B GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TO
VIN HÀN LÂM KHOA HC
VÀ CÔNG NGH VIT NAM
HC VIN KHOA HC VÀ CÔNG NGH
-----------------------------
TRN TH PHÚ
NGHIÊN CU THÀNH PHN LOÀI NM LN THUC NGÀNH
MYXOMYCOTA, ASCOMYCOTA, BASIDIOMYCOTA
NÚI NGC LINH, TNH QUNG NAM
Chuyên ngành: Thc vt hc
Mã s: 9.42.01.11
TÓM TT LUN ÁN TIẾN SĨ THỰC VT HC
Hà Ni - 2018
Công trình đưc hoàn thành ti: Hc vin Khoa hc và Công ngh -
Vin Hàn lâm Khoa hc và Công ngh Vit Nam.
Người hướng dn khoa hc 1: GS. TSKH TRNH TAM KIT
Người hướng dn khoa hc 2: PGS.TS NGUYN KHC KHÔI
Phn biện 1: …
Phn biện 2: …
Phn biện 3: ….
Lun án s đưc bo v trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp
Hc vin, hp ti Hc vin Khoa hc và Công ngh - Vin Hàn lâm
Khoa hc và Công ngh Vit Nam vào hồi … giờ ..’, ngày … tháng
… năm 201….
Có th tìm hiu lun án ti:
- Thư viện Hc vin Khoa hc và Công ngh
- Thư viện Quc gia Vit Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Giới Nấm gồm các thể dị dưỡng, khoảng trên 100.000 loài đã tả
(P.M. Kirk, 2008), tuy nhiên theo dự tính của Hawksworth (2001) số loài nấm có
thể lên đến 1.500.000 loài. Nấm ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn, nhiều loài m
thức ăn như nấm rơm, mộc nhĩ, nấm bào ngư; m dược liệu: nấm linh chi, vân
chi, đông trùng hạ thảo…được ứng dụng trong công nghệ dược phẩm. Trong khoa
học nhiều loài (Lentinus tigrinus, Schizophyllum commune) là đối tượng để nghiên
cứu sinh lí, sinh a di truyền học. Bên cạnh đó nhiều loài nấm gây hại cho
cây trồng, vật nuôi; một số loài nấm độc y hôn mê, tử vong cho con người.
Những nghiên cứu về nấm lớn Trung bộ đã được đề cập đến như:
Patouillard, N. (1923, 1928), Joly P. (1968), Ngô Anh (2003), Dörfelt, H., Trịnh
Tam Kiệt, Berg, A. (2004), ...Tuy nhiên, nghiên cứu nấm đây vẫn còn ít, do vậy
thu thập và định loại các loài nấm ở miền Trung, Tây Nguyên có ý nghĩa khoa học
và thực tiễn đáng kể.
Ở núi Ngọc Linh, tỉnh Quảng Nam chưa một ai nghiên cứu khu hệ nấm, vì vậy
việc “Nghiên cứu thành phần loài nấm lớn thuộc ngành Myxomycota,
Ascomycota, Basidiomycota núi Ngọc Linh, Tỉnh Quảng Nam” yêu cầu cần
thiết nhằm phát hiện góp phần bảo vệ sđa dạng về thành phần loài, sử dng
hợp lí nguồn tài nguyên, bảo vệ nguồn gen quý hiếm cho khu hệ nấm Việt Nam.
2. Mục đích của luận án
Xây dựng bảng danh lục thành phần loài nấm lớn.
Đánh giá tính đa dạng thành phần loài, giá trị tài nguyên của nấm lớn.
Xây dựng khóa định loại ở mức độ ngành, lớp, bộ, họ, chi loài nấm.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Lần đầu tiên xây dựng bảng danh lục thành phần loài, đánh giá tính đa dạng,
phân tích giá trị tài nguyên, xây dựng khóa định loại, mô tả đặc điểm sinh học các
chi và loài mới ghi nhận cho khu hệ nấm Việt Nam một số loài giá trị thuộc
các ngành Myxomycota, Ascomycota, Basidiomycota núi Ngọc Linh, tỉnh
Quảng Nam.
2
4. Bố cục của luận án
Luận án gồm 150 trang, 65 hình ảnh, 12 bảng
Mở đầu (2 trang), chương 1: Tổng quan tài liệu (16 trang), chương 2: Đối
tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu điều kiện tự nhiên, hội ng núi
Ngọc Linh, tỉnh Quảng Nam (13 trang), chương 3: Kết quả nghiên cứu thảo
luận (106 trang), Kết luận kiến nghị (3 trang), 130 tài liệu tham khảo (9 trang),
Danh mục các công trình công bố của tác giả (7 công trình).
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số hệ thống nấm chính
Hệ thống nấm Gaümann (1964); Kreisel (1969); Ainsworth, Bisby (1971);
P.M. Kirk “Dictionary of the fungi” (2008); Trịnh Tam Kiệt (2014) “Danh lục
nấm lớn ở Việt Nam”.
1.2. Tình hình nghiên cứu nấm lớn ngành Myxomycota, Ascomycota,
Basidiomycota trên thế giới
Trước thế kỷ XIX trên thế giới Théophraste và Aristote nghiên cứu Tuberaceae
và Agaricaceae. Linnaeus với “Species plantarum” đã đề cập đến một số loài nấm.
De Bary A., năm 1887 tại London “Comparative morphology and biology of the
fungi, Mycetozoa and Bacteria”, so sánh đặc điểm của nấm, động vật và vi khuẩn.
Thế kỷ XX, Tại New Zealand, Cunningham G.H., năm 1965 công bố 550 loài
nấm lỗ. Corner E.J.H., nghiên cứu “Ad Polyporaceas II, III, IV” tả hình thái,
khóa định loại của loài thuộc Polypocraeae. Donk M.A., năm 1967 tả, định
loại các loài nấm lỗ ở Châu Âu. Năm 1970, Teng S.C., mô tả 2400 loài, 601 chi, 5
lớp. Rolf Singer, năm 1986 với “The Agaricales in modern taxonomy” tả hình
thái, cấu trúc bào tử 230 chi, 17 họ, bộ Agaricales. Zhao Ji-Ding, năm 1989,
trong “The Ganodermataceae in China” tả hệ sợi, bào tử định loại
Ganoderma 64 loài, Amauroderma 20 loài, Haddowia Humphreya 2 loài. Đề
tài “Pilze der Schweiz” trong 25 năm của Breitenbach. J. và F.Kraenzlin tổng quát
về ngành nấm Túi và nấm Đảm của Thụy Sĩ.
Thế kỉ XXI: năm 2000 Mao Xiaolan xuất bản “The Macro fungi in China”,
tả hình thái, cấu tạo sợi nấm, bào tử. Năm 2005, K.Heikki tả định loại 139
3
loài nấm lỗ tại Nga. Năm 2012, Ivan V.Zmitrovich, xây dựng khóa định loại 63
loài, chi Trametes. Dörfelt, Heinrich, năm 2014 “Morphologie der Großpilze”
tả về hình thái học nấm lớn: mũ, bào tầng, lông cứng, sợi nấm, bào tử, lỗ, sự phân
tầng của ống….Tại Brazil m 2015, Allyne C.Gomes-Silva, phân tích hình thái
phân tử của 20 loài, chi Amauroderma, 6 loài mới cho khoa học. Năm 2017
Ginns J. với “Polypores of British Columbia” mô tả chi tiết đặc điểm hình thái của
200 loài nấm lỗ: mặt trên, hệ sợi, bào tầng, bào tử... và xây dựng khóa định loại.
1.3. Tình hình nghiên cứu nấm lớn thuộc ngành Myxomycota,
Ascomycota, Basidiomycota ở Việt Nam.
Nghiên cứu nấm lớn ở Việt Nam tiêu biểu: Patouillard, N.M. 3 tập ấn phẩm về
nấm 1876-1924, mô tả 235 loài được thừa nhận 44 loài cho Việt Nam. Năm 1968,
Joly P., tại Lang-Bian, tả 20 loài, chi Xylaria. Năm 1986, Parmasto E., tổng
kết 310 loài trong “Danh mục bước đầu về các loài nấm Aphyllophorales
Polyporaeae s.str. Việt Nam”.
Nghiên cứu nấm vùng miền Bắc các công trình tiêu biểu: Năm 1981, Trịnh
Tam Kiệt công bố “Nấm lớn Việt Nam tập 1”, tả 116 loài nấm. Năm 1991,
Phan Huy Dục, công bố 56 loài, bộ Agaricales. Danh lục 837 loài nấm lớn ở Việt
Nam được Trịnh Tam Kiệt công bố “Preliminary checklist of macrofungi of
Vietnam” vào năm 1996. Năm 2008, Trịnh Tam Kiệt, Trịnh Tam Bảo đưa ra danh
lục 210 loài nấm dược liệu.
Miền Trung, năm 2003, Ngô Anh xác định Huế 4 lớp, 28 bộ, 55 họ, 134
chi, 346 loài, ghi nhận mới: 1 họ Gomphidiaceae, 7 chi, 39 loài. Năm 2013, Ngô
Anh, Nguyễn Thị Kim Cúc, xác định 162 loài, 63 chi, 30 họ, 18 bộ, 2 ngành
Ascomycota, Basidiomycota, 21 loài ghi nhận mới. m 2017, Ngô Anh, Phan
Thị Ái Linh xác định 305 loài, 92 chi, 43 họ, 23 bộ, 3 lớp, 3 ngành Myxomycota,
Ascomycota, Basidiomycota, 42 loài mới ghi nhận.
Tây nguyên: năm 2001, Lê Bá Dũng “Khu hệ nấm lớn Tây Nguyên” giới thiệu
kiến thức bản, phương pháp mô tả 300 loài nấm. Năm 2013, Nguyễn
Phương Đại Nguyên ghi nhận mới 3 loài, họ Ganodermataceae. Phạm Thị
Giang ghi nhận 51 loài, 23 họ, 9 bộ, vườn quốc gia Chư Yang Sin. m 2016,