ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ----------------------------- NGUYỄN THỊ DUYÊN NGHIÊN CỨU NĂNG SUẤT, CHẤT LƢỢNG CỦA MỘT SỐ
GIỐNG CỎ TRỒNG Ở XÃ CẢNH HƢNG, HUYỆN TIÊN DU, TỈNH
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
BẮC NINH VÀ MÔ HÌNH KHAI THÁC THỨC ĂN CHO GIA SÖC LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC Thái Nguyên - 2009
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ----------------------------- NGUYỄN THỊ DUYÊN NGHIÊN CỨU NĂNG SUẤT, CHẤT LƢỢNG CỦA MỘT SỐ
GIỐNG CỎ TRỒNG Ở XÃ CẢNH HƢNG, HUYỆN TIÊN DU, TỈNH
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
BẮC NINH VÀ MÔ HÌNH KHAI THÁC THỨC ĂN CHO GIA SÖC Chuyên ngành: SINH THÁI HỌC Mã số: 60.42.60 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG CHUNG Thái Nguyên - 2009
LỜI CẢM ƠN
Sau hai năm học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn. Tôi xin
bầy tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc tới:
PGS-TS Hoàng Chung đã tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình triển khai nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận
văn. Ban lãnh đạo trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, ban chủ nhiệm
khoa Sinh-KTNN và các thầy cô giáo trong khoa, cán bộ nhân viên phòng thí
nghiệm trung tâm trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong học tập và hoàn thành luận văn.
Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân xã Cảnh Hưng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên cứu thực địa.
Tôi xin chân trọng cảm ơn sự góp ý chân thành, nhiệt tình của các nhà
khoa học.
Tôi xin cảm ơn sự khích lệ, động viên, tạo điều kiện của gia đình và
bạn bè trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Thái nguyên, tháng 9 năm 2009
Tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Thị Duyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng ai công bố trong
bất kỳ một công trình khác nào.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tác giả Nguyễn Thị Duyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 5
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................... 6
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt
Nam ........................................................................................................... 6
1.1.1. Những nghiên cứu về năng suất của đồng cỏ tự nhiên ........................... 6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới .......................... 8
1.1.3. Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia
súc trên thế giới ......................................................................................... 9
1.1.4. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam ......................... 12
1.2. Tình hình nghiên cứu đồng cỏ trên thế giới và ở Việt Nam .................... 19
1.3. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Bắc Việt Nam ........................... 23
1.4. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới ...................... 24
1.5. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả .................................................... 25
1.6. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn xanh ............................................. 29
1.7. Một số đặc điểm sinh thái và sinh vật học của hoà thảo .......................... 33
1.7.1. Đặc tính sinh thái ................................................................................. 33
1.7.2. Đặc tính sinh vật học .......................................................................... 34
1.7.3. Đặc tính sinh lý ................................................................................... 35
1.7.4. Đặc tính sinh trưởng ........................................................................... 37
1.7.5. Sức sống cỏ hoà thảo ........................................................................... 37
1.8. Giá trị kinh tế của các loại cây dùng trong chăn nuôi bò ......................... 38
1.8.1. Cỏ Hoà thảo......................................................................................... 38
1.8.2. Cây bộ Đậu .......................................................................................... 43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1.8.3. Cây trồng khác .................................................................................... 45
1.9. Các loại thức ăn cho bò sữa .................................................................... 46
Chƣơng 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG NGHIÊN CỨU ................... 49
2.1. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh ....................... 49
2.1.1. Về vị trí địa lý và phạm vi ranh giới tỉnh ............................................. 49
2.1.2. Các yếu tố khí hậu, địa chất, thuỷ văn ................................................. 50
2.1.3. Tài nguyên thiên nhiên - môi trường .................................................... 53
2.2. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Cảnh Hưng ..................... 54
2.2.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................... 54
2.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội ....................................................................... 55
Chƣơng 3: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 56
3.1. Đối tượng ............................................................................................... 56
3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 56
3.3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 56
3.3.1. Các phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên .................................. 56
3.3.1.1. Nghiên cứu tại Cảnh Hưng (mô hình bò sữa) .................................... 56
3.3.1.2. Nghiên cứu tại Hiệp Hoà (mô hình bò thịt) ....................................... 57
3.3.2. Các phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm ......................... 57
3.3.2.5. Phương pháp phân tích đối với mẫu đất : .......................................... 65
3.2.3. Điều tra qua địa phương, lãnh đạo cơ sở .............................................. 67
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 68
4.1. Tình hình khai thác và sử dụng đất của người dân xã Cảnh Hưng .......... 68
4.2. Tập đoàn cây thức ăn gia súc của xã Cảnh Hưng .................................... 70
4.3. Đặc điểm và năng suất các loại cỏ chính dùng làm thức ăn cho bò
được trồng tại xã Cảnh Hưng ................................................................... 73
4.4. Tình hình chăn nuôi bò ở Bắc Ninh và xã Cảnh Hưng ............................ 76
4.5. Năng suất của các loài cỏ chính .............................................................. 78
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4.6. Chất lượng của của một số loài cỏ .......................................................... 82
4.7. Năng suất cỏ tự nhiên trên đồi xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hoà ................ 84
4.8. Thảm cỏ tự nhiên ở đồi xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hoà ............................ 85
4.9. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò .............................................................. 94
4.9.1. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò sữa ..................................................... 94
4.9.2. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò thịt ..................................................... 96
4.10. Kết luận và đề nghị ............................................................................... 98
PHỤ LỤC................................................................................................... 100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 103
DANH MỤC CÁC CHỮ VÀ KÍ HIỆU VIẾT TẮT
A : Ẩm sinh
DS : Dạng sống
Đ : Độc hại với gia súc
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng
ĐV : Động vật
ĐVTA : Đơn vị thức ăn
: Không có giá trị chăn thả Ho
H-T : Hạn – Trung sinh
H : Hạn sinh
MNPB : Miền núi phía Bắc
NXB : Nhà xuất bản
T : Trung sinh
TB : Trung bình
T-H : Trung sinh - Hạn sinh
: Tốt To
TS : Tổng số
Tr : Trang
UBND : Uỷ ban nhân dân
VCK : Vật chất khô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
TT : Thứ tự
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loài cỏ trên vùng đất
thấp vào 45 ngày cắt .......................................................................... 10
Bảng 1.2: Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày ......................... 11
Bảng 1.3: Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/ năm) ...................... 15
Bảng 1.4: Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của một số loài cỏ chính .... 32
Bảng 1.5 : Giá trị dinh dưỡng của cây Ngô trong các giai đoạn khác nhau .... 46
Bảng 4.1: Thực trạng sử dụng đất xã Cảnh Hưng tính đến ngày 1/1/2008 .... 69
Bảng 4.2: Tập đoàn cây thức ăn gia súc xã Cảnh Hưng ................................. 71
Bảng 4.3: Số lứa cắt và năng suất của từng lứa .............................................. 79
Bảng 4.4: Lượng phân bón hoá học cho các loài cỏ ....................................... 82
Bảng 4.5: Hàm lượng các chất dinh dưỡng ở vị trí trồng cỏ .......................... 83
Bảng 4.6: Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất ở khu vực nghiên cứu ........ 84
Bảng 4.7: Năng suất của các giống cỏ Hòa thảo (tháng 6/2009) .................... 85
Bảng 4.8 : Thành phần loài tại các điểm nghiên cứu tại xã Đông Lỗ ............. 87
Bảng 4.9: Khẩu phần ăn bình quân/ngày/con (kg) ngày 10.12.2008 .............. 95
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bảng 4.10. Khẩu phần ăn bình quân/ngày/con (kg) ....................................... 96
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp, ngoài trồng trọt thì lĩnh vực chăn
nuôi giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. So với mức tăng bình
quân của cả ngành nông nghiệp, thì ngành chăn nuôi luôn có tốc độ tăng
trưởng cao hơn. Đàn bò thịt giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 9,18%/năm,
ĐBSCL 25%; ĐBSH 19,2%, Tây Nguyên 11,5%...Đàn bò sữa của Việt Nam
có tốc độ tăng bình quân mỗi năm 26,1%. Những năm gần đây xu hướng phát
triển nông nghiệp nói chung là theo con đường thâm canh công nghiệp đang
diễn ra mạnh mẽ. Ở nước ta ngành chăn nuôi đã được chú ý đầu tư nên phát
triển tương đối mạnh. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn thì tại thời điểm 1/8/2007, quy mô đàn trâu trên cả nước tăng 2,58%, đạt
2,996 triệu con: Trong đó đàn trâu nuôi lấy thịt tăng 7,3%, trâu cày kéo tiếp
tục có xu hướng giảm nhẹ so với các năm trước do làm đất bằng máy tăng.
Đàn bò đạt 6,724 triệu con, tăng 3,29%; trong đó đàn bò thịt tăng 5,4%, đàn
bò sữa giảm 14,5 nghìn con (-12,9%) do trương trình nuôi bò sữa nhiều nơi
không có hiệu quả. Các địa phương có tổng đàn bò tăng cao so với cùng kì
năm trước tập trung ở vùng trung du và miền núi có đồng cỏ để chăn thả. Dự
kiến đến năm 2010, Việt Nam đạt mục tiêu tổng đàn trâu 3,5 triệu con, đàn bò
7,6 triệu con. Mặt khác, nhờ áp dụng những thành tựu khoa học, kĩ thuật,
nghành di truyền học, các nhà chọn giống đã nghiên cứu lai tạo, chọn lọc rất
nhiều giống vầt nuôi có năng xuất thịt, sữa, trứng cao phần nào đã đáp ứng
nhu cầu về dinh dưỡng của số dân đang không ngừng tăng lên như hiện nay.
Với diện tích 32% và dân số chiếm 17%, cùng với khí hậu nhiệt đới gió
mùa, miền núi trung du phía Bắc là vùng sinh thái rất có điều kiện phát triển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi đại gia súc. Giai đoạn 2001-2007, đàn trâu
2
khu vực miền núi phía Bắc tăng trưởng 1,16%/năm (cao hơn tốc độ trung bình
của cả nước 1,03%/năm), đàn bò tăng 4,48%/năm, đàn bò sữa tăng
14,42%/năm; đặc biệt đàn ngựa ở khu vực này chiếm tới 88,60% , đàn trâu
chiếm 58,84% và đàn dê chiếm 34,81% tổng đàn trong cả nước. Các thương
hiệu của sản phẩm chăn nuôi ở MNPB ít nhiều đã được khẳng định trong thị
trường nội địa như sữa Mộc Châu, dê cỏ Hà Giang, ngựa bạch Lạng Sơn…
Tuy vậy chăn nuôi vùng trung du và MNPB vẫn chưa thật sự phát huy đúng
với tiềm năng vì đồng bào chủ yếu vẫn chăn thả các giống địa phương nên
năng suất thấp, do quản lý lỏng lẻo và tập quán chăn thả rông nên cận huyết
nhiều, thoái hoá giống cao. Ngoài ra công tác xây dựng chuồng trại, thức ăn
chăn nuôi và khai thác thi trường kém nên thường bị tư thương ép giá nên thu
nhập của người chăn nuôi còn bị hạn chế nhiều.
Chăn nuôi là một mắt xích quan trọng trong sản xuất nông nghiệp bền
vững, tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo cho người
nông dân. Lĩnh vực chăn nuôi đã cung cấp cho chúng ta nguồn thực phẩm giá
trị có chất lượng cao (giầu nguồn protein động vật, giầu sắt,vitaminA,
vitaminB…); cung cấp nguyên liệu cho các ngành công ngiệp, cung cấp sức
kéo, phân bón cho trồng trọt. Trâu, bò, dê, cừu, thỏ có thể hoàn toàn chỉ cần sử
dụng cỏ. Chăn nuôi trâu, bò đầu tư thấp, ít gây ô nhiễm môi trường. Thịt trâu,
bò có thể coi là nguồn thịt sạch vì ít sử dụng thức ăn công nghiệp và các chất
kích thích sinh trưởng. Để chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính trong nông
nghiệp ngoài chăn nuôi lợn, gia cầm, thì chăn nuôi bò đóng vai trò khá quan
trọng. Tuy nhiên cho đến nay, ngành chăn nuôi bò vẫn còn khá nhiều yếu kém,
bất cập. Chăn nuôi bò thịt vẫn dựa vào chăn thả tự nhiên, chăn nuôi chủ yếu tồn
tại trong nông hộ nhỏ lẻ, phân tán, thức ăn chủ yếu là tận dụng cỏ tự nhiên và
phụ phẩm trong nông nghiệp, việc sử dụng thức ăn công nghiệp còn rất ít, thiếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bò giống tốt, thiếu đồng cỏ và thức ăn thô xanh, quy trình kỹ thuật chưa được
3
áp dụng rộng rãi, nên năng suất và chất lượng thịt còn thấp. Giá thu mua sữa
thấp đã dẫn đến tình trạng năm 2005 có khoảng 1-1,2 vạn bò sữa bị đưa vào
giết thịt. Chưa có chính sách quốc gia về phát triển trâu, nên trâu vẫn hầu hết
thả rông kiểu quảng canh, giống như dê, cừu. Năng suất, sản lượng thịt, sữa và
hiệu quả chăn nuôi chưa cao; chăn nuôi bò sữa còn nhỏ bé và bấp bênh. Việc
chăn nuôi gia súc ăn cỏ chưa tương xứng với tiềm năng.
Nguyên nhân cơ bản là do chăn nuôi gia súc chưa được đầu tư đúng mức,
đặc biệt thiếu trầm trọng thức ăn thô xanh. Thức ăn thô xanh là nguồn dinh
dưỡng chủ yếu cho gia súc ăn cỏ, nhưng hiện nay, nguồn thức ăn này chủ yếu là
tận dụng cỏ tự nhiên và phụ phẩm trong nông nghiệp, trong khi đồng cỏ thâm
canh còn rất nhỏ bé. Cần có 5 yếu tố cần thực hiện đồng bộ để phát triển chăn
nuôi. Đó là trang trại, tiến bộ kỹ thuật, thức ăn, thú y và thị trường.
Đồng cỏ ở ta hiện nay còn rất hạn chế, chủ yếu là trồng xen, tận dụng
chứ chưa thành phổ biến đại trà. Các giống cỏ năng suất cao được nhập vào
nước ta từ những năm 70 của thế kỷ XX với rất nhiều giống tốt đã thích nghi
cao với điều kiện nước ta nhưng chưa phát huy được, vì đến nay diện tích
dành cho trồng cỏ còn quá nhỏ bé. Rất nhiều chương trình khuyến nông phát
triển đồng cỏ nhưng chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ, vẫn chưa thay đổi được tập
quán người chăn nuôi, thường cho rằng việc gì phải đi trồng cỏ! Nhưng thực
tế cho thấy rõ, trồng cỏ chăn nuôi cho lợi ích hơn nhiều lần trồng lúa và nhiều
loại cây trồng khác.
Xu thế của xã hội ngày nay đòi hỏi phải phát triển ngành chăn nuôi để
có thể cung cấp khối lượng thực phẩm lớn với chất lượng cao nhưng giá thành
chi phí về thức ăn thấp.Với chăn nuôi trâu bò thì thức ăn hàng ngày của chúng
là cỏ. Đồng cỏ Việt Nam phân bố rải rác khắp nơi nhưng tập trung nhiều nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vẫn là trên các đồi núi, cao nguyên của trung du và miền núi (chiếm tới 10
4
triệu ha). Khu vực có đồng cỏ tự nhiên với diện tích lớn không nhiều lắm đại
diện là đồng cỏ Mộc Châu (Sơn La), Ngân Sơn (Bắc Cạn) và một số đồng cỏ
thuộc vùng Tây Nguyên. Các đồng cỏ khác thường có diện tích nhỏ từ vài
chục đến vài trăm ha. Năng suất của các giống cỏ phụ thuộc nhiều vào giống,
điều kiện tự nhiên và sự chăm sóc của con người, đặc biệt là bón phân và tưới
nước. Sự chăn thả gia súc bừa bãi, khai thác mà không chăm bón chắc chắn
một ngày không xa các đồng cỏ sẽ bị thoái hoá, diện tích bị thu hẹp dẫn đến
thiếu thức ăn cho gia súc. Dự kiến trong giai đoạn 2006-2015, ngành chăn
nuôi sẽ phát triển theo hướng tập trung, công nghiệp quy mô vừa và lớn, có
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, bảo đảm vệ sinh thú y,
nuôi trồng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Ngành phấn đấu đến 2010 đạt 30%
tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp, và 2015 là 35%. Đến năm 2010, đàn bò
sữa đạt 200.000 con, năng suất sữa 4.000-4.200 kg/con/chu kỳ, cho 350.000
tấn sữa, đáp ứng 30% nhu cầu trong nước. Sẽ có 7,1 triệu bò thịt, tỷ lệ lai
36%, đạt 210.000 tấn thịt. Đàn trâu sẽ là 3,1 triệu con với 72.800 tấn thịt, 2,5
triệu dê, cừu.
Với mục đích không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng các giống
cỏ, trong những năm qua chúng ta đã tiến hành nhập, lai tạo một số giống cở
mới có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao, đồng thời luôn khai thác các
giống cỏ tự nhiên, nguồn thức ăn trong trồng trọt nhằm góp phần giải quyết
vấn đề thức ăn cho gia súc ngày càng phát triển không chỉ về số lượng mà cả
chất lượng. Và để phát triển chăn nuôi nhiều địa phương đã biết khai thác các
giống cỏ có năng suất cao, thích nghi với khí hậu nước ta và đồng thời luôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tận dụng nhiều loài cây trồng làm thức ăn cho vật nuôi.
5
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi xây dựng đề tài “Nghiên cứu
năng suất, chất lượng của một số giống cỏ trồng ở xã Cảnh Hưng, Tiên
Du, Bắc Ninh và mô hình khai thác thức ăn cho gia súc”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở điều tra về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của xã Cảnh
Hưng để tính toán thực trạng kinh tế của từng vùng.
- Nghiên cứu năng suất, chất lượng một số giống cỏ trồng địa phương
dưới ảnh hưởng của chế độ bón phân, thu hái.
- Đánh giá về mô hình đang khai thác thức ăn của địa phương và hiệu
quả kinh tế của nó.
- Đưa ra những kết luận về năng suất và chất lượng của các giống
cỏ và đề xuất mô hình chăn nuôi góp phần phát triển kinh tế gia đình và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
địa phương.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam
1.1.1. Những nghiên cứu về năng suất của đồng cỏ tự nhiên
Vấn đề nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các thảm thực vật đã
bắt đầu từ thế kỷ XIX, đầu tiên chủ yếu là những công trình nghiên cứu có
tính chất thống kê trong kinh tế nông nghiệp. Sang đầu thế kỷ XX, những
công trình nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các quần xã cỏ tự nhiên
và cỏ cho chăn nuôi đã được nghiên cứu nhiều hơn, với những thí nghiệm trên
các kiểu đất khác nhau và hình thức khác nhau, điển hình như:
Hendin (1947) làm thí nghiệm và xác định: Cách ba tuần cắt một lần sẽ
được một lượng prôtit thô, tính trên 1 ha xấp xỉ bằng khi để cỏ già cắt một lần
và cắt thêm những cỏ mọc lại. Nhưng hiệu suất tiêu hoá của cỏ cắt định kỳ lại
cao hơn (30,3% so với 17,2%). Như thể, cắt nhiều lần cỏ năng suất prôtit dễ
tiêu cao hơn. Louw (1938) đã nghiên cứu chi tiết tác dụng đối với cỏ mọc tự
nhiên của việc cắt theo những khoảng cách khác nhau, hàng tháng hoặc hai
tháng một lần hoặc ba tháng một lần….Chính những lần cắt hàng tháng cho ít
chất khô nhất, lượng chứa lân, kali, các clorua, các protit cũng thấp hơn. Cuối
cùng, những kết quả thí nghiệm về hiệu suất tiêu hoá cho thấy, chế độ tốt nhất
đối với những loại cỏ này là cắt hai tháng một lần trong thời gian sinh trưởng.
Huges đã thấy : cắt cỏ sát mặt đất, đều dặn làm nhiều lần, cho năng suất cỏ
tươi cao hơn nhưng lại làm giảm rõ rệt của bộ rễ, vì vậy những dự trữ dưới
đất bị cạn kiệt nhanh hơn, làm cho cỏ xấu mọc nhanh hơn. Tác giả cho rằng
cắt ít lần hơn (tương đương với việc cho gia súc gặm cỏ điều độ) sẽ cho một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sản lượng cỏ lớn hơn và có nhiều các chất dễ tiêu hơn [39].
7
Sau đó nhiều công trình nghiên cứu phần trên mặt đất được tiến hành
cùng với phần dưới đất trong sự phụ thuộc từ những điều kiện tạo thành nó
của các kiểu thực bì khác nhau: Salưt (1950), Balôchina (1950), Gorskova
(1954), Andreev, Lapverenko và Leonchiev (1955); Badilevich (1958),
Xưrokomskaia và Ponhiatopkaia (1960), Igơnachenkô (1965), Xemen-Nova-
Chiansianskaia (1966), Alekxenko (1967), Hoàng Chung (1974), Alekxeev
(1975), Uchekhin (1977) … Nghiên cứu riêng phần trên mặt đất có các tác
giả: Kalininna (1954), Xemennôva-Chian-Sanskia (1966)… Nghiên cứu riêng
phần dưới mặt đất có các tác giả: Baranops - Kaia (1954), Krưm (1960),
Xemennop (1966), Kharitonốp (1967), Gawood (1968), Hoàng Chung (1980).
Ivannop (1941), Odum (1968) và Rodin (1968); Mantranop và Siminop
(1967).... có những công trình nghiên cứu quá trình tích luỹ vật chất hữu cơ,
cũng như sự chuyển đổi sản phẩm là năng lượng trong các thực vật quần hay
hệ sinh thái.
Nhật Bản có các công trình nghiên cứu về năng suất sinh học của các
thảm cỏ của các tác giả như: Ogawa và cộng sự (1961); Iwaki và cộng sự
(1964, 1966); Iwaki (1979); Ở Thái Lan, Ấn Độ đã có một số nghiên cứu về
năng suất của các quần xã cỏ trong rừng thường xanh vùng ôn đới.
Ở Việt Nam, đến 1955 hầu như không có công trình nào nghiên cứu về
năng suất đồng cỏ. Từ 1960 đến nay nhiều công trình nghiên cứu về năng suất
đã được tiến hành trong các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ trồng (chăn thả hay
đồng cỏ cắt). Dương Hữu Thời (1981); Nguyễn Hữu Hiến (1985), … chỉ
nghiên cứu một số cây có giá trị kinh tế cao trên đồng cỏ tự nhiên và chủ yếu
tính sản lượng cỏ trong một số vùng nhằm phục vụ cho kế hoạch phát triển
chăn nuôi đại gia súc của một số vùng đó. Hoàng Chung (2004) đã tiến hành
nghiên cứu năng suất các quần xã cỏ của vùng Việt Bắc và vùng Tây Bắc trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hai đai (Nhiệt đới và á nhiệt đới). Trong công trình nghiên cứu của ông đã đề
8
cập đến những chỉ tiêu về khí hậu, thổ nhưỡng, thành phần loài, dạng sống
phần trên mặt đất, phần dưới mặt đất và đi đến kết luận về sự biến đổi năng
suất trên đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam: “Trong các điều kiện thảm
thực vật (savan – đồng cỏ) của Bắc Việt Nam, năng suất sinh vật học giảm
dần dần theo trình tự sau: Đồng cỏ á thảo nguyên – Đồng cỏ - Savan cỏ” [7].
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới
Ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển, vấn đề thức ăn rất
được quan tâm và đầu tư nghiên cứu như: Úc, Mỹ, Brazin,Anh … Chăn nuôi
là một bộ phận quan trọng trong hệ thống sản xuất của vùng đồi núi ở Đông
Nam Á, có rất nhiều tác giả đã tiến hành nghiên cứu về cây thức ăn cho gia
súc như: Tác giả T. Kanno và M. C. M. Macedo [56] đã tiến hành thí nghiệm
gieo hạt của các giống cỏ Brachiaria decumbens, B .brizantha, B.
dictyoneura, B. humidicola, Andropogon gayanus, Setaria anceps và
Paspalum atratum đầu mùa mưa tại các cánh đồng ở khu vực đầm lầy. Các
tác giả thấy không có loài nào có thể sống sót trong mùa mưa ở khu vực đất
lầy. Còn khi gieo hạt và giữa mùa mưa thì chỉ còn một lượng nhỏ cây giống
con còn tồn tại vào cuối mùa mưa, tuy nhiên cũng không thể sống sót cho đến
hết mùa mưa. Những kết quả chỉ rõ rằng giai đoạn cây con phù hợp nhất ở
khu vực đầm lầy là bắt đầu của mùa khô, khi đất trở nên cứng có thể sử dụng
được máy kéo. Theo John W. Miles 2004 [59] Chi Brachiaria là giống lớn
được sử dụng làm thức ăn cho vật nuôi vùng nhiệt đới châu Mĩ.
Ở Inđonêxia, trong tình hình thức ăn của trâu, bò chiếm 56% là cỏ tự
nhiên, 21% là rơm, 16% là cây lá khác và 7% là phụ phẩm thì trong 4 giải
pháp để giải quyết thức ăn là thâm canh, trồng giống cỏ tốt (cỏ Voi và cây
Đậu) [21]. Ở Thái Lan, với 70% dân liên quan đến sản xuất nông nghiệp, sản
phẩm trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa chưa đủ cung cấp theo nhu cầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tiêu dùng. Theo FAO, Chính phủ Thái Lan có chủ trương tăng thu nhập của
9
người nông dân bằng giải pháp: giảm trồng lúa, sắn, đẩy mạnh phát triển chăn
nuôi đặc biệt là gia súc nhai lại. Nông dân nuôi bò trong dự án được cấp hạt
giống cỏ để trồng.
Ở Trung Quốc, cây thức ăn gia súc được chú ý phát triển ở khu vực
phía Nam. Trong quá trình nghiên cứu đã xác định được các giống cỏ Stylo,
Brachiaria, Pennisetum, … sử dụng có hiệu quả cho gia súc. Hằng năm còn
sản xuất 20,5 tấn hạt cỏ cung cấp cho trong và ngoài nước [25].
Ở Philippiin, với 90% gia súc nhai lại nuôi tại vườn nhà hoặc ở các
trang trại nhỏ được trồng các giống Stylo 184, Panicum maxinum, Paspalum
atratum, … đều phát triển tốt cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc. Ngoài ra,
các giống cỏ trên còn được trồng theo đường đồng mức ở đất dốc, cải tạo đất
trống đồi núi trọc, trồng dưới tán cây ăn quả. Hằng năm sản xuất được trên 1
tấn hạt cỏ (E.F. Lating, F. Gagunada, 1995).
Một số nước khác như Malaysia, Lào, … cũng đã chú trọng đầu tư phát
triển cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số giống
cỏ Hoà thảo và cỏ họ Đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao trong
sản xuất. Hằng năm sản xuất được 2-3 tấn hạt cỏ các loại.
Có thể nói, phong trào trồng cây thức ăn xanh để chăn nuôi gia súc
đang được nhiều nước quan tâm. Nó thực sự là động lực thúc đẩy ngành chăn
nuôi đại gia súc ngày một phát triển.
1.1.3. Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia
súc trên thế giới
Trên thế giới hiện nay ngoài việc tuyển chọn, lai tạo, di nhập các giống
cỏ tốt từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết vấn đề
năng suất, chất lượng cỏ.Theo Quilichao, Colombia CIAT, (1978) [58], giống
cỏ Brachiaria decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 40.000kg/ha/năm
với thí nghiệm không có bón đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhất trong điều kiện bón lân và đạm thấp.
10
Tại Samford, Queensland năng suất hàng năm của giống Paspalum
dilatatum là 15 000 kg VCK (Davies, 1970) [50] . Tại Fiji năng suất trung bình
là 5.313 kg VCK/ha với mức prôtein thô là 9,9% trong thời gian trên 3 năm.
Tại Redland Bay, Queensland, Riveros và Wilson, 1970 [49] thông báo
năng suất cỏ Setaria sphacelata đạt từ 23.500 – 28.000 kg/ha qua mùa sinh
trưởng 6 tháng trong điều kiện cỏ được tưới nước và cung cấp 225 kg đạm
ure/ha/năm trên nền đất baza mầu mỡ .
Tại Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các giống cỏ Digitaria
decumbens, Paspalum atratum, Brachiaria mutica và Paspalum plicatulum
khoảng từ 15-20, 18-25, 9-15 và 6-10 tấn/ha (bảng 1.1).
Bảng 1.1: Sản lƣợng VCK và chất lƣợng những loài cỏ
trên vùng đất thấp vào 45 ngày cắt
Tên khoa học Tên Việt Nam Năng suất (tấn/ha)
Prôtêin (%)
Brachiaria mutica Cỏ lông Para 9 - 15 6 – 10
Digitaria Pangola 15 – 20 7 – 11 decumbens
Paspalum atratum Cỏ đắng 18 – 25 6 – 7
Paspalum 6 – 10 5 - 6 plicatulum
Nguồn: Division of Animal Nutrition, Anon (2000) [41]
Ngoài ra, hai giống cỏ là cỏ Paspalum atratum và Paspalum plicatulum
là những loài cho sản lượng hạt giống lớn, có thể tới trên 600kg/ha. Do vậy,
hai giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái Lan.Theo M.D. Hare và cộng
sự [60] cho biết các cỏ Brachiaria multica và Paspalum atratum khi không
có cây bộ đậu và dưới điều kiện cằn cỗi, nằm thấp, đất khô ở vùng tây bắc
Thailand phát triển tốt ở năm đầu, sản xuất trung bình là 20tạ/ha VCK .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Không có sự sai khác có ý nghĩa về sản lượng giữa hai loài và không khác
11
nhau về sản lượng giữa khoảng cách thu cắt 45 ngày và 65 ngày ở mùa mưa
đầu tiên. Còn ở mùa mưa thứ hai Paspalum atratum sản xuất 30 tấn/ha VCK
lớn hơn 10tạ/ha so với B. multica
Tại Trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi (Thái
Lan) cỏ Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ trồng là 50 x
50cm và được bón phân hỗn hợp (15-15-15) trước khi trồng ở mức 300 kg/ha
tương đương 18 tấn phân bón / 1ha. Lượng cỏ thu hoạch khoảng 8,9 tấn/ha ở
lứa đầu (70 ngày sau trồng) và khoảng 2,6 đến 7,1 tấn/ha cắt sau 30 ngày
[42]. Sản lượng này được thể hiện ở bảng 1.2.
Bảng 1.2: Sản lƣợng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày
Thời gian cắt
Năng suất VCK (tấn/ha)
11/8/2000 8,9
11/9/2000 7,1
11/10/2000 6,9
11/11/2000 6,8
11/12/2000 4,6
11/01/2001 2,6
11/02/2001 4,1
11/03/2001 4,3
11/04/2001 5,8
11/05/2001 3,7
Nguồn: Annual Report on Animal Nutrition Division (2001) [42].
Theo Quilichao (Colombia CIAT, 1978) [41], giống Brachiaria
decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 42.000 kg/ha/năm với thí
nghiệm không bón đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
điều kiện bón lân và đạm thích hợp. Thí nghiệm cắt hàng năm cho năng suất
12
chất khô đạt 36.700 kg/ha, kết quả này cao hơn so với cỏ Pangola (Digitaria
decumbens), Para (Brachiaria mutica) và Ghinê (Panicum maximum)
(Barnard, 1969) [51].
Tại Purertorico, Vieente – Chandler Silva và Figarella (1959) [46]
thông báo năng suất giống Panicum maximum Cv Makueni đạt 26.846 kg
VCK/ha với mức bón 440 kg đạm/ha và cứ 40 ngày cắt 1 lần khi trồng cỏ.
Middleton và Micosker, (1975) [45] cho biết vào năm 1973 và 1974 tại miền
Nam Johnstone, vùng Queensland, vẫn giống Panicum maximum Cv Makueni
đã sản xuất được 60.000 kg VCK/ha với điều kiện cung cấp 300 kg đạm/ha.
Tại Samford, Queensland năng suất hàng năm của giống Paspalum rinatatum
là 15.000 kg VCK/ha (Davies, 1970) [43].
Đối với giống cỏ Setaria sphacelata các kết quả nghiên cứu của
Riveros và Wilson (1970) [49] tại Redlanbay, Queensland, thông báo năng
suất đạt từ 23.500- 28.000 kg/ha qua mùa sinh trưởng 6 tháng trong điều kiện
cỏ được tưới nước và cung cấp 225 kg đạm/ha/năm trên nền đất đỏ Bazan
mầu mỡ.
1.1.4. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam
Đồng cỏ của ta hiện nay còn rất hạn chế, chủ yếu là trồng xen, tận
dụng... chưa thành phổ biến đại trà. Ở nước ta cũng đã có rất nhiều cố gắng
mở rộng diện tích gieo trồng, vừa đảm bảo lương thực cho người vừa đảm
bảo thức ăn cho gia súc. Từ năm 1960, chúng ta đã có chủ trương phát triển
đồng cỏ cho trâu bò ở những vùng thiếu cỏ. Nếu như năm 1960 ở miền Bắc
chỉ có 96 ha trồng cỏ thì qua năm 1961 và 1962 diện tích này đã tăng lên 323
và 687 ha. Sang năm 1963, theo số liệu ở 6 tỉnh đồng bằng, diện tích trồng cỏ
và ngô đay làm thức ăn cho trâu bò đã đạt tới 3585 mẫu Bắc bộ [12]. Năm
1976 Bộ Nông nghiệp đã phát hành bản dự thảo “Quy phạm, xây dựng, sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dụng, dự trữ và quản lý đồng cỏ ”, từ đó đến nay diện tích đồng cỏ trồng có
13
tới 5000 – 6000 ha, nhiều cơ sở như Mộc Châu, Sao Đỏ, Đồng Giao, Phú
Mãn, … đã xây dựng được hàng nghìn ha đồng cỏ chăn thả luân phiên (Báo
cáo của tổng cục chăn nuôi, 1976). Nhiều khu vực chăn nuôi tập thể đã tiến
hành cải tạo bãi cỏ thiên nhiên, đồng cỏ cho trâu bò và lợn, nhiều hợp tác xã
đã sử dụng đất ven bờ sông nhỏ, ven đê trồng cỏ cung cấp cho gia súc.
Nông trường Mộc Châu với sự giúp đỡ tận tình và toàn diện của Chính
phủ và chuyên gia Cu Ba, đã xây dựng thành công hệ thống đồng cỏ kết hợp
chặt chẽ với kết cấu chuồng trại thể hiện rõ một phương thức chăn nuôi đồng
bộ trên đồng cỏ thâm canh.
Nông trường Đồng Giao từ năm 1969 việc xây dựng đồng cỏ chuyển
sang hướng mới, thâm canh đồng cỏ bằng trồng các giống mới, chăm sóc và
sử dụng thích hợp. Nếu năm 1969 ở đây chỉ có 3 ha cỏ trồng thì tới năm 1975
đã có tới 1179 ha (Báo cáo của nông trường Đồng Giao, 1976). Bên cạch việc
xây dựng và cải tạo đồng cỏ, vấn đề dự trữ, phơi khô và ủ xanh được thực
hiện có kế hoạch, có chất lượng như ở Sao Đỏ, Mộc Châu. Song song với
những cố gắng trên việc nghiên cứu các giống cỏ nhập nội và cỏ địa phương
có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú ý, nhiều giống cỏ tốt đã
được đưa vào sử dụng ở các cơ sở nghiên cứu và trung tâm chăn nuôi trong cả
nước như Mộc Châu, Ba Vì, Đồng Giao, Tân Sơn Nhất, Hưng Lộc, Thủ Đức,
Khánh Dương, Nha Bố, ….
Những năm gần đây nước ta đã nhập nhiều đợt các giống cỏ họ Đậu và
cỏ hoà thảo nhiệt đới (chủ yếu từ Oxtrâylia và Cuba) và đã tiến hành trồng thí
nghiệm ở một số địa phương. Một số giống đã được đưa vào sản xuất như cỏ
Pangola (Digitaria decumbes) cỏ đậu Stylo (Stylosanthes) ... Nhiều nông
trường và hợp tác xã cũng đã trồng cỏ Voi, cỏ Xuđăng, cỏ Pangola ... Kết quả
thu hoạch các loại cỏ đó cho biết, nếu mỗi năm cắt được 3-4 lứa thì có thể đạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
năng suất 50-60 tấn/ha, trồng qua 3-4 năm cỏ vẫn phát triển tốt [2].
14
Nguyễn Ngọc Hà và CTV (1985) đã tiến hành nghiên cứu, tuyển chọn
tập đoàn cỏ nhập nội và đưa ra nhận xét: Nhóm cỏ thân cụm Panicum
maximum Liconi và K280 cho năng suất trung bình 17-18 tấn VCK/ha/năm
với 7-8 lứa cắt [14].
Trong thời gian 10 năm trở lại đây, thông qua hoạt động hợp tác quốc
tế và từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta đã nhập trên 100 giống cây thức ăn
hoà thảo và họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới (CSIRO, CIAT, Philippin,
Inđônêsia, Thái Lan), nhằm phát triển khả năng sản xuất thức ăn xanh cho
chăn nuôi. Một số giống cỏ nhập nội đã được đánh giá, kết quả tốt và ứng
dụng vào sản xuất ở một số vùng. Tuy nhiên, do không có sự quản lý, chỉ đạo
thống nhất cho nên một số giống sau khi đánh giá đã bị thất lạc, mất đi hoặc
chưa có điều kiện thử nghiệm ở các vùng khác để có cơ sở chắc chắn mở rộng
ra sản xuất.
Kết quả những công trình nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi cũng
chưa nhiều. Trong những năm gần đây, một số nhà khoa học mới tập trung
vào nghiên cứu một số giống cây thức ăn hòa thảo, họ Đậu nhập nội ở một số
vùng như: Lục Văn Ngôn, 1970 [30], đã nghiên cứu so sánh năng suất và khả
năng sống qua đông của một số giống cỏ trồng nhập nội trên đất đồi Thái
Nguyên trong đó có giống cỏ Tây Nghệ An (Panicum maximum), Mộc Châu
(paspalum urvillei), cỏ xu đăng (Sorglum xudannens), Goatemala (Trypsacum
laxum), cỏ voi, Pangola, cỏ lông qua thí nghiệm cho thấy các cỏ voi, Tây
Nghệ An có tổng số đơn vị sản xuất ra lớn và có khả năng phát triển trong
mùa đông. Tác giả cũng cho thấy năng suất tỉ lệ thuận lượng phân bón nitơ.
Nông trường Ba Vì, 1983 [32] có báo cáo kết quả nghiên cứu tuyển
chọn tập đoàn cây hòa thảo nhập nội tại Nông trường Ba Vì. Trong 28 giống
cỏ được nghiên cứu thì các tác giả cho thấy: trong những giống thuộc thân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đứng thì cỏ Kingrass và voi selection 1 là tốt hơn cả, năng suất 150-180 tấn
15
/ha/năm. Nhóm thân bụi có cỏ Ghinê với hai chủng Uganda và Australia là tốt
hơn, năng suất 70-100 tấn/ha/năm. Nhóm thân bò thì cỏ Pangola Pa 32 là tốt
hơn năng suất 60-80 tấn/ha/năm.
Lê Hòa Bình và cộng sự (1992), khảo sát năng suất cây thức ăn mới
nhập nội ở một số vùng và ứng dụng trong hộ chăn nuôi đã cho kết quả như
trình bày ở bảng 1.3 [5].
Bảng 1.3: Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/ năm)
Long Mỹ
Sơn Thành
Ba Vì
Thụy Phƣơng
TT
Tên giống
Xanh VCK Xanh VCK Xanh VCK Xanh VCK
1 Panicum maximum Hamil
56.91 9.73
92.9
17.6
86.3
16.5
90.5
17.3
2 Panicum maximum Liconi
40.57 8.11
-
-
99.96 18.9
97.5
17.5
3 Panicum maximum Trichoglumen 40.89 8.21
62.4
12.6
44
10.1
68.2
15.7
4 Panicum maximum Makueni
59.96 11.92 77.1
15.1
60.8
12.4
108
19.4
5 Pennisetum King grass
119 19.02
-
-
170.1 22.3
207
23.6
6 Pennisetum purpureum
99.73 16.95 176
22.9 169.5 20.4
198
21.8
7
Setaria splendida
28.13 5.56
-
-
75.1
14.1
80.4
12.6
8 Brachiaria mutica
28.42 7.61
68.9
12.7
42.6
10.2
86.6
15.9
9 Brachiaria decumbens
44.16 8.77
72.6
13.7
56.7
11.2
73.8
11.8
Nguồn: Lê Hòa Bình, Nguyễn Ngọc Hà và CTV, 1992.
Trương Tấn Khanh và CTV, năm 1999 [31] đã nghiên cứu tập đoàn cây
thức ăn gia súc tại Đắc Lắc. Bùi Thế Hùng trồng thử nghiệm một cây thức ăn
gia súc trong các trại vùng trung du miền núi phía bắc. Vũ Thị Kim Thoa
1999 [29] nghiên cứu khả năng sinh trưởng, năng suất của một số giống cỏ sả
trên vùng đất xám Bình Dương. Dương Quốc Dũng và CTV, 1999 [13]
nghiên cứu nhân giống hữu tính cỏ Ruzi và phát triển chúng vào sản xuất một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
số tỉnh phía Bắc và miền Trung. Lê Hòa Bình, Nguyễn Phúc Tiến, Hồ Văn
16
Núng, Đặng Đình Hanh, 1997,[234] đã nghiên cứu giống cỏ Para, các tác giả
cho biết cỏ Para có năng suất 89-98tấn/ha với khối lượng xanh thu trong mùa
đông 35-45 tấn/ha tương đương 39-47% khi trồng trên đất có độ ẩm cao và có
ngập nước. Nguyễn Tuấn Hảo, 1999 đã trồng thử nghiệm một số loài cây
thức ăn gia súc nhập nội và cải tạo đất, trong đó tác giả đưa vào nghiên cứu
24 loại cây họ đậu và 18 loài hòa thảo nhằm mục đích tìm ra một số cây vừa
làm thức ăn gia súc, vừa có tác dụng chống xói mòn và cải tạo đất, phù hợp
với khí hậu vùng trung du Bắc Bộ. Trong các loài thử nghiệm tác giả đã kết
luận ưu điểm của các giống cỏ Brachiria brizantha CIAT 16835 và cỏ
Brachiria ruziensis ex. Thái lan là hai loài cỏ mọc khỏe nhất , cho sinh khối
cao (năng suất khoảng 30-40 tấn/ha) và có khả năng chịu hạn. Ngoài ra, tác
giả đề cập đến 2 giống cỏ triển vọng là Paspalum atratum BRA 9610 và
Paspalum guenoarum BRA 3824.
Phan Thị Phần và CTV (1998) [20] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở
khu vực miền Nam và miền Bắc cho kết quả:
+ Khu vực miền Nam, địa điểm nghiên cứu tại vùng đất xám Bình
Dương với 20 tấn phân chuồng, 80 kg P2O5, 80 kg K2O và 500 kg vôi/ha/năm.
Lượng phân đạm bón từ 60 – 90 kg N/ha / năm, năng suất chất xanh cỏ
Panicum maximum TD 58 đạt 64,59 – 83,33 tấn /ha/ năm. Tỷ lệ lá cao 51,48 –
60,44%, năng suất hạt 287 – 323 kg/ha/năm. Khoảng cách lứa cắt thích hợp là
40 ngày/ lứa.
+ Khu vực miền Bắc trên 2 loại đất của vùng đồng bằng và vùng đất
đồi trong điều kiện trung tính, đất tốt, đất chua nghèo lân và kali cỏ đều có tốc
độ sinh trưởng khá tốt (1,96 – 2,01 cm/ngày). Năng suất chất xanh đạt 90 –
100 tấn/ ha/ năm. Cỏ Ghinê có khả năng cho thu hạt, năng suất đạt 450 kg/ha,
tỷ lệ sử dụng của gia súc đối với cỏ cao: Trâu 94%, bò sữa 77% và ngựa 85%.
Tỷ lệ tiêu hóa của dê đối với cỏ Panicum maximum TD 58 cao, khả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
năng sử dụng của gia súc đều tốt từ 86 – 100%.
17
Nguyễn Thị Mùi, Lương Tất Nhợ, Hoàng Thị Hấn, Mai Thị Hướng
2004 [33] đã nghiên cứu đánh giá hiện trạng nguồn thức ăn cho gia súc ăn cỏ
và bước đầu xây dựng mô hình trồng cây thức ăn gia súc tại huyện Đồng Văn
– Hà Giang. Qua nghiên cứu điều kiện Sinh thái nơi đây, các tác giả đưa vào
trồng thử nghiệm giống cỏ : P. Purpureum kingrass, P. p. Malagasca, P.
maximum TD58, paspalum atratum, B. ruzizinensis được trồng trong vụ đông,
kết quả cho thấy các giống đều sống được qua mùa đông lạnh có tuyết và
sương muối.
Tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Thái
Nguyên, tác giả Nguyễn Văn Quang (2002) khi nghiên cứu so sánh về tốc độ
sinh trưởng, năng suất, chất lượng, tính ngon miệng của 5 giống cỏ nhập nội
cho biết: Cả 5 giống cỏ đều có tốc độ sinh trưởng khá cao từ 1,45 – 1,82 cm/
ngày. Trong đó 2 giống cỏ Paspalum astratum và Panicum maximum TD 58
có tốc độ sinh trưởng cao nhất (1,82 và 1,70 cm/ngày) [20]. Nguyễn Văn
Quang và cộng sự, 2002 [19] đã nghiên cứu khả năng sản xuất chất xanh và
ảnh hưởng của phân bón đến năng suất của một số giống cỏ trong mô hình
xen với cây ăn quả trên đất đồi Bá Vân – Thái Nguyên, trong đó có 3 giống cỏ
là Brachiaria decumbens, Setaria splendida, Panicum maximum TD58. Kết
quả cho thấy 3 giống cỏ trồng xen lẫn với cây ăn quả ở đất đồi Bá Vân đạt
60,1-79,3 tấn/ha/năm. Năng suất VCK 10,2-12,2 tấn/ha, năng suất protein 1-
1,3 tấn/ha; khi đầu tư phân chuồng ở mức 10-20 tấn/ha. Lê Hòa Bình, Hồ Văn
Núng 1987 – 1989 [37] cho biết thảm có voi xen canh với các cây họ đậu
trong các điều kiện phân bón hạn chế đạt năng suất chất xanh 139-142 tấn/ha,
tăng 24-27 tấn/ha so với đối chứng cỏ voi thuần.
Nguyến Văn Lợi, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Thị Mùi , Lê Hòa Bình,
Đặng Đình Hanh, 2004, đã nghiên cứu xây dựng mô hình thử nghiệm thâm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
canh, xen canh cỏ hòa thảo, họ đậu làm thức ăn cho gia súc tại Thái Nguyên,
18
năng suất các giống cỏ đạt từ 90-179 tấn/ha trong điều kiện trồng thuần; 93-
138,5 tấn /ha trong điều kiện xen với cây ăn quả; 17-18,9 tấn /ha trong điều
kiện trồng theo băng ; 28,5-36,9 tấn/ha trong kiều kiện trồng theo đường đi.
Tháng 7/2004, viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam thuộc bộ
Nông nghiệp và PTNT đã triển khai thực hiện dự án “Trồng thử nghiệm tập
đoàn giống cỏ nhập nội nuôi bò” tại xã Cam Sơn, An Thạch (Mỏ Cày), Hữu
Định (Châu Thành) và An Đức (Ba Tri) đã đưa ra kết luận: Cỏ Voi chiếm ưu
thế hơn cả, nếu trồng chuyên canh trên nền đất trống, năng suất đạt 29,04
tấn/ha/lứa; trồng xen vườn dừa là 15,18 tấn/ha, trồng xen vườn ăn trái là 25-
27 tấn/ha. Đứng thứ hai là cỏ Sả lá lớn, trồng thâm canh là 23,11 tấn/ha, trồng
xen vườn dừa là 11,77 tấn/ha, trồng xen vườn cây ăn trái là 20,4-21,4 tấn/ha.
Tiếp theo là cỏ Ruzi, cỏ Sả lá nhỏ và cỏ lông tây... [3]. Nguyễn Thu Hồng,
Nguyễn Ngọc Tấn, Đinh văn Cải, 2006 [33] đã tiến hành thí nghiệm trồng cỏ
tại vùng khô hạn tỉnh Ninh Thuận. Các tác giả cho biết các giống cỏ hòa thảo
như voi, sả, cỏ Ruzi và Paspalum đều có thể sinh trưởng và phát triển trong
điều kiện khô nóng tại Ninh Thuận. Trong điều kiện tưới nước phân bón
năng suất có thể đạt 100-150 tấn/ha/năm.
Hoàng Chung, Giàng thị Hương (2006) tại Mai Sơn - Sơn La đã tiến hành
tưới nước và bón phân cho cỏ trồng (voi, cỏ ghinê), tăng 1-2 lứa / năm, năng suất
tăng từ 1,9 đến 2,16 lần, năng suất tăng từ (100 tấn -120 tấn/ha) [24].
Định hướng phát triển diện tích trồng cỏ từ 45.000 ha hiện nay lên
290.000ha vào năm 2010. Diện tích trồng cỏ của cả nước hiện nay chỉ đáp
ứng được 7,6% nhu cầu thức ăn thô xanh của gia súc ăn cỏ. Nguyên nhân chủ
yếu của tình trạng này do các địa phương chưa quy hoạch đất trồng cỏ, chưa
khai thác hết diện tích đất chưa sử dụng và chưa mạnh dạn chuyển đổi một
phần đất nông nghiệp sang trồng cỏ thâm canh. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phát triển Nông thôn nhấn mạnh ngành chăn nuôi phải có sự điều chỉnh cơ
19
cấu chiến lược, cụ thể là đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ được coi
là hướng chính. Muốn vậy cần có sự chuyển biến mạnh và đột phá trong khâu
thức ăn. Đối với những vùng phát triển mạnh chăn nuôi gia súc ăn cỏ, cỏ phải
được coi là cây trồng chính và trồng cỏ phải được coi là hướng chuyển dịch
hướng tới thâm canh[36].
1.2. Tình hình nghiên cứu đồng cỏ trên thế giới và ở Việt Nam
Cỏ là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất dinh
dưỡng, như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại có
khả năng sử dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ
không những rất cần thiết mà lại có tỉ lệ thích hợp đối với nhu cầu sinh lý của
trâu bò. Ví dụ: nếu tỉ lệ đường - đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức ăn
của bò sữa là 1:1 thì tỉ lệ đó trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1.4 :1 [2]. Cỏ
còn là loại cây thức ăn dễ sản xuất, có năng suất cao, tương đối ổn định và là
nguồn thức ăn rẻ tiền góp phần làm giảm giá thành sản phẩm chăn nuôi, chưa
kể ưu thế của các giống cỏ lâu năm là thường chỉ cần gieo trồng một lần mà
sử dụng được nhiều năm. Ở bãi cỏ tự nhiên với điều kiện thổ nhưỡng tốt thì
1kg cỏ tươi cung cấp được 16g Prôtêin tiêu hoá và 32g lipit, 8 kg loại cỏ này
tương đương 1 đơn vị thức ăn [27].
Muốn phát triển chăn nuôi, một trong những vấn đề cơ bản đầu tiên cần
phải giải quyết là nguồn thức ăn gia súc. Trong 2 hệ thống nuôi dưỡng: a) dựa
vào thức ăn tinh (trên 40% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn bằng thức ăn
tinh), b) dựa vào thức ăn thô (trên 60% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn
bằng thức ăn thô) thì hệ thống (b) được đặc biệt chú ý nhất là ở các nước có
khả năng phát triển đồng cỏ. ở những nước này việc sử dụng đồng cỏ không
chỉ để chăn thả mà còn cung cấp thức ăn xanh và dự trữ cho đàn gia súc nuôi
nhốt. Ở Úc, sản phẩm chăn thả tới 50% sản phẩm xuất khẩu, tỉ lệ này còn cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hơn: 90% ở Tân Tây lan [9]. Theo Davies (1960) đồng cỏ tự nhiên cung cấp
20
gần một nửa gia súc chăn thả, tạo ra một phần ba lượng thịt và một phần sáu
sản lượng sữa trên thế giới [11] ...Ước tính thế giới , gia súc sử dụng khoảng
3,4 tỷ ha đất dùng cho chăn thả và dùng cho sản xuất thức ăn gia súc.
Sau cuộc “Cách mạng về thức ăn gia súc” ở Tây âu mà đặc biệt là ở
Anh đã tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi phát triển, đồng cỏ ngày càng
được chú ý và sử dụng đúng với vai trò của nó.
Ở Pháp (1842) chỉ có 4 triệu ha trồng cỏ và 15 triệu ha ngũ cốc thì hiện
nay tỷ số ấy đã thay đổi: 12 triệu ha trồng cỏ và 8 triệu ha ngũ cốc [17].
Ở Anh các diên tích ngũ cốc giảm đi và diện tích trồng cỏ, các loại cây
thức ăn gia súc khác tăng lên và được thâm canh một cách đáng kể.
Ở Liên Xô, diện tích trồng cỏ tăng từ 2,1 triệu ha năm 1913 lên 7,3
triệu ha năm 1933 và đến năm 1961 diện tích này đã lên tới 51,9 triệu ha [12].
Không những diện tích trồng cỏ tăng lên, việc nghiên cứu chọn lọc các
giống cỏ có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú trọng, nhiều loài
cỏ như cỏ Voi, cỏ Ghinê, cỏ Bermuda, cỏ Pangola, v.v … đã được sử dụng ở
nhiều nước trên thế giới. Lai tạo những giống cỏ mới có năng suất và giá trị
dinh dưỡng cao như Coastcross (Cỏ Bermuda lai), cỏ Ghinê từ một loài đã
tạo ra nhiều giống mới, cỏ Voi cũng vậy, ... đây là thành tựu khoa học đáng
kể để góp phần giải quyết thức ăn cho gia súc ngày càng phát triển.
Việc phát triển đồng cỏ không chỉ cung cấp thức ăn tươi xanh mà còn
dùng để dự trữ cho gia súc nuôi nhốt. Cùng với việc phát triển của nghề chăn
nuôi động vật nhai lại, đòi hỏi người chăn nuôi nhiều nước trên thế giới phải
nhập nhiều giống cỏ khác nhau từ các nước khác nhau. Quê hương lâu đời của
cỏ Voi là Uganda nhập vào Mĩ năm 1913, Australia năm 1914, Cuba 1917,
Braxin 1920….[38]. Cỏ Pangola xuất hiện ở bên bờ song Pangola thuộc Nam
phi nhập về Mĩ năm 1935, Cuba 1950, Australia 1954… và các nước nhiệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đới, cận nhiệt đới. Cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn lại,
21
cây cỏ hoà thảo, cây đậu, cây thân thảo hay thân gỗ mà có thể được sử dụng
làm thức ăn cho gia súc.
Những cây này cũng có thể được sử dụng vào những mục đích khác
như bảo vệ đất, chống xói mòn, làm tăng độ màu mỡ của đất và hạn chế cỏ
dại [1].
Theo Meilroy (1972) cần chọn cỏ để làm thức ăn gia súc là khi thu
hoạch dưới dạng này hay dạng khác phải đảm bảo các yêu cầu sau [44]:
- Cỏ phải có khả năng tái sinh qua mầm chồi còn lại sau mỗi lần
thu hoạch.
- Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc là nơi khi
thu hoạch ít bị ảnh hưởng tới.
- Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu hạn và chịu lạnh cao.
- Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt đất.
- Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và đảm
bảo lấy được dinh dưỡng đã được giải phóng hay phân huỷ từ dưới đất.
Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các
nhân tố sau để xét và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ như: độ ngon
miệng cao, nhất là cỏ thu cắt phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng nhu cầu
gia súc về các mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn và khả năng được
trồng kết hợp; có khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên tục của gia súc và cỏ thu
cắt phải chịu được sự cắt và nén của máy thu hoạch; cỏ chăn và cỏ cắt đều phải
có năng suất cao để đảm bảo nhu cầu gia súc và giảm diện tích gieo trồng. Ở
Việt Nam, diện tích cỏ tự nhiên chưa được đánh giá đầy đủ và khai thác hợp lý
và hiệu quả. Hiện nay nước ta có 5.026.400 ha đồng cỏ tự nhiên trong đó tính
cả cỏ mọc ở ven đê, ven sông, bờ ruộng. Nhiều đồng cỏ tự nhiên ở Tây bắc,
Tây nguyên đã bị thu hẹp lại do nạn phá rừng, đốt rừng ngay khi chưa được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khai thác cho chăn nuôi. Những nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên ở nước ta còn
22
rất hạn chế…Từ 1990 với các chương trình nghiên cứu hợp tác quốc tế, hàng
trăm giống cây cỏ được nhập từ Úc, Philippin, Thái lan,Trung quốc, Đức... Qua
khảo sát đã chọn và phát triển được một số cây cỏ có năng suất chất lượng cao,
thích hợp với khí hậu và đất đai Việt nam như Cỏ Ghinê TD58 (Panicum
maximum), Ruzi (Brachiaria ruziziensis), cỏ Voi (Pennisetum purpureum)
Paspalum atratum thích hợp với sản xuất trong điều kiện thâm canh cho năng
suất 16-36 tấn chất khô/ha, cỏ Brachiaria decumbens, cỏ Brachariaria brizantha
sản xuất trong điều kiện khô hạn và ít đầu tư cho năng suất 8-20tấn chất
khô/ha. Cây Flemingia, Keo dậu (Leucaena leucocephala),và Stylo
(Stylosanthes guianesis), Arachis pintoi sử dụng để phủ đất, cải tạo đất và làm
nguồn thức thô giầu protein cho loài nhai lại .
Ở nước ta đã hình thành những hệ thống thức ăn chăn nuôi phù hợp với
những vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau như:
- Hệ thống cây lúa: Hệ thống cây lúa là hệ thống truyền thống của Việt
Nam, sản lượng thóc hàng năm đạt tới 32,5 triệu tấn, cung cấp khoảng 4,5
triệu tấn tấm và cám, 25 triệu tấn chất khô của rơm. Số lượng tấm và cám là
lượng thức ăn quan trọng để nuôi 20 triệu con lợn và hàng trăm triệu gia cầm.
Riêng rơm thì còn ít được sử dụng cho trâu bò mà chủ yếu dùng làm chất đốt.
- Hệ thống cây ngô: Diện tích trồng ngô của cả nước là 687 ngàn ha, sản
lượng 1,75 triệu tấn/năm, 80% ngô dùng vào chăn nuôi. Có những vùng trồng
ngô chuyên canh như: Sơn la, Hà giang, diện tích trồng ngô của những vùng
này chiếm 12% diện tích ngô toàn quốc, sản lượng ngô chiếm tới 20% sản
lượng ngô toàn quốc. Ngô hạt được đưa về đồng bằng để phục vụ chăn nuôi,
tuy nhiên thân cây ngô sau khi thu bắp còn ít được sử dụng trong chăn nuôi.
Đàn trâu bò của hai tỉnh trên chỉ chiếm 5,4% số lượng trâu bò toàn quốc.
- Hệ thống cây mía: Diện tích trồng mía cả nước là 302,9 ngàn ha,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sản lượng đạt 17,76 triệu tấn., chỉ tính riêng ngọn lá mía dùng cho chăn nuôi
23
trâu, bò cũng đã đạt 3,5 triệu tấn đủ nuôi được 1,7 triệu trâu và bò. Nhiều
vùng trồng mía chuyên canh cây mía như Thanh hoá (diện tích và sản lượng
chiếm gần 1/10 diện tích và sản lượng toàn quốc), Tây ninh (diện tích và sản
lượng chiếm khoảng 7% diện tích và sản lượng toàn quốc) , từ đó bước đầu
hình thành những hệ thống chăn nuôi mía-bò như Thanh hoá.
Cả nước có khoảng 25 triệu tấn rơm lúa, 2 triệu tấn thân cây ngô già và
gần 1,5 triệu tấn dây lạc, dây lang, ngọn lá sắn, lá mía (tính theo chất khô).
Đẩy mạnh chăn nuôi bò sữa, bò thịt, trâu ở những vùng chuyên canh
ngô, mía. Hình thành những vùng chăn nuôi trâu bò gắn với hệ thống cây mía,
cây ngô như vùng ngô Sơn la, vùng mía Thanh Hoá, Tây Ninh. Mở rộng việc
sử dụng rơm sử lý urê để khai thác tốt hơn hệ thống chăn nuôi trâu bò-rơm lúa
ở vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu long; mở rộng việc sử
dụng phụ phẩm thuỷ sản chế biến để đẩy mạnh chăn nuôi lợn, gia cầm ở vùng
Duyên hải.
1.3. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Bắc Việt Nam
Đồng cỏ phía Bắc Việt Nam chủ yếu là có nguồn gốc thứ sinh do hoạt
động khai phá rừng mà thành, nên diện tích đồng cỏ ngày nay được mở rộng
có thể chiếm tới 1/3 diện tích lãnh thổ. Hiện nay, đồng cỏ được sử dụng với
nhiều mục đích khác nhau như làm bãi chăn thả, trồng cây lương thực, cây ăn
qủa, cây công nghiệp, trồng rừng...
Trong thực tế hiện nay, tại các vùng có sử dụng đồng cỏ vào mục đích
chăn nuôi, hầu như chưa có phương thức sử dụng hợp lý, khai thác một cách
cạn kiệt làm cho thảm cỏ ngày càng thoái hoá mạnh. Cho đến nay, những
nghiên cứu về sử dụng hợp lý đồng cỏ vẫn còn là mới mẻ, tài liệu còn qúa ít.
Những công trình nghiên cứu dành cho việc sử dụng hợp lý đồng cỏ rải
rác ở một số công trình như: Nguyễn Vũ Hùng, Bùi Văn Minh (1968), có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghiên cứu về sử dụng luân phiên đồng cỏ ở Ba Vì và đề nghị chia thành 6 ô,
24
mùa hè sử dụng 5 ô. Trong một đàn gia súc số lượng nên là 100-150 con, diện
tích đồng cỏ là 50 - 80 ha.
Dương Hữu Thời (1981) có đề cập đến một số vấn đề sử dụng hợp lý
như: luân phiên đồng cỏ, trồng cỏ, diệt trừ cây bụi.
Võ Văn Trị (1983) đã chia đồng cỏ trồng ra thành những ô nhỏ, sự luân
phiên mùa hè theo ông có khoảng cách 40 - 50 ngày, mùa đông là 60 ngày.
Hoàng Chung (1988) nghiên cứu về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ Bắc
Việt Nam. Trên cơ sở tương đối đầy đủ những tư liệu về đồng cỏ vùng này đã
chia đồng cỏ Bắc Việt Nam thành 3 hệ thống (3 loại theo độ dốc) Loại 1: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 0 - 70. Loại 2: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 7 - 25 0. Loại 3: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 25 - 300 trở lên.
Từ việc phân chia này ông đã đề xuất các biện pháp sử dụng hợp lý
đồng cỏ ở từng nhóm.
Vấn đề cải tạo đồng cỏ Bắc Việt Nam ông đã đề cập đến 2 vấn đề lớn:
cải tạo điều kiện môi trường sống, cải tạo lớp đất mặt. Qua những nghiên cứu
trên ông đề xuất 1 số ý kiến về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ của vùng núi
phía Bắc Việt Nam.
1.4. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới
Nguồn gốc của đồng cỏ trong đai nhiệt đới, giữa các tác giả có ý kiến
khác nhau. Đa số cho rằng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới không có đồng cỏ
tồn tại, các quần xã cỏ ở đây là loại hình savan [7].
Khi nghiên cứu về nguồn gốc thứ sinh của các thảm cỏ trong các vùng
nhiệt đới khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng: Các đồng cỏ
và cây bụi trong vùng nhiệt đới đều hình thành trên những quần xã rừng bị
chặt hạ. Con người khi chặt phá và đốt rừng làm nương rẫy đã làm đất bị cháy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và khô đi, những tác động này được kết thúc vào cuối mùa khô. Đầu mùa mưa
25
ở đây sẽ được gieo trồng các loại cây trồng nông nghiệp. Trải qua nhiều lần
như vậy đất sẽ được bỏ hoang, trên nó lại phục hồi dần rừng thứ sinh và lại
tiếp tục bị chặt hạ để trồng trọt. Kết quả dẫn đến rửa trôi mạnh lớp đất mặt,
cây gỗ không có điều kiện tái sinh nữa, hình thành nên lớp cỏ hay có lẫn một
số loài cây thảo và cây bụi hạn sinh. Về ngoại mạo nó gần giống thảo nguyên
vùng ôn đới. Vì nguồn gốc thứ sinh như thế nên đồng cỏ phân bố rải rác ở các
vành đai khác nhau, tồn tại dạng đồng cỏ thấp hay cao tùy thuộc vào mức độ
sử dụng của con người.
Đối với vùng núi Bắc Việt Nam tồn tại nhiều kiểu savan, đồng cỏ và
các dạng trung gian. Trong đai nhiệt đới, trên những vùng đã bị chặt phá, khi
mà đất còn khá tốt, độ ẩm còn khá cao, thì sẽ hình thành ở đây loại hình đồng
cỏ vì thảm cỏ ở đây gồm các cây cỏ có thân rễ dài, búi thưa thuộc nhóm trung
sinh sống lâu năm ngừng sinh trưởng vào mùa đông. Trong quá trình tác động
tiếp theo con người sẽ làm cho lớp đất mặt bị bào mòn, khả năng giữ nước
của đất kém, đất có độ chua cao, trong thảm cỏ tỉ lệ cây hạn sinh tăng lên,
cuối cùng chỉ tồn tại ở đây các loài cỏ, cây bụi hạn sinh và cây đoản mệnh,
hình thành savan cỏ, savan cây bụi hoặc thảm cây bụi hạn sinh. Có thể tóm tắt
quá trình trên như sau: Rừng nguyên sinh - rừng thứ sinh - đồng cỏ - savan
cỏ hoặc savan bụi - thảm cây bụi hạn sinh [7].
Có thể nói nguồn gốc của đồng cỏ là không đồng nhất, có nhiều loại
hình đồng cỏ được hình thành bằng con đường tự nhiên, nhưng cũng có
những đồng cỏ được hình thành do hoạt động của con người trên vùng đất
rừng, thảo nguyên hay đầm lầy … làm thay đổi điều kiện môi trường và hình
thành ra đồng cỏ [8].
1.5. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả
Hiện nay, chăn nuôi bò ở nước ta đang trên đà phát triển mạnh. Giải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quyết thức ăn và kỹ thuật nuôi dưỡng là những yếu tố có tính quyết định đến
26
năng suất, chất lượng và hiệu quả của chăn nuôi bò. Trong thực tế hiện nay
đồng cỏ luôn luôn bị thay đổi do tác động thường xuyên của con người, vì
đồng cỏ đã và đang là đối tượng hoạt động kinh tế nông nghiệp của loài
người. Làm sáng tỏ nguồn gốc của đồng cỏ và những quy luật biến đổi của nó
do tác động của loài người, là điều kiện cần thiết làm cơ sở cho những biện
pháp sử dụng hợp lý đồng cỏ.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề thoái
hoá của đồng cỏ do chăn thả cũng như thảo nguyên của các vùng khác nhau.
Vyxochki G.N (1908-1909, 1915) và Pachoxki I.K (1917-1921) là
những người đầu tiên đã nêu những đặc điểm rõ rệt nhất của ảnh hưởng chăn
thả đến thảm thực vật và đất đồng cỏ bị khô hạn. Chăn thả có ảnh hưởng trực
tiếp đến đất, mới chăn thả đất chặt dí lại và khi chăn thả nhiều, đất bị nát vụn
ra. Hai ông đã xác định 4 giai đoạn thoái hoá của thực bì thảo nguyên dưới
tác động của chăn thả. Pachoxki (1917) nghiên cứu đới nam của thảo nguyên
Stipa longifolia, ông phân chia một số giai đoạn thoái hoá khác nhau. Nó bao
gồm cả giai đoạn chăn thả hay không chăn thả được. G.I.Popov (1931) khi
nghiên cứu thảm thực vật trong đới phụ thảo nguyên Stipa, thuộc thảo nguyên
nam Varonhet cho thấy các giai đoạn thoái hoá của thảm thực vật do chăn thả.
Trong thí nghiệm của Rômaxep P.I (1934) làm ở đồng cỏ trồng thuộc viện
nghiên cứu thức ăn gia súc, khi ném gậy từ cách mặt đất 1m xuống đồng cỏ,
gậy ngập sâu 32,2mm và ném xuống bãi chăn thả gậy ngập sâu 24,7mm.
Trong thí nghiệm của Lyupxcaya A.F (1935) làm ở bãi đất ven sông thấy các
số liệu tương ứng là 39,0 và 33,6mm và làm ở đồng cỏ ven sông thấy tương
ứng là 28,8mm và 23,9mm. Ông kết luận rằng khi chăn thả trong năm sinh
trưởng đầu tiên, trung bình có đến 5% cỏ hàng năm bị bật rễ. Gia súc không
làm bật rễ cỏ lâu năm đã thành thục và cũng không làm hại những bộ phận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dưới mặt đất của những cỏ này [40].
27
V.V. Alekhin (1934) nghiên cứu ở vùng Kursk thuộc đới phụ (phía
Bắc) của thảo nguyên đồng cỏ đã xác định được các giai đoạn thoái hoá do
chăn thả ở đây như sau: “Khi chăn thả nặng nề thì Stipa sẽ mất đi và thành
phần hệ thực vật trở nên nghèo nàn hơn, đồng thời rất nhiều loài có số lượng
cá thể không nhiều, thường đơn độc, rồi cũng mất dần đi, bắt đầu trội hẳn lên
là Bromus. Sau nữa còn lại chủ yếu là cây thuộc thảo và trên thảo nguyên phát
triển mạnh ở tầng trên là cây Bromus riparius, tầng thấp là Festuca đồng thời
trong vùng đó biểu hiện hai tầng rất rõ ràng; Bromus - Festuca ; cuối cùng chỉ
còn lại Festuca, những sự chèn ép sau này của thảm Cỏ qua hàng loạt những
trạng thái nhỏ nhặt sẽ dẫn đến giai đoạn phân bố rộng rãi của bào tử thực vật
trên thảo nguyên” [7]. Cũng trong thời kỳ này,Gordiagin, Taliep, Keller đã
nói rất nhiều về khả năng hình thành của thảm thực vật thảo nguyên đồng cỏ
trên đất rừng bị chặt hạ hay đất trống.
Scaetta (1938) cũng đã nhận xét ở vùng núi cao thuộc Côngô và
Uganđa là sự giẫm đạp vừa phải của một đàn gia súc (dù trên những đồng cỏ
họ Hoà thảo thân cao từ 3-5m) đã làm cho những đồng cỏ thân cao được thay
thế bằng những đồng cỏ thân thấp, những cỏ thân thấp này thường từ vùng
núi lan xuống và thành thích hợp với súc vật và có giá trị dinh dưỡng cao hơn
nhiều so với những loài mọc trên đá ở vùng nhiệt đới .Trái lại, nếu gặm cỏ và
giẫm đạp quá nặng nề thì đất sẽ bị xói mòn do nước chảy xiết. Như Scaetta đã
nhận xét, nhất là ở vùng núi, một thảm cỏ xanh tốt có thể biến thành một bãi
khô cằn. Những khóm cây ngày càng thưa nên đất bị bào mòn và thành rãnh.
“Hầu như bao giờ hiện tượng này cũng đi theo sự phá rừng dữ dội, không
những làm cản trở mọi cải tiến đối với nghề chăn nuôi, mà còn gây nên nạn
đói và chết chóc cho những vùng trước đây phồn thịnh”. Như vậy phải thay
thế sự chăn thả tự do bằng sự chăn thả có kỷ luật. Koechlin J (1962) khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghiên cứu về đồng cỏ và vấn đề thức ăn gia súc ở cộng hoà Trung Phi đã
28
nhận xét : Hiện tượng thoái hoá đồng cỏ là do chăn thả gia súc diễn ra trên
những diện tích lớn làm sản xuất bị giảm sút nghiêm trọng. Hơn nữa sự thoái
hoá của thực vật đồng cỏ thường làm cho hiện tượng xói mòn sâu sắc hơn.
Jacques Felix H (1961) nói về đặc điểm của đồng cỏ rẻo cao ở Tây Phi:
Những đồng cỏ này có giá trị không những chỉ do phẩm chất cỏ mà vì khí hậu
ở đó trong lành, ít dịch bệnh. Những đồng cỏ này là những nơi phải được coi
trọng, phải được giữ gìn cẩn thận và cải tạo vì diện tích chỉ có hạn. Thực tế
chúng tôi thấy những đồng cỏ này bị hai nguyên nhân làm thoái hoá : xói mòn
do bị chăn thả quá đáng ở những sườn núi; cháy rừng làm cho hệ thực vật chỉ
còn một vài loài chịu lửa, những loài này là thức ăn gia súc xấu và không bảo
vệ được đất [40].
B.D.Andreev (1958) khi nghiên cứu các giai đoạn hình thành và thoái
hoá của thực bì thảo nguyên ở nam Nga đã chia thành 8 giai đoạn: Giai đoạn
đầu là sự chặt hạ và cuối cùng là sự hình thành thảm bào tử thực vật.
A.V.Abramtruk, P.L Gortriakopski (1980) khi đánh giá mức độ thoái hoá của
các quần xã cỏ do tác động của con người ông đã đề ra bảng thang bậc riêng
gồm có 3 mức, sự khác nhau giữa các mức là phụ thuộc vào mức độ thoái hoá
do con người tạo ra (1 - ít; 2 - trung bình; 3 - nhiều).
Sự biến đổi các thảm thực vật (đồng cỏ) dưới tác động của yếu tố do
con người tạo ra ở vùng nhiệt đới đã từ lâu trở thành vấn đề nóng bỏng cho
nền kinh tế và cho chăn nuôi ở xứ nhiệt đới. Nhưng những nghiên cứu về vấn
đề này cho đến nay vẫn còn rất ít: Cooper I.P, Taiton N.M và Pleming G
(1968), Dương Hữu Thời (1981), Hoàng Chung (1981, 1983)......
Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam là loại hình đồng cỏ thứ sinh. Đặc
biệt trong điều kiện khí hậu nhiệt đới đồng thời đồng cỏ ở đây phân bố chủ yếu ở vùng núi, các sườn đồi có độ dốc khá lớn (15 - 400), nên vấn đề thoái hoá của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đồng cỏ do chăn thả là một trong những vấn đề nan giải hiện nay của các nhà
29
nghiên cứu đồng cỏ Bắc Việt Nam. Những nghiên cứu về sự thoái hoá của
đồng cỏ do chăn thả ở Việt Nam hiện nay đã được Dương Hữu Thời (1981) đề
cập trong cuốn “ Đồng cỏ Bắc Việt Nam” khi phân tích thành phần loài và các
điều kiện sinh thái của đồng cỏ đã đề cập đến 2 nguyên nhân của sự thoái hoá
đồng cỏ Bắc Việt Nam là do cường độ chăn thả và điều kiện khí hậu.
Hoàng Chung (1981, 1983, 2003) sau hơn 10 năm nghiên cứu tại đồng
cỏ ở vùng Thôm Luông (Ngân Sơn) đã phân tích ảnh hưởng của sự chăn thả
không có kế hoạch lên sự thay đổi thành phần loài, cấu trúc và năng suất của
thảm cỏ và đã đưa ra kết luận về quá trình thoái hoá đồng cỏ Bắc Việt Nam
như sau: “Những thay đổi đầu tiên của lớp phủ thực vật đã dẫn đến sự hình
thành các quần xã cỏ ở đây, những thảm cỏ này dưới sự tác động thường xuyên
nhưng không thật nặng nề của con người như chăn thả, đốt nương rẫy, sẽ dẫn
tới hình thành loại hình đồng cỏ khô, á thảo nguyên và đồng cỏ. Khi chăn thả
nặng nề hơn sẽ dẫn đến sự thay đổi phức tạp của thành phần loài ở từng quần
xã, đó là sự thay đổi các loài đang mọc bằng những loài từ ngoài đi vào, loài
bản địa bị thay thế bởi loài phổ biến rộng rãi, đồng thời đơn giản hoá cấu trúc
quần xã, giảm bớt khoảng không phân bố của lớp phủ thực vật, giảm năng suất
của nó”. Trên cơ sở đó đã chia quá trình thoái hoá đồng cỏ do sử dụng thành 5
giai đoạn: Bắt đầu từ trạng thái đồng cỏ đến giai đoạn hình thành savan cây bụi
[7]. Trương Tấn Khanh (2003) với công trình đánh giá hiện trạng đồng cỏ tự
nhiên huyện M’drak- Daklak, Hoàng Chung, Trần Thị Hương Lam (2006) với
công trình điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn gia súc hiện có của xã Hà
Hiệu - Bắc Kạn. Các tác giả đều xác định các đồng cỏ tự nhiên hiện có đang bị
chăn thả nặng nề dẫn tới thoái hoá ở mức độ nghiêm trọng ...
1.6. Thành phần dinh dƣỡng của thức ăn xanh
Thành phần và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn cho bò sữa thay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đổi rất lớn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giai đoạn thu hoạch, thời gian và
30
quá trình bảo quản, công nghệ chế biến, phụ thuộc vào giống cây trồng, điều
kiện khí hậu, kỹ thuật canh tác... Chất lượng của các giống cỏ được đánh giá
bằng thành phần hoá học có trong giống cỏ đó. Đây là một chỉ tiêu hết sức
quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu, đánh giá một giống cây thức ăn,
trên cơ sở đó giúp các nhà chăn nuôi tính toán khẩu phần ăn cho gia súc một
cách hợp lý, để chúng sinh trưởng và phát triển tốt.
* Độ ăn được:
Những loài trong đồng cỏ Bắc Việt Nam có giá trị chăn thả khá tốt,
theo thành phần loài thì trên 95% là thuộc nhóm hoà thảo, trong đồng cỏ tồn
tại một số loài cây bụi và cây thuộc thảo khác, phần lớn những loài này cũng
được gia súc ăn. Tuy nhiên, giá trị chăn thả của đồng cỏ cũng thay đổi theo
thời gian và theo từng kiểu thảm, điều này có quan hệ mật thiết với đặc điểm
sinh thái, với các giai đoạn sinh trưởng, với thành phần thực vật, với chiều
cao thảm cỏ và thành phần hoá học của nó cùng các hình thức tác động của
con người vào thảm cỏ. Ở một số loài giá trị chăn thả hầu như không thay đổi
trong suốt cả thời kì sinh dưỡng như: Ischaemum indicum, Paspalum
scrobiculatum, Paspalum conjugatum và một số loài một năm. Một số loài
khác thì giá trị chăn thả giảm dần theo thời gian, ở những loài này tuổi càng
tăng thì tỉ lệ phần thân tăng và phần trăm chất xơ trong thân và lá tăng lên. Lá
nhiều loài trở nên cứng và sắc như cỏ Tranh, Chè vè, ...
Thành phần họ Đậu trong đồng cỏ Bắc Việt Nam rất ít, một số loài
trong đó giá trị chăn thả kém, lá cứng, có nhiều lông cứng như: Desmodium
triquetum, một số loài khác thì năng suất lại rất thấp – sinh khối tập trung chủ
yếu ở phần thân như: Desmodium microphyllum. Trong thành phần cỏ của
một số quần xã có nhiều cây họ Cói, những loài này lá cứng và sắc như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Carex, Rhynchospora, ... một vài loài khác năng suất rất thấp [7].
31
Thành phần hoá học của thực vật:
Thành phần hóa học quyết định trực tiếp đến nguồn dinh dưỡng có
trong hòa thảo. Theo tài liệu của Viện chăn nuôi quốc gia, 1995[35], đối với
cây cỏ ngoài tự nhiên thì hàm lượng dinh dưỡng rất khác nhau như:
Đối với cây rong, bèo,…rau ở dưới nước thì hàm lượng chất khô
thường thấp, chiếm tư 1-6% VCK, ví dụ bèo ong 9,6% VCK, 0,9% prôtin thô;
0,2% lipit thô; 1,6 % xơ thô; 6,4 dẫn xuất không đạm, 1,8 % khoáng tổng số.
Đối với cây trên cạn hàm lượng dinh dưỡng cũng khác nhau như: Cỏ
bạc hà (cỏ vừng) có 11,9% VCK, 1,8% protein thô; 0,5% lipit thô; 2,7% xơ
thô; 5,1% dẫn xuất không đạm; 1,8% khoáng tổng số. Cỏ thài lài 10% CVK;
1,7% protein thô; 0,9 lipit thô; 10% xơ thô;13,7 dẫn xuất không đạm 1,6
khoáng tổng số. Trong khi đó một số cỏ khác từ 18-24% VCK như cỏ Mộc
Châu mọc tự nhiên có 23,88% VCK; 2,54% protein thô; 0,51% lipit thô;
8,67% xơ thô; 10,13 dẫn xuất không đạm 2,03 khoámg tổng số [2] Tùy theo
từng thời vụ và thu cắt theo từng thời điểm hợp lí thì tỉ lệ nước 82%; 0,95%
protein tiêu hóa; 0,67% lipit tiêu hóa và 3,4% xơ tiêu hóa. Một số cỏ có hàm
lượng VCK cao(trên 30%) như cỏ sâu róm 30,2% VCK và tỉ lệ các chất khác
là 2,3% protein thô; 1,6% lipit thô; 9,7 % xơ thô; 14,7% dẫn xuất không đạm
1,9% khoáng tổng số.
Đối với các cây cỏ trồng:
Trong các cây cỏ hòa thảo trồng thì tỉ lệ chất khô và các thành phần
dinh dưỡng khác trong cỏ cũng dao đông khá lớn. Theo tài liệu của viện chăn
nuôi quốc gia thì [37] chúng có thể biến động về vật chất khô từ 11 đến dưới
35% và phụ thuộc vào giống, loài và tuổi thu cắt. Có những loại cỏ như chè
khổng lồ có hàm lượng chất khô là 13,68% và các thành phần dinh dưỡng
khác như protein thô là 2,08%; 0,6% lipit thô; 1,72% xơ thô; 6,07% dẫn xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không đạm; 3,21% khoáng tổng số. Cỏ voi có tỉ lệ VCK là 11,8% và các
32
thành phần dinh dưỡng khác như sau: protein thô 2,2%; 0,4% lipit thô;3,2%
xơ thô; 4,3% dẫn xuất không đạm; 1,7% khoáng tổng số.
Theo Đoàn Ân, Võ Văn Trị, 1976 [2], cỏ Voi tuổi càng nhỏ thì hàm
lượng Protein càng cao, tuổi càng lớn thì tỉ lệ chất xơ càng cao (tỉ lệ nghịch
với hàm lượng protein và nước) cục thể là 2 tuần tuổi tỉ lệ nước là 89,56%;
2,67% xơ thô; protein cỏ khô là 18,42%, khi cỏ 4 tuần nước là 87,4%; 3,7%
xơ; 11,49% protein trong cỏ khô. Thành phần hoá học có trong các giống cỏ
tập trung chủ yếu vào 4 chỉ tiêu đó là: vật chất khô (VCK), Protein, đường,
chất béo và xơ. Hoàng Chung và cộng sự (2004) đã tiến hành nghiên cứu và
theo dõi một số chỉ tiêu về thành phần hoá học của một số loài chính trong
đồng cỏ Bắc Việt Nam. Kết quả được thể hiện ở bảng 1.4 [7].
Những giống cây thức ăn tốt là giống cho năng suất vật chất khô,
Protein, đường cao, tỉ lệ xơ trong thức ăn thấp, tỉ lệ lá/thân cao, trong đó chỉ
tiêu Protein được chú ý nhiều hơn cả.
Bảng 1.4: Thành phần hoá học và giá trị dinh dƣỡng của một số loài cỏ chính
%
%
%
Tên
%
%
%
TT
Tên khoa học
chất
ĐVTA
Đạm
đạm
Việt Nam
nƣớc
Prôtêin
lipit
TS
amin
xơ
1
Ischaemum indicum
Cỏ lông
76.7 1.954
7.86
1.379
1
8.8
0.19
2 Arundinella nepalensis Cỏ xương 77.4 1.976
9.94
1.744 0.3
7.9
0.18
3 Cymbopogon caesius
Cỏ sả
70.4 2.306
9.61
1.686 1.9
9.3
0.25
Imperata cylindrica
Cỏ Tranh
74
1.945 9.747
1.71
1.1
4
8.8
0.25
5
Setaria viridis
Cỏ sâu róm 67.5
2.1
1.6
10.3
0.27
6 Chrysopogon aciculatus Cỏ may
64.4
3.1
0.6
8.3
0.3
7 Digitaria longiflora
Cỏ chỉ
73.6
3.4
0.5
7.4
0.21
8 Digitaria decumbens
Pangôla
2.295
8.88
1.558
9 Paspalum urvillei
Mộc châu
2.6
10.48 1.839
0.1
10 Fimbristylis annua
Họ cói
0.979 4.288 0.747
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
33
Trong thực tế khi chăn thả bình thường giá trị thức ăn cao nhất trong
thời gian đầu khi cỏ mọc nhanh ra nhiều lá mới, giá trị thức ăn giảm khi cỏ
bắt đầu đâm bông và tiếp tục giảm khi cỏ càng già. Khi chăn thả liên tục theo
những khoảng thời gian liên tiếp gần nhau, giá trị dinh dưỡng của cỏ có thể ở
mức tương đối cao nhưng như vậy năng suất bị giảm nhiều.
1.7. Một số đặc điểm sinh thái và sinh vật học của hoà thảo
Cỏ hoà thảo chỉ có một họ duy nhất là họ hoà thảo (Poaceae) và có 28
họ phụ, 563 chi, 6802 loài [43]. Cỏ hoà thảo thường chiếm phần lớn trong
đồng cỏ 95 - 98% và trong khẩu phần ăn của gia súc nhai lại chiếm 70 - 80%.
1.7.1. Đặc tính sinh thái
Thuộc vào đặc điểm sinh thái học là các mối quan hệ riêng biệt của thực
vật với từng yếu tố sinh thái, cũng như ảnh hưởng của thực vật trên nơi sống.
Cỏ hòa thảo có vị trí quan trọng trong thảm cỏ do cỏ hoà thảo có khả
năng phân bố rộng rãi, có thể thích ứng được ở nhiều vùng và trong những
điều kiện đất đai khí hậu khác nhau.
Cỏ hoà thảo có thể sinh trưởng được ở vùng nóng đất khô khan mùa
khô kéo dài, độ ẩm trung bình 20 - 30%, hoặc những vùng mùa đông nhiệt độ
thấp, nhưng chúng vẫn có thể sinh trưởng và phát triển được như cỏ xương cá,
cỏ lông đồi, cỏ Andropogon, cỏ Brachiaria decumbens,...
Đa phần các loài cỏ sinh trưởng tốt ở vùng có độ ẩm từ 60 - 80%. Có
loài lại có khả năng sinh trưởng được ở những nơi đất lầy, ngập nước như cỏ
môi, cỏ bấc, cỏ lông para,...Như vậy, có thể nói thực vật trong đồng cỏ tồn tại
trong những điều kiện khác nhau của các yếu tố sinh thái cơ bản trong vùng,
và khác nhau ở cả hai phần trên và dưới đất (ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, muối
khoáng, CO2...). Nó biểu thị rõ rệt về phân bố sinh khối theo chiều thẳng đứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và chiều nằm ngang.
34
Trên cơ sở những hiểu biết về đặc tính sinh thái của các loài cỏ mà ta
có thể chọn và trồng các loài thích nghi với những điều kiện khí hậu địa chất
tương tự như vùng gốc của chúng.
1.7.2. Đặc tính sinh vật học
Cỏ hoà thảo là cây thân tròn hoặc bầu dục (tuỳ theo giống), lá mọc
thành hai dãy, phần lớn không có cuống nhưng bẹ to, có thìa lìa, phiến lá dài,
gân lá song song, thân cỏ thuộc loại thân rạ, rỗng (trừ mấu đốt). Cũng có loài
thân đặc như cỏ voi, rễ thuộc loại rễ chùm, hoa phần lớn là lưỡng tính thích
ứng với lối thụ phấn nhờ gió (Võ văn Chi và Dương Đức Tiến, 1976) [38].
Căn cứ vào hình dáng của thân và đặc điểm sinh trưởng, người ta chia
cỏ hoà thảo thành các loại sau:
+ Loại thân rễ: Đối với loại này có đặc điểm đặc trưng là than bò dưới
mặt đất và chia nhánh dưới mặt đất, đại diện là cỏ tranh (Imperata
cylindrica). Loại này yêu cầu đất tơi xốp, mật độ cỏ thưa, độ che phủ thưa,
thích hợp với chăn thả nhẹ, không thích hợp với giẫm đạp và vùng đất dí chặt.
+ Loại thân bụi: Loại thân này từ gốc đẻ ra nhiều nhánh tạo thành búi như
khóm lúa, bộ rễ phát triển mạnh, nhánh có thể đẻ ra từ dưới mặt đất hoặc trên
mặt đất. Cỏ này cho năng suất cao ở những nơi đất tốt, tơi xốp và thoáng khí. Do
tốc độ đẻ nhanh, cao nên đòi hỏi phải trồng thưa, có thể trồng thu cắt hoặc chăn
thả. Đại diện là cỏ Ghine (Panicum maximum), cỏ Mộc Châu, cỏ xả…
+ Loại thân bò: Cỏ này thân nhỏ và mềm, chính vì vậy thường nằm ngả
trên mặt đất. Do thân bò lan nhanh nên chúng có khả năng tạo thành một thảm
cỏ dày đặc, che phủ kín mặt đất. Đại diện là cỏ pangola, lông Para, cỏ xích lô
cỏ thân bò cho năng suất thấp, thường dùng để chăn thả hoặc cắt làm cỏ phơi
khô, dự trữ cho gia súc vào mùa đông.
+ Loại thân đứng: Loại này mọc mầm từ phần gốc ở dưới mặt đất hoặc
hom trồng, mầm vươn thẳng nên giống cây mía, thân cao to, cho năng suất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cao. Đại diện loại này là cỏ voi .
35
1.7.3. Đặc tính sinh lý
Nhu cầu về nước:
Nước đóng góp vào sự phong hoá, giữ vai trò quan trọng cho sự phát
triển của thực vật cũng như các vi sinh vật đất. Cỏ hoà thảo yêu cầu nước cao
do bộ lá lớn, hệ số toả hơi nước lớn hơn họ đậu. Hệ số toả hơi nước của cỏ
này vào khoảng 400 - 500 gram, trong khi của cỏ họ Đậu 214 - 216 gram.
Theo N.G. Andreép (1974), với đồng cỏ có độ ẩm đất khoảng 70%, một tháng 10m2 cỏ bay hơi khoảng 1m3 nước, trong 5 tháng sẽ có 50 tạ cỏ khô/1ha.
Trên cơ sở đó ta có thể xác định công thức tưới nước trong mùa đông .
Như vậy, chế độ nước của các sinh địa quần lạc cỏ trong một vùng khí
hậu xác định phụ thuộc địa thế của đồng cỏ và thành phần cơ giới của đất như
đất bằng, đất trũng, đất dốc, đất thấp hay bãi bồi,...
Độ ẩm của đất cũng yêu cầu theo từng giai đoạn trong đời sống của cây:
- Từ nảy mầm đến lúc chia nhánh: 25 - 30 %
- Giai đoạn phát triển cành : 75 %
- Cuối thời kỳ sinh trưởng nhu cầu nước giảm dần.
Nhu cầu về dinh dưỡng:
Cỏ hoà thảo đòi hỏi đất tốt, giàu mùn, đạm, lân và kaly. Nhu cầu về
dinh dưỡng cũng chia theo từng giai đoạn.
- Giai đoạn 1 (nẩy mầm - phân nhánh) cần nhiều đạm, lân, kaly.
- Giai đoạn 2 (phân nhánh) cần nhiều đạm, lân.
- Giai đoạn 3 (ra hoa hình thành hạt) cần nhiều lân và kaly.
Cỏ càng cho năng suất cao thì yêu cầu lượng phân bón càng lớn
(Nguyễn Đăng Khôi, Dương Hữu Thời, 1981) [41].
Trong đồng cỏ, người ta thấy có sự quan hệ rõ rệt giữa việc bón đạm và
số chồi có hoa. Trong điều kiện có bón đạm vào mùa xuân, số chồi sinh sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tăng lên. Bón phân, tưới nước cũng làm tăng số chồi của cây cỏ loại nhiều
36
chồi. Thí dụ (Festuca pratensis): Không tưới nước số chồi là 3,5 (Festuca
pratensis), tưới ẩm 40 - 60% có 11,5 và 80% có 14,8 chồi. Quan hệ với phân
cũng vậy, cỏ Pleum pratens không có phân bón có 605 chồi trên đơn vị diện
tích, có 19% số chồi có hoa, nếu bón phân NPK có 790 chồi trong đó có 35%
chồi có hoa [48].
Trên đất nghèo không có phân bón thì đời sống thường kéo dài không
quá 3 - 5 năm. Trên đất phì nhiêu hay thường xuyên có phân bón có thể kéo
dài 10 năm, có khi hơn.
Nhu cầu về không khí :
Các loại cỏ thân đứng, thân bụi, thân rễ phân chia nhánh dưới mặt đất
đòi hỏi phải tơi xốp, thoáng khí. Các loại thuộc thân bụi chia nhánh trên mặt
đất và thân bò thì có thể chịu được đất kém thoáng khí và độ ẩm thấp hơn.
Tính chịu sương giá và kháng xuân:
Tính kháng xuân hay còn gọi là khả năng chịu đựng của cỏ mùa đông.
Nó thể hiện khả năng chịu đựng của cỏ về sự chênh lệch nhiệt độ không khí
và nhiệt độ trong đất, sự chênh lệch này làm cho sự vận chuyển các chất dinh
dưỡng trong thân cỏ và quá trình đồng hóa, dị hóa của cỏ mất điều hòa nên có
tính kháng xuân kém sẽ bị chết. Tuy nhiên tính kháng xuân của cỏ còn phụ
thuộc vào các yếu tố như: Cỏ địa phương kháng xuân tốt hơn cỏ nhạp nội, cỏ
mọc riêng rẽ thấp bé kháng xuân mạnh, cỏ thân rễ, cỏ sinh trưởng phát triển
chậm kháng xuân tốt. Loại mùa xuân phục hồi nhanh kháng xuân kém hơn
loại phục hồi chậm, cỏ có hàm lượng vật chất khô cao thì kháng xuân tốt và
ngược lại. Loại có bộ phận trên mặt đất bị chết trong vụ đông thì kháng xuân
mạnh và ngược lại.
Loại cỏ chịu sương giá tốt thì trong giai đoạn cuối thu đầu đông nó vẫn
phát triển bình thường, còn loại chịu giá yếu kém thì ngừng sinh trưởng hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chết vào mùa đông.
37
1.7.4. Đặc tính sinh trưởng
Cỏ hoà thảo sinh trưởng và tái sinh qua 3 giai đoạn :
Giai đoạn 1: Cỏ mới gieo trồng hoặc sau khi cắt, lúc này tốc độ sinh
trưởng chậm.
Giai đoạn 2: Sau khi gieo trồng hoặc thu cắt 15 - 20 ngày, cỏ sinh
trưởng và phát triển nhanh.
Giai đoạn 3: Sau khi gieo trồng hoặc thu cắt 40 - 70 ngày, cỏ sinh
trưởng chậm hoặc ngừng hẳn (Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị - 1976)[2].
Căn cứ vào đặc điểm sinh trưởng của từng giống để chúng ta định thời
gian thu hoạch hợp lý. Tiêu chuẩn thu hoạch căn cứ vào điều kiện sinh trưởng
của giống cỏ. Thu hoạch non, năng xuất sẽ thấp, thu hoạch già, giá trị dinh
dưỡng sẽ kém, ảnh hưởng đến tái sinh lần sau, giảm số lứa cắt/năm. Nếu bộ
phận trên đất quá mau lứa thì dự trữ đường bột tích luỹ ở gốc để phát triển
thành lá sẽ bị suy kiệt, đồng cỏ chóng bị tàn lụi.
Đối với cỏ Ghinê, thu hoạch khi thảm cỏ cao 60 - 90 cm; Cỏ lông Para,
thu hoạch khi cao khoảng 40 - 50 cm; Cỏ Pangola, thu hoạch khi cao khoảng
35 - 50 cm (L. Rham phrây, 1980).
Theo Điền Hưng 1964 [17] cho biết :
+ Cỏ thân bò thu hoạch lứa đầu sau trồng 60 ngày, lứa sau khi cắt 30 -
45 ngày.
+ Cỏ thân bụi thu hoạch lứa đầu sau trồng 60 ngày, lứa sau khi cắt 35 -
45 ngày.
+ Cỏ thân đứng thu hoạch sau trồng hoặc sau khi cắt trên 60 ngày.
1.7.5. Sức sống cỏ hoà thảo
Sức sống của cây hoà thảo không giống nhau, có loài sống lâu năm,
có loài chỉ sống được một năm. Vì vậy, người ta chia cỏ hoà thảo thành 4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
loại sau:
38
Loại cỏ sống một năm thì tàn lụi và chết gọi là cỏ hàng năm như cỏ
Xu Đăng, cỏ lồng vực,...
Loại cỏ có sức sống ngắn (2 - 3 năm) như cỏ Giầy, cỏ Mật (Melinis
minutiflora).
Loại cỏ sức sống vừa (4 - 6 năm) như cỏ Pangola, cỏ Voi, cỏ Ghine,
Paspalum, Brachiara.
Loại cỏ có sức sống lâu (6 - 10 năm) như cỏ mạch tước không râu
(Quang Ngọ, Sinh Tặng, 1976)[37].
Căn cứ vào sức sống của các loài cỏ, người ta dự tính thời gian trồng lại
để đảm bảo năng suất.
1.8. Giá trị kinh tế của các loại cây dùng trong chăn nuôi bò
1.8.1. Cỏ Hoà thảo
Cỏ hoà thảo có vai trò cực kì quan trọng trong chăn nuôi và có giá trị
kinh tế lớn không chỉ vì nó phân bố rộng, chiếm tỷ lệ cao trong thảm cỏ, mà
còn có rất nhiều ưu điểm tốt như: Cho năng suất và giá trị dinh dưỡng cao;
khi chế biến, dự trữ ít rơi rụng lá, ít bị thối; tỷ lệ cỏ độc ít; chịu đựng chăn dắt
cao. Cỏ tự nhiên cho 10 - 20 tấn (chất xanh)/ha/năm, cỏ trồng thân bò cho 30
- 40 tấn/ha/năm, thân bụi cho 50 - 60 tấn/ha/năm, thân đứng cho 80 - 100
tấn/ha/năm, nếu thâm canh có thể cho 160 - 260 tấn/ha/năm. 1 kg cỏ tươi cho
từ 0,1- 0,2 đơn vị thức ăn tương đương với 250 - 500 KcalME. Cỏ hoà thảo
có giá trị dinh dưỡng cao. Ở những nơi đất tốt, nhiều mùn, ẩm, loài cỏ tốt nhất
có thể chứa 16g prôtêin tiêu hoá và 32g lipit trong 1kg cỏ tươi, 8kg cỏ có thể
tương đương 1đơn vị thức ăn [26]
Một số giống cỏ dùng trong chăn nuôi gia súc :
Theo kết quả nghiên cứu của Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt
Nam,cỏ VA 06 là giống cỏ được lai tạo giữa giống cỏ Voi và cỏ đuôi sói của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Châu Mỹ, năng suất 450-600 tấn/ha/năm. Chất lượng tốt, trong cỏ có 17 loại
39
axit amin và nhiều loại vitamin, trong cỏ khô hàm lượng protein 18,46%,
protein tinh 16,86%, đường tổng số 8,3%, tỷ lệ lá cao, lá màu xanh, ít nhám
và mềm hơn cỏ Voi. Cỏ VA 06 có thể làm thức ăn tươi, thức ăn ủ chua, thức
ăn hong khô, bột cỏ để chăn nuôi. Thu hoạch lứa đầu sau khi trồng 70-80
ngày, lứa tiếp theo là 35-40 ngày. Ở miền Bắc trồng vào vụ xuân khi bắt đầu có mưa và nhiệt độ >100C, ở miền Nam có thể trồng vào bất kì vụ nào trong
năm [3].
Cỏ Voi (Pennisetum purpureum)
Cỏ Voi có nguồn gốc ở Nam Phi, thuộc họ hoà thảo sống lưu niên,
phân bố rộng ở các nước nhiệt đới trên thế giới. Ở miền Nam Việt Nam được
Nguyên Văn Tuyền (1973) coi là 1 trong 4 loài cỏ tốt. Cỏ Voi là cỏ lâu năm,
thân rễ cứng, hoá gỗ, mang nhiều rễ khoẻ và ăn sâu; thân đứng giống cây mía,
cao 3-4m, mọc thành bụi dầy, rỗng ruột, có nhiều đốt. thuộc nhóm thực vật
C4 có khả năng thâm canh cao. Trong điều kiện thuận lợi có thể đạt 25 – 30
tấn chất khô/ha; một năm cắt 7 – 8 lứa. Đôi khi có thể đạt năng suất cao hơn
nếu đáp ứng đủ phân bón và nước. Hàm lượng prôtêin thô ở cỏ Voi trung bình
100g/kg chất khô. Khi thu hoạch ở 30 ngày tuổi, hàm lượng prôtêin thô đạt tới
127g/ kg chất khô, lượng đường trung bình 70 – 80 g/kg chất khô. Thường thì
cỏ Voi thu hoạch 28 – 30 ngày tuổi làm thức ăn xanh cho lợn và thỏ; khi sử
dụng cho bò có thể thu hoạch ở 40 – 45 ngày tuổi, trong trường hợp làm
nguyên liệu ủ chua có thể cắt ở 50 ngày tuổi.
Ở Việt Nam thường sử dụng các giống cỏ Voi thân mềm như cỏ Voi
Đài Loan, Solection I, các giống King gras.
Cỏ Sả hay Cỏ Ghinê (Panicum maximum)
Cỏ Sả Mọc thành bụi như cây sả, còn gọi là cỏ Ghinê vì có nguồn gốc
từ Ghi – Nê được nhập vào nước ta từ 50-60 năm nay và đã trở thành cỏ mọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tự nhiên ở nhiều địa phương trong cả nước. Cỏ sả được trồng làm thức ăn
40
xanh cho trâu, bò, ngựa ở dạng tươi ngoài bãi chăn nuôi hoặc ủ xanh và phơi
khô dự trữ. Cỏ sả có khả năng chịu hạn tốt, thích hợp với nhiều loại đất. Cỏ
thu hoạch 7 – 8 lứa /năm với năng suất từ 10 – 14 tấn chất khô/ ha, có thể
trồng để chăn thả hay thu cắt cho ăn tại chuồng. Nếu thu hoạch ở 30 ngày tuổi
giá trị dinh dưỡng cao (139g prôtêin thô, 303g chất xơ và 1920-2000 kcal/kg
chất khô). Cỏ Ghinê nhanh ra hoa và ra hoa nhiều lần trong năm, vì vậy nếu
để cỏ già giá trị dinh dưỡng giảm mạnh. Ở Việt Nam hiện có tập đoàn cỏ
Ghinê khá phong phú: Dòng K280 chịu hạn tốt, dòng I429 lá to thích hợp với
chế độ thu cắt trong vườn gia đình chăn nuôi nhỏ.
Cỏ Pangola (Brachiaria decumbens)
Cỏ Pangola xuất hiện ở bờ sông Pangola thuộc Nam Phi. Nhập vào
Việt Nam từ trung quốc (8/1967). Đây là giống cỏ lâu năm, thấp, thân cành
nhỏ. Tốc độ sinh trưởng của Pangola nhanh, biên độ sinh thái rộng với nhiệt lạnh (5-60C) và nóng (420C). Sau 2 tháng trồng cỏ cao 47,8cm đạt năng suất
20tấn/ha, với chế độ canh tác tốt, bón phân nhiều năng suất lên tới 100-120
tấn/ha. Pangola trồng và sử dụng để chăn thả hay thu cắt làm cỏ khô.
Cỏ Pát (Paspalum Atratum)
Thuộc loại cỏ bụi thân cao. Có thể sinh trưởng tốt ở những chân đất
nghèo dinh dưỡng và đất chua, có độ pH < 4. Cỏ Pát thích hợp với khí hậu
ẩm, thích nghi với những vùng thường bị ngập lụt. Lượng chất xanh cao, bò
rất thích ăn. Có thể trồng bằng thân hom hoặc gieo hạt với lượng 5-6 kg/ha.
Trồng một lần thu hoặc liên tục 3 năm mới trồng lại.
Cỏ Signal (Brachiaria dicumben)
Thích nghi rộng với nhiều điều kiện khí hậu, đất đai nhiều nơi ở nước
ta. Cỏ Signal có thể sinh trưởng tốt ở những vùng đất nghèo dinh dưỡng và
vùng đất chua phèn (pH<4). Những nơi có mùa khô kéo dài chúng vẫn giữ
được màu xanh, cạnh tranh với cỏ dại, chịu được sự dẫm đạp của gia súc nên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thích hợp cho xây dựng đồng cỏ chăn thả thường xuyên.
41
Cỏ Sweet Jumbo và Superdan
Do Công ty Cổ phần Giống cây trồng miền Nam nhập từ Australia. Cả
2 giống cỏ này đều có độ ngọt cao hơn cỏ Sả, cỏ Voi, lại dễ để dành nên rất
thuận tiện cho đàn bò vỗ béo và các vùng có thời gian nắng kéo dài trong
năm. Đây là giống cỏ lai F1 nên tăng trưởng mạnh, thu hoạch sớm. Lần đầu,
thu hoạch 5 tuần sau gieo. Sau đó cứ 4 tuần cắt một lần. Cỏ trổ hoa muộn nên
dinh dưỡng dồn hết cho lá. Cứ 12kg hạt cỏ gieo được cho 1 ha đất.
Năng suất khoảng 50 - 55 tấn/ha cỏ tươi, rất thích hợp cho gia súc. Nếu
trường hợp cần dự trữ, cỏ Sweet Jumbo ủ chua rất tốt, còn giống cỏ Superdan
lại có lợi thế trong chế biến sấy hoặc phơi khô.
Cả 2 giống cỏ đều có cách trồng như nhau và dùng để vỗ béo bò, dê,
cừu thịt hoặc lấy sữa... Gieo cỏ theo hàng với khoảng cách 60-80cm. Vườn
ươm chuẩn bị thật tốt bằng cách bón lót 60 - 80kg Urê/ha hay 50kg DAP +
50kg Urê ngay trước khi trồng hoặc sau mỗi lần cắt.
Do các loại cỏ này có bộ rễ phát triển mạnh ở tầng đất mặt nên sau mỗi
đợt cắt và bón phân, cần xới xáo, lấp phân và vun gốc để tạo bộ rễ mới thật tốt.
Điều này sẽ giúp tăng năng suất cỏ và số lần cắt. Chỉ bắt đầu cắt hay thả gia súc
vào đồng cỏ khi thấy cỏ cao khoảng 80cm. Nếu sớm quá, cỏ còn non, năng suất
giảm, dinh dưỡng kém. Còn cỏ già quá, chất dinh dưỡng cũng mất đi.
Người trồng cỏ cần lưu ý: Đây là những giống cỏ lai nên không được
để giống trồng đợt 2, ở những thế hệ sau ưu thế lai của loài bị giảm nên năng
suất, và chất lượng cỏ không đảm bảo. Sau 5 - 6 đợt cắt, nếu thấy sức tái sinh
của cỏ yếu đi (dưới 50 tấn/ha) thì phải cày xới, gieo trồng lại đợt mới.
Cỏ Vetiver
Còn gọi là cỏ Hương bài, được trồng với mục đích bảo vệ tài nguyên
đất và nguồn nước. Mặc dù lá của cây cỏ này cũng là một loại thức ăn mang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lại nguồn dinh dưỡng cao cho gia súc nhưng cỏ Vetiver lại có bộ rễ rất hữu
42
dụng. Người ta ví chúng như một hàng rào bê tông sinh học chống lại sự xói
mòn, làm giảm vận tốc dòng chảy của nước, giữ đất không bị cuốn trôi.
Trên thế giới, giống cỏ này đã được sử dụng rộng rãi để chống xói mòn
đất. Nhờ nó có bộ rễ đan xen vào nhau phát triển rất nhanh, cắm thẳng đứng,
sâu vào đất từ 3-4 mét. Chúng còn có khả năng hấp thụ các loại khoáng chất
có độc tính thải ra từ nguồn phân bón, thuốc bảo vệ thực vật có trong nguồn
nước, trong đất và làm cho đất tơi xốp, tăng độ phì nhiêu. Tại Việt Nam, cỏ
Vetiver đã được Bộ Giao thông vận tải ứng dụng trồng ở 2 bên đường Hồ Chí
Minh nhằm chống sụp lỡ đất của mặt đường.
Cỏ Ruzi(Brachiaria ruziziensis)
Cỏ Ruzi có nguồn gốc ở châu Phi, hiện nay mọc tót nhất ở các nước
châu Mỹ La tinh. Cỏ Ruzi được nhập vào nước ta năm 1968 từ Cuba, đây là
giống cỏ lâu năm họ Hoà thảo, nó có thân bò, rễ chùm, thân lá dài mềm, có
lông mịn. Cây có thể cao 1,2-1,5m. Cỏ Ruzi có thể trồng ở vùng đồng bằng,
bờ đê, bờ vùng hay ở trung du miền núi với độ dốc không quá cao. Cỏ sinh
trưởng mạnh trong mùa mưa, có khả năng chịu giẫm đạp cao nên có thể được
trồng làm bãi chăn thả gia súc. Năng suất cỏ đạt từ 60-90tấn/ha/năm. Cỏ Ruzi
mềm và ròn hơn so với cỏ Ghinê nên khả năng lợi dụng của gia súc khá cao,
có thể lên tới 90% . Hàm lượng các chất dinh dưỡng của cỏ Ruzi: Vật chất
khô 32-35%, protein thô 12-13%, xơ thô 27-29%, khoáng tổng số 10-11%.
Với hàm lượng chất dinh dưỡng như nêu trên thì cỏ Ruzi cũng là một loại
thức ăn thô xanh có giá trị cho gia súc [43].
Hầu hết các giống cỏ cao sản đều có sức tăng trưởng nhanh, chịu được
nóng, chịu hạn tốt và thích hợp với nhiều loại đất. Mùa mưa là thời gian cỏ
phát triển nhanh nhất, mau cho thu hoạch (trung bình khoảng từ 20-25 ngày).
Với tốc độ tăng trưởng như thế, người chăn nuôi có điều kiện dự trữ cỏ lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bằng cách ủ xanh hoặc phơi khô.
43
1.8.2. Cây bộ Đậu
Cỏ họ Đậu (Centro sema và Centro cavalcade):
Cho năng suất cao ở mọi loại đất, mọi điều kiện khí hậu. Cỏ họ Đậu
mọc dày thành lớp nên có thể trồng thành đồng cỏ chăn thả hoặc cắt làm cỏ
khô dự trữ qua đông cho bò sữa rất tốt. Mặt khác cỏ họ Đậu có khả năng cố
định đạm cho đất rất lớn (120kg nitrogen/ha) nên vừa có giá trị cải tạo đất vừa
dùng làm thức ăn cho gia súc, đặc biệt là chăn nuôi bò sữa.
Có thể trồng xen cỏ họ đậu với các loại cỏ khác. Gieo trồng chủ yếu
bằng hạt với lượng 3kg/ha để làm đồng cỏ chăn thả hoặc 10kg/ha nếu trồng
để cắt cỏ làm cỏ khô.
Điều kiện khí hậu, đất đai nhiệt đới nhìn chung ít thuận lợi cho các
giống đậu đỗ ôn đới có giá trị dinh dưỡng cao. Còn các giống đậu đỗ nhiệt đới
tuy thích hợp với điều kiện khí hậu nhưng năng suất và giá trị dinh dưỡng
không cao. Trên đồng cỏ tự nhiên tỉ lệ đậu đỗ rất thấp chỉ chiếm 4 – 5% về số
lượng loài, có nơi còn ít hơn và hầu như không đáng kể về năng suất.
Đậu đỗ thức ăn gia súc ở nước ta thường giàu prôtêin, vitamin, khoáng
Ca, Mg, Mn, Zn, Cu, Fe, nhưng ít phốtpho, kaly hơn cỏ hòa thảo. Tuy vậy,
hàm lượng prôtêin thô ở thân lá cây đậu đỗ trung bình 167g/ kg chất khô, xấp
xỉ giá trị trung bình của đậu đỗ nhiệt đới thấp hơn giá trị của đậu đỗ ôn đới
(175g/ kg chất khô), hàm lượng chất khô 200 – 260g/kg thức ăn, giá trị năng
lượng cao hơn cỏ hòa thảo [58]. Ưu điểm của đậu đỗ thức ăn gia súc là khả
năng cộng sinh với vi sinh vật trong nốt sần ở rễ có thể sử dụng được nitơ
trong không khí tạo ra thức ăn giàu prôtêin, giàu vitamin, khoáng đa lượng và
vi lượng dễ hấp thu. Nhược điểm cơ bản của đậu đỗ thức ăn gia súc là thường
chứa chất ức chế men tiêu hóa hay độc tố làm cho gia súc không ăn được
nhiều. Bởi vậy, nhất thiết phải sử dụng phù hợp với cỏ hòa thảo để nâng cao
hiệu suất sử dụng thức ăn. Hiện nay, nước ta chưa có nhiều giống đậu đỗ thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ăn xanh, giống Stylô và keo dậu được chú ý hơn cả.
44
Cỏ Stylo (Stylosanthes)
Cỏ Stylo phân bố tự nhiên ở Trung và Nam Mỹ, nhập vào Việt Nam
năm 1967. Là giống cỏ họ Đậu, thân đứng, phân nhiều cành, có thể cao tới 1
m. Bộ rễ rất phát triển ăn sâu xuống đất khoảng 70cm, do đó nhiều nơi còn
trồng để chống xói mòn đất, bảo vệ thân đê đập rất tốt. đây là loại thức ăn
xanh rất tốt cho gia súc và gia cầm vì có tỷ lệ đạm cao.
Cỏ Stylo trồng một lần có thể thu hoạch 4-5 năm. Năng suất có thể đạt
90- 100 tấn/ha/năm nếu được chăm sóc, thâm canh tốt.Cỏ Stylo ở nước ta có
khả năng chịu hạn tốt do có lông và rễ phát triển, có thể mọc trên nhiều loại
đất chua, nghèo dinh dưỡng. Năng suất cỏ Stylo có thể đạt 71-114 tấn/ha/lứa.
Hàm lượng các chất dinh dưỡng của cỏ ở 2 tháng tuổi: Protein thô 16,7%, mỡ
1,7%, xơ 31,7%, P 0,56%, Ca 1,55%, dẫn xuất không đạm là 39,9%.
Keo dậu (Leucaena leucocephala)
Keo đậu có nguồn gốc ở Trung, Nam Mỹ và quần đảo Thái Bình
Dương. Ở nước ta keo dậu mọc tự nhiên ở những vùng ven biển dọc duyên
hải miền Trung, một số giống keo dậu được nhập vào nước ta từ những
năm1980. Đây là cây thân bụi hoặc cây thân gỗ nhỏ, khả năng chịu hạn rất
tốt, sinh trưởng tốt trên nhiều loại đất khác nhau (nhưng đất phải thoát nước
và không quá chua), chịu lạnh và sương muối kém, năng suất 40-50tấn
/ha/năm. Hàm lượng các chất dinh dưỡng của keo dậu ở lá tươi: Protein thô
31,1%, mỡ 46,0%, xơ 18,1%, dẫn xuất không đạm là 6,5%.
Cây Gigantea(Trichantera gigantea) hay còn gọi là cây chè khổng lồ
Gigantea là cây thức ăn gia súc phổ biến ở Colombia, cuối năm 1990
cây này được nhập vào nước ta. Gigantea là cây bụi nhỏ, sống lâu năm, thân
mọc thẳng có nhiều mấu lồi, khi còn non thân mềm mọng nước, sau 6 tháng
thân hoá gỗ cứng phía ngoài. Cây Gigantea là cây ưa ấm, chịu đước bóng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
râm, chịu sương muối kém. Năng suất chất xanh 70-80 tấn/ha/năm. Gigantean
45
tươi khi thu hoạch trong mùa mưa có hàm lượng nước trung bình 80-85%,
hàm lượng xơ 25%, protein thô 14%. Đây là cây mà bò rất thích ăn và có thể
chữa bệnh táo bón ở gia súc mà không gây độc hại [43].
1.8.3. Cây trồng khác
Bao gồm rơm, thân cây ngô già, cây lạc … loại thức ăn này thường có
hàm lượng xơ cao (20 – 35 % tính trong chất khô) và tương đối nghèo chất
dinh dưỡng.
Rơm (Orysa sativa): Đây là nguồn thức ăn dồi dào nhất cho bò. Ở nước
ta, rơm chiêm được thu hoạch vào tháng 5 – 6, rơm mùa vào tháng 9 -10, rơm
lúa xuân vào tháng 3 – 4 và rơm lúa vụ thu vào tháng 7 – 8. Trong đó rơm mùa
là phổ biến nhất, vì thời vụ này dễ dàng phơi và dự trữ tốt nhất cho bò. Cả nước
ta có khoảng 40 triệu tấn rơm để làm thức ăn cho gia súc. Rơm thường chứa ít
chất dinh dưỡng, hàm lượng prôtêin có khoảng 4 -7%, chất béo từ 1 -2%,
vitamin và khoáng thường cũng nghèo nhưng xơ cao (từ 30 – 34%) song nó rất
cần cho gia súc khi cỏ tươi và cỏ khô ít hoặc không có. Bởi vậy, rơm là nguồn
thức ăn cần thiết cho trâu bò vào mùa cây cỏ xanh hiếm (Đông Xuân).
Ngô (Zea mays L): Ngô là cây thức ăn quan trọng ở Việt Nam, dùng
làm lương thực cho người, thức ăn tinh cho gia súc; là cây hằng năm, thân
thẳng và đơn độc. Sinh trưởng nhanh có thể thu hoạch trong thời gian ngắn.
Ngô thích nghi với điều kiện nhiệt đới nống ẩm, có thể sống ở một số loại đất,
nhưng tốt nhất là đất tốt, thoát nước. Năng suất chất xanh của ngô thường
thay đổi tùy theo mục đích sử dụng và mật độ gieo trồng. Nếu thu hoạch làm
thức ăn xanh sau 40 – 50 ngày cho năng suất 12,6 tấn /ha. Sau 4 – 5 tháng cho
25 – 40 tấn/ ha và nếu đất tốt tới 100 – 200 tấn /ha xanh hay hơn, nhưng ở
nhiệt đới nằm trong khoảng 8 – 70 tấn/ha xanh hay 2 – 20 tấn chất khô/ha
[33]. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của ngô được trình bày ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bảng dưới bảng 1.5 [57].
46
Bảng 1.5 : Giá trị dinh dƣỡng của cây Ngô trong các giai đoạn khác nhau
(Viện chăn nuôi - 1995)
NS khô
VCK
Prôtêin
Lipid
Dẫn xuất
Xơ
Giai đoạn
(kg/ha)
(%)
(%)
không đạm
(%)
(%)
Ngậm sữa
21.4
309
2.5
0.7
4.4
14.4
Chín sáp
27.4
295
2.6
0.8
8.6
13.3
Chín hoàn toàn
42.2
260
3.1
1.1
7.8
28.4
Ngoài những cây thức ăn kể trên, bà con nông dân còn tận dụng các
phụ phẩm của nghành trồng trọt như ngọn lá sắn, ngọn lá mía, thân lá lạc, phụ
phẩm dứa, khô dầu…Đó đều là những thức ăn xanh có giá trị dinh dưỡng cao,
rất tốt cho chăn nuôi đại gia súc, tuy nhiên hiện nay do diện tích trồng các loại
cây trên ở các hộ chăn nuôi còn ít nên lượng thức ăn xanh này sử dụng thêm
vào chăn nuôi là không đáng kể.
Có thể nói, đối với vấn đề trồng cỏ, thật không có gì dễ bằng. Để khắc
phục tình hình thiếu thức ăn trong ngành chăn nuôi, đặc biệt là vào thời kỳ
hạn hán như hiện nay, việc trồng các giống cỏ cao sản được xem như một giải
pháp hữu hiệu, vừa tạo ra nguồn thức ăn cho gia súc, đồng thời bảo vệ tốt
điều kiện môi trường, tăng độ phì nhiêu cho đất. Trồng cỏ chăn nuôi gần như
không phải đầu tư gì ngoài công lao động. Phân trâu bò dùng bón ngay cho
đồng cỏ. Trồng cỏ không đòi hỏi kỹ thuật và chăm bón cao. Các giống cỏ như
cỏ voi, ghinê, păngola, cỏ ruzi... thích nghi cao cả trên những vùng đất nghèo.
Cỏ giống thường 2 năm thay một lần dùng luôn hom hoặc hạt cỏ đang trồng
thay thế. Sau mỗi lứa thu hoạch mới phải chăm bón một lần. Cỏ phát triển
mạnh vào mùa mưa, đối với các loại cỏ thân bò có thể phơi khô, các loại cây
thân đứng có thể ủ chua làm thức ăn dự trữ quanh năm.
1.9. Các loại thức ăn cho bò sữa
Thức ăn cho bò sữa được chia thành 3 nhóm chính là thức ăn thô, thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ăn tinh và thức ăn bổ sung: Thức ăn thô, bao gồm một số nhóm: thức ăn xanh
47
(cỏ tự nhiên, cỏ trồng, ngọn mía, vỏ đọt dứa,...), thức ăn ủ chua (được tạo ra
thông qua ủ chua thức ăn xanh), cỏ khô và rơm lúa, thức ăn củ quả (khoai
lang, khoai tây, cà rốt, củ cải, bầu bí,...), phế phụ phẩm công nghiệp chế biến
(bã đậu nành, bã bia, bã sắn, rỉ mật đường,...); thức ăn tinh, gồm các loại hạt
ngũ cốc và bột từ hạt ngũ cốc (như ngô, sắn, mì, gạo, cám gạo...), bột và khô
dầu đậu tương, lạc...; các loại hạt cây họ đậu và thức ăn tinh hỗn hợp được
sản xuất công nghiệp; thức ăn bổ sung (urê và hỗn hợp khoáng - vitamin,...).
Trong các nhóm thức ăn trên có nhiều loại thức ăn giúp bò đạt sản
lượng sữa tốt đó là:
- Khoai lang: Có nhiều tinh bột và đường giúp sữa có chất lượng tốt.
Khoai lang có hai loại là khoai đỏ và khoai trắng trong đó khoai đỏ có nhiều tinh
bột và đường nhưng lại ít chất khoáng và protein hơn so sánh với khoai trắng.
- Khoai tây: Bổ hơn khoai lang do có nhiều protein, vitamin B1, B2, C.
Tuy vậy, trong vỏ và mầm khoai tây có chất độc, nên trước khi cho bò ăn cần
bỏ mầm và rửa cho sạch vỏ khoai.
- Bí đỏ: Đây là nguồn vitamin A bổ dưỡng đối với bò sữa. Lượng
vitamin A trong bí đỏ sẽ càng tăng hơn, khi được ăn chung với khoai lang đỏ
và khoai tây.
- Ngô: Ngô giàu đường, lipit, protein. Cho bò ăn ngô rất tốt, vì cơ thể
bò hấp thụ được hầu hết những chất này.
- Bo bo: Bo bo giàu protein hơn những loại thực phẩm khác, nhưng tỷ
lệ những chất khác thì lại kém hơn. Thân cây bo bo khi còn xanh có thể dùng
cho bò ăn.
- Lạc: Do có nhiều protein và chất béo nên ăn lạc có lợi về sữa cho bò.
Có thể thay lạc bằng khô dầu lạc.
- Đậu nành: Chỉ dùng bã đậu nành, vì trong đậu nành sống có chất ngăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cản việc hấp thụ sinh tố B của bò.
48
Khi bò đang trong thời kỳ vắt sữa, để bò có thể cho nhiều sữa nên cho
bò ăn theo chế độ như sau:
+ Cho bò ăn thêm các loại khoai và củ như khoai lang, sắn, bí đỏ...
+ Ăn thêm khô dầu lạc, khô đậu tương, khô dầu dừa.
+ Ăn thêm những thức ăn nhiều nước như bã bia, bã đậu phụ...
+ Tinh bột cũng cần bổ sung thêm cho bò.
Để bò cho sữa nhiều trong một thời gian dài, ngoài việc cho bò ăn đầy
đủ và chất cần thiết nên trộn thêm Premix vitamin và Premix khoáng. Đặc
biệt là, nên cho bò uống nước dừa non nạo. Theo kinh nghiệm thực tế, thì cho
bò ăn uống đầy đủ, uống thêm nước dừa non nạo có thể cho một chu kỳ sữa
dài 12-14 tháng (hơn mức bình thường 4-6 tháng).
Nhu cầu năng lượng, protein, axit amin, chất khoáng (Ca và P) cho bò
thịt, lợn, gà, vịt, ngan, gà tây, ngỗng được nghiên cứu nhiều và đã được đưa
vào sản xuất. Tuy nhiên những nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của bò sữa
thì còn ít. Thức ăn bổ sung hiện nay được sử dụng rộng rãi trong chăn nuôi,
tuy nhiên chúng ta nhập thức ăn bổ sung từ nước ngoài là chính (hàng năm
nhập khoảng trên 100 ngàn tấn gồm axit amin, premix khoáng vitamin và
kháng sinh). Tiến bộ KHKT về thức ăn bổ sung của thế giới được kịp thời
đưa vào VN như axit amin, enzym, các chất tăng sức đề kháng, các chất hạ
thấp pH đường tiêu hoá (acidifier), probiotic và prebiotic. Các thức ăn này
góp phần tăng hiệu quả sử dụng thức ăn, hạn chế tiêu chảy, tăng năng suất
chăn nuôi và đặc biệt góp phần giảm bớt việc.Xác định nhu cầu dinh dưỡng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của động vật nuôi.
49
Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh
2.1.1. Về vị trí địa lý và phạm vi ranh giới tỉnh
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, nằm gọn trong châu thổ
sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà Nội. Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm: tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, khu vực có
mức tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu kinh tế mạnh.
- Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang
- Phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên và một phần Hà Nội
- Phía Đông giáp tỉnh Hải Dương
- Phía Tây giáp thủ đô Hà Nội
Với vị trí như thế, xét tầm không gian lãnh thổ vĩ mô, Bắc Ninh có
nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh:
- Nằm trên tuyến đường giao thông quan trọng chạy qua như quốc lộ
1A, quốc lộ 18, đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và các tuyến đường thuỷ như
sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình rất thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá
và du khách giao lưu với các tỉnh trong cả nước.
- Gần thủ đô Hà Nội được xem như là một thị trường rộng lớn hàng thứ
hai trong cả nước, có sức cuốn hút toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế, xã
hội, giá trị lịch sử văn hoá... đồng thời là nơi cung cấp thông tin, chuyển giao
công nghệ và tiếp thị thuận lợi đối với mọi miền đất nước. Hà Nội sẽ là thị
trường tiêu thụ trực tiếp các mặt hàng của Bắc Ninh về nông - lâm - thuỷ sản,
vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ... Bắc Ninh cũng là
địa bàn mở rộng của Hà Nội qua xây dựng các thành phố vệ tinh, là mạng
lưới giao công cho các xí nghiệp của thủ đô trong quá trình công nghiệp hoá -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hiện đại hoá.
50
- Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc gồm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh sẽ có tác động trực tiếp đến hình thành cơ cấu và tốc độ tăng trưởng
kinh tế của Bắc Ninh về mọi mặt, trong đó đặc biệt là công nghiệp chế biến
nông sản và dịch vụ du lịch.
- Là cửa ngõ phía Đông Bắc của thủ đô Hà Nội, Bắc Ninh là cầu nối
giữa Hà Nội và các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, trên đường bộ giao lưu
chính với Trung Quốc và có vị trí quan trọng đối với an ninh quốc phòng.
Trong cấu trúc địa lý không gian thuận lợi như vậy sẽ là yếu tố phát
triển quan trọng và là một trong những tiềm lực to lớn cần được phát huy một
cách triệt để nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy quá trình đô
thị hoá của tỉnh Bắc Ninh. Xét trên khía cạnh cấu trúc hệ thống đô thị và các
điểm dân cư của tỉnh thì các đô thị Bắc Ninh sẽ dễ trở thành một hệ thống hoà
nhập trong vùng ảnh hưởng của thủ đô Hà Nội và có vị trí tương tác nhất định
với hệ thống đô thị chung toàn vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.
2.1.2. Các yếu tố khí hậu, địa chất, thuỷ văn
Về khí hậu:
Bắc Ninh thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh.
Nhiệt độ trung bình năm là 23,3°C, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là
28,9°C (tháng 7), nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 15,8°C (tháng 1). Sự
chênh lệch nhiệt độ giữa tháng cao nhất và tháng thấp nhất là 13,1°C.
Lượng mưa trung bình hàng năm dao động trong khoảng 1400 -
1600mm nhưng phân bố không đều trong năm. Mưa tập trung chủ yếu từ
tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng
11 đến tháng 4 năm sau chỉ chiếm 20% tổng lượng mưa trong năm.
Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1530 - 1776 giờ, trong đó
tháng có nhiều giờ nắng trong năm là tháng 7, tháng có ít giờ nắng trong năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
là tháng 1.
51
Hàng năm có 2 mùa gió chính: Gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông
Nam. Gió mùa Đông Bắc thịnh hành từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm
sau, gió mùa Đông Nam thịnh hành từ tháng 4 đến tháng 9 mang theo hơi ẩm
gây mưa rào.
Nhìn chung Bắc Ninh có điều kiện khí hậu đồng đều trong toàn tỉnh và
không khác biệt nhiều so với các tỉnh đồng bằng lân cận nên việc xác định các
tiêu trí phát triển đô thị có liên quan đến khí hậu như hướng gió, thoát nước
mưa, chống nóng, khắc phục độ ẩm... dễ thống nhất cho tất cả các loại đô thị
trong vùng; việc xác định tiêu chuẩn qui phạm xây dựng đô thị có thể dựa vào
qui định chung cho các đô thị vùng đồng bằng Bắc bộ.
Về địa hình - địa chất:
Địa hình của tỉnh tương đối bằng phẳng, có hướng dốc chủ yếu từ Bắc
xuống Nam và từ Tây sang Đông, được thể hiện qua các dòng chảy mặt đổ về
sông Đuống và sông Thái Bình. Mức độ chênh lệch địa hình không lớn, vùng
đồng bằng thường có độ cao phổ biến từ 3 - 7m, địa hình trung du đồi núi có
độ cao phổ biến 300 - 400m. Diện tích đồi núi chiếm tỷ lệ rất nhỏ (0,53%) so
với tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phân bố chủ yếu ở 2 huyện Quế Võ và
Tiên Du. Ngoài ra còn một số khu vực thấp trũng ven đê thuộc các huyện Gia
Bình, Lung Tài, Quế Võ, Yên Phong.
Đặc điểm địa chất mang những nét đặc trưng của cấu trúc địa chất
thuộc vùng trũng sông Hồng, bề dày trầm tích đệ tứ chịu ảnh hưởng rõ rệt của
cấu trúc mỏng. Tuy nhiên nằm trong miền kiến tạo Đông Bắc, Bắc bộ nên cấu
trúc địa chất lãnh thổ Bắc Ninh có những nét còn mang tính chất của vòng
cung Đông Triều vùng Đông Bắc. Toàn tỉnh có mặt các loại đất đá có tuổi từ
Cambri đến đệ tứ song nhìn chung có thành tạo Kainozoi phủ trên các thành
tạo cổ. Đây là thành tạo chiếm ưu thế về địa tầng lãnh thổ. Các thành tạo Triat
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phân bố trên ở hầu hết các dãy núi, thành phần thạch học chủ yếu là cát kết,
52
sạn kết. Bề dày các thành tạo đệ tứ biến đổi theo quy luật trầm tích từ Bắc
xuống Nam. Ở các vùng núi do bị sói mòn nên bề dày của chúng còn rất
mỏng, càng xuống phía Nam bề dày có thể đạt tới 100 m, trong khi đó vùng
phía Bắc (Đáp Cầu) bề dày chỉ đạt 30 - 50 m.
Với đặc điểm này địa chất của tỉnh Bắc Ninh có tính ổn định hơn so với
Hà Nội và các đô thị vùng đồng bằng Bắc bộ khác trong việc xây dựng công
trình. Và về mặt địa hình có thể hình thành hai dạng đô thị vùng đồng bằng và
trung du. Bên cạnh đó có một số đồi núi nhỏ dễ tạo cảnh quan đột biến; cũng
như một số vùng trũng nếu biết khai thác có thể tạo ra cảnh quan sinh thái
đầm nước vào mùa mưa để phục vụ cho các hoạt động văn hoá và du lịch.
Về đặc điểm thuỷ văn:
Bắc Ninh có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, mật độ lưới sông khá
cao, trung bình 1,0 - 1,2 km/km², có 3 hệ thống sông lớn chảy qua gồm sông
Đuống, sông Cầu và sông Thái Bình.
- Sông Đuống: Có chiều dài 42 km nằm trên đất Bắc Ninh, tổng lượng
nước bình quân 31,6 tỷ m³. Mực nước cao nhất tại bến Hồ tháng 8/1945 là
9,64m, cao hơn so với mặt ruộng là 3 - 4 m. Sông Đuống có hàm lượng phù
sa cao, vào mùa mưa trung bình cứ 1 m³ nước có 2,8 kg phù sa.
- Sông Cầu: Tổng chiều dài sông Cầu là 290 km với đoạn chảy qua tỉnh
Bắc Ninh dài 70 km, lưu lượng nước hàng năm khoảng 5 tỷ m³. Sông Cầu có
mực nước trong mùa lũ cao từ 3 - 6 m, cao nhất là 8 m, trên mặt ruộng 1 - 2
m, trong mùa cạn mức nước sông lại xuống quá thấp (0,5 - 0,8 m).
- Sông Thái Bình: Thuộc vào loại sông lớn của miền Bắc có chiều dài
385 km, đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh dài 17 km. Do phần lớn lưu vực sông bắt
nguồn từ các vùng đồi trọc miền Đông Bắc, đất đai bị sói mòn nhiều nên nước
sông rất đục, hàm lượng phù sa lớn. Do đặc điểm lòng sông rộng, ít dốc, đáy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nông nên sông Thái Bình là một trong những sông bị bồi lấp nhiều nhất. Theo
53
tài liệu thực đo thì mức nước lũ lụt lịch sử sông Thái Bình đo được tại Phả Lại năm 1971 đạt tới 7,21 m với lưu lượng lớn nhất tại Cát Khê là 5000 m3/s.
Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có các hệ thống sông ngòi nội địa như
sông Ngũ huyện Khê, sông Dân, sông Đông Coi, sông Bùi, ngòi Tào Khê,
sông Đồng Khởi, sông Đại Quảng Bình...
Với hệ thống sông này nếu biết khai thác trị thuỷ và điều tiết nước sẽ
đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tiêu thoát nước của tỉnh. Trong khi đó
tổng lưu lượng nước mặt của Bắc Ninh ước khoảng 177,5 tỷ m³, trong đó
lượng nước chủ yếu chứa trong các sông là 176 tỷ m³; được đánh giá là khá
dồi dào. Cùng với kết quả thăm dò địa chất cho thấy trữ lượng nước ngầm
cũng khá lớn, trung bình 400.000 m³/ngày, tầng chứa nước cách mặt đất trung
bình 3 - 5 m và có bề dày khoảng 40 m, chất lượng nước tốt. Toàn bộ nguồn
nước này có thể khai thác để phục vụ chung cho cả sản xuất và sinh hoạt
trong toàn tỉnh, trong đó có các hoạt động của đô thị.
2.1.3. Tài nguyên thiên nhiên - môi trường
Nguồn tài nguyên thiên nhiên của tỉnh Bắc Ninh qui về các dạng sau:
Tài nguyên rừng:
Tài nguyên rừng của Bắc Ninh không lớn, chủ yếu là rừng trồng. Tổng
diện tích đất rừng là 661,26 ha phân bố tập trung ở Quế Võ (317,9 ha) và
TiênDu. (254,95 ha). Tổng trữ lượng gỗ ước tính 3.279 m³, trong đó rừng
phòng hộ 363 m³, rừng đặc dụng 2916 m³.
Tài nguyên khoáng sản:
Bắc Ninh nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu chỉ có vật liệu xây
dựng như: đất sét làm gạch, ngói, gốm, với trữ lượng khoảng 4 triệu tấn ở
Quế Võ và Tiên Du, đất sét làm gạch chịu lửa ở thị xã Bắc Ninh, đá cát kết
với trữ lượng khoảng 1 triệu tấn ở Thị Cầu - Bắc Ninh, đá sa thạch ở Vũ Ninh
- Bắc Ninh có trữ lượng khoảng 300.000 m³. Ngoài ra còn có than bùn ở Yên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phong với trữ lượng 60.000 - 200.000 tấn.
54
Tài nguyên đất:
Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Bắc Ninh là 803,87 km², trong đó
đất nông nghiệp chiếm 64,7%; đất lâm nghiệp chiếm 0,7%, đất chuyên dùng
và đất ở chiếm 23,5% & đất chưa sử dụng còn 11,1%. Nhìn chung tiềm năng
đất đai của tỉnh vẫn còn lớn. Riêng đất đô thị là 1.158,9 ha chiếm 1,44% diện
tích tự nhiên thuộc địa phận thị xã Bắc Ninh và 6 thị trấn với qui mô dân số
khoảng 90.500 dân.
2.2. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Cảnh Hƣng
2.2.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý: Xã Cảnh hưng thuộc huyện Tiên du tỉnh Bắc ninh: - Phía
Bắc giáp xã Phật tích; Phía Nam giáp sông Đuống; Phía Đông giáp xã Minh
đạo; Phía Tây giáp xã Chí phương. Cách quốc lộ 1A khoảng 7Km và cách
thành phố Bắc Ninh khoảng 15 Km.
Xét tầm không gian lãnh thổ vĩ mô, Cảnh Hưng - Tiên du-Bắc Ninh có
nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
* Địa hình: Địa hình của vùng tương đối bằng phẳng không có đồi núi.
Đặc điểm địa chất mang những nét đặc trưng của cấu trúc địa chất thuộc vùng
trũng sông Hồng.
* Khí hậu: Mang nét đặc trưng của tỉnh, cũng là vùng khí hậu nhiệt đới
gió mùa, có mùa đông lạnh, hàng năm có 2 mùa gió chính: gió mùa Đông Bắc
và gió mùa Đông Nam.
Nhìn chung xã Cảnh hưng Tiên Du, Bắc Ninh có điều kiện khí hậu
thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp. Mùa Đông với khí hậu khô, lạnh
làm cho vụ đông trở thành vụ chính có thể trồng được nhiều loại cây rau màu
ngắn ngày cho giá trị cao và xuất khẩu. Yếu tố hạn chế lớn nhất đối với sử
dụng đất là mưa lớn tập trung theo mùa thường làm ngập úng các khu vực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thấp trũng gây khó khăn cho việc thâm canh tăng vụ mở rộng diện tích.
55
* Đất đai: Tính đến ngày 1/1/2008: Tổng diện tích tự nhiên 547.63 ha.
Trong đó đất nông nghiệp 315.37 ha chiếm 57.59%(trong đó đất cỏ dùng vào
chăn nuôi 1.48 ha); đất phi nông nghiệp 206.94 ha chiếm37.79%; đất chưa sử
dụng 25.32 ha chiếm 4.62%.
* Thực vật: Đã chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung và
từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao giá trị làm ra/đơn vị canh
tác. Diện tích gieo trồng cây hàng năm ổn định ở mức 300 ha/năm, trong đó
khoảng 80,5% là cây lương thực; còn lại là cây thực phẩm và cây công
nghiệp. Năng suất các các loại cây trồng đã được nâng lên do áp dụng tiến bộ
kỹ thuật mới về giống, về kỹ thuật thâm canh.
2.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội
* Dân cư: Năm 2006: 5727 người; năm 2007: 5784 người; dự tính đến
năm 2015 là 6260 người. Do sự gia tăng về dân số đã tăng cường nguồn lao
động. Song cũng do dân số gia tăng đã làm cho nhu cầu về đất ở, đất xây
dựng, đất canh tác cây lương thực thực phẩm tăng theo tạo nên sức ép rất
mạnh mẽ lên tài nguyên đất vốn đã hạn hẹp. Hiện nay thu nhập của người dân
khoảng 450 USD/người/năm.
* Nghề nghiệp: Dân cư hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
còn lại là hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
56
Chương 3
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣợng
Một số loài cỏ được trồng ở xã Cảnh Hưng Tiên Du - Bắc Ninh được
dùng làm thức ăn cho gia súc của một số hộ gia đình. Điều tra hai mô hình
chăn nuôi bò thịt và bò sữa về nguồn thức ăn và hiệu quả kinh tế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Đề tài được thực hiện từ tháng 5/2008 đến tháng 9/2009.
Về không gian: Đề tài nghiên cứu giới hạn trong phạm vi là xã Cảnh
Hưng huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh với mục đích đánh giá thực trạng và tiềm
năng thức ăn tự nhiên, các loài cây trồng phục vụ cho chăn nuôi đại gia súc.
3.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã dùng các phương pháp sau:
3.3.1. Các phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên
3.3.1.1. Nghiên cứu tại Cảnh Hưng (mô hình bò sữa)
- Tìm hiểu các đặc điểm sinh thái ở xã Cảnh Hưng Tiên Du - Bắc Ninh,
tình hình khai thác thức ăn của các hộ gia đình của xã.
- Trực tiếp quan sát ngoài đồng cỏ hộ nông dân nông dân, lấy mẫu vật
về phân tích.
- Chọn 3 loài cỏ trồng được dùng làm thức ăn cho gia súc của một số hộ gia đình. Xác lập ô nghiên cứu với diện tích 80m2 x 2/loài. Mỗi ô được bố trí sao
cho có sự đồng đều về địa hình, đất đai, sự chăm bón. Trong các ô tiến hành bón
phân theo công thức, sau đó xác định số lứa cắt và năng suất từng lứa.
- Chọn 2 hộ thuộc hai mô hình khai thác khác nhau để nghiên cứu và so
sánh hiệu quả kinh tế.
- Mẫu cỏ, đất điều tra ngoài thiên nhiên theo phương pháp Hoàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chung (2008).
57
- Điều tra các nguyên nhân ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng cỏ.
- Điều tra qui trình thức ăn 1 năm của một số gia đình, mô hình
chăn nuôi.
3.3.1.2. Nghiên cứu tại Hiệp Hoà (mô hình bò thịt)
Dùng phương pháp ô tiêu chuẩn của Hoàng Chung (2008).
3.3.2. Các phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Mẫu thực vật thu được đem về giám định tên khoa học và phân tích
trong phòng thí nghiệm.
Xác định tên khoa học của các loài cây thức ăn gia súc:
Chúng tôi sử dụng khoá phân loại hiện hành của các tác giả Nguyễn
Tiến Bân và cộng sự (2001, 2003, 2005) [4], Lê Khả Kế (1969, 1975) [15],
Phạm Hoàng Hộ (1993) [12] và một số tài liệu liên quan đến phân loại.
Nghiên cứu năng suất :
Theo phương pháp của Hoàng Chung (2006. Mẫu mang về phòng thí
nghiệm được phân thành 2 phần : Phần tươi và phần chết. Phần tươi được
phân chia theo các nhóm: Hoà thảo, Xa thảo, cây Họ đậu, cây Thuộc thảo, cây
gỗ + cây bụi theo các phần : Lá, thân, hoa….sau đó cân tươi rồi sấy khô, cân
khô và tính giá trị trung bình. Phần đã chết và phần chưa hoàn toàn mục nằm
trên mặt đất đều thuộc phần chết chung.
Đánh giá chất lượng cỏ:
Chúng tôi phân tích 2 giống cỏ trồng điển hình tại Cảnh Hưng, mỗi
giống ở 3 địa điểm khác nhau với các chỉ tiêu nước, vật chất khô, prôtêin,
đường và chất xơ, lipid.
Đánh giá chất lượng đất trồng: Chọn 11 mẫu đất trồng để phân tích các
chỉ tiêu: VCK, pH, Nitơ, P2O5. K2O, OM .
a. Xác định lượng vật chất khô trong cỏ [21]:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Nội dung:
58
Sấy mẫu ở nhiệt độ 1050 C đến khi khối lượng mẫu không đổi và xác
định sự thay đổi khối lượng trong quá trình sấy.
- Dụng cụ:
+ Cân phân tích với độ chính xác đến ± 0,0001 gam. + Tủ sấy điều chỉnh được nhiệt độ ± 10C.
+ Hộp nhôm + nắp có đường kính 65 mm, cao 30 mm.
+ Bình hút ẩm có chứa chất hút ẩm.
- Các bước tiến hành: Sấy hộp nhôm và nắp ở nhiệt độ 1050 C trong vòng 30 phút, sau đó để
nguội trong bình hút ẩm cân chính xác đến 0,0001 g.
Cân vào hộp nhôm 5g mẫu ở trạng thái khô không khí với độ chính xác
0,0001g. Mở nắp hộp nhôm, đặt nắp xuống đáy của hộp sau đó cho vào tủ sấy, sấy ở nhiệt độ 1050 C (± 10C) trong vòng 4 giờ tính từ khi nhiệt độ của tủ sấy đạt 1050 C (Chú ý: thời gian để đạt nhiệt độ 1050 C tính từ lúc bắt đầu cho
hộp nhôm vào sấy không vượt quá 30 phút). Sau khi sấy 4 giờ, chúng ta đậy
nắp hộp nhôm lại sau đó lấy ra cho vào bình hút ẩm. Sau khi để nguội đem
cân bằng cân phân tích. Khối lượng hao hụt sau khi sấy được coi là lượng
nước, phần còn lại sau khi sấy kiệt gọi là lượng vật chất khô.
- Tính toán lượng vật chất khô trong mẫu phân tích (S): Được tính theo
công thức phần trăm (%):
(3.1)
Trong đó: S là lượng vật chất khô trong mẫu (%). m1 là khối lượng mẫu sau khi sấy ở 1050C. m là khối lượng mẫu trước khi sấy ở 1050C.
b. Xác định hàm lượng nước trong cỏ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(3.2)
59
Hàm lượng nước = 100% (tươi)- vật chất khô (%)
A : Là trọng lượng bình + trọng lượng mẫu ban đầu trước khi sấy
B : Trọng lượng bình + trọng lượng mẫu
c. Phương pháp phân tích hàm lượng chất xơ theo Heenerberg-Stohmann
[22]:
Chất xơ được coi là tổng hợp của nhiều chất như xenluloze,
hemixenluloze, các chất pectin, lignin. Việc định nghĩa chất xơ không dễ
dàng, mà thường được coi là các chất còn lại sau quá trình thuỷ phân.
Chất xơ thô là phần còn lại của các nguyên liệu có nguồn gốc thực vật
sau quá trình thuỷ phân bằng Axít sunfuric và dung dịch Natrihiđroxit.
Chất xơ thực phẩm là phần còn lại của các tế bào thực vật được phân
huỷ bằng các men tiết ra từ các tuyến tiêu hoá. Đó là hỗn hợp xenluloze,
hemixenluloze và lignin.
Việc phân tích chất xơ là một phương pháp cổ điển nhưng luôn luôn là
vấn đề cần được thảo luận thấu đáo. Do quá trình thuỷ phân hoá học các chất
trong mẫu phân tích luôn luôn cần một môi trường càng chính xác bao nhiêu
càng cho kết quả chính xác bấy nhiêu.
Từ quan điểm trên việc phân tích chất xơ có thể được tiến hành theo hai
cách: Phương pháp hoá học và phương pháp sử dụng enzim. Trong đó,
phương pháp phân tích hoá học dùng để phân tích chất xơ là một trong những
phương pháp cổ điển nhất của phương pháp phân tích thành phần hoá học có
trong thức ăn. Bản chất của phương pháp này xuất phát từ qúa trình thuỷ phân
các chất của tế bào thực vật.
- Hoá chất:
+ Dung dịch Axít sunfuric (H2SO4) 0,255 ± 0,005 N.
+ Dung dịch Natrihiđroxit (NaOH) 0,313 ± 0,005 N.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
+ Acetone.
60
- Thiết bị:
+ Thiết bị phân tích xơ ANKOM 200/220.
+ Túi lọc: Sử dụng túi lọc ANKOM F57 hoặc F58.
+ Dụng cụ hàn miệng túi: yêu cầu có nhiệt độ cao đủ để làm chảy nhựa
polime trong túi lọc (số hiệu # 1915 hoặc 1920).
+ Tủ sấy
- Các bước tiến hành:
+ Đánh dấu túi lọc bằng bút không bị xoá trong dung môi. Cân túi lọc
(ghi W1.1) sau đó chỉnh cân về không (ấn phím TARE).
+ Túi đối chứng: Cân ít nhất 1 túi không và cho vào cùng phân tích (ghi
W1.2), điều này cho phép xác định sai số xảy ra đối với độ ẩm và khối lượng
của túi.
+ Cân khoảng 1g mẫu cho thẳng vào túi lọc (ghi W2). Mẫu cân phải
cho sát đáy túi.
+ Hàn miệng túi trong khoảng 4 mm tính từ miệng túi bằng dụng cụ
hàn túi. Dàn đều mẫu trong túi bằng lắc hoặc gõ túi. Tránh không để mẫu gần
phần hàn miệng túi (trong phạm vi 4 mm).
+ Đặt tối đa 24 túi vào khay chứa túi của máy ANKOM. Sử dụng tất cả
chín khay mà không quan tâm đến số túi phân tích. Đặt 3 túi vào một khay và xếp các khay vào trục đứng, mỗi cái lệch nhau một góc là 1200. Đặt cả trục
chứa các khay mẫu vào buồng phân tích, đặt khối sắt hình trụ lên khay thứ 9
không chứa mẫu để dìm toàn bộ khay xuống.
+ Khi phân tích 24 túi lọc, đổ vào đó 1.900 – 2.000 ml dung dịch axit
có nhiệt độ ổn định cho đến khi ngập túi lọc. Nếu phân tích ít hơn 20 túi, cho
theo tỉ lệ 100ml axit/ 1 túi (tối thiểu phải có 1.500 ml).
+ Công phá 40 phút bằng dung dịch Axít sunfuric (H2SO4) 0,255 ±
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
0,005N, sau đó rửa nước cất 2 lần (mỗi lần 5 phút).
61
+ Công phá 40 phút bằng dung dịch Natrihiđroxit (NaOH) 0,313 ±
0,005 N, sau đó rửa bằng nước cất tất cả 3 lần.
+ Tháo túi lọc khỏi khay, bóp nhẹ cho bớt nước thừa. Cho túi vào cốc
thuỷ tinh thể tích 250 ml, cho thêm acetone ngập túi. Ngâm khoảng 3 – 5
phút, lấy túi mẫu ra, nhẹ nhàng bóp để rút bớt acetone.
+ Trải đều túi lọc để khô không khí. Cho vào tủ sấy đặt nhiệt độ 1050C,
sấy trong vòng 2 – 4 giờ.
(Chú ý: Không cho túi lọc vào tủ sấy trước khi acetone khô hết).
+ Sau khi sấy khô, lấy túi lọc ra cho vào bình hút ẩm. Để nguội và cân
(ghi W3). Tính lượng xơ và khoáng của mẫu bằng công thức W4:
W4 = W3 – W1.1
+ Đưa cả túi đối chứng và túi chứa mẫu vào đốt trong lò nung ở nhiệt độ 5500C trong vòng 2 giờ, để nguội trong bình hút ẩm và cân (ghi W5.1 là khối lượng
chén + khoáng của mẫu, W5.2 là khối lượng chén + bao đối chứng sau đốt).
Tính lượng khoáng thực sự của mẫu như sau:
W5 = (W5.1 – WCM) – W5.2 – WCĐC)
Trong đó WCM là khối lượng chén dùng đốt mẫu.
WCĐC là khối lượng chén dùng đốt bao đối chứng.
- Tính toán kết quả:
Hàm lượng xơ thô tính bằng % theo công thức sau:
(3.3)
Trong đó:
X: Hàm lượng xơ thô (%)
W2: Khối lượng mẫu phân tích tính bằng gam
W4: Khối lượng chất xơ + khoáng sau khi lọc ete, axit, bazơ và acetone.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
W5: Khối lượng tro của chất xơ sau khi nung
62
d. Phương pháp phân tích hàm lượng Protein thô theo phương pháp
MicroKjeldanl [6]:
- Nguyên lý:
Trong phương pháp MicroKeldan người ta vô cơ hoá mẫu bằng H2SO4
98% kết hợp với chất xúc tác để chuyển nitơ hữu cơ ra dạng (NH4)2SO4, rồi
dùng NaOH để đẩy NH3 ra khỏi muối Amoni, NH3 sau khi được giải phóng ra
sẽ được cuốn đi bằng dòng hơi nước nóng. Sau khi được làm nguội sẽ được
hấp thụ vào dung dịch H3BO3 ở trong bình hứng tạo ra muối borat amon có
màu xanh trong.
(NH4)2SO4 + 2NaOH = 2NH3 + Na2SO4 + 2H2O
3NH3 + H3BO4 = (NH4)3BO3
Để xác định được lượng amoniac giải phóng ra trong quá trình chưng
cất ta đem đi chuẩn độ bằng dung dịch H2SO4 0,1N đến khi nào dung dịch
chuyển sang mầu tím nhạt là được.
2(NH4)3BO3 + 3H2SO4 → 3(NH4)2SO4 + 2 H3BO3
Từ lượng axit H2SO4 0,1N tiêu tốn trong quá trình chuẩn độ chúng ta
tính được lượng nitơ có trong mẫu.
- Dụng cụ: Ống công phá mẫu; Bình tam giác 300 ml
- Hoá chất: H2SO4 đậm đặc 98%; Viên xúc tác Kjeldahl (hỗn hợp Cu và
Se); H2SO4 0,1N; NaOH 33%; H3BO3 4% cùng với chất chỉ thị màu Tashio
(gồm hỗn hợp xanh Methylen và đỏ Methylen); Nước cất.
- Cách tiến hành:
Giai đoạn công phá mẫu:
+ Bước 1: Cân mẫu: Mẫu được xấy khô ở nhiệt độ 50 – 600C, sau đó nghiền nhỏ.
Tiến hành: Cân chính xác và cẩn thận bằng cân phân tích (có độ chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xác 0,0001) 1-1,5 g mẫu cho vào bình công phá (trước khi cho mẫu đã cân
63
vào ống thì ta phải cho vào ống 1 viên xúc tác trước), sau đó cho vào 10 ml
H2SO4 đậm đặc, bịt chặt ống đốt mẫu bằng giấy thiếc và ngâm qua đêm.
Chú ý: Để tăng độ chính xác khi phân tích, chúng ta phải bố trí 1 ống
Kjeldahl đối chứng chỉ có chất xúc tác và 10 ml H2SO4 đậm đặc mà không có
mẫu phân tích, tiến hành tất cả các bước như mẫu phân tích thật.
+ Bước 2: Công phá mẫu:
Nhiệt độ cần cho quá trình công phá là 3800C, thời gian công phá là 40
phút. Khi quá trình công phá đã được ta đợi nhiệt độ của ống Kjeldahl hạ
xuống bằng nhiệt độ môi trường rồi đưa vào chưng cất.
Giai đoạn chưng cất và phân tách amoniac sau khi công phá:
Sau khi công phá xong ta tiến hành chưng cất trên máy cất đạm tự động
Gerhardt. Máy tự động hút dung dịch NaOH, H3BO3 và nước cất. Thời gian
chưng cất là 5 phút (chú ý khi chạy máy phải đủ lượng nước làm lạnh), dung
dịch sau chưng cất có mầu xanh.
Giai đoạn xác định lượng amoniac giải phóng ra sau quá trình chưng
cất: Để xác định được lượng amoniac giải phóng ra trong quá trình chưng cất
ta đem đi chuẩn độ bằng dung dịch H2SO4 0,1N đến khi nào dung dịch
chuyển sang mầu tím nhạt là được, từ lượng axits H2SO4 0,1N tiêu tốn trong
quá trình chuẩn độ chúng ta tính được lượng đạm có trong mẫu.
- Tính kết quả: Dựa trên lượng axit sunphuaric 0,1N tính ra hàm lượng
prôtein có trong mẫu.
e. Phương pháp xác định hàm lượng đường khử theo phương pháp
Bertrand [6]:
- Nguyên tắc:
Đường khử do trong cấu trúc có nhóm aldehit có tính khử mạnh nên có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khả năng tham gia phản ứng tráng bạc và phản ứng với dung dịch Fehling.
64
R – CHO + 2AgNO3 + 3NH3 + H2O → R – COONH4 + 2NH4NO3 + 2Ag ↓
R – CHO + 2 Cu(OH)2 → R- COOH + Cu2O ↓ + 2H2O.
Cu2O + Fe2(SO4)3 + H2SO4 → 2CuSO4 +2 FeSO4 + H2O
10 FeSO4 + 2KMnO4 + 8H2SO4 → K2SO4 + 2MnSO4 + 5 Fe2(SO4)3 + 8H2O.
Khi dùng dung dịch chuẩn KMnO4 0,1N để chuẩn độ lượng FeSO4 tạo
thành, từ thể tích tiêu tốn khi tra bảng sẽ tìm được số mg đường khử và áp
dụng công thức ta sẽ tìm được hàm lượng đường hay tinh bột trong mẫu.
- Cách tiến hành:
Công đoạn chiết, tách và thuỷ phân:
Cân một lượng mẫu cỏ sao cho khi pha xong có hàm lượng từ 4 – 10%
đường. Mẫu cỏ được cắt nhỏ rồi nghiền mịn, sau đó thêm vào khoảng 50 ml
nước, đun cách thuỷ ở 800C trong 15 phút, để nguội khử tạp chất rồi định mức
đến thể tích cần chiết (100 – 150 ml) cả bã, lọc lấy dịch trong. Dung dịch này
chỉ phân tích được hàm lượng đường khử (monosaccarit).
Tiến hành phân tích:
Lấy 10ml dung dịch Fehling A và 10 ml dung dịch Fehling B cho vào
cốc có dung tích 250cc, đun sôi, thêm 10ml dung dịch phân tích và khoảng
20ml nước sôi. Dung dịch phía trên phải có màu xanh, nếu không phải làm lại
với lượng dịch lọc ít hơn. Nhưng tổng thể tích dung dịch cuối cùng trong cốc
phải bằng 50ml. Sau lọc kết tủa qua phễu, giữ kết tủa trong cốc, tráng bằng
nước cất sôi một vài lần, sao cho hết màu xanh trên phễu lọc, hoà tan tủa
trong cốc bằng 30ml dung dịch Fe2(SO4)3. Lấy bình hứng ra và chuẩn độ bằng
dung dịch KMnO4 0,1N, đến khi xuất hiện màu hồng.
Hàm lượng đường khử được tính theo công thức:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(3.4)
65
Trong đó:
X là hàm lượng đường khử có trong mẫu (%).
V: thể tích dung dịch pha ban đầu
G: mg glucoza
A: số gam mẫu cân
10: số ml dung dịch đem phân tích.
1000: hệ số chuyển đổi mg sang gam
f. Xác định hàm lượng lipit:
[6] Dự a và o tính chất hòa tan của lipit trong dung môi hữu cở để chiết
lipit, dung môi đượ c sử dụ ng là petroleum ether .
Cỏ nghiền mịn , sấy đến khô tuyệt đối . Cân 0,05g mẫu cho vào
eppendorf, thêm 1,5 ml petroleum ether lắc đều bằ ng voltex 10 phút, để qua đêm ở nhiệt độ 40C. Sau đó ly tâm 12000 vòng/ phút ở 40C trong 15 phút, bỏ
dịch. Tiế n hà nh lặ p lạ i 3 lầ n. Sấ y khô mẫ u đế n khố i lượ ng không đổ i .
Hàm lượng lipit được tính theo công thứ c sau :
Hàm lượng lipit (%) = 100 %
Trong đó: A : khối lượng mẫu trước khi chiết (mg)
B : Khối lượng mẫu sau khi chiết chiết (mg)1000: hệ số
chuyển đổi mg sang gam.
3.3.2.5. Phương pháp phân tích đối với mẫu đất :
Trên vị trí nghiên cứu chúng tôi lấy mẫu đất tại ô tiêu chuẩn và các
điểm ngoài ô tiêu chuẩn. Mẫu đất lấy ở độ sâu : 0- 20cm và đem phân tích tại
phòng phân tích đất Khoa nông học - Trường đại học Nông Lâm- đại học
Thái Nguyên theo phương pháp của Lê Văn Khoa và Lê Văn Tiềm [18], [19].
- Xác định độ ẩm của đất theo phương pháp sấy khô tuyệt đối : Cân 100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gam đất đã hong khô không khí và rây qua rây 1mm cho vào hộp nhôm (mở
66
nắp)sấy trong tủ ở 105oC đến trạng thái không đổi trong thời gian 12 giờ, tiến
hành lặp lại 3 lần. Sau khi sấy xong, đậy nắp hộp nhôm, cho vào bình hút ẩm
(đáy bình chứa CaCL2 hoặc xilicagen) để hạ nhiệt độ tới nhiệt độ trong
phòng, thông thường để nguội trong khoảng 20-30 phút, sau đó cân trọng
lượng đất khô tuyệt đối và so sánh với khối lượng ban đầu.
- Xác định độ pH (pH (KCl)) theo phương pháp đo bằng máy pHmeter:
Cho vào bình thuỷ tinh 5gam đất đã qua rây 1mm, sau đó thêm vào 25ml
KCL(1N), lắc trong 10 phút rồi ngâm qua đêm, lắc lại và đo trên máy Meter
đọc trị số pH ở trên máy.
- Xác định hàm lượng mùn (%) theo phương pháp Tiurin : Cân 0,2 gam
đất đã qua rây 0,25mm cho vào bình tam giác 100ml,sau đó thêm 5ml dung
dịch K2C2R2O7 (0,4N) lắc nhẹ ,cắm phễu con trên miệng bình để ngưng lạnh.
Sau đó đặt bình trong nồi Parafin, đun sôi dung dịch trong bình 5 phút ở nhiệt độ 170oC – 180oC trên bếp điện cho đến khi dung dịch không còn màu xanh.
Để nguội dung dịch rồi đổ vào bình tam giác, dùng một ít nước cất chia làm
2-3 lần tráng phễu và bình và đổ vào bình tam giác .Thêm 1ml H3PO4 và 8
giọt chỉ thị màu Fenylantranyn, sau đó dùng dung dịch muối Mo chuẩn độ
lượng Kali Bicromat thừa đến lúc dung dịch biến đổi sang màu xanh và tính
kết quả.
Để xác định hàm lượng đạm, lân, kali cần phải qua giai đoạn công phá
mẫu: Cân 1 gam đất đã rây qua rây 1 mm cho vào bình thuỷ tinh dung tích 50
ml. Thêm vào bình một ít nước cất cho mẫu đất hơi ẩm, rồi cho vào 8ml
H2SO4 đặc, lắc đều, cho thêm vào giọt HCLO4 70% .Đậy bình bằng một chiếc
phễu nhỏ. Đun từ từ cho nhiệt độ tăng dần. Khi dung dịch bắt đầu chuyển
sang màu trắng thì tiếp tục đun thêm 20 phút nữa.Toàn bộ thời gian công phá
mẫu hết khoảng 30-40 phút. Sau đó nhấc xuống để nguội và cho vào 3 giọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
HCLO4 và đun cho trắng màu.
67
- Xác định hàm lượng đạm tổng số (N%) theo phương pháp Kjeldahl:
Đem mẫu đất đã được công phá chưng cất Kjeldahl với thời gian 20-30 phút
thu được dung dịch màu tím đỏ, sau đó chuẩn độ NaOH 0,02N, dung dịch từ
tím đỏ chuyển sang màu lục và tính kết quả.
- Xác định hàm lượng lân tổng số (P2O5%) theo phương pháp quang
phổ hấp phụ: Lấy 5 ml dung dịch mẫu sau khi đã công phá cho vào bình thuỷ
tinh, chỉnh độ pH đến = 7 bằng dung dịch NaOH 10%, sau đó thêm 10ml
H2SO4 5N, thêm 1,25 ml dung dịch Amonimolipdat 2% và 3ml dung dịch axit
Ascobic 1N. Đun cách thuỷ trên bếp khi cường độ màu lớn nhất, để nguội đến
nhiệt độ phòng, định mức đến 50ml, đem so màu trên máy DERLL/2000, số
đọc là P2O5%.
- Xác định hàm lượng kali tổng số (K2O %) theo phương pháp quang
phổ phát xạ: Nguyên tắc của phương pháp này là thu bức xạ nguyên tử Kali
phát ra dưới tác dụng kích thích của ngọn lửa hồ quang. Khi bức xạ này đi
qua máy quang phổ nhiễm xạ thu được phổ bức xạ.Cường độ vạch phổ tỷ lệ
với nồng độ nguyên tố Kali trong mẫu. Đo cường độ vạch phổ ta tính được
nồng độ nguyên tố. Phép đo thực hiện trên máy quang phổ loại DFS 8-3, độ
nhạy vạch là 0,01%.
3.2.3. Điều tra qua địa phương, lãnh đạo cơ sở
Trực tiếp phỏng vấn một số gia đình, ban lãnh đạo cơ sở về các vấn đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
liên quan tới đồng cỏ và chăn nuôi.
68
Chương 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Tình hình khai thác và sử dụng đất của ngƣời dân xã Cảnh Hƣng
Cảnh Hưng là xã có diện tích nhỏ. Theo thống kê, kiểm kê đất đai, tính
đến 1/1/2008 phản ánh đúng thực tế hiện trạng sử dụng đất và cơ cấu sử dụng
các loại đất trên địa bàn của xã cụ thể như sau: Tổng diện tự nhiên là 547.63
ha, trong đó đất nông nghiệp là 315.37 ha chiếm 57,59% diện tích đất tự
nhiên của xã. Đất trồng cây hàng năm là 300.79 ha chiếm 54.81% diện tích
đất tự nhiên, đất trồng cây lâu năm là 1.45 ha chiếm 0,26%. Trong tổng số
diện tích đất trồng cây hàng năm thì đất trồng lúa là 170,45 ha chiếm 56,67%,
đất cỏ dùng vào chăn nuôi 1,48 ha chiếm 0,49% còn lại là đất trồng cây bhàng
năm khác. Đất nuôi trồng thuỷ sản 13,13 ha chiếm 2,39%diện tích đất tự
nhiên. Đất phi nông nghiệp là 206,94 ha chiếm 37,79%, còn lại là đất chưa sử
dụng là 25,32 ha (bao gồm đất bằng chưa sử dụng) chiếm 4,62% tổng diện
tích đất tự nhiên. Diện tích các loại đất của xã được nêu trong bảng 4.1.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Diện tích các loại đất :
69
Bảng 4.1: Thực trạng sử dụng đất xã Cảnh Hƣng tính đến ngày 1/1/2008
Diện tích
Năng suất
Ghi chú
STT
Loại đất
(ha)
(tạ)
Tổng diện tích tự nhiên
547,63
1 1.1
Đất nông nghiệp Đất sản xuất nông nghiệp
315,37 302,24
1.1.1
Đất trồng cây hàng năm
300,79
170,45
-Lúa
1.1.1.1
Đất trồng lúa
-
56 tạ/ha/vụ,
1.1.1.2 1.1.1.3
Đất cỏ dùng vào chăn nuôi Đất trồng cây hàng năm khác
1,48 128,86
1.1.2
Đất trồng cây lâu năm
1,45
1.2
Đất lâm nghiệp
0
1.2.1 1.2.2
Đất rừng sản xuất Đất rừng phòng hộ
0 0
1.2.3
Đất rừng đặc dụng
0
1.3
Đất nuôi trồng thuỷ sản.
13,13
1.4
Đất nông nghiệp khác
0
2
Đất phi nông nghiệp
206,94
2.1
Đất ở
51,25
2.1.1
Đất ở tại nông thôn
51,25
2.1.2 2.2
Đất ở tại đô thị Đất chuyên dùng
0 112,21
2.2.1
Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp
0,91
2.2.2
Đất quốc phòng an ninh
0
2.2.3 2.2.4
Đất SX, kinh doanh phi nông nghiệp Đất có mục đích công cộng
23,86 87,44
2.3 2.4
Đất tôn giáo tín ngưỡng Đất nghĩa trang, nghĩa địa
0,95 1,75
2.5 2.6
Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng Đất phi nông nghiệp khác
40,76 0,02
3.
Đất chưa sử dụng
25,32
3.1
Đất bằng chưa sử dụng
25,32
3.2 3.3
Đất đồi núi chưa sử dụng Núi đá không có rừng cây
0 0
(Nguồn :UBND xã Cảnh Hưng 2008)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
70
- Tình hình sử dụng đất: Hiện nay cây trồng hàng năm của xã Cảnh
Hưng chủ yếu là lúa, ngoài ra còn có trồng thêm ngô, khoai lang, khoai tây,
đỗ tương, lạc, …nhưng diện tích nhỏ. Những nơi đất xấu, thiếu nước thì trồng
các loại cây trồng như khoai lang hay bỏ hoang hoá. Toàn xã có 2156 hộ gia
đình với 5841 nhân khẩu, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm là 1%, bình quân đất nông nghiệp trên đầu người khoảng 555m2/người. Theo tốc độ tăng
dân số dự báo đến 2015dân số của toàn xã là 6260 người, bình quân ruộng đất một người khoảng 475m2. Với bình quân ruộng đất như vậy nếu chỉ dựa vào
cây lúa là chính thì hinh tế không thể phát triển. Muốn phát triển kinh tế buộc
người dân phải chuyển đổi cơ cấu, mạnh dạn đầu tư vào các mô hình trồng
trọt và chăn nuôi khác có hiệu quả kinh tế hơn.
4.2. Tập đoàn cây thức ăn gia súc của xã Cảnh Hƣng
Cỏ tự nhiên và cỏ trồng ở đây có thành phần loài khá phong phú, ngoài
các giống cỏ tự nhiên sẵn có thì các hộ liên tục nhập các loại cỏ trồng từ các
nước nhiều giống chất lượng cao như: Cỏ Coi, cỏ VA06, cỏ Ghinê, Xích lô,
cỏ Sao.... các loài cỏ này đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng về mùa khô cho
gia súc, thời gian thu hoạch ngắn, có thể dùng làm thức ăn dự phòng vì các
loài này có khả năng làm thức ăn ủ chua cho mùa đông lạnh giá.
Nhìn chung các loài đều đòi hỏi đất loại trung bình, nhu cầu nước, phân
khá lớn, tuổi khai thác trung bình từ 3-4 năm. Những cây lâu năm mỗi năm có
thể cắt từ 3-5 lần năng suất đạt 60-300 tấn/ha/năm. Trừ những cây hàng năm
còn những cây lâu năm đều có thể qua đông dạng sinh dưỡng, một số vẫn có
thể cho năng suất chất xanh tuy không lớn nhưng lại đòi hỏi thời gian dài hơn.
Các loài đa số đều khai thác lá, thân và có khả năng khai thác được
nhiều năm, những loài có khả năng chăn thả chịu được sự dẫm đạp của gia
súc đó là hai loài cỏ Sậy và cỏ Thừng. Tất cả đều có thể làm thức ăn tươi, một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
số có thể ủ chua, làm cỏ khô và làm bột. Về mặt dinh dưỡng đều được đánh
71
giá loại tốt. Một số loài cỏ thích nghi với điều kiện sinh thái của địa phương
như: Cỏ Voi,VA06, voi lai, Xích lô, Ghinê TD 58, cỏ Ruzi hiện nay đang
được trồng phổ biến ở địa phương.
Tập đoàn cây thức ăn gia súc ở Cảnh Hưng- Tiên Du được thể hiện ở
bảng 4.2.
Bảng 4.2: Tập đoàn cây thức ăn gia súc xã Cảnh Hƣng
TT
Tên La tinh
Tên Việt Nam
Đặc điểm chính, sử dụng
(1) Asteraceae
HỌ CÖC
1
Ageratum conyzoides L.
Cỏ cứt lợn
Cỏ tự nhiên, khai thác
mùa hè
2
Crassocephalum crepidioides
Rau tàu bay
Cỏ tự nhiên, khai thác
(Benth)Smoore
mùa hè
3
Sigesbeckia orientalis L.
Cỏ đĩ
Cỏ tự nhiên, khai thác mùa hè
(2) Convolvulaceae
HỌ KHOAI LANG
1
Ipomoea batats (L) lamK
Khoai lang
Trồng để lấy củ và thân lá
(3) Euphorbiaceae
HỌ THẦU DẦU
1 Manihot esculenta Crantf
Sắn
Trồng để lấy củ
(4) Fabaceae
HỌ ĐẬU
1 Glycine max (L.) Merr
Đậu tương
Trông để lấy hạt, làm bột.
2
Flemingia
Đậu công
Cây thuộc mộc, thân lá nhiều
macrophylla(Willd)Prain
lông, bò không thích ăn
3
Stylozanthes
Cỏ Stylo
Năng suất khá cao, chất lượng
guianensis(Aul)Swaptf
tốt
4 Desmodium spp
Đậu 3 lá
Năng suất rất thấp, mọc dại
trong cỏ trồng
5
Leucaena sp
Keo dậu lai
Tái sinh nhanh, năng suất cao,
chất lượng tốt
(5) Poaceae
HỌ LÖA
1
Avenna sativa L.
Yến mạch lá to
Protein 15 - 19%, chịu lạnh,
sương muối
2
A. strigosa L.
Protein 15 - 19%, chịu lạnh,
Yến mạch
lá nhỏ
sương muối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
72
3
Brachiaria ruziziensis
Cỏ Ruzi
Năng suất không cao, nay it
trồng
4
Cynodon plemfuensis
Cỏ Sao
Năng suất cao, chất lượng tốt,
cần đất ẩm.
vandersyut
5
Panicum maximum
Cỏ Ghinê
Trồng được nhiều loại đất,
năng suất trung bình, chất
JacqTD58
lượng tốt
6
P. maximum Jacq var. Liconi Cỏ Sữa
Năng suất không cao, chất
lượng trung bình, nay ít trồng
7
Paspalum dilatatum Poir
Cỏ xích lô
Tái sinh tự nhiên từ hạt, làm cỏ
khô dễ
8
P. urvillei Stend
Cỏ Mộc Châu
Năng suất thấp, nay đã bỏ
9
Pennisetum purpureum
Cỏ Voi
Năng suất cao, trồng nhiều, ủ
Schumach
chua
10 P.purpureum x
Cỏ VA06
Năng suất rất cao, trồng nhiều,
P.americanum
ủ chua
11 Coelorachis striata (Stend)
Cỏ Thừng
Cỏ có nguồn gốc là cỏ dại Việt
A.Cam.
nam,trồng được nhiều loại đất,
năng suất cao, chất lượng tốt.
12 Panicum sarmentosum Roxb. Cỏ Sậy
Cỏ có nguồn gốc cỏ dại Việt
nam,năng suất trung bình, ít
trồng,mùa hè sinh trưởng và
phát triển kém.
13
Setaria sphacellata
Cỏ Narốk
Nhanh già, cứng, ra hoa sớm,
trồng ít
14 Zea mays L.
Cây ngô
Trông lấy cây ủ chua, lấy hạt
15 Orysa sativa L.
Rơm lúa
Khai thác cám, rơm dùng mùa
đông
Qua bảng 4.2 ta thấy: Trong tổng số 25 loài 7 họ vẫn đang được khai
thác, họ Hoà Thảo (Poaceae) có 15 loài chiếm 60% tổng số loài, họ đậu
(Fabaceae) có 5 loài chiếm 20% tổng số loài, họ Cúc (Asteraceae) có 3 loài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chiếm 12% tổng số loài; còn lại là họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae) có 1 loài và
73
họ khoai lang (Convolvulaceae) có 1 loài. Trong số này thì 3 loài họ Cúc là
cây dại được khai thác trong mùa hè (cây cỏ đĩ – Sigesbeckia orientalis, rau
Tàu bay: Crassocephalum crepidioides, cây Cứt lợn – Ageratum Conyzoides).
Trong số 15 loài họ Hoà thảo thì có một số loài được trồng nhiều hơn cả là cỏ
voi (Pennisetum purpureum); cỏ VA06 (P.purpureum x P.americanum); cỏ
Xích lô (Paspalum dilatatum); cỏ Ghinê (Panicum maximum); và cây Ngô
(Zea mays); Sắn (Manihot esculenta; cỏ Thừng (Coelorachis striata). Mùa
đông thì trồng Yến mạch (Avenna sativa); Yến mạch lá nhỏ (A.stigosa).
Trong số 25 loài trồng ỏ đây hiện nay có thể chia thành 3 nhóm theo
năng suất:
- Nhóm có năng suất cao trên 200 tấn/ha như cỏ Thừng, cỏ Voi, VA06 ;
- Nhóm có năng suất trung bình 100-200 tấn/ha như cỏ Ruzi,cỏ Ghinê,
cỏ Sao và các loài thuộc họ Đậu; nhóm này có chất lượng khá cao.
- Nhóm cây phục vụ cho mùa đông như cây Ngô,Yến mạch, cỏ Thừng.
4.3. Đặc điểm và năng suất các loại cỏ chính dùng làm thức ăn cho bò
đƣợc trồng tại xã Cảnh Hƣng
Các giống cỏ như cỏ Voi, Ghinê, Ruzi... thích nghi cao cả trên vùng đất
của xã. Cỏ giống thường 2 năm thay một lần, dùng luôn hom hoặc hạt cỏ
đang trồng thay thế. Sau mỗi lứa thu hoạch mới phải chăm bón một lần. Cỏ
phát triển mạnh vào mùa mưa, đối với các loại cỏ thân bò có thể phơi khô, các
* Cỏ Voi (Pennisetum purpureum)
loại cây thân đứng có thể ủ chua làm thức ăn dự trữ quanh năm.
Đặc điểm sinh thái:
Chiều cao cỏ voi từ 3-6 m, cây làm thức ăn cho gia súc khi nó cao 3m,
mép lá răng cưa. Bông hoa cỏ dài 10-15cm. Xuất xứ của cỏ voi từ vùng nhiệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đới Châu Phi, thích hợp cho những nơi có lượng mưa trung bình 1000mm một
74
năm. Nhiệt độ thích hợp cho phát triển là tư 25- 300C, nhiệt độ dưới 140C là
cây ngừng phát triển.
Năng suất cỏ voi : Vào mùa mưa khoảng 50-60 ngày một lứa cắt, vào
mùa khô là khoảng 100 ngày. Ở Cảnh Hưng cỏ voi thường cho 4-5 lứa cắt
một năm.
Khi thu hoạch cỏ Voi 40-45 ngày tuổi, chất lượng thức ăn rất thấp (CP
= 5-8% tính theo VCK), tỷ lệ sử dụng 40-60%. Do vậy để cải thiện chất lượng
các hộ phải thu hoạch khi cây còn non (30-35 ngày), tuy nhiên điều này ảnh
hưởng đến khả năng tái sinh và năng suất của cỏ.
* Cỏ Ghinê (Panicum maximum)
Đặc điểm sinh thái: Ghinê cao từ 300-350cm, lá mảnh, dài 90-120 cm
rộng từ 1-1,2 cm, hoa là một cụm bông, hạt nhỏ. Nguồn gốc xuất xứ từ vùng
nhiệt đới Châu Phi (vùng ghinê). Đây là giống cỏ hoà thảo có khả năng chịu hạn tốt, thích nghi với nhiều loại đất,nhiệt độ thích hợp từ 25-300C, dưới 100C
ngừng sinh trưởng, có thể sống trong bóng mát của những cây khác và thích
nghi với nhiều loại đất . Ở Cảnh Hưng là 3,4 năm thì trồng lại.
Năng suất cỏ ghinê: Trong điều kiện thuận lợi thì cắt 7-8 lứa/ năm với
năng suất tư 10-14 tấn chất khô/ha Điều kiện ở Mộc Châu là 4 lứa/năm. .
* Cỏ VA 06 (P.purpueumx P.americanum)
Là giống cỏ lai giữa cỏ voi và một giống cỏ đuôi sóc ở Nam mỹ. Giống
cỏ này có khả năng sinh trưởng phát triển rất mạnh, năng suất có thể đạt tới
300 – 350 tấn/ha, thâm canh tốt có thể đạt tới 400 tấn/ha. So với cỏ voi thì cỏ
VA06 có thân lá mềm hơn, lá dày, ít lông hơn và theo tài liệu hướng dẫn thì
cỏ VA 06 có hàm lượng dinh dưỡng rất cao. Nó có thể đáp ứng được để phát
triển chăn nuôi trong điều kiện thâm canh cao. Giống cỏ này mới được đưa
vào trồng năm 2006, sẽ phát triển mạnh trong các năm tới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
* Keo dậu (Leucaena leucocephala)
75
Đây là cây họ Đậu, làm thức ăn bổ xung rất tốt cho đàn bò sữa. Là
giống cây thân gỗ, lâu năm có giá trị dinh dưỡng cao, đặc biệt là Protein. Ở
Cảnh Hưng cây keo dậu được trồng theo băng, hoặc hàng rào, bò lô...Cây keo
được nhân giống bằng hom.
* Cỏ tự nhiên đặc biệt là hai giống cỏ Sậy và cỏ Thừng
Cỏ Thừng sống ở nơi ẩm, cây sống nhiều năm, mọc tập trung thành
đám, thân, lá mềm và thơm nên bò rất thích ăn, cao tối đa 100cm, tái sinh
nhanh có thể trồng được trên nhiều loại đất. Cỏ Thừng có khả năng cạnh tranh
mạnh, gần như không có loại cỏ dại nào mọc được ở ruộng cỏ Thừng, được
dân địa phương đem trồng vài năm gần đây.
Cỏ Sậy sống nơi ẩm ướt, sống nhiều năm, chồi dài, mọc tập trung thành
đám, thân cao đến 1m, khả năng sinh trưởng tốt ở điều kiện nhiệt độ từ 18-40
độ C và phát triển kém ở nhiệt độ thấp, song lại tái sinh mạnh mẽ khi nhiệt độ
và độ ẩm tăng lên. Giá trị dinh dưỡng và tính ngon miệng tương đương với cỏ
Thừng, cũng được dân địa phương đem trồng vài năm gần đây.
Kỹ thuật trồng hai giống cỏ trên rất đơn giản: Sau khi làm đất mịn, rắc
cỏ như gieo mạ hoặc như phủ rạ rồi dùng vồ đập đất đập nhẹ, để tăng khả
năng bám đất cho cỏ. Tuy đây là những giống cỏ chịu thâm canh nhưng chỉ
cần làm đất 1 lần và không cần trồng lại. Mùa đông dù khô hanh song do cỏ
có dạng thân bụi, mọc dày đặc nên có khả năng giữ ẩm tốt, cỏ vẫn cho năng
suất cao nếu được tưới giữ ẩm chỉ 1 lần/tháng. Như vậy có thể khắc phục tình
trạng thiếu thức ăn xanh trong mùa khô. Chỉ sau 2 tháng trồng, cỏ Sậy và cỏ
Thừng đã cho thu hoạch lứa đầu. Ngoài ra để bảo đảm thức ăn cho vụ đông,
các hộ chăn nuôi còn sử dụng ngô cây, cải vụ đông và các loại thức ăn củ quả
khác như khoai, sắn, bí đỏ...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
* Thức ăn ủ chua
76
Với điều kiện thời tiết nước ta, mùa đông rất khắc nghiệt, các loại cỏ
không phát triển hoặc phát triển rất kém, vì vậy thức ăn dự trữ ủ chua cùng
với cỏ khô là thức ăn thô chủ yếu cho đàn bò. Thức ăn ủ chua được làm chủ
yếu từ ngô cây khi hạt ngô bắt đầu khô sữa, được bổ xung thêm rỉ mật. Đây là
thức ăn rất quan trọng trong mùa đông, đảm bảo duy trì được sức khoẻ và khả
năng sản xuất của đàn bò.
4.4. Tình hình chăn nuôi bò ở Bắc Ninh và xã Cảnh Hƣng
Tỉnh Bắc Ninh đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người dân các địa
phương thực hiện các chương trình lai hoá đàn bò thịt, nạc hoá đàn lợn, phát
triển đàn bò sữa, gia cầm chất lượng cao... thúc đẩy ngành chăn nuôi chuyển
dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Việc hình
thành các vùng sản xuất tập trung đã tạo ra động lực tích cực thúc đẩy ngành
chăn nuôi của Bắc Ninh ngày càng phát triển mạnh, hướng tới đưa ngành này
trở thành ngành sản xuất chính trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
Đối với đàn bò, tỉnh đã quy hoạch được 26 vùng nuôi bò thịt ở các
huyện Yên Phong, Tiên Du, Quế Võ, Gia Bình, Lương Tài, Thuận Thành với
19,7 nghìn con, chiếm 36% tổng đàn bò của toàn tỉnh. Do mang lại hiệu quả
kinh tế khá, lại dễ dàng trong khâu chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh, không
phải bỏ vốn lớn nên việc phát triển chăn nuôi bò thịt đang ngày càng thu hút
nhiều hộ dân ở các địa phương quan tâm, đặc biệt là tại các huyện có diện tích
đất bãi ven sông và vườn đồi rộng như Quế Võ, Yên Phong, Gia Bình... Tại
các huyện này đã thường xuyên duy trì đàn bò từ trên 3.300 con đến gần
5.000 con. Các xã có tổng đàn lớn là Đào Viên, Chi Lăng, Ngọc Xá, Việt
Hùng (Quế Võ), Tam Giang (Yên Phong), Song Giang, Vạn Ninh (Gia
Bình)... với tổng số từ 760 đến 1.280 con. Bên cạnh đó, tỉnh còn quy hoạch
được 2 vùng nuôi bò sữa ở các huyện Tiên Du và Từ Sơn với trên 600 con,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong đó có trên 400 con đã cho sữa, đạt năng suất bình quân 3.600 đến 3.650
77
kg sữa/chu kỳ. Hai xã Cảnh Hưng và Tri Phương (Tiên Du) có từ 139 đến 189
con bò sữa, chiếm từ 17% đến 23% tổng đàn bò sữa của toàn tỉnh. Tỉnh hiện
có 302 hộ nuôi bò sữa, tập trung ở 7/8 huyện, thị xã với tổng đàn trên 800
con, lượng sữa được sản xuất ra đạt mức trung bình từ 3300 đến 3500
kg/ngày. Nhằm đưa con bò sữa trở thành một trong những con vật nuôi chính
góp phần nâng cao tỷ trọng chăn nuôi, đồng thời tăng thêm thu nhập cho
người nông dân, ngoài việc hỗ trợ kinh phí cho những hộ dân nhập về các con
bò sữa cao sản, Trung tâm Khuyến nông tỉnh phối hợp với Sở Khoa học -
Công nghệ tiến hành lai tạo đàn bò sữa tại chỗ trên nền đàn bò cái lai sind và
đã cho ra đời trên 2.500 con lai F1, bò cao sản 82% đến 87% máu ngoại,
nhiều con hiện đã cho sản lượng sữa từ 10 đến 12 lít/ngày. Tại các huyện Từ
Sơn, Tiên Du, Thuận Thành... nhiều hộ gia đình nuôi từ 4 đến trên 10 con với
lượng sữa tươi thu được từ 15 đến 30 kg/ ngày, lãi từ 20 đến hơn 27,5 triệu
đồng mỗi năm. Để tạo điều kiện thuận lợi cho người sản xuất và khắc phục
khó khăn trong khâu tiêu thụ, từ năm 2004, ngành nông nghiệp - phát triển
nông thôn tỉnh đã giúp bà con nông dân hình thành 6 trung tâm thu gom, tiêu
thụ sản phẩm sữa ở các huyện Tiên Du, Từ Sơn, Thuận Thành với những khu
nhà xưởng, tanh lạnh, các thiết bị máy móc để cân đo tỷ trọng, lượng sữa,
kiểm tra độ cồn, đánh giá mức độ nhiễm khuẩn... đảm bảo tiêu chuẩn, mỗi
trung tâm có thể bảo quản, cung ứng ra thị trường từ 100 kg đến 820 kg sữa
tươi/ngày.
Ở xã Cảnh Hưng phong trào nuôi bò sữ bắt đầu từ năm 1995 với 5 con
bò giống, đến nay đàn bò sữa của xã Cảnh Hưng đã có tổng số 214 con, bao
gồm 74 con bê và 140 con bò đang cho khai thác. Bình quân 1 con bò cho 15-
20 kg sữa/ngày, với giá thành từ 7000- 7500 đồng/kg sữa. Tuy giá trị kinh tế
chưa thực sự cao nhưng nghề nuôi bò sữa giúp bà con nông dân tận dụng lợi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thế đồng đất và thời gian nông nhàn để có thêm thu nhập. Tận dụng được lợi
78
thế vùng đất bãi để trồng cỏ và có sự chuẩn bị tốt cho đầu ra của sản phẩm.
Hiện trong xã có 3 điểm thu mua do các công ty sữa đầu tư máy móc, chuyển
giao công nghệ tại chỗ để thu mua sữa cho nhân dân vì vậy lượng sữa sản
xuất ra được bao tiêu toàn bộ. Tại thời điểm “bão” melamine, Cảnh Hưng
cũng bị ảnh hưởng nhưng không nghiêm trọng. Toàn xã không có trường hợp
nào phải đổ bỏ sữa hay bán bò để gỡ vốn”. Tuy nhiên, có lúc giá sữa giảm chỉ
còn 5000đồng/kg (giá trước đó bình quân khoảng 8000 đồng/kg) thì người
chăn nuôi không có lãi. Nhưng rất may tình trạng đó chỉ xảy ra trong thời gian
ngắn vì người dân Cảnh Hưng tận dụng được diện tích đất ven đê rộng lớn đã
chủ động nguồn thức ăn cho bò, giảm được chi phí đầu vào nên thiệt hại
không đáng kể. Đến nay mọi việc đều bình thường, giá sữa lại được sữa với
giá dao động từ 6500 đến 7500 đồng/kg. Sau hơn 10 năm gắn bó với nghề
nuôi bò sữa, trải qua những thăng trầm của thị trường, người dân Cảnh Hưng
đã tích luỹ được khá nhiều vốn liếng cũng như kinh nghiệm. Chính vì vậy,
“bão” melamine không những không làm suy giảm nghề chăn nuôi bò sữa ở
đây mà còn là dịp để nông dân Cảnh Hưng khẳng định sự dày dạn kinh
nghiệm trong chăn nuôi bò sữa, vượt qua tác động của điều kiện ngoại cảnh.
Đàn bò sữa ở Cảnh Hưng vẫn duy trì ổn định và hiện có chiều hướng gia tăng.
Cùng với con bò sữa, địa phương đang mở rộng quy mô đàn bò thịt. Đây vẫn
là hướng phát triển kinh tế mũi nhọn của Cảnh Hưng.
4.5. Năng suất của các loài cỏ chính
Tại Cảnh Hưng có nhiều loài cỏ trồng, nhưng có 3 loài cỏ được chúng
tôi quan tâm nhiều hơn cả đó là cỏ Voi, cỏ Sậy và cỏ Thừng vì những đặc
điểm ưu việt của nó. Với mục đích so sánh 2 loài cỏ tự nhiên mới được đem
trồng là cỏ Sậy và cỏ Thừng với cỏ Voi là loài được trồng phổ biến và được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đánh giá là đứng hàng đầu trong các loài cỏ hoà thảo nhập vào Việt Nam. Thí nghiệm được bố trí thành 3 ô, mỗi ô 80m2/loài, trồng trên cùng vùng đất,
79
quy trình trồng, chăm sóc, thu hái về cơ bản là như nhau, riêng cắt theo tuổi
và theo nhu cầu gia đình nên không thể cắt cùng ngày được.
Kết quả theo dõi trong 10 lứa cắt được trình bầy trong bảng 4.3
Bảng 4.3: Số lứa cắt và năng suất của từng lứa
Loài cỏ Cỏ Voi Cỏ Sậy Cỏ Thừng Lần cắt
Lần 1 200kg/80m2 15.6.2007 140kg/80m2 5.6.2007 160kg/80m2 10.6.2007
Lần 2 360kg/80m2 13.8.2007 260kg/80m2 10.7.2007 280kg/80m2 10.8.2007
Lần 3 280kg/80m2 10.10.2007 270kg/80m2 10.9.2007 280kg/80m2 15.10.2007
Lần 4
Lần 5 224kg/80m2 5.1. 2008 296kg/80m2 2.3..2008 160kg/80m2 10.11. 2007 150kg/80m2 16.2 .2008 248kg/80m2 10.12. 2007 272kg/80m2 12.2 .2008
Lần 6 230kg/80m2 6.6.2008 150kg/80m2 15.5.2008 288kg/80m2 15.4.2008
Lần 7 264kg/80m2 10.7.2008 120kg/80m2 20.6.2008 264kg/80m2 13.6.2008
Lần 8 240kg/80m2 1.9.2008 130kg/80m2 10.8.2008 240kg/80m2 20.7.2008
Lần 9 240kg/80m2 10.12..2008 110kg/80m2 25.10. 2007 224kg/80m2 25.9.2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lần 10 280kg/80m2 5.2.2009 120kg/80m2 20.12. 2008 270kg/80m2 28.11. 2008
80
261,4kg/80m2 161,0kg/80m2 252,6kg/80m2 Năng suất TB 3,27 kg /m2 2,01 kg/m2 3,16 kg/m2
Qua bảng trên cho thấy:
1. Số lứa cắt trong một năm
Tính từ tháng 6.2007 đến tháng 6 .2008 thì số lứa cắt của cỏ Voi là 6
lần, cỏ Sậy là khoảng 6-7 lần còn cỏ Thừng là 7 lần.
2. Năng suất
Từ số lứa cắt trong năm và năng suất trung bình của 1 lứa ta tính ra năng suất năm của từng loài. Cỏ Voi là 3,27kg x 6 lứa =19,62 kg/m2 tức gần 200 tấn /ha. Cỏ Thừng là 3,16 kg x 7 lứa = 22,12 kg/m2 tức khoảng 220 tấn /ha. Cỏ Sậy là 2,01 kg x 7 lứa = 14,07 kg/m2 đạt khoảng 140 tấn /ha.
Ở lần cắt dầu tiên, năng suất của 3 giống cỏ so với các lần cắt khác thấp
nhất vì thời gian đầu mới trồng cỏ sinh trưởng chậm, cỏ còn ít con: cỏ Voi 200kg/80m2, cỏ Sậy là 140kg/80m2còn cỏ Thừng 160kg/80m2; đến lần cắt
tiếp theo lúc này cỏ sinh trưởng rất mạnh, cỏ đã rất dầy con nên năng suất của các giống cỏ đã rất cao: Cỏ Voi 360kg/80m2, cỏ Sậy là 260kg/80m2còn cỏ Thừng 280kg/80m2; sang đến lần cắt 3 thì cỏ Voi năng suất giảm đi rất mạnh xuống còn 224kg/80m2, ở các lứa cắt còn lại ta thấy năng suất của cỏ Voi tăng
ở lần cắt 4 rồi lại giảm ở những lần cắt tiếp theo và lần cắt 10 thì năng suất lại
tăng. Năng suất của cỏ Sậy thì vẫn tiếp tục giảm nhẹ ở những lần cắt tiếp
theo; Cỏ thừng tỏ ra có năng suất tương đối ổn định ở các lần cắt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Như vậy năng suất trung bình qua 10 lứa cắt ta thấy cỏ Voi có năng suất cao nhất 261,4 kg/80m2, cỏ Thừng năng suất gần bằng cỏ Voi :252,6kg/80m2 (kém cỏ Voi có 8,8kg/80m2), cỏ Sậy có năng suất thấp nhất: 161,0 kg/80m2
81
Qua đồ thị cho thấy cỏ Thừng có năng suất khá cao và ổn định, cỏ
Sậy năng suất khá cao ở những lần cắt đầu còn ở những lần cắt sau thì năng
suất giảm và đi vào ổn định, cỏ Voi có lần cắt thứ 2 cao nhất và ở những
lần cắt sau thì năng suất lên xuống không đều. Nếu theo quy luật khí hậu
nhiệt đới gió mùa của nước ta thì khả năng sinh trưởng, phát triển của cỏ
Hòa thảo như sau: Hầu hết cỏ hòa thảo đều sinh trưởng nhanh vào mùa hè,
ra hoa kết quả vào vụ thu và gần như ngừng sinh trưởng vào mùa đông.
Đến mùa xuân lại phát triển nhanh và cho nhiều lá nhưng với 3 giống cỏ
trên do được tưới nước và bón phân thường xuyên nên năng suất trong các
mùa có sự khác biệt hầu như không đáng kể. Chu kì lứa cắt trong mùa đông
ngắn nhất là cỏ Thừng 50-60 ngày/lứa, dài nhất là cỏ Sậy 60-90 ngày/lứa,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cỏ Voi 60 – 85 ngày/lứa.
82
Lần cắt
Bảng 4.4: Lƣợng phân bón hoá học cho các loài cỏ Lƣợng phân bón (kg/80m2) Lân 0,4 Đạm 0,5 Lần 1 Kali 0,3
Lần 2 0,6 0,8 0,3 (0,2)
Lần 3 0,7 0,6 0,3
Lần 4 0,5 0,5 0,3 (0,2)
Lần 5 0,5 0,5 0,3
Lần 6 0,16 0,15 0,3
Lần 7 0,18 0,15 0,3
Lần 8 0,18 0,20 0,3
0,7 0,6 Lần 9 0,3 (0,19) (0,15)
Lần 10 0,5 0,5 0,3
( ) là lượng phân bón cho cỏ Thừng
Như vậy với lượng phân bón hoá học ở mỗi lần bón như nhau thì cỏ Sậy năng suất thấp nhất 2,01kg/80m2, cỏ Thừng có năng suất cao (3,16kg/80m2) tương đương cỏ Voi (3,27kg/80m2); cỏ Thừng có một số lần
đã bón ít hơn so với 2 cỏ còn lại. Nhu cầu về dinh dưỡng của 3 loài cỏ trên
cũng chia theo từng giai đoạn: Giai đoạn đầu (nẩy mầm - phân nhánh) cần
nhiều đạm, lân, kaly. đến giai đoạn giữa cỏ đang sinh trưởng khá mạnh thì
nhu cầu chất dinh dưỡng đòi hỏi ở mức thấp hơn (lần 6,7,8); sang đến lần cắt
thứ 9,10 thì nhu cầu dinh dưỡng lại cao vì giai đoạn này cỏ già.
4.6. Chất lƣợng của của một số loài cỏ
Để đánh giá chất lượng cỏ chúng tôi đã tiến hành phân tích thành phần
hoá học của nó. Chúng tôi đã lấy mẫu lá của 2 loài cùng thời điểm là cỏ Voi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và cỏ Thừng.
83
Mẫu được phân tích tại khoa Nông học (Đại học Nông Lâm Thái Nguyên)
. Kết quả phân tích được trình bầy trong bảng 4.5:
Bảng 4.5: Hàm lƣợng các chất dinh dƣỡng ở vị trí trồng cỏ
Protein TS (%) Lipit TS (%) Chất xơ TS (%) Đƣờng TS (%)
Tên
VCK
Trạng
Trong
Trạng
Trong
Trạng
Trong
Trạng
Trong
mẫu
(%)
thái
100%
thái
100%
thái
100%
thái
100%
tƣơi
VCK
tƣơi
VCK
tƣơi
VCK
tƣơi
VCK
cỏ
14,48
2,84
19,60
0,51
3,50
4,42
30,49
0,21
1,48
Thừng
cỏ Voi
8,94
1,77
19,78
0,33
3,72
3,43
38,33
0,17
1,43
Từ kết quả phân tích trong bảng 4.5 ta thấy vật chất khô cỏ Thừng là
14,48 %, còn cỏ Voi chỉ đạt 8,94 %. Lượng protein tổng số ở trạng thái tươi
cỏ Thừng là 2,84 %, cỏ Voi là 1,77 %; lipid, đường, chất sơ tổng số ở trạng
thái tươi cỏ Voi đều kém cỏ Thừng.
Để làm sáng tỏ thêm về chất lượng và hiệu quả sử dụng, chúng tôi đã
so sánh số liệu của chúng tôi với số liệu các tác giả khác về loài cỏ Voi:
Nguyễn Văn Tuyền (1973) cho biết protein thô trong cỏ Voi đạt 100 g/kg vật
chất khô, của chúng tôi là 19,78% nó còn cao hơn cả VA06 (18,46%).
Về tỷ lệ sử dụng ở cỏ Voi rất thấp 40-60%, tỷ lệ thân chiếm 70% tổng
số; do vậy lượng thức ăn thực tế mà bò sữa sử dụng là rất thấp. Nếu xét về
khía cạnh năng suất chất xanh cỏ Voi là 100 tấn, thì gia súc chỉ sử dụng được
40-60 tấn. Thực tế trong chăn nuôi bò sữa các hộ chăn nuôi đều cho rằng thức
ăn thô xanh thiếu cả về số lượng và chất lượng.
10 kg cỏ Voi = 7,0 kg là thân (70%) + 3, 0 kg là lá (30 %), thân cứng
dài nên khi ăn phải cắt nhỏ.
Ngược lại với cỏ Voi, cỏ Thừng có giá trị dinh dưỡng cao, tỷ lệ prôtein
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thô đạt 2,84%, vật chất khô, protein, lipit, chất sơ, đường tổng số nói chung ở
84
trạng thái tươi cao hơn nhiều so với cỏ Voi. Thân nhỏ, mềm, thơm nên độ
ngon miệng cũng rất cao. Mặt khác thân ngắn, mềm nên khi cho ăn không
phải cắt nhỏ như cỏ Voi, bò ăn hết không để thừa, tỷ lệ sử dụng trên 90%.
* Lượng phân bón cũng có vai trò lớn đến chất lượng đất trồng cỏ
Nhiều nghiên cứu cho thấy ở nhiều khu vực có trồng cỏ, cùng một
giống cỏ thì năng suất cỏ cao nhất ở khu vực mà hàm lượng các chất trong đất
biểu thị thấp nhất. Điều này chứng tỏ đất bị huy động ở mức cao vì vậy muốn
có năng suất cỏ cao cần tăng lượng phân bón hàng năm, đồng thời cung cấp
thêm độ ẩm cho đất.
Vị trí lẫy mẫu đất ở nơi không có sư tác động của phân bón.
Kết quả phân tích đất của chúng tôi được trình bầy trong bảng 4.6
Bảng 4.6: Hàm lƣợng các chất dinh dƣỡng trong đất ở khu vực nghiên cứu
Tên mẫu Nitơ TS (%) K2O(%) P2O5(%) MO(%) pKkcl
Mẫu đất 0,16 0,285 0,201 2,24 7,5
Từ bảng 4.6 ta thấy hàm lượng các chất trong đất là khá thấp đặc biệt
là mùn, pH thuộc loại trung tính. Nếu không bón phân thì năng suất các giống
cỏ sẽ không cao.
4.7. Năng suất cỏ tự nhiên trên đồi xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hoà
Để đánh giá năng suất thảm cỏ trên đồi cỏ tự nhiên xã Đông Lỗ - nơi
gia đình ông Sáu dùng làm bãi chăn. Trên đồi chăn thả chúng tôi đã lấy 4 ô mẫu, mỗ ô 1 m2, cắt sát đất lấy toàn bộ phần trên mặt đất về cỏ tươi phân theo
nhóm (bảng 4.7), cân tươi sau đó sấy khô tyệt đối. Kết quả thu được trình bầy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong bảng 4.7.
85
Bảng 4.7: Năng suất của các giống cỏ Hòa thảo (tháng 6/2009)
Khối lƣợng TT Nhóm cây Tƣơi (g) % VCK (%)
1 Hoà thảo 890.12 90,0 14.45
2 Thuộc thảo 80.41 8,1 16.17
3 Xa thảo 7.57 0,76 18.22
4 Họ Đậu 4.69 0,47 19.72
Tổng cộng 982,79 100 17,14
Từ kết quả bảng 4.7 ta thấy tổng khối lượng thực vật trên 1m2 đạt
982,79 gram tươi. Trong đó Hoà thảo đạt 890.12 gram chiếm 90% tổng số;
cây Thuộc thảo đạt 80.41 gram chiếm 8,1% tổng số; Xa thảo và họ Đậu chiếm
tỷ lệ rất thấp. Vật chất khô tổng số là 17,14%; Hoà thảo đạt 14,45% - một tỷ
lệ thuộc loại thấp so với nhiều nơi vì đây là thảm cỏ dưới rừng keo đã khép
tán. Thảm cỏ đạt năng suất khá cao vì gia đình ông Sáu đã bỏ không chăn
nuôi được 5 tháng nên thảm cỏ đã đạt mức tối đa sinh khối. Với năng suất này
biết khai thác hợp lý và có thức ăn bổ sung kkhi cấn thì 1ha có thể nuôi được
1 bò thịt.
4.8. Thảm cỏ tự nhiên ở đồi xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hoà
Để nghiên cứu về thành phần loài và dạng sống của thảm cỏ tự nhiên
tại chân đồi dưới rừng keo đã khép tán mà nhiều gia đình ở Đông Lỗ thường
dùng để chăn thả gia súc, chúng tôi tiến hành điều tra ở 3 điểm nghiên vào
thời gian tháng 5/2009: Đỉnh đồi (điểm nghiên cứu số1), chân đồi (điểm
nghiên cứu số 2) và lưng đồi (điểm nghiên cứu số 3). Đồi cỏ rộng 19,0 ha.
Kết quả nghiên cứu về thành phần loài và dạng sống tại 3 điểm ở
các thảm cỏ tự nhiên được chúng tôi thống kê được 41 loài thuộc 13 họ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(bảng 4.8).
86
Những kí hiệu sử dụng khi thành lập danh lục
1. Dạng sống : Sử dụng ký hiệu kiểu dạng sống trong bảng từ số 1 đến số 18.
STT
Kiểu dạng sống
1
Cây gỗ
2
Cây bụi
3
Cây bụi thân bò
4
Cây bụi nhỏ
5
Cây bụi nhỏ thân bò
6
Cây nửa bụi
7
Cây thảo lâu năm có hệ rễ cái
8
Cây có chồi mọc từ rễ
9
Cây thảo sống lâu năm có hệ rễ cái, có thân rễ ngắn
10
Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm
11
Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm, có thân bò
12
Cây thảo mọc thành búi thưa, sống lâu năm
13
Cây thảo mọc thành búi dày, sống lâu năm
14
Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài
15
Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài và thân bò
16
Cây thảo một năm có rễ cái
17
Cây thảo một năm có hệ rễ cái, có thân bò
18
Cây thảo một năm có hệ rễ chùm
2. Giá trị chăn thả : T0 - Tốt ; TB - trung bình ; Ke – Kém ; H0 – không
có giá trị chăn thả ; Đ- độc hại với gia súc .
3. Nhóm sinh thái : Dùng kí hiệu : A- Ẩm sinh ; T- Trung sinh ; T-H :
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trung sinh- Hạn sinh ; H-T : Hạn sinh - Trung sinh ; H - Hạn sinh .
87
Bảng 4.8 : Thành phần loài tại các điểm nghiên cứu tại xã Đông Lỗ
Điểm NC số
TT
Tên khoa học
Tên địa phƣơng
DS
1
2
3
1
2
3
4
5
6
7
Nhóm sinh thái và giá trị chăn thả 8
LYCOPODIOPHYTA
(1) Lycopodiaceae
HỌ THÔNG ĐẤT
1
Lycopodiella cernua(L.)Pic.Ser. Thông đất
+
+
+
5 T-H,H0
2
L.clavatum L.
Thông đá
+
5 T, H0
ANGIOSPERMAE
DICOTYLEDONEAE
HỌ CÖC
(2) Asteraceae
1
Ageratum conyzoides L.
Cỏ cứt lợn
+
16 T, To
2
Aster ageratoides Turez
Cúc sao
+
+
+
6 T,H0
3
Artemisia japonica Thunb
Ngải cứu dại
+
+
16 T-H,H0
4
Chromolaena odorata(L) R.King
Cỏ lào
+
6
+
+
& H.Robins
T-H,H0
5
Elephantopus scaber L.
Cúc chỉ thiên
+
+
+
10 T-H,H0
6
Xanthium inaequilaterum DC
Ké đầu ngựa
+
+
16 T, H0
(3) Boraginaceae
HỌ VÕI VOI
1 Heliotropium indicum L
Vòi voi
+
+
16 T,H0
(4) Caesalpiniaceae
HỌ VANG
1
Bauhinia alba Ham
Móng bò
+
+
+
3 T-H,H0
(5) Commelinaceae
HỌ THÀI LẦI
1
Commelina communis L.
Thài lài
+
+
11 T, H0
(6) Convolvulaceae
HỌ KHOAI LANG
1
Ipomoea Chrysoides (Ker)Ham Bìm bìm
+
3 T, H0
(7) Euphorbiaceae
HỌ THẦU DẦU
1
Breynia fruticosa(L.)Hook.f.
Bồ cu vẽ
+
+
+
2 T-H,H0
2
Euphorbia thymyfolia)L.)Poit
Cỏ sữa lá nhỏ
+
+
7 T, H0
3
Phyllanthung uriculata L.
Chó đẻ
+
+
+
4 T, H0
(8) Fabaceae
HỌ ĐẬU
1 Dunbaria podocarpa kutz
Đậu dại
+
+
11 T, T0
2 Uraria lagopodiodes DC.
Đậu ba lá
+
+
16 T, T0
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2 Urene lobata L
Ké hoa đào
+
6 T-H,Ho
88
(12) Melastomaceae
HỌ MUA
1 Melastoma sanguineum Sims
Mua đồi
+
+
+
2 H, H0
2 Melastoma septemnervium Lour Mua đất
+
+
+
4 T-H,H0
(9) Meliaceae
HỌ XOAN
1 Melia azedarach L.
Xoan
+
1 T-H,H0
(10) Mimosaceae
HỌ TRINH NỮ
1
Acacia mangium Willd
Keo tai tượng
+
+
+
1 T-H,Ho
(11) Myrtaceae
HỌ SIM
+
+
+
1
Baeckea frutescens L.
Chổi sể
4 H, H0
+
+
+
2
Psidium guyava L.
Ổi
1 T-H,H0
+
+
+
3
Rhodomyrtus tomentosa (sit) Hassk Sim
2 H, H0
Monocotyledoneae
(12) Cyperaceae
HỌ CÓI
+
+
+
10 T, Ke
1
Cyeras esculentus L.
Củ gấu
+
+
+
10 T, Ke
2
Scleria tokinensis Klarke
Cói ba gân ráp
+
10 T-H,Ke
3
Fimbristylis annua
Cỏ lông lợn
(13) Poaceae
HỌ LÖA
+
+
1
Acroceras munroanum(Bel)Henry Cỏ lá tre
10 T-H,T0
+
2
Apluda varia var. mutica H
Cỏ hoa tre
15 T, T0
+
3
Arundinella bengalensis (spring) Cỏ xương cá
14 H-T,T0
+
4
Chrysopogon aciculatus Trin
Cỏ may
+
+
15 T-H,T0
+
5
Cynodon dactylon
Cỏ gà
18 T-H,T0
+
+
6 Digitaria abludens(Roem ex.Sth) Cỏ chân nhện
12 T-H,T0
+
+
+
7
Echinochloa colona (L) Link
Cỏ lồng vực
12 T, T0
+
+
+
8
Eleusine indica(L) Gaertn
Cỏ mần trầu
10 T, T0
+
+
+
9
Paspalum conjugatum Berg
Cỏ mật
15 T, T0
+
+
+
12 T-H,TB
10 P.scrobiculatum L.
Cỏ đắng
+
13 A,TB
11 Phragmites karka (Retz) Trin
Sậy
+
+
13 H, TB
12 Saccharum arundinaceum Retz
Lau
+
+
+
13 T,To
13 Coelorachis striata (Stend) A.Cam Cỏ Thừng
28 27 38
Tổng số loài
11 10 18
Tổng số loài mà gia súc ăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
89
* Điểm nghiên cứu số 1
Điểm nghiên cứu số 1 là đỉnh đồi, có độ cao so với mặt nước biển là
180m, thảm cỏ ở đây cao khoảng 2- 4cm, trong thảm cỏ có một số cây gỗ nhỏ
và cây bụi. Tại điểm nghiên cứu này chúng tôi đã thống kê được 28 loài khác
nhau thuộc 9 họ (bảng 4.8).
Trong số đó họ có số lượng loài cao nhất là họ Lúa (Poaceae) có 9 loài
chiếm 32,1% tổng số loài trong điểm nghiên cứu, thường gặp các loài: Cỏ lá tre
(Acroceras munroanum(Bel) Henry), Cỏ may (Chrysopogon aciculatus Trin),
Cỏ chân nhện (Digitaria abludens(Roem ex.Sth)), Cỏ lồng vực (Echinochloa
colona (L) Link), Cỏ mần trầu (Eleusine indica(L) Gaertn), Cỏ mật (Paspalum
conjugatum Berg), Cỏ đắng (P.scrobiculatum L.), Lau (Saccharum
arundinaceum Retz), Cỏ Thừng (Coelorachis striata (Stend) A.Cam).
Họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae) có 3 loài chiếm 10,7% tổng số loài trong
điểm nghiên cứu, thường gặp các loài Chó đẻ (Ph. uriculata L.), Bồ cu vẽ
(Breynia fruticosa(L.)Hook.f.).
Họ Cúc (Asteraceae) có 4 loài chiếm 14,3% tổng số loài trong điểm
nghiên cứu, thường gặp các loài Cúc sao (Aster ageratoides Turez).
Họ Sim (Myrtaceae) thường gặp các loài Chổi sể (Baeckea frutescens
L.), Ổi (Psidium guyava), Sim (Rhodomyrtus tomentosa (sit) Hassk), họ trên
có 3 loài chiếm 10,7% tổng số loài trong điểm nghiên cứu.
Họ Cói (Cyperaceae) có 2 loài, thường gặp các loài U du thân ngắn
(Cyperus brevicaulis), Cói ba gân ráp (Scleria tokinensis Klarke). Họ Mua
(Melastomaceae) có 2 loài thường gặp các loài là Mua đồi (Melastoma
sanguineum Sims), Mua đất (Melastoma septemnervium Lour).
Nhóm các họ có 1 loài, bao gồm: Họ Vang (Caesalpiniaceae), thường gặp
các loài là Móng bò (Bauhinia alba Ham), họ Họ Vòi Voi (Boraginaceae),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chiếm 3,5% tổng số loài trong điểm nghiên cứu.
90
Qua nghiên cứu ở điểm số 1, chúng tôi nhận thấy họ có số lượng
loài và cá thể nhiều nhất là họ Lúa (Poaceae), sau đó có là họ Cúc
(Asteraceae)…trong đó cỏ May (Chrysopogon aciculatus Trin), cỏ Mật
(Paspalum conjugatum Berg) là loài chiếm ưu thế. Trong 41 loài, chúng tôi
xác định tỉ lệ các loài thuộc các nhóm sinh thái : Ẩm sinh: 0 loài (0%), Trung
sinh: 12 loài(29,2%), Trung sinh-Hạn sinh: 12 loài (29,2%), Hạn sinh - Trung
sinh: 0 loài (0%), Hạn sinh: 4 loài (9,7%). Như vậy, trong điểm nghiên cứu số
1, đa số các loài là thuộc nhóm sinh thái là trung sinh, trung sinh - hạn sinh,
trong đồng cỏ tỉ lệ các loài hạn sinh cũng khá nhiều, điều này chứng tỏ đồng
cỏ đang thoái hoá ở giai đoạn 3 [9]. Ở điểm nghiên cứu này, có 11 loài mà gia
súc ăn (chiếm 26,8%) nhưng do kích thước cơ thể ngắn cho nên năng suất chất xanh trên 1m2 rất thấp.
* Điểm nghiên cứu số 2
Điểm nghiên cứu số 2 là chân đồi có độ cao so với mặt nước biển là
110m, thảm cỏ ở đây cũng có độ cao 2- 4cm, chúng tôi đã thu thập được 27
loài khác nhau thuộc 12 họ (bảng 4.8).
Họ Lúa (Poaceae) có 6 loài chiếm 22,2% tổng số loài trong điểm
nghiên cứu thường gặp các loài Cỏ may (Chrysopogon aciculatus Trin), Cỏ
lồng vực (Echinochloa colona (L) Link), Cỏ mần trầu (Eleusine indica(L)
Gaertn), Cỏ mật (Paspalum conjugatum Berg), Cỏ đắng (P.scrobiculatum L.).
Họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae) có 5 loài chiếm 18,5% tổng số loài trong điểm
nghiên cứu thường gặp các loài Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa (L.) Hook.f.), Cỏ
sữa lá nhỏ (Euphorbia thymyfolia (L.) Poit), Chó đẻ (Ph. uriculata L.). Họ
Cúc (Asteraceae) có 4 loài chiếm 13,33% tổng số loài trong điểm nghiên cứu,
thường gặp các loài như Cúc sao (Aster ageratoides Turez), Cỏ lào
(Chromolaena odorata (L)R.King&H.Ro, Cúc chỉ thiên (Elephantopus
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
scaber L.), Ngải cứu dại (Artemisia japonica Thunb).
91
Họ Sim (Myrtaceae) có 3 loài thường gặp các loài là Chổi sể (Baeckea
frutescens L.), Ổi (Psidium guyava), Sim (Rhodomyrtus tomentosa (sit) Hassk).
Mỗi họ trên có 3 loài chiếm 11,1% tổng số loài trong điểm nghiên cứu.
Họ Cói (Cyperaceae) có 2 loài thường gặp các loài là U du thân ngắn
(Cyperus brevicaulis), Củ gấu (C. esculentus L.), Cói ba gân ráp (Scleria
tokinensis Klarke). Họ Đậu (Fabaceae) có 2 loài thường gặp các loài Đậu dại
(Dunbaria podocarpa kutz), Đậu ba lá (U.lagopodiodes DC). Họ Mua
(Melastomaceae) thường gặp các loài Mua đồi (Melastoma sanguineum
Sims), Mua đất (Melastoma septemnervium Lour). Mỗi họ trên có 2 loài
chiếm 7,4% tổng số loài trong điểm nghiên cứu.
Còn lại các họ Thông đất (Lycopodiaceae), họ Họ Vòi Voi
(Boraginaceae), họVang (Caesalpiniceae), họ Thài lài (Commelinaceae. Mỗi
họ trên có 1 loài, chiếm 3,7% tổng số loài trong điểm nghiên cứu. Thường gặp
các loài Thông đất (Lycopodiella cernua(L.) Pic.Ser.), Vòi voi (Heliotropium
indicum L), Móng bò (Bauhinia alba Ham), Thài lài (Commelina communis L).
Số lượng họ và thành phần loài trong điểm số 2 gần giống ở điểm số
1. Trong đó, có số lượng loài nhiều nhất là họ Lúa (Poaceae), họ Thầu dầu
(Euphorbiaceae). Trong 27 loài, chúng tôi xác định tỉ lệ các loài thuộc các
nhóm sinh thái: Ẩm sinh : 0 loài (0%), Trung sinh : 13 loài(48,1%), Trung
sinh - Hạn sinh: 11 loài(40,1%), Hạn sinh - Trung sinh: 0 loài (0%), Hạn sinh:
3 loài (11,1%). Như vậy, trong điểm nghiên cứu số 2, đa số các loài là thuộc
nhóm sinh thái là trung sinh, trung sinh - hạn sinh, các loài hạn sinh chiếm tỉ
lệ khá nhiều, đồng cỏ đang ở giai đoạn thoái hoá thứ 3 [9]. Ở điểm nghiên cứu
này, có 10 loài mà gia súc ăn (chiếm 37,0%), các loài cây hoà thảo mà gia súc
ăn thì không phát triển được và có năng suất rất thấp, những loài cây mà gia
súc không ăn phát triển mạnh và đang dần chiếm ưu thế như Mua đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Melastoma septemnervium Lour), Sim (Rhodomyrtus tomentosa (sit)Hassk).
92
* Điểm nghiên cứu số 3
Điểm nghiên cứu số 3 thuộc lưng đồi , có độ cao so với mặt nước biển
là 150m, trước kia đây là rừng tự nhiên, do chặt phá rừng thời gian dài nên trở
thành đồi cỏ xen lẫn cây gỗ nhỏ và cây bụi. Tại điểm nghiên cứu này chúng
tôi thu được 38 loài khác nhau thuộc 12 họ (bảng 4.8).
Họ Lúa (Poaceae) có 13 loài chiếm 34,2% tổng số loài trong điểm
nghiên cứu, thường gặp các loài Cỏ lá tre (Acroceras munroanum (Bel)
Henry), Cỏ hoa tre (Apluda varia var mutica H), Cỏ xương cá (Arundinella
bengalensis (spring)), Cỏ may (Chrysopogon aciculatus Trin), Cỏ gà
(Cynodon dactylon), Cỏ chân nhện (Digitaria abludens(Roem ex.Sth), Cỏ
lồng vực (Echinochloa colona (L) Link), Cỏ mần trầu (Eleusine indica(L)
Gaertn), Cỏ mật (Paspalum conjugatum Berg), Cỏ đắng (P.scrobiculatum L.),
Lau (Saccharum arundinaceum Retz), Sậy (Phragmite karka (Retz) Trin).
Họ có 6 loài, bao gồm: Họ Cúc (Asteraceae), thường gặp các loài Cỏ
cứt lợn (Ageratum conyzoides L), Cúc sao (Aster ageratoides Turez), Cỏ lào
(Chromolaena odorata(L)R.King&H.Robins), Cúc chỉ thiên (Elephantopus
scaber L.), Rau má (Centella asiatica), Ké đầu ngựa (Xanthium
inaequilaterum DC).
Nhóm họ có 3 loài, bao gồm Họ Cói (Cyperaceae) thường gặp các loài
Củ gấu (C.esculentus L.), Cỏ lông lợn (Fimbristylis annua). Họ Sim
(Myrtaceae) thường gặp các loài Chổi sể (Baeckea frutescens L.), Ổi (Psidium
guyava), Sim (Rhodomyrtus tomentosa(sit)Hassk). Mỗi họ trên có 3 loài
chiếm 7,9% tổng số loài trong điểm nghiên cứu.
Nhóm họ có 2 loài, bao gồm: Họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae), thường
gặp các loài Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa(L.)Hook.f.),Chó đẻ (Ph. uriculata
L.). Họ Đậu (Fabaceae) thường gặp là Đậu dại (Dunbaria podocarpa kutz).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Họ Thông đất (Lycopodiaceae) thường gặp các loài Thông đất (Lycopodiella
93
cernua(L.)Pic.Ser.), Họ Mua (Melastomaceae) thường gặp các loài Mua đồi
(Melastoma sanguineum Sims), Mua đất (Melastoma septemnervium Lour).
Mỗi họ trên có 2 loài chiếm 5,2% tổng số loài trong điểm nghiên cứu .
Còn lại các Họ Vang (Caesalpiniceae) thường gặp các loài Móng bò
(Bauhinia alba Ham), Thài lài (Commelinaceae), Họ Khoai lang
(Convolvulaceae), Họ Ban (Hypericaceae), Họ Xoan (Meliaceae), Họ Trinh
nữ (Mimosaceae) đều chỉ có 1 loài, mỗi loài chiếm tỉ lệ 2,6% tổng số loài
trong điểm nghiên cứu. Thường gặp các loài Thài lài (Commelina communis
L.), Bìm bìm (Ipomoea Chrysoides (Ker)Ham), Xoan (Melia azedarach L.),
Keo tai tượng (Acacia mangium Willd).
Trong 3 điểm nghiên cứu về đồng cỏ thì điểm số 3 có số lượng họ
và loài lớn nhất . Họ Lúa (Poaceae) vẫn chiếm tỉ lệ lớn nhất . Trong 38 loài
,thì tỉ lệ các loài thuộc các nhóm sinh thái là: Ẩm sinh: 1 loài (2,6%), Trung
sinh: 15 loài (39,5%), Trung sinh-Hạn sinh: 17oài (44,7%), Hạn sinh - Trung
sinh: 1 loài (2,6%), Hạn sinh: 4 loài (10,5%). Như vậy, trong điểm nghiên cứu
số 3, đa số các loài là thuộc nhóm sinh thái trung sinh, trung sinh - hạn sinh,
các loài thuộc nhóm hạn sinh chiếm tỉ lệ cũng khá cao nên đồng cỏ đang ở
giai đoạn thoái hoá thứ 3[9]. Ở điểm nghiên cứu này, có 18 loài mà gia súc ăn
(chiếm 47,4%), những loài cây mà gia súc không ăn phát triển mạnh và đang
dần chiếm ưu thế. Qua điều tra nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do
chăn thả gia súc liên tục mà không có các biện pháp bảo vệ đồng cỏ và phát
triển đồng cỏ.
Qua các điểm nghiên cứu về thành phần loài thực vật trong đồng cỏ tự
nhiên, chúng tôi có một số nhận xét sau :
1. Qua nghiên cứu các điểm ta thấy số lượng loài cao nhất là điểm số 3
(38 loài), thấp hơn là điểm số 1 (28 loài) và sau đó là điểm số 2 (27 loài).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thành phần loài càng phức tạp, số lượng họ và loài tăng lên, nhưng số lượng
94
cá thể của các loài thuộc các họ thì lại giảm. Tại điểm nghiên cứu số 1 và 2 ta
thấy các loài họ hoà thảo chiếm ưa thế về số lượng và độ phủ do mức độ chăn
thả cao nên đồng cỏ ở đây giảm chiều cao và độ phủ giảm, đất bị đốt nóng, bị
nén chặt. Trên đồng cỏ xuất hiện chủ yếu là những cây ưa sáng, chịu sự dẫm
đạp của gia súc như Cỏ May (Chrysopogon aciculatus Trin), Cỏ Đắng
(P.scrobiculatum L.), Cỏ Mần trầu (Eleusine indica(L) Gaertn) và chúng có
năng suất thấp. Số lượng các loại cây bụi như Mua (Melastoma sanguineum
Sims), Sim (Rhodomyrtus tomentosa(sit) Hassk) tăng dần, có nơi chiếm ưu
thế tuyệt đối.
2. Trong 3 điểm nghiên cứu, phần lớn thực vật đều là các loài thuộc
nhóm sinh thái trung sinh, trung sinh - hạn sinh. Qua điều tra thực trạng chăn
thả đại gia súc của người dân trong xã và đánh giá tỉ lệ cây bụi ở ở 3 điểm
nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy điểm số 3 bị chăn thả nhiều nhất và mức
độ thoái hoá đồng cỏ là nặng nề nhất, sau đó là điểm số 1, thấp nhất là điểm
số 2. Như vậy mức độ thoái hoá tỉ lệ thuận với mức độ chăn thả gia súc.Tại
điểm nghiên cứu số 3, số họ và thành phần loài là cao nhất nhưng số lượng cá
thể thuộc các loài lại giảm dần và nhất là họ Hoà thảo.
4.9. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò
Bò là loai động vật nhai lại, có dạ dầy bốn túi, có khả năng tiêu hoá và
sử dụng nhiều loại thức ăn. Nhìn chung, thức ăn dùng nuôi bò đều rẻ tiền, dễ
kiếm, đa dạng hơn so với thức ăn nuôi lợn và gia cầm.
Để đánh giá quan hệ cơ cấu thức ăn với hiệu quả mô hình kinh doanh
của từng gia đình, chúng tôi đã tiến hành khảo sát ở một số gia đình thuộc hai
mô hình khác nhau.
4.9.1. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò sữa
Gia đình ông Lê Xuân Quý (Bắc Ninh): trong năm 2008 có: 7 bò vắt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sữa; 3 bò cạn; 2 bê.
95
Bò sữa nhà ông nuôi nhốt hoàn toàn. Chuồng bò làm ở nơi cao ráo,
thoáng mát, sạch sẽ. Chuồng được chia ô để nhốt riêng từng con, mỗi ô chiều
rộng 1,5m, nền chuồng cao ráo, thoát nước, máng ăn máng uống bố trí nơi
thích hợp cho bò ăn dễ dàng, không bị dính phân, nước tiểu vào thức ăn, nước
uống,sau chuồng có rãnh thoát nước.
Nuôi dưỡng chăm sóc: Bò sữa gia đình ông được cung cấp thức ăn đầy
đủ để bảo đảm sức khoẻ và khả năng sản xuất cho nên trong thành phần thức
ăn luôn đầy đủ và cân đối các chất dinh dưỡng thiết yếu.
Ông tận dụng chính nguồn phân bò thải ra để bón cho 5 sào cỏ ven đê
quanh năm xanh tốt nên không phải lo nguồn thức ăn xanh cho bò. Bò được
ông cho ăn hàng ngày rất khoa học theo đúng khẩu phần.
Quan hệ thức ăn và sữa từng ngày của hộ gia đình ông Quý
Khẩu phần ăn bình quân/ngày/con (kg) thể hiện ở bảng 4.9
Bảng 4.9: Khẩu phần ăn bình quân/ngày/con (kg) ngày 10.12.2008
Thức ăn (kg)
Bã bia
Khoáng
Cỏ
Đối tƣợng
Nghô (bột)
Đậu xanh
Nhóm bò sữa (7con)
6,0
6,0
Đậu tƣơng (đã sấy) 0,5
1,0
0,1
60
Nhóm bò cạn sữa (3 con)
3,0
0
0
0
0,1
30
Bê (2 con)
1,5
0
0
0
0
20
Tổng (đồng/ngày/12con)
243000 42000 45500
31500 30000
137500
(Giá thức ăn trên thị trường: cám: 4000 đồng/kg; nghô (bột) :4500 đồng/kg;
bã bia: 1000 đồng/kg; đậu tương: 13000 đồng/kg; đậu xanh : 4500đồng/kg;
khoáng: 15000gđồng/kg; cỏ trồng: 250 đồng/kg)
Về mặt giá trị năng lượng với bò sữa mỗi ngày nhận được từ thức ăn
khoảng 19 đơn vị thức ăn (nghô 7 đơn vị + bã bia 1,2 đơn vị + đậu đỗ 2 đơn
vị + cỏ 10 đơn vị , với cỏ trung bình lấy 6 kg = 1 đơn vị cho cả hai loại cả cỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Voi và cỏ Thừng, khi bò ăn do rơi vãi có thể chỉ nhận được 9 đơn vị từ cỏ).
96
Như vậy: Tổng chi phí của cả đàn bò (12 con) trong một ngày : 529.500đ.
- Nhóm cho sữa (7 con): Năng suất sữa bình quân: 17,10 kg/con/ngày
(ngày 10.12.2008); với giá sữa trên thị trường là 6500đ/kg
chưa trừ chi phí tổng thu của cả đàn bò trong ngày: 778.050 đ.
Trừ toàn bộ chi phí thì 1 ngày với 12 con bò như trên cũng thu được
248.550đ 1 tháng thu được 7.456.500đ 1 năm thu nhập được
89.478.000đ (thu thêm gần 40 triệu nữa vì cỏ gia đình tự trồng được 160 tấn /
năm còn thiếu khoảng 40 tấn cỏ đã cho ăn thêm rơm, thân lá nghô già và cỏ tự
nhiên).Thu nhập nhà ông Quý cao gấp nhiều lần so với thu nhập bình quân
của người dân địa phương.
4.9.2. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò thịt
Gia đình ông Sáu (Hiệp hoà, Bắc giang): Nuôi bò thịt từ khoảng tháng
11.2006 nuôi theo phương thức bán chăn thả, lúc đầu là 24 con toàn là bò cái
sinh sản với giá khoảng 4 triệu đồng/con, tổng vốn lúc đầu khoảng 96 triệu
đồng; Đến cuối 2008 đẻ 8 con, bán bò con với giá 4 triệu đồng (đẻ con nào
bán con đó); Đến tháng 1.2009 ông bán hết cả đàn bò thịt tổng tiền là 176
triệu đồng (trong đó có cả 8 con bê đã bán).
Như vậy với thời gian nuôi là 26 tháng, chưa trừ chi phí ông lãi khoảng
80 triệu - mỗi tháng ông thu khoảng 3.000.000đ, một năm thu 36 triệu đồng.
Qua tìm hiểu chúng tôi được biết khẩu phần ăn hàng ngày của đàn bò
thịt nhà ông như sau:
Bảng 4.10. Khẩu phần ăn bình quân/ngày/con (kg)
Loại thức ăn Cỏ tự nhiên Cỏ trồng Cám gạo
Khối lượng (kg) 7- 8 5 – 6 2
Gia đình ông Sáu chỉ tận dụng nguồn thức ăn rất đơn giản, chủ yếu tận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dụng cỏ tự nhiên có sẵn, trồng khoảng 0,25 ha cỏ Voi. Với năng suất khoảng 200
97
tấn/ha/năm thì cỏ trồng của gia đình ông chỉ đủ cho 1 con/ngày là 6kg cỏ tươi, cỏ
tư nhiên năng suất thấp nên cũng chỉ đủ cung cấp 7-8 kg/con/ngày. Mua cám
mỗi ngày cần 48 kg (mỗi kg là 4000đ).Trong 26 tháng ông Sáu phải dùng
37.440kg cám, tổng chi là 149.760.000đ, nó lớn hơn rất nhiều số tiền bán bò. Ở
mô hình này ông đã phải bù 69.760.000đ chưa tính công chăn nuôi của gia đình.
Nguyên nhân thất bại là do không có sự chuẩn bị đầy đủ về khâu thức ăn, không
đầu tư thâm canh đúng mức nên thu nhập của cả đàn bò còn bị hạn chế nhiều.
So sánh 2 mô hình trên ta thấy: Mô hình của gia đình ông Quý (Cảnh
Hưng) nuôi bò sữa về khâu thức ăn đã có sự chuẩn bị khá tốt, chủ động trồng
cỏ đạt yêu cầu 80% của cả năm, còn lại 20% là thức ăn bổ sung từ phụ phẩm
nông nghiệp, cỏ tự nhiên. Ông Quý có đầu tư ban đầu tốt, có hiểu biết về chăn
nuôi bò sữa, thực thi theo đúng mô hình kinh doanh nên hiệu quả thu được từ
mô hình khá cao, hiệu quả thu được từ 1ha đất nông nghiệp cũng thuộc loại
cao (0,8 ha thu được 50 triệu/ năm).
Mô hình chăn nuôi bà thịt của gia đình ông Sáu (Hiệp Hoà) vẫn theo kiểu
tư duy cũ. Kiểu làm ăn này vẫn gặp ở nhiều nơi đó là chăn nuôi theo lối chăn thả
tự nhiên, tận dụng thảm cỏ tự nhiên mà không tính toán, không quy hoạch, có
trồng một ít cỏ gọi là có sự chuẩn bị, có cho ăn thêm cám nhưng không có sự
tính toán vì thế hiệu quả chăn nuôi rất kém, phải bù lỗ tới 70 triệu đồng, tổn thất
này là do thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm trong chăn nuôi bò.
Từ kết quả của mô hình ông Quý chúng ta thấy nếu có kiến thức, có
kinh nghiệm và có sự tính toán đầy đủ thì nên dành một phần đất trồng nghô,
trồng lúa hat trồng mầu hiệu quả thấp sang trồng cỏ phục vụ cho chăn nuôi.
Nếu trồng cỏ thâm canh chăn nuôi thì với trâu bò sinh sản cần 3 sào/con/năm,
nếu mỗi năm đẻ được 1 con thì có thể thu được từ 3,0-3,5 triệu đồng tuỳ theo
bê đẻ ra là bê đực hay bê cái. Nếu nuôi trâu bò thịt thì với tăng trọng 80-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
90kg/năm cũng thu được khoảng 2,5-3,0 triệu đồng. Như vậy có thể thu được
98
1.000.000 đồng/sào/năm. Nếu nuôi bò sữa cần 4 sào cỏ/con, với chu kỳ 1 năm
trung bình 3,5 tấn sữa, giá sữa bình quân 7.000 đ/kg thì có doanh thu gần 6
triệu đồng/năm/sào rõ ràng lãi suất rất cao.
Trồng cỏ chăn nuôi gần như không phải đầu tư gì ngoài công lao động.
Phân trâu bò dùng bón ngay cho đồng cỏ. Trồng cỏ không đòi hỏi kỹ thuật và
chăm bón cao. Các giống cỏ như cỏ Voi, Ghinê, Păngola, cỏ Ruzi... thích nghi
cao cả trên những vùng đất nghèo. Cỏ giống thường 2 năm thay một lần dùng
luôn hom hoặc hạt cỏ đang trồng thay thế. Sau mỗi lứa thu hoạch mới phải chăm
bón một lần. Cỏ phát triển mạnh vào mùa mưa, đối với các loại cỏ thân bò có thể
phơi khô, các loại cây thân đứng có thể ủ chua làm thức ăn dự trữ quanh năm.
Tóm lại, muốn phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ thì điều kiện tiên
quyết là phải phát triển mạnh đồng cỏ. Cần có sự chuyển đổi mạnh mẽ trong
nhận thức của người chăn nuôi và chỉ đạo của các cấp ngành nông nghiệp.
Các vùng trung du, đồi gò cần bỏ hẳn trồng sắn, trồng rừng kém hiệu quả
sang trồng cỏ; các vùng đồng bằng cần chuyển đổi, dồn điền, đổi thửa…để
trồng cỏ; có chính sách khuyến khích thích đáng đẩy mạnh đồng cỏ để phát
triển chăn nuôi gia súc.
4.10. Kết luận và đề nghị
Kết luận
- Ngoài một số giống cỏ năng suất cao như cỏ Voi mà người chăn nuôi
bò đã trồng tương đối phổ biến, thì việc phát hiện và nhân rộng thêm 2 giống
cỏ bản địa (cỏ Thừng, cỏ Sậy) góp phần làm phong phú nguồn thức ăn thô
xanh, bảo đảm đầy đủ dinh dưỡng trong khẩu phần ăn hàng ngày, tạo điều
kiện cho bò sinh trưởng, phát triển tốt, cho năng suất, chất lượng cao. Hơn
nữa, việc phát triển các giống cỏ bản địa còn giải quyết được vấn đề khan
hiếm nguồn thức ăn xanh cho gia súc trong mùa khô, tạo thuận lợi cho nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dân mở rộng quy mô chăn nuôi.
99
- Cỏ Thừng là loài cỏ có nhiều ưu điểm: Năng suất cao, chất lượng tốt,
thân mềm, lượng vật chất khô trong cỏ cao, gia súc thích ăn, dễ trồng, thích
nghi với khí hậu và thổ nhưỡng của nhiều địa phương, nên trồng phổ biến
phục vụ cho chăn nuôi.
- Xã Cảnh Hưng là xã có nhiều mô hình điểm về chăn nuôi bò sữa, tập
đoàn cây thức ăn khá phong phú, nhiều giống có năng suất cao nhưng chưa thực sự sử dụng triệt để nhằm tăng năng suất cỏ trên m2 đất trồng. Muốn vậy
cần xây dựng mô hình thức ăn thích hợp cho vùng đất, khí hậu và loài gia súc.
- Mô hình chăn nuôi hộ gia đình ông Quý đảm bảo phát triển bền vững,
không gây suy thoái môi trường, có thể nâng cao thu nhập bình quân cho các
hộ gia đình lên gấp nhiều lần nếu biết đầu tư đúng hướng.
Có thể nói, chăn nuôi bò sữa là nghành kinh doanh! Do đó các hộ nông
dân cần phải sáng suốt lựa chọn giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của
mình. Muốn có thu nhập cao, các hộ chăn nuôi phải hạ được giá thành sản
xuất; cụ thể hạ chi phí thức ăn bằng cách cung cấp cỏ chất lượng cao và giảm
lượng thức ăn tinh trong khẩu phần.
Đề nghị
1. Mỗi vùng sinh thái cần nghiên cứu xây dựng một tổ hợp loài thích
hợp, có năng xuất cao và chất lượng tốt. Tổ hợp cỏ trồng này phải thoả mãn
trong 60kg đạt 10 đơn vị thức ăn.
2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền làm thay đổi tập quán chăn nuôi của
người dân, vận động người dân chăn nuôi đúng khoa học kỹ thuật.
3. Thường xuyên tập huấn chuyển giao kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi
đại gia súc cho bà con. Mạnh dạn cải tạo đàn gia súc theo hướng sử dụng
những giống cho năng suất cao, chất lượng tốt, hạn chế dần dùng các giống
địa phương năng suất, chất lượng thấp.
4. Xây dựng thị trường tiêu thụ sản phẩm từ chăn nuôi gia súc để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người nông dân yên tâm sản xuất.
100
PHỤ LỤC
Ruộng cỏ Voi của gia đình ông Quý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cỏ Thừng của gia đình ông Quý
101
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đàn bò sữa của gia đình ông Quý
1 0 2
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bản đồ hành chính tỉnh Bắc Ninh
103
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1]. Lê Văn An và Tôn Nữ Tiên Sa, Phát triển kỹ thuật cây thức ăn xanh với
nông hộ, do ACIAR và CIAT xuất bản, ACIAR chuyên khảo số 93.
[2]. Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị (1976), Gây trồng và sử dụng một số giống cỏ
năng suất cao, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
[3]. Báo Lao động (2005), số 59, “Tìm cỏ tốt cho nghề nuôi bò”
[4]. Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2001, 2003, 2005), Danh lục các loài thực
vật Việt Nam, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội.
[5]. Lê Hòa Bình và các cộng sự (1992), Khảo sát năng suất cây thức ăn mới
nhập nội ở một số vùng và ứng dụng trong hộ chăn nuôi, Công trình
nghiên cứu KHKT chăn nuôi 1991 – 1992, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
[6]. Phạm Thị Trân Châu, Nguyễn Thị Hiền, Phùng Gia Tường (1997), Thực
hành hoá sinh học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[7]. Hoàng Chung (2004), Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam, NXB Nông
Nghiệp, Hà Nội.
[8]. Hoàng Chung (2006), Tập bài giảng đồng cỏ học, Tài liệu nội bộ của
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, tr6.
[9]. Hoàng Chung (1980), Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam, Công trình
nghiên cứu khoa học - Trường đại học sư phạm Việt Bắc.
[10]. Lê Ngọc Công, Hoàng Chung (1997), Nghiên cứu cấu trúc một số mô
hình phục hồi rừng trên savan cây bụi ở Bắc Thái, Tạp chí khoa học và
công nghệ đại học Thái Nguyên, số 2.
[11]. V. Davies (1960), Quá trình phát triển của kỹ thuật nghiên cứu đồng
cỏ. Đồng cỏ nhiệt đới, tập 1, NXB Khoa học, Hà Nội.
[12]. Thái Đình Dũng, Đặng Đình Liệu (1979), Đồng cỏ nhiệt đới, NXB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hà Nội.
104
[13] Dương Quốc Dũng, Nguyễn Ngọc Hà, Bùi Văn Chính, Trần Trọng
Thêm, Lê Văn Ngọc, Hoàng Thị Lảng, Lê Văn Chung. Nghiên cứu khả
năng nhân giỗng hữu tính cỏ ruzi và phát trển chúng vào sản xuất ở một
số tỉnh miền bắc và Miền Trung Việt Nam, Báo cáo khoa học chăn nuôi -
thú y, 1999.
[14]. Nguyễn Ngọc Hà, Lê Hòa Bình, Bùi Xuân An, Ngô Văn Mận (1985),
Kết quả nghiên cứu tuyển chọn tập đoàn cỏ nhập nội, NXB Khoa học và
kỹ thuật nông nghiệp tháng 8, tr.347
[15]. Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995). Thành phần loài và dạng sống
thực vật trong loại hình sinh vật vùng đồi Quảng Ninh, Thông báo khoa
học trường đại học sư phạm Việt Bắc, số 3.
[16]. Phạm Hoàng Hộ (1993), Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam, Montreal.
[17]. Điền Văn Hưng (1974), Cây thức ăn gia súc miền Bắc Việt Nam, NXB
Nông thôn. In lần thứ 2.
[18]. Lê Khả Kế và các tác giả (1969, 1975), Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam,
NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 6 tập.
[19]. Phan Thị Phần, Lê Hòa Bình và các cộng sự (1999), Tính năng sản xuất
và một số biện pháp kỹ thuật tăng năng suất chất xanh và hạt của cỏ
Ghinê TD 58, Báo cáo khoa học phần thức ăn và dinh dưỡng vật nuôi,
trình bày tại hội đồng khoa học Bộ NN & PTNT, 28-30 tháng 6/1999.
[20]. Nguyễn Văn Quang (2002), Đánh giá khả năng sản suất và nghiên cứu
biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất một số giống cỏ hòa thảo
nhập nội là thức ăn cho gia súc tại Bá Vân – Thái Nguyên. Luận văn thạc
sỹ trường Đại học Nông Lâm-Thái Nguyên.
[21]. Dr.Sochadji (1994), Phát triển chăn nuôi ở Inđonêxia, Trình bày tại Hà
Nội lần thứ 3 của chương trình giống cỏ ở Đông Nam Á.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
[22]. Tiêu chuẩn Việt Nam 4326 – 1986.
105
[23]. Tiêu chuẩn Việt Nam 4329 – 1993.
[24] Hoàng Chung, Giàng Thị Hương. Tập đoàn cây cỏ trồng làm thức ăn gia
súc tỉnh Sơn La, năng suất chất lượng và khả năng khai thác. Tạp trí
Nông nghiệp và PTNT số 19/2006.
[25]. Thông tin khoa học kỹ thuật chăn nuôi (1998), số 4 năm thứ 29.
[26]. Nguyễn Thiện (2004), Trồng cỏ nuôi bò sữa, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
[27]. Trịnh Văn Thịnh, Hoàng Phương, Nguyễn An Tường, Borget M.,
Boudet G., Cooper J.P., …(1974), Đồng cỏ và cây thức ăn gia súc nhiệt
đới, tập 2, NXB Nông nghiệp, Hà nội.
[28]. Viện chăn nuôi Quốc gia (2001), Thành phần và giá trị dinh dưỡng thức
ăn gia súc – gia cầm Việt Nam, NXB Nông nghiệp.
[29] Trương Tấn Khanh và CS. Nghiên cứu khảo nghiệm tập đoàn giống cây thức ăn gia súc nhiệt đới tại M' Drac Đaklak và phát triển các giống thích
nghi trong sản xuất nông hộ. Báo cáo khoa học, Chăn nuôi thú y 1999, tr144
[30] Lục Văn Ngôn, so sánh năng suất và khả năng sống qua đông của một
số giống cỏ nhập nội trên đất đồi Thái Nguyên (1970), tr177.
[31]. Nguyễn Đình Ngỗi, Võ Văn Chi (1964). Sơ bộ điều tra thảm thực vật
Savan trên một vùng đồi núi phía Nam Hữu Lũng (Lạng Sơn), Tập san
sinh vật địa số 1.
[32] Nông trường Ba Vì , kết quả nghiên cứu tuyển chọn tập đoàn cây hoà
thảo nhập nội Nông trường Ba Vì. Thông tin khoa học kỹ thuật chăn nuôi,
Viện Chăn nuôi, 2/1983, tr12-25.
[33] Nguyễn Thị Thu Hồng, Nguyễn Ngọc Tấn, Đinh văn Cải, thí nghiệm
trồng cỏ tại vùng khô hạn tỉnh Ninh Thuận. Tạp trí khoa học chăn nuôi
12/2006, tr23-26.
[34] Lê Hoà Bình, Hồ Văn Núng (1987-1989), Viện Chăn nuôi 50 năm xây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dựng và phát triển , NXB Nông Nghiệp, tr241
106
[35] Viện chăn nuôi Quốc Gia. Thành phần và giá trị dinh dưỡng thức ăn gia
súc gia cầm Việt Nam, NXB Nông Nghiệp, 1995, tr48-70
[36]. Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến (1976), Phân loại thực vật, NXB nông
nghiệp, Hà Nội.
[37]. Nguyễn Đăng Khôi, Dương Hữu Thời (1981), Nghiên cứu về cây thức
ăn gia súc Việt Nam, NXB khoa học & KT, tập 2, tr.6 - 12.
[38]. Quang Ngọ, Sinh Tặng (1976), Tập đoàn cây thức ăn gia súc Miền núi
và Trung du Miền Bắc Việt Nam, NXB nông nghiệp, Hà Nội, tr.42-61.
[39]. Schmithusen .J (1969). Đồng cỏ nhiệt đới, Nxb khoa học, Hà Nội, tập 1.
tr 176-190.
[40]. Nguyễn Văn Viết (2006), Tài nguyên nhiệt - ẩm và sự hình thành các
vùng khí hậu Việt Nam. Tuyển tập báo cáo hội thảo khoa học lần thứ 10.
Viện khoa học khí tượng thuỷ văn và môi trường.
Tiếng nước ngoài
[41]. Anon (2000), Yields and chemical composition of pasture species in
lowland areas, Animal Nutrition Division, Department of livestock
Development, Ministry of Agriculture and Cooperatives, pp 27.
[42]. Animal Nutrition Division (2001), Intensive cultivation of Purple guinea
for dairy cows in Petchaburi Province, Animal report in 2001, Depatment
of livestock Development, Ministry of Agriculture and Cooperatives.
[43]. Davies, J.G (1970), Pasture development in the sub-tropics, with
special reference to Taiwan, Throp-Grassl, pp.4,7-16
[44]. R.J. Meilroy (1972), An introduction to tropical grassland Husbandry.
Oxford University Press. Second edition, 1972 Pp 3 – 7.
[45]. Middleton, C.H & Micosker, T.H. Makueni (1975), A new Guinea grass
for north Queens-Land, Queensl, Agri.J, pp. 101, 351-355.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
[46]. Vieente-Chandler, J.Silva.S & Figarella (1959), The effect of nitrogen
107
fertilization and frequency of cutting on the Yield and composition of
three tropical grasses, Agron.J, pp. 202 – 206.
[47] T.Kanno và M.C.M. Macedo. On-farm trial for pasture establishment on
wetland in the Brazilian savanas. JIRCAS Research highlights 2001.
Tropical Grasslands (19999) Volume 33, p75-81.
[48] John W. Miles, do valle, C.B; Rao, I.M; Euclides, V.P.B (2004).Genetic
improvement of Brizantha. http://www.gciat.org.com.
[49] Riveros, F. & Wilson, G.L (1970), Respnses of setaria sphacelata
Desmodium intortum mix - ture to height and frequency of cutting, Proc, 11th, Int, Grassl, Congr, Surfers Paradise, Australia, p666-668.
[50] M.D. Hare, P.Booncharern, P. Tatsapong, K. Wongpichet, C. Kaekunya and
K. Thummasaeng. Perform of para grass (Brachiaria multica) and Ubon
paspalum (Paspalum atratum) on seasonlly wet soils in Thailand. Faculty of
Agriculture, Ubon Ratchathani University, Ubon Ratchathani, Thailand
[51]. Barnard, C. (1969), Herbage plant species, Aust, Herbage plant
Registration Authority, Can – berra, CSIRO Aust, Divn of plant Tnd, pp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
23 – 35.