i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
BCAT Bạch cầu ái toan.
CT Computed tomography Chụp cắt lớp vi tình.
CDC Centers for Disease Control and Trung tâm kiểm soát và phòng
Prevention ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ
DNA Deoxyribonucleic acid
ELISA Enzym linked immuno sorbent Xét nghiệm hấp thụ miễn dịch
assay liên kết enzyme
KAP Knowledge - Atitude - Practice Kiến thức - Thái độ - Thực hành
MRI Magnetic resonnance imaging Chụp cộng hưởng từ
PCR Polymerase chain reaction Phản ứng chuỗi polymerase
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TƯ Trung ương
XN Xét nghiệm
WB Western Blot Phản ứng lai thấm protein
WHO World Health Organization Tổ chức Y tế Thế giới
ii
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................. i
MỤC LỤC ........................................................................................................ ii
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ v
DANH MỤC HÌNH ....................................................................................... vii
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................ 3
1.1. Một số đặc điểm sinh học của giun xoắn ................................................... 3
1.1.1. Vị trì phân loại ........................................................................................ 3
1.1.2. Hính thái giun xoắn và ấu trùng giun xoắn ............................................. 4
1.1.3. Chu kỳ phát triển của giun xoắn ............................................................. 6
1.2. Một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoắn ................................................. 11
1.2.1. Tác nhân gây bệnh và ổ bệnh ................................................................ 11
1.2.2. Đường truyền bệnh ................................................................................ 11
1.2.3. Khối cảm nhiễm và miễn dịch .............................................................. 11
1.2.4. Phân bố bệnh giun xoắn trên thế giới và tại Việt Nam ......................... 12
1.3. Các yếu tố liên quan đến bệnh giun xoắn ở người ................................... 19
1.4. Đặc điểm bệnh giun xoắn, chẩn đoán và điều trị ..................................... 21
1.4.1. Định nghĩa trường hợp bệnh giun xoắn ................................................ 21
1.4.2. Đặc điểm bệnh giun xoắn ...................................................................... 21
1.4.3. Chẩn đoán bệnh giun xoắn .................................................................... 29
1.4.4. Điều trị bệnh giun xoắn ......................................................................... 30
1.5. Phòng chống bệnh giun xoắn ................................................................... 32
1.5.1. Biện pháp chống dịch ............................................................................ 32
1.5.2. Phòng bệnh giun xoắn ........................................................................... 33
iii
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 34
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu .......................................... 34
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................ 34
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu: ............................................................................ 34
2.1.3. Thời gian nghiên cứu ............................................................................ 36
2.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 36
2.2.1. Phương pháp mô tả thực trạng nhiễm giun xoắn trên người và động vật
tại 4 tỉnh và các yếu tố nguy cơ (mục tiêu 1 và 2). ......................................... 36
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức
khỏe cộng đồng (mục tiêu 3) ........................................................................... 48
2.3. Sai số và hạn chế sai số ........................................................................... 52
2.4. Phương pháp xử lý số liệu ........................................................................ 52
2.5. Đạo đức nghiên cứu ................................................................................. 52
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ 54
3.1. Thực trạng nhiễm giun xoắn trên người và động vật tại các điểm nghiên
cứu ................................................................................................................... 54
3.1.1. Thông tin của các đối tượng nghiên cứu (người) ................................. 54
3.1.2. Thực trạng nhiễm giun xoắn trên người tại các điểm nghiên cứu ........ 57
3.1.3. Nhiễm giun xoắn ở động vật: ................................................................ 65
3.1.4. Kết quả xác định loài giun xoắn ............................................................ 68
3.2. Kết quả nghiên cứu một số yếu tố liên quan đến nhiễm giun xoắn ở người
tại điểm nghiên cứu ......................................................................................... 72
3.2.1. Mối liên quan giữa người sống tại các xã đã từng có dịch giun xoắn và
người sống ở xã không có dịch với tính trạng nhiễm giun xoắn .................... 72
3.2.2. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành phòng chống nhiễm giun xoắn. .. 72
3.2.3. Mối liên quan giữa thực hành phòng chống bệnh giun xoắn với tính
trạng nhiễm giun xoắn ..................................................................................... 75
iv
3.3. Kết quả can thiệp phòng chống giun xoắn tại cộng đồng ........................ 81
3.3.1. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn trước can thiệp và sau can thiệp....................... 81
3.3.2. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn tại các tỉnh nghiên cứu trước và sau can thiệp
truyền thông giáo dục sức khỏe ...................................................................... 82
Chƣơng 4. BÀN LUẬN ................................................................................. 88
4.1. Thực trạng nhiễm giun xoắn trên người và động vật tại các điểm nghiên
cứu. .................................................................................................................. 88
4.1.1. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở người: ............................................................ 88
4.1.2. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở động vật ........................................................ 93
4.1.3. Định loại loài giun xoắn ........................................................................ 99
4.2. Kết quả điều tra KAP và một số yếu tố liên quan đến nhiễm giun xoắn
trên người tại các điểm nghiên cứu ............................................................... 101
4.3. Đánh giá hiệu quả can thiệp phòng chống giun xoắn cộng đồng bằng
truyền thông giáo dục sức khỏe .................................................................... 111
KẾT LUẬN .................................................................................................. 115
KIẾN NGHỊ ................................................................................................. 117
TÍNH KHOA HỌC, TÍNH THỰC TIỄN VÀ TÍNH MỚI CỦA NGHIÊN
CỨU .............................................................................................................. 118
TÀI LIỆU THAM KHẢO
v
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1 Một số đặc điểm của Trichinella ....................................................... 4
Bảng 3.1. Phân bố đối tượng tham gia nghiên cứu theo nhóm tuổi................ 54
Bảng 3.2. Phân bố đối tượng tham gia nghiên cứu theo giới tình .................. 55
Bảng 3.3. Phân bố đối tượng tham gia nghiên cứu theo nhóm dân tộc .......... 55
Bảng 3.4. Phân bố đối tượng tham gia nghiên cứu theo trính độ học vấn ...... 56
Bảng 3.5. Kết quả sàng lọc người nhiễm giun xoắn bằng ELISA .................. 57
Bảng 3.6. Kết quả nhiễm giun xoắn bằng Western Blot .................................... 57
Bảng 3.7. Phân bố tỷ lệ nhiễm giun xoắn theo giới tình ..................................... 61
Bảng 3.8. Phân bố tỷ lệ nhiễm giun xoắn theo nhóm tuổi .............................. 61
Bảng 3.9. Phân bố tỷ lệ nhiễm giun xoắn theo nhóm dân tộc ........................ 62
Bảng 3.10. Phân bố nhiễm giun xoắn ở bệnh nhân đã được chẩn đoán mắc
bệnh giun xoắn trong các đợt dịch trước ......................................................... 63
Bảng 3.11. Phân bố tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan ở nhóm nhiễm giun xoắn tại
bốn tỉnh nghiên cứu ......................................................................................... 64
Bảng 3.12. Phân bố tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan ở nhóm nhiễm giun xoắn theo
tỉnh ................................................................................................................... 65
Bảng 3.13. Tỷ lệ lợn nhiễm giun xoắn bằng ELISA....................................... 66
Bảng 3.14. Tỷ lệ lợn nhiễm giun xoắn bằng kỹ thuật ELISA và Western Blot.... 66
Bảng 3.15. Kết quả xác định ấu trùng giun xoắn ở chuột ................................... 67
bằng kỹ thuật tiêu cơ ......................................................................................... 67
Bảng 3.16. Liên quan giữa người sống ở xã đã có dịch và xã không có dịch
với tính trạng nhiễm giun xoắn ....................................................................... 72
Bảng 3.17. Kết quả điều tra về kiến thức và thực hành của đối tượng nghiên
cứu liên quan đến tính trạng nhiễm giun xoắn ................................................ 73
vi
Bảng 3.18. Liên quan giữa kiến thức về bệnh giun xoắn của đối tượng nghiên
cứu với tính trạng nhiễm giun xoắn ............................................................... 74
Bảng 3.19. Liên quan giữa thói quen ăn thịt thú rừng với nhiễm giun xoắn ........ 75
Bảng 3.20. Liên quan giữa ăn thịt lợn sống với nhiễm giun xoắn .................. 76
Bảng 3.21. Liên quan giữa ăn thịt lợn tái với nhiễm giun xoắn .................... 77
Bảng 3.22. Mối liên quan giữa hính thức nuôi lợn với nhiễm giun xoắn ....... 78
Bảng 3.23. Mối liên quan giữa số lượng lợn nuôi với nhiễm giun xoắn ........ 78
Bảng 3.24. Mối liên quan giữa thời gian nuôi lợn với nhiễm giun xoắn ........ 79
Bảng 3.25. Mối liên quan giữa tẩy giun cho lợn với nhiễm giun xoắn .......... 79
Bảng 3.26. Các yếu tố liên quan với nhiễm giun xoắn bằng phân tìch hồi quy
đa biến ............................................................................................................. 80
Bảng 3.27. Nhiễm giun xoắn tại các tỉnh trước và sau can thiệp điều trị ....... 81
Bảng 3.28. Kết quả thực hiện hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe ..... 82
Bảng 3.29. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn trước và sau can thiệp truyền thông giáo
dục sức khỏe .................................................................................................... 83
Bảng 3.30. Hiểu biết về bệnh, tác hại của bệnh và cách phòng chống bệnh
giun xoắn của các đối tượng nghiên cứu trước và sau can thiệp .................... 83
Bảng 3.31. Thói quen ăn thịt tái/sống của đối tượng nghiên cứu trước và sau
can thiệp .......................................................................................................... 85
Bảng 3.32. Hính thức nuôi lợn trước và sau can thiệp.................................... 86
vii
Hính 1.1. Hính thể giun xoắn trưởng thành ...................................................... 5
DANH MỤC HÌNH
Hính 1.2. Ấu trùng giun xoắn giai đoạn 1 ........................................................ 5
Hính 1.3. Phả hệ gen Trichinella, loài có kén (mầu đỏ) và không kén (mầu
xanh) .................................................................................................................. 6
Hính 1.4. Chu kỳ phát triển của Trichinella (CDC - USA)[36] ........................ 7
Hính 1.5. Ấu trùng giun xoắn thâm nhập cơ vân [51] ...................................... 8
Hính 1.6. Kén T. spiralis trong cơ cơ vân [51] ................................................. 9
Hính 1.7. Bản đồ phân bố Trichinella trên thế giới (Dickson, 2009) [40] ..... 14
Hính 2.1. Địa điểm triển khai nghiên cứu tại thực địa .................................... 35
Hính 2.2. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu ................................................................ 51
Hính 3.1. Phân bố đối tượng tham gia nghiên cứu theo nhóm tuổi, giới tình và
dân tộc ............................................................................................................. 56
Hính 3.2. Tỷ lệ người nhiễm giun xoắn chung tại điểm nghiên cứu .............. 58
Hính 3.3. Hính ảnh kết quả phân tìch mẫu bằng kỹ thuật Western Blot ........ 58
Hính 3.4. Phân bố nhiễm giun xoắn tại huyện Bắc Yên, Sơn La ................... 59
Hính 3.5. Phân bố nhiễm giun xoắn tại huyện Tuần Giáo, Điện Biên ........... 60
Hính 3.6. Phân bố nhiễm giun xoắn tại huyện Mường Lát, Thanh Hóa ......... 60
Hính 3.7. Phân bố nhiễm giun xoắn theo tuổi, giới và dân tộc ....................... 63
Hính 3.8. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở bệnh nhân đã được chẩn đoán
mắc bệnh giun xoắn trong các đợt dịch trước ................................................. 64
Hính 3.9. Ấu trùng giun xoắn trong tiêu bản lắng cặn sau tiêu cơ chuột ....... 68
Hính 3.10. Kết quả PCR xác định loài Trichinella spiralis gen đìch EVS ..... 68
Hính 3.11. Kết quả PCR xác định giống Trichinella gen đìch COI ............... 69
Hính 3.12. Kết quả độ tương đồng của các mẫu nghiên cứu với các trính tự
gen được lưu trữ trên genbank ........................................................................ 70
viii
Hính 3.13. Trính tự đoạn gen COI của mẫu giun xoắn ................................... 70
Hính 3.14. Cây chủng loại phát sinh của giống Trichinella dựa trên trính tự
gen COI – sử dụng phần mềm MEGA 71 ....................................................... 71
Hính 3.15. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn do thói quen ăn các loại thịt thú rừng .......... 75
Hính 3.16. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn do thói quen ăn các loại thịt sống ............ 76
Hính 3.17. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn trước và sau can thiệp điều trị tại điểm nghiên
cứu ................................................................................................................... 82
Hính 3.18. Hiểu biết về bệnh, tác hại của bệnh và cách phòng chống bệnh
giun xoắn của các đối tượng nghiên cứu trước và sau can thiệp .................... 85
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh giun xoắn (Trichinosis) là bệnh truyền nhiễm cấp hoặc bán cấp
tình, bệnh truyền từ động vật sang người, do ấu trùng giun xoắn Trichinella
thuộc ngành giun tròn, lớp Nematoda, bộ Enoplida, họ Trichinellidae gây ra.
Bệnh lây truyền chủ yếu ở gia súc như lợn, cừu, ngựa và động vật hoang dại
ăn thịt, ăn tạp như lợn rừng, chuột, gấu, chim, ngựa, cáo... Người mắc bệnh do
ăn thịt sống hoặc tái, chưa nấu chìn kỹ có chứa ấu trùng giun xoắn [16], [19].
Bệnh không lây truyền trực tiếp từ người sang người. Bệnh gây dịch tản phát,
lẻ tẻ, xuất hiện ở những vùng người dân có tập quán nuôi lợn thả rông và ăn
thịt lợn tái, tiết canh, thịt hun khói hoặc thịt gác gác bếp hoặc ở những vùng
có săn bắn và ăn thịt thú rừng chưa nấu chìn kỹ [84].
Bệnh giun xoắn phân bố ở hầu hết các vùng trên thế giới như Châu Âu,
Châu Mỹ, Châu Phi và Châu Á. Đến nay Trichinella spp đã được phát hiện ở
198 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 53 nước ở Châu Phi, 37 nước ở
Châu Mỹ, 45 nước ở Châu Á, 48 nước ở Châu Âu, 15 nước ở Châu Đại
Dương. Có 55 nước phát hiện Trichinella spp gây bệnh trên người bao gồm 7
nước ở Châu Phi, 5 nước ở Châu Mỹ, 18 nước ở Châu Á, 23 nước ở Châu Âu,
2 nước ở Châu Đại Dương [53], [70], [97].
Trong thời gian từ năm 1986 đến năm 2009, trên thế giới đã phát hiện
65.818 người nhiễm và nhiều trường hợp tử vong do giun xoắn. Bệnh giun
xoắn được phát hiện tại các nước Đông Nam Á từ năm 1962, các ổ dịch trên
người phần lớn tập trung ở Lào, Thái Lan và Việt Nam, nơi người dân có tập
quán ăn thịt sống và thịt tái khá phổ biến [66].
Tại Việt Nam, bệnh giun xoắn được phát hiện trên người từ năm 1967
[7], [13]. Đến nay đã có ìt nhất 5 vụ dịch giun xoắn xảy ra tại các tỉnh Lai
Châu, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái, Thanh Hóa với trên 140 người mắc và 15
người tử vong. Bệnh giun xoắn được xếp ở nhóm C trong Luật phòng, chống
2
bệnh truyền nhiễm số 3/2007/QH 12, ngày 21 tháng 11 năm 2007 [14]. Các
nghiên cứu dịch tễ Trichinella tại Việt Nam còn hạn chế, chủ yếu là mô tả
hính thái dịch, triệu chứng lâm sàng, điều trị và phòng chống bệnh giun xoắn
tại các vụ dịch xảy ra. Do vậy cần có một nghiên cứu toàn diện hơn về bệnh
giun xoắn tại cộng đồng để tím hiểu về dịch tễ sự lưu hành bệnh, sự tồn tại
các ổ bệnh trong tự nhiên, loài giun xoắn và diễn biến của bệnh trong cộng
đồng tại những vùng đã từng xảy dịch để từ đó đề xuất được các biện pháp dự
phòng và chống dịch bệnh giun xoắn hiệu quả [15].
Từ thực tiễn và ý nghĩa nêu trên, đề tài: “Nghiên cứu thực trạng nhiễm
giun xoắn (Trichinella spp) tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam và hiệu quả
biện pháp can thiệp (2015 – 2017)” được triển khai với các mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng nhiễm giun xoắn trên người và động vật tại 4 tỉnh
Yên Bái, Sơn La, Điện Biên và Thanh Hóa năm 2015.
2. Phân tìch một số yếu tố liên quan tới tính trạng nhiễm giun xoắn ở
người tại các điểm nghiên cứu.
3. Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng bằng truyền thông giáo dục
sức khỏe tại các điểm nghiên cứu.
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số đặc điểm sinh học của giun xoắn
1.1.1. Vị trí phân loại
Giun xoắn thuộc giới Animalia, ngành Nematodes, lớp Nematoda, bộ
Enoplida, họ Trichinellidea, giống Trichinella. Đến nay đã phát hiện được 8
loài giun xoắn gồm Trichinella (T) spiralis, T. nativa, T. britovi, T.
pseudospiralis, T. murrelli, T. nelsoni, T. papuae, T. zimbabwensis và 3 kiểu
gen Trichinella chưa được đặt tên loài [40].
Các nhà khoa học trên thế giới thống nhất chia giống Trichinella thành
2 nhóm dựa trên dữ liệu về di truyền, sinh hóa và sinh học như sau [40]:
- Các Trichinella có tạo kén trong cơ là:
+ T. spiralis (genotype Tl), Owen 1835.
+ T. nativa (genotype T2), Britov và Boev 1972.
+ T. britovi (genotype T3), dBritov và Boev 1972.
+ T. murrelli (genotype T5).
+ Trichinella T6 (genotype T6).
+ T. nelsoni (genotype T7), Britov và Boev 1972.
+ Trichinella T8 (genotype T8).
+ Trichinella T9 (genotype T9).
- Các Trichinella không tạo kén trong cơ là:
+ T. pseudospiralis (genotype T4), Garkavi 1972.
+ T. papure (genotype T10).
+ T. zimbabwensis (genotype Tl1).
Gần đây tác giả Edoardo Pozio và Dante S. Zarlenga (2013) đã có
những bằng chứng loài thứ 9 Trichinella [97].
Trichinella có sự phân bố và vật chủ chứa chình khác nhau tùy từng
4
khu vực, khả năng lây nhiễm trên động vật và sự đề kháng với nhiệt độ âm (- 29oC đến -15oC) khác nhau [93].
Bảng 1.1 Một số đặc điểm của Trichinella [40]
Kháng Kiểu Tạo Tính lây đông Loài Vật chủ chính gen kén nhiễm lạnh
Lợn, chuột, lợn rừng, T. spiralis T1 Không Cao gấu, ngựa, cáo, người Có
T2 Cao Vừa Có T. nativa Gấu, ngựa,...
T3 Có T. britovi Lợn rừng, ngựa Thấp Không
T5 Thấp Vừa Có T. murrelli Gấu
T6 Cao Vừa Có Trichinella T6 Động vật ăn thịt
T7 Có T. nelsoni Lợn rừng Châu Phi Thấp Không
T8 Có Trichinella T8 Động vật ăn thịt Vừa Không
T9 Có Trichinella T9 Động vật ăn thịt Vừa Không rõ
T. pseudospiralis T4 Chim, động vật ăn tạp... Không Thấp Không
T. papuae T10 Lợn rừng Châu Phi Không Thấp Không
T. zimbabwensis T11 Cá sấu Không Không rõ Không
1.1.2. Hình thái giun xoắn và ấu trùng giun xoắn
Giun xoắn trưởng thành ký sinh ở ruột non, cơ thể được chia thành hai
phần: Phần đầu nhỏ, phần đuôi hơi phính to hơn phần đầu. Thực quản hính
chuỗi hạt chiếm 1/3 cơ thể [114] .
5
Hình 1.1. Hình thể giun xoắn trƣởng thành [114]
- Giun xoắn đực dài khoảng 1,4 - 1,6 mm, ở cuối đuôi có một đôi núm
gai, không có gai giao hợp.
- Giun xoắn cái dài khoảng 3 - 4 mm, bộ phận sinh dục ở đoạn giữa
thực quản, hậu môn ở phìa đuôi [40].
Hình 1.2. Ấu trùng giun xoắn giai đoạn 1 [114]
Ấu trùng giun xoắn khi mới đẻ ra có kìch thước chiều dài khoảng 80
μm - 120μm, chiều rộng 5 μm - 7 μm. Ở trong cơ, loại ấu trùng tạo kén sẽ
6
nằm trong một kén, có kìch thước chiều dài khoảng 0,65 mm - 1,45 mm, chiều
rộng khoảng 0,026 mm đến 0,040 mm, có hính xoắn 2,5 vòng, nên còn được
gọi là giun xoắn hay giun bao, có tổ chức xơ liên kết chung quanh [39], [40],
[97].
Bộ gen của T. spiralis đã được xác định có 15.808 gen, hơn nữa,
khoảng 45% gen của T. spiralis là gen đặc hiệu, chưa được tím thấy ở các vi
sinh vật khác và cũng chưa được liệt kê trong cơ sở dữ liệu gen [36], [77].
Hình 1.3. Phả hệ gen Trichinella, loài có kén (mầu đỏ) và không kén
(mầu xanh) [76]
1.1.3. Chu kỳ phát triển của giun xoắn
- Trichinella có 3 chu kỳ sống chình trong tự nhiên: Chu kỳ từ lợn sang
lợn, từ chuột sang chuột và qua các loài động vật ăn thịt hoặc động vật ăn tạp
hoang dã trong tự nhiên. Loài chuột và lợn là những động vật liên quan phổ
biến nhất với bệnh giun xoắn và sống gần người; tuy nhiên, tùy thuộc vào
từng khu vực trên thế giới, hải mã, hải cẩu, gấu, gấu Bắc cực, mèo, gấu trúc
7
Bắc Mỹ, chó sói, và cáo cũng có thể bị nhiễm bệnh [39], [107], [106].
Hình 1.4. Chu kỳ phát triển của Trichinella (CDC - USA)[36]
- Vòng đời của giun xoắn phát triển qua 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn trong đường tiêu hóa: Khi vật chủ ăn thịt sống hoặc chưa
nấu chìn có chứa nang kén ấu trùng giun xoắn (Larvae - L1), trong môi
trường dịch dạ dày của vật chủ, nang kén chứa ấu trùng bị phân hủy, ấu trùng
được giải phóng và tự do di chuyển đến ruột non, ấu trùng xâm nhập và ký
sinh trong niêm mạc ruột non. Sau 4 lần biến đổi (rụng lông, thay lông) trong
khoảng 12 tiếng đến 2 ngày, ấu trùng từ giai đoạn L1 phát triển thành ấu trùng
giai đoạn L5 và phát triển thành giun xoắn trưởng thành, ký sinh tại ruột non
[36], [53], [97].
8
Tại vật chủ, sau khi vật chủ ăn phải thịt có ấu trùng giun xoắn khoảng 2
đến 6 tuần, giun xoắn cái sẽ đẻ những ấu trùng non (giai đoạn L1) tại ruột
non. Một giun xoắn cái trưởng thành có thể đẻ khoảng 500 - 1.500 ấu trùng
non. Số lượng ấu trùng non được sinh ra tùy thuộc vào tính trạng miễn dịch
của vật chủ, vào loại vật chủ mắc bệnh và loài giun xoắn nhiễm phải [81].
Giun xoắn cái sống được khoảng 4 tuần trong ruột non, sau đó bị thải ra ngoài
theo phân [36], [53], [97].
+ Giai đoạn trong cơ:
Hình 1.5. Ấu trùng giun xoắn thâm nhập cơ vân [51]
Ấu trùng mới sinh tại ruột non sẽ xâm nhập vào hệ thống bạch huyết và
tuần hoàn máu, di chuyển đến và phát triển ở các cơ vân - nơi được cấp máu
đầy đủ nhất. Khi tới cơ vân, ấu trùng rời mao mạch, bám vào màng sợi cơ và
chui vào sợi cơ nhờ một gai chồi phìa trước. Ấu trùng giun xoắn có ái tình với
hầu hết các nhóm cơ hoạt động và chuyển hóa tìch cực như cơ lưỡi, cơ hoành,
cơ nhai, cơ liên sườn, cơ thanh quản, cơ ngoại chuyển mắt, các cơ vùng gáy,
cơ ngực, cơ delta, cơ mông, cơ bắp tay, cơ đùi, cơ cẳng chân v.v. Trong các
9
mô khác ngoài cơ vân, như cơ tim và não, các ấu trùng giun xoắn bị chết, tan
ra và gây hiện tượng viêm dữ dội [36], [53], [97].
Có thể tím thấy ấu trùng trong cơ sớm nhất vào ngày thứ 7 sau khi vật
chủ bị nhiễm, đa số xuất hiện vào ngày thứ 12. Sau khoảng 20 ngày đến 8
tuần sẽ hính thành ấu trùng xoắn 2,5 vòng trong cơ. Tại các cơ vân, ấu trùng
tiếp tục phát triển trong vòng 2 - 3 tuần tiếp theo cho đến khi chúng đạt đến
giai đoạn phát triển đầy đủ, còn gọi là ấu trùng có khả năng lây nhiễm (L1) và
tăng kìch cỡ lên gấp 10 lần, ấu trùng cuộn lại và hính thành nang kén, ngoại
trừ loài T. pseudospiralis, T. papuae và T. zimbabwensis.
Kìch thước của kén từ 0,4 - 0,6 x 0,25 mm. Màng kén của ấu trùng giun
xoắn có 2 lớp, mầu trong, hính bầu dục hoặc hính tròn tuỳ loại vật chủ khác
nhau. Chu kỳ này hoàn thành trong khoảng từ 17 - 21 ngày. Chu kỳ sống của
giun xoắn sẽ hoàn tất khi một động vật khác ăn thịt vật chủ bị nhiễm ấu trùng
giun xoắn [97].
Hình 1.6. Kén T. spiralis trong cơ cơ vân [51]
- Khả năng tồn tại của ấu trùng giun xoắn:
+ Trong cơ thể sống: Kén giun xoắn có thể tồn tại vài năm, thậm chì
tới 20 năm ở gấu và tới 40 năm ở người mà vẫn có khả năng lây nhiễm [6].
+ Ấu trùng Trichinella đã được báo cáo là tồn tại trong cơ người từ 6
10
đến 30 năm [39]. Theo nghiên cứu của Jovic, ấu trùng cơ T. spiralis trong
700g thịt lợn và được chôn ở độ sâu 30 - 100 cm sau 90 ngày vẫn có khả năng
lây nhiễm [39]. Ấu trùng T. spiralis trong cơ chuột sống sót lên đến 8 ngày
trong điều kiện kỵ khì (Fitzgerald & Prakasam, 1978)[91] và đến 6 tuần trong
môi trường thử nghiệm một số loại thức ăn động vật (bao gồm cả thức ăn ủ
chua, lúa mạch dạng hạt, thức ăn được bảo quản bằng axit propionic và điều
kiện đồng cỏ mô phỏng) (Oivanen et al., 2002) [71]. Ấu trùng cơ của T.
papuae trong xác lợn trong điều kiện môi trường tự nhiên ở Papua New
Guinea đã sống sót và vẫn gây nhiễm vào vật chủ mới lên đến 9 ngày sau khi
lợn đã được giết mổ (Owen & Reid, 2007) [75].
+ Trong môi trường tự nhiên: Ấu trùng giun xoắn trong kén có sức đề
kháng rất cao. Trong thịt súc vật đã bị thối rữa, ấu trùng có thể sống được từ 2
- 5 tháng trong kén. Nếu ra khỏi kén, ấu trùng sẽ chết sau vài giây ở nhiệt độ 45 - 70oC. Ở nhiệt độ âm 20oC, ấu trùng chết sau 20 ngày [6]. Ấu trùng
Trichinella trong giòi của Sarcophaga argyrostoma được giữ ở khoảng giữa
nhiệt độ từ 8 - 26°C có thể lây nhiễm sang chuột. Trong khi ấu trùng lây
nhiễm sống sót trong giòi của Sarcophaga argyrostoma giữ ở mức nhiệt 8°C
cho đến 5 ngày sau vẫn có khả năng lây nhiễm (Maroli & Pozio, 2000) [80].
Ấu trùng cơ T. nativa, một loài kháng đông, giữ khả năng gây lây nhiễm của
chúng sau quá trính đóng băng và tan băng bảy tuần (Davidson et al., 2008)
[99]. Cả ấu trùng T. spiralis và T. pseudospiralis sống sót trong băng giá ở
nhiệt độ âm 5°C và âm 18°C trong 4 tuần (Theodoropoulos et al., 2000) [57].
Ấu trùng T. spiralis gây nhiễm trong hệ thống cơ bắp của con gấu xám và chồn Gu lô Bắc Mỹ sống sót ở nhiệt độ âm 6,5oC đến âm 20°C từ 34 tháng và
4 tháng tương ứng [36].
+ Một nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, ở nồng độ NaCl trên 1,3%
kết hợp với quá trính lên men pH 5,2 hoặc thấp hơn, có thể làm bất hoạt ấu
11
trùng giun xoắn trong cơ đến hơn 96% trong 24 - 28 giờ và 100% sau 7 - 10
ngày [39], [97].
1.2. Một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun xoắn
1.2.1. Tác nhân gây bệnh và ổ bệnh
1.2.1.1. Tên tác nhân gây bệnh và lịch sử nghiên cứu
Từ năm 1835, Richard Owen đã nghiên cứu mô của một bệnh nhân tử
vong người Ý đã phát hiện và đặt tên Trichina spiralis (giun nằm trong những
kén) [101]. Đến năm 1860, Friedrich Albert von Zenker, người Đức, đã xác
định bệnh nhân bị chết do giun xoắn T. spiralis và đã chứng minh người mắc
bệnh do ăn thịt lợn chưa nấu chìn như hun khói hoặc thịt lợn ướp [43]. Cũng
trong năm 1860, Virchow và Leukart mô tả được toàn bộ chu kỳ phát triển
của Trichina spiralis [100]. Đến năm 1895, Railliet đổi tên Trichina thành
Trichinella để tránh nhầm lẫn với giống ruồi có tên là Trichina [63].
1.2.1.2. Ổ bệnh giun xoắn
Giun xoắn có ổ bệnh trong tự nhiên và lưu hành ở các loại động vật
hoang dại như lợn rừng, gấu, ngựa, chó sói, cáo, mèo rừng…và các động vật
gần người như lợn nuôi thả rông, chuột [39].
1.2.2. Đường truyền bệnh
Đường truyền bệnh ấu trùng giun xoắn là đường tiêu hóa. Người hoặc
động vật mắc bệnh giun xoắn do ăn thịt sống, thịt tái, tiết canh hoặc những
thực phẩm từ thịt chưa nấu chìn có chứa nang ấu trùng giun xoắn. Giun xoắn
không lây truyền trực tiếp từ người sang người [39].
1.2.3. Khối cảm nhiễm và miễn dịch
- Mọi người không phân biệt giới tình, tuổi, dân tộc, đều có thể mắc
bệnh giun xoắn khi ăn thịt chưa nấu chìn có chứa nang ấu trùng giun xoắn.
Tuy nhiên trẻ em có ìt biến chứng và phục hồi nhanh hơn người lớn [40].
- Chứng tăng bạch cầu ái toan (BCAT) máu và mô là đặc trưng của
12
bệnh giun xoắn ở người và IgE tổng số tăng xuất hiện ở nhiều trường hợp
nhiễm bệnh. Cả hai quá trính đều là kết quả của việc kìch hoạt Th-2. Bạch cầu
ái toan máu và mô bắt đầu bằng bạch cầu ái toan trong tủy xương, sau đó là
sự di chuyển qua hệ thống tuần hoàn, sự thâm nhiễm bạch cầu ái toan ở các
mô ở các tế bào viêm, và cuối cùng là degranul và chết tế bào. Gần đây, một
số khìa cạnh của bạch cầu ái toan do nhiễm trùng Trichinella spiralis đã được
làm sáng tỏ. Tuy nhiên, vai trò bảo vệ của quần thể tế bào này chống lại ký
sinh trùng Trichinella như thế nào vẫn còn gây tranh cãi. Hơn nữa, khi số
lượng bạch cầu ái toan rất lớn, có thể gây độc hại đối với các mô chủ [35].
- Cơ địa đặc biệt: Triệu chứng bệnh ở thai phụ thường nhẹ hơn so với
những người không mang thai, có ghi nhận sẩy thai hoặc thai chết lưu do giun
xoắn. Các triệu chứng của bệnh giun xoắn nặng một cách điển hính ở các phụ
nữ đang cho con bú hơn là phụ nữ không cho con bú [40].
- Các động vật nuôi như lợn, ngựa và động vật hoang dã như lợn rừng,
chuột, gấu, cáo, chim, những động vật ăn tạp khác đều có thể mắc bệnh giun
xoắn khi ăn thịt sống có chứa nang ấu trùng giun xoắn [84].
1.2.4. Phân bố bệnh giun xoắn trên thế giới và tại Việt Nam
1.2.4.1. Phân bố bệnh giun xoắn trên thế giới
Sự phân bố Trichinella và tập quán ăn uống là những yếu tố chình liên
quan tới việc nhiễm bệnh trên người ở các nước trên thế giới. Năm 2007,
Trichinella spp đã được phát hiện nhiễm trên người ở 198 quốc gia/lãnh thổ;
Trong đó, có 53 nước ở Châu Phi, 37 nước ở Châu Mỹ, 45 nước ở Châu Á, 48
nước ở Châu Âu, 15 nước ở Châu Đại Dương. Có 55 nước phát hiện
Trichinella spp gây bệnh trên người bao gồm 7 nước ở Châu Phi, 5 nước ở
nước ở Châu Mỹ, 18 nước ở Châu Á, 23 nước ở Châu Âu, 2 nước ở Châu Đại
Dương. Có 4/7 nước Châu Phi phát hiện người mắc bệnh giun xoắn ở các dân
tộc ìt người và khách du lịch có liên quan ăn thịt chưa nấu chìn hoặc thịt của
13
một số loài động vật hoang dã [53], [70], [97].
Hiện nay có 43 nước phát hiện Trichinella spp trên gia súc bao gồm 3
nước ở Châu Phi (7,0%), 5 nước ở nước ở Châu Mỹ (11,6%), 9 nước ở Châu
Á (20,9%), 24 nước ở Châu Âu (55,8%), 2 nước ở Châu Đại Dương (4,7%).
Có 66 quốc gia phát hiện Trichinella spp trên động vật hoang dã, bao gồm 13
nước ở Châu Phi (19,7%), 3 nước ở Châu Mỹ (4,5%), 14 nước ở Châu Á
(21,2%), 34 nước ở Châu Âu (51,5%), 2 nước ở Châu Đại Dương (3,1%)
[53], [70], [97].
- T. spiralis là loài gây bệnh chình, chiếm đa số được phát hiện ở động
vật nhiễm giun xoắn: 87 % ở lợn nuôi, 67% ở gấu, 88% ở ngựa nuôi, 79% ở
chuột. T. spiralis cũng là loài chình gây bệnh và gây tử vong cho người.
- Loài T. nativa là loài lây truyền trong động vật hoang dại là chủ yếu
như chó sói, cáo, gấu trúc Mỹ, gấu, hải mã, hải cẩu; ìt phát hiện được T.
nativa ở lợn nuôi. Loài T. nativa là loài chịu đông lạnh cao, phân bố ở phìa
bắc Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ. Khả năng gây bệnh cho người cao.
- Loài T. britovi là loài lây truyền trong động vật hoang dã là chủ yếu
như chó sói, cáo, gấu, chịu đông lạnh cao. Phân bố chủ yếu ở Châu Âu, Châu
Á và châu Phi. Tại châu Âu, các nhà khoa học đã phát hiện được T. britovi có
mặt ở 83% cáo mắc Trichinella, 30% ở lợn rừng và 11% ở lợn nuôi. Khả năng
gây bệnh cho người cao.
- Loài T. murrelli là loài lây truyền cho động vật hoang dại như gấu đen,
chó sói, gấu trúc Mỹ, chồn và động vật nuôi như chó, ngựa, mèo. T. murrelli
là loài chịu đông lạnh cao, phân bố ở Bắc Châu Mỹ bao gồm cả Hoa Kỳ. Khả
năng gây bệnh cho người ở mức trung bính.
- Loài T. nelsoni phân bố ở phìa Đông Phi, vật chủ chình là chó sói, cáo,
sư tử, báo, mèo rừng, lợn rừng, lợn rừng Châu Phi, lợn nhà, chó nhà. Khả
năng gây bệnh cho người ở mức thấp.
14
- Kiểu gen Trichinella T6 lây truyền chủ yếu ở động vật hoang dã như
gấu đen, gấu nâu, chó sói, cáo, chó sói đồng cỏ, chồn, sư tử, báo, cá, mèo
rừng ở Canada, Hoa Kỳ, khó gây nhiễm thực nghiệm ở phòng thì nghiệm.
- Kiểu gen Trichinella T8 được phát hiện ở sư tử tại Namibia, sư tử và
linh cẩu đốm ở Nam Phi, chưa phát hiện được người mắc Trichinella T8.
- Kiểu gen Trichinella T9 được phát hiện ở cáo tại Nhật Bản. Chưa phát
hiện được người mắc Trichinella T8.
- Loài T. pseudospiralis lây truyền bệnh ở cả động vật có vú và chim ở
Úc, New Zealand, đã phát hiện được người mắc T. pseudospiralis ở Úc, Pháp
và 3 vụ dịch với 92 bệnh nhân tại Thái lan.
- T. papuae phát hiện được ở lợn nuôi, lợn rừng, cá sấu nuôi ở Úc, Papua
New Guinea, Thái Lan. Đã phát hiện người mắc T. papuae tại Thái Lan.
- T. zimbabwensis lây truyền ở động vật có vú như chuột, cáo, lợn, khỉ và
loài bò sát như cá sấu, trăn. T. zimbabwensis phân bố ở Châu Phi như
Zimbabwe, Mozambique và Ethiopia.
Hình 1.7. Bản đồ phân bố Trichinella trên thế giới (Dickson, 2009) [40]
Tại Hoa Kỳ, từ năm 1947 - 1981 có 129 người chết trong tổng số 7.415
15
người nhiễm. Tại nước này từ năm 1997 - 2001 có 72 trường hợp nhiễm giun
xoắn đã được báo về Trung tâm kiểm soát và phòng chống bệnh Hoa Kỳ. Hầu
hết các trường hợp đều liên quan đến ăn thịt động vật hoang dã (43%), 17%
liên quan đến các sản phẩm thịt lợn thương mại và 13% liên quan đến sản
phẩm thịt lợn nhà. Tỷ lệ thịt lợn nội địa bị nhiễm ấu trùng giun xoắn tại Hoa
Kỳ là 0,001%. Dữ liệu cũng cho thấy sự hiện diện T. murrelli ở gấu trúc Bắc
Mỹ (raccoons) và chó sói Bắc Mỹ (coyotes) [3630], [3981]. Sự lây nhiễm
cũng có thể xảy ra trong quá trính du lịch nước ngoài, đặc biệt đến Mexico và
Châu Á [97]. Theo Nana O. Wilson và cộng sự [85], tại Hoa Kỳ trong giai
đoạn 1947 - 1951, mỗi năm có khoảng 400 trường hợp mắc và từ 10 - 15
trường hợp tử vong do Trichinella đã giảm xuống còn 5 - 15 trường hợp mỗi
năm giai đoạn 2002 - 2007. Trong giai đoạn 2008 - 2012 có 84 trường hợp
xác định Trichinella ở 23 bang và quận Colombia, chủ yếu là ở bang
California 35 trường hợp và Alaska 6 trường hợp, New Jersey 5 trường hợp.
Năm 2008 có 36 trường hợp, năm 2009 có 11 trường hợp; năm 2010 có 7
trường hợp và có 15 trường hợp năm 2011, có 15 trường hợp năm 2012;
không có trường hợp nào tử vong do Trichinella [72].
Tại Châu Âu, Trung tâm phòng chống và kiểm soát dịch bệnh Châu Âu
và cơ quan có thẩm quyền về an toàn Châu Âu đã báo cáo có 779 người mắc
bệnh, ấu trùng giun xoắn được tím thấy trong các động vật nuôi và động vật
hoang dã, đặc biệt là ở động vật hoang dã. Nghiên cứu của Radu Blaga và
cộng sự tại Romania xác định giai đoạn 1980 - 2004 có 28.293 người mắc
bệnh, tỷ lệ mắc là 51,0/1.000.000 dân. Một trong những nguyên nhân làm gia
tăng tỷ lệ mắc là: Trước năm 1990, kinh tế của Romania là chế độ bao cấp,
người dân ăn thịt cung cấp từ nhà nước nên việc giết mổ gia súc có kiểm soát
chặt chẽ của chình quyền địa phương; sau năm 1990 Romania đã xóa bỏ bao
cấp nên người dân mua thịt từ thị trường hoặc giết mổ thịt lợn tự do, hầu như
16
không có sự kiểm soát của chình quyền địa phương [33].
Tại Đức, phân tìch số liệu giám sát dịch tễ bệnh giun xoắn giai đoạn
1996 - 2006 có 95 trường hợp xác nhận nhiễm giun xoắn và 12 đợt dịch đã
được báo cáo. Tỷ lệ trung bính hàng năm cao nhất ở những người nhập cư từ
các nước Đông Nam Âu (0,3/100.000) so với ở người Đức (0,01 trường hợp /
100.000), với tỷ lệ mắc là 26,0% (CI 95%: 11,6 - 51,8). Triệu chứng lâm sàng
chủ yếu là đau cơ ở 79 bệnh nhân (83%). Thời gian chẩn đoán trung bính là
49 ngày. Bệnh nhân có nguồn lây nhiễm (85%, n = 81), tiêu thụ thịt lợn (chủ
yếu là từ các quốc gia lưu hành bệnh). Ngoài ra, các trường hợp mắc bệnh
giun xoắn có liên quan đến tiêu thu thịt lợn rừng nhập khẩu. Mặc dù lợn ở
Đức không có Trichinella spp. Loài ký sinh trùng này được tím thấy trên
động vật hoang dã của Đức như lợn rừng, cáo và chó cái. Bệnh giun xoắn
được coi là một vấn đề y tế công cộng ở Đức, đặc biệt ở người có nguồn gốc
di cư [27].
Châu Á đã phát hiện một số loài Trichinella trên động vật hoang dại
và người:
Afghanistan: Trichinella sp. được phát hiện trên một số động vật hoang
dại như mèo rừng, chó sói, cáo đỏ, cầy mangut, nhìm Afghanistan [70]; chưa
phát hiện được Trichinella sp. gây bệnh trên người và gia súc.
Trung Quốc: Bệnh giun xoắn là một trong những bệnh truyền qua thức
ăn quan trọng, hầu hết các vụ dịch xảy ra ở nhiều tỉnh của Trung Quốc, tỷ lệ
T. spiralis nhiễm trên lợn chiếm 50%. Riêng tỉnh Yunnan, có trên 20.000 ca
mắc và 213 ca tử vong trong giai đoạn 1964 - 1997 [73].
Hàn Quốc: Đã phát hiện được 3 người mắc bệnh ấu trùng giun xoắn do
ăn thịt lửng nhiễm T. spiralis; loài T. spiralis cũng được phát hiện nhiễm trên
lợn rừng. Chưa phát hiện được trường hợp nào về gia súc nhiễm Trichinella,
nhưng trên động vật săn tỷ lệ nhiễm 13% và điều tra tỷ lệ nhiễm Trichinella
17
trên động vật hoang tại 6 trong 7 tỉnh là 6,8%-18,3% [67].
Thái Lan: Từ năm 1962 đến năm 2006, Thái Lan có khoảng 130 vụ dịch,
trên 7.500 người mắc và 97 người tử vong do giun xoắn; ước tình có khoảng
200 - 600 người mắc giun xoắn ở phìa Bắc Thái Lan mỗi dịp đón năm mới
của người Thái [66].
Lào: Có 3 vụ dịch giun xoắn được báo cáo vào các năm 1976, 2005;
nguồn lây nhiễm từ lợn. Một vụ dịch giun xoắn lớn đã xảy ra ở tỉnh
Udomxay phìa Bắc Lào năm 2005 có khoảng 600 người ăn thịt lợn nhiễm
ấu trùng giun xoắn. Loài T. spiralis là loài phổ biến được xác định tại khu
vực phìa Bắc Lào [30].
Campuchia: Chỉ có một báo cáo về phát hiện kháng thể kháng
Trichinella ở một số cộng đồng dân làm nông nghiệp; các thông tin và điều tra
nghiên cứu về Trichinella còn rất hạn chế.
1.2.4.2. Phân bố Trichinella spp tại Việt Nam
Từ năm 1929 Lauet, Broudin và Nguyễn Văn Đến đã phát hiện ra một
con lợn nhiễm ấu trùng giun xoắn tại lò mổ Bính Tây ở Nam Bộ. Năm 1962,
Nguyễn Bá Thi phát hiện được hai con lợn nhiễm ấu trùng giun xoắn tại lò sát
sinh Hà Nội.
Tháng 2/1967 một vụ dịch giun xoắn xảy ra ở Lai Châu có 21 người mắc
và 3 người chết [13]. Theo báo cáo của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng Trung ương trong thời gian từ 1970 - 2012, có năm vụ dịch giun xoắn
bùng phát trên người tại các tỉnh miền núi phìa Bắc Việt Nam. Các vụ dịch
tập trung tại tỉnh Yên Bái, Sơn La, Điện Biên [15]. Chẩn đoán các trường hợp
bệnh giun xoắn trên người thường muộn, sau 1 - 2 tuần kể từ khi có triệu
chứng đầu tiên đến khi nhập các bệnh viện tuyến trung ương. Nguyên nhân do
hầu hết người dân và cán bộ y tế tuyến cơ sở chưa có kiến thức đầy đủ về
bệnh giun xoắn và thiếu trang thiết bị để chẩn đoán bệnh.
18
Năm 1970, tại xã Chế Tạo huyện Mù Căng Chải, tỉnh Nghĩa Lộ (nay
thuộc tỉnh Yên Bái) đã có vụ dịch giun xoắn với 26 người mắc bệnh, trong đó
có 4 người chết [105].
Tháng 12 năm 2001, tại bản Chấn, xã Quải Tở, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện
Biên có 23 người bị nhiễm bệnh giun xoắn, trong đó có 2 người tử vong [23].
Tháng 9 năm 2004, cũng tại xã Quải Tở, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện
Biên có 20 người mắc bệnh giun xoắn, không có tử vong [15].
Năm 2008 có một vụ dịch giun xoắn tại xã Làng Chếu, huyện Bắc Yên,
tỉnh Sơn La với 22 người mắc, trong đó có 2 người tử vong.
Năm 2009 một điều tra về tính hính nhiễm giun xoắn trên đàn lợn tại 17
bản thuộc 4 xã, nơi có người chết và mắc bệnh này tại huyện Bắc Yên, tỉnh
Sơn La đã xét nghiệm 1.035 mẫu huyết thanh lợn cho tỷ lệ dương tình là
19,9%; 17 bản của 4 xã đều có lợn nhiễm Trichinella [104]. Các hộ có lợn xét
nghiệm, tỷ lệ hộ dương tình bính quân là 38,9%, trong đó xã Làng Chếu, nơi
xẩy ra người nhiễm và chết về bệnh tỷ lệ nhiễm cao nhất, có hộ tới 53,8%.
Kiểm tra 76 mẫu cơ ở lợn dương tình huyết thanh, phát hiện thấy ấu trùng
giun xoắn ở 50 mẫu, chiếm tỷ lệ 65,78%. Lợn ở mọi lứa tuổi đều mắc bệnh, tỷ
lệ nhiễm tăng dần theo tuổi nhất là giai đoạn trên 36 tháng (55,6%), có nghĩa
là lợn càng sống lâu khả năng tiếp xúc với mầm bệnh càng lớn, khả năng
mang mầm bệnh càng cao. Lợn giai đoạn từ 8 - 36 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm
cũng khá cao (32,9%). Lợn tỷ lệ nhiễm thấp nhất ở dưới 2 tháng (1,1%) và 2 -
8 tháng tuổi (1,2%). Cả lợn cái và lợn đực đều nhiễm bệnh nhưng lợn cái có
tỷ lệ mắc bệnh 12,5% cao hơn so với lợn đực 7,4%. Nghiên cứu đã lấy 76
mẫu cơ hoành từ 76 lợn này để làm phương pháp ép cơ hoăc tiêu cơ kiểm tra
ấu trùng giun xoắn, kết quả cho thấy 50/76 mẫu cơ có ấu trùng chiếm tỷ lệ
65,78%. Ấu trùng gửi đi phân loại ở phòng thì nghiệm tham chiếu là loài T.
spiralis.
19
Tháng 2 năm 2012, tại huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa có trên 27 người
mắc bệnh. Xét nghiệm ELISA phát hiện kháng thể kháng giun xoắn cho kết quả
dương tình 7,4% (18/242 người xét nghiệm). Điều tra trên lợn tại địa phương có
dịch cho tỷ lệ dương tình với ELISA là 6,7% (3/45 lợn xét nghiệm).
Tháng 9 năm 2013 tại cửa khẩu Tây Trang tỉnh Điện Biên có 8 người
mắc giun xoắn. Cả 8 bệnh nhân đều có Ab-ELISA IgG huyết thanh dương
tình [86] do ăn thịt lợn rã đông làm món lạp.
Tất cả các vụ dịch bệnh giun xoắn đều xảy ra tại miền Bắc Việt Nam, tình
chất dịch lẻ tẻ, mang tình địa phương, liên quan đến ăn thịt chưa nấu chìn như tiết
canh, lạp, chạo, nem, là những món ăn truyền thống của người địa phương.
Những người mắc bệnh có triệu chứng giống nhau là co rút cơ và nhiễm độc. Do
được chẩn đoán muộn nên bệnh nhân khi nhập viện thường trong tính trạng nặng.
1.3. Các yếu tố liên quan đến bệnh giun xoắn ở ngƣời
Bệnh giun xoắn lây truyền sang người có liên quan tới tập quán ăn, chế
biến và phương pháp bảo quản thực phẩm như ăn tiết canh, ăn thịt tái, lạp,
nem chua, thịt khô, thịt nướng, thịt hun khói, thịt treo gác bếp, thịt nấu chưa
chìn kỹ.
- Sở thìch ẩm thực: Thìch ăn thịt tái, thịt sống, thịt nướng, thịt hun khói,
lạp, nem chua, thịt treo gác bếp hoặc thịt chưa nấu chìn kỹ, tiết canh. Sở thìch
ăn thịt thú rừng [93].
- Bệnh thường xảy ra vào các ngày lễ hội, nơi tập trung ăn uống nhiều
người có giết mổ lợn hoặc săn được thú rừng.
- Hiểu biết của cộng đồng về bệnh giun xoắn và biện pháp phòng chống
bệnh giun xoắn còn hạn chế.
- Phương thức chăn nuôi: Dân có tập quán nuôi lợn thả rông hoặc bán thả
rông, đặc biệt ở là các dân tộc ìt người ở vùng rừng núi và trung du.
Theo Nana O. Wilson và cộng sự, tại Hoa kỳ trong giai đoạn 2008 -
20
2012 có 84 trường hợp xác định Trichinella ở 23 bang và quận Colombia có
22 trường hợp (26,19%) do ăn thịt lợn nuôi và thịt lợn rừng chưa nấu chìn, 41
trường hợp (48,81%) do ăn thịt gấu, 2 trường hợp ăn thịt cừu; 2 trường hợp ăn
thịt bò và 17 trường hợp không xác định được loại thịt mà bệnh nhân đã ăn.
Có 5 vụ dịch giun xoắn với 40 bệnh nhân xảy ra ở 4 bang Alaska, California,
Illinois and Minnesota; trong đó có 3 vụ dịch do ăn thịt gấu, một vụ do ăn thịt
lợn rừng và một vụ không xác định được loại thịt gí do những người bệnh ăn
nhiều loại thịt chưa nấu chìn trong thời gian ủ bệnh [85].
Trung tâm phòng chống và kiểm soát dịch bệnh Châu Âu đã báo cáo
có 779 người mắc bệnh, ấu trùng giun xoắn được tím thấy trong các động vật
trang trại và động vật hoang dã, đặc biệt là động vật hoang dã.
Tại Đức năm 2006, Robert đã mô tả một vụ dịch giun xoắn tại bang
Mecklenburg-Vorpommern phìa Đông Đức có tới 17 người được xác định
mắc giun xoắn do ăn thịt lợn hun khói. Xét nghiệm những miếng thịt hun khói
còn lại ở nơi đã xảy dịch có tới 106 ấu trùng giun xoắn trong gam thịt [74].
Tại Trung Quốc: Bệnh giun xoắn là một trong những bệnh truyền qua
thức ăn quan trọng. Nguồn bệnh quan trọng nhất là lợn nuôi và một số loài
khác như gấu, chó, dê. Loài T. nativa được phát hiện nhiễm ở mèo và chó ở
phìa Bắc Trung Quốc. Tại các tỉnh khu vực trung tâm Trung Quốc, tỷ lệ
T. spiralis nhiễm trên lợn cũng tương đối cao 6,8% ở Hubei và 4,3% ở Henan.
Ấu trùng giun xoắn còn được phát hiện ở động vật hoang dại như cáo, gấu,
lợn rừng, chồn, gấu trúc, chuột tre, chuột chù, chuột chũi [37][109].
Tại Thái Lan: Bệnh giun xoắn lưu hành trên lợn và chó ở các tỉnh
miền núi phìa Bắc Thái Lan, ước tình có khoảng 200 - 600 người mắc giun
xoắn ở phìa Bắc Thái Lan mỗi dịp đón năm mới của người Thái, nguồn lây từ
lợn, chó, chuột, lợn rừng [66].
Tại Lào: Có 3 vụ dịch giun xoắn được báo cáo vào các năm 1976,
21
2005; nguồn lây nhiễm từ lợn. Một vụ dịch giun xoắn lớn đã xảy ra ở tỉnh
Udomxay phìa Bắc Lào năm 2005 có khoảng 600 người ăn thịt lợn nhiễm ấu
trùng giun xoắn [30].
1.4. Đặc điểm bệnh giun xoắn, chẩn đoán và điều trị
1.4.1. Định nghĩa trường hợp bệnh giun xoắn
Bệnh giun xoắn là bệnh thuộc nhóm C trong Luật phòng chống, bệnh
truyền nhiễm (ICD-10 B75) [14].
- Trường hợp bệnh nghi ngờ: Là trường hợp có ăn thịt lợn chưa nấu chìn,
tiết canh có kèm theo các triệu chứng sau:
+ Sốt nhẹ sau tăng dần, sau 2 - 3 ngày thân nhiệt có thể lên tới 39 – 40oC;
+ Đau cơ xuất hiện khi thở sâu, ho, khi nhai, nuốt, đại tiện, đau cả mặt
và cổ, đau khi vận động và cả khi ăn, nói;
+ Phù mi mắt, phù mặt, sau lan xuống cổ và chi trên;
+ Có biểu hiện rối loạn tiêu hóa (tiêu chảy hoặc táo bón).
- Trường hợp bệnh nghi ngờ có nồng độ creatine kinase (CK) trong máu tăng.
- Trường hợp bệnh xác định: Là trường hợp bệnh nghi ngờ và có một
trong các kết quả xét nghiệm sau:
+ Xét nghiệm tím kháng thấy kháng thể kháng giun xoắn bằng kỹ thuật
ELISA hoặc,
+ Sinh thiết tím thấy ấu trùng giun xoắn trong cơ, hoặc
+ Xác định được đoạn gen đặc hiệu của giun xoắn bằng kỹ thuật sinh
học phân tử.
1.4.2. Đặc điểm bệnh giun xoắn
1.4.2.1. Sinh bệnh học
Quá trính nhiễm giun xoắn là một quá trính nhiễm độc dị ứng trong giai
đoạn ủ bệnh đến giai đoạn toàn phát, gây tính trạng viêm dị ứng toàn bộ mao
mạch, hoại tử các tế bào cơ vân và thiếu ô xy trong các tổ chức.
22
1.4.2.2. Đặc điểm lâm sàng bệnh giun xoắn
Đặc điểm lâm sàng bệnh ấu trùng giun sán tương đối đa dạng phụ thuộc
vào cường độ nhiễm ấu trùng giun xoắn [9], [89]:
- Thời kỳ ủ bệnh:
Thời kỳ ủ bệnh kể từ khi người nuốt thịt chưa nấu chìn có kén ấu trùng,
ấu trùng vào dạ dày và thoát kén do tác dụng của dịch vị, sau đó ấu trùng tới
ký sinh ở ruột non; tại ruột non, ấu trùng phát triển thành giun xoắn trưởng
thành và giun xoắn cái đẻ ấu trùng mới tại ruột non. Thời kỳ ủ bệnh ngắn
khoảng một tuần trong trường hợp nặng, khoảng 2 tuần trong trường hợp vừa
hoặc kéo dài tới 3 - 4 tuần trong trường hợp nhẹ.
Biểu hiện lâm sàng của bệnh trong giai đoạn này chủ yếu là những rối
loạn về tiêu hóa như buồn nôn hoặc nôn, đau âm ỉ vùng thượng vị, có thể tiêu
chảy hoặc táo bón, chán ăn.
Theo Trung tâm Phòng chống và kiểm soát bệnh Châu Âu thí các triệu
chứng lâm sàng hay gặp trong thời kỳ giun xoắn ký sinh ở ruột thường gặp là:
+ Tiêu chảy là triệu chứng hay gặp nhất, khoảng 15% bệnh nhân có
triệu chứng buồn nôn, 3% có triệu chứng nôn mửa, 16% có triệu chứng tiêu
chảy. Các triệu chứng táo bón, chán ăn và yếu dần người có thể xảy ra.
+ Đôi khi viêm ruột nặng do nhiễm một lượng lớn ấu trùng giun xoắn.
+ Khó chịu trong bụng và chuột rút có thể xảy ra.
+ Các triệu chứng có thể kéo dài 2 - 7 ngày hoặc có thể kéo dài trong
nhiều tuần.
- Thời kỳ khởi phát và toàn phát:
Thời kỳ này kéo dài khoảng 6 - 16 ngày kể từ khi ấu trùng non vào máu
và di chuyển đến ký sinh và phát triển trong cơ vân, tạo kén trong cơ vân. Các
triệu chứng lâm sàng của bệnh giun xoắn giai đoạn toàn phát thường gặp là:
+ Sốt: Sốt đột ngột, sốt cao 39 - 400C, có gai rét và đôi khi có rét run.
23
Thời gian sốt dài hay ngắn phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh; có
trường hợp sốt dao động kéo dài hàng tháng.
+ Đau cơ: Các cơ thường bị đau là các cơ vận động.
Đau cơ vận nhãn nên bệnh nhân thường khó liếc mắt;
Đau cơ mi mắt nên bệnh nhân khó nhắm mắt;
Đau lưỡi nên khó thè lưỡi;
Đau cơ hầu họng nên khó nuốt;
Đau cơ hoành và cơ lồng ngực nên đau khi ho hoặc hắt hơi;
Có trường hợp đau cơ thành bụng giống viêm ruột thừa;
Đau cơ tứ chi nên bệnh nhân vận động khó khăn, đi lại hạn chế, khó
thay đổi tư thế.
+ Phù nề: Thường nề ở mặt và mi mắt, một số trường hợp có phù cả ở
mu bàn tay, bàn chân; màng tiếp hợp thường có biểu hiện viêm, xuất tiết hoặc
xuất huyết.
+ Ban dị ứng ở da.
+ Da xung huyết, dãn mạch, có thể có những đốm xuất huyết.
+ Triệu chứng tâm thần kinh: Trường hợp nặng có thể có những triệu
chứng rối loạn tâm thần kinh như ngủ gà, cuồng sảng, dấu hiệu màng não (+),
mạch nhanh, huyết áp hạ...
Theo Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh châu Âu thí các triệu chứng lâm
sàng hay gặp trong thời kỳ giun xoắn ký sinh ở ruột là:
+ 91% bệnh nhân có sốt ở tuần thứ 2 và cao nhất ở tuần thứ 4, thân
nhiệt có thể tăng lên 400C.
+ Biểu hiện hệ hô hấp: 33% bệnh nhân với các triệu chứng kéo dài lên
tới 5 ngày, bệnh nhân có thể khó thở, khàn giọng.
+ Viêm cơ gặp ở 82% bệnh nhân. Đau cơ gặp ở 89% bệnh nhân, cơ
vận động khó co duỗi, đi lại khó khăn và bị phù nề, đau liên quan tới cơ
24
hoành có thể gây khó thở, lượng máu tăng lên ở một số cơ.
+ Phù quanh hốc mắt có ở 77% bệnh nhân. Các dữ liệu về mắt bao
gồm xuất huyết cận kết mạc ở 9% bệnh nhân, 55% viêm kết mạc, có sưng vù
quanh đồng tử.
+ Phát ban được ghi nhận từ 15% tới 65% bệnh nhân.
+ Hệ thần kinh trung ương liên quan tới 10% - 24% bệnh nhân. Trong
số này, biểu hiện viêm não - viêm màng não 53%. Khoảng 52% bệnh nhân có
triệu chứng nhức đầu. Các triệu chứng khác gồm điếc, rối loạn thị giác,...
Các dấu hiệu liên quan tới hệ tim mạch gồm tăng huyết áp, tăng áp lực
tĩnh mạch. Các triệu chứng xảy ra suốt tuần thứ 3 của bệnh với tỷ lệ tử vong
0,1%, thường xảy ra suốt từ tuần thứ 4 tới tuần thứ 8 của bệnh. Tử vong có
thể do suy tim xung huyết hoặc rối loạn nhịp tim.
1.4.2.3. Đặc điểm cận lâm sàng
- Công thức máu:
+ Tăng bạch cầu ở 65% bệnh nhân lên tới 24.000/µL. Tăng bạch cầu ái
toan sau khi nhiễm giun xoắn, với tổng lượng bạch cầu ái toan có thể lên tới
8.700/µL, cao nhất trong 3 - 4 tuần và giảm trong vài tháng sau.
+ Gần như tất cả các bệnh nhân mắc bệnh giun xoắn, có hoặc không
triệu chứng, có biểu hiện tăng bạch cầu ái toan. Ngoại lệ duy nhất trong
trường hợp nhiễm quá nặng, khi số lượng bạch cầu ái toan có thể bị ức chế.
Một lượng bạch cầu ái toan thấp có thể biểu thị một tỷ lệ tử vong tăng lên.
+ Tỷ lệ máu lắng thường trong giới hạn bính thường.
- Hóa sinh:
+ Creatinekinase (CK) tăng. Nồng độ CK tăng lên đến 17.000 U/L;
CK tăng cao có thể biểu thị liên quan tới cơ tim. Tuy nhiên, chừng 35% bệnh
nhân không liên quan tới tim có thể tăng nồng độ CK - MB;
+ Nồng độ các thể lactate dehydrogenase isoenzymatic tăng cao ở 50%
25
bệnh nhân.
- Điện tâm đồ:
Khoảng PR kéo dài, phức hợp QRS nhỏ với block trong thất, sóng T
dẹt hoặc nghịch đảo, đặc biệt ở chuyển đạo II và chuyển đạo tới tim. Điện tâm
đồ có thể hữu ìch trong chẩn đoán bị nhiễm ký sinh trùng ở mức từ vừa đến
nặng, nhưng không phải dữ liệu đặc hiệu.
- Xét nghiệm miễn dịch:
+ Phương pháp ELISA:
Ở động vật, ELISA là phương pháp huyết thanh học phổ biến nhất để
phát hiện nhiễm giun xoắn. Phương pháp này đánh giá mức độ kháng thể
kháng giun xoắn cụ thể trong mẫu huyết thanh hoặc nước ép cơ [51]. Các
kháng nguyên được sử dụng phổ biến nhất trong ELISA là các kháng nguyên
E/S (excretory-secretory) được sản xuất từ ấu trùng giun xoắn [52][92]. E/S là
kháng nguyên được các hạt bài tiết stichosome và lớp vỏ cutine (lớp màng
protein) của giai đoạn ấu trùng giun xoắn trong cơ từ loài T. spiralis thường
được sử dụng làm xét nghiệm xác nhận đối với các mẫu dương tình ELISA.
ELISA E/S có độ nhạy cao, nhưng tình đặc hiệu có thể bị ảnh hưởng bởi các
phản ứng chéo với các bệnh ký sinh trùng khác. E/S ELISA cho phép phát
hiện khoảng 1 ấu trùng trên 100g cơ. ELISA có lợi thế là một phương pháp
nhanh chóng, đơn giản không tốn kém và độ nhạy cao. Nồng độ kháng thể
IgG cao nhất 100% vào ngày thứ 23 - 50 sau nhiễm giun xoắn, IgM cao nhất
là 93,33% ở ngày thứ 57 và IgE đạt 100% vào ngày thứ 85. Hai năm và bảy
tháng sau khi nhiễm giun xoắn, độ nhạy chẩn đoán của IgG-ELISA là 88,24%
và IgE-ELISA là 47,06%, trong khi độ nhạy của IgM-ELISA chỉ là 11,76%
[81].
Tuy nhiên, kết quả huyết thanh dương tình trong ELISA nên được kiểm
tra xác nhận trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.
26
Xác nhận có thể được thực hiện bằng cách tiêu cơ một mẫu cơ ở động
vật [28] hoặc bằng một phương pháp huyết thanh học khẳng định thìch hợp
như WB ở động vật [46].
+ Phương pháp Western Blot (WB):
Sử dụng kháng nguyên E/S làm xét nghiệm xác định đối với các mẫu
dương tình ELISA [46],[78]. Western Blot đã được sử dụng để phát hiện
kháng thể giun xoắn ở động vật, chủ yếu ở lợn và ngựa [78]. Nhiều nghiên
cứu chỉ ra rằng Western Blot cho độ nhạy và độ đặc hiệu cao với một band
dải cụ thể dao động từ 36 - 72 kDa cho dương tình lợn [78]. Những bất lợi
của phương pháp Western Blot là tốn nhiều nhân công, chi phì cao và thời
gian [46], [78].
+ Miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (ngưng kết Latex) thường không
hiển thị sau hơn 1 năm bị nhiễm ký sinh trùng.
- Chẩn đoán hính ảnh:
Ở các bệnh nhân cáo có triệu chứng ở hệ thần kinh trung ương, chụp
cắt lớp vi tình (CT scan) và cộng hưởng từ (MRI) với tăng cường tương phản
có thể phát hiện ra các tổn thương nốt hoặc dạng vòng tròn 3 - 8 mm.
- Kỹ thuật sinh học phân tử - PCR:
Các kỹ thuật PCR được sử dụng để xác định loài hoặc kiểu gen của ấu
trùng giun xoắn thu hồi từ các mô cơ là có ý nghĩa trong việc tím hiểu về dịch
tễ học và đánh giá các nguy cơ nhiễm bệnh. Cặp mồi đặc biệt đã được phát
triển cho phép xác định loài và kiểu gen của ấu trùng thu thập từ mô cơ.
Hai kỹ thuật được sử dụng thường xuyên là multiplex PCR (Zarlenga et
al., 1999) và giải trính tự gen 5S rRNA (Rombout et al., 2001, De Bruynes et
al., 2005) [28].
- Chọc dò tủy sống:
+ Kết quả bính thường 50% - 75% bệnh nhân.
27
+ Tím thấy ấu trùng 8% - 24 % bệnh nhân.
+ Có thể viêm não tăng bạch cầu ái toan.
- Sinh thiết cơ:
Cung cấp một chẩn đoán xác định. Phương pháp này gây đau cho bệnh
nhân và độ nhạy không cao.
Lấy mẫu cơ khoảng 0,5 - 1g từ cơ bắp delta hoặc cơ cẳng chân ví những
cơ này dễ sinh thiết nhất. Tỷ lệ (+) tăng lên nếu vị trì sinh thiết bị sưng hoặc đau.
Nhuộm mẫu sinh thiết với hematoxylin và eosin, kiểm tra nhiều phần. Thỉnh
thoảng ấu trùng có thể tím thấy sau khi cơ bắp đã bị tiêu do các enzym.
Nếu sinh thiết thực hiện trước khi ấu trùng cuộn lại, mô của giun có thể
bị nhầm lẫn với tế bào cơ. Một kết quả sinh thiết (-) không loại trừ nhiễm giun
xoắn ví sinh thiết khó tím được ấu trùng khi chúng chưa phát triển thành kén.
Soi mảnh sinh thiết nghi ngờ có ấu trùng giun xoắn: Yêu cầu bệnh
phẩm là các nang trong tổ chức cơ, lấy nguyên vẹn các nang nghi ngờ. Dùng
dao tách nhẹ nhàng nang và đặt lên lam kình, dùng một lam kình khác đặt lên
lam kình có nang ký sinh trùng rồi ép nhẹ, dùng băng dình trắng quấn 2 đầu
của 2 lam ép và soi tím ấu trùng. Quan sát ấu trùng ở vật kình 10x hoặc 40x.
Kết quả xác định khi xuất hiện các nang với kìch thước 900 - 1.300µm x 35 -
49µm, ấu trùng thường cuộn lại như vòng xoắn lò xo trong một nang hính quả
cau ở tổ chức, một nang có thể có 2 - 3 ấu trùng.
- Các dữ liệu về mô học:
Xét nghiệm mô học có thể phát hiện sự phá hủy cơ vân, gồm thoái hóa
ưa bazơ của các sợi cơ được quan sát trên các phần nhuộm hematoxylin và
eosin. Có thể thấy được ấu trùng chết không có nang kén. Các tế bào cơ có
những chấm xuất huyết nhỏ và các tế bào viêm.
Kết quả kiểm tra mô học ở cơ tim phù hợp với phản ứng trung gian
miễn dịch. Ấu trùng giun xoắn di chuyển qua cơ tim nhưng không hính thành
28
nang kén; tuy nhiên phản ứng viêm mạnh xảy ra với nhiều bạch cầu ái toan,
hồng cầu đọng lại trong fibrin và cơ tim hoại tử từng điểm. Có thể tràn dịch
màng tim từ nhẹ tới vừa. Quanh mạch máu ở hệ thần kinh trung ương có sự
tập trung bạch cầu ái toan, tế bào lympho, các đại thực bào và bạch cầu đa
nhân và liên quan tới các khu vực thiếu máu cục bộ. Các tế bào hính sao và
các vi bào đệm có thể bọc xung quanh ấu trùng [36].
1.4.2.4. Diễn biến bệnh
Thông thường bệnh kéo dài khoảng 2 - 3 tuần đến 3 - 4 tháng tùy mức
độ nặng nhẹ của bệnh.
- Bệnh nhẹ: Sau 2 - 3 tuần bệnh hồi phục.
- Bệnh nặng: Thường sốt kéo dài hàng tháng, bệnh nhân suy kiệt, có
liệt, phù nề toàn thân. Sau 3 - 4 tháng mới hồi phục dần dần trong tính trạng
suy kiệt, teo cơ, cứng khớp hoặc tử vong do biến chứng.
- Các nhà khoa học đã tổng kết người nhiễm T. spiralis thường có dấu
hiệu nặng hơn nhiễm T. britovi, có thể do T. britovi trưởng thành đẻ ìt ấu
trùng hơn T. spiralis; T. murrelli thường gây kìch ứng da nhiều hơn và ìt gây
phù mặt. T. pseudospiralis là loài không tạo nang kén nhưng gây các triệu
chứng và hội chứng kéo dài hơn các loài khác.
- Bệnh ấu trùng giun xoắn và miễn dịch: Người suy giảm miễn dịch
nếu bị nhiễm ấu trùng giun xoắn có thể không biểu hiện các triệu chứng lâm
sàng hoặc biểu hiện nhẹ. Có 3 trường hợp về bệnh ấu trùng giun xoắn và miễn
dịch đã được mô tả: Một trường hợp người được ghép thận nhiễm tới 1.400
ấu trùng/g ở cơ đen ta nhưng không có triệu chứng lâm sàng, một trường hợp
có HIV dương tình có triệu chứng nhẹ, một trường hợp mắc bệnh bạch cầu
mãn tình có biểu hiện rất nặng.
1.4.2.5. Biến chứng
- Suy hô hấp: Thường gặp do bị hạn chế cử động của cơ hoành và cơ
29
lồng ngực, do bệnh nhân sợ đau nên không dám thở mạnh và do rối loạn quá
trính hô hấp tế bào. Các biến chứng viêm cơ, viêm phổi có thể xuất hiện ở
tuần thứ 3 - 4 của bệnh.
- Suy gan, suy tim hoặc hôn mê do thiếu ô xy phủ tạng kéo dài.
- Xuất huyết lớn dưới da hoặc xuất huyết phủ tạng, trường hợp nặng có
biểu hiện đông máu rải rác trong lòng mạch, tan sợi huyết thứ phát.
- Biến chứng thần kinh: Đau đầu, mê sảng, loạn thần, liệt nửa người,
viêm đa dây thần kinh.
- Suy kiệt toàn thân.
- Bội nhiễm: Viêm phổi, viêm đường tiết niệu, tràn dịch màng phổi,
viêm nhiễm ngoài da.
- Tử vong: Bệnh nhân nặng có thể tử vong, tử vong do suy cơ tim có
thể xảy ra ngay tuần đầu hoặc tuần thứ 2. Tỷ lệ tử vong khoảng 6 - 30% tùy
theo mức độ nhiễm ấu trùng giun xoắn.
1.4.3. Chẩn đoán bệnh giun xoắn
1.4.3.1. Chẩn đoán xác định
Tiêu chuẩn để chẩn đoán xác định mắc giun xoắn theo Trung tâm kiểm
soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ là: Một người có ìt nhất 3 triệu chứng
trong nhóm các triệu chứng lâm sàng và ìt nhất 1 dấu hiệu cận lâm sàng và có
ìt nhất 1 tiêu chuẩn dịch tễ học.
- Các triệu chứng lâm sàng: Sốt, đau nhức, đau cơ bắp, phù mặt, tiêu
chảy, dấu hiệu thần kinh, dấu hiệu tim mạch, viêm kết mạc, võng mạc, xuất
huyết ở dưới móng tay và phát ban ở dưới da.
- Các triệu chứng cận lâm sàng:
+ Tăng bạch cầu ái toan hoặc tăng nồng độ IgE toàn bộ, tăng nồng độ
các enzym cơ vân.
+ Xét nghiệm miễn dịch: Có sự hiện diện ấu trùng Trichinella trong mô
30
qua sinh thiết cơ bắp hoặc có sự hiện diện đáp ứng kháng thể đặc hiệu
Trichinella qua xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang gián tiếp, ELISA, Western
Blot.
- Các tiêu chuẩn dịch tễ học:
+ Ăn thịt bị nhiễm ấu trùng giun xoắn được phòng xét nghiệm xác định.
+ Tiêu thụ các sản phẩm có khả năng bị nhiễm ấu trùng giun xoắn từ 1
động vật bị nhiễm được phòng xét nghiệm xác định.
+ Có sự liên hệ dịch tễ học với 1 trường hợp bệnh ở người được phòng
thì nghiệm xác nhận bằng tiếp xúc cùng một nguồn thực phẩm.
1.4.3.2. Chẩn đoán phân biệt
Cần phân biệt bệnh do ấu trùng giun xoắn với một số bệnh sau: Phù
mạch, viêm da - cơ, ngộ độc thực phẩm, viêm dạ dày - ruột do virus, viêm cầu
thận cấp, bệnh do giun móc, cúm; viêm đa động mạch có nút, sốt do thấp
khớp, bệnh sán máng, bệnh giun lươn, bệnh thương hàn.
1.4.4. Điều trị bệnh giun xoắn
1.4.4.1. Nguyên tắc điều trị
Điều trị đặc hiệu kết hợp với điều trị triệu chứng, biến chứng tim mạch,
phổi, viêm cơ, bù nước, điện giải và nâng cao thể trạng.
1.4.4.2. Các thuốc điều trị giun xoắn
- Albendazol: Viên nén 200 mg, 400 mg, lọ 10 ml hỗn dịch 20 mg/ml
(2%) và 40 mg/ml (4%). Biệt dược: Albenza, Eskazole; Abentel và Zeben của
Thái Lan; Albacom, Alzentol và Zentrax của Hàn Quốc; Albendil, Alezole,
Discar và Alminth của Ấn Độ; Zentel (SKF).
+ Tác dụng : Thuốc ức chế sự trùng hợp các vi tiểu quản của bào
tương, chế sự hấp thu glucose của ký sinh trùng dẫn đến cạn kiệt glycogen,
làm ký sinh trùng bất động và chết [21].
+ Chỉ định điều trị giun xoắn: Người lớn dùng 800mg/ngày (hoặc liều
31
15 mg/kg/ngày) x 7 ngày. Trẻ em trên 2 tuổi dùng liều 10 mg/kg/ngày. Nếu
nhiễm nặng có thể điều trị nhắc lại sau đợt điều trị lần một 5 ngày.
+ Chống chỉ định: Có tiền sử quá mẫn cảm với các hợp chất loại
benzimidazol hoặc các thành phần nào đó của thuốc; người mang thai.
+ Tác dụng phụ: có thể gặp giảm bạch cầu, tăng enzym gan từ nhẹ đến
mức vừa phải ở 16%, sốt, nhức đầu, chóng mặt, đau bụng, rối loạn tiêu hóa.
Các triệu chứng này thường tự hồi phục, phải ngừng điều trị khi bị giảm bạch
cầu (0,7%).
- Mebendazol, viên nén 400mg [21]; Biệt dược: Fugacar, Vermirax,
Bantenol và gammax của Bỉ; Mebendacin của Mỹ; Vermox của Bỉ và Nam
Tư; Mebutar, Nemasole ...
+ Tác dụng: Thuốc có hiệu quả cao trên các giai đoạn trưởng thành và
ấu trùng của giun đũa, giun kim, giun tóc, giun móc, giun mỏ. Với liều cao,
thuốc có tác dụng đối với nang sán.
+ Chỉ định điều trị giun xoắn: Mebendazol liều 5mg/kg/ngày x 8 - 14
ngày. Ở một số nước như Đức, Ý, Lithuania sử dụng liều cao hơn: 20 - 25
mg/kg/ngày x 10 - 14 ngày.
+ Chống chỉ định: Không dùng mebendazol cho những người mẫn cảm
với thuốc, phụ nữ có thai, trẻ em dưới 2 tuổi, suy gan.
- Thiabendazol, viên nén 500mg [21]; Biệt dược: Mintezol, Apl-
Luster, TBZ, Mertect, Mycozol, Tecto and Thibenzole.
+ Tác dụng: Thiabendazol có tác dụng diệt các loại giun đũa, giun
lươn, giun móc/mỏ, giun đũa chó/mèo, giun kim, ấu trùng giun xoắn; ngăn
chặn việc sản sinh trứng, ấu trùng và ngăn chặn phát triển trứng hay ấu trùng
khi nó bị đào thải ra phân.
+ Chỉ định điều trị giun xoắn: Liều điều trị giun xoắn 25mg/kg cân
nặng/ngày x 24 ngày (chia làm 2 lần sau khi ăn).
32
+ Chống chỉ định: Nhạy cảm với bất kỳ thành phần nào của thuốc. phụ
nữ mang thai, người mẹ đang thời kỳ cho con bú, trẻ em có trọng lượng cân
nặng dưới 13,6 kg.
1.4.4.3. Điều trị đặc hiệu
- Albendazol liều 15mg/kg cân nặng/ngày x 7 ngày [6].
Điều trị trường hợp nhiễm Trichinella từ vừa đến nặng để ngăn chặn sự
xâm nhập của ấu trùng vào cơ vân của vật chủ:
+ Trong 1 tuần từ khi ăn phải thịt nhiễm giun xoắn:
Dùng albendazol liều 15mg/kg/ngày x 7 ngày.
Hoặc mebendazol liều 5mg/kg/ngày x 8 - 14 ngày.
Hoặc thiabendazol 25mg/kg/ngày x 8 - 14 ngày.
- Chống dị ứng: Prednisone 50 mg/ngày có thể được dùng trong các
trường hợp nhiễm ký sinh trùng nặng, đặc biệt nếu huyết động không ổn định
hoặc bệnh liên quan đến hệ thần kinh trung ương, tim, hoặc phổi.
- Hạ sốt, giảm đau, an thần.
- Phòng và xử trì suy hô hấp.
- Kháng sinh phòng và chống bội nhiễm.
- Nâng cao thể trạng: Bù nước, điện giải và nghỉ ngơi tại giường.
Theo tác giả Pozio E và cộng sự nghiên cứu trên bệnh nhân nhiễm ấu
trùng giun xoắn cho kết quả mebendazole chỉ có tác dụng với ấu trùng giun
xoắn giai đoạn 1 đến giai đoạn 4, giun trưởng thành và ấu trùng non đến cơ
nhưng chưa tạo nang kén hoặc ấu trùng không tạo nang kén, không có hiệu quả
diệt ấu trùng đã tạo nang kén trong cơ; Albendazol cũng có thể không hiệu quả
trong giai đoạn sau của bệnh [17].
1.5. Phòng chống bệnh giun xoắn
1.5.1.Biện pháp chống dịch
1.5.1.1. Tổ chức
- Báo cáo khẩn lên tuyến trên khi có dịch và báo cáo hàng tuần sau đó
33
đến khi hết dịch.
- Tổ chức ngay đội chống dịch đến nơi có ca mắc để điều tra dịch tễ, điều
trị, truyền thông về phòng chống bệnh giun xoắn tại cộng đồng [14].
1.5.1.2. Chuyên môn
- Thu dung bệnh nhân: Nhiễm giun xoắn là một quá trính nhiễm độc dị
ứng dẫn đến viêm dị ứng toàn bộ mao mạch, hoại tử tế bào cơ vân và thiếu
oxy tổ chức gây suy tim, suy gan cấp, suy hô hấp hoặc rối loạn ý thức. Bệnh
nhân nhiễm giun xoắn cần được điều trị tại các cơ sở điều trị để điều trị thuốc
đặc hiệu và các triệu chứng, biến chứng hạn chế tử vong.
- Phòng bệnh cho đối tượng nguy cơ cao: Xét nghiệm chẩn đoán cho tất
cả những người đã ăn loại thịt nghi ngờ nhiễm giun xoắn.
- Xử lý môi trường: Tịch thu và tiêu huỷ thịt hoặc những sản phẩm từ
thịt đã bị nhiễm giun xoắn.
1.5.2. Phòng bệnh giun xoắn
- Tuyên truyền giáo dục: Cải tạo vệ sinh môi trường, không nuôi lợn thả
rông, nâng cao ý thức vệ sinh ăn chìn, uống nước đã đun sôi, đặc biệt ở các
vùng dân có tập quán ăn sống, tái, ăn tiết canh.
- Tăng cường kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm trong giết mổ súc vật,
đặc biệt ở các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa.
- Diệt các loại gặm nhấm xung quanh nhà và chuồng gia súc.
- Xử lý hợp vệ sinh các sản phẩm săn bắn.
- Biện pháp hiệu quả nhất để diệt các loài Trichinella là nấu chìn thức ăn
để diệt ký sinh trùng. Ấu trùng giun xoắn có thể bị diệt bằng cách đun đến
60°C trong 2 phút hoặc 55°C trong 6 phút.
- Đông lạnh cũng là một phương pháp để diệt giun xoắn. Miếng thịt
15cm, nhiệt độ để diệt ấu trùng tại âm15°C trong 20 ngày hoặc âm 23°C trong
10 ngày, hoặc âm 29°C trong 6 ngày. Thịt ướp muối, xông khói, hoặc làm khô
thịt sẽ không tiêu diệt được nang kén [30], [36].
34
Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Trên người: Người dân từ 6 tuổi trở lên, không phân biệt dân tộc, giới tình,
nghề nghiệp, sinh sống tại các địa điểm nghiên cứu được lựa chọn để xét nghiệm
máu đánh giá tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun xoắn và các yếu tố liên quan đến nhiễm
giun xoắn.
- Động vật:
+ Lợn: Không phân biệt nguồn gốc, giống lợn, tuổi nuôi, tính trạng
nuôi nhốt hoặc thả rông ở các hộ gia đính tại địa điểm nghiên cứu để xét
nghiệm máu đánh giá tỷ lệ nhiễm giun xoắn.
+ Chuột: Chuột hoang bắt tại nhà có người tính nguyện tham gia
nghiên cứu và các cánh đồng điểm nghiên cứu để đánh giá tỷ lệ nhiễm và
định danh loài ấu trùng giun xoắn.
- Ấu trùng giun xoắn thu được trên chuột tại điểm nghiên cứu.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu:
- Thực địa:
Bốn tỉnh trước đây đã từng xảy ra dịch bệnh giun xoắn được chọn là
Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Thanh Hóa. Mỗi tỉnh chọn chủ đìch một huyện
gồm 1 xã đã từng có dịch giun xoắn và 4 xã giáp ranh:
+ Tỉnh Yên Bái, chọn huyện Mù Căng Chải bao gồm Xã Lao Chải đã
từng có dịch và 4 xã Puống Luông, Dế Xu Phính, Nậm Khắt, Chế Tạo là
những xã giáp ranh với xã Lao Chải.
+ Tỉnh Điên Biên, chọn huyện Tuần Giáo bao gồm Xã Quải Tở đã
từng có dịch và 4 xã Quài Cang, Quài Nưa, Mùn Chung, Mường Mùn là
35
những xã giáp ranh với xã Quải Tở.
+ Tỉnh Sơn La, chọn huyện Bắc Yên bao gồm Xã Làng Chếu đã từng có
dịch và 4 xã Song Pe, Phiên Ban, Tà Xùa, Xìm Vàng là những xã giáp ranh với
xã Làng Chếu.
+ Tỉnh Thanh Hóa, chọn huyện Mường Lát bao gồm thị trấn Mường
Lát đã từng có dịch và 4 xã Quang Chiểu, Tam Chung, Tén Tằn, Mường
Chanh là những xã giáp ranh với thị trấn Mường Lát.
Huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên Huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La
Huyện Mù Căng Chải, tỉnh Yên Bái Huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa
Hình 2.1. Địa điểm triển khai nghiên cứu tại thực địa
- Phòng xét nghiệm:
Phòng xét nghiệm Ký sinh trùng Trường Cao đẳng Y tế Đặng Văn Ngữ;
Phòng xét nghiệm Khoa Sinh học phân tử, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
36
trùng Trung ương.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 5/2015 đến tháng 5/2017.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp mô tả thực trạng nhiễm giun xoắn trên người và động
vật tại 4 tỉnh và các yếu tố nguy cơ (mục tiêu 1 và 2).
2.2.1.1. Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu để mô tả thực trạng nhiễm bệnh giun xoắn trên
người và động vật tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam là nghiên cứu mô tả
cắt ngang.
Thiết kế nghiên cứu xác định loài Trichinella là nghiên cứu mô tả bằng
hính thái học và sinh học phân tử tại phòng xét nghiệm.
2.2.1.2. Mẫu nghiên cứu và phương pháp chọn mẫu
- Cỡ mẫu xác định thực trạng nhiễm bệnh giun xoắn trên người:
Áp dụng công thức tình cỡ mẫu điều tra ngang ước tình giá trị trung bính
của quần thể để tình cỡ mẫu cho việc thu thập số liệu về nhiễm giun xoắn
trong cộng đồng:
Trong đó:
= 1,96
n là số lượng người cần điều tra tối thiểu tại một xã;
là hệ số tin cậy, với α = 0,05 và độ tin cậy 95% thí Z1-α/2
Z1-α/2
d là tỷ lệ sai số tương đối cho phép, lấy bằng 0,05.
p là tỷ lệ nhiễm giun xoắn bằng kỹ thuật Western Blot là 17% (Theo Lê
Ngọc Anh (2014) [1] tỷ lệ xét nghiệm Ab-ELISA tại Điện biên là 28,5%. Ước
tình tối thiểu có 60% số mẫu ELISA (+) sẽ dương khi xác định lại bằng
Western Blot).
Điền số liệu vào công thức và tình toán được n = 216 người tại mỗi xã
37
điều tra. Tổng số người cần điều tra ở 20 xã là 4.320 người.
- Cỡ mẫu điều tra kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về bệnh
giun xoắn, phòng chống bệnh giun xoắn và phân tìch một số yếu tố liên quan:
Cỡ mẫu điều tra cắt ngang n = 216 người điều tra huyết thanh tại mỗi xã được
sử dụng là mẫu điều tra KAP; tổng số người cần điều tra ở 20 xã là 4.320
người; thực tế nghiên cứu đã điều tra tại 20 xã là 4.362 người.
- Phương pháp chọn mẫu điều tra huyết thanh trên người:
+ Chọn mẫu điều tra trên người: Sử dụng phương pháp chọn mẫu hệ
thống dựa trên danh sách người trưởng thành của địa phương với công thức: i;
i + k; i + 2k; i + 3k...; i là số ngẫu nhiên; k = N/n (N là tổng số người từ 6 tuổi
trở lên của xã, n là cỡ mẫu dự định nghiên cứu).
Bước 1: Lập danh sách những người đủ 6 tuổi tại từng xã nghiên cứu,
chọn 5 thôn, mỗi thôn đánh thứ tự từ 1 đến hết.
Bước 2: mỗi thôn để lấy được đủ 40 người điều tra, lấy tổng số người
trong thôn chia cho 40 ra hệ số k.
Bước 3: Những người có số thứ tự trong danh sách trùng với số chọn
được ở bước 2 sẽ được đưa vào danh sách lấy mẫu và phỏng vấn.
Đối tượng đầu tiên được chọn sử dụng bảng ngẫu nhiên để chọn. Các đối
tượng tiếp theo được chọn liên tục với khoảng cách là k người. Tổng số 4.362
người tham gia nghiên cứu tại 20 xã, trong đó: Sơn La điều tra 1.033 người,
Yên Bái điều tra 1.135 người, Thanh Hóa điều tra 1.175 người, Điện Biên
điều tra 1.019 người.
- Cỡ mẫu điều tra trên lợn:
Áp dụng công thức tình cỡ mẫu điều tra ngang ước tình giá trị trung bính
của quần thể:
38
Trong đó:
=
n là số lượng lợn cần điều tra tối thiểu tại một huyện nghiên cứu;
là hệ số tin cậy, với α = 0,05 ứng với độ tin cậy 95% thí Z1-α/2
Z1-α/2
1,96
d là tỷ lệ sai số tương đối cho phép lấy bằng 0,05.
p là tỷ lệ nhiễm giun xoắn bằng kỹ thuật Western Blot là 12% (Theo
Nguyễn Thị Nga 2010 tỷ lệ lợn dương tình giun xoắn bằng ELISA tại Sơn La
là 19,9%; Ước tình tối thiểu có 60% số mẫu ELISA (+) sẽ dương khi xác định
lại bằng Western Blot).
Số mẫu điều tra trên lợn tại một huyện tình toán được là 163 lợn. Để
phòng lượng máu lấy không đủ để xét nghiệm, nghiên cứu tăng 10% mẫu, do
vậy số mẫu máu lợn cần lấy ở môi huyện sẽ là 180 mẫu. Mỗi huyện điều tra 5
xã, vậy số lợn cần điều tra tại mỗi xã là 36 con.
Tổng số lợn tối thiểu cần xét nghiệm là: 36 lợn x 20 xã = 720 lợn.
Trên thực tế nghiên cứu đã xét nghiệm máu cho 860 lợn.
+ Chọn mẫu điều tra trên lợn: Chọn lợn nuôi tại các hộ gia đính có người dân
tính nguyện tham gia nghiên cứu, không phân biệt giống lợn, giới, tuổi nuôi.
- Cỡ mẫu điều tra trên chuột:
Áp dụng cỡ mẫu điều tra trên lợn tại điểm nghiên cứu. Số mẫu điều
tra trên chuột tại mỗi xã là 36 con. Tổng số chuột tối thiểu cho nghiên cứu là
36 chuột x 20 xã = 720 chuột.
Trên thực tế nghiên cứu đã xét nghiệm máu cho 860 chuột.
+ Chọn mẫu điều tra trên chuột: Bắt tại cánh đồng và tại hộ gia đính có
người tham gia nghiên cứu, không phân biệt loài, giới, tuổi chuột.
- Mẫu định loại loài giun xoắn: Mẫu ấu trùng giun xoắn trên chuột thu thập
được trong điều tra dịch tễ được phân tìch định loài bằng kỹ thuật PCR và giải
trính tự gen.
39
2.2.1.3. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở người tại điểm nghiên cứu.
- Đánh giá tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở lợn nuôi tại các hộ có người tham gia
nghiên cứu.
- Đánh giá tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở chuột tại điểm nghiên cứu.
- Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về bệnh giun xoắn
và phòng chống bệnh giun xoắn.
- Phân tìch một số yếu tố liên quan tới tính trạng nhiễm giun xoắn ở người.
- Định loại ấu trùng giun xoắn thu được bằng hính thái học và kỹ thuật
sinh học phân tử.
2.2.1.4. Các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu
- Kỹ thuật điều tra phỏng vấn cộng đồng: Điều tra kiến thức - thái độ -
thực hành về bệnh giun xoắn và phòng chống bệnh giun xoắn theo bộ câu hỏi
KAP soạn sẵn (Phụ lục1).
+ Soạn câu hỏi phỏng vấn KAP: Các câu hỏi KAP được thiết kế theo
yêu cầu nội dung nghiên cứu, câu hỏi dạng đóng và mở đơn giản, dễ hiểu. Bộ
câu hỏi phỏng vấn KAP gồm các câu hỏi điều tra kiến thức, thái độ, thực hành
liên quan đến bệnh giun xoắn ở người.
+ Tập huấn các điều tra viên trước khi tiến hành điều tra cộng đồng.
+ Kiểm tra nội dung bộ câu hỏi phỏng vấn KAP: Các bộ câu hỏi này
được tiến hành phỏng vấn thử nghiệm 20 người tại 1 xã đầu tiên để rút kinh
nghiệm và sửa chữa bộ câu hỏi cho phù hợp.
Người dân trong vùng được tập hợp tại Trạm y tế hoặc tại nhà văn
+ Phỏng vấn trực tiếp từng đối tượng tại thực địa:
Cán bộ phỏng vấn kết hợp với cán bộ y tế thôn bản phỏng vấn người
hóa của bản;
dân, ghi đầy đủ thông tin người dân đến vào danh sách và phỏng vấn các mục
40
theo bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Các trẻ em dưới 10 tuổi khi phỏng vấn sẽ hỏi
Chuyển bộ câu hỏi đã phỏng vấn về bàn lấy máu xét nghiệm.
dưới sự hỗ trợ của cha mẹ trẻ;
- Phân tích một số yếu tố liên quan tới tình trạng nhiễm giun xoắn ở người:
Phương pháp phân tìch một số yếu liên quan đến nhiễm giun xoắn được
sử dụng tỷ suất chênh OR với bảng 2 x 2:
OR = (a/c) / (b/d) = ad / bc
Nếu OR = 1: Không có sự liên quan.
Nếu OR > 1: Có sự liên quan.
Nếu OR < 1: Có liên quan nghịch, làm giảm nguy cơ mắc ở nhóm
nghiên cứu.
- Kỹ thuật lấy và bảo quản máu tĩnh mạch
Lấy máu và tách huyết thanh [2]:
+ Cán bộ lấy mẫu ghi mã số, họ tên người cho máu vào ống nghiệm
lấy máu theo mã trên phiếu phỏng vấn KAP;
+ Ghi mã số vào từng eppendorf theo mã phỏng vấn KAP;
+ Lấy 3 ml máu tĩnh mạch mỗi người cho vào ống nghiệm đã được
ghi mã số;
+ Để 1 giờ cho máu đông, ly tâm 2.500 vòng/phút x 5 phút;
+ Dùng micropipet hút huyết thanh ở phần trên ống nghiệm cho vào
từng eppendorf đã ghi mã;
+ Cho vào từng túi mỗi túi 50 mẫu huyết thanh đã tách ghi nhãn địa
điểm lấy, số lượng mẫu huyết thanh, thời gian lấy;
+ Cho vào thùng bảo quản.
- Bảo quản và vận chuyển mẫu [3]
+ Huyết thanh sau khi tách được bảo quản trong thùng chuyên dụng
có đá khô đảm bảo nhiệt độ âm 20oC đến âm 80oC.
41
+ Sau mỗi buổi thu gom mẫu được bảo quản trong ngăn đá tủ lạnh nhiệt độ 0oC - 8oC. Trong trường hợp đi dài ngày (hơn 4 ngày) sẽ đóng gói và
chuyển ngay mẫu về cơ sở xét nghiệm trong ngày để bảo quản đúng theo quy
định (Phụ lục 3).
- Kỹ thuật ELISA phát hiện kháng thể kháng Trichinella
Kỹ thuật ELISA gián tiếp sử dụng kháng nguyên tiết (excretory
secretory antigen - ESA) Trichinella được cố định trên bề mặt giếng nhựa để
phát hiện kháng thể IgG đặc hiệu có trong mẫu huyết thanh. Bộ kit ELISA
phát hiện kháng thể kháng Trichinella của hãng Scimedx (Trichinella serum
microwell ELISA). Theo nhà cung cấp độ nhạy của bộ sinh phẩm trên các
bệnh nhân dương tình đã được xác định bằng sinh thiết là 94,4% (17/18); Độ
nhạy của bộ sinh phẩm trên các bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng tại vùng
dịch: 96,3% (26/27); và độ đặc hiệu của bộ sinh phẩm: 93,8% (15/16) [78].
Kết quả của phản ứng ELISA được xác định bằng đo trên máy máy đọc
ELISA ở bước sóng 450nm/620 - 650nm. Kết quả được ghi nhận khi: Chứng
dương có giá trị mật độ quang ≥ 0,5 đơn vị OD; Chứng âm < 0,3 đơn vị OD;
Mẫu dương tình khi ≥ 0,3 đơn vị OD; Mẫu âm tình < 0,3 đơn vị OD. Các
bước thao tác kỹ thuật theo NIMPE. HD 03.PP/17 (Phụ lục 3)
- Kỹ thuật Western Blot phát hiện kháng thể kháng Trichinella
Western Blot là kỹ thuật xét nghiệm lai giữa protein với protein (giữa
kháng nguyên và kháng thể), protein kháng nguyên được phát hiện qua phản
ứng tạo mầu hoặc phát huỳnh quang Western Blot bằng cách sử dụng một
kháng thể nhận ra các protein được sửa đổi với lipoic axit.
Kỹ thuật Western Blot có độ nhạy và độ đặc hiệu là 100%.
Kỹ thuật Western Blot chỉ dùng để xác định lại các trường hợp ELISA
đã dương tình. Phản ứng Western Blot dùng để xác chẩn lại những trường
hợp dương tình với ELISA bằng kháng nguyên thô (E/S), theo bộ sinh phẩm
42
của nhà cung cấp.
Kỹ thuật Western Blot sử dụng protein của ấu trùng Trichinella spiralis
giai đoạn 3 được phân tách trên gel SDS PAGE và chuyển thấm lên màng lai
nitrocellulose để phát hiện kháng thể IgG kháng Trichinella có trong mẫu
huyết thanh. Phức hợp lai protein-protein (kháng nguyên - kháng thể) được
tạo ra bắt cặp với kháng thể thứ cấp có gắn enzyme alkaline phosphatase. Khi
cho thêm cơ chất thìch hợp, enzyme sẽ thủy phân cơ chất tạo phản ứng phát
ánh sáng xanh ở bước sóng 470nm, kết quả được ghi nhận thông qua các băng
protein với trọng lượng phân tử đặc trưng trên màng lai [34], [78].
Nhận định kết quả khi mẫu huyết thanh lai với protein đặc hiệu
Trichinella cho ra 03 dải băng có trọng lượng phân tử từ 53 - 72 kDa (đối với
huyết thanh người) và 48 - 72 kDa (đối với huyết thanh lợn) là mẫu dương
tình; những mẫu huyết thanh lai với protein đặc hiệu Trichinella không có 3
dải băng là mẫu âm tình. Các bước thao tác kỹ thuật theo NIMPE. HD
03.PP/18 (Phụ lục 3).
- Kỹ thuật xét nghiệm giọt máu đàn đếm và phân loại bạch cầu [25]
Kỹ thuật xét nghiệm giọt máu đàn để đếm và phân loại bạch cầu là xét
nghiệm thường quy được sử dụng trong chẩn đoán, điều trị các bệnh về giun sán.
+ Lấy máu tĩnh mạch, kéo lam giọt máu đàn.
+ Nhuộm Giemsa 4 - 10%.
+ Soi kình hiển vi quang học vật kình 10x và đếm, phân loại bạch cầu ở
vật kình 100x. Bạch cầu là những tế bào có nhân, bính thường có 5 loại bạch cầu
trong máu ngoại vi. Đếm tối thiểu 100 bạch cầu trên tiêu bản tại một số khu vực
để phản ánh sự phân bố và tỷ lệ các loại bạch cầu trong máu bệnh nhân. Bạch
cầu ái toan (BCAT) được cho là tăng khi tỷ lệ BCAT lớn hơn 8% trong công thức bạch cầu hoặc số lượng BCAT trong 1 mm3 máu lớn hơn 500 tế bào.
- Kỹ thuật tiêu cơ phát hiện ấu trùng giun xoắn ở động vật
Các mẫu mô cơ được phân giải hoàn toàn trong dung dịch pepsin/HCL
43
để giải phóng ấu trùng giun xoắn khỏi mẫu cơ ban đầu. Các ấu trùng giun
xoắn này được làm lắng xuống. Phần lắng gồm ấu trùng giun xoắn và một
phần nhỏ của dung dịch thủy phân được thu vào đĩa Petri để kiểm tra sự có
mặt của ấu trùng giun xoắn điển hính trong mẫu thử bằng kình hiển vi soi nổi.
+ Lấy mẫu: Mẫu thử được cắt từ chân cơ hoành, hoặc mẫu được cắt từ
cơ thịt đùi hoặc từ thịt xương sườn, xương ức hoặc từ các cơ quai hàm, cơ
lưỡi, cơ bụng. Mỗi mẫu cắt từ 30g đến 100g.
Mẫu cơ chuột: Cơ hoành, cơ đùi, cơ má, cơ liên sườn,
+ Chuẩn bị mẫu thử:
Mẫu gộp: Trường hợp gộp 100 mẫu đơn lẻ, mỗi mẫu cắt 1g thịt để có
100g cho quá trính tiêu cơ. Giữ lại phần mẫu thừa cho đến khi có kết quả
phân tìch. Nếu số lượng mẫu đơn lẻ gộp lại nhỏ hơn 100 thí khối lượng mẫu
từ mỗi mẫu đơn lẻ phải được cắt với một lượng bằng nhau sao cho tổng khối
lượng mẫu gộp không được vượt quá 110g cho một quá trính tiêu cơ
Mẫu đơn: Loại bỏ mỡ và gân, da, cắt 100g thịt từ mẫu đã lấy
Các bước tiến hành:
+ Cho phần mẫu thịt được chuẩn bị vào bính cối xay. Thêm 50 ml đến
1000ml dung dịch HCL/nước đã được làm ấm cho 100g mẫu. Đậy kìn bính cối
máy xay bằng nắp bính hoặc giấy bạc. Xay nhuyễn thịt đến khi đồng nhất.
+ Cho thêm pepsin sử dụng được tình sao cho đạt khoảng 6FIP-U/ml
đến 10FIP-U/ml dịch thủy phân.
+ Chuyển mẫu đã đồng nhất vào cốc thủy tinh 4L có chứa thanh khuấy
từ. Thêm toàn bộ phần còn lại của 3L dung dịch HCL/nước bằng cách rót
dung dịch HCL/nước vào bính và rửa tất cả hỗn dịch đồng nhất còn lại vào
cốc thủy tinh 4l. Dùng bính tia chứa nước để rửa hết chất bám dình ở nắp bính
vào trong cốc. Thủy phân hỗn hợp 440C±30C trong 30 phút.
+ Rây hỗn dịch sau thủy phân 180nm vào bính chiết 4L trong vòng 5
phút. Để lắng dịch lỏng sau rây 30 phút. Tiếp tục chiết sang bính 500mL để
44
lắng 10 phút.
+ Mở khóa bính chiết lấy dịch lắng sang đĩa petri và soi phát hiện ấu
trùng giun xoắn dưới kình hiển vi.
Thu thập ấu trùng giun xoắn theo khóa định loại của Murrell và cs., 2000 [82]. Bảo quản trong cồn 70oC nhiệt độ âm đến khi làm tiếp các kỹ thuật
sinh học phân tử.
- Kỹ thuật PCR đa mồi (Multiplex PCR) định loại ấu trùng giun xoắn theo quy
trình của phòng thí nghiệm tham chiếu thế giới về bệnh giun xoắn (ISS, Rome, Ý):
Khuếch đại sản phẩm PCR, 5 cặp mồi trên 3 đoạn gen đìch ESV, ITS1, ITS2.
+ Tách chiết mẫu: Sản phẩm ADN được tách chiết từ các mẫu tiêu cơ
bằng bộ sinh phẩm QIAamp DNA Micro kit theo hướng dẫn của nhà sản xuất,
dựa trên nguyên lý sử dụng cột silica gắn chọn lọc ADN.
+ Thực hiện phản ứng PCR:
Chuẩn bị hỗn hợp dung dịch PCR
Hóa chất cho PCR
Nước cất khử ion Thể tìch cho 1 phản ứng PCR (l) 4
Dung dịch PCR Master mix 2X 15
Hỗn hợp cặp mồi cp I (tỷ lệ 1:1) 0,2 l
Hỗn hợp cặp mồi cp II (tỷ lệ 1:1) 0,2 l
Hỗn hợp cặp mồi cp III (tỷ lệ 1:1) 0,2 l
Hỗn hợp cặp mồi cp IV (tỷ lệ 1:1) 0,2 l
Hỗn hợp cặp mồi cp V (tỷ lệ 1:1) 0,2 l
+ Nạp mẫu: Lấy các ống mẫu ADN trong tủ lạnh -20oC ra trước khi lấy
hóa chất thực hiện phản ứng PCR, để tan đá ở nhiệt độ phòng khoảng 10 phút;
Trộn ống mẫu ADN bằng máy vortex 10 giây ở tốc độ 900 vòng/phút, sau đó
ly tâm nhanh mẫu ở tốc độ 8.000 vòng/phút trong 15 giây; Cho 10 l dung
45
dịch ADN đã tách chiết cho vào ống PCR 0,2ml đã chứa 20l hỗn hợp phản
ứng PCR theo đúng ký hiệu mẫu tương ứng; Cho 10 l nước cất khử ion vào
ống chứng trắng; Cho 10 l ADN chứng dương vào ống chứng dương; Đậy
nắp ống PCR và ly tâm các ống ở tốc độ 8.000 vòng/phút trong 10 giây; Cất các ống mẫu ADN còn lại vào tủ lạnh sâu - 200C.
+ Chạy PCR: theo các bước chu kỳ sau: Nhiệt độ (0C) Chu kỳ Số bước Thời gian Số chu kỳ
1 Biến tình ADN 94 4 phút 1
2 Biến tình ADN 95 10 giây
3 Bắt cặp mồi 55 30 giây 35
4 Tổng hợp ADN 72 30 giây
5 3 phút 72 1
Tổng hợp lần cuối Sau đó giữ ở nhiệt độ 150C cho đến khi lấy ra khỏi máy
+ Phân tìch kết quả: Sản phẩm thu được có kìch thước ADN đặc hiệu cho
từng loài giun xoắn. Theo bảng sau:
+ Bảng: Kìch thước ADN đặc hiệu cho từng loài giun xoắn
Loài Trichinella ITS1 ITS2 ESV
T. spiralis 173
T. nativa 127
T. britovi 127 253
T. pseudospiralis 310.350
T. murrelli 127 316
Trichinella-T6 127 210
T. nelsoni 155 404
T. papuae 240
T. zimbabwensis 26
Các bước thao tác kỹ thuật theo NIMPE HD 03.PP/18 (Phụ lục 3).
46
+ Phục vụ cho mục đìch giải trính tự, khẳng định thành phần loài giun
xoắn, do kìch thước của đoạn gen khẳng định loài tương đối ngắn từ 200 đến
300 bp, chúng tôi khuếch đại đoạn ADN đìch cox-I với kìch thước ước tình
khoảng 419 bp.
- Giải trình tự gen:
Tiến hành giải trính tự trên máy giải trính tự ABI 3500, so sánh kết quả
với các trính tự gen được lưu trữ trên ngân hàng genbank, xác định độ tương
đồng của các trính tự gen.
2.2.1.5. Nguyên liệu nghiên cứu, công cụ thu thập thông tin
+ Bộ câu hỏi phỏng vấn.
+ Dụng cụ lấy máu xét nghiệm
+ Tuýp đựng mẫu máu
+ Tuýp đựng mẫu huyết thanh.
+ Hộp đựng mẫu.
+ Các dụng cụ, sinh phẩm, hóa chất, máy móc làm xét nghiệm
ELISA, Western Blot, multiplex - PCR.
2.2.1.6. Các biến số, chỉ số nghiên cứu và cách đánh giá
- Các biến số thu thập bằng bộ câu hỏi:
+ Tuổi: Là tuổi của đối tượng nghiên cứu được tình bằng năm. Tuổi
được chia thành 3 nhóm tuổi (dưới 15 tuổi; từ 15 - 59 tuổi; trên 59 tuổi), biến
rời rạc
+ Giới: Nam và nữ, biến nhị phân.
+ Dân tộc: các nhóm dân tộc tại điểm nghiên cứu, biến phân loại.
+ Trính độ học vấn: Là cấp học mà đối tượng nghiên cứu đã học đến. Trính
độ học vấn gồm mù chữ, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trên
trung học phổ thông; biến thứ hạng.
+ Nghề nghiệp: Nghề nghiệp chủ yếu là nông dân, hoặc dành nhiều thời
47
gian cho công việc này nhất, biến phân loại.
+ Thu nhập: Mức thu nhập bính quân/người/tháng, tiêu chuẩn hộ nghèo;
biến rời rạc.
+ Kiến thức về bệnh giun xoắn: Mức độ hiểu biết của đối tượng nghiên
cứu về nguyên nhân gây bệnh, tác hại, đường lây truyền, biện pháp phòng
chống. Đánh giá theo mức độ, biến nhị phân.
+ Thực hành phòng chống bệnh giun xoắn, tần suất thực hành phòng
chống bệnh. Đánh giá đạt hay không đạt, biến nhị phân.
+ Thói quen ăn thịt lợn tái, sống: Biến tần suất.
+ Hính thức chế biến thức ăn thịt lợn tái sống: Biến định danh.
+ Tiền sử: Ăn thịt lợn tái, sống và có biểu hiện lâm sàng như sốt, tiêu
chảy, đau cơ, phù nề vùng mặt, đau bụng, ngứa. Biến tần suất.
+ Hỏi các triệu chứng của bệnh và khám cho những đối tượng tham gia
nghiên cứu có kết quả ELISA và Western Blot dương tình.
- Các biến số thu thập bằng phương pháp quan sát và đánh giá:
+ Thực trạng nguồn nước sinh hoạt: Tính trạng vệ sinh của nguồn nước,
công trính cung cấp nước sinh hoạt. Biến phân loại.
+ Tính trạng vệ sinh của thức ăn thịt và cách chế biến, nguồn gốc thịt:
Biến phân loại.
- Các biến số thu thập thông qua xét nghiệm:
+ Tỷ lệ ELISA dương tình;
+ Tỷ lệ Western Blot dương tình.
- Các chỉ số nghiên cứu:
+ Tỷ lệ % các nhóm tuổi, trính độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập, ...
+ Tỷ lệ % nhiễm giun xoắn ở người bằng xét nghiệm ELISA và
Western Blot.
+ Tỷ lệ % nhiễm ấu trùng giun xoắn ở lợn nuôi bằng xét nghiệm
48
ELISA và Western Blot.
+ Tỷ lệ % nhiễm ấu trùng giun xoắn ở chuột bằng xét nghiệm ELISA
và Western Blot.
+ Tỷ lệ % người có kiến thức về bệnh giun xoắn.
+ Tỷ lệ % người có thực hành các biện pháp phòng chống bệnh giun xoắn.
+ Tỷ lệ % tần suất thực hành các biện pháp phòng chống bệnh giun xoắn.
+ Tỷ lệ % người có thói quen ăn thịt tái, sống.
+ Tỷ lệ % người có chăn nuôi gia súc thả rông.
+ Các giá trị thống kê xác định sự liên quan của một số yếu tố nguy cơ
đến tính trạng nhiễm giun xoắn ở người và động vật. Phân tìch so sánh các chỉ
số thông qua p, 2, tình tỷ suất chênh OR, CI 95%.
+ Kìch thước các băng AND chuẩn định loại các loài giun xoắn.
+ Trật tự các axit amin trong đoạn gen thu được và giải trính tự gen.
+ Vị trì trên cây phả hệ.
+ Tỷ số tương đồng với loài Trichinella xác định được.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức
khỏe cộng đồng (mục tiêu 3)
- Tất cả 4 tỉnh nghiên cứu sau điều tra đợt 1 các trường hợp dương tình đã
điều trị bằng albendazol liều 800mg/ngày x 7 ngày liên tiếp [6].
- Chọn hai tỉnh có tỷ lệ dương tình với Trichinella tương đương vào nghiên
cứu hiệu quả can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức khỏe cộng đồng.
+ Tỉnh Sơn La: Nhóm can thiệp
+ Tỉnh Điện Biên: Nhóm chứng
Sau điều tra đợt 2, phân tìch hiệu quả biện pháp can thiệp bằng truyền
thông giáo dục sức khỏe ở hai tỉnh được chọn.
Trong thời gian điều trị thuốc đặc hiệu các đối tượng được các bộ y tế xã
theo dõi tác dụng không mong muốn của thuốc.
49
- Thời gian can thiệp: 1 năm, từ tháng 6/2016 đến tháng 5/2017.
2.2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu đánh giá hiệu quả can thiệp bằng truyền thông giáo dục
sức khỏe là nghiên cứu can thiệp có đối chứng và đánh giá trước sau can thiệp.
2.2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
+ Cỡ mẫu can thiệp:
Cỡ mẫu 206 người tại mỗi xã điều tra cắt ngang xác định tỷ lệ nhiễm ấu
trùng giun xoắn và điều tra KAP ở mục tiêu 1 được sử dụng để đánh giá hiệu
quả can thiệp truyền thông giáo dục sức khỏe về bệnh giun xoắn và phòng
chống bệnh giun xoắn.
+ Phương pháp chọn mẫu:
Hai huyện thuộc 4 tỉnh nghiên cứu được chọn chủ đìch có tỷ lệ ELISA
dương tình cao với Trichinella. Bốc thăm ngẫu nhiên chọn 1 huyện tiến hành
can thiệp và huyện còn lại là huyện đối chứng.
2.2.2.3. Nội dung can thiệp
- Các thông điệp truyền thông giáo dục sức khỏe bao gồm: Triệu chứng
bệnh giun xoắn, tác hại và sự nguy hiểm của bệnh giun xoắn ảnh hưởng tới
sức khỏe và tình mạng của người bệnh; nguyên nhân gây bệnh giun xoắn,
đường lây truyền bệnh giun xoắn và các biện pháp phòng, chống bệnh giun
xoắn.
- Phương pháp truyền thông giáo dục sức khỏe:
+ Truyền thông trực tiếp: Tập huấn nâng cao kỹ năng phòng chống bệnh
giun xoắn và giữ vệ sinh cá nhân, nói chuyện trực tiếp với dân sau buổi phỏng
vấn KAP, tuyên truyền theo nội dung bài truyền thông phòng chống bệnh
giun xoắn, họp dân với nhóm người có kết quả ELISA/WB dương tình với
Trichinella.
+ Truyền thông gián tiếp: Sử dụng tranh treo tường, tờ rơi, phát loa truyền
50
thanh theo nội dung bài tuyên truyền về bệnh giun xoắn và phòng chống bệnh
giun xoắn (Phụ lục 4).
2.2.2.4. Các chỉ số nghiên cứu
- Các chỉ số hiệu quả (CSHQ):
TLsct : Tỷ lệ sau can thiệp
TLtct : Tỷ lệ trước can thiệp
+ CSHQ của nhóm can thiệp = (TLsct - TLtct)/TLtct x 100%
+ CSHQ của nhóm chứng = (TLsct - TLtct)/TLtct x 100%
- Chỉ số đánh giá hiệu quả can thiệp (HQCT):
+ HQCT = CSHQ của nhóm can thiệp - CSHQ của nhóm chứng
51
Nghiên cứu tại 20 xã thuộc 4 huyện:
Huyện Mù Căng Chải, tỉnh Yên Bái Huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La Huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên Huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá
Mô tả tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở động vật và định danh giun xoắn Mô tả tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở người và các yếu tố liên quan (n=4362)
Điều tra KAP
Xét nghiệm máu
- Xác định tỷ lệ nhiễm giun xoắn bằng ELISA và Western Blot.
XN tiêu cơ chuột (n=860) - Thu thập ấu trùng giun xoắn trên chuột bằng kỹ thuật tiêu cơ.
- Phỏng vấn KAP về bệnh giun xoắn và phòng chống bệnh giun xoắn.
XN máu lợn (n=860) - Xác định tỷ lệ nhiễm giun xoắn trên lợn bằng ELISA và Western Blot.
- Phân tìch sự phân bố nhiễm giun xoắn.
- Phân tìch các yếu tố liên quan đến nhiễm giun xoắn trên người.
- Định danh ấu trùng giun xoắn thu được bằng hính thái học và PCR.
- Đánh giá chỉ số bạch cầu ái toan.
- Phân tìch sự phân bố nhiễm giun xoắn.
Nhóm chứng
Nhóm can thiệp
- Điều trị trường hợp bệnh
- Điều trị trường hợp bệnh.
- Triển khai truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống bệnh giun xoắn.
- Không truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống bệnh giun xoắn.
Đánh giá hiệu quả can thiệp - So sánh trước và sau can thiệp. - So sánh giữa xã can thiệp với
xã đối chứng.
Hình 2.2. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu
52
2.3. Sai số và hạn chế sai số
Để làm giảm thiểu sai số, nghiên cứu đã thực hiện như sau:
- Có tiêu chuẩn chọn mẫu thật rõ ràng, chình xác, tăng cỡ mẫu...
- Tuân thủ tiêu chuẩn sàng tuyển mẫu.
- Phân lô theo các yếu tố gây nhiễu.
- Tuân thủ nghiêm ngặt qui trính lấy mẫu và xét nghiệm, chỉ xét
nghiệm những mẫu đủ tiêu chuẩn.
- Bảng câu hỏi phỏng vấn KAP được thử nghiệm trước khi điều tra,
người phỏng vấn được tập huấn trước khi triển khai điều tra.
2.4. Phƣơng pháp xử lý số liệu
Các số liệu thu thập trong nghiên cứu được làm sạch, xử lý theo phương
pháp thống kê y sinh học bằng phần mềm Stata 13.0.
2.5. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y
sinh học của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương. Trong quá
trính triển khai nghiên cứu, nghiên cứu viên tuân thủ nghiêm ngặt các qui
định trong nghiên cứu y sinh học:
- Trước khi nghiên cứu, các đối tượng nghiên cứu phải được thông báo
và nói rõ mục đìch nghiên cứu.
- Chỉ nghiên cứu ở người tự nguyện tham gia nghiên cứu.
- Người tham gia nghiên cứu có quyền từ chối tham gia bất cứ lúc nào
mà không cần phải giải thìch lì do.
- Giữ bì mật về tính trạng sức khoẻ của người tham gia nghiên cứu.
Tận tính giúp đỡ, tư vấn, điều trị bệnh cho người tham gia nghiên cứu.
- Các số liệu về kết quả xét nghiệm trên người tính nghuyện tham gia
nghiên cứu chỉ phục vụ cho nghiên cứu, không nhằm mục đìch nào khác.
- Đối tượng tham gia nghiên cứu khi xét nghiệm dương tình với
53
Trichinella đều được điều trị miễn phì theo phác đồ qui định hiện hành của Bộ
Y tế.
- Toàn bộ người dân tham gia trong nghiên cứu được uống thuốc tẩy
giun sán theo phác đồ qui định hiện hành của Bộ Y tế.
54
Chƣơng 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng nhiễm giun xoắn trên ngƣời và động vật tại các điểm
nghiên cứu
3.1.1. Thông tin của các đối tượng nghiên cứu (người)
Tổng cộng có 4.362 người thuộc 20 xã tại 4 tỉnh miền Bắc Việt Nam đã
tham gia vào nghiên cứu. Trong đó, tỉnh Sơn La có 1.033 người, Điện Biên có
1.019 người, Yên Bái có 1.135 người, và Thanh Hóa có 1.175 người.
Bảng 3.1. Phân bố đối tƣợng tham gia nghiên cứu theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi (năm) 6 - 15 16 - 59 ≥ 60 Điểm nghiên cứu
Số lượng 88 853 112 Sơn La
(n = 1.033) Tỷ lệ (%) 8,4 82,8 10,8
Số lượng 65 920 34 Điện Biên
(n = 1.019) Tỷ lệ (%) 6,4 90,3 3,3
Số lượng 52 1.006 77 Yên Bái
(n = 1.135) Tỷ lệ (%) 4,6 88,6 6,8
Số lượng 40 1.030 105 Thanh Hóa
(n = 1.175) Tỷ lệ (%) 3,4 87,7 8,9
Số lƣợng 245 3.789 328 Tổng cộng
(n = 4.362) Tỷ lệ (%) 5,6 86,9 7,5
Nhận xét: Nhóm tuổi tham gia nghiên cứu chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm từ 15
- 59 tuổi có 3.789 người (86,9%), nhóm từ 6 - 15 tuổi là thấp nhất có 245
người (5,6%).
55
Bảng 3.2. Phân bố đối tƣợng tham gia nghiên cứu theo giới tính
Sơn La Điện Biên Yên Bái Thanh Hóa Tổng cộng
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
(n = 1.033) (n = 1.019) (n = 1.135) (n = 1.175) (n = 4.362) Giới
Nam 429 41,5 246 24,1 465 41,0 344 29,3 1.484 34,0
Nữ 604 58,5 773 75,9 670 59,0 831 70,7 2.878 66,0
Nhận xét: Tỷ lệ nữ tham gia nghiên cứu tại các tỉnh cao hơn nam, nữ giới
tham gia nghiên cứu là 2.878 người chiếm tỷ lệ 66,0%, nam giới là 1.484
người với tỷ lệ 34,0 %.
Bảng 3.3. Phân bố đối tƣợng tham gia nghiên cứu theo nhóm dân tộc
Nhóm dân tộc Kinh H’mông Mƣờng Thái
Điểm nghiên cứu
Số lượng 73 646 170 144 Sơn La
(n = 1.033) Tỷ lệ (%) 7,1 62,5 16,5 13,9
Số lượng 15 5 2 997 Điện Biên
(n = 1.019) Tỷ lệ (%) 1,6 0,5 0,1 97,8
Số lượng 5 972 0 158 Yên Bái
(n = 1.135) Tỷ lệ (%) 0,4 85,6 0 13,9
Số lượng 203 0 32 940 Thanh Hóa
(n = 1.175) Tỷ lệ (%) 17,3 0 2,7 80,0
Số lƣợng 296 1.623 204 2.239 Tổng cộng
(n = 4.362) Tỷ lệ (%) 6,8 37,2 4,7 51,3
Nhận xét: Dân tộc Thái chiếm tỷ lệ cao nhất là 51,3% với 2.239 người, tiếp theo là
người dân tộc H’mông với 1.623 người (37,2%), người Kinh có 296 người (6,8%) và
thấp nhất là người Mường với 204 người (4,7%).
%
100
86.9
90
80
66
70
60
51.3
50
37.2
34
40
30
20
7.5
6.8
5.6
4.7
10
0
6-15 16-59 ≥60
Nam Nữ
Kinh H'mông Mường Thái
Nhóm tuổi
Giới tình
Dân tộc
56
Hình 3.1. Phân bố đối tƣợng tham gia nghiên cứu theo nhóm tuổi, giới
tính và dân tộc
Bảng 3.4. Phân bố đối tƣợng tham gia nghiên cứu theo trình độ học vấn
TĐHV Tiểu TH TH Trên Mù chữ Điểm nghiên cứu học CS PT THPT
Số lượng 411 266 182 106 68 Sơn La
(n=1.033) 17,6 10,2 Tỷ lệ (%) 39,8 25,8 6,6
Số lượng 376 357 210 41 35 Điện Biên
(n=1.019) Tỷ lệ (%) 36,9 35,1 20,6 4,0 3,4
Số lượng 562 275 167 69 62 Yên Bái
(n=1.135) Tỷ lệ (%) 49,5 24,2 14,7 6,1 5,5
Số lượng 295 377 248 158 97 Thanh Hóa
(n=1.175) Tỷ lệ (%) 25,1 32,1 21,1 13,4 8,3
Số lƣợng 1.644 1.275 807 374 262 Tổng cộng
(n=4.362) Tỷ lệ (%) 37,7 29,2 18,5 8,6 6,0
Nhận xét: Tỷ lệ đối tượng mù chữ chiếm tỷ lệ cao nhất 37,7% (1.644
người), tỷ lệ trên trung học phổ thông thấp nhất 6,0% (262 người).
57
3.1.2. Thực trạng nhiễm giun xoắn trên người tại các điểm nghiên cứu
Bảng 3.5. Kết quả sàng lọc ngƣời nhiễm giun xoắn bằng ELISA
ELISA dƣơng tính Số xét Điểm nghiên cứu Giá trị p Số lƣợng Tỷ lệ (%) nghiệm
Sơn La1 1.033 142 13,7
Điện Biên2 1.019 135 13,2 p (3:1 và 2)
Thanh Hóa3 1.175 24 2,0 < 0,05
Yên Bái4 1.135 0 0,0
Tổng cộng 4.362 301 6,9
Nhận xét: Tỷ lệ người dương tình với ấu trùng giun xoắn bằng ELISA tại
cộng đồng dân cư tại 4 tỉnh là 6,9%. Tỷ lệ ELISA dương tình ở Sơn La và
Điện Biên tương đối cao 13,7% và 13,2%. Tỷ lệ ELISA dương tình ở Thanh
Hóa thấp 2,0%; Yên Bái chưa tím thấy trường hợp nào nhiễm Trichinella.
Bảng 3.6. Kết quả nhiễm giun xoắn bằng Western Blot
WB (+) Số xét Giá trị p Điểm nghiên cứu nghiệm Số lƣợng Tỷ lệ (%)
1.033 101 9,8
1.019 107 10,5 p (3:1 và 2)
1.175 17 < 0,05 1,4
Sơn La1 Điện Biên2 Thanh Hóa3 Yên Bái4 1.135 0 0
Tổng cộng 4.362 225 5,2
5.2 %
Nhiễm
Không nhiễm
94.8 %
58
Hình 3.2. Tỷ lệ ngƣời nhiễm giun xoắn chung tại điểm nghiên cứu
Nhận xét: Trong số 301 trường hợp dương tình ELISA được xác định lại
bằng WB có 225 người dương tình với giun xoắn. Tỷ lệ người nhiễm giun xoắn
của 4 tỉnh là 5,2% (225/4.362) sau xét nghiệm ELISA và WB. Tỷ lệ nhiễm tại
Điện Biên và Sơn La tương đối cao lần lượt là 10,5% và 9,8%; tại Thanh Hóa có
tỷ lệ nhiễm thấp hơn 1,4% và Yên Bái không tím thấy trường hợp nào nhiễm
A: Kết quả WB âm tình
B: Kết quả WB dương tình
C: Kết quả WB với những
mẫu nhiễm KST khác
Trichinella.
Hình 3.3. Hình ảnh kết quả phân tích mẫu bằng kỹ thuật Western Blot
59
Nhận xét: Tất cả 301 mẫu huyết thanh dương tình ELISA được xác định
lại bằng WB. Mẫu nào có hính ảnh 3 dải băng trọng lượng phân tử Protein
tương đương từ 53 - 72 kDa: 53 - 55 kDa; 59 - 62 kDa; 67 - 72 kDa sẽ cho kết
40
37.4
35
30
25
quả dương tình với giun xoắn.
%
20
ệ l
ỷ T
15
9.8
8.7
10
5
2.5
1.0
0.9
0
Xã Tà Xùa Xã Làng
Xã Song Pe Huyện Bắc
Xã Xìm Vàng
Xã Phiên Ban
Yên
Chếu Điểm nghiên cứu
Hình 3.4. Phân bố nhiễm giun xoắn tại huyện Bắc Yên, Sơn La
Nhận xét: Tại huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La, tỷ lệ nhiễm giun xoắn trên
người tại các xã rất khác nhau: Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở xã Xìm Vàng cao
nhất tới 37,4% (74/198), tiếp đến là xã Tà Xùa chiếm 8,7% (18/206), xã Làng
Chếu là 2,5% (5/204), xã Phiên Ban là 1,0% (2/210) và thấp nhất là xã Song
Pe 0,9% (2/215). Sự khác biệt về các tỷ lệ nhiễm tại các xã có ý nghĩa thống kê
với p < 0,05.
35
31,5
30
25
20
60
%
16,7
ệ l
15
10,5
ỷ T
10
6.3
5
1.8
0
0
Xã Quài can
Xã Mùn Chung
Xã Quài Tở
Xã Quài Nưa
Xã Mường Mùn
Huyện Tuần Giáo
Điểm nghiên cứu
Hình 3.5. Phân bố nhiễm giun xoắn tại huyện Tuần Giáo, Điện Biên
Nhận xét: Tại huyện Tuần Giáo tỉnh Điện Biên, tỷ lệ nhiễm giun xoắn
ở xã Quài Cang cao nhất chiếm 31,5% (52/165) tiếp đến là xã Quài Tở 16,7
(38/228), Quài Nưa 6.3% (13/207), Mùn Chung 1,8 (4/223) và thấp nhất là
Mường Mùn 0% (0/196). Sự khác biệt về các tỷ lệ nhiễm tại các xã có ý nghĩa
30
25
20
thống kê với p < 0,05.
%
15
ệ l
ỷ T
10
5
1.8
1.7
1.4
1.3
1.3
1.2
0
Xã Tam Chung
TT Mường Lát
Xã Tắn Tèn
Xã Mường Chanh
Huyện Mường Lát
Xã Quang Chiểu Điểm nghiên cứu
Hình 3.6. Phân bố nhiễm giun xoắn tại huyện Mƣờng Lát, Thanh Hóa
Nhận xét: Tại huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở
xã Tam Chung cao nhất 1,8% (4/222), tiếp đến là thị trấn Mường Lát 1,7%
(4/239), xã Tắn Ten 1,3% (3/234), xã Quang Chiểu 1,3% (3/234) và thấp nhất là
61
xã Mường Chanh 1,2% (3/246). Sự khác biệt về các tỷ lệ nhiễm giun xoắn tại
các xã tại huyện Mường Lát không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Tại huyện Mù Căng Chải, tỉnh Yên Bái: xét nghiệm máu cho 1.135 người
ở 5 xã đã chọn nhưng chưa phát hiện được trường hợp nào nhiễm giun xoắn.
Bảng 3.7. Phân bố tỷ lệ nhiễm giun xoắn theo giới tính
Điểm NC Sơn La (n=1.033) Điện Biên (n=1.019) Yên Bái (n= 1.135) Thanh Hóa (n = 1.175) Tổng cộng (n = 4.362) Giới
Nữ (n=2.878) 68/604 (11,3%) 87/773 (11,3%) 0/670 (0,0%) 14/831 (1,7%) 169/2.878 (5,9%)
Nam (n=1.484) 33/429 (7,7%) 20/246 (8,1%) 0/465 (0,0%) 3/344 (0,9%) 56/1.484 (3,8%)
> 0,05 > 0,05 - > 0,05 < 0,05 Giá trị p
Nhận xét: Nữ nhiễm giun xoắn cao hơn nam (5,9% so với 3,8% với p <
0,05). Tại mỗi tỉnh nghiên cứu, nữ cũng có tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun xoắn
cao hơn nam giới nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.8. Phân bố tỷ lệ nhiễm giun xoắn theo nhóm tuổi
Tỉnh
Sơn La (n=1.033) Điện Biên (n=1.019) Yên Bái (n=1.135) Thanh Hóa (n=1.175) Tổng cộng (n=4.362)
7/88 (7,9%) 12/65 (18,5%) 0/52 (0,0%) 0/40 (0,0%) 19/245 (7,8%)
76/833 (9,1%) 88/920 (9,6%) 0/1.006 (0,0%) 17/1.030 (1,7%) 181/3.789 (4,8%)
Tuổi Từ 6 - 141 (n=204) Từ 15 - 592 (n=3.789) Từ > 603 (n=328) 18/112 (16,1%) 7/34 (20,6%) 0/77 (0,0%) 0/105 (0,0%) 25/328 (7,6%)
- > 0,05 > 0,05 > 0,05 - Giá trị p
Nhận xét: Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở nhóm tuổi 16 - 59 tuổi thấp nhất
4,8%, tiếp đến là nhóm tuổi ≥ 60 tuổi có tỷ lệ nhiễm giun xoắn là 7,6%, lứa
tuổi 6 - 15 có tỷ lệ nhiễm giun xoắn 7,8% (p > 0,05).
62
Bảng 3.9. Phân bố tỷ lệ nhiễm giun xoắn theo nhóm dân tộc
Tỉnh Sơn La Điện Biên Yên Bái Thanh Hóa Tổng cộng
(n=1.033) (n=1.019) (n=1.135) (n = 1.175) (n = 4.362) Dân tộc
H’mông 98/646 0/5 0/972 0 98/1.623
(n=1.623) (15,17%) (0%) (0,0%) (0,0%) (6,0%)
Thái 1/144 104/997 0/158 12/940 117/2.239
(n=2.239) (0,69%) (10,4%) (0,0%) (1,3%) (5,2%)
Kinh 1/73 3/15 0/5 3/203 7/296
(n=296) (1,37%) (20,0%) (0,0%) (1,5)% (2,3%)
Mường 1/170 0/2 2/32 3/204 0
(n=204) (0,59%) (0,0%) (0,0%) (6,3%) (1,5%)
Giá trị p < 0,05 > 0,05 - > 0,05 -
Nhận xét: Phân bố nhiễm ấu trùng giun xoắn theo dân tộc ở các điểm
nghiên cứu rất khác nhau:
Tại Sơn La, người H’mông nhiễm ấu trùng giun xoắn cao nhất 15,17%
so với người Thái 0,69%, người Kinh 1,37% và người Mường 0,59%.
Tại Điện Biên, người Kinh có tỷ lệ nhiễm cao nhất 20,0%, tiếp đến
người Thái 10,4%. Không phát hiện được người H’mông và người Mường
nhiễm ấu trùng giun xoắn.
Tại Thanh Hóa, người Mường có tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun xoắn cao
nhất 6,3%; người Thái và người Kinh có tỷ lệ nhiễm thấp 1,3% và 1,0%.
Không phát hiện được người H’mông nhiễm ấu trùng giun xoắn.
7.8
7.6
% 8
7
6
5.9
6
5.1
4.8
5
3.8
4
2.4
3
1.5
2
1
0
Kinh Thái Hmông Mường
Nam Nữ
6-15 16-59 ≥60
Giới tình
Nhóm tuổi
Dân tộc
63
Hình 3.7. Phân bố nhiễm giun xoắn theo tuổi, giới và dân tộc
Nhận xét: Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở nam thấp hơn giới nữ (3,8% so với
5,9%, p < 0,05). Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở nhóm tuổi 16 - 59 tuổi thấp nhất
4,8%, tiếp đến là nhóm tuổi ≥ 60 tuổi có tỷ lệ nhiễm giun xoắn là 7,6%, lứa
tuổi 6 - 15 có tỷ lệ nhiễm giun xoắn 7,8% (p>0,05). Nhóm dân tộc Hmông có
tỷ lệ nhiễm giun xoắn cao nhất là 6 %, tiếp là Thái 5,1%, Kinh 2,4% và thấp
nhất là dân tộc Mường 1,5% (p > 0,05).
Bảng 3.10. Phân bố nhiễm giun xoắn ở bệnh nhân đã đƣợc chẩn đoán
mắc bệnh giun xoắn trong các đợt dịch trƣớc
Số nhiễm giun xoắn trong nghiên cứu này
TT Điểm nghiên cứu
Bệnh nhân đã đƣợc chẩn đoán bệnh giun xoắn
Số lƣợng +
Tỷ lệ %
1 Sơn La 17 17 100
2 Điện Biên 14 14 100
3 Yên Bái 0 0 0,0
4 Thanh Hóa 38 17 44,7
Tổng cộng 69 49 71
64
Nhận xét: Trong số 69 bệnh nhân đã được chẩn đoán từ những đợt dịch
29 %
Dương tính
71 %
Âm tính
trước tại điểm nghiên cứu vẫn còn 49 (71%) người vẫn dương tình giun xoắn.
Hình 3.8. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở bệnh nhân đã đƣợc chẩn đoán
mắc bệnh giun xoắn trong các đợt dịch trƣớc
Bảng 3.11. Phân bố tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan ở nhóm nhiễm giun xoắn
tại bốn tỉnh nghiên cứu
Bạch cầu ái toan Nhiễm giun OR Giá trị Tổng (CI 95%) p xoắn Tăng Bình thƣờng
66 159 225 Có 8,7 (25,9%) (3,9%) <0,05 (6,28-11,96) Không 189 3948 4137
Tổng 255 4107 4362
Nhận xét: Tỷ lệ tăng BCAT ở nhóm người nhiễm giun xoắn là 29,3%
và tỷ lệ tăng BCAT ở nhóm người không nhiễm giun xoắn là 4,6%. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
65
Bảng 3.12. Phân bố tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan ở nhóm nhiễm giun xoắn
theo tỉnh
BCAT tăng BCAT bình thƣờng Điểm nghiên Giá trị p Số Nhiễm Số Nhiễm giun cứu lƣợng giun xoắn lƣợng xoắn
29 72 Sơn La 61 972 < 0,05 (28,7%) (7,4%) (n=1.033)
31 76 Điện Biên 64 955 < 0,05 (29,0%) (6,7%) (n=1.019)
0 0 Yên Bái 55 1.080 - (0,0%) (0,0%) (n=1.135)
6 11 Thanh Hóa 75 1.100 < 0,05 (8,0%) (1,0%) (n=1.175)
66 159 Tổng cộng 255 4.102 < 0,05 (25,9%) (3,9%) (n=4.362)
Nhận xét: Tỷ lệ người nhiễm giun xoắn có tăng BCAT so với tỷ lệ
người nhiễm giun xoắn nhưng không tăng BCAT đều khác nhau có ý nghĩa
thống kê. Tại Sơn La: 28,7% so với 7,4%; p < 0,05. Tại Điện Biên: 29,0% so
với 6,7%, p < 0,05. Tại Thanh Hóa: 8,0% so với 1,0%; p < 0,05.
3.1.3. Nhiễm giun xoắn ở động vật:
3.1.3.1. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở lợn:
Có 860 mẫu máu lợn được xét nghiệm kiểm tra kháng thể kháng giun
xoắn bằng phương pháp ELISA và những mẫu ELISA dương tình này lại
được xác định lại bằng phương pháp Western Blot. Kết quả được trính bày cụ
thể ở bảng 3.13 và bảng 3.14.
66
Bảng 3.13. Tỷ lệ lợn nhiễm giun xoắn bằng ELISA
Số mẫu xét Số dƣơng tính Tỷ lệ Điểm nghiên cứu nghiệm (con) (con) (%)
215 2,33 5 Sơn La
0,46 1 215 Điện Biên
215 0,93 2 Thanh Hóa
215 0,93 2 Yên Bái
1,16 10 860 Tổng cộng
Nhận xét: Trong tổng số 860 mẫu huyết thanh lợn thu thập tại 20 xã tại
4 huyện thuộc 4 tỉnh, chỉ có 10 mẫu cho kết quả ELISA dương tình với kháng
thể giun xoắn chiếm tỷ lệ 1,16%. Tỷ lệ ELISA dương tình ở lợn tại Sơn La
cao nhất là 2,33%.
Bảng 3.14. Tỷ lệ lợn nhiễm giun xoắn bằng kỹ thuật ELISA và Western
Blot
ELISA Western Blot Địa điểm NC Số + (con) Tỷ lệ (%) Số + (con) Tỷ lệ (%)
Sơn La 5 2,33 1 0,47 (n = 215)
Điện Biên 1 0,8 0 0 (n = 215)
Thanh Hóa 2 0,9 0 0 (n = 215)
Yên Bái 2 0,9 0 0 (n = 215)
Tổng cộng 10 1,16 01 0,12 (n = 860)
67
Nhận xét: Trong tổng số 10 mẫu huyết thanh lợn dương tình ELISA
được thẩm định bằng kỹ thuật Western Blot chỉ có 01 mẫu dương tình tại xã
Phiên Ban huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La, chiếm tỷ lệ 0,12% so với 860 lợn
được xét nghiệm.
3.1.3.2 Nhiễm giun xoắn ở chuột
Tổng số 860 chuột bắt được bằng bẫy tại các điểm nghiên cứu. Tiến
hành lấy mẫu thịt chuột và được tiêu cơ để thu hồi ấu trùng giun xoắn. Do
một số chuột bé không đủ trọng lượng để làm xét nghiệm nên chúng tôi tiến
hành gộp mẫu xét nghiệm. Có 510 mẫu thịt chuột được được tiến hành tiêu cơ
để kiểm tra ấu trùng giun xoắn, kết quả được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3.15. Kết quả xác định ấu trùng giun xoắn ở chuột
bằng kỹ thuật tiêu cơ
Số chuột thu
Số mẫu làm
Số mẫu dƣơng
Tỷ lệ
Địa điểm NC
bắt (con)
tiêu cơ
tính (con)
(%)
215 200 1 0,5 Sơn La
215 100 0 0,0 Điện Biên
215 100 0 0,0 Thanh Hóa
215 110 0 0,0 Yên Bái
860 510 1 0,2 Tổng cộng
Nhận xét: Tổng số 510 mẫu thịt chuột chỉ có 01 mẫu chuột thu hồi
được ấu trùng giun xoắn chiếm tỷ lệ 0,2%.
Mẫu chuột dương tình này được thu thập từ 1 con chuột to bắt tại
cánh đồng xã Làng Chếu huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La so với 860 con chuột
trong nghiên cứu chiếm tỷ lệ 0,12%.
68
3.1.4. Kết quả xác định loài giun xoắn
3.1.4.1. Kết quả định loại hình thể ấu trung giun xoắn thu được
Hình 3.9. Ấu trùng giun xoắn trong tiêu bản lắng cặn sau tiêu cơ chuột
Nhận xét: Kết quả soi kình hiển vi trên tiêu bản tiêu cơ chuột phát hiện
các ấu trùng có hính xoắn 2,5 vòng cuộn tròn sau phẫu tìch có kìch thước
chiều dài khoảng 1,00 mm + 0,35 mm chiều dài, chiều rộng 0,03 + 0,005 mm,
có hính xoắn 2,5 vòng.
3.1.4.2. Kết quả phân tích mẫu bằng kỹ thuật PCR
Hình 3.10. Kết quả PCR xác định loài Trichinella spiralis gen đích EVS
69
M: Thang chuẩn ADN 100 bp.
Giếng 1: Mẫu SL53 - dương tình với Trichinella spiralis
Giếng 2: Mẫu YB48 – âm tình
Giếng 3: Chứng dương Trichinella spiralis – ngân hàng mẫu ITM
Hình 3.11. Kết quả PCR xác định giống Trichinella gen đích COI
M: Thang chuẩn ADN 100 bp.
Giếng 1: Mẫu SL53 - dương tình với giống Trichinella
Giếng 2: Mẫu YB48 – âm tình
Giếng 3: Chứng dương Trichinella spiralis – ngân hàng mẫu ITM
Sau khi phân tìch bằng kỹ thuật multiplex PCR xác định có 01 mẫu có
kìch thước 173 bp được xác định có khả năng nhiễm T. spiralis.
Khuếch đại ADN gen đìch COI của mẫu này thu được sản phẩm
PCRcó kìch thước 419 bp - băng chuẩn của giống Trichinella và mẫu này đã
được giải trính tự cho kết quả như sau:
70
Hình 3.12. Kết quả độ tƣơng đồng của các mẫu nghiên cứu với các trình
tự gen đƣợc lƣu trữ trên genbank
Trính tự đoạn gen COI của mẫu giun xoắn phân tìch
TATATTCTAG TACTACCTGC TTTCGGAGTA
GTATCCGAAG CATTAATATT CATATCCGGA
AAATTTAAAG TATTCGGACC ACTTGGAATA
ATCTATGCAA TAACAAGAAT CGGCATCTTA
GGATGTTTTG TATGAGGTCA CCACATATAT
ACAGTCGGTA TAGACATCGA CACACGAGCT
TATTTCACCG CCGCTACAAT AATTATTGGT
ATCCCAACCG GCGTAAAAAT CTTCAGATGA
TTAGCTACAC TATATGGTAC TCACATTAAA
ATAACACCAG CCATATTATG AGTACTAGGA
TTTCTCCTAT TATTCACAAT AGGGGGGCTA
ACAGGAGTCA GACTCTCAAA CGCTTCTCTA
GATCTACTAT TACATGACAC AGACACCTAC TACGTGGT
Tri-VN01 F
Hình 3.13. Trình tự đoạn gen COI của mẫu giun xoắn
71
Nhận xét: Kết quả hính 3.12 và 3.13 cho thấy, giải trính tự lặp lại 2 lần
trên cả hai mạch xuôi và ngược được đoạn gen dài 398 nucleotid , kết quả so
sánh với ngân hàng gen thấy có độ tương đồng từ 94-99% với các mẫu đã
được lưu trữ trên ngân hàng genbank là loài Trichinella spiralis.
Hình 3.14. Cây chủng loại phát sinh của giống Trichinella dựa trên trình
tự gen COI – sử dụng phần mềm MEGA 71
Sử dụng trính tự COI để xây dựng cây chủng loại phát sinh với các loài
giun xoắn khác đã được công bố trên ngân hàng gen. Trính tự gen của mẫu
phân tìch có độ tương đồng 100% với trính tự của Trichinella spiralis được
72
thu thập tại Trung Quốc và có sự khác biệt với các loài Trichinella khác.
3.2. Kết quả nghiên cứu một số yếu tố liên quan đến nhiễm giun xoắn ở
ngƣời tại điểm nghiên cứu
3.2.1. Mối liên quan giữa người sống tại các xã đã từng có dịch giun xoắn
và người sống ở xã không có dịch với tình trạng nhiễm giun xoắn
Bảng 3.16. Liên quan giữa ngƣời sống ở xã đã có dịch và xã không có
dịch với tình trạng nhiễm giun xoắn
Nhiễm giun xoắn OR Giá trị Sống ở xã Tổng (CI 95%) p (+) (-)
51 880 Đã có dịch 931 (5,5%) (94,5%)
1,08 Không có 174 3.257 > 0,05 3.431 (0,79 - 1,49) dịch (5,1%) (94,9%)
Tổng cộng 225 4.137 4.362
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy không có mối liên quan giữa
những người sống ở xã đã từng có dịch giun xoắn và người sống ở xã không
có dịch với tính trạng nhiễm giun xoắn ở người (OR = 1,08; CI 95%: 0,79-
1,49; p > 0,05).
3.2.2. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành phòng chống nhiễm giun xoắn.
Trong số 4.362 người được điều tra phỏng vấn về kiến thức, thực hành
liên quan đến phòng chống giun xoắn thí có 714 người biết về bệnh giun xoắn
chiếm 16,4%, trong đó biết tác hại bệnh là 685 người chiếm 15,7%, biết cách
phòng chống bệnh là 646 người chiếm 14,8%.
73
Bảng 3.17. Kết quả điều tra về kiến thức và thực hành của đối tƣợng
nghiên cứu liên quan đến tình trạng nhiễm giun xoắn
Số lƣợng TT Chỉ số điều tra (n=4.362) Tỷ lệ %
I Hiểu biết về bệnh giun xoắn
1 Biết về bệnh giun xoắn* 714 16,4
2 Biết tác hại của bệnh 685 15,7
3 Biết cách phòng chống bệnh 646 14,8
II Hành vi thực hành liên quan đến phòng chống bệnh giun xoắn
4 Trả lời nhà có nuôi lợn: 3.265 74,9
- Nuôi thả rông 4.1 430 13,2
- Lợn nuôi trên 12 tháng 4.2 1.584 48,5
- Số lợn nuôi trên 3 con 4.3 1400 42,9
- Không tẩy giun cho lợn 4.3 2312 70,8
5 Có ăn thịt thú rừng 752 17,2
6 Có ăn thịt lợn sống 398 9,1
- Lạp 6.1 177 44,5
- Tiết canh và gỏi 6.2 221 55,5
7 Có ăn thịt lợn tái 409 9,4
- Nem, chạo 7.1 165 40,3
- Xào và nhúng tái 7.2 244 59,7
* Biết về bệnh giun xoắn: Biết tác hại của bệnh hoặc biết cách phòng bệnh
Nhận xét: Trong 3.265 người gia đính có nuôi lợn thí có 430 người gia đính
nuôi lợn thả rông (13,2%); 1.584 người gia đính có lợn nuôi trên 12 tháng
(48,5%); 1.400 người gia đính có số lợn nuôi trên 3 con (42,9%); có 953 người gia
đính có tấy giun cho lợn (29,2%).
Về thói quen, tập quán ăn uống: có 752 người có ăn thịt thú rừng chiếm tỷ
74
lệ 17,2%, có 398 người có ăn thịt lợn sống chiếm tỷ lệ 9,1%, có 409 người có ăn
thịt lợn tái chiếm tỷ lệ 9,4%.
Bảng 3.18. Liên quan giữa kiến thức về bệnh giun xoắn của đối tƣợng
nghiên cứu với tình trạng nhiễm giun xoắn
Nhiễm giun xoắn OR Giá trị Kiến thức Tổng (CI 95%) p (+) (-)
212 3.436 Không 3.648 Biết về (5,8%) (94,2%) 3,33 bệnh giun < 0,05 (1,89 - 5,86) 13 701 714 xoắn Có (1,8%) (98,2%)
214 3.463 Không 3.677 Biết tác (5,8%) (94,2%) 3,8 hại của < 0,05 (2,05 - 6,98) 11 674 685 bệnh Có (1,6%) (98,4%)
217 3.459 Không 3.706 Biết cách (5,9%) (94,1%) phòng 5,0 8 638 646 < 0,05 bệnh Có (2,46 - 10,18) (1,2%) (98,8%)
Tổng 225 4.137 4.362
Nhận xét: Có mối liên quan giữa hiểu biết của người dân với nhiễm
giun xoắn: Những người không biết về bệnh giun xoắn nguy cơ nhiễm giun
xoắn cao gấp 3,33 lần những người biết về bệnh với p < 0,05; những người
không biết tác hại của bệnh nguy cơ nhiễm giun xoắn cao gấp 3,8 lần những
người biết tác hại của bệnh với p < 0,05; những người không biết cách phòng
bệnh nguy cơ nhễm giun xoắn cao gấp 5,0 lần những người biết biểu hiện của
bệnh với p < 0,05.
75
3.2.3. Mối liên quan giữa thực hành phòng chống bệnh giun xoắn với tình
trạng nhiễm giun xoắn
Bảng 3.19. Liên quan giữa thói quen ăn thịt thú rừng với nhiễm giun xoắn
Nhiễm giun xoắn Tổng Nguồn gốc thịt OR (CI 95%) Giá trị p (+) (-)
Có 752 86 (11,4%) 666 (88,6%) <0,05 Ăn thịt thú rừng 3,3 (2,48- 4,37) Không 3.610 139 (3,9%) 3,471 (96,1%)
Tổng 225 4.137 4362
129 Lợn rừng 28 (28,7%) 101 (78,3%)
318 <0,05 Loại thịt thú rừng Chuột rừng 21 (6,6%) 297 (93,4%) OR (1-2) 3,4 (1,88- 6,13)
Khác* 305 37 (12,1%) 268 (87,9%)
Tổng 86 666 752
100%
3.7
3.9
Nhiễm do ăn thịt lợn rừng
98%
96%
2.8
Nhiễm do ăn thịt chuột rừng
94%
92%
4.9
Nhiễm do ăn loại thịt rừng khác
90%
96.1
Nhiễm
88%
88.6
86%
Không nhiễm
84%
82%
Có ăn thịt thú rừng
Không ăn thịt thú rừng
*: Cầy, cáo, chim.
Hình 3.15. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn do thói quen ăn các loại thịt thú rừng
76
Nhận xét: Có mối liên quan giữa những người ăn thịt thứ rừng với nhiễm
giun xoắn. Những người ăn thịt thú rừng nguy cơ nhiễm cao gấp 3,3 lần so
với người không ăn (p < 0,05). Có sự khác nhau giữa việc ăn các loại thịt thú
rừng với nhiễm giun xoắn (p < 0,05).
Bảng 3.20. Liên quan giữa ăn thịt lợn sống với nhiễm giun xoắn
Nhiễm giun xoắn OR Giá Thịt lợn sống Tổng (CI 95%) trị p (+) (-)
53 345 Có 398 (13,3%) (86,7%) Ăn thịt lợn 3,4 sống <0,05 172 3.793 Không 3965 (2,44-4,7) (4,3%) (95,7%)
Tổng 225 4.137 4.362
45 132 177 Lạp Món ăn từ (25,4%) (74,6%) 9,1 thịt lợn 8 213 221 (4,15- <0,05 Khác* sống (3,6%) (96,4%) 19,86)
Tổng 53 345 398
100%
4.3
11.3
Nhiễm do ăn lạp
95%
Nhiễm do ăn gỏi, tiết canh
90%
Nhiễm giun xoắn
95.7
2
Không nhiễm giun xoắn
85%
86.7
80%
*: Tiết canh, gỏi.
Không ăn thịt lợn sống Có ăn thịt lợn sống
Hình 3.16. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn do thói quen ăn các loại thịt sống
77
Nhận xét: Có mối liên quan giữa ăn thịt lợn sống với nhiễm giun xoắn.
Những người ăn thịt lợn sống nguy cơ nhiễm giun xoắn cao gấp 3,4 lần với
người không ăn (p<0,05). Nguồn gốc thịt lợn cũng liên quan đến nhiễm giun
xoắn. Thịt lợn mua từ chợ làm tăng nguy cơ nhiễm giun xoắn gấp 1,25 lần so
với lợn nhà (p<0,05). Có mối liên quan giữa cách chế biến thịt lợn sống dưới
hính thức lạp (25,4%) và các loại khác (3,6%) với nhiễm giun xoắn (OR =9,1;
p < 0,05).
Bảng 3.21. Liên quan giữa ăn thịt lợn tái với nhiễm giun xoắn
Nhiễm giun xoắn OR Giá Thịt lợn tái Tổng (CI 95%) (+) (-) trị p
43 366 409 Có (10,2%) (89,8%) Ăn thịt lợn 2,4 tái 182 3.771 Không 3953 (1,72-3,45) < 0,05 (4,6 %) (95,4%)
225 Tổng 4.137 4.362
20 Nem, 145 165
chạo (12,1%) (87,9%) Món ăn từ 1,33 thịt lợn tái 23 221 244 > 0,05 Khác* (0,70-2,50) (9,4%) (90,6%)
43 Tổng 366 409
*: Xào tái, nhúng tái.
Nhận xét: Có mối liên quan giữa ăn thịt lợn tái với nhiễm giun xoắn.
Những người ăn thịt lợn tái nguy cơ nhiễm giun xoắn cao gấp 2,4 lần với
người không ăn (p < 0,05). Cách chế biến thịt lợn tái với hính thức nem, chạo
và các hính thức chế biến lợn tái khác không thấy có sự khác biệt với nhiễm
giun xoắn (p > 0,05).
78
Bảng 3.22. Mối liên quan giữa hình thức nuôi lợn với nhiễm giun xoắn
Xét nghiệm
ELISA OR Hình thức nuôi Tổng p ELISA ELISA (CI 95%)
(+) (-)
43 387 430 Thả
rông (10%) (90%)
Nuôi lợn 2,7 114 2721 2835 < 0,001
Nhốt (4,0%) (96,0%) (1,86 - 3,88)
Tổng 157 3108 3265
Nhận xét: Bảng 14 cho thấy có mối liên quan giữa hính thức nuôi lợn
với ELISA (+), Gia đính có lợn nuôi thả rông có nguy cơ mắc giun xoắn cao
gấp 2,7 lần gia đính có lợn nuôi nhốt (p < 0,05).
Bảng 3.23. Mối liên quan giữa số lƣợng lợn nuôi với nhiễm giun xoắn
Xét nghiệm
ELISA OR Số lƣợng lợn Tổng p ELISA ELISA (CI 95%)
(+) (-)
> 3 con 84 1318 1400 Nuôi 1,52 lợn 1 - 2 con 73 1790 1865 0,012 (1,11 - 2,11) Tổng 157 3.108 3.265
Nhận xét: Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa số lượng lợn nuôi
với ELISA (+) ở các gia đính. Gia đính nuôi nhiều lợn (trên 3 con) thí nguy cơ bị
nhiễm giun xoắn cao gấp 1,52 lần các gia đính nuôi dưới 2 con lợn (p < 0,05).
79
Bảng 3.24. Mối liên quan giữa thời gian nuôi lợn với nhiễm giun xoắn
Nhiễm giun xoắn Giá trị Thời gian nuôi Tổng OR, CI p (-) (+)
91 1.493 1.584 > 12 tháng (5,7%) (94,3%) Tuổi 1,19
lợn 66 1.615 1.681 (1,04- < 0,05 < 12 tháng (3,9%) (96,1%) 1,37)
Tổng 157 3.108 3.265
Nhận xét: Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa thời gian nuôi
lợn với nhiễm giun xoắn; các gia đính có lợn nuôi trên một năm có nguy cơ
nhiễm giun xoắn cao gấp 1,19 lần so với các gia đính có lợn nuôi dưới một
năm (p < 0,05).
Bảng 3.25. Mối liên quan giữa tẩy giun cho lợn với nhiễm giun xoắn
Xét nghiệm
ELISA OR Tẩy giun cho lợn Tổng p ELISA ELISA (CI 95%)
(-) (+)
Không 2206 2312 106 0,83
Có 902 953 (0,59 – 0,341 51
1,18) Tổng 3108 3265 157
Nhận xét: Nghiên cứu chỉ ra không có mối liên quan giữa việc tẩy giun
cho lợn với ELISA (+) với OR là 0,83 và p > 0,05.
80
Bảng 3.26. Các yếu tố liên quan với nhiễm giun xoắn bằng phân tích hồi
quy đa biến
STT
Yếu tố trong mô hình Hệ số hồi quy (β) OR (CI 95%)
1 Giới
- Nữ - Nam (*) 0,511 - Sai số chuẩn (S.E) 0,162 - Mức ý nghĩa (p) 0,002 - 1,667 (1,21-2,29)
2,0 (1,13-3,55)
2 Biết về bệnh - Không - Có (*)
3 Biết tác hại của bệnh
- Không - Có (*)
4 Biết cách phòng bệnh 3,21 (1,55-6,63)
3,8 (1,63-7,02)
- Không - Có (*)
5 Ăn thịt lợn tái - Có - Không (*) 0,6943 - 1,166 - 1,22 - 0,882 - 0,292 - 0,37 - 0,372 - 0,192 - 0,018 - 0,002 - 0,001 - 0,001 - 2,42 (1,66-3,52)
6 Ăn thịt lợn sống
- Có - Không (*) 7 Ăn thịt thú rừng
0.177 - 0.152 - 0.001 - 0,001 - - Có - Không (*) 2,97 (2,1-4,23) 2,56(1,9-3,45)
1,089 - 0,941 - Cỡ mẫu phân tích n = 4362; (*) = Nhóm so sánh; - = Không áp dụng Kiểm định tính phù hợp của mô hình thống kê (Hosmer and Lemeshow) χ2 = 18,735 ; df = 6 ; p = 0,005.
Nhận xét: Phân tìch hồi quy đa biến logistic cho thấy có 7 yếu tố liên
quan có ý nghĩa (p < 0,05) với nhiễm giun xoắn. Các yếu tố đó là: Giới, hiểu
biết về bệnh, biết tác hại của bệnh, biết cách phòng bệnh giun xoắn, có ăn thịt
lợn tái, sống và ăn thịt thú rừng:
Nữ giới có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 1,67 lần so với nam giới (p < 0,05);
81
Những người không biết về bệnh có nguy cơ nhiễm giun xoắn cao gấp
2,0 lần so với những người biết về bệnh (p < 0,05). Những người ko biết tác
hại của bệnh có nguy có nhiễm giun xoắn cao gấp 3,21 lần những người biết
tác hại của bệnh (p < 0,05). Những người ko biết cách phòng có nguy cơ mắc
bệnh cao gấp 3,8 lần những người biết cách phòng bệnh (p<0,05);
Những người ăn thịt lợn tái, sống có nguy cơ mắc bệnh tương ứng cao
gấp 2,42 và 2,97 lần những người ko ăn thịt lợn tái, sống (p < 0,05); Những
người ăn thịt thú rừng có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 2,56 lần những người ko
ăn thịt thú rừng (p < 0,05).
3.3. Kết quả can thiệp phòng chống giun xoắn tại cộng đồng
3.3.1. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn trước can thiệp và sau can thiệp
Bốn tỉnh nghiên cứu sau điều tra cơ bản trước can thiệp và sau can
thiệp, các trường hợp nhiễm giun xoắn đều được điều trị bằng albendazol theo
phác đồ quy định. Huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La được chọn làm địa điểm can
thiệp; huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên được chọn làm địa điểm đối chứng trong
đánh giá hiệu quả truyền thông giáo dục sức khỏe.
Bảng 3.27. Nhiễm giun xoắn tại các tỉnh trƣớc và sau can thiệp điều trị
Trƣớc can thiệp Sau can thiệp Điểm Giá trị Số xét Số Tỷ lệ1 Số xét Số Tỷ lệ2 nghiên cứu p (1-2) nghiệm lƣợng (%) nghiệm lƣợng (%)
Sơn La 1.033 101 9,8 1.030 75 7,2 > 0,05
Điện Biên 1.019 107 10,5 1.060 90 8,5 > 0,05
Yên Bái 1.135 0 930 0,0 0 0,0
Thanh Hóa 1.175 17 1.156 1,4 15 1,3 > 0,05
5,2 Tổng cộng 4.362 225 4.176 180 4,3 > 0,05
10.5
12
9.8
8.5
10
7.2
8
82
%
5.1
ệ l
6
4.3
ỷ T
4
1.4
1.3
2
0
0
0
Trước can thiệp
Sau can thiệp
Điểm nghiên cứu
Yên Bái
Thanh Hóa
Chung
Sơn La
Điện Biên
Hình 3.17. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn trƣớc và sau can thiệp điều trị tại điểm
nghiên cứu
Nhận xét: Tại tỉnh Sơn La tỷ lệ nhiễm giun xoắn sau can thiệp giảm so
với trước can thiệp (7,2% so với 9,8%), sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (p > 0,05).
Tại tỉnh Điện Biên tỷ lệ nhiễm giun xoắn sau can thiệp giảm so với
trước can thiệp (8,5% so với 10,5%), sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05).
3.3.2. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn tại các tỉnh nghiên cứu trước và sau can thiệp
truyền thông giáo dục sức khỏe
Bảng 3.28. Kết quả thực hiện hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe
Truyền thông Số lƣợng
24 lần - Truyền thông trên loa đài + Tại xã: 1 lần/tuần x 24 tuần
100 tờ - Treo áp phìch ở xã can thiệp (tại Trạm y tế xã, nhà văn hóa thôn, trường học)
- Truyền thông trực tiếp ngay sau buổi xét nghiệm, phỏng vấn 1.033 người
- Phát tờ rơi bài truyền thông phòng chống bệnh giun xoắn 2.000 người
83
Nhận xét: Mỗi xã can thiệp chúng tôi tiến hành truyền thông trên loa đài 24
lần; phát bài nói chuyện 2.000 tờ rơi, tờ gấp; treo 100 áp phìch cho tại Trạm y tế
xã, nhà văn hóa thôn, trường học (Phụ lục 4).
Bảng 3.29. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn trƣớc và sau can thiệp truyền thông
giáo dục sức khỏe
Trƣớc can thiệp Sau can thiệp
(n = 2.052) (n = 2.090) CSHQ HQCT Địa điểm NC (%) (%) Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số lƣợng % lƣợng %
Can thiệp (Bắc Yên- 101/1.033 9,8 75/1.030 7,2 26,53 Sơn La) 7,5 Đối chứng (Tuần 107/1.019 10,5 90/1060 8,5 19,04 Giáo-Điện Biên)
Nhận xét: Sau can thiệp điều trị và truyền thông tại tỉnh can thiệp - Sơn
La và tại tỉnh đối chứng - Điện Biên, tỷ lệ nhiễm giun xoắn đạt hiệu quả can
thiệp 7,5%.
Bảng 3.30. Hiểu biết về bệnh, tác hại của bệnh và cách phòng chống bệnh
giun xoắn của các đối tƣợng nghiên cứu trƣớc và sau can thiệp
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng HQCT Biến số Trƣớc Trƣớc (%) Sau CT Sau CT CT CT
Số điều tra 1.033 1.038 1.019 1.060
166 630 168 321 193,4 Có Biết về (16,1%) (60,7%) (16,5%) (30,3%) bệnh giun 867 408 851 739 xoắn Không (83,9%) (39,3%) (83,5%) (69,7%)
84
CSHQ (%) 277,0 83,6
145 598 151 278 Có Biết tác (14,0%) (57,6%) (14,8%) (26,2%) hại của 234,4 888 440 868 782 bệnh Không (86,0%) (42,4%) (85,2%) (73,8%)
CSHQ (%) 311,4 77,0
155 612 146 216 Biết Có (15,0%) (58,9%) (14,3%) (20,4%) cách 250,0 phòng 878 426 873 844 Không bệnh (85,0%) (41,1%) (85,7%) (79,6%)
CSHQ (%) 292,7 42,7
Nhận xét: Tại điểm can thiệp, tỷ lệ người dân có hiểu biết về bệnh giun
xoắn tăng từ 16,1% lên 60,7% sau can thiệp, CSHQ là 277,0% (p<0,001). Tại
điểm đối chứng, tỷ lệ người dân có hiểu biết về bệnh giun xoắn cũng tăng từ
16,5% lên 30,3%, CSHQ là 83,6%, (p < 0,05).
Hiệu quả can thiệp giúp người dân có hiểu biết về bệnh giun xoắn đạt
tới mức 193,4% (p < 0,05).
Hiệu quả can thiệp giúp người dân có hiểu biết về tác hại bệnh giun xoắn
đạt mức 234,4% (p < 0,05). Hiệu quả can thiệp giúp người dân có hiểu biết về
cách phòng chống bệnh giun xoắn đạt mức 250,0% (p < 0,05).
16.1
60.7
Biết về bệnh giun xoắn
16.5
30.3
14
57.6
Biết tác hại của bệnh giun xoắn
14.8
26.2
15
58.9
Biết cách phòng bệnh giun xoắn
14.3
20.4
0
10
20
30
40
50
60
70
Trước CT
Sau CT
Trước CT (nhóm đối chứng)
Sau CT (nhóm đối chứng)
85
Hình 3.18. Hiểu biết về bệnh, tác hại của bệnh và cách phòng chống bệnh
giun xoắn của các đối tƣợng nghiên cứu trƣớc và sau can thiệp
Bảng 3.31. Thói quen ăn thịt tái/sống của đối tƣợng nghiên cứu trƣớc và
sau can thiệp
Điểm Can thiệp Điểm Đối chứng HQCT
(%) Biến số Trƣớc Sau CT Trƣớc Sau
CT CT CT
Số điều tra 1.033 1.038 1.019 1.060
197 60 185 146 Có (19,1%) (5,8%) (18,2%) (13,8%) Ăn thịt lợn 45,5 tái/sống 836 978 834 914 Không (80,9%) (94,2%) (81,8%) (87,2%)
86
CSHQ (%) 69,63 24,18
110 52 103 82 Có Ăn thịt lợn (10,65) (5,01) (10,11) (7,74) tái 29,5 923 1.006 916 1.018 Không
CSHQ (%) 52,96 23,44
Ăn thịt lợn 135 25 125 116 Có sống (13,06) (2,41) (12,27) (10,94) 70,7
898 1003 894 973 Không
CSHQ (%) 81,55 10,84
Nhận xét: Tại điểm can thiệp: Tỷ lệ người dân còn ăn thịt lợn tái/sống
giảm từ 19,1% xuống còn 5,8% sau can thiệp có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Tại điểm đối chứng: Tỷ lệ người dân còn ăn thịt lợn tái/sống cũng giảm từ
18,2% xuống còn 13,8%; hiệu quả can thiệp đạt mức 45,5% (p < 0,05).
Bảng 3.32. Hình thức nuôi lợn trƣớc và sau can thiệp
Điểm Can thiệp Điểm Đối chứng HQCT
Biến số (%); p Trƣớc CT Sau CT Trƣớc CT Sau CT
(n=752 ) (n=702) (n =733) (n=742)
Không 219 277 173 199
(29,1%) (39,5%) (23,6%) (26,8%) Nuôi lợn 22,1
thả rông Có 533 425 560 543
(70,9%) (60,5%) (76,4%) (73,2%)
CSHQ 35,7 13,6 (%)
Nhận xét: Tại điểm can thiệp, tỷ lệ người dân nuôi lợn thả rông giảm từ
70,9% trước can thiệp xuống còn 60,5% sau can thiệp, sự khác biệt có ý nghĩa
87
thống kê (p < 0,05). Tỷ lệ người dân nuôi lợn thả rông ở điểm đối chứng cũng
giảm từ 76,4% xuống còn 73,2% nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05). Hành vi nuôi lợn thả rông, hiệu quả can thiệp đạt mức 22,2% (p <
0,05).
88
Chƣơng 4. BÀN LUẬN
4.1. Thực trạng nhiễm giun xoắn trên ngƣời và động vật tại các điểm
nghiên cứu.
4.1.1. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở người:
Bệnh giun xoắn là bệnh lây truyền từ động vật sang người. Người mắc
bệnh giun xoắn do ăn thịt động vật nhiễm ấu trùng giun xoắn chưa nấu chìn
kỹ. Bệnh thường phân bố ở những vùng dân cư khu vực rừng núi, có tập quán
ăn thịt động vật nuôi hoặc động vật hoang dã chưa nấu chìn kỹ.
Nghiên cứu của chúng tôi được triển khai tại cộng đồng 20 xã thuộc 4
huyện của 4 tỉnh miền núi phìa Bắc (Huyện Mù Căng Chải tỉnh Yên Bái,
huyện Tuần Giáo tỉnh Điện Biên, huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La và huyện
Mường Lát tỉnh Thanh Hóa). Có 4 xã (mỗi tỉnh một xã) là nơi trước đây đã có
dịch giun xoắn, 16 xã còn lại là những xã có địa giới chung với 4 xã đã có
dịch giun xoắn. Trong giai đoạn hai năm 2015 - 2016, trên toàn quốc cũng
như địa bàn 4 tỉnh nghiên cứu không có dịch giun xoắn xảy ra nên nghiên cứu
của chúng tôi không gặp bệnh nhân mắc bệnh giun xoắn, chỉ điều tra thấy có
69 bệnh nhân cũ đã từng mắc bệnh giun xoắn trước đây ở các vụ dịch. Nghiên
cứu đã áp dụng kỹ thuật ELISA và Western Blot. Kỹ thuật ELISA phát hiện
kháng thể kháng giun xoắn có độ nhạy cao sau tuần thứ 2 - 3 bị nhiễm ký sinh
trùng. Kháng thể kháng giun xoắn có thể tồn tại vài năm sau khi nhiễm. Nồng
độ kháng thể trong huyết thanh không tương quan với độ nặng của bệnh hoặc
quá trính diễn tiến lâm sàng [2], [7]. Kỹ thuật Western Blot với độ nhạy và độ
đặc hiệu là 100% giúp xác định lại những trường hợp dương tình với ELISA.
Trong nghiên cứu, tổng cộng có 4.362 người thuộc 20 xã tại 4 tỉnh
miền Bắc Việt Nam đã tham gia. Trong đó, tỉnh Sơn La có 1.033 người, Điện
Biên có 1.019 người, Yên Bái có 1.135 người, và Thanh Hóa có 1.175 người.
Nhóm tuổi tham gia nghiên cứu chiếm tỷ lệ cao nhất trong cả 4 tỉnh là nhóm
89
từ 15 - 60 tuổi có 3.789 người (86,9%), nhóm tuổi từ 6 - 14 tuổi là nhóm thấp
nhất có 245 người (5,6%). Dân tộc Thái chiếm tỷ lệ cao nhất trong cả 4 tỉnh là
51,3% với 2.239 người, tiếp theo là người dân tộc H’mông với 1.623 người
(37,2%), người Kinh có 296 người (6,8%) và thấp nhất là người Mường với
204 người (4,7%). Tỷ lệ đối tượng mù chữ chiếm tỷ lệ cao nhất 37,7% (1.644
người), tỷ lệ học trên trung học phổ thông thấp nhất 6,0% (262 người).
Trên tổng số 4.362 người được xét nghiệm ở các điểm nghiên cứu đã
phát hiện được 225 người đã nhiễm giun xoắn, có kết quả xét nghiệm dương
tình chiếm tỷ lệ 5,2%. Trong đó tỷ lệ người đã nhiễm giun xoắn ở huyện
Tuần Giáo tỉnh Điện Biên tương đối cao 10,5%, tiếp đến là huyện Bắc Yên
tỉnh Sơn La 9,8% và huyện Mường Lát tỉnh Thanh Hóa là 1,4%; không phát
hiện được trường hợp nào nhiễm ấu trùng giun xoắn tại huyện Mù Căng
Chải tỉnh Yên Bái với 1.135 người được xét nghiệm ELISA.
Kết quả xét nghiệm Western Blot dương tình với ấu trùng giun xoắn
thấp hơn một số nghiên cứu trước đây. Tỷ lệ người có kết quả xét nghiệm
Western Blot (1,4%; 17/1.175 người) và ELISA dương tình (2,0%; 24/1.175
người) tại Mường Lát tỉnh Thanh Hóa trong nghiên cứu này đều thấp hơn so
với kết quả xét nghiệm huyết thanh học (ELISA) năm 2013 ngay sau thời
điểm có dịch giun xoắn ở Mường Lát tỉnh Thanh hóa là 7,4% (18/242 người
xét nghiệm) [6]. Tại huyện Tuần Giáo tỉnh Điện Biên, tỷ lệ người có kết quả
xét nghiệm Western Blot dương tình là 10,5% (107/1.019 người), tỷ lệ kết
quả xét nghiệm ELISA dương tình là 13,2% (135/1.019 người) và ở huyện
Bắc Yên tỉnh Sơn La có tỷ lệ Western Blot dương tình là 9,8% (101/1.033
người), tỷ lệ ELISA dương tình là 13,7% (142/1.033 người) trong nghiên
cứu này đều thấp hơn kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Ngọc Anh (2014) [1]
với tỷ lệ xét nghiệm Ab-ELISA sau vụ dịch tại Điện biên là 28,5%.
Điều này có thể lý giải như sau: Kết quả nghiên cứu của các tác giả trên
90
tương đối cao ví nghiên cứu được tiến hành trên địa bàn hẹp và ngay sau vụ
dịch xảy ra tại địa phương nên số người có kháng thể kháng giun xoắn tại
cộng đồng tương đối cao. Nghiên cứu của chúng tôi triển khai trên phạm vi
rộng, đối tượng nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên từ danh sách dân cư của xã,
không tập trung vào một thôn nào; thời điểm triển khai nghiên cứu của chúng
tôi sau vụ dịch giun xoắn ở huyện Mù Căng Chải tỉnh Yên Bái (năm 1970) tới
45 năm, sau vụ dịch ở huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên (năm 2004) 11 năm, sau
vụ dịch ở huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La (năm 2008) 7 năm, sau vụ dịch ở huyện
Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa (năm 2012) 3 năm nên tỷ lệ người có miễn dịch
kháng giun xoắn trước đây đã hết hoặc giảm đi nhiều do tác động của công
tác truyền thông về phòng chống bệnh giun xoắn tại địa phương có dịch trước
đây và do tác động của công tác truyền thông về an toàn vệ sinh thực phẩm tại
cộng đồng nên số người có thói quen ăn thịt sống, tái giảm đi.
Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng kỹ thuật Western Blot để xác định
nhiễm ấu trùng giun xoắn có độ đặc hiệu và độ nhạy cao hơn kỹ thuật Ab-
ELISA phát hiện kháng thể kháng giun xoắn. Do chi phì của kỹ thuật Western
Blot cao nên không dùng để phát hiện người nhiễm ấu trùng giun xoắn hàng loạt
tại cộng đồng mà chỉ dùng để xác định lại chẩn đoán của kỹ thuật ELISA.
Nghiên cứu đã xét nghiệm 4.362 người cho kết quả ELISA dương tình là
6,9%, khi xác định lại bằng Western Blot cho kết quả dương tình 5,2%.
Kết quả cho thấy có một tỷ lệ dân xét nghiệm ELISA và Western Blot
dương tình với giun xoắn trong khi không có dịch hoặc bệnh nhân có các triệu
chứng của bệnh giun xoắn tại cộng đồng có thể giải thìch do giun xoắn có ổ
bệnh trong tự nhiên và lưu hành ở các loại động vật hoang dại như lợn rừng,
gấu, ngựa, chó sói, cáo, mèo rừng…và các động vật gần người như lợn nuôi
thả rông, chuột v.v. Trong khi đó, kiến thức về bệnh, biểu hiện bệnh, tác hại
cũng như cách phòng chống là những yếu tố cơ bản có tác động tới thái độ và
91
hành vi của người dân liên quan tới mắc bệnh, từ đó gián tiếp tác động tới khả
năng mắc bệnh của đối tượng. Việc không có kiến thức cần thiết về an toàn vệ
sinh thực phẩm, thói quen ăn uống tái, sống thường làm tăng nguy cơ có bệnh
hoặc có ảnh hưởng xấu tới sức khỏe.
Những người có ELISA và Western Blot dương tình do trước đây đã
từng ăn thịt động vật bị nhiễm ấu trùng giun xoắn chưa nấu chìn kỹ như tiết
canh lợn, lạp, thịt nướng hoặc nhúng tái, thịt treo gác bếp v.v là những món
ăn thường thấy ở các vùng dân tộc miền núi, trung du phìa Bắc. Do nhiễm ở
mức độ nhẹ nên đa số người nhiễm ấu trùng giun xoắn không có triệu chứng
lâm sàng hoặc triệu chứng lâm sàng không điển hính, nhẹ, hồi phục nhanh và
thường không có biến chứng nên bản thân họ cũng không biết mính đã nhiễm
ấu trùng giun xoắn, đồng thời do thiếu kinh nghiệm và trang thiết bị kỹ thuật
chẩn đoán bệnh giun xoắn nên các thầy thuốc ở địa phương cũng không phát
hiện được những người đã từng nhiễm ấu trùng giun xoắn tại địa phương.
Tại Việt Nam, năm 1970, tại một xã thuộc huyện Mù Căng Chải, tỉnh
Nghĩa Lộ (nay thuộc tỉnh Yên Bái) có vụ dịch giun xoắn với 26 người ăn thịt
lợn sống dưới dạng nem đều bị mắc bệnh, trong đó có 4 người tử vong.
Nguyên nhân do ăn thịt lợn sống từ một lợn nái 50 kg, đã đẻ nhiều lứa và nuôi
được 8 năm. Xét nghiệm mỗi gam thịt lợn chứa 879 ấu trùng giun xoắn. Một
con lợn khác được nuôi 7 năm tại địa phương, có 70 ấu trùng giun xoắn trong
một gam thịt [1], [15].
Tháng 12 năm 2001, tại bản Chấn, xã Quải Tở, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện
Biên có 23 người bị nhiễm bệnh giun xoắn do ăn thịt lợn sống là món lạp được lấy
từ một con lợn nuôi ở địa phương, trong đó có 2 người tử vong [7].
Tháng 9 năm 2004, cũng tại xã Quải Tở, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện
Biên có 20 người ăn món lạp được lấy từ con lợn nuôi tại địa phương và đều
bị bệnh giun xoắn. Trong vụ dịch này không có trường hợp tử vong ví được
92
can thiệp kịp thời [15].
Năm 2008 có một vụ dịch giun xoắn tại xã Làng Chếu, huyện Bắc Yên,
tỉnh Sơn La với 22 người bị bệnh do ăn thịt lợn sống và có 2 người tử vong [7].
Tháng 2 năm 2012, tại huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa có trên 27
người mắc bệnh, trong đó có 6 bệnh nhân chuyển về Hà Nội và 2 bệnh nhân
sinh thiết có ấu trùng trong cơ. Xét nghiệm huyết thanh học (ELISA) cho kết
quả dương tình 7,4% (18/242 người xét nghiệm). Người ăn thịt lợn có chứa
ấu trùng giun xoắn chưa nấu chìn tại địa phương nên bị mắc bệnh giun xoắn.
Điều tra trên lợn tại địa phương có mang ấu trùng giun xoắn. Tỷ lệ lợn dương
tình với kháng thể kháng giun xoắn bằng phương pháp ELISA là 6,7% (3/45
lợn xét nghiệm). Phát hiện lợn dương tình với giun xoắn tại bản Suối Phái,
nơi lợn mắc bệnh bị xẻ thịt đem bán và cả bản lân cận là Poọng - xã Tam
Dương, cho thấy nguồn bệnh vẫn tồn tại ở các khu vực này và còn có thể lan
rộng hơn (báo cáo của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương)
[6].
Vụ dịch tháng 9 năm 2013 tại Đồn biên phòng biên giới Việt Lào tỉnh
Điện Biên có 8 bệnh nhân bị mắc giun xoắn với các triệu chứng lâm sàng: sốt,
đau đầu, đau cơ và một số triệu chứng: phù, tiêu chảy,..; xét nghiệm máu có
Ab-ELISA IgG huyết thanh dương tình, bạch cầu ái toan tăng cao. Cả 8 bệnh
nhân này đều ăn thịt lợn chưa nấu chìn từ lợn mua ở Lào về [1].
Tất cả các vụ dịch bệnh giun xoắn xảy ra tại Việt Nam đều lẻ tẻ, mang
tình địa phương, liên quan đến các món ăn thịt tái/sống như lạp, chạo, nem, là
những món ăn truyền thống của địa phương. Những người ăn có triệu chứng
giống nhau là co rút cơ và nhiễm độc. Do bệnh nhân được chẩn đoán muộn nên
khi nhập viện thường trong tính trạng nặng. Bệnh giun xoắn có tình chất ổ bệnh
tự nhiên ở miền núi, dân tộc; nếu có những hiểu biết về bệnh trong cộng đồng
và nhân viên y tế thí sẽ tránh được những vụ dịch và tử vong ở địa phương.
93
Tại Hoa Kỳ, từ năm 1997 - 2001 có 72 trường hợp nhiễm giun xoắn đã
được báo về Trung tâm Phòng chống và kiểm soát dịch bệnh (CDC). Hầu hết
các trường hợp liên quan đến việc ăn thịt động vật hoang dã (43%), mặc dù có
17% trường hợp liên quan đến các sản phẩm thịt lợn thương mại và 13%
trường hợp khác liên quan đến sản phẩm thịt lợn nhà. Tỷ lệ thịt lợn nội địa bị
nhiễm bệnh tại Hoa Kỳ là 0,001%.
Tại Trung Quốc, 566 vụ dịch đã được phát hiện từ năm 1964 - 2002, số
bệnh nhân lên tới 25.685 và số người chết do giun xoắn là 241 người
Tại Thái Lan trong vòng 27 năm qua đã có 120 vụ dịch được ghi nhận,
khoảng 67.000 người nhiễm và 97 người tử vong.
Tại Châu Âu, các nghiên cứu cũng đã báo cáo về tăng tỷ lệ bệnh giun
xoắn ở các nước Châu Âu trước đây đã có bệnh này như Romania do những
thay đổi chình trị và thói quen ăn uống tại khu vực này. Ngoài ra trung tâm
Phòng chống và kiểm soát dịch bệnh Châu Âu và cơ quan có thẩm quyền về
an toàn Châu Âu đã báo cáo có 779 người mắc bệnh giun xoắn ở Liên minh
Châu Âu được tím thấy liên quan tới các động vật trang trại và động vật
hoang dã, đặc biệt là động vật hoang dã [39], [53].
4.1.2. Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở động vật
Tại Việt Nam, bệnh giun xoắn lần đầu tiên được phát hiện vào năm
1923 trên lợn ở Hà Nội với tỷ lệ nhiễm 0,04% (Le Louet và Broudin, 1923).
Cho đến năm 1968 cũng có báo cáo về ổ dịch trên người là do thịt lợn nhập
khẩu từ Lào (Phan, 1997). Từ năm 1970 đến năm 2004, đã xảy ra 3 ổ dịch
liên quan đến 68 người nhiễm và 6 người chết. Tất cả những ổ dịch trên đều
xảy ra ở các tỉnh phìa Bắc Việt Nam (tỉnh Yên Bái và Điện Biên) và đều do ăn
thịt lợn sống được chế biến từ lợn được nuôi tại địa phương (Nguyễn Duy Toàn
và CS, 2002; Đoàn Hạnh Nhân và CS, 2004) [15], [23].
Mặc dù có ổ dịch bệnh giun xoắn trên người ở một số tỉnh phìa Bắc
94
Việt Nam nhưng có rất ìt thông tin về sự lưu hành bệnh trên lợn tại một số
tỉnh này. Cho đến năm 2008, khi vụ dịch thứ 4 làm 22 người nhiễm, 2 người
tử vong ở xã Làng Chếu, huyện Bắc Yên của tỉnh Sơn La, giáp biên giới hai
tỉnh nói trên thí một điều tra quy mô tổng thể 1.035 con lợn nuôi tại địa điểm
xảy ra ổ dịch đã được tiến hành, kết quả có 205 con dương tình, chiếm tỷ lệ
19,9%. Ấu trùng từ cơ của lợn dương tình cũng được thu thập và xác định là
T. spiralis (Nga và cộng sự, 2010) [5]. Tỷ lệ huyết thanh dương tình cao
không phải là bất ngờ kể từ tỉnh phìa Bắc Việt Nam này nằm giữa Bắc Lào và
Đông Nam Trung Quốc (Vân Nam), là hai vùng có tỷ lệ nhiễm giun xoắn T.
spiralis ở lợn có thời điểm đạt đến 29,95% ở Trung Quốc (Cui và cộng sự,
2011) [37] và 19,1% ở Lào (Barennes và cộng sự, 2008) [31]. Điều tra này
cho thấy việc điều tra ở các tỉnh lân cận cần được thực hiện tiếp theo.
Một điều tra tiếp theo với quy mô rộng trên toàn bộ các huyện của hai
tỉnh Sơn La và Điện Biên trong giai đoạn 2011-2012 (Nga và cộng sự, 2012)
[106] đã đưa ra kết quả tỷ lệ dương tình khá cao 5,6% ở 8 trong tổng số 20
huyện được khảo sát ở hai tỉnh. Kết qủa này cho thấy giun xoắn được phân bố
trên hầu hết địa bàn hai tỉnh phìa Bắc Sơn La và Điện Biên. Một phần cư dân
của hai tỉnh này là đồng bào dân tộc thiểu số với thói quen chế biến thịt lợn
sống nhự “lạp”, “chạo” và chưa có kiến thức cơ bản phòng bệnh giun xoắn.
Phương thức nuôi lợn thả rông vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, vào năm 2012 tại
huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá lại xảy ra tiếp ổ dịch giun xoắn lần đầu tiên
trên địa bàn tỉnh với 27 người mắc bệnh giun xoắn. Một điều tra nhanh do
Trung tâm Chẩn đoán thú y Trung ương và Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng Trung ương kết hợp trên 45 lợn nuôi tại huyện đã cho tỷ lệ lợn dương
tình kháng thể giun xoắn bằng phương pháp ELISA là 6,7% (3/45 lợn xét
nghiệm). Cũng tại tỉnh Thanh Hóa, một ổ dịch trên người thứ hai xảy ra những
do hạn chế về kinh phì nên chưa có điều tra quy mô tại nơi xảy ra ổ dịch.
95
Trong nghiên cứu này, tổng số 860 mẫu huyết thanh lợn thu thập tại 20 xã
của 4 huyện thuộc 4 tỉnh nghiên cứu chỉ có 10 mẫu cho kết quả dương tình với
kháng thể giun xoắn chiếm 1,16% bằng kỹ thuật ELISA, nhưng khi thẩm định lại
bằng kỹ thuật Western Blot chỉ có 01 mẫu dương tình, chiếm tỷ lệ 0,12%.
Điều này có thể được giải thìch thực tế qua hàng loạt các chương trính
điều tra của tác giả Vũ Thị Nga từ giai đoạn 2010 - 2014 thí số lượng lợn
dương tình đã giảm. Hơn nữa, do một số ổ dịch trên người vào các năm 2008,
2010 và 2012 (Nga và cộng sự, 2014) [7] đã được các ngành chức năng như
thú y và y tế truyền thông vào tận các hộ chăn nuôi về thói quen ăn thịt sống
hoặc tái, vệ sinh chăn nuôi. Tuy nhiên cho đến nay, hầu hết các huyện điều tra
chưa có cơ sở giết mổ tập trung, người dân vẫn giết mổ tại nhà và chưa thực
hiện các biện pháp vệ sinh giết mổ theo quy định. Do số lượng mẫu thu thập
rất ìt không đủ để phân tìch thống kê nhưng 1 trường hợp dương tình ở lợn
thuộc huyện đã có dịch giun xoắn cũng phản ảnh mầm bệnh vẫn còn tồn tại ở
ngoài môi trường, lợn có cơ hội tiếp xúc với thịt còn sót lại trong quá trính
giết mổ không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm hay được người dân cho ăn
những miếng thịt sống hoặc nấu chưa chìn có chứa ấu trùng giun xoắn. Khi so
sánh kết quả nghiên cứu này với nghiên cứu của Vũ Thị Nga (2012) [105],
chúng tôi nhận thấy tỷ lệ lợn có tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun xoắn thấp hơn. Kết
quả của tác giả có tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở lợn là 19,9% và 5,6%. Nguyên
nhân có sự sai khác đó có thể là do cơ cấu chuyển đổi từ chăn nuôi nhỏ lẻ lên
chăn nuôi trang trại nhiều hơn, trính độ nhận thức của người dân về chăn nuôi
gia súc đã tốt hơn, hơn nữa kết quả của đề tài được tiến hành sau điều tra của
tác giả Vũ Thị Nga trên khắp hai tỉnh Điện Biên, Sơn La và một huyện của
tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên đối với tỉnh chưa điều tra là Yên Bái có thể do
thực hiện trong phạm vi hẹp ví thế mà kết quả của chúng tôi chưa phản ánh
đúng thực tế tính hính dịch bệnh ở tỉnh này.
96
Hầu hết các vật chủ đều có đáp ứng miễn dịch mạnh đối với giun xoắn
và đáp ứng miễn dịch này thường xảy ra ở ruột và làm một số ấu trùng có thể bị
tiêu diệt tại đây. Miễn dịch ở ruột và thời gian để giết các ấu trùng là khác nhau
giữa các loài vật chủ. Ở ngựa, miễn dịch được phát hiện nhiều lần ở đường ruột
[33]. Tuy nhiên, các cơ chế điều chỉnh đáp ứng miễn dịch đối với nhiễm bệnh
tiên phát không rõ ràng ở người (Bruschi, 2002) [41]. Ở chuột, nồng độ kháng
thể huyết thanh thấp trong giai đoạn nhiễm bệnh ở đường ruột (Wakelin và
cộng sự, 1994). Chủ yếu IgA, IgM, và IgG được tím thấy trong dịch nhầy ruột
(deVos và cộng sự, 1992). Các kháng thể IgE rất quan trọng trong đáp ứng sớm
đối với giun xoắn có bao nang (Gurish và cộng sự, 2004) [59].
Thời gian phát hiện kháng thể kháng giun xoắn trong huyết thanh sau
khi nhiễm giun xoắn phụ thuộc vào loài vật chủ và khả năng đáp ứng miễn
dịch của vật chủ, loài giun xoắn bị nhiễm và số lượng ấu trùng xâm nhập
(Gottstein và cộng sự, 2009) [54].
Ở chuột, kháng thể giun xoắn trong huyết thanh được phát hiện ở ngày
30 sau khi nhiễm và hàm lượng kháng thể tăng lên đến 80 ngày sau khi nhiễm
(Franssen et al., 2011) [45]. Ở lợn, kháng thể giun xoắn trong huyết thanh
không phát hiện ở 3-4 tuần sau nhiễm (Kapel, 2005, Mitreva và Jasmer, 2006,
Nockler và cộng sự, 2000) [46], [50,76], tuy nhiên kháng thể này vẫn tồn tại ìt
nhất 6 tháng sau khi nhiễm giun xoắn mà không giảm hàm lượng (Gajadhar
và cộng sự , 2009) [48]. Đáp ứng miễn dịch của lợn rừng giống với đáp ứng
nuôi (Kapel, 2001). Kháng thể giun xoắn có thể được phát hiện đến 8 tháng
sau khi ngựa nhiễm bệnh [113].
Với 01 mẫu chuột bắt tại cánh đồng xã Làng Chếu tỉnh Sơn La thu hồi
được ấu trùng giun xoắn chiếm tỷ lệ 0,12%. Kết quả này thấp hơn nhiều điều
tra của tác giả Vũ Thị Nga (2012) [105] trên chuột hoang dã tại hai tỉnh Sơn
La là 2,8% trong tổng số 860 con chuột và tím thấy ở 7/20 huyện. Số lượng
97
chuột dương tình đã giảm trong nghiên cứu này có thể được giải thìch do
người dân đã thực hiện biên pháp diệt chuột trong chương trính phòng chống
dịch bệnh giun xoắn của Chi cục Thú y Sơn La, Điện Biên phát động sau ổ
dịch giun xoắn xảy ra trên địa bàn tỉnh. Kết quả chuột dương tình tại Sơn La
cũng liên quan mật thiết tới trường hợp dương tình trên lợn tại đúng địa điểm
có dịch giun xoắn trước đây. Như vậy, công tác phòng chống dịch bệnh giun
xoắn tại những ổ dịch cũ nên được làm thường xuyên, tránh những ổ dịch mới
tái phát khi mầm bệnh vẫn tồn tại trong môi trường tự nhiên.
Chuột là loài vật lưu trữ mầm bệnh quan trọng trong chu trính lây
truyền bệnh giun xoắn. Ở Trung Quốc, tỷ lệ hiện nhiễm T. spiralis ở chuột
dao động từ 1,98% đến 15,06% (Wang và Cui, 2001) [109].
Mặc dù số ấu trùng giun xoắn T. spiralis trong lợn rừng được thu hồi và
báo cáo thấp nhưng nó cũng phù hợp với các nghiên cứu khác ở các quốc gia
khác nhau [38], [70], [113]. Sự xuất hiện của ổ dịch giun xoắn ở người lân cận
tỉnh Thanh Hóa gần đây có thể là do việc tiêu thụ các loài thịt thú hoang dã
(Nguyen et al., 2012) [88] cho thấy khả năng lây nhiễm từ các động vật hoang
dã góp phần vào sự lan truyền của mầm bệnh giun xoắn ví người săn lợn rừng
thường xuyên vứt bỏ các xác chết của những con lợn rừng đang săn mồi trong
môi trường mà không có các quy định vệ sinh [80]. Mặc dù mức độ lưu hành
của giun xoắn ở khu vực này không cao như trên lợn nuôi hay chó nhưng kết
quả này chỉ ra rằng các những người sống ở địa phương này cần được nhận
thức nguy cơ ăn các món thịt chưa chế biến từ các động vật hoang dã, nhận
thức được những rủi ro ăn thịt sống hoặc nấu chưa được chế biến từ động vật
hoang dã.
Kể từ báo cáo đầu tiên năm 1923 về giun xoắn trên lợn ở Hà Nội [19]
có rất ìt thông tin được báo cáo ở Việt Nam về tầm quan trọng của bệnh này
và những loài động vật khác có thể gây bệnh cho người. Việc xác định nhiễm
98
giun xoắn ở động vật nuôi như lợn, chó và động vật hoang dã như lợn rừng,
chuột đã kết luận rằng ký sinh trùng này là loài đặc hữu ở miền Bắc Việt
Nam, Loài giun xoắn duy nhất được xác định ở tất cả các động vật được phát
hiện là T. Spiralis; loài này được mô tả là loài ưu thế ở các nước láng giềng và
là loài có liên quan nhất đến sự bùng nổ các ổ dịch trên người (Pozio và
Zarlenga, 2009) [96].
Lợn nuôi là một trong những động vật thường mang mầm bệnh giun
xoắn T. spiralis trên toàn thế giới và đây chình là con vật mà thông qua ăn thịt
loài T. spiralis có mặt ở hầu hết các châu lục [116]. Các nghiên cứu điều tra
bệnh giun xoắn trên lợn nuôi đã cho thấy rõ ràng lần đầu tiên giun xoắn phổ
biến rộng rãi ở các tỉnh phìa Bắc Việt Nam và giải thìch sự xuất hiện các ổ
dịch trên người. Tại các tỉnh miền núi phìa Bắc, điều kiện vệ sinh chăn nuôi
còn hạn chế và đây là một trong số những yếu tố cho sự lưu hành của các
bệnh ký sinh ở cả người và lợn. Trong thực tế, nhiễm giun xoắn ở lợn là đi
liền với các điều kiện vệ sinh và chăn nuôi nghèo nàn, trong đó lợn, đặc biệt
là lợn chăn thả tự do, chế độ dinh dưỡng kém nên lợn hay ăn mẩu thịt thừa
có thể bị nhiễm giun xoắn được vứt rải rác trong môi trường sau khi giết mổ,
sau khi săn bắn, các động vật gặm nhấm hoặc các động vật khác có thể ăn và
nhiễm ấu trùng giun xoắn, đồng thời tha những miếng thịt này tới nơi lợn
nhà kiếm ăn, (Pozio và Murrell, 2006) [84]. Sự xuất hiện của mầm bệnh
giun xoắn ở lợn và người đều cho thấy người dân sống trong khu vực này
nên được nhận thức về nguy cơ của căn bệnh này và khuyến khìch áp dụng
chăn nuôi lợn nhốt trong chuồng với thức ăn được nấu chìn.
Năm trong số 6 báo cáo về dịch giun xoắn trên người ở các tỉnh miền
núi phìa Bắc Việt Nam, trong đó có 121 trường hợp mắc bệnh, trong đó có 8
vụ (NIMPE, 2008, Pozio, 2007) [7],[95]. Sự gia tăng số lượng ổ dịch ở miền
Bắc Việt Nam trong những năm qua đã cho thấy bệnh này đang nguy hiểm trở
99
lại. Các nhóm dân cư bị ảnh hưởng bởi sự bùng phát bệnh này chủ yếu bao
gồm các dân tộc thiểu số. Những quần thể này không biết về các nguy cơ
cũng như các biện pháp đề phòng cơ bản để ngăn ngừa nhiễm giun xoắn. Hơn
nữa, vệ sinh chăn nuôi không đủ và tự do di chuyển động vật vẫn thường
được thực hiện trong dân cư nông thôn của các tỉnh này. Ngoài ra còn thiếu
các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ở các tỉnh phìa Bắc của Việt Nam. Ví vậy, thói
quen ăn thịt sống hoặc chưa nấu chìn dẫn đến nguy cơ mắc giun xoắn.
4.1.3. Định loại loài giun xoắn
Cho đến năm 1972, giống Trichinella được coi chỉ có 1 loài duy nhất là
Trichinella spiralis, và ví là loài duy nhất nên tất cả các nghiên cứu đều được
tiến hành trên loài này. Từ những năm 1990 đến nay đã có tám loài được định
danh và bốn kiểu gen chưa được xác định đến loài.
Về mặt hính thái học, các cá thể của các loài và các kiểu gen không thể
phân biệt được, nhưng chúng có thể được phân thành hai nhánh dựa vào việc
có hay không hính thành các “tế bào nuôi” trong cơ của vật chủ được bao
quanh bởi một nang collagen. Các gen collagen này rất quan trọng đối với sự
tồn tại lâu dài của ấu trùng giun xoắn trong các mô bị phá hủy (tức là khi ấu
trùng không được vật chủ bảo vệ). Nếu có tồn tại nang collagen thí loài/ kiểu
gen thuộc nhóm có bao nang bao gồm năm loài và bốn kiểu gen; nếu không
tồn tại nang collagen thí thuộc nhánh không có bao nang. Tuy nhiên, ấu trùng
của nhánh không có bao nang cũng có thể tạo ra các biển đổi giống như ấu
trùng có bao nang ở trong tế bào cơ mặc dù lượng collagen được sản xuất là
rất thấp.
Nhiều phương pháp đã được phát triển để xác định các loài và kiểu gen
giun xoắn. Phân tìch Isoenzyme là phương pháp đầu tiên được sử dụng [96],
nhưng đã được thay thế trong suốt các năm theo phương pháp dựa trên phản
ứng chuỗi polymerase [94], [96]. Chúng có thể được sử dụng để xác nhận chẩn
100
đoán ấu trùng nghi ngờ, để điều tra phân loại giun xoắn, cho các nghiên cứu
loài mới, và để nghiên cứu biến dị di truyền của loài (Zarlenga và La, 2006,
Mitreva và Jasmer, 2006; Pozio và La, 2007 [76], [94], [116]. Các phương
pháp PCR dựa trên PCR bao gồm PCR RAPD, multiplex PCR, SSCP, PCR
nested, realtime PCR, và PCR, sau đó là RFLP (Hunt, 2011; Guenther Et al.,
2008, Pozio và La, 2003, Zarlenga và La, 2000) [58[,[62],[94],[116]. Ba loại
gen (tiểu ty thể nhỏ rDNA, tiểu ty thể lớn rDNA và DNA cytochrome oxidase
I) thường được sử dụng để xác định các loài (Zarlenga và cộng sự.) [77,96].
Hiện tại, một phương pháp chẩn đoán nhạy cảm và sử dụng rDNA ty lạp thể
như một marker di truyền đáng tin cậy đã chứng minh chình xác được các loài
giun xoắn (Blaga và cộng sự, 2009) [33]. Gen ADN cytochrome oxidase I
(CO1) được gọi là mã vạch DNA, được bảo toàn cao; nó thường được sử dụng
để điều tra các biến dị trong và ngoài loài giun xoắn (Callejon và cộng sự,
2009, Yang và cộng sự, 2008) [47], [96].
Kết quả của đề tài, ấu trùng giun xoắn thu hồi được từ phương pháp
tiêu cơ thịt chuột. Để khẳng định vai trò gây bệnh của loài giun xoắn trong
nghiên cứu, chúng tôi tiến hành xác định loài bằng phương pháp multiplex
PCR với cặp mồi đặc hiệu để xác định sự hiện diện của loài giun xoắn. Đây
là phương pháp ưu việt nhất về độ nhạy và độ đặc hiệu của nó. Sau khi phân
tìch mẫu bằng kỹ thuật PCR đa mồi, nhận thấy có 01 mẫu dương tình cho
băng có kìch thước 419 bp - băng chuẩn của giống Trichinella. Kết quả
multiplex PCR cho thấy mẫu ấu trùng giun xoắn thu hồi trên chuột là loài T.
spiralis. Kết quả nghiên cứu này đồng nhất với kết quả xác định loài của tác giả
Vũ Thị Nga (2013, 2014) [105], [106], [107] và cũng là loài phân lập ở trên
người của tác giả Nguyễn Văn Đề (2010)[108]. Kết quả này cho thấy cho đến
nay, chỉ duy nhất loài T. spiralis phân lập được tại Việt Nam cũng như một số
nước có đường biên giới với Việt Nam như Lào, Trung Quốc.. Đây là loài phổ
101
biến và có độc lực cao ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân và
ngành chăn nuôi. Kết quả giải trính tự so sánh với ngân hàng gen thấy có độ
tương đồng từ 94 - 99% với các mẫu đã được lưu trữ trên ngân hàng gen.
4.2. Kết quả điều tra KAP và một số yếu tố liên quan đến nhiễm giun
xoắn trên ngƣời tại các điểm nghiên cứu
Trong nghiên cứu, chúng tôi đã điều tra, phân tìch mối liên quan giữa
những người dân sống ở xã có dịch bệnh trước đây với tính trạng nhiễm giun
xoắn ở những xã không có dịch. Kết quả cho thấy tỷ lệ người dân sống ở xã
từng có dịch trước đây nhiễm giun xoắn là 5,5%, tỷ lệ người dân sống ở xã
không có dịch nhiễm giun xoắn là 5,1%, sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê với p > 0,05. Điều này cho thấy tính trạng nhiễm giun xoắn của
người dân ở xã có dịch và các xã lân cận là tương đương. Các xã này đều có
kiến thức về bệnh giun xoắn và thói quen ăn uống cũng như hành vi chăn nuôi
thả rông gia súc là tương tự nhau. Các vụ dịch xảy ra trước đây tại các tỉnh
đều đã được các đoàn y tế về điều tra, xử lý kịp thời.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy tỷ lệ nam giới đã từng
nhiễm ấu trùng giun xoắn ở điểm nghiên cứu là 3,8% (56/1.483 đối tượng
nam xét nghiệm) thấp hơn so với nữ giới có tỷ lệ nhiễm 5,9% (169/2.878 đối
tượng nữ xét nghiệm); sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p < 0,05. Trong các
nghiên cứu khác không có sự khác biệt giữa tỷ lệ nhiễm giữa nam và nữ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở nữ cao hơn có thể do
phụ nữ dân tộc thiểu số có vị thế tương đối cao trong gia đính, có tham gia
nhiều trong việc chế biến thực phẩm tươi sống và trong quá trính chế biến,
nếm thức ăn có thể dẫn đến nhiễm bệnh nhiều hơn. Đồng thời trong đối tượng
nghiên cứu, tỷ lệ nữ cao hơn nam (66% so với 34%), cũng có thể là yếu tố
ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu.
Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở nhóm tuổi 16 - 59 tuổi thấp nhất 4,8%, tiếp
102
đến là nhóm tuổi 60 - 92 tuổi có tỷ lệ nhiễm giun xoắn là 7,6% và nhóm tuổi
6 - 15 tuổi có tỷ lệ nhiễm giun xoắn cao nhất là 7,8% (p < 0,05). Nhóm dân
tộc H’mông có tỷ lệ nhiễm giun xoắn cao nhất là 6 %, tiếp theo là người Thái
5,1%, người Kinh 2,4% và thấp nhất là dân tộc Mường 1,5% (p < 0,05). Sự
khác biệt văn hóa ảnh hưởng đến việc truyền nhiễm bệnh giun xoắn cho con
người. Phần lớn các trường hợp mắc bệnh giun xoắn là ở nhóm dân tộc
H’mông. Đây không phải là ví nhóm dân tộc H’mông chiếm phần lớn đối
tượng nghiên cứu mà ví đây là nhóm dân tộc tiêu thụ nhiều các loại thực
phẩm từ động vật hoang dại được cho là nguồn bệnh giun xoắn (Bureau of
Epidemiology, 1981 - 2008). Người ta tin rằng thực phẩm sống đã được biết
đến với các bộ tộc miền núi H’mông chỉ trong vài thập kỷ qua.
Các yếu tố nguy cơ có liên quan đến đặc điểm hành vi cá nhân bao gồm
yếu tố quyết định như tiêu thụ lợn nhà giết mổ, tiêu thụ lợn giống bản địa, tiêu
thụ động vật hoang dã, tiêu thụ thịt lợn sống, tiêu thụ thịt lợn rừng sống, tiêu
thụ thịt sống từ động vật hoang dã.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tiêu thụ thịt sống là yếu tố căn bản có
nguy cơ mắc bệnh giun xoắn. Thật vậy, lượng tiêu thụ thịt lợn, lợn rừng,
động vật hoang dã khác, là những yếu tố chình gây nên bệnh. Thịt lợn và thịt
lợn rừng trước đây đã được xác định là nguồn thứ nhất và thứ hai gây bệnh
giun xoắn cho con người [105]. Các loài động vật hoang dã khác cũng đã góp
phần vào sự bùng phát dịch bệnh giun xoắn nhận thấy rằng mua thịt lợn từ
người hàng xóm là một yếu tố có nguy cơ mắc bệnh giun xoắn ở tỉnh Chiang
Mai [109]. Điều này có thể tham khảo từ thịt lợn nhà mổ và lợn bản địa. Như
vậy cả hai yếu tố đều được nghiên cứu trong đề tài này.
Yếu tố rủi ro về sức khỏe con người có liên quan đến kiến thức, nhận
thức của mỗi cá nhân, trong đó có sự thiếu hiểu biết về các bệnh truyền qua
thực phẩm. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hiểu biết về bệnh giun xoắn
103
của cộng đồng ở các điểm nghiên cứu rất thấp. Tỷ lệ dân biết bệnh giun xoắn
là 16,4% (714/4.362 người), biết tác hại của bệnh giun xoắn thấp 15,7%
(685/4.362 người) và tỷ lệ người biết phòng bệnh giun xoắn là 14,8%
(646/4.362 người). Nguyên nhân có thể là do bệnh không phổ biến, tản phát,
ìt hoặc không có chương trính truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống
bệnh giun xoắn trên các phương tiện truyền thông đại chúng; chỉ một số ìt dân
ở vùng đã xảy dịch giun xoắn có hiểu biết về bệnh này.
Có mối liên quan giữa hiểu biết của người dân với nhiễm giun xoắn,
những người không biết về bệnh giun xoắn nguy có nhiễm bệnh cao gấp 3,33
lần những người biết về bệnh với p < 0,05; những người không biết tác hại
của bệnh nguy có mắc bệnh cao gấp 3,8 lần những người biết tác hại của bệnh
với p < 0,05; đặc biệt những người không biết cách phòng bệnh nguy cơ mắc
bệnh cao gấp 5,0 lần những người biết biểu hiện của bệnh với p < 0,05.
Các yếu tố nguy cơ có liên quan đến đặc điểm hành vi cá nhân bao gồm
yếu tố quyết định là tiêu thụ lợn nhà giết mổ, tiêu thụ lợn giống bản địa, tiêu
thụ động vật hoang dã, tiêu thụ thịt lợn sống, tiêu thụ thịt lợn rừng sống, tiêu
thụ thịt sống từ động vật hoang dã.
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có mối liên quan giữa những
người ăn thịt thú rừng với nhiễm giun xoắn, những người ăn thịt thú rừng
nguy cơ nhiễm cao gấp 3,3 lần so với người không ăn (p < 0,05). Có sự khác
nhau giữa việc ăn các loại thịt thú rừng với nhiễm giun xoắn (p < 0,05).
Nghiên cứu cũng cho thấy có mối liên quan giữa ăn thịt lợn sống với nhiễm
giun xoắn. Những người ăn thịt lợn sống nguy cơ nhiễm giun xoắn cao gấp
3,4 lần với người không ăn (p < 0,05). Nguồn gốc thịt lợn cũng liên quan đến
nhiễm giun xoắn. Nghiên cứu cũng chỉ ra có mối liên quan giữa cách chế biến
thịt lợn sống hính thức lạp (25,4%) và khác: gỏi, tiết canh (3,6%) với nhiễm
giun xoắn với OR = 9,1; p < 0,05.
104
Có mối liên quan giữa ăn thịt lợn tái với nhiễm giun xoắn. Những
người ăn thịt lợn tái nguy cơ nhiễm giun xoắn cao gấp 2,4 lần với người
không ăn (p<0,05). Nghiên cứu cũng chỉ ra có mối liên quan giữa cách chế
biến thịt lợn sống hính thức nem, chạo (12,1%) và khác: xào tái hoặc nhúng
tái (9,4%) với nhiễm giun xoắn với OR = 1,3; p < 0,05.
Bệnh giun xoắn thường xảy ra tại các khu vực nông thôn, các dân tộc thiểu
số, nơi các chương trính giáo dục sức khỏe an toàn thực phẩm không được thiết
lập một cách cụ thể. Nhân viên y tế cho rắng sự xuất hiện của bệnh giun xoắn có
thể liên quan tới những người thiếu kiến thức cần thiết về bệnh hoặc có nhận thức
không chình xác, vì dụ khi mọi người tin rằng rượu và vôi nước hoặc nước cốt
chanh có thể diệt ký sinh trùng và vi khuẩn trong thịt sống [31].
Ngoài ra còn có một niềm tin cho rằng thực phẩm sống ở địa phương,
cụ thể là các món Lạp, gỏi, nem, chạo (Lạp được làm bằng thịt sống trộn với
gia vị, nước chanh và nước mắm) về bản chất là “nấu” ví những thực phẩm
này đã được chế biến bằng cách thêm nước cốt chanh hoặc là kết quả của một
quá trính lên men [31].
Đối với việc nuôi động vật, nguy cơ mắc bệnh giun xoắn sẽ cao hơn ở
những động vật hoang dại trong tự nhiên hoặc được chăn nuôi nhưng thả rông
do việc tăng khả năng tiếp xúc của động vật nuôi với các yếu tố nguy cơ hoặc
nguồn bệnh.
Trên thực tế, nguy cơ mắc giun xoắn chủ yếu chịu ảnh hưởng của việc
ăn thịt và sản phẩm thịt sống [7]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ có ăn thịt
thú rừng là 17,3% số đối tượng nghiên cứu. Đặc biệt có tới 9,2% số người
được hỏi trả lời ăn thịt lợn sống, 9,4% ăn thịt tái.
Những xã không có dịch bệnh giun xoắn có tỷ lệ có kiến thức tốt về bệnh
giun xoắn cao hơn xã đã từng có dịch bệnh (tương ứng 8,3% và 0,5%). Nhưng
những xã không có dịch bệnh giun xoắn lại có tỷ lệ có thực hành tốt thấp hơn
105
các xã đã từng có dịch bệnh (tương ứng 0% và 3,6%). Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05). Một tỷ lệ cao có kiến thức kém về bệnh ở các xã từng có
dịch gần đây có thể hiểu chình là nguyên nhân xảy ra dịch trước đó. Điều này
gợi ý việc cần tăng cường giáo dục về kiến thức, nhận thức về bệnh giun xoắn,
từ đó tác động tới thái độ và thực hành của đối tượng nói riêng và cộng đồng nói
chung về bệnh giun xoắn. Tuy nhiên, việc các xã đã từng có dịch có thực hành
phòng bệnh tốt hơn cũng dễ dàng được giải thìch do ảnh hưởng từ hậu quả của
vụ dịch trước tới lối sống, tập quán ăn uống, vệ sinh của người dân. Khi gộp
chung để đánh giá kiến thức và thực hành của người dân tại 20 xã nghiên cứu,
kết quả chỉ ra rằng tỷ lệ có kiến thức thực hành tốt chỉ là 7,6% trong khi tỷ lệ
kiến thức thực hành kém là 44,0%. Rõ ràng kết quả này phản ánh kiến thức cũng
như thực hành về bệnh giun xoắn ở đây rất thấp, đây là vấn đề quan trọng cần
được quan tâm can thiệp nhằm phòng chống bệnh giun xoắn nói riêng, và nâng
cao sức khỏe cộng đồng nói chung.
Nguy cơ mắc bệnh giun xoắn liên quan đến các loại thịt là do ăn thịt
tái, sống. Tỉ lệ nhiễm ấu trùng giun xoắn trong thịt thể hiện những thói quen
ăn thịt của người Inuit (người bản xứ sống ở miền bắc Canada). Người Inuit
thường ăn thịt hải mã sống. Do đó nạn dịch giun xoắn trong cộng đồng người
Inuit là do thịt hải mã bất kể thực tế là tỉ lệ lây nhiễm giun xoắn ở hải mã (2-
4%) là thấp hơn so với ở gấu (60%) (Proulx et al., 2002).
Giun xoắn ở động vật có vú ăn cỏ là rất hiếm. Tuy nhiên lây nhiễm
giun xoắn tự nhiên ở gia súc và cừu được báo cáo ở Trung Quốc (Wang et al.,
2007) [109] và nạn dịch giun xoắn ở người được cho là do thịt cừu (Wang &
Cui, 2001a) [110]. Ngoài ra, ở Pháp và Ý đã có báo cáo cho thấy bệnh giun
xoắn người là do thịt ngựa [95]. Ở Thái Lan, không có bằng chứng cho thấy
nhiễm trùng giun xoắn ở động vật ăn cỏ trong nước.
Tiêu thụ thịt lợn rừng sống: Lây truyền bệnh giun xoắn ở người thông
106
qua hai yếu tố, đó là việc tiêu thụ tiêu thụ thịt sống hoặc chưa nấu chìn và sự
xuất hiện bệnh giun xoắn trong các nguồn thức ăn cho động vật nuôi hay
động vật hoang dã [82], [83]. Tại Nepal, nơi mà phần lớn dân số ăn thịt lợn
sống, bệnh giun xoắn ở người không xảy ra ví lợn ở đây là không có giun
xoắn (Karn et al., 2008). Ở Phần Lan, nơi mà giun xoắn có trong lợn nội địa
và động vật hoang dã không có bệnh ở người do các phong tục hạn chế tiêu
thụ thịt chưa được nấu chìn [95]. Những vì dụ này đã giải thìch tại sao ăn thịt
lợn rừng sống lại là yếu tố có nguy cơ truyền bệnh giun xoắn cho người dân
trong nghiên cứu này, mặc dù thực tế rằng các loại thịt khác, bao gồm thịt lợn,
thịt bò, thịt chó và động vật hoang dã khác cũng được ăn sống.
Trong lịch sử, trường hợp mắc bệnh giun xoắn ở khu vực phìa Bắc
của Thái Lan chủ yếu là do việc tiêu thụ thịt lợn được nuôi ở vùng cao. Tại
thời điểm đó, tỷ lệ nhiễm trùng giun xoắn ở lợn tại các vùng cao được ước
tình khoảng 11,4 - 32,3% [65]. Trong những năm gần đây, một cuộc khảo
sát huyết thanh đã phát hiện ra bệnh giun xoắn ở 330 con lợn tại khu vực
phìa Bắc, bao gồm cả một số mẫu từ lợn tại các khu vực vùng cao, đã không
thấy có dấu hiệu của sự nhiễm trùng (Vitoorakool et al., 2007). Tuy nhiên,
điều này có thể có thể là do kìch thước mẫu nghiên cứu quá nhỏ. Trong một
cuộc khảo sát với kìch thước mẫu nghiên cứu vừa đủ ở tỉnh Nan, tỷ lệ nhiễm
bệnh ước tình là 0,97% (95% CI 0,46 - 1,48%) ở lợn tại các vùng cao. Điều
này khẳng định rằng sự phổ biến mắc bệnh giun xoắn ở lợn tại các khu vực
này là thấp hơn đáng kể khi so sánh với thập niên trước. Điều này có thể là
yếu tố chình làm cho nguy cơ lây bệnh giun xoắn từ lợn sang người là khá
thấp, với nguy cơ từ việc tiêu thụ thịt lợn rừng trở nên nổi bật hơn. Các thay
đổi về bệnh giun xoắn về dịch tễ học ở Thái Lan cũng tương tự như những
gí đã được báo cáo ở Mỹ nơi mà có tỉ lệ mắc bệnh giun xoắn ở lợn nuôi đã
giảm đáng kể; thay vào đó động vật hoang dã trở thành nguồn chủ yếu gây
107
bệnh giun xoắn con người. Trong suốt những năm từ 1991 - 1996, 1997 -
2001 và 2002 - 2007, trường hợp mắc bệnh giun xoắn do ăn thịt động vật
hoang dã ở Mỹ tăng từ 40% đến 43% và 63% [36].
Phát hiện này cho thấy sự phổ biến của bệnh giun xoắn ở lợn đã giảm.
Tuy nhiên, không thể kết luận rằng nguy cơ lây truyền giun xoắn từ lợn sang
người là không đáng kể. Tại Hoa Kỳ, bệnh giun xoắn ở người thông qua việc
ăn thịt lợn sống vẫn xảy ra; và một số dịch bệnh xảy ra tại Thái Lan trong
những năm gần đây có liên quan đến thịt lợn [64]. Để giám sát nguồn lây
bệnh giun xoắn cho người ở Thái Lan, thông tin liên quan đến thịt có chứa
bệnh dịch nên được thu thập cho từng trường hợp cụ thể. Thông tin này cần
được thường xuyên phổ biến cho công chúng.
Tiêu thụ thịt sống tại các cuộc tụ họp xã hội: Cũng như các vụ dịch
giun xoắn xảy ra tại Việt Nam, bệnh giun xoắn ở Thái Lan cũng thường xảy
ra sau các lễ hội, hoặc tại các sự kiện xã hội khác, nơi mà có nhiều người tụ
tập và ăn uống (Khamboonruang, 1991) [65]. Có thể quan sát thấy rằng
trường hợp mắc bệnh giun xoắn có khả năng phát hiện nhiều hơn khi nhiều
trường hợp xảy ra cùng một lúc chứ không phải là từng trường hợp (CDC,
1996) [36]. Đây có thể là lý do mà các trường hợp liên quan đến các cuộc tụ
họp xã hội thường chiếm phần trong các báo cáo. Các công việc được mô tả
để hỗ trợ quan sát cho thấy rằng bệnh giun xoắn có liên quan đến các cuộc tụ
họp xã hội ở khu vực phìa Bắc của Thái Lan. Việc tiêu thụ thực phẩm sống tại
một tụ điểm xã hội làm tăng nguy cơ mắc các trường hợp về bệnh giun xoắn
là 3,89 lần (95% CI 1,43 - 10,62).
Một cuộc khảo sát tiêu dùng của người dân ở Thái Lan trong năm 2005
cho thấy trong khi có 0,7% dân số Thái thìch ăn thịt sống hoặc nấu chưa chìn
thí đa số họ thìch ăn thịt luộc chiếm 57,0% hoặc chiên, rán là 22,7% (Văn
phòng thống kê quốc gia, 2005). Điều này cũng tương tự như những gí quan
108
sát được ở Papua New Guinea [95] nơi mà hơn 80% dân số theo như báo cáo
trong nghiên cứu, không thường xuyên ăn thịt sống. Trong trường hợp ở khu
vực phìa Bắc Thái Lan, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, thực phẩm sống của
địa phương được coi là món ăn đặc biệt được phục vụ tại những dịp đặc biệt
như lễ cưới và năm mới [65]. Những truyền thống tương tự cũng được thấy ở
Lào và đều dẫn đến các nạn dịch giun xoắn có thể xảy ra (Barennes et al,
2006) [30].
Niềm tin rằng rượu giết được ký sinh trùng và vi khuẩn trong thịt sống:
Những hiểu biết không đúng cho rằng rượu có thể giết được ký sinh trùng và vi
khuẩn trong thịt sống làm tăng nguy cơ mắc bệnh giun xoắn. Theo Wilcock
(2004) đã thảo luận về sự lệch lạc giữa kiến thức và hành vi của người tiêu
dùng thực phẩm. Sở thìch chế biến món ăn không bị ảnh hưởng bởi kiến thức
của họ, họ có thể không quan tâm đến những gí họ biết về những rủi ro cho sức
khỏe khi chế biến món ăn (Wilcock et al., 2004). Những người nhận thức được
rằng rượu có thể giết được ký sinh trùng và vi khuẩn trong thịt sống ìt hơn
những người cho rằng điều này là một quan niệm sai lầm.
Hai nghiên cứu về giun xoắn trên chuột cho thấy ethanol làm tăng nguy
cơ nhiễm ấu trùng giun xoắn, chứ không phải làm giảm nhiễm ấu trùng (Na et
al, 1997; Sukul et al, 2005); tỷ lệ sinh sản của giun xoắn cái là khá cao đã
quan sát được trên những con chuột có chứa ethanol [107]; nghiên cứu này
cho thấy rằng rượu không ức chế được quá trính nhiễm bệnh giun xoắn.
Các nghiên cứu bệnh chứng ở các dân tộc Thái cho thấy tỷ lệ ăn thịt
sống rất cao, đặc biệt là thịt lợn, thịt lợn rừng. Dựa trên sự tham khảo chéo
các phản hồi trong nghiên cứu về việc ăn thịt tươi sống của các dân tộc, việc
ăn một số loại thịt tươi sống nhất định với việc ăn thịt đã được nấu chìn ở một
số dân tộc vùng cao và các dân tộc Thái cho thấy việc ăn thịt sống xuất hiện ở
hầu hết người dân vùng núi không phân biệt dân tộc nào; có nơi khoảng một
109
nửa số người ở các dân tộc đều ăn thịt tươi sống. Khảo sát cho thấy hầu hết
người dân ở tất cả các dân tộc sống trong vùng nghiên cứu đều đề nghị ăn thịt
tươi sống. Kaewpitoon et al. (2006) [65] đã chỉ ra rằng có một số người tin rằng
axit trong nước chanh và kiến có thể tiêu diệt ký sinh trùng. Ví vây, họ ăn các
thực phẩm tươi sống bằng cách thêm nước cốt chanh và kiến. Lì do này có thể
phần nào lý giải tại sao người dân ở đây lại tiếp tục ăn các thực phẩm tươi sống.
Có rất nhiều lý do giải thìch việc tiếp tục ăn thực phẩm tươi sống ở các
dân tộc vùng núi. Thông qua quan điểm của người dân về việc ăn thịt tươi
sống dễ thấy rằng nhiều người dân ở tất cả các dân tộc phản đối việc ăn thịt
sống. Quan điểm của họ cho thấy họ đã nhận thức được nguy cơ về sức khỏe
từ việc ăn thịt tươi sống, họ quan ngại về ký sinh trùng trong thịt tươi sống.
Hơn nữa, thông tin về các dịch bệnh từ việc ăn thịt sống đã được phổ biến đến
từng dân tộc nhưng có lẽ là các dân tộc không tiếp nhận thông tin này. Các
nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng hiểu biết của người dân không phù hợp với
các cách chế biến thức ăn hợp vệ sinh hiện nay của họ [42]; Mặc dù các dân
tộc biết về các dịch bệnh và họ nhận thức được có ký sinh trùng trong thịt tươi
sống, thí thói quen ăn thịt tươi sống vẫn rất phổ biến. Đối tượng nghiên cứu
nghĩ là những thực phẩm địa phương, khi họ ăn nó họ cảm thấy ngon và
không thể cưỡng lại được. Điều này phù hợp với những gí đã được báo cáo từ
dân tộc Yao ở tỉnh Phayao ở phìa Bắc nơi mà 33,70% người dân nói rằng
món Lạp tươi ngon hơn những món ăn đã được nấu chìn [31]. Nhận thức này
có lẽ là nguyên nhân chình tại sao người dân ở đây lại tiếp tục ăn thực phẩm
tươi sống. Ba lý do nữa được đưa ra có thể giải thìch việc tiếp tục ăn thực
phẩm tươi sống: Đầu tiên, đa số mọi người biết là thực phẩm tươi sống giữ
một vị trì văn hóa đặc biệt; một số thực phẩm tươi sống ở địa phương miền
Bắc còn là món ăn đặc biệt hay dùng trong các lễ hội như món Lạp được phục
vụ trong những dịp lễ đặc biệt để dành tặng vinh dự cao quý cho những vị
110
khách trong lễ cưới, lễ đánh dấu mốc chuyển sang nhà mới, ở lễ mừng năm
mới, hoặc các sự kiện thịnh vượng khác.
Thứ hai là thực phẩm tươi sống được cho là ngon khi ăn cùng với thức
uống có cồn. Trong các ca nhiễm bệnh giun xoắn, người bệnh vẫn tiếp tục
thói quen uống rượu với thịt lợn tái, sống kể cả khi đã có kinh nghiệm về việc
bị nhiễm bệnh. Kusolsuk et al. (2010) cũng đã đề cập rằng thức ăn tươi sống
thường đi kèm với đồ uống có cồn. Cuối cùng, các dân tộc này tin rằng việc
ăn đồ ăn tươi sống với một lượng nhỏ và chỉ ăn trong những dịp đặc biệt thí
có thể chấp nhận được. Quan điểm này đã được thể hiện trong thói quen ăn
thịt sống hiện nay của các dân tộc trong các nghiên cứu trước đây. Niềm tin
về việc ăn thực phẩm tươi sống với một lượng rất nhỏ và không thường xuyên
có thể chấp nhận được hướng đến khuynh hướng lạc quan; khuynh hướng này
xảy ra khi người ta tin rằng họ ìt có nguy cơ bị nguy hiểm hơn người khác
(Miles et al., 1999).
Từ thái độ của những đối tượng nghiên cứu vẫn ủng hộ việc ăn thịt
sống cho thấy việc thay đổi thói quen ăn uống đặc biệt là nhóm người trưởng
thành không phải là vấn đề dễ dàng. Tuy nhiên, người lớn đã nhận thức được
sự nguy hiểm từ việc ăn thịt tươi sống và họ không muốn trẻ em tiếp tục ăn
thực phẩm tươi sống. Có một số ý kiến nói rõ rằng 'ăn thức ăn tươi sống là vì
dụ không tốt với trẻ em, Sithithaworn et al. (2007) đã đề cập tới việc kiểm
soát sán lá gan opisthorchiasis ở Thái Lan rằng chương trính kiểm soát bền
vững nên tập trung vào trẻ em ở lứa tuổi đi học đây có thể sẽ là thế hệ bị
nhiễm sán lá gan tiếp theo. Phương pháp này có thể áp dụng với việc kiểm
soát bệnh giun xoắn. Hơn nữa, cha mẹ và người lớn cũng nên được giáo dục
cùng cách như vậy, chình ví vậy họ cũng nhận thức được là không nên
khuyến khìch con trẻ ăn thực phẩm tươi sống.
Về giới tình liên quan đến nhiễm ấu trùng giun xoắn: Kết quả nghiên
111
cứu của chúng tôi chỉ ra nữ giới nhiễm ấu trùng giun xoắn là 5,9% (169/2.878
nữ xét nghiệm) cao hơn nam giới nhiễm với tỷ lệ 3,8% (56/1.484 nam xét
nghiệm) có ý nghĩa thống kê. Đa số nữ giới từ các nhóm dân tộc khác nhau
đều cho rằng họ ăn các loại thịt tươi sống ìt hơn nam giới.
Một nghiên cứu khảo sát về người tiêu dùng xử lý và tiêu thụ thực
phẩm tại Mỹ và một cuộc khảo sát về mô hính tiêu thụ thực phẩm ở Canada
cũng cho thấy nam giới có nguy cơ mắc bênh do tiêu dùng thực phẩm cao
hơn phụ nữ [72]. Việc phụ nữ ìt ăn thịt tươi sống hơn nam giới cũng có liên
quan đến việc phát hiện ra ìt trường hợp nữ giới bị mắc bệnh giun xoắn. Mô
hính này là như nhau ở hầu hết các quốc gia mà bệnh giun xoắn xuất hiện như
Mỹ (Moorhead et al, 1999;.. Roy et al, 2003; Kennedy et al., 2009)[36],
Canada, Greenland (Serhir et al., 2001) (Moller, 2007), Papua New Guinea
(Owen et al., 2005) và Trung Quốc (Wang et al., 2006b)[33],[109]. Tuy nhiên
tại khu vực tiểu vùng nông thôn ở Mexico lại là ngoại lệ, một nghiên cứu ở
đây cho thấy nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới [83] và ở Romania thí lại
cho thấy số lượng ca nhiễm bệnh gần như bằng nhau giữa nam và nữ.
Loại thức ăn tươi sống có sẵn trong mỗi quốc gia cũng có thể ảnh hưởng
đến sự tiêu thụ các loại thực phẩm tươi sống giữa nam và nữ (Neghina et al.,
2009), do đó họ có những nguy cơ bị nhiễm bệnh khác nhau. Ở Thái Lan, không
chỉ tỷ lệ nữ giới ăn thịt tươi sống nhỏ hơn so với nam giới mà loại thịt tươi sống
mà họ thường ăn không có nguy cơ cao bị nhiễm bệnh giun xoắn.
4.3. Đánh giá hiệu quả can thiệp phòng chống giun xoắn cộng đồng bằng
truyền thông giáo dục sức khỏe
- Về tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun xoắn:
Tại tất cả các xã của bốn tỉnh trong nghiên cứu này, ngay sau kết quả điều tra
ngang đợt 1 (trước can thiệp) các trường hợp nhiễm giun xoắn dương tình
đều được điều trị bằng thuốc đặc hiệu Albendazol liều 800mg/ngày x 7 ngày
112
liên tiếp theo phác đồ qui định của Bộ Y tế. Trong thời gian điều trị thuốc
đặc hiệu, các đối tượng được các bộ y tế xã theo dõi tác dụng không mong
muốn của thuốc. Riêng tỉnh Sơn La được chọn chủ đìch là tỉnh có can thiệp
bằng truyền thông giáo dục sức khỏe cộng đồng. Sau 1 năm, năm 2016, bốn
tỉnh được điều tra cắt ngang đợt 2 (sau can thiệp).
Các thông điệp truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống bệnh giun
xoắn chình bao gồm: Thông điệp mô tả về bệnh giun xoắn, tác hại và sự nguy
hiểm của bệnh giun xoắn ảnh hưởng tới sức khỏe và tình mạng người bệnh;
đường lây truyền của bệnh giun xoắn và các biện pháp phòng, chống bệnh giun
xoắn. Phương pháp truyền thông bao gồm truyền thông trực tiếp (tập huấn nâng
cao kỹ năng phòng chống bệnh giun xoắn và giữ vệ sinh cá nhân, nói chuyện
trực tiếp sau buổi điều tra phỏng vấn KAP, giáo dục tuyên truyền theo nội dung
bài tuyên truyền, họp dân với nhóm người có kết quả xét nghiệm ELISA/WB
dương tình với Trichinella) và truyền thông gián tiếp (sử dụng tranh treo tường,
tờ rơi, phát thanh trên loa truyền thanh của thôn, xã theo nội dung bài tuyên
truyền về bệnh giun xoắn và phòng chống bệnh giun xoắn).
Tại tỉnh Sơn La điều tra đợt 2 có tỷ lệ nhiễm giun xoắn là 7,2% giảm có ý
nghĩa thống kê (p < 0,05) so với kết quả điều tra đợt 1 là 9,8%. Tại Điện Biên và
Thanh Hóa, điều tra đợt 2 đều có tỷ lệ nhiễm giun xoắn giảm so với điều tra đợt
1 (8,5% so với 10,5% và 1,3% so với 1,4%) nhưng sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p > 0,05. Tại Yên Bái, cả hai đợt điều tra đều không phát hiện
được trường hợp nào nhiễm giun xoắn.
Sau can thiệp điều trị và truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống
bệnh giun xoắn tại tỉnh Sơn La (địa điểm can thiệp) và sau can thiệp điều trị tại
tỉnh Điện Biên (địa điểm đối chứng) cho kết quả chỉ số hiệu quả ở địa điểm can
thiệp là 26,53% và chỉ số hiệu quả tại địa điểm đối chứng là 19,04%; hiệu quả
can thiệp đạt là 7,47% với p < 0,05. Như vậy sau can thiệp bằng truyền thông
113
giáo dục sức khỏe tại cộng đồng, tỷ lệ nhiễm giun xoắn đã giảm với hiệu quả can
thiệp là 7,47% có ý nghĩa thống kê.
- Về hiểu biết bệnh giun xoắn của người dân:
Tại huyện can thiệp - Huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La: Tỷ lệ người dân có
hiểu biết về bệnh giun xoắn tăng từ 16,1% lên 60,7% sau can thiệp, chỉ số hiệu
quả là 277,0% với p < 0,001.
Tại huyện đối chứng - Huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên: Tỷ lệ người dân
có hiểu biết về bệnh giun xoắn cũng tăng từ 16,5% lên 30,3%; chỉ số hiệu quả là
83,6%, p < 0,001.
Hiệu quả can thiệp giúp người dân có hiểu biết về bệnh giun xoắn đạt tới
mức 193,4% với p < 0,05.
Hiệu quả can thiệp giúp người dân có hiểu biết về tác hại bệnh giun xoắn
đạt mức 234,4% với p < 0,05. Hiệu quả can thiệp giúp người dân có hiểu biết về
cách phòng chống bệnh giun xoắn đạt mức 250% với p < 0,05.
- Về thói quen ăn thịt lợn tái/sống:
Tại huyện can thiệp: Tỷ lệ người dân còn ăn thịt lợn tái/sống giảm từ
19,1% xuống còn 5,8% sau can thiệp có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tại
huyện đối chứng: Tỷ lệ người dân còn ăn thịt lợn tái/sống cũng giảm từ 18,2%
xuống còn 13,8% nhưng không có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Với hành vi ăn thịt lợn tái, sống, hiệu quả can thiệp đạt mức 45,5%
với p < 0,05.
- Về tập quán nuôi lợn thả rông:
Tại huyện can thiệp Bắc Yên tỉnh Sơn La, tỷ lệ người dân nuôi lợn thả
rông giảm từ 70,9% trước can thiệp xuống còn 60,5% sau can thiệp, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tỷ lệ người dân nuôi lợn thả rông ở
huyện đối chứng Tuần Giáo tỉnh Điện Biên có giảm từ 76,4% xuống còn
73,2% nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p > 0,05. Với hành vi nuôi
lợn thả rông, hiệu quả can thiệp đạt mức 22,2% với p < 0,05.
114
Tại tỉnh Sơn La sau can thiệp tỷ lệ nhiễm giun xoắn (7,2%) giảm so với
trước can thiệp (9,8%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tại
Điện Biên và Thanh Hóa, sau can thiệp tỷ lệ nhiễm giun xoắn giảm so với
trước can thiệp, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Tại Yên
Bái, cả hai đợt điều tra tỷ lệ nhiễm đều bằng không.
Như vậy, sau can thiệp điều trị và truyền thông giáo dục sức khỏe phòng
chống bệnh giun sán tại tỉnh Sơn La và sau can thiệp điều trị tại tỉnh Điện Biên (địa
điểm đối chứng) cho hiệu quả can thiệp là 7,47%.
Chỉ số hiệu quả của tỉnh Sơn La là 26,53%, của tỉnh Điện Biên là
19,04%. Hiệu quả can thiệp giữa hai tỉnh là 7,48% với p < 0,05. Điều này cho
thấy sau can thiệp truyền thông giáo dục sức khỏe tại cộng đồng, tỷ lệ nhiễm
giun xoắn ở tính Sơn La giảm so với trước can thiệp. Ở tỉnh Sơn La không có
trường hợp nhiễm mới. Về miễn dịch trong bệnh giun xoắn thí các trường hợp
đã được điều trị hết ấu giun xoắn thí kháng thể kháng giun xoắn có thể kéo
dài hơn 1 năm. Trường hợp còn ấu trùng giun xoắn thí tồn tại kháng thể
kháng giun xoắn đồng hành cùng ấu trùng giun xoắn khoảng 40 năm. Ví thế
trong nghiên cứu này khi điều tra tỷ lệ nhiễm sau can thiệp truyền thông còn
nhiều trường hợp kháng thể giun xoắn còn tồn tại, mặc dù người dân đã có ý
thức hơn về phòng chống bệnh giun xoắn, có hiểu biết hơn về bệnh giun xoắn
mà chúng tôi đã phân tìch ở phần trên và ví thế ở tỉnh Sơn La không phát hiện
trường hợp nhiễm mới nào.
115
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu tỷ lệ nhiễm giun xoắn và một số yếu tố liên quan
trên 4.362 người; tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở 860 lợn nuôi, 860 chuột và can
thiệp cộng đồng bằng truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống bệnh giun
xoắn tại 20 xã của 4 huyện thuộc 4 tỉnh Yên Bái, Sơn La, Điện Biên và Thanh
Hóa năm 2015, 2016 cho thấy:
1. Thực trạng nhiễm giun xoắn trên ngƣời và động vật tại 4 tỉnh Yên
Bái, Sơn La, Điện Biên và Thanh Hóa, năm 2015
1.1. Thực trạng nhiễm giun xoắn trên người:
- Tỷ lệ nhiễm giun xoắn trên người chung cho cả 4 tỉnh nghiên cứu là
tương đối thấp 5,2%, trong đó:
- Tỷ lệ nhiễm giun xoắn trên người ở Điện Biên là 10,5%, cả 5/5 xã đều có
người nhiễm giun xoắn, xã có tỷ lệ nhiễm cao nhất là 31,5%, thấp nhất 1,8%. Tỷ
lệ nhiễm giun xoắn ở Sơn La là 9,8%, cả 5/5 xã đều có người nhiễm giun xoắn,
xã có tỷ lệ nhiễm cao nhất là 37,4%, thấp nhất 0,9%. Ở Thanh Hóa tỷ lệ nhiễm
thấp 1,4%, tỷ lệ nhiễm ở các xã từ 1,2% đến 1,8%. Không phát hiện được trường
hợp nào nhiễm giun xoắn tại tỉnh Yên Bái.
- Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở nữ 5,9%, cao hơn nam nhiễm 3,8%.
- Tỷ lệ tăng bạch cầu ái toan ở nhóm người bị nhiễm giun xoắn cao hơn ở
nhóm người nhiễm giun xoắn không tăng bạch cầu ái toan (25,9% và 3,9%).
1.2. Thực trạng nhiễm giun xoắn ở động vật:
- Nhiễm giun xoắn ở lợn nuôi rất thấp, tỷ lệ nhiễm chung ở lợn của 4 tỉnh
là 0,12% (1/860 lợn). Chỉ phát hiện được một con lợn nhiễm ấu trùng giun
xoắn tại Sơn La (0,47%).
- Nhiễm ấu trùng giun xoắn ở chuột cũng rất thấp, tỷ lệ nhiễm chung ở
chuột tại 4 tỉnh là 0,12% (1/860 chuột). Chỉ phát hiện được 1 con chuột tại
Sơn La mang ấu trùng giun xoắn (0,47%).
1.3. Loài giun xoắn:
Loài giun xoắn ở chuột tại tỉnh Sơn La được xác định bằng kỹ thuật sinh
116
học phân tử và thẩm định, giải trính tự gen là loài Trichinella spiralis.
2. Một số yếu tố liên quan tới tình trạng nhiễm giun xoắn ở ngƣời
- Người ăn thịt thú rừng có nguy cơ nhiễm ấu trùng giun xoắn cao gấp 3,3
lần so với người không ăn thịt thú rừng.
- Người ăn thịt lợn sống, tái có nguy cơ nhiễm ấu trùng giun xoắn cao gấp
3,4 lần và 2,4 lần so với người không ăn thịt lợn sống, tái. Có mối liên quan
với cách chế biến thịt lợn sống, ăn món lạp có nguy cơ với nhiễm giun xoắn
cao gấp 9,1 lần so với các món khác.
- Người không biết về bệnh giun xoắn, không biết tác hại và cách phòng
chống bệnh giun xoắn có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn người biết tương ứng
là 3,33 lần, 3,8 lần và 5,0 lần.
- Những người ở gia đính có lợn nuôi thả rông có nguy cơ nhiễm giun
xoắn cao gấp 2,7 lần gia đính có lợn nuôi nhốt.
- Những người ở gia đính có nuôi lợn trên 1 năm tuổi cũng có nguy cơ
nhiễm giun xoắn cao hơn 1,2 lần so với gia đính có lợn nuôi dưới 1 năm.
3. Hiệu quả can thiệp cộng đồng bằng truyền thông giáo dục sức khỏe
phòng chống bệnh giun xoắn
- Tỷ lệ người nhiễm giun xoắn sau can thiệp giảm 20% (180 người so với
225 người trước can thiệp).
- Hiểu biết về bệnh giun xoắn tăng từ 16,1% lên 60,7% ở nhóm can thiệp
so với nhóm chứng tăng từ 16,5% lên 30,3%. Hiệu quả can thiệp là 193,4%.
- Thói quen ăn thịt lợn tái, sống giảm ở tỉnh can thiệp từ 19,1% xuống còn
5,8% so với nhóm chứng giảm từ 18,2% xuống 13,8%; hiệu quả can thiệp
45,5%.
- Tính trạng nuôi lợn thả rông giảm ở tỉnh can thiệp từ 70,9% xuống còn
60,5% so với nhóm chứng giảm từ 76,4% xuống 73,2% với hiệu quả can
thiệp là 22,1%.
117
KIẾN NGHỊ
Từ những kết quả nghiên cứu và kết luận của nghiên cứu, chúng tôi có
kiến nghị như sau:
- Cần tăng cường và duy trí truyền thông cho người dân tại các vùng
nguy cơ về bệnh giun xoắn và phòng chống giun xoắn cho cả người và vật
nuôi: Không ăn thịt tái, sống, không ăn tiết canh; không nuôi lợn thả rông.
Tẩy giun cho lợn theo đúng quy định. Khi phát hiện vật nuôi nhiễm bệnh thực
hiện tiêu huỷ theo đúng quy định hiện hành của Nhà nước.
- Sử dụng kỹ thuật miễn dịch như ELISA phát hiện kháng thể hoặc
kháng nguyên ấu trùng giun xoắn trong máu cho cộng đồng và người nghi
ngờ nhiễm bệnh và xác định lại ca bệnh bằng kỹ thuật Western Blot có thể
loại bớt được nhược điểm của ELISA, tăng tình đặc hiệu cho chẩn đoán phát
hiện giun xoắn ở giai đoạn trong máu.
118
TÍNH KHOA HỌC, TÍNH THỰC TIỄN VÀ TÍNH MỚI
CỦA NGHIÊN CỨU
1. Tính khoa học, tính thực tiễn
Bệnh giun xoắn Trichinosis là bệnh truyền nhiễm cấp hoặc bán cấp
tình, bệnh lây truyền từ động vật sang người, bệnh gây dịch tản phát và có tỷ
lệ tử vong cao. Nghiên cứu đã triển khai tương đối toàn diện, hệ thống trên
phạm vi rộng tại thực địa ở 20 xã thuộc 4 huyện của 4 tỉnh đã từng có dịch
bệnh giun xoắn với đối tượng nghiên cứu bao gồm cả người, động vật nuôi và
động vật hoang dã nhằm đánh giá tính trạng nhiễm giun xoắn ở người và
động vật tại cộng đồng, nghiên cứu đã phát hiện và định danh được loài ấu
trùng giun xoắn và can thiệp truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống
bệnh giun xoắn tại cộng đồng.
Các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu là những kỹ thuật thường qui,
đạt chuẩn SOP của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
2. Tính mới
Đề tài đã đánh giá được thực trạng nhiễm giun xoắn ở người, ở lợn
nuôi và ở chuột tại 20 xã thuộc 4 huyện có dịch giun xoắn cũ với tỷ lệ nhiễm
ấu trùng trên người là 9,8% ở Sơn La, 10,5% ở Điện Biên và 1,4% ở Thanh
Hóa; không phát hiện được người nhiễm ấu trùng giun xoắn tại Yên Bái, nơi
trước đây đã từng có dịch giun xoắn.
Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở lợn nuôi chung cho 4 tỉnh là 0,12%, là một lợn
nhiễm ấu trùng giun xoắn tại tỉnh Sơn La.
Tỷ lệ nhiễm giun xoắn ở chuột chung cho 4 tỉnh là 0,12%, là một chuột
nhiễm ấu trùng giun xoắn tại tỉnh Sơn La.
Bằng kỹ thuật sinh học phân tử và giải trính tự gen, đề tài đã xác định
danh được loài giun xoắn ở chuột là loài Trichinella spiralis.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lê Ngọc Anh, Trần Thanh Dương, Nguyễn Thu Hương và cộng sự (2013),
“Một số nhận xét từ vụ dịch giun xoắn ở một đơn vị đóng quân tại biên
giới Việt – Lào thuộc tỉnh Điện Biên”, Tạp chí y học quân sự, tr. 27 - 30.
2. Bộ Y tế (2011), Thông tư số 43/2011/TT-BYT ngày 5/12/2011 về việc
quy định chế độ quản lý mẫu bệnh phẩm bệnh truyền nhiễm.
3. Bộ Y tế (2012), Quyết định số 4401/QĐ-BYT ngày 09/11/2012 về việc
ban hành quy trính kỹ thuật khám bệnh, chữa bệnh chuyên ngành
huyết học-truyền máu-miễn dịch-di truyền.
4. Bộ Y tế (2013), Quyết định số 26/QĐ-BYT ngày 01/01/2013 về việc ban
hành tài liệu “Hướng dẫn quy trính kỹ thuật chuyên ngành Vi sinh Y
học”, tr. 724 – 726.
5. Nguyễn Văn Cảm, Vũ Thị Nga, Nguyễn Trọng Cường (2009), “Kết quả
điều tra tính hính nhiễm giun xoắn (Trichinella) trên đàn lợn tại huyện
Bắc Yên - Sơn La và biện pháp giải quyết”, Tạp chí khoa học kỹ thuật
thú y, tr. 45 – 50.
6. Cục Y tế dự phòng (2016), Các bệnh do giun, http://vncdc.gov.vn/vi/danh-
muc-benh-truyen-nhiem/1109/cac-benh-do-giun.
7. Trần Thanh Dương, Vũ Thị Nga và Nguyễn Thu Hương (2015), “Dịch
giun xoắn (trichinellosis) tại miền núi phìa Bắc Việt Nam, giai đoạn
1970-2013”, Công trình nghiên cứu khoa học-Báo cáo tại Hội nghị
khoa học toàn quốc chuyên ngành Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng
năm 2015, Nhà xuất bản Y học, tr. 205-222.
8. Trần Thanh Dương, Nguyễn Đức Giang, Nguyễn Thị Hồng Liên, Đỗ
Thanh Tùng, Nguyễn Thị Hồng Ngọc và Nguyễn Thu Hương (2016),
“Thực trạng nhiễm giun xoắn ở người tại một bốn xã huyện Mường
Lát tỉnh Thanh Hóa, năm 2015”, Tạp chì phòng chống bệnh Sốt rét và
các bệnh ký sinh trùng, Số 4 (93), tr. 64-71.
9. Bùi Đại, Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Hoàng Tuấn (2005), Bệnh học truyền
nhiễm, Nhà xuất bản Y học, tr. 145 – 150.
10. Nguyễn Đức Giang, Nguyễn Thị Hồng Liên, Lê Thị Hồng Hanh, Đỗ
Thanh Tùng, Trần Thanh Dương, Nguyễn Thu Hương (2016), “Một
số yếu tố liên quan nhiễm giun xoắn ở người trong cộng đồng huyện
Mường Lát tỉnh Thanh Hóa năm 2015”, Tạp chí phòng chống bệnh
Sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, số 5 (94), tr. 31-41.
11. Nguyễn Thu Hương, Trần Thanh Dương, Vũ Thị Nga (2013), “Nguy cơ
tiềm ẩn dịch giun xoắn tại miền núi phìa Bắc Việt Nam”, Tạp chí Y
học thực hành, số 884 (10), tr. 31-34.
12. Hướng dẫn sử dụng bộ sinh phẩm TRICHINELLA SERUM
MICROWELL ELISA của nhà sản xuất SCIMEDX.
13. Kiều Tùng Lâm và cộng tác viên (1973), “Ổ bệnh giun xoắn (Trichinella
spiralis) phát hiện đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam”, Kỷ yếu công trình
nghiên cứu khoa học, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng và Côn trùng, Nhà
xuất bản Y học, tr. 324 - 327.
14. Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm của quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ
2, số 3/2007/QH 12, ngày 21 tháng 11 năm 2007, tr. 2 - 3.
15. Đoàn Hạnh Nhân và Nguyễn Văn Đề (2004), “Ổ bệnh giun xoắn
(Trichinella spiralis) phát hiện đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam tại
huyện Tuần Giáo tỉnh Điện Biên”, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét
và các bệnh ký sinh trùng, số 6, tr. 76-79.
16. Lê Bách Quang (2008), Ký sinh trùng và côn trùng Y học (Giáo trình
giảng dạy đại học), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, tr.191 – 196.
17. Phan Quận, Bệnh giun xoắn (Trichinellosis/Trichinosis),
benhnhietdoi.vn/...giun-xoan.../trichinosis.
18. Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật phòng,
chống bệnh truyền nhiễm, số 3/2007/QH 12, ngày 21 tháng 11 năm
2007. Khoản 1 Điều 4.
19. Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1976), “Giun xoắn (Trichinella
spiralis)”, Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở Việt Nam, Nhà xuất
bản KH-KT Hà Nội, tr.136 - 140.
20. Phạm Văn Thân (2007), Ký sinh trùng (sách đào tạo bác sỹ đa khoa),
Nhà xuất bản Y học, tr. 227 - 232.
21. Dương Đính Thiện (2006), Dịch tễ học các bệnh truyền nhiễm, Nhà xuất
bản Y học.
22. Phạm Thiệp, Vũ Ngọc Thúy (2015), Thuốc biệt dược và cách sử dụng,
Nhà xuất bản Y học.
23. Nguyễn Duy Toàn, Nguyễn Văn Đề, Đặng Thanh Sơn, Phạm Văn Linh
(2002), “Thông báo ổ bệnh giun xoắn (Trichinella) tại huyện Tuần
Giáo tỉnh Lai Châu”, Tạp chí phòng chống bệnh Sốt rét và các bệnh
ký sinh trùng, số 1, tr. 76-79
24. Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Lê (1977), “Họ Trichinellidae Ward 1907”, Giun
sán ký sinh động vật Việt Nam, Nhà xuất bản KH-KT Hà Nội, tr. 275.
25. Phạm Quang Vinh (2013), Huyết học – Truyền máu cơ bản, Nhà xuất bản
Y học.
Tiếng Anh
26. Andiva, S., Yera, H., Haeghebaert, S., Tourte-Schaefer, C., Magnaval,
J.F., Dupouy-Camet, J., (2002). Comparative evaluation of a latex
agglutination test, two Elisa tests and a Western blot test for the
serodiagnosis of human trichinellosis. Ann. Biol. Clin. (Paris) 60, pp. 79-83
27. Andreas Jansen, Irene Schöneberg, Klaus Stark, and Karsten Nöckler
(2008), Epidemiology of Trichinellosis in Germany, 1996–2006.
Vector-Borne and Zoonotic Diseases. 8(2), pp. 189-196
28. Aymeric D. B., Helene Y., Franck L. G., Pascal B., Camet D. J.
(2005), Simple species identification of Trichinella isolates by
amplification and sequencing of the 5S ribosomal DNA intergenic
spacer region, Veterinary Parasitology, 132, pp. 57-61.
29. Atterby, H., Learmount, J., Conyers, C., Zimmer, L., Boonham, N.,
Taylor, M., (2009). Devalopment of a real-time PCR assay for the
detetion of Trichinella spiralis in situ. Vet. Parasitol. 161, pp 92-98.
30. Barennes, H., Sayasone, S., De Bruyned, A., Hongsakhone, S., Odermatt,
P., Vonprhachanhae, P., Martinez-Aussela, B., Newtonf, P.N.,
Chaicumpah, W., Satrobela, M., Dupouy-Camet, J. (2006), Severe
outbreak of trichinellosis in Udomxay province, Lao PDR, 2005,
Proceedings of the 5th Food and Water Borne Parasitic Zoonoses.
Bangkok, Thailand, 28–30 November, abstract book, pp. 46.
31. Barennes, H., Sayasone, S., Odermatt, P., De, B.A., Hongsakhone, S.,
Newtonf, P.N., Vonprhachanhae, P., Martinez-Aussela, B., Satrobela,
M., Dupouy-Camet, J. (2008). A major trichinellosis outbreak
suggesting a high endemicity of Trichinella infetion in nothern Laos.
Am. J. Trop. Med. Hyg. 78. Pp 40-44.
32. Bien, J., Cabaj, W., Moskwa, B., (2013). Recognition of antigen of
three defferent stages of the Trichinella spiralis by antibodies from
pigs infected with T. Spiralis. Exp. Parasitol. 134, pp 129-137.
33. Blaga R., Durand B., Antoniu S., Gherman C., Cretu C.M., Cozma V.,
Boireau P. (2007), A dramatic increase in the incidence of human
trichinellosis in Romania over the pass 25 years; impact of political
changes and regional food habits American, Journal of Tropical
Medicine and Hygiene, pp. 936-986.
34. Biji T. Kurien, R. Hal Scofield (2015), Western blotting methods and
protocol, ISSN 1940-6029 (electronic), Springer Science + Business
Media New York.
35. Bruschi F1, Korenaga M, Watanabe N. (2008), Eosinophils and
Trichinella infection: toxic for the parasite and the host?, Trends
Parasitol., 24(10):462-7. doi: 10.1016/j.pt.2008.07.001.
36. Centers for Diease Control and Prevention (1991), Trichinosis
surveillance, United State 1987-1990, MMWR 1991, 40: (SS-3), pp.
35-42.
37. Cui, J., Wang, Z.Q, Xu, B.L., (2011). The epidemiology of human
trichinellosis in China during, 2004-2009. Acta Trop. 118, pp 1-5.
38. Cuttell, L., Corley, S.W., Gray, C.P., Vanderlinde, P.B, Jackson, L.A.,
Traub, R.J., (2012). Real-time PCR as a surveillance tool for the
detection of Trichinella infection in muscle samples from wildlife.
Vet. Parasitol. 188, pp 285-293.
39. David L. Heyman (2015), Control of communicable diseases, 20th
Edition Aplpha Press, USA, pp. 623-626.
40. Dickson Despommier (2009), The Trichinella (1835 – 2007),
Columbia University, Dupouy-Camet, J., W. Kociecka, F. Bruschi, F.
41. Dupouy-Carnet, J., Kociecka, W., Bruschi, F., Bolas-Fernandez, F.,
Pzio, E. (2002). Opinion on th diagnosis and treatment of human
trichinellosis. Expert. Opin. Pharmacother. 3, pp 1117-1130.
42. FAO/WHO/OIE (2007) Guidelines for the surveillance, management,
prevention and control of trichinellosis, Published by: Food and
Agriculture Organization of the United Nations (FAO), World Health
Organization (WHO), World Organisation for Animal Health (OIE).
43. F. A. Zenker (1860), Ueber die Trichinen-Krankheit des Menschen,
Parasitology, Vol. 18, pp. 561-572.
44. Forber, L.B. Parker, S., Scandrett, W.B., (2003). Comparison of a
modified digestion assay with trichinoscopy for the detection of
Trichinella larvae in pork. J. Food Prot. 66, pp 1043-1046.
45. Franssen, F.F., Fonville, M., Takumi, K., Valle, I., Grasset, A.,
Koedam, M.A., Wester, P.W., Boireau, P., (2011). Antibody response
againt Trichinella spiralis in experimentally infected rats is dose
dependent. Vet. Res. 42, 113.
46. Frey, C.F., Schuppers, M.E., Nockler, K., Marinculic, A., Pozio, E.,
Kihm, U., Gottstein, B, (2009). Validation of a Western Blot for the
detetion of anti- Trichinella spp. Antibodies in domestic pigs.
Parasitol. Res. 104, pp. 1269-1277.
47. Fu, B.Q., Liu, M.Y., Yao, C.Y., li, W.H., Li, Y.G., Wang, Y.H., Wu, X.P.,
Zhang, D.L., Cai, X.P., Blaga, R., Boireau, P., (2009). Species indentification of
Trichinella isolates from China. Vet. Parasitol. 159, pp 214-217.
48. Gajadhar, A.A., Pozio, E., Gamble, H.R., Nockle, K., Maddox, E.,
Gamble, H.R., Nockle, K., Maddox-Hyttel, C., For-Hyttel, C., For-
Hyttel, C., Forbé, L.B., Valle, L., Rossi, P., bé, L.B., Valle, L., Rossi,
P., Marinculic, A., Boireau, P., (2009). Trichinella diagnostic and
control: mandatory and best practices for ensuring food safety. Vet.
Parasitol. 159, pp 197-205.
49. Gajadhar, A.A., Forbé, L.B., (2002). An internationally recognized
quality assurance system for diagnostic parasitology in animal health
and food safety, with example data on trichinellosis. Vet, Parasitol.
103, pp 133-140.
50. Gamble HR, Pozio E, Bruschi F, Nöckler K, Kapel CM, Gajadhar AA
(2004), International Commission on Trichinellosis: recommendations
on the use of serological tests for the detection of Trichinella infection
in animals and man, Parasite; 11(1): 3-13.
51. Gamble HR, Bessonov, A.S., Cuperlovic, Gajadhar AA, Nöckler K,
Schenone, H., Zhu, X., (2000), International Commission on
Trichinellosis: recommendations on methods for the control of
Trichinella in domestic and wild animal intended for human
consumption., Vel. Parasitol. 93, pp 393-408.
52. Ge-Ge Sun, Zhong-Quan Wang et al, (2015), Early serodiagnosis of
trichinellosis by ELISA using excretory-secretory antigen of
trichinella spiralis adult worms, Parasite and vector, 8:484.
53. Gofmez-Morales, M.A., Ludovisi, A., Amati, M., Cherchi, S.,
Pezzotti, P., Pozio, E., (2008). Validation of an enzyme-linked
immunosorbent assay for diagnosic of human trichinellosis. Clin.
Vaccine Immunol. 15, pp 1723-1729.
54. Gottstein B., et al. (2009), Epidemiology, Diagnosis, Treatment,
and Control Trichinellosis, Clinical Microbiology Reviews, 22
(1)): 127-145.
55. Goyal, P.K., Wheatcroft, J., Wakelin, D., (2002). Tyvelose and
protective responses to the intestinal stages of Trichinella spiralis.
Parasitol. Int. 51, pp 127-145.
56. Grace, D., Gilbert, J., Lapar, M.L., Unger, F., Fevre, S., Nguyen Viet,
H., Scheling, E., (2011). Zoonotic emerging infectious disease in
selected countries in Southeast Asia: insight from ecohealth.
Ecohealth. 8, pp 55-62.
57. G. Theodoropoulos et al (2000), Infectivity, predilection sites, and freeze
tolerance of Trichinella spp. in experimentally infected sheep,
Parasitology research.
58. Guenther, S., Nockler, K., Von Nickisch-Rosennegk, M., Landgraf,
M., Ewers, C., Wieler, L.H., Schierack, P., (2008). Detection of
Trichinella spiralis, T. britovi and T. pseudospiralis in muscle tisue
with real time PCR. J. Microbiol. Methods 75, pp 287-292.
59. Gurisch, M.F., Bryce, P.J., Tao, H., Kisselgof, A.B., Thornton, E.M.,
Miller, H.R., Oettgen, H.C., (2004). IgE enhances parasite clearance
and regulates mast cell responsesin mice infected with Trichinella
spiralis. J. Immunol. 172, pp 1139-1145.
60. Huong T. Nguyen, Giang D. Nguyen, Lien H.T. Nguyen, Ngoc H.T.
Nguyen, Duong T. Tran (2016), Prevalence of and Factors Associated
with Human Trichinellois in 20 Villages in Four Endemic Provinces
of Vietnam from May 2015 to June 2016: Post-survey after outbreak in communities. Program and Abstract book, The 8th TEPHINET Bi-
regional Sceintific Conference to be held at the Apsara Palace Resort
and Conference Center in Siem Reap, Cambodia on November 28-
December 2, P77:231.
61. H.J. Kim, W.S. Jeong, E.M. Kim, S.G. Yeo, D.J. An, H. Yoon, E.J.
Kim, C.K. Park (2015), revalence of Trichinella spp. antibodies in
wild boars (Sus scrofa) aPnd domestic pigs in Korea, Veterinarni
Medicina, 60(4): 181–185.
62. Hunt, P.W., (2011). Moleculer diagnosis of infections and resistance
in veterinary and human parasites. Vet. Parasitol. 180, pp 12-46.
63. Ichiro Miyazaki (1991), Helminthic zoonoses, International medical
Foundation of Japan, Tokyo 1991; pp. 452 -463.
64. Kaewpitoon, N., Kaewpitoon, S.J., Pengsaa, P., (2008). Food-borne
parasitic zoonosis: distribution of trichinosis in Thailand. World J
Gastroenterol, 14, pp 3471-3475.
65. Kaewpitoon, N., Kaewpitoon, S.J., Philasri, C., Leksomboon, R.,
Maneenin. C., Sirilaph, S., Pengsaa, P., (2006). Trichinosis
epidemiology in Thailand. World J Gastroenterol, 12, pp 6440-6445.
66. Khamboonruang C. (1991). The present status of trichinellosis in
Thailand. Southeast Asian, J. Trop. Med. Public Health 22:312-315.
67. Kim H.J., Jeong W.S., Kim E.M., Yeo S.G., An D.J., Yoon H., Kim
E.J., Park C.K. (2015), Prevalence of Trichinella spp. antibodies in
wild boars (Sus scrofa) and domestic pigs in Korea, Veterinarni
Medicina, 60(4): 181–185.
68. Krivokapich, S.J., Pozio, E., Gatti, G.M., Prous, C.L., Ribicich, M.,
Marucci, Confalonieri, V., (2012). Trichinella patagoniensis n. sp.
(Nematoda) a new encapsulated species infecting carnivorous
mammals in South America. Int. J. Parasitol. 42, pp 903-910.
69. Krivokapich, S.J., Pozio, E., Gatti, G.M., Confallonieri, V., Molina,
V., Matarasso, H., Guarnera, E., (2008). Molecular evidence for a
novel encapsulated genotype of Trichinella from Patagonia,
Argentina. Vet. Parasitol. 156, pp 234-240.
70. Kullmann E. (1970), Trichinellosis in wild animals in Afghanistan,
Wiad. Parazytol. 16:111–116.
71. Leena Oivanen et al (2002), Associations between Trichinella species and
host species in Finland, The journal of Parasitology, Vol. 88, No. 1, pp.84-
88.
72. L. Hall, Susan P. Montgomery, Jeffrey L. Jones (2015) “Trichinellosis
Surveillance - United States, 2008 – 2012”, MMWR Surveillance
Summaries 2015 / 64 (SS01); 1 – 8
73. Liu M. (2004), Trichinellosis in China, Asia parasitology, 1: 279-285.
74. Littman, M., Nockler K., and Hallauer J. (2006), Cluster of
trichinellosis cases in Mecklenburg-Vorpommern, Germany. Euro
Surveill, 11(5): pp. E060518 1.
75. L. Owen, Simon A. Reid (2007), Survival of Trichinella papuae muscle
larvae in a pig carcass maintained under simulated natural conditions in
Papua New Guinea, Journal of Hemithology, Vol. 81, pp. 429-432.
76. Makedonka Mitreva, Douglas P. Jasmer (2006), Biology and genome
of Trichinella.
77. Makedonka Mitreva, Douglas P Jasmer, Dante S Zarlenga, Zhengyuan
Wang, Sahar Abubucker, John Martin, Christina M Taylor, Yong Yin,
Lucinda Fulton, Pat Minx, Shiaw-Pyng Yang, Wesley C Warren,
Robert S Fulton, Veena Bhonagiri, Xu Zhang, Kym Hallsworth-Pepin,
Sandra W Clifton, James P McCarter, Judith Appleton, Elaine R
Mardis & Richard K Wilson (2011), The draft genome of the parasitic
nematode Trichinella spiralis, Nature Genetics 43, 228–235.
doi:10.1038/ng.769.
78. Maria Angeles Gomez-Morales et al, (2012), A Distinctive Western
blot pattern to recognize Trichinella infections in humans and pigs,
International Journal for Parasitology 42:1017-1023.
79. Mary e. wilson, peter f. weller. (2006), Eosinophilia in Tropical
Infectious Diseases, (Second Edition) book Principles, Pathogens &
Practice, Pages 1478–1495
80. M. Maroli and E. Pozio (2000), Influence of Temperature on the Survival
and Infectivity of Trichinella spiralis Larvae in Sarcophaga
argyrostoma (Diptera, Sarcophagidae) Maggots. Journal of Parasitology,
Vol. 86, No. 3, pp. 633-634.
81. Morakote N, Sukhavat K, Khamboonruang C, Siriprasert
V, Suphawitayanukul S , Thamasonthi W (1992), Persistence of IgG,
IgM, and IgE antibodies in human trichinosis, Tropical Medicine and
Parasitology, 43(3):167-169.
82. Murrell K.D., Pozio E. (2000), Trichinellosis the zoonosis that won’t
go quietly, International Journal for Parasitology, 30:1339-1349.
83. Murrell K.D., Pozio E. (2011), Wordwide occurrence and impact of
human trichinellosis, 1986-2009. Emerg. Infect. Dis. 17, pp 2194-2202.
84. Murrell K.D. (2016), The dynamics of Trichinella spiralis
epidemiology: Out to pasture?, Veterinary Parasitology, pp. 92-96
https://doi.org/10.1016/j.vetpar.2016.03.020.
85. Nana O. Wilson, Rebecca L. Hall, Susan P. Montgomery, Jeffrey L.
Jones (2015), Trichinellosis Surveillance - United States, 2008 – 2012,
Surveillance Summaries 64 (SS01):1 – 8.
86. Nguyen Thu Huong, Tran Thanh Duong, Nguyen Luong Tinh, Do Trung
Dung (2013), An outbreak of trichinosis in Dien Bien province, Vietnam
in 2013, Journal of malaria and parasite diseases control, 5, pp. 65-70.
87. Nguyen Thu Huong, Nguyen Thi Hong Lien, Nguyen Thi Hong Ngoc,
Le Thi Hong Hanh and Tran Thanh Duong (2017),
Human trichinosis in rural area mountainous provinces in Vietnam
in 2015-2016, The Global Journal of Infectious Diseases and Clinical
Research, 3(1): 009-014. http://doi.org/10.17352/2455-5363.000012.
88. Nguyen V. D., Nguyen V. T., Nguyen H. H. et al., (2012), “Outbreak
of trichinosis with molecular identification of Trichinella sp. in
Vietnam, Korean Journal of Parasitology, 50(4):339–343.
89. Nguyen VD, Vu Thi N., Dorny P., Nguyen VT., Pham NM, Do TD,
and Pozio E. (2015), Trichinellosis in Vietnam, Am J Trop Med Hyg.,
92(6):1265–1270.
90. Nguyen Thi Hong Lien, Nguyen Thu Huong, Nguyen Hong Ngoc, Le
Thi Hong Hanh, Luong Mai Anh, Tran Thanh Duong (2016), High
risk factors of consuming raw pork associated with human
trichinosis in rural mountainous provinces, Journal of malaria and
parasite diseases control, Vol. 6, pp. 7-11.
91. Paul R. Fitzgeral and T.B.S. Prakasam (1978), Survival of Trichinella
spiralis Larvae in Sewage Sludge Anaerobic Digesters, The Journal of
Parasitology, Vol.64, No.3, pp. 445-7.
92. Pozio E. (2002), Opinion on the diagnosis and treatment of human
trichinellosis. Expert Opin. Pharmacother. 3 (8): 1117-1130.
93. Pozio E., Gomez M. M. A., Camet D. J. (2003), Clinical aspects,
diagnosis and treatment of trichinellosis, Expert Rev anti Infect Ther
1: 471-482.
94. Pozio E., Rosa G. L. (2003), PCR-dervicd methods for the
identification of Trichinella parasites from animal and human
samples, Methods Mol. Biol., 216:299-309.
95. Pozio E. (2007), World distribution of Trichinella spp. infections in
animals and humans, Veterinary Parasitology 149: 3-21.
96. Pozio E, Hoberg E., Rosa G.L., Zarlenga D.S., (2009), Molecular
taxonomy, phylogeny and biogeography of nematodes belonging to
the Trichinella genus, Infection, Genetics and Evolution, 9(4), pp.
606-616. https://doi.org/10.1016/j.meegid.2009.03.003.
97. Pozio E., Zarleng D.S., (2013), New pieces of the Trichinella puzzle,
International Journal for Parasitology, 43(12–13), pp.983-997.
98. Pozio E. (2014), Searching for Trichinella: not all pigs are created
equal. Trends Parasitol. 30, pp 4-11.
99. Rebecca K. Davidson et al (2008), High tolerance to repeated cycles of
freezing and thawing in different Trichinella nativa isolates, Parasitology
research.
100. R. Leukart (1860), Investigation of Trichina spiralis,
https://www.nejm.org/doi/pdf/10.1056/NEJM186010040631003.
101. Richard Owen (1835), Description of a Microscophc Entozoon infesting
the Muscles of the Human Body, Journal of Zoology.
102. S.Jovic et al (2001), Infectivity of Trichinella spiralis larvae in pork
buried in the ground, Parasite, 8, S213-S215.
103. Takahashi, Y., Mingyuan, L., Waikagul, J., (2000), Epidemiology of
trichinellosis in Asia and Pacific Rim, Vet. Parasitol. 93, 227–239.
104. Vu Thi N., Dorny P., La Rosa G., To Long T., Nguyen Van C., Pozio
E., (2010), High prevalence of anti-Trichinella IgG in domestic pigs
of the Son La province, Vietnam, Vet Parasitol. 168:136–140.
105. Vu Thi N., De N. V., Praet N., Claes L., Gabriël S., and Dorny P.,
(2013), Seroprevalence of trichinellosis in domestic animals in
northwestern Vietnam, Veterinary Parasitology, 193(1–3):200–205.
106. Vu T. N., Do T. D., Lizroth A., Nicolas P., Nguyen T. H., Nguyen M.
H., Pierre D. (2013), The hidden burden of trichinelosis in Viet Nam:
a post-outbreak epidemiological study, Journal of Biomed Research
International.
107. Vu Thi N., Nguyen V.D., Praet N., Claes L., Gabriël S., Huyen
N.T., Dorny P. (2014), Trichinella infection in wild boars and
synanthropic rats in northwest Vietnam, Veterinary Parasitology,
200(1–2):207-211.
108. Vu Thi N, Pozio E, Van De N, Praet N, Pezzotti P, Gabriël S, Claes
M, Thuy NT, Dorny P. (2014), Anti-Trichinella IgG in ethnic
minorities living in Trichinella-endemic areas in northwest Vietnam:
study of the predictive value of selected clinical signs and symptoms
for the diagnosis of trichinellosis, Acta Trop, 139:93-98.
109. Wang, Z.Q., Cui, J., Xu, B.L., (2006). The epidemiology of human
trichinellosis in China during 2000–2003, Acta Trop, 97, 247-251.
110. Wang, L., Wang, Z.Q., Hu, D.D., Cui, J., (2013a). Proteomic analysis
of Trichinella spiralis muscle larval excretory-secretory proteins
recognized by early infection sera. Biomed. Res. Int. 2013, 139745.
111. Wang, B., Wang, Z.Q., Jin, J., Ren, H.J., Liu, L.N., (2013b) Cloning,
expression and characterization of a Trichinella spiralis serine protease gene
encoding a 35.5 kDa protein. Exp. Parasitol. 134, pp 148-154.
112. Wang, R., Wang Z.Q., Cui, J., (2009). Immunodiagnostic value and
immune protection of the recombinant Ts21 antigen of Trichinella
spiralis. ZhongguonJi. Sheng Chong. Xue. Yu Ji. Bing. Za Zhi. 27, 17-21.
113. Webster, P., Maddox-Hyttel, C., Nockler, K., Malakauskas, A.,
vander, G.J., Pozio, E., Boireau, P., Kapel, C.M., (2006). Meat
inspection for Trichinella in pork, horse meat and game within the
EU: available technology and its present implementation. Mem.Inst.
Oswaldo Cruz 11, pp 50-55.
114. William J. Foreyt (2013), Trichinosis, USGS Columbus Publishing
Service Center 2013.
115. Yuzo T., Liu M., Jitra W. (2000), Epidemiology of trichinellosis in Asia
and the Pacific Rim, Veterinary Parasitology, 93 (3-4): 1-227-239.
116. Zarlenga, D.S., Rosenthal, B.M., La Rosa, G., Pozio, E. & Hoberg,
E.P (2006), Post-Miocene expansion, colonization, and host switching
drove speciation among extant nematodes of the archaic
genus Trichinella, Proc. Natl. Acad. Sci, USA 103, pp. 7354–7359.
117. https://www.cdc.gov/parasites/trichinellosis/health_professionals/inde
x.html cập nhật ngày 15/12/2018.