
1
MỞ ĐẦU
Bạch đàn (Eucalyptus) là một chi thuộc họ Sim (Myrtaceae) gồm 664
loài, có phân bố ở Australia, Indonesia, Philippine và Papua New Guinea
(Wang, G. and Yang, M., 1996). Các loài cây của chi này có khả năng thích
nghi với các lập địa khác nhau và đang được sử dụng để gây trồng rộng rãi ở
nhiều nước trên thế giới. Hàng trăm loài bạch đàn đã được khảo nghiệm ở
nhiều nước, song chỉ có ít loài và xuất xứ được chọn để trồng rừng trên diện
rộng (Davidson. J, 1998).
Tổng diện tích trồng bạch đàn trên Thế giới đến năm 1985 là 7 triệu
hecta thì đến năm 1988 là 10 triệu hecta, đến năm 2000 có thể là 16 triệu
hecta (Davidson, 1998). Hơn 100 nước trồng bạch đàn ở quy mô lớn. Các
vùng trồng nhiều là Châu Á Thái Bình Dương (trên 6 triệu hecta), Nam Mỹ
(4,5 triệu hecta), Châu Phi (1,6 triệu hecta). Hai nước có diện tích trồng bạch
đàn lớn nhất là Brazil (3,6 triệu hecta) và Ấn Độ (4,8 triệu hecta) (Davidson,
1998). Theo House thì khoảng 40% rừng trồng ở các nước nhiệt đới là các
loài cây có nguồn gốc từ Australia mà chủ yếu là bạch đàn (Davidson, 1998).
Trong chương trình trồng 5 triệu ha rừng ở Việt Nam thì nhóm loài
bạch đàn và keo chiếm tới 60% diện tích. Điều này nói nên vai trò và tầm
quan trọng của bạch đàn trong các chương trình trồng rừng của nước ta. Bạch
đàn là cây có nhiều ưu điểm, có khả năng thích nghi với nhiều điều kiện khí
hậu, đất đai, lại cho năng suất tương đối cao10-20m3/ha/năm trong khi đó
rừng nhiệt đới tự nhiên chỉ đạt 2-3m3/ha/năm) và rừng trồng bồ đề là10-
15m3/ha/năm (Thái Văn Trừng, 1980). Thực tế cho thấy việc chọn loài, xuất
xứ, chọn lập địa và các biện pháp kỹ thuật lâm sinh đều có ảnh hưởng rất lớn
đến năng suất rừng (FAO, 1979). Mặt khác, muốn trồng bạch đàn có hiệu quả
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the watermark