4.3.1 Dược lý
Ropivacaine gây ức chế có hồi phục dẫn truyền xung thần kinh
bằng cách ức chế ion natri đi vào tế bào thần kinh. Thuốc cũng có tác
động tương tự trên màng tế bào dễ bị kịch thích ở não và cơ tim.
Ropivacaine có tác dụng gây tê và giảm đau. Ở nồng độ sử dụng, thuốc
có tác dụng làm co mạch nhẹ.
Tác dụng trên tim đo được ở nhiều nghiên cứu in vivo trên động
vật cho thấy ropivacaine có độc tính trên tim thấp hơn, cả về số lượng và
chất lượng, so với bupivacaine. Ropivacaine ít kéo dãn phức hợp QRS
hơn so với bupivacaine và sự thay đổi xảy ra ở liều ropivavcaine và
levobupivacaine cao hơn so với bupivacaine. Các tác dụng trực tiếp lên
tim mạch của thuốc gây tê tại chỗ bao gồm chậm dẫn truyền, ức chế có
bóp cơ tim và cuối cùng là loạn nhịp tim và ngừng tim [60] [126] [132].
32
Khi truyền tĩnh mạch ropivacaine trên người tình nguyện khỏe
mạnh cho thấy khả năng gây độc tính trên thần kinh trung ương và tim
mạch ít hơn đáng kể so với truyền bupivacaine [72] [88]. Đối với
bupivacaine, các triệu chứng trên thần kinh trung ương cũng tương tự
xuất hiệu ở liều và nồng độ huyết thanh thấp hơn. Các tác dụng gián tiếp
lên trên tĩnh mạch (tăng huyết áp, chậm nhịp tim) có thể xuất hiện sau
phong bế ngoài màng cứng, phụ thuộc vào mức độ lan rộng phong bế
giao cảm đồng thời. Tuy nhiên, những triệu chứng này ít xuất hiện hơn ở
trẻ em. Nếu một lượng thuốc lớn đi vào tuần hoàn, các triệu chứng thần
kinh trung ương và tim mạch sẽ xuất hiện nhanh chóng [45] .
1.4.3.2 Dược động học
Ropivacaine có một trung tâm quay cực và tồn tại dưới dạng đồng
phân S. Nó tan rất tốt trong dầu, giá trị pKa là 8,1 và hệ số phân bố dầu
nước là 114 (ở 25 độ C, n-octanol/ đệm phosphate với pH 7,4). Tất cả
các chất chuyển hóa của nó đều có tác dụng gây tê tại chỗ nhưng với
hoạt tính kém hơn và thời gian ngắn hơn đáng kể so với bupivacaine.
Phân bố
Trong huyết tương, ropivacaine chủ yếu liên kết với α1- acid
glycoprotein trong đó dạng tự do chiếm 6%. Thể tích phân bố ở trạng
thái hằng định là 47 lít. Nồng độ huyết tương toàn phần của ropivacaine
và PPX tăng lên khi truyền liên tục ngoài màng cứng, phụ thuộc vào sự
tăng α1- acid glycoprotein sau phẫu thuật. Nồng độ trung bình của PPX
tự do cao hơn 7-9 lần so với nồng độ trung bình cảu ropivacaine tự do sau
khi truyền ngoài màng cứng liên tục 72 giờ. Ropivacaine có thể đi qua rau
thai với nồng độ ropivacaine tự do cân bằng nhau ở mẹ và thai nhi. Lượng
protein liên kết trong máu của thai nhi thấp hơn trong máu mẹ nên nồng độ
thuốc trong huyết tương toàn phần của thai nhi sẽ thấp hơn mẹ.
33
Hấp thu, chuyển hóa và thải trừ
Nồng độ ropivacaine trong huyết tương phụ thuộc vào liều lượng,
phương pháp gây tê và sự phân bố mạch ví trí gây tê.
Ropivacaine hấp thu hoàn toàn theo 2 pha từ khoang màng cứng,
với thời gian bán thải của 2 pha theo thứ tự là 14 phút và 4 giờ. Pha hấp
thụ chậm là yếu tố làm ảnh hưởng đến tốc độ thải trừ ropivacaine, giải
thích lý do tại sao sau khi tiêm ngoài màng cứng thời gian bán thải pha
cuối kéo dài hơn sau khi tiêm tĩnh mạch.
Ropivacaine được chuyển hóa chủ yếu ở gan bởi phản ứng
hydroxyl hóa nhân thơm tạo thành 3-hydroxy-ropivacaine (được chuyển
hóa bởi CYP1A2) và phản ứng khử N-alkyl thành PPX (được chuyển
hóa bởi CYP3A4). Ngưỡng gây độc của PPX tự do trên thần kinh trung
ương cao gấp khoảng 20 lần so với ropivacaine tự do. PPX là một chất
chuyển hóa ít quan trọng khi dùng 1 liều, nhưng là một chất chuyển hóa
rất quan trọng khi truyền ngoài màng cứng liên tục [136].
Các chất chuyển hóa được thải trừ qua thận. Khoảng 1%
ropivacaine đơn liều thải trừ dưới dạng chưa chuyển hóa. Ropivacaine có
độ thanh thải huyết tương toàn phần trung bình là 440ml/phút, độ thanh
thải của ropivacaine không gắn kết là 8L/phút và độ thanh thải ở thận là
1ml/phút.
Liều lượng
Ropivacain phải được giám sát chặt chẽ của bác sĩ có kinh
nghiệm. Mục tiêu là nên dùng liều thấp nhất mà vẫn đạt được hiệu quả
gây tên mong muốn.
34
Bảng 1.2: Liều lượng ropivacain sử dụng trên lâm sàng [55]
Thời gian
Thời
Nồng độ
Thể tích
Liều dùng
khởi phát
gian tê
Chỉ định
(mg/ml)
(mL)
(mg)
(phút)
(giờ)
Phẫu thuật
7,5 15-25 113-188 10-20 3-5
Tiêm ngoài màng cứng vùng thắt lưng trong phẫu thuật Giảm đau
Ngoài màng cứng Truyền liên tục 2,0
6-14 ml/giờ 12-28 mg/h
tê vùng có 2,0 1-100 2-200 1-5 2-6
2,0
Gây chọn lọc Phong bế thần kinh ngoại biên 5-10 ml/giờ 10-20 mg/h
[[
1.4.3.3 Qúa liều
Trong phong bế đám rối thần kinh và thần kinh ngoại biên, co giật
do tiêm nhầm vào mạch máu đã được ghi nhận. Phản ứng nhiễm độc
toàn thân chủ yếu liên quan đến hệ thần kinh trung ương và hệ tim mạch.
Triệu chứng trên thần kinh trung ương của các thuốc amide là giống
nhau, trong khi đó các triệu chứng trên tim mạch lại phụ thuộc vào lượng
thuốc tê và từng loại thuốc tê khác nhau. [106] [132]
Khi tiêm nhầm vào mạch máu hoặc nồng độ ropivacain tăng cao
bất thường trong máu sẽ gây ra tình trạng ngộ độc tương tự như các
thuốc tê amino amid khác, tuy nhiên mức độ thấp hơn so với bupivacain.
Quy trình điều trị ngộ độc ropivacain cũng được khuyến cáo như quy
trình cấp cứu ngộ độc các thuốc tê khác nhu bupivacain hoặc
levobupivacain. Khuyến cáo được đưa ra bởi ARSA và hội hồi sức Anh.
35
Điều trị co giật với benzodiazepin hoặc barbiturat, các báo cáo
trường hợp chỉ ra rằng tiêm tĩnh mạch 1mg/kg propofol và 2mg/kg
thiopental thành công trong việc cắt cơn giật do thuốc gây tê cục bộ và
co quắp cơ.
Hội Gây tê vùng Mỹ (ASRA) khuyến cáo benzodiazepin là lựa
chọn đầu tiên điều trị co giật do thuốc gây tê cục bộ vì những thuốc này
ít gây suy tim. Nếu vẫn còn co giật dù đã sử dụng benzodiazepin, ASRA
khuyến cáo dùng liều nhỏ succinylcholin hoặc loại thuốc ức chế thần
kinh cơ tương tự để giảm thiểu tối đa tình trạng toan hoá và thiếu oxy
máu. Khi sử dụng thuốc ức chế thần kinh cơ cần đặt nội khí quản.
Nếu không sẵn có benzodiazepin, ASRA cân nhắc sử dụng
propofol hoặc thiopental thay thế nhưng chú ý cần sử dụng liều thấp nhất
có hiệu quả bởi chúng có khả năng làm hạ huyết áp hoặc ngừng tim. Đặc
biệt, propofol không nên sử dụng ở những bệnh nhân huyết động không
ổn định bởi nó có thể làm chậm nhịp tim.
Hồi sức tim ở những bệnh nhân này khó và kéo dài (30-45 phút) vì
một số loại thuốc tê tan nhiều trong lipid và đòi hỏi thời gian phân bố lại
dài. Nếu có ngừng tim, ASRA khuyến cáo sử dụng phương pháp hỗ trợ
tim nâng cao chuẩn hoá cùng với các thay đổi sau:
Nếu sử dụng epinephrin, dùng liều nhỏ ban đầu (thêm 10-100 μg)
ở người lớn
Không khuyến cáo sử dụng vasopressin
Tránh sử dụng chẹn kênh calci và chẹn beta giao cảm
Nếu rối loạn nhịp thất tiến triển, sử dụng amiodarone
Ở các bệnh nhân ngộ độc tim, tránh sử dụng lidocain và thuốc chống
loạn nhịp nhóm IB vì có thể làm nặng tình trạng bệnh.
Liên hệ ngay với trung tâm có tim phổi nhân tạo gần nhất.
36
Liệu pháp sử dụng lipid
Truyền tĩnh mạch dung dịch nhũ tương lipid 20% là một phần
quan trọng trong điều trị ngộ độc toàn thân. Đặc biệt trong trường hợp
ngừng tim không đáp ứng với liệu pháp điều trị tiêu chuẩn. ASRA
khuyến cáo sử dụng liệu pháp nhũ tương lipid ngay khi có các dấu hiệu
đầu tiên của ngộ độc toàn thân do thuốc gây tê cục bộ, sau khi đã xử trí
tốt đường thở.
Truyền lipid đã tạo ra một giai đoạn lipid kéo các phân tử hòa tan trong
lipid ra khỏi huyết tương (lipid sink hypothesis). Việc kích thích chuyển hoá
năng lượng cũng có thể đóng vai trò nhất định. Một nghiên cứu trong phòng
thí nghiệm đã chứng minh rằng thuốc gây tê tan nhiều trong lipid và có khả
năng gắn cao vào các hạt lipid.
Liều khuyến cáo
Liệu pháp nhũ tương lipid được thực hiện bằng dung dịch lipid 20%.
Ban đầu, tiêm truyền liều lớn 1,5ml/kg trong 1 phút. Sau đó truyền với tốc độ
0,25 mL/kg/phút trong 20 phút, 30-60 phút, hoặc cho tới khi huyết động ổn
định. Một khi huyết động ổn định, nên truyền tiếp trong ít nhất 10 phút nữa.
Nếu liều như trên không đáp ứng được, có một vài lựa chọn khác.
Lặp lại liều trên 2 lần, khoảng cách giữa 2 lần có thể là 5 phút, hoặc cứ
lặp lại 5 phút/lần cho tới khi mạch ổn định. Cách khác là truyền tốc độ
tăng lên (ví dụ tới 0,5mL/kg/phút trong 10 phút). Giới hạn trên của dung
dịch nhũ tương lipid khuyến cáo là xấp xỉ 10 ml/kg trong 30 phút đầu
tiên.[88] [39] [45] [91]
1.5 Một số nghiên cứu về PCEA
1.5.1 Tại Việt Nam
Năm 2014 Nguyễn Trung Kiên [13] thực hiện nghiên cứu so sánh
hiệu quả của phương pháp PCEA sử dụng bupivacain phối hợp fentanyl
với PCA-IV morphin. Kết quả cho thấy:
37
Trong nghiên cứu, tác giả thiết kế chương trình PCEA với các
thông số:
Liều khởi đầu được tính theo công thức:
Chiều cao (cm) – 100
Thể tích tiêm (ml) = 10
Sau liều khởi đầu, người bệnh được đánh giá mức độ đau bằng
phương pháp châm kim đầu tù, nếu VAS > 4 thì tiêm thêm 2ml mỗi 3
phút, cho tới khi VAS ≤ 4.
Đặt các thông số máy:
Liều yêu cầu (bolus): 2 ml/ lần
Thời gian khóa 10 phút.
Liều duy trì 3 ml/h.
Tổng liều giới hạn trong 04 giờ là 40 ml.
Thời gian thực hiện giảm đau trong nghiên cứu của tác giả là 72 giờ.
Kết quả thu được trong nghiên cứu của tác giả cho thấy điểm VAS
trung bình của nhóm PCTEA luôn thấp hơn nhóm IV- PCA cả khi nghỉ
và khi vận động. Số lần tiêm fentanyl bổ sung đường tĩnh mạch ̉ nhóm
PCTEA thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm IV-PCA.
Mức độ hài lòng rất tốt nhóm PCTEA (85,4%) cao hơn có ý nghĩa
thống kê so với nhóm IV-PCA (56,2%). Đánh giá ảnh hưởng trên hô hấp
PaO2 của nhóm PCTEA cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm IV-
PCA trong 72 giờ theo dõi giảm đau sau mổ (p< 0,05).
Trong nghiên cứu gặp một số tác dụng không mong muốn như
buồn nôn, nôn, ngứa. Không gặp biến chứng thủng màng cứng, tổn
thương thần kinh, tụt huyết áp, ức chế vận động chi, huyết khối hoặc áp
xe khoang ngoài màng cứng ở nhóm giảm đau đường ngoài màng cứng
ngực do bệnh nhân tự điều khiển.
38
Tác giả Đỗ Trung Dũng [24], tác giả thực hiện so sánh hiệu quả
giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê đám rối thần kinh thắt lưng
dưới hướng dẫn của siêu âm với phương pháp giảm đau ngoài màng
cứng. Phân tích trên 90 bệnh nhân được chia đều cho hai nhóm nghiên
cứu. Kết quả thu được cho thấy hai nhóm có sự tương đương nhau ở độ
tuổi, chiều cao, cân nặng… Đánh giá hiệu quả giảm đau cho thấy nhóm
gây tê đám rối thần kinh thắt lưng có hiệu quả gần bằng với nhóm giảm
đau ngoài màng cứng. Trong đó nhóm giảm đau ngoài màng cứng so
mức điềm VAS thấp hơn (p> 0,05). Liều lượng thuốc giảm đau tăng
cường như morphin ở nhóm ngoài màng cứng cần dùng là 0,7 ± 0,27 mg
thấp hơn so với nhóm sử dụng gây tê đám rối thần kinh thắt lưng là 1,0 ±
0,53 mg. Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng giảm đau ngoài màng cứng
truyền liên tục với liều cài đặt là 4 ml/giờ. Thuốc sử dụng trong nghiên
cứu của tác giả là hỗn hợp levobupivacain 0,1% (50 mg) + fentanyl 2
µg/ml. Phương pháp giảm đau ngoài màng cứng sau phẫu thuật thay
khớp háng vẫn được coi là tiêu chuẩn vàng trong chống đau sau phẫu
thuật khớp háng. Đây được coi là thang đo để đánh giá hiệu quả và phát
triển các phương pháp giảm đau mới trong tương lai.
Năm 2017, tác giả Phạm Xuân Hùng [9] thực hiện đánh giá hiệu
quả của phương pháp giảm đau ngoài màng cứng cho bệnh nhân sau
phẫu thuật khớp háng của hỗn hợp levobupivacain với fentanyl.
Trong nghiên cứu, tác giả chia thành 3 nhóm nghiên cứu với mỗi
nhóm có 45 bệnh nhân.
Nhóm 1: Levobupivacain0,125%+2μg/ml fentanyl 4ml/giờ.
Nhóm 2: Levobupivacain0,0625%+1μg/ml fentanyl 8ml/giờ.
Nhóm 3: Levobupivacain0,05%+0,8μg/ml fentanyl 10ml/giờ.
Kết quả thu được cho thấy nhóm sử dụng levobupivacain nồng độ
0,125% có hiệu quả giảm đau tốt hơn, số lần giải cứu đau ít hơn và mức
39
độ hài lòng của bệnh nhân cao hơn so với hai nhóm còn lại. Tuy nhiên
nhóm levobupivacain 0,125% cũng có tỷ lệ ức chế vận động cao hơn là
22,2% so với 8,9% ở nhóm levobupivacain 0,0625%.
Năm 2016, tác giả Trần Đắc Tiệp [26] nghiên cứu hiệu quả giảm
đau của phương pháp giảm đau ngoài màng cứng do bệnh nhân tự điều
khiển sử dụng thuốc tê ropivacain cho bệnh nhân sau phẫu thuật thay
khớp háng. Trong nghiên cứu, tác giả so sánh hiệu quả của phương pháp
gây tê NMC do bệnh nhân tự điều khiển giữa nhóm sử dụng ropivacain
và nhóm sử dụng ropivacain phối hợp với fentanyl. Thông số cái đặt trên
máy PCEA là:
Liều yêu cầu: 3 ml
Thời gian khóa: 10 phút
Liều duy trì: 3 ml/giờ
Tổng liều tối đa trong 4 giờ: 40 ml.
Kết quả phương pháp có hiệu quả giảm đau tốt với điểm VAS
trong nghiên cứu thấp hơn 4.
- Liều trung bình tiêm khoang NMC lần đầu của ropivacain 0,1% -
fentanyl 2 mcg/ml là 6,6 ± 1,2 ml, tổng liều ropivacain 161,9 ± 4,4
mcg/48 giờ, số lần bolus khoang NMC 6,0 ± 1,5 lần/48 giờ.
- BN được giảm đau tốt cả khi nghỉ và vận động.
- 100% BN hài lòng về phương pháp
Tác giả có gặp một số tác dụng không mong muốn như ngứa, tụt
huyết áp, nôn – buồn nôn.
1.5.2 Trên thế giới
Năm 1993, Cooper [118] đã nghiên cứu giảm đau tự điều khiển
đường ngoài màng cứng sau mổ chỉnh hình và so sánh hiệu quả giảm
đau giữa bupivacain, fentanyl và hỗn hợp bupivacain - fentanyl. Đây là
một nghiên cứu mù đôi, các bệnh nhân được ghi nhận với hai phẫu thuật
40
chính là phẫu thuật vào khớp háng và khớp gối. Trong thiết kế của tác
giả, lượng thuốc được bolus là 4 ml trong vòng 5 phút, thời gian khóa là
10 phút. Kết quả cho thấy phối hợp bupivacain 0,125% với fentnayl 5
µg/ml dung dịch có hiệu quả giảm đau cao hơn khi dùng bupivacain
0,125% hoặc fentanyl 5 µg/ml đơn thuần. Trong nghiên cứu tác giả cũng
ghi nhận một số tác dụng không mong muốn như nôn, buồn nôn, đặc biệt
là ức chế vận động lên tới 29% trong cả nghiên cứu.
Năm 1998, Liu S. [82] nghiên cứu giảm đau tự điều khiển ngoài
màng cứng 1030 bệnh nhân sau mổ lớn sử dụng dung dịch bupivacain
0,05% phối hợp fentanyl 4 µg/ml. Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng liều
nền liên tục là 4 ml/giờ, liều bolus là 2 ml/lần với thời gian khóa là 10
phút. Trong nghiên cứu tác giả cho thấy lượng thuốc sử dụng trung bình
lớn nhất là 9 ml/h với tỷ lệ giảm đau tốt thấp nhất là 75% ở nhóm phẫu
thuật thay thế và cao nhất là 89% ở nhóm phẫu thuật phụ khoa và phẫu
thuật chỉnh hình. Tác giả kết luận PCEA là phương pháp giảm đau hiệu
quả, an toàn sau các phẫu thuật lớn.
Tác giả Francois J. Singelyn và Jean-Marie A. Gouverneur [52]
thực hiện nghiên cứu về so sánh hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật thay
khớp háng toàn bộ giữa ba phương pháp giảm đau. Giảm đau bằng PCA
morphin tĩnh mạch, PCEA và gây tê 3 trong 1. Trong nghiên cứu, các tác
giả sử dụng bupivacain 0,125% phối hợp với sulfetanin 1mcg/ml. Liều
duy trì được sử dụng từ 5-7 ml/h và liều bolus tự động 2,5ml sau mỗi 30
phút. Hiệu quả được đánh giá trong 48 giờ sau phẫu thuật. Cả ba phương
pháp giảm đau đều mang lại hiệu quả như nhau. Tuy nhiên, gây tê 3
trong 1 được cho là có lợi thế về kỹ thuật và ít tác dụng không mong
muốn hơn hai phương pháp giảm đau còn lại.
Năm 2015, tác giả Kethy M. Jules-Elysee [66] thực hiện nghiên
cứu so sánh hiệu quả của phương pháp giảm đau PCEA với phương pháp
41
gây tê bao khớp sau phẫu thuật khớp gối. Các thuốc sử dụng bao gồm
bupivacain kết hợp với hydromorphon ở nhóm PCEA còn nhóm PAI bao
gồm gây tê phối hợp NSAID, oxycodon, acetaminophen.
Kết quả cho thấy, việc sử dụng hai phương pháp giảm đau trên
đều có hiệu quả tốt. Phương pháp PCEA đảm bảo giảm đau sau mổ có
hiệu quả trong cả lúc nghỉ và khi vận động.
Jae Chul Koh [74] cùng cộng sự đã thực hiện nghiên cứu về sử
dụng PCEA trên người trẻ tuổi và trên nhóm người cao tuổi. Nhóm trẻ
tuổi được chọn từ 20-39 tuổi trong khi nhóm người cao tuổi được lựa
chọn là > 70 tuổi. Nghiên cứu với mục đích so sánh sự khác biệt khi thực
hiện PCEA trên hai nhóm bệnh nhân trên. Trong đó, kết quả nghiên cứu
cho thấy điểm đau có sự khác biệt không đáng kể. Tuy nhiên, các tác
dụng không mong muốn lại có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm trong
nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm trẻ tuổi có tỷ lệ ngừng PCEA
cao hơn so với người cao tuổi là 18,5% so với 13,5%. Nguyên nhân
khiến người bệnh không hài lòng với PCEA cho thấy ở nhóm trẻ tuổi,
nguyên nhân hàng đầu dẫn tới ngừng PCEA là ức chế vận động gây yếu
chi chiếm 68,7% so với 11,5% ở người cao tuổi. Trong khi đó nguyên
nhân khiến người cao tuổi gặp khó khăn khi sử dụng PCEA là tụt huyết
áp với 20,1% so với 3,1% ở nhóm trẻ tuổi. Từ đó nhóm tác giả đưa ra kết
luận cần có sự cái đặt khác nhau về chương trình PCEA ở nhóm người
trẻ tuổi và nhóm người cao tuổi với mục đích tăng cường hiệu quả giảm
đau và giảm các tác dụng không mong muốn.
T. N. Chethanananda (2018) [40] và cộng sự đánh giá mức độ ảnh
hưởng của ropivacain với bupivacain trên vận động. Nồng độ thuốc tê
của nhóm bupivacain là 0,0625% và nhóm ropivacain là 0,1%. Kết quả
cho thấy mức độ ức chế vận động của hai nhóm là tương đương với mức
42
ức chế vận động là M0 (55%) và M1 (45%). Tuy nhiên, mức độ hài lòng
của nhóm bupivacain là 83,3% cao hơn so với nhóm ropivacain là 73,3%.
Năm 2019, tác giả K. K. Lim [81] cùng cộng sự thực hiện nghiên
cứu đánh giá các yếu tố nguy cơ gây ảnh hưởng tới kết quả điều trị của
phẫu thuật thay khớp háng ở người ≥ 50 tuổi. Kết quả thống kê từ năm
2010 tới 2017, đã có 98 bài báo với 13186 bệnh nhân được đưa vào đánh
giá. Kết quả cho thấy 107 yếu tố tiên lượng trước khi xuất viện và sắp
xếp chúng thành bảy loại sau: nhân khẩu học, thể chất, nhận thức, tâm lý
xã hội, kinh tế xã hội, liên quan đến chấn thương và quá trình chăm sóc.
Các yếu tố có thể thay đổi với bằng chứng mạnh bao gồm tổng thời gian
nằm viện, chức năng vận động khi xuất viện.
Qua quá trình phân tích, một số yếu tố tiên lượng được xác định
bởi nghiên cứu như vận động sớm với tập đứng bằng chân phẫu thuật,
tập vật lý trị liệu để phục hồi chức năng của khớp phẫu thuật. Kiểm soát
đau sau phẫu thuật và tình trạng dinh dưỡng. Đây là các yếu tố có khả
năng thay đổi kết quả điều trị và nằm trong khuyến nghị của các hướng
dẫn lâm sàng hiện nay.
Tác giả Jan Maca (2020) [86] và cộng sự thực hiện nghiên cứu với
mục tiêu so sánh hiệu quả giảm đau PCEA với giảm đau CEA thông
thường sau phẫu thuật thay khớp háng toàn phần. Tổng cộng có 119
bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu. Sau phẫu thuật thay khớp háng
bệnh nhân được đưa vào khoa chăm sóc đặc biệt và được phân ngẫu
nhiên vào một trong hai nhóm (PCEA 61 bệnh nhân và không PCEA 58
bệnh nhân).
Nhóm PCEA được điều trị bằng cách sử dụng một chương trình
cài đặt với liều bolus là 4 ml/ lần, thời gian khóa là 20 phút, liều nền liên
tục là 3 ml/h, tổng liều giới hạn là 40 ml/ 4 giờ. Nhóm không PCEA
được truyền liên tục 5 ml/h và bolus 8 ml nếu điểm đau tăng cao. Tổng
43
mức tiêu thụ thuốc giảm đau, sự hài lòng của bệnh nhân, cường độ đau
và các biến chứng liên quan đến giảm đau đã được ghi nhận trong 24 giờ
sau phẫu thuật.
Kết quả nhóm PCEA có tổng mức tiêu thụ hỗn hợp giảm đau thấp
hơn đáng kể là 0,9 ± 0,3ml/kg/24h so với 1,3 ± 0,4 ml/kg/24h ở nhóm
không PCEA với p <0,001. Có sự hài lòng của bệnh nhân cao hơn
(p<0,001) ở nhóm PCEA. Cường độ đau trung bình trong 24 giờ sau
phẫu thuật là tương tự nhau đối với cả hai nhóm (P = 0,14). Không có sự khác
biệt đáng kể về tỷ lệ các biến chứng liên quan đến giảm đau giữa các nhóm.
44
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật khớp háng tại khoa Gây
mê hồi sức, bệnh viện Trung ương quân đội 108.
2.1.1 Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân vào nghiên cứu
Tuổi ≥ 60.
ASA I-III.
Bệnh nhân có thể phối hợp để thực hiện giảm đau PCEA.
Không có chống chỉ định gây tê ngoài màng cứng.
Tình nguyện tham gia nghiên cứu
2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có tai biến về gây mê, phẫu thuật trong thời gian nghiên cứu.
2.1.3 Tiêu chuẩn đưa ra khỏi nghiên cứu
Bênh nhân phải thực hiện phẫu thuật lại trong thời gian làm giảm đau.
Bệnh nhân phải thở máy kéo dài sau phẫu thuật.
Bệnh nhân không đặt được catheter ngoài màng cứng.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp lâm sàng, ngẫu nhiên, có so sánh.
2.2.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
* Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 10 năm 2015 tới tháng 10 năm 2019
* Địa điểm nghiên cứu
Khoa Gây mê hồi sức bệnh viện trung ương quân đội 108
Khoa B1C, viện Chấn thương chỉnh hình - Bệnh viện Trung ương
quân đội 108.
45
2.2.3 Cỡ mẫu nghiên cứu
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mục tiêu chính là so sánh hiệu
quả giảm đau của nhóm sử dụng ropivacain với nhóm bupivacain. Như
vậy, đây là nghiên cứu can thiệp lâm sàng có so sánh hiệu quả giảm đau
của hai nhóm.
Theo tác giả Nguyễn Văn Tuấn [30], cỡ mẫu của nghiên cứu so
sánh tỷ lệ của hai nhóm được tính theo công thức:
Trong đó
n: là số cỡ mẫu cần ở mỗi nhóm
p = (p1+p2)/2
q = 1 – p
p1: là tỷ lệ giảm đau tốt ở nhóm nghiên cứu
p2: là tỷ lệ giảm đau tốt ở nhóm đối chứng
Z1-α/2: Hệ số tin cậy là 95% thì Z1-α/2 = 1,96
Z1-β/2: Với lực mẫu là 80% thì Z1-β/2 = 0,84.
Theo nghiên cứu của tác giả L. Bertini [35] thực hiện nghiên cứu
so sánh tác dụng của ropivacain với bupivacain trong giảm đau đối với
bệnh nhân sau phẫu thuật khớp háng cho thấy mức giảm đau có hiệu quả
của nhóm ropivacain là 84% và nhóm bupivacain là 60%.
Thay vào công thức trên, với p1= 0,84, p2=0,6. Với hệ số tin cậy
95% và lực mẫu là 80%.
46
Như vậy cần chọn vào nghiên cứu ≥ 51 bệnh nhân ở mỗi nhóm.
Từ kết quả trên, chúng tôi chọn vào nghiên cứu mỗi nhóm 52 bệnh nhân. Các
bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên vào một trong hai nhóm.
Nhóm B: Nhóm giảm đau PCEA bằng Bupivacain 0,1% phối hợp
với fentanyl 1mcg/ml.
Nhóm R: Nhóm giảm đau PCEA bằng Ropivacain 0,1% phối hợp
với fentanyl 1mcg/ml.
Cách phân nhóm ngẫu nhiên
Tạo 104 phiếu bốc thăm được cho vào phong bì dán kín. Trong đó có
52 phiếu viết chữ “B” tương ứng là nhóm sử dụng bupivacaine 0,01% phối
hợp với fentanyl 1mcg/ml giảm đau và 52 phiếu viết chữ “R” tương ứng là
nhóm sử dụng ropivacaine 0,01% phối hợp với fentanyl 1 mcg/ml giảm đau.
Khi bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu sẽ tự bốc thăm lá phiếu, tùy vào
phiếu bốc thăm người bệnh được thực hiện giảm đau tương ứng.
2.2.4 Tiến hành nghiên cứu
2.2.4.1 Phương tiện nghiên cứu
* Bộ catheter ngoài màng cứng
Hình 2.1: Bộ catheter ngoài màng cứng Perifix của hãng Bbraun
47
* Máy giảm đau PCEA
Hình 2.2: Máy giảm đau PCEA Auto Med 3400
* Thước đo VAS hãng Astrazeneca
Hình 2.3: Thước đo VAS của hãng Astrazeneca
48
2.2.4.2 Các thuốc sử dụng trong nghiên cứu
* Thuốc tê
- Thuốc tê tủy sống bupivacain heavy 0,5% 4ml của hãng Astrazeneca.
- Thuốc tê ngoài màng cứng bupivacain 0,5% 20ml của hãng
Aguettant.
- Thuốc tê ngoài màng cứng ropivacain 0,2% 20ml của hãng
Astrazeneca.
- Lidocain 2% 2ml của dược phẩm Vĩnh Phúc.
- Fentanyl 0,1mg/2ml.
Hình 2.4 Thuốc tê ropivacain (Anaropin) của hãng Astrazeneca
* Các thuốc hồi sức khác:
- Atropin 0,25 mg, ephedrin 30 mg, Phenylephedrin 500mcg,
adrenalin 1mg/ ml. Calci clorid 500mg/5ml. Kali clorid 500 mg/ 5 ml.
* Các loại dịch truyền:
- Dd Natriclorid 0,9%/ 500ml, dung dịch ringer lactat, dung dịch
Voluven, dung dịch Gelofusin, dung dịch Geloplasma…
Dd lipid 20% 250ml/chai, dự phòng điều trị ngộ độc thuốc tê.
49
2.2.4.3 Khám bệnh nhân trước mổ
Khám bệnh nhân một ngày trước mổ: đánh giá bệnh nhân theo quy
định khám chuẩn bị trước mê cho bệnh nhân mổ có kế hoạch.
Chuẩn bị hồ sơ bệnh án, chăm sóc trước mổ, chế độ nhịn ăn.
Vệ sinh toàn thân và vùng phẫu thuật.
Giải thích rõ mục tiêu nghiên cứu, cách tiến hành và đánh giá
trong nghiên cứu.
Cách đánh giá mức độ đau bằng thang điểm VAS.
Giải thích và hướng dẫn cụ thể cách sử dụng máy giảm đau PCEA.
* Chuẩn bị bệnh nhân trên phòng mổ
Bệnh nhân được đưa vào phòng mổ.
Lập đường truyền ngoại vi bằng kim luồn G18, đảm bảo chảy tốt.
Đo các chỉ số sinh tồn: Mạch, Huyết áp, SpO2, theo dõi ECG.
Hình 2.5: Theo dõi bệnh nhân trong phòng mổ
50
2.2.4.4 Tiến hành gây tê
* Gây tê ngoài màng cứng
Đặt tư thế bệnh nhân: Có thể đặt tư thế bệnh nhân năm nghiêng
hoặc tư thế ngồi.
+ Đặt tư thế bệnh nhân nằm nghiêng vuông góc với mặt bàn mổ,
cong lưng tôm.
+ Đặt tư thế bênh nhân ngồi trên bàn mổ, thẳng lưng, đầu hơi cúi,
chân buông xuống dưới.
Thầy thuốc rửa tay vô trùng, đeo găng, mặc áo mổ, mũ khẩu trang
vô trùng. Sát khuẩn vùng lưng định chọc gây tê bằng hai lần cồn iod và một lần cồn trắng 70o
Trải săng mổ có lỗ vô khuẩn.
- Vị trí chọc: có thể chọc các khe liên đốt L1-2 đến L4-5.
- Mốc xác định vị trí chọc kim: Đường thẳng nối mào chậu hai bên
đi ngay trên khe đốt sống L4-5.
- Tê tại chỗ bằng dung dịch lidocain 1%.
Hình 2.6: Tư thế bệnh nhân và các mốc giải phẫu
Nguyễn Trung Kiên, Gây tê ngoài màng cứng [14]
51
- Dùng kim Tuohy NMC chọc theo hướng mũi kim lên phía đầu,
đưa kim sâu khoảng 2-2,5 cm, dừng lại rút nòng ra. Dùng test mất sức
cản để xác định vị trí đầu kim vào tới khoang NMC. Sử dụng bơm thử áp
lực, vừa đưa kim Tuohy sâu vào tổ chức vừa giữ áp lực trong bơm khi
đầu kim Tuohy vào tới khoang ngoài màng cứng sẽ mất sức cản của bơm
áp lực.
- Luồn catheter vào khoang NMC lên phía đầu và để chiều dài
catheter nằm trong khoang NMC tương ứng với mức đầu catheter ở vị trí
L1 hoặc D12.
- Cố định catheter bằng băng dính hoặc opsite.
- Test lidocain 2% 2 ml (có adrenalin 1/200.000 qua catheter để
phân biệt catheter vào khoang NMC hoặc khoang dưới nhện hoặc mạch
máu). Theo dõi bệnh nhân trong vòng 5 phút nếu nhịp tim > 20% có thể
catheter vào mạch máu, nếu tê 2 chi dưới có thể tiêm vào khoang dưới
nhện. Các bệnh nhân nghi ngờ đều bị loại khỏi nghiên cứu.
- Thời gian lưu catheter là 72 giờ tính từ khi thực hiện giảm đau NMC.
Hình 2.7: Đặt catheter vào khoang NMC
52
* Tiến hành gây tê tủy sống để phẫu thuật
Bệnh nhân được tiến hành gây tê tủy sống đoạn thắt lưng. Vị trí
gây tê thường được lựa chọn là L2-3 và L 3-4, đây là hai vị trí thuận lợi để
tiến hành gây tê tủy sống.
Liều gây tê tủy sống của bupivacain được lựa chọn là 6mg, 7mg
hoặc 8mg. Phối hợp với fentanyl 0,03 mg.
Sau gây tê tủy sống, bệnh nhân được đưa về tư thế phẫu thuật.
Người bệnh được theo dõi chặt chẽ các chỉ số sinh tồn trong thời
gian phẫu thuật bằng monitor.
Kết thúc phẫu thuật bệnh nhân được chuyển về phòng hồi tỉnh để
theo dõi và đánh giá làm giảm đau sau mổ cho người bệnh.
2.2.4.5 Tiến hành giảm đau sau mổ và theo dõi sau mổ
Điều kiện làm giảm đau: Sau khi bệnh nhân kết thúc phẫu thuật và
chuyển về phòng hồi tỉnh, bệnh nhân được theo dõi và đánh giá theo tiêu
chuẩn. Khi đạt đủ tiêu chuẩn sẽ tiến hành giảm đau sau mổ.
- Bệnh nhân tỉnh.
- Mạch, huyết áp, SpO2 ổn định.
- Bệnh nhân tự lượng giá mức độ đau bằng kéo thước đo độ đau
tương ứng.
+ NếuVAS < 4 thì theo dõi và đánh giá lại 15 phút / lần.
+ Nếu VAS > 4 thì tiến hành tiêm liều khởi đầu để giảm đau sau
mổ, đây chính là thời điểm H0 trong nghiên cứu.
* Liều khởi đầu
Tiêm thuốc qua catheter NMC đối với cả 2 nhóm nghiên cứu, tính
thể tích tiêm như sau [57]:
Chiều cao (cm) – 100
Thể tích tiêm (ml) = 10
53
Sau khi tiêm liều khởi đầu vào khoang NMC, mức ức chế cảm
giác trên da được kiểm tra bằng thử cảm giác lạnh trên da hoặc phương
pháp châm kim đầu tù lên da. Từ đó xác định được số phân đốt ức chế
cảm giác khoanh tủy của thuốc tê sau khi tiêm vào khoang NMC.
* Cách pha dung dịch thuốc truyền vào khoang ngoài màng cứng:
Nhóm Bupivacain: Lấy 03 lọ bupivacain 0,5% 20ml cùng với 03
ống fentanyl 0,1mg/2ml pha cùng với Natri clorid 0,9% với thể tích là
234ml. Hỗn hợp nhận được bao gồm 300ml trong đó nồng độ bupivacain
0,1% và fentanyl 1 mcg/ml.
Nhóm Ropivacain: Lấy 7,5 lọ ropivacain 0,2% 20ml cùng với 03
ống fentanyl 0,1mg/2ml pha với natri clorid 0,9% với thể tích là 144ml.
Hỗn hợp thu được có thể tích 300ml trong đó nồng độ ropivacain 0,1%
và fentanyl 1mcg/ml.
Cài đặt giảm đau PCEA:
Bệnh nhân bắt đầu thực hiện giảm đau tự điều khiển sau khi tiêm
liều khởi đầu có điểm VAS < 4.
- Sử dụng hỗn hợp thuốc đối với từng nhóm nghiên cứu như sau:
+ Nhóm B: dùng hỗn hợp Bupivacain 0,1% + fentanyl 1 mcg/ml.
+ Nhóm R: dùng hỗn hợp Ropivacain 0,1% + fentanyl 1 mcg/ml.
- Đặt các thông số máy:
+ Liều yêu cầu: 3 ml.
+ Thời gian khóa: 15 phút.
+ Liều duy trì: 3 ml/giờ.
+ Tổng liều giới hạn trong 4 giờ: 40 ml.
Trong quá trình nghiên cứu nếu sau hai lần bấm liều yêu cầu liên
tiếp có đáp ứng mà điểm VAS >4 thì bác sỹ tiêm thêm liều “giải cứu
đau” gồm 5ml hỗn hợp thuốc giảm đau tương ứng với từng nhóm nghiên
cứu. Các thông số máy được giữ nguyên. Bệnh nhân được theo dõi đánh
54
giá mỗi 15 phút trong 1 giờ đầu. Nếu điểm VAS<4, tiếp tục thực hiện
giảm đau theo nghiên cứu. Nếu sau liều “giải cứu đau” 15 phút mà bệnh
nhân vẫn đau thì coi là thất bại của giảm đau NMC và chuyển sang sử
dụng morphin đường tĩnh mạch PCA.
- Rút catheter sau 72 giờ tính từ khi thực hiện giảm đau NMC.
Hình 2.8: Thông số cài đặt trên máy giảm đau PCEA
2.2.4 Các thời điểm theo dõi
- Các chỉ tiêu theo dõi gồm điểm VAS khi nằm nghỉ và khi vận
động, tần số tim, huyết áp tâm thu, huyếp áp tâm trương, tần số thở, độ
bão hòa oxy mao mạch, được ghi chép ở các thời điểm sau:
+ H0: Ngay trước khi tiêm liều khởi đầu.
+ H0,25: Sau khi thực hiện giảm đau 15 phút.
+ H1: Sau khi thực hiện giảm đau 1 giờ.
+ H6: Sau khi thực hiện giảm đau 6 giờ.
55
+ H12: Sau khi thực hiện giảm đau 12 giờ.
+ H24: Sau khi thực hiện giảm đau 24 giờ.
+ H36: Sau khi thực hiện giảm đau 36 giờ.
+ H48: Sau khi thực hiện giảm đau 48 giờ.
+ H60: Sau khi thực hiện giảm đau 60 giờ.
+ H72: Sau khi thực hiện giảm đau 72 giờ.
- Các biến chứng và tác dụng không mong muốn được đánh giá
liên tục trong thời gian giảm đau 72 giờ.
2.2.5 Các tiêu chí đánh giá chủ yếu
* Mục tiêu 1
- So sánh điểm đau VAS lúc nghỉ tại các thời điểm nghiên cứu
giữa hai nhóm.
- Điểm đau VAS khi vận động tại các thời điểm nghiên cứu giữa
hai nhóm.
- Vị trí chọc, mức phong bế cảm giác đau.
- Thời gian khởi phát tác dụng giảm đau.
- Mức phong bế sau liều bolus, sau 24 giờ, sau 48 giờ, sau 72 giờ.
- Nhu cầu giảm đau PCEA và nhu cầu dùng liều “giải cứu đau”:
+ Số lần yêu cầu (D=Demand và yêu cầu thành công (A=Actual,
tỷ lệ yêu cầu thành công A/D (%).
+ Số lần tiêm thêm liều “giải cứu đau”
+ Thể tích hỗn hợp thuốc tê tiêm liều khởi đầu.
+ So sánh lượng thuốc tê bupivacain và ropivacain để giảm đau
trong ngày thứ 1, ngày thứ 2, ngày thứ 3 và tổng liều trong ba ngày thực
hiện giảm đau.
- Thời gian từ lúc bắt đầu làm giảm đau tới lúc bệnh nhân bấm liều
yêu cầu đầu tiên.
56
- Ảnh hưởng lên vận động sau mổ theo thang điểm Bromage tại
thời điểm sau liều bolus 1 giờ.
- Mức độ hài lòng của bệnh nhân khi thực hiện giảm đau ở hai nhóm
* Mục tiêu 2
- Ảnh hưởng lên tuần hoàn: thay đổi tần số tim, huyết áp tại các
thời điểm nghiên cứu.
- Ảnh hưởng lên hô hấp: thay đổi tần số thở, SpO2 tại các thời
điểm nghiên cứu.
- Các tác dụng không mong muốn khác:
+ Độ an thần.
+ Nôn và buồn nôn.
+ Bí tiểu.
+ Ngứa.
+ Biến chứng liên quan đến kỹ thuật gây tê NMC
* Các tiêu chí đánh giá khác
- Đặc điểm nhân trắc học của bệnh nhân: chiều cao (cm), cân nặng
(kg), tuổi (năm), giới.
- Tình trạng trước mổ: ASA, bệnh lý mạn tính kèm theo.
- Đặc điểm gây mê và phẫu thuật:
+ Thời gian thời gian phẫu thuật: Từ lúc bắt đầu rạch da tới lúc kết
thúc đóng da.
+ Lượng thuốc sử dụng trong gây tê tủy sống: bupivacaine (mg),
fentanyl (mcg).
+ Đánh giá tình trạng xét nghiệm máu: Số lượng hồng cầu (T/L),
huyết sắc tố (g/L) và thể tích hồng cầu (L/L).
+ Đặc điểm vị trí phẫu thuật, loại phẫu thuật, chẩn đoán trước mổ.
57
2.2.6 Một số tiêu chuẩn và định nghĩa sử dụng trong nghiên cứu
- Thể tích hỗn hợp thuốc tê tiêm liều khởi đầu vào khoang NMC
(ml): Là thể tích thuốc tê Bupivacain 0,1% + fentanyl 1 mcg/ml hoặc
hỗn hợp Ropivacain 0,1% + fentanyl 1 mcgg/ml tiêm khởi đầu khoang
NMC của hai nhóm PCEA, tính bằng ml dung dịch với thể tích được tính
bằng công thức.
- Thời gian khởi phát tác dụng giảm đau (phút): Là khoảng thời
gian tính từ khi tiêm thuốc vào khoang NMC ở hai nhóm nghiên cứu tới
khi có tác dụng giảm đau với điểm VAS < 4. Thời gian khởi phát được
tính bằng phút.
- Thời gian bấm liều bolus đầu tiên: là khoảng thời gian được tính
từ thời điểm H0 đến khi bệnh nhân bấm liều yêu cầu đầu tiên. Thời gian
được tính bằng giờ.
- Số phân đốt da bị ức chế ở hai nhóm: xác định bằng nghiệm
pháp châm kim đầu tù lên da để xác định mức ức chế cảm giác sau khi
tiêm thuốc tê vào khoang NMC.
- Mức độ hài lòng: Sau 72 giờ thực hiện giảm đau bằng phương
pháp PCEA, bệnh nhân được hỏi đánh giá mức độ hài lòng với phương
pháp giảm đau dựa trên hiệu quả giảm đau và tác dụng không mong
muốn theo các mức như sau:
+ Không hài lòng: còn đau nhiều trong quá trình dùng PCEA
và/hoặc có tác dụng không mong muốn gây lo lắng khó chịu nhiều.
Không muốn dùng lại PCEA nếu được lựa chọn.
+ Hài lòng: còn đau nhẹ hoặc có tác dụng không mong muốn
thoáng qua, ít gây khó chịu và chấp nhận được. Tiếp tục chọn PCEA ở
lần phẫu thuật tiếp theo nếu có.
+ Rất hài lòng: không hoặc đau nhẹ, thoải mái trong quá trình sử
dụng PCEA, không có tác dụng không mong muốn.
58
Một số thang điểm đánh giá sử dụng trong nghiên cứu:
- Mức độ liệt chi dưới: đánh giá theo thang điểm Bromage [43]
+ M0: Không liệt, bệnh nhân cử động chi dưới bình thường.
+ M1: Liệt một phần, bệnh nhân không nhấc chân lên được khỏi
bàn mổ chỉ cử động được đầu gối.
+ M2: Liệt gần hoàn toàn, bệnh nhân chỉ cử động được bàn chân.
+ M3: Liệt hoàn toàn, bệnh nhân không cử động được bàn chân và
đầu gối.
- Xếp loại sức khỏe theo ASA [62]
+ ASA 1: tình trạng sức khỏe tốt.
+ ASA 2: có một bệnh nhưng không ảnh hưởng đến sức khỏe và
sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân.
+ ASA 3: có một bệnh ảnh hưởng đến sinh hoạt của bệnh nhân.
+ ASA 4: bệnh nhân có bệnh nặng đe dọa đến tính mạng.
+ ASA 5: tình trạng bệnh nhân quá nặng, hấp hối, không có khả
năng sống được 24 giờ dù có được phẫu thuật hoặc không.
- Đánh giá buồn nôn, nôn theo phân độ của Pang (2000) [93]:
+ Độ 0: Không buồn nôn, nôn.
+ Độ 1: Buồn nôn < 10 phút hoặc chỉ nôn 1 lần.
+ Độ 2: Buồn nôn > 10 phút hoặc nôn 2 lần, nhưng không cần điều trị.
+ Độ 3: Buồn nôn > 10 phút và/hoặc nôn 2 lần, cần điều trị.
- Tiêu chuẩn đánh giá suy hô hấp:
+ Thở chậm < 8 lần/phút
+ Thở nhanh nông > 30 lần/phút – SpO2 < 92%
+ PaO2 < 60 mmHg, PaCO2 > 50 mmHg
+ Khó thở, co kéo các cơ hô hấp
+ Vả mồ hôi, vật vã lơ mơ
59
- Đánh giá tình trạng huyết động:
Tăng huyết áp: huyết áp tâm thu > 140mmHg hoặc huyết áp tâm
trương > 90 mmHg, huyết áp tăng > 20% huyết áp nền.
Giảm huyết áp: Huyết áp tâm thu< 90 mmHg, huyết áp tối thiểu <
50 mmHg, huyết áp giảm > 20% so với huyết áp nền.
Tăng nhịp tim: Nếu nhịp tim > 90 lần/phút hoặc nhịp tim tăng
>20% trị số ban đầu
Giảm nhịp tim: nếu nhịp tim < 50 lần/phút hoặc nhịp tim giảm
>20% so với trị số ban đầu.
2.2.7 Xử trí một số tác dụng không mong muốn
- Ức chế vận động
Nếu bệnh nhân bị ức chế vận động mức M1 hoặc M2 theo điểm
Bromage: Đối với các nhóm sử dụng PCEA: Tạm dừng máy PCA cho
đến khi vận động được trở lại và VAS ≥ 4 thì bơm một liều bolus 5ml
dung dịch thuốc tê đang sử dụng và tiếp tục PCA theo chế độ cũ.
- Tụt huyết áp
Nếu sau gây tê hoặc liều bolus bệnh nhân có mức giảm HA <
10%. Theo dõi sát chỉ số về huyết động: Mạch, Huyết áp. Nếu sau gây tê
hoặc liều bolus bệnh nhân mức giảm HA ở trong khoảng 10 - 20%, BN
được bù dịch cao phân tử như voluven... Theo dõi sự thay đổi HA và điều
chỉnh theo mức thay đổi. Nếu sau gây tê hoặc liều bolus có mức giảm
HA> 20%. Tiến hành bù khối lượng tuần hoàn bằng dịch cao phân tử, sử dụng
thuốc co mạch như ephedrin 3mg/ml tiêm ngắt quãng 1-2 ml/ lần. Đo lại HA
sau sử dụng thuốc, có thể lặp lại liều trên nếu HA chưa phục hồi.
- Ngộ độc thuốc tê
Theo dõi sát bệnh nhân khi bắt đầu gây tê, trong trường hợp BN có các
triệu chứng sau cần đán giá cần thận để chẩn đoán ngộ độc thuốc tê:
60
- Tê quanh miệng và/hoặc lưỡi
- Lưỡi có cảm giác vị kim loại
- Đau đầu nhẹ, hoa mắt, chóng mặt, choáng váng
- Rối loạn thị giác và thính giác (khó tập trung và ù tai)
- Tình trạng ngủ gà
Xử trí cấp cứu: chú ý nguy cơ đe dọa đường thở, tụt huyết áp, rối
loạn nhịp tim và các tiền triệu của co giật. Khi đã loại trừ được các nguyên
nhân có thể gây ra những triệu chứng mới của bệnh nhân, hãy bắt đầu tiến
hành xử trí các triệu chứng đặc hiệu. [90] Xử trí theo trình tự sau:
- Kiểm soát đường thở
- Giảm co giật (benzodiazepin)
- Xử trí các rối loạn nhịp tim
- Liệu pháp lipid
Liệu pháp nhũ tương lipid: được thực hiện bằng dung dịch lipid
20%. Ban đầu, tiêm truyền liều lớn 1,5ml/kg trong 1 phút. Sau đó truyền
với tốc độ 0,25 mL/kg/phút trong 20 phút, 30-60 phút, hoặc cho tới khi
huyết động ổn định. Một khi huyết động ổn định, nên truyền tiếp trong ít
nhất 10 phút nữa [104] [109]
Nếu liều như trên không đáp ứng được, có một vài lựa chọn khác.
Lặp lại liều trên 2 lần, khoảng cách giữa 2 lần có thể là 5 phút, hoặc cứ
lặp lại 5 phút/lần cho tới khi mạch ổn định. Cách khác là truyền tốc độ
tăng lên (ví dụ tới 0,5mL/kg/phút trong 10 phút). Giới hạn trên của dung
dịch nhũ tương lipid khuyến cáo là xấp xỉ 10 mL/kg trong 30 phút đầu tiên.
2.2.8 Xử lý số liệu
- Các số liệu được thu thập và xử lý dựa trên phần mềm SPSS 22.0.
- Các số liệu mô tả được trình bày dưới dạng X± SD hoặc n (%).
- So sánh sự khác biệt:
61
Biến định lượng: sử dụng test T-student để so sánh hai giá trị
trung bình của hai nhóm, test T ghép cặp để so sánh hai giá trị trung bình
của một nhóm và test ANOVA để so sánh ba giá trị trung bình trở lên.
Giá trị p < 0,05 được coi là khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Biến định tính: sử dụng test χ2 để kiểm định thông qua bảng 2x2,
test chính xác Fisher khi có một ô nhỏ hơn 5.
2.2.9 Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
Đề cương được thông qua hội đồng khoa học của Bộ môn gây mê
- Hồi sức, Viện nghiên cứu khoa học Y - Dược lâm sàng 108. Nghiên
cứu được sự đồng ý của Ban lãnh đạo Bệnh viện trung ương quân đội
108, Viện Chấn thương chỉnh hình và Khoa C Bệnh viện trung ương
quân đội 108, khoa Gây mê hồi sức bệnh viện Trung ương quân đội 108.
Thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản cho tất cả những người tham gia
nghiên cứu và tuân thủ theo tuyên ngôn Helsinki, tiêu chuẩn của Tổ chức
Y tế Thế giới (2011) trong nghiên cứu y sinh học. Mọi thông tin cá nhân
của bệnh nhân đều được giữ bí mật. Bệnh nhân và người thân của gia
đình bệnh nhân được giải thích rõ ràng, hiểu được mục đích của kỹ thuật
gây tê NMC và phương pháp giảm đau PCEA. Mục đích của nghiên cứu
là nhằm điều trị đau sau mổ hiệu quả hơn, giảm tỷ lệ các biến chứng do
đau, giúp bệnh nhân hồi phục nhanh hơn, nâng cao chất lượng điều trị
của bệnh nhân. Các bệnh nhân từ chối không tham gia nghiên cứu không
bị phân biệt đối xử. Các số liệu nghiên cứu được ghi chép đầy đủ từ bệnh
án bệnh nhân.
Kết quả sẽ được công bố khi nghiên cứu hoàn thành.
62
2.2.10 Sơ đồ nghiên cứu
Chọn bệnh nhân vào nghiên cứu
104 bệnh nhân
Tiến hành gây tê, phẫu thuật
Nhóm Bupivacain Nhóm Ropivacain
(52 BN): giảm đau bằng (52 BN): giảm đau bằng
bupivacain 0,1% phối hợp ropivacain 0,1% phối hợp
fentanyl 1 mcg/ml fentanyl 1 mcg/ml
Cài đặt PCEA
Bolus 3 ml/lần
Khóa 15 phút
Giới hạn: 40 ml/4h
Liều nền: 3 ml/h
Đánh giá đau theo
thang điểm VAS
Ghi lại các chỉ tiêu
nghiên cứu vào phiếu
thu thập số liệu
Kết thúc giảm đau
Rút catheter NMC
63
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Đặc điểm chung
3.1.1 Đặc điểm chung về người bệnh
* Tuổi, chiều cao, cân nặng
Bảng 3.1: Đặc điểm về tuổi, chiều cao, cân nặng của hai nhóm
Nhóm
p Nhóm B (n=52) Nhóm R (n=52) Tổng (n=104) Đặc điểm
72,2 ± 8,1 71,0 ± 9,8 71,6 ± 8,9 >0,05 (Min-Max) 60 -90 60 - 98 60 - 98 Tuổi (Năm)
159,2 ± 7,1 159,0 ± 9,3 159,1 ± 8,2 >0,05 (Min-Max) 148-175 140-180 140-180 Chiều cao (Cm)
54,9 ± 7,3 53,9 ± 10,2 54,4 ± 8,8 >0,05 (Min-Max) 42-70 36-81 36-81 Cân nặng (Kg)
Nhận xét:
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 71,6 ± 8,9, với
tuổi thấp nhất trong nghiên cứu là 60 và cao nhất là 98. Tuổi trung bình
của hai nhóm có sự khác biệt, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê với p> 0,05.
Chiều cao trung bình của hai nhóm trong nghiên cứu có sự khác
biệt nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Trong
đó chiều cao thấp nhất là 140 cm và cao nhất là 180 cm.
Cân nặng trung bình trong nghiên cứu là 54,4 ± 8,8kg, với mức
thấp nhất là 36kg và cao nhất là 81kg. Sự khác biệt về cân nặng của hai
nhóm trong nghiên cứu không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05.
64
* Phân bố về giới tính
Bảng 3.2: Phân bố về giới tính của hai nhóm
Nhóm
Nhóm B (n=52) Nhóm R (n=52) Tổng (n=104) p
n (%) n (%) n (%) Giới
22 (42,3) 29 (55,8) 51 (49,0) Nam
>0,0 5 30 (57,7) 23 (44,2) 53 (51,0) Nữ
52 (100) 52 (100) 104 (100) Tổng
Nhận xét:
Tỷ lệ phân bố về giới tính trong nghiên cứu không có sự khác biệt
với tỷ lệ nam là 49 % và nữ là 51%. Sự khác biệt về giới tính của hai
nhóm không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
* Phân bố theo tình trạng sức khỏe theo ASA
Bảng 3.3: Phân bố về phân loại sức khỏe theo ASA
Nhóm p
Đặc điểm Nhóm B (n=52) n (%) Nhóm R (n=52) n (%) Tổng (n=104) n (%)
ASA 1 7 (13,5) 7 (13,5) 14 (13,5)
> 0,05 ASA 2 38 (73,1) 40 (76,9) 78 (75,0)
ASA 3 7 (13,5) 5 (9,6) 12 (11,5)
Tổng 52 (100) 52 (100) 104 (100)
Nhận xét:
Tỷ lệ phân loại sức khỏe theo ASA của nghiên cứu là ASA 1
13,5%, ASA2 là 75% và ASA3 là 11,5%.
Cả hai nhóm trong nghiên cứu đều có phân loại sức khỏe ASA 2 là
cao nhất lần lượt là 73,1% ở nhóm bupivacain và 76,9% ở nhóm
ropivacain. Sự khác biệt của hai nhóm không có ý nghĩa thống kê với p>0,05
65
* Bệnh lý mạn tính
Bảng 3.4 Phân bố tỷ lệ bệnh mạn tính của hai nhóm
Nhóm p
Đặc điểm Nhóm B (n=52) n (%) Nhóm R (n=52) n (%) Tổng (n=104) n (%)
Tăng huyết áp 24 (46,1) 17 (32,6) 41 (39,4)
> Đái tháo đường 7 (13,4) 3 (5,7) 10 (9,6)
0,05 Rối loạn thông khí 1 (1,9) 3 (5,7) 4 (3,8)
Bệnh lý tim mạch 7 (13,4) 9 (17,3) 16 (15,3)
Tổng 39 (75) 32 (61,5) 71 (68,2)
Nhận xét:
Bệnh lý mạn tính gặp nhiều nhất trong nghiên cứu của chúng tôi là
tăng huyết áp với 39%. Tiếp theo là đái tháo đường với 19,2%.
Tỷ lệ các bệnh lý mạn tính của hai nhóm nghiên cứu có sự khác
biệt, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
3.1.2 Đặc điểm chung về gây tê và phẫu thuật
* Bệnh lý cần phẫu thuật
Biểu đồ 3.1: Bệnh lý phẫu thuật của hai nhóm
66
Nhận xét:
Bệnh lý cần phẫu thuật gặp nhiều nhất trong nghiên cứu là gẫy cổ
xương đùi với tỷ lệ 54,8%. Tiếp theo là hoại tử chỏm xương đùi với 32.7%.
Sự khác biệt về tỷ lệ bệnh lý phẫu thuật của hai nhóm không có ý
nghĩa thống kê với p>0,05
* Đặc điểm về xét nghiệm hồng cầu, huyết sắc tố, hematocrid
Bảng 3.5: Về xét nghiệm hồng cầu, huyết sắc tố, hematocrid
Nhóm p Đặc điểm
>0,05 (Min-Max)
>0,05 (Min-Max)
>0,05 (Min-Max) Nhóm B (n=52) 4,3 ± 0,5 3,3 – 5,3 128,0 ± 15,6 91,0 - 158,0 38,8 ± 4,7 30 - 49 Nhóm R (n=52) 4,4 ± 0,5 3,2 - 5,6 134,0 ± 16,9 86 - 173 40,6 ± 4,9 27 - 51
Hồng cầu (T/L) Huyết sắc tố (g/L) Hematocrid (%) Nhận xét:
Chỉ số hồng cầu, huyết sắc tố và hematocrid của nhóm bupivacain thấp
hơn so với nhóm ropivacain. Sự khác biệt của hai nhóm về chỉ số số lượng
hồng cầu, huyết sắc tố, hematocrid không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05.
* Thời gian phẫu thuật
Bảng 3.6: Thời gian phẫu thuật của hai nhóm
Nhóm Nhóm B Nhóm R p Đặc điểm (n=52) (n=52)
Thời gian phẫu thuật 78,3 ± 19,7 75,0 ± 20,2 >0,05 (Phút) (Min-Max) (50 -130) (40 – 130)
Nhận xét:
Thời gian phẫu thuật trong nghiên cứu ngắn nhất là 40 phút và dài
nhất là 130 phút. Thời gian phẫu thuật của hai nhóm tương đương nhau
với p>0,05.
67
* Thuốc sử dụng trong gây tê tủy sống
Bảng 3.7: Thuốc sử dụng gây tê tủy sống
Nhóm p Đặc điểm
>0,05 (Min-Max)
>0,05 Bupivacain (mg) Fentanyl (mcg) (Min-Max) Nhóm B (n=52) 7,2 ± 1,1 (5 – 10) 28,2 ± 4,7 (20 – 40) Nhóm R (n=52) 7,3 ± 1,1 (5 -10) 28,5 ± 3,6 (20 – 30)
Nhận xét
Lượng thuốc tê dùng để gây tê tủy sống của hai nhóm thấp nhất là
5mg và cao nhất là 10mg. Lượng fentanyl sử dụng trong nghiên cứu thấp
nhất là 20 mcg và cao nhất là 40 mcg.
Sự khác biệt của hai nhóm không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
* Cách thức phẫu thuật
Biểu đồ 3.2: Phân bố loại phẫu thuật của hai nhóm
Nhận xét:
Cách thức phẫu thuật trong nghiên cứu nhiều nhất là thay khớp
toàn phần không xi măng với 57,7% và ít nhất là thay khớp toàn phần có
xi măng với 6,7%. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
68
3.1.3 Đặc điểm về gây tê ngoài màng cứng
p Nhóm R (n=52) Nhóm B (n=52) Tổng (n=104) * Khoảng cách từ da tới NMC và chiều dài catheter trong NMC Bảng 3.8: Khoảng cách từ da tới NMC và chiều dài catheter trong NMC Nhóm Chiều dài
4,6 ± 0,7 4,4 ± 0,6 4,5 ± 0,69 > 0,05
Từ da tới khoang NMC (cm) Min –Max 3 - 6 3 - 5 3 - 6
4,17± 0,9 4,11±0,87 4,1 ± 0,89
> 0,05 Min –Max 3 - 6 3 - 5 3-6 Catheter trong khoang NMC (cm)
Nhận xét:
Khoảng cách từ da tới khoang ngoài màng cứng trung bình trong
nghiên cứu là 4,5 ± 0,69 cm. Chiều dài catheter đặt trong khoang ngoài màng
cứng là 4,1 ± 0,89 cm. Sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống
kê với p>0,05.
* Vị trí chọc kim gây tê ngoài màng cứng
Bảng 3.9: Vị trí chọc kim gây tê ngoài màng cứng
Nhóm
Nhóm B (n=52) Nhóm R (n=52) Tổng (n=104) p
n (%) n (%) n (%) Vị trí gây tê NMC
36 (69,2) 38 (73,1) 74 (71,2) > 0,05 L2-3
16(30,7) 14 (26,9) 30 (28,8) > 0,05 L3-4
Tổng 52 (100) 52 (100) 104 (100)
Nhận xét:
Vị trí chọc gây tê NMC nhiều nhất trong nghiên cứu là L2-3 với tỷ
lệ 71,2 % vị trí gây tê tại L3-4 với 28,8 %.
Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về vị trí chọc kim gây tê
ngoài màng cứng với p> 0,05.
69
3.2 Hiệu quả giảm đau sau mổ
3.2.1 Điểm VAS 2 nhóm khi nghỉ ngơi
Bảng 3.10: Điểm VAS lúc nghỉ ngơi của hai nhóm
Nhóm Nhóm B Nhóm R p Thời điểm (n=52) (n=52)
5,3 ± 0,9* 5,17 ± 0,65* >0,05 H0 (Min – Max) (4 – 7) (4 – 6)
1,54 ± 0,8 1,73 ± 0,84 >0,05 H0,25 (Min – Max) (0 – 3) (0 – 4)
1,6 ± 0,77 1,7 ± 0,75 >0,05 H1 (Min – Max) (0 – 3) (0 – 3)
1,5 ± 0,73 1,6 ± 0,75 >0,05 H6 (Min – Max) (0 – 3) (0 – 3)
1,54 ± 0,87 1,58 ± 0,83 >0,05 H12 (Min – Max) (0 – 3) (0 – 3)
1,56 ± 0,69 1,62 ± 0,74 >0,05 H24 (Min – Max) (0 – 3) (0 – 3)
1,4 ± 0,69 1,54 ± 0,75 >0,05 H36 (Min – Max) (0 – 3) (0 – 3)
1,29 ± 0,82 1,46 ± 0,67 >0,05 H48 (Min - Max) (1 – 3) (0 – 3)
1,21 ± 0,72 1,29 ± 0,53 >0,05 H60 (Min – Max) (0 – 3) (0 – 3)
1,12 ± 0,7 1,15 ± 0,46 >0,05 H72 (Min – Max) (0 – 3) (0 – 2)
p<0,05 p<0,05
*: giá trị p<0,05 khi phân tích dọc theo thời điểm nghiên cứu,
điểm VAS tại H0 cao hơn các thời điểm còn lại trong nghiên cứu.
70
Nhận xét:
Trước khi bắt đầu làm giảm đau, nhóm bupivacain có điểm VAS
trung bình là 5,3 ± 0,9 cao hơn so với nhóm ropivacain 5,1 ± 0,65.
Trong đó mức thấp nhất là 4 điểm và cao nhất là 7 điểm.
Sau khi bắt đầu làm giảm đau 15 phút, điểm VAS của nhóm
bupivacain là 1,54 ± 0,8 thấp hơn so với nhóm ropivacain là 1,73 ± 0,84.
Sau khi bắt đầu làm giảm đau, điểm VAS trung bình của hai
nhóm tại các thời điểm nghiên cứu đều thấp hơn 4.
Mức điểm VAS tại các thời điểm nghiên cứu có sự khác biệt với
thời điểm H0 với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,01.
Tại các thời điểm nghiên cứu, điểm VAS của hai nhóm có sự
khác biệt, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Biểu đồ 3.3: Thay đổi điểm VAS lúc nghỉ của hai nhóm
71
3.2.2 Điểm VAS 2 nhóm khi vận động
Bảng 3.11: Điểm VAS của hai nhóm khi vận động
Nhóm Nhóm B Nhóm R p Thời điểm (n=52) (n=52)
6,25 ± 0,68 6,15 ± 0,6 >0,05 H0 (Min – Max) (5 – 7) (5 – 8)
2,6 ± 0,66 2,75 ± 0,84 >0,05 H0,25 (Min – Max) (2 – 4) (1 – 5)
2,54 ± 0,61 2,52 ± 0,8 >0,05 H1 (Min – Max) (2 – 4) (1 – 5)
2,38 ± 0,63 2,54 ± 0,78 >0,05 H6 (Min – Max) (2 – 4) (1 – 5)
2,44 ± 0,61 2,56 ± 0,75 >0,05 H12 (Min – Max) (2 – 4) (1 – 4)
2,52 ± 0,64 2,54 ± 0,7 >0,05 H24 (Min – Max) (2 – 4) (1 – 4)
2,48 ± 0,61 2,52 ± 0,55 >0,05 H36 (Min – Max) (1 – 4) (0 – 4)
2,29 ± 0,7 2,38 ± 0,77 >0,05 H48 (Min - Max) (1 – 4) (0 – 4)
2,25 ± 0,83 2,33 ± 0,78 >0,05 H60 (Min – Max) (1 – 4) (0 – 3)
2,17 ± 0,9 2,29 ± 0,72 >0,05 H72 (Min – Max) (1 – 4) (1 – 3)
p<0,05* p<0,05*
*: giá trị p<0,05 khi phân tích dọc theo thời điểm nghiên cứu,
điểm VAS tại H0 cao hơn các thời điểm còn lại trong nghiên cứu.
72
Nhận xét:
Trước khi thực hiện giảm đau, điểm VAS lúc vận động của hai
nhóm ở mức cao với điểm VAS trung bình của bupivacain là 6,25 ± 0,68
và của nhóm ropivacain là 6,15 ± 0,6. Với mức thấp nhất là 5 điểm và
cao nhất là 8 điểm.
Tại thời điểm H0,25 mức độ đau của hai nhóm giảm thấp với mức
trung bình của nhóm bupivacain là 2,6 ± 0,66 và của nhóm ropivacain là
2,75 ± 0,84.
Mức điểm VAS trung bình của hai nhóm giảm dần theo thời gian
nghiên cứu. Trong đó, mức điểm VAS khi vận động của hai nhóm không
có sự khác biệt tại các thời điểm nghiên cứu với p>0,05.
Mức điểm VAS tại các thời điểm nghiên cứu còn lại có mức thấp
hơn so với thời điểm Ho với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Biểu đồ 3.4: Điểm VAS của hai nhóm khi vận động
73
3.2.3 Lượng thuốc tê sử dụng ở hai nhóm
* Thể tích liều đầu của hai nhóm
Bảng 3.12: Đặc điểm liều đầu của hai nhóm
p Nhóm B (n=52) Nhóm R (n=52) Nhóm Đặc điểm
5,92 ± 0,71 5,9 ± 0,92 > 0,05 Thể tích liều đầu (ml) Min –Max 4,8 – 7,5 4 – 8
10,8 ± 1,9 13,0 ± 1,6 < 0,05 Thời gian onset liều đầu (phút) Min –Max 8 - 16 10 - 16
8,6 ± 1,5 7,1 ± 1,65 < 0,05
Min –Max 5 - 13 4 - 13 Thời gian BN bấm liều yêu cầu đầu tiên (giờ)
Nhận xét:
Thể tích liều đầu của hai nhóm thấp nhất là 4 ml và cao nhất là 8
ml, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê vơi p>0,05.
Thời gian onset của nhóm bupivacain là 10,8 ± 1,9 phút, là ngắn
hơn so với nhóm ropivacain là 13,0 ± 1,6. Sự khác biệt của hai nhóm có ý
nghĩa thống kê với p< 0,05.
Thời gian từ lúc bắt đầu làm giảm đau tới lúc bệnh nhân bấm liều yêu
cầu đầu tiên của nhóm bupivacain là 8,6 ± 1,5 giờ, dài hơn so với nhóm
ropivacain là 7,1 ± 1,65 giờ. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05.
74
* Lượng thuốc tê sử dụng trong nghiên cứu
Bảng 3.13: Thể tích thuốc NMC sử dụng của hai nhóm (ml)
Nhóm Nhóm B Nhóm R p Thời điểm (n=52) (n=52)
Từ 0 – 24h >0,05 (Min – Max)
Từ 24 – 48h >0,05 (Min – Max)
Từ 48 – 72h >0,05 (Min – Max)
Tổng >0,05 (Min – Max) 90,3 ± 3,2 (81 – 96) 95,0 ± 4,2 (87 – 105) 94,7 ± 4,7 (87 – 105) 280,0 ± 10,0 (255 – 303) 90,9 ± 3,1 (87 – 102) 95,8 ± 3,5 (87 – 102) 96,1 ± 3,6 (87 – 102) 282,9 ± 7,6 (264 – 301)
Nhận xét:
Thể tích thuốc tê sử dụng ngày đầu tiên là thấp hơn so với hai
ngày sau. Lượng thuốc tê sử dụng hàng ngày của hai nhóm có sự khác
biệt nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05.
Mức sử dụng trung bình của nhóm bupivacain là 3,89ml/h trong
72 giờ. Nhóm ropivacain là 3,93 ml/h trong 72 giờ. Sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê với p> 0,05.
Biểu đồ 3.5: Lượng thuốc tê sử dụng của hai nhóm mỗi 24 giờ
75
3.2.4 Tỷ lệ A/D của hai nhóm
* Số lần bấm yêu cầu của hai nhóm
Bảng 3.14: Số lần bấm yêu cầu của hai nhóm
Nhóm Nhóm B Nhóm R p (n=52) (n=52) Thời điểm
Từ 0 – 24h >0,05 (Min – Max)
Từ 24 – 48h >0,05 (Min – Max)
Từ 48 – 72h >0,05 (Min – Max)
Tổng >0,05 (Min – Max) 6,17 ± 1,0 3 - 8 7,92 ± 1,6 5 - 12 7,90 ± 1,87 5 - 12 22,04 ± 3,8 13 - 32 6,42 ± 1,1 5 - 11 8,33 ± 1,3 5 - 12 8,4 ± 1,27 5 - 11 23,12 ± 2,58 16 - 28
Nhận xét:
Số lần bấm yêu cầu của nhóm ropivacain là 23,12 ± 2,58 nhiều
hơn so với nhóm bupivacain 22,04 ± 3,8. Nhưng sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p> 0,05. Trong nghiên cứu, số lần bấm yêu cầu ít
nhất là 13 và nhiều nhất là 32 lần. Trong đó, số lần bấm yêu cầu trong
ngày đầu tiên ít hơn so với ngày thứ hai và thứ 3.
* Số lần đáp ứng của hai nhóm
Bảng 3.15: Số lần bấm yêu cầu thành công của hai nhóm
Nhóm Nhóm B Nhóm R p Thời điểm (n=52) (n=52)
Từ 0 – 24h >0,05 (Min – Max)
>0,05 Từ 24 – 48h (Min – Max)
>0,05 Từ 48 – 72h (Min – Max)
>0,05 Tổng 6,1 ± 1,07 3-8 7,65 ± 1,41 5 - 11 7,56 ± 1,56 5 - 11 21,3 ± 3,37 13 - 29 6,29 ± 1,03 5 - 11 7,94 ± 1,16 5 – 10 8,01 ± 1,19 5 - 10 22,25 ± 2,41 16 - 27 (Min – Max)
76
Nhận xét:
Nhóm ropivacain có số lần đáp ứng nhiều hơn so với nhóm
bupivacain. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05.
* Tỷ lệ A/D của hai nhóm
Bảng 3.16: Tỷ lệ A/D của hai nhóm nghiên cứu
Nhóm Nhóm B Nhóm R p Thời điểm (n=52) (n=52)
Từ 0 – 24h >,05 (Min – Max)
Từ 24 – 48h >0,05 (Min – Max)
Từ 48 – 72h >0,05 98,7 ± 4,48 83,3 - 100 97,05 ± 5,59 83,3 - 100 96,35 ± 6,25 81,82 - 100 98,11 ± 4,94 83,3 - 100 95,8 ± 6,76 77,78 - 100 95,67 ± 1,19 77,78 - 100 (Min – Max)
Nhận xét:
Tỷ lệ A/D của nhóm bupivacain cao hơn so với nhóm ropivacain ở
cả ngày thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê với p> 0,05.
Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ A/D của hai nhóm trong thời gian nghiên cứu
77
3.2.5 Giải cứu đau của hai nhóm
Bảng 3.17: Số bệnh nhân giải cứu đau của hai nhóm
Nhóm p
Thời điểm Nhóm B (n=52) n (%) Nhóm R (n=52) n (%) Tổng (n=104) n (%)
1(1,9) 0(0) 1(0,96) 0 – 24h
> 0,05 1(1,9) 2(3,8) 3(2,88) 24 – 48h
1(1,9) 1(3,8) 2(1,9) 48 – 72h
3(5,7) 3(5,7) 6(5,7) Tổng
Nhận xét:
Số lần giải cứu đau trong nghiên cứu của hai nhóm tương đương
nhau với p > 0,05.
3.2.6 Mức độ phong bế vận động và cảm giác
* Mức phong bế của hai nhóm
Bảng 3.18: Số khoanh tủy phong bế cảm giác của hai nhóm
Nhóm Nhóm B Nhóm R Tổng p Đặc điểm (n=52) (n=52) (n=104)
Bolus >0,05 (Min – Max)
24h >0,05 (Min – Max)
48h >0,05 (Min – Max)
72h >0,05 5,5 ± 0,54 5 – 7 3,4 ± 0,6 3 – 5 3,33 ± 0,47 3 – 4 3,31 ± 0,47 3- 4 5,52 ± 0,58 4 – 7 3,29±0,49 3 – 5 3,27 ± 0,49 3 – 5 3,31 ± 0,5 3 - 5 5,51 ± 0,56 4 -7 3,35 ± 0,55 3 – 5 3,3 ± 0,48 3 - 5 3,31 ± 0,48 3 - 5 (Min – Max)
Nhận xét:
Mức khoanh tủy phong bế sau liều bolus của hai nhóm trung bình
là 5,51 ± 0,56. Trong đó mức phong bế thấp nhất là 4 và nhiều nhất là 7
khoanh tủy.
78
Số khoanh tủy bị phong bế của hai nhóm tại các thời điểm nghiên cứu
có sự khác biệt, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
* Mức độ phong bế vận động theo Bromage sau liều đầu
Bảng 3.19: Mức độ ức chế vận động theo Bromage
Nhóm p
Bromage Nhóm B (n=52) n (%) Nhóm R (n=52) n (%) Tổng (n=104) n (%)
35(67,3) 38(73,1) 73(70,2) M0
< 0,05 10(19,2) 14(26,9) 24(23,1) M1
7(13,5) 0(0) 7(6,7) M2
Tổng 52 (100) 52(100) 104(100)
Nhận xét:
Mức độ ức chế vận động của hai nhóm sau liều đầu theo thang
điểm Bromage nhiều nhất ở mức độ M0 với tỷ lệ 70,2%. Nhóm
bupivacain có mức độ ức chế vận động M2 chiếm 13,5% cao hơn so với
nhóm ropviacain. Sự khác biệt về tỷ lệ ức chế vận động của hai nhóm
nghiên cứu có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Biểu đồ 3.7: Mức độ ức chế vận động theo Bromage sau liều đầu
79
3.2.7 Mức độ hài lòng của người bệnh
Biểu đồ 3.8: Mức độ hài lòng của người bệnh trong nghiên cứu
Nhận xét:
Trong nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhân rất hài lòng với hiệu quả giảm
đau là 69,2%. Trong đó nhóm bupivacain có mức rất hài lòng là 63,5%
và nhóm ropivacain là 75%.
Cả hai nhóm không có bệnh nhân nào không hài lòng. Sự khác
biệt về mức độ hài lòng của người bệnh ở hai nhóm không có ý nghĩa
thống kê với p> 0,05.
80
3.3 Ảnh hưởng lên tuần hoàn, hô hấp và tác dụng không mong muốn.
3.3.1 Tỷ lệ thay đổi huyết áp sau liều đầu
Bảng 3.20: Tỷ lệ thay đổi huyết áp sau liều đầu của hai nhóm
Nhóm p
Mức độ giảm Nhóm B (n=52) n (%) Nhóm R (n=52) n (%) Tổng (n=104) n (%)
42(80,8) 45(86,5) 87(83,7) < 10%
> 0,05 7(13,5) 6(11,5) 13(12,5) 10 – 20%
3(5,8) 1(1,9) 4(3,8) > 20%
52 (100) 52(100) 104(100) Tổng
Nhận xét:
Huyết áp của hai nhóm trong nghiên cứu sau liều bolus có mức
giảm dưới 10% chiếm 83,7%. Nhóm bupivacain có 3 trường hợp chiếm
5,8% có mức tụt huyết áp lớn hơn 20% nhiều hơn so với nhóm ropivacain
có 1 trường hợp chiếm 1,9%. Sự khác biệt về mức độ tụt huyết áp của hai
nhóm không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05.
Biểu đồ 3.9: Tỷ lệ thay đổi huyết áp sau liều đầu của hai nhóm
81
3.3.2 Thay đổi huyết áp trung bình theo thời điểm nghiên cứu
Bảng 3.21: Thay đổi huyết áp trung bình của hai nhóm (mmHg)
Nhóm Nhóm B Nhóm R p Thời điểm (n=52) (n=52)
92,8 ± 7,53 93,65 ± 8,23 >0,05 H0 (Min – Max) (78 – 110,3) (79,3 – 115,3)
91,06 ± 6,49 91,12 ± 6,83 >0,05 H0,25 (Min – Max) (66,67–102,67) (73,67 – 106,0)
90,07 ± 7,73 90,52 ± 6,39 >0,05 H1 (Min – Max) (67,67–102,67) (79,3 – 107,0)
90,67 ± 6,74 90,01 ± 7,02 >0,05 H6 (Min – Max) (72,67–107,67) (67,3 – 105,67)
89,93 ± 5,71 90,5 ± 6,5 >0,05 H12 (Min – Max) (77,3 – 102,3) (70,67 – 103,3)
89,9 ± 6,88 89,7 ± 7,08 >0,05 H24 (Min – Max) (75,0 – 104,0) (69,67 – 113,0)
90,6 ± 5,39 90,5 ± 6,6 >0,05 H36 (Min – Max) (80,0 – 106,0) (69,67 – 111,0)
90,5 ± 6,74 90,28 ± 4,74 >0,05 H48 (Min - Max) (72,67 – 102,0) (75,67 – 103,0)
90,83 ± 5,56 90,85 ± 5,4 >0,05 H60 (Min – Max) (78,0 – 100,3) (73,67 – 104,0)
90,7 ± 4,4 90,36 ± 4,26 >0,05 H72 (Min – Max) (79,67 – 98,3) (76,3 – 96,67)
82
Nhận xét:
Huyết áp trung bình của hai nhóm cao nhất ở thời điểm trước khi
bắt đầu làm giảm đau. Sau khi làm giảm đau, HATB của cả hai nhóm đều
giảm.
Mức huyết áp trung bình của nhóm ropivacain thấp nhất là 67,3
mmHg, còn nhóm bupivacain có mức HATB thấp nhất là 67,7mmHg.
Thời điểm mức HATB của hai nhóm thấp nhất là giờ thứ 24. Nhóm
bupivacain có mức HATB là 89,9 ± 6,88 mmHg, nhóm ropivacain có
mức HATB là 89,7 ± 7,08 mmHg.
Sự khác biệt về mức HATB của hai nhóm tại các thời điểm trong
nghiên cứu không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05.
Biểu đồ 3.10: Thay đổi huyết áp trung bình theo thời điểm nghiên cứu
Từ biểu đồ 3.13 cho thấy mức thay đổi HATB của nhóm
ropivacain tương đương so với nhóm bupivacain.
83
3.3.3 Thay đổi tần số tim theo thời điểm nghiên cứu
Bảng 3.22: Thay đổi tần số tim của hai nhóm (lần/phút)
Nhóm Nhóm B Nhóm R P Thời điểm (n=52) (n=52)
87,4 ± 8,6 87,21 ± 7,05 >0,05 H0 (Min – Max) (65 – 106) (66 – 105)
81,46 ± 8,14 82,1 ± 6,8 >0,05 H0,25 (Min – Max) (60 – 98) (67 – 99)
80,48 ± 9,0 81,7 ± 7,34 >0,05 H1 (Min – Max) (58 – 99) (63 – 98)
80,63 ± 9,07 81,56 ± 7,73 >0,05 H6 (Min – Max) (58 – 98) (62 – 94)
79,87 ± 8,83 81,25 ± 7,25 >0,05 H12 (Min – Max) (60 – 98) (67 – 97)
79,75 ± 8,39 80,87 ± 6,36 >0,05 H24 (Min – Max) (62 – 98) (70 – 94)
79,98 ± 8,1 81,17 ± 5,66 >0,05 H36 (Min – Max) (63 – 99) (1 – 3)
80,56 ± 7,38 81,23 ± 6,1 >0,05 H48 (Min - Max) (62 – 98) (66 – 95)
80,13 ± 7,0 82,02 ± 5,7 >0,05 H60 (Min – Max) (61 – 95) (68 – 96)
80,56 ± 6,1 82,02 ± 5,83 >0,05 H72 (Min – Max) (62 – 92) (68 – 98)
84
Nhận xét:
Tại thời điểm H0, tần số tim của hai nhóm cao hơn so với các thời
điểm còn lại trong nghiên cứu. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với
p<0,05.
Tại các thời điểm còn lại của nghiên cứu, tần số tim của nhóm
ropivacain cao hơn so với nhóm bupivacain. Nhưng tại các thời điểm
nghiên cứu, sự khác biệt về tần số tim của hai nhóm không có ý nghĩa
thống kê với p> 0,05.
Biểu đồ 3.11: Thay đổi tần số tim của hai nhóm
Từ biểu đồ 3.14, mức giảm tần số tim của nhóm bupivacain nhiều
hơn so với nhóm ropivacain sau khi bắt đầu làm giảm đau.
85
3.3.3 Thay đổi tần số thở theo thời điểm nghiên cứu
Nhóm Bảng 3.23: Thay đổi tần số thở của hai nhóm (lần/phút) Nhóm B Nhóm R p Thời điểm (n=52) (n=52)
22,08 ± 3,95 21,69 ± 2,85 >0,05 H0 (Min – Max) (15 – 28) (15 – 28)
17,06 ± 2,24 17,15 ± 2,1 >0,05 H0,25 (Min – Max) (12 – 22) (14 – 22)
16,31 ± 2,39 16,58 ± 2,21 >0,05 H1 (Min – Max) (13 – 22) (13 – 25)
16,4 ± 2,48 16,62 ± 2,12 >0,05 H6 (Min – Max) (12 – 22) (13 – 24)
16,67± 2,65 16,54 ± 2,0 >0,05 H12 (Min – Max) (12 – 23) (12 – 22)
16,73 ± 2,76 16,71 ± 1,81 >0,05 H24 (Min – Max) (13 – 25) (14 – 22)
16,48 ± 2,6 16,58 ± 2,07 >0,05 H36 (Min – Max) (12 – 23) (12 – 23)
16,44 ± 2,51 16,92 ± 1,92 >0,05 H48 (Min - Max) (12 – 23) (13 – 22)
16,6 ± 2,14 16,62 ± 1,89 >0,05 H60 (Min – Max) (13 – 22) (12 – 20)
16,67 ± 2,47 16,83 ± 2,05 >0,05 H72 (Min – Max) (13 – 23) (13 – 22)
86
Nhận xét:
Tại thời điểm H0, tần số thở của nhóm bupivacain là 22,08 ± 3,95
cao hơn so với nhóm ropivacain là 21,69 ± 2,85. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p>0,05.
Tần số thở của hai nhóm tại H0 có mức cao hơn so với các thời
điểm còn lại của hai nhóm tại các thời điểm khác trong nghiên cứu. Sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Tần số thở của hai nhóm sau khi bắt đầu làm giảm đau thấp nhất là
12 lần/phút và nhanh nhất là 25 lần/phút.
Sự khác biệt về tần số thở của hai nhóm tại các thời điểm nghiên
cứu không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Biểu đồ 3.12: Thay đổi tần số thở của hai nhóm nghiên cứu
87
3.3.4 Thay đổi SpO2 theo thời điểm nghiên cứu
Bảng 3.24: Thay đổi SpO2 của hai nhóm (%)
Nhóm Nhóm B Nhóm R p Thời điểm (n=52) (n=52)
99,88 ± 0,38 99,81 ± 0,56 >0,05 H0 (Min – Max) (98 – 100) (98 – 100)
99,46 ± 0,54 99,58 ± 0,78 >0,05 H0,25 (Min – Max) (98 – 100) (97 – 100)
99,25 ± 0,74 99,37 ± 0,77 >0,05 H1 (Min – Max) (98 – 100) (97 – 100)
99,13 ± 0,72 99,35 ± 0,79 >0,05 H6 (Min – Max) (98 – 100) (97 – 100)
99,1 ± 0,69 99,17 ± 0,79 >0,05 H12 (Min – Max) (97 – 100) (97 – 100)
98,92 ± 0,95 99,0 ± 0,89 >0,05 H24 (Min – Max) (96 – 100) (97 – 100)
99,0 ± 0,86 98,94 ± 1,04 >0,05 H36 (Min – Max) (97 – 100) (97 – 100)
99,08 ± 0,79 98,92 ± 1,05 >0,05 H48 (Min - Max) (97 – 100) (97 – 100)
99,06 ± 0,94 99,0 ± 0,93 >0,05 H60 (Min – Max) (97 – 100) (97 – 100)
99,19 ± 0,77 99,0 ± 0,82 >0,05 H72 (Min – Max) (97 – 100) (97 – 100)
88
Nhận xét:
Tại thời điểm H0, độ bão hòa oxy của hai nhóm tương đương nhau
với mức 99,88 ± 0,38 (%) ở nhóm bupivacain và 99,81 ± 0,56 (%) ở
nhóm ropivacain (p>0,05).
Mức SpO2 thấp nhất trong nghiên cứu là 96% và cao nhất là
100%, độ bão hòa oxy có xu hướng giảm dần theo thời gian nghiên cứu.
Tại các thời điểm nghiên cứu, có sự khác biệt về độ bão hòa oxi
giữa hai nhóm trong nghiên cứu, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê với p>0,05.
Biểu đồ 3.13: Thay đổi SpO2 theo thời điểm nghiên cứu
89
3.3.5 Số ngày nằm viện sau mổ
Bảng 3.25: Số ngày nằm viện sau phẫu thuật
p Nhóm B (n=52) Nhóm R (n=52) Nhóm Đặc điểm
6,22 ± 1,2 5,9 ± 1,09 Ngày nằm viện > 0,05
Min –Max 4 - 8 4 - 8
Nhận xét:
Thời gian nằm viện sau mổ của nhóm ropivacain là 5,9 ± 1,09
ngày, ngắn hơn so với nhóm bupivacain là 6,22 ± 1,2 ngày. Sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05.
Biểu đồ 3.14: Phân tích bằng Kaplan – Meier về số ngày nằm viện sau mổ của hai nhóm
90
3.3.7 Tác dụng không mong muốn trong nghiên cứu
Bảng 3.26: Tác dụng không mong muốn của hai nhóm
Nhóm
p
Đặc điểm Nhóm B (n=52) n(%) Nhóm R (n=52) n(%) Tổng (n=104) n(%)
Buồn nôn 3(5,7) 2(3,8) 5(4,8)
Nôn 1(1,9) 1(1,9) 2(1,9)
Tụt huyết áp 10(19,2) 7(13,4) 17(16,3) > 0,05
Ngứa 2(3,8) 3(5,7) 5(4,8)
Bí tiểu 1(1,9) 1(1,9) 2(1,9)
Tổng 17(32,7) 14(26,9) 31(29,8)
Nhận xét:
Tác dụng không mong muốn gặp nhiều nhất trong nghiên cứu của
chúng tôi là tụt huyết áp với tỷ lệ gặp chung trong nghiên cứu là 16,3%.
Trong đó, nhóm bupivacain có tỷ lệ tụt huyết áp là 19,2% nhiều hơn so
với nhóm ropivacain 13,4%.
Ngoài ra trong nghiên cứu còn gặp các tác dung không mong
muốn khác như nôn, buồn nôn, ngứa, bí tiểu.
Sự khác biệt về tỷ lệ các tác dụng không mong muốn của hai
nhóm trong nghiên cứu không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
91
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1 Đặc điểm chung
4.1.1 Đặc điểm của bệnh nhân
* Tuổi
Từ kết quả bảng 3.1 tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng
tôi là 71,6 ± 8,9 trong đó tuổi thấp nhất là 60 và cao nhất là 98. Tuổi
trung bình của nhóm bupivacain là 72,2 ± 8,1 cao hơn so với nhóm
ropivacain là 71,0 ± 9,8. Sự khác biệt của hai nhóm không có ý nghĩa
thống kê với p> 0,05.
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương với
kết quả của tác giả Nguyễn Trung Kiên [13], nhóm giảm đau PCEA của
tác giả có tuổi trung bình là 70,0 ± 5,8 tuôi, trong đó tuổi thấp nhất trong
nghiên cứu của tác giả là 61 và cao nhất là 87 tuổi.
Tác giả Trần Đắc Tiệp [26] nghiên cứu giảm đau PCEA trên nhóm
bệnh nhân thay khớp háng cho thấy tuổi trung bình của nhóm sử dụng
ropivacain là 70,29 ± 14,2, trong đó thấp nhất là 37 và cao nhất là 91.
Nghiên cứu của tác giả Francois J. Singelyn [52] và cộng sự so
sánh hiệu quả giảm đau của ba phương pháp trên 1300 bệnh nhân phẫu
thuật thay khớp háng cho kết quả tuổi trung bình của nhóm giảm đau
PCEA là 59 ± 17, tuổi trung bình cao nhất trong nghiên cứu là của nhóm
giảm đau 3 trong 1 là 65 ± 14. Tuy nhiên, tác giả nghiên cứu trên nhóm
thay khớp háng chung bao gồm cả bệnh nhân trẻ tuổi và bệnh nhân cao
tuổi chứ không phải thay khớp háng trên người cao tuổi. Mặc dù vậy,
tuổi trung bình trong nghiên cứu của tác giả cũng cho thấy độ tuổi trung
bình là 60. Tác giả Shenghui Sun [116] nghiên cứu trên 300 bệnh nhân
thay khớp háng có tuổi tử 75 -90.
92
Theo nghiên cứu của Kanonidou Z [48] và trong nghiên cứu của
Jaap Vuyk [120] cho thấy, người cao tuổi có nhiều thay đổi đặc biệt là
quá trình hấp thu, chuyển hóa các thuốc. Nhu cầu sử dụng các thuốc nói
chung hay thuốc giảm đau nói riêng có thể giảm hơn so với người trẻ
tuổi, tuy nhiên việc thay đổi tỷ lệ lượng mỡ, cơ bắp của người cao tuổi
làm cho việc hấp thu và chuyển hóa các thuốc giảm. Nghiên cứu của
Beamy S. Sharma [109] trong mô hình dự đoán các yếu tố ảnh hưởng tới
kết quả của bệnh nhân sau mổ thay khớp háng cho thấy tuổi ≥ 65 là yếu
tố ảnh hưởng nhiều tới kết quả của quá trình điều trị.
Trong nghiên cứu của Felix Greimel [46] cho thấy, tuổi càng cao
thì càng tăng các yếu tố làm tổn thương khớp háng, mức độ tổn thương
đạt đỉnh ở độ tuổi 70. Tuổi cao cũng là nguyên nhân làm tăng nguy cơ
chảy máu trong quá trình phẫu thuật. Tác giả cho thấy, người cao tuổi
cảm nhận đau ít hơn so với người trẻ tuổi. Nghiên cứu của P. B. Petersen
[98] cho nhóm người cao tuổi dễ gặp loạn thần sau mổ, biến chứng làm
tăng thời gian nằm viện, nguy cơ tử vong.
* Chiều cao
Chiều cao trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.1) là
159,1 ± 8,2 cm. Trong đó, chiều cao thấp nhất là 140 cm và cao nhất là
180 cm. Chiều cao trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi tương
đương với chiều cao trong nghiên cứu của tác giả Đỗ Trung Dũng với
chiều cao của nhóm PCTEA là 163,1 ± 7,8 cm. Nghiên cứu của tác giả
Đỗ Trung Dũng [5] cũng được tiến hành trên người cao tuổi. Chiều cao
trong nghiên cứu của tác giả Trần Đắc Tiệp [26] với chiều cao thấp nhất
là 146cm và cao nhất là 168 cm.
* Cân nặng
Cân nặng trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.1) là
54,4 ± 8,8 kg. Trong đó nhóm bupivacain có cân nặng trung bình là 54,9
93
± 7,3kg cao hơn so với cân nặng trung bình của nhóm ropivacain là 53,9
± 10,2 kg. Sự khác biệt về cân nặng của hai nhóm nghiên cứu không có ý
nghĩa thống kê, trong đó nhóm ropivacain có trường hợp cân nặng nhỏ
nhất là 36kg và cân nặng lớn nhất là 81 kg. Cân nặng trung bình trong nghiên
cứu của chúng tôi tương đương với của tác giả Trần Đắc Tiệp [26] với cân
nặng của nhóm R là 55,3 ± 6,7kg và nhóm RF là 54,6 ± 6,6kg.
Cân nặng trong nghiên cứu của tác giả Francois J. Singelyn [52] là
72 ± 16kg ở nhóm PCEA. Trong nghiên cứu của tác giả, cân nặng lớn
hơn trong nghiên cứu của chúng tôi vì sự khác biệt về chiều cao, cân
nặng giữa người châu Âu và người châu Á.
Trong một số nghiên cứu khác, các tác giả thường sử dụng chỉ số
BMI để đánh giá các chỉ số về nhân chắc của nhóm nghiên cứu. Tác giả
Xiaofen Liu [130] và cộng sự khi nghiên cứu hiệu quả giảm đau sau mổ
thay khớp háng trên người cao tuổi của phương pháp phong bế tại vết
mổ có chỉ số BMI trung bình của nhóm nghiên cứu là 22,81 ± 3,02. Tác
giả Kethy M. Jules-Elysee [66] và cộng sự nghiên cứu về PCEA cho
thấy chỉ số BMI trung bình là 27,9 ± 6,2. Tác giả Nguyễn Trung Kiên
[13] trong nghiên cứu về hiệu quả của PCTEA cho thấy chỉ số BMI là
18,7 ± 1,0, thấp hơn so với các nghiên cứu của tác giả nước ngoài.
* Giới tính
Từ kết quả bảng 3.2 phân bố về giới tính chung trong nghiên cứu của
chúng tôi là nam giới chiếm 49% và nữ giới là 51%. Nhóm bupivacain có tỷ lệ
nữ lớn hơn nam và nhóm ropivacain có tỷ lệ nam giới cao hơn nữ giới. Sự
khác biệt của hai nhóm không có ý nghĩa thống kê.
Tỷ lệ phân bố giới tính của chúng tôi tương đương với của tác giả
Jan Maca và cộng sự với tỷ lệ nam giới trong nghiên cứu của tác giả là
49,1% và nữ giới là 50,9%.
94
Tác giả Lâm Đạo Giang [7] nghiên cứu giảm đau cho thay khớp
háng bán phần cho thấy tỷ lệ nữ giới trong nghiên cứu là 73,2% ở nhóm
thứ nhất và 67,8% ở nhóm thứ hai.
Theo nghiên cứu của tác giả Mahendra Singh [110] trong nghiên
cứu giảm đau ngoài màng cứng cho phẫu thuật chỉnh hình chi dưới cho
thấy tỷ lệ nam lớn hơn nữ. Trong đó nhóm ropivacain có tỷ lệ nam/nữ là
26/14 và ở nhóm ropivacain với clonidin là 28/12.
Theo tác giả Nina Solheim [113] phân tích mức độ cảm nhận đau
giữa nữ giới và nam giới sau phẫu thuật khớp gối. Nghiên cứu phân tích
mức độ cảm nhận đau và tương quan của mức độ đau với các chỉ số
viêm được định lượng trong nghiên cứu. Các yếu tố viêm được nghiên
cứu là IL-8, CCL-4, MCP-2, MMP-10, MCP-1, CXCL-1, CCL-23, µPA,
TRAIL, FGF-19, ADA, SIRT-2, CD5. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nữ
giới có mức độ cảm nhận đau nhiều hơn nam giới mặc dù các chỉ số
viêm ở nam giới định lượng được lại cao hơn so với ở nữ giới. Nghiên
cứu của tác giả đưa ra kết luận các cơ chế nhận cảm đau ở thần kinh
trung ương có ý nghĩa hơn so với nồng độ các hoạt chất viêm trong máu.
* Phân loại sức khỏe theo ASA
Trong nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.3), tỷ lệ ASA2 chiếm tỷ lệ
lớn nhất là 75%. Tỷ lệ phân loại sức khỏe của chúng tôi tương đương với
của tác giả Jan Maca [86] với tỷ lệ ASA2 là 92,7% ở nhóm PCEA. Tỷ lệ
ASA của chúng tôi có khác biệt với của tác giả Mahendra Singh với tỷ lệ
ASA1/ASA2 là 39/1 ở nhóm 1 và 40/0 ở nhóm 2. Tuy nhiên, nghiên cứu
của tác giả Mahendra Singh [110] có tuổi trung bình là 35,35±10,35,
thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Nghiên cứu của tác giả cũng
mở rộng trong phẫu thuật chỉnh hình chi dưới chứ không giới hạn ở phẫu
thuật khớp háng như trong nghiên cứu của chúng tôi. Nghiên cứu của
Felix Greimel [46] trên 103 bệnh nhân cho thấy ASA2 chiếm 59,2%.
95
Phân loại sức khỏe trên cho phép các bệnh nhân có thể thực hiện
tốt các hướng dẫn trong nghiên cứu. Như vậy đảm bảo tính chính xác về
kết quả nghiên cứu của hai nhóm.
* Bệnh lý mạn tính kém theo
Tử bảng 3.4, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bệnh lý
mạn tính của hai nhóm nghiên cứu hay gặp là tăng huyết áp (39,4%), đái
tháo đường (9,6%), rối loạn thông khí (3,8%) và bệnh lý tim mạch
(15,3%). Không có sự khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu về bệnh lý
mạn tính thường gặp.
Các bệnh lý mạn tính thường gặp trong nghiên cứu của chúng tôi
cũng giống với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Trung Kiên [13]. Trong
nghiên cứu tác giả cũng thường gặp là tăng huyết áp, đái tháo đường,
COPD và bệnh lý tim mạch. Trong đó, tăng huyết áp là bệnh lý có tỷ lệ
mắc cao nhất. Tác giả Đỗ Trung Dũng [5] trong nghiên cứu giảm đau
cho phẫu thuật chi dưới bằng gây tê đám rối thần kinh thắt lưng cũng cho
thấy tỷ lệ bệnh lý mạn tính thường gặp là tăng huyết áp (15,6%), đái tháo
đường (6,7%) và bệnh lý hô hấp (2,2%).
Theo tác giả Phạm Vũ Khánh [11], người cao tuổi thường có
những thay đổi về sinh lý, giải phẫu. Chính các thay đổi của người cao
tuổi so với người trưởng thành là một phần nguyên nhân dẫn tới các
bệnh lý mạn tính như tăng huyết áp, bệnh lý hô hấp, bệnh lý tim mạch.
Theo tác giả Nguyễn Quốc Kính [15], đánh giá về thay đổi của tuần
hoàn, hô hấp của người cao tuổi cho thấy có tới 50 – 65% người cao tuổi
mắc các bệnh lý tim mạch có ý nghĩa. Sự thay đổi về giải phẫu làm cho
sự đàn hồi của cơ hoành giảm 23- 25%.
* Xét nghiệm hồng cầu, huyết sắc tố và hematocrid
Trong nghiên cứu (bảng 3.5), số lượng hồng cầu của nhóm
ropivacain là 4,4 ± 0,5 T/L, huyết sắc tố 134,0 ± 16,9 g/L, hematocrid là
96
40,6 ± 4,9%. Chỉ số xét nghiệm của nhóm ropivacain cao hơn so với
nhóm bupivacain với số lượng hồng cầu là 4,3 ± 0,5 T/L, huyết sắc tố
128,0 ± 15,6 g/L và hematocrid là 38,8 ± 4,7%. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê. Xét nghiệm trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương
với của tác giả Đỗ Trung Dũng [5], với nhóm gây tê ngoài màng cứng có
lượng huyết sắc tố là 137,6 ± 19 g/L, hematocrid là 42,2 ± 5,6%.
Trong nghiên cứu của tác giả Merete Gregersen [54], từ phân tích
284 bệnh nhân cao tuổi được phẫu thuật thay khớp háng. Từ kết quả
nghiên cứu của tác giả cho thấy, mức hemoglobin được tác giả lựa chọn
là 11,3 g/dL cho thấy có khả năng cải thiện tỷ lệ tử vong, tăng cao tỷ lệ
phục hồi sau mổ của người bệnh. Nghiên cứu theo dõi bệnh nhân cho
thấy tỷ lệ tử vong cải thiện là 7% so với 16% ở nhóm đối chứng. Kết
luận của tác giả cũng cho thấy chấn thương khớp háng ở người cao tuổi
có liên quan đến sự phục hồi kém từ sự suy giảm về thể chất. Mất máu
và thiếu máu là nguyên nhân gây tử vong ở người già yếu.
Furong Zhang [138] và cộng sự đánh giá kết quả phẫu thuật thay
khớp háng khi bị ảnh hưởng bởi nguy cơ thiếu oxy tổ chức. Nghiên cứu
cho thấy mức độ mất máu trong quá trính phẫu thuật của hai nhóm trong
nghiên cứu là 372±65 ml ở nhóm thiếu oxy máu tổ chức và 357±71ml ở
nhóm có mức độ tưới máu tổ chức bình thường. Mức tụt huyết áp ở
nhóm có tác dụng không mong muốn sau mổ là 66,1%. Gây mê toàn
thân và tụt huyết áp là yếu tố nguy cơ gây tác dụng không mong muốn
nghiêm trọng sau phẫu thuật. Trong nghiên cứu của F. Reguant [105] về
đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới kết quả phẫu thuật thay khớp háng,
nghiên cứu đánh giá các đặc điểm tuổi, giới, ASA, loại phẫu thuật,
phương pháp vô cảm, thời gian trì hoãn phẫu thuật. Kết quả cho thấy,
thay vì trì hoãn phẫu thuật thì yếu tố chuẩn bị bệnh nhân, sửa chữa các
bệnh lý nền có hiệu quả cải thiện kết quả điều trị. Brunskill SJ [111]
97
phân tích đánh giá trong Cochrane Collaboration cho thấy thay khớp
háng ở người cao tuổi có nguy cơ mất máu cao, tuy nhiên việc truyền
máu trước mổ mang lại hiệu quả thấp, chỉ nên truyền máu ở những bệnh
nhân có mức độ thiếu hụt lượng máu lớn.
4.1.2 Đặc điểm bệnh lý phẫu thuật
Trong nghiên cứu (biểu đồ 3.1), bệnh lý cần phẫu thuật gặp nhiều
nhất trong nghiên cứu là gẫy cổ xương đùi với tỷ lệ 54,8%. Tiếp theo là
hoại tử chỏm xương đủi với 32,7%, thoái hóa khớp háng 6,7%, gẫy liên mấu
chuyển 3,8% và 2 trường hợp thay lại khớp háng.
Các bệnh lý trên là nguyên nhân chủ yếu mà người bệnh gặp phải trong
chỉ định phẫu thuật thay khớp háng. Theo tác giả Nguyễn Đức Phúc [19],
phẫu thuật thay khớp háng ở các bệnh lý ngoại khoa như gây liên mấu chuyển
xương đùi, gẫy cổ xương đùi hay các bệnh lý toàn thân như thoái hóa khớp
háng, hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi đặc biệt là trên người cao tuổi có hiệu
quả cao. Từ những năm 2010, số lượng thay khớp háng ở Mỹ khoảng 15000
ca với tỷ lệ thành công lên tới 90%. Nghiên cứu của tác giả Đỗ Trung Dũng
[5] về gây tê đám rối thần kinh thắt lưng cho phẫu thuật chi dưới cho thấy
bệnh lý phẫu thuật vào khớp háng thường gặp là thoái hóa khớp háng, gẫy cổ
xương đùi và gây liên mấu chuyển – thân xương đùi.
Các tác giả khác cũng có nhưng nghiên cứu thay khớp háng trong
những bệnh lý cụ thể như tác giả Trần Trung Dũng [6] nhận xét kết quả thay
khớp háng toàn bộ trong bệnh lý gẫy cổ xương đùi, kết quả điều trị đạt tốt và
rất tốt là 93,3%.
* Thời gian phẫu thuật
Từ kết quả bảng 3.6, thời gian phẫu thuật trung bình trong nghiên
cứu của chúng tôi là 78,3 ± 19,7 phút ở nhóm bupivacain và 75,0 ± 20,2
phút ở nhóm ropivacain. Trong đó thời gian phẫu thuật ngắn nhất là 40
98
phút và dài nhất là 130 phút. Sự khác biệt về thời gian phẫu thuật của hai
nhóm không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Thời gian phẫu thuật trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương
với nghiên cứu của Đỗ Trung Dũng [5] với thời gian phẫu thuật thay
khớp háng là 73,3 ± 21,2 phút (38 – 145 phút). Thời gian phẫu thuật của
Lâm Đạo Giang [7] lần lượt ở nhóm A là 62,68 ± 6,10 phút và nhóm B là
63,57 ± 6,59 phút, thời gian phẫu thuật trong nghiên cứu của tác giả ngắn
hơn trong nghiên cứu của chúng tôi. Trong nghiên cứu của tác giả
Francois J. Singelyn [52], thời gian phẫu thuật của nhóm giảm đau bằng
PCEA là 134 ± 57 phút, thời gian phẫu thuật của tác giả dài hơn so với
nghiên cứu của chúng tôi.
* Liều lượng thuốc gây tê tủy sống
Từ bảng 3.7, lượng bupivacain và fentanyl tiêm tủy sống của hai nhóm
trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương nhau với p>0,05. Trong đó, liều
gây tê của bupivacain từ 5 mg đến 10 mg. Đây là liều thuốc tê tủy sống
thường được sử dụng trong gây tê tủy sống cho phẫu thuật từ vùng dưới rốn
trở xuống. Phương pháp gây tê tủy sống được lựa chọn cho phẫu thuật thay
khớp háng cho thấy có tác dụng tốt hơn so với gây mê toàn thân. Trong
nghiên cứu của Furong Zhang [138] cho thấy gây mê toàn thân là yếu tố
nguy cơ cao dẫn tới tăng tỷ lệ tử vong của người bệnh ở ngày thứ 30.
Trong nghiên cứu của tác giả Bruce Ben-David [34] với liều
bupivacain rất thấp là 4mg phối hợp với fentanyl 20 µg. Phương pháp
gây tê tủy sống là phương pháp vô cảm được đánh giá là có lợi cho phẫu
thuật thay khớp háng trên người cao tuổi. Julia Van Waesberghe [121]
phân tích về phong bế thần kinh ngoại vi với gây mê toàn thân cho thấy
phong bế thần kinh ngoại vi giúp giảm tỷ lệ tử vong và giảm thời gian
nằm viện. Chengwei Liang [80] thực hiện so sánh giữa 3 phương pháp
vô cảm cho phẫu thuật thay khớp háng. Kết quả nghiên cứu của tác giả
99
cho thấy gây tê khoang cùng và gây tê tủy sống phối hợp gây tê ngoài
màng cứng cho kết quả tốt hơn so với gây mê toàn thân. Tác giả A. P.
Wolff [124] đã thực hiện nghiên cứu gây tê ngoài màng cứng trong phẫu
thuật khớp háng. Tác giả so sánh tác dụng của ropivacain với
bupivacain, trong đó ropivacain được thực hiện nghiên cứu ở cả 3 nồng
độ là 0,5%, 0,75% và 1%.
R. L. Johnson [65] phân tích từ 29 nghiên cứu với 10488 bệnh
nhân cho thấy, các phương pháp gây tê có hiệu quả tốt hơn so với gây
mê toàn thân trên phẫu thuật thay khơp háng. Tuy nhiên, vẫn còn cần
những nghiên cứu dài hơn để khẳng định kết quả. María Mercedes López
[84] phân tích trên 2 bệnh nhân hẹp động mạch chủ nặng được sử dụng
gây tê tủy sống để phẫu thuật thay khớp háng. Tuy nhiên, tác giả khẳng
định cần các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng để khẳng định kết quả.
Chin Chen Chu [42] cũng cho thấy gây tê có ít tác dụng không mong
muốn hơn so với gây mê toàn thân.
* Phẫu thuật
Từ kết quả biểu đồ 3.2 tỷ lệ phẫu thuật thay khớp háng toàn phần
không xi măng chiếm tỷ lệ cao nhất là 57,7%. Phẫu thuật thay khớp háng bán
phần có xi măng có tỷ lệ cao thứ hai là 23,1%.
Phẫu thuật thay khớp háng được phẫu thuật viên lựa chọn dựa vào tổn
thương mà người bệnh gặp phải. Phẫu thuật thay khớp háng toàn phần thường
được lựa chọn cho người bệnh có tổn thương cả phần chỏm khớp và ổ cối.
Những bệnh nhân có thời gian tiên lượng sống còn kéo dài. Trong khi các
phẫu thuật thay khớp háng bán phần thường là phẫu thuật thay phần chỏm
khớp với các chỉ định cho bệnh nhân cao tuổi, cần rút ngắn thời gian phẫu
thuật. Việc sử dụng xi măng trong phẫu thuật thường dựa vào mức độ loãng
xương của người bệnh, trong các trường hợp mức độ loãng xương nặng việc
sử dụng xi măng để cố định cán khớp là cần thiết và mang lại hiệu quả cao.
100
Trong nghiên cứu của tác giả Trần Đắc Tiệp [26], tỷ lệ thay khớp háng
toàn phần có tỷ lệ cao hơn so với thay khớp háng bán phần, Trong đó, tỷ lệ
thay khớp háng toàn phần ở nhóm R là 61,3% và nhóm RF là 54,8%.
4.2 Hiệu quả giảm đau sau mổ
4.2.1 Đánh giá theo thang điểm VAS
* Điểm VAS lúc nghỉ
Từ bảng 3.10, điểm VAS lúc nghỉ của hai nhóm tại thời điểm H0 đều
cao hơn 4 điểm với mức trung bình của hai nhóm lần lượt là 5,3 ± 0,9 ở
nhóm bupivacain và 5,17 ± 0,65 ở nhóm ropivacain. Sau khi thực hiện
giảm đau, điểm VAS lúc nghỉ của hai nhóm giảm sâu so với thời điểm
H0, tại thời điểm H0,25 mức điểm VAS trung bình của nhóm bupivacain
là 1,54 ± 0,8 và nhóm ropivacain là 1,73 ± 0,84. Như vậy có thể thấy,
điểm VAS của nhóm bupivacain có mức giảm nhiều hơn so với nhóm
ropivacain. Mức giảm của điểm VAS lúc nghỉ của hai nhóm tại thời
điểm H0,25 so với H0 có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Trong nghiên cứu của Đỗ Trung Dũng [5], mức điểm VAS lúc
nghỉ của nhóm gây tê ngoài màng cứng ở thởi điểm trước khi làm giảm
đau là 4,02 ± 0,15, mức điểm VAS này giảm xuống 0,53 ± 07,6 tại thời
điểm VAS1N. Mức giảm này có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Trong
nghiên cứu của tác giả Trần Đức Thọ [24], mức điểm VAS tại thời điểm
H0 là 6,90±1,18 ở nhóm sử dụng levobupivacain phối hợp với fentanyl,
tuy nhiên sau khi tiến hành làm giảm đau tại thời điểm H0,25 giảm xuống
2,14±0,61. Mức giảm này có ý nghĩa thống kê với p< 0,05.
Từ biểu đồ 3.3 cho thấy, mức độ giảm từ thời điểm H0 tới H0,25
của nhóm bupivacain nhiều hơn so với nhóm ropivacain. Tại các thời
điểm còn lại của nghiên cứu, điểm VAS của nhóm bupivacain luôn thấp
hơn so với nhóm ropivacain. Sau thời điểm H0,25 điểm VAS tại các thời
101
điểm nghiên cứu của cả hai nhóm nghiên cứu giảm dần theo thời gian,
tuy nhiên mức giảm không có ý nghĩa thống kê so với thời điểm H0,25.
Từ thời điểm H0,25 tới thời điểm H72, mức điểm VAS trung bình lúc
nghỉ của hai nhóm đều thấp hơn 4 điểm. Như vậy, mức điểm VAS lúc nghỉ
trong thời gian làm giảm đau của hai nhóm đều có hiệu quả tốt.
Trong nghiên cứu của tác giả P. A. Kostamovaara [75], nhóm PCEA
được cài đặt với liều duy trì là 3 ml/h, liều bolus là 3ml/lần với thời gian khóa
là 15 phút. Trong nghiên cứu của tác giả cũng cho thấy nhóm sử dụng
ropivacain có mức điểm VAS trung bình nhỏ hơn 4. Cũng trong nghiên cứu
về so sánh giảm đau PCEA so với truyền liên tục vào khoang ngoài màng
cứng sau phẫu thuật thay khớp háng của tác giả Jan Maca [86], phân tích trong
24 giờ đầu về sự thay đổi của điểm VAS cho thấy mức độ điểm VAS của
nhóm PCEA thấp hơn so với nhóm truyền liên tục. Trong đó, tại giờ thứ 6, thứ
10 và 23 sự khác biệt của điểm VAS giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê
Trong nghiên cứu của tác giả Shruti Shrikant Patil [134], tác giả sử
dụng ropivacain 0,125% với bupivacain 0,125% trong giảm đau sau mổ cho
thấy mức giảm đau bằng phương pháp truyền liên tục ngoài màng cứng ở cả
hai nhóm đều đạt mức tốt với mức trung bình < 3 điểm. Trong suốt thời gian
nghiên cứu, nhóm ropivacain có mức điểm VAS trung bình thấp hơn so với
nhóm bupivacain.
* Điểm VAS khi vận động
Từ bảng 3.11, điểm VAS khi vận động của hai nhóm từ trước khi bắt
đầu làm giảm đau giảm từ 6,25 ± 0,68 xuống còn 2,6 ± 0,66 ở nhóm
bupivacain và từ 6,15 ± 0,6 xuống 2,75 ± 0,84 ở nhóm ropivacain.
Không có sự khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu về điểm VAS ở các
trước và sau khi bắt đầu làm giảm đau. Có thể thấy nhóm bupivacain có
mức độ giảm nhiều hơn so với nhóm ropivacain. Từ biểu đồ 3.7, mức độ
điểm VAS lúc vận động của nhóm bupivacain luôn thấp hơn so với
102
ropivacain. Tại thời điểm 6 giờ, 12 giờ và 72 giờ, sự khác biệt của điểm
VAS giữa hai nhóm là nhiều nhất, tuy nhiên sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p>0,05.
Cũng từ biểu đồ 3.4, tại các thời điểm nghiên cứu có thể thấy mức
điểm VAS trung bình lúc vận động của hai nhóm đều thấp hơn 4 điểm.
Điểm VAS trung bình giảm dần theo thời gian nghiên cứu của hai nhóm,
mức điểm VAS trung bình này cho thấy hiệu quả giảm đau của cả hai
nhóm là tốt. Mức điểm VAS trung bình khi vận động < 4 điểm cho phép
bệnh nhân có thể thực hiện vận động sớm. Đặc biệt từ ngày thứ 2 trở đi,
mức điểm VAS thấp cho phép thực hiện các bài tập phục hồi chức năng
cần thiết. Việc vận động sớm và tập luyện giúp nâng cao hiệu quả của
phẫu thuật và giảm các nguy cơ xảy ra các tai biến sau mổ.
Trong nghiên cứu của Đỗ Trung Dũng [5], trong nhóm ngoài
màng cứng điểm VAS lúc vận động giảm từ mức nền là 4,44 ± 1,2
xuống 1,4 ± 1,3. Mức độ điểm VAS lúc bắt đầu nghiên cứu của tác giả
thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi, mức giảm của điểm VAS lúc
vận động cũng ít hơn nhưng điểm VAS trung bình tại thời điểm 1 giờ lại
thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Tuy nhiên, mức điểm VAS
của tác giả từ thời điểm 1 giờ lại tăng dần và đạt mức cao nhất là 6 giờ
với mức trung bình là 2,78 ± 1,26 với mức cao nhất là 6 điểm. Như vậy
trong nghiên cứu của tác giả Đỗ Trung Dũng tại thời điểm 6 giờ có
những bệnh nhân mức điểm đau khi vận động vẫn ở mức cao. Sự khác
biệt này có thể do trong nghiên cứu, tác giả nghiên cứu cho phẫu thuật
vùng chi dưới, do đó có thể vùng chi phối có sự khác biệt nhiều hơn so
với nghiên cứu của chúng tôi. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm đối
tượng nghiên cứu là phẫu thuật thay khớp háng, do đó có mức độ tập
trung cao hơn, vùng phong bế thường được chi phối bởi các khoanh tủy
103
từ L1 – L3. Như vậy, trong kỹ thuật làm giảm đau của chúng tôi tập trung
hơn so với nghiên cứu của tác giả Đỗ Trung Dũng [5].
Trong nghiên cứu của Trần Đức Thọ [24], mức điểm VAS lúc ho
trong nghiên cứu của cả ba nhóm nghiên cứu đều từ mức trung bình 7
điểm giảm xuống 5 điểm tại H0,25, tại H1 nhóm levobupivacain phối hợp
với fentanyl có mức thấp nhất là 3 điểm. Sau đấy mức điểm VAS giảm
dần theo thời gian nghiên cứu. Mức điểm VAS của tác giả giảm thấp hơn
so với nghiên cứu của chúng tôi, sự khác biệt này do nghiên cứu của tác
giả thực hiện trên bệnh nhân phẫu thuật ổ bụng. Khi bệnh nhân ho, các
cơ thành bụng thường phải vận động mạnh một cách đột ngột, do đó
mức điểm đau sẽ cao hơn so với các vận động thông thường khác. Trong
nghiên cứu của tác giả Trần Đắc Tiệp [26], mức điểm VAS lúc vận dộng
cũng giảm thấp và chậm, sau 24 giờ các bệnh nhân trong nghiên cứu của
tác giả mới có mức điểm VAS trung bình <4 điểm.
Trong nghiên cứu của tác giả Felix Greimel [46], mức độ đau
được theo dõi bởi thang điểm NRS trong 30 ngày cho thấy mức điểm
đau cao nhất là ngày đầu tiên nhưng sau đấy giảm dần. Trong thời gian
nghiên cứu, mức độ điểm đau cũng thấp hơn 4 điểm. Tác giả Kethy M.
Jules-Elysee [66] và cộng sự so sánh hiệu quả giảm đau của PCEA với
PAI cho thấy, mức điểm NRS lúc vận động từ 6,1 ± 2,8 giảm xuống 1,5
± 1,3. Sau đấy mức điểm NRS tăng lên ở ngày thứ 2 với mức trung bình
là 2,4 ± 2,4 và giảm xuống ngày thứ 3 với mức trung bình là 2,3 ± 0,8.
Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đương với nghiên
cứu của các tác giả với mức điểm đau khi vận động < 4 điểm. Mức điểm
đau này cho phép các bệnh nhân vận động sớm.
Trong phân tích của Felix Greimel [46], theo dõi trong thời gian
dài 4 tuần để đánh giá các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng tới đau sau phẫu
thuật khớp háng, các yếu tố được đánh giá là giới tính, tuổi, BMI, ASA,
104
thời gian phẫu thuật. Ngoài ra yếu tố tâm lý cũng được tác giả khuyến
cáo là có ảnh hưởng vì mức độ cảm giác đau của mỗi cá nhân là khác nhau.
4.2.2 Lượng thuốc ngoài màng cứng
* Thuốc tê
Từ kết quả của bảng 3.12 và bảng 3.13 cho thấy thể tích thuốc tê
sử dụng của hai nhóm có sự khác biệt. Ở liều bolus, thể tích liều thuốc tê
của hai nhóm tương đương nhau với 5,92 ± 0,71ml ở nhóm bupivacain
và 5,9 ± 0,92ml ở nhóm ropivacain. Thể tích của liều bolus phụ thuộc
vào chiều cao của bệnh nhân ở hai nhóm nghiên cứu. Liều thuốc của
ngày thứ nhất của hai nhóm đều thấp hơn ngày thứ 2 và thứ 3. Trong đó,
trong ngày thứ 3, thể tích nhóm ropivacain cao hơn so với nhóm
bupivacain. Tổng lượng thuốc tê của nhóm ropivacain là 282,9 ± 7,6ml
cao hơn so với nhóm bupivacain là 280,0 ± 10,0 ml. Mức sử dụng trung
bình của nhóm bupivacain là 3,89ml/h trong 72 giờ. Nhóm ropivacain là
3,93 ml/h trong 72 giờ.
Theo nghiên cứu của Trần Đắc Tiệp [26], liều thuốc tê bolus ban
đầu là 6,9 ± 1,2 ml ở nhóm ropivacain và 6,6 ± 1,2 ml ở nhóm RF. Liều
bolus ban đầu của tác giả cũng được tính theo công thức dựa vào chiều
cao của bệnh nhân nghiên cứu. Tác giả Trần Đức Thọ [24], thế tích liều
đầu tiên là 6,11 ± 0,62 ml. Như vậy liều bolus đầu tiên của chúng tôi
thấp hơn so với nghiên cứu của hai tác giả. Sự khác biệt này có thể do
đối tượng nghiên cứu của chúng tôi chỉ trên người cao tuổi. Do đó có sự
khác biệt về chỉ số nhân trắc so với các tác giả trên.
Trong nghiên cứu của Nguyễn Trung Cường [2], khi so sánh hiệu
quả của giảm đau truyền liên tục ngoài màng cứng và giảm đau đường
ngoài màng cứng do bệnh nhân tự kiểm soát sau phẫu thuật ổ bụng.
Nhóm truyền liên tục thuốc tê được truyền từ 4-8 ml/h, còn nhóm PCEA
được truyền 2 ml/h, bolus 2ml/lần với thời gian khóa là 15 phút. Trong
105
nghiên cứu nhóm PCEA có lượng thuốc tê thấp hơn so với nhóm truyền
liên tục với thể tích thuốc tê trong 24 giờ là 133,1±25ml so với 164,1±2
ơ nhóm truyền liên tục. Lượng thuốc tê sử dụng trong nghiên cứu của tác
giả cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi có thể do đối tượng nghiên
cứu của tác giả là các bệnh nhân phẫu thuật ổ bụng.
Trong nghiên cứu của Jan Maca [86], lượng thuốc tê được tính
theo cân nặng, trong đó liều bolus của nhóm PCEA là 0,9±0,3 ml/kg ở
nhóm PCEA và 1,3±0,4 ml/kg ở nhóm non – PCEA. Trong nghiên cứu,
thể tích thuốc tê của nhóm PCEA thấp hơn so với nhóm non-PCEA,
trong đó nhóm PCEA là 73,0±17,1 ml/ngày và ở nhóm non-PCEA là
97,9±25,0 ml/ngày. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt so
với tác giả có thế do sự cài đặt PCEA có sự khác nhau, trong nghiên cứu
của tác giả liều duy trì cũng được đặt là 3ml/h, nhưng liều bolus là 4
ml/lần và thời gian khóa là 20 phút, liều giới hạn trong nghiên cứu là
40ml/4h. Ngoài ra, các bệnh nhân trong nghiên cứu của tác giả có sử
dụng midazolam trước khi phẫu thuật và propofol TCI trong quá trình
phẫu thuật.
Trong nghiên cứu của tác giả Tomonori Tetsunaga [117], nhóm sử
dụng giảm đau ngoài màng cứng lại sử dụng 262 ± 147 ml thuốc tê trong
48 giờ. Trong đó liều thuốc tê được sử dụng là từ 2-4 ml/h trong 48 giờ.
Trong nghiên cứu, chúng tôi lựa chọn ropivacain là thuốc tê để
thực hiện nghiên cứu và so sánh với thuốc tê bupivacain. Trong đó,
thuốc tê ropivacain là thuốc tê mới thuộc nhóm amino amid, thuốc được
sử dụng trong nhiều nghiên cứu với các phương pháp gây tê khác nhau
như gây tê tại chỗ [49] [130], tiêm vào khớp [58], gây tê ngoài màng
cứng cho phẫu thuật khớp gối [125], gây tê đám rối và thân thần kinh
[52]. Trong đó, thuốc tê ropivacain trong các nghiên cứu đều cho thấy là
106
thuốc tê có hiệu quả giảm đau tốt, mức ức chế vận động ít hơn so với các
thuốc tê khác như bupivacain và levobupivacain [102] [115].
R. Stienstra [115] đánh giá vai trò của ropivacain trong giảm đau,
nghiên cứu đánh giá vai trò của ropivacain trong gây tê tủy sống, gây tê
ngoài màng cứng và cả trên đối tượng giảm đau trong chuyển dạ. Kết
quả tác giả thấy ropivacain có hiệu quả giảm đau tốt với mức ức chế vận
động thấp hơn so với bupivacain và levobupivacain, trong nghiên cứu
của T. Koch [73], nồng độ ropivacain được sử dụng cao hơn so với
bupivacain với levobupivacain ở cả giảm đau trong phẫu thuật và giảm
đau sau mổ, nồng độ ropivacain trong mổ là 0,75% so với 0,5% của
bupivacain và levobupivacain, trong giảm đau sau mổ nồng độ
ropivacain là 0,2% so với 0,125% của bupivacain và levobupivacain.
Trong nghiên cứu của Jorg Quitmann [103], tác giả đánh giá dược
động học của ropivacain trong gây tê ngoài màng cứng trong phẫu thuật
thay khớp háng. Trong 11 bệnh nhân được gây tê ngoài màng cứng bằng
ropivacain 10mg/ml với thể tích thuốc tê được sử dụng là 12 – 15mg.
Nồng độ ropivacain được định lượng tại các thời điểm 10, 15, 20, 30, 45,
60, 90 và 120 phút. Có 2 bệnh nhân được sử dụng liều thuốc tê ngoài
màng cứng là 144 ± 13 mg với liều trung bình là 1,9 6 ± 0,4 mg/kg cân
nặng, 8 bệnh nhân được sử dụng với liều 184 ± 32 mg với liều trung bình
là 2,5 ± 0,6 mg/kg cân nặng. Nồng độ đỉnh trong huyết tương đo được tại
thời điểm 22 ± 10 phút với nồng độ trung bình là 1,38 ± 0,42 µg/ml với
nồng độ thuốc gắn với protein là 97 ± 2%.
Nồng độ ropivacain được các tác giả sử dụng trong nghiên cứu có
thể từ 0,1% (P. A. Kostamovaara) [75], 0,125% (Shruti Shrikant Patil)
[134] 0,2% (Sidharth Bhasin) [36]. Trong đó, nồng độ 0,1% được nhiều
tác giả sử dụng trong các nghiên cứu khác nhau [40]. Trong các nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng, nồng độ thuốc tê càng cao thì mức độ ức chế vận
107
động càng lớn [97]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ ropivacain
được lựa chọn là 0,1%, đây là nồng độ tương tự như trong nhiều nghiên
cứu của các tác giả P. A. Kostamovaara [75], Trần Đắc Tiệp [26],
Sidharth Bhasin [36], Ashish Khanna [69]. Trong nghiên cứu, chúng tôi
lựa chọn nồng độ ropivacain 0,1% là do muốn sử dụng nồng độ có mức
độ ức chế vận động thấp nhất và muốn sử dụng lượng thuốc tê thấp nhất.
Sau phẫu thuật khớp háng, việc vận động sớm giúp cho bệnh nhân sớm
hồi phục và tránh được các tai biến, biến chứng nguy hiểm. Trên thực tế
trong nghiên cứu, nồng độ ropivacain 0,1% có hiệu quả giảm đau tốt.
* Lượng fentanyl
Nồng độ thuốc fentanyl được sử dụng trong nghiên cứu của chúng
tôi là 1µg/ml. Như vậy, theo kết quả từ bảng 3.13, lượng thuốc fentanyl
được sử dụng trong nghiên cứu của chúng tôi là 280,0 ± 10,0 mcg ở
nhóm bupivacain và 282,9 ± 7,6 mcg ở nhóm ropivacain.
Trong nghiên cứu của Nguyễn Trung Kiên [13], nồng độ fentanyl
được tác giả dụng trong nghiên cứu là 1 µg/ml. Tác giả Trần Đắc Tiệp
[26] và Đỗ Văn Lợi [16] lựa chọn sử dụng liều fentanyl trong nghiên cứu
là 2 µg/ml. Nghiên cứu của tác giả Đỗ Trung Dũng [5] sử dụng fentanyl
là 2 µg/ml trong giảm đau sau phẫu thuật chi dưới. Tác giả S. Kiran [71]
cũng sử dụng fentanyl phối hợp với ropivacain trong gây tê ngoài màng cứng.
Tác giả Spencer S. Liu [82] sử dụng nồng độ fentanyl là 4 µg/ml
để phối hợp với bupivacain 0,05% trong nghiên cứu. Mới đây nhất, tác
giả Jan Maca [86] sử dụng hỗn hợp thuốc tê levobupivacain 0,1% phối
hợp với sulfentanin 1 µg/ml trong giảm đau sau phẫu thuật thay khớp háng.
Trong nghiên cứu của T. Ishiyama [63], tác giả sử dụng fentanyl
đường ngoài màng cứng do bệnh nhân tự điều khiển sau phẫu thuật ổ
bụng ở hai nhóm, một nhóm ≥65 tuổi, một nhóm từ 20-64 tuổi, kết quả
cho thấy hai nhóm có mức độ sử dụng fentanyl là như nhau để đạt được
108
hiệu quả giảm đau mong muốn. Nồng độ fentanyl trong 24 giờ đầu tại
hai nhóm lần lượt là 10,7 ± 3,7µg/kg ở nhóm ≥65 tuổi và 10,5 ± 2,7
µg/kg ở nhóm trẻ tuổi (20-64 tuổi). Tác giả Sang Jun Park [95] cũng sử
dụng fentanyl phối hợp ropivacain trong gây tê ngoài màng cứng.
Việc sử dụng một opioid phối hợp với thuốc tê trong gây tê ngoài
màng cứng cho phép rút ngắn thời gian onset, nâng cao hiệu quả giảm
đau và giảm liều lượng thuốc tê cần sử dụng, qua đó làm giảm các tác
dụng không mong muốn trong quá trình gây tê. Các opiopid sử dụng
trong gây tê khoang ngoài màng cứng có tác động vào các rễ thần kinh đi
ra từ tủy sống, một phần nhỏ opioid ngấm qua màng cứng để tác động
lên các receptor trên sừng sau tủy sống. Một phần opioid vào tuần hoàn
chung và có tác động giống như các opioid sử dụng đường tĩnh mạch.
Việc sử dụng opioid trong gây tê thần kinh trung ương có hiệu quả cao,
tuy nhiên khi các opioid đã đủ gắn vào các receptor giảm đau thì việc sử
dụng nhiều hơn nữa các opioid sẽ không những không thể làm tăng hiệu
quả giảm đau mà còn làm tăng các tác dụng không mong muốn của opioid.
Trong so sánh của tác giả Trần Đức Thọ [24] cho thấy, việc phối
hợp với fentnayl cho hiệu quả giảm đau tốt hơn so với phối hợp với
clonidin và sulfentanin trong gây tê ngoài màng cứng.
Trong đánh giá của Simon Haroutounian [56], đau sau mổ có
những ảnh hưởng tới người bệnh như làm tăng stress, thay đổi nồng độ
hormon, trong đó, việc sử dụng opioid được cho là có vai trò quan trọng
trong chống đau sau mổ, phối hợp giảm đau đa phương thức giữa gây tê
vùng và các thuốc khác giúp tăng khả năng giảm đau sau mổ. Bogumił
Olczak [133] sử dụng oxycodone trong gây tê ngoài màng cứng giúp kéo
dài thời gian giảm đau lên tới 10,3±4,89 giờ.
109
4.2.3 Đặc điểm gây tê
* Số khoanh tủy phong bế
Từ kết quả bảng 3.18, số khoanh tủy phong bế của hai nhóm cao
nhất sau liều bolus, nhóm bupivacain có số khoanh tủy bị phong bế là
5,5 ± 0,54 và nhóm ropivacain có số khoanh tủy phong bế là 5,52 ± 0,58.
Sau thời điểm bolus, các thời điểm đánh giá tại 24h, 48h, 72h đều có
mức phong bế khoanh tủy đều thấp hơn so với thời điểm bolus. Mức
phong bế giảm có thể do thể tích của liều bolus thấp hơn so với thể tích
của liều tiêm ngoài màng cứng đầu tiên. Liều bolus được cài đặt là 3
ml/lần. Trong khi liều tiêm ngoài màng cứng của hai nhóm được tính
theo thời gian với mức trung bình của hai nhóm lần lượt là 5,92 ± 0,71 ở
nhóm bupivacain và 5,9 ± 0,92 ở nhóm ropivacain.
Trong nghiên cứu của Trần Đức Thọ [24], số khoanh tủy bị phong
bế sau liều tiêm ngoài màng cứng đầu tiên cao hơn so với nghiên cứu
của chúng tôi. Số khoanh tủy bị phong bế của tác giả là 6,75±1,02 chung
trong cả nghiên cứu. Số khoanh tủy phong bế phụ thuộc vào mức độ
thuốc lan được trong khoang ngoài màng cứng. Trong đó, khoang ngoài
màng cứng ở vùng thắt lưng có mức độ rộng nhất và khoang ngoài màng
cứng ngực hẹp hơn và có áp lực âm lớn nhất.
* Thời gian chờ tác dụng
Từ bảng 3.12, thời gian chờ tác dụng của nhóm ropivacain là 13,0
± 1,6 phút, dài hơn so với nhóm bupivacain là 10,8 ± 1,9 phút. Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Thời gian chờ tác dụng trong nghiên cứu của chúng tôi dài hơn so
với tác giả Trần Đắc Tiệp [26], trong nghiên cứu của tác giả, thời gian
chờ tác dụng của nhóm RF là 9,0 ± 2,0 phút. Sự khác biệt này có thể do
nồng độ fentanyl của tác giả sử dụng cao hơn trong nghiên cứu của
chúng tôi. Fentanyl là thuốc có tác dụng tan tốt trong mỡ, do đó thuốc dễ
110
dàng ngấm qua lớp màng lipid ở thành tế bào thần kinh. Tác giả Trần
Đức Thọ [24] có thời gian onset của nhóm LF là 8,86±1,91 phút với thời
gian ngắn nhất là 7 phút và thời gian dài nhất là 14 phút. Thuốc tê được
tác giả lựa chọn là levobupivacain 0,125% và fentanyl 2 µg/ml, do đó
thời gian onset ngắn hơn trong nghiên cứu của chúng tôi với nồng độ
thuốc tê là 0,1% và fentanyl là 1µg /ml.
Trong nghiên cứu của Mahendra Singh [110], thời gian onset của
20ml ropivacain 0,75% ngoài màng cứng là 15,43±2,70 phút, khi phối
hợp với clonidin 75µg/ml thì thời gian onset rút ngắn hơn là 10,55±1,85.
Trong nghiên cứu, tác giả cũng đánh giá mức độ ức chế vận động cho
thấy thời gian ức chế vận động của ropivacain đơn thuần là 172,46±6,32
phút, ngắn hơn so với ropivacain phối hợp với clonidin là 253,43±8,32 phút.
Trong gây tê ngoài màng cứng, thời gian onset phụ thuộc vào
nồng độ thuốc tê, nồng độ thuốc phối hợp và mức độ lan của hỗn hợp
thuốc trong khoang ngoài màng cứng. Nồng độ thuốc sử dụng càng thấp
thì thời gian chờ tác dụng càng dài.
* Thời gian từ lúc bắt đầu tới lúc bấm liều bolus đầu tiên
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi có đánh giá khoảng
thời gian từ lúc bắt đầu làm giảm đau tới lúc bệnh nhân cảm nhận cảm
giác đau tăng lên và muốn sử dụng liều bolus. Từ bảng 3.12, thời gian để
bệnh nhân bấm liều bolus đầu tiên ở nhóm bupivacain là 8,6 ± 1,5 giờ,
với thời gian ngắn nhất là 5 giờ và dài nhất là 13 giờ. Khoảng thời gian
này của nhóm ropivacain là 7,1 ± 1,65 giờ, ngắn hơn so với nhóm
bupivacain, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Khoảng thời gian từ lúc bệnh nhân bắt đầu làm giảm đau tới thời
điểm bệnh nhân tự bấm liều bolus đầu tiên phụ thuộc vào thể tích thuốc
tê sử dụng và thời gian có tác dụng của thuốc tê. Như vậy, có thể thấy
111
bupivacain có thời gian tác dụng dài hơn so với ropivacain. Điều này
cũng phù hợp với các nghiên cứu về thời gian tác dụng của ropivacain.
Trong nghiên cứu của Stefania Leone [78] khi so sánh về dược
động học của ba thuốc tê là bupivacain, levobupivacain và ropivacain thì
thời gian T1/2 của bupivacain là dài nhất là 210 phút, của levobupivacain
là 157 phút và của ropivacain là 111 phút.
4.2.4 Các chỉ số theo cài đặt của PCEA
* Số lần bấm yêu cầu và số lần đáp ứng
Từ kết quả của bảng 3.14 và bảng 3.15, số lần bấm yêu cầu của
ngày thứ nhất thấp hơn so với ngày thứ hai và thứ ba. Số lần bấm yêu
cầu của nhóm ropivacain cao hơn so với nhóm bupivacain. Sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu tại các thời điểm
đánh giá.
Trong nghiên cứu của tác giả Spencer S. Liu [82] và cộng sự về sử
dụng bupivacain phối hợp với fentanyl trong giảm đau PCEA cho các
loại phẫu thuật khác nhau. Kết quả cho thấy mức tiêu thụ tổng của lượng
thuốc tê ngoài màng cứng là 9ml/h thì có 6ml/h là do liều truyền liên tục.
Lượng thuốc tê được bệnh nhân sử dụng trong liều bolus thấp hơn so với
liểu truyền liên tục, trong đó liều sử dụng cao nhất là 14ml/h.
Nghiên cứu của tác giả Trần Đắc Tiệp [26], số lần bấm yêu cầu
của bệnh nhân ở nhóm RF là 4,4 ± 1 với số lần ít nhất là 3 lần và nhiều
nhất là 6 lần. Nhóm R có số lần bấm yêu cầu nhiều hơn là 5,8 ± 0,8 trong
24 giờ đầu. Từ giờ 24-48, số lần bấm yêu cầu tăng lên ở cả hai nhóm
trong nghiên cứu, trong đó nhóm R có số lần bấm yêu cầu là 8,9 ± 1,2 và
nhóm RF là 6,0 ± 1,5. Số lần bấm yêu cầu của tác giả có mức thấp hơn
trong nghiên cứu của chúng tôi, tuy nhiên trong nghiên cứu của tác giả
Trần Đắc Tiệp, ngoài liều bolus đầu tiên, tác giả còn sử dụng liều chuẩn
112
độ ngoài màng cứng với thể tích 2 ml/lần, còn trong nghiên cứu của
chúng tôi không sử dụng liều chuẩn độ ngoài màng cứng.
Tác giả Trần Đức Thọ [24] nghiên cứu PCEA trong giảm đau cho
phẫu thuật ổ bụng, tác giả thấy nhóm LF có số lần bấm yêu cầu thấp nhất
với tổng số lần bấm yêu cầu là 52,2±7,2 trong 72 giờ. Số lần bấm yêu
cầu trong nghiên cứu của tác giả cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi
thấp hơn so với của tác giả, sự khác biệt này có thể trong nghiên cứu của
tác giả đối tượng nghiên cứu là phẫu thuật ổ bụng nên nhu cầu giảm đau
của người bệnh cao hơn so với trong nghiên cứu của chúng tôi. Cũng
trong nghiên cứu của tác giả, khi so sánh 3 nhóm giảm đau thì nhóm có
nhiều số lần bấm yêu cầu càng cao thì tỷ lệ giữa số lần đáp ứng với số
lần bấm yêu cầu càng thấp. Trong đó, nhóm LC có số lần bấm yêu cầu là
99,0±9,8 thì tỷ lệ A/D là 79,0±1,0%, nhóm LS có số lần bấm yêu cầu là
94,0±5,4 thì tỷ lệ A/D là 81,7±6,1% và nhóm LF có số lần bấm yêu cầu
là 57,8±6,8 thì tỷ lệ A/D cao nhất là 89,9±3,0%.
Tác giả Đỗ Văn Lợi [16] nghiên cứu sử dụng PCEA với
bupivacain 0,1% và fentanyl 2mcg/ml trên giảm đau cho quá trình
chuyển dạ. Trong nghiên cứu, tác giả so sánh hiệu quả của 3 nhóm
PCEA với nhóm không sử dụng liều nền, nhóm sử dụng liều nền 2 ml/h
và nhóm sử dụng liều nền 4 ml/h. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho
thấy, nhóm không sử dụng liều nền có tỷ lệ A/D là 80,5 ± 44,8%, nhóm
sử dụng liều nền 2 ml/h là 80,0 ± 29,25% và tỷ lệ A/D đạt cao nhất là
nhóm có liều nền 4ml/h với tỷ lệ đạt được là 89,7 ± 25,3%.
Từ kết quả của bảng 3.17 và biểu đồ 3.10, kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy tỷ lệ A/D của hai nhóm trong nghiên cứu đều trên
90%. Trong đó, nhóm bupivacain có tỷ lệ A/D cao hơn so với nhóm
ropivacain. Mặc dù sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê nhưng cho
thấy mức độ hiệu quả của bupivacain cao hơn so với ropivacain.
113
* Số lần giải cứu đau
Số lần giải cứu đau (bảng 3.17) trong nghiên cứu của chúng tôi ở
cả hai nhóm trong nghiên cứu đều thấp ở mức 5,7% trong cả nghiên cứu
trong 72 giờ. Tỷ lệ giải cứu đau của tác giả Trần Đắc Tiệp [26] là 61,3%
ở nhóm R và 16,1% ở nhóm RF. Như vậy, khi phối hợp với fentanyl,
hiệu quả giảm đau tăng lên nên số lần giải cứu đau giảm có ý nghĩa
thống kê. Trong nghiên cứu của Francois J. Singelyn [52], nhóm sử dụng
PCEA có 8% bệnh nhân có nhu cầu sử dụng opioid và 12% số bệnh nhân
ở nhóm giảm đau 3 trong 1 có nhu cầu sử dụng opioid. Tác giả Kethy M.
Jules-Elysee [66] so sánh hiệu quả giảm đau của PCEA với giảm đau đa
phương thức cho thấy lượng opioid của nhóm PCEA thấp hơn so với
nhóm giảm đau đa phương thức là 28 ± 23 so với 43 ± 21. Như vậy,
phương pháp giảm đau PCEA có hiệu quả cao, xong vẫn có những bệnh
nhân cần sử dụng opioid hoặc cần sử dụng thêm các thuốc giảm đau
khác. Kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác cũng cho thấy dù sử
dụng phương pháp giảm đau nào cũng vẫn có những bệnh nhân phải giải
cứu đau bằng các thuốc NSAID, paracetamol hoặc sử dụng các opioid
đường tĩnh mạch.
4.2.5 Ảnh hưởng lên vận động
Từ kết quả của bảng 3.19 và biểu đồ 3.7 cho thấy, nhóm
bupivacain có mức ức chế vận động theo Bromage cao hơn so với nhóm
ropivacain, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Kết quả nghiên cứu của tác giả Đỗ Văn Lợi [16] cho thấy mức ức
chế vận động của nhóm PCEA không sử dụng liều nền là thấp nhất và
nhóm PCEA sử dụng liều nền là 4ml/h là cao nhất. Tuy nhiên, nhóm
PCEA có tỷ lệ ức chế vận động thấp hơn so với nhóm truyền liên tục với
tỷ lệ ức chế vận động 13,3%. Nghiên cứu của tác giả có mức ức chế vận
động theo Bromage thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi, sự khác
114
biệt có thể do nghiên cứu của tác giả trên nhóm sản phụ chuyển dạ còn
chúng tôi tiến hành trên nhóm bệnh nhân sau phẫu thuật thay khớp háng.
Đây là nhóm bệnh nhân vừa được tiến hành gây tê tủy sống để phẫu
thuật. Theo tác giả Đỗ Trung Dũng [5], mức ức chế vận động của nhóm
gây tê ngoài màng cứng là cao với 73,3% bệnh nhân chỉ co nhẹ được
chân sau khi được loại bỏ trọng lượng của cơ thể. Theo nghiên cứu của
Nguyễn Văn Chinh [1] về phối hợp CSE trong phẫu thuật thay khớp
háng khớp gối cho thấy tỷ lệ ức chế vận động trong giảm đau sau mổ
theo Bromage ở mức M0 là 87,3%, M1 là 10,6% và M2 là 2,1%.
Gaurav Kuthiala [49] đánh giá vai trò của ropivacain trong gây tê
ngoài màng cứng trên bệnh nhân phẫu thuật khớp háng hoặc chi dưới
cho thấy mức độ ức chế vận động hoàn toàn khi bolus 20ml ropivacain
0,5% là 15%. Đánh giá trong nghiên cứu của Yuhong Li [79] cho thấy,
tuổi cao là một trong yếu tố liên quan tới mức độ phong bế vận động khi
sử dụng ropivacain đường ngoài màng cứng. Trong nghiên cứu tác giả
thấy mức độ phong bế vận động ở nhóm tuổi ≥70 đạt được ở nồng độ
ropivacain là 0,383% so với nhóm <70 cần đạt được với nồng độ
ropivacain là 0,536% sự khác biệt có ý nghĩa với p < 0,01.
Trong nghiên cứu của L. Bertini [35], nhóm bupivacain có mức độ
ức chế vận động cao hơn so với nhóm ropivacain. Trong đó, ở nồng độ
0,2% nhóm bupivacain có mức độ ức chế vận động theo Bromage>2 là
27,3% cao hơn có ý nghĩa với nhóm ropivacain với nồng độ 0,2% không
có bệnh nhân nào có mức ức chế vận động >2. Trong đánh giá của
Stefan A. Girsberger [50], khi gây tê ngoài màng cứng ngực, ropivacain
0,2% có mức ức chế vận động ít hơn so với bupivacain 0,125% sử dụng
đường ngoài màng cứng ngực. Đánh giá trên lượng nước tiểu tồn dư do
ức chế vận động bàng quan cho thấy sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê.
115
4.3 Ảnh hưởng lên tuần hoàn và hô hấp
4.3.1 Ảnh hưởng lên tuần hoàn
* Tỷ lệ tụt huyết áp sau liều đầu
Từ kết quả của bảng 3.20 cho thấy, nhóm bupivacain có tỷ lệ tụt
huyết áp nhiều hơn so với nhóm ropivacain. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p>0,05. Trong đó tỷ lệ tụt huyết áp ở mức < 10%
chiếm đa số ở hai nhóm với 80,8% ở nhóm bupivacain và 86,5% ở nhóm
ropivacain. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ tụt huyết áp chủ yếu
gặp phải ở thời điểm sau liều bolus đầu tiên. Đây cũng là liều bolus
thuốc lớn nhất trong quá trình nghiên cứu vì lượng thuốc bolus được tính
theo công thức dựa vào chiều cao. Các thời điểm còn lại trong nghiên
cứu không thấy có trường hợp nào có mức tụt huyết áp >20%. Trong
nghiên cứu của Jan Maca [86] thì tình trạng thay đổi huyết áp có liên
quan nhiều tới liều bolus. Trong đó, nhóm PCEA có tần số thay đổi
huyết áp nhiều hơn so với nhóm non-PCEA trong đó có 20% số bệnh
nhân có tụt huyết áp liên quan tới liều bolus.
K. Knudsen (1997) [72] thực hiện đánh giá so sánh tác động lên
tim giữa ropivacain với bupivacain trên người tình nguyện khỏe mạnh.
cho thấy bupivacain có tác động làm kéo dài QRS trên điện tim nhiều
hơn so với ropivacain, thời gian để hồi phục của bupivacain là lâu hơn so
với ropivacain. Tác giả Pamela Williams-Russo [123] và cộng sự đánh
giá sự ảnh hưởng của gây tê ngoài màng cứng trên bệnh nhân cao tuổi
được phẫu thuật thay khớp háng. Kết quả rút ra từ 235 bệnh nhân cho
thấy việc thực hiện kiểm soát huyết áp theo chương trình không gây ảnh
hưởng xấu tới kết quả của phẫu thuật. Trong đó mức huyết áp trung bình
được lựa chọn để tiến hành nghiên cứu là hạ từ 45- 55mmHg so với mức
hạ 55-70 mmHg.
116
* Ảnh hưởng lên tần số tim
Tần số tim (bảng 3.22) của nhóm bupivacain giảm từ 87,4 ± 8,6
lần/phút xuống 81,46 ± 8,14 lần/phút nhiều hơn so với mức giảm của
nhóm ropivacain là 87,21 ± 7,05 lần/phút xuống 82,1 ± 6,8 lần/ phút.
Cũng từ biểu đồ 3.14, tần số tim của nhóm bupivacain có mức trung bình
thấp hơn so với nhóm ropivacain tại các thời điểm nghiên cứu. Tuy
nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Nghiên cứu của Trần Đức Thọ [24] ở nhóm sử dụng
levobupivacain phối hợp với fentanyl cho thấy, tần số tim giảm từ mức
103,14 ±10,74 lần/phút tại thời điểm H0 xuống 92,18 ± 11,07 lần/ phút
tại H0,25. Nghiên cứu của Nguyễn Trung Kiên [13] cho thấy, mức giảm
tần số tim từ H0 là 88,1 ± 9,3 lần/ phút xuống 82,2 ± 7,5lần/phút ở H0,25.
Sau đấy tần số tim ổn định tại các thời điểm nghiên cứu.
* Ảnh hưởng lên HATB
Trong nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.21 và biểu đồ 3.10), mức
thay đổi của HATB của hai nhóm không có sự khác biệt tại các thời
điểm nghiên cứu với p>0,05. Mức HATB cao nhất tại thời điểm trước
khi bắt đầu làm giảm đau, sau đấy giảm dần và ổn định sau 6 giờ.
Kết quả của chúng tôi cũng tương đương với tác giả Đỗ Trung
Dũng [5], trong nghiên cứu của Đỗ Trung Dũng HATB cũng cao nhất tại
thời điểm bắt đầu làm giảm đau. Tại T0 của tác giả, HATB cao hơn có ý
nghĩa so với mức huyết áp nền, sau khi bắt đầu làm giảm đau, HATB
của cả hai nhóm nghiên cứu của tác giả đều giảm so với thời điểm bắt
đầu. Sau đấy ổn định trong suốt thời gian nghiên cứu.
Trong nghiên cứu của Shin Hyung Kim [70]và cộng sự về sử dụng
PCEA ropivacain phối hợp với fetnanyl tỷ lệ tụt huyết áp thấp hơn với 6,9%.
117
Trong nghiên cứu của tác giả Raha Khaneshi [68], tác giả đánh giá
việc sử dụng PCEA có sử dụng liều nền truyền liên tục với PCEA không
sử dụng liều nên. Tác giả nhận thấy, nhóm sử dụng PCEA có ít ảnh
hưởng lên huyết áp hơn so với nhóm CEI. Trong đó, nhóm CEI cho thấy
huyết áp giảm dần theo thời gian sử dụng, còn ở nhóm PCEA huyết áp
có giảm tại thời điểm ban đầu sau khi sử dụng PCEA, nhưng sau đấy
huyết động ổn định trong thời gian sử dụng giảm đau.
Trong nghiên cứu của Shivali Panwar [94] về sử dụng ngoài màng
cứng ropivacain với fentanyl cho thấy, mức huyết áp trung bình của thời
điểm trước khi làm giảm đau cao nhất và giảm xuống theo thời điểm
nghiên cứu.
4.3.2 Ảnh hưởng lên hô hấp
* Ảnh hưởng lên tần số thở
Từ kết quả của bảng 3.23 và biểu đồ 3.12, giữa hai nhóm trong
nghiên cứu không có sự khác biệt về tần số thở. Tuy nhiên, tần số thở ở
thời điểm trước khi bắt đầu làm giảm đau cao hơn các thời điểm còn lại
của nghiên cứu. Sự khác biệt có ý nghĩa thông kê với p<0,05.
Các nghiên cứu của Nguyễn Trung Kiên [13] và Trần Đức Thọ
[24] cho thấy phương pháp giảm đau ngoài màng cứng có ảnh hưởng tốt
lên chức năng hô hấp của bệnh nhân trong nghiên cứu. Tuy nhiên,
nghiên cứu của hai tác giả trên các bệnh nhân phẫu thuật ổ bụng, có ảnh
hưởng lớn tới hô hấp vì liên quan trực tiếp tới sự vận động của các cơ hô
hấp như cơ thành bụng, cơ liên sườn...
* Ảnh hưởng lên SpO2
Từ kết quả của bảng 3.24 và biểu đồ 3.13 cho thấy tỷ lệ SpO2
trong nghiên cứu của hai nhóm tương đương nhau ở các thời điểm
nghiên cứu. Trong đó, mức SpO2 giảm dần theo thời gian nghiên cứu ở
118
cả hai nhóm, nhưng mức giảm không đáng kể, với giá trị trung bình
không có sự khác biệt so với thời điểm ban đầu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phẫu thuật thay khớp háng không
có nhiều sự ảnh hưởng tới hoạt động của các cơ hô hấp, tuy nhiên sự
thay đổi về giải phẫu và sinh lý trên người cao tuổi có sự ảnh hưởng
không nhỏ tới hô hấp. Ngoài ra, đau sau mổ còn ảnh hưởng toàn thân,
đặc biệt trong đó có ảnh hưởng tới các yếu tố nội tiết, làm tăng tiết các
hormon thuộc nhóm cathecolamin có tác dụng chống lại stress do đau
gây ra dẫn đến tăng nhịp tim, tăng huyết áp và tăng mức tiêu thụ oxy.
Một trong những biến chứng nặng sau phẫu thuật thay khớp háng là tắc
mạch do mỡ hoặc tắc mạch do huyết khối. Cả hai yếu tố trên đều là
nguyên nhân gây tắc mạch phổi. Đây là một biến chứng nghiêm trọng về
hô hấp trên người bệnh.
4.3.3 Thời gian nằm viện
Thời gian nằm viện sau mổ (bảng 3.25) của nhóm ropivacain là
5,9 ± 1,09 ngày, ngắn hơn so với nhóm bupivacain là 6,22 ± 1,2 ngày.
Phân tích bằng biểu đồ Kaplan – Mayer cho thấy thời gian xuất viện của
hai nhóm sau phẫu thuật không có sự khác biệt.
Thời gian nằm viện sau mổ của chúng tôi ngắn hơn so với của tác
giả Đỗ Trung Dũng [5], trong nghiên cứu của tác giả nhóm giảm đau
ngoài màng cứng có thời gian nằm viện là 8,1 ± 1,6 ngày. Tác giả
Spencer S. Liu [83] đánh giá hiệu quả của PCEA trên 1000 bệnh nhân
phẫu thuật thay khớp háng cho thấy thời gian nằm viện trung bình là 92
± 26 giờ.
Phân tích của tác giả Choi P [92], từ các tài liệu và phân tích tổng
hợp tác giả đưa ra kết quả về so sánh thời gian nằm viện sau mổ của các
tác giả trong phân tích gộp từ thư viện Cochrane. Theo kết quả phân tích,
nghiên cứu của tác giả Moiniche cho thấy thời gian xuất viện của nhóm
119
gây tê ngoài màng cứng cũng tương tự với giảm đau tĩnh mạch với thời
gian là 9 ngày. Tác giả Singelyn giữa 3 phương pháp cho thấy nhóm gây
tê ngoài màng cứng có thời gian xuất viện trung bình là 16 ngày, nhóm
gây tê 3 trong 1 là 17 ngày và nhóm sử dụng thuốc giảm đau tĩnh mạch
là 21 ngày. Tác giả Capdevila lại cho thấy kết quả nhóm ngoài màng
cứng có thời gian trung bình là 37 ngày, nhóm gây tê thân thần kinh là
40 ngày và nhóm sư dụng PCA tĩnh mạch là 50 ngày. Thời gian nằm
viện sau mổ trong nghiên cứu của chúng tôi do các phẫu thuật viên quyết
định. Dựa vào tình trạng vết mổ, tình trạng toàn thân và cách thực hiện
luyện tập để phục hồi sau mổ mà thời gian xuất viện của các cơ sở y tế là
khác nhau. Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian nằm viện sau mổ
là khoảng thời gian cho phép bệnh nhân có thể xuất viện và tiếp tục
chương trình phục hồi sau mổ ở khoa phục hồi chức năng.
Trong nhiều nghiên cứu, các tác giả nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng tới hiệu quả điều trị của phẫu thuật thay khớp háng, khớp gối.
Nghiên cứu của U. Plenge [100] xác định 10 yếu tố ảnh hưởng tới kết
quả sau phẫu thuật khớp háng đặc biệt trong đó có các yếu tố là vận động
sớm sau phẫu thuật, chăm sóc tiêu chuẩn, phác đồ giảm đau không cần
dùng thuốc opioid, dự phòng huyết khối tĩnh mạch, giảm đau có kiểm
soát của bệnh nhân và phục hồi chức năng sau phẫu thuật. Tác giả K. K.
Lim [81] đánh giá các yếu tố tiên lượng khả năng xuất viện trên các bệnh
nhân cao tuổi được phẫu thuật thay khớp háng, từ 98 bài báo từ 2010 tới
2017, kết quả cho thấy có tới 107 yếu tố được tác giả chia thành 7 nhóm
yếu tố chính là đặc điểm người bệnh, trình độ, tâm lý, kinh tế, liên quan
đến chấn thương và quá trình chăm sóc.
4.3.4 Mức độ hài lòng của người bệnh
Từ kết quả ở biểu đồ 3.8 trong nghiên cứu của chúng tôi ở nhóm
ropivacain cao hơn so với nhóm bupivacain. Trong đó, nhóm ropivacain
120
có tỷ lệ rất hài lòng là 75% và hài lòng là 25%. Nhóm bupivacain có
mức rất hài lòng là 63,5% và hài lòng là 36,5%. Cả hai nhóm nghiên cứu
đều không có bệnh nhân nào không hài lòng với hiệu quả giảm đau.
Theo Nguyễn Văn Chinh [1], mức độ hài lòng của người bệnh ở
mức tốt là 87,3%, khá là 8,5% và trung bình là 4,2%. Tác giả Trần Đắc
Tiệp [26] có mức rất hài lòng của nhóm RF là 51,6%, hài lòng là 48,4%,
còn ở nhóm R có tỷ lệ không hài lòng là 9,7%. Nghiên cứu của tác giả
Đỗ Trung Dũng [5] cho thấy tỷ lệ bệnh nhân hài lòng là 84,4% và tạm
được là 15,6% ở nhóm giảm đau ngoài màng cứng, ngoài ra nghiên cứu
còn đánh giá mức độ hài lòng của phẫu thuật viên với tỷ lệ hài lòng là
80% và tạm được là 20%, nghiên cứu không ghi nhận trường hợp bệnh
nhân hay phẫu thuật viên nào không hài lòng với các phương pháp giảm đau.
Trong nghiên cứu của Ashish Khanna [69] cho thấy, tỷ lệ hài lòng là
76,7 % ở nhóm sử dụng ropivacain phối hợp với fentanyl.
Có nhiều phương pháp giảm đau sau phẫu thuật khớp háng, tác giả
Francois J. Singelyn [52] đánh giá gây tê ngoài màng cứng, gây tê 3
trong 1 và PCA morphin. Collin LaPorte [76] đánh giá các phương pháp
giảm đau bằng tiêm thuốc tê nội khớp, gây tê lớp cân, gây tê thân thần
kinh. Dario Bugada [37] cũng cho thấy nhiều phương pháp gây tê được
sử dụng trong giảm đau sau phẫu thuật thay khớp háng. Nhiều phương
pháp gây tê được nghiên cứu và phát triển để ứng dụng trong giảm đau
sau phẫu thuật thay khớp háng, tuy nhiên các nghiên cứu đều cho thấy
cần thêm các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng nữa để khẳng định kết
quả và đánh giá mức độ ảnh hưởng sau mổ kéo dài, trong các nghiên cứu
cũng cho thấy phương pháp giảm đâu PCEA là phương pháp giảm đau được
coi là tiêu chuẩn trong giảm đau sau phẫu thuật vào khớp lớn [137].
121
4.4 Tác dụng không mong muốn
Từ bảng 3.26, tác dụng không mong muốn thường gặp nhiều nhất
trong nghiên cứu của chúng tôi là tụt huyết áp, nôn, buồn nôn, ngứa, bí
tiểu. Sự khác biệt về các tác dụng không mong muốn giữa hai nhóm
trong nghiên cứu không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Đây là các tác dụng không mong muốn thường gặp trong gây tê
ngoài màng cứng. Trong nghiên cứu của Trần Đức Thọ [24], tỷ lệ tác
dụng không mong muốn của nhóm LF là buồn nôn – nôn 12%, bí tiểu
14%, ngứa 10%. Trong nghiên cứu của Nguyễn Trung Kiên [13] là ngứa
8,3% và buồn nôn là 6,2%. Trong nghiên cứu của Đỗ Trung Dũng [5],
nhóm giảm đau ngoài màng cứng gặp phải triệu chứng chướng bụng với
tỷ lệ 17,8%, run 15,6%, nôn 13,3%, ngứa 17,8% và nhức đầu là 2,2%.
Trong nghiên cứu của A. Hole [57], tác dụng không mong muốn
gặp phải là nôn và buồn nôn với tần số là 12/29, đau đầu 1/29, bí tiểu
8/29 và run 3/29. Tác giả Yvan Pouzeratt [102] trong đánh giá hiệu quả
của PCEA giữa ropivacain với bupivacain cho thấy tỷ lệ HA<90mmHg
của nhóm bupivacain 0,125% là 58%, ropivacain 0,125% là 63% và
ropivacain 0,2% là 83%. Trong đó tỷ lệ phải sử dụng ephedrin của nhóm
bupivacain là 3mg, nhóm ropivacain 0,125% là 6mg và nhóm ropivacain
0,2% là 14mg. Nghiên cứu của Stefan A. Girsberger cho thấy ropivacain
có ít ảnh hưởng lên trương lực cơ bàng quan hơn bupivacain [50].
Trong nghiên cứu của Spencer S. Liu [82], tác giả đã phân tích các
yếu tố nguy cơ liên quan tới các tác dụng không mong muốn. Trong đó
triệu chứng ngứa có liên quan nhiều tới tuổi < 58 và thể tích thuốc tê lớn,
nôn có yếu tố nguy cơ liên quan tới giới tính nữ. Tụt huyết áp có yếu tố
nguy cơ là giới nữ, cân nặng thấp và sử dụng thể tích thuốc tê lớn. Ức
chế vận động có liên quan tới gây tê ngoài màng cứng đoạn thắt lưng và
cân nặng thấp < 73kg.
122
Trong nghiên cứu của Jan Maca [86], tụt huyết áp và ngứa là hai
tác dụng không mong muốn được quan sát nhiều nhất. Tác giả không
thấy có các tác dụng không mong muốn như nhịp chậm, nôn, buồn nôn.
Byung-Gun Kim [129] lại cho thấy tỷ lệ nôn, buồn nôn ở bệnh nhân
PCEA sau phẫu thuật vào khớp gối và khớp háng là 18,4% ở nhóm sử
dụng palonosetron và 36,7% ở nhóm dexamethasone.
Trong các nghiên cứu, rất ít các tai biến và biến chứng của phương
pháp gây tê ngoài màng cứng được quan sát thấy tuy nhiên, trong các
trường hợp báo cáo ca bệnh đặc biệt, một số tai biến của kỹ thuật gây tê
ngoài màng cứng cũng được báo cáo như tác giả Võ Thị Nhật Khuyên
[12] báo cáo một trường hợp tụ máu ngoài màng cứng sau khi rút ngoài
màng cứng trên bệnh nhân sau mổ rút lõm lồng ngực. Tác giả Nguyễn
Thị Ngọc Đào [4] báo cáo trường hợp thủng màng cứng sau đặt catheter
ngoài màng cứng, trong báo cáo của tác giả cũng cho thấy, các tai biến
của gây tê thần kinh trung ương có mức độ nguy hiểm cao, có thể dẫn tới
các hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, khi được theo dõi và xử trí kịp thời, việc
điều trị đúng giúp bệnh nhân sớm phục hồi và không để lại di chứng.
123
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu so sánh hiệu quả của hỗn hợp ropivacain 0,1% -
fentanyl 1 mcg/ml với hỗn hợp bupivacain 0,1% - fentanyl 1 mcg/ml
trong giảm đau PCEA trên 104 bệnh nhân sau phẫu thuật khớp háng tại
bệnh viện trung ương quân đội 108 từ tháng 10 năm 2015 tới tháng 10
năm 2019 chúng tôi rút ra kết luận sau:
1. Hiệu quả giảm đau và ức chế vận động
Phương pháp PCEA có hiệu quả giảm đau tốt sau phẫu thuật thay
khớp háng trên người cao tuổi. Điểm VAS trung bình lúc vận động và
khi nghỉ ngơi của cả hai nhóm trong nghiên cứu đều thấp hơn 4.
Tổng lượng thuốc tê sử dụng trong 72 giờ là bupivacain 280,0 ±
10,0 mg và ropivacain là 282,9 ± 7,6 mg.
Tỷ lệ A/D của nhóm bupivacain cao hơn so với nhóm ropivacain
(98,7% so với 98,1% ở ngày thứ nhất, 97% so với 95,8% ở ngày thứ 2 và
96,4% so với 95,7% ở ngày thứ 3). Tỷ lệ bệnh nhân rất hài lòng của
nhóm ropivacain là 75% cao hơn của nhóm bupivacain là 63,5%. Nhóm
bupivacain có thời gian chờ tác dụng là 10,8 ± 1,9 phút là ngắn hơn so
với nhóm ropivacain là 13,0 ± 1,6 phút (p<0,05). Thời gian bấm liều
bolus đầu tiên của nhóm bupivacain là 8,6±1,5 giờ là dài hơn so với nhóm
ropivacain là 7,1 ± 1,65 giờ (p<0,05).
Nhóm bupivacain có mức độ ức chế vận động M2 là 13,5% cao hơn
so với nhóm ropivacain không có ức chế vận động mức M2 (p<0,05).
2. Ảnh hưởng lên tuần hoàn, hô hấp và tác dụng không mong muốn
Sau liều đầu, nhóm bupivacain có mức tụt huyết áp 10-20% là 13,5%
cao hơn nhóm ropivacain là 11,5%, mức độ tụt huyết áp >20% của nhóm
bupivacain là 5,8% cao hơn so với 1,9% của nhóm ropivacain. (p<0,05).
Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về tần số thở và SpO2 tại các
thời điểm nghiên cứu.
124
Tác dụng không mong muốn gặp trong nghiên cứu của hai nhóm
là tương đương với nhau với p>0,05. Tác dụng không mong muốn
thường gặp là tụt huyết áp 16,3%, buồn nôn 4,8%, ngứa 4,8%, nôn 1,9%
và ngứa là 1,9 %.
125
KIẾN NGHỊ
1. Ứng dụng phương pháp giảm đau PCEA bằng ropivacain 0,1%
- fentanyl 1 mcg/ml trong giảm đau sau mổ thay khớp háng tại các cơ sở
đảm bảo về chuyên môn và phương tiện.
2. Thực hiện nghiên cứu với các cài đặt PCEA khác nhau trong
giảm đau sau mổ thay khớp háng trên người cao tuổi để đưa ra khuyến
cáo về cài đặt có hiệu quả giảm đau tốt nhất và ít tác dụng không mong
muốn nhất.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Lệ Mỹ, Công Quyết Thắng (2020), Đánh giá hiệu quả
giảm đau sau mổ thay khớp háng trên người cao tuổi của phương
pháp gây tê ngoài màng cứng do bệnh nhân tự kiểm soát. Tạp chí Y
học Việt Nam, số 1 & 2/2020, tập 492, 97-101.
2. Nguyễn Thị Lệ Mỹ, Công Quyết Thắng (2020), So sánh hiệu quả gây
tê ngoài màng cứng bằng Ropivacaine 0,1% với Bupivacain 0,1%
sau phẫu thuật thay khớp háng trên người cao tuổi. Tạp chí Y học
Việt Nam, số 1 & 2/2020, tập 492, 68-72.
3. Nguyễn Thị Lệ Mỹ, Công Quyết Thắng (2020), So sánh tác dụng ức
chế vận động, cảm giác và ảnh hưởng trên tuần hoàn của ropivacain
0,1% và bupivacain 0,1% trong giảm đau ngoài màng cứng sau phẫu
thuật khớp háng trên người cao tuổi, Tạp chí y dược lâm sàng 108,
Tập 13 - Số 7/2020, 57-63.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Nguyễn Văn Chinh (2012), "Nghiên cứu hiệu quả của gây tê tủy sống kết hợp gây tê ngoài màng cứng trong phẫu thuật thay khớp gối, khớp háng", Y học TP Hồ Chí Minh. 16(1), pag. 328-336. Nguyễn Trung Cường (2015), "So sánh hiệu quả tê ngoài màng cứng truyền liên tục và tê ngoài màng cứng bệnh nhân tự điều khiển giảm đau sau phẫu thuật bụng trên", Y học TP Hồ Chí Minh. 19(1), pag. 413-418. Trịnh Xuân Đàn (2008), Giải phẫu chi dưới - Bài giảng giải phẫu tập 1, Nhà xuất bản Y Học. Nguyễn Thị Ngọc Đào (2011), "Tai biến, biến chứng sau gây tê thần kinh trung ương", Y học TP Hồ Chí Minh. 15(1), pag. 319-326. Đỗ Trung Dũng (2018), Nghiên cứu hiệu quả giảm đau sau mổ của gây tê đám rối thần kinh thắt lưng dưới hướng dẫn của siêu âm trong các phẫu thuật chi dưới, Bộ môn Gây mê hồi sức - Đại học Y Hà Nội. Trần Trung Dũng (2014), "Nhận xét kết quả phẫu thuật thay khớp háng toàn bộ với đường mổ nhỏ điều trị gãy cổ xương đùi do chấn thương", Y Học Thực Hành. 90(3), pag. 9-12. Lâm Đạo Giang (2015), "Hiệu quả kiểm soát đau bằng giảm đau đa mô thức trong thay khớp háng bán phần", Y học TP Hồ Chí Minh. 19(1), pag. 52-59. Lâm Đạo Giang (2015), "Khảo sát đau và những ảnh hưởng của đau sau phẫu thuật thay khớp háng tại bệnh viện Chợ Rẫy", Y học TP Hồ Chí Minh. 19(1), pag. 60-66. Phạm Xuân Hùng (2018), Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ và thể tích hỗn hợp levobupivacain - fentanyl đường ngoài màng cứng trong giảm đau sau mổ vùng khớp háng, Bộ môn Gây mê hồi sức, Viện nghiên cứu khoa học Y Dược lâm sàng 108. 10. Mircea Ifrim (2004), ATLAS giải phẫu người, nhà xuất bản Y Học. 11. Phạm Vũ Khánh (2009), Lão khoa y học cổ truyền, Nhà xuất bản
Giáo Dục Việt Nam.
12. Võ Thị Nhật Khuyên (2010), "Tụ máu ngoài màng cứng sau gây tê ngoài màng cứng", Y học TP Hồ Chí Minh. 14(1), pag. 278-282. 13. Nguyễn Trung Kiên (2014), Nghiên cứu hiệu quả giảm đau đường ngoài màng cứng ngực bằng hỗn hợp bupivacain - fentanyl do bệnh nhân tự điều khiển sau mổ vùng bụng trên ở người cao
tuổi, Luận án tiến sĩ, Bộ môn Gây mê hồi sức, Viện Nghiên Cứu Khoa Học Y Dược Lâm Sàng 108.
14. Nguyễn Trung Kiên (2015), Gây tê ngoài màng cứng. Giáo trình gây mê - bộ môn Gây mê hồi sức. Học viện Quân Y, Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân.
15. Nguyễn Quốc Kinh (2013), Gây mê cho người cao tuổi. Bài
giảng gây mê hồi sức nội soi, Nhà xuất bản Giáo Dục.
16. Đỗ Văn Lợi (2017), Nghiên cứu hiệu quả giảm đau trong chuyển dạ của phƣơng pháp gây tê ngoài màng cứng do và không do bệnh nhân tự điều khiển, Luận án tiến sĩ y khoa, Bộ môn Gây mê hồi sức, Đại học Y Hà Nội.
17. Trịnh Văn Minh (2010), Giải phẫu người. Giải phẫu học đại cương chi trên - chi dưới - đầu mặt cổ, Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam.
18. Đào Văn Phan (2012), Các thuốc giảm đau chống viêm, Nhà xuất
bản Y Học.
19. Nguyễn Đức Phúc (2010), Kỹ thuật mổ chấn thương chỉnh hình,
Nhà xuất bản Y Học.
20. Vũ Hoàng Phương (2014), Thuốc giảm đau họ morphin. Bài giảng Gây mê hồi sức. Trường đại học Y Hà Nội, Nhà xuất bản Y Học.
21. Bộ Y Tế (2009), Dược thư quốc gia Việt Nam Nhà Xuất bản Y Học. 22. Công Quyết Thắng (2006), Gây tê tủy sống - gây tê ngoài màng cứng. Bài giảng Gây mê hồi sức - ĐH Y Hà Nội, Nhà xuất bản Y Học. 23. Nguyễn Toàn Thắng (2016), Luận án Tiến sĩ Y học " Đánh giá hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật bụng và tác dụng không mong muốn của fentanyl, morphin, morphin - ketamin tĩnh mạch theo phương pháp bệnh nhân tự kiểm soát",, Đại học Y Hà Nội. . 24. Trần Đức Thọ (2017), Nghiên cứu tác dụng giảm đau sau mổ bụng trên của levobupivacain phối hợp với sufentanil hoặc fentanyl hoặc clonidin qua catheter ngoài màng cứng do bệnh nhân tự điều khiển, Luận án tiến sĩ y khoa, Bộ môn Gây mê hồi sức, Viện Nghiên Cứu Khoa Học Y Dược Lâm Sàng 108.
25. Nguyễn Thụ (2008), Thuốc sử dụng trong gây mê, Nhà xuất bản
Y Học.
26. Trần Đắc Tiệp (2017), "Nghiên cứu tác dụng giảm đau bằng ropivacain - fentanyl qua catheter ngoài màng cứng bệnh nhân tự điều khiển sau mổ thay khớp háng", Tạp chí Y Dược học Quân Sự. 4, pag. 184-192.
27. Nguyễn Văn Trí (2016), Khuyến cáo về chẩn đoán, điều trị và dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch của Hội Tim mạch học quốc gia Việt Nam Hội Tim Mạch học Việt Nam.
28. Nguyễn Hữu Tú (2014), Dự phòng và chống đau sau mổ. Bài giảng Gây mê hồi sức. Bộ môn Gây mê hồi sức - đại học Y Hà Nội, Nhà xuất bản Y Học.
29. Nguyễn Hữu Tú (2016), Gây tê thần kinh ngoại vi dưới hướng dẫn siêu âm ở người lớn, Bộ môn Gây Mê Hồi Sức - Đại Học Y Hà Nội.
30. Nguyễn Văn Tuấn (2020), ước tính cỡ mẫu - Phân tích số liệu
với R, Nhà xuất bản tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
Tài liệu tiếng Anh 31. Abdulla A (2013), "Guidance on the management of pain in older
people", Age and ageing. 42, pag. i1–i57.
32. Matthew W. Swisher Beamy S. Sharma, Christina N. Doan (2018), "Predicting patients requiring discharge to post-acute care facilities following primary total hip replacement: Does anesthesia type play a role?", Journal of Clinical Anesthesia. 51, pag. 32-36. 33. N. H. Bech (2016), "Perioperative pain management in hip arthroscopy; what options are there?", Journal of Hip Preservation Surgery. 3(3), pag. 181–189.
34. Bruce Ben-David (2000), "Minidose bupivacaine - fentanyl spinal anesthesia for surgical repair oh hip fracture in the aged", Anesthesiology. 92, pag. 6-10.
following hip replacement:
35. L. Bertini (2001), "Postoperative analgesia by combined continuous infusion and patient-controlled epidural analgesia (PCEA) ropivacaine versus bupivacaine", Acta Anaesthesiol Scand. 45, pag. 782-785. 36. Sidharth Bhasin (2018), "Comparison of efficacy of epidural ropivacaine versus bupivacaine for postoperative pain relief in total knee replacement surgeries", Anesth Essays Res. 12, pag. 26-30. 37. Dario Bugada (2018), "Update on Selective Regional Analgesia
for Hip Surgery Patients", Anesthesiology Clin.
38. Thomas A. Cavalieri (2007), "Managing Pain in Geriatric Patients", J Am Osteopath Assoc. 107(4), pag. ES10-ES16. 39. Martyn Harvey and Grant Cave (2016), "Lipid Emulsion in Local Anesthetic Toxicity Long-winded, Rude, and Right", Anesthesiology. 125(3), pag. 451-453.
40. T. N. Chethanananda (2017), "Comparative Efficacy of Minimal Concentration of Racemic Bupivacaine (0.0625%) with Fentanyl and Ropivacaine (0.1%) with Fentanyl for Epidural Labor Analgesia", Anesth Essays Res. 11, pag. 583-8.
41. Roger Chou (2016), "Guidelines on
the Management of Postoperative Pain Management of Postoperative Pain: A Clinical
Practice Guideline From the American Pain Society, the American Society of Regional Anesthesia and Pain Medicine, and the American Society of Anesthesiologists’ Committee on Regional Anesthesia, Executive Committee, and Administrative Council", The Journal of Pain. 17(2), pag. 131-157.
42. Chin-Chen Chu (2015), "Propensity Score–matched Comparison of Postoperative Adverse Outcomes between Geriatric Patients Given a General or a Neuraxial Anesthetic for Hip Surgery: A Population-based Study", Anesthesiology. 123, pag. 136-47. 43. Douglas Craig (2018), "Bromage motor blockade score – a score that has lasted more than a lifetime", Canadian Journal of Anesthesia. 65, pag. 837–838.
44. B. Darrith (2018), "Outcomes of dual mobility components in total hip arthroplasty. A Systematic review of the literature ", Bone Joint J. 100-B, pag. 11–19.
correlation, examining inluence,
45. Pauline Dureau (2016), "Effect of Intralipid® on the Dose of Ropivacaine or Levobupivacaine Tolerated by Volunteers A Clinical and Pharmacokinetic Study", Anesthesiology. 125, pag. 474-83. 46. Felix Greimel (2018), "Course of pain after total hip arthroplasty within a standardized pain management concept: a prospective study and outcome of postoperative pain on 103 consecutive patients", Archives of Orthopaedic and Trauma Surgery Published online part of Springer nature.
47. Paolo Ferrata (2011), "Painful hip arthroplasty: definition", Clinical Cases in Mineral and Bone Metabolism. 8(2), pag. 19-22. 48. Kanonidou Z and Karystianou G (2007), "Anesthesia for the
elderly", Hippokratia. 11(4), pag. 175-177.
49. Kuthiala G and Chaudhary G. (2011), "Ropivacaine: A review of its
pharmacology and clinical use.", Indian J Anaesth. 55, pag. 104-110.
51.
50. Stefan A. Girsberger (2018), "Effect of thoracic epidural ropivacaine versus bupivacaine on lower urinary tract function: A randomized clinecal trial", Anesthesiology. 128, pag. 511-519. Jenna Goesling (2016), "Trends and predictors of opioid use after total knee and total hip arthroplasty", Pain. 157, pag. 1259–1265.
52. Francois J. Singelyn and Jean Marie A. Gouverneur (1999), "Postoperative analgesia after total hip arthroplasty: IV PCA with morphine, patient controlled epidural analgesia, or continuous "3- in-1" block?: a prospective evaluation by our acute pain service in more than 1300 patients", Journal of Clinical Anesthesia. 11, pag. 550-554.
53.
Jeffrey A. Grass (2005), "Patient-Controlled Analgesia", Anesth Analg. 101, pag. S44–S61.
54. Merete Gregersen (2016), "Postoperative red blood cell transfusion strategy in frail anemic elderly with hip fracture ", Danish Medical Journal. 63(4), pag. B5221.
55. Tom G Hansen (2009), "Ropivacain: A pharmacological review",
Expert Rev. Neurotherapeutics. 4(5), pag. 781-791.
56. Simon Haroutounian (2018), "Postoperative opioids, endocrine changes, and immunosuppression", PAIN Reports, pag. e640. 57. A. Hole (1980), "Epidural versus general anaesthesia for total hip arthroplasty in elderly patients", Acta Anaesthesiol Scand. 24, pag. 279-287.
59.
58. Ernst-Peter Horn (1999), "Wound Infiltration and Drain Lavage with Ropivacaine After Major Shoulder Surger", Anesth Analg. 89, pag. 1461–6. IASP (2017), Management of Postsurgical Pain in Older Adults chủ biên, International Association for the Study of Pain.
60. Yuko Ikeda "Pharmacokinetics (2010),
of Lidocaine, Bupivacaine, and Levobupivacaine in Plasma and Brain in Awake Rats", Anesthesiology. 112, pag. 1396–1403.
61. Brian M Ilfeld (2003), "Portable infusion pumps used for continuous regional analgesia: delivery rate accuracy and consistency", Reg Anesth Pain Med. 28(5), pag. 424-32.
62. T Irlbeck (2017), "ASA classification : Transition in the course of time
and depiction in the literature", Anaesthesist. 66(1), pag. 5-10.
63. T. Ishiyama (2007), "The use of patient-controlled epidural fentanyl in elderly patients", Anaesthesia. 62, pag. 1246–1250. 64. Guay J (2017), "Peripheral nerve blocks for hip fractures",
Cochrane Database of Systematic Reviews(5).
65. R. L. Johnson (2016), "Neuraxial vs general anaesthesia for total total knee arthroplasty: a systematic review of Jounal of research", British effectiveness
hip and comparative anaesthesia. 116(2), pag. 163-176.
66. Kethy M. Jules-Elysee (2015), "Patient-controlled epidural analgesia or multimodal pain regimen with periarticular injection after total hip arthroplasty", J Bone Joint Surg Am. 97, pag. 789-798.
67. Babar Kayani (2019), "The direct superior approach in total hip arthroplasty", British Journal of Hospital Medicine. 80(6), pag. 320- 324.
68. Raha Khaneshi (2020), "Comparison of Continuous Epidural Infusion of Bupivacaine and Fentanyl Versus Patient Controlled
Analgesia Techniques for Labor Analgesia: A Randomized Controlled Trial (RCT) ", J Reprod Infertil. 21(1), pag. 42-48. 69. Ashish Khanna (2017), "Comparison of ropivacaine with and without fentanyl vs bupivacaine with fentanyl for postoperative epidural analgesia in bilateral total knee replacement surgery", Journal of Clinical Anesthesia. 37, pag. 7-13.
70. Shin Hyung Kim (2013), "Patient controlled epidural analgesia with ropivacaine and fentanyl: experience with 2276 surgical patients", Korean J Pain. 26(1), pag. 39-45.
71. S. Kiran (2018), "Evaluation of dexmedetomidine and fentanyl as additives to ropivacaine for epidural anesthesia and postoperative analgesia", J Anaesthesiol Clin Pharmacol 34, pag. 41-45. 72. K. Knuden (1997), "Central nervous and cardiovascular effects of in
i.v. infusions of ropivacaine, bupivacaine and placebo volunteers† ", British Journal of Anaesthesia. 78, pag. 507–514.
74.
73. T. Koch (2008), "Levobupivacain for epidural anaesthesia and postoperative analgesia in hip surgery: A multi-center effecacy and safety equivalence study with bupivacaine and ropivacaine", Anaesthesist. 57, pag. 475-482. Jae Chul Koh (2017), "Postoperative pain and patient controlled epidural analgesia related adverse effects in young and elderly patients: a retrospective analysis of 2435 patients", Journal of Pain Research. 10, pag. 897-904.
75. P. A. Kostamovaara (2001), "Ropivacaine 1 mg.ml-1 does not decrease the need for epidural fentanyl after hip replacement surgery", Acta Anaesthesiol Scand. 45, pag. 489 - 494.
(2019), "Postoperative Pain Management in in Hip Arthroscopy", Current Reviews
77.
76. Collin Laporte Strategies Musculoskeletal Medicine. 12, pag. 479–485. Joong-Myung Lee (2016), "The Current Concepts of Total Hip Arthroplasty", Hip Pelvis. 28(4), pag. 191-200.
78. Stefania Leone (2008), "Pharmacology, toxicology, and clinical use of new long acting local anesthetics, ropivacaine and levobupivacaine", Acta Biomed. 79, pag. 92-105.
79. Yuhong Li (2006), "The effects of age on the median effective concentration of ropivacaine for motor blockade after epidural anesthesia with ropivacaine", Regional Anesthesia. 102, pag. 1847-1850.
80. Chengwei Liang (2017), "Efficacy and Safety of 3 Different Anesthesia Techniques Used in Total Hip Arthroplasty", Med Sci Monit. 23, pag. 3752-3759.
81. K. K. Lim (2019), "Pre-discharge prognostic factors of physical function among older adults with hip fracture surgery: a systematic review", Osteoporosis International. Publisher online
82. Spencer S. Liu (1998), "Patient-controlled epidural analgesia with bupivacaine and fentanyl on hospital wards", Anesthesiologe. 88, pag. 688-695.
83. Spencer S. Liu (2011), "A prospective survey of patient controlled epidural analgesia with bupivacaine and clonidine after total hip replacement: a pre and postchange comparison with bupivacaine and hydromorphone in 1000 patients", Anesth Analg. 113, pag. 1213-1217.
84. Maria Mercedes Lopez (2016), "Continuous spinal anaesthesia with minimally invasive haemodynamic monitoring for surgical hip repair in two patients with severe aortic stenosis", Rev Bras Anestesiol. 66(1), pag. 82-85.
86.
85. Maria Laura De Luca (2018), "Pain monitoring and management in a rehabilitation setting after total joint replacement", Medicine. 97, pag. 40(e12484). Jan Macaa (2020), "Patient-controlled epidural analgesia versus conventional epidural analgesia after total hip replacement – a randomized trial", Biomed Pap Med Fac Univ Palacky Olomouc Czech Repub. 164(1), pag. 108-114.
87. Prasanthi Maddali (2017), "Anatomical complications of epidural anesthesia: A comprehensive review", Clin Anat. 30(3), pag. 342-346.
88. Colin J.L. McCartney (2003), "Intravenous ropivacaine bolus is a reliable marker of intravascular injection in premedicated healthy volunteers", Can J Anesth. 50(8), pag. 795–800.
89. Ace Medical (2020), AutoMed 3400, https://www.news-
medical.net/Ace-Medicals-AutoMed-3400-Ambulatory-Infusion- System.
91.
90. American society of regional anesthesia and pain medicine (2018), "Checklist for treatment of local anesthetic systemic toxicity", Reg anesth pain med. 43, pag. 113-123. Jerry P. Nolan (2010), "European Resuscitation Council Guidelines for Resuscitation 2010", Resuscitation. 81, pag. 1219–1276.
92. Choi P (2003), "Epidural analgesia for pain relief following hip or knee replacement.", Cochrane Database of Systematic Reviews(3). 93. W W Pang (2000), "Intraoperative loading attenuates nausea and tramadol patient-controlled analgesia", Can J
vomiting of Anaesth. 47(10), pag. 968-73.
94. Shivali Panwar (2017), "Comparative evaluation of ropivacaine and fentanyl versus ropivacaine and fentanyl with clonidine for postoperative epidural analgesia in total kne replacement surgery", Journal of clinical and diagnostic research. 11(9), pag. 9-13. 95. Sang Jun Park (2017), "Comparison of Dexmedetomidine and Fentanyl as an Adjuvant to Ropivacaine for Postoperative Epidural Analgesia in Pediatric Orthopedic Surgery", Yonsei Med J. 58(3), pag. 650-657.
96. Alexander Pastino (2019), Patient Controlled Analgesia (PCA),
StatPearls. 97. Amitesh Pathak (2017), "Comparison of
three different concentrations 0,2%, 0,5%, and 0,75% epidural ropivacaine for postoperative analgesia in lower limb orthopedic surgery", Anesth Essays Res. 11, pag. 1022-1025.
98. P. B. Petersen (2017), "Delirium after fast-track hip and knee arthroplasty – a cohort study of 6331 elderly patients", Acta Anaesthesiologica Scandinavica. 61, pag. 767–772.
99. Michael Pitta (2017), "Lumbar chance fracture after direct anterior
total hip arthroplasty", Arthroplasty Today. 3, pag. 247e250.
100. U. Plenge (2018), "Optimising perioperative care for hip and knee arthroplasty in South Africa: a Delphi consensus study", BMC Musculoskeletal Disorders 19, pag. 140-146.
101. By Rosemary C. Polomano (2017), "Multimodal Analgesia for Acute Postoperative and Trauma-Related Pain Current recommendations from evidence-based guidelines and expert consensus reports.", The American Journal of Nursing. 117(3), pag. s12-s26.
102. Yvan Pouzeratte (2001), "Patient-Controlled Epidural Analgesia After Abdominal Surgery: Ropivacaine Versus Bupivacaine", Anesth Analg. 93, pag. 1587–92.
103. Jorg Quitmann (2000), "Pharmacokinetics of ropivacaine during extradural anesthesia for total hip replacement", J. Clin. Anesthe. 12, pag. 36-39.
104. Niraja Rajan (2009), "Management of severe local anesthetic
toxicity", Update in Anaesthesia. 25(2), pag. 74-79.
105. F. Reguant (2019), "E(cid:0)cacy of a multidisciplinary approach on postoperative morbidity and mortality of elderly patients with hip fracture", Journal of Clinical Anesthesia. 53, pag. 11–19.
106. Alan C. Santos (2001), "Systemic Toxicity of Levobupivacaine, Bupivacaine, and Ropivacaine during Continuous Intravenous
Infusion to Nonpregnant and Pregnant Ewes", Anesthesiology. 95, pag. 1256–64
107. Stephan A Schug (2015), Acutepain Management: Scientific evidence Australian and New Zealand College of Anaesthetists and Faculty of Pain Medicine.
108. Alisa Seangleulur (2016), "The effecacy of local infitration analgesia in the early postoperative period after total knee arthroplasty: A systematic review and meta - analysis", Eur J Anaesthesiol. 33, pag. 816-831.
109. Beamy S. Sharma (2018), "Predicting patients requiring discharge to post-acute care facilities following primary total hip replacement: Does anesthesia type play a role?", Journal of Clinical Anesthesia. 51, pag. 32-36.
110. Mahendra Singh (2017), "Comparative Study of clonidine with ropivacaine versus ropivacaine alone in epidural anesthesia for lower limb orthopedic surgery", Anesth Essays Res. 11, pag. 1035-1039. 111. Brunskill SJ (2015), "Red blood cell transfusion for people undergoing hip fracture surgery (Review)", The Cochrane Collaboration. Published by JohnWiley & Sons, Ltd.(4).
112. I. Smet (2008), "Randomized controlled trial of patient-controlled epidural analgesia after orthopaedic surgery with sufentanil and ropivacaine 0,165% or levobupivacaine 0,125%", Brithis Journal of Anaesthesia. 100(1), pag. 99-103.
113. Nina Solheim (2017), "Women report higher pain intensity at a lower level of inflammation after knee surgery compared with men", PAIN Reports. 2, pag. e595.
114. Jeffrey B. Stambough (2015), "Rapid Recovery Protocols for Primary Total Hip Arthroplasty Can Safely Reduce Length of Stay Without Increasing Readmissions", J Arthroplasty. 30(4), pag. 521–526.
115. R. Stienstra (2003), "The place of ropivacaine in anesthesia",
Acta Anaesth. Belg. 54, pag. 141-148.
116. Shenglui Sun (2017), "Dose-dependent effects of intravenous methoxamine infusion during hip-joint replacement surgery on postoperative cognitive dysfunction and blood TNF-a level in elderly patiens: a randumized controlled trial", Anesthesiology. 17, pag. 75-85.
117. Tomonori Tetsunaga (2015), "Comparison of Continuous Epidural Analgesia, Patient-Controlled Analgesia with Morphine, and Continuous Three-in-One Femoral Nerve Block on
Postoperative Outcomes after Total Hip Arthroplasty", Clinics in Orthopedic Surgery. 7(2), pag. 164-170.
118. D. W. Cooper and G. Turner (1993), "Patient - Controlled extradural analgesia to compare bupivacaine, fentanyl and bupivacaine with fentanyl in the treatment of postoperative pain", Brithis Journal of Anaesthesia. 70, pag. 503-507.
119. Hui Yun Vivian (2009), "Predictors of Postoperative Pain and Analgesic Consumption: A Qualitative Systematic Review", Anesthesiology. 111, pag. 657–77
121. Julia Van vWaesberghe
120. Jaap Vuyk (2003), "Pharmacodynamics in the elderly", Best Practice Research Clinical Anaesthesiology. 17(2), pag. 207-218. (2017), "General vs. neuraxial anaesthesia in hip fracture patients: a systematic review and meta- analysis", Anesthesiology. 17, pag. 87-112.
122. S. M. vWhite (2014), "Outcome by mode of anaesthesia for hip fracture surgery. An observational audit of 65535 patients in a national dataset", Anaesthesia. 69, pag. 224-230.
123. Pamela vWilliams-Russo (1999),
"Randomized Trial of hypotensive epidural anesthesia in older adults", Anesthesiology. 91, pag. 926-935.
124. A. P. vWolff (1995), "Extradural ropivacaine and bupivacaine in hip surgery", British Jounal of anaesthesia. 74, pag. 458-460. 125. H. vWulf (1999), "Ropivacaine epidural anesthesia and analgesia versus general anesthesia and intravenous patient controlled analgesia with morphine in the perioperative management of hip replacement", Anesth Analg. 89, pag. 111-116.
126. Masashi Yoshimoto (2017), "Recovery From Ropivacaine- Induced or Levobupivacaine-Induced Cardiac Arrest in Rats: Comparison of Lipid Emulsion Effects", Anesth Analg. 125, pag. 1496–502.
127. D.R. Anderson (2018), "Aspirin or Rivaroxaban for VTE Prophylaxis after Hip or Knee Arthroplasty", The new england journal of medicine. 378(8), pag. 699-707.
128. Florian gessler (2016), "Postoperative patient-controlled epidural analgesia in patients with spondylodiscitis and posterior spinal fusion surgery", J neurosurg Spine. 24, pag. 965–970.
receiving patients
129. Byung-Gun Kim (2017), "A comparison of palonosetron and in dexamethasone for postoperative nausea and vomiting orthopedic epidural patient-controlled analgesia", Korean J Anesthesiol. 70(5), pag. 520-526.
130. Xiaofen Liu (2020), "Combination of post-fascia
iliaca compartment block and dexmedetomidine in pain and inflammation control after total hip arthroplasty for elder patients: a randomized control study", Journal of Orthopaedic Surgery and Research. 15(42), pag. 1-6.
131. Sanjay Mohanty (2016), "Optimal Perioperative Management of the Geriatric Patient: A Best Practices Guideline from the American College of Surgeons NSQIP and the American Geriatrics Society", Journal of the American College of Surgeons. 132. Shigeo Ohmura (2001), "Systemic Toxicity and Resuscitation in Bupivacaine-, Levobupivacaine-, or Ropivacaine-Infused Rats", Anesth Analg. 93, pag. 743–748.
133. Bogumił Olczak (2017), "Analgesic efficacy and safety of epidural oxycodone in patients undergoing total hip arthroplasty: a pilot study", Journal of Pain Research. 10, pag. 2303–2309. 134. Patil (2018), "Comparison of continuous epidural infusion of 0.125% ropivacaine with 1 mug/ml fentanyl versus 0.125% bupivacaine with 1 mug/ml fentanyl for postoperative analgesia in major abdominal surgery", J Anaesthesiol Clin Pharmacol. 34(1), pag. 29-34.
135. Stephen Petis (2015), "Surgical approach in primary total hip arthroplasty: anatomy, technique and clinical outcomes", J can chir. 58(2), pag. 128-139.
136. Jeroen vWink (2008), "The effect of a long-term epidural infusion of ropivacaine on CYP2D6 activity", Anesth Analg. 106, pag. 143-146.
137. Huan Yan (2016), "Comparison of local infiltration and epidural analgesia for postoperative pain control in total knee arthroplasty and total hip arthroplasty: A systematic review and meta- analysis", Bosn J Basic Med Sci. 16(4), pag. 239-246.
138. Furong Zhang (2017), "Effects of preoperative chronic hypoxemia on geriatrics outcomes after hip arthroplasty A hospital-based retrospective analysis study", Medicine. 96, pag. 15-19.