Luận văn thạc sỹ Tâm lý học
ĐỀ TÀI “ Nghiên cứu kỹ năng tổ chức trò
chơi toán học của học sinh Trường
Trung cấp Sư phạm Mầm non Thái Bình”
1
MỤC LỤC
Trang
1 Phần thứ nhất: Những vấn đề chung
1 Lý do chọn đề tài 2 Mục đích nghiên cứu 3 Đối tượng nghiên cứu 4 Khách thể nghiên cứu 5 Giả thuyết nghiên cứu 6 Nhiệm vụ của đề tài 7 Phạm vi nghiên cứu 8 Phương pháp nghiên cứu Phần thứ hai: Nội dung nghiên cứu 1 3 3 3 3 3 3 4 5
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài 5
Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề Trên thế giới ở Việt Nam Một số khái niệm cơ bản
1.1 1.1.1 1.1.2 1.2 1.2.1 Kỹ năng và các giai đoạn hình thành kỹ năng 1.2.1.1 Khái niệm kỹ năng 1.2.1.2 Các giai đoạn hình thành kỹ năng 1.2.1.3 Các cấp độ hình thành kỹ năng 1.2.2 Kỹ năng tổ chức 1.2.3 Biểu tượng toán học 1.2.4 1.2.5 1.3 5 5 8 10 10 10 12 13 15 19 21 22 24
1.4 26
1.5 28
Trò chơi Trò chơi toán học Đặc điểm nhận thức của giáo sinh trường trung học sư phạm mầm non Thái bình Đặc điểm nhận thức các biểu tượng toán học của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi Kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5 – 6 tuổi của giáo sinh trường trung học sư phạm mầm non Thái Bình
1.5.1 Khái niệm kỹ năng tổ chức trò chơi toán học 1.5.2 Quy trình tổ chức hướng dẫn trò chơi học tập 1.5.3 Quy trình hướng dẫn trò chơi toán học 1.5.4 Quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của 28 30 31 32
1.6 34
2
giáo sinh Các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của giáo sinh đang thực hiện Kết luận chương 1 42
Mẫu khách thể nghiên cứu Nội dung nghiên cứu 5 trò chơi toán học cho trẻ 5 – 6 tuổi
Chương 2: Tổ chức nghiên cứu 21. 2.2 2.2.1 2.2.2 Nội dung đánh giá thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán 43 43 43 44 49
học của giáo sinh
Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lý luận Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Tiến độ thời gian thực hiện đề tài
2.2.3 Nội dung thực nghiệm 2.2.3.1 Giả thuyết nghỉên cứu 2.3.2.2 Tổ chức thực nghiệm 2.3. 2.3.1 2.3.2 2.3.2.1 Phương pháp điều tra viết 2.3.2.2 Phương pháp quan sát 2.3.2.3 Phương pháp trò chuyện phỏng vấn 2.3.2.4 Phương pháp thực nghiệm 2.3.2.5 Phương pháp xử lý số liệu 2.4 Chương 3: Kết quả nghiên cứu 3.1 52 52 55 57 57 57 57 58 59 59 61 62 64 64
3.1.1 3.1.2 3.1.3 3.1.4 64 66 69 71
3.1.5 3.2 3.2.1 74 81 81
3.2.2 83
3.2.3 85
3.2.4 87
Thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5 – 6 tuổi của giáo sinh Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần nhận thức Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần thiết kế Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần kết cấu Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần thực hiện nhiệm vụ Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần giao tiếp Kết quả thực nghiệm So sánh kết quả trước thực nghiệm của 2 nhóm đối chứng và thực nghiệm So sánh kết quả trước và sau thực nghiệm của nhóm đối chứng So sánh kết quả trước và sau thực nghiệm của nhóm thực nghiệm So sánh kết quả sau thực nghiệm của nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm Kết luận chương 3
90 92 96 100
3
3.3 Kết luận và kiến nghị Tài liệu tham khảo Phụ lục
Lời cám ơn
Em xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong khoa Tâm lý học Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã dạy dỗ em trong suốt quá trình học
tập Cao học.
Em xin bày tò lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Sinh Phúc
người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và động viên em trong suốt quá
trình thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn các đồng nghiệp ở trường Trung cấp Sư phạm Mầm non
Thái Bình và các em học sinh của trường đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn thầy cô và gia đình, bạn bè thân thiết đã động viên và
giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tác giả
Nguyễn Thị Tuyết
4
Những chữ viết tắt trong luận văn
1. CSGD Chăn sóc giáo dục
2. ĐC Đối chứng
3. g giỏi
4. k kém
5. kh Khá
6. MG Mẫu giáo
7. tb Trung bình
8. TN Thực nghiệm
9. TCTH Trò chơi toán học
5
10. TCSP Trung cấp sư phạm
Lời cam đoan
Luận văn thạc sỹ Tâm lý học với đề tài “ Nghiên cứu kỹ năng tổ chức trò
chơi toán học của học sinh Trường Trung cấp Sư phạm Mầm non Thái
Bình” được tác giả nghiên cứu trên học sinh khoá 12 Trường Trung cấp Sư
phạm Mầm non Thái Bình.
Kết quả, số liệu nghiên cứu được trình bày trong luận văn là hoàn toàn
trung thực. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Những kết
quả nghiên cứu này chưa từng được công bố trong bất cứ một công trình khoa
học nào.
Nguyễn Thị Tuyết
6
Người cam đoan
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do lý luận
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo là những yếu tố đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của con
người. Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động được trang bị trong quá
trình giáo dục nghề nghiệp. Điều 33 của Luật giáo dục năm 2005 nêu rõ “Mục
tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý
thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho
người lao động có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học tập
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
– xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Trung cấp chuyên nghiệp nhằm đào
tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng thực hành cơ bản của một nghề, có
khả năng làm việc độc lập và có tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công
việc”(trang 79-80). Trong thực tế, ở bất cứ lĩnh vực nào, khi đào tạo con
người lao động, không những phải quan tâm tới trang bị kiến thức mà còn
phải tạo cho họ một kỹ năng làm việc. Mỗi ngành, mỗi việc có những kỹ năng
riêng.Trong lĩnh vực đào tạo sư phạm, bất kỳ một quá trình dạy học nào đều
dẫn đến câu hỏi “Chúng ta cần dạy cái gì hoặc cần học cái gì ?. Chúng ta cần
dạy lý thuyết gì ?; Cần dạy kỹ năng gì ?; Cái gì thuộc về thái độ ?”. Hành
trang của các thầy cô giáo tương lai là tri thức, kỹ năng và thái độ, kỹ năng ở
đây là kỹ năng giảng dạy và kỹ năng tổ chức các hoạt động. Tri thức và thái
độ là những lĩnh vực đã được rất nhiều người nghiên cứu còn kỹ năng từ lâu
đã được nhiều nhà tâm lý học và giáo dục học quan tâm, nhưng đến nay đề
7
tài về kỹ năng vẫn còn rất khiêm tốn so với các loại đề tài khác, đặc biệt là kỹ
năng tổ chức các hoạt động, các trò chơi ở ngành học mầm non chưa được
nghiên
cứu nhiều.
Trong lĩnh vực giáo dục mầm non, không một nhà nghiên cứu nào bỏ
qua vấn đề hoạt động chơi của trẻ, tất cả đã khẳng định rằng hoạt động chơi là
hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi mầm non. Nhà giáo dục học nổi tiếng A.X.
Macarencô nhấn mạnh ý nghĩa đặc biệt của trò chơi. Ông nhìn nhận trò chơi ở
nhiều khía cạnh khác nhau và trước tiên là trong việc chuẩn bị cho đứa trẻ
bước vào cuộc sống, vào hoạt động lao động. Theo ông trò chơi có ý nghĩa
lớn trong cuộc sống đứa trẻ. Đứa trẻ trong trò chơi như thế nào nó sẽ như thế
trong công việc sau này khi lớn lên. Trong giai đoạn hiện nay các nhà giáo
dục học mầm non đều đã đi đến thống nhất và khẳng định rằng: trong trò chơi
bộc lộ khả năng tư duy, tưởng tượng, tình cảm, tính tích cực, nhu cầu giao
tiếp, tính đoàn kết, kỷ luật... Trò chơi là xã hội thu nhỏ của trẻ. Trong khi chơi
trẻ vừa sáng tạo, vừa học hỏi, vừa củng cố kiến thức đã lĩnh hội trước đó.
1.2. Lý do thực tiễn
Là nơi đào tạo ra giáo viên mầm non tương lai, vấn đề rèn kỹ năng cho
học sinh là vấn đề then chốt của các trường sư phạm mầm non. Trong các tổ
hợp kỹ năng sư phạm thì kỹ năng tổ chức trò chơi là kỹ năng rất quan trọng
đối với các cô giáo mầm non tương lai vì giáo dục trẻ mầm non luôn đứng
trên quan điểm “Học bằng chơi, chơi mà học” .
Qua nhiều năm giảng dạy môn “Phương pháp hướng dẫn hình thành
biểu tượng toán ban đầu cho trẻ mầm non “, qua các buổi kiến tập, thực tập ở
các trường mầm non chúng tôi thấy các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của
học sinh còn yếu. Do vậy cần phải có những biện pháp tâm lý-giáo dục nhằm
góp phần nâng cao và hoàn thiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho học
8
sinh.
Xuất phát từ các lý do trên chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu kỹ năng
tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5-6 tuổi của học sinh trường TCSP mầm non
9
Thái Bình”
2 . Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và một số biện pháp nhằm hình
thành, nâng cao, hoàn thiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5-6 tuổi
3 . Đối tượng nghiên cứu
của học sinh trường TCSP mầm non Thái Bình .
Các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5-6 tuổi của học sinh trường
trung cấp sư phạm mầm non Thái Bình.
4. Khách thể nghiên cứu
107 học sinh hệ 12+2 khoá 2004 – 2006 là khách thể chính
27 giáo viên trường TCSP mầm non Thái Bình và giáo viên mầm non ở các
trường mầm non có học sinh thực tập
500 trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi 5. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình đào tạo, nếu học sinh được trang bị đầy đủ, có hệ thống
kiến thức về kỹ năng tổ chức trò chơi toán học và được các giáo viên sư
phạm, thực hành kiểm tra đều đặn thì sẽ thu được kết quả là học sinh có khả
năng tổ chức tốt trò chơi toán học, tạo cho trẻ hứng thú toán học cao.
6. Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát hoá những vấn đề lý luận về kỹ năng, kỹ năng tổ chức, kỹ năng tổ
chức trò chơi toán học, trò chơi, trò chơi toán học, biểu tượng toán.
- Điều tra thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5 – 6 tuổi của
học sinh trường TCSP mầm non Thái Bình
- Áp dụng một số biện pháp hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho
trẻ 5 –6 tuổi của học sinh trường TCSP mầm non Thái Bình .
7. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu ở học sinh, giáo viên trường TCSP mầm non
10
Thái Bình và giáo viên mầm non, trẻ 5-6 tuổi ở tỉnh Thái Bình
8. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ đề tài, sử dụng hệ thống các phương pháp sau :
8.1: Phương pháp nghiên cứu tài liệu
8.2: Phương pháp điều tra viết
8.3: Phương pháp quan sát
8.4: Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn
8.5: Phương pháp thực nghiệm : Đề tài đưa ra giả thuyết
“Nếu học sinh được trang bị các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học một
cách có hệ thống và được bồi dưỡng quy trình tổ chức trò chơi toán học
trước khi đi thực tập tốt nghiệp thì kết quả tổ chức trò chơi toán học ở
học sinh và trẻ được nâng lên “.
8.6: Các kết quả được xử lý bằng phương pháp thống kê toán học. - Sử dụng công thức tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, hệ số tương
quan, hệ số khác biệt giữa các nhóm đại lượng.
11
- Số liệu được tính bằng phần mềm Exell
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới :
Ngay từ khi xuất hiện loài người, con người đã biết truyền những kinh
nghiệm lao động của mình từ thế hệ này cho thế hệ sau. Lúc đầu, khi hình
thức lao động còn thô sơ, người lớn trực tiếp truyền kinh nghiệm của mình
cho trẻ trong quá trình lao động cùng nhau. Sau dần, khi công cụ lao động
phức tạp dần lên, trẻ không thể trực tiếp tham gia vào quá trình lao động,
người lớn đã làm những đồ dùng thu nhỏ giống như công cụ lao động để cho
trẻ luyện tập. Như vậy, việc rèn kỹ năng lao động xuất hiện cùng với lịch sử
xuất hiện loài người. Tầm quan trọng của kỹ năng lao động đã được nhiều nhà
triết học cổ đại đề cập đến. Nhà bác học lỗi lạc Hy Lạp cổ đại Arixtốt trong
cuốn “Bàn về tâm hồn” cuốn sách đầu tiên của loài người về tâm lý học đã
đặc biệt quan tâm đến phẩm hạnh của con người. Theo ông, nội dung của
phẩm hạnh đó là “ Biết định hướng, biết làm việc, biết tìm tòi “Có nghĩa là
con người có phẩm hạnh là con người phải có kỹ năng làm việc [21]. Vấn đề
kỹ năng còn được nhiều nhà triết học Phương Tây và Trung Hoa cổ đại
nghiên cứu, nhưng được nghiên cứu nhiều nhất là từ khi ngành tâm lý học ra
đời.
Nhìn tổng thể, việc nghiên cứu kỹ năng được xuất phát từ hai quan
điểm trái ngược nhau, đó là:
- Nghiên cứu kỹ năng trên cơ sở của tâm lý học hành vi mà đại diện là các
nhà tâm lý học như: J.B. Oatsơn; B.F. Skinnơ... Họ nghiên cứu chủ yếu các
hành vi và kỹ năng của động vật từ đó suy ra các hành vi và kỹ năng của con
người.
12
- Nghiên cứu kỹ năng trên cơ sở hoạt động mà đại diện là các nhà tâm lý học
Liên Xô. Điểm qua lịch sử nghiên cứu kỹ năng của các nhà tâm lý học, giáo
dục học Xô Viết cho thấy có hai hướng chính sau:
Hướng thứ nhất: Nghiên cứu kỹ năng ở mức độ khái quát, đại cương.
Đại diện cho hướng nghiên cứu này có các tác giả: A.G. Côvaliôv; V.X.
Kyzin; A.V. Pêtrôvxki... Các tác giả này đi sâu nghiên cứu bản chất khái niệm
kỹ năng, các quy luật hình thành và mối liên hệ giữa kỹ năng, kỹ xảo [4].
Hướng thứ hai: Nghiên cứu kỹ năng ở mức độ cụ thể trong các lĩnh vực
khác nhau, chẳng hạn: - Trong lĩnh vực lao động công nghiệp: V.V. Tsebưseva; K.K. Platônôv.
Các tác giả nghiên cứu kỹ năng trong mối quan hệ giữa con người với
máy móc, công cụ, phương tiện lao động [25].
- Trong lĩnh vực hoạt động sư phạm, hoạt động lao động có các tác phẩm
của các tác giả như: N.D. Lêvitôv; X.I. Kixegôv; G.X.Kaxchuc [12]. - Trong lĩnh vực hoạt động tổ chức sư phạm được đề cập trong các nghiên
cứu của N.V. Kuzmina ; L.T. Tiuptia... [35]
Mặc dù các hướng nghiên cứu khác nhau nhưng nhìn chung, các tác giả
không có những quan điểm trái ngược nhau về khái niệm kỹ năng mà những
quan điểm đó thường bổ sung cho nhau.
Về hoạt động tổ chức và kỹ năng tổ chức được nhiều tác giả chú ý tới.
Đầu thế kỷ XX, F.W. Taylo cùng các đồng sự cho rằng tổ chức càng hoạch
định, và thực hiện càng hợp lý bao nhiêu thì càng có khả năng phát triển để
tạo lên hiệu quả bấy nhiêu và kết quả là sản xuất phát triển. Quan điểm này
cho ta thấy vai trò của việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch trong hoạt
động tổ chức.
Người đặt nền móng cho việc nghiên cứu hoạt động tổ chức và kỹ năng
tổ chức là nhà giáo dục học nổi tiếng L.I. Umanxki. Ông đã nêu rõ khái niệm
tổ chức, chỉ rõ cấu trúc hoạt động tổ chức trong tác phẩm “Tâm lý và giáo dục
13
của công tác tổ chức“. Kết quả nghiên cứu của ông được vận dụng cho việc
nghiên cứu hoạt động tổ chức, kỹ năng tổ chức trong các lĩnh vực khác nhau
[39].
N.V. Kuzmina đưa ra cấu trúc tâm lý hoạt động của người giáo viên,
trong đó bà cho rằng “Hoạt động tổ chức là thành phần tất yếu trong hoạt
động sư phạm“. Tác giả đã đề cập đến kỹ năng tổ chức với tư cách là hoạt
động độc lập tương đối. Hoạt động tổ chức bao gồm nhiều khâu, nhiều giai
đoạn, là hoạt động chuyên biệt của người đứng đầu tập thể nhưng không tách
khỏi các hoạt động khác như lao động, học tập do tập thể tiến hành. Tác giả
đã nghiên cứu kỹ năng tổ chức các hoạt động của sinh viên và chỉ ra một số
kỹ năng chủ đạo trong hệ thống kỹ năng tổ chức [35]. Về hoạt động tổ chức
cũng như kỹ năng tổ chức còn được nhiều tác giả quan tâm như: B.M. Teplôv;
N.D. Lêvitôv; A.I. Serbacôv ....
Trò chơi có ngay từ thời cổ đại. Các nhà triết học đã nhìn thấy vai trò
của trò chơi trẻ em. Một trong những nhà triết học lớn nhất thời cổ đại là
Platon khi phân chia các giai đoạn trong hệ thống giáo dục đã cho rằng, trẻ từ
3- 4 tuổi được giáo dục tại gia đình, trẻ chơi những trò chơi cùng nhau dưới
sự hướng dẫn của phụ nữ. Ông khuyên “Đừng ép buộc, cưỡng bức dạy trẻ nhỏ
những kiến thức khoa học mà thông qua trò chơi, khi đó anh dễ nhìn thấy trẻ
hướng về cái gì”.
Quan điểm bản chất xã hội của trò chơi, người đầu tiên đưa ra quan
điểm này là nhà triết học người Đức V. Vunt. Ông viết: “Trò chơi đó là lao
động của trẻ nhỏ, không có một trò chơi nào lại không có trong mình một
nguyên mẫu, một dạng lao động nghiêm túc”[2].
G.V. Plêkhanôv đã khẳng định trò chơi xuất hiện trước lao động và trên
cơ sở của lao động. Ông cho rằng trò chơi là một hoạt động phản ánh, thông
qua trò chơi, trẻ có thể lĩnh hội những kỹ năng lao động, thói quen và các
14
nguyên tắc ứng xử của người lớn trong xã hội. Từ đó, ông đi đến kết luận:
“Trò chơi mang bản chất xã hội, nó xuất hiện để đáp ứng với xã hội mà trẻ
đang sống và nhu cầu được trở thành thành viên tích cực của xã hội đó” [2].
Người có công lớn đặt nền móng cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu trò
chơi là nhà tâm lý học Xô Viết L.X.Vưgôtxki. Ông đã khởi xướng xây dựng
một học thuyết mới về tâm lý học trẻ em nói chung và về trò chơi nói riêng.
Những luận điểm cơ bản trong học thuyết Vưgôtxki về trò chơi bao gồm
những vấn đề sau [33]:
- Khẳng định bản chất xã hội và tính hiện thực của trò chơi trẻ em. - Khẳng định vai trò trung tâm của trò chơi trẻ em đối với sự phát triển
tâm lý trẻ.Trò chơi chính là động lực phát triển và tạo ra “vùng phát triển
gần”.
- Trò chơi trẻ em không nảy sinh một cách tự phát mà do ảnh hưởng có ý
thức và không có ý thức từ phía người lớn xung quanh.
- Sự cần thiết phải vận dụng phương pháp phân tích, xác định “cấu trúc
đơn vị” của C.Mác vào nghiên cứu các chức năng tâm lý, trong đó có
việc nghiên cứu trò chơi.
- Không nên dừng lại ở nghiên cứu quan sát mà cần thiết phải tổ chức các
nghiên cứu thực nghiệm về trò chơi.
Đây là những luận điểm rất quan trọng cho việc hình thành hệ thống giáo dục
mầm non của Liên Xô những năm trước đây [28].
Như vậy trên thế giới vấn đề kỹ năng tổ chức trò chơi đã có từ rất sớm và
ngày càng được nhiều người quan tâm, nghiên cứu . Hướng mới nhất hiện
nay các nhà nghiên cứu đang chú trọng đến là hoàn thiện các kỹ năng tổ
chức những trò chơi đa dạng mang tính tích hợp các môn học để tạo cho
trẻ nhỏ những hứng thú nhận thức trong quá trình chơi.
1.1.2. Ở Việt Nam
Vấn đề nghiên cứu kỹ năng đã được các nhà tâm lý học quan tâm nhiều.
15
Nguyễn Đức Minh và các cộng sự đã đưa ra 87 kỹ năng giảng dạy của người
giáo viên trong cuốn “Một số vấn đề tâm lý học sư phạm và lứa tuổi học sinh
Việt Nam”- Nhà xuất bản giáo dục 1975 [12].
Nghiên cứu kỹ năng lao động có Trần Trọng Thuỷ, Đỗ Huân, Vũ Hữu ..
Nghiên cứu kỹ năng sư phạm có các tác giả Nguyễn Như An, Nguyễn Quang
Uẩn, Ngô Công Hoàn ...
Lê Văn Hồng và các cộng sự đã đưa ra các giai đoạn hình thành kỹ năng của
học sinh phổ thông [7]
Nghiên cứu kỹ năng tổ chức trò chơi có các tác giả như : Trần Quốc Thành
với đề tài “Kỹ năng tổ chức trò chơi của chi đội trưởng chi đội thiếu niên tiền
phong Hồ Chí Minh”. Hoàng Thị Oanh với đề tài “ Kỹ năng tổ chức trò chơi
phân vai có chủ đề cho trẻ 3 – 4 tuổi, 5 – 6 tuổi của sinh viên trường cao đẳng
nhà trẻ – mẫu giáo [17,18].
Nghiên cứu kỹ năng giao tiếp có Nguyễn Thạc, Hoàng Anh ...
Trong lĩnh vực giáo dục mầm non đã có nhiều công trình nghiên cứu về trò
chơi. Điển hình là các tác giả với các tác phẩm sau:
Nguyễn Thị Ngọc Chúc với tác phẩm “ Hướng dẫn tổ chức hoạt động
vui chơi “ [2]. Tác giả đã đề cập đến các loại trò chơi, mức độ các mối quan
hệ trong trò chơi. Đó là: chơi không có tổ chức, chơi một mình, chơi cạnh
nhau, chơi với nhau trong một thời gian ngắn, chơi với nhau lâu trên cơ sở
hứng thú với nội dung chơi. Tác giả đã khẳng định kết quả của 2 mức độ cuối
phụ thuộc vào kỹ năng hướng dẫn trẻ chơi của mỗi giáo viên [2].
Các công trình nghiên cứu của Nguyễn Ánh Tuyết với rất nhiều tác
phẩm như: “Giáo dục trẻ mẫu giáo trong nhóm bạn bè“; “Tâm lý học trẻ em
trước tuổi đi học“; “Tâm lý học trẻ em“ ... Tác giả đã phân tích rất cụ thể bản
chất xã hội của trò chơi, cấu trúc, đặc điểm hoạt động chơi của trẻ [29,30].
Đặc biệt các công trình nghiên cứu của Hoàng Thị Oanh về kỹ năng tổ
chức trò chơi đóng vai có chủ đề của sinh viên trường cao đẳng nhà trẻ –mẫu
16
giáo, tác giả đã thử nghiệm và đi đến kết luận “Để tổ chức tốt trò chơi đóng
vai có chủ đề cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi và 4-5 tuổi học sinh phải có tối thiểu
20 kỹ năng”. Để tổ chức tốt trò chơi đóng vai có chủ đề cho trẻ 5-6 tuổi học
sinh cần có tối thiểu 28 kỹ năng [17,18]. Đối với trò chơi toán học đã có một
số công trình nghiên cứu như:
- “Tìm hiểu biểu tượng số học ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi “ của Lê Thị Hài [6].
- “Một số biện pháp tổ chức trò chơi học tập nhằm hình thành biểu tượng
về thiên nhiên cho trẻ mẫu giáo lớn“ của Lê Bích Ngọc [15].
Các công trình trên nghiên cứu hệ thống và tỷ mỷ sự hình thành các biểu
tượng toán học, các tác giả cũng đã khẳng định rằng việc hình thành và củng
cố biểu tượng toán qua trò chơi toán học là rất có ý nghĩa trong quá trình cho
trẻ làm quen với biểu tượng toán sơ đẳng.
Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu về trò chơi học tập,
nghiên cứu việc hình thành các biểu tượng toán cho trẻ của các trường trung
học sư phạm mầm non và các trường cao đẳng nhà trẻ – mẫu giáo ở cả 2 miền
Nam Bắc.
Như vậy việc nghiên cứu kỹ năng tổ chức trò chơi cho trẻ mầm non ở
Việt Nam đã có nhiều. Mỗi tác giả nghiên cứu một hướng khác nhau nhưng
tất cả đề hướng đến mục đích là khẳng định bản chất của trò chơi, các quy
trình hướng dẫn trẻ chơi, những biện pháp hướng dẫn trò chơi. Còn các kỹ
năng tổ chức trò chơi cho trẻ mầm non của sinh viên được nghiên cứu bài bản
nhất là của Hoàng Thị Oanh còn kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của sinh
viên thì đến nay vẫn còn rất ít. Chính vì thế việc nghiên cứu vấn đề này càng
trở lên cần thiết góp phần vào việc đào tạo nghề cho giáo viên mầm non
tương lai, đáp ứng đòi hỏi thực tiễn của nước ta hiện nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Kỹ năng và các giai đoạn hình thành kỹ năng
17
1.2.1.1. Khái niệm kỹ năng
Trong tâm lý học có nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng
Tác giả A.V. Krutexki cho rằng “Kỹ năng là các phương thức thực hiện
hoạt động, những cái mà con người đã nắm vững“. Theo ông chỉ cần nắm
vững phương thức hành động là con người đã có kỹ năng, không cần đến kết
quả của hành động [31] .
Tác giả K.K. Platônôv và G.G. Gôlubev khẳng định: “Kỹ năng là khả
năng của con người thực hiện một hoạt động bất kỳ nào đó hay các hành động
trên cơ sở kinh nghiệm cũ” [31].
Tác giả Trần Trọng Thuỷ viết: Kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động, con
người nắm vững cách thức hành động tức là nắm vững kỹ thuật hành động là
có kỹ năng [25].
Theo tác giả Đào Thị Oanh thì kỹ năng là phương thức vận dụng tri thức
vào hoạt động thực hành đã được củng cố [16].
Tác giả Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng cho rằng: Kỹ
năng là khả năng vận dụng kiến thức (khái niệm, cách thức, phương pháp ...)
để giải quyết một nhiệm vụ mới [7].
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết định nghĩa: Kỹ năng là năng lực của con người
biết vận dụng các thao tác của một hành động theo quy trình đúng đắn [28].
Còn trong “Từ điển tiếng Việt” thì khái niệm kỹ năng được nhìn nhận như
sau “Kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn“ [23]
Như vậy kỹ năng có rất nhiều quan điểm khác nhau, tổng kết lại ta thấy có
2 quan niệm về kỹ năng như sau:
- Quan niệm thứ nhất: kỹ năng được xem xét nghiêng về mặt kỹ thuật của
thao tác hay hành động, hoạt động. Đó là các quan niệm của V.A.
Krutexki, Trần Trọng Thuỷ....
- Quan niệm thứ hai: kỹ năng được xem xét nghiêng về năng lực của con
người. Theo quan niệm này, kỹ năng vừa có tính ổn định, vừa có tính
18
mềm dẻo, tính linh hoạt, tính sáng tạo và tính mục đích. Đại diện cho
quan niệm này là các tác giả như: K.K. Platônôv, Nguyễn Quang Uẩn,
Ngô Công Hoàn, Nguyễn Ánh Tuyết ...
Về thực chất, hai quan niệm trên không phủ nhận nhau mà chỉ có khác nhau ở
chỗ mở rộng hay thu hẹp thành phần cấu trúc của kỹ năng cũng như đặc tính
của chúng .
1.2.1.2. Các giai đoạn hình thành kỹ năng
Theo K.K. Platônôv thì sự hình thành kỹ năng diễn ra theo 5 giai đoạn và
theo ông đây cũng chính là 5 mức độ hình thành kỹ năng.
- Giai đoạn 1: giai đoạn có kỹ năng sơ đẳng.
Ở giai đoạn này, con người ý thức được mục đích hành động và tìm kiếm
cách thức hành động dựa trên vốn hiểu biết và kỹ xảo đời thường, hành động
được thực hiện bằng cách thử và sai .
- Giai đoạn 2: giai đoạn biết cách làm nhưng không đầy đủ.
Ở giai đoạn này, con người có hiểu biết về cách thức thực hiện hành động,
sử dụng các kỹ xảo đã có nhưng không phải là kỹ xảo chuyên biệt dành cho
hoạt động này.
- Giai đoạn 3: giai đoạn có những kỹ năng chung mang tính chất riêng lẻ.
Ở giai đoạn này, con người có hành loạt kỹ năng phát triển cao nhưng còn
mang tính chất riêng lẻ, các kỹ năng này cần thiết cho các dạng hoạt động
khác nhau. Ví dụ như: kỹ năng kế hoạch hoá hoạt động, kỹ năng tổ chức hoạt
động v.v...
- Giai đoạn 4: giai đoạn có kỹ năng phát triển cao.
Ở giai đoạn này, con người biết sử dụng sáng tạo vốn hiểu biết và kỹ xảo,
đã có ý thức được không chỉ mục đích hành động mà cả động cơ lựa chọn
cách thức đạt mục đích.
- Giai đoạn 5: giai đoạn có tay nghề.
Ở giai đoạn này, con người biết sử dụng một cách sáng tạo đầy triển vọng
19
các kỹ năng khác nhau [38]
Lê Văn Hồng và cộng sự đưa ra 3 giai đoạn hình thành kỹ năng học tập cho
học sinh như sau :
- Giai đoạn 1: học sinh biết cách tìm tòi để nhận xét ra yếu tố đã cho, yếu tố
phải tìm và quan hệ giữa chúng.
- Giai đoạn 2: học sinh hình thành một mô hình khái quát để giải quyết các
bài tập, các đối tượng cùng loại .
- Giai đoạn 3: xác định được mô hình khái quát và các kiến thức tương ứng
[7]. Hoàng Thị Oanh cho rằng kỹ năng được hình thành theo 4 giai đoạn sau
- Giai đoạn 1: giai đoạn nhận thức
- Giai đoạn 2: giai đoạn làm thử
- Giai đoạn 3: giai đoạn kỹ năng bắt đầu hình thành
- Giai đoạn 4 : giai đoạn kỹ năng được hoàn thiện [17].
1.2.1.3. Các cấp độ hình thành kỹ năng
Kỹ năng được hình thành theo các cấp độ từ thấp đến cao, từ yếu, kém ở giai
đoạn nhận thức đến giỏi ở giai đoạn hoàn thiện kỹ năng. Nhiều người ở giai
đoạn hoàn thiện kỹ năng, nếu có năng khiếu kết hợp với sự chăm chỉ luyện
tập thì đã có kỹ xảo.
B.Bloom đã đưa ra 6 cấp độ phân loại của việc hình thành kỹ năng như
sau [40] :
Cấp độ 1: Nhớ lại.
Là biết ghi nhớ các tài liệu đã học. Cấp độ này bao gồm việc hồi tưởng lại
nhiều dữ liệu khác nhau, từ các dữ liệu thực tế tới các giả thiết hoàn chỉnh,
những gì cần làm là nhớ lại những thông tin phù hợp có liên quan.
Cấp độ 2: Hiểu
Là khả năng nắm bắt nội dung và ý nghĩa của tài liệu. Cấp độ này có thể
được thể hiện dưới hình thức diễn giải tài liệu bằng các phương tiện ngôn ngữ
khác nhau, bằng cách giải thích tài liệu và đánh giá các tài liệu.
20
Cấp độ 3: Áp dụng
Là khả năng ứng dụng các kiến thức và tài liệu đã đọc vào các tình huống cụ
thể.
Cấp độ 4: Phân tích
Là khả năng mổ xẻ các tài liệu thành các bộ phận hoặc từng phần nhỏ để có
thể hiểu được cấu trúc của tài liệu hoặc sự cấu thành của một vấn đề.
Cấp độ 5: Tổng hợp
Là khả năng tập hợp các thành viên, bộ phận, ý kiến để tạo lên một tổng thể
mới. Bao gồm việc tạo ra một thông tin độc đáo, một kế hoạch hoạt động
hoặc
đúc kết các mối quan hệ có liên quan. Ở mức độ này đòi hỏi sự sáng tạo.
Cấp độ 6: Đánh giá
Là khả năng xác định giá trị của tài liệu theo mức nhất định. Sự đánh giá phải
dựa trên các tiêu chí nhất định.
Là những người giáo viên sư phạm, nhiệm vụ là đào tạo ra các thầy cô
giáo để dạy trẻ em ở nhà trẻ, mẫu giáo nên theo chúng tôi thì vừa phải xem kỹ
năng là kỹ thuật thực hiện các thao tác của hoạt động nhưng cũng phải quan
tâm đến kết quả thực hiện các thao tác đó. Kỹ năng được xem xét như một
năng lực, một vốn quý của con người và kỹ năng ở mỗi người một khác nhau
.
Từ những nội dung đã trình bày ở trên theo chúng tôi: Kỹ năng là khả
năng vận dụng, thực hiện có kết quả các thao tác, hành động của từng
người theo một quy trình nhất định. Kỹ năng của mỗi người được hình
thành và hoàn thiện theo từng giai đoạn. Theo chúng tôi có 4 giai đoạn
hình thành kỹ năng sau:
1- Giai đoạn nhận thức:
Là giai đoạn con người nhận thức đầy đủ mục đích, cách thức, điều kiện hành
động. Ở giai đoạn này người ta chỉ nắm lý thuyết, chưa hành động thực sự.
21
Việc nắm lý thuyết cần thiết có thể do tự học hoặc do người khác hướng dẫn.
Giai đoạn này rất quan trọng bởi vì nếu không xác định mục đích sẽ không có
hướng hành động được. Để hành động kết quả con người phải hiểu được các
điều kiện cần thiết với hành động đó.
2- Giai đoạn làm thử:
Là giai đoạn bắt đầu hành động. Có thể người ta hành động theo mẫu trên cơ
sở đã nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức, điều kiện hành động. Có thể
người ta từ từ hành động theo hiểu biết của mình. Ở giai đoạn này hành động
vẫn còn nhiều sai sót, các thao tác còn lúng túng, hành động có thể đạt kết quả
ở mức thấp hoặc có thể không đạt kết quả.
3- Giai đoạn kỹ năng bắt đầu hình thành:
Ở giai đoạn này, người ta có thể hành động độc lập, ít sai sót, các thao tác
thuần thục hơn, hành động đạt kết quả trong những điều kiện quen thuộc.
4- Giai đoạn kỹ năng được hoàn thiện:
Là giai đoạn hành động thực hiện có kết quả không chỉ trong điều kiện
quen thuộc mà cả trong những điều kiện khác nhau, các thao tác thuần thục,
hành động thực hiện có sáng tạo.
4 giai đoạn hình thành kỹ năng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phải
được thực hiện từ giai đoạn 1 đến giai đoạn 4. Sự hình thành kỹ năng không
phải ngay một lúc mà nó tiến triển theo từng mức độ từ thấp đến cao.
1.2.2. Kỹ năng tổ chức
Trong “Từ điển tiếng Việt” tổ chức là sắp xếp các bộ phận cho ăn nhịp
với nhau để toàn bộ là một cơ cấu nhất định [23]
Nhà tâm lý học L.I. Umanxki đưa ra khái niệm: “Tổ chức nghĩa là làm
cho một tập hợp, một hiện tượng, một quá trình nào đó trở thành một hệ
thống, là sự sắp xếp các bộ phận thành một trình tự nhất định có quan hệ qua
lại với nhau”. Ông đã đưa ra cấu trúc của hoạt động tổ chức gồm 9 bước như
sau [39]:
22
1. Nắm vững nhiệm vụ
2. Tính toán khả năng của các thành viên trong tập thể 3. Xác định phương tiện và điều kiện hành động 4. Vạch kế hoạch 5. Phổ biến công việc và giao nhiệm vụ 6. Xác định các mối quan hệ lẫn nhau trong tập thể 7. Lập các mối quan hệ với bên ngoài 8. Thực hiện nhiệm vụ 9. Tổng kết, đánh giá
N.V. Kuzmina đặc biệt nghiên cứu sâu về hoạt động tổ chức của nhà sư phạm
bà đã nêu ra cấu trúc hoạt động tổ chức gồm 5 thành phần:
1. Thành phần nhận thức 2. Thành phần thiết kế 3. Thành phần kết cấu 4. Thành phần giao tiếp 5. Thành phần tổ chức
Muốn hoạt động tổ chức đạt kết quả, nhà tổ chức phải nắm vững và thực hiện
tốt các hành động trong 5 thành phần trên của hoạt động tổ chức. Có nghĩa là
nhà tổ chức phải có các kỹ năng tổ chức [34].
L.I. Umanxki cho rằng “ Kỹ năng tổ chức là khả năng của người tổ chức làm
việc có hiệu quả trong các tình huống khác nhau” [39]
N.V. Kuzmina đã đưa ra cấu trúc 5 thành phần chức năng của kỹ năng tổ chức
là:
1-Thành phần nhận thức :
Bao gồm những hành động có liên quan đến việc tích luỹ các tri thức mới
về mục đích giáo dục và phương tiện đạt được nó; về tình trạng của khách thể
và chủ thể của các tác động sư phạm. Thành phần này cũng bao gồm các kỹ
năng tìm tòi tri thức từ các nguồn khác nhau. Có thể nói đến một số kỹ năng
23
cụ thể sau:
- Biết nghiên cứu nội dung và phương pháp tác động đến người khác. - Biết tìm hiểu những đặc điểm lứa tuổi và loại hình cá thể của người đó. - Biết tìm hiểu đặc điểm quá trình và kết quả hoạt động của bản thân, nhận
ra những ưu điểm và khuyết điểm trong hoạt động của mình.
2-Thành phần thiết kế
Bao gồm những hành động có liên quan tới việc quy hoạch tối ưu các
nhiệm vụ được giao (những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài) và cách giải quyết
chúng trong hoạt động tương lai của nhà sư phạm hướng vào việc đạt được
các mục đích muốn tìm. Có thể nêu ra các kỹ năng sau:
- Biết dự kiến các hoạt động của người học. - Biết xây dựng kế hoạch giáo dục và giảng dạy trong suốt cả một thời kỳ
công tác nhất định với người học có chú ý tới triển vọng và kết quả của
kế hoạch này.
- Biết thiết kế các biện pháp tác động giáo dục hứng thú học tập và hứng
thú nghề nghiệp của người học.
- Biết xây dựng các biện pháp kiểm tra, đánh giá hoạt động học tập độc
lập của người học.
3- Thành phần kết cấu
Bao gồm các hành động có liên quan tới việc lựa chọn sắp xếp nội dung
thông tin học tập và giáo dục trong bài giảng, xemina và các biện pháp khác.
Thành phần này cũng xác định đặc điểm hoạt động của bản thân nhà giáo dục
và người học theo các nội dung nói trên. Nó cũng được biểu hiện ở một số kỹ
năng cơ bản sau:
- Biết lựa chọn và sắp xếp nội dung thông tin mà người học cần phải đạt
được.
- Dự kiến các hoạt động của người học mà qua đó họ sẽ lĩnh hội được những
24
thông tin cần thiết.
- Dự kiến các hoạt động và hành vi của bản thân nhà sư phạm sẽ phải như
thế nào trong quá trình tác động qua lại với người học.
4 - Thành phần giao tiếp
Bao gồm những hành động liên quan tới việc hình thành mối quan hệ hợp
lý có tính chất giáo dục giữa người cán bộ giảng dạy với người học tuân theo
mục đích giáo dục. Nó bao gồm những kỹ năng sau:
- Biết thiết lập mối quan hệ qua lại đúng đắn với các chủ thể khác mà nhà
giáo dục cần tác động.
- Biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn với người lãnh đạo (theo chiều
dọc) và các đồng nghiệp (theo chiều ngang) trong hệ thống giáo dục. - Biết phối hợp hoạt động của mình với nhiệm vụ quốc gia được đề ra
cho
người lãnh đạo với tư cách là một công dân thực hiện nhiệm vụ đó.
5- Thành phần tổ chức
Bao gồm các hoạt động thực tiễn tư tưởng giáo dục để tổ chức cụ thể mối
quan hệ giữa chủ thể và khách thể của các tác động sư phạm. Hoạt động của
chủ thể và khách thể phải tuân theo thời gian và không gian phù hợp với hệ
thống các nguyên tắc và thời gian biểu mà quá trình giáo dục cần phải thoả
mãn để hướng vào việc đạt các kết quả giáo dục. Trong thành phần cũng được
thể hiện ở những kỹ năng cơ bản sau:
- Biết tổ chức thông tin trong quá trình thông báo cho người nghe.
- Biết tổ chức các loại hoạt động của người học sao cho kết quả phù hợp
với mục đích đề ra.
- Biết tổ chức hoạt động và hành vi của mình trong quá trình tác động qua
lại trực tiếp với người học.
Các thành phần chức năng nói trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và
25
chung cho tất cả những người tham gia vào hệ thống giáo dục. Trong các
thành phần trên thì thành phần nhận thức là cái trục độc đáo trong 5 thành
Nhận thức
phần cấu trúc tâm lý của hoạt động sư phạm [24].
Thiết kế Giao tiếp Kết cấu
Tổ chức
H1. Sơ đồ mối quan hệ lẫn nhau giữa các thành phần kỹ năng tổ chức của
N.V. Kuzmina [24]
N.V. Kuzmina đã đưa ra sơ đồ về mối quan hệ lẫn nhau giữa các thành
phần chức năng của kỹ năng tổ chức như được trình bày trong H1.
Từ những nội dung đã trình bày ở trên, chúng tôi đi đến kết luận:
Kỹ năng tổ chức là việc vận dụng có kết quả những tri thức đã có về
tổ chức vào thực tế trong hoạt động có mục đích.
Kỹ năng tổ chức chỉ được hình thành và phát triển trong hoạt động
tổ
chức. Việc xác định kỹ năng tổ chức phải căn cứ vào trình tự của hoạt
động tổ chức cũng như quy tắc chung và những đặc thù của hoạt động có
mục đích.
Đây là khái niệm mà đề tài sử dụng làm công cụ nghiên cứu của mình.
1.2.3. Biểu tượng toán học
Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng (nghĩa bóng là hình thức của nhận
thức, cao hơn cảm giác) cho ta hình ảnh của sự vật, hiện tượng còn giữ lại
26
trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt [23].
Những hình ảnh của biểu tượng có thể được thể hiện ra trong não của chủ thể
một cách nguyên vẹn (giống với đối tượng trong hiện thực) hoặc có thể đã
được sáng tạo (so với đối tượng đã tri giác).
Biểu tượng được coi là một sản phẩm vừa của quá trình trí nhớ, vừa của
quá trình tưởng tượng. Đó là sự phản ánh thực tế khách quan dưới hình thức
hình ảnh cụ thể. Biểu tượng không hiện ra ở não người rõ nét bằng lưu ảnh tri
giác, nó có thể lờ mờ hay biến dạng. Biểu tượng thường là những phần, những
đoạn nào đó của tri giác.
Đặc điểm chính của biểu tượng là vừa mang tính trực quan, vừa mang tính
khái quát nhờ có sự hỗ trợ lẫn nhau giữa hệ thống tín hiệu thứ nhất và hệ
thống tín hiệu thứ hai, trong đó hệ thống tín hiệu thứ nhất là xuất phát điểm về
những hình ảnh của biểu tượng. Hệ thống tín hiệu 2 làm nảy sinh biểu tượng
chung ở chủ thể, qua đó phản ánh những đặc trưng, những điểm có ý nghĩa cơ
bản đối với chủ thể hay những cái do bất thường gây lên ấn tượng [31].
Biểu tượng toán là những hình ảnh trực quan nảy sinh trong não người
về những con số, về hình dạng, về các đại lượng toán học...[9].
J. Piaget cho rằng đứa trẻ 7 - 8 tuổi không tiếp nhận được khái niệm về
số lượng và những khái niệm toán khác một cách trực tiếp qua hoạt động
học.
Chúng được tự hình thành ở trẻ và hình thành tự phát. Ngoài ra J. Piaget
khẳng định rằng sự lĩnh hội các khái niệm toán diễn ra trên cơ sở các thao tác
lôgíc. Phân loại và xếp thành bộ những thao tác lôgíc này do trẻ tự khám phá
chứ không thể dạy được. Tức là theo quan điểm này thì vấn đề tác động bằng
cách dạy học nhằm phát triển các biểu tượng toán không thuộc về độ tuổi mẫu
giáo [5]
L.X.Vưgôtxki quan niệm: Trong quá trình dạy học không chỉ định
27
hướng đến những cái mà đứa trẻ có thể tự làm được, mà còn phải chú ý đến
cái mà trẻ có thể làm được dưới sự giúp đỡ điều khiển của người lớn tức là
chú ý tới “ vùng phát triển gần “ [3].
Các nhà tâm lý, giáo dục Liên Xô cho rằng sự hình thành các biểu
tượng toán ban đầu cho trẻ là quá trình có tổ chức, có mục đích, nhằm truyền
đạt và lĩnh hội các kiến thức, các hành động trí tuệ theo một chương trình nhất
định [14].
Các nhà giáo dục học và tâm lý học Việt Nam dựa trên cơ sở lý luận của tâm
lý học hoạt động đã chứng minh bằng thực tế rằng: “Trẻ em mẫu giáo nhận
thức được các biểu tượng toán sơ đẳng”. 50 năm phát triển và trưởng thành
của ngành học mầm non đã khẳng định việc trang bị các biểu tượng toán cho
trẻ là rất cần thiết và có thể làm được [27]. Những biểu tượng toán cần hình
thành cho trẻ mầm non là:
- Biểu tượng số học gồm những biểu tượng về các số tự nhiên từ 1đến 10,
các tập hợp từ 1 đến 10, phép đếm ....
- Biểu tượng hình dạng gồm: biểu tượng về hình tròn, hình vuông, hình tam
giác, hình chữ nhật. Biểu tượng khối gồm khối cầu, khối vuông, khối tam
giác, khối chữ nhật, khối trụ ....
- Biểu tượng kích thước gồm: biểu tượng độ lớn (to - nhỏ); biểu tượng chiều
dài (dài - ngắn); biểu tượng chiều rộng (rộng – hẹp); biểu tượng chiều cao
(cao – thấp)...... - Biểu tượng định hướng không gian gồm: phía trước, phía sau, phía trên,
phía dưới, phía phải, phía trái .... [22]
Như vậy với trẻ mầm non ta chỉ cho trẻ làm quen với các biểu tượng toán
sơ đẳng.Việc dạy các biểu tượng toán cho trẻ mầm non mục đích chính không
phải là trang bị cho trẻ các khái niệm về toán mà chủ yếu tạo ra cho trẻ các
hứng thú toán học, đây là nền tảng của việc học toán sau này ở bậc học phổ
thông [11].
28
1.2.4. Trò chơi
Trò chơi là hoạt động bày ra để vui chơi, giải trí [23].Trò chơi có từ thời
cổ đại, dạy học thông qua trò chơi được sử dụng trong thời kỳ chiến tranh thế
giới thứ nhất để huấn luyện binh sĩ trong quân đội Đức. Sau đó từ năm 1929
được dùng để huấn luyện các quan chức ngoại giao. Dạy học thông qua trò
chơi được sử dụng rộng rãi từ năm 1950 trở đi dưới cơ sở lý luận của tâm lý
học hoạt động. Tất cả các nhà tâm lý học và giáo dục học trên thế giới đêù
khẳng định rằng hoạt động chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo [30].
Đặc thù chơi của trẻ mẫu giáo là:
- Chơi của trẻ không phải là thật mà là giả vờ (giả vờ làm một cái gì đó)
nhưng sự giả vờ ấy của trẻ lại mang tính chất thật. Chẳng hạn trẻ giả vờ đóng
“mẹ chăm sóc con” nhưng tình cảm trẻ trải nghiệm “làm mẹ“ là rất thật (lo
lắng khi con ốm, nâng niu con trên tay và đối xử nhẹ nhàng, nói năng âu yếm
với con mình)
- Chơi là một hoạt động không nhằm tạo ra sản phẩm (kết quả vật chất) mà
nhằm để thoả mãn nhu cầu được chơi của trẻ (kết quả tinh thần). Khác với
hoạt động khác, động cơ chơi của trẻ nằm ngay trong các hành động chơi chứ
không nằm trong kết quả chơi. Chính những hành động chơi trong khi chơi
kích thích trẻ chơi và duy trì hứng thú chơi của trẻ.
- Đối với trẻ mẫu giáo chơi là một hoạt động độc lập, tự do và tự nguyện.
Trẻ tự mình nghĩ ra dự định chơi và tự mình tiến hành điều khiển trò chơi, khi
thích thì chúng chơi với nhau, tự nguyện gắn bó nhau để cùng chơi, còn khi
trẻ chán thì chúng không chơi nữa.
- Nội dung chơi của trẻ phản ánh cuộc sống hiện thực xung quanh - Trong quá trình chơi có sự kết hợp hài hoà giữa hành động chơi với lời
nói. Chúng tạo thành phương tiện để phản ánh hiện thực. Khi chơi, trẻ
trao đổi cùng nhau, thoả thuận, làm chính xác ý định chơi và vạch ra nội
29
dung chơi.
- Tính sáng tạo của trẻ được thể hiện rõ nét trong hoạt động chơi. Khi chơi
trẻ không “copy” cuộc sống mà chỉ bắt chước những gì trẻ nhìn thấy, trẻ phối
hợp các biểu tượng đã biết của mình vào trò chơi và tự điều khiển chúng [30].
Trò chơi của trẻ mẫu giáo rất đa dạng và phong phú về nội dung, tính chất
cũng như cách thức tổ chức chơi. Do đó việc phân loại trò chơi một cách
chính xác gặp rất nhiều khó khăn.
Có rất nhiều cách phân loại trò chơi. Trong chương trình chăm sóc giáo
dục trẻ mầm non của Việt Nam thì trò chơi được phân làm 2 nhóm [27]
* Nhóm trò chơi sáng tạo, bao gồm:
- Trò chơi phân vai theo chủ đề
- Trò chơi lắp ghép, xây dựng
- Trò chơi đóng kịch
* Nhóm trò chơi có luật, bao gồm:
- Trò chơi học tập
- Trò chơi vận động
Trong trò chơi học tập chứa đựng rất nhiều loại trò chơi như: trò chơi toán
học; trò chơi với chữ cái; trò chơi âm nhạc; trò chơi tạo hình ...[27]. Như vậy
trong chương trình giáo dục mầm non có rất nhiều loại trò chơi. Trong khuôn
khổ của đề tài chúng tôi chỉ nghiên cứu trò chơi toán học để phục vụ đề tài.
1.2.5. Trò chơi toán học
Cho đến nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về trò chơi toán học.
Chúng tôi định nghĩa trò chơi toán học như sau: Trò chơi toán học là loại trò
chơi có luật giúp trẻ củng cố các biểu tượng toán học. Kết quả thu được
qua trò chơi là củng cố các biểu tượng toán cụ thể và gây cho trẻ những
hứng
thú toán học.
Là một loại trò chơi học tập nên nó mang nhiều tính chất của việc dạy
30
học, nó gắn chặt với việc học tập các biểu tượng toán.
Tính chất đặc biệt của trò chơi toán học là do người lớn lựa chọn nhằm
mục đích giáo dục, giảng dạy để củng cố các biểu tượng toán đã học. Khi chơi
trò chơi toán học trẻ được thu hút vào các hoàn cảnh chơi phù hợp với đặc
điểm tâm lý của trẻ nên trẻ tham gia giải quyết nhiệm vụ một cách hào hứng,
thoải mái, không cảm thấy là mình đang thực hiện nhiệm vụ học tập.
Trò chơi toán học ở trường mẫu giáo nhằm thực hiện việc phát triển
quá trình nhận thức các biểu tượng toán học, kích thích tính ham hiểu biết ở
trẻ về mối quan hệ giữa các biểu tượng toán, phát triển tư duy, ngôn ngữ, óc
tưởng tượng và trí nhớ của trẻ.
Mỗi trò chơi toán học gồm 3 thành phần:
* Nội dung chơi :
Đây chính là nhiệm vụ học tập, nó có tính chất như một bài toán mà trẻ phải
giải dựa trên những điều kiện đã cho. Nội dung chơi là thành phần cơ bản của
trò chơi toán học, nó khêu gợi hứng thú sinh động của trẻ, kích thích tính tích
cực và nguyện vọng chơi của trẻ. VD: trò chơi “thi xem ai nhanh”, nội dung
chơi là yêu cầu trẻ phải giơ nhanh số hoặc hình nào đó theo hiệu lệnh của cô.
Nếu ai giơ chính xác và nhanh số mà cô yêu cầu thì sẽ chiến thắng, còn ai giơ
sai hoặc chậm thì sẽ thua.
* Hành động chơi :
Là những hành động trẻ làm trong lúc chơi. Những hành động ấy càng phong
phú, nhiều hình, nhiều vẻ bao nhiêu thì số trẻ tham gia trò chơi càng nhiều
bấy nhiêu và bản thân trò chơi càng lý thú bấy nhiêu. Những động tác chơi do
cô giáo thực hiện. Động tác chơi cho phép cô có thể hướng dẫn trò chơi thông
qua tiến hành làm thử. Trong động tác chơi của trẻ mẫu giáo nhỏ chính là sự
di chuyển, sắp xếp lại, thu thập các đồ vật, so sánh chúng và lựa chọn theo
dấu hiệu, màu sắc, kích thước. Động tác chơi của trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn
phức tạp hơn, nó đòi hỏi phải có sự liên kết lẫn nhau giữa hành động của một
31
số trẻ này với một số trẻ khác, đòi hỏi phải có tính liên tục và tuần tự. Nhiều
trò chơi của trẻ mẫu giáo lớn đòi hỏi phải suy nghĩ kỹ trước khi làm động tác
chơi. Ví dụ trò chơi “Tìm số nhỏ hơn số của cô”, trẻ phải nhìn xem số của cô
là số mấy, tìm xem những số nào nhỏ hơn số ấy.
* Luật chơi:
Mỗi trò chơi toán học đều có luật do nội dung chơi quy định. Những luật này
có một vai trò to lớn, nó xác định tính chất, phương pháp hành động, tổ chức
và điều khiển hành vi cùng mối quan hệ lẫn nhau của trẻ trong khi chơi.
Những luật chơi trong trò chơi toán học là tiêu chuẩn đánh giá hành động chơi
đúng hay sai. VD: trò chơi “tìm đúng số nhà” luật chơi là về nhà có chữ số 5,
nếu ai về nhà không phải số 5 thì người đó bị thua (sai). Ở trò chơi toán học,
vị trí của mọi trẻ tham gia trò chơi như nhau và được xác định bằng luật chơi.
Luật chơi là tiêu chuẩn khách quan để đánh giá khả năng của mọi trẻ.
Cả 3 thành phần (nội dung chơi, hành động chơi, luật chơi) có liên quan
chặt chẽ với nhau và chỉ cần thiếu một trong 3 bộ phận trên đều không thể
tiến hành trò chơi được [1].
Trò chơi toán học bao giờ cũng có một kết quả nhất định, đó là lúc kết
thúc trò chơi, trẻ hoàn thành một nhiệm vụ nhận thức nào đó (tìm đúng một
biểu tượng toán nào đó). Đối với trẻ thì kết quả của trò chơi khuyến khích trẻ
tích cực hơn nữa trong các trò chơi tiếp theo. Còn đối với cô giáo thì kết quả
trò chơi luôn luôn là chỉ tiêu về mức độ thành công hoặc sự lĩnh hội được tri
thức của trẻ. Kết quả trò chơi không thể là sự may rủi, không thể là do lừa
dối, do tranh giành với các bạn ...
Như vậy trò chơi toán học có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển nhân cách
của trẻ mầm non. Nó là công cụ không thể thiếu khi củng cố biểu tượng toán,
tạo hứng thú toán học cho trẻ đặc biệt là đối với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
1.3. Đặc điểm nhận thức của học sinh trường TCSP mầm non Thái
Bình
32
Trường trung cấp sư phạm mầm non Thái Bình là trường dạy nghề. Các giáo
sinh học xong 2 năm ra trường sẽ là các cô giáo dạy các cháu nhà trẻ, mẫu
giáo. Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh. Mục đích hoạt
động học tập của học sinh là hướng tới chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo về
giáo dục mầm non để sau khi ra trường sẽ chăm sóc, giáo dục được các cháu
ở độ tuổi nhà trẻ mẫu giáo. Vì vậy muốn có công việc sau này thì học sinh
phải tích cực tiến hành hoạt động học tập bằng chính ý thức tự giác và năng
lực trí tuệ của học sinh. Khi vào trường học học sinh phải thi 2 môn văn hoá
là văn và toán. Hàng năm điểm vào trường khoảng từ 10-12 điểm. Điều này
nói lên trình độ nhận thức về văn hoá của học sinh đạt ở mức trung bình. Điều
này cũng dễ hiểu vì trường luôn luôn phải tuyển sinh cuối nguồn .
Qua nhiều năm giảng dạy chúng tôi thấy trình độ nhận thức của học
sinh ở mức trung bình, vì hàng năm lượng học sinh thi lại nhiều (có năm 50 %
học sinh thi lại) nhưng bù lại học sinh có động cơ học tập rất đúng đắn. Các
em rất yêu nghề, yêu trẻ do đó việc rèn luyện kỹ năng dạy trẻ được học sinh
rất quan tâm. Đây là điều kiện rất tốt vì do đặc thù của nghề – làm công việc
trực tiếp với trẻ nhỏ, nếu không thực sự có tình yêu đối với trẻ, sẽ rất khó
khăn trong việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp.
Ở trường học sinh phải học nhiều môn cơ bản, cơ sở và các môn
chuyên ngành. Môn “phương pháp cho trẻ làm quen với biểu tượng toán sơ
đẳng“ là môn học chuyên ngành. Học xong môn này học sinh phải xuống
trường mầm non dạy các cháu nhà trẻ, mẫu giáo làm quen với các biểu tượng
toán sơ đẳng. Như vậy việc tiếp thu kiến thức của học sinh không khó khăn vì
kiến thức đơn giản. Nhưng việc rèn kỹ năng dạy trẻ làm quen với các biểu
tượng toán là công việc tương đối phức tạp. Nếu học sinh không nắm được
các kỹ năng tổ chức một giờ học toán cho trẻ thì rất khó khăn trong việc
hướng dẫn trẻ làm quen với các biểu tượng toán.
Trong những năm gần đây nhà trường rất chú trọng đến công tác rèn
33
luyện nghiệp vụ sư phạm cho học sinh. Đối với các môn học chuyên ngành
sau khi học xong lý thuyết, học sinh được đi thực hành thường xuyên sau đó
được đi thực tập ở các trường mầm non. Thời gian thực tập tốt nghiệp là 3
tháng, học sinh được thực hành tất cả các nội dung đã học trong phần lý
thuyết. Trò chơi toán học cũng là một nội dung nằm trong kế hoạch thực tập
tốt nghiệp của nhà trường.
Như vậy khả năng nhận thức của học sinh trường trung học sư
phạm mầm non còn hạn chế, nhưng với sự chăm chỉ, chịu khó rèn luyện
thì học sinh vẫn nắm được và thực hành tốt các kỹ năng dạy trẻ, đặc biệt là
kỹ năng tổ chức trò chơi toán học.
1.4. Đặc điểm nhận thức các biểu tượng toán học của trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi :
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi có tư duy trực quan - hình tượng bắt đầu phát
triển do đó trẻ có thể giải được nhiều bài toán thực tiễn mà trẻ gặp trong đời
sống hàng ngày. Trẻ thường dựa vào những biểu tượng đã có để lĩnh hội
những biểu tượng mới.
Ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tư duy trực quan - sơ đồ phát triển mạnh. Kiểu
tư duy này tạo ra cho trẻ một khả năng phản ánh những mối liên hệ tồn tại
khách quan, không bị phụ thuộc vào hành động hay ý muốn chủ quan của bản
thân trẻ. Sự phản ánh mối liên hệ khách quan là điều kiện cần thiết để lĩnh hội
những tri thức vượt ra ngoài khuôn khổ của việc tìm hiểu từng vật riêng lẻ.
Nhờ có sự phát triển của tư duy trực quan - sơ đồ mà trẻ có thể lĩnh hội được
mối quan hệ giữa các số bằng cách thêm, bớt, chia các tập hợp lớn thành các
tập hợp nhỏ hoặc hợp các tập hợp nhỏ thành các tập hợp lớn.
Ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi những yếu tố kiểu tư duy lôgíc bắt đầu xuất
hiện. Trẻ đã biết sử dụng khá thành thục các vật thay thế, khi đã phát triển tốt
chức năng ký hiệu của ý thức. Trong thời gian này, trẻ bắt đầu hiểu rằng có
thể biểu thị một sự vật hay một hiện tượng nào đó bằng từ ngữ hay bằng ký
34
hiệu khác, khi phải giải những bài toán tư duy độc lập [28].
Trẻ 5-6 tuổi, một loạt các chức năng tâm lý đã được phát triển ở mức
tương đối cao so với các lứa tuổi trước như ngôn ngữ, tưởng tượng, trí nhớ,
chú ý... Nhờ có sự phát triển của các loại tư duy nên khi trẻ làm quen với các
biểu tượng toán có một số đặc điểm sau:
* Đối với biểu tượng tập hợp - số lượng - phép đếm
- Trẻ có khả năng phân tích từng phần tử của tập hợp tốt. Các cháu có thể
hình dung được phần tử của tập hợp không chỉ là từng vật riêng lẻ mà còn là
từng nhóm gồm một số vật. Xu hướng đánh giá tập hợp về mặt số lượng tăng
lên không còn bị ảnh hưởng do các yếu tố không gian hay các đặc điểm bên
ngoài khác.
- Trẻ có khả năng đếm thành thạo các số trong phạm vi 10, nắm vững thứ
tự gọi tên các số. Trẻ hiểu số cuối cùng được gọi trong phép đếm chỉ số lượng
của tập hợp (điều này trẻ 4-5 tuổi chưa làm được). Số lượng không phụ thuộc
vào yếu tố không gian hay chất lượng của các phần tử của tập hợp. Đồng thời
trẻ có khả năng gọi tên chung cho các tập hợp có số lượng bằng nhau trong
phạm vi 10.
- Trẻ 5-6 tuổi còn nắm được thứ tự chặt chẽ giữa các số của dãy số tự nhiên
từ 1-10, thấy được mối quan hệ giữa chúng với nhau, mỗi số lớn hơn số trước
một đơn vị.
- Trẻ 5 - 6 tuổi có khả năng đếm các tập hợp với các cơ số đơn vị khác
nhau nghĩa là các cháu hiểu rằng đơn vị của tập hợp có thể là một nhóm vật,
chứ không nhất thiết là từng vật [22].
* Đối với biểu tượng kích thước:
- Trẻ có khả năng phân biệt 3 chiều kích thước (chiều dài, chiều rộng, chiều
cao) của vật.
- Trẻ có khả năng dùng thước đo để đánh giá kích thước của vật, hiểu được
mối quan hệ phụ thuộc giữa “Độ lớn “ của thước đo với kích thước của vật.
35
Độ lớn thước đo càng nhỏ thì số đo kích thước càng lớn.
* Đối với biểu tượng hình dạng
- Khả năng nhận biết, phân biệt các hình học phẳng (hình tròn, hình
vuông, hình tam giác, hình chữ nhật) bằng hoạt động của tay và mắt của trẻ
theo đường bao vật được tiến triển, hoàn thiện hơn trước.
- Trẻ có thể phân biệt được các khối (khối cầu với khối trụ; khối vuông
với khối chữ nhật ), tìm ra được điểm giống và khác nhau của các khối .
* Đối với biểu tượng định hướng không gian
- Trẻ 5-6 tuổi nhận thức phần không gian mà trẻ xác định là phía phải,
phía trái được mở rộng dần. Trẻ có khả năng định hướng không gian cho các
vật ở xa.
- Trẻ 5-6 tuổi đã hiểu rõ việc phân nhỏ các phần trong không gian là
một thể thống nhất, trẻ cảm thụ được các hướng chính của không gian, trẻ biết
chia không gian quanh mình ra làm 2 vùng rõ rệt (hoặc phải và trái hoặc trước
và sau)
- Khi xác định sự xếp đặt của các vật thể trong không gian dần dần trẻ
nhận thấy rằng: Các vật xung quanh trẻ đều có hệ toạ độ riêng để định hướng
cho chúng trong không gian. Chính việc định hướng không gian trên bản thân
trẻ là sự mở đầu quan trọng, là cơ sở để trẻ định hướng không gian cho các
đối tượng khác.
Tóm lại trẻ 5-6 tuổi đã nhận thức được hầu hết các biểu tượng toán sơ
đẳng. Thực tế đã chứng minh rằng trò chơi toán học là phương tiện hữu hiệu
để giúp trẻ lĩnh hội và củng cố các biểu tượng toán [27].
1.5. Kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5 - 6 tuổi của học sinh
trường TCSP mầm non Thái Bình
1.5.1. Khái niệm kỹ năng tổ chức trò chơi toán học
Như chúng tôi đã trình bày ở trên trò chơi toán học là công cụ, là phương tiện
hữu hiệu nhất để củng cố các biểu tượng toán học và hình thành hứng thú toán
36
học cho trẻ. Trong chương trình CSGD trẻ mầm non hầu hết bố trí trò chơi
toán học trên tiết học toán và bố trí vào buổi chiều. Một tiết học toán của trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi bao gồm ba phần :
Phần 1: Ôn kiến thức cũ
Phần 2: Dạy kiến thức mới
Phần 3: Củng cố kiến thức vừa học
Trò chơi toán học chủ yếu được thiết kế ở phần luyện tập (phần 1và 3 - là ôn
và củng cố kiến thức). Ở ngoài tiết học thường cho trẻ chơi vào buổi chiều,
chủ yếu là hướng dẫn luật chơi mới để khi vào tiết học trẻ khỏi bỡ ngỡ và cô
giáo không mất nhiều thời gian hướng dẫn (trẻ sẽ ít được củng cố biểu tượng).
Một số trò chơi toán học thiết kế để dạy trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi là:
- Trò chơi “Tìm đúng nhà “
- Trò chơi “Tìm bạn”
- Trò chơi “Thi xem ai nhanh”
- Trò chơi “Thỏ tìm chuồng “
- Trò chơi “Pháo thủ “
- Trò chơi “Câu cá”
- Ngôi nhà toán học của Mille
- Ngôi nhà khoa học của Sammi...
Có rất nhiều trò chơi toán học khác nhau. Những tên trò chơi trên mang tính
chất khái quát, với mỗi một biểu tượng có một trò chơi ứng với tên riêng của
biểu tượng đó. VD: Trò chơi “ Tìm đúng nhà “
- Đối với biểu tượng tập hợp - số lượng - phép đếm: đây là trò chơi
“Tìm đúng số nhà “ tức là tìm nhà mang số nào đó.
- Đối với biểu tượng hình dạng: đây là trò chơi “Tìm đúng hình nhà “
tức là tìm nhà mang hình gì.
- Đối với biểu tượng kích thước: đây là trò chơi “Tìm đúng nhà” tức là
37
tìm nhà to hoặc nhà nhỏ; nhà cao hoặc nhà thấp...
- Đối với biểu tượng định hướng không gian: đây là trò chơi “Tìm đúng
hướng nhà” tức là nhà ở hướng nào của trẻ hay của bạn khác.
Nhưng cũng có trò chơi chỉ củng cố một loại biểu tượng. Ví dụ trò chơi “pháo
thủ” chỉ củng cố biểu tượng định hướng không gian. Pháo thủ ở phía nào của
trẻ hay trẻ đứng ở phía nào của pháo thủ.
Trò chơi toán học dạy cho trẻ 5 - 6 tuổi có thể là trò chơi động hoặc trò
chơi tĩnh. Khi thiết kế trò chơi toán học trong tiết học toán thường cho cả tập
thể nhóm tham gia trò chơi, gắn với các yếu tố thi đua thì trò chơi sẽ sinh
động hơn [10].
Như vậy không phải ai cũng có thể tổ chức tốt được trò chơi toán học
cho trẻ mẫu giáo. Để tổ chức được các trò chơi toán học phải có các kỹ năng
tổ chức. Dựa trên quan điểm cấu trúc kỹ năng tổ chức của N.V.Kuzmina
chúng tôi có thể đưa ra khái niệm. Kỹ năng tổ chức trò chơi toán học là khả
năng vận dụng có kết quả những tri thức, kinh nghiệm của giáo viên trong
việc tổ chức trò chơi toán học cho trẻ.
1.5.2. Quy trình tổ chức hướng dẫn trò chơi học tập
Trong chương trình giảng dạy ở trường TCSP không có quy trình
hướng tổ chức trò chơi toán học riêng mà chỉ có quy trình hướng dẫn trò chơi
học tập, học sinh được học ở môn giáo dục học. Quy trình hướng dẫn trò chơi
học tập được thực hiện theo 4 bước sau:
Bước 1: Lập kế hoạch hoạt động chơi.
Bước này giáo viên dựa trên các mạng chủ điểm, mục đích yêu cầu của
trò chơi, hứng thú chơi của trẻ ... để bố trí các trò chơi cho thích hợp. Yêu cầu
kế hoạch phải rõ ràng, cô đọng, lựa chọn đề tài chơi phải phù hợp với các thời
điểm chơi trong ngày của trẻ. Phương pháp hướng dẫn phải phù hợp với từng
độ tuổi.
38
Bước 2: Chuẩn bị.
Bước này cô giáo phải chuẩn bị đồ chơi đủ, đẹp, phong phú đảm bảo
cho trẻ mở rộng được nội dung trò chơi và phát huy được tính tích cực của trẻ
trong khi chơi. Đồ chơi phải đảm bảo an toàn, vệ sinh, đảm bảo tính giáo dục,
được sắp xếp thuận tiện, khoa học. Ngoài ra phải bố trí chỗ chơi sạch sẽ,
không có chướng ngại vật. Chuẩn bị tâm lý sẵn sàng học tập cho cả cô và
cháu...
Bước 3: Hướng dẫn trẻ chơi.
- Cô phải nói tên trò chơi. - Phổ biến cho trẻ nội dung chơi, các luật của trò chơi. - Tổ chức cho trẻ chơi một cách linh hoạt, sáng tạo. - Xử lý kịp thời những tình huống xảy ra trong khi chơi.
Bước 4: Đánh giá kết quả chơi - Cô giáo nhận xét kết quả chơi, hứng thú chơi của trẻ. - Cô giáo nhận xét tác dụng thiết thực của trò chơi đối với trẻ.
Từ quy trình hướng dẫn trò chơi học tập, đặc thù của môn toán, dựa vào cơ sở
lý luận đã trình bày trên chúng tôi xây dựng quy trình hướng dẫn trò chơi toán
học.
1.5.3. Quy trình tổ chức hướng dẫn trò chơi toán học
Dựa vào đặc điểm của trò chơi toán học chúng tôi xây dựng quy trình tổ
chức hướng dẫn trò chơi toán học như sau:
Bước 1: Nghiên cứu mục đích, nhiệm vụ, nội dung, các luật của trò
chơi. Yêu cầu:
- Phải nắm được tâm lý của trẻ nhóm mình phụ trách.
- Hiểu các biểu tượng toán sẽ được củng cố trong trò chơi này (một trò chơi
có thể củng cố nhiều biểu tượng).
- Nắm vững mục đích, yêu cầu, nội dung, các luật của trò chơi.
39
Bước 2: Thiết kế trò chơi
Nếu trò chơi hướng dẫn trong tiết học ta phải nghiên cứu các biểu
tượng cũ ở phần ôn kiến thức cũ và biểu tượng mới ở phần hình thành kiến
thức mới. Nếu trò chơi ngoài tiết học phải nghiên cứu thời điểm chơi, đồ chơi,
tâm lý của trẻ để kích thích hứng thú cho trẻ. Phần này gồm các hành động
sau:
- Quy hoạch quá trình thực hiện nhiệm vụ
- Tính toán các phương án hành động
- Dự kiến các tình huống xảy ra và cách giải quyết ....
Bước 3: Hướng dẫn chơi. Gồm các hành động sau :
- Giới thiệu tên trò chơi
- Giới thiệu nội dung, các luật của trò chơi.
- Cho trẻ chơi (trong quá trình chơi cô quan sát theo dõi trẻ chơi cho đúng
luật, nếu có sai sót cô giúp trẻ và khuyến khích trẻ chơi cho đúng luật).
Biểu tượng trẻ thu được là kết quả của trò chơi.
* Ở bước này cô giáo phải chú ý một số điểm sau:
- Trẻ phải thực hiện yêu cầu của cô theo luật nhất định
- Trẻ phải chủ động tìm đến kết quả
- Cô giáo phải quan sát kỹ các động tác mà trẻ làm
- Trò chơi phải tổ chức dưới hình thức thi đua để phát huy tính tích cực
của trẻ .
Bước 4: Đánh giá kết quả và nhận xét
- Cô giáo kiểm tra từng nhóm, từng cá nhân, cách làm, kết quả.
- Cô giáo nhận xét kết quả của trò chơi. Ở bước này nghệ thuật khen chê
đóng vai trò vô cùng quan trọng. Trẻ rất thích khen, không thích chê. Nhưng
khen không đúng sẽ dẫn tới tư tưởng chủ quan, tự mãn hoặc trẻ sẽ buồn chán,
mất hết hứng thú toán học. Do đó với trẻ 5 - 6 tuổi làm sai cô giáo vẫn phải
nhận xét trước nhóm mặc dù cháu không vui. Cô giáo luôn luôn phải tỏ thái
40
độ vui vẻ, thoải mái khi nhận xét kết quả của trẻ [11].
Trong quá trình hướng dẫn trò chơi toán học ở bước nào cô giáo cũng
phải sử dụng kỹ năng giao tiếp để hướng dẫn trẻ .
Đây là quy trình tổ chức trò chơi toán học chúng tôi dự kiến sẽ đưa vào
thực nghiệm nhằm hình thành, hoàn thiện, nâng cao kỹ năng tổ chức trò chơi
toán học cho trẻ mẫu giáo 5 –6 tuổi vì quy trình này chưa đưa vào giảng dạy
trong chương trình CSGD trẻ mầm non một cách chính thống
1.5.4. Quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của
học sinh trường TCSP mầm non Thái Bình
Hình thành những kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ mẫu gáo 5-
6 tuổi không phải ngay một lúc và làm một lần là đã có kỹ năng ngay. Chúng
tôi đang áp dụng quy trình hình thành các kỹ năng theo 4 giai đoạn cho học
sinh trường trung cấp sư phạm mầm non Thái Bình như sau:
Giai đoạn 1: Giai đoạn nhận thức
Ở giai đoạn này, học sinh được trang bị mục đích, nội dung, quy trình
hướng dẫn trò chơi học tập, từ đó học sinh suy ra mục đích, nội dung, luật của
trò chơi toán học. Phần này học sinh được trang bị ở môn giáo dục học, còn ở
môn toán không có thời gian dạy lý thuyết trò chơi toán học.
Giai đoạn 2: Giai đoạn làm thử
Học sinh được thực hành trong các giờ dạy trẻ làm quen với toán ở trên
nhóm (lấy học sinh làm cháu). Ở đây học sinh được hướng dẫn tổ chức trò
chơi toán học (học sinh vừa được tập làm cô giáo vừa được tập làm cháu) nếu
như có thời gian thực hành trên nhóm. Thường thì thời gian cho tập dạy ít,
nên trong tất cả thời gian học môn toán tối đa chỉ có 1/2 nhóm được tập dạy,
được thực hành các trò chơi toán học, còn lại yêu cầu học sinh tập dạy theo
nhóm với nhau ở nhà, phần này giáo viên sư phạm không quản lý được.
Giai đoạn 3: Giai đoạn kỹ năng bắt đầu hình thành
Ở giai đoạn này học sinh đi thực hành thường xuyên một tuần một
41
buổi. Mỗi buổi dạy đều được giáo viên sư phạm duyệt giáo án, các trò chơi
toán học ở giai đoạn này được sự kiểm tra rất kỹ của giáo viên sư phạm. Ở
giai đoạn này, em nào được tập dạy thì chắc chắn sẽ có kỹ năng tốt vì giáo
viên sư phạm sẽ trang bị thêm cho các trò chơi toán học mới, nhấn mạnh thêm
nội dung chơi, luật chơi, cách thiết kế một bài dạy, trò chơi....Vì số lượng
nhóm thực hành ít, nhiều môn học phải thực hành... nên chỉ có 1/3 học sinh
được tập dạy do đó nhiều em chưa thể hình thành được kỹ năng tổ chức trò
chơi toán học ở giai đoạn này
Giai đoạn 4: Giai đoạn hoàn thiện các kỹ năng
Đây là thời gian 3 tháng học sinh đi thực tập ở các trường mầm non.
Học sinh phải dạy được các cháu nhà trẻ, mẫu giáo môn toán, phải tổ chức
được các trò chơi trong đó có trò chơi toán học với sự hướng dẫn của giáo
viên thực hành. Trong giai đoạn này mỗi em ít nhất phải tổ chức được một lần
trò chơi toán học. Có em tổ chức được nhiều lần trò chơi toán học do nhu cầu
trẻ thích chơi, hoặc do học sinh đó muốn mình có kỹ năng tốt về môn học
này. Ở giai đoạn này học sinh có thể thực nghiệm tất cả những ý tưởng của
giáo viên sư phạm. Cuối đợt thực tập tốt nghiệp sư phạm học sinh có thể làm
một cô giáo mầm non thực sự.
Tóm lại quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học
sinh trường trung học sư phạm mầm non Thái Bình có thể được biểu diễn
bằng sơ đồ sau:
GĐ Nhận thức GĐ Làm thử GĐ Hình thành GĐ Hoàn thiện
Hình 2. Sơ đồ hình thành kỹ năng của học sinh trường TCSP mầm non Thái Bình
42
4giai đoạn hình thành kỹ năng trên, thực hiện một lần tốt thì đây là những
học sinh có năng khiếu sư phạm tốt, nhưng rất ít em thực hiện một lần đã tốt.
Hầu hết đều phải thực hành nhiều lần mới có kỹ năng tốt. Thực hành lại có
nhiều cách
- Có thể là thực hành lại từ giai đoạn 1 (nhận thức)
- Có thể thực hành lại từ giai đoạn 2 (làm thử)
- Có thể thực hành lại từ giai đoạn 3 ( Hình thành kỹ năng )
1.6. Các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học sinh trường TCSP
mầm non Thái Bình đang thực hiện
Trường TCSP mầm non Thái bình là trường dạy nghề do đó rất chú trọng
đến khâu rèn kỹ năng cho học sinh, đặc biệt là kỹ năng tổ chức các hoạt động,
các trò chơi. Giáo viên sư phạm trang bị cho học sinh phần lý luận về kỹ
năng, các kỹ năng khó, trừu tượng giáo viên sư phạm phải trình diễn cho học
sinh xem, học sinh có thể bắt chước ngay tại đó hoặc có thể áp dụng trên trẻ
trong giờ thực hành dưới trường mầm non. Chúng tôi dạy học sinh những kỹ
năng tổ chức trò chơi toán học sau:
1- Xác định mục đích, yêu cầu của trò chơi. Mỗi trò chơi đều có mục đích
yêu cầu riêng. Trò chơi sẽ củng cố biểu tượng gì, ví dụ trò chơi tìm đúng số
nhà thường dùng để củng cố biểu tượng tập hợp - số lượng – phép đếm. Cô
giáo phải nắm vững yêu cầu của trò chơi ở lứa tuổi mẫu giáo 5 –6 tuổi. Cô
phải biết linh hoạt, không cứng nhắc, dập khuôn. Cô có thể nâng cao yêu cầu
của trò chơi hoặc hạ thấp yêu cầu tuỳ vào hứng thú của trẻ. Kỹ năng này
thường dạy ở phần thực hành của môn phương pháp cho trẻ làm quen với biểu
tượng toán sơ đẳng.
2- Nắm được nội dung trò chơi. Nội dung của trò chơi là phần cốt lõi
của trò chơi. Nội dung của trò chơi toán học tương đối đơn giản, chủ yếu tập
trung vào củng cố các biểu tượng toán học. Do đó chỉ cần nắm được tên trò
43
chơi, luật chơi là học sinh đã biết nội dung chơi. Khi nắm chắc nội dung chơi
học sinh mới biết các thao tác chơi và từ đó mới có thể chơi cùng trẻ. Rất
nhiều học sinh đã phải học lại nội dung chơi từ trẻ vì học sinh không chịu
nghiên cứu, mà trẻ ở các nhóm mẫu giáo 5 - 6 tuổi được chơi nhiều. Giáo viên
mầm non rất chịu khó sưu tầm và thực hiện các trò chơi mới vì trẻ rất thích
cái mới nên nhiều khi học sinh phải học lại trẻ nội dung chơi. Kỹ năng này
học sinh học khi đi thực tế, thực tập, sách vở. Môn toán chỉ nói qua ở một vài
trò chơi cụ thể. Học sinh tự nghiên cứu là chính.
3- Hiểu khả năng chơi và hứng thú chơi của trẻ. Trong một nhóm mẫu
giáo 5 –6 tuổi có khoảng 25 – 30 trẻ, để tổ chức cho trẻ chơi đạt kết quả cô
giáo phải biết rõ khả năng nhận thức của từng trẻ, nắm vững hứng thú chơi
của trẻ để đặt ra mục đích yêu cầu cho phù hợp, để chọn các phương pháp và
biện pháp hướng dẫn cho thích hợp. Mặt khác cô phải nắm được khả năng
chơi và hứng thú chơi của trẻ để đưa các biểu tượng toán vào trò chơi cho hợp
lý. Kỹ năng này học sinh được học trong môn tâm lý học trẻ em.
4- Nắm vững trình tự các bước tổ chức trò chơi. Trước khi tiến hành tổ
chức chơi, học sinh phải nắm vững các bước tổ chức trò chơi. Các bước tổ
chức trò chơi học sinh được trang bị ở môn giáo dục học, đó là các bước tổ
chức trò chơi học tập. Từ các bước tổ chức trò chơi học tập học sinh suy ra
các bước tổ chức trò chơi toán học. Do đó chỉ những học sinh có trình độ
nhận thức khá mới có khả năng tổ chức tốt trò chơi toán học ở giờ thực hành,
còn những học sinh có trình độ nhận thức trung bình, chậm chạp thì phải xem
các bạn dạy trên nhóm rồi học theo chứ không tự tổ chức được trò chơi toán
học sau khi đọc qua nội dung trò chơi. Các bước tiến hành một trò chơi học
tập từ trước tới nay học sinh thường thực hiện như sau:
Bước 1: Lập kế hoạch hoạt động chơi
Bước 2: Chuẩn bị
Bước 3: Hướng dẫn trẻ chơi
44
Bước 4: Đánh giá kết quả chơi
Cả 4 bước này liên hệ rất chặt chẽ với nhau và phải thực hiện theo quy trình
từ bước 1 đến bước 4. Đối với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi các bước chơi đã được
tách ra tương đối rõ rệt. Nhưng theo hướng tích hợp hiện nay thì các bước
chơi không tách ra rõ rệt mà kết hợp hài hoà với nhau. Ví dụ đánh giá kết quả
chơi, những năm trước chỉ đánh giá sau khi trẻ đã chơi xong nhưng hiện nay
bước đánh giá kết quả chơi có thể được thực hiện ngay trong quá trình chơi.
5- Chọn trò chơi phù hợp với mục đích, yêu cầu và hứng thú chơi của
trẻ, phù hợp với chủ điểm đang dạy. Đối với trò chơi phân vai theo chủ đề trẻ
có thể tự chọn trò chơi để chơi với nhau, ví dụ trò chơi “Bác sỹ khám bệnh”
hay trò chơi “Mẹ con” trẻ thích chơi trò chơi nào thì tìm đến tạo nhóm chơi
với nhau. Cô giáo chỉ là người gợi ý, quan sát trẻ chơi, hướng trẻ chơi cho
phù hợp với nội dung trò chơi. Nhưng đối với trò chơi toán học cô giáo phải
là người chọn trò chơi cụ thể cho trẻ chơi vì trò chơi toán học liên quan đến
các biểu tượng toán học trẻ đang tiếp nhận, liên quan đến phần ôn kiến thức
cũ và dạy kiến thức mới. Kỹ năng này học sinh được học ở phần thực hành
của môn
toán.
6- Chọn đúng đồ chơi cần thiết theo yêu cầu của bài dạy và của biểu
tượng, sắp xếp theo đúng yêu cầu của nhóm mẫu giáo 5 - 6 tuổi. Sau khi chọn
trò chơi cô giáo phải chọn đồ chơi cần thiết, phù hợp để trẻ chơi, ví dụ: trò
chơi củng cố biểu tượng tập hợp – số lượng – phép đếm phải có các thẻ số,
phải có các đồ dùng trực quan để trẻ đếm như hoa, quả, các con vật...Đồ chơi
phải đủ cho từng trẻ và phải được sắp xếp một cách hợp lý để trẻ dễ chơi, dễ
tìm. Kỹ năng này học sinh được giới thiệu qua ở môn toán
7- Biết lập kế hoạch chơi. Đây là kỹ năng quan trọng, cô lập kế hoạch
càng sát bao nhiêu thì kết quả của việc tổ chức, hướng dẫn trẻ chơi càng cao
bấy nhiêu. Cô phải lên kế hoạch trước là trong giờ học này phải chơi trò chơi
45
gì để củng cố biểu tượng gì, cần những đồ chơi gì, cần chú ý đến cháu nào,
cần những phương pháp và biện pháp nào. Kỹ năng này học sinh được học rất
kỹ trong môn giáo dục học.
8- Dự đoán tình huống xảy ra và hướng giải quyết. Đây là một kỹ năng
khó đối với học sinh vì học sinh chưa được tiếp xúc nhiều với trẻ. Trong quá
trình chơi, có rất nhiều tình huống xảy ra. Ví dụ: trẻ tranh giành đồ chơi của
nhau, trẻ nói chuyện không chú ý tới giờ học, trẻ đã chán các biểu tượng toán
học trong trò chơi vì trẻ được học quá nhiều về biểu tượng này... Kỹ năng này
đòi hỏi học sinh phải có kiến thức tâm lý trẻ em rất chắc chắn. Kỹ năng này
học sinh được học trong môn tâm lý học trẻ em.
9- Biết hướng trẻ chơi phù hợp với hứng thú, khả năng của trẻ và yêu
cầu của trò chơi.Trò chơi toán học thường tổ chức cho cả tập thể nhóm chơi.
Do đó cô phải biết hướng trẻ chơi trên cơ sở hứng thú , khả năng của trẻ đồng
thời kết hợp với yêu cầu giáo dục. Người giáo viên có kỹ năng này là người
biết thu hút, hướng trẻ vào trò chơi mà không phải áp đặt, cưỡng bức trẻ. Đối
với học sinh đây là kỹ năng khó, ít học sinh thực hiện tốt kỹ năng này vì học
sinh chưa có kinh nghiệm. được thực hành nhận biết hứng thú của trẻ còn yếu.
Kỹ năng này học sinh được học ở môn tâm lý học trẻ em
10- Có khả năng kết hợp vừa chơi với trẻ vừa điều khiển các nhóm chơi
khác trong nhóm. Buổi chiều thường một tuần, một lần trẻ được học các trò
chơi toán học mới. Khi học trò chơi mới trẻ hay phân nhóm chơi. Cô giáo
thường tổ chức cho từng nhóm chơi. Trong quá trình chơi học sinh phải có
khả năng kết hợp vừa chơi với nhóm trẻ này và điều khiển các nhóm chơi
khác. Đây là kỹ năng đặc trưng của trò chơi phân vai theo chủ đề nhưng với
trò chơi toán học cũng rất cần thiết vì hiện nay một nhóm mẫu giáo có thể rất
đông cháu (có nhóm lên tới 40 –50 cháu) không thể cho chơi cả tập thể được.
Kỹ năng này học sinh học trong môn tâm lý học trẻ em và môn giáo dục học.
11- Biết liên kết các trẻ cùng chơi. Trẻ mẫu giáo có đặc trưng thích
46
chơi một mình hoặc chơi theo nhóm 2 – 3 trẻ một nhóm. Trò chơi toán học là
trò chơi yêu cầu nhiều trẻ tham gia do đó cô giáo cần phải biết liên kết trẻ
chơi. Đây là một kỹ năng khó đối với học sinh vì học sinh chưa có kinh
nghiệm tổ chức trò chơi, nhưng khi được luyện tập nhiều thì kỹ năng biết liên
kết trẻ chơi sẽ được nâng lên. Ví dụ trò chơi “Thỏ tìm chuồng” tức là trẻ phải
tìm được chuồng thỏ có các khối giống như khối có trên tay trẻ. Trong khi
chơi có 3 - 4 em tách ra dùng khối của mình để xây chuồng thỏ. Nếu như giáo
viên có kinh nghiệm thì sẽ dùng kỹ năng giao tiếp để lôi kéo trẻ vào trò chơi
toán học. Còn đối với học sinh, không biết xử lý thế nào nên trẻ vẫn cứ tiếp
tục xây chuồng cho thỏ và trò chơi đã chuyển sang hướng khác. Kỹ năng này
học sinh được học trong môn tâm lý học trẻ em đó là các tình huống sư phạm
thường xảy ra.
12- Biết phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong trò chơi. Trong 4
bước tổ chức trò chơi toán học học sinh phải biết phối hợp nhịp nhàng, linh
hoạt, biết tích hợp các nội dung theo chủ điểm nhưng không được bỏ bước
hoặc xáo trộn các bước hướng dẫn vì trò chơi toán học mang tính lôgic rất
cao. Kỹ năng này học sinh được học trong môn toán
13- Biết phổ biến luật chơi, nội dung chơi một cách hợp lý hấp dẫn.
Tiến hành đúng các bước quy định. Đây là kỹ năng đặc trưng của trò chơi
toán học. Luật chơi quyết định kết quả của quá trình chơi. Phổ biến nội dung
chơi và luật chơi là kỹ năng sử dụng thường xuyên nhất trong khi tổ chức trò
chơi toán học. Luật chơi của trò chơi toán học sẽ xác định tính chất, phương
pháp hành động, cách tổ chức và điều khiển hành vi thực hiện hành động chơi
của trẻ. Phổ biến luật chơi là kỹ năng mà mọi học sinh đều cần phải học và
làm tốt. Hướng dẫn trò chơi toán học có hấp dẫn hay không là do cách phổ
biến luật chơi của học sinh. Kỹ năng này học sinh được học ở môn giáo dục
học và môn toán
14- Biết chơi cùng trẻ khi cần thiết (làm mẫu) và điều khiển trẻ theo
47
đúng yêu cầu của nhóm mẫu giáo 5-6 tuổi. Cô phải biết trực tiếp chơi cùng
trẻ, biết làm một trẻ thực thụ khi chơi trò chơi toán học, có như vậy thì việc
làm mẫu của cô mới sinh động và hấp dẫn được. Việc điều khiển trẻ chơi theo
yêu cầu của nhóm mẫu giáo 5 –6 tuổi cũng là công việc khó đối với học sinh.
Kỹ năng này học sinh được học trong môn giáo dục học.
15- Phát hiện kịp thời, uốn nắn những sai sót của trẻ. Đối với học sinh
việc phát hiện ra những sai sót của trẻ còn yếu, học sinh còn mải nhớ giáo án
lên khả năng bao quát trẻ kém. Khi phát hiện ra sai sót học sinh chỉ nhắc qua,
chưa khéo léo sửa sai cho trẻ, nhiều em còn ngại sửa sai, uốn nắn cho trẻ. Kỹ
năng này học sinh được học ở môn giáo dục học.
16- Biết đánh giá, nhận xét kết quả chơi. Đây là kỹ năng học sinh phải
làm thường xuyên không chỉ ở trò chơi toán học mà ở tất cả các trò chơi khác.
Đối với trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi phải đánh giá, nhận xét chính xác. Nếu đánh
giá, nhận xét sai sẽ làm giảm hứng thú toán học ở trẻ. Kỹ năng này học sinh
được học ở môn toán và môn giáo dục học
17- Có khả năng sử dụng đa dạng, phong phú các phương tiện ngôn
ngữ khác nhau (giọng nói, nét mặt, cử chỉ). Ngữ điệu giọng nói rất cần trong
khi hướng dẫn trò chơi toán học. Giọng nói của cô giáo phải lưu loát, rõ ràng,
biết nhấn mạnh vào những chỗ cần thiết, quan trọng, biết lướt qua các chi tiết
phụ để trẻ không bị rối khi nghe nội dung chơi và luật chơi. Nét mặt của cô
giáo phải thể hiện đúng lúc, đúng chỗ phù hợp với hoàn cảnh của trò chơi.
Các cử chỉ phải đa dạng, tinh tế làm trẻ không bị phân tán. Kỹ năng này học
sinh được học ở môn làm quen với văn học.
18- Biết động viên, khuyến khích trẻ kịp thời. Đặc điểm nổi bật của trẻ
mẫu giáo là thích được khen. Để duy trì hứng thú chơi của trẻ cô giáo phải
biết động viên trẻ kịp thời, đúng lúc. Lời khen của cô giáo phải chân tình,
nhấn mạnh vào nội dung cần khen, hướng các trẻ khác chú ý để làm gương.
48
Kỹ năng này học sinh được học ở môn giáo dục học, tâm lý học trẻ em.
19- Biết xử lý các tình huống xảy ra trong quá trình chơi. Khi trẻ chơi,
có rất nhiều tình huống xẩy ra. Có tình huống cô đã lường trước được cũng có
tình huống xảy ra ngoài dự kiến của cô. Cô giáo phải có những biện pháp xử
lý đúng lúc các tình huống trên cơ sở tôn trọng cá nhân trẻ, công bằng và
không làm mất hứng thú chơi của trẻ. Kỹ năng này học trong môn tâm lý học
trẻ em
20- Biết trao đổi bàn bạc với trẻ, với giáo viên khác. Trong khi hướng
dẫn trẻ chơi cô giáo vừa là người hướng dẫn trẻ chơi vừa là bạn của trẻ. Có
những vấn đề cô phải bàn bạc với trẻ, với các cô giáo khác. Kỹ năng giao tiếp
của cô trong trường hợp này phải chú ý như tránh những câu nói lóng, câu nói
không có chủ hoặc vị ngữ. Kỹ năng này học sinh học ở môn tâm lý học và
môn làm quen với văn học.
Trên đây là 20 kỹ năng tối thiểu mà học sinh cần có để tổ chức tốt trò
chơi toán học cho trẻ 5-6 tuổi. Ở trường THSP mầm non, chúng tôi thường
dạy các kỹ năng đơn lẻ mà chưa liên kết chúng với nhau thành một chỉnh thể
thống nhất. Một số kỹ năng dạy ở môn giáo dục học, tâm lý học, văn học còn
một số kỹ năng được dạy ở phần thực hành của môn toán. Do đó học sinh
nắm các kỹ năng còn rất yếu, chưa đầy đủ, chưa hệ thống.
Từ thực tế và dựa vào cơ sở lý luận về kỹ năng tổ chức của N.V.
Kuzmina chúng tôi đưa các kỹ năng tổ chức này thành các nhóm sau:
* Nhóm kỹ năng nhận thức gồm các kỹ năng thành phần là các kỹ năng
1, 2, 3, 4.
* Nhóm kỹ năng thiết kế gồm các kỹ năng thành phần là các kỹ năng 5,
6, 7, 8.
* Nhóm kỹ năng kết cấu gồm các kỹ năng thành phần là các kỹ năng 9
,10, 11 ,12.
* Nhóm kỹ năng thực hiện nhiệm vụ gồm các kỹ năng thành phần là
49
các kỹ năng 13, 14, 15, 16.
* Nhóm kỹ năng giao tiếp gồm các kỹ năng thành phần là các kỹ năng
17, 18, 19, 20.
Các nhóm kỹ năng này liên hệ rất chặt chẽ với nhau đúng như sơ đồ mối quan
hệ kỹ năng tổ chức của N.V. Kuzmina. Các nhóm kỹ năng luôn hỗ trợ cho
Nhận thức
Thiết kế
nhau và có mối quan hệ qua lại với nhau theo sơ đồ sau:
Giao tiếp Kết cấu
Tổ chức thực hiện
Hình 3: sơ đồ mối quan hệ giữa các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học
Khi thực hiện các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học không phải tất cả
các học sinh thực hiện như nhau. Có học sinh nắm vững lý thuyết, thực hành
tốt. Có học sinh nắm lý thuyết tốt nhưng thực hành còn sai sót nhiều. Có học
sinh không nắm được lý thuyết và thực hành cũng yếu. Tất cả đều phụ thuộc
vào sự học hỏi, luyện tập của học sinh cũng như sự hướng dẫn của giáo viên
sư phạm.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua nghiên cứu tài liệu chúng tôi thấy các nhà tâm lý học và giáo dục
50
học đã đi sâu nghiên cứu lĩnh vực hoạt động chơi của trẻ. Các nhà tâm lý học
đã nghiên cứu nhiều về trò chơi phân vai theo chủ đề, còn trò chơi toán học
mới quan tâm ở mức độ rất khiêm tốn. Các nhà toán học chủ yếu nghiên cứu
hứng thú toán học ở cấp học phổ thông còn ở mẫu giáo hầu như ít được quan
tâm. Các nhà giáo dục học mầm non đã nghiên cứu nhiều hoạt động chơi của
trẻ, đặc biệt chú trọng tới trò chơi phân vai theo chủ đề còn trò chơi toán học
mới dừng ở mức độ để nó nằm trong trò chơi học tập nói chung. Như vậy lĩnh
vực trò chơi toán học còn mới mẻ, do đó có thể nói đề tài mới chỉ tập trung
vào các phần cơ bản nhất của trò chơi toán học. Bên trong trò chơi toán học
chắc chắn còn nhiều điều thú vị mà đề tài chưa đề cập đến được .
Về kỹ năng và kỹ năng tổ chức có nhiều quan niệm nhưng đề tài sẽ dựa
vào quan điểm của Nguyễn Ánh Tuyết về kỹ năng.
Về kỹ năng tổ chức đề tài sẽ dựa trên hệ thống kỹ năng tổ chức của
N.V. Kuzmina để xây dựng các tiêu chí đánh giá kỹ năng tổ chức trò chơi
toán học.
Về mức độ đánh giá kỹ năng tổ chức trò chơi toán học, phần lý thuyết
đề tài dựa vào các cấp độ đánh giá của B.Bloom, phần thực hành đề tài sẽ dựa
vào mức độ hình thành kỹ năng của K.K. Platônốp để xây dựng tiêu chí đánh
51
giá.
CHƯƠNG 2. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Mẫu khách thể nghiên cứu
Trường TCSP mầm non Thái Bình có khoảng 2000 học sinh theo học ở
các hệ đào tạo từ sơ cấp đến đại học. Trong đó hệ trung học sư phạm chính
quy 12+2 là hệ đào tạo chính của nhà trường. Khoá học 2004-2006 hệ trung
học sư phạm chính quy 12+2 có 250 học sinh. Trong 250 em đi thực tập tốt
nghiệp có 107 em thực tập ở nhóm mẫu giáo 5-6 tuổi còn lại thực tập ở nhóm
mẫu giáo 3 –4 tuổi; 4 –5 tuổi và nhà trẻ. Do đó đề tài lấy 107 em thực tập ở
nhóm mẫu giáo 5-6 tuổi làm khách thể chính.
Để đánh giá các mức độ thực hiện kỹ năng của học sinh chúng tôi đã
chọn 27 giáo viên sư phạm phụ trách các đoàn thực tập và giáo viên mầm non
hướng dẫn thực hành làm khách thể phụ. Những giáo viên này đã cùng chúng
tôi bàn bạc, thảo luận về những kỹ năng cơ bản nhất để đánh giá kỹ năng tổ
chức trò chơi toán học của học sinh.
Nhiệm vụ của đề tài là làm rõ thực trạng mức độ thực hiện kỹ năng tổ
chức trò chơi toán học của học sinh và áp dụng một số biện pháp nâng cao
mức độ hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5 – 6 tuổi, do đó
chúng tôi đã chọn số trẻ 5 –6 tuổi của 18 nhóm mẫu giáo (khoảng 500 trẻ) để
đánh giá kết quả tổ chức trò chơi toán học của học sinh.
2.2. Nội dung nghiên cứu.
Để nghiên cứu có trọng tâm, đánh giá mức độ thực hiện kỹ năng một cách
chính xác và khách quan ở cả nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm, đề tài
đã đưa ra 5 trò chơi toán học tiêu biểu, có tính khái quát để cả 2 nhóm đối
chứng và thực nghiệm thực hiện. Vì tìm được nội dung của các trò chơi toán
học đối với học sinh là rất khó khăn. Hơn nữa giáo viên đánh giá có người
biết trò chơi toán học nhưng cũng có người biết rất lơ mơ về trò chơi toán học
do dó đề tài đã đưa vào 5 trò chơi toán học để làm công cụ đánh giá mức độ
52
thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học sinh. Học sinh sẽ chọn 1
trong 5 trò chơi này để thực hiện trên cơ sở đó giáo viên sẽ đánh giá mức độ
thực
hiện các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học.
2.2.1. 5 trò chơi toán học cho trẻ 5-6 tuổi
I- Trò chơi tìm đúng số nhà
Mục đích: Củng cố biểu tượng số tự nhiên từ 1-10, biểu tượng các số
đã được thêm bớt trong phạm vi 10. Rèn luyện khả năng quan sát của trẻ.
Chuẩn bị : Cô giáo có 4 cái nhà, trên mỗi nhà đều gắn 1 thẻ số (4 nhà
gắn 4 thẻ số khác nhau).Thẻ số của cô phải to, rõ ràng, đúng tiêu chuẩn sư
phạm. Cháu: mỗi cháu có một thẻ số (giống với 1 trong 4 thẻ số có ở nhà của
cô giáo).
Luật chơi: Trẻ phải chọn được đúng nhà có thẻ số giống với thẻ số của
mình. Ai tìm sai hoặc quá chậm là bị thua thì sẽ phải nhảy lò cò một vòng
xung quanh các ngôi nhà.
Cách chơi: Cho trẻ đứng thành vòng tròn, cô nói rõ luật chơi: hôm nay
chúng ta sẽ đi tìm những nhà có số giống với số mà các con có trên tay. Trước
khi đi tìm nhà các con nhìn xem trên tay mình có thẻ số mấy. Bây giờ chúng
ta đi vòng tròn, vừa đi vừa hát bài “Đi chơi” khi nào cô nói mưa to rồi thì các
con phải tìm đúng nhà có số giống trên tay các con. Nếu ai tìm sai hoặc quá
chậm là thua, người đó phải nhảy lò cò một vòng xung quanh các ngôi nhà
nhé .
Cô cho trẻ chơi 3 – 4 lần (có thể đổi thẻ số ở các nhà hoặc cho trẻ đổi
thẻ số cho nhau sau mỗi lần chơi để phát triển khả năng quan sát, khả năng
chú ý).
Sau mỗi lần chơi cô giáo nhận xét, có thể nhận xét ở từng nhà hoặc có
53
thể nhận xét chung với cả nhóm, trẻ vẫn đứng nguyên ở từng nhà. Cô nhận
xét những cháu chơi đúng, những cháu chơi sai sẽ phải nhảy lò cò quanh
nhóm, các cháu khác sẽ đọc bài thơ nhảy lò cò để kích thích bạn nhảy.
Trò chơi có thể tổ chức ở phần 1, 3 của tiết học lập số mới hoặc thêm
bớt, tìm số mới, hoặc cho trẻ chơi vào buổi chiều sau khi trẻ ngủ dậy.
Chú ý: Trò chơi này có thể dùng để củng cố biểu tượng số lượng, hình
dạng, kích thước, định hướng không gian (đây chính là 4 trò chơi khác nhau) .
II- Trò chơi “ Tìm bạn thân”
Mục đích: Củng cố biểu tượng số lượng từ 1 - 10. Rèn kỹ năng thêm bớt
để được số mới. Phát triển khả năng quan sát, tính nhanh nhẹn hoạt bát của
trẻ.
Chuẩn bị: Các cháu có các thẻ số từ 1=>10 (một nửa nhóm có số từ
1=>5; một nửa nhóm có số 6=>10). Khuôn viên nhóm học rộng rãi.
Luật chơi: Các cháu phải tìm được bạn có thẻ số sao cho khi thêm thẻ số
của mình vào của bạn ta được số mà cô yêu cầu để kết thành bạn thân. Những
bạn không tìm thấy bạn thân là những người thua cuộc, phải nhảy lò cò.
Cách chơi: Cô cho trẻ đứng thành vòng tròn rồi phổ biến luật chơi: Hôm
nay chúng ta sẽ chơi trò chơi tìm bạn thân. Trên tay mỗi con có các thẻ số,
chúng ta nhìn xem là những thẻ số mấy (ví dụ: củng cố thêm bớt trong phạm
vi 8 thì một nửa nhóm có thẻ số từ 1=>3; một nửa nhóm có thẻ số từ 4=>7).
Các con đọc to số của mình lên nào. Bây giờ các con giơ số 1, 4 lên cho cô rồi
vừa đi vừa hát bài “Tìm bạn thân “. Khi cô nói chúng ta tìm bạn có số sao cho
khi thêm số của mình vào số của bạn sẽ được số mới là số 8. Ai không tìm
được bạn sẽ thua cuộc và sẽ phải nhảy lò cò.
Cô cho trẻ chơi 3-4 lần, mỗi lần cô thay đổi một luật riêng (thay đổi số
đầu tiên hoặc số cuối). Trò chơi này có thể dùng để củng cố cả biểu tượng
54
hình dạng, kích thước, định hướng không gian (đây chính là 4 trò chơi) .
Trò chơi này có thể tổ chức ở phần 1, 3 trong tiết học toán hoặc chơi vào
giờ chơi dài buổi sáng hoạc buổi chiều sau khi trẻ ngủ dậy.
III– Trò chơi “ Thỏ tìm chuồng”
Mục đích: Củng cố biểu tượng khối cầu, khối vuông, khối tam giác, khối
chữ nhật. Phát triển khả năng quan sát, so sánh, tính nhanh nhẹn, hoạt bát của
trẻ.
Chuẩn bị: Cô giáo chuẩn bị 4 chuồng, mỗi chuồng gắn 1 khối (khối cầu,
khối vuông, khối tam giác, khối chữ nhật). Mỗi trẻ có 1 khối giống với 1
trong 4 khối ở 4 chuồng. Khuôn viên chỗ chơi rộng.
Luật chơi: Trẻ phải tìm được chuồng có khối giống khối của mình, nếu
tìm sai hoặc chậm sẽ thua cuộc, phải nhảy lò cò.
Cách chơi: Cho trẻ đứng theo hình vòng cung, cô phổ biến luật chơi: Hôm
nay cô con mình cùng chơi trò chơi “Thỏ tìm chuồng”. Trên tay các con có
những khối gì nhỉ ? (trẻ nói tên các khối). Còn cô có 4 chuồng, mỗi chuồng đ-
ược gắn một khối (khối vuông, khối tam giác, khối chữ nhật, khối trụ). Các
con nhìn tinh xem khối nào ở chuồng nào nhé. Bây giờ các con sẽ làm các chú
thỏ đi tắm nắng, vừa đi vừa hát bài “trời nắng, trời mưa” nhé. Khi nào cô nói
mưa to rồi thì các con phải tìm đúng chuồng của mình. Chuồng của các con
có khối giống với khối trên tay các con đang cầm. Con nào về sai hoặc chậm
là thua cuộc thì phải nhảy lò cò đó.
Trò chơi được tiến hành 3 – 4 lần. Sau mỗi lần chơi cô cho trẻ đổi khối
cho nhau hoặc cô đổi khối ở các chuồng.
Trò chơi này có thể tổ chức ở phần 1, 3 của tiết học toán hoặc chơi vào
giờ chơi dài buổi sáng hoặc buổi chiều.
Trò chơi này có thể chơi để củng cố biểu tượng số lượng, hình dạng,
55
kích thước, định hướng không gian (đây cũng là 4 trò chơi).
IV- Trò chơi “Thi xem ai nhanh “
Mục đích: Củng cố biểu tượng kích thước (đo chiều dài, chiều rộng,
chiều cao của một đối tượng). Luyện kỹ năng đo một vật bằng thước đo. Rèn
tính khéo léo, cẩn thận khi đo.
Chuẩn bị: Mỗi cháu có một thước đo (3 cháu một có thước đo bằng
nhau). Một bàn để đo. Cô phải đo các chiều của bàn trước. Cô chuẩn bị 3 loại
thẻ số có màu khác nhau (ví dụ: chiều dài là thẻ màu đỏ, chiều rộng là thẻ
màu xanh, chiều cao là thẻ màu trắng). Trên thẻ có ghi số đo 3 chiều của bàn.
Mỗi loại thẻ chuẩn bị ít nhất bằng số trẻ mà cô định gọi lên đo.
Luật chơi: Các cháu phải đo được 3 chiều của bàn, đo đúng kỹ thuật.
Ai đo đúng kỹ thuật, nói được kết quả nhanh nhất người đó sẽ thắng cuộc.
Cách chơi: Có thể chia làm 3 tổ để trẻ thi đua nhau. Cô nói luật chơi:
Hôm nay chúng ta sẽ chơi trò chơi “Thi xem ai nhanh“. Chúng ta sẽ đo chiều
dài, chiều rộng, chiều cao của bàn học. Ai đo đúng nhất, nói kết quả nhanh
nhất sẽ thắng cuộc. Tổ nào có nhiều bạn đo đúng nhất và nhanh nhất sẽ thắng
cuộc và được thưởng cờ bé ngoan trong buổi hôm nay. Bây giờ mời 3 bạn đâù
tiên của 3 tổ lên đo trước, các bạn khác vừa hô to cố lên vừa chú ý xem đã
đến lân mình chưa. Nếu bạn trước xong bạn sau phải lên làm ngay, chậm là sẽ
thua tổ khác đó. Cô mời 3 bạn giỏi nhất nhóm mình làm giám sát viên xem ai
phạm luật. Người bị phạm luật là người đo không đúng kỹ thuật (kỹ thuật đo
là phải đo sát mép bàn, đánh dấu từng đoạn đo, đặt thước đúng mép dấu,
chiều dài, chiều rộng đo từ trái sang phải, chiều cao đo từ dưới lên trên). Để
tính điểm cho từng tổ lấy số người đo nhanh nhất bớt đi số người phạm luật.
Tổ nào còn lại số người thắng cuộc nhiều hơn thì tổ đó thắng.
Trò chơi này thường chơi vào phần 3 của tiết học toán hoặc vào buổi
chiều.
Trò chơi này dùng để củng cố biểu tượng số lượng, hình dạng, kích
56
thước, định hướng không gian .
V- Trò chơi “Ai làm đúng nhất “
Mục đích: Củng cố biểu tượng phía phải - phía trái của đối tượng
khác(định hướng không gian). Rèn cho trẻ khả năng quan sát, định hướng
nhanh.
Chuẩn bị: Mỗi cháu có 2 đồ chơi cầm tay. Cô có một búp bê to. Khuôn
viên nhóm rộng rãi.
Luật chơi: Trẻ phải tìm được các hướng của búp bê theo yêu cầu của
cô. Cháu nào không lên để đồ chơi, hoặc không để đúng hướng, hoặc chậm
đều thua cuộc.
Cách chơi: Cô cho trẻ đứng thành vòng tròn, rồi nói luật chơi: Hôm
nay bạn búp bê đến thăm nhóm mình, bạn muốn xem chúng mình chơi có giỏi
không. Bây giờ bạn búp bê sẽ ngồi vào giữa, các con ngồi xung quanh. Khi cô
nói phía nào của búp bê thì các con chạy lên để đồ chơi vào phía đó của bạn
nhé. Ai không mang đồ chơi lên hoặc để sai hướng của búp bê hoặc quá chậm
đều thua cuộc, phải nhảy lò cò.
Bây giờ trò chơi bắt đầu: Cô nói phía phải búp bê hoặc phía trái búp bê
trẻ phải đặt đồ chơi vào các phía theo yêu cầu của cô.
Cô có thể nâng độ khó của trò chơi bằng cách đưa ra luật: phía trước
của búp bê chỉ để những con mèo, phía sau búp bê chỉ để những con gà, phía
phải búp bê chỉ để con chó, phía trái của búp bê chỉ để con lợn. Luật chơi này
làm cho trẻ phải suy nghĩ và lựa chọn. Cô phải quan sát nhanh để biết cháu
nào làm sai hoặc cháu nào làm đúng để nhận xét sau mỗi lần chơi.
Trò chơi này có thể tổ chức vào phần 3 của tiết học toán hoặc tổ chức
vào buổi chiều.
Trò chơi này có thể dùng để củng cố các biểu tượng: số lượng, hình
dạng, kích thước, định hướng không gian (đây cũng là 4 trò chơi).
2.2.2. Nội dung đánh giá thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán
57
học của học sinh
2.2.2.1. Thời điểm đánh giá thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi
toán học
Hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi toán học trải qua 4 giai đoạn. Mỗi giai
đoạn có một thực trạng riêng, không giống nhau. Ta có thể đánh giá thực
trạng sau mỗi giai đoạn của quy trình hình thành kỹ năng. Nhưng vì thời gian
có hạn mà kết quả đánh giá thực trạng của đề tài sẽ được sử dụng vào kết quả
chung của các môn học khác để đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học
sinh trước khi ra trường. Do đó đề tài sẽ đánh giá thực trạng kỹ năng tổ chức
trò chơi toán học của học sinh ở giai đoạn 4 (giai đoạn hoàn thiện kỹ năng)
vào cuối đợt thực tập tốt nghiệp sư phạm (tháng 4/ 2006) lúc này học sinh đã
được trang bị đầy đủ kỹ năng tổ chức trò chơi toán học. Chỉ còn một tháng ôn
thi tốt nghiệp là các em ra trường về các địa phương làm cô giáo mầm non.
Kết quả đánh giá thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán học sẽ được sử
dụng vào năm học sau.
2.2.2.2. Nội dung đánh giá thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán
học cho trẻ 5-6 tuổi của học sinh
Đề tài đánh giá thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học
sinh bằng hệ thống các kỹ năng thành phần dựa trên cơ sở lý thuyết kỹ năng
của N.V. Kuzmina, đó là:
I- Thành phần nhận thức: gồm các kỹ năng sau
1- Xác định mục đích, yêu cầu của trò chơi
2- Nắm được nội dung trò chơi
3- Hiểu khả năng chơi và hứng thú chơi của trẻ
4- Nắm vững trình tự các bước tổ chức trò chơi
II- Thành phần thiết kế: gồm các kỹ năng sau
1- Chọn trò chơi phù hợp với mục đích, yêu cầu và hứng thú chơi của
58
trẻ
2- Chọn đúng đồ chơi cần thiết theo yêu cầu của bài dạy và của biểu
tượng, sắp xếp theo đúng yêu cầu của nhóm mẫu giáo 5-6 tuổi
3- Biết lập kế hoạch chơi
4- Dự đoán tình huống xảy ra và hướng giải quyết
III- Thành phần kết cấu: gồm các kỹ năng sau
1- Biết hướng trẻ chơi phù hợp với hứng thú, khả năng của trẻ và yêu
cầu của trò chơi
2- Có khả năng kết hợp vừa chơi với trẻ vừa điều khiển các nhóm chơi
khác trong nhóm
3- Biết liên kết các trẻ cùng chơi
4- Biết phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong trò chơi
IV- Thành phần tổ chức thực hiện: gồm các kỹ năng sau
1- Biết phổ biến luật chơi, nội dung chơi một cách hợp lý hấp dẫn. Tiến
hành đúng các bước quy định
2- Biết chơi cùng trẻ khi cần thiết (làm mẫu) và điều khiển trẻ theo
đúng yêu cầu của nhóm mẫu giáo 5-6 tuổi
3- Phát hiện kịp thời, uốn nắn những sai sót của trẻ
4- Biết đánh giá, nhận xét kết quả chơi
V- Thành phần giao tiếp: gồm các kỹ năng sau
1- Có khả năng sử dụng đa dạng, phong phú các phương tiện ngôn ngữ
khác nhau (giọng nói, nét mặt, cử chỉ)
2- Biết động viên, khuyến khích trẻ kịp thời
3- Biết sử lý các tình huống xảy ra trong quá trình chơi
4- Biết trao đổi bàn bạc với trẻ, với giáo viên khác
20 kỹ năng tổ chức trên là những kỹ năng cơ bản, tối thiểu để học sinh
tổ chức một trò chơi toán học. Có nhiều cách đánh giá mức độ tổ chức trò
chơi toán học của học sinh. Để đánh giá kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của
59
học sinh chúng tôi dựa vào các mức độ đánh giá lý thuyết của B. Bloom và
mức độ đánh giá thực hành của K.K. Platônốp. Chúng tôi đưa ra 5 mức độ
đánh giá như sau:
Mức 1- Kém: Không nắm vững lý thuyết, không thực hành được, tổ
chức trò chơi không đạt hiệu quả, trẻ không có hứng thú học tập
Mức 2- Yếu: Nắm lý thuyết chưa vững, thực hành chưa được, kết quả
thực hành yếu
Mức 3- Trung bình: Nắm được lý thuyết, thực hành đúng quy trình,
kết quả thực hành đạt trung bình, chỉ hành động được khi có giáo viên giám
sát.
Mức 4- Khá: Nắm vững lý thuyết, thực hành ít sai sót, kết quả tổ chức
khá, có thể tự tổ chức không cần có sự giám sát của giáo viên.
Mức 5– Giỏi: Nắm vững lý thuyết, thực hành thành thạo trong các điều
kiện khác nhau, có sáng tạo, biết vận dụng tri thức để đạt kết quả cao.
Để đo quá trình thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học
sinh, đề tài chọn các tiêu chí của hứng thú toán học làm công cụ đo kết quả
thể hiện trên trẻ. Theo V.V. Đanhilôva biểu hiện hứng thú toán học của trẻ 5-
6 tuổi được thể hiện ở 3 tiêu chí sau[32]:
1) Mặt nhận thức: trẻ nắm được các biểu tượng toán học một cách chính
xác.
2) Mặt xúc cảm – tình cảm: khi chơi trò chơi toán học trẻ vui vẻ, thoải
mái, hay nói cười.
3) Mặt hành vi: trẻ thích chơi với những đồ chơi có liên quan tới toán học
hoặc thích trả lời những câu hỏi có liên quan đến toán học.
Cả 3 tiêu chí trên tạo lên hứng thú toán học cho trẻ mầm non. Theo chúng tôi
cả 3 tiêu chí này có vai trò quan trọng như nhau vì với trẻ mầm non các biểu
tượng toán mới chỉ là những khái niệm sơ đẳng, ban đầu, những khái niệm
này trẻ còn được học nhiều ở các lớp trên, xúc cảm, tình cảm, hành vi của trẻ
60
là những tố chất mà trẻ đang hình thành nhiều ở lứa tuổi mẫu giáo, nó là nền
móng cho những xúc cảm, tình cảm dương tính với toán học sau này. Do đó
nếu học sinh nào tổ chức trò chơi toán học mà tạo cho trẻ hứng thú toán học
cao là học sinh đó tổ chức tốt trò chơi toán học.
Mỗi học sinh tổ chức một trò chơi toán học đều được giáo viên hướng
dẫn thực tập hoặc giáo viên sư phạm đánh giá cả cô và cháu. Đánh giá cháu ở
đây không phải là đánh giá từng cháu một mà là số cháu nắm được các biểu
tượng toán học, có xúc cảm, tình cảm dương tính với trò chơi toán học, có
hành vi tích cực với trò chơi toán học trong một nhóm học mà học sinh tổ
chức trò chơi toán học.
Như vậy phần đánh giá thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán học
của học sinh được tổ chức ở dưới trường mầm non vào cuối đợt thực tập tốt
nghiệp ở giai đoạn 4.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Mục đích của việc nghiên cứu lý luận là tìm hiểu cơ sở lý luận của đề tài như
lịch sử nghiên cứu vấn đề, các khái niệm công cụ, lựa chọn, xây dựng phương
pháp nghiên cứu và đề ra kế hoạch nghiên cứu thực tiễn. Do đó chúng tôi sử
dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu là chủ yếu.
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 2.3.2.1. Phương pháp điều tra viết
*Để điều tra thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học sinh,
chúng tôi dùng các phương pháp sau:
- Để đánh giá thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán học ở giai đoạn
4 – giai đoạn hoàn thiện kỹ năng chúng tôi sử dụng phiếu 2 sau khi kết thúc
đợt thực tập tốt nghiệp (lần 2) của nhóm đối chứng, vì nhóm thực nghiệm đã
61
được tác động sư phạm.
- Để đánh giá kết quả thực hiện các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học
của học sinh chúng tôi sử dụng phiếu đánh giá hứng thú toán học của trẻ
(phiếu 4 –phụ lục).
* Để đánh giá kết quả quá trình thực nghiệm chúng tôi sử dụng một số
phương pháp sau:
- Thăm dò ý kiến của giáo viên sư phạm, giáo viên mầm non hướng dẫn thực
hành để biết học sinh đi thực tập khó khăn những kỹ năng nào, kỹ năng nào
đã thành thục, cần bồi dưỡng các kỹ năng nào, theo quy trình nào (phiếu 1 –
phụ lục). Nhờ có phiếu điều tra này mà những vấn đề đưa ra thực nghiệm
được chính xác hơn, thực tế hơn.
- Thăm dò ý kiến học sinh về các kỹ năng mà học sinh đã làm tốt và những
kỹ năng học sinh làm chưa tốt, những mong muốn của học sinh về các kỹ
năng tổ chức trò chơi toán học để từ đó đề tài sẽ đưa ra các biện pháp thực
nghiệm có hiệu quả hơn (phiếu 3 – phụ lục)
Giáo viên hướng dẫn thực tập đánh giá mức độ thực hiện các kỹ năng theo
phiếu đánh giá kỹ năng cho từng học sinh ở các đoàn thực tập (phiếu 2 – phụ
lục). Mỗi học sinh ở cả nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm đều được đánh
giá 2 lần. Lần 1 trước khi vào thực tập chính thức. Lần 2 là cuối đợt thực tập
tốt nghiệp. Trong thời gian thực tập mỗi học sinh ở nhóm đối chứng phải tổ
chức ít nhất 1 trò chơi toán học, học sinh ở nhóm thực nghiệm tổ chức ít nhất
2 trò chơi toán học. - Đánh giá kết quả của trẻ bằng phiếu 4 (phụ lục)
2.3.2.2. Phương pháp quan sát - Quan sát cách tổ chức trò chơi toán học của học sinh ở các nhóm mẫu
giáo. Trong thời gian học sinh tổ chức trò chơi toán học, người làm thực
nghiệm phải chăm chú theo dõi cô và trẻ hành động, không bỏ qua một
chi tiết nào. Khi trò chơi kết thúc người thực nghiệm đếm số trẻ nắm
62
được biểu tượng toán trong trò chơi.
- Quan sát số trẻ có xúc cảm, tình cảm dương tính với trò chơi toán học (số
cháu có nét mặt vui, cười thoải mái trong và sau khi trò chơi kết thúc). - Quan sát các hành vi của trẻ sau khi chơi trò chơi toán học (số trẻ thích
chơi và thích trả lời những câu hỏi liên quan đến trò chơi toán học). - Sau khi quan sát xong sẽ đánh dấu vào phiếu điều tra (phiếu 2 và 4)
2.3.2.3. Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn
- Trò chuyện phỏng vấn với các học sinh về tâm trạng, khó khăn, thuận lợi
khi tổ chức trò chơi toán học.
- Trò chuyện, phỏng vấn giáo viên hướng dẫn thực tập và giáo viên hướng
dẫn thực hành về thái độ, hứng thú, các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học
của học sinh và của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, về các tình huống sư phạm
xảy ra trong quá trình tổ chức trò chơi toán học.
2.3.2.4. Phương pháp thực nghiệm
Trên cơ sở xác định được những hạn chế trong việc tổ chức các hoạt
động trò chơi toán học của học sinh, đề tài chọn ra một số nội dung chính để
tổ chức thực nghiệm hình thành kĩ năng tổ chức trò chơi toán học cho học
sinh.
2.3.2.5. Phương pháp xử lý số liệu
Các kết quả được sử lý theo công thức của toán thống kê, được tính bằng
phần mềm Exell
n
X
i
X
∑ == i 1 n
* Công thức tính giá trị trung bình
Trong đó - X là giá trị trung bình
iX là giá trị biến thiên của chuỗi
-
- n là tổng phần tử của tập hợp
63
*Công thức tính độ lệch chuẩn
n
2
−
X
X
(
)
∑
i
i
= 1
=
σ X
n
σ là độ lệch chuẩn
X
Trong đó:
iX là giá trị biến thiên của chuỗi
X là giá trị trung bình của chuỗi
n là tổng phần tử của tập hợp
Để so sánh sự khác biệt giữa 2 nhóm thực nghiệm và đối chứng (trước và sau
−
X
1
=
U
X 2 σ σ 2 + 2
2 1 n 1
n 2
tác động thực nghiệm), đề tài sẽ sử dụng công thức sau:
Trong đó: - U là hệ số khác biệt giữa lần đo cuối (lần 2) của 2 nhóm thực
nghiệm và nhóm đối chứng
1X là chỉ số trung bình của nhóm thực nghiệm ở lần đo 2
-
2X là chỉ số trung bình của nhóm đối chứng ở lần đo 2
-
σ là độ lệch chuẩn của nhóm thực nghiệm ở lần đo 2
1X
-
σ là độ lệch chuẩn của nhóm đối chứng ở lần đo 2
2X
-
- 1n là số phần tử của nhóm thực nghiệm
2n là số phần tử của nhóm đối chứng
-
Để so sánh mối tương quan giữa điểm kỹ năng của cô và điểm kết
quả thể hiện ở trẻ, đề tài sẽ sử dụng hệ số tương quan Spearman ( sr ),vì các
nhóm đại lượng có nhiều tiêu chí và số phần tử lớn hơn 50.
n
d
2 i
Công thức được tính như sau:
∑ 6.
= − 1
r s
−
= i 1 2 n n .(
1)
64
Trong đó: sr là hệ số tương quan Spearman
id là hiệu giữa các cặp hạng
n là số cặp hạng quan sát được
2.4. Tiến độ thời gian thực hiện đề tài - Từ tháng 9/2004 đến tháng 11/2004 nghiên cứu tài liệu, viết đề cương
nghiên cứu của đề tài.
- Tháng 12/2004 bảo vệ đề cương nghiên cứu - Tháng 1/2005 bổ sung, hoàn thiện đề cương nghiên cứu - Từ tháng 2/2005 đến tháng 5/2005 nghiên cứu tài liệu, viết sơ bộ chương
1 của đề tài.
- Tháng 11/2005 phát phiếu điều tra cho giáo viên hướng dẫn thực tập và
học sinh (phiếu 1,3); thu phiếu, sử lý số liệu, trao đổi với đồng nghiệp về
các vấn đề thực nghiệm
- Tháng 1/2006 tập huấn cho giáo viên về những kỹ năng cần đánh giá,
quy trình tổ chức trò chơi toán học, cách đánh giá theo các mức độ thực
hiện các kỹ năng.
- Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 3 năm 2006: đo mức độ thực hiện kỹ năng
tổ chức trò chơi toán học lần 1 ở cả nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm
- Ngày 12 tháng 3 năm 2006: tập huấn cho nhóm thực nghiệm những nội
dung cần thực nghiệm.
- Từ ngày24- 28/4/2006: đo mức độ thực hiện kỹ năng lần 2 - Tháng 5,6/2006: sử lý số liệu, viết luận văn, giáo viên hướng dẫn sửa,
góp ý.
65
- Tháng 7/2006: hoàn thành luận văn - Tháng 8/2006: bảo vệ luận văn.
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5 – 6 tuổi
của học sinh trường TCSP mầm non Thái Bình
Dựa trên nội dung các kỹ năng đã trình bày phần lý luận chúng tôi đã
khảo sát thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán học ở 54 học sinh thực tập
tốt nghiệp ở 3 địa điểm thực tập là các trường mầm non Quang Trung, trường
Sơn Ca, trường Tiền Phong của thành phố Thái Bình. Kết quả ở từng nhóm
kỹ năng như sau:
3.1.1. Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần nhận thức
Bảng1. Mức độ các kỹ năng thuộc thành phần nhận thức (điểm tối đa là 2,
mỗi kỹ năng điểm cao nhất là 0,5đ; số học sinh =54; tần số xuất hiện ở 4 kỹ
năng là 216)
Điểmtb Mức1 Mức2 Mức3 Mức4 Mức 5
của 1 TT Nội dung (ke) (y) (tb) (kh) (g)
0,1đ 0,2đ 0,3đ 0,4đ 0,5đ KN X
1 Xác định mục đích, 3 25 17 0,348 8 1
yêu cầu của trò chơi
2 Nắm được nội dung trò 1 26 22 0,35 4 1
chơi
3 Hiểu khả năng chơi và 0 32 20 0,344 2 0
hứng thú chơi của trẻ
4 Nắm vững trình tự các 0 26 17 0,344 6 5
bước tổ chức trò chơi
Tổng 4 109 76 20 1,386 7
% 1,8% 3,2% 50,4 35,2 9,4% 69,3%
66
% %
Bảng1cho ta thấy mức độ các kỹ năng ở thành phần nhận thức phân bố
ở tất cả các mức độ, trong đó mức khá và mức trung bình chiếm nhiều nhất
(mức trung bình = 50,4%; mức khá = 35,2% so với tần số học sinh thực hiện
ở cả 4 kỹ năng). Như vậy có thể nói học sinh đã nắm được lý thuyết về kỹ
năng nhận thức để tổ chức trò chơi toán học nhưng vẫn còn ở mức độ khiêm
tốn, còn về thực hành đã biết thực hành đúng quy trình, nhiều em thực hành ít
sai sót. Đặc biệt có 9,4% số học sinh đạt mức độ 5 (giỏi) ở kỹ năng nhận thức.
Bên cạnh đó còn 1,8 % học sinh đạt mức độ kém và 3,2% học sinh đạt mức
yếu.
Điểm trung bình của các kỹ năng trong thành phần nhận thức tương đối
đồng đều. Trong 4 kỹ năng ở thành phần nhận thức thì kỹ năng nắm được nội
dung trò chơi có điểm số trung bình cao hơn (0,35) còn kỹ năng hiểu khả
năng chơi và hứng thú chơi của trẻ và kỹ năng nắm vững trình tự các bước tổ
chức trò chơi có điểm số trung bình thấp hơn (0,344). Điều này chứng tỏ các
học sinh quan tâm đến tất cả mọi kỹ năng, chú ý luyện đều các kỹ năng nhận
thức, không coi trọng quá kỹ năng nào và cũng không xem thường kỹ năng
nào. Kỹ năng nắm được nội dung chơi sở dĩ có điểm số cao hơn vì khi tổ chức
trò chơi nào học sinh cũng phải nghiên cứu kỹ nội dung trò chơi do đó tần
xuất xuất hiện kỹ năng nắm nội dung trò chơi nhiều hơn nên học sinh nắm
vững hơn, điểm số cao hơn.
Nguyên nhân thực trạng kỹ năng thuộc thành phần nhận thức chủ yếu ở
mức độ trung bình, khá vì các kỹ năng thuộc thành phần nhận thức học sinh
được trang bị ở nhiều môn học. Ví dụ: kỹ năng xác định mục đích, yêu cầu,
nội dung trò chơi toán học được học ở môn toán, kỹ năng hiểu khả năng chơi
và hứng thú chơi của trẻ được học ở môn tâm lý học. Kỹ năng nắm vững trình
tự các bước tổ chức trò chơi được học ở môn giáo dục học.
Một nguyên nhân nữa là đối với các kỹ năng nhận thức yêu cầu học
67
sinh phải nghiên cứu tài liệu nhiều. Nếu không chịu tìm kiếm thì học sinh sẽ
không thể nắm được mục đích yêu cầu, nội dung của trò chơi toán học vì
trong chương trình chỉ giới thiệu qua có 5 trò chơi toán học mà học sinh rất
lười đọc sách vì trình độ nhận thức chỉ ở mức trung bình như chúng tôi đã
phân tích ở phần lý luận.
Như vậy chuẩn bị tốt nghiệp mà kỹ năng thuộc thành phần nhận thức
của học sinh chỉ ở mức trung bình và khá là thấp vì các kỹ năng này khi ra
thực tế học sinh ít có thời gian xem lại lý thuyết. Giáo viên sư phạm thường
đặt ra chỉ tiêu là kỹ năng nhận thức của học sinh ở trong trường phải đạt mức
giỏi thì ra thực tế học sinh bị mất đi là vừa. Chỉ ở mức trung bình, khá thì ra
thực tế học sinh sẽ gặp không ít khó khăn.
3.1.2. Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần thiết kế
Kết quả ở bảng 2 cho thấy
Không có các kỹ năng ở mức độ kém, nhưng ở mức độ yếu thì cao hơn
nhiều so với nhóm kỹ năng nhận thức (8,3%). Ở mức trung bình (46,7%), ở
mức khá (34,2%) giảm so với nhóm kỹ năng nhận thức còn ở mức giỏi (10,8)
cao hơn nhóm kỹ năng nhận thức. So với chuẩn (ở mỗi nhóm kỹ năng chuẩn
là 2 điểm) thì mức độ thực hiện ở tất cả các kỹ năng của thành phần thiết kế
đạt 71,4% cao hơn so với nhóm kỹ năng nhận thức. Như vậy học sinh thực
hiện các kỹ năng thiết kế ở mức độ trung bình và khá là nhiều nhất tức là học
sinh nắm được lý thuyết, thực hành đúng quy trình và ít sai sót. Đây là thực tế
khách quan vì nếu không nắm được lý thuyết, thực hành không đúng quy
trình thì học sinh sẽ không được công nhận là đã qua đợt thực tập và rất khó
có cơ hội làm việc ở ngành học mầm non. Trong 4 kỹ năng của thành phần
thiết kế thì kỹ năng lập kế hoạch chơi là kỹ năng học sinh thực hiện tốt hơn cả
( X = 0,390). Kỹ năng lập kế hoạch chơi là kỹ năng quan trọng nhất trong
nhóm kỹ năng thiết kế. Kỹ năng dự đoán tình huống xảy ra và hướng giải
68
quyết là kỹ năng yếu nhất ( X =0,331). Đây là kỹ năng khó nhất đối với học
sinh vì học sinh tiếp xúc với trẻ còn ít, chưa hiểu hết tâm lý của từng cháu nên
rất khó dự đoán được các tình huống có thể xảy ra.
Bảng 2. Mức độ các kỹ năng thuộc thành phần thiết kế (điểm tối đa là 2,
mỗi kỹ năng điểm cao nhất là 0,5đ; số học sinh =54; tần số xuất hiện ở 4 kỹ
năng là 216)
Điểm tb Mức5 Mức4 Mức1 Mức2 Mức3
X
(g) (kh) (tb) (ke) (y) cho1KN Nội dung TT 0,5 0,4đ 0,3đ 0,1đ 0,2đ
1 Chọn trò chơi phù 0 0 26 26 2 0,355
hợp với mục đích,
yêu cầu, hứng thú
chơi của trẻ
2 Chọn đúng đồ chơi 0 2 28 17 7 0,353
cần thiết theo yêu
cầu của bài dạy và
của biểu tượng, sắp
xếp theo đúng yêu
cầu của nhóm mẫu
giáo 5-6 tuổi
3 Biết lập kế hoạch 0 6 23 18 0,390 7
chơi
4 Dự đoán tình huống 0 10 24 13 0,331 7
xảy ra và hướng
giải quyết
Tổng 0 18 101 74 23 1,429
69
% 0% 8,3% 46,7% 34,2% 10,8% 71,4%
Nguyên nhân thực trạng các kỹ năng của thành phần thiết kế: Các kỹ
năng của thành phần thiết kế là các kỹ năng cụ thể, khi chưa thực hiện bao giờ
thì cảm thấy rất khó nhưng khi đã thực hiện thì thấy nó đơn giản. Ví dụ trước
khi đi thực tập tốt nghiệp, kỹ năng chọn trò chơi và đồ chơi cho phù hợp với
mục đích yêu cầu của bài dạy, hứng thú chơi của trẻ, học sinh cho là khó khăn
nhất nhưng cuối đợt thực tập tốt nghiệp thì học sinh cho rằng đây là kỹ năng
đơn giản nhất, nguyên nhân của thực trạng này là khi thực hành trên nhóm
học sinh không chuẩn bị được đồ dùng để tổ chức trò chơi toán học, nhưng
khi xuống trường mầm non đồ dùng để dạy toán rất đa dạng phong phú. Học
sinh thoải mái lựa chọn các loại đồ dùng để tổ chức trò chơi toán học do đó kỹ
năng chọn đồ chơi lại là kỹ năng đơn giản.
Kỹ năng lập kế hoạch chơi là kỹ năng khó nhưng bù lại đây là kỹ năng
học sinh được học lý thuyết nhiều nhất ở môn giáo dục học vì nó liên quan
đến việc lập kế hoạch của trò chơi phân vai theo chủ đề. Được thực hành
nhiều nên mặc dù khó nhưng học sinh vẫn thực hiện tốt. Ngoài học lý thuyết
ra học sinh còn được thực hành rất nhiều ở giai đoạn 3 (giai đoạn hình thành
kỹ năng). Ở giai đoạn 3 mỗi tuần học sinh đi thực tập một buổi, buổi nào cũng
có một kế hoạch vui chơi, giáo viên sư phạm duyệt rất kỹ kế hoạch này, do đó
khi đi thực tập học sinh dễ dàng lên được kế hoạch vui chơi mà trò chơi toán
học cũng nằm trong kế hoạch vui chơi.
Kỹ năng dự đoán tình huống xảy ra và hướng giải quyết là kỹ năng khó
đối với học sinh. Trước khi tổ chức trò chơi toán học nào học sinh phải dự
đoán trước xem có tình huống gì xảy ra. Để thực hiện tốt kỹ năng này học
sinh phải có kiến thức tâm lý tốt, tiếp xúc với trẻ nhiều, theo dõi trẻ thường
xuyên, phải biết được đặc điểm tâm lý của từng trẻ. Thời gian làm được việc
này cần nhiều hơn mấy tháng đi thực tập. Do đó kỹ năng dự đoán tình huống
70
xảy ra đạt mức độ thấp nhất là hợp lý.
Có thể kết luận rằng các kỹ năng thành phần thiết kế học sinh đạt ở
mức trung bình - khá tức là mức học sinh nắm được lý thuyết, thực hành đúng
quy trình và ít sai sót.
3.1.3. Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần kết cấu
Số liệu của bảng 3 cho thấy mức độ thực hiện các kỹ năng của thành
phần kết cấu có ở cả 5 mức độ. Mức độ kém là 1,4% và yếu là 9,7%, điều
này chứng tỏ số học sinh nắm vững lý thuyết và thực hành các kỹ năng kết
cấu chưa được tốt.
Bảng 3. Mức độ các kỹ năng thuộc thành phần kết cấu (điểm tối đa là 2;
mỗi kỹ năng, điểm cao nhất là 0,5đ; số học sinh =54; tần số xuất hiện ở 4
kỹ năng là 216)
X
Điểm Mức1 Mức2 Mức3 Mức4 Mức5 tb cho stt (ke) (y) (tb) (kh) (g) Nội dung 1KN 0,1đ 0,2đ 0,3đ 0,4đ 0,5
1 Biết hướng trẻ chơi 0 3 28 21 2 0,340
phù hợp với hứng
thú, khả năng của
trẻ và yêu cầu của
trò chơi
2 Có khả năng vừa 1 3 29 20 1 0,331
chơi với trẻ vừa
điều khiển các
nhóm chơi khác
trong nhóm
3 Biết liên kết các trẻ 1 22 20 0,335 4 7
cùng chơi
71
4 Biết phối hợp nhịp 1 21 20 0,333 4 8
nhàng giữa các
bước trong trò chơi
Tổng 3 21 100 81 11 1,339
% 1,4% 9,7% 5,1% 46,3% 37,5% 66,9%
Mức trung bình (46,3%) bằng mức trung bình của nhóm kỹ năng thiết
kế, mức độ thực hiện khá tăng lên đôi chút nhưng mức độ thực hiện giỏi ở
nhóm kỹ năng kết cấu thấp mới có 5,1%. So với chuẩn thì nhóm kỹ năng kết
cấu chỉ đạt 66,9%.
Điểm số trung bình của các kỹ năng thành phần kết cấu tương đối đều.
Điểm số đều chứng tỏ học sinh quan tâm đến tất cả các kỹ năng. Trong 4 kỹ
năng của thành phần kết cấu, kỹ năng biết hướng trẻ chơi phù hợp với hứng
thú, khả năng của trẻ và yêu cầu của trò chơi có điểm số cao hơn (0,340) còn
kỹ năng kết hợp vừa chơi với trẻ vừa điều khiển các nhóm chơi khác trong
nhóm có điểm số thấp nhất (0,331).
Nguyên nhân thực trạng các kỹ năng của thành phần kết cấu: Đây là
nhóm kỹ năng tương đối khó đối với học sinh vì nó liên quan rất nhiều đến
khả năng quan sát trẻ, sự hiểu biết tâm lý trẻ, đến tính cách của các học sinh.
Với nhóm kỹ năng này yêu cầu học sinh phải có tính linh hoạt, nhanh nhẹn,
hoạt bát. Đây là tố chất riêng của mỗi cá nhân được thể hiện rõ nét trong việc
thực hiện các kỹ năng kết cấu. Nếu học sinh chậm chạp, khả năng quan sát
yếu thì thực hiện nhóm kỹ năng này rất khó khăn vì trẻ mẫu giáo thích chơi
nhóm riêng lẻ, nếu không có khả năng quan sát tốt thì trẻ sẽ tranh giành đồ
chơi của nhau hoặc đánh nhau, gây tai nạn là điều không tránh khỏi. Điều này
khẳng định quan điểm kỹ năng của Nguyễn Ánh Tuyết là “Kỹ năng là năng
lực của mỗi người, kỹ năng vừa có tính ổn định, vừa có tính mềm dẻo, tính
linh hoạt và tính sáng tạo”. Trẻ mẫu giáo là trẻ rất hiếu động, trẻ chỉ thích
chơi những gì trẻ thấy mới lạ và hấp dẫn. Nắm được tâm lý này học sinh có
72
rất nhiều sáng tạo trong việc hướng trẻ vào chơi các trò chơi toán học. Ví dụ
cho trẻ chơi trò chơi toán học củng cố biểu tượng số 7, hôm nay cô có thể sử
dụng đồ dùng là các loại quả, ngày mai cô có thể dùng các con vật đồ chơi.
Nói chung khi xuống dạy ở các trường mầm non học sinh linh hoạt sáng tạo
hơn tập dạy trên cô.
Kỹ năng có khả năng kết hợp vừa chơi với trẻ và điều khiển các nhóm
chơi khác là kỹ năng học sinh rất lúng túng và có điểm số thấp. Ở đây có
nguyên nhân khách quan là trẻ, đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi rất biết các cô
giáo thực tập không nghiêm khắc với chúng nên chúng thường không nghe
lời, hay liên kết thành những nhóm chơi khác do đó việc điều khiển trẻ làm
việc là tương đối khó khăn đối với học sinh thực tập. Nhiều nhóm nếu như
không có giáo viên chính thì học sinh không điều khiển nổi một buổi chơi vì
trẻ coi thường cô giáo thực tập. Kỹ năng biết phối hợp nhịp nhàng giữa các
bước trong trò chơi học sinh thực hiện cũng còn gặp nhiều khó khăn nguyên
nhân chính là do học sinh chưa được thực hành nhiều, hoặc chưa nhớ giáo án,
chưa linh hoạt.
Tóm lại kỹ năng của thành phần kết cấu phụ thuộc không những vào
khả năng của học sinh mà còn phụ thuộc vào trẻ của từng nhóm. Muốn điều
khiển được trẻ thì học sinh phải có kiến thức vững vàng và kỹ năng thuần
thục thì dù ở nhóm nào, với trẻ nào học sinh cũng có thể tổ chức được các trò
chơi đặc biệt là trò chơi toán học.
3.1.4. Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần thực hiện nhiệm
vụ.
Kết quả bảng 4 cho thấy kỹ năng thuộc thành phần thực hiện nhiệm vụ
học sinh thực hiện ở mức độ tốt hơn các kỹ năng ở thành phần nhận thức,
thiết kế, kết cấu. Điều này thể hiện ở chỗ học sinh thực hiện các kỹ năng ở
mức độ giỏi cao hơn (13,5%) so với các nhóm kỹ năng trên. Mức khá cũng
ngang bằng các nhóm kỹ năng trên. Mức trung bình, yếu kém thấp hơn so với
73
các nhóm kỹ năng đã trình bày ở trên. Đây là nhóm kỹ năng đạt điểm số trung
bình cao nhất (75%) so với chuẩn. ở nhóm kỹ năng thuộc thành phần thực
hiện nhiệm vụ hầu hết học sinh nắm vững lý thuyết, thực hành ít sai sót.
Nhiều em đã biết thực hành một cách linh hoạt, sáng tạo không cần có sự
giám sát của giáo viên.
Trong 4 kỹ năng của thành phần thực hiện nhiệm vụ thì kỹ năng “Phổ
biến luật chơi, nội dung chơi một cách hợp lý, hấp dẫn. Tiến hành đúng các
bước quy định” có điểm số trung bình 1 kỹ năng cao nhất (0,433). kỹ năng
“biết chơi cùng trẻ khi cần thiết (làm mẫu) và điều khiển trẻ theo đúng yêu
cầu của nhóm mẫu giáo 5 - 6 tuổi có điểm số trung bình thấp nhất (0,335).
Bảng 4. Mức độ các kỹ năng thuộc thành phần thực hiện nhiệm vụ (điểm
tối đa là 2; mỗi kỹ năng, điểm cao nhất là 0,5đ; số học sinh =54; tần số
xuất hiện ở 4 kỹ năng là 216)
stt Nội dung
Mức1 (ke) 0,1đ Mức2 (y) 0,2đ Mức3 (tb) 0,3đ Mức4 (kh) 0,4đ Mức5 (g) 0,5 Điểm tb của 1 KN X
1 5 28 21 11 0,433
1 Biết phổ biến luật chơi, nội dung chơi một cách hợp lý, hấp dẫn, tiến hành đúng các bước quy định
1 3 24 24 2 0,335
22 20 8 0,357 1 3
2 Biết chơi cùng trẻ khi cần thiết (làm mẫu) và điều khiển trẻ theo đúng yêu cầu của nhóm mẫu giáo 5- 6 tuổi 3 Phát hiện kịp thời, uốn nắn những sai sót của trẻ
16 25 10 0,375 1 2
74
4 Biết đánh giá, nhận xét kết quả chơi
Tổng % 4 1,8% 13 6% 90 41,7% 80 37,0% 29 13,5% 1,5 75%
2 kỹ năng phát hiện kịp thời, uốn nắn những sai sót của trẻ; biết đánh
giá, nhận xét kết quả chơi có điểm số trung bình tương đối cao (0,357 và
0,375) so với các kỹ năng của các nhóm kỹ năng vừa trình bày ở trên.
Nguyên nhân thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần thực hiện nhiệm
vụ đạt ở mức tương đối cao vì đây là nhóm kỹ năng học sinh thực hiện
thường xuyên không những đối với trò chơi toán học mà còn ở tất cả các trò
chơi khác như trò chơi phân vai theo chủ đề, trò chơi với chữ cái, trò chơi âm
nhạc...trong chương trình CSGD trẻ mầm non có ít nhất 6 loại trò chơi có
luật. Ngày nào học sinh cũng phải hướng dẫn 1 trò chơi có luật vào buổi chiều
do đó kỹ năng phổ biến luật chơi, nội dung chơi tương đối thuần thục.
Mặc dù nhiều em hướng dẫn luật chơi rất tốt nhưng cũng có một số em
hướng dẫn luật chơi còn ấp úng, chưa hấp dẫn thậm chí còn có em không phổ
biến được luật chơi, nội dung chơi. Yêu cầu phổ biến luật chơi đối với trẻ
mầm non phải rõ ràng, ngắn gọn, có thể kết hợp vừa phổ biến luật chơi vừa
làm mẫu với đồ dùng trực quan điều này học sinh làm chưa thuần thục vì các
em được tập luyện ít.
Kỹ năng biết chơi cùng trẻ khi cần thiết là kỹ năng học sinh thực hiện
yếu nhất trong nhóm kỹ năng tổ chức thực hiện, ở đây nguyên nhân chủ quan
chiếm vai trò quan trọng. Không phải học sinh nào cũng chơi cùng trẻ được.
Để chơi được cùng trẻ học sinh phải tập làm trẻ và có khả năng quan sát tốt,
tính linh hoạt và khả năng giao tiếp tốt. Điều khiển trẻ là công việc tương đối
khó. Để điều khiển trẻ làm việc tốt, giáo viên phải có kinh nghiệm, nắm rất
vững tâm lý của từng trẻ trong nhóm. Đối với học sinh khó khăn nhất trong
quá trình thực tập là việc điều khiển trẻ làm việc vì học sinh chưa có kinh
nghiệm điều khiển trẻ làm việc, chưa hiểu hết tâm lý trẻ. Không thể dùng các
75
biện pháp cứng rắn, áp dụng lý thuyết một cách máy móc để điều khiển trẻ
được. Đối với trẻ ở độ tuổi mẫu giáo chỉ khi nắm được hết điểm mạnh, điểm
yếu của chúng mới điều khiển nổi. Chỉ trong thời gian ngắn đi thực tập học
sinh chưa có đủ thời gian để tìm hiểu hết mọi trẻ. Hơn nữa quy luật tâm lý lan
toả thể hiện rất rõ ở độ tuổi mẫu giáo, ví dụ nếu như một em không nghe lời
thì cả nhóm không nghe lời cô giáo. Do đó để làm được cô giáo mầm non thì
học sinh phải có tính kiên trì cao, nắm chắc tâm lý trẻ em ở các độ tuổi.
Kỹ năng phát hiện kịp thời, uốn nắn những sai sót của trẻ, biết đánh giá
nhận xét kết quả chơi học sinh làm tương đối tốt nhưng còn một số sai sót
sau: Kỹ năng uốn nắn những sai sót của trẻ học sinh thực hiện nhưng chưa
khéo, Ví dụ có em uốn nắn ngay khi các cháu làm sai, như vậy sẽ làm giảm
hứng thú chơi ngay của trẻ, có em uốn nắn bằng cách nói lại luật chơi nhưng
nói quá dài cũng làm giảm hứng thú chơi của trẻ. Kỹ năng đánh giá kết quả
chơi của trẻ cũng còn nhiều sai sót. Ví dụ học sinh luôn khen trẻ, khen ngay
cả khi cháu thực hiện sai. Đây là điều không nên làm đối với các cháu mẫu
giáo 5-6 tuổi chuẩn bị vào lớp 1. Cách đánh giá này làm cho trẻ luôn luôn ở tư
tưởng tự mãn, không đương đầu được với thất bại sau này. Thích khen, ghét
chê là tâm lý chung của mọi mgười, nhưng người lớn không nên dùng biện
pháp “khen cả khi sai” để làm hài lòng trẻ mà phải giúp trẻ nhìn nhận được
cái sai của mình, trò chơi là biện pháp tốt nhất để giáo dục tố chất này trong
nhân cách của trẻ. Học sinh chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc nhận xét
đánh giá nên hầu như sử dụng phương pháp khen là chính.
Như vậy các kỹ năng thuộc thành phần thực hiện nhiệm vụ là các kỹ
năng học sinh thực hiện tương đối tốt. Học sinh nắm được lý thuyết, thực
hành ít sai sót hơn vì nhóm kỹ năng này được thực hiện thường xuyên không
những ở trò chơi toán học mà còn ở tất cả các trò chơi học tập khác.
3.1.5. Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần giao tiếp
Kết quả ở bảng 5 cho thấy mức độ thực hiện kỹ năng ở thành phần giao
76
tiếp đạt (69,7%) thấp hơn so nhóm kỹ năng thiết kế (71,4%), nhóm kỹ năng
thực hiện nhiệm vụ (75%) nhưng cao hơn nhóm kỹ năng nhận thức (69,3%),
nhóm kỹ năng kết cấu (66,9%). Mức độ kém không có; mức độ yếu có 9,2%;
mức độ trung bình là 43,5%; mức độ khá là 36,1%; mức độ giỏi là 11,2%.
Như vậy ở mức yếu cũng cao và ở mức giỏi cũng cao. Nhóm kỹ năng giao
tiếp là nhóm kỹ năng phụ thuộc nhiều không những vào yếu tố khách quan
mà còn phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của từng học sinh do đó độ chênh lệch
77
về điểm số giữa các kỹ năng là tất yếu.
Bảng 5. Mức độ các kỹ năng thuộc thành phần giao tiếp (điểm tối đa là 2;
mỗi kỹ năng, điểm cao nhất là 0,5đ; số học sinh =54; tần số xuất hiện ở 4
kỹ năng là 216)
Điểm Mức5 Mức4 Mức3 Mức1 Mức2
tb của 1 (g) (kh) (tb) (ke) (y) stt Nội dung 0,5 0,4đ 0,3đ 0,1đ 0,2đ KN X
1 Có khả năng sử 0 4 32 14 4 0,333
dung đa dạng,
phong phú các
phương tiện ngôn
ngữ khác nhau
(giọng nói, nét mặt,
cử chỉ)
2 Biết động viên, 0 1 19 25 9 0,377
khuyến khích trẻ
kịp thời
3 Biết xử lý các tình 0 6 25 16 7 0,344
huống xảy ra trong
quá trình chơi
4 Biết trao đổi bàn 0 9 18 23 4 0,340
bạc với trẻ, với giáo
viên khác
Tổng 0 20 94 78 24 1,394
% 0% 9,2% 43,5% 36,1% 11,2% 69,7%
Ở nhóm kỹ năng giao tiếp có sự phân hoá giữa mức độ yếu và giỏi
nhưng hầu như mức độ trung bình và khá vẫn là phổ biến tức là học sinh nắm
78
được lý thuyết, thực hành đúng quy trình và ít sai sót.
Trong 4 kỹ năng của thành phần giao tiếp thì kỹ năng biết động viên,
khuyến khích trẻ kịp thời là kỹ năng có điểm số trung bình cao hơn (0,377).
Kỹ năng có điểm số thấp nhất là kỹ năng có khả năng sử dụng đa dạng, phong
phú các phương tiện ngôn ngữ khác nhau như giọng nói, nét mặt, cử chỉ (điểm
số trung bình là 0,333). 2 kỹ năng biết xử lý các tình huống xảy ra trong quá
trình chơi và biết trao đổi bàn bạc với trẻ đạt mức độ như các kỹ năng của các
nhóm khác.
Qua tìm hiểu thực tế chúng tôi thấy kỹ năng giao tiếp là kỹ năng học
sinh cho là không khó nhưng để giao tiếp tốt với trẻ khi tổ chức trò chơi toán
học không phải học sinh nào cũng làm tốt được. Có những học sinh tập luyện
rất nhiều nhưng khả năng sử dụng đa dạng các phương tiện ngôn ngữ không
thể hấp dẫn được. Cũng có học sinh chỉ thực hành một hai lần đã có kỹ năng
sử dụng đa dạng các phương tiện ngôn ngữ. Do đó chúng tôi cho rằng kỹ
năng sử dụng đa dạng, phong phú các phương tiện ngôn ngữ khác nhau phụ
thuộc nhiều vào năng khiếu sư phạm của mỗi học sinh. Cách đây 4 năm khi
vào trường học sinh đều phải thi môn năng khiếu đó là đọc kể diễn cảm do đó
học sinh những năm trước có năng khiếu ngôn ngữ hơn hẳn những năm gần
đây khi đầu vào chỉ thi 2 môn văn, toán. Mặt khác kỹ năng sử dụng đa dạng
phong phú các phương tiện ngôn ngữ khác nhau, học sinh được học ở môn
làm quen với văn học, với những học sinh có tư duy ngôn ngữ tốt, linh hoạt
mới thực hiện tốt kỹ năng này được. Do vậy kỹ năng sử dụng đa dạng phong
phú các phương tiện ngôn ngữ khác nhau có điểm trung bình thấp nhất trong
nhóm kỹ năng giao tiếp có nguyên nhân chủ quan là thực tế. Kỹ năng biết
động viên, khuyến khích trẻ kịp thời là kỹ năng dễ làm nhất và học sinh thích
làm nhất. Qua thực tế chúng tôi thấy học sinh hơi lạm dụng kỹ năng này. Bất
cứ làm việc gì học sinh cũng khen trẻ, dù việc đó trẻ làm sai học sinh vẫn
79
khen. Kỹ năng này học sinh sử dụng thường xuyên nên có điểm số cao hơn,
nhưng nó cũng làm cho trẻ coi thường học sinh nếu các học sinh không sử
dụng đúng lúc, đúng chỗ.
Như vậy các kỹ năng thuộc thành phần giao tiếp học sinh thực hiện ở
mức độ nắm được lý thuyết, thực hành đúng quy trình, một số em có năng
khiếu sư phạm thực hành thành thạo thể hiện ở điểm giỏi chiếm khá nhiều.
1-69 Tổng hợp các kỹ năng của 5 thành phần nhận thức, thiết kế, kết cấu,
thực hiện nhiệm vụ, giao tiếp xếp theo tổng điểm trung bình của các kỹ năng
- KN V – Thành phần giao tiếp. X = 1,394
1,500
1,450
1,400
1,350
1,300
KN I KN II KN III KN IV KN V
1,250
KN V
KN I KN II KN III
KN IV
ta có biểu đồ sau: - KN I – Thành phần nhận thức. X =1,386 - KN II – Thành phần thiết kế. X = 1,429./ - KNIII – Thành phần kết cấu. X = 1,339 - KN IV – Thành phần tổ chức thực hiện. X = 1,500
Hình 4: Biểu đồ thực trạng các nhóm kỹ năng tổ chức trò chơi toán học
Hình 4 cho thấy biểu đồ thực trạng 5 nhóm kỹ năng tổ chức trò chơi toán
80
học thì nhóm kỹ năng thuộc thành phần tổ chức thực hiện có điểm số trung
bình cao nhất, tức là các kỹ năng thuộc thành phần tổ chức thực hiện học sinh
thực hiện tốt nhất. Còn nhóm kỹ năng thuộc thành phần kết cấu có điểm số
trung bình thấp nhất tức là các kỹ năng thuộc thành phần kết cấu học sinh
thực hiện kém nhất. Đây là thực tế khách quan vì các kỹ năng ở thành phần tổ
chức thực hiện là những kỹ năng cụ thể, học sinh phải thực hiện thường
xuyên, điều này chứng tỏ học sinh đi thực tập rất nghiêm túc. Kỹ năng thuộc
thành phần kết cấu là kỹ năng học sinh thực hiện yếu nhất. Đây là nhóm kỹ
năng tương đối trừu tượng, học sinh phải biết vận dụng rất linh hoạt các tình
huống sư phạm, kết hợp hài hoà kiến thức của môn tâm lý học với kiến thức
của các môn học khác thì mới đạt hiệu quả cao. Nhưng đối với học sinh có
khả năng nhận thức trung bình, tư duy lô gíc yếu như học sinh trường TCSP
mầm non thì các kỹ năng kết hợp, liên kết, phối hợp học sinh thực hiện yếu.
Do đó số liệu mà đề tài thu nhận được là tương đối chính xác và khách quan.
Trong 20 kỹ năng tổ chức trò chơi toán học, kỹ năng phổ biến luật chơi, nội
dung chơi một cách hấp dẫn, tiến hành đúng các bước quy định là kỹ năng có
điểm số cao nhất (0,433/0,500) tức là kỹ năng phổ biến luật chơi, nội dung
chơi là kỹ năng học sinh thực hiện tốt nhất. Đây cũng là thực tế khách quan và
chính xác vì kỹ năng này học sinh được tập luyện nhiều ở tất cả mọi trò chơi.
Còn kỹ năng có điểm số thấp nhất là kỹ năng dự đoán tình huống xảy ra và
hướng giải quyết. Kỹ năng có khả năng kết hợp vừa chơi với trẻ vừa điều
khiển các nhóm chơi khác (0,331/0,500) tức là 2 kỹ năng này học sinh thực
hiện kém nhất, nguyên nhân chính ở đây là do học sinh chưa có kinh nghiệm,
tư duy sáng tạo của học sinh còn ở mức độ và sự linh hoạt trong khâu quản ký
trẻ còn kém. Sự chênh lệch không nhiều giữa kỹ năng có điểm cao nhất và kỹ
năng có điểm thấp nhất nói lên để tổ chức tốt trò chơi toán học học sinh phải
luyện tập tất cả các kỹ năng, không được coi trọng một kỹ năng nào và cũng
không nên coi thường kỹ năng nào. Các kỹ năng tổ chức một trò chơi phải
81
nằm trong một chỉnh thể thống nhất.
Điểm trung bình của tất cả 5 nhóm kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của
học sinh là 7,048. Mỗi học sinh tổ chức một trò chơi toán học đều được đánh
giá trên trẻ của cả nhóm bằng cách tính phần trăm số cháu nắm được biểu
tượng, % số cháu có xúc cảm dương tính với trò chơi toán học, % số cháu có
hành vi tích cực với trò chơi toán học, cách tính điểm ở trang 60. Kết quả cụ
thể ở phần phụ lục. Điểm trung bình của trẻ là 8,394. Để tính mối tương quan
giữa mức độ thực hiện các kỹ năng của cô và kết quả thể hiện ở trẻ chúng tôi
n
d
2 i
dùng hệ số tương quan Spearman ( sr ) được tính bằng công thức sau:
∑ 6.
= − 1
r s
−
= i 1 2 n n .(
1)
=
−
d
X
X
i
t
id là hiệu giữa điểm số của học sinh và của trẻ
g s /
Trong đó ; n là số
học sinh thực hiện trò chơi toán học =54. Kết quả thu được từ phần mềm
Exell, ta có sr =0,994, với độ tự do k= n - 2 = 54-2=52 và với độ tin cậy p =
sr =0,994 ta có thể kết luận kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học sinh có
99,99% ta có sr tới hạn là 0,3541. Như vậy sr =0,994> sr tới hạn = 0,3541. Với
sự liên quan rất chặt chẽ với hứng thú toán học ở trẻ. Hâù hết học sinh có
điểm số trung bình của các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cao thì điểm
hứng thú toán học của trẻ ở nhóm học sinh tổ chức trò chơi toán học cũng
cao. Nhưng cũng có một số trường hợp (không nhiều) điểm của học sinh cao
nhưng điểm của trẻ thấp hơn, hoặc ngược lại điểm của học sinh thấp nhưng
điểm của trẻ lại cao.
Tìm hiểu thực tế chúng tôi thấy việc nhận thức các biểu tượng toán học
trẻ nắm bắt không phải chỉ trên lớp mẫu giáo mà còn ở mọi lúc, mọi nơi, qua
ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, ti vi, sách báo...Còn xúc cảm, tình cảm và hành vi
của trẻ ở trò chơi toán học nó tuân theo quy luật tâm lý lan toả. VD ở một
nhóm mẫu giáo học sinh tổ chức trò chơi toán học rất hấp dẫn nhưng trẻ
82
không hào hứng chơi vì ngày hôm đó em lớp trưởng nghỉ ở nhà ăn giỗ.Tìm
hiểu nguyên nhân chúng tôi thấy thường khi giáo viên tổ chức trò chơi nào thì
em lớp trưởng hay làm trước, các bạn khác làm theo, nếu lớp trưởng vui vẻ,
thoải mái thì cả lớp vui vẻ, nếu lớp trưởng buồn thì cả lớp cũng ít cười nói.
Do đó lớp trưởng nghỉ thì cả nhóm cũng thấy buồn, chơi không hứng thú.
Hiện tượng này thể hiện rõ ở các lớp mẫu giáo nông thôn, nơi trẻ em nhút
nhát, ít giao tiếp
với bên ngoài.
Bảng 6: Điểm tổng hợp của học sinh và trẻ, hiệu giữa 2 cặp đại lượng
2
id∑
stt Nội dung Học sinh Trẻ
X
7.048đ 8,394đ 160 1
2 Điểm thấp nhất 4,6đ 6,4 đ
Điểm cao nhất 8,8 đ 9,6 đ 3
Từ 4,6đ – 5,9đ Có 16 em=29,6% 0 = 0 % 3
Từ 6đ – 7,9 đ 21 em = 38,8% 17 = 31,5% 4
Từ 8đ - 10đ 17 em = 31,6 % 37 = 68.5% 5
Như vậy về tổng thể điểm trung bình chung tất cả các kỹ năng của học
sinh là 7,048, điều này chứng tỏ mức độ thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi
toán học của học sinh đạt ở mức khá tức là học sinh nắm được lý thuyết, thực
hành ít sai sót. Có đến 31,6% em có kỹ năng tổ chức trò chơi toán học đạt
điểm giỏi, điểm số này nói lên sau khi thực tập tốt nghiệp nhiều em nắm vững
lý thuyết, thực hành thành thạo trong các điều kiện khác nhau, có sáng tạo. Số
học sinh đạt điểm khá cao nhất (38,8%) tức là số học sinh này nắm vững lý
thuyết, thực hành ít sai sót. Số học sinh đặt mức độ trung bình cũng chiếm
29,6%, tức là học sinh chỉ nắm được lý thuyết và thực hành đúng quy trình.
Không có học sinh đạt mức yếu kém. Có thể nói rằng học sinh đã nắm được
83
lý thuyết, thực hành đúng quy trình và ít sai sót, nhiều em đã thực hành thành
thạo trong các điều kiện khác nhau. Điều này có thể khẳng định học sinh ra
trường có thể tổ chức được các trò chơi toán học cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Tóm lại: Thực trạng mức độ thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán
học của học sinh hệ trung cấp chính quy khoá 2004 – 2006 đạt ở mức khá tức
là học sinh nắm được lý thuyết về kỹ năng tổ chức trò chơi toán học, đã thực
hành tổ chức được các trò chơi toán học theo đúng quy trình, nhiều em thực
hành ít sai sót, có những em thực hành thành thạo trong mọi điều kiện không
cần sự giám sát của giáo viên. Điều này chứng tỏ học sinh rất nghiêm túc học
tập và chịu khó luyện tập khi đi thực tập tốt nghiệp
3.2. Nghiên cứu thực nghiệm
3.2.1. Giả thuyết thực nghiệm
Để có nội dung thực nghiệm sát với thực tế, đề tài đã làm phiếu thăm
dò ý kiến của giáo viên hướng dẫn thực tập, giáo viên hướng dẫn thực hành
và học sinh hệ 12+2 khoá học 2004 – 2006 về những vấn đề mà giáo viên và
học sinh khó khăn khi tổ chức trò chơi toán học, những sai sót, nhu cầu cần
bồi dưỡng để học sinh tổ chức tốt trò chơi toán học. Kết quả điều tra ở 27 giáo
viên sư phạm hướng dẫn thực tập, giáo viên mầm non hướng dẫn thực hành
và 191 học sinh được trình bày trong bảng 7.
Bảng 7. Những khó khăn mà học sinh thường gặp khi tổ chức trò chơi
toán học
Giáoviên(n=27) Học sinh(n=191)
Stt Nội dung
Số ý kiến Số ý kiến
% 0 % 30 % 15,7% 0 1 Khó khăn trong việc xác
định mục đích của trò chơi
13 48,1% 72 37,6% 2 Được thực hành trên nhóm
ít
3 Đồ dùng đồ chơi chưa đủ để 21 77,7% 145 75,9%
tổ chức trò chơi
4 Hiệu quả sử dụng đồ chơi 13 48,1% 100 52,3%
84
chưa tốt
5 Khó khăn trong giao tiếp 11 40,7% 76 39,7%
với trẻ
6 Khó khăn trong phổ biến 5 18,5% 117 61,2%
luật chơi
7 Khó khăn trong khâu tiến 0 0% 5 26%
hành cho trẻ chơi
8 Khó khăn trong khâu nhận 4 14,8% 17 7,3%
xét đánh giá Nhìn vào bảng 7 ta thấy đối với giáo viên, kỹ năng chuẩn bị, và sử
dụng hiệu quả đồ dùng, đồ chơi, kỹ năng giao tiếp, thực hành trên nhóm ít là
những kỹ năng khó khăn nhất. Đây là thực tế khách quan vì trò chơi toán học
nào cũng cần phải có đồ dùng trực quan, thông qua các đồ dùng trực quan trẻ
mới nắm được các biểu tượng cụ thể, mà học sinh không có thời gian làm đồ
dùng, đồ chơi để tập dạy trẻ.
Kỹ năng giao tiếp cũng là những kỹ năng khó, để có những kỹ năng
giao tiếp tốt thì học sinh không những phải luyện tập thường xuyên mà cũng
cần phải có năng khiếu nhất định, những em nói lắp, nói nhát gừng thường tổ
chức trò chơi toán học không được hấp dẫn . Các kỹ năng khác cũng có ý kiến
đồng ý là có khó khăn nhưng không đáng kể nên đề tài không thống kê vào
bảng.
Đề tài cũng đã lấy ý kiến tham khảo của giáo viên và học sinh về các
vấn đề cần thực nghiệm để nâng cao khả năng tổ chức trò chơi toán học cho
trẻ mẫu giáo. Tất cả ý kiến được tổng hợp trong bảng 8.
Bảng 8 cho thấy nội dung, phương pháp hướng dẫn trò chơi toán học
trong chương trình CSGD trẻ mầm non là phù hợp vì tất cả giáo viên và học
sinh đều đồng ý. Nhưng về kỹ năng thì cả giáo viên và học sinh đều muốn bồi
dưỡng lại trước khi xuống thực tập ở trường mầm non. Qua tìm hiểu chúng tôi
thấy 20 kỹ năng cơ bản để tổ chức tốt trò chơi toán học học sinh được học ít
nhất trong 4 môn học ( tâm lý học, giáo dục học, toán học, ngôn ngữ học). Ví
85
dụ: kỹ năng hiểu khả năng chơi và hứng thú chơi của trẻ được học trong môn
tâm lý học, kỹ năng xác định mục đích và nội dung trò chơi được học trong
môn toán, kỹ năng giao tiếp được học trong môn tiếng việt- văn học, kỹ năng
lập kế hoạch được học trong môn giáo dục học. Mỗi môn học dạy vào thời
điểm khác nhau do đó học sinh rất lúng túng khi tổ chức trò chơi toán học.
Những vấn đề này còn thể hiện ở chỗ khi đề tài đưa ra câu hỏi đóng thì giáo
viên và học sinh trả lời rất tốt, nhưng với câu hỏi mở thì hầu như giáo viên và
học sinh không trả lời hoặc không biết. Khi thực hiện các kỹ năng nếu giáo
viên nhắc thì học sinh làm, còn giáo viên không nhắc thì học sinh quên,
không biết thực hiện thế nào. Khi hỏi về số lần thực hiện các thao tác để có kỹ
năng
Bảng 8. Ý kiến của giáo viên và học sinh về nội dung, phương pháp
hướng dẫn, kỹ năng cần thiết để tổ chức tốt trò chơi toán học
Stt Nội dung Học sinh (n=191)
Giáo viên (n=27) %
Số ý kiến 27 Số ý kiến 100% 126 % 66% 1 Đồng ý với nội dung của các trò chơi
toán học trong chương trình
2 Đồng ý với phương pháp hướng dẫn trò 27 100% 153 80%
chơi toán học
3 Cần tối thiểu 20 kỹ năng mới tổ chức tốt 27 100% 174 91%
trò chơi toán học
4 Những nhóm kỹ năng nào quan trọng
nhất
- Kỹ năng nhận thức - Kỹ năng thiết kế - Kỹ năng kết cấu - Kỹ năng tổ chức thực hiện - Kỹ năng giao tiếp
5 Cần phải bồi dưỡng cho học sinh những
nội dung nào
- Hệ thống các kỹ năng - Quy trình tổ chức trò chơi toán 17 5 4 13 15 27 27 63% 18,5% 14,8% 48,1% 55,5% 100% 100% 41 30 27 53 42 191 191 21,5% 15,7% 14,1% 27,7% 22% 100% 100%
học
86
6 Luyện tập mấy lần thì học sinh biết cách
tổ chức trò chơi toán học
- Tối đa: 5 lần 4 lần 3 lần Không ghi - Tối thiểu: 3 lần
2 lần 1 lần Không ghi
10 13 61 107 8 59 24 100 9 5 13 0 6 17 4 0 5,2% 6,8% 31,9% 56% 4,2% 31% 12,5% 52,3%
33,3% 18,5% 48,1% 0 % 22,2% 63% 14,8% 0%
cả học sinh và giáo viên trả lời không được tự tin, rất ít người trả lời, điều này
chứng tỏ cả giáo viên và học sinh đều không quan tâm đến thời gian hình
thành kỹ năng.Từ thực trạng trên chúng tôi đưa ra giả thuyết “Nếu học sinh
được trang bị các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học một cách có hệ thống
và được bồi dưỡng quy trình tổ chức trò chơi toán học trước khi đi thực tập
tốt nghiệp thì kết quả tổ chức trò chơi toán học ở học sinh và trẻ được nâng
lên “. Đây là giả thiết mà đề tài sẽ tổ chức thực nghiệm trong thời gian học
sinh đi thực tập tốt nghiệp ở các trường mầm non
3.2.2. Tổ chức thực nghiệm
Đề tài sẽ tổ chức thực nghiệm trong đợt thực tập tốt nghiệp của học
sinh. Số học sinh được chia thành 2 nhóm: nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm. Nhóm đối chứng tiến hành thực tập theo kế hoạch của nhà trường
như những năm học trước. Nhóm thực nghiệm sau khi đo lần 1(trước thực
nghiệm) cùng với nhóm đối chứng đề tài sẽ trang bị cho học sinh hệ thống
các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học và quy trình tổ chức trò chơi toán
học. Hệ thống kỹ năng tổ chức trò chơi toán học chúng tôi đã trình bày ở
phần nghiên cứu thực trạng còn quy trình tổ chức trò chơi toán học chúng
tôi đưa vào thực nghiệm như sau:
Bước 1: Nghiên cứu mục đích, nhiệm vụ, nội dung, các luật của trò
87
chơi
Yêu cầu : - Phải nắm được tâm lý của đối tượng mình phụ trách
- Hiểu các biểu tượng sẽ được củng cố trong trò chơi (một trò chơi
có thể củng cố nhiều biểu tượng)
- Nắm vững mục đích, yêu cầu, nội dung, các luật của trò chơi
Bước 2: Thiết kế trò chơi
- Nếu trò chơi hướng dẫn trong tiết học ta phải nghiên cứu các biểu tượng
cũ ở phần ôn kiến thức cũ và biểu tượng mới hình thành ở phần dạy kiến thức
mới.
- Nếu trò chơi ngoài tiết học phải nghiên cứu thời điểm chơi, đồ chơi, tâm
lý của trẻ để kích thích hứng thú của trẻ, phần này gồm các hành động quy
hoạch quá trình thực hiện nhiệm vụ, tính toán các phương án hành động,
dự kiến các tình huống xẩy ra và cách giải quyết.
Bước 3: Hướng dẫn chơi
- Giới thiệu tên trò chơi.
- Giới thiệu nội dung, các luật của trò chơi.
- Cho trẻ chơi (trong quá trình chơi cô quan sát theo dõi trẻ chơi cho
đúng luật, nếu có sai sót cô giúp trẻ và khuyến khích trẻ chơi đúng luật)
- Hứng thú toán học mà trẻ thu được là kết quả của trò chơi.
Ví dụ: Trò chơi “tìm đúng số nhà “nếu biểu tượng số lượng thì yêu cầu trẻ
phải tìm được nhà có số đúng theo yêu cầu của cô, trẻ phải được nói cười
thoải mái, sau khi chơi xong trẻ thích chơi với những trò chơi toán học. Nếu
là biểu tượng hình dạng thì nhà là các hình hoặc các khối mà cô giáo yêu cầu
tìm...
Chú ý:
- Trẻ phải thực hiện các yêu cầu của cô theo luật nhất định
- Trẻ phải chủ động tìm đến kết quả
88
- Cô giáo phải quan sát kỹ các động tác mà trẻ làm
- Trò chơi phải được tổ chức dưới hình thức thi đua để phát huy tính
tích cực ở trẻ.
Bước 4: Đánh giá kết quả và nhận xét
- Cô giáo kiểm tra từng nhóm, từng cá nhân về cách làm và kết quả
- Cô giáo nhận xét, góp ý để lần chơi sau trẻ vẫn thích chơi, ít gặp lỗi, ở
bước này yếu tố tâm lý đóng vai trò rất quan trọng vì trẻ thích khen.
Trẻ thường cho kết quả của mình là tốt nhất nên nghệ thuật khen chê của cô
giáo giữ vai trò quan trọng. Nếu trẻ thấy thoả mãn giờ sau trẻ sẽ hứng thú học.
Còn nếu trẻ không thoả mãn giờ sau trẻ không muốn chơi. Học sinh hay bị
mắc lỗi ở đây vì kiến thức tâm lý chưa chắc và chưa biết rõ tâm lý của từng
trẻ.
20 kỹ năng và quy trình tổ chức trò chơi toán học chúng tôi tập huấn
cho học sinh ở nhóm thực nghiệm và tất cả các giáo viên hướng dẫn thực tập
ở nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm. Không phải học sinh thực hiện một
lần đã có kỹ năng tốt ngay. Các kỹ năng được hình thành ban đầu chỉ ở mức
độ yếu kém, tối thiểu 2 lần tổ chức trò chơi thì mức độ thực hiện các kỹ năng
mới lên mức khá, giỏi được. Do đó biện pháp thứ 3 đề tài đưa vào thực
nghiệm là. “Giám sát số lần tổ chức trò chơi toán học của học sinh ở nhóm
thực nghiệm”
Như vậy 3 nội dung đề tài thực nghiệm là 3 biện pháp chính để hình thành,
nâng cao, hoàn thiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho học sinh.
* Nhóm thực nghiệm thực nghiệm một số biện pháp giúp học sinh hình
thành nhanh, có hệ thống các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5-6
tuổi bằng cách tập huấn cho giáo viên (ở nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm), học sinh ở nhóm thực nghiệm các nội dung:
89
Quy trình tổ chức một trò chơi toán học cho trẻ 5-6 tuổi. Các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học một cách có hệ thống.
Các mức độ đánh giá kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học
sinh.
Nhóm đối chứng tiến hành thực tập theo kế hoạch của nhà trường như mọi
năm.
* Sẽ tổ chức một nhóm thực nghiệm gồm 53 học sinh và nhóm đối chứng
gồm 54 học sinh thực tập ở 6 trường mầm non (vì chỉ có 107 em thực tập ở
lớp mẫu giáo 5-6 tuổi).
* Sau khi học sinh tổ chức một trò chơi toán học giáo viên hướng dẫn thực
tập phân tích các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học, khái quát hoá các mức độ
hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5-6 tuổi cho học sinh rồi
đánh giá mức độ thực hiện các kỹ năng vào phiếu đánh giá.
* Nhóm thực nghiệm được trang bị kiến thức còn nhóm đối chứng chỉ trang
bị cách đánh giá cho giáo viên hướng dẫn thực tập.
* Cả 2 nhóm thực nghiệm và đối chứng đều được đo 2 lần. Lần đo trước
thực nghiệm (lần1) đo vào các ngày từ 5 =>10 tháng 3 năm 2006. Lần đo sau
thực nghiệm (lần 2) vào các ngày từ 24=>27 tháng 4 năm 2006. Đề tài đã huy
động 6 cô giáo trưởng các đoàn thực tập tham gia đo ở cả 2 lần,do đó số liệu
thu được là tương đối khách quan.
* Tất cả các tiêu chí đánh giá đều được lượng hoá bằng điểm theo các mức
độ. Đối với phiếu 2 đề tài sẽ tính theo thang điểm 10. Có 20 kỹ năng tối đa sẽ
được 10 điểm, như vậy mỗi kỹ năng tối đa sẽ là 0,5 điểm, chúng tôi phân chia
như sau:
- Mức kém mỗi kỹ năng được 0,1 điểm
- Mức yếu mỗi kỹ năng được 0,2 điểm
- Mức trung bình mỗi kỹ năng được 0,3 điểm
- Mức khá mỗi kỹ năng được 0,4 điểm
- Mức giỏi mỗi kỹ năng được 0,5 điểm
90
Như vậy
- Học sinh đạt từ 0 đến 1,9 điểm là ở mức kém (ke) - Học sinh đạt từ 2 đến 3,9 điểm là ở mức yếu (y) - Học sinh đạt từ 4 đến 5,9 điểm là ở mức trung bình (tb) - Học sinh đạt từ 6 đến 7,9 điểm là ở mức khá (kh) - Học sinh đạt từ 8 đến 10 điểm là ở mức giỏi (g)
Đối với phiếu 4 – phiếu đánh giá trẻ chúng tôi cũng tính theo thang điểm 10.
Cả 3 tiêu chí đều tính theo %. Ở mỗi tiêu chí 1% được tính là 0,1 điểm. điểm
+
+
X
X
X
t 1
t 3
2
=
X
t
t 3
;
;
X X X là điểm của 3 tiêu chí ở phiếu 4
t
t
t 1
2
3
trung bình cho phiếu 4 sẽ được tính bằng công thức
3.2.3. Kết quả thực nghiệm
3.2.3.1. So sánh kết quả trước thực nghiệm (lần 1) của cả 2 nhóm
đối chứng và nhóm thực nghiệm
Trước khi làm thực nghiệm chúng tôi đã khảo sát đầu vào của cả nhóm
đối chứng và nhóm thực nghiệm về mức độ thực hiện 20 kỹ năng (kết quả cụ
thể của từng học sinh có ở phần phụ lục). Tổng hợp lại có bảng sau:
Bảng 9: Kết quả trước thực nghiệm (lần 1) của cả 2 nhóm đối chứng và
nhóm thực nghiệm
Học sinh (người) Trẻ (nhóm) Nhóm Stt Điểm TN TN ĐC ĐC
X
1 5,554 5,587 7,933 7,935
σ
2 0,786 0,937 0,874 0,816
3 Điểm thấp nhất 4,4 5,4 6,3 4,0
4 Điểm cao nhất 7,5 9,4 9,3 7,3
5 Từ 0 đ–1,9 đ 0 0 0 0
91
6 Từ 2đ - 3,9 đ 0 0 0 0
7 35 Từ 4đ - 5,9 đ 38 2 0
% 71,7% 64,8% 3,8% 0 %
8 19 Từ 6đ - 7,9 đ 15 31 24
% 28,3% 35,2% 58,5% 44,4%
9 0 Từ 8đ - 10 đ 0 20 30
% 0 % 0% 37,7% 55,6%
54 10 Cộng 53
Bảng 9 cho thấy trước thực nghiệm mức độ thực hiện các kỹ năng của
nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm có số điểm số tương đương nhau. Về
điểm số số trung bình ở nhóm đối chứng cao hơn nhóm thực nghiệm là 0,033
còn về độ lệch chuẩn của học sinh ở lớp đối chứng cao hơn lớp thực nghiệm
là 0,151. Hệ số khác biệt giữa điểm số trung bình và độ lệch chuẩn của học
−
X
1
=
U
d
sinh nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng được tính bằng công thức
2
X 2 σ σ 2 + 2
n
1 n 1
2
. Thay số vào ta cóUd = 0,197 mà Uα,k = 2,6718 => Ud <
Uα,k vậy có thể kết luận rằng sự khác biệt giữa điểm số trung bình và độ lệch
chuẩn của nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm là không đáng kể về mặt
thống kê với độ tin cậy p < 0,001 tức là tương đương với 99,99% . Tìm hiểu
nguyên nhân của vấn đề này chúng tôi thấy học sinh ở các đoàn thực tập trước
khi đi thực tập có kiến thức và kỹ năng tương đương nhau, chúng tôi phải trực
tiếp đánh giá một số học sinh ở nhóm thực nghiệm cùng với một giáo viên
toán để tìm ra độ tin cậy trong các số liệu do các giáo viên khác đánh giá.
Còn nhóm đối chứng, chúng tôi chỉ đánh giá mẫu cho 3 em còn các
giáo viên chỉ đạo thực tập đánh giá là chính. Có nhiều người tham gia đánh
giá do đó có sự chênh lệch về điểm số đánh giá là đúng. Độ lệch chuẩn của
nhóm đối chứng 0,937 của nhóm thực nghiệm là 0,786. Điều này chứng tỏ sự
92
phân tán về điểm số của nhóm đối chứng cao hơn nhóm thực nghiệm tức là
trước thực nghiệm nhóm đối chứng có nhiều em đạt điểm rất thấp nhưng cũng
có nhiều em đạt điểm khá cao. Còn nhóm thực nghiệm độ phân tán ít hơn
nhóm đối chứng. Theo chúng tôi có thể học sinh ở nhóm thực nghiệm đã bị
chi phối tâm lý bởi các giáo viên đánh giá vì chúng tôi thấy có những em tổ
chức trò chơi toán học tay run lập cập hoặc sợ không nói lên lời.
Điểm cao nhất và thấp nhất, điểm theo các mức độ của 2 nhóm đối
chứng và nhóm thực nghiệm không chênh lệch nhau nhiều.
Về trẻ, điểm trung bình chung không chênh lệch nhau nhưng về điểm
số trên 8 điểm thì nhóm đối chứng nhiều hơn nhóm thực nghiệm, theo chúng
tôi điều này liên quan đến tâm trạng của học sinh cũng như trẻ. Như trên
chúng tôi đã phân tích học sinh không tự nhiên, thoải mái khi bị các giáo viên
dạy chính bộ môn đó đánh giá, học sinh có tâm trạng lo lắng, sợ sệt làm cho
trẻ không thấy phấn khởi, thoải mái khi tiếp nhận trò chơi toán học. Do đó
hứng thú toán học của trẻ kém đi.
Đối với trẻ điểm trung bình chung của 2 nhóm đối chứng và thực
nghiệm ngang nhau. Như vậy ta có thể kết luận rằng trước thực nghiệm trẻ ở
nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm có trình độ nhận thức và hứng thú toán
học ngang nhau. Học sinh cũng có các mức độ kỹ năng thực hiện trò chơi
toán
học ngang nhau trước khi vào thực nghiệm.
Sau khi đo lần 1 nhóm đối chứng được tiến hành theo đúng kế hoạch
của nhà trường không có tác động gì thêm. Nhóm thực nghiệm ngoài việc
thực hiện như kế hoạch của nhà trường còn được tập huấn về hệ thống các kỹ
năng tổ chức trò chơi toán học, quy trình tổ chức một trò chơi toán học, phân
tích các mức độ thực hiện các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học. Ngoài ra
trong thời gian thực tập mỗi học sinh nhóm thực nghiệm phải tổ chức ít nhất 2
trò chơi toán học (sau 2 lần tổ chức trò chơi toán học thì giáo viên mới khảo
93
sát các kỹ năng theo phiếu 2).
Theo kế hoạch của nhà trường thì mỗi học sinh phải thực tập tốt
nghiệp ở 2 độ tuổi. Trong thời gian 3 tháng thực tập, học sinh xuống trực tiếp
giảng dạy ở 1 độ tuổi chỉ khoảng thời gian 4 tuần vì 3 tuần đầu học sinh phải
kiến tập, bình điểm mẫu, lên kế hoạch còn tuần cuối là tuần tổng kiểm tra, học
sinh chỉ chuẩn bị bài kiểm tra đã hết thời gian. Còn thời gian 8 tuần học sinh
trực tiếp giảng dạy ở 2 độ tuổi là mẫu giáo và nhà trẻ (có thể 4 tuần dạy ở
nhóm mẫu giáo 5 tuổi và 4 tuần dạy ở nhà trẻ). Như vậy thời gian đi thực tập
nhiều nhưng thời gian học sinh giảng dạy trực tiếp ở các lớp mẫu giáo 5 –6
tuổi là không nhiều.
Ở nhóm thực nghiệm giáo viên giám sát việc tổ chức trò chơi toán học
tương đối chặt chẽ, còn ở nhóm đối chứng mọi việc diễn ra theo đúng kế
hoạch của nhà trường.
Cuối đợt thực tập chúng tôi khảo sát lần 2 ở cả 2 nhóm (đối chứng và
thực nghiệm). Kết quả khảo sát lần 2 so với lần 1 ở từng nhóm như sau:
3.2.3.2. So sánh kết quả trước thực nghiệm (lần 1) và sau thực
nghiệm (lần 2) của nhóm đối chứng.
Bảng 10 cho thấy cuối đợt thực tập mức độ thực hiện các kỹ năng tổ chức
trò chơi toán học tăng lên một cách đáng kể. Điểm trung bình, điểm cao nhất,
điểm thấp nhất của học sinh và trẻ sau thực nghiệm (lần 2) đều cao hơn trước
thực nghiệm (lần 1). Ở lần 1 học sinh thực hiện các kỹ năng chủ yếu ở mức
trung bình (64,8%), khá =35,2%, không có loại giỏi.
Bảng 10: Kết quả trước thực nghiệm (lần 1) và sau thực nghiệm (lần 2)
của nhóm đối chứng (n=54)
Lần 1(n=54) Lần 2(n=54) Stt Nội dung H/Sinh H/Sinh Trẻ Trẻ
X
1 5,587 7,935 7,048 8,394
0,937 0,816 1,149 0,825 2 σ
94
3 Điểm thấp nhất 4,0 6,3 4,6 6,4
4 Điểm cao nhất 7,3 9,3 8,8 9,6
5 Từ 0 đ - 3,9 đ 0 0 0 0
% 0% 0% 0% 0%
6 Từ 4 đ-5,9 đ 35 0 16 0
% 64,8% 0 % 29,6% 0%
7 Từ 6 đ - 7,9 đ 19 24 21 17
% 35,2% 44,4% 38,8% 31,5%
8 Từ 8 đ- 10 đ 0 30 17 37
% 0% 55,6% 31,6% 61,5%
Đo ở cuối đợt thực tập (lần 2) thì mức khá giỏi đã tăng lên rõ rệt, mức
trung bình chỉ còn 29,6%. Đối với trẻ sự khác biệt giữa 2 lần đo cũng có
nhưng không đáng kể, thể hiện ở chỗ: cả 2 lần đo hứng thú của trẻ đều đạt ở
mức 6đ - 10đ, nhưng ở lần đo 2 trẻ đạt mức 8đ - 10đ nhiều hơn (61,5%) còn ở
lần đo 1 điểm 8 - 10 chỉ đạt 55,6%. Để biết sự khác biệt giữa lần đo trước
thực nghiệm (lần 1) và lần đo sau thực nghiệm (lần 2) về mức độ thực hiện
−
X
1
=
U
d
2
X 2 σ σ 2 + 2
1 n 1
n 2
các kỹ năng của học sinh ta tính hệ số khác biệt với công thức tính:
Điền số liệu ở bảng 10 ta có Udg =7,390 mà U(α,k)=2,6700 như vậy với độ tin cậy p < 0,001 tức là tương đương với 99,99% ta có Ud > U(α,k) như vậy mức
độ thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của nhóm đối chứng trước khi
vào thực tập và sau khi thực tập xong có sự khác biệt rõ nét về mặt thống kê.
Điều này chứng tỏ rằng 4 giai đoạn hình thành kỹ năng đều quan trọng như
nhau, nếu 3 giai đoạn trên thực hiện không tốt thì ảnh hưởng rất nhiều đến
giai đoạn 4 – giai đoạn hoàn thiện kỹ năng. Các số đo sau thực nghiệm (lần 2)
95
đều cao hơn số đo trước thực nghiệm (lần 1) của nhóm đối chứng và với Udg > U(α,k) ta có thể kết luận rằng quá trình đi thực tập của học sinh đạt kết quả
khá. Mức độ thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học được nâng lên rõ rệt
nhưng vẫn còn nhiều em đạt ở mức trung bình, điểm số chưa được cao.
Hệ số khác biệt của trẻ giữa 2 lần đo cũng được tính bằng công thức tính trên, thay số ở bảng 10 vào công thức tính ta có Udt = 2,910 mà U(α,k)
=2,6700. Với độ tin cậy p < 0,001 tức là tương đương với 99,99% ta có Udt > U(α,k) điều này chứng tỏ hứng thú toán học của trẻ đo ở lần 2 có sự khác biệt
so với lần đo đầu nhưng không nhiều vì (Udt - U(α,k) = 0,24 < 1 ). Hệ số
khác biệt giữa 2 lần đo về hứng thú toán học của trẻ so với hệ số khác biệt về
mức độ thực hiện các kỹ năng của học sinh thấp hơn, điều này cho thấy hứng
thú toán học của trẻ không những chỉ liên quan tới kỹ năng tổ chức trò chơi
toán học của cô giáo mà nó còn liên quan tới nhiều yếu tố khác. Những yếu tố
đó có thể là gia đình và xã hội.
3.2.3.3. So sánh kết quả mức độ thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi
toán học ở nhóm thực nghiệm trước và sau thực nghiệm (lần 1 và lần 2)
Bảng 11 cho thấy trước và sau thực tập mức độ kỹ năng tổ chức trò
chơi toán học được nâng lên rõ rệt. Các điểm số trung bình, điểm cao nhất,
96
thấp nhất của cô và trẻ ở lần đo 2 cao hơn lần đo 1.
Bảng 11: Kết quả trước thực nghiệm (lần 1) và sau thực nghiệm (lần 2)
của nhóm thực nghiệm (n=53).
Lần 1 (n = 53) Lần 2 (n=53) Stt Nội dung H/Sinh H/Sinh Trẻ Trẻ
X
1 5,554 7,933 7,711 8,749
σ
2 0,786 0,874 0,710 0,884
3 Điểm thấp nhất 4,4 5,4 5,0 7,2
4 Điểm cao nhất 7,5 9,4 9,3 10
5 Từ 0 đ- 3,9 đ 0 0 0 0
% 0% 0% 0% 0%
6 Từ 4 đ- 5,9 đ 38 2 1 0
% 71,7% 3,8% 1,9% 0%
7 Từ 6 đ - 7,9 đ 15 31 34 7
% 28,3% 58,5% 64,1% 13,2%
8 Từ 8đ - 10 đ 0 20 18 46
% 0% 37,7% 34% 86,8%
Sau thực nghiệm số học sinh đạt điểm khá và giỏi tăng lên nhiều, số em ở
mức trung bình giảm đi rõ rệt. Để thấy được mối quan hệ giữa lần đo 1 và lần
đo 2 ta tính hệ số khác biệt U. Dựa vào công thức trên ta có Utng =11,2 mà U(α,k) = 2,6718, với độ tin cậy p < 0,001 tương đương với 99,99% => Utng > U(α,k), điều này chứng tỏ số đo lần 1 và số đo lần 2 của nhóm thực nghiệm
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Những số liệu ở bảng 11 cho thấy sau
thực nghiệm mức độ thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học sinh
tốt hơn nhiều trước thực nghiệm. Tìm hiểu nguyên nhân, chúng tôi thấy: sau
khi được tập huấn về kỹ năng, quy trình tổ chức một trò chơi toán học học
sinh rất tự tin, bình tĩnh, say mê nghiên cứu tìm hiểu vấn đề. Đề tài quy định
tổ chức ít nhất 2 trò chơi toán học trong đợt thực tập nhưng có em học sinh đã
97
tổ chức đến 7 lần và vẫn muốn tổ chức thêm. Khi học sinh đã tổ chức thuần
thục trẻ rất hồ hởi phấn khởi tiếp nhận những kiến thức trong trò chơi, có
những xúc cảm tình cảm mạnh mẽ với các trò chơi toán học do đó kết quả thể
hiện ở trẻ được nâng lên rõ rệt. Hệ số khác biệt giữa 2 lần đo về hứng thú toán học ở trẻ là Utnt = 4,780 mà U(α,k) = 2,6718 với độ tin cậy p <0,001 tức là tương đương với 99,99% => Utnt > U(α,k) điều này chứng tỏ rằng sự khác
biệt giữa 2 lần đo về hứng thú toán học của trẻ có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê, tức là hứng thú toán học của trẻ được nâng lên sau quá trình thực
nghiệm.
Như vậy nhóm thực nghiệm sau khi được tác động thực nghiệm mức độ
thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học sinh và hứng thú toán học
của trẻ thu được sau trò chơi ở lần đo sau thực nghiệm cao hơn nhiều ở lần đo
trước thực nghiệm, điều này chứng tỏ tác động thực nghiệm là có hiệu quả
cao. Điều đáng quan tâm ở đây là hệ số khác biệt giữa 2 lần đo về hứng thú
toán học ở trẻ cao hơn nhóm đối chứng nhiều, theo chúng tôi điều này chứng
tỏ mức độ thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học sinh tốt thì sẽ
tạo cho trẻ có hứng thú toán học cao. Mặc dù hứng thú toán học của trẻ còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhưng với trò chơi toán học thì kỹ năng tổ
chức trò chơi của cô giáo giữ vai trò then chốt trong quá trình hình thành
hứng thú cho trẻ.
3.2.3.4. So sánh kết quả sau thực nghiệm (lần 2) của nhóm đối
chứng và nhóm thực nghiệm.
Bảng 12 cho thấy cuối đợt thực tập, mức độ thực hiện các kỹ năng tổ
chức trò chơi toán học được nâng lên ở cả nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm. Điểm trung bình kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học sinh,
điểm thấp nhất, điểm cao nhất của nhóm thực nghiệm đều cao hơn nhóm đối
chứng. Không còn học sinh nào tổ chức trò chơi toán học ở mức kém, yếu,
tức là không có học sinh đạt điểm dưới 4 ở cả hai nhóm đối chứng và thực
98
nghiệm. Riêng độ lệch chuẩn của nhóm thực nghiệm thấp hơn nhóm đối
chứng điều đó chứng tỏ rằng độ phân tán điểm số của nhóm đối chứng cao
hơn nhóm thực nghiệm hay nói cách khác học sinh nhóm thực nghiệm thực
hiện các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học đều hơn nhóm đối chứng.
Bảng 12: Kết quả sau thực nghiệm của nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm (lần 2)
Học sinh Trẻ Nhóm
Stt Điểm TN TN ĐC ĐC
X
1 7,711 7,048 8,749 8,394
σ
0,710 1,149 0,884 0,825 2
3 Điểm thấp nhất 5,0 4,6 7,2 6,4
4 Điểm cao nhất 9,3 8,8 10,0 9,6
5 Từ 0đ -3,9 đ 0 0 0 0
6 Từ 4đ - 5,9 đ 1 16 0 0
% 1,9% 0% 29,6% 0 %
7 Từ 6đ - 7,9 đ 34 21 7 17
% 64,1% 38,8% 13,2% 31,5%
8 Từ 8đ - 10 đ 18 17 46 37
% 34% 31,6% 89,8% 61,5%
U 9 11,200 7,390 4,780 2,910
Hệ số khác biệt (U) của học sinh ở nhóm thực nghiệm (11,200) cao
hơn nhóm đối chứng (7,390) ở lần đo sau thực nghiệm, điều này chứng tỏ sự
khác biệt mức độ thực hiện các kỹ năng của học sinh trước và sau thực
nghiệm của 2 nhóm này có ý nghĩa về mặt thống kê, điều này chứng tỏ mức
độ thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học sinh sau thực nghiệm
ở nhóm thực nghiệm tốt hơn học sinh ở nhóm đối chứng. Còn ở trẻ, hệ số
khác biệt giữa hai lần đo của cả 2 nhóm đối chứng và thực nghiệm cũng khác
nhau, ở nhóm thực nghiệm hệ số khác biệt giữa 2 lần đo cao hơn ở nhóm đối
99
chứng (4,780/ 2,910), điều này chứng tỏ khả năng nhận thức các biểu tượng
toán học và hứng thú toán học của trẻ ở nhóm thực nghiệm tốt hơn ở nhóm
đối. Nhưng hệ số khác biệt của trẻ giữa 2 lần đo so với hệ số khác biệt của
học sinh thấp hơn, điều này cũng có nguyên nhân khách quan vì với trẻ quá
trình nhận thức diễn ra một cách từ từ, không có đột biến như người lớn, do
đó sự khác biệt giữa 2 lần đo có biên độ thấp hơn là hợp lý. Về mức độ thực
hiện các kỹ năng cả 2 nhóm đối chứng và thực nghiệm đều nằm ở 3 mức đó
là; mức 3 (từ 4đ - 5,9đ) – trung bình; mức 4 (từ 6đ – 7,9đ) – khá; mức 5 (từ 8đ
29.6
31.6
Møc3-Trung b×nh
Møc 4-Kh¸
Møc 5-Giái
38.8
- 10đ)– giỏi. Ta có biểu đồ sau:
Hình 5:Biểu đồ mức độ thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của
100
nhóm đối chứng
1.9
34
Møc3-Trung B×nh
Møc 4-Kh¸
Møc 5-Giái
64.1
Hình 6: Biểu đồ mức độ thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của
nhóm thực nghiệm
Hình 5 và 6 cho thấy mức độ thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán
học ở cả 2 nhóm đối chứng và thực nghiệm ở lần đo 2 đều cao hơn lần đo 1
nhưng mức độ tăng của nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm đối chứng. Ở nhóm
thực nghiệm tỷ lệ tăng từ mức độ kém, yếu, trung bình lên mức độ khá, giỏi
nhiều hơn. Cuối đợt thực nghiệm hầu hết học sinh có mức độ thực hiện các kỹ
năng ở mức khá giỏi tức là ở mức học sinh nắm vững lý thuyết, thực hành ít
sai sót và thực hành thành thạo các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học. Độ lệch
chuẩn thấp ở nhóm thực nghiệm cho thấy các học sinh ở nhóm thực nghiệm tổ
chức đều tay hơn. Điều này còn thể hiện ở chỗ điểm thấp nhất của nhóm thực
nghiệm cao hơn nhóm đối chứng. Với kết quả của nhóm thực nghiệm chúng
tôi có thể kết luận rằng: ”Trước khi đi thực tập học sinh được trang bị các
kỹ năng tổ chức trò chơi toán học một cách có hệ thống, được trang bị quy
trình tổ chức trò chơi toán học, được công khai hoá cách đánh giá mức độ
thực hiện các kỹ năng và được giáo viên giám sát chặt chẽ trong quá trình
thực tập thì mức độ thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học
sinh được nâng lên nhiều”. Đây là giả thiết mà đề tài đưa ra trước khi làm
thực nghiệm. Khi học sinh nắm vững lý thuyết, thực hành thành thạo trong
101
các điều kiện khác nhau thì học sinh mới thi tuyển dụng được việc làm . Đây
là mong muốn không chỉ của học sinh, của giáo viên mà của tất cả mọi người.
Như vậy giả thuyết thực nghiệm đã được chứng minh.
3.3. Kết luận chương 3
Qua quá trình nghiên cứu, đề tài đã thực hiện được nhiệm vụ đã đề ra
là tìm hiểu thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học sinh trường
TCSP mầm non Thái Bình đó là học sinh tổ chức trò chơi toán học ở giữa
mức khá ( X =7,048) tức là học sinh nắm được lý thuyết, thực hành đúng quy
trình và ít sai sót. Một số em thực hành thành thạo trong các điều kiện khác
nhau. Đề tài đã tìm ra được nhóm kỹ năng học sinh tổ chức tốt nhất là kỹ
năng thuộc thành phần thực hiện nhiệm vụ, nhóm kỹ năng kết cấu là nhóm kỹ
năng yếu nhất. Kỹ năng học sinh thực hiện tốt nhất là kỹ năng phổ biến luật
chơi, nội dung chơi một cách hợp lý, hấp dẫn. Tiến hành đúng các bước quy
định. Còn kỹ năng dự đoán tình huống xảy ra và hướng giải quyết, kỹ năng
kết hợp vừa chơi vừa điều khiển các nhóm chơi khác trong nhóm là những kỹ
năng yếu nhất. Nhờ những phát hiện này chúng tôi sẽ có phương án rèn luyện
cho các học sinh ở khoá sau. Với học sinh khoá 2004 –2006 chúng tôi chưa
kịp sử dụng kết quả nghiên cứu thực trạng vì tháng 6/2006 các em đã ra
trường về địa phương công tác. Còn phần thực nghiệm đề tài đã đưa ra giả
thiết thực nghiệm là bồi dưỡng cho học sinh hệ thống kỹ năng tổ chức trò
chơi toán học, quy trình tổ chức một trò chơi toán học, cho học sinh tổ chức ít
nhất 2 trò chơi toán học trong đợt thực tập tốt nghiệp, giáo viên giám sát học
sinh nhiều hơn thì kết quả là học sinh tổ chức tốt trò chơi toán học. Học sinh ở
nhóm thực nghiệm đều đạt mức khá giỏi. Các chỉ số ở nhóm thực nghiệm đều
cao hơn nhóm đối chứng. Điều này chứng tỏ nội dung thực nghiệm và cách tổ
chức thực nghiệm của chúng tôi là sát với thực tế và có hiệu quả. Chúng tôi sẽ
102
tiếp tục nghiên cứu những vấn đề này ở trẻ 4-5 tuổi, 3 –4 tuổi, và nhà trẻ.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực tế về kỹ năng tổ chức trò chơi toán
học, chúng tôi có một số kết luận sau:
- Phần lý luận về kỹ năng, kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cả giáo viên và
học sinh đều còn rất yếu, điều này thể hiện ở chỗ khi trao đổi với giáo viên về
kỹ năng rất nhiều người không biết kỹ năng là gì. Kỹ năng tổ chức trò chơi
gồm những thành phần gì thì hầu như ai cũng chỉ trả lời những kỹ năng cụ
thể, còn việc khái quát hoá thành các nhóm kỹ năng thành phần thì kể cả giáo
viên và học sinh đều không biết. Phần lý luận yếu còn thể hiện ở chỗ các câu
hỏi đóng cả giáo viên và học sinh đều trả lời rất đầy đủ nhưng câu hỏi mở cả
giáo viên và học sinh đều trả lời kém, nhiều câu không trả lời được, điều này
không phải giáo viên và học sinh không có ý thức trả lời mà do thực sự họ
không biết.
- Kỹ năng và kỹ năng tổ chức trò chơi là những công việc không khó so với
103
trình độ nhận thức của học sinh nhưng nếu không tập luyện thường xuyên thì
mức độ thực hiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học sẽ bị giảm đi. Thực tế ở
nhóm đối chứng đã chứng minh điều đó. Một số em điểm đo ở lần 2 thấp hơn
điểm đo ở lần 1(ví dụ học sinh Nguyễn Toán điểm lần 1 = 6,7; lần 2=5,7;
Trần Thuý điểm lần 1=5,3; lần 2= 5,0).Tìm hiểu nguyên nhân ở giáo viên
đánh giá chúng tôi thấy giáo viên không để ý vấn đề này vì sau khi đánh giá
hết 1 lần chúng tôi thu phiếu ngay để phiếu có tính khách quan, chúng tôi so
sánh số điểm ngay trên bảng tổng hợp. Tìm hiểu nguyên nhân ở học sinh thì
học sinh nói “Trong thời gian thực tập em chưa một lần tổ chức trò chơi
toán học vì trong thời gian thực tập em không bốc được ngày nào có môn
toán, buổi chiều nhóm em phụ huynh hay đón sớm nên việc tổ chức trò
chơi học tập còn được ít”. Đây là một thực tế khách quan ở nhiều đoàn thực
tập và ở nhiều năm dẫn học sinh đi thực tập tốt nghiệp. Chúng tôi đã đưa vấn
đề này vào thực nghiệm và đã thu được kết quả là khắc phục sai sót trên ở
nhóm thực nghiệm
- Trò chơi toán học là một dạng trò chơi học tập tương đối dễ thực hiện đối
với mọi học sinh, trẻ rất thích chơi trò chơi toán học. Nhưng nhiều học sinh
vẫn ngại tổ chức trò chơi toán học nguyên nhân do học sinh chưa nắm chắc lý
thuyết về quy trình tổ chức trò chơi toán học, các kỹ năng tổ chức trò chơi
toán học. Trò chơi toán học là trò chơi tạo ra cho trẻ mẫu giáo hứng thú toán
học nhiều nhất, hứng thú toán học ở trẻ mẫu giáo là cơ sở cho sự xuất hiện
năng lực toán học của học sinh phổ thông.
- Phần thực hành kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cả giáo viên và học sinh
đều nắm được, nhưng nhiều chỗ chưa chắc chắn. Nếu được nhắc lại thường
xuyên thì học sinh thực hành tốt. Như vậy việc rèn kỹ năng là phải liên tục,
thường xuyên, theo từng giai đoạn cụ thể. 4 giai đoạn hình thành kỹ năng mà
trường chúng tôi đang thực hiện là hợp lý với tình hình hiện nay. Còn kỹ năng
tổ chức nhà trường đã trang bị cho học sinh nhưng chưa thành hệ thống, các
104
kỹ năng thành phần được dạy rải rác ở nhiều môn học. Điều này làm cho học
sinh khó tổng hợp, hay quên trong lúc thực hành, chỉ nhớ ra khi có người
nhắc.
- Học sinh sẽ tổ chức rất tốt trò chơi toán học nếu trước khi đi thực tập được
giáo viên sư phạm hệ thống lại các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học và quy
trình hướng dẫn tổ chức trò chơi toán học. Trong quá trình thực tập tốt nghiệp
nếu mỗi học sinh tổ chức được ít nhất 2 lần trò chơi toán học thì mức độ thực
hiện các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học được nâng lên rõ rệt, học sinh sẽ tổ
chức được trò chơi toán học một cách hấp dẫn trong mọi điều kiện khác nhau.
2. Kiến nghị
- Phải bồi dưỡng cho giáo viên và học sinh lý luận về kỹ năng, kỹ năng tổ
chức. Là trường dạy nghề nên dạy kỹ năng là nhiệm vụ chính, học sinh ra
trường phải có kỹ năng giảng dạy trẻ mầm non những kiến thức sơ đẳng và
phải biết tổ chức các hoạt động, các trò chơi. Nhưng lý thuyết về kỹ năng thì
cả giáo viên và học sinh chưa hiểu, chưa nắm được đầy đủ. - Tài liệu lý thuyết về kỹ năng rất ít. Cả ngành học mầm non không có tài
liệu nào nói về lý thuyết kỹ năng. Chỉ những ai làm đề tài về kỹ năng mới
quan tâm đến lý thuyết về kỹ năng. Các tài liệu chủ yếu viết về các kỹ năng
cụ thể do đó chúng tôi mong muốn có những tài liệu viết về lý thuyết kỹ năng,
kỹ năng sư phạm, kỹ năng tổ chức một cách có hệ thống.
- Trò chơi toán học là trò chơi trẻ rất thích thú, nhưng để trò chơi được hấp
dẫn sinh động phải kết hợp nhiều yếu tố như phổ nhạc thêm cho các luật chơi,
điều này chương trình của Bộ giáo dục không có. Cả chương trình cho năm
học Bộ giáo dục đưa vào chỉ có 5 trò chơi mà 5 trò chơi không mang tính khái
quát do đó giáo viên và học sinh phải rất cố gắng tìm tòi đưa vào chương trình
những trò chơi mới. Việc đưa những trò chơi mới vào dạy cũng rất khó khăn
vì Sở giáo dục yêu cầu phải dạy như sách giáo khoa mà sách giáo khoa rất sơ
105
sài và lạc hậu. Đây cũng là điều cản trở chúng tôi đưa cái mới vào giảng dạy.
Bộ Giáo dục và Đào tạo nên xuất bản cuốn sách tuyển tập các trò chơi toán
học cho trẻ mầm non để học sinh có tài liệu tham khảo.
- Việc hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi toán học là một quá trình tương
đối dài bắt đầu từ giai đoạn nhận thức. Nếu giai đoạn nhận thức học sinh được
trang bị kiến thức đầy đủ, có hệ thống thì các giai đoạn sau học sinh sẽ rất
thuận lợi. Do đó phải dạy cho học sinh lý thuyết về trò chơi toán học một
cách có hệ thống. Điều này từ trước đến nay chưa làm được. Thường mỗi
môn dạy một số kỹ năng. Như môn toán không có một tiết lý thuyết nào dạy
về trò chơi toán học. Chỉ có phần thực hành học sinh tập dạy. Nếu giáo viên
sư phạm có kiến thức, có kinh nghiệm thì phân tích cho học sinh biết cách
thức tổ chức trò chơi toán học còn không thì học sinh phải tự tìm hiểu, do đó
ở giai đoạn 3 học sinh mất rất nhiều thời gian để làm quen với trò chơi toán
học.
- Nhà trường phải chú trọng đến khâu thực hành tập dạy trên lớp cho học
sinh. Đây là một trong những giai đoạn quan trọng để hình thành kỹ năng đối
với học sinh phổ thông mới học nghề. Nếu học sinh được tập dạy trên cô
nhiều thì khi dạy trẻ học sinh tự nhiên hơn, những kỹ năng giảng dạy được
hình thành nhanh hơn.
- Khi đi thực tập tốt nghiệp bắt buộc mỗi học sinh phải tổ chức ít nhất 2 lần
trò chơi toán học thì kỹ năng tổ chức trò chơi của học sinh mới hình thành
vững chắc và hoàn thiện được.
Trên đây là những kết luận và kiến nghị của chúng tôi trong quá trình thực
hiện luận văn tốt nghiệp. Trong phạm vi giới hạn của đề tài cũng như khả
năng, thời gian, phương pháp còn hạn chế nên chúng tôi chỉ đề cập được một
số vấn đề. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô và các bạn
106
để đề tài nghiên cứu hoàn thiện hơn.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. Đào Thanh Âm, Trịnh Dần, Nguyễn Thị Hoà (1995). Giáo dục học mầm
non - tập 3. NXB Đại học sư phạm I.
2. Nguyễn Thị Ngọc Chúc (1981). Hướng dẫn tổ chức hoạt động vui chơi
107
mẫu giáo. NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Phạm Minh Hạc (1997). Tâm lý học Vưgốtxki. NXB Giáo dục, Hà Nội 4. Phạm Minh Hạc (2002). Tuyển tập tâm lý học. NXB Giáo dục, Hà Nội 5. Phạm Minh Hạc (1996). Tuyển tập tâm lý học J.Piaget. NXB Giáo dục,
Hà Nội.
6. Lê Thị Hài (1998). Tìm hiểu biểu tượng số học ở trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
Luận văn thạc sỹ giáo dục học.
7. Lê Văn Hồng, Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (1998). Tâm lý học lứa tuổi
và tâm lý học sư phạm (tài liệu dùng cho các trờng ĐHSP và các trường
CĐSP). NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
8. Lê Xuân Hồng, Lê Thị Khang, Hồ Lai Châu, Hoàng Mai (2000). Những
kỹ năng sư phạm mầm non. NXB Giáo dục, Hà Nội.
9. Kơrutecxki V.A. (người dịch: Phạm Văn Hoàn, Lê Hải Châu, Hoàng
Thuý) (1973). Tâm lý học năng lực toán học của học sinh. NXB Giáo
toán qua dục, Hà Nội. 10. Phan Kim Liên (1990). Làm quen với trò chơi.
NXB Giáo dục, Hà Nội.
11. Vũ Đức Mai (1962). Gây hứng thú toán học cho học sinh như thế nào.
NXB Giáo dục, Hà Nội. 12. Nguyễn Đức Minh và cộng sự (1975). Một số vấn đề tâm lý học sư
phạm và lứa tuổi học sinh Việt Nam. NXB Giáo dục, Hà Nội.
13. Lê Thanh Nga (2005). Làm quen với toán qua trò chơi. NXB Trẻ,
TPHCM
14. Phan Trọng Ngọ, Dương Diệu Hoa, Nguyễn Lan Anh (2001). Tâm lý học
trí tuệ. NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.
15. Lê Bích Ngọc (1998). Một số biện pháp tổ chức trò chơi học tập nhằm
hình thành biểu tượng thiên nhiên cho trẻ mẫu giáo lớn. Luận văn thạc
108
sỹ tâm lý học.
16. Đào Thị Oanh (2003). Tâm lý học lao động. NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
17. Hoàng Thị Oanh (1998). Kỹ năng tổ chức trò chơi đóng vai có chủ đề
cho trẻ mẫu giáo bé của sinh viên trờng Cao đẳng sư phạm nhà trẻ -
mẫu giáo. Luận văn thạc sỹ Tâm lý học.
18. Hoàng Thị Oanh (2003). Nghiên cứu kỹ năng tổ chức trò chơi đóng vai
có chủ đề cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi của sinh viên trường Cao đẳng s
phạm nhà trẻ - mẫu giáo. Luận án tiến sỹ tâm lý học.
19. Pêtrôtvxki A.V. (1982). Tâm lý học trẻ em và tâm lý học sư phạm, tập 2.
NXB Giáo dục, Hà Nội.
20. Pôlia G. (người dịch: Phạm Tất Bắc, Nguyễn Giản, Hồ Thuân) (1976):
Sáng tạo toán học. NXB Giáo dục, Hà Nội.
trình triết học cao học, 21. Vũ Ngọc Pha (2002). Giáo tập 1.
NXB Chính trị Quốc gia.
22. Nguyễn Thanh Sơn, Đào Thị Minh Loan, Đào Như Trang (1994). Toán
học và phương pháp hình thành các biểu tượng toán ban đầu cho trẻ
mầm non. NXB Hà Nội.
23. Minh Tâm, Thanh Nghi, Xuân Lãm (1998): Từ điển tiếng Việt.
NXB Văn hoá Thông tin.
24. Nguyễn Thạc, Phạm Thành Nghị (1992). Tâm lý học sư phạm đại học.
NXB Giáo dục, Hà Nội.
25. Trần Trọng Thuỷ (1997). Tâm lý học lao động. NXB Trường Đại học sư
phạm I, Hà Nội.
26. Đào Như Trang (1996). Bài soạn hướng dẫn trẻ mẫu giáo làm quen với
các biểu tượng ban đầu về toán. NXB Hà Nội.
27. Trần Thị Trọng, Phạm Thị Sửu (2000). Chương trình chăm sóc giáo dục
mẫu giáo và hướng dẫn thực hiện cho trẻ 5 - 6 tuổi. NXB Giáo dục, Hà
109
Nội.
28. Nguyễn Ánh Tuyết (1997). Tâm lý học trẻ em. NXB Giáo dục Hà Nội 29. Nguyễn Ánh Tuyết, Đào Thanh Âm, Đinh Văn Vang (1998). Giáo dục
học. NXB Đại học sư phạm I.
30. Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Hoà, Đinh Văn Vang (1996). Tổ chức
hướng dẫn trẻ mẫu giáo chơi. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
31. Nguyễn Quang Uẩn (1996). Tâm lý học đại cương. NXB Đại học Sư
phạm.
Tiếng Nga
32. Äàớốởoõà Â.Â.(1987). èàũồỡàũốờàÿ ùợọóợũợõờà ọồũồộ õ ọợứờợởỹớỷừ
úữðồổọồớốÿừ, èợủờõà.
33. Âỷóợũủờốộ ậ.ẹ.(1966). ẩóðà ố ồá ðợởỹ õ ùủốừốữồủờợỡ ðàỗõốũốố
ðồỏáớờà. Âợùðợủỷ ùủốừợởợóốố
34. ấúỗỹỡốớà Í.Â.; ểðờởốớ ẩ. À. (1972). ẻủớợõỷ õúỗợõủờợộ ùồọợóợóốờà
ẩỗÄ ậồớốớóðàọủờợóợ úớốõồỗủốũồũà
35.ấúỗỹỡốớà Í.Â. (1982). ẩỗúữồớốÿ ùồọàóợóốữồủờợộ ủốủũồỡỷ. ậồớốớóðàọ
36. ấúỗỹỡốớà.Í.Â. (1980). èồũợọỷ ủốủũồỡàũốữồủờợóợ ùồọợóợóốữồủờợóợ
ốủủởồọợõàớuÿ, ậ ề ể.
37. èồũởốớà ậ. ẹ. (1985). èàũồỡàũốờà õ ọồũủờợỡ ủàọú. èợủờõà.
38. ẽởàũợớợõ ấ.ấ. (1963). ẻ ỗớàớốÿừ ớàõỷờàừ ố úỡồớốÿừ – ẹợõồũủờàÿ
ớàúờà. è.,ẩỗọ . ÀẽÍ – éẹễẹé.
39. ểỡàớủờốộ ậ.ệ. (1965). ẽủốừợởợóốÿ ợðóàớốỗàũợðủờợộ ọồÿũồởỹớợủũố
ứờợởỹớốờợõ. èợủờõà.
Tiếng Anh
110
40. Shiv Kumar Shah (2003). Demonstrate a skill. NXB Nepan.
41. John Collum (2004). Provide Skill Developmental Guidance. NXB
111
Colombo.
112