ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ----------------------------- NGUYỄN THỊ DUYÊN NGHIÊN CỨU NĂNG SUẤT, CHẤT LƢỢNG CỦA MỘT SỐ

GIỐNG CỎ TRỒNG Ở XÃ CẢNH HƢNG, HUYỆN TIÊN DU, TỈNH

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

BẮC NINH VÀ MÔ HÌNH KHAI THÁC THỨC ĂN CHO GIA SÖC LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC Thái Nguyên - 2009

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ----------------------------- NGUYỄN THỊ DUYÊN NGHIÊN CỨU NĂNG SUẤT, CHẤT LƢỢNG CỦA MỘT SỐ

GIỐNG CỎ TRỒNG Ở XÃ CẢNH HƢNG, HUYỆN TIÊN DU, TỈNH

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

BẮC NINH VÀ MÔ HÌNH KHAI THÁC THỨC ĂN CHO GIA SÖC Chuyên ngành: SINH THÁI HỌC Mã số: 60.42.60 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG CHUNG Thái Nguyên - 2009

LỜI CẢM ƠN

Sau hai năm học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn. Tôi xin

bầy tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc tới:

PGS-TS Hoàng Chung đã tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện giúp

đỡ tôi trong suốt quá trình triển khai nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận

văn. Ban lãnh đạo trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, ban chủ nhiệm

khoa Sinh-KTNN và các thầy cô giáo trong khoa, cán bộ nhân viên phòng thí

nghiệm trung tâm trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, đã tạo điều kiện

giúp đỡ tôi trong học tập và hoàn thành luận văn.

Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân xã Cảnh Hưng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc

Ninh đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên cứu thực địa.

Tôi xin chân trọng cảm ơn sự góp ý chân thành, nhiệt tình của các nhà

khoa học.

Tôi xin cảm ơn sự khích lệ, động viên, tạo điều kiện của gia đình và

bạn bè trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.

Thái nguyên, tháng 9 năm 2009

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Thị Duyên

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các số liệu,

kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng ai công bố trong

bất kỳ một công trình khác nào.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tác giả Nguyễn Thị Duyên

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 5

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................... 6

1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt

Nam ........................................................................................................... 6

1.1.1. Những nghiên cứu về năng suất của đồng cỏ tự nhiên ........................... 6

1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới .......................... 8

1.1.3. Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia

súc trên thế giới ......................................................................................... 9

1.1.4. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam ......................... 12

1.2. Tình hình nghiên cứu đồng cỏ trên thế giới và ở Việt Nam .................... 19

1.3. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Bắc Việt Nam ........................... 23

1.4. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới ...................... 24

1.5. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả .................................................... 25

1.6. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn xanh ............................................. 29

1.7. Một số đặc điểm sinh thái và sinh vật học của hoà thảo .......................... 33

1.7.1. Đặc tính sinh thái ................................................................................. 33

1.7.2. Đặc tính sinh vật học .......................................................................... 34

1.7.3. Đặc tính sinh lý ................................................................................... 35

1.7.4. Đặc tính sinh trưởng ........................................................................... 37

1.7.5. Sức sống cỏ hoà thảo ........................................................................... 37

1.8. Giá trị kinh tế của các loại cây dùng trong chăn nuôi bò ......................... 38

1.8.1. Cỏ Hoà thảo......................................................................................... 38

1.8.2. Cây bộ Đậu .......................................................................................... 43

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1.8.3. Cây trồng khác .................................................................................... 45

1.9. Các loại thức ăn cho bò sữa .................................................................... 46

Chƣơng 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG NGHIÊN CỨU ................... 49

2.1. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh ....................... 49

2.1.1. Về vị trí địa lý và phạm vi ranh giới tỉnh ............................................. 49

2.1.2. Các yếu tố khí hậu, địa chất, thuỷ văn ................................................. 50

2.1.3. Tài nguyên thiên nhiên - môi trường .................................................... 53

2.2. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Cảnh Hưng ..................... 54

2.2.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................... 54

2.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội ....................................................................... 55

Chƣơng 3: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 56

3.1. Đối tượng ............................................................................................... 56

3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 56

3.3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 56

3.3.1. Các phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên .................................. 56

3.3.1.1. Nghiên cứu tại Cảnh Hưng (mô hình bò sữa) .................................... 56

3.3.1.2. Nghiên cứu tại Hiệp Hoà (mô hình bò thịt) ....................................... 57

3.3.2. Các phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm ......................... 57

3.3.2.5. Phương pháp phân tích đối với mẫu đất : .......................................... 65

3.2.3. Điều tra qua địa phương, lãnh đạo cơ sở .............................................. 67

Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 68

4.1. Tình hình khai thác và sử dụng đất của người dân xã Cảnh Hưng .......... 68

4.2. Tập đoàn cây thức ăn gia súc của xã Cảnh Hưng .................................... 70

4.3. Đặc điểm và năng suất các loại cỏ chính dùng làm thức ăn cho bò

được trồng tại xã Cảnh Hưng ................................................................... 73

4.4. Tình hình chăn nuôi bò ở Bắc Ninh và xã Cảnh Hưng ............................ 76

4.5. Năng suất của các loài cỏ chính .............................................................. 78

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

4.6. Chất lượng của của một số loài cỏ .......................................................... 82

4.7. Năng suất cỏ tự nhiên trên đồi xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hoà ................ 84

4.8. Thảm cỏ tự nhiên ở đồi xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hoà ............................ 85

4.9. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò .............................................................. 94

4.9.1. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò sữa ..................................................... 94

4.9.2. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò thịt ..................................................... 96

4.10. Kết luận và đề nghị ............................................................................... 98

PHỤ LỤC................................................................................................... 100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 103

DANH MỤC CÁC CHỮ VÀ KÍ HIỆU VIẾT TẮT

A : Ẩm sinh

DS : Dạng sống

Đ : Độc hại với gia súc

ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long

ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng

ĐV : Động vật

ĐVTA : Đơn vị thức ăn

: Không có giá trị chăn thả Ho

H-T : Hạn – Trung sinh

H : Hạn sinh

MNPB : Miền núi phía Bắc

NXB : Nhà xuất bản

T : Trung sinh

TB : Trung bình

T-H : Trung sinh - Hạn sinh

: Tốt To

TS : Tổng số

Tr : Trang

UBND : Uỷ ban nhân dân

VCK : Vật chất khô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

TT : Thứ tự

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loài cỏ trên vùng đất

thấp vào 45 ngày cắt .......................................................................... 10

Bảng 1.2: Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày ......................... 11

Bảng 1.3: Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/ năm) ...................... 15

Bảng 1.4: Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của một số loài cỏ chính .... 32

Bảng 1.5 : Giá trị dinh dưỡng của cây Ngô trong các giai đoạn khác nhau .... 46

Bảng 4.1: Thực trạng sử dụng đất xã Cảnh Hưng tính đến ngày 1/1/2008 .... 69

Bảng 4.2: Tập đoàn cây thức ăn gia súc xã Cảnh Hưng ................................. 71

Bảng 4.3: Số lứa cắt và năng suất của từng lứa .............................................. 79

Bảng 4.4: Lượng phân bón hoá học cho các loài cỏ ....................................... 82

Bảng 4.5: Hàm lượng các chất dinh dưỡng ở vị trí trồng cỏ .......................... 83

Bảng 4.6: Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất ở khu vực nghiên cứu ........ 84

Bảng 4.7: Năng suất của các giống cỏ Hòa thảo (tháng 6/2009) .................... 85

Bảng 4.8 : Thành phần loài tại các điểm nghiên cứu tại xã Đông Lỗ ............. 87

Bảng 4.9: Khẩu phần ăn bình quân/ngày/con (kg) ngày 10.12.2008 .............. 95

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bảng 4.10. Khẩu phần ăn bình quân/ngày/con (kg) ....................................... 96

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam là một nước nông nghiệp, ngoài trồng trọt thì lĩnh vực chăn

nuôi giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. So với mức tăng bình

quân của cả ngành nông nghiệp, thì ngành chăn nuôi luôn có tốc độ tăng

trưởng cao hơn. Đàn bò thịt giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 9,18%/năm,

ĐBSCL 25%; ĐBSH 19,2%, Tây Nguyên 11,5%...Đàn bò sữa của Việt Nam

có tốc độ tăng bình quân mỗi năm 26,1%. Những năm gần đây xu hướng phát

triển nông nghiệp nói chung là theo con đường thâm canh công nghiệp đang

diễn ra mạnh mẽ. Ở nước ta ngành chăn nuôi đã được chú ý đầu tư nên phát

triển tương đối mạnh. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn thì tại thời điểm 1/8/2007, quy mô đàn trâu trên cả nước tăng 2,58%, đạt

2,996 triệu con: Trong đó đàn trâu nuôi lấy thịt tăng 7,3%, trâu cày kéo tiếp

tục có xu hướng giảm nhẹ so với các năm trước do làm đất bằng máy tăng.

Đàn bò đạt 6,724 triệu con, tăng 3,29%; trong đó đàn bò thịt tăng 5,4%, đàn

bò sữa giảm 14,5 nghìn con (-12,9%) do trương trình nuôi bò sữa nhiều nơi

không có hiệu quả. Các địa phương có tổng đàn bò tăng cao so với cùng kì

năm trước tập trung ở vùng trung du và miền núi có đồng cỏ để chăn thả. Dự

kiến đến năm 2010, Việt Nam đạt mục tiêu tổng đàn trâu 3,5 triệu con, đàn bò

7,6 triệu con. Mặt khác, nhờ áp dụng những thành tựu khoa học, kĩ thuật,

nghành di truyền học, các nhà chọn giống đã nghiên cứu lai tạo, chọn lọc rất

nhiều giống vầt nuôi có năng xuất thịt, sữa, trứng cao phần nào đã đáp ứng

nhu cầu về dinh dưỡng của số dân đang không ngừng tăng lên như hiện nay.

Với diện tích 32% và dân số chiếm 17%, cùng với khí hậu nhiệt đới gió

mùa, miền núi trung du phía Bắc là vùng sinh thái rất có điều kiện phát triển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi đại gia súc. Giai đoạn 2001-2007, đàn trâu

2

khu vực miền núi phía Bắc tăng trưởng 1,16%/năm (cao hơn tốc độ trung bình

của cả nước 1,03%/năm), đàn bò tăng 4,48%/năm, đàn bò sữa tăng

14,42%/năm; đặc biệt đàn ngựa ở khu vực này chiếm tới 88,60% , đàn trâu

chiếm 58,84% và đàn dê chiếm 34,81% tổng đàn trong cả nước. Các thương

hiệu của sản phẩm chăn nuôi ở MNPB ít nhiều đã được khẳng định trong thị

trường nội địa như sữa Mộc Châu, dê cỏ Hà Giang, ngựa bạch Lạng Sơn…

Tuy vậy chăn nuôi vùng trung du và MNPB vẫn chưa thật sự phát huy đúng

với tiềm năng vì đồng bào chủ yếu vẫn chăn thả các giống địa phương nên

năng suất thấp, do quản lý lỏng lẻo và tập quán chăn thả rông nên cận huyết

nhiều, thoái hoá giống cao. Ngoài ra công tác xây dựng chuồng trại, thức ăn

chăn nuôi và khai thác thi trường kém nên thường bị tư thương ép giá nên thu

nhập của người chăn nuôi còn bị hạn chế nhiều.

Chăn nuôi là một mắt xích quan trọng trong sản xuất nông nghiệp bền

vững, tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo cho người

nông dân. Lĩnh vực chăn nuôi đã cung cấp cho chúng ta nguồn thực phẩm giá

trị có chất lượng cao (giầu nguồn protein động vật, giầu sắt,vitaminA,

vitaminB…); cung cấp nguyên liệu cho các ngành công ngiệp, cung cấp sức

kéo, phân bón cho trồng trọt. Trâu, bò, dê, cừu, thỏ có thể hoàn toàn chỉ cần sử

dụng cỏ. Chăn nuôi trâu, bò đầu tư thấp, ít gây ô nhiễm môi trường. Thịt trâu,

bò có thể coi là nguồn thịt sạch vì ít sử dụng thức ăn công nghiệp và các chất

kích thích sinh trưởng. Để chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính trong nông

nghiệp ngoài chăn nuôi lợn, gia cầm, thì chăn nuôi bò đóng vai trò khá quan

trọng. Tuy nhiên cho đến nay, ngành chăn nuôi bò vẫn còn khá nhiều yếu kém,

bất cập. Chăn nuôi bò thịt vẫn dựa vào chăn thả tự nhiên, chăn nuôi chủ yếu tồn

tại trong nông hộ nhỏ lẻ, phân tán, thức ăn chủ yếu là tận dụng cỏ tự nhiên và

phụ phẩm trong nông nghiệp, việc sử dụng thức ăn công nghiệp còn rất ít, thiếu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bò giống tốt, thiếu đồng cỏ và thức ăn thô xanh, quy trình kỹ thuật chưa được

3

áp dụng rộng rãi, nên năng suất và chất lượng thịt còn thấp. Giá thu mua sữa

thấp đã dẫn đến tình trạng năm 2005 có khoảng 1-1,2 vạn bò sữa bị đưa vào

giết thịt. Chưa có chính sách quốc gia về phát triển trâu, nên trâu vẫn hầu hết

thả rông kiểu quảng canh, giống như dê, cừu. Năng suất, sản lượng thịt, sữa và

hiệu quả chăn nuôi chưa cao; chăn nuôi bò sữa còn nhỏ bé và bấp bênh. Việc

chăn nuôi gia súc ăn cỏ chưa tương xứng với tiềm năng.

Nguyên nhân cơ bản là do chăn nuôi gia súc chưa được đầu tư đúng mức,

đặc biệt thiếu trầm trọng thức ăn thô xanh. Thức ăn thô xanh là nguồn dinh

dưỡng chủ yếu cho gia súc ăn cỏ, nhưng hiện nay, nguồn thức ăn này chủ yếu là

tận dụng cỏ tự nhiên và phụ phẩm trong nông nghiệp, trong khi đồng cỏ thâm

canh còn rất nhỏ bé. Cần có 5 yếu tố cần thực hiện đồng bộ để phát triển chăn

nuôi. Đó là trang trại, tiến bộ kỹ thuật, thức ăn, thú y và thị trường.

Đồng cỏ ở ta hiện nay còn rất hạn chế, chủ yếu là trồng xen, tận dụng

chứ chưa thành phổ biến đại trà. Các giống cỏ năng suất cao được nhập vào

nước ta từ những năm 70 của thế kỷ XX với rất nhiều giống tốt đã thích nghi

cao với điều kiện nước ta nhưng chưa phát huy được, vì đến nay diện tích

dành cho trồng cỏ còn quá nhỏ bé. Rất nhiều chương trình khuyến nông phát

triển đồng cỏ nhưng chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ, vẫn chưa thay đổi được tập

quán người chăn nuôi, thường cho rằng việc gì phải đi trồng cỏ! Nhưng thực

tế cho thấy rõ, trồng cỏ chăn nuôi cho lợi ích hơn nhiều lần trồng lúa và nhiều

loại cây trồng khác.

Xu thế của xã hội ngày nay đòi hỏi phải phát triển ngành chăn nuôi để

có thể cung cấp khối lượng thực phẩm lớn với chất lượng cao nhưng giá thành

chi phí về thức ăn thấp.Với chăn nuôi trâu bò thì thức ăn hàng ngày của chúng

là cỏ. Đồng cỏ Việt Nam phân bố rải rác khắp nơi nhưng tập trung nhiều nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vẫn là trên các đồi núi, cao nguyên của trung du và miền núi (chiếm tới 10

4

triệu ha). Khu vực có đồng cỏ tự nhiên với diện tích lớn không nhiều lắm đại

diện là đồng cỏ Mộc Châu (Sơn La), Ngân Sơn (Bắc Cạn) và một số đồng cỏ

thuộc vùng Tây Nguyên. Các đồng cỏ khác thường có diện tích nhỏ từ vài

chục đến vài trăm ha. Năng suất của các giống cỏ phụ thuộc nhiều vào giống,

điều kiện tự nhiên và sự chăm sóc của con người, đặc biệt là bón phân và tưới

nước. Sự chăn thả gia súc bừa bãi, khai thác mà không chăm bón chắc chắn

một ngày không xa các đồng cỏ sẽ bị thoái hoá, diện tích bị thu hẹp dẫn đến

thiếu thức ăn cho gia súc. Dự kiến trong giai đoạn 2006-2015, ngành chăn

nuôi sẽ phát triển theo hướng tập trung, công nghiệp quy mô vừa và lớn, có

năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, bảo đảm vệ sinh thú y,

nuôi trồng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Ngành phấn đấu đến 2010 đạt 30%

tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp, và 2015 là 35%. Đến năm 2010, đàn bò

sữa đạt 200.000 con, năng suất sữa 4.000-4.200 kg/con/chu kỳ, cho 350.000

tấn sữa, đáp ứng 30% nhu cầu trong nước. Sẽ có 7,1 triệu bò thịt, tỷ lệ lai

36%, đạt 210.000 tấn thịt. Đàn trâu sẽ là 3,1 triệu con với 72.800 tấn thịt, 2,5

triệu dê, cừu.

Với mục đích không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng các giống

cỏ, trong những năm qua chúng ta đã tiến hành nhập, lai tạo một số giống cở

mới có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao, đồng thời luôn khai thác các

giống cỏ tự nhiên, nguồn thức ăn trong trồng trọt nhằm góp phần giải quyết

vấn đề thức ăn cho gia súc ngày càng phát triển không chỉ về số lượng mà cả

chất lượng. Và để phát triển chăn nuôi nhiều địa phương đã biết khai thác các

giống cỏ có năng suất cao, thích nghi với khí hậu nước ta và đồng thời luôn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tận dụng nhiều loài cây trồng làm thức ăn cho vật nuôi.

5

Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi xây dựng đề tài “Nghiên cứu

năng suất, chất lượng của một số giống cỏ trồng ở xã Cảnh Hưng, Tiên

Du, Bắc Ninh và mô hình khai thác thức ăn cho gia súc”.

2. Mục đích nghiên cứu

- Trên cơ sở điều tra về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của xã Cảnh

Hưng để tính toán thực trạng kinh tế của từng vùng.

- Nghiên cứu năng suất, chất lượng một số giống cỏ trồng địa phương

dưới ảnh hưởng của chế độ bón phân, thu hái.

- Đánh giá về mô hình đang khai thác thức ăn của địa phương và hiệu

quả kinh tế của nó.

- Đưa ra những kết luận về năng suất và chất lượng của các giống

cỏ và đề xuất mô hình chăn nuôi góp phần phát triển kinh tế gia đình và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

địa phương.

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam

1.1.1. Những nghiên cứu về năng suất của đồng cỏ tự nhiên

Vấn đề nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các thảm thực vật đã

bắt đầu từ thế kỷ XIX, đầu tiên chủ yếu là những công trình nghiên cứu có

tính chất thống kê trong kinh tế nông nghiệp. Sang đầu thế kỷ XX, những

công trình nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các quần xã cỏ tự nhiên

và cỏ cho chăn nuôi đã được nghiên cứu nhiều hơn, với những thí nghiệm trên

các kiểu đất khác nhau và hình thức khác nhau, điển hình như:

Hendin (1947) làm thí nghiệm và xác định: Cách ba tuần cắt một lần sẽ

được một lượng prôtit thô, tính trên 1 ha xấp xỉ bằng khi để cỏ già cắt một lần

và cắt thêm những cỏ mọc lại. Nhưng hiệu suất tiêu hoá của cỏ cắt định kỳ lại

cao hơn (30,3% so với 17,2%). Như thể, cắt nhiều lần cỏ năng suất prôtit dễ

tiêu cao hơn. Louw (1938) đã nghiên cứu chi tiết tác dụng đối với cỏ mọc tự

nhiên của việc cắt theo những khoảng cách khác nhau, hàng tháng hoặc hai

tháng một lần hoặc ba tháng một lần….Chính những lần cắt hàng tháng cho ít

chất khô nhất, lượng chứa lân, kali, các clorua, các protit cũng thấp hơn. Cuối

cùng, những kết quả thí nghiệm về hiệu suất tiêu hoá cho thấy, chế độ tốt nhất

đối với những loại cỏ này là cắt hai tháng một lần trong thời gian sinh trưởng.

Huges đã thấy : cắt cỏ sát mặt đất, đều dặn làm nhiều lần, cho năng suất cỏ

tươi cao hơn nhưng lại làm giảm rõ rệt của bộ rễ, vì vậy những dự trữ dưới

đất bị cạn kiệt nhanh hơn, làm cho cỏ xấu mọc nhanh hơn. Tác giả cho rằng

cắt ít lần hơn (tương đương với việc cho gia súc gặm cỏ điều độ) sẽ cho một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sản lượng cỏ lớn hơn và có nhiều các chất dễ tiêu hơn [39].

7

Sau đó nhiều công trình nghiên cứu phần trên mặt đất được tiến hành

cùng với phần dưới đất trong sự phụ thuộc từ những điều kiện tạo thành nó

của các kiểu thực bì khác nhau: Salưt (1950), Balôchina (1950), Gorskova

(1954), Andreev, Lapverenko và Leonchiev (1955); Badilevich (1958),

Xưrokomskaia và Ponhiatopkaia (1960), Igơnachenkô (1965), Xemen-Nova-

Chiansianskaia (1966), Alekxenko (1967), Hoàng Chung (1974), Alekxeev

(1975), Uchekhin (1977) … Nghiên cứu riêng phần trên mặt đất có các tác

giả: Kalininna (1954), Xemennôva-Chian-Sanskia (1966)… Nghiên cứu riêng

phần dưới mặt đất có các tác giả: Baranops - Kaia (1954), Krưm (1960),

Xemennop (1966), Kharitonốp (1967), Gawood (1968), Hoàng Chung (1980).

Ivannop (1941), Odum (1968) và Rodin (1968); Mantranop và Siminop

(1967).... có những công trình nghiên cứu quá trình tích luỹ vật chất hữu cơ,

cũng như sự chuyển đổi sản phẩm là năng lượng trong các thực vật quần hay

hệ sinh thái.

Nhật Bản có các công trình nghiên cứu về năng suất sinh học của các

thảm cỏ của các tác giả như: Ogawa và cộng sự (1961); Iwaki và cộng sự

(1964, 1966); Iwaki (1979); Ở Thái Lan, Ấn Độ đã có một số nghiên cứu về

năng suất của các quần xã cỏ trong rừng thường xanh vùng ôn đới.

Ở Việt Nam, đến 1955 hầu như không có công trình nào nghiên cứu về

năng suất đồng cỏ. Từ 1960 đến nay nhiều công trình nghiên cứu về năng suất

đã được tiến hành trong các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ trồng (chăn thả hay

đồng cỏ cắt). Dương Hữu Thời (1981); Nguyễn Hữu Hiến (1985), … chỉ

nghiên cứu một số cây có giá trị kinh tế cao trên đồng cỏ tự nhiên và chủ yếu

tính sản lượng cỏ trong một số vùng nhằm phục vụ cho kế hoạch phát triển

chăn nuôi đại gia súc của một số vùng đó. Hoàng Chung (2004) đã tiến hành

nghiên cứu năng suất các quần xã cỏ của vùng Việt Bắc và vùng Tây Bắc trên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hai đai (Nhiệt đới và á nhiệt đới). Trong công trình nghiên cứu của ông đã đề

8

cập đến những chỉ tiêu về khí hậu, thổ nhưỡng, thành phần loài, dạng sống

phần trên mặt đất, phần dưới mặt đất và đi đến kết luận về sự biến đổi năng

suất trên đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam: “Trong các điều kiện thảm

thực vật (savan – đồng cỏ) của Bắc Việt Nam, năng suất sinh vật học giảm

dần dần theo trình tự sau: Đồng cỏ á thảo nguyên – Đồng cỏ - Savan cỏ” [7].

1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới

Ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển, vấn đề thức ăn rất

được quan tâm và đầu tư nghiên cứu như: Úc, Mỹ, Brazin,Anh … Chăn nuôi

là một bộ phận quan trọng trong hệ thống sản xuất của vùng đồi núi ở Đông

Nam Á, có rất nhiều tác giả đã tiến hành nghiên cứu về cây thức ăn cho gia

súc như: Tác giả T. Kanno và M. C. M. Macedo [56] đã tiến hành thí nghiệm

gieo hạt của các giống cỏ Brachiaria decumbens, B .brizantha, B.

dictyoneura, B. humidicola, Andropogon gayanus, Setaria anceps và

Paspalum atratum đầu mùa mưa tại các cánh đồng ở khu vực đầm lầy. Các

tác giả thấy không có loài nào có thể sống sót trong mùa mưa ở khu vực đất

lầy. Còn khi gieo hạt và giữa mùa mưa thì chỉ còn một lượng nhỏ cây giống

con còn tồn tại vào cuối mùa mưa, tuy nhiên cũng không thể sống sót cho đến

hết mùa mưa. Những kết quả chỉ rõ rằng giai đoạn cây con phù hợp nhất ở

khu vực đầm lầy là bắt đầu của mùa khô, khi đất trở nên cứng có thể sử dụng

được máy kéo. Theo John W. Miles 2004 [59] Chi Brachiaria là giống lớn

được sử dụng làm thức ăn cho vật nuôi vùng nhiệt đới châu Mĩ.

Ở Inđonêxia, trong tình hình thức ăn của trâu, bò chiếm 56% là cỏ tự

nhiên, 21% là rơm, 16% là cây lá khác và 7% là phụ phẩm thì trong 4 giải

pháp để giải quyết thức ăn là thâm canh, trồng giống cỏ tốt (cỏ Voi và cây

Đậu) [21]. Ở Thái Lan, với 70% dân liên quan đến sản xuất nông nghiệp, sản

phẩm trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa chưa đủ cung cấp theo nhu cầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tiêu dùng. Theo FAO, Chính phủ Thái Lan có chủ trương tăng thu nhập của

9

người nông dân bằng giải pháp: giảm trồng lúa, sắn, đẩy mạnh phát triển chăn

nuôi đặc biệt là gia súc nhai lại. Nông dân nuôi bò trong dự án được cấp hạt

giống cỏ để trồng.

Ở Trung Quốc, cây thức ăn gia súc được chú ý phát triển ở khu vực

phía Nam. Trong quá trình nghiên cứu đã xác định được các giống cỏ Stylo,

Brachiaria, Pennisetum, … sử dụng có hiệu quả cho gia súc. Hằng năm còn

sản xuất 20,5 tấn hạt cỏ cung cấp cho trong và ngoài nước [25].

Ở Philippiin, với 90% gia súc nhai lại nuôi tại vườn nhà hoặc ở các

trang trại nhỏ được trồng các giống Stylo 184, Panicum maxinum, Paspalum

atratum, … đều phát triển tốt cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc. Ngoài ra,

các giống cỏ trên còn được trồng theo đường đồng mức ở đất dốc, cải tạo đất

trống đồi núi trọc, trồng dưới tán cây ăn quả. Hằng năm sản xuất được trên 1

tấn hạt cỏ (E.F. Lating, F. Gagunada, 1995).

Một số nước khác như Malaysia, Lào, … cũng đã chú trọng đầu tư phát

triển cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số giống

cỏ Hoà thảo và cỏ họ Đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao trong

sản xuất. Hằng năm sản xuất được 2-3 tấn hạt cỏ các loại.

Có thể nói, phong trào trồng cây thức ăn xanh để chăn nuôi gia súc

đang được nhiều nước quan tâm. Nó thực sự là động lực thúc đẩy ngành chăn

nuôi đại gia súc ngày một phát triển.

1.1.3. Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia

súc trên thế giới

Trên thế giới hiện nay ngoài việc tuyển chọn, lai tạo, di nhập các giống

cỏ tốt từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết vấn đề

năng suất, chất lượng cỏ.Theo Quilichao, Colombia CIAT, (1978) [58], giống

cỏ Brachiaria decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 40.000kg/ha/năm

với thí nghiệm không có bón đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhất trong điều kiện bón lân và đạm thấp.

10

Tại Samford, Queensland năng suất hàng năm của giống Paspalum

dilatatum là 15 000 kg VCK (Davies, 1970) [50] . Tại Fiji năng suất trung bình

là 5.313 kg VCK/ha với mức prôtein thô là 9,9% trong thời gian trên 3 năm.

Tại Redland Bay, Queensland, Riveros và Wilson, 1970 [49] thông báo

năng suất cỏ Setaria sphacelata đạt từ 23.500 – 28.000 kg/ha qua mùa sinh

trưởng 6 tháng trong điều kiện cỏ được tưới nước và cung cấp 225 kg đạm

ure/ha/năm trên nền đất baza mầu mỡ .

Tại Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các giống cỏ Digitaria

decumbens, Paspalum atratum, Brachiaria mutica và Paspalum plicatulum

khoảng từ 15-20, 18-25, 9-15 và 6-10 tấn/ha (bảng 1.1).

Bảng 1.1: Sản lƣợng VCK và chất lƣợng những loài cỏ

trên vùng đất thấp vào 45 ngày cắt

Tên khoa học Tên Việt Nam Năng suất (tấn/ha)

Prôtêin (%)

Brachiaria mutica Cỏ lông Para 9 - 15 6 – 10

Digitaria Pangola 15 – 20 7 – 11 decumbens

Paspalum atratum Cỏ đắng 18 – 25 6 – 7

Paspalum 6 – 10 5 - 6 plicatulum

Nguồn: Division of Animal Nutrition, Anon (2000) [41]

Ngoài ra, hai giống cỏ là cỏ Paspalum atratum và Paspalum plicatulum

là những loài cho sản lượng hạt giống lớn, có thể tới trên 600kg/ha. Do vậy,

hai giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái Lan.Theo M.D. Hare và cộng

sự [60] cho biết các cỏ Brachiaria multica và Paspalum atratum khi không

có cây bộ đậu và dưới điều kiện cằn cỗi, nằm thấp, đất khô ở vùng tây bắc

Thailand phát triển tốt ở năm đầu, sản xuất trung bình là 20tạ/ha VCK .

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Không có sự sai khác có ý nghĩa về sản lượng giữa hai loài và không khác

11

nhau về sản lượng giữa khoảng cách thu cắt 45 ngày và 65 ngày ở mùa mưa

đầu tiên. Còn ở mùa mưa thứ hai Paspalum atratum sản xuất 30 tấn/ha VCK

lớn hơn 10tạ/ha so với B. multica

Tại Trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi (Thái

Lan) cỏ Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ trồng là 50 x

50cm và được bón phân hỗn hợp (15-15-15) trước khi trồng ở mức 300 kg/ha

tương đương 18 tấn phân bón / 1ha. Lượng cỏ thu hoạch khoảng 8,9 tấn/ha ở

lứa đầu (70 ngày sau trồng) và khoảng 2,6 đến 7,1 tấn/ha cắt sau 30 ngày

[42]. Sản lượng này được thể hiện ở bảng 1.2.

Bảng 1.2: Sản lƣợng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày

Thời gian cắt

Năng suất VCK (tấn/ha)

11/8/2000 8,9

11/9/2000 7,1

11/10/2000 6,9

11/11/2000 6,8

11/12/2000 4,6

11/01/2001 2,6

11/02/2001 4,1

11/03/2001 4,3

11/04/2001 5,8

11/05/2001 3,7

Nguồn: Annual Report on Animal Nutrition Division (2001) [42].

Theo Quilichao (Colombia CIAT, 1978) [41], giống Brachiaria

decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 42.000 kg/ha/năm với thí

nghiệm không bón đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

điều kiện bón lân và đạm thích hợp. Thí nghiệm cắt hàng năm cho năng suất

12

chất khô đạt 36.700 kg/ha, kết quả này cao hơn so với cỏ Pangola (Digitaria

decumbens), Para (Brachiaria mutica) và Ghinê (Panicum maximum)

(Barnard, 1969) [51].

Tại Purertorico, Vieente – Chandler Silva và Figarella (1959) [46]

thông báo năng suất giống Panicum maximum Cv Makueni đạt 26.846 kg

VCK/ha với mức bón 440 kg đạm/ha và cứ 40 ngày cắt 1 lần khi trồng cỏ.

Middleton và Micosker, (1975) [45] cho biết vào năm 1973 và 1974 tại miền

Nam Johnstone, vùng Queensland, vẫn giống Panicum maximum Cv Makueni

đã sản xuất được 60.000 kg VCK/ha với điều kiện cung cấp 300 kg đạm/ha.

Tại Samford, Queensland năng suất hàng năm của giống Paspalum rinatatum

là 15.000 kg VCK/ha (Davies, 1970) [43].

Đối với giống cỏ Setaria sphacelata các kết quả nghiên cứu của

Riveros và Wilson (1970) [49] tại Redlanbay, Queensland, thông báo năng

suất đạt từ 23.500- 28.000 kg/ha qua mùa sinh trưởng 6 tháng trong điều kiện

cỏ được tưới nước và cung cấp 225 kg đạm/ha/năm trên nền đất đỏ Bazan

mầu mỡ.

1.1.4. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam

Đồng cỏ của ta hiện nay còn rất hạn chế, chủ yếu là trồng xen, tận

dụng... chưa thành phổ biến đại trà. Ở nước ta cũng đã có rất nhiều cố gắng

mở rộng diện tích gieo trồng, vừa đảm bảo lương thực cho người vừa đảm

bảo thức ăn cho gia súc. Từ năm 1960, chúng ta đã có chủ trương phát triển

đồng cỏ cho trâu bò ở những vùng thiếu cỏ. Nếu như năm 1960 ở miền Bắc

chỉ có 96 ha trồng cỏ thì qua năm 1961 và 1962 diện tích này đã tăng lên 323

và 687 ha. Sang năm 1963, theo số liệu ở 6 tỉnh đồng bằng, diện tích trồng cỏ

và ngô đay làm thức ăn cho trâu bò đã đạt tới 3585 mẫu Bắc bộ [12]. Năm

1976 Bộ Nông nghiệp đã phát hành bản dự thảo “Quy phạm, xây dựng, sử

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dụng, dự trữ và quản lý đồng cỏ ”, từ đó đến nay diện tích đồng cỏ trồng có

13

tới 5000 – 6000 ha, nhiều cơ sở như Mộc Châu, Sao Đỏ, Đồng Giao, Phú

Mãn, … đã xây dựng được hàng nghìn ha đồng cỏ chăn thả luân phiên (Báo

cáo của tổng cục chăn nuôi, 1976). Nhiều khu vực chăn nuôi tập thể đã tiến

hành cải tạo bãi cỏ thiên nhiên, đồng cỏ cho trâu bò và lợn, nhiều hợp tác xã

đã sử dụng đất ven bờ sông nhỏ, ven đê trồng cỏ cung cấp cho gia súc.

Nông trường Mộc Châu với sự giúp đỡ tận tình và toàn diện của Chính

phủ và chuyên gia Cu Ba, đã xây dựng thành công hệ thống đồng cỏ kết hợp

chặt chẽ với kết cấu chuồng trại thể hiện rõ một phương thức chăn nuôi đồng

bộ trên đồng cỏ thâm canh.

Nông trường Đồng Giao từ năm 1969 việc xây dựng đồng cỏ chuyển

sang hướng mới, thâm canh đồng cỏ bằng trồng các giống mới, chăm sóc và

sử dụng thích hợp. Nếu năm 1969 ở đây chỉ có 3 ha cỏ trồng thì tới năm 1975

đã có tới 1179 ha (Báo cáo của nông trường Đồng Giao, 1976). Bên cạch việc

xây dựng và cải tạo đồng cỏ, vấn đề dự trữ, phơi khô và ủ xanh được thực

hiện có kế hoạch, có chất lượng như ở Sao Đỏ, Mộc Châu. Song song với

những cố gắng trên việc nghiên cứu các giống cỏ nhập nội và cỏ địa phương

có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú ý, nhiều giống cỏ tốt đã

được đưa vào sử dụng ở các cơ sở nghiên cứu và trung tâm chăn nuôi trong cả

nước như Mộc Châu, Ba Vì, Đồng Giao, Tân Sơn Nhất, Hưng Lộc, Thủ Đức,

Khánh Dương, Nha Bố, ….

Những năm gần đây nước ta đã nhập nhiều đợt các giống cỏ họ Đậu và

cỏ hoà thảo nhiệt đới (chủ yếu từ Oxtrâylia và Cuba) và đã tiến hành trồng thí

nghiệm ở một số địa phương. Một số giống đã được đưa vào sản xuất như cỏ

Pangola (Digitaria decumbes) cỏ đậu Stylo (Stylosanthes) ... Nhiều nông

trường và hợp tác xã cũng đã trồng cỏ Voi, cỏ Xuđăng, cỏ Pangola ... Kết quả

thu hoạch các loại cỏ đó cho biết, nếu mỗi năm cắt được 3-4 lứa thì có thể đạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

năng suất 50-60 tấn/ha, trồng qua 3-4 năm cỏ vẫn phát triển tốt [2].

14

Nguyễn Ngọc Hà và CTV (1985) đã tiến hành nghiên cứu, tuyển chọn

tập đoàn cỏ nhập nội và đưa ra nhận xét: Nhóm cỏ thân cụm Panicum

maximum Liconi và K280 cho năng suất trung bình 17-18 tấn VCK/ha/năm

với 7-8 lứa cắt [14].

Trong thời gian 10 năm trở lại đây, thông qua hoạt động hợp tác quốc

tế và từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta đã nhập trên 100 giống cây thức ăn

hoà thảo và họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới (CSIRO, CIAT, Philippin,

Inđônêsia, Thái Lan), nhằm phát triển khả năng sản xuất thức ăn xanh cho

chăn nuôi. Một số giống cỏ nhập nội đã được đánh giá, kết quả tốt và ứng

dụng vào sản xuất ở một số vùng. Tuy nhiên, do không có sự quản lý, chỉ đạo

thống nhất cho nên một số giống sau khi đánh giá đã bị thất lạc, mất đi hoặc

chưa có điều kiện thử nghiệm ở các vùng khác để có cơ sở chắc chắn mở rộng

ra sản xuất.

Kết quả những công trình nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi cũng

chưa nhiều. Trong những năm gần đây, một số nhà khoa học mới tập trung

vào nghiên cứu một số giống cây thức ăn hòa thảo, họ Đậu nhập nội ở một số

vùng như: Lục Văn Ngôn, 1970 [30], đã nghiên cứu so sánh năng suất và khả

năng sống qua đông của một số giống cỏ trồng nhập nội trên đất đồi Thái

Nguyên trong đó có giống cỏ Tây Nghệ An (Panicum maximum), Mộc Châu

(paspalum urvillei), cỏ xu đăng (Sorglum xudannens), Goatemala (Trypsacum

laxum), cỏ voi, Pangola, cỏ lông qua thí nghiệm cho thấy các cỏ voi, Tây

Nghệ An có tổng số đơn vị sản xuất ra lớn và có khả năng phát triển trong

mùa đông. Tác giả cũng cho thấy năng suất tỉ lệ thuận lượng phân bón nitơ.

Nông trường Ba Vì, 1983 [32] có báo cáo kết quả nghiên cứu tuyển

chọn tập đoàn cây hòa thảo nhập nội tại Nông trường Ba Vì. Trong 28 giống

cỏ được nghiên cứu thì các tác giả cho thấy: trong những giống thuộc thân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đứng thì cỏ Kingrass và voi selection 1 là tốt hơn cả, năng suất 150-180 tấn

15

/ha/năm. Nhóm thân bụi có cỏ Ghinê với hai chủng Uganda và Australia là tốt

hơn, năng suất 70-100 tấn/ha/năm. Nhóm thân bò thì cỏ Pangola Pa 32 là tốt

hơn năng suất 60-80 tấn/ha/năm.

Lê Hòa Bình và cộng sự (1992), khảo sát năng suất cây thức ăn mới

nhập nội ở một số vùng và ứng dụng trong hộ chăn nuôi đã cho kết quả như

trình bày ở bảng 1.3 [5].

Bảng 1.3: Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/ năm)

Long Mỹ

Sơn Thành

Ba Vì

Thụy Phƣơng

TT

Tên giống

Xanh VCK Xanh VCK Xanh VCK Xanh VCK

1 Panicum maximum Hamil

56.91 9.73

92.9

17.6

86.3

16.5

90.5

17.3

2 Panicum maximum Liconi

40.57 8.11

-

-

99.96 18.9

97.5

17.5

3 Panicum maximum Trichoglumen 40.89 8.21

62.4

12.6

44

10.1

68.2

15.7

4 Panicum maximum Makueni

59.96 11.92 77.1

15.1

60.8

12.4

108

19.4

5 Pennisetum King grass

119 19.02

-

-

170.1 22.3

207

23.6

6 Pennisetum purpureum

99.73 16.95 176

22.9 169.5 20.4

198

21.8

7

Setaria splendida

28.13 5.56

-

-

75.1

14.1

80.4

12.6

8 Brachiaria mutica

28.42 7.61

68.9

12.7

42.6

10.2

86.6

15.9

9 Brachiaria decumbens

44.16 8.77

72.6

13.7

56.7

11.2

73.8

11.8

Nguồn: Lê Hòa Bình, Nguyễn Ngọc Hà và CTV, 1992.

Trương Tấn Khanh và CTV, năm 1999 [31] đã nghiên cứu tập đoàn cây

thức ăn gia súc tại Đắc Lắc. Bùi Thế Hùng trồng thử nghiệm một cây thức ăn

gia súc trong các trại vùng trung du miền núi phía bắc. Vũ Thị Kim Thoa

1999 [29] nghiên cứu khả năng sinh trưởng, năng suất của một số giống cỏ sả

trên vùng đất xám Bình Dương. Dương Quốc Dũng và CTV, 1999 [13]

nghiên cứu nhân giống hữu tính cỏ Ruzi và phát triển chúng vào sản xuất một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

số tỉnh phía Bắc và miền Trung. Lê Hòa Bình, Nguyễn Phúc Tiến, Hồ Văn

16

Núng, Đặng Đình Hanh, 1997,[234] đã nghiên cứu giống cỏ Para, các tác giả

cho biết cỏ Para có năng suất 89-98tấn/ha với khối lượng xanh thu trong mùa

đông 35-45 tấn/ha tương đương 39-47% khi trồng trên đất có độ ẩm cao và có

ngập nước. Nguyễn Tuấn Hảo, 1999 đã trồng thử nghiệm một số loài cây

thức ăn gia súc nhập nội và cải tạo đất, trong đó tác giả đưa vào nghiên cứu

24 loại cây họ đậu và 18 loài hòa thảo nhằm mục đích tìm ra một số cây vừa

làm thức ăn gia súc, vừa có tác dụng chống xói mòn và cải tạo đất, phù hợp

với khí hậu vùng trung du Bắc Bộ. Trong các loài thử nghiệm tác giả đã kết

luận ưu điểm của các giống cỏ Brachiria brizantha CIAT 16835 và cỏ

Brachiria ruziensis ex. Thái lan là hai loài cỏ mọc khỏe nhất , cho sinh khối

cao (năng suất khoảng 30-40 tấn/ha) và có khả năng chịu hạn. Ngoài ra, tác

giả đề cập đến 2 giống cỏ triển vọng là Paspalum atratum BRA 9610 và

Paspalum guenoarum BRA 3824.

Phan Thị Phần và CTV (1998) [20] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở

khu vực miền Nam và miền Bắc cho kết quả:

+ Khu vực miền Nam, địa điểm nghiên cứu tại vùng đất xám Bình

Dương với 20 tấn phân chuồng, 80 kg P2O5, 80 kg K2O và 500 kg vôi/ha/năm.

Lượng phân đạm bón từ 60 – 90 kg N/ha / năm, năng suất chất xanh cỏ

Panicum maximum TD 58 đạt 64,59 – 83,33 tấn /ha/ năm. Tỷ lệ lá cao 51,48 –

60,44%, năng suất hạt 287 – 323 kg/ha/năm. Khoảng cách lứa cắt thích hợp là

40 ngày/ lứa.

+ Khu vực miền Bắc trên 2 loại đất của vùng đồng bằng và vùng đất

đồi trong điều kiện trung tính, đất tốt, đất chua nghèo lân và kali cỏ đều có tốc

độ sinh trưởng khá tốt (1,96 – 2,01 cm/ngày). Năng suất chất xanh đạt 90 –

100 tấn/ ha/ năm. Cỏ Ghinê có khả năng cho thu hạt, năng suất đạt 450 kg/ha,

tỷ lệ sử dụng của gia súc đối với cỏ cao: Trâu 94%, bò sữa 77% và ngựa 85%.

Tỷ lệ tiêu hóa của dê đối với cỏ Panicum maximum TD 58 cao, khả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

năng sử dụng của gia súc đều tốt từ 86 – 100%.

17

Nguyễn Thị Mùi, Lương Tất Nhợ, Hoàng Thị Hấn, Mai Thị Hướng

2004 [33] đã nghiên cứu đánh giá hiện trạng nguồn thức ăn cho gia súc ăn cỏ

và bước đầu xây dựng mô hình trồng cây thức ăn gia súc tại huyện Đồng Văn

– Hà Giang. Qua nghiên cứu điều kiện Sinh thái nơi đây, các tác giả đưa vào

trồng thử nghiệm giống cỏ : P. Purpureum kingrass, P. p. Malagasca, P.

maximum TD58, paspalum atratum, B. ruzizinensis được trồng trong vụ đông,

kết quả cho thấy các giống đều sống được qua mùa đông lạnh có tuyết và

sương muối.

Tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Thái

Nguyên, tác giả Nguyễn Văn Quang (2002) khi nghiên cứu so sánh về tốc độ

sinh trưởng, năng suất, chất lượng, tính ngon miệng của 5 giống cỏ nhập nội

cho biết: Cả 5 giống cỏ đều có tốc độ sinh trưởng khá cao từ 1,45 – 1,82 cm/

ngày. Trong đó 2 giống cỏ Paspalum astratum và Panicum maximum TD 58

có tốc độ sinh trưởng cao nhất (1,82 và 1,70 cm/ngày) [20]. Nguyễn Văn

Quang và cộng sự, 2002 [19] đã nghiên cứu khả năng sản xuất chất xanh và

ảnh hưởng của phân bón đến năng suất của một số giống cỏ trong mô hình

xen với cây ăn quả trên đất đồi Bá Vân – Thái Nguyên, trong đó có 3 giống cỏ

là Brachiaria decumbens, Setaria splendida, Panicum maximum TD58. Kết

quả cho thấy 3 giống cỏ trồng xen lẫn với cây ăn quả ở đất đồi Bá Vân đạt

60,1-79,3 tấn/ha/năm. Năng suất VCK 10,2-12,2 tấn/ha, năng suất protein 1-

1,3 tấn/ha; khi đầu tư phân chuồng ở mức 10-20 tấn/ha. Lê Hòa Bình, Hồ Văn

Núng 1987 – 1989 [37] cho biết thảm có voi xen canh với các cây họ đậu

trong các điều kiện phân bón hạn chế đạt năng suất chất xanh 139-142 tấn/ha,

tăng 24-27 tấn/ha so với đối chứng cỏ voi thuần.

Nguyến Văn Lợi, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Thị Mùi , Lê Hòa Bình,

Đặng Đình Hanh, 2004, đã nghiên cứu xây dựng mô hình thử nghiệm thâm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

canh, xen canh cỏ hòa thảo, họ đậu làm thức ăn cho gia súc tại Thái Nguyên,

18

năng suất các giống cỏ đạt từ 90-179 tấn/ha trong điều kiện trồng thuần; 93-

138,5 tấn /ha trong điều kiện xen với cây ăn quả; 17-18,9 tấn /ha trong điều

kiện trồng theo băng ; 28,5-36,9 tấn/ha trong kiều kiện trồng theo đường đi.

Tháng 7/2004, viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam thuộc bộ

Nông nghiệp và PTNT đã triển khai thực hiện dự án “Trồng thử nghiệm tập

đoàn giống cỏ nhập nội nuôi bò” tại xã Cam Sơn, An Thạch (Mỏ Cày), Hữu

Định (Châu Thành) và An Đức (Ba Tri) đã đưa ra kết luận: Cỏ Voi chiếm ưu

thế hơn cả, nếu trồng chuyên canh trên nền đất trống, năng suất đạt 29,04

tấn/ha/lứa; trồng xen vườn dừa là 15,18 tấn/ha, trồng xen vườn ăn trái là 25-

27 tấn/ha. Đứng thứ hai là cỏ Sả lá lớn, trồng thâm canh là 23,11 tấn/ha, trồng

xen vườn dừa là 11,77 tấn/ha, trồng xen vườn cây ăn trái là 20,4-21,4 tấn/ha.

Tiếp theo là cỏ Ruzi, cỏ Sả lá nhỏ và cỏ lông tây... [3]. Nguyễn Thu Hồng,

Nguyễn Ngọc Tấn, Đinh văn Cải, 2006 [33] đã tiến hành thí nghiệm trồng cỏ

tại vùng khô hạn tỉnh Ninh Thuận. Các tác giả cho biết các giống cỏ hòa thảo

như voi, sả, cỏ Ruzi và Paspalum đều có thể sinh trưởng và phát triển trong

điều kiện khô nóng tại Ninh Thuận. Trong điều kiện tưới nước phân bón

năng suất có thể đạt 100-150 tấn/ha/năm.

Hoàng Chung, Giàng thị Hương (2006) tại Mai Sơn - Sơn La đã tiến hành

tưới nước và bón phân cho cỏ trồng (voi, cỏ ghinê), tăng 1-2 lứa / năm, năng suất

tăng từ 1,9 đến 2,16 lần, năng suất tăng từ (100 tấn -120 tấn/ha) [24].

Định hướng phát triển diện tích trồng cỏ từ 45.000 ha hiện nay lên

290.000ha vào năm 2010. Diện tích trồng cỏ của cả nước hiện nay chỉ đáp

ứng được 7,6% nhu cầu thức ăn thô xanh của gia súc ăn cỏ. Nguyên nhân chủ

yếu của tình trạng này do các địa phương chưa quy hoạch đất trồng cỏ, chưa

khai thác hết diện tích đất chưa sử dụng và chưa mạnh dạn chuyển đổi một

phần đất nông nghiệp sang trồng cỏ thâm canh. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phát triển Nông thôn nhấn mạnh ngành chăn nuôi phải có sự điều chỉnh cơ

19

cấu chiến lược, cụ thể là đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ được coi

là hướng chính. Muốn vậy cần có sự chuyển biến mạnh và đột phá trong khâu

thức ăn. Đối với những vùng phát triển mạnh chăn nuôi gia súc ăn cỏ, cỏ phải

được coi là cây trồng chính và trồng cỏ phải được coi là hướng chuyển dịch

hướng tới thâm canh[36].

1.2. Tình hình nghiên cứu đồng cỏ trên thế giới và ở Việt Nam

Cỏ là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất dinh

dưỡng, như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại có

khả năng sử dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ

không những rất cần thiết mà lại có tỉ lệ thích hợp đối với nhu cầu sinh lý của

trâu bò. Ví dụ: nếu tỉ lệ đường - đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức ăn

của bò sữa là 1:1 thì tỉ lệ đó trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1.4 :1 [2]. Cỏ

còn là loại cây thức ăn dễ sản xuất, có năng suất cao, tương đối ổn định và là

nguồn thức ăn rẻ tiền góp phần làm giảm giá thành sản phẩm chăn nuôi, chưa

kể ưu thế của các giống cỏ lâu năm là thường chỉ cần gieo trồng một lần mà

sử dụng được nhiều năm. Ở bãi cỏ tự nhiên với điều kiện thổ nhưỡng tốt thì

1kg cỏ tươi cung cấp được 16g Prôtêin tiêu hoá và 32g lipit, 8 kg loại cỏ này

tương đương 1 đơn vị thức ăn [27].

Muốn phát triển chăn nuôi, một trong những vấn đề cơ bản đầu tiên cần

phải giải quyết là nguồn thức ăn gia súc. Trong 2 hệ thống nuôi dưỡng: a) dựa

vào thức ăn tinh (trên 40% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn bằng thức ăn

tinh), b) dựa vào thức ăn thô (trên 60% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn

bằng thức ăn thô) thì hệ thống (b) được đặc biệt chú ý nhất là ở các nước có

khả năng phát triển đồng cỏ. ở những nước này việc sử dụng đồng cỏ không

chỉ để chăn thả mà còn cung cấp thức ăn xanh và dự trữ cho đàn gia súc nuôi

nhốt. Ở Úc, sản phẩm chăn thả tới 50% sản phẩm xuất khẩu, tỉ lệ này còn cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hơn: 90% ở Tân Tây lan [9]. Theo Davies (1960) đồng cỏ tự nhiên cung cấp

20

gần một nửa gia súc chăn thả, tạo ra một phần ba lượng thịt và một phần sáu

sản lượng sữa trên thế giới [11] ...Ước tính thế giới , gia súc sử dụng khoảng

3,4 tỷ ha đất dùng cho chăn thả và dùng cho sản xuất thức ăn gia súc.

Sau cuộc “Cách mạng về thức ăn gia súc” ở Tây âu mà đặc biệt là ở

Anh đã tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi phát triển, đồng cỏ ngày càng

được chú ý và sử dụng đúng với vai trò của nó.

Ở Pháp (1842) chỉ có 4 triệu ha trồng cỏ và 15 triệu ha ngũ cốc thì hiện

nay tỷ số ấy đã thay đổi: 12 triệu ha trồng cỏ và 8 triệu ha ngũ cốc [17].

Ở Anh các diên tích ngũ cốc giảm đi và diện tích trồng cỏ, các loại cây

thức ăn gia súc khác tăng lên và được thâm canh một cách đáng kể.

Ở Liên Xô, diện tích trồng cỏ tăng từ 2,1 triệu ha năm 1913 lên 7,3

triệu ha năm 1933 và đến năm 1961 diện tích này đã lên tới 51,9 triệu ha [12].

Không những diện tích trồng cỏ tăng lên, việc nghiên cứu chọn lọc các

giống cỏ có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú trọng, nhiều loài

cỏ như cỏ Voi, cỏ Ghinê, cỏ Bermuda, cỏ Pangola, v.v … đã được sử dụng ở

nhiều nước trên thế giới. Lai tạo những giống cỏ mới có năng suất và giá trị

dinh dưỡng cao như Coastcross (Cỏ Bermuda lai), cỏ Ghinê từ một loài đã

tạo ra nhiều giống mới, cỏ Voi cũng vậy, ... đây là thành tựu khoa học đáng

kể để góp phần giải quyết thức ăn cho gia súc ngày càng phát triển.

Việc phát triển đồng cỏ không chỉ cung cấp thức ăn tươi xanh mà còn

dùng để dự trữ cho gia súc nuôi nhốt. Cùng với việc phát triển của nghề chăn

nuôi động vật nhai lại, đòi hỏi người chăn nuôi nhiều nước trên thế giới phải

nhập nhiều giống cỏ khác nhau từ các nước khác nhau. Quê hương lâu đời của

cỏ Voi là Uganda nhập vào Mĩ năm 1913, Australia năm 1914, Cuba 1917,

Braxin 1920….[38]. Cỏ Pangola xuất hiện ở bên bờ song Pangola thuộc Nam

phi nhập về Mĩ năm 1935, Cuba 1950, Australia 1954… và các nước nhiệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đới, cận nhiệt đới. Cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn lại,

21

cây cỏ hoà thảo, cây đậu, cây thân thảo hay thân gỗ mà có thể được sử dụng

làm thức ăn cho gia súc.

Những cây này cũng có thể được sử dụng vào những mục đích khác

như bảo vệ đất, chống xói mòn, làm tăng độ màu mỡ của đất và hạn chế cỏ

dại [1].

Theo Meilroy (1972) cần chọn cỏ để làm thức ăn gia súc là khi thu

hoạch dưới dạng này hay dạng khác phải đảm bảo các yêu cầu sau [44]:

- Cỏ phải có khả năng tái sinh qua mầm chồi còn lại sau mỗi lần

thu hoạch.

- Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc là nơi khi

thu hoạch ít bị ảnh hưởng tới.

- Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu hạn và chịu lạnh cao.

- Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt đất.

- Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và đảm

bảo lấy được dinh dưỡng đã được giải phóng hay phân huỷ từ dưới đất.

Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các

nhân tố sau để xét và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ như: độ ngon

miệng cao, nhất là cỏ thu cắt phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng nhu cầu

gia súc về các mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn và khả năng được

trồng kết hợp; có khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên tục của gia súc và cỏ thu

cắt phải chịu được sự cắt và nén của máy thu hoạch; cỏ chăn và cỏ cắt đều phải

có năng suất cao để đảm bảo nhu cầu gia súc và giảm diện tích gieo trồng. Ở

Việt Nam, diện tích cỏ tự nhiên chưa được đánh giá đầy đủ và khai thác hợp lý

và hiệu quả. Hiện nay nước ta có 5.026.400 ha đồng cỏ tự nhiên trong đó tính

cả cỏ mọc ở ven đê, ven sông, bờ ruộng. Nhiều đồng cỏ tự nhiên ở Tây bắc,

Tây nguyên đã bị thu hẹp lại do nạn phá rừng, đốt rừng ngay khi chưa được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khai thác cho chăn nuôi. Những nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên ở nước ta còn

22

rất hạn chế…Từ 1990 với các chương trình nghiên cứu hợp tác quốc tế, hàng

trăm giống cây cỏ được nhập từ Úc, Philippin, Thái lan,Trung quốc, Đức... Qua

khảo sát đã chọn và phát triển được một số cây cỏ có năng suất chất lượng cao,

thích hợp với khí hậu và đất đai Việt nam như Cỏ Ghinê TD58 (Panicum

maximum), Ruzi (Brachiaria ruziziensis), cỏ Voi (Pennisetum purpureum)

Paspalum atratum thích hợp với sản xuất trong điều kiện thâm canh cho năng

suất 16-36 tấn chất khô/ha, cỏ Brachiaria decumbens, cỏ Brachariaria brizantha

sản xuất trong điều kiện khô hạn và ít đầu tư cho năng suất 8-20tấn chất

khô/ha. Cây Flemingia, Keo dậu (Leucaena leucocephala),và Stylo

(Stylosanthes guianesis), Arachis pintoi sử dụng để phủ đất, cải tạo đất và làm

nguồn thức thô giầu protein cho loài nhai lại .

Ở nước ta đã hình thành những hệ thống thức ăn chăn nuôi phù hợp với

những vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau như:

- Hệ thống cây lúa: Hệ thống cây lúa là hệ thống truyền thống của Việt

Nam, sản lượng thóc hàng năm đạt tới 32,5 triệu tấn, cung cấp khoảng 4,5

triệu tấn tấm và cám, 25 triệu tấn chất khô của rơm. Số lượng tấm và cám là

lượng thức ăn quan trọng để nuôi 20 triệu con lợn và hàng trăm triệu gia cầm.

Riêng rơm thì còn ít được sử dụng cho trâu bò mà chủ yếu dùng làm chất đốt.

- Hệ thống cây ngô: Diện tích trồng ngô của cả nước là 687 ngàn ha, sản

lượng 1,75 triệu tấn/năm, 80% ngô dùng vào chăn nuôi. Có những vùng trồng

ngô chuyên canh như: Sơn la, Hà giang, diện tích trồng ngô của những vùng

này chiếm 12% diện tích ngô toàn quốc, sản lượng ngô chiếm tới 20% sản

lượng ngô toàn quốc. Ngô hạt được đưa về đồng bằng để phục vụ chăn nuôi,

tuy nhiên thân cây ngô sau khi thu bắp còn ít được sử dụng trong chăn nuôi.

Đàn trâu bò của hai tỉnh trên chỉ chiếm 5,4% số lượng trâu bò toàn quốc.

- Hệ thống cây mía: Diện tích trồng mía cả nước là 302,9 ngàn ha,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sản lượng đạt 17,76 triệu tấn., chỉ tính riêng ngọn lá mía dùng cho chăn nuôi

23

trâu, bò cũng đã đạt 3,5 triệu tấn đủ nuôi được 1,7 triệu trâu và bò. Nhiều

vùng trồng mía chuyên canh cây mía như Thanh hoá (diện tích và sản lượng

chiếm gần 1/10 diện tích và sản lượng toàn quốc), Tây ninh (diện tích và sản

lượng chiếm khoảng 7% diện tích và sản lượng toàn quốc) , từ đó bước đầu

hình thành những hệ thống chăn nuôi mía-bò như Thanh hoá.

Cả nước có khoảng 25 triệu tấn rơm lúa, 2 triệu tấn thân cây ngô già và

gần 1,5 triệu tấn dây lạc, dây lang, ngọn lá sắn, lá mía (tính theo chất khô).

Đẩy mạnh chăn nuôi bò sữa, bò thịt, trâu ở những vùng chuyên canh

ngô, mía. Hình thành những vùng chăn nuôi trâu bò gắn với hệ thống cây mía,

cây ngô như vùng ngô Sơn la, vùng mía Thanh Hoá, Tây Ninh. Mở rộng việc

sử dụng rơm sử lý urê để khai thác tốt hơn hệ thống chăn nuôi trâu bò-rơm lúa

ở vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu long; mở rộng việc sử

dụng phụ phẩm thuỷ sản chế biến để đẩy mạnh chăn nuôi lợn, gia cầm ở vùng

Duyên hải.

1.3. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Bắc Việt Nam

Đồng cỏ phía Bắc Việt Nam chủ yếu là có nguồn gốc thứ sinh do hoạt

động khai phá rừng mà thành, nên diện tích đồng cỏ ngày nay được mở rộng

có thể chiếm tới 1/3 diện tích lãnh thổ. Hiện nay, đồng cỏ được sử dụng với

nhiều mục đích khác nhau như làm bãi chăn thả, trồng cây lương thực, cây ăn

qủa, cây công nghiệp, trồng rừng...

Trong thực tế hiện nay, tại các vùng có sử dụng đồng cỏ vào mục đích

chăn nuôi, hầu như chưa có phương thức sử dụng hợp lý, khai thác một cách

cạn kiệt làm cho thảm cỏ ngày càng thoái hoá mạnh. Cho đến nay, những

nghiên cứu về sử dụng hợp lý đồng cỏ vẫn còn là mới mẻ, tài liệu còn qúa ít.

Những công trình nghiên cứu dành cho việc sử dụng hợp lý đồng cỏ rải

rác ở một số công trình như: Nguyễn Vũ Hùng, Bùi Văn Minh (1968), có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghiên cứu về sử dụng luân phiên đồng cỏ ở Ba Vì và đề nghị chia thành 6 ô,

24

mùa hè sử dụng 5 ô. Trong một đàn gia súc số lượng nên là 100-150 con, diện

tích đồng cỏ là 50 - 80 ha.

Dương Hữu Thời (1981) có đề cập đến một số vấn đề sử dụng hợp lý

như: luân phiên đồng cỏ, trồng cỏ, diệt trừ cây bụi.

Võ Văn Trị (1983) đã chia đồng cỏ trồng ra thành những ô nhỏ, sự luân

phiên mùa hè theo ông có khoảng cách 40 - 50 ngày, mùa đông là 60 ngày.

Hoàng Chung (1988) nghiên cứu về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ Bắc

Việt Nam. Trên cơ sở tương đối đầy đủ những tư liệu về đồng cỏ vùng này đã

chia đồng cỏ Bắc Việt Nam thành 3 hệ thống (3 loại theo độ dốc) Loại 1: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 0 - 70. Loại 2: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 7 - 25 0. Loại 3: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 25 - 300 trở lên.

Từ việc phân chia này ông đã đề xuất các biện pháp sử dụng hợp lý

đồng cỏ ở từng nhóm.

Vấn đề cải tạo đồng cỏ Bắc Việt Nam ông đã đề cập đến 2 vấn đề lớn:

cải tạo điều kiện môi trường sống, cải tạo lớp đất mặt. Qua những nghiên cứu

trên ông đề xuất 1 số ý kiến về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ của vùng núi

phía Bắc Việt Nam.

1.4. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới

Nguồn gốc của đồng cỏ trong đai nhiệt đới, giữa các tác giả có ý kiến

khác nhau. Đa số cho rằng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới không có đồng cỏ

tồn tại, các quần xã cỏ ở đây là loại hình savan [7].

Khi nghiên cứu về nguồn gốc thứ sinh của các thảm cỏ trong các vùng

nhiệt đới khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng: Các đồng cỏ

và cây bụi trong vùng nhiệt đới đều hình thành trên những quần xã rừng bị

chặt hạ. Con người khi chặt phá và đốt rừng làm nương rẫy đã làm đất bị cháy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và khô đi, những tác động này được kết thúc vào cuối mùa khô. Đầu mùa mưa

25

ở đây sẽ được gieo trồng các loại cây trồng nông nghiệp. Trải qua nhiều lần

như vậy đất sẽ được bỏ hoang, trên nó lại phục hồi dần rừng thứ sinh và lại

tiếp tục bị chặt hạ để trồng trọt. Kết quả dẫn đến rửa trôi mạnh lớp đất mặt,

cây gỗ không có điều kiện tái sinh nữa, hình thành nên lớp cỏ hay có lẫn một

số loài cây thảo và cây bụi hạn sinh. Về ngoại mạo nó gần giống thảo nguyên

vùng ôn đới. Vì nguồn gốc thứ sinh như thế nên đồng cỏ phân bố rải rác ở các

vành đai khác nhau, tồn tại dạng đồng cỏ thấp hay cao tùy thuộc vào mức độ

sử dụng của con người.

Đối với vùng núi Bắc Việt Nam tồn tại nhiều kiểu savan, đồng cỏ và

các dạng trung gian. Trong đai nhiệt đới, trên những vùng đã bị chặt phá, khi

mà đất còn khá tốt, độ ẩm còn khá cao, thì sẽ hình thành ở đây loại hình đồng

cỏ vì thảm cỏ ở đây gồm các cây cỏ có thân rễ dài, búi thưa thuộc nhóm trung

sinh sống lâu năm ngừng sinh trưởng vào mùa đông. Trong quá trình tác động

tiếp theo con người sẽ làm cho lớp đất mặt bị bào mòn, khả năng giữ nước

của đất kém, đất có độ chua cao, trong thảm cỏ tỉ lệ cây hạn sinh tăng lên,

cuối cùng chỉ tồn tại ở đây các loài cỏ, cây bụi hạn sinh và cây đoản mệnh,

hình thành savan cỏ, savan cây bụi hoặc thảm cây bụi hạn sinh. Có thể tóm tắt

quá trình trên như sau: Rừng nguyên sinh - rừng thứ sinh - đồng cỏ - savan

cỏ hoặc savan bụi - thảm cây bụi hạn sinh [7].

Có thể nói nguồn gốc của đồng cỏ là không đồng nhất, có nhiều loại

hình đồng cỏ được hình thành bằng con đường tự nhiên, nhưng cũng có

những đồng cỏ được hình thành do hoạt động của con người trên vùng đất

rừng, thảo nguyên hay đầm lầy … làm thay đổi điều kiện môi trường và hình

thành ra đồng cỏ [8].

1.5. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả

Hiện nay, chăn nuôi bò ở nước ta đang trên đà phát triển mạnh. Giải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

quyết thức ăn và kỹ thuật nuôi dưỡng là những yếu tố có tính quyết định đến

26

năng suất, chất lượng và hiệu quả của chăn nuôi bò. Trong thực tế hiện nay

đồng cỏ luôn luôn bị thay đổi do tác động thường xuyên của con người, vì

đồng cỏ đã và đang là đối tượng hoạt động kinh tế nông nghiệp của loài

người. Làm sáng tỏ nguồn gốc của đồng cỏ và những quy luật biến đổi của nó

do tác động của loài người, là điều kiện cần thiết làm cơ sở cho những biện

pháp sử dụng hợp lý đồng cỏ.

Hiện nay, trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề thoái

hoá của đồng cỏ do chăn thả cũng như thảo nguyên của các vùng khác nhau.

Vyxochki G.N (1908-1909, 1915) và Pachoxki I.K (1917-1921) là

những người đầu tiên đã nêu những đặc điểm rõ rệt nhất của ảnh hưởng chăn

thả đến thảm thực vật và đất đồng cỏ bị khô hạn. Chăn thả có ảnh hưởng trực

tiếp đến đất, mới chăn thả đất chặt dí lại và khi chăn thả nhiều, đất bị nát vụn

ra. Hai ông đã xác định 4 giai đoạn thoái hoá của thực bì thảo nguyên dưới

tác động của chăn thả. Pachoxki (1917) nghiên cứu đới nam của thảo nguyên

Stipa longifolia, ông phân chia một số giai đoạn thoái hoá khác nhau. Nó bao

gồm cả giai đoạn chăn thả hay không chăn thả được. G.I.Popov (1931) khi

nghiên cứu thảm thực vật trong đới phụ thảo nguyên Stipa, thuộc thảo nguyên

nam Varonhet cho thấy các giai đoạn thoái hoá của thảm thực vật do chăn thả.

Trong thí nghiệm của Rômaxep P.I (1934) làm ở đồng cỏ trồng thuộc viện

nghiên cứu thức ăn gia súc, khi ném gậy từ cách mặt đất 1m xuống đồng cỏ,

gậy ngập sâu 32,2mm và ném xuống bãi chăn thả gậy ngập sâu 24,7mm.

Trong thí nghiệm của Lyupxcaya A.F (1935) làm ở bãi đất ven sông thấy các

số liệu tương ứng là 39,0 và 33,6mm và làm ở đồng cỏ ven sông thấy tương

ứng là 28,8mm và 23,9mm. Ông kết luận rằng khi chăn thả trong năm sinh

trưởng đầu tiên, trung bình có đến 5% cỏ hàng năm bị bật rễ. Gia súc không

làm bật rễ cỏ lâu năm đã thành thục và cũng không làm hại những bộ phận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dưới mặt đất của những cỏ này [40].

27

V.V. Alekhin (1934) nghiên cứu ở vùng Kursk thuộc đới phụ (phía

Bắc) của thảo nguyên đồng cỏ đã xác định được các giai đoạn thoái hoá do

chăn thả ở đây như sau: “Khi chăn thả nặng nề thì Stipa sẽ mất đi và thành

phần hệ thực vật trở nên nghèo nàn hơn, đồng thời rất nhiều loài có số lượng

cá thể không nhiều, thường đơn độc, rồi cũng mất dần đi, bắt đầu trội hẳn lên

là Bromus. Sau nữa còn lại chủ yếu là cây thuộc thảo và trên thảo nguyên phát

triển mạnh ở tầng trên là cây Bromus riparius, tầng thấp là Festuca đồng thời

trong vùng đó biểu hiện hai tầng rất rõ ràng; Bromus - Festuca ; cuối cùng chỉ

còn lại Festuca, những sự chèn ép sau này của thảm Cỏ qua hàng loạt những

trạng thái nhỏ nhặt sẽ dẫn đến giai đoạn phân bố rộng rãi của bào tử thực vật

trên thảo nguyên” [7]. Cũng trong thời kỳ này,Gordiagin, Taliep, Keller đã

nói rất nhiều về khả năng hình thành của thảm thực vật thảo nguyên đồng cỏ

trên đất rừng bị chặt hạ hay đất trống.

Scaetta (1938) cũng đã nhận xét ở vùng núi cao thuộc Côngô và

Uganđa là sự giẫm đạp vừa phải của một đàn gia súc (dù trên những đồng cỏ

họ Hoà thảo thân cao từ 3-5m) đã làm cho những đồng cỏ thân cao được thay

thế bằng những đồng cỏ thân thấp, những cỏ thân thấp này thường từ vùng

núi lan xuống và thành thích hợp với súc vật và có giá trị dinh dưỡng cao hơn

nhiều so với những loài mọc trên đá ở vùng nhiệt đới .Trái lại, nếu gặm cỏ và

giẫm đạp quá nặng nề thì đất sẽ bị xói mòn do nước chảy xiết. Như Scaetta đã

nhận xét, nhất là ở vùng núi, một thảm cỏ xanh tốt có thể biến thành một bãi

khô cằn. Những khóm cây ngày càng thưa nên đất bị bào mòn và thành rãnh.

“Hầu như bao giờ hiện tượng này cũng đi theo sự phá rừng dữ dội, không

những làm cản trở mọi cải tiến đối với nghề chăn nuôi, mà còn gây nên nạn

đói và chết chóc cho những vùng trước đây phồn thịnh”. Như vậy phải thay

thế sự chăn thả tự do bằng sự chăn thả có kỷ luật. Koechlin J (1962) khi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghiên cứu về đồng cỏ và vấn đề thức ăn gia súc ở cộng hoà Trung Phi đã

28

nhận xét : Hiện tượng thoái hoá đồng cỏ là do chăn thả gia súc diễn ra trên

những diện tích lớn làm sản xuất bị giảm sút nghiêm trọng. Hơn nữa sự thoái

hoá của thực vật đồng cỏ thường làm cho hiện tượng xói mòn sâu sắc hơn.

Jacques Felix H (1961) nói về đặc điểm của đồng cỏ rẻo cao ở Tây Phi:

Những đồng cỏ này có giá trị không những chỉ do phẩm chất cỏ mà vì khí hậu

ở đó trong lành, ít dịch bệnh. Những đồng cỏ này là những nơi phải được coi

trọng, phải được giữ gìn cẩn thận và cải tạo vì diện tích chỉ có hạn. Thực tế

chúng tôi thấy những đồng cỏ này bị hai nguyên nhân làm thoái hoá : xói mòn

do bị chăn thả quá đáng ở những sườn núi; cháy rừng làm cho hệ thực vật chỉ

còn một vài loài chịu lửa, những loài này là thức ăn gia súc xấu và không bảo

vệ được đất [40].

B.D.Andreev (1958) khi nghiên cứu các giai đoạn hình thành và thoái

hoá của thực bì thảo nguyên ở nam Nga đã chia thành 8 giai đoạn: Giai đoạn

đầu là sự chặt hạ và cuối cùng là sự hình thành thảm bào tử thực vật.

A.V.Abramtruk, P.L Gortriakopski (1980) khi đánh giá mức độ thoái hoá của

các quần xã cỏ do tác động của con người ông đã đề ra bảng thang bậc riêng

gồm có 3 mức, sự khác nhau giữa các mức là phụ thuộc vào mức độ thoái hoá

do con người tạo ra (1 - ít; 2 - trung bình; 3 - nhiều).

Sự biến đổi các thảm thực vật (đồng cỏ) dưới tác động của yếu tố do

con người tạo ra ở vùng nhiệt đới đã từ lâu trở thành vấn đề nóng bỏng cho

nền kinh tế và cho chăn nuôi ở xứ nhiệt đới. Nhưng những nghiên cứu về vấn

đề này cho đến nay vẫn còn rất ít: Cooper I.P, Taiton N.M và Pleming G

(1968), Dương Hữu Thời (1981), Hoàng Chung (1981, 1983)......

Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam là loại hình đồng cỏ thứ sinh. Đặc

biệt trong điều kiện khí hậu nhiệt đới đồng thời đồng cỏ ở đây phân bố chủ yếu ở vùng núi, các sườn đồi có độ dốc khá lớn (15 - 400), nên vấn đề thoái hoá của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đồng cỏ do chăn thả là một trong những vấn đề nan giải hiện nay của các nhà

29

nghiên cứu đồng cỏ Bắc Việt Nam. Những nghiên cứu về sự thoái hoá của

đồng cỏ do chăn thả ở Việt Nam hiện nay đã được Dương Hữu Thời (1981) đề

cập trong cuốn “ Đồng cỏ Bắc Việt Nam” khi phân tích thành phần loài và các

điều kiện sinh thái của đồng cỏ đã đề cập đến 2 nguyên nhân của sự thoái hoá

đồng cỏ Bắc Việt Nam là do cường độ chăn thả và điều kiện khí hậu.

Hoàng Chung (1981, 1983, 2003) sau hơn 10 năm nghiên cứu tại đồng

cỏ ở vùng Thôm Luông (Ngân Sơn) đã phân tích ảnh hưởng của sự chăn thả

không có kế hoạch lên sự thay đổi thành phần loài, cấu trúc và năng suất của

thảm cỏ và đã đưa ra kết luận về quá trình thoái hoá đồng cỏ Bắc Việt Nam

như sau: “Những thay đổi đầu tiên của lớp phủ thực vật đã dẫn đến sự hình

thành các quần xã cỏ ở đây, những thảm cỏ này dưới sự tác động thường xuyên

nhưng không thật nặng nề của con người như chăn thả, đốt nương rẫy, sẽ dẫn

tới hình thành loại hình đồng cỏ khô, á thảo nguyên và đồng cỏ. Khi chăn thả

nặng nề hơn sẽ dẫn đến sự thay đổi phức tạp của thành phần loài ở từng quần

xã, đó là sự thay đổi các loài đang mọc bằng những loài từ ngoài đi vào, loài

bản địa bị thay thế bởi loài phổ biến rộng rãi, đồng thời đơn giản hoá cấu trúc

quần xã, giảm bớt khoảng không phân bố của lớp phủ thực vật, giảm năng suất

của nó”. Trên cơ sở đó đã chia quá trình thoái hoá đồng cỏ do sử dụng thành 5

giai đoạn: Bắt đầu từ trạng thái đồng cỏ đến giai đoạn hình thành savan cây bụi

[7]. Trương Tấn Khanh (2003) với công trình đánh giá hiện trạng đồng cỏ tự

nhiên huyện M’drak- Daklak, Hoàng Chung, Trần Thị Hương Lam (2006) với

công trình điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn gia súc hiện có của xã Hà

Hiệu - Bắc Kạn. Các tác giả đều xác định các đồng cỏ tự nhiên hiện có đang bị

chăn thả nặng nề dẫn tới thoái hoá ở mức độ nghiêm trọng ...

1.6. Thành phần dinh dƣỡng của thức ăn xanh

Thành phần và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn cho bò sữa thay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đổi rất lớn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giai đoạn thu hoạch, thời gian và

30

quá trình bảo quản, công nghệ chế biến, phụ thuộc vào giống cây trồng, điều

kiện khí hậu, kỹ thuật canh tác... Chất lượng của các giống cỏ được đánh giá

bằng thành phần hoá học có trong giống cỏ đó. Đây là một chỉ tiêu hết sức

quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu, đánh giá một giống cây thức ăn,

trên cơ sở đó giúp các nhà chăn nuôi tính toán khẩu phần ăn cho gia súc một

cách hợp lý, để chúng sinh trưởng và phát triển tốt.

* Độ ăn được:

Những loài trong đồng cỏ Bắc Việt Nam có giá trị chăn thả khá tốt,

theo thành phần loài thì trên 95% là thuộc nhóm hoà thảo, trong đồng cỏ tồn

tại một số loài cây bụi và cây thuộc thảo khác, phần lớn những loài này cũng

được gia súc ăn. Tuy nhiên, giá trị chăn thả của đồng cỏ cũng thay đổi theo

thời gian và theo từng kiểu thảm, điều này có quan hệ mật thiết với đặc điểm

sinh thái, với các giai đoạn sinh trưởng, với thành phần thực vật, với chiều

cao thảm cỏ và thành phần hoá học của nó cùng các hình thức tác động của

con người vào thảm cỏ. Ở một số loài giá trị chăn thả hầu như không thay đổi

trong suốt cả thời kì sinh dưỡng như: Ischaemum indicum, Paspalum

scrobiculatum, Paspalum conjugatum và một số loài một năm. Một số loài

khác thì giá trị chăn thả giảm dần theo thời gian, ở những loài này tuổi càng

tăng thì tỉ lệ phần thân tăng và phần trăm chất xơ trong thân và lá tăng lên. Lá

nhiều loài trở nên cứng và sắc như cỏ Tranh, Chè vè, ...

Thành phần họ Đậu trong đồng cỏ Bắc Việt Nam rất ít, một số loài

trong đó giá trị chăn thả kém, lá cứng, có nhiều lông cứng như: Desmodium

triquetum, một số loài khác thì năng suất lại rất thấp – sinh khối tập trung chủ

yếu ở phần thân như: Desmodium microphyllum. Trong thành phần cỏ của

một số quần xã có nhiều cây họ Cói, những loài này lá cứng và sắc như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Carex, Rhynchospora, ... một vài loài khác năng suất rất thấp [7].

31

 Thành phần hoá học của thực vật:

Thành phần hóa học quyết định trực tiếp đến nguồn dinh dưỡng có

trong hòa thảo. Theo tài liệu của Viện chăn nuôi quốc gia, 1995[35], đối với

cây cỏ ngoài tự nhiên thì hàm lượng dinh dưỡng rất khác nhau như:

Đối với cây rong, bèo,…rau ở dưới nước thì hàm lượng chất khô

thường thấp, chiếm tư 1-6% VCK, ví dụ bèo ong 9,6% VCK, 0,9% prôtin thô;

0,2% lipit thô; 1,6 % xơ thô; 6,4 dẫn xuất không đạm, 1,8 % khoáng tổng số.

Đối với cây trên cạn hàm lượng dinh dưỡng cũng khác nhau như: Cỏ

bạc hà (cỏ vừng) có 11,9% VCK, 1,8% protein thô; 0,5% lipit thô; 2,7% xơ

thô; 5,1% dẫn xuất không đạm; 1,8% khoáng tổng số. Cỏ thài lài 10% CVK;

1,7% protein thô; 0,9 lipit thô; 10% xơ thô;13,7 dẫn xuất không đạm 1,6

khoáng tổng số. Trong khi đó một số cỏ khác từ 18-24% VCK như cỏ Mộc

Châu mọc tự nhiên có 23,88% VCK; 2,54% protein thô; 0,51% lipit thô;

8,67% xơ thô; 10,13 dẫn xuất không đạm 2,03 khoámg tổng số [2] Tùy theo

từng thời vụ và thu cắt theo từng thời điểm hợp lí thì tỉ lệ nước 82%; 0,95%

protein tiêu hóa; 0,67% lipit tiêu hóa và 3,4% xơ tiêu hóa. Một số cỏ có hàm

lượng VCK cao(trên 30%) như cỏ sâu róm 30,2% VCK và tỉ lệ các chất khác

là 2,3% protein thô; 1,6% lipit thô; 9,7 % xơ thô; 14,7% dẫn xuất không đạm

1,9% khoáng tổng số.

Đối với các cây cỏ trồng:

Trong các cây cỏ hòa thảo trồng thì tỉ lệ chất khô và các thành phần

dinh dưỡng khác trong cỏ cũng dao đông khá lớn. Theo tài liệu của viện chăn

nuôi quốc gia thì [37] chúng có thể biến động về vật chất khô từ 11 đến dưới

35% và phụ thuộc vào giống, loài và tuổi thu cắt. Có những loại cỏ như chè

khổng lồ có hàm lượng chất khô là 13,68% và các thành phần dinh dưỡng

khác như protein thô là 2,08%; 0,6% lipit thô; 1,72% xơ thô; 6,07% dẫn xuất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không đạm; 3,21% khoáng tổng số. Cỏ voi có tỉ lệ VCK là 11,8% và các

32

thành phần dinh dưỡng khác như sau: protein thô 2,2%; 0,4% lipit thô;3,2%

xơ thô; 4,3% dẫn xuất không đạm; 1,7% khoáng tổng số.

Theo Đoàn Ân, Võ Văn Trị, 1976 [2], cỏ Voi tuổi càng nhỏ thì hàm

lượng Protein càng cao, tuổi càng lớn thì tỉ lệ chất xơ càng cao (tỉ lệ nghịch

với hàm lượng protein và nước) cục thể là 2 tuần tuổi tỉ lệ nước là 89,56%;

2,67% xơ thô; protein cỏ khô là 18,42%, khi cỏ 4 tuần nước là 87,4%; 3,7%

xơ; 11,49% protein trong cỏ khô. Thành phần hoá học có trong các giống cỏ

tập trung chủ yếu vào 4 chỉ tiêu đó là: vật chất khô (VCK), Protein, đường,

chất béo và xơ. Hoàng Chung và cộng sự (2004) đã tiến hành nghiên cứu và

theo dõi một số chỉ tiêu về thành phần hoá học của một số loài chính trong

đồng cỏ Bắc Việt Nam. Kết quả được thể hiện ở bảng 1.4 [7].

Những giống cây thức ăn tốt là giống cho năng suất vật chất khô,

Protein, đường cao, tỉ lệ xơ trong thức ăn thấp, tỉ lệ lá/thân cao, trong đó chỉ

tiêu Protein được chú ý nhiều hơn cả.

Bảng 1.4: Thành phần hoá học và giá trị dinh dƣỡng của một số loài cỏ chính

%

%

%

Tên

%

%

%

TT

Tên khoa học

chất

ĐVTA

Đạm

đạm

Việt Nam

nƣớc

Prôtêin

lipit

TS

amin

1

Ischaemum indicum

Cỏ lông

76.7 1.954

7.86

1.379

1

8.8

0.19

2 Arundinella nepalensis Cỏ xương 77.4 1.976

9.94

1.744 0.3

7.9

0.18

3 Cymbopogon caesius

Cỏ sả

70.4 2.306

9.61

1.686 1.9

9.3

0.25

Imperata cylindrica

Cỏ Tranh

74

1.945 9.747

1.71

1.1

4

8.8

0.25

5

Setaria viridis

Cỏ sâu róm 67.5

2.1

1.6

10.3

0.27

6 Chrysopogon aciculatus Cỏ may

64.4

3.1

0.6

8.3

0.3

7 Digitaria longiflora

Cỏ chỉ

73.6

3.4

0.5

7.4

0.21

8 Digitaria decumbens

Pangôla

2.295

8.88

1.558

9 Paspalum urvillei

Mộc châu

2.6

10.48 1.839

0.1

10 Fimbristylis annua

Họ cói

0.979 4.288 0.747

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

33

Trong thực tế khi chăn thả bình thường giá trị thức ăn cao nhất trong

thời gian đầu khi cỏ mọc nhanh ra nhiều lá mới, giá trị thức ăn giảm khi cỏ

bắt đầu đâm bông và tiếp tục giảm khi cỏ càng già. Khi chăn thả liên tục theo

những khoảng thời gian liên tiếp gần nhau, giá trị dinh dưỡng của cỏ có thể ở

mức tương đối cao nhưng như vậy năng suất bị giảm nhiều.

1.7. Một số đặc điểm sinh thái và sinh vật học của hoà thảo

Cỏ hoà thảo chỉ có một họ duy nhất là họ hoà thảo (Poaceae) và có 28

họ phụ, 563 chi, 6802 loài [43]. Cỏ hoà thảo thường chiếm phần lớn trong

đồng cỏ 95 - 98% và trong khẩu phần ăn của gia súc nhai lại chiếm 70 - 80%.

1.7.1. Đặc tính sinh thái

Thuộc vào đặc điểm sinh thái học là các mối quan hệ riêng biệt của thực

vật với từng yếu tố sinh thái, cũng như ảnh hưởng của thực vật trên nơi sống.

Cỏ hòa thảo có vị trí quan trọng trong thảm cỏ do cỏ hoà thảo có khả

năng phân bố rộng rãi, có thể thích ứng được ở nhiều vùng và trong những

điều kiện đất đai khí hậu khác nhau.

Cỏ hoà thảo có thể sinh trưởng được ở vùng nóng đất khô khan mùa

khô kéo dài, độ ẩm trung bình 20 - 30%, hoặc những vùng mùa đông nhiệt độ

thấp, nhưng chúng vẫn có thể sinh trưởng và phát triển được như cỏ xương cá,

cỏ lông đồi, cỏ Andropogon, cỏ Brachiaria decumbens,...

Đa phần các loài cỏ sinh trưởng tốt ở vùng có độ ẩm từ 60 - 80%. Có

loài lại có khả năng sinh trưởng được ở những nơi đất lầy, ngập nước như cỏ

môi, cỏ bấc, cỏ lông para,...Như vậy, có thể nói thực vật trong đồng cỏ tồn tại

trong những điều kiện khác nhau của các yếu tố sinh thái cơ bản trong vùng,

và khác nhau ở cả hai phần trên và dưới đất (ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, muối

khoáng, CO2...). Nó biểu thị rõ rệt về phân bố sinh khối theo chiều thẳng đứng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và chiều nằm ngang.

34

Trên cơ sở những hiểu biết về đặc tính sinh thái của các loài cỏ mà ta

có thể chọn và trồng các loài thích nghi với những điều kiện khí hậu địa chất

tương tự như vùng gốc của chúng.

1.7.2. Đặc tính sinh vật học

Cỏ hoà thảo là cây thân tròn hoặc bầu dục (tuỳ theo giống), lá mọc

thành hai dãy, phần lớn không có cuống nhưng bẹ to, có thìa lìa, phiến lá dài,

gân lá song song, thân cỏ thuộc loại thân rạ, rỗng (trừ mấu đốt). Cũng có loài

thân đặc như cỏ voi, rễ thuộc loại rễ chùm, hoa phần lớn là lưỡng tính thích

ứng với lối thụ phấn nhờ gió (Võ văn Chi và Dương Đức Tiến, 1976) [38].

Căn cứ vào hình dáng của thân và đặc điểm sinh trưởng, người ta chia

cỏ hoà thảo thành các loại sau:

+ Loại thân rễ: Đối với loại này có đặc điểm đặc trưng là than bò dưới

mặt đất và chia nhánh dưới mặt đất, đại diện là cỏ tranh (Imperata

cylindrica). Loại này yêu cầu đất tơi xốp, mật độ cỏ thưa, độ che phủ thưa,

thích hợp với chăn thả nhẹ, không thích hợp với giẫm đạp và vùng đất dí chặt.

+ Loại thân bụi: Loại thân này từ gốc đẻ ra nhiều nhánh tạo thành búi như

khóm lúa, bộ rễ phát triển mạnh, nhánh có thể đẻ ra từ dưới mặt đất hoặc trên

mặt đất. Cỏ này cho năng suất cao ở những nơi đất tốt, tơi xốp và thoáng khí. Do

tốc độ đẻ nhanh, cao nên đòi hỏi phải trồng thưa, có thể trồng thu cắt hoặc chăn

thả. Đại diện là cỏ Ghine (Panicum maximum), cỏ Mộc Châu, cỏ xả…

+ Loại thân bò: Cỏ này thân nhỏ và mềm, chính vì vậy thường nằm ngả

trên mặt đất. Do thân bò lan nhanh nên chúng có khả năng tạo thành một thảm

cỏ dày đặc, che phủ kín mặt đất. Đại diện là cỏ pangola, lông Para, cỏ xích lô

cỏ thân bò cho năng suất thấp, thường dùng để chăn thả hoặc cắt làm cỏ phơi

khô, dự trữ cho gia súc vào mùa đông.

+ Loại thân đứng: Loại này mọc mầm từ phần gốc ở dưới mặt đất hoặc

hom trồng, mầm vươn thẳng nên giống cây mía, thân cao to, cho năng suất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cao. Đại diện loại này là cỏ voi .

35

1.7.3. Đặc tính sinh lý

Nhu cầu về nước:

Nước đóng góp vào sự phong hoá, giữ vai trò quan trọng cho sự phát

triển của thực vật cũng như các vi sinh vật đất. Cỏ hoà thảo yêu cầu nước cao

do bộ lá lớn, hệ số toả hơi nước lớn hơn họ đậu. Hệ số toả hơi nước của cỏ

này vào khoảng 400 - 500 gram, trong khi của cỏ họ Đậu 214 - 216 gram.

Theo N.G. Andreép (1974), với đồng cỏ có độ ẩm đất khoảng 70%, một tháng 10m2 cỏ bay hơi khoảng 1m3 nước, trong 5 tháng sẽ có 50 tạ cỏ khô/1ha.

Trên cơ sở đó ta có thể xác định công thức tưới nước trong mùa đông .

Như vậy, chế độ nước của các sinh địa quần lạc cỏ trong một vùng khí

hậu xác định phụ thuộc địa thế của đồng cỏ và thành phần cơ giới của đất như

đất bằng, đất trũng, đất dốc, đất thấp hay bãi bồi,...

Độ ẩm của đất cũng yêu cầu theo từng giai đoạn trong đời sống của cây:

- Từ nảy mầm đến lúc chia nhánh: 25 - 30 %

- Giai đoạn phát triển cành : 75 %

- Cuối thời kỳ sinh trưởng nhu cầu nước giảm dần.

Nhu cầu về dinh dưỡng:

Cỏ hoà thảo đòi hỏi đất tốt, giàu mùn, đạm, lân và kaly. Nhu cầu về

dinh dưỡng cũng chia theo từng giai đoạn.

- Giai đoạn 1 (nẩy mầm - phân nhánh) cần nhiều đạm, lân, kaly.

- Giai đoạn 2 (phân nhánh) cần nhiều đạm, lân.

- Giai đoạn 3 (ra hoa hình thành hạt) cần nhiều lân và kaly.

Cỏ càng cho năng suất cao thì yêu cầu lượng phân bón càng lớn

(Nguyễn Đăng Khôi, Dương Hữu Thời, 1981) [41].

Trong đồng cỏ, người ta thấy có sự quan hệ rõ rệt giữa việc bón đạm và

số chồi có hoa. Trong điều kiện có bón đạm vào mùa xuân, số chồi sinh sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tăng lên. Bón phân, tưới nước cũng làm tăng số chồi của cây cỏ loại nhiều

36

chồi. Thí dụ (Festuca pratensis): Không tưới nước số chồi là 3,5 (Festuca

pratensis), tưới ẩm 40 - 60% có 11,5 và 80% có 14,8 chồi. Quan hệ với phân

cũng vậy, cỏ Pleum pratens không có phân bón có 605 chồi trên đơn vị diện

tích, có 19% số chồi có hoa, nếu bón phân NPK có 790 chồi trong đó có 35%

chồi có hoa [48].

Trên đất nghèo không có phân bón thì đời sống thường kéo dài không

quá 3 - 5 năm. Trên đất phì nhiêu hay thường xuyên có phân bón có thể kéo

dài 10 năm, có khi hơn.

Nhu cầu về không khí :

Các loại cỏ thân đứng, thân bụi, thân rễ phân chia nhánh dưới mặt đất

đòi hỏi phải tơi xốp, thoáng khí. Các loại thuộc thân bụi chia nhánh trên mặt

đất và thân bò thì có thể chịu được đất kém thoáng khí và độ ẩm thấp hơn.

Tính chịu sương giá và kháng xuân:

Tính kháng xuân hay còn gọi là khả năng chịu đựng của cỏ mùa đông.

Nó thể hiện khả năng chịu đựng của cỏ về sự chênh lệch nhiệt độ không khí

và nhiệt độ trong đất, sự chênh lệch này làm cho sự vận chuyển các chất dinh

dưỡng trong thân cỏ và quá trình đồng hóa, dị hóa của cỏ mất điều hòa nên có

tính kháng xuân kém sẽ bị chết. Tuy nhiên tính kháng xuân của cỏ còn phụ

thuộc vào các yếu tố như: Cỏ địa phương kháng xuân tốt hơn cỏ nhạp nội, cỏ

mọc riêng rẽ thấp bé kháng xuân mạnh, cỏ thân rễ, cỏ sinh trưởng phát triển

chậm kháng xuân tốt. Loại mùa xuân phục hồi nhanh kháng xuân kém hơn

loại phục hồi chậm, cỏ có hàm lượng vật chất khô cao thì kháng xuân tốt và

ngược lại. Loại có bộ phận trên mặt đất bị chết trong vụ đông thì kháng xuân

mạnh và ngược lại.

Loại cỏ chịu sương giá tốt thì trong giai đoạn cuối thu đầu đông nó vẫn

phát triển bình thường, còn loại chịu giá yếu kém thì ngừng sinh trưởng hoặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chết vào mùa đông.

37

1.7.4. Đặc tính sinh trưởng

Cỏ hoà thảo sinh trưởng và tái sinh qua 3 giai đoạn :

 Giai đoạn 1: Cỏ mới gieo trồng hoặc sau khi cắt, lúc này tốc độ sinh

trưởng chậm.

 Giai đoạn 2: Sau khi gieo trồng hoặc thu cắt 15 - 20 ngày, cỏ sinh

trưởng và phát triển nhanh.

 Giai đoạn 3: Sau khi gieo trồng hoặc thu cắt 40 - 70 ngày, cỏ sinh

trưởng chậm hoặc ngừng hẳn (Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị - 1976)[2].

Căn cứ vào đặc điểm sinh trưởng của từng giống để chúng ta định thời

gian thu hoạch hợp lý. Tiêu chuẩn thu hoạch căn cứ vào điều kiện sinh trưởng

của giống cỏ. Thu hoạch non, năng xuất sẽ thấp, thu hoạch già, giá trị dinh

dưỡng sẽ kém, ảnh hưởng đến tái sinh lần sau, giảm số lứa cắt/năm. Nếu bộ

phận trên đất quá mau lứa thì dự trữ đường bột tích luỹ ở gốc để phát triển

thành lá sẽ bị suy kiệt, đồng cỏ chóng bị tàn lụi.

Đối với cỏ Ghinê, thu hoạch khi thảm cỏ cao 60 - 90 cm; Cỏ lông Para,

thu hoạch khi cao khoảng 40 - 50 cm; Cỏ Pangola, thu hoạch khi cao khoảng

35 - 50 cm (L. Rham phrây, 1980).

Theo Điền Hưng 1964 [17] cho biết :

+ Cỏ thân bò thu hoạch lứa đầu sau trồng 60 ngày, lứa sau khi cắt 30 -

45 ngày.

+ Cỏ thân bụi thu hoạch lứa đầu sau trồng 60 ngày, lứa sau khi cắt 35 -

45 ngày.

+ Cỏ thân đứng thu hoạch sau trồng hoặc sau khi cắt trên 60 ngày.

1.7.5. Sức sống cỏ hoà thảo

Sức sống của cây hoà thảo không giống nhau, có loài sống lâu năm,

có loài chỉ sống được một năm. Vì vậy, người ta chia cỏ hoà thảo thành 4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

loại sau:

38

 Loại cỏ sống một năm thì tàn lụi và chết gọi là cỏ hàng năm như cỏ

Xu Đăng, cỏ lồng vực,...

 Loại cỏ có sức sống ngắn (2 - 3 năm) như cỏ Giầy, cỏ Mật (Melinis

minutiflora).

 Loại cỏ sức sống vừa (4 - 6 năm) như cỏ Pangola, cỏ Voi, cỏ Ghine,

Paspalum, Brachiara.

 Loại cỏ có sức sống lâu (6 - 10 năm) như cỏ mạch tước không râu

(Quang Ngọ, Sinh Tặng, 1976)[37].

Căn cứ vào sức sống của các loài cỏ, người ta dự tính thời gian trồng lại

để đảm bảo năng suất.

1.8. Giá trị kinh tế của các loại cây dùng trong chăn nuôi bò

1.8.1. Cỏ Hoà thảo

Cỏ hoà thảo có vai trò cực kì quan trọng trong chăn nuôi và có giá trị

kinh tế lớn không chỉ vì nó phân bố rộng, chiếm tỷ lệ cao trong thảm cỏ, mà

còn có rất nhiều ưu điểm tốt như: Cho năng suất và giá trị dinh dưỡng cao;

khi chế biến, dự trữ ít rơi rụng lá, ít bị thối; tỷ lệ cỏ độc ít; chịu đựng chăn dắt

cao. Cỏ tự nhiên cho 10 - 20 tấn (chất xanh)/ha/năm, cỏ trồng thân bò cho 30

- 40 tấn/ha/năm, thân bụi cho 50 - 60 tấn/ha/năm, thân đứng cho 80 - 100

tấn/ha/năm, nếu thâm canh có thể cho 160 - 260 tấn/ha/năm. 1 kg cỏ tươi cho

từ 0,1- 0,2 đơn vị thức ăn tương đương với 250 - 500 KcalME. Cỏ hoà thảo

có giá trị dinh dưỡng cao. Ở những nơi đất tốt, nhiều mùn, ẩm, loài cỏ tốt nhất

có thể chứa 16g prôtêin tiêu hoá và 32g lipit trong 1kg cỏ tươi, 8kg cỏ có thể

tương đương 1đơn vị thức ăn [26]

Một số giống cỏ dùng trong chăn nuôi gia súc :

Theo kết quả nghiên cứu của Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt

Nam,cỏ VA 06 là giống cỏ được lai tạo giữa giống cỏ Voi và cỏ đuôi sói của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Châu Mỹ, năng suất 450-600 tấn/ha/năm. Chất lượng tốt, trong cỏ có 17 loại

39

axit amin và nhiều loại vitamin, trong cỏ khô hàm lượng protein 18,46%,

protein tinh 16,86%, đường tổng số 8,3%, tỷ lệ lá cao, lá màu xanh, ít nhám

và mềm hơn cỏ Voi. Cỏ VA 06 có thể làm thức ăn tươi, thức ăn ủ chua, thức

ăn hong khô, bột cỏ để chăn nuôi. Thu hoạch lứa đầu sau khi trồng 70-80

ngày, lứa tiếp theo là 35-40 ngày. Ở miền Bắc trồng vào vụ xuân khi bắt đầu có mưa và nhiệt độ >100C, ở miền Nam có thể trồng vào bất kì vụ nào trong

năm [3].

Cỏ Voi (Pennisetum purpureum)

Cỏ Voi có nguồn gốc ở Nam Phi, thuộc họ hoà thảo sống lưu niên,

phân bố rộng ở các nước nhiệt đới trên thế giới. Ở miền Nam Việt Nam được

Nguyên Văn Tuyền (1973) coi là 1 trong 4 loài cỏ tốt. Cỏ Voi là cỏ lâu năm,

thân rễ cứng, hoá gỗ, mang nhiều rễ khoẻ và ăn sâu; thân đứng giống cây mía,

cao 3-4m, mọc thành bụi dầy, rỗng ruột, có nhiều đốt. thuộc nhóm thực vật

C4 có khả năng thâm canh cao. Trong điều kiện thuận lợi có thể đạt 25 – 30

tấn chất khô/ha; một năm cắt 7 – 8 lứa. Đôi khi có thể đạt năng suất cao hơn

nếu đáp ứng đủ phân bón và nước. Hàm lượng prôtêin thô ở cỏ Voi trung bình

100g/kg chất khô. Khi thu hoạch ở 30 ngày tuổi, hàm lượng prôtêin thô đạt tới

127g/ kg chất khô, lượng đường trung bình 70 – 80 g/kg chất khô. Thường thì

cỏ Voi thu hoạch 28 – 30 ngày tuổi làm thức ăn xanh cho lợn và thỏ; khi sử

dụng cho bò có thể thu hoạch ở 40 – 45 ngày tuổi, trong trường hợp làm

nguyên liệu ủ chua có thể cắt ở 50 ngày tuổi.

Ở Việt Nam thường sử dụng các giống cỏ Voi thân mềm như cỏ Voi

Đài Loan, Solection I, các giống King gras.

Cỏ Sả hay Cỏ Ghinê (Panicum maximum)

Cỏ Sả Mọc thành bụi như cây sả, còn gọi là cỏ Ghinê vì có nguồn gốc

từ Ghi – Nê được nhập vào nước ta từ 50-60 năm nay và đã trở thành cỏ mọc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tự nhiên ở nhiều địa phương trong cả nước. Cỏ sả được trồng làm thức ăn

40

xanh cho trâu, bò, ngựa ở dạng tươi ngoài bãi chăn nuôi hoặc ủ xanh và phơi

khô dự trữ. Cỏ sả có khả năng chịu hạn tốt, thích hợp với nhiều loại đất. Cỏ

thu hoạch 7 – 8 lứa /năm với năng suất từ 10 – 14 tấn chất khô/ ha, có thể

trồng để chăn thả hay thu cắt cho ăn tại chuồng. Nếu thu hoạch ở 30 ngày tuổi

giá trị dinh dưỡng cao (139g prôtêin thô, 303g chất xơ và 1920-2000 kcal/kg

chất khô). Cỏ Ghinê nhanh ra hoa và ra hoa nhiều lần trong năm, vì vậy nếu

để cỏ già giá trị dinh dưỡng giảm mạnh. Ở Việt Nam hiện có tập đoàn cỏ

Ghinê khá phong phú: Dòng K280 chịu hạn tốt, dòng I429 lá to thích hợp với

chế độ thu cắt trong vườn gia đình chăn nuôi nhỏ.

Cỏ Pangola (Brachiaria decumbens)

Cỏ Pangola xuất hiện ở bờ sông Pangola thuộc Nam Phi. Nhập vào

Việt Nam từ trung quốc (8/1967). Đây là giống cỏ lâu năm, thấp, thân cành

nhỏ. Tốc độ sinh trưởng của Pangola nhanh, biên độ sinh thái rộng với nhiệt lạnh (5-60C) và nóng (420C). Sau 2 tháng trồng cỏ cao 47,8cm đạt năng suất

20tấn/ha, với chế độ canh tác tốt, bón phân nhiều năng suất lên tới 100-120

tấn/ha. Pangola trồng và sử dụng để chăn thả hay thu cắt làm cỏ khô.

Cỏ Pát (Paspalum Atratum)

Thuộc loại cỏ bụi thân cao. Có thể sinh trưởng tốt ở những chân đất

nghèo dinh dưỡng và đất chua, có độ pH < 4. Cỏ Pát thích hợp với khí hậu

ẩm, thích nghi với những vùng thường bị ngập lụt. Lượng chất xanh cao, bò

rất thích ăn. Có thể trồng bằng thân hom hoặc gieo hạt với lượng 5-6 kg/ha.

Trồng một lần thu hoặc liên tục 3 năm mới trồng lại.

Cỏ Signal (Brachiaria dicumben)

Thích nghi rộng với nhiều điều kiện khí hậu, đất đai nhiều nơi ở nước

ta. Cỏ Signal có thể sinh trưởng tốt ở những vùng đất nghèo dinh dưỡng và

vùng đất chua phèn (pH<4). Những nơi có mùa khô kéo dài chúng vẫn giữ

được màu xanh, cạnh tranh với cỏ dại, chịu được sự dẫm đạp của gia súc nên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thích hợp cho xây dựng đồng cỏ chăn thả thường xuyên.

41

Cỏ Sweet Jumbo và Superdan

Do Công ty Cổ phần Giống cây trồng miền Nam nhập từ Australia. Cả

2 giống cỏ này đều có độ ngọt cao hơn cỏ Sả, cỏ Voi, lại dễ để dành nên rất

thuận tiện cho đàn bò vỗ béo và các vùng có thời gian nắng kéo dài trong

năm. Đây là giống cỏ lai F1 nên tăng trưởng mạnh, thu hoạch sớm. Lần đầu,

thu hoạch 5 tuần sau gieo. Sau đó cứ 4 tuần cắt một lần. Cỏ trổ hoa muộn nên

dinh dưỡng dồn hết cho lá. Cứ 12kg hạt cỏ gieo được cho 1 ha đất.

Năng suất khoảng 50 - 55 tấn/ha cỏ tươi, rất thích hợp cho gia súc. Nếu

trường hợp cần dự trữ, cỏ Sweet Jumbo ủ chua rất tốt, còn giống cỏ Superdan

lại có lợi thế trong chế biến sấy hoặc phơi khô.

Cả 2 giống cỏ đều có cách trồng như nhau và dùng để vỗ béo bò, dê,

cừu thịt hoặc lấy sữa... Gieo cỏ theo hàng với khoảng cách 60-80cm. Vườn

ươm chuẩn bị thật tốt bằng cách bón lót 60 - 80kg Urê/ha hay 50kg DAP +

50kg Urê ngay trước khi trồng hoặc sau mỗi lần cắt.

Do các loại cỏ này có bộ rễ phát triển mạnh ở tầng đất mặt nên sau mỗi

đợt cắt và bón phân, cần xới xáo, lấp phân và vun gốc để tạo bộ rễ mới thật tốt.

Điều này sẽ giúp tăng năng suất cỏ và số lần cắt. Chỉ bắt đầu cắt hay thả gia súc

vào đồng cỏ khi thấy cỏ cao khoảng 80cm. Nếu sớm quá, cỏ còn non, năng suất

giảm, dinh dưỡng kém. Còn cỏ già quá, chất dinh dưỡng cũng mất đi.

Người trồng cỏ cần lưu ý: Đây là những giống cỏ lai nên không được

để giống trồng đợt 2, ở những thế hệ sau ưu thế lai của loài bị giảm nên năng

suất, và chất lượng cỏ không đảm bảo. Sau 5 - 6 đợt cắt, nếu thấy sức tái sinh

của cỏ yếu đi (dưới 50 tấn/ha) thì phải cày xới, gieo trồng lại đợt mới.

Cỏ Vetiver

Còn gọi là cỏ Hương bài, được trồng với mục đích bảo vệ tài nguyên

đất và nguồn nước. Mặc dù lá của cây cỏ này cũng là một loại thức ăn mang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lại nguồn dinh dưỡng cao cho gia súc nhưng cỏ Vetiver lại có bộ rễ rất hữu

42

dụng. Người ta ví chúng như một hàng rào bê tông sinh học chống lại sự xói

mòn, làm giảm vận tốc dòng chảy của nước, giữ đất không bị cuốn trôi.

Trên thế giới, giống cỏ này đã được sử dụng rộng rãi để chống xói mòn

đất. Nhờ nó có bộ rễ đan xen vào nhau phát triển rất nhanh, cắm thẳng đứng,

sâu vào đất từ 3-4 mét. Chúng còn có khả năng hấp thụ các loại khoáng chất

có độc tính thải ra từ nguồn phân bón, thuốc bảo vệ thực vật có trong nguồn

nước, trong đất và làm cho đất tơi xốp, tăng độ phì nhiêu. Tại Việt Nam, cỏ

Vetiver đã được Bộ Giao thông vận tải ứng dụng trồng ở 2 bên đường Hồ Chí

Minh nhằm chống sụp lỡ đất của mặt đường.

Cỏ Ruzi(Brachiaria ruziziensis)

Cỏ Ruzi có nguồn gốc ở châu Phi, hiện nay mọc tót nhất ở các nước

châu Mỹ La tinh. Cỏ Ruzi được nhập vào nước ta năm 1968 từ Cuba, đây là

giống cỏ lâu năm họ Hoà thảo, nó có thân bò, rễ chùm, thân lá dài mềm, có

lông mịn. Cây có thể cao 1,2-1,5m. Cỏ Ruzi có thể trồng ở vùng đồng bằng,

bờ đê, bờ vùng hay ở trung du miền núi với độ dốc không quá cao. Cỏ sinh

trưởng mạnh trong mùa mưa, có khả năng chịu giẫm đạp cao nên có thể được

trồng làm bãi chăn thả gia súc. Năng suất cỏ đạt từ 60-90tấn/ha/năm. Cỏ Ruzi

mềm và ròn hơn so với cỏ Ghinê nên khả năng lợi dụng của gia súc khá cao,

có thể lên tới 90% . Hàm lượng các chất dinh dưỡng của cỏ Ruzi: Vật chất

khô 32-35%, protein thô 12-13%, xơ thô 27-29%, khoáng tổng số 10-11%.

Với hàm lượng chất dinh dưỡng như nêu trên thì cỏ Ruzi cũng là một loại

thức ăn thô xanh có giá trị cho gia súc [43].

Hầu hết các giống cỏ cao sản đều có sức tăng trưởng nhanh, chịu được

nóng, chịu hạn tốt và thích hợp với nhiều loại đất. Mùa mưa là thời gian cỏ

phát triển nhanh nhất, mau cho thu hoạch (trung bình khoảng từ 20-25 ngày).

Với tốc độ tăng trưởng như thế, người chăn nuôi có điều kiện dự trữ cỏ lại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bằng cách ủ xanh hoặc phơi khô.

43

1.8.2. Cây bộ Đậu

Cỏ họ Đậu (Centro sema và Centro cavalcade):

Cho năng suất cao ở mọi loại đất, mọi điều kiện khí hậu. Cỏ họ Đậu

mọc dày thành lớp nên có thể trồng thành đồng cỏ chăn thả hoặc cắt làm cỏ

khô dự trữ qua đông cho bò sữa rất tốt. Mặt khác cỏ họ Đậu có khả năng cố

định đạm cho đất rất lớn (120kg nitrogen/ha) nên vừa có giá trị cải tạo đất vừa

dùng làm thức ăn cho gia súc, đặc biệt là chăn nuôi bò sữa.

Có thể trồng xen cỏ họ đậu với các loại cỏ khác. Gieo trồng chủ yếu

bằng hạt với lượng 3kg/ha để làm đồng cỏ chăn thả hoặc 10kg/ha nếu trồng

để cắt cỏ làm cỏ khô.

Điều kiện khí hậu, đất đai nhiệt đới nhìn chung ít thuận lợi cho các

giống đậu đỗ ôn đới có giá trị dinh dưỡng cao. Còn các giống đậu đỗ nhiệt đới

tuy thích hợp với điều kiện khí hậu nhưng năng suất và giá trị dinh dưỡng

không cao. Trên đồng cỏ tự nhiên tỉ lệ đậu đỗ rất thấp chỉ chiếm 4 – 5% về số

lượng loài, có nơi còn ít hơn và hầu như không đáng kể về năng suất.

Đậu đỗ thức ăn gia súc ở nước ta thường giàu prôtêin, vitamin, khoáng

Ca, Mg, Mn, Zn, Cu, Fe, nhưng ít phốtpho, kaly hơn cỏ hòa thảo. Tuy vậy,

hàm lượng prôtêin thô ở thân lá cây đậu đỗ trung bình 167g/ kg chất khô, xấp

xỉ giá trị trung bình của đậu đỗ nhiệt đới thấp hơn giá trị của đậu đỗ ôn đới

(175g/ kg chất khô), hàm lượng chất khô 200 – 260g/kg thức ăn, giá trị năng

lượng cao hơn cỏ hòa thảo [58]. Ưu điểm của đậu đỗ thức ăn gia súc là khả

năng cộng sinh với vi sinh vật trong nốt sần ở rễ có thể sử dụng được nitơ

trong không khí tạo ra thức ăn giàu prôtêin, giàu vitamin, khoáng đa lượng và

vi lượng dễ hấp thu. Nhược điểm cơ bản của đậu đỗ thức ăn gia súc là thường

chứa chất ức chế men tiêu hóa hay độc tố làm cho gia súc không ăn được

nhiều. Bởi vậy, nhất thiết phải sử dụng phù hợp với cỏ hòa thảo để nâng cao

hiệu suất sử dụng thức ăn. Hiện nay, nước ta chưa có nhiều giống đậu đỗ thức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ăn xanh, giống Stylô và keo dậu được chú ý hơn cả.

44

Cỏ Stylo (Stylosanthes)

Cỏ Stylo phân bố tự nhiên ở Trung và Nam Mỹ, nhập vào Việt Nam

năm 1967. Là giống cỏ họ Đậu, thân đứng, phân nhiều cành, có thể cao tới 1

m. Bộ rễ rất phát triển ăn sâu xuống đất khoảng 70cm, do đó nhiều nơi còn

trồng để chống xói mòn đất, bảo vệ thân đê đập rất tốt. đây là loại thức ăn

xanh rất tốt cho gia súc và gia cầm vì có tỷ lệ đạm cao.

Cỏ Stylo trồng một lần có thể thu hoạch 4-5 năm. Năng suất có thể đạt

90- 100 tấn/ha/năm nếu được chăm sóc, thâm canh tốt.Cỏ Stylo ở nước ta có

khả năng chịu hạn tốt do có lông và rễ phát triển, có thể mọc trên nhiều loại

đất chua, nghèo dinh dưỡng. Năng suất cỏ Stylo có thể đạt 71-114 tấn/ha/lứa.

Hàm lượng các chất dinh dưỡng của cỏ ở 2 tháng tuổi: Protein thô 16,7%, mỡ

1,7%, xơ 31,7%, P 0,56%, Ca 1,55%, dẫn xuất không đạm là 39,9%.

Keo dậu (Leucaena leucocephala)

Keo đậu có nguồn gốc ở Trung, Nam Mỹ và quần đảo Thái Bình

Dương. Ở nước ta keo dậu mọc tự nhiên ở những vùng ven biển dọc duyên

hải miền Trung, một số giống keo dậu được nhập vào nước ta từ những

năm1980. Đây là cây thân bụi hoặc cây thân gỗ nhỏ, khả năng chịu hạn rất

tốt, sinh trưởng tốt trên nhiều loại đất khác nhau (nhưng đất phải thoát nước

và không quá chua), chịu lạnh và sương muối kém, năng suất 40-50tấn

/ha/năm. Hàm lượng các chất dinh dưỡng của keo dậu ở lá tươi: Protein thô

31,1%, mỡ 46,0%, xơ 18,1%, dẫn xuất không đạm là 6,5%.

Cây Gigantea(Trichantera gigantea) hay còn gọi là cây chè khổng lồ

Gigantea là cây thức ăn gia súc phổ biến ở Colombia, cuối năm 1990

cây này được nhập vào nước ta. Gigantea là cây bụi nhỏ, sống lâu năm, thân

mọc thẳng có nhiều mấu lồi, khi còn non thân mềm mọng nước, sau 6 tháng

thân hoá gỗ cứng phía ngoài. Cây Gigantea là cây ưa ấm, chịu đước bóng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

râm, chịu sương muối kém. Năng suất chất xanh 70-80 tấn/ha/năm. Gigantean

45

tươi khi thu hoạch trong mùa mưa có hàm lượng nước trung bình 80-85%,

hàm lượng xơ 25%, protein thô 14%. Đây là cây mà bò rất thích ăn và có thể

chữa bệnh táo bón ở gia súc mà không gây độc hại [43].

1.8.3. Cây trồng khác

Bao gồm rơm, thân cây ngô già, cây lạc … loại thức ăn này thường có

hàm lượng xơ cao (20 – 35 % tính trong chất khô) và tương đối nghèo chất

dinh dưỡng.

Rơm (Orysa sativa): Đây là nguồn thức ăn dồi dào nhất cho bò. Ở nước

ta, rơm chiêm được thu hoạch vào tháng 5 – 6, rơm mùa vào tháng 9 -10, rơm

lúa xuân vào tháng 3 – 4 và rơm lúa vụ thu vào tháng 7 – 8. Trong đó rơm mùa

là phổ biến nhất, vì thời vụ này dễ dàng phơi và dự trữ tốt nhất cho bò. Cả nước

ta có khoảng 40 triệu tấn rơm để làm thức ăn cho gia súc. Rơm thường chứa ít

chất dinh dưỡng, hàm lượng prôtêin có khoảng 4 -7%, chất béo từ 1 -2%,

vitamin và khoáng thường cũng nghèo nhưng xơ cao (từ 30 – 34%) song nó rất

cần cho gia súc khi cỏ tươi và cỏ khô ít hoặc không có. Bởi vậy, rơm là nguồn

thức ăn cần thiết cho trâu bò vào mùa cây cỏ xanh hiếm (Đông Xuân).

Ngô (Zea mays L): Ngô là cây thức ăn quan trọng ở Việt Nam, dùng

làm lương thực cho người, thức ăn tinh cho gia súc; là cây hằng năm, thân

thẳng và đơn độc. Sinh trưởng nhanh có thể thu hoạch trong thời gian ngắn.

Ngô thích nghi với điều kiện nhiệt đới nống ẩm, có thể sống ở một số loại đất,

nhưng tốt nhất là đất tốt, thoát nước. Năng suất chất xanh của ngô thường

thay đổi tùy theo mục đích sử dụng và mật độ gieo trồng. Nếu thu hoạch làm

thức ăn xanh sau 40 – 50 ngày cho năng suất 12,6 tấn /ha. Sau 4 – 5 tháng cho

25 – 40 tấn/ ha và nếu đất tốt tới 100 – 200 tấn /ha xanh hay hơn, nhưng ở

nhiệt đới nằm trong khoảng 8 – 70 tấn/ha xanh hay 2 – 20 tấn chất khô/ha

[33]. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của ngô được trình bày ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bảng dưới bảng 1.5 [57].

46

Bảng 1.5 : Giá trị dinh dƣỡng của cây Ngô trong các giai đoạn khác nhau

(Viện chăn nuôi - 1995)

NS khô

VCK

Prôtêin

Lipid

Dẫn xuất

Giai đoạn

(kg/ha)

(%)

(%)

không đạm

(%)

(%)

Ngậm sữa

21.4

309

2.5

0.7

4.4

14.4

Chín sáp

27.4

295

2.6

0.8

8.6

13.3

Chín hoàn toàn

42.2

260

3.1

1.1

7.8

28.4

Ngoài những cây thức ăn kể trên, bà con nông dân còn tận dụng các

phụ phẩm của nghành trồng trọt như ngọn lá sắn, ngọn lá mía, thân lá lạc, phụ

phẩm dứa, khô dầu…Đó đều là những thức ăn xanh có giá trị dinh dưỡng cao,

rất tốt cho chăn nuôi đại gia súc, tuy nhiên hiện nay do diện tích trồng các loại

cây trên ở các hộ chăn nuôi còn ít nên lượng thức ăn xanh này sử dụng thêm

vào chăn nuôi là không đáng kể.

Có thể nói, đối với vấn đề trồng cỏ, thật không có gì dễ bằng. Để khắc

phục tình hình thiếu thức ăn trong ngành chăn nuôi, đặc biệt là vào thời kỳ

hạn hán như hiện nay, việc trồng các giống cỏ cao sản được xem như một giải

pháp hữu hiệu, vừa tạo ra nguồn thức ăn cho gia súc, đồng thời bảo vệ tốt

điều kiện môi trường, tăng độ phì nhiêu cho đất. Trồng cỏ chăn nuôi gần như

không phải đầu tư gì ngoài công lao động. Phân trâu bò dùng bón ngay cho

đồng cỏ. Trồng cỏ không đòi hỏi kỹ thuật và chăm bón cao. Các giống cỏ như

cỏ voi, ghinê, păngola, cỏ ruzi... thích nghi cao cả trên những vùng đất nghèo.

Cỏ giống thường 2 năm thay một lần dùng luôn hom hoặc hạt cỏ đang trồng

thay thế. Sau mỗi lứa thu hoạch mới phải chăm bón một lần. Cỏ phát triển

mạnh vào mùa mưa, đối với các loại cỏ thân bò có thể phơi khô, các loại cây

thân đứng có thể ủ chua làm thức ăn dự trữ quanh năm.

1.9. Các loại thức ăn cho bò sữa

Thức ăn cho bò sữa được chia thành 3 nhóm chính là thức ăn thô, thức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ăn tinh và thức ăn bổ sung: Thức ăn thô, bao gồm một số nhóm: thức ăn xanh

47

(cỏ tự nhiên, cỏ trồng, ngọn mía, vỏ đọt dứa,...), thức ăn ủ chua (được tạo ra

thông qua ủ chua thức ăn xanh), cỏ khô và rơm lúa, thức ăn củ quả (khoai

lang, khoai tây, cà rốt, củ cải, bầu bí,...), phế phụ phẩm công nghiệp chế biến

(bã đậu nành, bã bia, bã sắn, rỉ mật đường,...); thức ăn tinh, gồm các loại hạt

ngũ cốc và bột từ hạt ngũ cốc (như ngô, sắn, mì, gạo, cám gạo...), bột và khô

dầu đậu tương, lạc...; các loại hạt cây họ đậu và thức ăn tinh hỗn hợp được

sản xuất công nghiệp; thức ăn bổ sung (urê và hỗn hợp khoáng - vitamin,...).

Trong các nhóm thức ăn trên có nhiều loại thức ăn giúp bò đạt sản

lượng sữa tốt đó là:

- Khoai lang: Có nhiều tinh bột và đường giúp sữa có chất lượng tốt.

Khoai lang có hai loại là khoai đỏ và khoai trắng trong đó khoai đỏ có nhiều tinh

bột và đường nhưng lại ít chất khoáng và protein hơn so sánh với khoai trắng.

- Khoai tây: Bổ hơn khoai lang do có nhiều protein, vitamin B1, B2, C.

Tuy vậy, trong vỏ và mầm khoai tây có chất độc, nên trước khi cho bò ăn cần

bỏ mầm và rửa cho sạch vỏ khoai.

- Bí đỏ: Đây là nguồn vitamin A bổ dưỡng đối với bò sữa. Lượng

vitamin A trong bí đỏ sẽ càng tăng hơn, khi được ăn chung với khoai lang đỏ

và khoai tây.

- Ngô: Ngô giàu đường, lipit, protein. Cho bò ăn ngô rất tốt, vì cơ thể

bò hấp thụ được hầu hết những chất này.

- Bo bo: Bo bo giàu protein hơn những loại thực phẩm khác, nhưng tỷ

lệ những chất khác thì lại kém hơn. Thân cây bo bo khi còn xanh có thể dùng

cho bò ăn.

- Lạc: Do có nhiều protein và chất béo nên ăn lạc có lợi về sữa cho bò.

Có thể thay lạc bằng khô dầu lạc.

- Đậu nành: Chỉ dùng bã đậu nành, vì trong đậu nành sống có chất ngăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cản việc hấp thụ sinh tố B của bò.

48

Khi bò đang trong thời kỳ vắt sữa, để bò có thể cho nhiều sữa nên cho

bò ăn theo chế độ như sau:

+ Cho bò ăn thêm các loại khoai và củ như khoai lang, sắn, bí đỏ...

+ Ăn thêm khô dầu lạc, khô đậu tương, khô dầu dừa.

+ Ăn thêm những thức ăn nhiều nước như bã bia, bã đậu phụ...

+ Tinh bột cũng cần bổ sung thêm cho bò.

Để bò cho sữa nhiều trong một thời gian dài, ngoài việc cho bò ăn đầy

đủ và chất cần thiết nên trộn thêm Premix vitamin và Premix khoáng. Đặc

biệt là, nên cho bò uống nước dừa non nạo. Theo kinh nghiệm thực tế, thì cho

bò ăn uống đầy đủ, uống thêm nước dừa non nạo có thể cho một chu kỳ sữa

dài 12-14 tháng (hơn mức bình thường 4-6 tháng).

Nhu cầu năng lượng, protein, axit amin, chất khoáng (Ca và P) cho bò

thịt, lợn, gà, vịt, ngan, gà tây, ngỗng được nghiên cứu nhiều và đã được đưa

vào sản xuất. Tuy nhiên những nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của bò sữa

thì còn ít. Thức ăn bổ sung hiện nay được sử dụng rộng rãi trong chăn nuôi,

tuy nhiên chúng ta nhập thức ăn bổ sung từ nước ngoài là chính (hàng năm

nhập khoảng trên 100 ngàn tấn gồm axit amin, premix khoáng vitamin và

kháng sinh). Tiến bộ KHKT về thức ăn bổ sung của thế giới được kịp thời

đưa vào VN như axit amin, enzym, các chất tăng sức đề kháng, các chất hạ

thấp pH đường tiêu hoá (acidifier), probiotic và prebiotic. Các thức ăn này

góp phần tăng hiệu quả sử dụng thức ăn, hạn chế tiêu chảy, tăng năng suất

chăn nuôi và đặc biệt góp phần giảm bớt việc.Xác định nhu cầu dinh dưỡng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của động vật nuôi.

49

Chương 2

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG NGHIÊN CỨU

2.1. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh

2.1.1. Về vị trí địa lý và phạm vi ranh giới tỉnh

Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, nằm gọn trong châu thổ

sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà Nội. Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng

điểm: tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, khu vực có

mức tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu kinh tế mạnh.

- Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang

- Phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên và một phần Hà Nội

- Phía Đông giáp tỉnh Hải Dương

- Phía Tây giáp thủ đô Hà Nội

Với vị trí như thế, xét tầm không gian lãnh thổ vĩ mô, Bắc Ninh có

nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh:

- Nằm trên tuyến đường giao thông quan trọng chạy qua như quốc lộ

1A, quốc lộ 18, đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và các tuyến đường thuỷ như

sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình rất thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá

và du khách giao lưu với các tỉnh trong cả nước.

- Gần thủ đô Hà Nội được xem như là một thị trường rộng lớn hàng thứ

hai trong cả nước, có sức cuốn hút toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế, xã

hội, giá trị lịch sử văn hoá... đồng thời là nơi cung cấp thông tin, chuyển giao

công nghệ và tiếp thị thuận lợi đối với mọi miền đất nước. Hà Nội sẽ là thị

trường tiêu thụ trực tiếp các mặt hàng của Bắc Ninh về nông - lâm - thuỷ sản,

vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ... Bắc Ninh cũng là

địa bàn mở rộng của Hà Nội qua xây dựng các thành phố vệ tinh, là mạng

lưới giao công cho các xí nghiệp của thủ đô trong quá trình công nghiệp hoá -

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hiện đại hoá.

50

- Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc gồm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng

Ninh sẽ có tác động trực tiếp đến hình thành cơ cấu và tốc độ tăng trưởng

kinh tế của Bắc Ninh về mọi mặt, trong đó đặc biệt là công nghiệp chế biến

nông sản và dịch vụ du lịch.

- Là cửa ngõ phía Đông Bắc của thủ đô Hà Nội, Bắc Ninh là cầu nối

giữa Hà Nội và các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, trên đường bộ giao lưu

chính với Trung Quốc và có vị trí quan trọng đối với an ninh quốc phòng.

Trong cấu trúc địa lý không gian thuận lợi như vậy sẽ là yếu tố phát

triển quan trọng và là một trong những tiềm lực to lớn cần được phát huy một

cách triệt để nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy quá trình đô

thị hoá của tỉnh Bắc Ninh. Xét trên khía cạnh cấu trúc hệ thống đô thị và các

điểm dân cư của tỉnh thì các đô thị Bắc Ninh sẽ dễ trở thành một hệ thống hoà

nhập trong vùng ảnh hưởng của thủ đô Hà Nội và có vị trí tương tác nhất định

với hệ thống đô thị chung toàn vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.

2.1.2. Các yếu tố khí hậu, địa chất, thuỷ văn

Về khí hậu:

Bắc Ninh thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh.

Nhiệt độ trung bình năm là 23,3°C, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là

28,9°C (tháng 7), nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 15,8°C (tháng 1). Sự

chênh lệch nhiệt độ giữa tháng cao nhất và tháng thấp nhất là 13,1°C.

Lượng mưa trung bình hàng năm dao động trong khoảng 1400 -

1600mm nhưng phân bố không đều trong năm. Mưa tập trung chủ yếu từ

tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng

11 đến tháng 4 năm sau chỉ chiếm 20% tổng lượng mưa trong năm.

Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1530 - 1776 giờ, trong đó

tháng có nhiều giờ nắng trong năm là tháng 7, tháng có ít giờ nắng trong năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

là tháng 1.

51

Hàng năm có 2 mùa gió chính: Gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông

Nam. Gió mùa Đông Bắc thịnh hành từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm

sau, gió mùa Đông Nam thịnh hành từ tháng 4 đến tháng 9 mang theo hơi ẩm

gây mưa rào.

Nhìn chung Bắc Ninh có điều kiện khí hậu đồng đều trong toàn tỉnh và

không khác biệt nhiều so với các tỉnh đồng bằng lân cận nên việc xác định các

tiêu trí phát triển đô thị có liên quan đến khí hậu như hướng gió, thoát nước

mưa, chống nóng, khắc phục độ ẩm... dễ thống nhất cho tất cả các loại đô thị

trong vùng; việc xác định tiêu chuẩn qui phạm xây dựng đô thị có thể dựa vào

qui định chung cho các đô thị vùng đồng bằng Bắc bộ.

Về địa hình - địa chất:

Địa hình của tỉnh tương đối bằng phẳng, có hướng dốc chủ yếu từ Bắc

xuống Nam và từ Tây sang Đông, được thể hiện qua các dòng chảy mặt đổ về

sông Đuống và sông Thái Bình. Mức độ chênh lệch địa hình không lớn, vùng

đồng bằng thường có độ cao phổ biến từ 3 - 7m, địa hình trung du đồi núi có

độ cao phổ biến 300 - 400m. Diện tích đồi núi chiếm tỷ lệ rất nhỏ (0,53%) so

với tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phân bố chủ yếu ở 2 huyện Quế Võ và

Tiên Du. Ngoài ra còn một số khu vực thấp trũng ven đê thuộc các huyện Gia

Bình, Lung Tài, Quế Võ, Yên Phong.

Đặc điểm địa chất mang những nét đặc trưng của cấu trúc địa chất

thuộc vùng trũng sông Hồng, bề dày trầm tích đệ tứ chịu ảnh hưởng rõ rệt của

cấu trúc mỏng. Tuy nhiên nằm trong miền kiến tạo Đông Bắc, Bắc bộ nên cấu

trúc địa chất lãnh thổ Bắc Ninh có những nét còn mang tính chất của vòng

cung Đông Triều vùng Đông Bắc. Toàn tỉnh có mặt các loại đất đá có tuổi từ

Cambri đến đệ tứ song nhìn chung có thành tạo Kainozoi phủ trên các thành

tạo cổ. Đây là thành tạo chiếm ưu thế về địa tầng lãnh thổ. Các thành tạo Triat

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phân bố trên ở hầu hết các dãy núi, thành phần thạch học chủ yếu là cát kết,

52

sạn kết. Bề dày các thành tạo đệ tứ biến đổi theo quy luật trầm tích từ Bắc

xuống Nam. Ở các vùng núi do bị sói mòn nên bề dày của chúng còn rất

mỏng, càng xuống phía Nam bề dày có thể đạt tới 100 m, trong khi đó vùng

phía Bắc (Đáp Cầu) bề dày chỉ đạt 30 - 50 m.

Với đặc điểm này địa chất của tỉnh Bắc Ninh có tính ổn định hơn so với

Hà Nội và các đô thị vùng đồng bằng Bắc bộ khác trong việc xây dựng công

trình. Và về mặt địa hình có thể hình thành hai dạng đô thị vùng đồng bằng và

trung du. Bên cạnh đó có một số đồi núi nhỏ dễ tạo cảnh quan đột biến; cũng

như một số vùng trũng nếu biết khai thác có thể tạo ra cảnh quan sinh thái

đầm nước vào mùa mưa để phục vụ cho các hoạt động văn hoá và du lịch.

Về đặc điểm thuỷ văn:

Bắc Ninh có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, mật độ lưới sông khá

cao, trung bình 1,0 - 1,2 km/km², có 3 hệ thống sông lớn chảy qua gồm sông

Đuống, sông Cầu và sông Thái Bình.

- Sông Đuống: Có chiều dài 42 km nằm trên đất Bắc Ninh, tổng lượng

nước bình quân 31,6 tỷ m³. Mực nước cao nhất tại bến Hồ tháng 8/1945 là

9,64m, cao hơn so với mặt ruộng là 3 - 4 m. Sông Đuống có hàm lượng phù

sa cao, vào mùa mưa trung bình cứ 1 m³ nước có 2,8 kg phù sa.

- Sông Cầu: Tổng chiều dài sông Cầu là 290 km với đoạn chảy qua tỉnh

Bắc Ninh dài 70 km, lưu lượng nước hàng năm khoảng 5 tỷ m³. Sông Cầu có

mực nước trong mùa lũ cao từ 3 - 6 m, cao nhất là 8 m, trên mặt ruộng 1 - 2

m, trong mùa cạn mức nước sông lại xuống quá thấp (0,5 - 0,8 m).

- Sông Thái Bình: Thuộc vào loại sông lớn của miền Bắc có chiều dài

385 km, đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh dài 17 km. Do phần lớn lưu vực sông bắt

nguồn từ các vùng đồi trọc miền Đông Bắc, đất đai bị sói mòn nhiều nên nước

sông rất đục, hàm lượng phù sa lớn. Do đặc điểm lòng sông rộng, ít dốc, đáy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nông nên sông Thái Bình là một trong những sông bị bồi lấp nhiều nhất. Theo

53

tài liệu thực đo thì mức nước lũ lụt lịch sử sông Thái Bình đo được tại Phả Lại năm 1971 đạt tới 7,21 m với lưu lượng lớn nhất tại Cát Khê là 5000 m3/s.

Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có các hệ thống sông ngòi nội địa như

sông Ngũ huyện Khê, sông Dân, sông Đông Coi, sông Bùi, ngòi Tào Khê,

sông Đồng Khởi, sông Đại Quảng Bình...

Với hệ thống sông này nếu biết khai thác trị thuỷ và điều tiết nước sẽ

đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tiêu thoát nước của tỉnh. Trong khi đó

tổng lưu lượng nước mặt của Bắc Ninh ước khoảng 177,5 tỷ m³, trong đó

lượng nước chủ yếu chứa trong các sông là 176 tỷ m³; được đánh giá là khá

dồi dào. Cùng với kết quả thăm dò địa chất cho thấy trữ lượng nước ngầm

cũng khá lớn, trung bình 400.000 m³/ngày, tầng chứa nước cách mặt đất trung

bình 3 - 5 m và có bề dày khoảng 40 m, chất lượng nước tốt. Toàn bộ nguồn

nước này có thể khai thác để phục vụ chung cho cả sản xuất và sinh hoạt

trong toàn tỉnh, trong đó có các hoạt động của đô thị.

2.1.3. Tài nguyên thiên nhiên - môi trường

Nguồn tài nguyên thiên nhiên của tỉnh Bắc Ninh qui về các dạng sau:

Tài nguyên rừng:

Tài nguyên rừng của Bắc Ninh không lớn, chủ yếu là rừng trồng. Tổng

diện tích đất rừng là 661,26 ha phân bố tập trung ở Quế Võ (317,9 ha) và

TiênDu. (254,95 ha). Tổng trữ lượng gỗ ước tính 3.279 m³, trong đó rừng

phòng hộ 363 m³, rừng đặc dụng 2916 m³.

Tài nguyên khoáng sản:

Bắc Ninh nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu chỉ có vật liệu xây

dựng như: đất sét làm gạch, ngói, gốm, với trữ lượng khoảng 4 triệu tấn ở

Quế Võ và Tiên Du, đất sét làm gạch chịu lửa ở thị xã Bắc Ninh, đá cát kết

với trữ lượng khoảng 1 triệu tấn ở Thị Cầu - Bắc Ninh, đá sa thạch ở Vũ Ninh

- Bắc Ninh có trữ lượng khoảng 300.000 m³. Ngoài ra còn có than bùn ở Yên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phong với trữ lượng 60.000 - 200.000 tấn.

54

Tài nguyên đất:

Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Bắc Ninh là 803,87 km², trong đó

đất nông nghiệp chiếm 64,7%; đất lâm nghiệp chiếm 0,7%, đất chuyên dùng

và đất ở chiếm 23,5% & đất chưa sử dụng còn 11,1%. Nhìn chung tiềm năng

đất đai của tỉnh vẫn còn lớn. Riêng đất đô thị là 1.158,9 ha chiếm 1,44% diện

tích tự nhiên thuộc địa phận thị xã Bắc Ninh và 6 thị trấn với qui mô dân số

khoảng 90.500 dân.

2.2. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Cảnh Hƣng

2.2.1. Điều kiện tự nhiên

* Vị trí địa lý: Xã Cảnh hưng thuộc huyện Tiên du tỉnh Bắc ninh: - Phía

Bắc giáp xã Phật tích; Phía Nam giáp sông Đuống; Phía Đông giáp xã Minh

đạo; Phía Tây giáp xã Chí phương. Cách quốc lộ 1A khoảng 7Km và cách

thành phố Bắc Ninh khoảng 15 Km.

Xét tầm không gian lãnh thổ vĩ mô, Cảnh Hưng - Tiên du-Bắc Ninh có

nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

* Địa hình: Địa hình của vùng tương đối bằng phẳng không có đồi núi.

Đặc điểm địa chất mang những nét đặc trưng của cấu trúc địa chất thuộc vùng

trũng sông Hồng.

* Khí hậu: Mang nét đặc trưng của tỉnh, cũng là vùng khí hậu nhiệt đới

gió mùa, có mùa đông lạnh, hàng năm có 2 mùa gió chính: gió mùa Đông Bắc

và gió mùa Đông Nam.

Nhìn chung xã Cảnh hưng Tiên Du, Bắc Ninh có điều kiện khí hậu

thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp. Mùa Đông với khí hậu khô, lạnh

làm cho vụ đông trở thành vụ chính có thể trồng được nhiều loại cây rau màu

ngắn ngày cho giá trị cao và xuất khẩu. Yếu tố hạn chế lớn nhất đối với sử

dụng đất là mưa lớn tập trung theo mùa thường làm ngập úng các khu vực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thấp trũng gây khó khăn cho việc thâm canh tăng vụ mở rộng diện tích.

55

* Đất đai: Tính đến ngày 1/1/2008: Tổng diện tích tự nhiên 547.63 ha.

Trong đó đất nông nghiệp 315.37 ha chiếm 57.59%(trong đó đất cỏ dùng vào

chăn nuôi 1.48 ha); đất phi nông nghiệp 206.94 ha chiếm37.79%; đất chưa sử

dụng 25.32 ha chiếm 4.62%.

* Thực vật: Đã chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung và

từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao giá trị làm ra/đơn vị canh

tác. Diện tích gieo trồng cây hàng năm ổn định ở mức 300 ha/năm, trong đó

khoảng 80,5% là cây lương thực; còn lại là cây thực phẩm và cây công

nghiệp. Năng suất các các loại cây trồng đã được nâng lên do áp dụng tiến bộ

kỹ thuật mới về giống, về kỹ thuật thâm canh.

2.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội

* Dân cư: Năm 2006: 5727 người; năm 2007: 5784 người; dự tính đến

năm 2015 là 6260 người. Do sự gia tăng về dân số đã tăng cường nguồn lao

động. Song cũng do dân số gia tăng đã làm cho nhu cầu về đất ở, đất xây

dựng, đất canh tác cây lương thực thực phẩm tăng theo tạo nên sức ép rất

mạnh mẽ lên tài nguyên đất vốn đã hạn hẹp. Hiện nay thu nhập của người dân

khoảng 450 USD/người/năm.

* Nghề nghiệp: Dân cư hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

còn lại là hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.

56

Chương 3

ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tƣợng

Một số loài cỏ được trồng ở xã Cảnh Hưng Tiên Du - Bắc Ninh được

dùng làm thức ăn cho gia súc của một số hộ gia đình. Điều tra hai mô hình

chăn nuôi bò thịt và bò sữa về nguồn thức ăn và hiệu quả kinh tế.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về thời gian: Đề tài được thực hiện từ tháng 5/2008 đến tháng 9/2009.

Về không gian: Đề tài nghiên cứu giới hạn trong phạm vi là xã Cảnh

Hưng huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh với mục đích đánh giá thực trạng và tiềm

năng thức ăn tự nhiên, các loài cây trồng phục vụ cho chăn nuôi đại gia súc.

3.3. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã dùng các phương pháp sau:

3.3.1. Các phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên

3.3.1.1. Nghiên cứu tại Cảnh Hưng (mô hình bò sữa)

- Tìm hiểu các đặc điểm sinh thái ở xã Cảnh Hưng Tiên Du - Bắc Ninh,

tình hình khai thác thức ăn của các hộ gia đình của xã.

- Trực tiếp quan sát ngoài đồng cỏ hộ nông dân nông dân, lấy mẫu vật

về phân tích.

- Chọn 3 loài cỏ trồng được dùng làm thức ăn cho gia súc của một số hộ gia đình. Xác lập ô nghiên cứu với diện tích 80m2 x 2/loài. Mỗi ô được bố trí sao

cho có sự đồng đều về địa hình, đất đai, sự chăm bón. Trong các ô tiến hành bón

phân theo công thức, sau đó xác định số lứa cắt và năng suất từng lứa.

- Chọn 2 hộ thuộc hai mô hình khai thác khác nhau để nghiên cứu và so

sánh hiệu quả kinh tế.

- Mẫu cỏ, đất điều tra ngoài thiên nhiên theo phương pháp Hoàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Chung (2008).

57

- Điều tra các nguyên nhân ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng cỏ.

- Điều tra qui trình thức ăn 1 năm của một số gia đình, mô hình

chăn nuôi.

3.3.1.2. Nghiên cứu tại Hiệp Hoà (mô hình bò thịt)

Dùng phương pháp ô tiêu chuẩn của Hoàng Chung (2008).

3.3.2. Các phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm

Mẫu thực vật thu được đem về giám định tên khoa học và phân tích

trong phòng thí nghiệm.

 Xác định tên khoa học của các loài cây thức ăn gia súc:

Chúng tôi sử dụng khoá phân loại hiện hành của các tác giả Nguyễn

Tiến Bân và cộng sự (2001, 2003, 2005) [4], Lê Khả Kế (1969, 1975) [15],

Phạm Hoàng Hộ (1993) [12] và một số tài liệu liên quan đến phân loại.

 Nghiên cứu năng suất :

Theo phương pháp của Hoàng Chung (2006. Mẫu mang về phòng thí

nghiệm được phân thành 2 phần : Phần tươi và phần chết. Phần tươi được

phân chia theo các nhóm: Hoà thảo, Xa thảo, cây Họ đậu, cây Thuộc thảo, cây

gỗ + cây bụi theo các phần : Lá, thân, hoa….sau đó cân tươi rồi sấy khô, cân

khô và tính giá trị trung bình. Phần đã chết và phần chưa hoàn toàn mục nằm

trên mặt đất đều thuộc phần chết chung.

Đánh giá chất lượng cỏ:

Chúng tôi phân tích 2 giống cỏ trồng điển hình tại Cảnh Hưng, mỗi

giống ở 3 địa điểm khác nhau với các chỉ tiêu nước, vật chất khô, prôtêin,

đường và chất xơ, lipid.

Đánh giá chất lượng đất trồng: Chọn 11 mẫu đất trồng để phân tích các

chỉ tiêu: VCK, pH, Nitơ, P2O5. K2O, OM .

a. Xác định lượng vật chất khô trong cỏ [21]:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Nội dung:

58

Sấy mẫu ở nhiệt độ 1050 C đến khi khối lượng mẫu không đổi và xác

định sự thay đổi khối lượng trong quá trình sấy.

- Dụng cụ:

+ Cân phân tích với độ chính xác đến ± 0,0001 gam. + Tủ sấy điều chỉnh được nhiệt độ ± 10C.

+ Hộp nhôm + nắp có đường kính 65 mm, cao 30 mm.

+ Bình hút ẩm có chứa chất hút ẩm.

- Các bước tiến hành: Sấy hộp nhôm và nắp ở nhiệt độ 1050 C trong vòng 30 phút, sau đó để

nguội trong bình hút ẩm cân chính xác đến 0,0001 g.

Cân vào hộp nhôm 5g mẫu ở trạng thái khô không khí với độ chính xác

0,0001g. Mở nắp hộp nhôm, đặt nắp xuống đáy của hộp sau đó cho vào tủ sấy, sấy ở nhiệt độ 1050 C (± 10C) trong vòng 4 giờ tính từ khi nhiệt độ của tủ sấy đạt 1050 C (Chú ý: thời gian để đạt nhiệt độ 1050 C tính từ lúc bắt đầu cho

hộp nhôm vào sấy không vượt quá 30 phút). Sau khi sấy 4 giờ, chúng ta đậy

nắp hộp nhôm lại sau đó lấy ra cho vào bình hút ẩm. Sau khi để nguội đem

cân bằng cân phân tích. Khối lượng hao hụt sau khi sấy được coi là lượng

nước, phần còn lại sau khi sấy kiệt gọi là lượng vật chất khô.

- Tính toán lượng vật chất khô trong mẫu phân tích (S): Được tính theo

công thức phần trăm (%):

(3.1)

Trong đó: S là lượng vật chất khô trong mẫu (%). m1 là khối lượng mẫu sau khi sấy ở 1050C. m là khối lượng mẫu trước khi sấy ở 1050C.

b. Xác định hàm lượng nước trong cỏ:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(3.2)

59

Hàm lượng nước = 100% (tươi)- vật chất khô (%)

A : Là trọng lượng bình + trọng lượng mẫu ban đầu trước khi sấy

B : Trọng lượng bình + trọng lượng mẫu

c. Phương pháp phân tích hàm lượng chất xơ theo Heenerberg-Stohmann

[22]:

Chất xơ được coi là tổng hợp của nhiều chất như xenluloze,

hemixenluloze, các chất pectin, lignin. Việc định nghĩa chất xơ không dễ

dàng, mà thường được coi là các chất còn lại sau quá trình thuỷ phân.

Chất xơ thô là phần còn lại của các nguyên liệu có nguồn gốc thực vật

sau quá trình thuỷ phân bằng Axít sunfuric và dung dịch Natrihiđroxit.

Chất xơ thực phẩm là phần còn lại của các tế bào thực vật được phân

huỷ bằng các men tiết ra từ các tuyến tiêu hoá. Đó là hỗn hợp xenluloze,

hemixenluloze và lignin.

Việc phân tích chất xơ là một phương pháp cổ điển nhưng luôn luôn là

vấn đề cần được thảo luận thấu đáo. Do quá trình thuỷ phân hoá học các chất

trong mẫu phân tích luôn luôn cần một môi trường càng chính xác bao nhiêu

càng cho kết quả chính xác bấy nhiêu.

Từ quan điểm trên việc phân tích chất xơ có thể được tiến hành theo hai

cách: Phương pháp hoá học và phương pháp sử dụng enzim. Trong đó,

phương pháp phân tích hoá học dùng để phân tích chất xơ là một trong những

phương pháp cổ điển nhất của phương pháp phân tích thành phần hoá học có

trong thức ăn. Bản chất của phương pháp này xuất phát từ qúa trình thuỷ phân

các chất của tế bào thực vật.

- Hoá chất:

+ Dung dịch Axít sunfuric (H2SO4) 0,255 ± 0,005 N.

+ Dung dịch Natrihiđroxit (NaOH) 0,313 ± 0,005 N.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

+ Acetone.

60

- Thiết bị:

+ Thiết bị phân tích xơ ANKOM 200/220.

+ Túi lọc: Sử dụng túi lọc ANKOM F57 hoặc F58.

+ Dụng cụ hàn miệng túi: yêu cầu có nhiệt độ cao đủ để làm chảy nhựa

polime trong túi lọc (số hiệu # 1915 hoặc 1920).

+ Tủ sấy

- Các bước tiến hành:

+ Đánh dấu túi lọc bằng bút không bị xoá trong dung môi. Cân túi lọc

(ghi W1.1) sau đó chỉnh cân về không (ấn phím TARE).

+ Túi đối chứng: Cân ít nhất 1 túi không và cho vào cùng phân tích (ghi

W1.2), điều này cho phép xác định sai số xảy ra đối với độ ẩm và khối lượng

của túi.

+ Cân khoảng 1g mẫu cho thẳng vào túi lọc (ghi W2). Mẫu cân phải

cho sát đáy túi.

+ Hàn miệng túi trong khoảng 4 mm tính từ miệng túi bằng dụng cụ

hàn túi. Dàn đều mẫu trong túi bằng lắc hoặc gõ túi. Tránh không để mẫu gần

phần hàn miệng túi (trong phạm vi 4 mm).

+ Đặt tối đa 24 túi vào khay chứa túi của máy ANKOM. Sử dụng tất cả

chín khay mà không quan tâm đến số túi phân tích. Đặt 3 túi vào một khay và xếp các khay vào trục đứng, mỗi cái lệch nhau một góc là 1200. Đặt cả trục

chứa các khay mẫu vào buồng phân tích, đặt khối sắt hình trụ lên khay thứ 9

không chứa mẫu để dìm toàn bộ khay xuống.

+ Khi phân tích 24 túi lọc, đổ vào đó 1.900 – 2.000 ml dung dịch axit

có nhiệt độ ổn định cho đến khi ngập túi lọc. Nếu phân tích ít hơn 20 túi, cho

theo tỉ lệ 100ml axit/ 1 túi (tối thiểu phải có 1.500 ml).

+ Công phá 40 phút bằng dung dịch Axít sunfuric (H2SO4) 0,255 ±

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

0,005N, sau đó rửa nước cất 2 lần (mỗi lần 5 phút).

61

+ Công phá 40 phút bằng dung dịch Natrihiđroxit (NaOH) 0,313 ±

0,005 N, sau đó rửa bằng nước cất tất cả 3 lần.

+ Tháo túi lọc khỏi khay, bóp nhẹ cho bớt nước thừa. Cho túi vào cốc

thuỷ tinh thể tích 250 ml, cho thêm acetone ngập túi. Ngâm khoảng 3 – 5

phút, lấy túi mẫu ra, nhẹ nhàng bóp để rút bớt acetone.

+ Trải đều túi lọc để khô không khí. Cho vào tủ sấy đặt nhiệt độ 1050C,

sấy trong vòng 2 – 4 giờ.

(Chú ý: Không cho túi lọc vào tủ sấy trước khi acetone khô hết).

+ Sau khi sấy khô, lấy túi lọc ra cho vào bình hút ẩm. Để nguội và cân

(ghi W3). Tính lượng xơ và khoáng của mẫu bằng công thức W4:

W4 = W3 – W1.1

+ Đưa cả túi đối chứng và túi chứa mẫu vào đốt trong lò nung ở nhiệt độ 5500C trong vòng 2 giờ, để nguội trong bình hút ẩm và cân (ghi W5.1 là khối lượng

chén + khoáng của mẫu, W5.2 là khối lượng chén + bao đối chứng sau đốt).

Tính lượng khoáng thực sự của mẫu như sau:

W5 = (W5.1 – WCM) – W5.2 – WCĐC)

Trong đó WCM là khối lượng chén dùng đốt mẫu.

WCĐC là khối lượng chén dùng đốt bao đối chứng.

- Tính toán kết quả:

Hàm lượng xơ thô tính bằng % theo công thức sau:

(3.3)

Trong đó:

X: Hàm lượng xơ thô (%)

W2: Khối lượng mẫu phân tích tính bằng gam

W4: Khối lượng chất xơ + khoáng sau khi lọc ete, axit, bazơ và acetone.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

W5: Khối lượng tro của chất xơ sau khi nung

62

d. Phương pháp phân tích hàm lượng Protein thô theo phương pháp

MicroKjeldanl [6]:

- Nguyên lý:

Trong phương pháp MicroKeldan người ta vô cơ hoá mẫu bằng H2SO4

98% kết hợp với chất xúc tác để chuyển nitơ hữu cơ ra dạng (NH4)2SO4, rồi

dùng NaOH để đẩy NH3 ra khỏi muối Amoni, NH3 sau khi được giải phóng ra

sẽ được cuốn đi bằng dòng hơi nước nóng. Sau khi được làm nguội sẽ được

hấp thụ vào dung dịch H3BO3 ở trong bình hứng tạo ra muối borat amon có

màu xanh trong.

(NH4)2SO4 + 2NaOH = 2NH3 + Na2SO4 + 2H2O

3NH3 + H3BO4 = (NH4)3BO3

Để xác định được lượng amoniac giải phóng ra trong quá trình chưng

cất ta đem đi chuẩn độ bằng dung dịch H2SO4 0,1N đến khi nào dung dịch

chuyển sang mầu tím nhạt là được.

2(NH4)3BO3 + 3H2SO4 → 3(NH4)2SO4 + 2 H3BO3

Từ lượng axit H2SO4 0,1N tiêu tốn trong quá trình chuẩn độ chúng ta

tính được lượng nitơ có trong mẫu.

- Dụng cụ: Ống công phá mẫu; Bình tam giác 300 ml

- Hoá chất: H2SO4 đậm đặc 98%; Viên xúc tác Kjeldahl (hỗn hợp Cu và

Se); H2SO4 0,1N; NaOH 33%; H3BO3 4% cùng với chất chỉ thị màu Tashio

(gồm hỗn hợp xanh Methylen và đỏ Methylen); Nước cất.

- Cách tiến hành:

Giai đoạn công phá mẫu:

+ Bước 1: Cân mẫu: Mẫu được xấy khô ở nhiệt độ 50 – 600C, sau đó nghiền nhỏ.

Tiến hành: Cân chính xác và cẩn thận bằng cân phân tích (có độ chính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

xác 0,0001) 1-1,5 g mẫu cho vào bình công phá (trước khi cho mẫu đã cân

63

vào ống thì ta phải cho vào ống 1 viên xúc tác trước), sau đó cho vào 10 ml

H2SO4 đậm đặc, bịt chặt ống đốt mẫu bằng giấy thiếc và ngâm qua đêm.

Chú ý: Để tăng độ chính xác khi phân tích, chúng ta phải bố trí 1 ống

Kjeldahl đối chứng chỉ có chất xúc tác và 10 ml H2SO4 đậm đặc mà không có

mẫu phân tích, tiến hành tất cả các bước như mẫu phân tích thật.

+ Bước 2: Công phá mẫu:

Nhiệt độ cần cho quá trình công phá là 3800C, thời gian công phá là 40

phút. Khi quá trình công phá đã được ta đợi nhiệt độ của ống Kjeldahl hạ

xuống bằng nhiệt độ môi trường rồi đưa vào chưng cất.

Giai đoạn chưng cất và phân tách amoniac sau khi công phá:

Sau khi công phá xong ta tiến hành chưng cất trên máy cất đạm tự động

Gerhardt. Máy tự động hút dung dịch NaOH, H3BO3 và nước cất. Thời gian

chưng cất là 5 phút (chú ý khi chạy máy phải đủ lượng nước làm lạnh), dung

dịch sau chưng cất có mầu xanh.

Giai đoạn xác định lượng amoniac giải phóng ra sau quá trình chưng

cất: Để xác định được lượng amoniac giải phóng ra trong quá trình chưng cất

ta đem đi chuẩn độ bằng dung dịch H2SO4 0,1N đến khi nào dung dịch

chuyển sang mầu tím nhạt là được, từ lượng axits H2SO4 0,1N tiêu tốn trong

quá trình chuẩn độ chúng ta tính được lượng đạm có trong mẫu.

- Tính kết quả: Dựa trên lượng axit sunphuaric 0,1N tính ra hàm lượng

prôtein có trong mẫu.

e. Phương pháp xác định hàm lượng đường khử theo phương pháp

Bertrand [6]:

- Nguyên tắc:

Đường khử do trong cấu trúc có nhóm aldehit có tính khử mạnh nên có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khả năng tham gia phản ứng tráng bạc và phản ứng với dung dịch Fehling.

64

R – CHO + 2AgNO3 + 3NH3 + H2O → R – COONH4 + 2NH4NO3 + 2Ag ↓

R – CHO + 2 Cu(OH)2 → R- COOH + Cu2O ↓ + 2H2O.

Cu2O + Fe2(SO4)3 + H2SO4 → 2CuSO4 +2 FeSO4 + H2O

10 FeSO4 + 2KMnO4 + 8H2SO4 → K2SO4 + 2MnSO4 + 5 Fe2(SO4)3 + 8H2O.

Khi dùng dung dịch chuẩn KMnO4 0,1N để chuẩn độ lượng FeSO4 tạo

thành, từ thể tích tiêu tốn khi tra bảng sẽ tìm được số mg đường khử và áp

dụng công thức ta sẽ tìm được hàm lượng đường hay tinh bột trong mẫu.

- Cách tiến hành:

Công đoạn chiết, tách và thuỷ phân:

Cân một lượng mẫu cỏ sao cho khi pha xong có hàm lượng từ 4 – 10%

đường. Mẫu cỏ được cắt nhỏ rồi nghiền mịn, sau đó thêm vào khoảng 50 ml

nước, đun cách thuỷ ở 800C trong 15 phút, để nguội khử tạp chất rồi định mức

đến thể tích cần chiết (100 – 150 ml) cả bã, lọc lấy dịch trong. Dung dịch này

chỉ phân tích được hàm lượng đường khử (monosaccarit).

Tiến hành phân tích:

Lấy 10ml dung dịch Fehling A và 10 ml dung dịch Fehling B cho vào

cốc có dung tích 250cc, đun sôi, thêm 10ml dung dịch phân tích và khoảng

20ml nước sôi. Dung dịch phía trên phải có màu xanh, nếu không phải làm lại

với lượng dịch lọc ít hơn. Nhưng tổng thể tích dung dịch cuối cùng trong cốc

phải bằng 50ml. Sau lọc kết tủa qua phễu, giữ kết tủa trong cốc, tráng bằng

nước cất sôi một vài lần, sao cho hết màu xanh trên phễu lọc, hoà tan tủa

trong cốc bằng 30ml dung dịch Fe2(SO4)3. Lấy bình hứng ra và chuẩn độ bằng

dung dịch KMnO4 0,1N, đến khi xuất hiện màu hồng.

 Hàm lượng đường khử được tính theo công thức:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(3.4)

65

Trong đó:

X là hàm lượng đường khử có trong mẫu (%).

V: thể tích dung dịch pha ban đầu

G: mg glucoza

A: số gam mẫu cân

10: số ml dung dịch đem phân tích.

1000: hệ số chuyển đổi mg sang gam

f. Xác định hàm lượng lipit:

[6] Dự a và o tính chất hòa tan của lipit trong dung môi hữu cở để chiết

lipit, dung môi đượ c sử dụ ng là petroleum ether .

Cỏ nghiền mịn , sấy đến khô tuyệt đối . Cân 0,05g mẫu cho vào

eppendorf, thêm 1,5 ml petroleum ether lắc đều bằ ng voltex 10 phút, để qua đêm ở nhiệt độ 40C. Sau đó ly tâm 12000 vòng/ phút ở 40C trong 15 phút, bỏ

dịch. Tiế n hà nh lặ p lạ i 3 lầ n. Sấ y khô mẫ u đế n khố i lượ ng không đổ i .

Hàm lượng lipit được tính theo công thứ c sau :

Hàm lượng lipit (%) = 100 %

Trong đó: A : khối lượng mẫu trước khi chiết (mg)

B : Khối lượng mẫu sau khi chiết chiết (mg)1000: hệ số

chuyển đổi mg sang gam.

3.3.2.5. Phương pháp phân tích đối với mẫu đất :

Trên vị trí nghiên cứu chúng tôi lấy mẫu đất tại ô tiêu chuẩn và các

điểm ngoài ô tiêu chuẩn. Mẫu đất lấy ở độ sâu : 0- 20cm và đem phân tích tại

phòng phân tích đất Khoa nông học - Trường đại học Nông Lâm- đại học

Thái Nguyên theo phương pháp của Lê Văn Khoa và Lê Văn Tiềm [18], [19].

- Xác định độ ẩm của đất theo phương pháp sấy khô tuyệt đối : Cân 100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gam đất đã hong khô không khí và rây qua rây 1mm cho vào hộp nhôm (mở

66

nắp)sấy trong tủ ở 105oC đến trạng thái không đổi trong thời gian 12 giờ, tiến

hành lặp lại 3 lần. Sau khi sấy xong, đậy nắp hộp nhôm, cho vào bình hút ẩm

(đáy bình chứa CaCL2 hoặc xilicagen) để hạ nhiệt độ tới nhiệt độ trong

phòng, thông thường để nguội trong khoảng 20-30 phút, sau đó cân trọng

lượng đất khô tuyệt đối và so sánh với khối lượng ban đầu.

- Xác định độ pH (pH (KCl)) theo phương pháp đo bằng máy pHmeter:

Cho vào bình thuỷ tinh 5gam đất đã qua rây 1mm, sau đó thêm vào 25ml

KCL(1N), lắc trong 10 phút rồi ngâm qua đêm, lắc lại và đo trên máy Meter

đọc trị số pH ở trên máy.

- Xác định hàm lượng mùn (%) theo phương pháp Tiurin : Cân 0,2 gam

đất đã qua rây 0,25mm cho vào bình tam giác 100ml,sau đó thêm 5ml dung

dịch K2C2R2O7 (0,4N) lắc nhẹ ,cắm phễu con trên miệng bình để ngưng lạnh.

Sau đó đặt bình trong nồi Parafin, đun sôi dung dịch trong bình 5 phút ở nhiệt độ 170oC – 180oC trên bếp điện cho đến khi dung dịch không còn màu xanh.

Để nguội dung dịch rồi đổ vào bình tam giác, dùng một ít nước cất chia làm

2-3 lần tráng phễu và bình và đổ vào bình tam giác .Thêm 1ml H3PO4 và 8

giọt chỉ thị màu Fenylantranyn, sau đó dùng dung dịch muối Mo chuẩn độ

lượng Kali Bicromat thừa đến lúc dung dịch biến đổi sang màu xanh và tính

kết quả.

Để xác định hàm lượng đạm, lân, kali cần phải qua giai đoạn công phá

mẫu: Cân 1 gam đất đã rây qua rây 1 mm cho vào bình thuỷ tinh dung tích 50

ml. Thêm vào bình một ít nước cất cho mẫu đất hơi ẩm, rồi cho vào 8ml

H2SO4 đặc, lắc đều, cho thêm vào giọt HCLO4 70% .Đậy bình bằng một chiếc

phễu nhỏ. Đun từ từ cho nhiệt độ tăng dần. Khi dung dịch bắt đầu chuyển

sang màu trắng thì tiếp tục đun thêm 20 phút nữa.Toàn bộ thời gian công phá

mẫu hết khoảng 30-40 phút. Sau đó nhấc xuống để nguội và cho vào 3 giọt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

HCLO4 và đun cho trắng màu.

67

- Xác định hàm lượng đạm tổng số (N%) theo phương pháp Kjeldahl:

Đem mẫu đất đã được công phá chưng cất Kjeldahl với thời gian 20-30 phút

thu được dung dịch màu tím đỏ, sau đó chuẩn độ NaOH 0,02N, dung dịch từ

tím đỏ chuyển sang màu lục và tính kết quả.

- Xác định hàm lượng lân tổng số (P2O5%) theo phương pháp quang

phổ hấp phụ: Lấy 5 ml dung dịch mẫu sau khi đã công phá cho vào bình thuỷ

tinh, chỉnh độ pH đến = 7 bằng dung dịch NaOH 10%, sau đó thêm 10ml

H2SO4 5N, thêm 1,25 ml dung dịch Amonimolipdat 2% và 3ml dung dịch axit

Ascobic 1N. Đun cách thuỷ trên bếp khi cường độ màu lớn nhất, để nguội đến

nhiệt độ phòng, định mức đến 50ml, đem so màu trên máy DERLL/2000, số

đọc là P2O5%.

- Xác định hàm lượng kali tổng số (K2O %) theo phương pháp quang

phổ phát xạ: Nguyên tắc của phương pháp này là thu bức xạ nguyên tử Kali

phát ra dưới tác dụng kích thích của ngọn lửa hồ quang. Khi bức xạ này đi

qua máy quang phổ nhiễm xạ thu được phổ bức xạ.Cường độ vạch phổ tỷ lệ

với nồng độ nguyên tố Kali trong mẫu. Đo cường độ vạch phổ ta tính được

nồng độ nguyên tố. Phép đo thực hiện trên máy quang phổ loại DFS 8-3, độ

nhạy vạch là 0,01%.

3.2.3. Điều tra qua địa phương, lãnh đạo cơ sở

Trực tiếp phỏng vấn một số gia đình, ban lãnh đạo cơ sở về các vấn đề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

liên quan tới đồng cỏ và chăn nuôi.

68

Chương 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. Tình hình khai thác và sử dụng đất của ngƣời dân xã Cảnh Hƣng

Cảnh Hưng là xã có diện tích nhỏ. Theo thống kê, kiểm kê đất đai, tính

đến 1/1/2008 phản ánh đúng thực tế hiện trạng sử dụng đất và cơ cấu sử dụng

các loại đất trên địa bàn của xã cụ thể như sau: Tổng diện tự nhiên là 547.63

ha, trong đó đất nông nghiệp là 315.37 ha chiếm 57,59% diện tích đất tự

nhiên của xã. Đất trồng cây hàng năm là 300.79 ha chiếm 54.81% diện tích

đất tự nhiên, đất trồng cây lâu năm là 1.45 ha chiếm 0,26%. Trong tổng số

diện tích đất trồng cây hàng năm thì đất trồng lúa là 170,45 ha chiếm 56,67%,

đất cỏ dùng vào chăn nuôi 1,48 ha chiếm 0,49% còn lại là đất trồng cây bhàng

năm khác. Đất nuôi trồng thuỷ sản 13,13 ha chiếm 2,39%diện tích đất tự

nhiên. Đất phi nông nghiệp là 206,94 ha chiếm 37,79%, còn lại là đất chưa sử

dụng là 25,32 ha (bao gồm đất bằng chưa sử dụng) chiếm 4,62% tổng diện

tích đất tự nhiên. Diện tích các loại đất của xã được nêu trong bảng 4.1.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Diện tích các loại đất :

69

Bảng 4.1: Thực trạng sử dụng đất xã Cảnh Hƣng tính đến ngày 1/1/2008

Diện tích

Năng suất

Ghi chú

STT

Loại đất

(ha)

(tạ)

Tổng diện tích tự nhiên

547,63

1 1.1

Đất nông nghiệp Đất sản xuất nông nghiệp

315,37 302,24

1.1.1

Đất trồng cây hàng năm

300,79

170,45

-Lúa

1.1.1.1

Đất trồng lúa

-

56 tạ/ha/vụ,

1.1.1.2 1.1.1.3

Đất cỏ dùng vào chăn nuôi Đất trồng cây hàng năm khác

1,48 128,86

1.1.2

Đất trồng cây lâu năm

1,45

1.2

Đất lâm nghiệp

0

1.2.1 1.2.2

Đất rừng sản xuất Đất rừng phòng hộ

0 0

1.2.3

Đất rừng đặc dụng

0

1.3

Đất nuôi trồng thuỷ sản.

13,13

1.4

Đất nông nghiệp khác

0

2

Đất phi nông nghiệp

206,94

2.1

Đất ở

51,25

2.1.1

Đất ở tại nông thôn

51,25

2.1.2 2.2

Đất ở tại đô thị Đất chuyên dùng

0 112,21

2.2.1

Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp

0,91

2.2.2

Đất quốc phòng an ninh

0

2.2.3 2.2.4

Đất SX, kinh doanh phi nông nghiệp Đất có mục đích công cộng

23,86 87,44

2.3 2.4

Đất tôn giáo tín ngưỡng Đất nghĩa trang, nghĩa địa

0,95 1,75

2.5 2.6

Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng Đất phi nông nghiệp khác

40,76 0,02

3.

Đất chưa sử dụng

25,32

3.1

Đất bằng chưa sử dụng

25,32

3.2 3.3

Đất đồi núi chưa sử dụng Núi đá không có rừng cây

0 0

(Nguồn :UBND xã Cảnh Hưng 2008)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

70

- Tình hình sử dụng đất: Hiện nay cây trồng hàng năm của xã Cảnh

Hưng chủ yếu là lúa, ngoài ra còn có trồng thêm ngô, khoai lang, khoai tây,

đỗ tương, lạc, …nhưng diện tích nhỏ. Những nơi đất xấu, thiếu nước thì trồng

các loại cây trồng như khoai lang hay bỏ hoang hoá. Toàn xã có 2156 hộ gia

đình với 5841 nhân khẩu, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm là 1%, bình quân đất nông nghiệp trên đầu người khoảng 555m2/người. Theo tốc độ tăng

dân số dự báo đến 2015dân số của toàn xã là 6260 người, bình quân ruộng đất một người khoảng 475m2. Với bình quân ruộng đất như vậy nếu chỉ dựa vào

cây lúa là chính thì hinh tế không thể phát triển. Muốn phát triển kinh tế buộc

người dân phải chuyển đổi cơ cấu, mạnh dạn đầu tư vào các mô hình trồng

trọt và chăn nuôi khác có hiệu quả kinh tế hơn.

4.2. Tập đoàn cây thức ăn gia súc của xã Cảnh Hƣng

Cỏ tự nhiên và cỏ trồng ở đây có thành phần loài khá phong phú, ngoài

các giống cỏ tự nhiên sẵn có thì các hộ liên tục nhập các loại cỏ trồng từ các

nước nhiều giống chất lượng cao như: Cỏ Coi, cỏ VA06, cỏ Ghinê, Xích lô,

cỏ Sao.... các loài cỏ này đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng về mùa khô cho

gia súc, thời gian thu hoạch ngắn, có thể dùng làm thức ăn dự phòng vì các

loài này có khả năng làm thức ăn ủ chua cho mùa đông lạnh giá.

Nhìn chung các loài đều đòi hỏi đất loại trung bình, nhu cầu nước, phân

khá lớn, tuổi khai thác trung bình từ 3-4 năm. Những cây lâu năm mỗi năm có

thể cắt từ 3-5 lần năng suất đạt 60-300 tấn/ha/năm. Trừ những cây hàng năm

còn những cây lâu năm đều có thể qua đông dạng sinh dưỡng, một số vẫn có

thể cho năng suất chất xanh tuy không lớn nhưng lại đòi hỏi thời gian dài hơn.

Các loài đa số đều khai thác lá, thân và có khả năng khai thác được

nhiều năm, những loài có khả năng chăn thả chịu được sự dẫm đạp của gia

súc đó là hai loài cỏ Sậy và cỏ Thừng. Tất cả đều có thể làm thức ăn tươi, một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

số có thể ủ chua, làm cỏ khô và làm bột. Về mặt dinh dưỡng đều được đánh

71

giá loại tốt. Một số loài cỏ thích nghi với điều kiện sinh thái của địa phương

như: Cỏ Voi,VA06, voi lai, Xích lô, Ghinê TD 58, cỏ Ruzi hiện nay đang

được trồng phổ biến ở địa phương.

Tập đoàn cây thức ăn gia súc ở Cảnh Hưng- Tiên Du được thể hiện ở

bảng 4.2.

Bảng 4.2: Tập đoàn cây thức ăn gia súc xã Cảnh Hƣng

TT

Tên La tinh

Tên Việt Nam

Đặc điểm chính, sử dụng

(1) Asteraceae

HỌ CÖC

1

Ageratum conyzoides L.

Cỏ cứt lợn

Cỏ tự nhiên, khai thác

mùa hè

2

Crassocephalum crepidioides

Rau tàu bay

Cỏ tự nhiên, khai thác

(Benth)Smoore

mùa hè

3

Sigesbeckia orientalis L.

Cỏ đĩ

Cỏ tự nhiên, khai thác mùa hè

(2) Convolvulaceae

HỌ KHOAI LANG

1

Ipomoea batats (L) lamK

Khoai lang

Trồng để lấy củ và thân lá

(3) Euphorbiaceae

HỌ THẦU DẦU

1 Manihot esculenta Crantf

Sắn

Trồng để lấy củ

(4) Fabaceae

HỌ ĐẬU

1 Glycine max (L.) Merr

Đậu tương

Trông để lấy hạt, làm bột.

2

Flemingia

Đậu công

Cây thuộc mộc, thân lá nhiều

macrophylla(Willd)Prain

lông, bò không thích ăn

3

Stylozanthes

Cỏ Stylo

Năng suất khá cao, chất lượng

guianensis(Aul)Swaptf

tốt

4 Desmodium spp

Đậu 3 lá

Năng suất rất thấp, mọc dại

trong cỏ trồng

5

Leucaena sp

Keo dậu lai

Tái sinh nhanh, năng suất cao,

chất lượng tốt

(5) Poaceae

HỌ LÖA

1

Avenna sativa L.

Yến mạch lá to

Protein 15 - 19%, chịu lạnh,

sương muối

2

A. strigosa L.

Protein 15 - 19%, chịu lạnh,

Yến mạch

lá nhỏ

sương muối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

72

3

Brachiaria ruziziensis

Cỏ Ruzi

Năng suất không cao, nay it

trồng

4

Cynodon plemfuensis

Cỏ Sao

Năng suất cao, chất lượng tốt,

cần đất ẩm.

vandersyut

5

Panicum maximum

Cỏ Ghinê

Trồng được nhiều loại đất,

năng suất trung bình, chất

JacqTD58

lượng tốt

6

P. maximum Jacq var. Liconi Cỏ Sữa

Năng suất không cao, chất

lượng trung bình, nay ít trồng

7

Paspalum dilatatum Poir

Cỏ xích lô

Tái sinh tự nhiên từ hạt, làm cỏ

khô dễ

8

P. urvillei Stend

Cỏ Mộc Châu

Năng suất thấp, nay đã bỏ

9

Pennisetum purpureum

Cỏ Voi

Năng suất cao, trồng nhiều, ủ

Schumach

chua

10 P.purpureum x

Cỏ VA06

Năng suất rất cao, trồng nhiều,

P.americanum

ủ chua

11 Coelorachis striata (Stend)

Cỏ Thừng

Cỏ có nguồn gốc là cỏ dại Việt

A.Cam.

nam,trồng được nhiều loại đất,

năng suất cao, chất lượng tốt.

12 Panicum sarmentosum Roxb. Cỏ Sậy

Cỏ có nguồn gốc cỏ dại Việt

nam,năng suất trung bình, ít

trồng,mùa hè sinh trưởng và

phát triển kém.

13

Setaria sphacellata

Cỏ Narốk

Nhanh già, cứng, ra hoa sớm,

trồng ít

14 Zea mays L.

Cây ngô

Trông lấy cây ủ chua, lấy hạt

15 Orysa sativa L.

Rơm lúa

Khai thác cám, rơm dùng mùa

đông

Qua bảng 4.2 ta thấy: Trong tổng số 25 loài 7 họ vẫn đang được khai

thác, họ Hoà Thảo (Poaceae) có 15 loài chiếm 60% tổng số loài, họ đậu

(Fabaceae) có 5 loài chiếm 20% tổng số loài, họ Cúc (Asteraceae) có 3 loài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chiếm 12% tổng số loài; còn lại là họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae) có 1 loài và

73

họ khoai lang (Convolvulaceae) có 1 loài. Trong số này thì 3 loài họ Cúc là

cây dại được khai thác trong mùa hè (cây cỏ đĩ – Sigesbeckia orientalis, rau

Tàu bay: Crassocephalum crepidioides, cây Cứt lợn – Ageratum Conyzoides).

Trong số 15 loài họ Hoà thảo thì có một số loài được trồng nhiều hơn cả là cỏ

voi (Pennisetum purpureum); cỏ VA06 (P.purpureum x P.americanum); cỏ

Xích lô (Paspalum dilatatum); cỏ Ghinê (Panicum maximum); và cây Ngô

(Zea mays); Sắn (Manihot esculenta; cỏ Thừng (Coelorachis striata). Mùa

đông thì trồng Yến mạch (Avenna sativa); Yến mạch lá nhỏ (A.stigosa).

Trong số 25 loài trồng ỏ đây hiện nay có thể chia thành 3 nhóm theo

năng suất:

- Nhóm có năng suất cao trên 200 tấn/ha như cỏ Thừng, cỏ Voi, VA06 ;

- Nhóm có năng suất trung bình 100-200 tấn/ha như cỏ Ruzi,cỏ Ghinê,

cỏ Sao và các loài thuộc họ Đậu; nhóm này có chất lượng khá cao.

- Nhóm cây phục vụ cho mùa đông như cây Ngô,Yến mạch, cỏ Thừng.

4.3. Đặc điểm và năng suất các loại cỏ chính dùng làm thức ăn cho bò

đƣợc trồng tại xã Cảnh Hƣng

Các giống cỏ như cỏ Voi, Ghinê, Ruzi... thích nghi cao cả trên vùng đất

của xã. Cỏ giống thường 2 năm thay một lần, dùng luôn hom hoặc hạt cỏ

đang trồng thay thế. Sau mỗi lứa thu hoạch mới phải chăm bón một lần. Cỏ

phát triển mạnh vào mùa mưa, đối với các loại cỏ thân bò có thể phơi khô, các

* Cỏ Voi (Pennisetum purpureum)

loại cây thân đứng có thể ủ chua làm thức ăn dự trữ quanh năm.

Đặc điểm sinh thái:

Chiều cao cỏ voi từ 3-6 m, cây làm thức ăn cho gia súc khi nó cao 3m,

mép lá răng cưa. Bông hoa cỏ dài 10-15cm. Xuất xứ của cỏ voi từ vùng nhiệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đới Châu Phi, thích hợp cho những nơi có lượng mưa trung bình 1000mm một

74

năm. Nhiệt độ thích hợp cho phát triển là tư 25- 300C, nhiệt độ dưới 140C là

cây ngừng phát triển.

Năng suất cỏ voi : Vào mùa mưa khoảng 50-60 ngày một lứa cắt, vào

mùa khô là khoảng 100 ngày. Ở Cảnh Hưng cỏ voi thường cho 4-5 lứa cắt

một năm.

Khi thu hoạch cỏ Voi 40-45 ngày tuổi, chất lượng thức ăn rất thấp (CP

= 5-8% tính theo VCK), tỷ lệ sử dụng 40-60%. Do vậy để cải thiện chất lượng

các hộ phải thu hoạch khi cây còn non (30-35 ngày), tuy nhiên điều này ảnh

hưởng đến khả năng tái sinh và năng suất của cỏ.

* Cỏ Ghinê (Panicum maximum)

Đặc điểm sinh thái: Ghinê cao từ 300-350cm, lá mảnh, dài 90-120 cm

rộng từ 1-1,2 cm, hoa là một cụm bông, hạt nhỏ. Nguồn gốc xuất xứ từ vùng

nhiệt đới Châu Phi (vùng ghinê). Đây là giống cỏ hoà thảo có khả năng chịu hạn tốt, thích nghi với nhiều loại đất,nhiệt độ thích hợp từ 25-300C, dưới 100C

ngừng sinh trưởng, có thể sống trong bóng mát của những cây khác và thích

nghi với nhiều loại đất . Ở Cảnh Hưng là 3,4 năm thì trồng lại.

Năng suất cỏ ghinê: Trong điều kiện thuận lợi thì cắt 7-8 lứa/ năm với

năng suất tư 10-14 tấn chất khô/ha Điều kiện ở Mộc Châu là 4 lứa/năm. .

* Cỏ VA 06 (P.purpueumx P.americanum)

Là giống cỏ lai giữa cỏ voi và một giống cỏ đuôi sóc ở Nam mỹ. Giống

cỏ này có khả năng sinh trưởng phát triển rất mạnh, năng suất có thể đạt tới

300 – 350 tấn/ha, thâm canh tốt có thể đạt tới 400 tấn/ha. So với cỏ voi thì cỏ

VA06 có thân lá mềm hơn, lá dày, ít lông hơn và theo tài liệu hướng dẫn thì

cỏ VA 06 có hàm lượng dinh dưỡng rất cao. Nó có thể đáp ứng được để phát

triển chăn nuôi trong điều kiện thâm canh cao. Giống cỏ này mới được đưa

vào trồng năm 2006, sẽ phát triển mạnh trong các năm tới.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

* Keo dậu (Leucaena leucocephala)

75

Đây là cây họ Đậu, làm thức ăn bổ xung rất tốt cho đàn bò sữa. Là

giống cây thân gỗ, lâu năm có giá trị dinh dưỡng cao, đặc biệt là Protein. Ở

Cảnh Hưng cây keo dậu được trồng theo băng, hoặc hàng rào, bò lô...Cây keo

được nhân giống bằng hom.

* Cỏ tự nhiên đặc biệt là hai giống cỏ Sậy và cỏ Thừng

Cỏ Thừng sống ở nơi ẩm, cây sống nhiều năm, mọc tập trung thành

đám, thân, lá mềm và thơm nên bò rất thích ăn, cao tối đa 100cm, tái sinh

nhanh có thể trồng được trên nhiều loại đất. Cỏ Thừng có khả năng cạnh tranh

mạnh, gần như không có loại cỏ dại nào mọc được ở ruộng cỏ Thừng, được

dân địa phương đem trồng vài năm gần đây.

Cỏ Sậy sống nơi ẩm ướt, sống nhiều năm, chồi dài, mọc tập trung thành

đám, thân cao đến 1m, khả năng sinh trưởng tốt ở điều kiện nhiệt độ từ 18-40

độ C và phát triển kém ở nhiệt độ thấp, song lại tái sinh mạnh mẽ khi nhiệt độ

và độ ẩm tăng lên. Giá trị dinh dưỡng và tính ngon miệng tương đương với cỏ

Thừng, cũng được dân địa phương đem trồng vài năm gần đây.

Kỹ thuật trồng hai giống cỏ trên rất đơn giản: Sau khi làm đất mịn, rắc

cỏ như gieo mạ hoặc như phủ rạ rồi dùng vồ đập đất đập nhẹ, để tăng khả

năng bám đất cho cỏ. Tuy đây là những giống cỏ chịu thâm canh nhưng chỉ

cần làm đất 1 lần và không cần trồng lại. Mùa đông dù khô hanh song do cỏ

có dạng thân bụi, mọc dày đặc nên có khả năng giữ ẩm tốt, cỏ vẫn cho năng

suất cao nếu được tưới giữ ẩm chỉ 1 lần/tháng. Như vậy có thể khắc phục tình

trạng thiếu thức ăn xanh trong mùa khô. Chỉ sau 2 tháng trồng, cỏ Sậy và cỏ

Thừng đã cho thu hoạch lứa đầu. Ngoài ra để bảo đảm thức ăn cho vụ đông,

các hộ chăn nuôi còn sử dụng ngô cây, cải vụ đông và các loại thức ăn củ quả

khác như khoai, sắn, bí đỏ...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

* Thức ăn ủ chua

76

Với điều kiện thời tiết nước ta, mùa đông rất khắc nghiệt, các loại cỏ

không phát triển hoặc phát triển rất kém, vì vậy thức ăn dự trữ ủ chua cùng

với cỏ khô là thức ăn thô chủ yếu cho đàn bò. Thức ăn ủ chua được làm chủ

yếu từ ngô cây khi hạt ngô bắt đầu khô sữa, được bổ xung thêm rỉ mật. Đây là

thức ăn rất quan trọng trong mùa đông, đảm bảo duy trì được sức khoẻ và khả

năng sản xuất của đàn bò.

4.4. Tình hình chăn nuôi bò ở Bắc Ninh và xã Cảnh Hƣng

Tỉnh Bắc Ninh đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người dân các địa

phương thực hiện các chương trình lai hoá đàn bò thịt, nạc hoá đàn lợn, phát

triển đàn bò sữa, gia cầm chất lượng cao... thúc đẩy ngành chăn nuôi chuyển

dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Việc hình

thành các vùng sản xuất tập trung đã tạo ra động lực tích cực thúc đẩy ngành

chăn nuôi của Bắc Ninh ngày càng phát triển mạnh, hướng tới đưa ngành này

trở thành ngành sản xuất chính trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.

Đối với đàn bò, tỉnh đã quy hoạch được 26 vùng nuôi bò thịt ở các

huyện Yên Phong, Tiên Du, Quế Võ, Gia Bình, Lương Tài, Thuận Thành với

19,7 nghìn con, chiếm 36% tổng đàn bò của toàn tỉnh. Do mang lại hiệu quả

kinh tế khá, lại dễ dàng trong khâu chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh, không

phải bỏ vốn lớn nên việc phát triển chăn nuôi bò thịt đang ngày càng thu hút

nhiều hộ dân ở các địa phương quan tâm, đặc biệt là tại các huyện có diện tích

đất bãi ven sông và vườn đồi rộng như Quế Võ, Yên Phong, Gia Bình... Tại

các huyện này đã thường xuyên duy trì đàn bò từ trên 3.300 con đến gần

5.000 con. Các xã có tổng đàn lớn là Đào Viên, Chi Lăng, Ngọc Xá, Việt

Hùng (Quế Võ), Tam Giang (Yên Phong), Song Giang, Vạn Ninh (Gia

Bình)... với tổng số từ 760 đến 1.280 con. Bên cạnh đó, tỉnh còn quy hoạch

được 2 vùng nuôi bò sữa ở các huyện Tiên Du và Từ Sơn với trên 600 con,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong đó có trên 400 con đã cho sữa, đạt năng suất bình quân 3.600 đến 3.650

77

kg sữa/chu kỳ. Hai xã Cảnh Hưng và Tri Phương (Tiên Du) có từ 139 đến 189

con bò sữa, chiếm từ 17% đến 23% tổng đàn bò sữa của toàn tỉnh. Tỉnh hiện

có 302 hộ nuôi bò sữa, tập trung ở 7/8 huyện, thị xã với tổng đàn trên 800

con, lượng sữa được sản xuất ra đạt mức trung bình từ 3300 đến 3500

kg/ngày. Nhằm đưa con bò sữa trở thành một trong những con vật nuôi chính

góp phần nâng cao tỷ trọng chăn nuôi, đồng thời tăng thêm thu nhập cho

người nông dân, ngoài việc hỗ trợ kinh phí cho những hộ dân nhập về các con

bò sữa cao sản, Trung tâm Khuyến nông tỉnh phối hợp với Sở Khoa học -

Công nghệ tiến hành lai tạo đàn bò sữa tại chỗ trên nền đàn bò cái lai sind và

đã cho ra đời trên 2.500 con lai F1, bò cao sản 82% đến 87% máu ngoại,

nhiều con hiện đã cho sản lượng sữa từ 10 đến 12 lít/ngày. Tại các huyện Từ

Sơn, Tiên Du, Thuận Thành... nhiều hộ gia đình nuôi từ 4 đến trên 10 con với

lượng sữa tươi thu được từ 15 đến 30 kg/ ngày, lãi từ 20 đến hơn 27,5 triệu

đồng mỗi năm. Để tạo điều kiện thuận lợi cho người sản xuất và khắc phục

khó khăn trong khâu tiêu thụ, từ năm 2004, ngành nông nghiệp - phát triển

nông thôn tỉnh đã giúp bà con nông dân hình thành 6 trung tâm thu gom, tiêu

thụ sản phẩm sữa ở các huyện Tiên Du, Từ Sơn, Thuận Thành với những khu

nhà xưởng, tanh lạnh, các thiết bị máy móc để cân đo tỷ trọng, lượng sữa,

kiểm tra độ cồn, đánh giá mức độ nhiễm khuẩn... đảm bảo tiêu chuẩn, mỗi

trung tâm có thể bảo quản, cung ứng ra thị trường từ 100 kg đến 820 kg sữa

tươi/ngày.

Ở xã Cảnh Hưng phong trào nuôi bò sữ bắt đầu từ năm 1995 với 5 con

bò giống, đến nay đàn bò sữa của xã Cảnh Hưng đã có tổng số 214 con, bao

gồm 74 con bê và 140 con bò đang cho khai thác. Bình quân 1 con bò cho 15-

20 kg sữa/ngày, với giá thành từ 7000- 7500 đồng/kg sữa. Tuy giá trị kinh tế

chưa thực sự cao nhưng nghề nuôi bò sữa giúp bà con nông dân tận dụng lợi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thế đồng đất và thời gian nông nhàn để có thêm thu nhập. Tận dụng được lợi

78

thế vùng đất bãi để trồng cỏ và có sự chuẩn bị tốt cho đầu ra của sản phẩm.

Hiện trong xã có 3 điểm thu mua do các công ty sữa đầu tư máy móc, chuyển

giao công nghệ tại chỗ để thu mua sữa cho nhân dân vì vậy lượng sữa sản

xuất ra được bao tiêu toàn bộ. Tại thời điểm “bão” melamine, Cảnh Hưng

cũng bị ảnh hưởng nhưng không nghiêm trọng. Toàn xã không có trường hợp

nào phải đổ bỏ sữa hay bán bò để gỡ vốn”. Tuy nhiên, có lúc giá sữa giảm chỉ

còn 5000đồng/kg (giá trước đó bình quân khoảng 8000 đồng/kg) thì người

chăn nuôi không có lãi. Nhưng rất may tình trạng đó chỉ xảy ra trong thời gian

ngắn vì người dân Cảnh Hưng tận dụng được diện tích đất ven đê rộng lớn đã

chủ động nguồn thức ăn cho bò, giảm được chi phí đầu vào nên thiệt hại

không đáng kể. Đến nay mọi việc đều bình thường, giá sữa lại được sữa với

giá dao động từ 6500 đến 7500 đồng/kg. Sau hơn 10 năm gắn bó với nghề

nuôi bò sữa, trải qua những thăng trầm của thị trường, người dân Cảnh Hưng

đã tích luỹ được khá nhiều vốn liếng cũng như kinh nghiệm. Chính vì vậy,

“bão” melamine không những không làm suy giảm nghề chăn nuôi bò sữa ở

đây mà còn là dịp để nông dân Cảnh Hưng khẳng định sự dày dạn kinh

nghiệm trong chăn nuôi bò sữa, vượt qua tác động của điều kiện ngoại cảnh.

Đàn bò sữa ở Cảnh Hưng vẫn duy trì ổn định và hiện có chiều hướng gia tăng.

Cùng với con bò sữa, địa phương đang mở rộng quy mô đàn bò thịt. Đây vẫn

là hướng phát triển kinh tế mũi nhọn của Cảnh Hưng.

4.5. Năng suất của các loài cỏ chính

Tại Cảnh Hưng có nhiều loài cỏ trồng, nhưng có 3 loài cỏ được chúng

tôi quan tâm nhiều hơn cả đó là cỏ Voi, cỏ Sậy và cỏ Thừng vì những đặc

điểm ưu việt của nó. Với mục đích so sánh 2 loài cỏ tự nhiên mới được đem

trồng là cỏ Sậy và cỏ Thừng với cỏ Voi là loài được trồng phổ biến và được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đánh giá là đứng hàng đầu trong các loài cỏ hoà thảo nhập vào Việt Nam. Thí nghiệm được bố trí thành 3 ô, mỗi ô 80m2/loài, trồng trên cùng vùng đất,

79

quy trình trồng, chăm sóc, thu hái về cơ bản là như nhau, riêng cắt theo tuổi

và theo nhu cầu gia đình nên không thể cắt cùng ngày được.

Kết quả theo dõi trong 10 lứa cắt được trình bầy trong bảng 4.3

Bảng 4.3: Số lứa cắt và năng suất của từng lứa

Loài cỏ Cỏ Voi Cỏ Sậy Cỏ Thừng Lần cắt

Lần 1 200kg/80m2 15.6.2007 140kg/80m2 5.6.2007 160kg/80m2 10.6.2007

Lần 2 360kg/80m2 13.8.2007 260kg/80m2 10.7.2007 280kg/80m2 10.8.2007

Lần 3 280kg/80m2 10.10.2007 270kg/80m2 10.9.2007 280kg/80m2 15.10.2007

Lần 4

Lần 5 224kg/80m2 5.1. 2008 296kg/80m2 2.3..2008 160kg/80m2 10.11. 2007 150kg/80m2 16.2 .2008 248kg/80m2 10.12. 2007 272kg/80m2 12.2 .2008

Lần 6 230kg/80m2 6.6.2008 150kg/80m2 15.5.2008 288kg/80m2 15.4.2008

Lần 7 264kg/80m2 10.7.2008 120kg/80m2 20.6.2008 264kg/80m2 13.6.2008

Lần 8 240kg/80m2 1.9.2008 130kg/80m2 10.8.2008 240kg/80m2 20.7.2008

Lần 9 240kg/80m2 10.12..2008 110kg/80m2 25.10. 2007 224kg/80m2 25.9.2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lần 10 280kg/80m2 5.2.2009 120kg/80m2 20.12. 2008 270kg/80m2 28.11. 2008

80

261,4kg/80m2 161,0kg/80m2 252,6kg/80m2 Năng suất TB 3,27 kg /m2 2,01 kg/m2 3,16 kg/m2

Qua bảng trên cho thấy:

1. Số lứa cắt trong một năm

Tính từ tháng 6.2007 đến tháng 6 .2008 thì số lứa cắt của cỏ Voi là 6

lần, cỏ Sậy là khoảng 6-7 lần còn cỏ Thừng là 7 lần.

2. Năng suất

Từ số lứa cắt trong năm và năng suất trung bình của 1 lứa ta tính ra năng suất năm của từng loài. Cỏ Voi là 3,27kg x 6 lứa =19,62 kg/m2 tức gần 200 tấn /ha. Cỏ Thừng là 3,16 kg x 7 lứa = 22,12 kg/m2 tức khoảng 220 tấn /ha. Cỏ Sậy là 2,01 kg x 7 lứa = 14,07 kg/m2 đạt khoảng 140 tấn /ha.

Ở lần cắt dầu tiên, năng suất của 3 giống cỏ so với các lần cắt khác thấp

nhất vì thời gian đầu mới trồng cỏ sinh trưởng chậm, cỏ còn ít con: cỏ Voi 200kg/80m2, cỏ Sậy là 140kg/80m2còn cỏ Thừng 160kg/80m2; đến lần cắt

tiếp theo lúc này cỏ sinh trưởng rất mạnh, cỏ đã rất dầy con nên năng suất của các giống cỏ đã rất cao: Cỏ Voi 360kg/80m2, cỏ Sậy là 260kg/80m2còn cỏ Thừng 280kg/80m2; sang đến lần cắt 3 thì cỏ Voi năng suất giảm đi rất mạnh xuống còn 224kg/80m2, ở các lứa cắt còn lại ta thấy năng suất của cỏ Voi tăng

ở lần cắt 4 rồi lại giảm ở những lần cắt tiếp theo và lần cắt 10 thì năng suất lại

tăng. Năng suất của cỏ Sậy thì vẫn tiếp tục giảm nhẹ ở những lần cắt tiếp

theo; Cỏ thừng tỏ ra có năng suất tương đối ổn định ở các lần cắt.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Như vậy năng suất trung bình qua 10 lứa cắt ta thấy cỏ Voi có năng suất cao nhất 261,4 kg/80m2, cỏ Thừng năng suất gần bằng cỏ Voi :252,6kg/80m2 (kém cỏ Voi có 8,8kg/80m2), cỏ Sậy có năng suất thấp nhất: 161,0 kg/80m2

81

Qua đồ thị cho thấy cỏ Thừng có năng suất khá cao và ổn định, cỏ

Sậy năng suất khá cao ở những lần cắt đầu còn ở những lần cắt sau thì năng

suất giảm và đi vào ổn định, cỏ Voi có lần cắt thứ 2 cao nhất và ở những

lần cắt sau thì năng suất lên xuống không đều. Nếu theo quy luật khí hậu

nhiệt đới gió mùa của nước ta thì khả năng sinh trưởng, phát triển của cỏ

Hòa thảo như sau: Hầu hết cỏ hòa thảo đều sinh trưởng nhanh vào mùa hè,

ra hoa kết quả vào vụ thu và gần như ngừng sinh trưởng vào mùa đông.

Đến mùa xuân lại phát triển nhanh và cho nhiều lá nhưng với 3 giống cỏ

trên do được tưới nước và bón phân thường xuyên nên năng suất trong các

mùa có sự khác biệt hầu như không đáng kể. Chu kì lứa cắt trong mùa đông

ngắn nhất là cỏ Thừng 50-60 ngày/lứa, dài nhất là cỏ Sậy 60-90 ngày/lứa,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cỏ Voi 60 – 85 ngày/lứa.

82

Lần cắt

Bảng 4.4: Lƣợng phân bón hoá học cho các loài cỏ Lƣợng phân bón (kg/80m2) Lân 0,4 Đạm 0,5 Lần 1 Kali 0,3

Lần 2 0,6 0,8 0,3 (0,2)

Lần 3 0,7 0,6 0,3

Lần 4 0,5 0,5 0,3 (0,2)

Lần 5 0,5 0,5 0,3

Lần 6 0,16 0,15 0,3

Lần 7 0,18 0,15 0,3

Lần 8 0,18 0,20 0,3

0,7 0,6 Lần 9 0,3 (0,19) (0,15)

Lần 10 0,5 0,5 0,3

( ) là lượng phân bón cho cỏ Thừng

Như vậy với lượng phân bón hoá học ở mỗi lần bón như nhau thì cỏ Sậy năng suất thấp nhất 2,01kg/80m2, cỏ Thừng có năng suất cao (3,16kg/80m2) tương đương cỏ Voi (3,27kg/80m2); cỏ Thừng có một số lần

đã bón ít hơn so với 2 cỏ còn lại. Nhu cầu về dinh dưỡng của 3 loài cỏ trên

cũng chia theo từng giai đoạn: Giai đoạn đầu (nẩy mầm - phân nhánh) cần

nhiều đạm, lân, kaly. đến giai đoạn giữa cỏ đang sinh trưởng khá mạnh thì

nhu cầu chất dinh dưỡng đòi hỏi ở mức thấp hơn (lần 6,7,8); sang đến lần cắt

thứ 9,10 thì nhu cầu dinh dưỡng lại cao vì giai đoạn này cỏ già.

4.6. Chất lƣợng của của một số loài cỏ

Để đánh giá chất lượng cỏ chúng tôi đã tiến hành phân tích thành phần

hoá học của nó. Chúng tôi đã lấy mẫu lá của 2 loài cùng thời điểm là cỏ Voi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và cỏ Thừng.

83

Mẫu được phân tích tại khoa Nông học (Đại học Nông Lâm Thái Nguyên)

. Kết quả phân tích được trình bầy trong bảng 4.5:

Bảng 4.5: Hàm lƣợng các chất dinh dƣỡng ở vị trí trồng cỏ

Protein TS (%) Lipit TS (%) Chất xơ TS (%) Đƣờng TS (%)

Tên

VCK

Trạng

Trong

Trạng

Trong

Trạng

Trong

Trạng

Trong

mẫu

(%)

thái

100%

thái

100%

thái

100%

thái

100%

tƣơi

VCK

tƣơi

VCK

tƣơi

VCK

tƣơi

VCK

cỏ

14,48

2,84

19,60

0,51

3,50

4,42

30,49

0,21

1,48

Thừng

cỏ Voi

8,94

1,77

19,78

0,33

3,72

3,43

38,33

0,17

1,43

Từ kết quả phân tích trong bảng 4.5 ta thấy vật chất khô cỏ Thừng là

14,48 %, còn cỏ Voi chỉ đạt 8,94 %. Lượng protein tổng số ở trạng thái tươi

cỏ Thừng là 2,84 %, cỏ Voi là 1,77 %; lipid, đường, chất sơ tổng số ở trạng

thái tươi cỏ Voi đều kém cỏ Thừng.

Để làm sáng tỏ thêm về chất lượng và hiệu quả sử dụng, chúng tôi đã

so sánh số liệu của chúng tôi với số liệu các tác giả khác về loài cỏ Voi:

Nguyễn Văn Tuyền (1973) cho biết protein thô trong cỏ Voi đạt 100 g/kg vật

chất khô, của chúng tôi là 19,78% nó còn cao hơn cả VA06 (18,46%).

Về tỷ lệ sử dụng ở cỏ Voi rất thấp 40-60%, tỷ lệ thân chiếm 70% tổng

số; do vậy lượng thức ăn thực tế mà bò sữa sử dụng là rất thấp. Nếu xét về

khía cạnh năng suất chất xanh cỏ Voi là 100 tấn, thì gia súc chỉ sử dụng được

40-60 tấn. Thực tế trong chăn nuôi bò sữa các hộ chăn nuôi đều cho rằng thức

ăn thô xanh thiếu cả về số lượng và chất lượng.

10 kg cỏ Voi = 7,0 kg là thân (70%) + 3, 0 kg là lá (30 %), thân cứng

dài nên khi ăn phải cắt nhỏ.

Ngược lại với cỏ Voi, cỏ Thừng có giá trị dinh dưỡng cao, tỷ lệ prôtein

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thô đạt 2,84%, vật chất khô, protein, lipit, chất sơ, đường tổng số nói chung ở

84

trạng thái tươi cao hơn nhiều so với cỏ Voi. Thân nhỏ, mềm, thơm nên độ

ngon miệng cũng rất cao. Mặt khác thân ngắn, mềm nên khi cho ăn không

phải cắt nhỏ như cỏ Voi, bò ăn hết không để thừa, tỷ lệ sử dụng trên 90%.

* Lượng phân bón cũng có vai trò lớn đến chất lượng đất trồng cỏ

Nhiều nghiên cứu cho thấy ở nhiều khu vực có trồng cỏ, cùng một

giống cỏ thì năng suất cỏ cao nhất ở khu vực mà hàm lượng các chất trong đất

biểu thị thấp nhất. Điều này chứng tỏ đất bị huy động ở mức cao vì vậy muốn

có năng suất cỏ cao cần tăng lượng phân bón hàng năm, đồng thời cung cấp

thêm độ ẩm cho đất.

Vị trí lẫy mẫu đất ở nơi không có sư tác động của phân bón.

Kết quả phân tích đất của chúng tôi được trình bầy trong bảng 4.6

Bảng 4.6: Hàm lƣợng các chất dinh dƣỡng trong đất ở khu vực nghiên cứu

Tên mẫu Nitơ TS (%) K2O(%) P2O5(%) MO(%) pKkcl

Mẫu đất 0,16 0,285 0,201 2,24 7,5

Từ bảng 4.6 ta thấy hàm lượng các chất trong đất là khá thấp đặc biệt

là mùn, pH thuộc loại trung tính. Nếu không bón phân thì năng suất các giống

cỏ sẽ không cao.

4.7. Năng suất cỏ tự nhiên trên đồi xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hoà

Để đánh giá năng suất thảm cỏ trên đồi cỏ tự nhiên xã Đông Lỗ - nơi

gia đình ông Sáu dùng làm bãi chăn. Trên đồi chăn thả chúng tôi đã lấy 4 ô mẫu, mỗ ô 1 m2, cắt sát đất lấy toàn bộ phần trên mặt đất về cỏ tươi phân theo

nhóm (bảng 4.7), cân tươi sau đó sấy khô tyệt đối. Kết quả thu được trình bầy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong bảng 4.7.

85

Bảng 4.7: Năng suất của các giống cỏ Hòa thảo (tháng 6/2009)

Khối lƣợng TT Nhóm cây Tƣơi (g) % VCK (%)

1 Hoà thảo 890.12 90,0 14.45

2 Thuộc thảo 80.41 8,1 16.17

3 Xa thảo 7.57 0,76 18.22

4 Họ Đậu 4.69 0,47 19.72

Tổng cộng 982,79 100 17,14

Từ kết quả bảng 4.7 ta thấy tổng khối lượng thực vật trên 1m2 đạt

982,79 gram tươi. Trong đó Hoà thảo đạt 890.12 gram chiếm 90% tổng số;

cây Thuộc thảo đạt 80.41 gram chiếm 8,1% tổng số; Xa thảo và họ Đậu chiếm

tỷ lệ rất thấp. Vật chất khô tổng số là 17,14%; Hoà thảo đạt 14,45% - một tỷ

lệ thuộc loại thấp so với nhiều nơi vì đây là thảm cỏ dưới rừng keo đã khép

tán. Thảm cỏ đạt năng suất khá cao vì gia đình ông Sáu đã bỏ không chăn

nuôi được 5 tháng nên thảm cỏ đã đạt mức tối đa sinh khối. Với năng suất này

biết khai thác hợp lý và có thức ăn bổ sung kkhi cấn thì 1ha có thể nuôi được

1 bò thịt.

4.8. Thảm cỏ tự nhiên ở đồi xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hoà

Để nghiên cứu về thành phần loài và dạng sống của thảm cỏ tự nhiên

tại chân đồi dưới rừng keo đã khép tán mà nhiều gia đình ở Đông Lỗ thường

dùng để chăn thả gia súc, chúng tôi tiến hành điều tra ở 3 điểm nghiên vào

thời gian tháng 5/2009: Đỉnh đồi (điểm nghiên cứu số1), chân đồi (điểm

nghiên cứu số 2) và lưng đồi (điểm nghiên cứu số 3). Đồi cỏ rộng 19,0 ha.

Kết quả nghiên cứu về thành phần loài và dạng sống tại 3 điểm ở

các thảm cỏ tự nhiên được chúng tôi thống kê được 41 loài thuộc 13 họ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(bảng 4.8).

86

Những kí hiệu sử dụng khi thành lập danh lục

1. Dạng sống : Sử dụng ký hiệu kiểu dạng sống trong bảng từ số 1 đến số 18.

STT

Kiểu dạng sống

1

Cây gỗ

2

Cây bụi

3

Cây bụi thân bò

4

Cây bụi nhỏ

5

Cây bụi nhỏ thân bò

6

Cây nửa bụi

7

Cây thảo lâu năm có hệ rễ cái

8

Cây có chồi mọc từ rễ

9

Cây thảo sống lâu năm có hệ rễ cái, có thân rễ ngắn

10

Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm

11

Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm, có thân bò

12

Cây thảo mọc thành búi thưa, sống lâu năm

13

Cây thảo mọc thành búi dày, sống lâu năm

14

Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài

15

Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài và thân bò

16

Cây thảo một năm có rễ cái

17

Cây thảo một năm có hệ rễ cái, có thân bò

18

Cây thảo một năm có hệ rễ chùm

2. Giá trị chăn thả : T0 - Tốt ; TB - trung bình ; Ke – Kém ; H0 – không

có giá trị chăn thả ; Đ- độc hại với gia súc .

3. Nhóm sinh thái : Dùng kí hiệu : A- Ẩm sinh ; T- Trung sinh ; T-H :

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trung sinh- Hạn sinh ; H-T : Hạn sinh - Trung sinh ; H - Hạn sinh .

87

Bảng 4.8 : Thành phần loài tại các điểm nghiên cứu tại xã Đông Lỗ

Điểm NC số

TT

Tên khoa học

Tên địa phƣơng

DS

1

2

3

1

2

3

4

5

6

7

Nhóm sinh thái và giá trị chăn thả 8

LYCOPODIOPHYTA

(1) Lycopodiaceae

HỌ THÔNG ĐẤT

1

Lycopodiella cernua(L.)Pic.Ser. Thông đất

+

+

+

5 T-H,H0

2

L.clavatum L.

Thông đá

+

5 T, H0

ANGIOSPERMAE

DICOTYLEDONEAE

HỌ CÖC

(2) Asteraceae

1

Ageratum conyzoides L.

Cỏ cứt lợn

+

16 T, To

2

Aster ageratoides Turez

Cúc sao

+

+

+

6 T,H0

3

Artemisia japonica Thunb

Ngải cứu dại

+

+

16 T-H,H0

4

Chromolaena odorata(L) R.King

Cỏ lào

+

6

+

+

& H.Robins

T-H,H0

5

Elephantopus scaber L.

Cúc chỉ thiên

+

+

+

10 T-H,H0

6

Xanthium inaequilaterum DC

Ké đầu ngựa

+

+

16 T, H0

(3) Boraginaceae

HỌ VÕI VOI

1 Heliotropium indicum L

Vòi voi

+

+

16 T,H0

(4) Caesalpiniaceae

HỌ VANG

1

Bauhinia alba Ham

Móng bò

+

+

+

3 T-H,H0

(5) Commelinaceae

HỌ THÀI LẦI

1

Commelina communis L.

Thài lài

+

+

11 T, H0

(6) Convolvulaceae

HỌ KHOAI LANG

1

Ipomoea Chrysoides (Ker)Ham Bìm bìm

+

3 T, H0

(7) Euphorbiaceae

HỌ THẦU DẦU

1

Breynia fruticosa(L.)Hook.f.

Bồ cu vẽ

+

+

+

2 T-H,H0

2

Euphorbia thymyfolia)L.)Poit

Cỏ sữa lá nhỏ

+

+

7 T, H0

3

Phyllanthung uriculata L.

Chó đẻ

+

+

+

4 T, H0

(8) Fabaceae

HỌ ĐẬU

1 Dunbaria podocarpa kutz

Đậu dại

+

+

11 T, T0

2 Uraria lagopodiodes DC.

Đậu ba lá

+

+

16 T, T0

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2 Urene lobata L

Ké hoa đào

+

6 T-H,Ho

88

(12) Melastomaceae

HỌ MUA

1 Melastoma sanguineum Sims

Mua đồi

+

+

+

2 H, H0

2 Melastoma septemnervium Lour Mua đất

+

+

+

4 T-H,H0

(9) Meliaceae

HỌ XOAN

1 Melia azedarach L.

Xoan

+

1 T-H,H0

(10) Mimosaceae

HỌ TRINH NỮ

1

Acacia mangium Willd

Keo tai tượng

+

+

+

1 T-H,Ho

(11) Myrtaceae

HỌ SIM

+

+

+

1

Baeckea frutescens L.

Chổi sể

4 H, H0

+

+

+

2

Psidium guyava L.

Ổi

1 T-H,H0

+

+

+

3

Rhodomyrtus tomentosa (sit) Hassk Sim

2 H, H0

Monocotyledoneae

(12) Cyperaceae

HỌ CÓI

+

+

+

10 T, Ke

1

Cyeras esculentus L.

Củ gấu

+

+

+

10 T, Ke

2

Scleria tokinensis Klarke

Cói ba gân ráp

+

10 T-H,Ke

3

Fimbristylis annua

Cỏ lông lợn

(13) Poaceae

HỌ LÖA

+

+

1

Acroceras munroanum(Bel)Henry Cỏ lá tre

10 T-H,T0

+

2

Apluda varia var. mutica H

Cỏ hoa tre

15 T, T0

+

3

Arundinella bengalensis (spring) Cỏ xương cá

14 H-T,T0

+

4

Chrysopogon aciculatus Trin

Cỏ may

+

+

15 T-H,T0

+

5

Cynodon dactylon

Cỏ gà

18 T-H,T0

+

+

6 Digitaria abludens(Roem ex.Sth) Cỏ chân nhện

12 T-H,T0

+

+

+

7

Echinochloa colona (L) Link

Cỏ lồng vực

12 T, T0

+

+

+

8

Eleusine indica(L) Gaertn

Cỏ mần trầu

10 T, T0

+

+

+

9

Paspalum conjugatum Berg

Cỏ mật

15 T, T0

+

+

+

12 T-H,TB

10 P.scrobiculatum L.

Cỏ đắng

+

13 A,TB

11 Phragmites karka (Retz) Trin

Sậy

+

+

13 H, TB

12 Saccharum arundinaceum Retz

Lau

+

+

+

13 T,To

13 Coelorachis striata (Stend) A.Cam Cỏ Thừng

28 27 38

Tổng số loài

11 10 18

Tổng số loài mà gia súc ăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

89

* Điểm nghiên cứu số 1

Điểm nghiên cứu số 1 là đỉnh đồi, có độ cao so với mặt nước biển là

180m, thảm cỏ ở đây cao khoảng 2- 4cm, trong thảm cỏ có một số cây gỗ nhỏ

và cây bụi. Tại điểm nghiên cứu này chúng tôi đã thống kê được 28 loài khác

nhau thuộc 9 họ (bảng 4.8).

Trong số đó họ có số lượng loài cao nhất là họ Lúa (Poaceae) có 9 loài

chiếm 32,1% tổng số loài trong điểm nghiên cứu, thường gặp các loài: Cỏ lá tre

(Acroceras munroanum(Bel) Henry), Cỏ may (Chrysopogon aciculatus Trin),

Cỏ chân nhện (Digitaria abludens(Roem ex.Sth)), Cỏ lồng vực (Echinochloa

colona (L) Link), Cỏ mần trầu (Eleusine indica(L) Gaertn), Cỏ mật (Paspalum

conjugatum Berg), Cỏ đắng (P.scrobiculatum L.), Lau (Saccharum

arundinaceum Retz), Cỏ Thừng (Coelorachis striata (Stend) A.Cam).

Họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae) có 3 loài chiếm 10,7% tổng số loài trong

điểm nghiên cứu, thường gặp các loài Chó đẻ (Ph. uriculata L.), Bồ cu vẽ

(Breynia fruticosa(L.)Hook.f.).

Họ Cúc (Asteraceae) có 4 loài chiếm 14,3% tổng số loài trong điểm

nghiên cứu, thường gặp các loài Cúc sao (Aster ageratoides Turez).

Họ Sim (Myrtaceae) thường gặp các loài Chổi sể (Baeckea frutescens

L.), Ổi (Psidium guyava), Sim (Rhodomyrtus tomentosa (sit) Hassk), họ trên

có 3 loài chiếm 10,7% tổng số loài trong điểm nghiên cứu.

Họ Cói (Cyperaceae) có 2 loài, thường gặp các loài U du thân ngắn

(Cyperus brevicaulis), Cói ba gân ráp (Scleria tokinensis Klarke). Họ Mua

(Melastomaceae) có 2 loài thường gặp các loài là Mua đồi (Melastoma

sanguineum Sims), Mua đất (Melastoma septemnervium Lour).

Nhóm các họ có 1 loài, bao gồm: Họ Vang (Caesalpiniaceae), thường gặp

các loài là Móng bò (Bauhinia alba Ham), họ Họ Vòi Voi (Boraginaceae),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chiếm 3,5% tổng số loài trong điểm nghiên cứu.

90

 Qua nghiên cứu ở điểm số 1, chúng tôi nhận thấy họ có số lượng

loài và cá thể nhiều nhất là họ Lúa (Poaceae), sau đó có là họ Cúc

(Asteraceae)…trong đó cỏ May (Chrysopogon aciculatus Trin), cỏ Mật

(Paspalum conjugatum Berg) là loài chiếm ưu thế. Trong 41 loài, chúng tôi

xác định tỉ lệ các loài thuộc các nhóm sinh thái : Ẩm sinh: 0 loài (0%), Trung

sinh: 12 loài(29,2%), Trung sinh-Hạn sinh: 12 loài (29,2%), Hạn sinh - Trung

sinh: 0 loài (0%), Hạn sinh: 4 loài (9,7%). Như vậy, trong điểm nghiên cứu số

1, đa số các loài là thuộc nhóm sinh thái là trung sinh, trung sinh - hạn sinh,

trong đồng cỏ tỉ lệ các loài hạn sinh cũng khá nhiều, điều này chứng tỏ đồng

cỏ đang thoái hoá ở giai đoạn 3 [9]. Ở điểm nghiên cứu này, có 11 loài mà gia

súc ăn (chiếm 26,8%) nhưng do kích thước cơ thể ngắn cho nên năng suất chất xanh trên 1m2 rất thấp.

* Điểm nghiên cứu số 2

Điểm nghiên cứu số 2 là chân đồi có độ cao so với mặt nước biển là

110m, thảm cỏ ở đây cũng có độ cao 2- 4cm, chúng tôi đã thu thập được 27

loài khác nhau thuộc 12 họ (bảng 4.8).

Họ Lúa (Poaceae) có 6 loài chiếm 22,2% tổng số loài trong điểm

nghiên cứu thường gặp các loài Cỏ may (Chrysopogon aciculatus Trin), Cỏ

lồng vực (Echinochloa colona (L) Link), Cỏ mần trầu (Eleusine indica(L)

Gaertn), Cỏ mật (Paspalum conjugatum Berg), Cỏ đắng (P.scrobiculatum L.).

Họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae) có 5 loài chiếm 18,5% tổng số loài trong điểm

nghiên cứu thường gặp các loài Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa (L.) Hook.f.), Cỏ

sữa lá nhỏ (Euphorbia thymyfolia (L.) Poit), Chó đẻ (Ph. uriculata L.). Họ

Cúc (Asteraceae) có 4 loài chiếm 13,33% tổng số loài trong điểm nghiên cứu,

thường gặp các loài như Cúc sao (Aster ageratoides Turez), Cỏ lào

(Chromolaena odorata (L)R.King&H.Ro, Cúc chỉ thiên (Elephantopus

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

scaber L.), Ngải cứu dại (Artemisia japonica Thunb).

91

Họ Sim (Myrtaceae) có 3 loài thường gặp các loài là Chổi sể (Baeckea

frutescens L.), Ổi (Psidium guyava), Sim (Rhodomyrtus tomentosa (sit) Hassk).

Mỗi họ trên có 3 loài chiếm 11,1% tổng số loài trong điểm nghiên cứu.

Họ Cói (Cyperaceae) có 2 loài thường gặp các loài là U du thân ngắn

(Cyperus brevicaulis), Củ gấu (C. esculentus L.), Cói ba gân ráp (Scleria

tokinensis Klarke). Họ Đậu (Fabaceae) có 2 loài thường gặp các loài Đậu dại

(Dunbaria podocarpa kutz), Đậu ba lá (U.lagopodiodes DC). Họ Mua

(Melastomaceae) thường gặp các loài Mua đồi (Melastoma sanguineum

Sims), Mua đất (Melastoma septemnervium Lour). Mỗi họ trên có 2 loài

chiếm 7,4% tổng số loài trong điểm nghiên cứu.

Còn lại các họ Thông đất (Lycopodiaceae), họ Họ Vòi Voi

(Boraginaceae), họVang (Caesalpiniceae), họ Thài lài (Commelinaceae. Mỗi

họ trên có 1 loài, chiếm 3,7% tổng số loài trong điểm nghiên cứu. Thường gặp

các loài Thông đất (Lycopodiella cernua(L.) Pic.Ser.), Vòi voi (Heliotropium

indicum L), Móng bò (Bauhinia alba Ham), Thài lài (Commelina communis L).

 Số lượng họ và thành phần loài trong điểm số 2 gần giống ở điểm số

1. Trong đó, có số lượng loài nhiều nhất là họ Lúa (Poaceae), họ Thầu dầu

(Euphorbiaceae). Trong 27 loài, chúng tôi xác định tỉ lệ các loài thuộc các

nhóm sinh thái: Ẩm sinh : 0 loài (0%), Trung sinh : 13 loài(48,1%), Trung

sinh - Hạn sinh: 11 loài(40,1%), Hạn sinh - Trung sinh: 0 loài (0%), Hạn sinh:

3 loài (11,1%). Như vậy, trong điểm nghiên cứu số 2, đa số các loài là thuộc

nhóm sinh thái là trung sinh, trung sinh - hạn sinh, các loài hạn sinh chiếm tỉ

lệ khá nhiều, đồng cỏ đang ở giai đoạn thoái hoá thứ 3 [9]. Ở điểm nghiên cứu

này, có 10 loài mà gia súc ăn (chiếm 37,0%), các loài cây hoà thảo mà gia súc

ăn thì không phát triển được và có năng suất rất thấp, những loài cây mà gia

súc không ăn phát triển mạnh và đang dần chiếm ưu thế như Mua đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Melastoma septemnervium Lour), Sim (Rhodomyrtus tomentosa (sit)Hassk).

92

* Điểm nghiên cứu số 3

Điểm nghiên cứu số 3 thuộc lưng đồi , có độ cao so với mặt nước biển

là 150m, trước kia đây là rừng tự nhiên, do chặt phá rừng thời gian dài nên trở

thành đồi cỏ xen lẫn cây gỗ nhỏ và cây bụi. Tại điểm nghiên cứu này chúng

tôi thu được 38 loài khác nhau thuộc 12 họ (bảng 4.8).

Họ Lúa (Poaceae) có 13 loài chiếm 34,2% tổng số loài trong điểm

nghiên cứu, thường gặp các loài Cỏ lá tre (Acroceras munroanum (Bel)

Henry), Cỏ hoa tre (Apluda varia var mutica H), Cỏ xương cá (Arundinella

bengalensis (spring)), Cỏ may (Chrysopogon aciculatus Trin), Cỏ gà

(Cynodon dactylon), Cỏ chân nhện (Digitaria abludens(Roem ex.Sth), Cỏ

lồng vực (Echinochloa colona (L) Link), Cỏ mần trầu (Eleusine indica(L)

Gaertn), Cỏ mật (Paspalum conjugatum Berg), Cỏ đắng (P.scrobiculatum L.),

Lau (Saccharum arundinaceum Retz), Sậy (Phragmite karka (Retz) Trin).

Họ có 6 loài, bao gồm: Họ Cúc (Asteraceae), thường gặp các loài Cỏ

cứt lợn (Ageratum conyzoides L), Cúc sao (Aster ageratoides Turez), Cỏ lào

(Chromolaena odorata(L)R.King&H.Robins), Cúc chỉ thiên (Elephantopus

scaber L.), Rau má (Centella asiatica), Ké đầu ngựa (Xanthium

inaequilaterum DC).

Nhóm họ có 3 loài, bao gồm Họ Cói (Cyperaceae) thường gặp các loài

Củ gấu (C.esculentus L.), Cỏ lông lợn (Fimbristylis annua). Họ Sim

(Myrtaceae) thường gặp các loài Chổi sể (Baeckea frutescens L.), Ổi (Psidium

guyava), Sim (Rhodomyrtus tomentosa(sit)Hassk). Mỗi họ trên có 3 loài

chiếm 7,9% tổng số loài trong điểm nghiên cứu.

Nhóm họ có 2 loài, bao gồm: Họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae), thường

gặp các loài Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa(L.)Hook.f.),Chó đẻ (Ph. uriculata

L.). Họ Đậu (Fabaceae) thường gặp là Đậu dại (Dunbaria podocarpa kutz).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Họ Thông đất (Lycopodiaceae) thường gặp các loài Thông đất (Lycopodiella

93

cernua(L.)Pic.Ser.), Họ Mua (Melastomaceae) thường gặp các loài Mua đồi

(Melastoma sanguineum Sims), Mua đất (Melastoma septemnervium Lour).

Mỗi họ trên có 2 loài chiếm 5,2% tổng số loài trong điểm nghiên cứu .

Còn lại các Họ Vang (Caesalpiniceae) thường gặp các loài Móng bò

(Bauhinia alba Ham), Thài lài (Commelinaceae), Họ Khoai lang

(Convolvulaceae), Họ Ban (Hypericaceae), Họ Xoan (Meliaceae), Họ Trinh

nữ (Mimosaceae) đều chỉ có 1 loài, mỗi loài chiếm tỉ lệ 2,6% tổng số loài

trong điểm nghiên cứu. Thường gặp các loài Thài lài (Commelina communis

L.), Bìm bìm (Ipomoea Chrysoides (Ker)Ham), Xoan (Melia azedarach L.),

Keo tai tượng (Acacia mangium Willd).

 Trong 3 điểm nghiên cứu về đồng cỏ thì điểm số 3 có số lượng họ

và loài lớn nhất . Họ Lúa (Poaceae) vẫn chiếm tỉ lệ lớn nhất . Trong 38 loài

,thì tỉ lệ các loài thuộc các nhóm sinh thái là: Ẩm sinh: 1 loài (2,6%), Trung

sinh: 15 loài (39,5%), Trung sinh-Hạn sinh: 17oài (44,7%), Hạn sinh - Trung

sinh: 1 loài (2,6%), Hạn sinh: 4 loài (10,5%). Như vậy, trong điểm nghiên cứu

số 3, đa số các loài là thuộc nhóm sinh thái trung sinh, trung sinh - hạn sinh,

các loài thuộc nhóm hạn sinh chiếm tỉ lệ cũng khá cao nên đồng cỏ đang ở

giai đoạn thoái hoá thứ 3[9]. Ở điểm nghiên cứu này, có 18 loài mà gia súc ăn

(chiếm 47,4%), những loài cây mà gia súc không ăn phát triển mạnh và đang

dần chiếm ưu thế. Qua điều tra nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do

chăn thả gia súc liên tục mà không có các biện pháp bảo vệ đồng cỏ và phát

triển đồng cỏ.

Qua các điểm nghiên cứu về thành phần loài thực vật trong đồng cỏ tự

nhiên, chúng tôi có một số nhận xét sau :

1. Qua nghiên cứu các điểm ta thấy số lượng loài cao nhất là điểm số 3

(38 loài), thấp hơn là điểm số 1 (28 loài) và sau đó là điểm số 2 (27 loài).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thành phần loài càng phức tạp, số lượng họ và loài tăng lên, nhưng số lượng

94

cá thể của các loài thuộc các họ thì lại giảm. Tại điểm nghiên cứu số 1 và 2 ta

thấy các loài họ hoà thảo chiếm ưa thế về số lượng và độ phủ do mức độ chăn

thả cao nên đồng cỏ ở đây giảm chiều cao và độ phủ giảm, đất bị đốt nóng, bị

nén chặt. Trên đồng cỏ xuất hiện chủ yếu là những cây ưa sáng, chịu sự dẫm

đạp của gia súc như Cỏ May (Chrysopogon aciculatus Trin), Cỏ Đắng

(P.scrobiculatum L.), Cỏ Mần trầu (Eleusine indica(L) Gaertn) và chúng có

năng suất thấp. Số lượng các loại cây bụi như Mua (Melastoma sanguineum

Sims), Sim (Rhodomyrtus tomentosa(sit) Hassk) tăng dần, có nơi chiếm ưu

thế tuyệt đối.

2. Trong 3 điểm nghiên cứu, phần lớn thực vật đều là các loài thuộc

nhóm sinh thái trung sinh, trung sinh - hạn sinh. Qua điều tra thực trạng chăn

thả đại gia súc của người dân trong xã và đánh giá tỉ lệ cây bụi ở ở 3 điểm

nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy điểm số 3 bị chăn thả nhiều nhất và mức

độ thoái hoá đồng cỏ là nặng nề nhất, sau đó là điểm số 1, thấp nhất là điểm

số 2. Như vậy mức độ thoái hoá tỉ lệ thuận với mức độ chăn thả gia súc.Tại

điểm nghiên cứu số 3, số họ và thành phần loài là cao nhất nhưng số lượng cá

thể thuộc các loài lại giảm dần và nhất là họ Hoà thảo.

4.9. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò

Bò là loai động vật nhai lại, có dạ dầy bốn túi, có khả năng tiêu hoá và

sử dụng nhiều loại thức ăn. Nhìn chung, thức ăn dùng nuôi bò đều rẻ tiền, dễ

kiếm, đa dạng hơn so với thức ăn nuôi lợn và gia cầm.

Để đánh giá quan hệ cơ cấu thức ăn với hiệu quả mô hình kinh doanh

của từng gia đình, chúng tôi đã tiến hành khảo sát ở một số gia đình thuộc hai

mô hình khác nhau.

4.9.1. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò sữa

Gia đình ông Lê Xuân Quý (Bắc Ninh): trong năm 2008 có: 7 bò vắt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sữa; 3 bò cạn; 2 bê.

95

Bò sữa nhà ông nuôi nhốt hoàn toàn. Chuồng bò làm ở nơi cao ráo,

thoáng mát, sạch sẽ. Chuồng được chia ô để nhốt riêng từng con, mỗi ô chiều

rộng 1,5m, nền chuồng cao ráo, thoát nước, máng ăn máng uống bố trí nơi

thích hợp cho bò ăn dễ dàng, không bị dính phân, nước tiểu vào thức ăn, nước

uống,sau chuồng có rãnh thoát nước.

Nuôi dưỡng chăm sóc: Bò sữa gia đình ông được cung cấp thức ăn đầy

đủ để bảo đảm sức khoẻ và khả năng sản xuất cho nên trong thành phần thức

ăn luôn đầy đủ và cân đối các chất dinh dưỡng thiết yếu.

Ông tận dụng chính nguồn phân bò thải ra để bón cho 5 sào cỏ ven đê

quanh năm xanh tốt nên không phải lo nguồn thức ăn xanh cho bò. Bò được

ông cho ăn hàng ngày rất khoa học theo đúng khẩu phần.

 Quan hệ thức ăn và sữa từng ngày của hộ gia đình ông Quý

Khẩu phần ăn bình quân/ngày/con (kg) thể hiện ở bảng 4.9

Bảng 4.9: Khẩu phần ăn bình quân/ngày/con (kg) ngày 10.12.2008

Thức ăn (kg)

Bã bia

Khoáng

Cỏ

Đối tƣợng

Nghô (bột)

Đậu xanh

Nhóm bò sữa (7con)

6,0

6,0

Đậu tƣơng (đã sấy) 0,5

1,0

0,1

60

Nhóm bò cạn sữa (3 con)

3,0

0

0

0

0,1

30

Bê (2 con)

1,5

0

0

0

0

20

Tổng (đồng/ngày/12con)

243000 42000 45500

31500 30000

137500

(Giá thức ăn trên thị trường: cám: 4000 đồng/kg; nghô (bột) :4500 đồng/kg;

bã bia: 1000 đồng/kg; đậu tương: 13000 đồng/kg; đậu xanh : 4500đồng/kg;

khoáng: 15000gđồng/kg; cỏ trồng: 250 đồng/kg)

Về mặt giá trị năng lượng với bò sữa mỗi ngày nhận được từ thức ăn

khoảng 19 đơn vị thức ăn (nghô 7 đơn vị + bã bia 1,2 đơn vị + đậu đỗ 2 đơn

vị + cỏ 10 đơn vị , với cỏ trung bình lấy 6 kg = 1 đơn vị cho cả hai loại cả cỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Voi và cỏ Thừng, khi bò ăn do rơi vãi có thể chỉ nhận được 9 đơn vị từ cỏ).

96

Như vậy: Tổng chi phí của cả đàn bò (12 con) trong một ngày : 529.500đ.

- Nhóm cho sữa (7 con): Năng suất sữa bình quân: 17,10 kg/con/ngày

(ngày 10.12.2008); với giá sữa trên thị trường là 6500đ/kg

chưa trừ chi phí tổng thu của cả đàn bò trong ngày: 778.050 đ.

Trừ toàn bộ chi phí thì 1 ngày với 12 con bò như trên cũng thu được

248.550đ 1 tháng thu được 7.456.500đ 1 năm thu nhập được

89.478.000đ (thu thêm gần 40 triệu nữa vì cỏ gia đình tự trồng được 160 tấn /

năm còn thiếu khoảng 40 tấn cỏ đã cho ăn thêm rơm, thân lá nghô già và cỏ tự

nhiên).Thu nhập nhà ông Quý cao gấp nhiều lần so với thu nhập bình quân

của người dân địa phương.

4.9.2. Hiệu quả mô hình chăn nuôi bò thịt

Gia đình ông Sáu (Hiệp hoà, Bắc giang): Nuôi bò thịt từ khoảng tháng

11.2006 nuôi theo phương thức bán chăn thả, lúc đầu là 24 con toàn là bò cái

sinh sản với giá khoảng 4 triệu đồng/con, tổng vốn lúc đầu khoảng 96 triệu

đồng; Đến cuối 2008 đẻ 8 con, bán bò con với giá 4 triệu đồng (đẻ con nào

bán con đó); Đến tháng 1.2009 ông bán hết cả đàn bò thịt tổng tiền là 176

triệu đồng (trong đó có cả 8 con bê đã bán).

Như vậy với thời gian nuôi là 26 tháng, chưa trừ chi phí ông lãi khoảng

80 triệu - mỗi tháng ông thu khoảng 3.000.000đ, một năm thu 36 triệu đồng.

Qua tìm hiểu chúng tôi được biết khẩu phần ăn hàng ngày của đàn bò

thịt nhà ông như sau:

Bảng 4.10. Khẩu phần ăn bình quân/ngày/con (kg)

Loại thức ăn Cỏ tự nhiên Cỏ trồng Cám gạo

Khối lượng (kg) 7- 8 5 – 6 2

Gia đình ông Sáu chỉ tận dụng nguồn thức ăn rất đơn giản, chủ yếu tận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dụng cỏ tự nhiên có sẵn, trồng khoảng 0,25 ha cỏ Voi. Với năng suất khoảng 200

97

tấn/ha/năm thì cỏ trồng của gia đình ông chỉ đủ cho 1 con/ngày là 6kg cỏ tươi, cỏ

tư nhiên năng suất thấp nên cũng chỉ đủ cung cấp 7-8 kg/con/ngày. Mua cám

mỗi ngày cần 48 kg (mỗi kg là 4000đ).Trong 26 tháng ông Sáu phải dùng

37.440kg cám, tổng chi là 149.760.000đ, nó lớn hơn rất nhiều số tiền bán bò. Ở

mô hình này ông đã phải bù 69.760.000đ chưa tính công chăn nuôi của gia đình.

Nguyên nhân thất bại là do không có sự chuẩn bị đầy đủ về khâu thức ăn, không

đầu tư thâm canh đúng mức nên thu nhập của cả đàn bò còn bị hạn chế nhiều.

So sánh 2 mô hình trên ta thấy: Mô hình của gia đình ông Quý (Cảnh

Hưng) nuôi bò sữa về khâu thức ăn đã có sự chuẩn bị khá tốt, chủ động trồng

cỏ đạt yêu cầu 80% của cả năm, còn lại 20% là thức ăn bổ sung từ phụ phẩm

nông nghiệp, cỏ tự nhiên. Ông Quý có đầu tư ban đầu tốt, có hiểu biết về chăn

nuôi bò sữa, thực thi theo đúng mô hình kinh doanh nên hiệu quả thu được từ

mô hình khá cao, hiệu quả thu được từ 1ha đất nông nghiệp cũng thuộc loại

cao (0,8 ha thu được 50 triệu/ năm).

Mô hình chăn nuôi bà thịt của gia đình ông Sáu (Hiệp Hoà) vẫn theo kiểu

tư duy cũ. Kiểu làm ăn này vẫn gặp ở nhiều nơi đó là chăn nuôi theo lối chăn thả

tự nhiên, tận dụng thảm cỏ tự nhiên mà không tính toán, không quy hoạch, có

trồng một ít cỏ gọi là có sự chuẩn bị, có cho ăn thêm cám nhưng không có sự

tính toán vì thế hiệu quả chăn nuôi rất kém, phải bù lỗ tới 70 triệu đồng, tổn thất

này là do thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm trong chăn nuôi bò.

Từ kết quả của mô hình ông Quý chúng ta thấy nếu có kiến thức, có

kinh nghiệm và có sự tính toán đầy đủ thì nên dành một phần đất trồng nghô,

trồng lúa hat trồng mầu hiệu quả thấp sang trồng cỏ phục vụ cho chăn nuôi.

Nếu trồng cỏ thâm canh chăn nuôi thì với trâu bò sinh sản cần 3 sào/con/năm,

nếu mỗi năm đẻ được 1 con thì có thể thu được từ 3,0-3,5 triệu đồng tuỳ theo

bê đẻ ra là bê đực hay bê cái. Nếu nuôi trâu bò thịt thì với tăng trọng 80-

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

90kg/năm cũng thu được khoảng 2,5-3,0 triệu đồng. Như vậy có thể thu được

98

1.000.000 đồng/sào/năm. Nếu nuôi bò sữa cần 4 sào cỏ/con, với chu kỳ 1 năm

trung bình 3,5 tấn sữa, giá sữa bình quân 7.000 đ/kg thì có doanh thu gần 6

triệu đồng/năm/sào rõ ràng lãi suất rất cao.

Trồng cỏ chăn nuôi gần như không phải đầu tư gì ngoài công lao động.

Phân trâu bò dùng bón ngay cho đồng cỏ. Trồng cỏ không đòi hỏi kỹ thuật và

chăm bón cao. Các giống cỏ như cỏ Voi, Ghinê, Păngola, cỏ Ruzi... thích nghi

cao cả trên những vùng đất nghèo. Cỏ giống thường 2 năm thay một lần dùng

luôn hom hoặc hạt cỏ đang trồng thay thế. Sau mỗi lứa thu hoạch mới phải chăm

bón một lần. Cỏ phát triển mạnh vào mùa mưa, đối với các loại cỏ thân bò có thể

phơi khô, các loại cây thân đứng có thể ủ chua làm thức ăn dự trữ quanh năm.

Tóm lại, muốn phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ thì điều kiện tiên

quyết là phải phát triển mạnh đồng cỏ. Cần có sự chuyển đổi mạnh mẽ trong

nhận thức của người chăn nuôi và chỉ đạo của các cấp ngành nông nghiệp.

Các vùng trung du, đồi gò cần bỏ hẳn trồng sắn, trồng rừng kém hiệu quả

sang trồng cỏ; các vùng đồng bằng cần chuyển đổi, dồn điền, đổi thửa…để

trồng cỏ; có chính sách khuyến khích thích đáng đẩy mạnh đồng cỏ để phát

triển chăn nuôi gia súc.

4.10. Kết luận và đề nghị

Kết luận

- Ngoài một số giống cỏ năng suất cao như cỏ Voi mà người chăn nuôi

bò đã trồng tương đối phổ biến, thì việc phát hiện và nhân rộng thêm 2 giống

cỏ bản địa (cỏ Thừng, cỏ Sậy) góp phần làm phong phú nguồn thức ăn thô

xanh, bảo đảm đầy đủ dinh dưỡng trong khẩu phần ăn hàng ngày, tạo điều

kiện cho bò sinh trưởng, phát triển tốt, cho năng suất, chất lượng cao. Hơn

nữa, việc phát triển các giống cỏ bản địa còn giải quyết được vấn đề khan

hiếm nguồn thức ăn xanh cho gia súc trong mùa khô, tạo thuận lợi cho nông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân mở rộng quy mô chăn nuôi.

99

- Cỏ Thừng là loài cỏ có nhiều ưu điểm: Năng suất cao, chất lượng tốt,

thân mềm, lượng vật chất khô trong cỏ cao, gia súc thích ăn, dễ trồng, thích

nghi với khí hậu và thổ nhưỡng của nhiều địa phương, nên trồng phổ biến

phục vụ cho chăn nuôi.

- Xã Cảnh Hưng là xã có nhiều mô hình điểm về chăn nuôi bò sữa, tập

đoàn cây thức ăn khá phong phú, nhiều giống có năng suất cao nhưng chưa thực sự sử dụng triệt để nhằm tăng năng suất cỏ trên m2 đất trồng. Muốn vậy

cần xây dựng mô hình thức ăn thích hợp cho vùng đất, khí hậu và loài gia súc.

- Mô hình chăn nuôi hộ gia đình ông Quý đảm bảo phát triển bền vững,

không gây suy thoái môi trường, có thể nâng cao thu nhập bình quân cho các

hộ gia đình lên gấp nhiều lần nếu biết đầu tư đúng hướng.

Có thể nói, chăn nuôi bò sữa là nghành kinh doanh! Do đó các hộ nông

dân cần phải sáng suốt lựa chọn giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của

mình. Muốn có thu nhập cao, các hộ chăn nuôi phải hạ được giá thành sản

xuất; cụ thể hạ chi phí thức ăn bằng cách cung cấp cỏ chất lượng cao và giảm

lượng thức ăn tinh trong khẩu phần.

Đề nghị

1. Mỗi vùng sinh thái cần nghiên cứu xây dựng một tổ hợp loài thích

hợp, có năng xuất cao và chất lượng tốt. Tổ hợp cỏ trồng này phải thoả mãn

trong 60kg đạt 10 đơn vị thức ăn.

2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền làm thay đổi tập quán chăn nuôi của

người dân, vận động người dân chăn nuôi đúng khoa học kỹ thuật.

3. Thường xuyên tập huấn chuyển giao kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi

đại gia súc cho bà con. Mạnh dạn cải tạo đàn gia súc theo hướng sử dụng

những giống cho năng suất cao, chất lượng tốt, hạn chế dần dùng các giống

địa phương năng suất, chất lượng thấp.

4. Xây dựng thị trường tiêu thụ sản phẩm từ chăn nuôi gia súc để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

người nông dân yên tâm sản xuất.

100

PHỤ LỤC

Ruộng cỏ Voi của gia đình ông Quý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Cỏ Thừng của gia đình ông Quý

101

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đàn bò sữa của gia đình ông Quý

1 0 2

1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bản đồ hành chính tỉnh Bắc Ninh

103

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

[1]. Lê Văn An và Tôn Nữ Tiên Sa, Phát triển kỹ thuật cây thức ăn xanh với

nông hộ, do ACIAR và CIAT xuất bản, ACIAR chuyên khảo số 93.

[2]. Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị (1976), Gây trồng và sử dụng một số giống cỏ

năng suất cao, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

[3]. Báo Lao động (2005), số 59, “Tìm cỏ tốt cho nghề nuôi bò”

[4]. Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2001, 2003, 2005), Danh lục các loài thực

vật Việt Nam, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội.

[5]. Lê Hòa Bình và các cộng sự (1992), Khảo sát năng suất cây thức ăn mới

nhập nội ở một số vùng và ứng dụng trong hộ chăn nuôi, Công trình

nghiên cứu KHKT chăn nuôi 1991 – 1992, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

[6]. Phạm Thị Trân Châu, Nguyễn Thị Hiền, Phùng Gia Tường (1997), Thực

hành hoá sinh học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[7]. Hoàng Chung (2004), Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam, NXB Nông

Nghiệp, Hà Nội.

[8]. Hoàng Chung (2006), Tập bài giảng đồng cỏ học, Tài liệu nội bộ của

trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, tr6.

[9]. Hoàng Chung (1980), Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam, Công trình

nghiên cứu khoa học - Trường đại học sư phạm Việt Bắc.

[10]. Lê Ngọc Công, Hoàng Chung (1997), Nghiên cứu cấu trúc một số mô

hình phục hồi rừng trên savan cây bụi ở Bắc Thái, Tạp chí khoa học và

công nghệ đại học Thái Nguyên, số 2.

[11]. V. Davies (1960), Quá trình phát triển của kỹ thuật nghiên cứu đồng

cỏ. Đồng cỏ nhiệt đới, tập 1, NXB Khoa học, Hà Nội.

[12]. Thái Đình Dũng, Đặng Đình Liệu (1979), Đồng cỏ nhiệt đới, NXB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hà Nội.

104

[13] Dương Quốc Dũng, Nguyễn Ngọc Hà, Bùi Văn Chính, Trần Trọng

Thêm, Lê Văn Ngọc, Hoàng Thị Lảng, Lê Văn Chung. Nghiên cứu khả

năng nhân giỗng hữu tính cỏ ruzi và phát trển chúng vào sản xuất ở một

số tỉnh miền bắc và Miền Trung Việt Nam, Báo cáo khoa học chăn nuôi -

thú y, 1999.

[14]. Nguyễn Ngọc Hà, Lê Hòa Bình, Bùi Xuân An, Ngô Văn Mận (1985),

Kết quả nghiên cứu tuyển chọn tập đoàn cỏ nhập nội, NXB Khoa học và

kỹ thuật nông nghiệp tháng 8, tr.347

[15]. Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995). Thành phần loài và dạng sống

thực vật trong loại hình sinh vật vùng đồi Quảng Ninh, Thông báo khoa

học trường đại học sư phạm Việt Bắc, số 3.

[16]. Phạm Hoàng Hộ (1993), Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam, Montreal.

[17]. Điền Văn Hưng (1974), Cây thức ăn gia súc miền Bắc Việt Nam, NXB

Nông thôn. In lần thứ 2.

[18]. Lê Khả Kế và các tác giả (1969, 1975), Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam,

NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 6 tập.

[19]. Phan Thị Phần, Lê Hòa Bình và các cộng sự (1999), Tính năng sản xuất

và một số biện pháp kỹ thuật tăng năng suất chất xanh và hạt của cỏ

Ghinê TD 58, Báo cáo khoa học phần thức ăn và dinh dưỡng vật nuôi,

trình bày tại hội đồng khoa học Bộ NN & PTNT, 28-30 tháng 6/1999.

[20]. Nguyễn Văn Quang (2002), Đánh giá khả năng sản suất và nghiên cứu

biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất một số giống cỏ hòa thảo

nhập nội là thức ăn cho gia súc tại Bá Vân – Thái Nguyên. Luận văn thạc

sỹ trường Đại học Nông Lâm-Thái Nguyên.

[21]. Dr.Sochadji (1994), Phát triển chăn nuôi ở Inđonêxia, Trình bày tại Hà

Nội lần thứ 3 của chương trình giống cỏ ở Đông Nam Á.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

[22]. Tiêu chuẩn Việt Nam 4326 – 1986.

105

[23]. Tiêu chuẩn Việt Nam 4329 – 1993.

[24] Hoàng Chung, Giàng Thị Hương. Tập đoàn cây cỏ trồng làm thức ăn gia

súc tỉnh Sơn La, năng suất chất lượng và khả năng khai thác. Tạp trí

Nông nghiệp và PTNT số 19/2006.

[25]. Thông tin khoa học kỹ thuật chăn nuôi (1998), số 4 năm thứ 29.

[26]. Nguyễn Thiện (2004), Trồng cỏ nuôi bò sữa, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

[27]. Trịnh Văn Thịnh, Hoàng Phương, Nguyễn An Tường, Borget M.,

Boudet G., Cooper J.P., …(1974), Đồng cỏ và cây thức ăn gia súc nhiệt

đới, tập 2, NXB Nông nghiệp, Hà nội.

[28]. Viện chăn nuôi Quốc gia (2001), Thành phần và giá trị dinh dưỡng thức

ăn gia súc – gia cầm Việt Nam, NXB Nông nghiệp.

[29] Trương Tấn Khanh và CS. Nghiên cứu khảo nghiệm tập đoàn giống cây thức ăn gia súc nhiệt đới tại M' Drac Đaklak và phát triển các giống thích

nghi trong sản xuất nông hộ. Báo cáo khoa học, Chăn nuôi thú y 1999, tr144

[30] Lục Văn Ngôn, so sánh năng suất và khả năng sống qua đông của một

số giống cỏ nhập nội trên đất đồi Thái Nguyên (1970), tr177.

[31]. Nguyễn Đình Ngỗi, Võ Văn Chi (1964). Sơ bộ điều tra thảm thực vật

Savan trên một vùng đồi núi phía Nam Hữu Lũng (Lạng Sơn), Tập san

sinh vật địa số 1.

[32] Nông trường Ba Vì , kết quả nghiên cứu tuyển chọn tập đoàn cây hoà

thảo nhập nội Nông trường Ba Vì. Thông tin khoa học kỹ thuật chăn nuôi,

Viện Chăn nuôi, 2/1983, tr12-25.

[33] Nguyễn Thị Thu Hồng, Nguyễn Ngọc Tấn, Đinh văn Cải, thí nghiệm

trồng cỏ tại vùng khô hạn tỉnh Ninh Thuận. Tạp trí khoa học chăn nuôi

12/2006, tr23-26.

[34] Lê Hoà Bình, Hồ Văn Núng (1987-1989), Viện Chăn nuôi 50 năm xây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dựng và phát triển , NXB Nông Nghiệp, tr241

106

[35] Viện chăn nuôi Quốc Gia. Thành phần và giá trị dinh dưỡng thức ăn gia

súc gia cầm Việt Nam, NXB Nông Nghiệp, 1995, tr48-70

[36]. Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến (1976), Phân loại thực vật, NXB nông

nghiệp, Hà Nội.

[37]. Nguyễn Đăng Khôi, Dương Hữu Thời (1981), Nghiên cứu về cây thức

ăn gia súc Việt Nam, NXB khoa học & KT, tập 2, tr.6 - 12.

[38]. Quang Ngọ, Sinh Tặng (1976), Tập đoàn cây thức ăn gia súc Miền núi

và Trung du Miền Bắc Việt Nam, NXB nông nghiệp, Hà Nội, tr.42-61.

[39]. Schmithusen .J (1969). Đồng cỏ nhiệt đới, Nxb khoa học, Hà Nội, tập 1.

tr 176-190.

[40]. Nguyễn Văn Viết (2006), Tài nguyên nhiệt - ẩm và sự hình thành các

vùng khí hậu Việt Nam. Tuyển tập báo cáo hội thảo khoa học lần thứ 10.

Viện khoa học khí tượng thuỷ văn và môi trường.

Tiếng nước ngoài

[41]. Anon (2000), Yields and chemical composition of pasture species in

lowland areas, Animal Nutrition Division, Department of livestock

Development, Ministry of Agriculture and Cooperatives, pp 27.

[42]. Animal Nutrition Division (2001), Intensive cultivation of Purple guinea

for dairy cows in Petchaburi Province, Animal report in 2001, Depatment

of livestock Development, Ministry of Agriculture and Cooperatives.

[43]. Davies, J.G (1970), Pasture development in the sub-tropics, with

special reference to Taiwan, Throp-Grassl, pp.4,7-16

[44]. R.J. Meilroy (1972), An introduction to tropical grassland Husbandry.

Oxford University Press. Second edition, 1972 Pp 3 – 7.

[45]. Middleton, C.H & Micosker, T.H. Makueni (1975), A new Guinea grass

for north Queens-Land, Queensl, Agri.J, pp. 101, 351-355.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

[46]. Vieente-Chandler, J.Silva.S & Figarella (1959), The effect of nitrogen

107

fertilization and frequency of cutting on the Yield and composition of

three tropical grasses, Agron.J, pp. 202 – 206.

[47] T.Kanno và M.C.M. Macedo. On-farm trial for pasture establishment on

wetland in the Brazilian savanas. JIRCAS Research highlights 2001.

Tropical Grasslands (19999) Volume 33, p75-81.

[48] John W. Miles, do valle, C.B; Rao, I.M; Euclides, V.P.B (2004).Genetic

improvement of Brizantha. http://www.gciat.org.com.

[49] Riveros, F. & Wilson, G.L (1970), Respnses of setaria sphacelata

Desmodium intortum mix - ture to height and frequency of cutting, Proc, 11th, Int, Grassl, Congr, Surfers Paradise, Australia, p666-668.

[50] M.D. Hare, P.Booncharern, P. Tatsapong, K. Wongpichet, C. Kaekunya and

K. Thummasaeng. Perform of para grass (Brachiaria multica) and Ubon

paspalum (Paspalum atratum) on seasonlly wet soils in Thailand. Faculty of

Agriculture, Ubon Ratchathani University, Ubon Ratchathani, Thailand

[51]. Barnard, C. (1969), Herbage plant species, Aust, Herbage plant

Registration Authority, Can – berra, CSIRO Aust, Divn of plant Tnd, pp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

23 – 35.