ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
TRẦN THỊ DUNG
NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA CHẤT TRONG MIOCEN BỂ PHÚ KHÁNH VÀ Ý NGHĨA DẦU KHÍ
Chuyên ngành: Địa chất học Mã số: 9440201.01
DỰ THẢO TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA CHẤT
Hà Nội - 2019
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Nghi
TS. Nguyễn Thế Hùng
Phản biện:……………………………………………………
Phản biện:……………………………………………………
Phản biện:……………………………………………………
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Đại học Quốc gia chấm luận án tiến sĩ họp tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . vào hồi giờ ngày tháng năm 20...
Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài Bể Phú Khánh nằm trong vùng biển của 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa lan rộng từ độ sâu 0m đến 3000 m thuộc thềm lục địa Miền Trung Việt Nam. Đây là một bể trầm tích dầu khí Kainozoi có cấu trúc địa chất phân dị hết sức phức tạp bởi lịch sử hình thành, phát triển và biến dạng theo các pha kiến tạo mạnh mẽ từ Oligocen đến Đệ Tứ. Trong những năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp dầu khí, bể Phú Khánh đã được đầu tư đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí. Các tài liệu địa vật lý và địa chất ngày càng phong phú là một điều kiện rất thuận lợi cho công tác nghiên cứu và đánh giá triển vọng dầu khí. Tuy nhiên, đến nay bể Phú Khánh nói chung và trầm tích Miocen nói riêng vẫn là một đối tượng chưa được làm sáng tỏ cơ chế hình thành, lịch sử phát triển và quá trình biến dạng đã làm thay đổi hoàn toàn cấu trúc địa chất của các bể trầm tích nguyên thủy. Những hiện tượng nổi tiếng được các văn liệu địa chất nói tới trong khuôn khổ bể Phú Khánh như đới đứt gãy sụt bậc 109o-110oE, đới sụt lún trung tâm, đới xiết trượt Tuy Hòa và đới nâng ngoài. Hàng loạt các hiện tượng biến dạng mạnh mẽ thể hiện trong các mặt cắt địa chấn. Vậy bản chất của chúng là gì và chúng có liên quan đến Miocen không? theo cơ chế kiến tạo nào? và có ý nghĩa gì trong hệ thống dầu khí? Để góp phần làm sáng tỏ một trong các vấn đề nêu trên nghiên cứu sinh đã chọn đề tài luận án Tiến sĩ của mình là: “Nghiên cứu lịch sử phát triển địa chất trong Miocen bể Phú Khánh và ý nghĩa dầu khí” với các mục tiêu như sau:
Mục tiêu: Làm sáng tỏ lịch sử phát triển địa chất trầm tích bể Phú Khánh theo chu kỳ các bể thứ cấp trong mối quan hệ với sự thay đổi mực nước biển toàn cầu và chuyển động kiến tạo trong Miocen và đánh giá triển vọng dầu khí liên quan.
Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu: Các thành tạo trầm tích Miocen sớm, Miocen giữa, Miocen muộn
trong phạm vi bể trầm tích Kainozoi Phú Khánh.
1
Nội dung nghiên cứu:
Luận án thực hiện các nội dung nghiên cứu chính sau đây:
- Nghiên cứu đặc điểm biến dạng các bể thứ cấp qua các thời kỳ;
- Nghiên cứu phân tầng cấu trúc và phân vùng cấu trúc nhằm làm sáng
tỏ lịch sử biến đổi cấu trúc địa chất và địa động lực các bể thứ cấp trong
Miocen;
- Nghiên cứu tiến hóa trầm tích Miocen trong mối quan hệ với hoạt
động kiến tạo;
- Đánh giá triển vọng dầu khí trên cơ sở trầm tích luận.
Các luận điểm bảo vệ của luận án:
Luận điểm 1:
Trầm tích Miocen của bể Phú Khánh có 3 tầng cấu trúc theo phương
thẳng đứng: Miocen hạ, Miocen trung và Miocen thượng. Các tầng cấu trúc
liên tục bị biến dạng bởi các hoạt động kiến tạo mạnh mẽ: đứt gãy sau trầm
tích, nén ép, nâng trồi tạo ranh giới giữa các tầng cấu trúc là bề mặt bào
mòn bất chỉnh hợp khu vực. Theo không gian và thời gian cấu trúc địa chất
liên tục biến đổi và có xu thế phức tạp hóa dần từ 3 đới cấu trúc trong
Miocen sớm đến 4 đới cấu trúc trong Miocen giữa và 5 đới cấu trúc trong
Miocen muộn.
Luận điểm 2:
Đá trầm tích có xu thế đơn giản hóa về thành phần thạch học nhưng
phức tạp hóa về tướng trầm tích từ Miocen sớm đến Miocen muộn. Trong
Miocen sớm chỉ có nhóm tướng lục nguyên aluvi đa khoáng lấp đầy các địa
hào nội lục. Đến Miocen giữa và Miocen muộn đã xuất hiện 3 nhóm tướng
gồm nhóm tướng lục nguyên ven biển và biển nông ít khoáng; nhóm tướng
ám tiêu san hô và nhóm tướng sét vôi vũng vịnh. Các nhóm tướng này được
thành tạo trong các bể trầm tích dạng ô van do sụt lún mở rộng và phân dị
đáy mạnh mẽ tạo các thủy vực vũng vịnh và quần đảo ngầm đan xen thuận
lợi cho phát triển ám tiêu san hô.
2
Các điểm mới của luận án 1. Luận án đã phân tích và phân loại các hệ thống đứt gãy trong Miocen của bể Phú Khánh ra 3 cấp: đứt gãy cấp 1 là đứt gãy đồng trầm tích tạo bể thứ cấp; đứt gãy cấp 2 là đứt gãy sau trầm tích là đứt gãy biến dạng và đứt gãy cấp 3 là đứt gãy nhánh của đứt gãy cấp 2 phát triển trong phạm vi nội bể.
2. Xây dựng được 3 sơ đồ tướng đá - cổ địa lý theo miền hệ thống của địa tầng phân tập: Giai đoạn miền hệ thống trầm tích biển thấp (LST) của Miocen sớm; Giai đoạn miền hệ thống trầm tích biển tiến (TST) Miocen giữa; Giai đoạn miền hệ thống trầm tích biển thấp (LST) Miocen muộn.
3. Đã chứng minh được tầng phản xạ trắng Miocen muộn trong mặt cắt địa chấn là do chứa phong phú vật liệu vụn vỏ sinh vật bằng lát mỏng thạch học. Đây là sản phẩm bào mòn phá hủy của các khối nâng ám tiêu san hô tuổi Miocen giữa đóng vai trò là vùng xâm thực.
4. Đã phân tích và phân loại 4 nhóm bẫy dầu khí có triển vọng: nhóm bẫy trầm tích - địa tầng phát triển ở rìa tây và khu vực trung tâm; nhóm bẫy cấu trúc – kiến tạo và nhóm bẫy hỗn hợp phát triển ở rìa đông nam và nam bể; nhóm bẫy ám tiêu san hô phát triển các khu vực các vùng nâng ở đông nam, rìa tây và rìa nam bể Phú Khánh.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 1. Ý nghĩa khoa học: - Đã làm sáng tỏ lịch sử kiến tạo của Miocen trên cơ sở nghiên cứu
quy luật biến đổi cấu trúc địa chất theo thời gian và theo không gian;
- Đã xác lập được các tổ hợp thạch kiến tạo góp phần luận giải cơ chế
hình thành các bể thứ cấp;
- Đã xây dựng các bản đồ tướng đá - cổ địa lý theo các miền hệ thống của địa tầng phân tập (LST, TST, HST) góp phần làm sáng tỏ quan hệ giữa thành phần thạch học và môi trường trầm tích với các pha kiến tạo sụt lún tạo bể và nâng cao tạo vùng xâm thực.
2. Ý nghĩa thực tiễn:
3
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa trầm tích và kiến tạo là cơ sở khoa học cho việc xác định các bẫy trầm tích - địa tầng, các bẫy cấu tạo và các bẫy hỗn hợp chứa dầu khí;
- Các bản đồ tướng đá cổ địa lý là cơ sở để xây dựng các tiền đề đánh giá triển vọng tầng sinh, tầng chứa và tầng chắn dầu khí của trầm tích Miocen bể Phú Khánh.
Bố cục của luận án: Mở đầu Chương 1: Tổng quan khu vực nghiên cứu Chương 2: Cơ sở tài liệu, phương pháp luận và các phương pháp
nghiên cứu
Chương 3: Đặc điểm biến dạng và Lịch sử biến đổi cấu trúc địa chất
các bể thứ cấp Miocen
Chương 4: Tiến hóa các bể trầm tích thứ cấp Miocen trong mối quan
hệ với lịch sử kiến tạo và Triển vọng dầu khí liên quan
Kết luận Tài liệu tham khảo.
CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN KHU VỰC NGHIÊN CỨU
1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm địa hình đáy biển Bể Phú Khánh là bể trầm tích nước sâu ở thềm lục địa miền Trung Việt Nam, kéo dài từ Quảng Ngãi đến Phan Thiết, phạm vi nghiên cứu của luận án chủ yếu từ vĩ độ 10030’ đến 15000’ Bắc và từ kinh độ 108030’ đến 112000’ Đông, có diện tích khoảng 80.000 km2. Khu vực nghiên cứu có địa hình đáy biển rất phức tạp, thay đổi nhanh từ 0m đến trên 4000m và phân dị từ bờ biển ra ngoài khơi.
1.2. Lịch sử nghiên cứu 1.2.1. Lịch sử tìm kiếm, thăm dò dầu khí bể Phú Khánh - Giai đoạn trước 1988: các khảo sát mang tính khu vực.
4
- Giai đoạn từ năm 1988 đến nay: các khảo sát thu nổ địa chấn có chất lượng tốt, đã tiến hành một số giếng khoan thăm dò, đặc biệt giếng 124- CMT-1X đã có phát hiện dầu trong Miocen. Đây là phát hiện mang tính đột phá, góp phần thúc đẩy các nhà thầu khác hoạt động tích cực trên vùng bể Phú Khánh này.
1.2.2. Lịch sử nghiên cứu địa chất và kiến tạo- địa động lực bể Phú
Khánh và lân cận
Các công trình nghiên cứu trong khu vực nghiên cứu đã phần nào làm sáng tỏ đặc điểm cấu trúc, kiến tạo, cơ chế hình thành, đặc điểm địa chất, tiềm năng dầu khí. Tuy nhiên, chưa có công trình nào tiến hành phục hồi lại cấu trúc địa chất của từng thời kỳ trong Miocen bể Phú Khánh trên cơ sở phân tích bể và giải quyết mối quan hệ giữa trầm tích, sự thay đổi mực nước biển toàn cầu và chuyển động kiến tạo.
1.3. Đặc điểm địa tầng Cho đến nay bể Phú Khánh mới có 5 giếng khoan chủ yếu đặt ở vị trí nâng cao của móng, trong đó chỉ có 02 giếng khoan tới móng. Vì vậy, vấn đề về địa tầng trầm tích của vùng nghiên cứu trong các công trình công bố được xây dựng chủ yếu dựa vào những phân tích ngoại suy từ nhiều nguồn tài liệu và chủ yếu là dùng phương pháp đối sánh với các vùng lân cận như bể sông Hồng, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Tư Chính – Vũng Mây đã được Đỗ Bạt và nnk (2018) định danh. Theo đó, địa tầng bể Phú Khánh gồm: 2 1 py), hệ tầng Phú Khánh (N1 Oligocene - Eocene (?), hệ tầng Phú Yên (N1 pk), hệ tầng Khánh Hòa (N1
3 kh) và hệ tầng Biển Đông (N2 bđ).
CHƢƠNG 2 PHƢƠNG PHÁP LUẬN, CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ TÀI LIỆU
2.1. Phƣơng pháp luận Nghiên cứu lịch sử phát triển địa chất một bể trầm tích dựa trên nguyên lý về địa tầng phân tập; các quy luật vận chuyển, phân dị và lắng
5
đọng trầm tích; đặc biệt là quan hệ nhân quả giữa trầm tích, sự thay đổi mực nước biển và hoạt động kiến tạo khu vực nghiên cứu.
Trên cơ sở nhận thức về mối quan hệ nhân quả giữa quá trình trầm tích, sự thay đổi mực nước biển và chuyển động kiến tạo tư tưởng chủ đạo đối với lịch sử phát triển địa chất bể Phú Khánh được tiếp cận từ luận điểm tiến hóa các bể trầm tích thứ cấp theo chu kỳ. 2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu Nghiên cứu sinh đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: (1) Phương pháp địa chấn - địa tầng; (2) Phương pháp phân tích tài liệu địa vật lý giếng khoan; (3) Phương pháp phân tích thạch học trầm tích; (4) Phương pháp phân tích biến dạng và phục hồi bể trầm tích và (5) Phương pháp phân tích tướng và thành lập bản đồ tướng đá – cổ địa lý.
2.3. Cơ sở tài liệu - Nghiên cứu sinh đã lựa chọn sử dụng và kế thừa các số liệu, tài liệu địa chấn, địa vật lý giếng khoan, thạch học, cổ sinh được phép tiếp cận trong khuôn khổ 02 đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành (03,04/HOPTAC-KHTN/2011/HĐ-NCKH) do Trần Nghi làm chủ nhiệm, 2013; đề tài cấp nhà nước KC.09.20/11-15 do PGS.Chu Văn Ngợi chủ nhiệm và đề tài KC.09.03/11-15 do PGS.TS. Nguyễn Trọng Tín chủ nhiệm. - Tài liệu thạch học, cổ sinh và địa vật lý giếng khoan của 07 giếng khoan (với 80 mẫu thạch học của 5 giếng khoan trong bể Phú Khánh, 01 giếng khoan bể Nam Côn Sơn, 01 giếng khoan bể Tư Chính - Vũng Mây).
- Khu vực nghiên cứu đã có hơn 40.000 km tuyến địa chấn thu nổ,
NCS đã minh giải 12 mặt cắt gốc đại diện.
CHƢƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM BIẾN DẠNG VÀ LỊCH SỬ BIẾN ĐỔI CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT CÁC BỂ THỨ CẤP TRONG MIOCEN
3.1. Bối cảnh kiến tạo khu vực Biển Đông và kế cận Bể Phú Khánh nằm trên vỏ lục địa bị vát mỏng, là một bộ phận của bối cảnh kiến tạo Biển Đông với những đơn vị kiến tạo cơ bản sau: (1)Vỏ
6
1), Miocen giữa (N1
3):
lục địa thực thụ; (2) Vỏ đại dương lộ ra ở trung tâm Biển Đông đã ngừng tách giãn; (3) Đới lục địa bị vát mỏng chuyển tiếp giữa vỏ lục địa thực thụ và vỏ đại dương; (4) Đới hút chìm Manila đang hoạt động và đới hút chìm Palawan đã ngừng hoạt động cách đây 16 triệu năm. 3.2. Các bể trầm tích thứ cấp trong Miocen Bể thứ cấp (secondary basin) là một bể trầm tích sinh thành trong một giai đoạn nhất định trong lịch sử tiến hóa bể liên quan đến 2 pha kiến tạo: sụt lún và nâng trồi, tạo nên một cấu trúc địa chất độc lập có ranh giới dưới và trên rõ ràng. Trong Miocen, bể Phú Khánh có 3 bể thứ cấp tương 2) và ứng với 3 chu kỳ trầm tích: Miocen sớm (N1 Miocen muộn (N1
1/ Ranh giới giữa bể thứ cấp Oligocen muộn và Miocen sớm: Đây là bề mặt bất chỉnh hợp góc bị biến dạng mạnh mẽ tạo nên nhiều khối nhô của móng Oligocen đóng vai trò như các vùng xâm thực cung cấp vật liệu lục nguyên cho Miocen sớm.
2/ Ranh giới giữa bể thứ cấp Miocen sớm và Miocen giữa: Mặt ranh giới trùng với mặt bất chỉnh hợp góc tương đương với tuổi dừng tách giãn đáy Biển Đông (16 triệu năm). Ranh giới này thấy rõ nhiều khối nhô móng tuổi Miocen sớm đóng vai trò như các quần đảo ngầm phát triển san hô rực rỡ trong Miocen giữa.
3/ Ranh giới giữa bể thứ cấp Miocen giữa và Miocen muộn: Đây là ranh giới bào mòn bất chỉnh hợp góc có tuổi 11 triệu năm. Các khối nhô móng là ám tiêu san hô đóng vai trò là vùng xâm thực cung cấp vật liệu vụn sinh vật cho trầm tích Miocen muộn.
4/ Ranh giới bào mòn bất chỉnh hợp địa tầng giữa Pliocen-Đệ Tứ và Miocen muộn có tuổi 5,5 triệu năm là một ranh giới bất chỉnh hợp bào mòn trên toàn bộ khu vực bể Phú Khánh, chủ yếu là do nâng cao địa hình đáy bể khỏi mực nước biển một cách đơn điệu chứ không bị phân cắt khối tảng.
3.3. Đặc điểm biến dạng các bể thứ cấp 3.3.1. Biến dạng bể do hoạt động đứt gãy
7
Nhằm mục đích là làm sáng tỏ cơ chế địa động lực và vai trò các đứt gãy trong lịch sử hình thành và phát triển các bể trầm tích Miocen của bể Phú Khánh có thể phân loại hệ thống đứt gãy làm 3 cấp: Đứt gãy cấp I là đứt gãy thuận đồng trầm tích, đóng vai trò tạo bể thứ cấp; Đứt gãy cấp II là đứt gãy sau trầm tích, tạo nên các “giả địa hào”, “giả bán địa hào” trong bối cảnh nén ép nâng trồi nghịch đảo kiến tạo toàn bể, do đó đứt gãy sẽ phá hủy toàn bộ các lớp đá của một bể thứ cấp; Đứt gãy cấp III là hệ thống đứt gãy dạng cành cây, tỏa tia trượt bằng, phân nhánh từ đứt gãy cấp II. 3.3.2. Biến dạng bể do quá trình sụt lún, nén ép và nâng trồi Biến dạng do quá trình sụt lún, nén ép và nâng trồi thường xảy ra theo 2 giai đoạn: Giai đoạn đầu sụt lún và lắng đọng trầm tích; Giai đoạn nghịch đảo kiến tạo thường xảy ra sự biến dạng kép tạo nên các oằn võng ở trung tâm và sự nâng trồi bào mòn do quá trình nén ép. Bể Phú Khánh phổ biến nhiều biến dạng oằn võng có quy mô nhỏ do có sự xen kẽ giữa các khối sụt và khối nâng địa phương.
3.3.3. Biến dạng do hoạt động núi lửa Hoạt động núi lửa trong bể Phú Khánh có nhiều pha song pha cuối cùng có tuổi Pliocen- Đệ tứ với những minh chứng sau đây: Trầm tích Miocen bị xuyên cắt tạo nên cấu tạo giả kề áp (pseudo-onlap); Khu vực trung tâm bị uốn nếp oằn võng.
Hình 3.9. Mặt cắt địa chấn tuyến L06 bể Phú Khánh chỉ ra 4 đới cấu trúc: Đới I- Thềm trong (thềm Đà Nẵng); Đới II- Đới đứt gãy kép xiết trượt Tuy Hòa (đứt gãy trượt bằng và đứt gãy thuận cánh chúc- dạng đứt gãy listric); Đới III- Đới sụt
8
3.3.4. Hệ quả của quá trình biến dạng khu vực bể Phú Khánh
Bình đồ cấu trúc địa chất hiện tại của bể Phú Khánh là hệ quả của quá trình
hoạt động kiến tạo – địa động lực trong Kainzoi gồm 5 đới chính (hình 3.22):
Đới I: đới thềm trong (gồm thềm Đà Nẵng và thềm Phan Rang), đới
nâng yếu, phân bố ở rìa tây giáp với phần đất liền có độ sâu 0-200m nước.
Đới này có cấu trúc thềm điển hình chưa bị biến dạng có địa hình nghiêng
thoải về phía đông.
Đới II: đới chuyển tiếp rìa trong. Từ thềm trong ra đới trung tâm có
dạng địa hình sụt bậc thang do tác động của hệ thống đứt gãy phương kinh tuyến 109-110oE xảy ra từ Miocen muộn đến nay.
Đới III: Đới sụt lún trung tâm (trũng Phú Yên), hiện tại nằm ở độ sâu
từ 500-2000 m nước. Bề dày trầm tích Kainozoi lớn nhất của đới sụt lún
trung tâm đạt tới khoảng 10 km.
Đới IV: Đới nâng ngoài (đới nâng Khánh Hòa) có độ sâu thay đổi từ
2500-3500m nước. Địa hình tương tự một dãy núi ngầm phân dị phức tạp
được hình thành từ Miocen muộn đến nay. Trầm tích Pliocen có mặt trong
hầu hết các hẻm giữa núi song có độ sâu thấp dần từ trong ra ngoài.
Đới V: Đới phá hủy xiết ép Tuy Hòa phân bố theo hướng tây bắc - đông nam 120o. Quan sát đặc điểm địa hình, địa mạo bờ biển khu vực Phú
Yên đến Khánh Hòa sẽ thấy rõ điều đó. Các bán đảo (Tombolo) Hòn Gốm,
Hòn Khói chạy theo phương đứt gãy tây bắc đông nam và hướng về đông nam1200 là hoàn toàn phù hợp với phương đứt gãy xiết ép của đới Tuy Hòa.
3.4. Xử lý biến dạng và phục hồi các bể thứ cấp
Như vậy, bình đồ cấu trúc địa chất hiện tại với 5 đơn vị cấu trúc như
đã mô tả ở trên là kết quả của nhiều pha kiến tạo xảy ra từ Oligocen đến Đệ
Tứ. Vì vậy muốn hiển thị được bức tranh tiến hóa cấu trúc-kiến tạo của
Miocen cần thiết phải phục hồi từng bể thứ cấp Miocen sớm, Miocen giữa
và Miocen muộn. 9
Giai đoạn Miocen sớm
Giai đoạn Miocen giữa
Giai đoạn Miocen muộn
Giai đoạn Pliocen – Đệ tứ
Hình 3.24. Mặt cắt phục hồi tuyến L03
10
1)
1/ Phân vùng cấu trúc địa chất Miocen sớm (N1 Trên mặt cắt phục hồi của bể thứ cấp Miocen sớm đã tái hiện địa hình
của đáy bể trầm tích trong suốt thời gian sụt lún kiến tạo và hoàn thành quá
trình lắng đọng đền bù trầm tích (hình 3.24). Bản đồ đẳng dày trầm tích và
bản đồ cấu trúc địa chất đã chỉ ra nguyên trạng của bể trầm tích thứ cấp sau
khi kết thúc giai đoạn sụt lún (hình 3.26, 3.27). Bản đồ đẳng dày nguyên
thủy của bể Miocen sớm cho phép khoanh định được 3 đới cấu trúc địa
chất: Đới nâng ở rìa phía tây của bể; Đới phân dị phía Đông Nam ; Đới sụt
lún mạnh ở khu vực trung tâm bể (hình 3.27).
Hình 3.27. Sơ đồ phân vùng cấu trúc Miocen sớm bể Phú Khánh
11
2)
2/ Phân vùng cấu trúc địa chất Miocen giữa (N1 Trong Miocen giữa bể Phú Khánh có 4 đới cấu trúc: đới nâng phía
Tây; đới sụt lún trung tâm; đới phân dị phía Đông Nam; đới đứt gãy phía
hủy phía Nam (hình 3.29).
3)
3/ Phân vùng cấu trúc địa chất Miocen muộn (N1 Trong giai đoạn Miocen muộn tồn tại 5 đới cấu trúc: (1) Đới nâng phía Tây; (2) Đới sụt bậc yếu từ kinh tuyến 109o-110oE; (3) Đới sụt lún yếu trung tâm; (4) Đới phân dị phía Đông Nam; (5) Đới phá hủy xiết ép Tuy
Hòa phía Nam (hình 3.31).
Hình 3.29. Sơ đồ phân vùng cấu trúc Miocen giữa 12
Hình 3.31. Sơ đồ phân vùng cấu trúc Miocen muộn bể Phú Khánh CHƢƠNG 4
TIẾN HÓA TRẦM TÍCH CÁC BỂ THỨ CẤP MIOCEN
TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI LỊCH SỬ KIẾN TẠO
VÀ TRIỂN VỌNG DẦU KHÍ LIÊN QUAN
4.1.Chu kỳ trầm tích và địa tầng phân tập
Chu kỳ trầm tích là sự lặp đi lặp lại có chu kỳ của thành phần độ hạt
và tướng trầm tích trong cột địa tầng (theo Bách khoa thư Địa chất,
tr.1263).
Từ định nghĩa đó có thể lấy ranh giới các chu kỳ trầm tích tại 11’, 22’,
33’ theo hình dưới đây.
13
Hình 4.1. Sơ đồ biểu diễn chu kỳ biển thoái và biển tiến toàn cầu
(11’: Ranh giới tại vị trí biển tiến cực đại; 22’: Ranh giới tại vị trí biển
thoái cực tiểu; 33’: Ranh giới tại vị trí trung bình)
Theo kết quả nghiên cứu của Trần Nghi (2013) để có sự tương thích
giữa chu kỳ trầm tích và địa tầng phân tập sẽ lấy ranh giới trầm tích theo đường 33’ (hình 4.1). Ranh giới này trùng với bề mặt bào mòn gián đoạn trầm tích.
2 và Phức tập N1
Theo quan điểm đó có thể phân chia trầm tích Miocen bể Phú Khánh 3. Mỗi phức 1; Phức tập N1 phân thành 3 phức tập: Phức tập N1 tập có 3 miền hệ thống: Miền hệ thống trầm tích biển thấp (LST); Miền hệ
thống trầm tích biển tiến (TST) và Miền hệ thống trầm tích biển cao (HST)
(bảng 4.1).
Bảng 4.1. Liên hệ đối sánh địa tầng phân tập và tướng trầm tích trong mối quan hệ với sự thay đổi mực nước biển
14
4.2. Đặc điểm tƣớng đá -cổ địa lý theo địa tầng phân tập
4.2.1. Đặc điểm tƣớng đá – cổ địa lý giai đoạn Miocen sớm
Địa hình vùng xâm thực và vùng lắng đọng trầm tích của bể thứ cấp
Miocen sớm được ấn định bởi pha nghịch đảo kiến tạo cuối Oligocen muộn.
Vùng xâm thực rộng lớn nhất là nằm ở phía tây bể. Các vùng xâm thực khác
có quy mô nhỏ phân bố ở khu vực đông bắc, đông nam và phía bắc của bể.
Vùng lắng đọng trầm tích hay còn gọi là không gian tích tụ trầm tích trong
Miocen sớm phân bố trên một khu vực rộng lớn ở trung tâm của bể.
Quy luật phân bố tướng trầm tích:
- Miền hệ thống trầm tích biển thấp (LST): Các nhóm tướng
của miền hệ thống trầm tích LST cộng sinh với nhau theo thời gian và
không gian.
a) Theo thời gian có 2 nhóm tướng phủ chồng lên nhau: nhóm tướng
cát bột aluvi (arLST), nhóm tướng bột sét châu thổ (amrLST).
b) Theo không gian (từ vùng xâm thực ra trung tâm của bể 2 nhóm
tướng nói trên phân bố nối tiếp nhau theo thứ tự sau):
arLST → amrLST (hình 4.4).
Tích hợp cả thời gian và không gian ta có mô hình cộng sinh tướng
của miền hệ thống trầm tích biển thấp theo công thức sau:
LiLST = (ar + amr)LST
- Miền hệ thống trầm tích biển tiến (TST)
Trong quá trình biển tiến trầm tích Miocen sớm được đặc trưng bởi 2
nhóm đá: Nhóm đá cát kết thạch anh-litic có độ mài tròn và chọn lọc tốt;
Nhóm đá cát kết xi măng dolomit mài tròn, chọn lọc trung bình, sét kết
chứa bột, sét kết chứa vôi. Sự thay đổi thành phần thạch học nói trên là
bằng chứng của biển sâu dần và đường bờ dịch chuyển vào phía đất liền đạt
vị trí cao nhất.
- Miền hệ thống trầm tích biển cao (HST): Giai đoạn miền hệ thống
trầm tích biển cao của bể thứ cấp Miocen sớm có 2 nhóm tướng cộng sinh
15
theo thời gian và theo không gian: nhóm tướng bột sét châu thổ (amh HST)
và nhóm tướng sét bột biển nông – vũng vịnh (mt/amhHST).
Hình 4.4. Sơ đồ tướng đá – cổ địa lý giai đoạn biển thoái Miocen sớm
4.2.2. Đặc điểm tƣớng đá – cổ địa lý giai đoạn Miocen giữa
Trong Miocen giữa các khối nâng đóng vai trò là quần đảo ngầm thuận
lợi cho phát triển mạnh mẽ ám tiêu san hô. Không gian tích tụ trầm tích gần
như không thay đổi so với giai đoạn Miocen sớm. Trong miền hệ thống
trầm tích biển thấp (LST) tỷ lệ trầm tích lục nguyên lớn hơn trầm tích
16
carbonat phân bố rộng ở các đới liền kề với vùng xâm thực, được đặc trưng
bởi cát kết grauwack chọn lọc, mài tròn kém (So=2,3; Ro= 0,4) thuộc tướng 2). Cát kết ít khoáng thạch anh-litic cát môi trường lòng sông (arLST N1 thuộc tướng cát môi trường bãi triều có độ chọn lọc và mài tròn từ trung
bình đến tốt (So = 1.4, Ro= 0.6). Tại trung tâm của bể thứ cấp Miocen giữa
bắt đầu phát triển trầm tích vôi sét và sét kết chứa bitum môi trường vũng
vịnh nằm xen kẽ giữa các đảo ngầm ám tiêu san hô.
Giai đoạn biển tiến cực đại phát triển phong phú các hóa thạch đặc
trưng cho môi trường biển nông mở rộng. Đồng thời phát triển nhóm tướng
vôi - dolomit vũng vịnh chứa sinh vật và hạt vụn thạch anh tha sinh. Nhóm
hóa thạch phổ biến là: Bryozoa, Echinoidea, foraminifera, tảo lục.
4.2.3. Đặc điểm tƣớng đá – cổ địa lý giai đoạn Miocen muộn Trong Miocen muộn bể Phú Khánh hình thành 4 đới nâng đóng vai trò là vùng xâm thực cung cấp vật liệu trầm tích lục nguyên: đới nâng phía tây, đới nâng đông nam và đới nâng phía bắc. Bên cạnh 4 đới nâng cung cấp vật liệu trầm tích lục nguyên các quần đảo ám tiêu san hô cũng bị nâng lên khỏi mặt nước tạo nên các vùng xâm thực cung cấp vật liệu vụn sinh vật cho các khối sụt là các vũng vịnh xen kẽ
Các ám tiêu san hô nhô cao khỏi mặt biển chúng bị bào mòn cung cấp một khối lượng lớn vật liệu vụn san hô, vụn vỏ sinh vật hòa trộn với nguồn trầm tích cát bột sét lắng đọng trong các môi trường aluvi (ar) và châu thổ (amr) xen kẽ trong pha biển thấp (LST) (hình 4.13). Đến pha biển tiến (TST) trầm tích vụn sinh vật chứa thạch anh lục nguyên từ môi trường aluvi, ven biển trở thành môi trường biển nông thích hợp tướng vôi, dolomit và xuất hiện foraminifera. Dưới tác dụng của dòng chảy đáy bùn vôi, dolomit tại sinh bị xáo trộn với vật liệu vụn nguyên là môi trường ven biển tạo thành một nhóm đá hỗn hợp gồm các tướng: (1) Tướng cát vụn sinh vật chứa thạch anh (hình 3.24, 3.25); (2) Tướng biển vôi dolomit chứa vụn sinh vật và VCHC hạ đẳng. Trong một số mặt cắt địa chấn thấy rõ tập trầm tích Miocen muộn có phản xạ trắng đặc trưng như một tầng đánh dấu.
17
Hình 4.13. Sơ đồ tướng đá - cổ địa lý Miocen muộn, giai đoạn biển thấp
4.3. Tiến hóa trầm tích trong mối quan hệ vói hoạt động kiến tạo
Tiến hóa trầm tích bể Phú Khánh theo mặt cắt từ dưới lên giữa khu
vực thềm trong và thềm ngoài có sự khác nhau về tướng trầm tích trong giai
đoạn Miocen (hình 4.4, 4.12, 4.13).
Cấu trúc địa chất của 3 bể thứ cấp Miocen sớm, Miocen giữa và
Miocen muộn bị ảnh hưởng của 4 nguồn lực chính: sụt lún nhiệt mạnh ở
trung tâm; sụt lún yếu đới ven rìa phía tây; ảnh hưởng của đứt gãy trượt
bằng Sông Hồng – đứt gãy sườn dốc đông Việt Nam và lực ép từ phía đông
nam của đới tách giãn Biển Đông.
18
- Trong Miocen theo phương thẳng đứng trầm tích Miocen có 3 chu
kỳ. Mỗi chu kỳ bị khống chế bởi 2 pha kiến tạo: Pha sụt lún nhiệt tạo bể
trầm tích; Pha nghịch đảo kiến tạo nâng trồi và bào mòn tạo nên các ranh
giới bất chỉnh hợp góc (giữa Miocen giữa và Miocen sớm) và bất chỉnh hợp
góc và bất chỉnh hợp địa tầng (giữa Miocen muộn và Miocen giữa).
- Theo không gian mỗi bể thứ cấp nguyên thủy đều có sự phân dị đan
xen giữa các khối nâng và các khối sụt. Tuy nhiên, các khối nâng chỉ mang
tính chất tương đối và tạm thời trong phông chung là sụt lún thống trị do
nhiệt manti làm nóng chảy vát mỏng vỏ lục địa trước Kanozoi. Ranh giới
giữa các khối sụt và khối nâng liên tục thay đổi tuy nhiên diện tích các khối
sụt tạo nên bồn trũng trung tâm được mở rộng dần từ Miocen sớm đến
Miocen muộn theo nguyên lý “sụt lún lan tỏa”.
Sự biến đổi địa hình, thành phần thạch học và môi trường trầm tích
đều liên quan chặt chẽ với hoạt động kiến tạo. Vì vậy theo thời gian số
lượng tướng phong phú dần và biến thiên theo chu kỳ từ môi trường lục địa
sang môi trường châu thổ, biển nông – vũng vịnh.
- Trầm tích Miocen sớm có thành phần lục nguyên đa khoáng là liên
quan đến miền xâm thực ở phía tây của bể và các khối nâng tuổi Oligocen
có thành phần thuần túy lục nguyên. Tổ hợp thạch –kiến tạo Miocen sớm
gồm trầm tích lục nguyên aluvi, châu thổ, biển nông vũng vịnh, đáy bể phân
dị khối tảng tạo nên các đảo và quần đảo đóng vai trò vùng xâm thực.
- Sự phát triển đa dạng vừa có mặt trầm tích lục nguyên vừa ám tiêu
san hô và đá vôi sinh vật trong Miocen giữa đã chứng minh cho sự phân dị
mạnh mẽ đáy bể trầm tích. Tổ hợp thạch kiến tạo Miocen giữa gồm trầm
tích lục nguyên châu thổ, biển nông vũng vịnh và carbonat ám tiêu. Chế độ
kiến tạo bình ổn.
- Sự có mặt của trầm tích lục nguyên chứa phong phú vụn sinh vật của
bể thứ cấp Miocen muộn đã lý giải cho trường sóng phản xạ trắng trong các
mặt cắt địa chấn. Tổ hợp thạch kiến tạo Miocen muộn gồm tướng trầm tích 19
lục nguyên giàu vụn vỏ sinh vật. Đáy biển nâng lên xảy ra bào mòn khu vực
cung cấp một khối lượng lớn vật liêu vụn sinh vật từ các ám tiêu san hô.
4.4. Đánh giá triển vọng dầu khí trên cơ sở trầm tích luận
Đánh giá triển vọng dầu khí của một bể trầm tích dựa trên 2 nhóm tiêu
chí cơ bản của hệ thống dầu khí:
4.4.1. Đánh giá các đá sinh dầu khí
1/ Các đá sinh dầu liên quan đến tướng sét giàu vật chất hữu cơ rong
tảo vũng vịnh thuộc miền hệ thống trầm tích biển thấp (LST) và biển cao
1).
(HST) của phức tập Miocen sớm (mrLST N1
1, mrHSTN1
2/ Trong miền hệ thống trầm tích biển tiến (TST) và biển cao (HST)
của cả 3 phức tập Miocen sớm, Miocen giữa và Miocen muộn đá sinh khí
liên quan đến tướng sét đầm lầy tạo than.
4.4.2. Đánh giá các đá chứa dầu khí
Đá chứa cát kết: Cát kết có khả năng chứa dầu khí được phân bố trong
2 miền hệ thống: (1) Tướng cát lòng sông miền hệ thống trầm tích biển thấp
(LST) và (2) tướng cồn cát cửa sông miền hệ thống trầm tích biển cao
(HST).
Đá chứa ám tiêu san hô: Đá chứa ám tiêu san hô có khả năng chứa rất
tốt nhờ độ rỗng hiệu dụng khá cao (Me ≥ 20%) do quá trình nén ép kiến tạo
của giai đoạn hậu sinh. Chúng phân bố thành từng khối riêng biệt hoặc
thành từng dãy núi ngầm phát triển trong Miocen giữa và Miocen muộn
(hình 4.20). Cacbonat Miocen rất phổ biến trong bể Phú Khánh và là đá
chứa tiềm năng và đã được khẳng định qua phát hiện dầu tại giếng khoan
124-CMT-1X.
Đá móng nứt nẻ: Đá chứa chứa thuộc đá móng nứt nẻ được ngoại suy
từ những khối đá móng bị ép trồi xuyên cắt các lớp trầm tích Miocen sớm
và Miocen giữa, biểu hiện rất rõ trong các băng địa chấn. Giếng khoan 124-
CMT-1X và giếng khoan 127-NT-1X khoan gặp móng với thành phần chủ
yếu là đá granitoid tới granodiorid. Với đặc điểm địa chất tương đồng với
20
khu vực phía bắc bể Cửu Long, nơi móng nứt nẻ là đối tượng chứa dầu khí
quan trọng, các khối móng nhô cao trong bể Phú Khánh được đánh giá là có
khả năng chứa dầu khí cao.
4.4.3. Đánh giá các đá chắn dầu khí
Tầng chắn dầu khí có tính chất khu vực liên quan đế tướng sét đồng
bằng ngập lụt Miocen giữa.
4.4.4. Đánh giá các bẫy dầu khí
Trầm tích Miocen bể Phú Khánh có các loại bẫy dầu khí sau:
1/Bẫy trầm tích - địa tầng: Trong trầm tích Miocen bể Phú Khánh bẫy
trầm tích - địa tầng phân bố ở phần rìa của bể thuộc các tướng cát aluvi, cát
đê cát ven bờ, cát bãi triều nằm xen kẽ trong cấu tạo nêm tăng trưởng hoặc
tướng sét đầm lầy ven biển và sét vũng vịnh cửa sông
2/ Bẫy cấu trúc - kiến tạo: Bao gồm:
- Bẫy cấu tạo vòm nâng: liên quan đến hoạt động uốn nếp tạo vòm nâng.
- Bẫy đứt gãy: Đây là kiểu bẫy điển hình trong Miocen bể Phú Khánh,
đặc biệt là bẫy cấu tạo hình hoa (Flower structures). Hệ thống đứt gãy hình
hoa cũng là một trong những điều kiện lý tưởng để thành tạo bẫy chứa.
Trong trường hợp này mặt trượt đứt gãy kết hợp với lớp sét dày có thể là
những màn chắn rất lý tưởng cho các thân cát kết.
- Bẫy đá móng nứt nẻ là các khối nhô móng do bị ép trồi trong các pha
nghịch đảo kiến tạo giai đoạn cuối Miocen sớm, cuối Miocen giữa và cuối
Miocen muộn.
3/ Bẫy hỗn hợp: Bẫy hỗn hợp là một cấu trúc địa chất được cấu thành
bởi các yếu tố của bẫy cấu tạo, bẫy địa tầng. Thông thường, kiểu bẫy này có
mặt một hay nhiều các đứt gãy sau: đứt gãy nghịch, đứt gãy listric, đứt gãy
trượt bằng - xoay. Bề mặt các đứt gãy bị xiết ép là các màn chắn cùng với
cát kết các cấu tạo uốn nếp là tầng chứa tạo nên bẫy hỗn hợp.
21
4/ Bẫy ám tiêu san hô: Bẫy ám tiêu san hô là một cấu trúc địa chất
gồm 2 thành tạo: ám tiêu san hô và đá sét kết, sét kết vôi không thấm bao
bọc 3 phía: trên nóc và 2 phía sườn của ám tiêu.
Hình 4.20: Bẫy ám tiêu san hô và bẫy địa tầng trầm tích thể hiện trên mặt cắt địa chấn L01
KẾT LUẬN
1. Cấu trúc địa chất hiện tại của bể Phú Khánh nói chung và 3 bể thứ cấp Miocen sớm, Miocen giữa và Miocen muộn nói riêng là cấu trúc bị biến dạng mạnh mẽ qua nhiều pha kiến tạo.
2. Hoạt động biến dạng các đá trầm tích của mỗi bể thứ cấp không chỉ xảy ra trong pha nghịch đảo kiến tạo của bể đó mà còn do các hoạt động biến dạng kép xảy ra trong các giai đoạn trẻ về sau. Theo quy luật đó bể thứ cấp Miocen sớm bị biến dạng mạnh hơn bể thứ cấp Miocen giữa và Miocen muộn
3. Trong Miocen theo phương thẳng đứng (theo thời gian) trầm tích Miocen có 3 chu kỳ. Mỗi chu kỳ bị khống chế bởi pha sụt lún và pha nâng trồi. Pha sụt lún nhiệt tạo bể đồng thời lấp đầy trầm tích và tác dụng thành đá biến trầm tích bở rời thành đá trầm tích. Pha nghịch đảo kiến tạo xảy ra các hoạt động biến dạng đứt gãy, nén ép, uốn nếp, hoạt động núi lửa, nâng trồi và bào mòn tạo nên các ranh giới bất chỉnh hợp góc (giữa Miocen giữa và Miocen sớm) và bất chỉnh hợp địa tầng (giữa Miocen muộn và Miocen giữa).
22
4. Sự biến đổi thành phần thạch học và môi trường trầm tích đều liên quan chặt chẽ với hoạt động kiến tạo, địa hình theo từng giai đoạn phát triển địa chất. thành phần thạch học biến đổi từ đa khoáng đến ít khoáng, ngược lại theo hướng đó số lượng tướng tăng dần từ 1 nhóm tướng lục nguyên sang 2 nhóm tướng lục nguyên và carbonat.
5. Trên cở sở phân tích trầm tích luận, trong khu vực nghiên cứu có 4 nhóm bẫy dầu khí có triển vọng: nhóm bẫy trầm tích - địa tầng phát triển ở rìa tây và khu vực trung tâm; nhóm bẫy cấu trúc – kiến tạo và nhóm bẫy hỗn hợp phát triển ở rìa đông nam và nam bể; nhóm bẫy ám tiêu san hô phát triển các khu vực các vùng nâng ở đông nam, rìa tây và rìa nam bể Phú Khánh.
Kiến nghị Từ các kết quả của luận án và những vấn đề còn tồn tại đặt ra những
vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu như sau:
- Cần nghiên cứu mở rộng mối quan hệ giữa chu kỳ trầm tích và chu kỳ tách giãn Biển Đông để xác định chính xác cơ chế kiến tạo các bể Kainozoi vùng nước sâu.
- Tiếp tục nghiên cứu chi tiết hơn để phục hồi tất cả các mặt cắt của bể thứ cấp. Từ đó phục hồi bể thứ cấp một cách chi tiết và chính xác làm cơ sở cho việc thành lập các bản đồ cổ địa hình, các bản đồ cấu trúc địa chất qua từng giai đoạn.
23
Những công trình khoa học đã công bố của tác giả có liên quan đến luận án 1. Tran Nghi, Tran Huu Than, Chu Van Ngoi, Nguyen Duy Tuan, Tran Thi Dung, Nguyen Thi Phuong Thao, Pham Thi Thu Hang, Tran Van Son (2013), “Lithofacies analysis and reconstruction of Deformation types of Cenozoic sediment of Phú Khánh basin ”, VNU journal of Earth and Environmental Sciences Vol.29 (1), pp.45-56.
2. Trần Nghi, Đinh Xuân Thành, Trần Thị Thanh Nhàn, Trần Hữu Thân, Phạm Thị Thu Hằng, Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Duy Tuấn, Trần Thị Dung (2013), “Trầm tích luận hiện đại trong phân tích các bể Kainozoi vùng biển nước sâu Việt Nam”, Tạp chí Địa chất Loạt A (336-337) ngày 7-10/2013: Số kỷ niệm 30 năm xây dựng và phát triển tổng hội địa chất Việt nam (1983-2013); tr.13-23.
3. Trần Nghi, Trần Hữu Thân, Chu Văn Ngợi, Đinh Xuân Thành, Trần Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Huyền Trang, Nguyễn Duy Tuấn, Nguyễn Văn Kiểu, Trần Thị Dung, Nguyễn Thị Phương Thảo, Phạm Thị Thu Hằng, Trần Văn Sơn (2013), “Tiến hóa trầm tích Kainozoi bể Phú Khánh trong mối quan hệ với hoạt động địa động lực”, Tạp chí Địa chất 2013 Cục địa chất và khoáng sản Việt Nam, Loạt A (334), tr.28 – 36.
4. Trần Nghi, Trần Hữu Thân, Đinh Xuân Thành, Trần Thị Thanh Nhàn, Chu Văn Ngợi, Nguyễn Duy Tuấn, Trần Thị Dung, Phạm Thị Thu Hằng, Nguyễn Thị Phương Thảo (2013), “Mối quan hệ giữa dãy cộng sinh tướng và các miền hệ thống trầm tích ở các bể Kainozoi”, Tạp chí Dầu khí (9), tr. 26-33.
5. Trần Nghi, Trần Hữu Thân, Chu Văn Ngợi, Đinh Xuân Thành, Trần Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Duy Tuấn, Trần Thị Dung, Nguyễn Thị Phương Thảo, Phạm Thị Thu Hằng, Nguyễn Thị Tuyến (2014), Biến dạng các bể thứ cấp trong Kainozoi khu vực bể Phú Khánh và triển vọng dầu khí liên quan, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Tập 30 (2S), tr. 1-11.
6. Trần Thị Dung, Chu Văn Ngợi (2016), “Cơ chế hình thành bể Phú Khánh”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32 (2S), tr. 59-68.
7. Đinh Xuân Thành, Trần Nghi, Trần Thị Dung (2016), “Lịch sử tiến hóa trầm tích thềm lục địa Nam Trung Bộ trong Pliocen - Đệ tứ”, Tạp chí Địa chất loạt A (360), tr. 15-27.
8. Tran Thi Dung, Tran Nghi, Nguyen The Hung, Dinh Xuan Thanh, Pham Bao Ngoc, Nguyen Thi Tuyen, Tran Thi Thanh Nhan, Nguyen Thi Huyen Trang, (2018), “The Miocene Depositional Geological Evolution of Phu Khanh, Nam Con Son and Tu Chinh - Vung May Basins in Vietnam Continental Shelf”, VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences Vol. 34 (1), pp.112-135.
9. Trần Thị Dung, Trần Nghi, Chu Văn Ngợi, Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Thị Huyền Trang (2019), “Tiến hóa cấu trúc địa chất và môi trường trầm tích Miocen khu vực bể Phú Khánh”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 35 (1), tr. 71-93.
24