BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRẦN VIẾT LUÂN
NGHIEÂN CÖÙU PHAÃU THUAÄT NOÄI SOI
NGAÙCH TRAÙN VÔÙI HEÄ THOÁNG HÖÔÙNG DAÃN
HÌNH AÛNH ÑÒNH VÒ BA CHIEÀU
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
CHUYÊN NGÀNH: MŨI HỌNG
Maõ soá: 62 72 53 05
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG 2. PGS.TS NHAN TRỪNG SƠN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng công
bố trong bất kỳ công trình nào.
Ký tên
TRẦN VIẾT LUÂN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC HÌNH
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 3
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................ 4
1.1 Giải phẫu xoang trán, đƣờng dẫn lƣu xoang trán và ngách trán ............... 4
1.2 Sơ lƣợc lịch sử phát triển phẫu thuật nội soi xoang trán - Phân loại phẫu
thuật nội soi ngách trán và xoang trán ............................................................. 21
1.3 Lịch sử phát triển của hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều IGS
- cấu tạo và nguyên lý hoạt động .................................................................... 27
1.4 Nguyên tắc tái tạo hình ảnh không gian ba chiều trong hình ảnh học -
ứng dụng vào hệ thống IGS ............................................................................. 35
1.5 Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc ............................................. 37
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................... 41
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu ........................................................................... 41
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................... 43
2.3. Phƣơng tiện nghiên cứu ........................................................................ 43
2.4. Các bƣớc tiến hành nghiên cứu ............................................................ 48
2.5. Thu thập và phân tích số liệu ............................................................... 57
2.6. Vấn đề y đức ......................................................................................... 61
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................ 62
3.1. Đặc điểm dịch tễ học của mẫu nghiên cứu........................................... 62
3.2. Đặc điểm lâm sàng, nội soi, CT scan, tỉ lệ Agger nasi và tế bào ngách
trán của mẫu nghiên cứu ................................................................................. 66
3.3. Kết quả phẫu thuật nội soi ngách trán với IGS .................................... 76
3.4. Theo dõi sau mổ: triệu chứng lâm sàng , nội soi và CT scan .............. 87
CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN ................................................................................. 100
4.1. Đặc điểm dịch tễ học của mẫu nghiên cứu......................................... 100
4.2. Đặc điểm lâm sàng, nội soi, CT scan, và tỉ lệ Agger nasi và tế bào
ngách trán ....................................................................................................... 101
4.3. Bàn luận về phẫu thuật ....................................................................... 108
4.4. Triệu chứng lâm sàng, nội soi và CT scan sau mổ ............................ 134
4.5. Đề xuất quy trình phẫu thuật nội soi ngách trán với IGS ................... 137
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 143
KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AG (Agger nasi) : Tế bào Agger nasi (đê mũi)
: Cuốn giữa CG
CT scan (Computerized Tomography) : Chụp cắt lớp điện toán
: Độ lệch chuẩn ĐLC
IGS (Image-guided system) : Hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh
IGNS (Three dimensionimage-guided : Hệ thống hƣớng dẫn
navigation system) hình ảnhđịnh vị ba chiều
: Tế bào sàng trán Kuhn loại 1 K1
: Tế bào sàng trán Kuhn loại 2 K2
: Tế bào sàng trán Kuhn loại 3 K3
: Tế bào sàng trán Kuhn loại 4 K4
: Phẫu thuật PT
: Phẫu thuật nội soi mũi xoang PTNSMX
: Tế bào Tb
: Trƣờng hợp TH
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Kích thƣớc xoang trán theo tuổi ........................................................... 4
Hình 1.2: Hình ảnh CT scan của xoang trán .......................................................... 6
Hình 1.3: Các kiểu bám tận phần cao mỏm móc theo Stammberger .................... 9
Hình 1.4: Các kiểu bám tận của phần cao mỏm móc theo Landsberg ................... 9
Hình 1.5 : Mỏm móc bám vào cuốn giữa. ........................................................... 11
Hình 1.6: Mỏm móc đi bên trong của Agger nasi và gắn vào chỗ nối giữa cuốn
giữa và sàn sọ ....................................................................................................... 11
Hình 1.7:Tế bào Agger nasi trên CT scan ............................................................ 12
Hình 1.8: Động mạch sàng đƣợc treo tự do ......................................................... 14
Hình 1.9: Động mạch sàng trƣớc nằm sau tế bào trên ổ mắt .............................. 14
Hình 1.10: Phân loại trần sàng theo Keros .......................................................... 15
Hình 1.11: Phân loại tế bào trán của Kuhn .......................................................... 16
Hình 1.12: Tế bào sàng trán loại 1(K1) liên quan với Agger nasi. .................... 18
Hình 1.13: Tế bào sàng trán loại 2 (K2) liên quan với Agger nasi ................... 19
Hình 1.14:Tế bào sàng trán loại 3 (K3) và loại 4 (K4) theo phân loại của
Wormald ............................................................................................................... 19
Hình 1.15: Tế bào bóng trán ................................................................................ 20
Hình 1.16: Tế bào vách liên xoang trán ............................................................... 20
Hình 1.17: Kỹ thuật “bóc vỏ quả trứng” của Stammberger ................................. 23
Hình 1.18: Phân loại phẫu thuật xoang trán qua nội soi của Draf ....................... 26
Hình 1.19: Hệ thống khung định vị Horsely và Clark ......................................... 28
Hình 1.20: IGS thế hệ cũ với cánh tay định vị ..................................................... 30
Hình 1.21: Các quả cầu gắn trên trán bệnh nhân và trên dụng cụ: nhận và phản
xạ trở lại tia hồng ngọai phát ra từ 2 ống kính của camera .................................. 34
Hình 1.22: Cơ chế định vị của IGS quang học ................................................... 34
Hình 1.23: Hiển thị vị trí của đầu dụng cụ dƣới dạng dấu thập, đồng thời ở cả ba
mặt cắt axial, coronal và sagital, cùng với hình ảnh nội soi khi mổ. ................... 35
Hình 2.1: Hệ thống nội soi Karl Storz và ống nội soi các loại ............................ 45
Hình 2.2: Thìa nạo chữ J có gắn quả cầu định vị và kềm giraffe ........................ 45
Hình 2.3: Dụng cụ cắt hút (microdebrider) lƣỡi cong, và các mũi khoan xƣơng
xoang trán, sử dụng chung một thân máy. ........................................................... 46
Hình 2.4: Bộ dụng cụ phẫu thuật nội soi ............................................................. 46
Hình 2.5: Các dụng cụ góc sử dụng trong phẫu thuật nội soi xoang trán ............ 47
Hình 2.6: Hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh Kolibri cranial/ENT version 2.6 ......... 48
Hình 2.7: Đăng ký tƣơng tác bệnh nhân .............................................................. 50
Hình 2.8: Đăng ký tƣơng tác dụng cụ định vị ...................................................... 51
Hình 2.9: Phẫu thuật nội soi với IGS ................................................................... 51
Hình 2.10 Hiển thị đầu dụng cụ định vị trong ngách trán dƣới dạng dấu thập
trên 3 bình diện CT scan: coronal, axial và sagital .............................................. 52
Hình 2.11: Xác định và mở thông tế bào vách liên xoang trán (P) ..................... 54
Hình 2.12: Mổ lại ngách trán bị bít tắc (T) .......................................................... 55
Hình 2.13: Kỹ thuật tạo vạt niêm mạc ................................................................. 56
Hình 3.1: Mô tả hình ảnh sinh xƣơng ở ngách trán trên CT scan ........................ 73
Hình 3.2: Agger nasi lớn lấn vào xoang trán trên CT ba chiều. ......................... 75
Hình 3.3: Phù nề niêm mạc ngách trán ................................................................ 78
Hình 3.4: Thoái hóa polyp xoang trán ................................................................. 79
Hình 3.5: Hình ảnh sinh xƣơng ngách trán trên CTtƣơng ứng với lúc mổ ......... 79
Hình 3.6: Chất bã đậu trong xoang trán ............................................................... 80
Hình 3.7: Dính cuốn giữa-vách mũi xoang (T) .................................................... 83
Hình 3.8: Thăm dò và mở ngách trán .................................................................. 86
Hình 3.9: Hình ảnh ngách trán trong lúc mổ và sau mổ 10 tháng ....................... 91
Hình 3.10: Phù nề, thoái hóa polyp ngách trán sau mổ 9 tháng, ......................... 93
Hình 3.11: Hình ảnh CT scan trƣớc và sau mổ .................................................... 95
Hình 3.12: Mở tế bào K3 và xoang trán (T) có chất bã đậu ................................ 96
Hình 3.13: Viêm xoang trán (T) với polyp mũi độ 4 tái phát và tế bào bóng trán:
hình ảnh trƣớc, trong và sau mổ mổ 6 tháng. ...................................................... 97
Hình 3.14: Hình ảnh trƣớc, trong và sau mổ viêm xoang trán và polyp mũi ...... 98
Hình 3.15: Mổ lại ngách trán với IGS: hình ảnh trƣớc, trong và sau mổ ............ 99
Hình 4.1: Tế bào K1 và tế bào vách liên xoang trántrên CT ba chiều ............... 104
Hình 4.2: Hình ảnh tế bào bóng trán trên CT ba chiều ..................................... 104
Hình 4.3: Sử dụng dụng cụ cắt hút lƣỡi cong để mở rộng ngách trán ra trƣớc. 113
Hình 4.4: Nội soi rất khó phân biệt đâu là lỗ thông xoang trán ở TH này nếu
không có IGS ...................................................................................................... 115
Hình 4.5: Tế bào K1 đã đƣợc mở ....................................................................... 121
Hình 4.6: Tế bào K2 trên CT scan 3 chiều trƣớc mổ ....................................... 121
Hình 4.7: Đƣờng dẫn lƣu xoang trán nằm phía trong và sau tế bào K3 ........... 122
Hình 4.8: Chú ý động mạch sàng trƣớc khi mở tế bào trên ổ mắt ..................... 123
Hình 4.9: Mở tế bào bóng trán. .......................................................................... 124
Hình 4.10: Ngách trán bị tắc hoàn toàn và đƣợc mở rộng với IGS . ................. 127
Hình 4.11: Tắc ngách trán sau mổ ..................................................................... 130
Hình 4.12: Mở tế bào K3 ................................................................................... 137
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Phân bố tuổi của bệnh nhân ............................................................. 62
Biểu đồ 3.2: Tỉ lệ % cơ địa dị ứng của bệnh nhân ............................................... 63
Biểu đồ 3.3: Tiền căn phẫu thuật xoang của bệnh nhân ...................................... 64
Biểu đồ 3.4: Thời gian bệnh của bệnh nhân ....................................................... 65
Biểu đồ 3.5: Tỉ lệ % mức độ sẹo dính trƣớc mổ ở các TH mổ lại ....................... 82
Biểu đồ 3.6: Thống kê bệnh tích có thể là nguyên nhân gây tắc ngách trán ở các
trƣờng hợp mổ lại ................................................................................................. 85
Biểu đồ 3.7: So sánh % triệu chứng cơ năng trƣớc và sau mổ ............................ 89
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1:Phân bố mỗi bên ngách trán đƣợc mổ .................................................. 62
Bảng 3.2: Đặc điểm nghề nghiệp của bệnh nhân ................................................. 63
Bảng 3.3: Tiền căn và số lần phẫu thuật xoang ................................................... 65
Bảng 3.4: Mức độ nhức trán/nhức đầu trƣớc mổ ................................................. 66
Bảng 3.5: Mức độ nghẹt mũi trƣớc mổ ................................................................ 66
Bảng 3.6: Mức độ giảm khứu giác trƣớc mổ ....................................................... 67
Bảng 3.7: Triệu chứng cơ năng trƣớc mổ ............................................................ 67
Bảng 3.8: Tính chất dịch khe giữa trƣớc mổ ....................................................... 68
Bảng 3.9: Phù nề niêm mạc trƣớc mổ .................................................................. 68
Bảng 3.10: Polyp mũi trƣớc mổ ........................................................................... 69
Bảng 3.11: Sẹo dính trƣớc mổ ở các trƣờng hợp mổ lại ...................................... 70
Bảng 3.12: CT scan xoang trán trƣớc mổ ............................................................ 71
Bảng 3.13: Trung bình Lund-Mckay xoang trán trƣớc mổ ................................. 71
Bảng 3.14: Hình ảnh CT scan của các xoang cùng bên xoang trán nghiên cứu .. 72
Bảng 3.15: Trung bình Lund-Mackay hệ thống xoang bên mổ .......................... 73
Bảng 3.16: Thống kê các kiểu bám của phần cao mỏm móc ............................... 74
Bảng 3.17: Thống kê các loại tế bào ngách trán .................................................. 76
Bảng 3.18: Tình trạng niêm mạc ngách trán trong lúc mổ .................................. 78
Bảng 3.19: Bệnh tích ở ngách trán lúc mổ ........................................................... 78
Bảng 3.20: Mô tả thống kê số tế bào ngách trán và tiền căn phẫu thuật xoang .. 81
Bảng 3.21:Thống kê số tế bào ngách trán trong các TH tạo vạt niêm mạc ......... 81
Bảng 3.22: Thống kê hình ảnh sinh xƣơng trên CT scan ở các TH mổ lại ......... 83
Bảng 3.23: Thống kê tế bào ngách trán ở các trƣờng hợp mổ lại ........................ 84
Bảng 3.24: Các bệnh tích có thể là nguyên nhân gây bít tắc ngách trán ở 31
trƣờng hợp mổ lại có tiền căn mổ nội soi mũi xoang .......................................... 85
Bảng 3.25: Phẫu thuật các xoang khác cùng bên ................................................. 86
Bảng 3.26: So sánh % triệu chứng cơ năng trƣớc và sau mổ ............................. 89
Bảng 3.27: So sánh % cải thiện triệu chứng cơ năng của bệnh nhân .................. 90
Bảng 3.28: Nguyên nhân gây hẹp ngách trán sau mổ .......................................... 90
Bảng 3.29: Đánh giá kết quả thông thoáng của ngách trán ................................. 91
Bảng 3.30: Bảng 2x2 mối liên quan giữa sẹo dính trƣớc và sau mổ ................... 92
Bảng 3.31: Bảng 2x2 mối liên quan giữa polyp mũi trƣớc mổ và polyp ngách
trán sau mổ ........................................................................................................... 93
Bảng 3.32: So sánh tình trạng ngách trán sau mổ ................................................ 94
Bảng 3.33: CT scan xoang trán sau mổ (38 TH) ................................................. 95
1
MỞ ĐẦU
Phẫu thuật nội soi mũi xoang bắt đầu phát triển vào những năm thập niên
70 của thế kỷ hai mƣơi, nhờ vào sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong các
lĩnh vực chụp cắt lớp, ống nội soi quang học, nguồn sáng,... Ngày nay, phẫu
thuật nội soi mũi xoang đƣợc lựa chọn thay thế cho các phẫu thuật xoang kinh
điển trƣớc đây với nhiều ƣu điểm nhƣ: ít xâm lấn, ít gây phù nề sau mổ, không
để lại sẹo, phù hợp với các đặc điểm về sinh lý và giải phẫu của mũi xoang.
Tuy vậy phẫu thuật nội soi mũi xoang vẫn còn những hạn chế: là tầm nhìn
bị giới hạn: phạm vi phẫu trƣờng quan sát đƣợc là từ đầu ống soi trở ra trƣớc,
là hình ảnh hai chiều, không có đƣợc một phẫu trƣờng toàn diện và có chiều
sâu, có thể xảy ra biến chứng nguy hiểm nhƣ tổn thƣơng sàn sọ, ổ mắt, thần
kinh thị, động mạch cảnh nếu phẫu thuật viên không nắm rõ cấu trúc giải
phẫu hay không đƣợc đào tạo bài bản.
Sự ra đời của hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều (IGNS hay
IGS), và bắt đầu đƣợc sử dụng trong lĩnh vực phẫu thuật nội soi mũi xoang tại
Hoa kỳ vào những năm cuối của thập niên 1990 và những năm đầu của thập
niên 2000[74], đã giúp khắc phục đƣợc những hạn chế của phẫu thuật nội soi
mũi xoang, làm cho cuộc mổ trở nên an toàn và triệt để hơn: giúp định vị và
tránh làm tổn thƣơng các cấu trúc giải phẫu quan trọng nhƣ xƣơng giấy, ổ
mắt, sàn sọ, thần kinh thị, động mạch cảnh trong,… [19], [43], [63], [78]
Trong phẫu thuật nội soi mũi xoang, phẫu thuật ngách trán đƣợc xem là
khó do cấu trúc ngách trán tƣơng đối hẹp, giải phẫu phức tạp, góc nhìn qua
nội soi bị hạn chế, dễ gây tổn thƣơng các cấu trúc lân cận nhƣ động mạch
2
sàng trƣớc, ổ mắt và hố não trƣớc[31], [48]. Hệ thống IGS rất hữu ích trong
phẫu thuật xoang trán: giúp khảo sát chi tiết cấu trúc giải phẫu ngách trán
trƣớc mổ, giúp định vị chính xác trong lúc mổ, và tránh làm tổn thƣơng các
cấu trúc lân cận nhƣ xƣơng giấy, ổ mắt, sàn sọ [17], [32], [54], [64], [85].
Tại Việt nam, phẫu thuật nội soi mũi xoang ngày càng phát triển rộng rãi,
tuy nhiên, phẫu thuật nội soi ngách trán vẫn còn một số hạn chế, nhất là phẫu
tích các tế bào ngách trán cũng nhƣ các trƣờng hợp mổ lại, do mức độ khó
của phẫu thuật và các tai biến, biến chứng có thể xảy ra. Các tế bào ngách
trán rất khó nhận định đƣợc trong lúc mổ nếu không có IGS; các tế bào trên ổ
mắt, tế bào K3 khi nhìn từ bên dƣới qua nội soi rất khó phân biệt và có thể
nhầm lẫn là đƣờng dẫn lƣu xoang trán, và điều này cũng đƣợc đề cập trong y
văn bởi các phẫu thuật viên mũi xoang nổi tiếng nhƣ Kuhn, Vaugahan,
Senior,.. [15], [90]; Mô sẹo hay xƣơng bít tắc hoàn toàn ngách trán kết hợp
với tình trạng mất mốc giải phẫu khi mổ lại làm cho việc tìm ra đƣờng dẫn
lƣu xoang trán rất khó khăn và nguy hiểm, dễ tổn thƣơng mảnh sàng, sàn sọ,
có khi phải ngƣng phẫu thuật để bảo đảm an toàn cho bệnh nhân. Hệ thống
IGS sẽ giúp khắc phục những khó khăn này.
Kể từ khi hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh IGS đƣợc đƣa vào sử dụng tại
bệnh viện Tai Mũi họng TPHCM vào năm 2007, chúng tôi từng bƣớc tiến
hành các phẫu thuật khó và phức tạp, trong đó có phẫu thuật nội soi ngách
trán. Với mục đích góp phần xây dựng quy trình phẫu thuật nội soi ngách
trán một cách an toàn và hiệu quả khi sử dụng IGS, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu “Phẫu thuật nội soi ngách trán với hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh
định vị ba chiều.”
3
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mục tiêu tổng quát:
Nghiên cứu ứng dụng hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều
IGS trong phẫu thuật nội soi ngách trán.
2. Mục tiêu chuyên biệt
Mô tả đặc điểm lâm sàng, nội soi, CT scan; và xác định tỉ lệ Agger
nasi, các loại tế bào ngách trán của các trƣờng hợp viêm xoang trán
mạn tính trong mẫu nghiên cứu.
Mô tả phẫu thuật nội soi ngách trán với hệ thống hƣớng dẫn hình
ảnh định vị ba chiều IGS, và đánh giá kết quả sự thông thoáng của
ngách trán sau mổ.
Đề xuất quy trình phẫu thuật nội soi ngách trán có sử dụng hệ thống
hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều IGS.
4
1. CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Giải phẫu xoang trán, đƣờng dẫn lƣu xoang trán và ngách trán
1.1.1. Xoang trán
Xoang trán bắt đầu phát triển vào tháng thứ tƣ của thai nhi khi có sự hình
thành của vùng mũi trán. Đây là xoang mũi phát triển sau cùng. Ở trẻ sơ sinh,
xoang trán còn rất nhỏ và thƣờng không phân biệt đƣợc với các tế bào sàng
trƣớc. Lúc 3 tuổi, xoang trán bắt đầu phát triển vào trong xƣơng trán và tiếp tục
lớn lên theo chiều dọc với tốc độ 1,5mm mỗi năm cho đến năm 15 tuổi. Xoang
NL 12t 6t 1t SS
trán kết thúc phát triển và đạt kích thƣớc tối đa vào năm 20 tuổi.[24],[53],[58]
Hình 1.1: Kích thước xoang trán theo tuổi: sơ sinh, 1 tuổi, 6 tuổi, 12 tuổi và lúc trưởng thành “Nguồn Levine 2005, Sinus Surgery - Endoscopic and Microscopic Approaches”[53]
5
Xoang trán là hốc rỗng nằm trong xƣơng trán ngay trên hốc mũi, có vách
xƣơng ngăn đôi thành hai xoang trán: xoang trán phải và trái, kích thƣớc không
đều nhau. Kích thƣớc trung bình của xoang trán: chiều cao 24,3mm, chiều rộng
29,0mm và sâu 20,5mm[59]. Có 4 hình thái xoang trán: không có xoang trán,
xoang trán nhỏ, xoang trán vừa, và xoang trán lớn rất phát triển, có thể chiếm
gần toàn bộ xƣơng trán [2], [25].
Xoang trán có 3 mặt:
Mặt trƣớc dày 3-4 mm thƣờng nằm ở vùng giới hạn cung mày - gốc mũi.
Mặt sau là vách xƣơng mỏng khoảng 1mm, liên quan đến màng não và
não thùy trán.
Mặt dƣới hay đáy xoang trán gồm 2 đoạn: đoạn ổ mắt: ở ngoài, lồi vào
trong lòng xoang, có thể có các vách xƣơng nhỏ đi từ đáy xoang ngăn
thành các ô nhỏ; đoạn sàng nằm thấp hơn, liên quan với các tế bào sàng
tạo nên đƣờng dẫn lƣu vào khe giữa, với hình dạng giống phễu nên gọi là
phễu trán.
Vách liên xoang trán có hình tam giác ngăn cách xoang trán làm 2 xoang
có đƣờng dẫn lƣu riêng biệt. Trong vách liên xoang trán có thể tồn tại các tế bào
liên xoang trán. Các tế bào liên xoang trán có đƣờng dẫn lƣu riêng đổ vào ngách
trán một bên [53].
1.1.2. Đƣờng dẫn lƣu xoang trán [20],[59], [76]:
Trƣớc kia, danh từ đƣợc sử dụng là “ frontal sinus outflow tract”, bao gồm
cả phễu trán (frontal sinus infudibulum), lỗ thông tự nhiên xoang trán (frontal
sinus ostium) và ngách trán (frontal recess); và có sự nhầm lẫn về các cấu trúc
6
này, và với phức hợp sàng trƣớc. Nhờ sự phát triển của phẫu thuật nội soi mũi
xoang, khái niệm phễu trán và ngách trán đƣợc quan tâm hơn và định nghĩa
chính xác hơn. Năm 1995, Hội nghị quốc tế về “Bệnh mũi xoang” đã thống nhất
đƣa ra mô tả về phễu trán và ngách trán và đƣợc sử dụng cho đến nay [20],[59].
Hình 1.2: Hình ảnh CT scan của xoang trán: lỗ thông tự nhiên xoang trán (mũi tên), ngách trán) (dấu *), tế bào Agger nasi (AN) “Nguồn: Duque 2005, The Frontal Sinus” [25]
Đƣờng dẫn lƣu xoang trán (frontal sinus drainage pathway) có 3 phần
khác nhau hợp lại có dạng một cái đồng hồ cát. Phần trên của đồng hồ cát là
phễu trán, là phần dƣới nhất của xoang trán và hẹp dần về phía dƣới, phía sau và
phía trong. Eo của đồng hồ cát là lỗ thông tự nhiên của xoang trán, tiếp nối với
chỗ thấp nhất của phễu trán. Phần dƣới của đồng hồ cát là ngách trán, có hình cái
phễu úp ngƣợc, tiếp nối từ lỗ thông tự nhiên của xoang trán. Ngách trán nằm bên
trong phức hợp sàng trƣớc và có cấu trúc phức tạp, và chịu trách nhiệm cho hầu
hết trƣờng hợp viêm xoang trán [20],[59].
7
1.1.3. Ngách trán và các cấu trúc lân cận:
Ngách trán có các thành phụ thuộc vào các cấu trúc bao quanh nó, làm cho
nó là một khoảng không gian thụ động (“passive space”), và không phải có cấu
trúc dạng ống mà trƣớc kia thƣờng đƣợc gọi một cách không chính xác là ống
mũi trán [58].
Danh từ ngách trán đƣợc Killian sử dụng lần đầu tiên vào năm 1903. Năm
1939 Van Alyea đề cập đến “ngách trán” khi ông nghiên cứu trên xác và nhận
thấy vùng này có nhiều tế bào có thể gây hẹp ngách trán gây viêm xoang trán
mạn tính. Ông cũng cảnh báo rằng khi phẫu thuật ngách trán nếu không lấy hết
các tế bào này sẽ gây ra viêm xoang trán mạn do thầy thuốc gây ra. Tuy nhiên
công trình nghiên cứu của Van Alyea bị xem nhẹ và lãng quên cho đến thời kỳ
phát triển của phẫu thuật nội soi mũi xoang, và đƣợc thống nhất về tên gọi
“ngách trán = frontal recess” vào năm 1995 tại Hội nghị quốc tế về “Bệnh mũi
xoang”[28], [59].
Đa số ngách trán dẫn lƣu ra phía trên và phía trong của phễu sàng, một số
trƣờng hợp thì dẫn lƣu trực tiếp vào phễu sàng, một số ít trƣờng hợp dẫn lƣu vào
ngách trên bóng sàng [59].
Giới hạn của ngách trán nhƣ sau: phía ngoài là xƣơng giấy ổ mắt; phía trong
là phần trên cuốn mũi giữa; phía trên là sàn sọ trƣớc; phía sau là thành trƣớc của
bóng sàng, động mạch sàng trƣớc, chỗ bám của bóng sàng vào đáy sọ; phía trƣớc
là tế bào Agger nasi, các tế bào sàng trán. Phần cao của mỏm móc tùy vào vị trí
bám của nó mà có thể là một phần của thành trong hay thành ngoài của ngách
trán [59].
8
1.1.3.1. Phần cao của mỏm móc:
Phần cao của mỏm móc có liên quan chặt chẽ với ngách trán. Phần cao của
mỏm móc trƣớc đây đƣợc cho là mốc quan trọng nhất để tiếp cận ngách trán khi
phẫu thuật nội soi xoang trán. Gần đây, các nhà phẫu thuật nội soi mũi xoang
cho rằng tế bào Agger nasi mới là mốc giải phẫu chính yếu và quan trọng để tiếp
cận ngách trán. Do đó ngoài việc cần khảo sát vị trí bám của phần cao mỏm móc,
cần tìm hiểu thêm sự liên quan của phần cao mỏm móc đối với tế bào Agger nasi
[98].
*Các kiểu bám của phần cao mỏm móc:
Theo Stammberger, phần cao của mỏm móc bám tận theo ba kiểu: bám
vào xƣơng giấy (chiếm đa số trƣờng hợp: 85%), bám vào sàn sọ (14%), và cuốn
mũi giữa (1%) [92].
Nếu phần cao mỏm móc bám vào sàn sọ hay cuốn giữa, ngách trán dẫn
lƣu vào phần tận cùng phía trên của phễu sàng. Nếu phần cao mỏm móc bám vào
xƣơng giấy, ngách trán dẫn lƣu trực tiếp vào phần trên của khe giữa, lúc này
phễu sàng kết thúc ở phía trên bằng một ngách gọi là ngách tận (terminal recess)
[26], [28], [59], [92].
Phễu sàng (ethmoidal infundibulum) là một khoảng không gian thật sự
đƣợc giới hạn bên ngoài bởi xƣơng giấy, phía trƣớc trong bởi mỏm móc và phía
sau bởi bóng sàng. Phễu sàng dẫn lƣu theo hƣớng vào trong và đổ vào khe giữa
qua khe bán nguyệt dƣới (hiatus semilunaris ethmoidalis), là một khe nằm giữa
bờ tự do của mỏm móc và mặt trƣớc của bóng sàng tƣơng ứng [28], [59].
9
A B C
Hình 1.3: Các kiểu bám tận phần cao mỏm móc theo Stammberger: A. Mỏm móc bám vào xương giấy (85%), B. Mỏm móc bám vào sàn sọ (14%),C. Mỏm móc bám vào cuốn giữa(1%)“Nguồn: Stammberger 2007,Endo-Press”[91]
Landsberg và Friedman khảo sát trên 144 phim CT scan cho thấy có 6
1. 52% bám vào xương giấy
2. 18,5% bám vào thành sau
trong của tế bào ager nasi
3. 17,5% bám vào xương giấy và
chỗ nối của cuốn giữa và
mảnh sàng
4. 7% bám và chỗ nối của cuốn
giữa và mảnh sàng
5. 3,6% bám vào trần sàng
6. 1,4% bám vào cuốn giữa
kiểu bám tận phần cao của mỏm móc với hình dáng và tỉ lệ nhƣ hình 1.4. [49]
Hình 1.4: Các kiểu bám tận của phần cao mỏm móc theo Landsberg “Nguồn: Landsberg 2001, Laryngoscope”[49]
10
Trên thực tế lâm sàng, phẫu thuật viên thƣờng ứng dụng theo phân loại
của Stammberger.
1.1.3.2. Liên quan của phần cao mỏm móc đối với tế bào Agger nasi [27], [98],
[105]:
Phần cao mỏm móc bám vào xƣơng giấy: chiếm đa số trƣờng hợp
Trong hầu hết trƣờng hợp, phần cao mỏm móc gắn vào xƣơng giấy.
Phần cao hƣớng lên trên của mỏm móc lúc này sẽ tạo thành thành trong
của Agger nasi.[98]
Phần cao mỏm móc bám vào cuốn giữa:
Khi có sự hiện diện kèm theo một tế bào Aggernasi lớn, và tế
bào này đẩy chèn vào phần cao của mỏm móc và làm cho phần cao của
mỏm móc hƣớng vào phía trong và gắn vào cuốn giữa (hình 1.5).
Trong trƣờng hợp này, Agger nasi sẽ đẩy đƣờng dẫn lƣu xoang trán ra
phía sau [98].
Phần cao mỏm móc bám vào sàn sọ:
Có một tỉ lệ nhỏ mỏm móc không liên quan gì với Agger nasi,
trong trƣờng hợp này, mỏm móc thƣờng chạy thẳng lên trên và gắn vào
sàn sọ. Mỏm móc đi bên trong của Agger nasi và gắn vào chỗ nối giữa
cuốn giữa và sàn sọ (hình 1.6) [98].
11
A B
Hình 1.5: Mỏm móc bám vào cuốn giữa. A: Agger nasi lớn “đẩy” phần cao mỏm móc gắn vào cuốn giữa. B: mỏm móc bám vào cuốn giữa (T), (mũi tên chỉ vào Agger nasi) “Nguồn: Wormald 2008, Endoscopic sinus surgery- Anatomy, three-dimensional reconstruction, and surgical technique”[98]
Hình 1.6: Mỏm móc đi bên trong của Agger nasi (mũi tên liên tục) và gắn vào chỗ nối giữa cuốn giữa và sàn sọ (mũi tên đứt quãng) “Nguồn: Wormald 2008,Endoscopic sinus surgery-Anatomy, three- dimensional reconstruction, and surgical technique”[98]
12
1.1.3.3 Tế bào Agger nasi (tế bào đê mũi):
Ager nasi là một tế bào nằm ở xƣơng lệ chỗ nhô ra ở thành bên hốc mũi
trông tựa nhƣ cái đê nên đƣợc gọi là đê mũi (“Agger” gốc Latin có nghĩa là
“đê”), nằm ngay phía trƣớc và phía trên chỗ bám của cuốn mũi giữa. Tế bào
Agger nasi đƣợc hình thành do sự khí hóa của tế bào sàng trƣớc. Giới hạn trƣớc
là mỏm trán của xƣơng hàm trên, phía trên là ngách trán và xoang trán, phía
trƣớc ngoài là xƣơng chính mũi, phía dƣới là mỏm móc, và phía dƣới ngoài là
xƣơng lệ.
Tế bào Agger nasi có vai trò trong bệnh sinh viêm xoang trán và là cấu
trúc giải phẫu quan trọng trong phẫu thuật nội soi ngách trán. Mặt trên hay trần
của nó là sàn của xoang trán (vùng trƣớc trong) và là thành phần quan trọng của
phần trƣớc ngách trán [11], [47],[50],[52]. Tế bào Agger nasi có thể khí hóa rộng
xuống phía trƣớc trong làm khí hóa phần trên mỏm móc. Tỷ lệ có tế bào Agger
nasi khá cao có thể trên 90% trƣờng hợp, thay đổi theo từng nghiên cứu:
Kennedy : gần 100%, Bolger: 98,5% [57], [58], [96].
Hình 1.7: Tế bào Agger nasi trên CT scan (mũi tên chỉ) “Nguồn: Wormald 2008, Endoscopic sinus surgery-Anatomy, three- dimensional reconstruction, and surgical technique”[98]
13
1.1.3.4. Các liên quan lân cận khác của ngách trán:
Động mạch sàng trƣớc:
Động mạch sàng trƣớc là một nhánh của động mạch mắt. Động mạch sàng
trƣớc từ ổ mắt chui vào khối bên xƣơng sàng, đi qua trần xoang sàng trong một
ống xƣơng mỏng, nhƣng trong 20% trƣờng hợp không tồn tại ống xƣơng mà treo
lơ lửng dƣới trần xoang sàng [27],[57]. Động mạch sàng trƣớc thƣờng có thể
nằm ngay sau tế bào trên ổ mắt. Nếu trần của bóng sàng gắn vào sàn sọ, động
mạch sàng trƣớc sẽ đƣợc tìm thấy phía sau chỗ gắn của thành trƣớc bóng sàng
vào sàn sọ. Động mạch này có thể đi theo hƣớng nằm trong mặt phẳng ngang,
nhƣng đa số thì theo hƣớng xéo ra trƣớc khi đi từ ngoài vào trong. Động mạch
sàng trƣớc cho các nhánh đến vách ngăn mũi, thành ngoài hốc mũi và nhánh vào
nội sọ [27],[57].
Mức độ bộc lộ của động mạch sàng trƣớc tùy thuộc vào mức độ khí hóa
của các xoang, và tùy thuộc vào mảnh sàng xuống thấp bao nhiêu. Nếu mức độ
khí hóa của các xoang thấp và mảnh sàng nằm ngang với trần sàng, thì nó có
khuynh hƣớng bi xƣơng che khuất hay chạy bên trong một gờ xƣơng; nếu xoang
thông khí nhiều và có một tế bào trên ổ mắt lớn, động mạch sàng trƣớc dễ bị bộc
lộ và tổn thƣơng khi phẫu thuật [82], [98].
Chỗ chui vào nội sọ của động mạch sàng trƣớc là nơi yếu nhất của trần
sàng, dễ bị tổn thƣơng gây chảy dịch não tủy [79], [80]. Nhận ra động mạch sàng
trƣớc khi tiến hành phẫu thuật nội soi mũi xoang giúp tránh đƣợc tai biến chảy
máu, tụ máu ổ mắt và giảm nguy cơ tổn thƣơng sàn sọ gây chảy dịch não tủy [2].
14
Hình 1.8: Động mạch sàng được treo tự do (mũi tên chỉ) đối với hệ xoang khí hóa cao“Nguồn: Simmen 2005, Manual of endoscopic sinus surgery and its extended applications”[82]
Hình 1.9: Động mạch sàng trước (mũi tên chỉ) nằm sau tế bào trên ổ mắt (dấu *) “Nguồn: Simmen 2005, Manual of endoscopic sinus surgery and its extended applications”[82]
Trần sàng (Fovea ethmoidalis) và mảnh sàng (cribriform plate)
Từ mảnh ổ mắt xƣơng trán có một cấu trúc xƣơng mảnh, hở ở trên băng
qua tới mảnh bên của mảnh sàng tạo nên trần hoặc mái che cho các tế bào sàng
những lõm, khe tƣơng ứng. Do vậy cấu tạo của trần sàng phức tạp và không
đồng nhất. Sự khác biệt của trần sàng khác nhau tùy thuộc vào chiều dài mảnh
bên của mảnh sàng (lateral lamella of the cribriform plate), và đây là nơi yếu
nhất, mỏng nhất của sàn sọ [53], [59], [66], [98].
15
Keros nghiên cứu và đƣa ra phân loại 3 dạng trần sàng khác nhau:[59]
- Keros I: trần sàng thấp, gần nhƣ cùng mặt phẳng với mảnh sàng, mảnh
bên của mảnh sàng rất ngắn, khoảng cách giữa rãnh khứu và trần sàng
1-3mm. (hình 1.10a)
- Keros II: trần sàng trung bình, mảnh bên cao vừa, khoảng cách giữa
rãnh khứu và trần sàng 3-7mm. (hình 1.10b)
- Keros III: trần sàng cao, mảnh bên cao tạo nên rãnh khứu khá sâu,
khoảng cách giữa rãnh khứu và trần sàng 7-16mm (hình 1.10c). Ở loại
này, trần sàng cách biệt hoàn toàn với mảnh sàng. Đây là loại trần sàng
nguy hiểm, dễ gây ra biến chứng vỡ vào hố não giữa, chảy dịch não tủy
khi khẫu thuật.
Hình 1.10: Phân loại trần sàng theo Keros: a. Keros I, b. Keros II, c. Keros III “Nguồn: McLaughlin 2001, Otolaryngol Clin North Am”[59]
16
1.1.4. Các tế bào ngách trán:
Các tế bào ngách trán (frontal recess cell) là các tế bào thuộc phạm vi
ngách trán, khá phức tạp gồm: tế bào Agger nasi, tế bào trên ổ mắt, các tế bào
sàng trán, tế bào trên bóng, tế bào bóng trán, và tế bào vách liên xoang trán
[21],[90].
Phân loại các tế bào ngách trán theo Kuhn (hình1.11) [47],[88]
Tế bào Agger nasi.
Tế bào trên ổ mắt.
Tế bào trán (hay còn gọi là tế bào sàng trán)
- Loại 1: một tế bào trán duy nhất nằm trên tế bào Agger nasi
- Loại 2: một dãy ≥ 2 tế bào trán nằm trên tế bào Agger nasi
- Loại 3: một tế bào có kích thƣớc lớn khí hóa vào trong xoang trán
- Loại 4: một tế bào nằm trong xoang trán
Hình 1.11: Phân loại tế bào trán của Kuhn “Nguồn: Duque 2005, The Frontal Sinus”[25]
17
Wormald đƣa ra phân loại Kuhn cải tiến, trong đó điểm cải tiến quan trọng
nhất là định nghĩa lại chính xác hơn đối với các tế bào ngách trán. Tế bào sàng
trán là tế bào phải thỏa 2 điều kiện sau: là tế bào sàng trƣớc, và nằm gần với
mỏm trán của xƣơng hàm trên (frontal process of the maxilla). Tế bào sàng trán
đƣợc phân loại dựa vào số lƣợng của chúng; và vị trí của chúng có lấn vào trong
xoang trán qua lỗ thông tự nhiên xoang trán hay không [100], [102].
Tế bào Agger nasi: là tế bào hoặc nằm phía trước chân bám cuốn mũi
giữa, hoặc nằm ngay phía trên của phần trước nhất của chân bám cuốn
giữa vào thành ngoài hốc mũi.
Tế bào trên ổ mắt: thƣờng xuất phát từ vị trí của động mạch sàng trƣớc, là
tế bào sàng kéo dài theo hƣớng trên và sau ổ mắt từ ngách trán.
Tế bào sàng trán: tế bào sàng trước, và nằm gần với mỏm trán của
xương hàm trên:
- Loại 1 (K1): một tế bào trán duy nhất nằm trên tế bào Agger nasi.
- Loại 2 (K2): một dãy ≥ 2 tế báo trán nằm trên tế bào Agger nasi.
- Loại 3 (K3): một tế bào có kích thƣớc lớn khí hóa vào trong xoang
trán nhưng không vượt quá 50% chiều cao của xoang trán trên
phim CT scan.
- Loại 4 (K4): một tế bào thông khí vào trong xoang trán và vượt
quá 50% chiều cao của xoang trántrên phim CT scan (hình1.14).
Tế bào nằm đơn độc trong xoang trán theophân loại Kuhn cổ điển
rất hiếm gặp và không có ý nghĩa trên lâm sàng.
18
Tế bào trên bóng: một hay vài tế bào nằm trên bóng sàng nhƣng không lấn
vào xoang trán.
Tế bào bóng trán: tế bào trên bóng khí hóa dọc sàn sọ vào trong xoang
trán, dọc theo thành sau xoang trán.
Tế bào vách liên xoang trán: nằm trong vách liên xoang trán, đẩy đƣờng
dẫn lƣu xoang trán ra ngoài và làm hẹp lỗ thông tự nhiên xoang trán. Tế
bào này luôn mở thông vào ngách trán.
(Ghi chú: phần in nghiêng là phần cải tiến trong phân loại của tác giả Wormald
so với Kuhn)
Hình 1.12: Tế bào sàng trán loại 1- K1 (1) liên quan với Agger nasi (2). “Nguồn: Wormald, Endoscopic sinus surgery-Anatomy, three-dimensional reconstruction, and surgical technique”[98]
19
Hình 1.13: Tế bào sàng trán loại 2- K2 (2,3), liên quan với Agger nasi (1)“Nguồn: Wormald 2008, Endoscopic sinus surgery-Anatomy, three- dimensional reconstruction, and surgical technique”[98]
Hình 1.14: Tế bào sàng trán loại 3 (K3) và loại 4 (K4) theo phân loại của Wormald “Nguồn: Wormald 2008, Endoscopic sinus surgery-Anatomy, three-dimensional reconstruction, and surgical technique”[98]
20
Hình 1.15: Tế bào bóng trán (dấu *) “Nguồn Lee 2004, Otolaryngol Head Neck Surg.” [51]
Hình 1.16: Tế bào vách liên xoang trán (mũi tên đen) “Nguồn: Wormald 2008, Endoscopic sinus surgery-Anatomy, three- dimensional reconstruction, and surgical technique”[98]
Phân loại cải tiến của Wormald là phân loại dễ ứng dụng trên lâm sàng và
tƣơng đối hoàn chỉnh nhất, nó cho phép phẫu thuật viên nắm rõ cấu trúc ngách
trán và vị trí của các tế bào ngách trán, biết đƣợc tế bào ngách trán nào có thể lấy
đƣợc qua nội soi, tế bào nào cần phải mở đƣờng ngoài phối hợp mới lấy đƣợc.
21
Chẳng hạn nhƣ tế bào sàng trán loại 4 (K4) không thể lấy đƣợc qua nội soi mà
phải dùng phẫu thuật Lothrop cải tiến hay mổ phối hợp nội soi và đƣờng ngoài.
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi sử dụng phân loại cải tiến của Wormald.
1.2 Sơ lƣợc lịch sử phát triển phẫu thuật nội soi xoang trán - Phân loại
phẫu thuật nội soi ngách trán và xoang trán:
1.2.1. Sơ lược lịch sử phát triển phẫu thuật nội soi xoang trán:
1921, Lynch đƣa ra phƣơng pháp phẫu thuật xoang trán theo đƣờng ngoài
có hay không kèm tiệt căn xoang trán [34], [38].
Sewall (1934)-Boyden (1952) phẫu thuật xoang trán theo đƣờng ngoài có
tái tạo vùng ống mũi trán bằng vạt niêm mạc. Đây là các kỹ thuật đƣợc sử
dụng chủ yếu trong phẫu thuật xoang trán từ thập niên 1920 đến đầu thập niên
1980. Tuy nhiên phẫu thuật xoang trán qua đƣờng ngoài vẫn còn nhiều hạn
chế nhƣ gây sẹo, xâm lấn nhiều, gây tổn thƣơng, tắc nghẽn vùng mũi trán
[34], [38].
Phẫu thuật dẫn lƣu xoang trán đƣờng nội mũi cũng đƣợc thực hiện rất sớm
do Mosher (1912) tuy nhiên có rất nhiều hạn chế nhƣ phẫu trƣờng hẹp, nguồn
sáng kém, tỉ lệ tai biến và thất bại cao [58].
Cùng với sự phát triển của ống nội soi quang học và CT scan, phẫu thuật
nội soi xoang trán trở nên phổ biến và là phẫu thuật đƣợc chọn lựa đối với
hầu hết các bệnh lý xoang trán. Trong hơn hai thập niên qua, phẫu thuật
xoang trán đã đạt đƣợc sự tiến bộ rất lớn nhờ chuyển từ phẫu thuật với đèn
clar sang phẫu thuật nội soi. Cuộc thay đổi mang tính cách mạng này do công
22
của nhà tiên phong là Messerklinger, ngƣời đầu tiên xác định rằng mỗi xoang
đều có hệ niêm mạc lông chuyển, dẫn lƣu dịch trong xoang đổ về lỗ thông tự
nhiên của nó, bất chấp có sự hiện diện của lỗ thông phụ hay lỗ thông khác
đƣợc tạo ra. Messerklinger (ngƣời Áo) và Wigan (ngƣời Đức) là hai ngƣời
đầu tiên giới thiệu kỹ thuật mổ nội soi mũi xoang đầu tiên ở châu Âu vào năm
1978. Triết lý của Messerklinger này sau đó đƣợc phổ biến rộng rãi bởi
Kennedy ở Mỹ vào giữa thập niên 80, và Stammberger ở châu Âu vào thập
niên 90 [34]. Phẫu thuật nội soi mũi xoang hiện nay đƣợc xem là chọn lựa
điều trị ngoại khoa đối với viêm mũi xoang mạn không đáp ứng với điều trị
nội khoa.
Nhiều kỹ thuật mổ nội soi ngách trán đã ra đời. Năm 1985, Kennedy giới
thiệu kỹ thuật mở ngách trán qua nội soi: bảo tồn niêm mạc, phục hồi hệ
niêm dịch xoang. Năm 1990, Schaefer và Close báo cáo phẫu thuật xoang
trán qua nội soi cho 36 trƣờng hợp viêm xoang trán mạn tính với kết quả của
phẫu thuật mở xoang trán là 12 bệnh nhân khỏi hoàn toàn và 11 bệnh nhân có
cải thiện. Năm 1991, Draf báo cáo 100 bệnh nhân đƣợc phẫu thuật dƣới kính
hiển vi kết hợp với ống nội soi: với phẫu thuật mở sàng trán (frontoethmoid
surgery) cho bệnh lý xoang trán. Draf giới thiệu 3 kỹ thuật: Draf I,II và III với
tỉ lệ thành công chung là 90%, 10% thất bại sau đó đƣợc phẫu thuật xóa bỏ
xoang trán [58].
Năm 1995, Stammberger giới thiệu kỹ thuật "bóc vỏ quả trứng"
(uncapping the egg) để mở ngách trán trên quan điểm bảo tồn niêm mạc.
Ông xem ngách trán giống nhƣ cái ly chứa vỏ quả trứng bị úp ngƣợc. Cổ ly
là lỗ thông tự nhiên (ostium) xoang trán, vỏ quả trứng là tế bào Agger nasi.
23
Khi lấy hết vỏ quả trứng mà không tƣớc bỏ niêm mạc sẽ mở thông đƣợc
ngách trán [91].
Senior BA đƣa ra quan điểm “ bóc vỏ nhiều quả trứng” (uncapping the
eggs): do ngách trán không chỉ có tế bào Agger nasi mà còn có nhiều loại tế
bào khác nhƣ tế bào sàng trán, tế bào trên bóng, tế bào bóng trán …, cần phải
lấy đi khi gây tắc nghẽn.
Hình1.17: Kỹ thuật “bóc vỏ quả trứng” của Stammberger “Nguồn: Stammberger 2007, Endo Press”[91]
Năm 2003, Koutakis và Gross báo cáo kết quả lâu dài của phẫu thuật
Lothrop cải tiến cho thấy hiệu quả tƣơng đƣơng với phẫu thuật tiệt căn xoang
trán theo đƣờng ngoài nhờ vào sự phát triển của dụng cụ phẫu thuật nội soi
cũng nhƣ tay nghề của phẫu thuật viên. Stankiewics và Wachter, năm 2003,
báo cáo tỉ lệ thành công phẫu thuật qua nội soi cho các trƣờng hợp đã đƣợc
phẫu thuật theo đƣờng ngoài là 90% [58].
24
Phẫu thuật nội soi xoang trán hiện nay ngày càng đƣợc phát triển và hoàn
thiện do hiểu biết sâu rộng về giải phẫu, sinh lý bệnh, cũng nhƣ sự phát triển
của các phƣơng tiện nội soi và CT scan.
1.2.2. Phân loại phẫu thuật nội soi ngách trán và xoang trán:
Phẫu thuật nội soi xoang chức năng (Functional Endoscopic Sinus
Surgery: FESS) dành cho xoang trán lúc đầu để dùng cho những bệnh tích ở
vùng sàng trƣớc ngay bên dƣới xoang trán hơn là dùng cho bệnh tích ở ngách
trán, và ở lỗ thông tự nhiên xoang trán, hay ở trong lòng xoang trán. Trong
trƣờng hợp này chỉ cần làm sạch các tế bào sàng trƣớc gây tắc nghẽn do cấu
trúc hay do viêm, sẽ trả lại cho xoang trán đƣờng dẫn lƣu thông khí tự nhiên.
Trong phẫu thuật nội soi chức năng xoang trán cần tránh làm tổn thƣơng, lột
bỏ niêm mạc và đụng chạm đến lỗ thông tự nhiên xoang trán để tránh gây sẹo
hẹp, tái phát sau mổ. Tuy nhiên phẫu thuật nội soi chức năng xoang trán chỉ
đáp ứng đƣợc những trƣờng hợp viêm nhẹ và đơn giản ở ngách trán và xoang
trán [102].
Nhƣng khi bệnh tích nặng, lan rộng hay do cấu trúc phức tạp, thì cần phải
phẫu tích ở ngách trán hay có khi cả ostium xoang trán và xoang trán. Dƣới
đây là phân loại của Draf về phạm vi và mức độ của phẫu thuật xoang trán
qua nội soi.
Phân loại phẫu thuật nội soi xoang trán của Draf:[23]
Draf I (endoscopic frontal recess surgery): nạo sàng trƣớc hoàn toàn:
lấy sạch các tế bào sàng trƣớc bao gồm cả các tế bào thuộc ngách trán,
xoang trán sẽ đƣợc dẫn lƣu, không động chạm đến ostium xoang trán.
25
Draf II (endoscopic frontal sinusotomy): mở thông xoang trán, đụng
chạm đến ostium xoang trán.
- IIA: lấy bỏ sàn xoang trán từ xƣơng giấy đến cuốn giữa, có thể sử
dụng khi cần lấy bỏ tế bào sàng trán phát triển lên trên vƣợt quá
ostium xoang trán vào trong xoang trán (tế bào K 3)
- IIB: Lấy bỏ sàn xoang trán từ vách ngăn đến xƣơng giấy để mở
rộng tối đa xoang trán một bên: thƣờng phải sử dụng khoan khi mở
sàn xoang trán về phía trong vì xƣơng vùng này rất dày và cứng.
Draf III (Frontal sinus rescue procedure = Modified endoscopic
Lothrop procedure): mở thông xoang trán 2 bên giống nhƣ Draf II ở cả
2 bên và phần cao vách ngăn mũi và phần thấp của vách liên xoang
trán. Draf III còn gọi là mở thông xoang trán vào đƣờng giữa (medial
drainage)
Phân loại và chỉ định của Draf khá rõ ràng và dễ ứng dụng trong
thực tế, tuy nhiên có một số điểm vẫn không hoàn toàn đƣợc ủng hộ bởi
các phẫu thuật viên xoang trán hiện nay, chẳng hạn nhƣ Wormald cho
rằng khi lấy tế bào Kuhn type 3, không nhất thiết phải mở rộng ostium
xoang trán [102].
Chỉ định của các phẫu thuật theo phân loại Draf:[22], [23]
Chỉ định của Draf I: viêm xoang trán không phức tạp, theo Weber và
cs., tỉ lệ thành công của phƣơng pháp này 85,2-99,3%.
26
Chỉ định của Draf II: viêm xoang trán phức tạp hoặc thất bại với Draf
I, theo Weber và cs, tỉ lệ thành công của phƣơng pháp này 79-99,3%.
Nó còn dùng để lấy tế bào sàng trán phát triển lên trên vƣợt quá ostium
xoang trán vào trong xoang trán, trong đó:
- IIA: dùng để lấy tế bào sàng trán phát triển lên trên vƣợt quá ostium
xoang trán vào trong xoang trán.
- IIB: các chỉ định còn lại của Draf II.
Chỉ định của Draf III: Draf II thất bại, lấy u xƣơng xoang trán hoặc u
nhú xoang trán có giới hạn từ ostium xoang trán trở lên và một số
trƣờng hợp có lựa chọn đối với chấn thƣơng xoang trán.
Hình 1.18: Phân loại phẫu thuật xoang trán qua nội soi của Draf: Draf I; B. Draf II; C. Draf III “Nguồn Draf 2005, The Frontal Sinus”[23]
27
1.3 Lịch sử phát triển của hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều
IGS - cấu tạo và nguyên lý hoạt động
1.3.1. Lịch sử phát triển của hệ thống hướng IGS [62], [70], [74], [78]
Sự ra đời và phát triển của hệ thống hướng dẫn hình ảnh định vị ba
chiều hay hệ thống hướng dẫn hình ảnh (Three dimension image-guided
navigation system: IGNS, hay image-guided system: IGS) bắt nguồn từ lĩnh
vực ngoại thần kinh, về sau đƣợc phát triển và ứng dụng rộng rãi trong Tai Mũi
Họng. Đặc biệt trong lĩnh vực phẫu thuật nội soi mũi xoang, hệ thống này tỏ ra
rất thích hợp và hiệu quả [76].
Ngay từ rất sớm, nhu cầu cần định vị chính xác các thƣơng tổn, đặc biệt là
trong lĩnh vực ngoại thần kinh, là một nhu cầu rất bức thiết nhằm tiếp cận chính
xác thƣơng tổn bên trong não khi sinh thiết hay khi phẫu thuật, hạn chế tối đa
gây tổn thƣơng các cấu trúc lân cận.
Năm 1908, Horsely và Clark phát minh ra một hệ thống khung định vị để
hƣớng dẫn mũi kim vào trong tiểu não của khỉ Rhesus (Hình 1.19) [72].
Năm 1976, Berstrom và Greitz giới thiệu các loại khung cố định dùng
trong kỹ thuật chụp CT scan có đeo khung định vị trên đầu (stereotaxic CT scan)
giúp định vị các cấu trúc của não [72].
Năm 1983, Apuzzo và Sabshin sử dụng khung cố định để sinh thiết sang
thƣơng nội sọ dƣới gây tê, giúp xác định chẩn đoán đến 95% trƣờng hợp.
Năm 1991, Watanabe và cộng sự mô tả cánh tay định vị 3 chiều dùng
trong lĩnh vực ngoại thần kinh: có sai số 5mm, và 4 năm sau cải tiến còn 2,5mm.
28
Đây là một trong những phát minh ban đầu quan trọng, là tiền đề cho hệ thống
định vị ba chiều ngày nay [72].
Năm 1993, Barnett và cộng sự giới thiệu hệ thống không dùng cánh tay
định vị, sử dụng sóng siêu âm, dùng trong ngoại thần kinh [72].
Năm 1991, Kato và cộng sự đƣa ra hệ thống không dùng cánh tay định vị
dành cho phẫu thuật ngoại thần kinh, sử dụng công nghệ điều biến từ trƣờng
(magnetic field modulation technology) hiển thị trên phim CT scan hay MRI
chụp trƣớc mổ. Nguồn từ trƣờng đƣợc cố định vào sọ, và sai số 4mm, và bị
nhiễu với các thiết bị kim loại nhƣ nhôm, sắt, đồng thau, và thép không rỉ trong ở
vòng 40 cm của từ trƣờng. Hệ thống này chỉ cho phép sử dụng đƣợc 1 dụng cụ
thăm dò, nhƣng có thể xoay đầu bệnh nhân trong lúc mổ, đây là một cải tiến
quan trọng.
Hình 1.19: Hệ thống khung định vị Horsely và Clark để hướng dẫn mũi kim vào trong tiểu não của khỉ Rhesus “Nguồn Reardon 2002, Laryngoscope”[74]
29
Trong lĩnh vực TMH [72]
Năm 1993, Mosges and Klimek: báo cáo kết qủa của 23 phẫu thuật viên
thực hiện trên 212 bệnh nhân, sử dụng hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba
chiều của Aechen dành cho lĩnh vực phẫu thuật nội soi mũi xoang: xoang sàng,
xoang trán và xoang bƣớm, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế.
Năm 1995, Gunkel và cộng sự mô tả hệ thống định vị điện từ với trợ giúp
vi tính (electromagnetic computer-assisted system). Hệ thống này về nguyên tắc
cũng tƣơng tự nhƣ hệ thống của Kaito (1991) nhƣng có nhiều điểm cải tiến. Kết
quả sử dụng hệ thống định vị loại này (InstaTrak) tại nhiều trung tâm đƣợc báo
cáo bởi Fried năm 1997 cho thấy sai số trung bình khi sử dụng hệ thống đánh
dấu điểm chuẩn (fiducial marker system) là 1,97mm, so với sai số 2,28 mm khi
sử dụng thiết bị chụp trên đầu bệnh nhân (headset). Hệ thống này cho phép xoay
đầu BN trong lúc mổ.
Năm 1997 Hauser và Westermann mô tả hệ thống định vị quang học, sử
dụng tia hồng ngoại và các quả cầu phản xạ với tia hồng ngoại gắn vào kính hiển
vi hay dụng cụ phẫu thuật nội soi mũi xoang. Thử nghiệm trên 24 bệnh nhân cho
thấy sai số 1,56mm trên nội soi và 2,39mm trên kính hiển vi. Ƣu điểm của hệ
thống quang học là có thể xoay đầu bệnh nhân lúc mổ và sử dụng nhiều dụng cụ
định vị khác nhau.
Metson và cộng sự nghiên cứu so sánh giữa 2 hệ thống quang học
(StealthStation) và điện từ trƣờng (InstaTrak): đều cho độ chính xác trong phạm
vi 2mm. Và hiện nay, cả hai loại hệ thống này đều đƣợc sử dụng rộng rãi trong
lĩnh vực TMH.
30
Việc sử dụng của hệ thống hƣớng IGS vào lĩnh vực phẫu thuật nội soi mũi
xoang đã khắc phục đƣợc những hạn chế của phẫu thuật nội soi mũi xoang là:
tầm nhìn bị giới hạn từ đầu ống soi trở ra trƣớc, không có đƣợc một phẫu trƣờng
toàn diện và không có chiều sâu.
Hệ thống hƣớng IGS giúp phẫu thuật viên có một “cái nhìn 3 chiều” đối
với các cấu trúc giải phẫu, giúp định vị chính xác dụng cụ mổ trong cấu trúc đó,
tƣơng quan với các cấu trúc lân cận; và cho thấy hình ảnh động của dụng cụ khi
di chuyển trong phẫu trƣờng. Đây là phẫu thuật dƣới sự hƣớng dẫn hình ảnh định
vị ba chiều, với tƣơng quan thời gian thực giữa phẫu trƣờng đang mổ và hình
ảnh học (CT scan hay MRI) chụp trƣớc mổ.
Hình 1.20: IGS thế hệ cũ với cánh tay định vị: bệnh nhân phải được dán băng keo cố định đầu vào bàn mổ.“Nguồn: Sadoughi 2012, Emedicine”[78]
31
1.3.2. Cấu tạo và nguyên lý hoạt động của hệ thống hướng dẫn hình ảnh
IGS:[1], [8], [18], [44], [45], [54], [61], [62], [63], [78]
Hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh bao gồm các phần chính: phần cứng và phần
mềm của máy; hệ thống theo dõi định vị (tracking sytem).
(1) Phần cứng và phần mềm của máy:
Phần cứng dựa trên nền tảng của hệ điều hành UNIX hay Windows, bao
gồm bộ phận xử lý và màn hình quan sát.
Phần mềm: bệnh nhân đƣợc chụp CT trƣớc mổ với định dạng DICOM và
đƣợc nạp vào máy qua hệ thống mạng hay đĩa CD.
Để đạt đƣợc sự tƣơng thích (matching) giữa hình ảnh CT trƣớc mổ đƣợc nạp
vào máy và cấu trúc giải phẫu của bệnh nhân đang nằm trên bàn mổ, đòi hỏi
một quá trình đăng ký tƣơng tác (registration). Sự chính xác của IGS phụ
thuộc vào quá trình này. Nhiều phƣơng pháp đăng ký tƣơng tác đƣợc sử
dụng:
- Dựa vào các điểm đánh dấu nhƣ: bình tai, khóe mắt ngoài, rễ mũi.
- Gắn điểm đánh dấu vào xƣơng bằng con vít: rất chính xác nhƣng là
phƣơng pháp xâm lấn, chỉ sử dụng cho ngoại thần kinh.
- Đăng ký tƣơng tác tự động (autoregistration): bằng cách đeo một khung
đầu có các điểm đánh dấu lúc chụp CT và trong lúc mổ.
- Dựa vào bản đồ bề mặt: lấy các thông tin từ 50-400 điểm trên độ cong của
khuôn mặt ngay trƣớc khi mổ. Máy tính sẽ cho ra sự tƣơng thích của
thông tin về bề mặt da của khuôn mặt bệnh nhân với hình ảnh CT trƣớc
mổ.
32
(2)Hệ thống theo dõi định vị (tracking sytem): sử dụng một trong hai công nghệ:
điện từ (electromagnetic) hay quang học (optical).
a. Hệ thống theo dõi định vị điện từ:
Hệ thống này gồm có một bộ phận phát sóng đƣợc đặt gần phẫu trƣờng và
một bộ phận thu nhận tín hiệu (receiver) gắn trên dụng cụ mổ. Hệ thống này sử
dụng các cảm biến điện từ tần số vô tuyến và hoạt động dựa trên sự thay đổi bên
trong trƣờng điện từ khi di chuyển dụng cụ đƣợc gắn bộ phận cảm nhận.
Nhƣợc điểm của hệ thống theo dõi định vị điện từ là: các vật kim loại có từ
tính nhƣ dụng cụ mổ, trang thiết bị gây mê,.. nếu để quá nhiều trong phạm vi từ
trƣờng sẽ ảnh hƣởng đến độ chính xác của hệ thống này [61], và thƣờng phải sử
dụng các dụng cụ có sẵn đi kèm với máy. Ƣu điểm là không bị ảnh hƣởng do che
khuất tầm nhìn cameara với phẫu trƣờng nhƣ hệ thống định vị quang học.
b. Hệ thống theo dõi định vị quang học:
Hệ thống này sử dụng một camera “quan sát” phẫu trƣờng; các bộ phận
cảm biến (sensors) gắn trên dụng cụ và gắn trên đầu bệnh nhân thông qua một bộ
khung đeo đầu đơn giản hay phức tạp tùy theo các hãng sản xuất và các đời máy
khác nhau. Các bộ phận cảm biến là các vật phát trở lại các tia hồng ngoại khi
đƣợc chiếu vào. Camera sẽ phát ra tia hồng ngoại chiếu vào các bộ phận cảm
biến và thu nhận trở lại các tia đƣợc phát trở lại từ các bộ phận cảm biến này để
theo dõi sự thay đổi về vị trí của các dụng cụ định vị đƣợc sử dụng. Ƣu điểm của
hệ thống quang học là thời gian đăng ký nhanh, có thể sử dụng hầu nhƣ bất kỳ
dụng cụ mổ nào.Số lƣợngdụng cụ đƣợc đăng ký định vị không hạn chế, có thể sử
dụng gần nhƣ bất kỳ dụng cụ phẫu thuật nào có sẵn: ống hút, kềm phẫu tích các
loại, cây thăm dò, thìa nạo chữ J, dụng cụ cắt hút (microdebrider),… không cần
33
phải sử dụng cụ do chính hãng chế tạo. Khi sử dụng, cần lƣu ý luôn hƣớng dụng
cụ đƣợc định vị về phía camera, và không đƣợc để bị che khuất bởi tay của phẫu
thuật viên hay ngƣời phụ mổ. Nhƣợc điểm: hệ thống sẽ bị cản trở nếu tầm nhìn
của camera đối với các quả cầu định vị gắn trên trán bệnh nhân và dụng cụ bị che
khuất.
1.3.3. Sơ lược về hệ thống IGS định vị quang học của BrainLab:
Hệ thống này sử dụng các quả cầu đánh dấu thụ động (passive marker
spheres), một camera 2 ống kính phát ra tia hồng ngoại, và máy vi tính với phần
mềm chuyên dụng. Các quả cầu đánh dấu thụ động này (hay còn gọi là quả cầu
định vị) đƣợc gắn trên đầu bệnh nhân qua và gắn trên dụng cụ mổ (hình 1.21) sẽ
phản xạ lại tia hồng ngoại phát ra từ camera và đƣợc camera thu nhận trở lại.
Hai ống kính của camera sẽ “nhìn” mỗi quả cầu ở 1 góc khác nhau (hình
1.22), từ đó máy sẽ tính toán cho ra vị trí tƣơng đối trong không gian của các quả
cầu gắn trên dụng cụ so với các quả cầu gắn trên đầu bệnh nhân, và sau cùng là
cho ra đƣợc vị trí của đầu dụng cụ trên CT scan 3 chiều.
Trong lúc mổ, khi đƣa dụng cụ định vị vào trong phẫu trƣờng sẽ thấy vị trí
của đầu dụng cụ dƣới dạng dấu thập, hiển thị đồng thời ở cả ba mặt cắt axial,
coronal và sagittal, và chuyển động cùng với chuyển động của dụng cụ định vị
theo thời gian thực (real time). Nhờ vậy, hệ thống IGS cho phép nhận định chính
xác vị trí của đầu dụng cụ trong phẫu trƣờng (hình 1.23).
34
Hình 1.21: Các quả cầu gắn trên trán bệnh nhân và trên dụng cụ: nhận và phản xạ trở lại tia hồng ngọai phát ra từ 2 ống kính của camera.
“Nguồn BrainLAB”
Hình 1.22: Cơ chế định vị của IGS quang học: hai ống kính của camera "nhìn" mỗi quả cầu một góc khác nhau, tín hiệu nhận được sẽ được máy xử lý.“Nguồn BrainLAB”
35
Hình 1.23: Hiển thị vị trí của đầu dụng cụ dưới dạng dấu thập, đồng thời ở cả ba mặt cắt axial, coronal và sagittal, cùng với hình ảnh nội soi khi mổ.
1.4 Nguyên tắc tái tạo hình ảnh không gian ba chiều trong hình ảnh học -
ứng dụng vào hệ thống IGS [80]:
Đa số thông tin trong hình ảnh học đƣợc giới thiệu dƣới dạng không gian
2 chiều, từ X-Quang kinh điển, cho đến các phƣơng tiện hiện đại nhƣ chụp CT
scan, MRI, hoặc PET-CT. Trƣớc đây, khi cần hiển thị hình ảnh không gian 3
chiều, một thiết bịđịnh vị đặc biệt sẽ chiếu 2 hình ảnh (mỗi ảnh cho mỗi mắt) với
góc nhìn thay đổi tối thiểu (khoảng5º). Dữ liệu đƣợc số hóa khi hình ảnh mặt cắt
ngang (axial) bắt đầu đƣợc phát triển trong CT và siêu âm, Tiếp theo, dữ liệu
khối đƣợc thu thập từ nhiều lát cắt 2 chiều.
Từ khi ra đời, thế hệ máy CT xoắn ốc đã làm thay đổi lớn trong việc thu
đƣợc một tập hợp dữ liệu dạng khối trong thời ngắn nhất. Vào năm 1998, sự ra
36
đời của CT 4 lớp cắt đã mở đầu cho việc thu thập dữ liệu dạng khối. Đến nay,
CT đa dãy đầu dò đã có 64, 128 và 256. Thu nhận thông tin nhiều lát cắt cùng
một lúc trong một lần quay sẽ làm giảm số lần quay cần thiết (do đó sẽ làm giảm
thời gian chụp) để chụp toàn bộ một cấu trúc với các tham số không thay đổi.
Một lợi ích khác là làm giảm độ dày lát cắt (do đó sẽ làm tăng độ phân giải)
nhƣng không làm tăng thời gian chụp; hoặc có thể giữ nguyên độ dày lắt cắt
nhƣng lại tăng khối cấu trúc có thể chụp trong cùng một thời điểm.
Lợi ích của những hệ thống trên là giúp đạt đƣợc những lát cắt mỏng
(≤1mm) với thời gian chụp rất ngắn (≤ 1 giây), đồng nghĩa với việc giảm ảnh
hƣởng của các chuyển động (ví dụ nhƣ cử động của bệnh nhân, co bóp của tim,
mạch máu,…) trên chất lƣợng hình ảnh. Đồng thời CT đa dãy đầu dò cho hình
ảnh tái tạo các hướng có độ phân giải không khác biệt với với lớp cắt ngang
(axial), gọi là tái tạo đẳng hướng isotropic.
Với tập hợp dữ liệu theo dạng khối, đã có phát triển trong giai đoạn hậu xử
lý các dữ liệu trên CT. Những ứng dụng này bao gồm MIP (Maximum Intensity
Projection: qui chiếu theo cƣờng độ tối đa), MPR (Multi-Planar Reconstruction:
tái tạo đa mặt phẳng) và 3-DSSD (surface shaded display: tái tạo hình bề mặt)
MPR sử dụng dữ liệu không gian 3 chiều để tạo nên các mặt phẳng không
đƣợc chụp trực tiếp - bao gồm mặt phẳng đứng ngang (coronal) và mặt phẳng
đứng dọc (sagittal) đƣợc tạo từ hình ảnh cắt ngang. Do đã có đƣợc toàn bộ khối
dữ liệu, bất kỳ hình ảnh của một mặt phẳng nào đó cũng đều có thể đƣợc tạo
hình từ những hình ảnh song song với các cấu trúc giải phẫu, thậm chí từ những
hình ảnh của mặt phẳng theo hƣớng cong (curved). MPR uốn cong có thể đƣợc
sử dụng để phân tích mạch máu, dây thần kinh nội sọ, các rãnh xoang, các ống
37
ngách xƣơng trong nội sọ và vùng hàm mặt ở vị trí mà mặt phẳng cắt song song
với các cấu trúc trên, do đó sẽ có thể quan sát đƣợc chi tiết. Khi mặt cắt vuông
góc, kích thƣớc thật của các cấu trúc trên có thể đo đạc đƣợc.
MPR đƣợc sử dụng rộng rãi nhất trong ứng dụng tái tạo 3 mặt phẳng sau
khi đã xử lý dữ liệu. Trong lĩnh vực thần kinh, tai mũi họng, kỹ thuật tái tạo đa
mặt phẳng MPR đƣợc sử dụng rất nhiều; và đƣợc sử dụng trong hiển thị hình ảnh
3 mặt phẳng đồng thời (triplanar CT) trong hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh IGS.
1.5 Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc
1.5.1. Tình hình nghiên cứu về xoang trán trong nước:
- Nghiên cứu của Lâm Huyền Trân (2007): “ Điều trị vỡ xoang trán bằng phẫu
thuật nội soi” cho 64 bệnh nhân (102 xoang trán vỡ) với kết quả phục hồi về
giải phẫu là 81,25% và đƣờng dẫn lƣu xoang trán là 100%[5].
- Nghiên cứu của Đỗ Thành Trí (2007) “Đánh giá mối quan hệ giữa phần trên
mỏm móc và tế bào Agger nasi qua MSCT 64 lát cắt”, thực hiện trên112
phim CT scan của bệnh nhân không bị viêm mũi xoang. Kết quả có 10 kiểu
bám tận phần trên của mỏm móc, tế bào Agger nasi hiện diện với tỉ lệ
93,75%, và có sự liên hệ mật thiết giữa phần trên mỏm móc và Agger nasi
[6]. Nghiên cứu này dựa hoàn toàn trên hình ảnh tái tạo của CT scan mà
không có sự kiểm chứng của phẫu tích trên xác hay trên bệnh nhân, tuy nhiên
nó cũng có giá trị tƣơng đối về mặt hình ảnh học.
- Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kiều Thơ (2009): “Khảo sát cấu trúc giải phẫu
ngách trán và các cấu trúc liên quan dựa trên phẫu tích và hình ảnh MSCT 64
ở sọ ngƣời Việt nam trƣởng thành”. Tác giả phẫu tích trên 14 sọ xác ngƣời
Việt nam, và 4 trong số này đƣợc chụp và khảo sát CT scan. Kết quả: tế bào
38
Agger nasi có tỉ lệ 75%, tế bào trán loại 1: 28,6%, loại 2: 3,6%, loại 3: 14,3%,
tế bào trên bóng: 25%, tế bào liên xoang trán: 17,9% [4].
- Nghiên cứu của Lê Quang 2010 “ Khảo sát mối tƣơng quan giữa Agger nasi
và độ hẹp ngách trán”, thực hiện trên 69 ngách trán với kết quả: ngách trán
khi có tế bào Agger nasi hẹp hơn so với khi không có (p<0,05) [3].
Tại Việt nam chƣa có công trình nghiên cứu nào về sử dụng hệ thống
hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều trong phẫu thuật nội soi mũi xoang, và
trong phẫu thuật nội soi xoang trán.
1.5.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước về sử dụng hệ thống hướng dẫn hình
ảnh trong phẫu thuật nội soi mũi xoang và xoang trán [16], [24], [29], [62],
[65], [78]
Metson và cộng sự (1999) nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu đánh giá hiệu quả
sử dụng hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều trong phẫu thuật nội soi
mũi xoang. Kết quả: độ chính xác của hệ thống định vị ba chiều vào lúc bắt đầu
phẫu thuật của cả 2 loại máy là 2mm trong tất cả các trƣờng hợp; hệ thống
hƣớng dẫn hình ảnh thích hợp cho các trƣờng hợp có mốc giải phẫu bị biến dạng
do bệnh tích hay bị mất đi do mổ lại: giúp định vị chính xác các cấu trúc giải
phẫu trong lúc mổ đặc biệt có giá trị trong các trƣờng hợp biến dạng mốc giải
phẫu do tình trạng bệnh nặng hay do cuộc mổ trƣớc.[16]
Han và cộng sự (2003) đánh giá hiệu quả của hệ thống hƣớng dẫn hình
ảnh định vị ba chiều trong phẫu thuật nội soi mũi xoang. Kết luận: hệ thống
hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều giúp xác định giới hạn của bệnh tích và các
39
cấu trúc giải phẫu quan trọng với thời gian thực (real time), làm cho phẫu thuật
nội soi mũi xoang an toàn và ít xâm lấn hơn [16].
Tabaee vàcộng sự (2003) nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu đánh giá hiệu quả
và tỉ lệ biến chứng đối với sử dụng hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều
trong phẫu thuật nội soi mũi xoang, thực hiện trên 120 bệnh nhân trong khoảng
thời gian 5 năm cho thấy: hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh giúp tránh làm tổn
thƣơng ổ mắt và sàn sọ trƣớc và làm giảm thấp biến chứng [95].
Loehrl và cộng sự nghiên cứu trên 31 bệnh nhân từ 3/1998 đến 11/1999
phẫu thuật mổ lại nội soi xoang trán với IGS sử dụng hệ thống StealthStation.
Kết quả: 12 bệnh nhân đƣợc phẫu thuật Draf I (11 bệnh nhân đƣợc mổ cả 2 bên),
14 bệnh nhân đƣợc phẫu thuật Draf II (10 bệnh nhân đƣợc mổ cả 2 bên), 5 bệnh
nhân đƣợc phẫu thuật Draf III. Bệnh tích trong lúc mổ: tắc ngách trán 90,3%,
polyp mũi 83,9%. 25 bệnh nhân (80,6%) cải thiện triệu chứng sau mổ [55].
Friedman và CS cộng sự (2006) nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu “Kết quả lâu
dài sau phẫu thuật nội soi xoang trán” : sau mổ 12 tháng: có 10% tắc ngách trán
trong đó 1% là do sẹo hẹp, và 9% là do polyp gây bít tắc. Sau 54-72 tháng: tỉ lệ
ngách trán thoáng là 71,2%, 28,8% có bệnh tích, trong đó 9,3% có polyp,
13,3% có sẹo dính, 6,2% bị bít tắc hoàn toàn [30].
Chiu và cộng sự (2004) nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu “Phẫu thuật mổ lại
xoang trán qua nội soi với IGS” trên 67 bệnh nhân với thời gian theo dõi trung
bình là 32 tháng, với kết quả là 86% ngách trán thông thoáng sau mổ và bệnh
nhân cải thiện đáng kể triệu chứng. Tác giả nhận thấy tầm quan trọng của phẫu
tích lấy phần còn lại của tế bào Agger nasi và tế bào trên ổ mắt để làm rộng
đƣờng kính trƣớc sau cũng nhƣ đƣờng kính trong ngoài của ngách trán; và IGS
là phƣơng tiện rất có giá trị để khảo sát cấu trúc ngách trán và lên kế hoạch mổ
40
cũng nhƣ giúp phẫu tích các tế bào ngách trán và mô sẹo gây bít tắc đƣợc chính
xác và an toàn hơn.[15]
*Những ứng dụng hiện nay của hệ thống IGS trong phẫu thuật nội soi qua
đƣờng mũi :[7], [18], [24], [26], [35], [75], [78], [84], [88]
Hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh lúc ban đầu còn cồng kềnh, lắp đặt phức
tạp, kéo dài thời gian phẫu thuật và khá đắt tiền, nên chỉ sử dụng trong những
trƣờng hợp mổ khó, bất thƣờng về giải phẫu, thực hiện ở những trung tâm
nghiên cứu lớn trên thế giới. Ngày nay, hệ thống này trở nên gọn nhẹ, vận hành
đơn giản hơn nhiều, thời gian lắp đặt đƣợc rút ngắn và đƣợc sử dụng rộng rãi
trong phẫu thuật nội soi mũi xoang. Hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh hiện nay đƣợc
sử dụng khá thƣờng quy trong phẫu thuật nội soi mũi xoang tại Mỹ, đặc biệt là
các trung tâm lớn, có chức năng huấn luyện và giảng dạy.
Theo Hội tai Mũi Họng và Phẫu thuật đầu cổ Hoa Kỳ (AAO-HNS, 2010):
chỉ định sử dụng hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh trong phẫu thuật nội soi mũi
xoang trong các trƣờng hợp sau: [7]
Các trƣờng hợp mổ lại
Bất thƣờng về các mốc giải phẫu
Biến dạng, bất thƣờng về giải phẫu tự nhiên hoặc do bệnh tích hay
chấn thƣơng
Bệnh polyp mũi xoang nặng
Bệnh tích ở xoang trán, xoang sàng sau, hay xoang bƣớm
Bệnh tích tiếp giáp sàn sọ, ổ mắt, thần kinh thị hay động mạch cảnh
trong
Dò dịch não tủy qua mũi hay khiếm khuyết xƣơng sàn sọ
Khối u lành hay u ác vùng mũi xoang.
41
2. CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn mẫu:
Chọn bệnh nhân 16 tuổi đến khám tại bệnh viện Tai Mũi Họng TP. Hồ
Chí Minh bị viêm xoang trán mạn tính không đáp ứng với điều trị nội khoa, có
chỉ định phẫu thuật, và là các trƣờng hợp phẫu thuật đƣợc dự đoán là khó.
Chỉ định phẫu thuật nội soi ngách trán khi có các tiêu chuẩn sau: [73], [77],
[81], [99]
Có triệu chứng viêm xoang mạn kéo dài > 12 tuần, không đáp ứng điều
trị nội khoa, bao gồm: nhức trán/nhức đầu, nhức mặt, nghẹt mũi, chảy
mũi đục, chảy mũi sau, …
Nội soi: nhầy đục, thoái hóa niêm mạc hay polyp khe giữa. Đối với các
trƣờng hợp mổ lại: các dấu hiệu nghi ngờ bao gồm: cuốn giữa bị đẩy ra
ngoài hay bị cắt cụt, sẹo dính, thoái hóa polyp vùng sàng trƣớc.
CT scan: hình ảnh viêm xoang trán: dày niêm mạc hay mờ xoang trán.
Phẫu thuật đƣợc dự đoán là khó khi thuộc một trong các trƣờng hợp sau:
Có tế bào ngách trán trên CT scan.
Các trƣờng hợp mổ lại bị mất mốc giải phẫu, sẹo dính, vách xƣơng bít
tắc ngách trán.
Các trƣờng hợp có polyp vƣợt ngoài khe giữa làm thay đổi, biến dạng
cấu trúc giải phẫu xoang.
42
Các trƣờng hợp có đƣờng kính trƣớc sau ngách trán hẹp ≤ 8mm trên
phim CT scan mặt cắt sagittal.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
Bệnh nhân già yếu, mắc bệnh nội khoa phức tạp, có nguy cơ cao trong
lúc mổ.
Viêm xoang trán sau chấn thƣơng xoang trán, u nhầy xoang trán, u nhú
ngƣợc xoang trán.
Viêm xoang trán có tế bào K4 không thể mổ qua nội soi đơn thuần.
2.1.3. Phöông phaùp choïn maãu:
Chọn mẫu toàn bộ trong thời gian nghiên cứu với các tiêu chuẩn nêu trên.
2.1.4. Cỡ mẫu
Cỡ mẫu:
n: cỡ mẫu cần thiết tối thiểu.
Z (1- /2) = 1.96 tƣơng ứng với =0.05
(khoaûng tin caäy 95%)
p= 0,957: tỉ lệ hiện diện của tế bào Agger nasi ở xoang trán bị viêm theo
Park và cs [71].
q = 1-p = 0,043
43
d = 0,05 : sai số chuẩn.
Cần khảo sát tối thiểu 63 ngách trán.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phƣơng pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang có can thiệp và theo dõi dọc.
2.3. Phƣơng tiện nghiên cứu:
2.3.1. Trang thiết bị tại phòng soi mũi xoang dành cho nội soi chẩn đoán và
- Bộ nội soi chẩn đoán của Karl Storz: nguồn sáng xenon 300, camera,
chăm sóc sau mổ:
- Bộ dụng cụ để chăm sóc sau mổ: ống hút các loại, dụng cụ tách dính:
màn hình, ống nội soi đƣờng kính 4mm với các góc 0 , 30 , 70 .
bay (spatula), kềm 450, 900.
2.3.2. Phim và đĩa CD kỹ thuật số CT scan trước mổ:
Phim CT scan trƣớc mổ đƣợc chụp bằng máy chụp kỹ thuật số MSCT 16,
khoảng cách giữa các lát cắt là 0,7 mm, đƣợc lƣu vào đĩa CD để nạp vào máy.
2.3.3. Trang thiết bị dùng cho phẫu thuật:
Hệ thống phẫu thuật nội soi mũi xoang của hãng Karl Storz: nguồn sáng
xenon 300, camera, ống nội soi 0 , 30 , 45 , 70 .
Máy cắt hút XPS 3000 của hãng Xomed tốc độ vòng 3000-5000/phút, với
các lƣỡi cắt hút các loại và mũi khoan các loại, có độ cong thích hợp cho
xoang trán.
44
Bộ dụng cụ phẫu thuật nội soi mũi xoang: cây thăm dò, kềm bấm xƣơng
ngƣợc ra sau (backbiter) để mở mỏm móc, kềm gặm xƣơng để mở rộng lỗ thông xoang hàm, kềm thẳng và kềm 450, bay thƣờng (spatula), bay có hút
(suction spatula), thìa nạo xoang sàng có hút (suction curette), kềm citelli
xoang bƣớm.
Bộ dụng cụ phẫu thuật nội soi xoang trán:
- Cây thăm dò ngách trán: dùng để thăm dò tìm ngách trán và bẻ lấy các
mảnh xƣơng. Cây thăm dò này có 2 đầu: 1 đầu dùng để tìm đƣờng dẫn lƣu xoang trán và lỗ thông tự nhiên xoang trán. Đầu kia có gập góc 900
2mm ở đầu tận của nó để giúp bẻ gãy và phẫu tích đƣờng dẫn lƣu xoang
trán, sàn xoang trán ra trƣớc.
- Ống hút cong có các góc khác nhau. - Kềm 450 và 900
- Kềm gigraffe các loại: mở theo hƣớng trƣớc sau và trong ngoài có độ
cong và chiều dài thích hợp cho phẫu tích và lấy bệnh tích ở ngách trán
và xoang trán.
- Kềm bấm xƣơng (citelli) ngách trán: giúp mở rộng cấu trúc xƣơng của
đƣờng dẫn lƣu xoang trán ra trƣớc.
- Thìa nạo chữ J (J curette) 45o, 90o để phẫu tích ngách trán. Chúng tôi gắn
quả cầu định vị IGS để sử dụng trong tất cả các trƣờng hợp (hình 2.2).
45
Hình 2.1: Hệ thống nội soi Karl Storz và ống nội soi các loại
Hình 2.2: Thìa nạo chữ J có gắn quả cầu định vị và kềm giraffe
46
Hình 2.3: Dụng cụ cắt hút (microdebrider) lưỡi cong, và các mũi khoan xương xoang trán, sử dụng chung một thân máy.
Hình 2.4: Bộ dụng cụ phẫu thuật nội soi
47
Hình 2.5: Các dụng cụ góc sử dụng trong phẫu thuật nội soi xoang trán
2.3.4. Hệ thống hướng dẫn hình ảnh định vị ba chiều sử dụng trong nghiên
cứu:
Hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh sử dụng trong nghiên cứu của chúng tôi là
hệ thống định vị quang học của hãng BrainLAB đƣợc đƣa vào sử dụng tại Bệnh
viện Tai Mũi Họng TP. Hồ Chí Minh từ tháng 8 năm 2007. Tên gọi của máy là
Kolibri navigation system cranial/ENT version 2.6, là hệ thống IGS thế hệ mới
với ƣu điểm: gọn nhẹ, thời gian lắp đặt, đăng ký máy nhanh, giao diện phần mềm
thuộc hệ điều hành Windows dễ sử dụng. Máy có thể sử dụng chung cho cả phẫu
thuật ngoại thần kinh và phẫu thuật mũi xoang. Máy cho phép xoay đầu bệnh
nhân trong lúc mổ mà không bị sai lệch kết quả [13]. Thế hệ máy này đƣợc
đƣa vào sử dụng tại bệnh viện trƣờng Đại Học University of North Carolina
cũng vào năm 2007, thay thế cho thế hệ cũ đƣợc sử dụng trƣớc đó đã đƣợc FDA
chấp thuận vào năm 2004.
48
Hình 2.6: Hệ thống hướng dẫn hình ảnh Kolibri cranial/ENT version 2.6 của hãng BrainLab sử dụng trong nghiên cứu
2.4. Các bƣớc tiến hành nghiên cứu:
Bệnh nhân đƣợc nội soi mũi xoang trƣớc mổ, làm các xét nghiệm tiền
phẫu.
Bệnh nhân đƣợc chụp CT scan tại bệnh viện Tai Mũi Họng TP. Hồ Chí
Minh bằng máy Simmens Somatom Emotion 16 lát cắt, với tái tạo hình khối
(hình axial): 0.75mm, chồng lấp hình 0.5mm để ghi đĩa CD dùng cho hệ thống
IGS. Mức cửa sổ/độ rộng cửa sồ để khảo sát các xoang cạnh mũi: 300-350/
2500-3000 (HU). Đĩa CD này đƣợc nạp vào hệ thống hƣớng IGS trƣớc khi phẫu
thuật.
2.4.1. Khảo sát ngách trán trên CT ba chiều:
Di chuyển dấu thập trên màn hình hệ thống định vị đến vị trí ngách trán
theo ba chiều: coronal, axial và sagittal. Phóng đại lên thêm theo tỉ lệ 2:1 để quan
49
sát đƣợc rõ hơn. Di chuyển dấu thập từ trƣớc ra sau và từ sau ra trƣớc theo mặt
phẳng coronal, sau đó di chuyển theo mặt phẳng axial và sagittal. Ghi nhận:
- Tình trạng mờ xoang trán: hoàn toàn hay không hoàn toàn.
- Xác định vị trí bám của phần cao mỏm móc: xƣơng giấy, sàn sọ hay cuốn
giữa.
- Mức độ khí hóa của xoang trán.
- Ghi nhận sự hiện diện của tế bào Agger nasi và các tế bào ngách trán.
- Có hình ảnh sinh xƣơng hay không. Các trƣờng hợp mổ lại: có mất các
cấu trúc giải phẫu nhƣ cuốn giữa,… hay không.
2.4.2. Phẫu thuật ngách trán với hệ thống hướng dẫn hình ảnh IGS:
2.4.2.1. Chuẩn bị & đăng ký tƣơng tác bệnh nhân phẫu thuật với IGS:
Tất cả các bệnh nhân đều đƣợc gây mê nội khí quản.
Gắn vòng đeo đầu có 3 quả cầu định vị lên trán bệnh nhân.
Camera phát ra tia hồng ngoại sẽ đƣợc đặt ở phía trên đầu của bệnh nhân,
hƣớng camera về phía 3 quả cầu định vị trên trán bệnh nhân cho đến khi thông
tin trên màn hình của máy báo đạt yêu cầu.
Đăng ký tƣơng tác bệnh nhân với phƣơng pháp quét bề mặt da: dùng dụng
cụ phát ra tia laser màu đỏ (Z touch laser pointer) nhấn nút và giữ liên tục, chiếu
lên một số vùng trên trán và mặt của bệnh nhân (hình 2.7) cho đến khi máy báo
đạt yêu cầu, dụng cụ này đồng thời phát ra tia hồng ngoại và đƣợc camera ghi
nhận và đƣa vào hệ thống IGS để tính toán.
Kiểm tra độ chính xác của hệ thống bằng dụng cụ thăm dò đƣợc mặc định
sẵn bằng cách chạm vào các mốc giải phẫu bên ngoài nhƣ chóp mũi, nhân trung,
xƣơng chính mũi, và bên trong hốc mũi đối với các mốc giải phẫu hằng định nhƣ
50
vách ngăn, cung cửa mũi sau. Đối chiếu trên màn hình máy định vị ba chiều để
xác nhận độ chính xác. Khi đạt yêu cầu sẽ tiến hành phẫu thuật.
Các quả cầu định vị còn đƣợc gắn trên bất kỳ một dụng cụ nào cần sử
dụng trong lúc mổ, nhƣ ống hút, que thăm dò, kềm, thìa nạo ngách trán chữ J.
Mỗi lần chỉ đƣợc sử dụng một dụng cụ đƣợc đăng ký tƣơng tác kèm với dụng cụ
thăm dò đƣợc mặc định sẵn. Nếu muốn thay đổi dụng cụ khác thì đăng ký tƣơng
tác lại, riêng dụng cụ thăm dò đƣợc mặc định sẵn thì không cần đăng k tƣơng
tác. Thông thƣờng chỉ cần dụng cụ thăm dò đƣợc mặc định sẵn và thêm một hay
hai dụng cụ khác đƣợc đăng ký định vị thêm nhƣ ống hút, cây thăm dò, hay thìa
nạo ngách trán chữ J là đủ.
Hình 2.7: Đăng ký tương tác bệnh nhân bằng dụng cụ chiếu tia laser và hồng ngoại: vẽ lên mặt bệnh nhân như hình bên phải.
51
Hình 2.8: Đăng ký tương tác dụng cụ định vị
Hình 2.9: Phẫu thuật nội soi với IGS
52
Hình 2.10 Hiển thị đầu dụng cụ định vị trong ngách trán dưới dạng dấu thập
trên 3 bình diện CT scan: coronal, axial và sagittal
2.4.2.2. Phẫu thuật nội soi ngách trán với hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh định vị
ba chiều:
Lấy bỏ mỏm móc theo kỹ thuật từ sau ra trƣớc. Lấy bỏ phần cao mỏm
móc đến tận cùng chỗ bám của nó.
Phẫu thuật ngách trán trên quan điểm bảo tồn niêm mạc. Lấy bỏ thành sau
và trần Agger nasi bằng thìa nạo xoang trán chữ J để làm rộng đƣờng dẫn lƣu
xoang trán, mở rộng ngách trán ra trƣớc bằng dụng cụ cắt hút. Lấy bỏ tế ngách
trán K1, K2, K3, tế bào trên bóng, tế bào bóng trán; mở thông tế bào trên ổ mắt,
tế bào vách liên xoang trán nếu có.
53
Mức độ phẫu thuật: các phẫu thuật trong nghiên cứu của chúng tôi
giới hạn trong phạm vi từ phân loại Draf I đến Draf IIA. Chúng tôi không
đƣa các trƣờng hợp Draf IIB và Draf III vào nghiên cứu vì có rất ít chỉ định.
Ghi nhận độ chính xác của máy trong quá trình mổ, thời gian lắp đặt máy,
thời gian đăng ký tƣơng tác bệnh nhân, ghi hình ngách trán trong lúc mổ, ghi
nhận biến chứng nếu có.
*Phƣơng pháp phẫu tích các tế bào ngách trán:[10], [60], [69], [99], [102]
Do các tế bào nằm cao và ở phía trƣớc ngách trán nên đòi hỏi sử dụng ống
soi góc và các dụng cụ góc nhƣ kềm Giraffe, thìa nạo chữ J ... Sử dụng hệ thống
định vị 3 chiều IGS: giúp xác định chính xác và phẫu tích các tế bào ngách trán
đƣợc an toàn. Xác định vị trí của các tế bào ngách trán và đƣờng dẫn lƣu ngách
trán trƣớc khi phẫu tích.
Lấy tế bào Kuhn loại 1 và 2 (K1, K2): xác định và lấy qua nội soi sau khi lấy
đi tế bào Agger nasi, cố gắng bảo tồn niêm mạc. Do tế bào Kuhn loại 1 và 2 chƣa
vƣợt quá lỗ thông tự nhiên xoang trán nên cần tránh động chạm đến lỗ thông tự
nhiên xoang trán vì có thể gây sẹo hẹp, bít tắc xoang trán sau mổ. Sau khi lấy tế
bào K1, K2, thăm dò tìm và mở rộng đƣờng dẫn lƣu xoang trán nằm sau các tế
bào này.
Tế bào Kuhn loại 3 (K3): đa số trƣờng hợp có thể lấy đƣợc qua nội soi qua
lỗ thông tự nhiên xoang trán. (Trong trƣờng hợp tế bào này lấn cao nhiều vào
xoang trán, cần phải phối hợp với đƣờng ngoài hoặc phẫu thuật Lothrop cải tiến
qua nội soi). Khi lấy tế bào Kuhn loại 3, không cần phải khoan xƣơng để mở
rộng lỗ thông tự nhiên xoang trán nếu không cần thiết.
54
Tế bào trên ổ mắt: xác định và mở thông vào ngách trán. Sau khi đã mở
đƣợc ngách trán, sẽ lấy vách xƣơng giữa ngách trán và tế bào này để mở rộng
đƣờng dẫn lƣu xoang trán. Cần tránh làm tổn thƣơng động mạch sàng trƣớc nằm
ngay phía sau tế bào này.
Tế bào trên bóng và bóng trán: nằm phía sau ngách trán, phía trên bóng
sàng. Khi phẫu tích các tế bào này, cần lƣu ý tránh làm tổn thƣơng sàn sọ là
thành trên của nó, tránh tổn thƣơng động mạch sàng trƣớc. Mở bỏ các tế bào này
sẽ giúp làm tăng đáng kể đƣờng kính trƣớc sau của xoang trán.
Đối với tế bào vách liên xoang trán, nếu khí hóa nhiều gây hẹp ngách trán,
hoặc bị viêm: lấy bỏ thành ngoài tế bào này bằng curette và kềm giraffe để làm
rộng thêm ngách trán. Trƣớc khi phẫu tích tế bào vách liên xoang trán cần mở
ngách trán càng rộng đến mức có thể, để có phẫu trƣờng rộng dễ thao tác và hạn
chế tai biến trong lúc mổ.
Hình 2.11: Xác định và mở thông tế bào vách liên xoang trán (P) (mũi tên)
55
*Phẫu thuật nội soi ngách trán ở các trƣờng hợp mổ lại:
- Do là phẫu thuật mổ lại nên các mốc giải phẫu thƣờng mất hoặc bị biến dạng,
cuốn giữa có thể không còn hoặc bị cắt cụt một phần gây khó khăn cho cuộc
mổ. Xƣơng mới tạo sẽ gây bít tắc và dễ chảy máu. [14]
- Sử dụng IGS xác định các mốc quan trọng: sàn sọ, xƣơng giấy, động mạch
sàng trƣớc, vị trí đi vào ngách trán an toàn. Lấy bỏ mô sẹo, xƣơng và tế bào
sàng trƣớc còn sót lại, lấy bỏ phần còn lại của Agger nasi, các tế bào ngách
trán nếu có, bảo tồn tối đa niêm mạc, tránh động chạm đến lỗ thông tự nhiên
của xoang trán.
Hình 2.12: Mổ lại ngách trán bị bít tắc (T)
*Kỹ thuật tạo vạt niêm mạc:
Chúng tôi sử dụng kỹ thuật này cho một số trƣờng hợp ngách trán có cấu
trúc phức tạp: có các tế bào ngách trán nằm cao hay các trƣờng hợp mổ lại mà
tắc nghẽn nằm cao trong ngách trán. Kỹ thuật này đƣợc thực hiện nhƣ sau:
56
Dùng dao 15 rạch niêm mạc vùng chân bám cuốn giữa - tế bào Agger
nasi: phía trên 5-7mm.
Dùng dụng cụ bóc tách có hút (suction spatula) bóc tách niêm mạc đã
đƣợc rạch ra khỏi thành trƣớc tế bào Agger nasi, cố định vạt niêm mạc này
vào khe giữa vách ngăn và cuốn giữa vùng khe khứu, bộc lộ xƣơng thành
trƣớc Agger nasi.
Dùng Citelli gặm bỏ xƣơng thành trƣớc tế bào Agger nasi.
Phẫu tích, lấy bỏ các tế bào ngách trán, mở thông ngách trán.
Phủ lại vạt niêm mạc.
A B
C D E
Hình 2.13: Kỹ thuật tạo vạt niêm mạc: A: rạch niêm mạc, B: bóc tách vạt niêm mạc, C: bộc lộ thành sau và trần Agger nasi sau khi đã lấy bỏ thành trước, D: phẫu tích lấy tế bào ngách trán, E. mở ngách trán.
57
2.4.3. Theo dõi đánh giá sau phẫu thuật:
Bệnh nhân đƣợc rút merocel 48 giờ sau mổ, hút máu cũ và nhầy đọng ở
hốc mũi, khe giữa qua nội soi sau 72-96 giờ (ngày 3 - ngày 4 sau mổ).
a. Thời gian và phương pháp đánh giá: Sau khi xuất viện bệnh nhân đƣợc hẹn
tái khám nội soi: sau 1 tuần, 2 tuần, 4 tuần, 8 tuần, 12 tuần; sau đó mỗi 3
tháng trong năm đầu tiên, và mỗi 3-6 tháng trong năm thứ 2. Lịch tái khám có
thể thay đổi sát hơn tùy vào tình trạng của bệnh nhân.
Ghi nhận triệu chứng cơ năng, triệu chứng thực thể: tình trạng niêm mạc,
sẹo dính, độ thông thoáng của ngách trán qua nội soi. Chụp CT scan sau mổ cho
một số trƣờng hợp.
b. Tiêu chuẩn đánh giá sự thông thoáng của ngách trán sau mổ qua nội soi:
Chúng tôi xây dựng tiêu chuẩn đánh giá sự thông thoáng của ngách trán qua nội
soi sau mổ dựa vào tình trạng niêm mạc và mức độ sẹo hẹp của ngách trán nhƣ
sau:
- Tốt: niêm mạc không phù nề hay phù nề nhẹ; không có mô sẹo hoặc chỉ
có dải sẹo nhỏ không làm thu hẹp ngách trán (cho đƣợc đầu ống hút cong
có kích thƣớc 4mm đi qua).
- Trung bình: niêm mạc phù nề nhiều hay polyp nhỏ ngách trán và/hoặc
mô sẹo làm hẹp ngách trán nhƣng chƣa bít tắc ngách trán.
- Xấu: polyp bít ngách trán và/hoặc sẹo hẹp gây bít tắc hoàn toàn ngách
trán.
2.5. Thu thập và phân tích số liệu:
2.5.1. Thu thập số liệu:
Thu thập các số liệu theo bảng thu thập số liệu (phụ lục)
58
2.5.2. Biến số nghiên cứu
a. Biến độc lập
Định nghĩa biến
Loại biến Định lƣợng Định tính Định lƣợng Định tính Định tính Định tính
Tên biến số Tuổi Giới Thời gian mắc bệnh Viêm mũi dị ứng Suyễn Tiền căn phẫu thuật xoang
Định lƣợng Định lƣợng
Giá trị năm Nam/Nữ năm có/ không có/ không kinh điển, nội soi, cả hai 1,2,3,4 0,1,2,3 điểm 0,1,2,3 điểm
Số lần đã phẫu thuật xoang Nhức trán /nhức đầu trƣớc mổ Nghẹt mũi trƣớc mổ
0 điểm: không triệu chứng. 1 điểm: nhẹ, không gây khó chịu, phiền phức 2 điểm: trung bình, gây khó chịu thƣờng xuyên chƣa ảnh hƣởng nhiều đến cuộc sống hàng ngày hay giấc ngủ ban đêm. 3 điểm: triệu chứng nặng, ảnh hƣởng nhiều đến cuộc sống hàng ngày hay giấc ngủ ban đêm.
Chảy mũi trƣớc –trƣớc mổ
có/ không
Định tính
Chảy mũi sau –trƣớc mổ
có/ không
Định tính
Giảm khứu trƣớc mổ
0,1,2 điểm Định lƣợng
Phù nề niêm mạc trƣớc mổ
0,1,2 điểm Định lƣợng
Dịch tiết trƣớc mổ
0,1,2 điểm Định lƣợng
0 điểm: không giảm khứu 1 điểm: giảm khứu 2 điểm: mất khứu hoàn toàn 0 điểm: không phù nề, 1 điểm: phù nề nhẹ, 2 điểm: phù nề nhiều. 0 điểm: không có dịch 1 điểm: dịch trong loãng 2 điểm: dịch nhầy đục.
Polyp mũi trƣớc mổ
0,1,2 điểm Định lƣợng
0 điểm: không, 1điểm: trong phạm vi khe giữa, 2 điểm: vƣợt quá khe giữa.
Sẹo dính trƣớc mổ
0,1,2 điểm Định lƣợng
59
Lund-MackayCTscan trƣớc mổ
Định lƣợng
0 điểm: không 1 điểm: dải sẹo 2 điểm: sẹo bít tắc hốc xoang Xoang: 0 điểm: không mờ xoang; 1 điểm: mờ 1 phần xoang; 2 điểm: mờ hoàn toàn xoang. Phức hợp lỗ thông khe: 0 điểm: không tắc, 2 điểm: tắc.
0,1,2 điểm 0,1,2 điểm 0,1,2 điểm 0,1,2 điểm 0,1,2 điểm 0,2 điểm
- xoang trán - xoang hàm - xoang sàng trƣớc - xoang sàng sau - xoang bƣớm - phức hợp lỗ thông khe
Định tính Định tính Định tính Định tính Định tính Định tính Định tính Định tính Định tính
Agger nasi Tế bào trên ổ mắt Tế bào K1 Tế bào K2 Tế bào K3 Tế bào trên bóng Tế bào bóng trán Tb vách liên xoang trán Vị trí bám phần cao mỏm móc
có/ không có/ không có/ không có/ không có/ không có/ không có/ không có/ không xƣơng giấy, cuốn giữa, sàn sọ
có/ không
Định tính
Hẹp: ≤8mm, rộng >8mm
rộng, hẹp
Định tính
phút
Định lƣợng
0,1,2 điểm Định lƣợng
Hình ảnh sinh xƣơng trên CT scan Đƣờng kính trƣớc sau lỗ thông xoang trán Thời gian đăng ký tƣơng tác IGS Niêm mạc ngách trán trong lúc mổ
Định tính
0 điểm: không phù nề, 1 điểm: phù nề nhẹ, 2 điểm: phù nề nhiều
Bệnh tích ngách trán trong lúc mổ
polyp, nhầy đục, xƣơng dày cứng,
60
b. Biến phụ thuộc
Tên biến số
Định nghĩa biến
Giá trị
Loại biến
Định lƣợng
Nhức trán /nhức đầu sau mổ Nghẹt mũi sau mổ
0,1,2,3 điểm 0,1,2,3 điểm
0 điểm: không triệu chứng. 1 điểm: nhẹ, không gây khó chịu, phiền phức 2 điểm: trung bình, gây khó chịu thƣờng xuyên chƣa ảnh hƣởng nhiều đến cuộc sống hàng ngày hay giấc ngủ ban đêm. 3 điểm: triệu chứng nặng, ảnh hƣởng nhiều đến cuộc sống hàng ngày hay giấc ngủ ban đêm.
Chảy mũi trƣớc –sau mổ Chảy mũi sau –sau mổ Giảm khứu sau mổ
Định tính có/ không Định tính có/ không 0,1,2 điểm Định lƣợng
Phù nề niêm mạc sau mổ
0,1,2 điểm Định lƣợng
Dịch tiết sau mổ
0,1,2 điểm Định lƣợng
Sẹo dính ngách trán-sau mổ
0,1,2 điểm Định lƣợng
Polyp ngách trán sau mổ
0,1,2 điểm Định lƣợng
0,1,2 điểm Định lƣợng
Ngach trán thoáng sau mổ qua nội soi
0 điểm: không giảm khứu 1 điểm: giảm khứu 2 điểm: mất khứu hoàn toàn 0 điểm: không phù nề, 1 điểm: phù nề nhẹ, 2 điểm: phù nề nhiều. 0 điểm: không có dịch 1 điểm: dịch trong loãng 2 điểm: dịch nhầy đục. 0 điểm: thoáng, không sẹo 1 điểm: dải sẹo 2 điểm: sẹo bít tắc xoang trán 0 điểm: không 1điểm: polyp nhỏ chƣa bít tắc ngách trán 2 điểm: polyp bít tắc ngách trán 0 điểm: thoáng 1điểm: hẹp 2 điểm: tắc ngách trán
61
Lund-MackayCT scan sau mổ
Định lƣợng
- - - - - -
xoang trán xoang hàm xoang sàng trƣớc xoang sàng sau xoang bƣớm phức hợp lỗ thông khe
0,1,2 điểm 0,1,2 điểm 0,1,2 điểm 0,1,2 điểm 0,1,2 điểm 0,2 điểm
Xoang: 0điểm: không mờ xoang; 1 điểm: mờ 1 phần xoang; 2điểm: mờ hoàn toàn xoang. Phức hợp lỗ thông khe: 0 điểm: không tắc, 2 điểm: tắc.
2.5.3. Xử lý và phân tích số liệu
- Số liệu đƣợc xử lý bằng phần mềm bằng Spss 16.0.
- Kết quả đƣợc mô tả bằng tần số, tỉ lệ %, số trung bình ± độ lệch chuẩn và
trình bày dƣới dạng bảng biểu.
- Dùng phép kiểm chi bình phƣơng đối với các phân phối chuẩn và phép kiểm
Wincoxin đối phân phối không chuẩn để kiểm định sự khác biệt thống kê, với
sự khác biệt có ý nghĩa khi p<0,05.
2.6. Vấn đề y đức
Nghiên cứu này không vi phạm y đức vì những lý do sau:
- Tất cả bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu đều trên cơ sở tự nguyện, và đều
đƣợc giải thích rõ ràng.
- Nghiên cứu này không gây bất kỳ một sự nguy hại nào cho đối tƣợng tham
gia nghiên cứu.
- Nghiên cứu đã đƣợc thông qua Hội đồng y đức, Hội đồng khoa học kỹ thuật
của Bệnh viện Tai Mũi Họng TP.HCM, và Hội đồng chấm đề cƣơng nghiên
cứu sinh của Bộ môn Tai Mũi Họng - Đại học Y Dƣợc TP.HCM.
62
3. CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm dịch tễ học của mẫu nghiên cứu:
3.1.1. Tổng số ngách trán nghiên cứu:
Có 122 ngách trán của 78 bệnh nhân đƣợc phẫu thuật. Trong đó có
44 bệnh nhân đƣợc mổ cả 2 bên, và 34 bệnh nhân đƣợc mổ 1 bên; có 56
ngách trán bên phải và 66 ngách trán bên trái đƣợc mổ.
Số ngách trán (P) Số ngách trán (T) Tổng cộng
Bệnh nhân mổ cả 2 bên (n=44)
44
44
88
Bệnh nhân mổ 1 bên (n=34)
12
22
34
Tổng cộng (n=78)
56
66
122
Bảng 3.1:Phân bố mỗi bên ngách trán được mổ
3.1.2. Giới tính: nam 45, nữ 33, tỉ lệ nam:57,7%, nữ là: 42,3%.
3.1.3. Tuổi bệnh nhân: 16-63 tuổi, trung bình 37,6 độ lệch chuẩn là 12,1.
Biểu đồ 3.1: Phân bố tuổi của bệnh nhân
63
3.1.4. Đặc điểm địa lý:
37,2% ở TP. Hồ Chí Minh, 62,8 % ở ngoài TP. Hồ Chí Minh.
3.1.5. Nghề nghiệp: có 7 nhóm nghề nghiệp của bệnh nhân trong lô nghiên cứu
đƣợc phân bố nhƣ bảng 3.2:
Nghề nghiệp
Tần số
Bảng 3.2: Đặc điểm nghề nghiệp của bệnh nhân
Công nhân viên Công nhân Nông dân Nghề tự do Nội trợ Hoc sinh Hƣu trí Tổng số
26.9 23.1 19.2 12.8 11.5 3.8 2.6 100.0
21 18 15 10 9 3 2 78
%
3.1.6. Cơ địa dị ứng:
26,9% bệnh nhân có cơ địa viêm mũi dị ứng, 2,6% có cơ địa vừa viêm mũi
dị ứng, vừa bị suyễn.
Cơ địa dị ứng
2,6%
26,9%
không
VMDU
70,5%
VMDU + suyễn
Biểu đồ 3.2: Tỉ lệ % cơ địa dị ứng của bệnh nhân
64
3.1.7. Tiền căn phẫu thuật xoang trước đó:
Có 47 TH ngách trán (38,5%) (30 bệnh nhân) có tiền căn phẫu thuật xoang
trƣớc đó, bao gồm: 16 trƣờng hợp (13,1%) là phẫu thuật kinh điển Caldwell
Luc, 26 trƣờng hợp (21,3%) là phẫu thuật nội soi mũi xoang (PTNSMX), và 5
trƣờng hợp (4,1%) đã đƣợc phẫu thuật cả 2: nạo sàng hàm kinh điển trong lần
mổ đầu tiên và PTNSMX ở các lần mổ tiếp theo.
Trong 47 trƣờng hợp này có: 39 TH mổ 1 lần, 2 TH mổ 2 lần, 4 TH mổ 3
lần, 2 TH mổ 4 lần.
Tiền căn phẫu thuật xoang
4,1%
21,3%
không
PT kinh điển
13,1%
61,5%
PT.NSMX
PT kinh điển và PT.NSMX
Biểu đồ 3.3: Tiền căn phẫu thuật xoang của bệnh nhân
65
PT kinh
PT nội soi
PT kinh điển
Tổng cộng
điển
+ nội soi
16
23
0
39
Số lần đã mổ
1
0
1
1
2
2
0
2
2
4
3
0
0
2
2
4
16
26
5
Bảng 3.3: Tiền căn và số lần phẫu thuật xoang
47
Tổng cộng
3.1.8. Thời gian bệnh:
Thời gian bệnh trung bình là 5 năm, lâu nhất là 30 năm, thấp nhất là
6 tháng, độ lệch chuẩn 5,96.
Biểu đồ 3.4: Thời gian bệnh của bệnh nhân
66
3.2. Đặc điểm lâm sàng, nội soi, CT scan, tỉ lệ Agger nasi và tế bào ngách
trán của mẫu nghiên cứu:
3.2.1. Triệu chứng cơ năng trước mổ:
Triệu chứng cơ năng nhức trán/nhức đầu, nghẹt mũi trƣớc mổ đƣợc ghi
nhận theo các mức độ: không, nhẹ, trung bình và nặng [96].
Tần suất bệnh nhân bị nhức trán/nhức đầu trƣớc mổ là 91%, đa số là nhức
đầu mức độ vừa (48,7%) và nặng (37,2%) (bảng 3.4).
Bảng 3.4: Mức độ nhức trán/nhức đầu trước mổ
Nhức trán/Nhức đầu
Tần số
%
không
7
9,0
nhẹ
4
5,1
vừa
38
48,7
nặng
29
37,2
Tổng cộng
78
100,0
Tần suất bệnh nhân bị nghẹt mũi trƣớc mổ là 89,7%, với tỉ lệ các mức độ
nghẹt mũi theo bảng 3.5.
Bảng 3.5: Mức độ nghẹt mũi trước mổ
Nghẹt mũi
Tần số
%
Không Nhẹ Vừa Nặng Tổng cộng
8 21 18 31 78
10,3 26,9 23,1 39,7 100,0
67
Các triệu chứng cơ năng khác bao gồm:
- Chảy mũi trƣớc 68/78 bệnh nhân chiếm 87,2%.
- Chảy mũi sau 59/78 bệnh nhân chiếm 75,6%.
- Giảm khứu giác 34/78 bệnh nhân chiếm 43,6%, trong đó: giảm khứu
giác nhẹ 22 TH (28,2%), mất khứu giác hoàn toàn 12 TH (15,4%)
(bảng 3.6), đều thuộc 34 bệnh nhân có polyp mũi trƣớc mổ.
Giảm khứu giác
Bảng 3.6: Mức độ giảm khứu giác trước mổ
Tần số
%
Không
44
56,4
Nhẹ
22
28,2
Mất hoàn toàn
12
15,4
Tổng cộng
100,0
78 Bảng 3.7: Triệu chứng cơ năng trước mổ
TC cơ năng
Tần số
%
Nhứctrán/nhức đầu
71
91
Nghẹt mũi
70
89,7
Chảy mũi trƣớc
68
87,2
Chảy mũi sau
59
75,6
Giảm khứu giác
34
43,6
68
3.2.2. Triệu chứng nội soi trước mổ:
Bao gồm phù nề niêm mạc, dịch tiết, polyp mũi và sẹo dính đƣợc ghi nhận
với thang điểm từ 0-2 điểm (theo thang điểm Lund Kennedy) [56], [103].
Kết quả:
Dịch khe giữa: 100% có dịch khe giữa, trong đó dịch trong loãng
chiếm 21,3%, dịch nhầy đục chiếm 78,7% (bảng 3.8).
Bảng 3.8: Tính chất dịch khe giữa trước mổ
Dịch tiết
Tần số
%
Trong loãng
26
21,3
Nhầy đục
96
78,7
Tổng cộng
122
100,0
Phù nề niêm mạc trƣớc mổ: 100% có phù nề niêm mạc, trong đó mức
độ nhẹ chiếm 27%, mức độ nặng chiếm 73% (bảng 3.9)
Bảng 3.9: Phù nề niêm mạc trước mổ
Phù nề niêm mạc
Tần số
%
Nhẹ
33
27,0
Nặng
89
73,0
Tổng cộng
122
100,0
69
Polyp mũi:
42 trƣờng hợp có polyp khe giữa (34,4%), 50 trƣờng hợp có polyp
vƣợt ngoài khe giữa (41%) (bảng 3.10)
Bảng 3.10: Polyp mũi trước mổ
Polyp
Tần số
%
Không
30
24,6
Ở khe giữa
42
34,4
Vƣợt ngoài KG
50
41,0
Tổng cộng
122
100.0
Sẹo dính trƣớc mổ
Có 46/47 trƣờng hợp mổ lại có sẹo dính trƣớc mổ chiếm tỉ lệ 97,9%
các trƣờng hợp mổ lại, và 37,7% tất cả các trƣờng hợp nghiên cứu.
Trong đó sẹo dính gây bít tắc hoàn toàn xoang trán là 12 trƣờng hợp
chiếm 25,5% các trƣờng hợp mổ lại.
Ngoài ra còn có 3 TH có sẹo dính trƣớc mổ không do tiền căn phẫu
thuật xoang bao gồm: 1 TH do đốt cuốn dƣới, 1 trƣờng hợp do phẫu
thuật chỉnh hình vách ngăn gây dính cuốn dƣới vách ngăn, và 1 trƣờng
hợp do chấn thƣơng xoang gây vỡ xƣơng giấy ở vùng sàng trƣớc
nhƣng không ảnh hƣởng đến cấu trúc ngách trán.
70
Bảng 3.11: Sẹo dính trước mổ ở các trường hợp mổ lại
Sẹo dính trƣớc mổ
Tiền căn PT xoang
Dải sẹo
Tổng cộng
Sẹo bít tắc
Phẫu thuật kinh điển
0
15
15
PT NSMX
9
26
17
Đã mổ cả 2 phƣơng pháp
3
5
2
Tổng cộng
12
46
34
3.2.3. CT scan trước mổ:
a. Ghi nhận điểm CT scan của các xoang theo thang điểm Lund-
Mackay:[36], [56]
Cách tính điểm CT scan hệ thống xoang theoLund & Mackay
Hệ thống xoang
Điểm Lund-Mackay
Cách tính điểm
Xoang hàm
0, 1, 2
Xoang sàng trƣớc
0, 1, 2
Xoang sàng sau
0, 1, 2
Xoang bƣớm
0, 1, 2
Xoang trán
0, 1, 2
Phức hợp lỗ thông khe
0, 2
Xoang: 0 điểm: không mờ xoang; 1 điểm: mờ 1 phần xoang; 2 điểm: mờ hoàn toàn xoang. Phức hợp lỗ thông khe: 0 điểm: không tắc, 2 điểm: tắc.
Theo thang điểm này, nếu mờ toàn bộ hệ thống xoang 1 bên và có tắc
phức hợp lỗ thông khe sẽ có tổng điểm tối đa là 12 điểm/1 bên
71
Kết quả:
CT scan xoang trán trƣớc mổ: 57 TH (46,7%) mờ không hoàn toàn, 65 TH
(53,3%) mờ hoàn toàn. Lund-Mackay xoang trán trung bình: 1,53 (độ lệch
chuẩn: 0,5)
Bảng 3.12: CT scan xoang trán trước mổ
CT xoang trán
Tần số
%
trƣớc mổ
Mờ không hoàn toàn
57
46,7
Mờ hoàn toàn
65
53,3
Tổng cộng
122
100,0
N
Tối thiểu
Tối đa
Trung bình
ĐLC
CT xoang trán
122
1
2
1,53
0,5
Bảng 3.13: Trung bình Lund-Mckay xoang trán trước mổ
120 trƣờng hợp có viêm các xoang khác kèm theo, trong đó có 120 TH có
hình ảnh viêm xoang hàm (50 TH mờ hoàn toàn chiếm 41%), 119 TH có hình
ảnh viêm xoang sàng trƣớc (76 TH mờ hoàn toàn chiếm 62,3%), 119 TH có hình
ảnh viêm xoang sàng sau (47 TH mờ hoàn toàn chiếm 28,5%), 61 TH có hình
ảnh viêm xoang bƣớm (21 TH mờ hoàn toàn chiếm 17,2%), 119 TH có tắc phức
hợp lỗ thông khe (97,5%) (Bảng 3-14). Nhƣ vậy xoang sàng trƣớc là xoang đi
kèm có mức độ viêm nặng (mờ hoàn toàn) chiếm tỉ lệ cao nhất là 62,3%, và
hầu hết các trƣờng hợp có tắc phức hợp lỗ thông khe (97,5%).
72
Bảng 3.14: Hình ảnh CT scan của các xoang cùng bên xoang trán nghiên cứu
Xoang
Mức độ
Tần số
%
Xoang hàm
Không viêm (0đ)
2
1,6
Mờ không hoàn toàn (1đ)
70
57,4
Mờ hoàn toàn (2đ)
50
41
Xoang sàng trƣớc
Không viêm (0đ)
3
2,5
Mờ không hoàn toàn (1đ)
43
35,2
Mờ hoàn toàn (2đ)
76
62,3
Xoang sàng sau
Không viêm (0đ)
3
2,5
Mờ không hoàn toàn (1đ)
72
59
Mờ hoàn toàn (2đ)
47
28,5
Xoang bƣớm
Không viêm (0đ)
61
50
Mờ không hoàn toàn (1đ)
40
32,8
Mờ hoàn toàn (2đ)
21
17,2
Phức hợp lỗ thông khe
Không tắc (0đ)
3
2,5
Tắc (2đ)
119
97,5
73
Trung bình Lund-Mackay cho hệ thống xoang 1 bên là: 8,5 (cao nhất là
12, thấp nhất là 3, độ lệch chuẩn 2,15)
Số ca Tối thiểu Tối đa
TB
ĐLC
122
3,00
12,00
8,51
2,15
Bảng 3.15: Trung bình Lund-Mackay hệ thống xoang bên mổ
Tổng điểm CT các xoang cùng bên mổ
Chỉ có 2 TH là viêm xoang trán đơn độc do bít tắc tái phát sau mổ xoang
trán trƣớc đó chiếm tỉ lệ 1,64%.
b. Hình ảnh sinh xƣơng (new bone formation) ở ngách trán trên CT
scan: theo Wormald, đây là hình ảnh khối mờ không đồng nhất, mật độ
xƣơng, thƣờng do hiện tƣợng viêm của cấu trúc xƣơng xung quanh tạo
ra [99].
(A) (B)
Hình 3.1: Mô tả hình ảnh sinh xương ở ngách trán trên CT scan (A) của Wormald (mũi tên chỉ) và (B) của chúng tôi (dấu thập).
74
Kết quả: hình ảnh sinh xƣơng ngách trán trên CT scan có ở 31 trƣờng hợp
(25,5%), trong đó có 23 trƣờng hợp có tiền căn phẫu thuật xoang nội soi hay
kinh điển trƣớc đó, 8 trƣờng hợp không có tiền căn phẫu thuật trƣớc đó có lẽ do
hiện tƣợng viêm xƣơng.
3.2.4. Các kiểu bám của phần cao mỏm móc:
Trong 122 ngách trán nghiên cứu có 29 trƣờng hợp mỏm móc
không còn (do các lần mổ trƣớc) hay không xác định đƣợc, còn 93 ngách
trán còn mỏm móc với kiểu bám của phần cao mỏm móc nhƣ sau (bảng
3.16):
Bảng 3.16: Thống kê các kiểu bám của phần cao mỏm móc
Tần số
%
Vị trí bám phần cao mỏm móc
Xƣơng giấy
60
64,5
Sàn sọ
23
24,7
Cuốn giữa
10
10,8
Tổng cộng
93
100,0
3.2.5. Tỉ lệ Agger nasi và các tế bào ngách trán của mẫu nghiên cứu
a. Tế bào Agger nasi:
Tế bào Agger nasi hiện diện ở ngách trán 108 ngách trán (88,5%),
trong đó có 4 trƣờng hợp tế bào Agger nasi rất lớn (3,3%). Nếu tính riêng
ở 91 trƣờng hợp không có tiền căn phẫu thuật nội soi trƣớc đó, nghĩa là
chắc chắn chƣa từng đƣợc mổ ngách trán trƣớc đó (bao gồm cả các trƣờng
75
hợp có tiền căn phẫu thuật kinh điển), thì có 86 ngách trán có Agger nasi
là chiếm tỉ lệ 94,5%.
Hình 3.2: Agger nasi lớn (dấu thập) lấn vào xoang trán trên CT ba chiều.
b. Tế bào ngách trán:
Có 87 trƣờng hợp có tế bào ngách trán chiếm tỉ lệ 71,3%. Trong đó:
- Tế bào trên ổ mắt có ở 16 ngách trán (13,1%).
- Tế bào K1có ở 27 ngách trán (22,1%), K2 có ở 4 ngách trán (3,3%),
K3 có ở 11 ngách trán (9,0%).
- Tế bào trên bóng có ở 30 ngách trán (24,6%), tế bào bóng trán có ở
17 ngách trán (13,9%).
- Tế bào vách liên xoang trán có ở 3 ngách trán (2,5%).
Agger
76
Tb K3
Tb K2
Tb K1
Tb
Tb
Tb vách
nasi
ổ mắt
trên bóng
bóng trán
liên XT
Số
lƣợng
108
16
27
4
11
30
17
3
88,5%
13,1%
22,1%
3,3%
9,0%
24,6%
13,9%
2,5%
%
Bảng 3.17: Thống kê các loại tế bào ngách trán Tb trên
c. Bất thƣờng cấu trúc đi kèm: vẹo vách ngăn 24 TH (19,7%), bóng
khí cuốn giữa (concha bullosa) 6TH (4,9%)
3.3. Kết quả phẫu thuật nội soi ngách trán với IGS:
3.3.1. Các thông số sử dụng hệ thống IGS:
- Thời gian nạp dữ liệu, lắp đặt IGS và đăng ký bệnh nhân: 10-15 phút,
trung bình: là 12 phút, trong đó: thời gian nạp đĩa là: 2-3 phút, thời gian
gắn vòng đầu và đăng ký tƣơng tác là 7-12 phút. Trong trƣờng hợp nếu có
hệ thống mạng từ phòng chụp CT scan với phòng mổ, ta có thể truyền trực
tiếp phim CT scan từ phòng chụp CT đến hệ thống IGS mà không mất thời
gian nạp đĩa CD.
- Độ chính xác cho phép của hệ thống IGS: ≤2mm, trong quá trình phẫu
thuật nếu có sai lệch trên >2mm thì bệnh nhân đƣợc đăng ký tƣơng tác trở
lại và đều cho độ chính xác cần thiết. Thực tế trong nghiên cứu của chúng
tôi, đa số trƣờng hợp có độ chính xác nằm trong khoảng 0-1mm.
77
3.3.2. Ghi nhận trong lúc mổ:
a. Mở thông đƣợc ngách trán: tất cả các trƣờng hợp đều mở thông đƣợc
ngách trán. Xác định ngách trán và lỗ thông tự nhiên xoang trán bằng
cách đƣa cây thăm dò qua ngách trán vào xoang trán và xác định vị trí
của nó trên màn hình của hệ thống IGS, và đƣợc chụp hình ghi nhận
qua phƣơng tiện chụp hình của hệ thống này.
b. Phẫu tích tế bào ngách trán: có 87 trƣờng hợp có một hay nhiều loại tế
bào ngách trán chiếm tỉ lệ 71,3% với tỉ lệ nhƣ bảng 3.17. Tất cả các tế
bào ngách trán trong lô nghiên cứu đều đƣợc phẫu tích và đạt đƣợc sự
thông thoáng của ngách trán trong lúc mổ.
c. Bệnh tích ở ngách trán:
- Tình trạng niêm mạc: phù nề hay thoái hóa niêm mạc ngách trán:
120/122 trƣờng hợp (98,4%) trong đó: niêm mạc phù nề 76 trƣờng
hợp (62,3%), niêm mạc ngách trán thoái hóa polyp: 44 trƣờng hợp
(44 trƣờng hợp này đều có polyp mũi, trong đó polyp vƣợt ngoài
khe giữa: 42 TH, polyp ở phạm vi khe giữa: 2 TH )
- Nhầy đục xoang trán: 89 trƣờng hợp (72,9%)
- Nhầy đặc bã đậu xoang trán: 14 trƣờng hợp (11,5%): cần phải bơm
rửa xoang trán với nƣớc muối sinh lý.
- Xƣơng dày cứng ở ngách trán tƣơng ứng với hình ảnh sinh xƣơng
trên CT scan: 31 trƣờng hợp (25,5%), trong đó có 23 trƣờng hợp có
tiền căn phẫu thuật xoang nội soi hay kinh điển trƣớc đó, 8 trƣờng
hợp không có tiền căn phẫu thuật trƣớc đó có lẽ do hiện tƣợng viêm
xƣơng.
78
Niêm mạc ngách trán
Tần số
%
Không phù nề
1,6
2
Phù nề
62,3
76
Thoái hóa polyp
36,1
44
Tổng cộng
100,0
122
Bảng 3.18: Tình trạng niêm mạc ngách trán trong lúc mổ
Thoái hóa
Nhầy đục
Phù nề
Xƣơng dày
niêm mạc
polyp
cứng
Số lƣợng
76
44
31
14
89
%
62,3
36,1
72,9
1,15
25,5
Bảng 3.19: Bệnh tích ở ngách trán lúc mổ Chất bã đậu
Hình 3.3: Phù nề niêm mạc ngách trán
79
Hình 3.4: Thoái hóa polyp xoang trán
Hình 3.5: Hình ảnh sinh xương ngách trán trên CT tương ứng với lúc mổ
80
Hình 3.6: Chất bã đậu trong xoang trán
3.3.3. Kỹ thuật tạo vạt niêm mạc:
Có 17 trƣờng hợp (13,9%) đƣợc sử dụng kỹ thuật tạo vạt niêm mạc
vùng chân bám cuốn giữa và thành trƣớc tế bào Agger nasi: đây là các
trƣờng hợp khó, các tế bào ngách trán nằm cao hoặc bít tắc nằm cao trong
ngách trán. Trong đó có 15 trƣờng hợp có tế bào ngách trán: 5 trƣờng hợp
là phẫu thuật mổ lại; 2 trƣờng hợp không có tế bào ngách trán và là phẫu
thuật mổ lại, phân bố nhƣ bảng 3.20.
Tất cả 17 TH này đều cho kết quả tốt sau mổ: vạt niêm mạc lành tốt,
không có hiện tƣợng co kéo cuốn giữa làm hẹp ngách trán.
81
Bảng 3.20: Mô tả thống kê số tế bào ngách trán và tiền căn phẫu thuật xoang ở các trường hợp tạo vạt niêm mạc
Tế bào ngách trán
Kỹ thuật tạo vạt niêm mạc (n=17)
không
Tổng cộng
có
Không
10
10
0
Tiền căn
PT xoang
PT kinh điển
3
3
0
PT nội soi
2
4
2
Tổng cộng
15
2
17
15 trƣờng hợp tạo vạt niêm mạc và có tế bào ngách trán nhƣ sau:
- 8 trƣờng hợp chỉ có 1 loại tế bào: 3 trƣờng hợp có K1, 3 trƣờng hợp có
K3, 1 trƣờng hợp có tế bào bóng trán, 1 trƣờng hợp có tế bào vách liên
xoang trán.
- 6 trƣờng hợp có 2 loại tế bào: 2 trƣờng hợp có K1 và trên bóng; 1
trƣờng hợp có K1 và bóng trán; 1 trƣờng hợp có Agger nasi lớn và trên
bóng; 2 trƣờng hợp có K3 và tế bào trên ổ mắt.
- 1 TH có cả 3 loại tế bào: Agger nasi lớn, K1 và tế bào trên bóng.
Tb AG lớn Tb trên ổ
TB K1
Tb K3
Tb váchliên
Tb
Tb bóng
mắt
XT
trênbóng
trán
Số lƣợng
2
2
7
1
5
4
2
Bảng 3.21: Thống kê số tế bào ngách trán trong các TH tạo vạt niêm mạc
82
3.3.4. Các trường hợp mổ lại (revision surgery)
Có 47 trƣờng hợp ngách trán (38,5%) (30 bệnh nhân) là phẫu thuật mổ lại
do bệnh nhân đã đƣợc phẫu thuật nạo sàng hàm kinh điển hay phẫu thuật nội soi
trƣớc đó, trong đó 16 trƣờng hợp (13,1%) là phẫu thuật kinh điển, có 31 trƣờng
hợp đã đƣợc PTNSMX trƣớc đó (trong đó 26 trƣờng hợp (21,3%) là PTNSMX,
và 5 trƣờng hợp (4,1%) đã đƣợc phẫu thuật cả 2: nạo sàng hàm kinh điển trong
lần mổ đầu tiên và PTNSMX ở các lần mổ tiếp theo).
a. Sẹo dính trƣớc mổ ở các trƣờng hợp mổ lại:
Sẹo dính trƣớc mổ: 46/47 trƣờng hợp có tiền căn phẫu thuật xoang
trƣớc đó có sẹo dính trƣớc mổ chiếm 97,9%, trong đó: dải sẹo nhỏ là 16
trƣờng hợp (34,1%), sẹo dính ở vùng sàng trƣớc là 18 trƣờng hợp (38,3%),
và 12 trƣờng hợp có mô sẹo và xƣơng bít tắc hoàn toàn ngách trán trƣớc
mổ (25,5%). 1 trƣờng hợp không có sẹo dính (2,1%).
2.1%
Không
25.5%
34,1%
Dải sẹo
38,3%
Sẹo đáng kể ở vùng sàng trước
Sẹo bít tắc ngách trán
Tỉ lệ % mức độ sẹo dính trước mổ ở các trường hợp mổ lại
Biểu đồ 3.5: Tỉ lệ % mức độ sẹo dính trước mổ ở các TH mổ lại
83
b. Hình ảnh sinh xƣơng trên CT scan ở các trƣờng hợp mổ lại: 23/47
trƣờng hợp mổ lại có hình ảnh sinh xƣơng chiếm tỉ lệ: 48,9%, với chi
tiết đƣợc trình bày theo bảng 3.22.
Bảng 3.22: Thống kê hình ảnh sinh xương trên CT scan ở các TH mổ lại
Tiền căn phẫu thuật xoang Số TH có hình ảnh sinh xƣơng
PT kinh điển 7
PT NSMX 11
PT kinh điển + nội soi 5
Tổng cộng 23
c. Cuốn giữa đi ra ngoài:
18 trƣờng hợp mổ lại có cuốn giữa đi ra ngoài gây dính vào vách mũi
xoang, trong đó: 13 trƣờng hợpcó tiền căn PTNSMX, 5 trƣờng hợp có tiền
căn phẫu thuật kinh điển; Trong số 13 TH cuốn giữa đi ra ngoài có tiền
căn PTNSMX có 6 trƣờng hợp cuốn giữa bị cắt cụt không hoàn toàn.
Hình 3.7: Dính cuốn giữa-vách mũi xoang (T)
84
d. Tế bào ngách trán:
33 trƣờng hợp mổ lại có tế bào ngách trán và đều đƣợc phẫu tích, trong
đó có 18 trƣờng hợp đã từng đƣợc PTNSMX trƣớc đó, với chi tiết theo
bảng 3.23.
Bảng 3.23: Thống kê tế bào ngách trán ở các trường hợp mổ lại
Số trƣờng hợp có
Tiền căn PT xoang
tế bào ngách trán
Phẫu thuật kinh điển
15
Phẫu thuật nội soi
16
PT kinh điển và nội soi
2
Tổng cộng
33
Các nguyên nhân có thể gây bít tắc ngách trán ở 31 trƣờng hợp có tiền căn
PTNSMX (có hoặc không kèm phẫu thuật kinh điển) (không tính đến 16 trƣờng
hợp chỉ có tiền căn phẫu thuật kinh điển trên tổng số 47 trƣờng hợp mổ lại) bao
gồm: sẹo dính vùng sàng trƣớc-khe giữa, cuốn giữa đi ra ngoài, xƣơng dày cứng
bít tắc ngách trán, nạo sàng còn sót tế bào sàng trƣớc, còn tế bào Agger nasi, còn
tế bào ngách trán, bệnh lý niêm mạc- polyp, đƣợc mô tả thống kê theo bảng
3.24.
Đa số trƣờng hợp có nhiều hơn 1 nguyên nhân kể trên, trung bình là 3,6
nguyên nhân.
85
Sẹo dính
Cuốn giữa
Xƣơng
Còn tb sàng
Còn tb
Còn tb
Bệnh lý niêm
sàng trƣớc
đi ra ngoài
dày cứng
trƣớc
Agger nasi
ngách trán
mạc, polyp
Số TH
17
13
16
18
22
18
19
%
54,8
41,9
51,6
58,1
70,9
58,1
61,3
Bảng 3.24: Các bệnh tích có thể là nguyên nhân gây bít tắc ngách trán ở 31trường hợp mổ lại có tiền căn mổ nội soi mũi xoang
Còn tb Agger nasi
22
Bệnh lý niêm mạc
19
Còn tb ngách trán
18
Còn tb sàng trước
18
Sẹo dính sàng trước
17
Xương dày cứng
16
Cuốn giữa đi ra ngoài
13
0
5
10
15
20
25
Thống kê bệnh tích có thể gây tắc ngách trán trán ở 31 TH mổ lại
Biểu đồ 3.6: Thống kê bệnh tích có thể là nguyên nhân gây tắc ngách trán ở các trường hợp mổ lại
86
Hình 3.8: Thăm dò và mở ngách trán qua một lớp xương bít tắc rất dày ở trường hợp mổ lại
3.3.5. Phẫu thuật các xoang khác cùng bên:
Hầu hết các trƣờng hợp đều có kèm phẫu thuật nội soi xoang hàm (96,7) và
xoang sàng (97,5%); 47,5% TH có mở lỗ thông xoang bƣớm. Có 2 trƣờng
hợp chỉ mở ngách trán đơn thuần đối với viêm xoang trán tái phát do mô sẹo
và xƣơng bít tắc (TH mổ lại).
Xoang hàm
Xoang
Xoang
Xoang bƣớm
sàng trƣớc
sàng sau
Số lƣợng
118
119
119
58
%
96,7
97,5
97,5
47,5
Bảng 3.25: Phẫu thuật các xoang khác cùng bên
87
3.3.6. Tai biến, biến chứng:
Không có tai biến chứng nặng nào đƣơc ghi nhận trong lúc phẫu thuật nhƣ
tổn thƣơng động mạch sàng trƣớc, chảy dịch não tủy, tổn thƣơng cơ trực trong,
xƣơng giấy. Chỉ có 1 trƣờng hợp tổn thƣơng nhẹ ở xƣơng giấy khi lấy xƣơng tân
sinh dày và cứng ở ngách trán, trƣờng hợp này không gây bầm mắt sau mổ.
3.4. Theo dõi sau mổ: triệu chứng lâm sàng, nội soi và CT scan
Bệnh nhân đƣợc tái khám và theo dõi sau mổ tối thiểu là 9 tháng, tối đa là
24 tháng, trung bình thời gian theo dõi sau mổ của các bệnh nhân là 12,5 tháng,
với kết quả nhƣ sau:
3.4.1. Triệu chứng lâm sàng:
a. Cải thiện triệu chứng nhức trán/nhức đầu sau mổ:
67 bệnh nhân hết nhức trán/nhức đầu sau mổ trên tổng số 71 bệnh nhân có
nhức trán/nhức đầu trƣớc mổ, tỉ lệ cải thiện 94,4%. Tỉ lệ này của Friedman là
95,4% [30].
Nhức trán/nhức đầu sau mổ: 1 trƣờng hợp nhức trán mức độ nặng, không
thay đổi so với trƣớc mổ, xảy ra ở tuần thứ 8 sau mổ do bít tắc ngách trán tái
phát, đây là trƣờng hợp bệnh nhân có tiền căn phẫu thuật ngách trán trƣớc đó và
bị sẹo hẹp và vách xƣơng bít tắc hoàn toàn đƣờng dẫn lƣu xoang trán. 3 bệnh
nhân có nhức trán/nhức đầu mức độ vừa sau mổ 8-24 tuần, trong đó có 2 bệnh
nhân sau mổ có polyp nhỏ ở ngách trán, và 1 bệnh nhân có phù nề niêm mạc
ngách trán. Tỉ lệ còn nhức đầu/nhức trán sau mổ là 4/71 bệnh nhân chiếm tỉ lệ
5,6%.
88
b. Cải thiện triệu chứng nghẹt mũi sau mổ:
68 bệnh nhân hết nghẹt mũi sau mổ trên tổng số 70 bệnh nhân có nghẹt
mũi trƣớc mổ, tỉ lệ cải thiện là 97,1%, so với tỉ lệ của Friedman: 98,7%.
2/70bệnh nhân còn nghẹt mũi mức độ vừa sau mổ do phù nề niêm mạc, chiếm tỉ
lệ 2,9%, 2 bệnh nhân này đều có cơ địa viêm mũi dị ứng.
c. Cải thiện triệu chứng chảy mũi sau mổ:
- 52 bệnh nhân cải thiện triệu chứng chảy mũi trƣớc, trên tổng số 68
bệnh nhân có triệu chứng này trƣớc mổ, tỉ lệ cải thiện là 76,5%. 16/68
bệnh nhân vẫn còn chảy mũi trƣớc trong thời gian theo dõi sau mổ
chiếm tỉ lệ 23,5%.
- 41 bệnh nhân cải thiện triệu chứng chảy mũi sau, trên tổng số 59 bệnh
nhân có triệu chứng này trƣớc mổ, tỉ lệ cải thiện là 69,5%. Sau mổ có
18/59 bệnh nhân còn chảy mũi sau, chiếm tỉ lệ 30,5%.
d. Cải thiện triệu chứng giảm/ mất khứu sau mổ:
- 22/34 bệnh nhân giảm mất khứu trƣớc mổ có cải thiện sau mổ chiếm
64,7%. Trong đó: hết giảm/mất khứu: 18/34 bệnh nhân chiếm 52,9%;
còn giảm khứu mức độ nhẹ hơn so với trƣớc mổ 4/34 bệnh nhân chiếm
11,8% (so với 70,7% 32,3%, 38,4% của Friedman) [30]. 12/34 bệnh
nhân còn tình trạng giảm khứu giác không đổi sau mổ là chiếm tỉ lệ
35,3%.
Tóm lại khi so sánh các triệu chứng cơ năng trước và sau mổ, chúng tôi
nhận thấy các triệu chứng nhức trán/nhức đầu, nghẹt mũi, chảy mũi trước,
chảy mũi sau và giảm khứu giác đều giảm đáng kể so với trước mổ, khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p = 0.001 theo phép kiểm Wilcoxon (bảng 3.26 ).
89
Nhức trán/
Chảy mũi
nhức đầu
trƣớc
sau
khứu giác
Trƣớc mổ
91%
89,7%
87,2%
75,6%
43,6%
Sau mổ
5,1%
2,6%
20,50%
23,1%
15,4%
% cải thiện 94,4%
97,1%
76,5%
69,5%
64,7%
p
0,001
0,001
0,001
0,001
0,001
100%
91%
89.7%
87.2%
90%
75.6%
80%
70%
60%
50%
43.6%
40%
30%
23.1%
20.5%
15.4%
20%
5.1%
10%
2.6%
0%
Nhức trán/NĐ
Nghẹt mũi
Chảy mũi sau Giảm khứu giác
Chảy mũi trước
trước mổ
sau mổ
Bảng 3.26: So sánh % triệu chứng cơ năng trước và sau mổ Giảm Nghẹt mũi Chảy mũi
Biểu đồ 3.7: So sánh % triệu chứng cơ năng trước và sau mổ
90
Bảng 3.27: So sánh % cải thiện triệu chứng cơ năng của bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi và Friedman
Cải thiện triệu chứng
Nghiên cứu
Nghiên cứu
cơ năng sau mổ
củachúng tôi
của Friedman
Nhức trán/nhức đầu
94,3%
95,4%
Nghẹt mũi
97,1
98,7
Giảm khứu giác
64,7%
70,7%
3.4.2. Tình trạng ngách trán sau mổ qua nội soi:
- 105 trên tổng số 122 ngách trán thông thoáng sau mổ chiếm tỉ lệ 86,1%.
16 ngách trán bị hẹp sau mổ chiếm tỉ lệ 13,1%, và 1 ngách trán bị bít tắc
hoàn toàn sau mổ chiếm tỉ lệ 0.8%. Tỉ lệ ngách trán thông thoáng sau mổ
của Chiu là 86% (theo dõi sau mổ trung bình là 32 tháng); của Friedman là
90% ( sau mổ 12 tháng) và 71,2% (sau mổ 54-72 tháng).
- 16 ngách trán bị hẹp sau mổ với các nguyên nhân sau đây: do sẹo dính: 4
TH, do polyp nhỏ ngách trán: 6 TH, do vừa sẹo dính vừa polyp 6 TH.
- 1 ngách trán bị bít tắc hoàn toàn sau mổ do sẹo dính.
Nguyên nhân hẹp ngách trán sau mổ
Tần số
%
Sẹo dính
4
25
Polyp
6
37,5
Sẹo dính + polyp
6
37,5
Tổng cộng
16
100
Bảng 3.28: Nguyên nhân gây hẹp ngách trán sau mổ
91
a. Đánh giá kết quả:
Theo tiêu chuẩn đánh giá của chúng tôi, kết quả sự thông thoáng của ngách trán sau mổ đƣợc ghi nhận nhƣ sau: tốt: 105 ngách trán (86,1%), trung bình: 16 ngách trán (13,1%), xấu: 1 ngách trán (0,8%). (Bảng 3.29)
Bảng 3.29: Đánh giá kết quả thông thoáng của ngách trán
Tiêu chuẩn đánh giá
Số TH
%
105
86,1
Tốt
Niêm mạc không phù nề hay phù nề nhẹ; không có mô sẹo hoặc chỉ có dải sẹo nhỏ không làm hẹp ngách trán
16
13,1
Trung bình Niêm mạc phù nề nhiều hay polyp nhỏ ngách trán và/hoặc mô sẹo làm hẹp ngách trán nhƣng chƣa bít tắc ngách trán
1
0,8
Xấu
Polyp bít ngách trán và/ hoặc sẹo hẹp gây bít tắc hoàn toàn ngách trán
Hình 3.9: Hình ảnh ngách trán trong lúc mổ và thoáng sau mổ 10 tháng
92
b. Sẹo dính sau mổ:
Trong số 11 trƣờng hợp có sẹo dính sau mổ, có 8 TH có sẹo dính trƣớc
mổ, và 3 TH không có sẹo dính trƣớc mổ, nhƣ vậy có liên quan giữa sẹo dính
sau mổ và sẹo dính trƣớc mổ: bệnh nhân có sẹo dính trƣớc mổ có tỉ lệ bị sẹo dính
ngách trán sau mổ cao hơn bệnh nhân không có sẹo dính trƣớc mổ, khác biệt này
có ý nghĩa thống kê (P=0,027,dùng phép kiểm chính xác Fisher).
Sẹo dính sau mổ Tổng cộng
không
có
Sẹo dính trƣớc mổ
không
70
3
73
41
8
49
có
Tổng cộng
111
11
122
Bảng 3.30: Bảng 2x2 mối liên quan giữa sẹo dính trước và sau mổ
Xử lý sẹo dính:
11 trƣờng hợp (9%) có sẹo dính sau mổ. Trong đó có 1 trƣờng hợp (0,8%)
bít tắc hoàn toàn sau mổ 8 tuần, phải phẫu thuật lại, đây là trƣờng hợp duy nhất
cần phải phẫu thuật lại trong lô nghiên cứu của chúng tôi. 10 trƣờng hợp còn lại
(8,8%) là dải sẹo gây bít tắc ngách trán không hoàn toàn, chủ yếu ở khe giữa,
đƣợc tách dính dƣới gây tê tại phòng soi mũi xoang, đều cho kết quả khá tốt,
không cần phải mổ lại .
c. Polyp ngách trán sau mổ:
12 trƣờng hợp có polyp nhỏ ngách trán sau mổ đều có polyp mũi trƣớc
mổ, nhƣ vậy có liên quan giữa xuất hiện polyp nhỏ sau mổ và tình trạng polyp
93
mũi trƣớc mổ: polyp nhỏ ngách trán sau mổ chỉ xuất hiện ở bệnh nhân có polyp
mũi trƣớc mổ, khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P=0,037, dùng phép kiểm
chính xác Fisher). Gặp chủ yếu ở các TH có polyp trƣớc mổ vƣợt ngoài khe giữa
(11 TH).
Tổng cộng
Bảng 3.31: Bảng 2x2 mối liên quan giữa polyp mũi trước mổ và polyp ngách trán sau mổ
Polyp ngách trán sau mổ
không
có
không
30
0
30
Polyp mũi trƣớc mổ
có
80
12
92
Tổng cộng
110
12
122
Xử trí polyp ngách trán sau mổ:
Tất cả 12 trƣờng hợp xuất hiện polyp nhỏ ngách trán sau mổ đều có niêm
mạc ngách trán thoái hóa polyp đƣợc phát hiện trong lúc mổ và có polyp mũi
trƣớc mổ. Các trƣờng hợp này đều đƣợc điều trị nội khoa tích cực, kết hợp lấy bỏ
polyp dƣới gây tê tại phòng soi khi cần, sau đó đều cho kết quả ngách trán
thoáng hơn và không gây triệu chứng nhức trán cho bệnh nhân.
Hình 3.10: Phù nề, thoái hóa polyp ngách trán sau mổ 9 tháng, và sau khi bấm bể polyp kết hợp điều trị nội.
94
d. Phù nề niêm mạc ngách trán
Có 8 trƣờng hợp phù nề niêm mạc ngách trán sau mổ ở mức độ nhẹ,
không gây hẹp ngách trán. Trong đó có 6 trƣờng hợp có cơ địa viêm mũi dị ứng,
2 trƣờng hợp có polyp mũi trƣớc mổ.
Sẹo dính
Polyp
Bảng 3.32: So sánh tình trạng ngách trán sau mổ trong nghiên cứu của chúng tôi và của Friedman [30] Ngách trán thoáng 86,1% 71,2%
Sẹo dính và polyp 4,9% 0%
3,3% 13,3%
4,9% 9,3%
Bít tắc hoàn toàn cần mổ lại 0,8% 6,2%
Chúng tôi Friedman
3.4.3. Tình trạng các xoang khác sau mổ: với thời gian theo dõi sau mổ của các
bệnh nhân là 12,5 tháng
- Không có trƣờng hợp nào dính cuốn giữa- vách mũi xoang.
- Không có trƣờng hợp nào bị bít tắc lỗ thông xoang hàm ở khe giữa.
- Hố mổ nạo sàng: 119 có phẫu thuật nạo sàng trƣớc và sàng sau, theo dõi
sau mổ: hố mổ thông thoáng 103 trƣờng hợp (86,5%), sẹo dính ít không
làm bít tắc hốc sàng: 9 TH (7,6%), polyp nhỏ ở hốc sàng 7 TH (8,3%).
- Lỗ thông xoang bƣớm: có 58 trƣờng hợp đƣợc mở lỗ thông xoang bƣớm
ở ngách sàng bƣớm, theo dõi sau mổ có 52 trƣờng hợp thông thoáng sau
mổ chiếm 89,7%, 6 trƣờng hợp có lỗ thông xoang bƣớm co nhỏ nhƣng
chƣa bị bít tắc hoàn toàn chiếm 10,3% .
3.4.4. CT scan sau mổ: có 38 xoang trán đƣợc chụp CT scan sau mổ, với kết
quả: xoang trán sáng là 33 TH chiếm 86,5%, xoang trán mờ không hoàn
95
toàn là 4 TH chiếm 10,5%, xoang trán mờ hoàn toàn là 1 TH chiếm
2,6%. 1 TH xoang trán mờ hoàn toàn là trƣờng hợp bị tắc xoang trán sau
mổ chúng tôi đã đề cập ở trên.
Trung bình Lund-Mackay của xoang trán sau mổ của 38 trƣờng hợp
này là 0,16, ĐLC: 0,437, so với trƣớc mổ là 1,39 (ĐLC: 0,495). Khác biệt
này có ý nghĩa thống kê với p=0,001.
Trung bình Lund-Mackay sau mổ của hệ thống xoang bên mổ đối với
38 trƣờng hợp này là 0,53 so với trƣớc mổ là 7,97. Khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với p=0.001.
Tần số
%
33
86.8
Xoang sáng (Lund Mackay 0đ)
4
10.5
Mờ không hoàn toàn (Lund Mackay 1đ)
1
2.6
Mờ hoàn toàn (Lund Mackay 2đ)
Tổng cộng
38
100
Bảng 3.33: CT scan xoang trán sau mổ (38 TH) CT xoang trán sau mổ
Hình 3.11: Hình ảnh CT scan trước và sau mổ
96
HÌNH ẢNH MINH HỌA MỘT SỐ TRƢỜNG HỢP
(A) (B)
(C) (D)
Hình 3.12: Mở tế bào K3 và xoang trán (T) có chất bã đậu: (A): trước mổ; (B): mở vào tế bào K3; (C): lấy tế bào K3 mở thông vào xoang trán, xoang trán có chất bã đậu; (D): ngách trán thông thoáng sau mổ 6 tháng
97
(A) (B)
(C) (D)
Hình 3.13: Viêm xoang trán (T) với polyp mũi độ 4 tái phát và tế bào bóng trán. (A): tế bào bóng trán trên CT 3 chiều (dấu thập), và polyp mũi độ 4 tái phát trước mổ; (B): mở tế bào bóng trán và đường dẫn lưu xoang trán, (C): hình ảnh nội soi ngách trán và (D): CT scan sau mổ 6 tháng.
98
(A) (B)
(C)
(D)
Hình 3.14: Hình ảnh trước, trong và sau mổ: (A) viêm xoang polyp mũi; (B) Mở ngách trán; Nội soi (C) và CT scan (D) sau mổ 18 tháng.
99
(A) (B)
(C) (D)
Hình 3.15: Mổ lại ngách trán với IGS: (A) Khảo sát CT 3 chiều trước mổ: tắc ngách trán (P); (B): ngách trán đã được mở rộng; (C) hình ảnh ngách trán (P) sau mổ trên CT scan; và nội soi (D)
100
4. CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm dịch tễ học của mẫu nghiên cứu
Trong 78 bệnh nhân của lô nghiên cứu, giới tính đƣợc phân bố cho hai
nhóm nam và nữ với tỷ lệ gần nhƣ bằng nhau (57,7% so với 42,3%). Về độ tuổi:
sự phân bố giữa các lứa tuổi tuân theo qui luật của mô hình bình thƣờng. Phân
bố nghề nghiệp không có sự tập trung vào một ngành nghề nào rõ rệt.
Bệnh nhân cƣ trú ngoài TP. Hồ Chí Minh nhiều hơn ở TP. Hồ Chí Minh
(62,8 % so với 37,2%), điều này có thể giải thích đây là bệnh viện chuyên khoa
Tai Mũi Họng đầu ngành của các tỉnh phía Nam, nên bệnh nhân ở các tỉnh phía
Nam đến khám và chữa bệnh nhiều. Hơn nữa phẫu thuật nội soi ngách trán, đặc
biệt là các trƣờng hợp mổ lại, là loại phẫu thuật khó vƣợt quá khả năng của một
số bệnh viện tỉnh ngoài TP. Hồ Chí Minh.
26,9 % bệnh nhân có cơ địa viêm mũi dị ứng, 2,6% có cơ địa vừa viêm
mũi dị ứng, vừa bị suyễn, 19,7% vẹo vách ngăn. Điều này phù hợp vì viêm mũi
dị ứng và bất thƣờng cấu trúc giải phẫu là các yếu tố thuận lợi nổi bật đối với
bệnh lý viêm xoang mạn [33].
Tỉ lệ có tiền căn phẫu thuật trƣớc đó: 47 trƣờng hợp (38,5%), thậm chí có
trƣờng hợp mổ nhiều lần. Tỉ lệ có sẹo dính trƣớc mổ do các lần mổ trƣớc là
46/47 trƣờng hợp (97,9%): đây là nhóm bệnh khó, rất thích hợp với sử dụng IGS
do mất mốc giải phẫu, do sẹo dính, xƣơng dày và cứng, gây khó khăn cho phẫu
thuật nội soi ngách trán.
Đa số bệnh nhân có thời gian mắc bệnh kéo dài, thời gian bệnh trung bình
là 5 năm. Thời gian bệnh kéo dài, có nhiều đợt cấp tái phát, kém đáp ứng với
điều trị nội khoa phù hợp với chỉ định phẫu thuật của nghiên cứu.
101
4.2. Đặc điểm lâm sàng, nội soi, CT scan, và tỉ lệ Agger nasi và tế bào
ngách trán
4.2.1. Triệu chứng lâm sàng, nội soi:
Đa số các bệnh nhân có triệu chứng là đau nhức trán/nhức đầu (91%) và
nghẹt mũi (89,7%), và không đáp ứng với điều trị nội khoa tích cực ít nhất trong
3 tuần. Điều này phù hợp vì nhức đầu vùng trán là triệu chứng thƣờng gặp nhất
bệnh nhân viêm xoang trán mạn tính, và đôi khi nhức đầu vùng trán là triệu
chứng cơ năng duy nhất [79]. Thời gian mắc bệnh mũi xoang: trung bình 5 năm,
chất lƣợng cuộc sống bị suy giảm. Điều này cho thấy tính cần thiết của phẫu
thuật trong điều trị đối với những bệnh nhân này.
Tỷ lệ polyp mũi 92/122 ngách trán (75,4%) trong đó 50 trƣờng hợp (41%)
có polyp vƣợt ngoài khe giữa. Bệnh polyp mũi là một trong những chỉ định của
IGS do gây biến dạng về cấu trúc giải phẫu mũi xoang, khả năng chảy máu trong
lúc mổ nhiều dù đã đƣợc điều trị nội khoa tích cực bao gồm cả corticoid uống
trƣớc đó.
Tất cả các trƣờng hợp đều có dịch khe giữa và phù nề niêm mạc ở các
mức độ khác nhau, phù hợp với tình trạng viêm mạn tính kéo dài của các bệnh
nhân nghiên cứu.
4.2.2. CT scan trước mổ
Hình ảnh mờ xoang trán trên CT scan là 100%, với trung bình Lund
Mackay cho mỗi xoang trán là 1,53 (tối đa là 2 điểm: mờ hoàn toàn xoang). Đa
số BN có viêm các xoang khác kèm theo, nổi bật là xoang sàng trƣớc (chiếm
97,5%, trong đó 62,3% mờ hoàn toàn) và tắc phức hợp lổ thông khe (97,5%).
102
Điều này cho thấy viêm xoang trán liên quan mật thiết đến viêm xoang sàng
trƣớc và tắc nghẽn phức hợp lỗ thông khe. Có 2 trƣờng hợp chỉ viêm xoang trán
đơn độc, xảy ra trên bệnh nhân đã đƣợc phẫu thuật ngách trán và nạo sàng trƣớc
trƣớc đó, nhƣng bị viêm xoang trán tái phát do ngách trán bị bít tắc.
Trung bình Lund Mackay hệ thống xoang mổ một bên là 8,5 (tối đa là 12
điểm cho mỗi bên), cho thấy mức độ viêm nặng của hệ thống xoang nói chung
của bệnh nhân.
Vai trò của CT scan mặt cắt đứng dọc (sagittal) và CT scan 3 chiều
(triplanar CT) trong phẫu thuật nội soi ngách trán:
Phim CT scan độ phân giải cao giúp đánh giá cấu trúc giải phẫu ngách
trán và bệnh tích của nó, giúp phẫu thuật viên tiên lƣợng trƣớc độ khó của phẫu
thuật để có kế hoạch mổ thích hợp. Phim sagittal hay parasagittal là phim CT cắt
theo mặt phẳng đứng dọc của xoang trán, là sự tái tạo của máy tính từ 2 tƣ thế
coronal và axial. Đối với ngách trán và xoang trán, mặt cắt sagittal giúp đánh giá
rõ hơn về vùng phễu trán, ngách trán, và các tế bào ngách trán, nên ngày nay
đƣợc sử dụng khá thƣờng quy trong phẫu thuật nội soi ngách trán. Phim sagittal
rất quan trọng để phân loại các tế bào ngách trán [9], [11], [28], [37], [39], [42],
[73], [87].
Hilger và cộng sự nhận thấy rằng: phim CT scan sagittal cho phép đánh
giá những thay đổi về giải phẫu liên quan đến bệnh sinh viêm xoang trán: nhƣ sự
hiện diện của tế bào Agger nasi, độ lớn của bóng sàng, các tế bào trên bóng, tế
bào sàng trán,..[87]
103
CT scan 3 chiều hay CT scan 3 mặt cắt (triplanar CT) là một phần
mềm riêng lẻ hay đƣợc trang bị trên hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh IGS. Khảo sát
cấu trúc giải phẫu ngách trán ngay trƣớc khi phẫu thuật bằng CT scan 3
chiều là bƣớc đầu tiên trong quy trình phẫu thuật nội soi ngách trán với
IGS của chúng tôi. CT scan 3 chiều giúp hiểu rõ cấu trúc giải phẫu phức tạp
của ngách trán, nhờ hiển thị đồng thời một cấu trúc mà ta muốn khảo sát cùng
một lúc trên cả 3 bình diện: coronal, axial và sagittal. Và khi di chuyển dấu thập
trên màn hình theo các hƣớng khác nhau sẽ thấy rõ tƣơng quan giữa các mốc giải
phẫu một cách rõ ràng trên cả ba bình diện này, với hình ảnh động. Những ƣu
điểm này không thể có đƣợc khi xem phim CT thông thƣờng hay trên các phần
mềm xem CT khác. CT scan 3 chiều giúp xác định chính xác cấu trúc ngách trán
và các tế bào ngách trán, từ đó giúp phẫu thuật viên lên kế hoạch mổ thích hợp.
Trƣớc kia khi chƣa có CT scan 3 chiều, dễ xảy ra nhầm lẫn giữa Agger
nasi và ngách tận, nhầm lẫn khi xác định các tế bào ngách trán nhƣ tế bào K1,
K2, K3,… Chẳng hạn nhƣ khi xác định tế bào K2 trên phim tƣ thế coronal, sẽ
khó khăn khi xác định đúng tế bào đó trên phim tƣ thế axial và sagittal. CT scan
3 chiều giúp giải quyết vần đề này một cách dễ dàng, chỉ ra đồng thời tế bào K2
trên cả 3 tƣ thế coronal, axial và sagittal một cách chính xác và nhanh chóng. CT
scan 3 chiều giúp ích rất nhiều cho việc nghiên cứu, khảo sát cấu trúc ngách
trán [86].
CT scan 3 chiều của IGS giúp xác định chính xác các tế bào ngách trán,
mốc giải phẫu, cũng nhƣ các cấu trúc xƣơng và mô sẹo gây bít tắc ở các trƣờng
hợp mổ lại. Từ đó chúng tôi lên kế hoạch phẫu thuật nội soi ngách trán thích
hợp cho từng trƣờng hợp cụ thể.
104
Hình 4.1: Tế bào K1 (P)(dấu thập) và tế bào vách liên xoang trán (mũi tên chỉ) trên CT ba chiều
Hình 4.2: Hình ảnh tế bào bóng trán (dấu thập) trên CT ba chiều
105
4.2.3. Tiên lượng mức độ khó của phẫu thuật dựa trên CT scan
Phẫu thuật viên phải ƣớc lƣợng đƣợc mức độ khó của cuộc mổ để có kế
hoạch phẫu thuật thích hợp, và thông tin cho bệnh nhân biết đƣợc khả năng
thành công mà cuộc mổ có thể đạt đƣợc. Trong trƣờng hợp quá khó, vƣợt quá
khả năng cần chuyển bệnh nhân lên tuyến trên có chuyên môn cao hơn và đầy đủ
phƣơng tiện hơn. Những yếu tố sau luôn đƣợc chúng tôi xem xét trƣớc mổ trên
CT scan:
(1) Đƣờng kính trƣớc sau của lỗ thông xoang trán: đƣờng kính này càng rộng
thì phẫu thuật càng thuận lợi, và dễ đạt đƣợc thông thoáng ngách trán sau
mổ. Đƣờng kính này đƣợc xem là hẹp khi ≤ 8mm [99]. Đƣờng kính này
càng hẹp thì phẫu thuật càng khó khăn, đồng thời khả năng sẹo dính sau
mổ cao.
(2) Có tế bào ngách trán phức tạp hay không: nếu chỉ có tế bào Agger nasi thì
phẫu thuật tƣơng đối không khó do chỉ cần lấy tế bào Agger nasi là thấy
đƣợc lỗ thông xoang trán, và càng đơn giản hơn nếu không có tế bào
Agger nasi; hoặc có kèm 1 tế bào ngách trán đơn giản nhƣ tế bào trên
bóng, tế bào K1 thì độ khó ở mức độ vừa phải. Nếu có tế bào K2, K3, tế
bào bóng trán, tế bào liên vách liên xoang trán, hoặc kết hợp nhiều loại tế
bào: thì mức độ khó là cao. (Trong các trƣờng hợp này nên dùng kỹ thuật
tạo vạt niêm mạc.)
(3) Cấu trúc xƣơng của hệ thống xoang nói chung và ngách trán nói riêng:
xƣơng càng dày, có hiện tƣợng sinh xƣơng trên CT scan thì khi phẫu thuật
sẽ gặp khó khăn do xƣơng dày và cứng: khó phẫu tích và dễ chảy máu.
Khi phẫu thuật lấy bỏ cấu trúc xƣơng này, thƣờng để lộ xƣơng viêm
106
không có niêm mạc che phủ, và dẫn đến dễ hình thành mô xơ và sẹo dính.
Theo Wormald, các trƣờng hợp này sau mổ nên sử dụng corticoid toàn
thân kéo dài, có khi đến 3 tuần [99].
(4) Đối với các trƣờng hợp mổ lại: cuốn giữa không còn sẽ gây rất nhiều khó
khăn cho phẫu thuật, do là mốc giải phẫu rất quan trọng nhất trong phẫu
thuật nội soi xoang trán. Cuốn giữa bị cắt cụt dính vào vách mũi xoang là
dấu hiệu tiên lƣợng phẫu thuật khó, cũng nhƣ dễ dính cuốn giữa vách mũi
xoang tái phát sau mổ.
Sẹo dính, mô sinh xƣơng, đặc biệt là khi có một lớp xƣơng bít tắc hoàn
toàn ngách trán và xƣơng dày: gây khó khăn cho việc tìm đƣờng dẫn lƣu
xoang trán.
(5) Bệnh tích ở ngách trán: hình ảnh polyp chiếm đầy ngách trán và xoang
trán gây biến dạng cấu trúc giải phẫu sẽ gây khó khăn cho cuộc mổ, và
thƣờng gây chảy máu nhiều trong lúc mổ.
(6) Cuốn giữa không còn, mất mốc giải phẫu: cuốn giữa là mốc giải phẫu
quan trọng nhất, nếu không còn sẽ gây rất nhiều khó khăn cho phẫu thuật.
4.2.4. Tỉ lệ Agger nasi và tế bào ngách trán của mẫu nghiên cứu:
a. Tế bào Agger nasi
Tỉ lệ hiện diện của Agger nasi trong nghiên cứu của chúng tôi ở 91 trƣờng
hợp chƣa từng mổ ngách trán trƣớc đó khá cao 94,5%. Điều này có thể lý giải
đƣợc vì đây là các trƣờng hợp viêm xoang trán mạn tính không đáp ứng với điều
trị nội khoa. Agger nasi từ lâu đã đƣợc xem đóng vai trò quan trọng trong bệnh
sinh viêm xoang trán mạn tính, và là chìa khóa của phẫu thuật nội soi xoang trán.
Bradley và Kountakis nghiên cứu hồi cứu phim CT scan của 80 bệnh nhân đƣợc
mổ lại, tỉ lệ Agger nasi là 93% trên tổng số 160 ngách trán đƣợc nghiên cứu,
107
trong đó tất cả các trƣờng hợp có viêm ngách trán đều có sự hiện diện của Agger
nasi (100%), trong khi chỉ có 3/29 ngách trán không viêm có agger nasi (10%),
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,000). Tác giả cũng đƣa ra kết luận: tế
bào Agger nasi lớn có liên quan đến giảm kích thƣớc đƣờng kính trƣớc sau của
đƣờng dẫn lƣu xoang trán và cũng làm hẹp ngách trán về phía trong. Bệnh tích
của Agger nasi có liên quan đến viêm xoang trán mạn tính và triệu chứng đau
nhức vùng sàng trán (frontoethmoid pain); và bệnh nhân có Agger nasi lớn làm
hẹp ngách trán có khả năng cần phải mở ngách trán cao gấp hai lần so với các
trƣờng hợp không có [12], [47], [50]. Khí hóa Agger nasi gây hẹp đƣờng dẫn
lƣu xoang trán là bệnh sinh quan trọng gây đau vùng sàng trán và viêm xoang
trán mạn, phẫu thuật nội soi xoang trán là phƣơng pháp điều trị hiệu quả cho
viêm xoang trán mạn tính [12].
Tỷ lệ có tế bào Agger nasi theo y văn khá cao, có thể trên 90%, thay đổi theo
từng nghiên cứu: Kennedy: gần 100%, Bolger: 98,5% [12], [59], [101].
b. Tế bào ngách trán:
Có 87 trƣờng hợp có ≥1 tế bào ngách trán chiếm tỉ lệ 71,3%. Trong đó: tế
bào trên bóng và K1 chiếm tỉ lệ cao nhất là 24,6% và 22,1%; kế tiếp là tế bào
bóng trán:13,9%, tế bào trên ổ mắt: 13,1% và K3: 9%. Các tế bào ít gặp nhất là
K2 (3,3%), và tế bào vách liên xoang trán (2,5%).
Tỉ lệ có tế bào ngách trán trong một nghiên cứu hồi cứu trên CT scan ở
212 trƣờng hợp viêm xoang trán của DelGaudio là 29,6%, trong đó K1 chiếm tỉ
lệ cao nhất: 18,4%, K2 là 1,4%, K3 là 6,1%, K4 là 2,4% [21]. DelGaudio chỉ
khảo sát 4 loại tế bào ngách trán là K1, K2, K3, và K4.
108
Tỉ lệ hiện diện tế bào ngách trán trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi khá
cao do chúng tôi chủ động chọn các trƣờng hợp có tế bào ngách trán trên CT
scan trƣớc mổ để đƣa vào lô nghiên cứu theo tiêu chuẩn chọn bệnh, vì đây là các
trƣờng hợp khó, rất thích hợp để phẫu thuật với hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh
IGS. Chúng tôi không chọn các trƣờng hợp có tế bào K4 vào lô nghiên cứu vì
các trƣờng hợp này không thể lấy đơn thuần qua nội soi mà phải phối hợp với
đƣờng ngoài. K1 là tế bào thƣờng gặp nhất và K2 là tế bào ít gặp nhất trong lô
nghiên cứu của chúng tôi, tƣơng tự nhƣ của DelGaudio.
4.3. Bàn luận về phẫu thuật
4.3.1. Chỉ định và quan điểm phẫu thuật nội soi ngách trán
Đƣờng dẫn lƣu xoang trán gồm có 3 phần khác nhau hợp lại có hình dạng
giống một cái đồng hồ cát. Phần trên của đồng hồ cát là phễu trán, là phần dƣới
nhất của xoang trán và hẹp dần về phía dƣới, phía sau và phía trong. Eo của đồng
hồ cát là lỗ thông tự nhiên của xoang trán, tiếp nối với chỗ thấp nhất của phễu
trán. Phần dƣới của đồng hồ cát là ngách trán, có hình cái phễu úp ngƣợc, tiếp
nối từ lỗ thông tự nhiên của xoang trán. Ngách trán nằm bên trong phức hợp
sàng trƣớc và có cấu trúc phức tạp, và chịu trách nhiệm cho hầu hết trƣờng hợp
viêm xoang trán [59].
Tình trạng dày niêm mạc xoang trán là do có tắc nghẽn bên dƣới ở ngách
trán hay thấp hơn. Nếu viêm xoang trán nhẹ và cấu trúc ngách trán rộng, không
có các tế bào ngách trán hay tế bào Agger nasi lớn, thì chỉ cần nạo sàng trƣớc
cẩn thận, mà không đụng chạm đến ngách trán. Nếu bệnh tích ở xoang trán và
ngách trán nhiều và nặng hơn: thoái hóa polyp hay polyp ngách trán hoặc viêm
xoang trán thất bại với phẫu thuật nạo sàng trƣớc thì phải phẫu thuật mở ngách
109
trán, xoang trán: lúc này phải lấy sạch tế bào Agger nasi và các tế bào ngách trán
nếu có, nhƣng vẫn bảo tồn niêm mạc bao quanh [81], [99].
Hiện có ba quan điểm, triết lý chính đối với phẫu thuật ngách trán và
xoang trán [99].
Quan điểm 1: kỹ thuật xâm lấn tối thiểu: các tác giả ủng hộ quan điểm này
cho rằng chỉ cần can thiệp ở xoang hàm và vùng chuyển tiếp là khe bán
nguyệt và phễu sàng, mà hoàn toàn không phẫu tích ở vùng ngách trán, sẽ
giúp làm sạch ngách trán và xoang trán. Có rất ít bài báo cáo có giá trị trên
thế giới chứng minh cho quan điểm này, nên không đƣợc đa số phẫu thuật
viên mũi xoang hiện nay trên thế giới ủng hộ.
Quan điểm 2: Chỉ phẫu thuật ngách trán và xoang trán khi bệnh nhân có triệu
chứng liên quan trực tiếp đến xoang trán và ngách trán: nhức đầu và đau vùng
trán. Nhức đầu và đau vùng trán ở bệnh nhân viêm xoang trán mạn là một chỉ
định của phẫu thuật ngách trán và xoang trán, tuy nhiên đây không phải là chỉ
định duy nhất. Thực tế đã chứng minh điều đó, có những bệnh nhân bị viêm
hay polyp xoang trán nặng mà không có triệu chứng nhức đầu nhƣng vẫn rất
cần đƣợc phẫu thuật; hoặc có trƣờng hợp viêm xoang trán gây biến chứng u
nhầy xoang trán mà bệnh nhân không nhức trán mà chỉ đến khám với triệu
chứng muộn là lồi mắt.
Quan điểm 3: Bệnh nhân có triệu chứng viêm mũi xoang mạn: nghẹt mũi,
chảy mũi nhầy đục, mất mùi, hay chảy mũi sau và có hình ảnh viêm xoang
trán mạn trên CT scan thì có chỉ định phẫu thuật ngách trán và xoang trán.
Những bệnh nhân này còn có bệnh tích cả ở xoang hàm, xoang sàng và xoang
bƣớm, và thật không hợp lý nếu chúng ta chỉ phẫu thuật các xoang này mà
không phẫu thuật ngách trán chỉ vì bệnh nhân không có triệu chứng đau nhức
110
vùng trán. Thực tế cho thấy rằng nguyên nhân thƣờng gặp khiến điều trị phẫu
thuật nội soi mũi xoang thất bại là để sót các tế bào viêm trong ngách trán.
May và Schatkin ủng hộ mở rộng lỗ thông tự nhiên của xoang trán theo
phân loại của NFA II và III của họ. Thực tế là khi phẫu tích ngách trán và lấy
sạch các tế bào bên trong ngách trán mà không động chạm đến lỗ thông tự
nhiên của xoang trán là đủ để giải quyết tình trạng viêm xoang trán. Triết lý
phẫu thuật xoang trán là nếu bệnh nhân có các tế bào ở ngách trán hay lỗ
thông tự nhiên mà làm tắc nghẽn sự dẫn lƣu xoang trán, thì cần lấy bỏ các tế
bào này mà không cần làm rộng thêm lỗ thông tự nhiên của xoang trán. Ngay
cả với lỗ thông tự nhiên rất nhỏ, nếu đƣờng dẫn lƣu ra ngoài của nó là ngách
trán đƣợc làm thông thoáng cũng có thể có chức năng dẫn lƣu tốt. Chỉ một số
ít trƣờng hợp do tắc nghẽn nặng, thoái hóa phù nề niêm mạc nhiều ngay tại
ostium xoang trán và gây triệu chứng đau nhức vùng trán thì mới cần mở
rộng nó, hoặc những trƣờng hợp mổ lại có mô sẹo hoặc xƣơng gây bít tắc lỗ
thông tự nhiên xoang trán thì bắt buộc phải mở rộng nó. Khi mở rộng lỗ
thông xoang trán bằng cách lấy bỏ sàn xoang trán vào phía trong thƣờng phải
dùng khoan do xƣơng dày, nhƣng nếu khoan không đủ rộng sẽ dẫn đến chít
hẹp, do xƣơng bị bộc lộ mà không có niêm mạch bao phủ dẫn đến tạo mô sẹo
[99].
Chỉ định và quan điểm phẫu thuật mở ngách trán trong nghiên cứu của
chúng tôi cũng giống nhƣ chỉ định phẫu thuật của đa số các phẫu thuật viên
mũi xoang nổi tiếng trên thế giới hiện nay nhƣ Friedman, Wormald PJ.,
Senior BA.,…là: viêm xoang trán mạn thất bại hay tái phát sau khi đã đƣợc
điều trị nội khoa tích cực (bao gồm cả corticoid uống) mà vẫn có tình trạng
dày niêm mạc ở ngách trán hay xoang trán thì cần phẫu thuật mở ngách trán
111
và làm sạch các tế bào ở ngách trán. Nếu không có bệnh tích đáng kể của
ngách trán thì không động chạm đến ngách trán. Không có quan điểm phẫu
thuật “nửa vời”, hay phẫu thuật ngách trán bán phần hay từng phần, nếu đã
phẫu thuật ngách trán thì phải lấy sạch các tế bào; vì nếu không lấy hết các tế
bào dễ gây hẹp tái phát do không đủ rộng, tạo mô sẹo [99].
4.3.2. Các biện pháp nhằm giảm thiểu chảy máu trong lúc mổ:
Bệnh nhân đƣợc điều trị nội khoa tích cực 3 tuần với kháng sinh phổ rộng
[48], [57], kèm với thuốc tan đàm, corticoid tại chỗ, toàn thân, thuốc kháng
histamine trƣớc mổ, giúp giảm viêm nhiễm, giảm chảy máu trong lúc mổ. Bệnh
nhân có polyp mũi đƣợc sử dụng corticoid uống 5-7 ngày trƣớc mổ.
Sau khi gây mê, bệnh nhân đƣợc đặt thuốc co mạch, chích tê với dung
dịch adrenaline 1:100.000. Huyết áp tối đa đƣợc hạ xuống dƣới 100 mmHg nhờ
gây mê sâu. Tất cả những biện pháp trên nhằm mục đích giảm chảy máu trong
lúc mổ
Mức độ chảy máu trong phẫu trƣờng ảnh hƣởng rất lớn đến cuộc mổ.
Chảy máu nhiều làm phẫu trƣờng không rõ, khó xác định các mốc giải phẫu, và
làm mờ nhanh ống soi, dễ gây tai biến trong lúc mổ. Thậm chí có trƣờng hợp
máu chảy nhiều đến mức phẫu thuật viên vừa lấy ống hút ra, chƣa kịp đƣa dụng
cụ khác vào để phẫu tích, thì phẫu trƣờng đã đầy máu không kịp để phẫu tích.
Đây là một trong những vấn đề khó khăn nhất mà phẫu thuật viên mũi xoang
phải đối phó. Các dụng cụ phẫu thuật có hút kèm theo rất hữu ích trong trƣờng
hợp này nhƣ thìa nạo có hút, dụng cụ cắt hút: giúp vừa hút máu, vừa phẫu tích
làm cho phẫu trƣờng luôn đƣợc rõ ràng.
112
4.3.3. Sử dụng dụng cụ cắt hút (powered microdebriders)
Dụng cụ cắt hút rất cần thiết trong phẫu thuật nội soi mũi xoang: hút máu
trong khi cắt mô: giúp phẫu trƣờng đƣợc rõ, sạch [99]. Với dụng cụ này, niêm
mạc và polyp đƣợc cắt chính xác, hạn chế tối đa mất niêm mạc và lột niêm mạc.
Chúng tôi còn sử dụng dụng cụ cắt hút để lấy bỏ các mảnh xƣơng nhỏ, mỏng.
Đặc biệt chúng tôi sử dụng lƣỡi cong để mở rộng ngách trán ra trƣớc: rất thuận
tiện và hiệu quả, không gây tƣớc lột niêm mạc. Dụng cụ này còn dùng để cắt
polyp và niêm mạc thoái hóa phủ trên bề mặt của lòng các xoang, mà vẫn để lại
một lớp niêm mạc mỏng che phủ lòng xoang, tạo điều kiện cho tái tạo lớp niêm
mạc mới khỏe mạnh [94].
Lƣỡi dao của dụng cụ cắt hút dao động theo 2 chiều với tốc độ từ 3000-
5000 vòng/phút. Trong phẫu thuật nội soi mũi xoang, thƣờng sử dụng 3000
vòng/phút là đủ. Với tốc độ này, nếu sử dụng không đúng cách, hoặc đúng chỗ
rất dễ gây tai biến, và tai biến xảy ra rất nhanh và nặng, không thể sửa chữa kịp
thời. Chẳng hạn nhƣ nếu áp lƣỡi dao vào xƣơng giấy sẽ dễ gây tổn thƣơng và hút
mô là cốt mạc ổ mắt và thậm chí là cơ trực trong, mỡ hốc mắt vào trong lƣỡi dao
và cắt bỏ rất nhanh mà phẫu thuật viên không có cơ hội sửa sai. Dụng cụ cắt hút
của Medtronic đƣợc sử dụng trong nghiên cứu của chúng tôi, có thể điều chỉnh
tốc độ theo ý muốn của phẫu thuật viên: có thể làm chậm lại nếu đạp nhẹ bàn
đạp rồi nhả bàn đạp ra, hoặc đạt tốc độ mong muốn 3000 vòng/ phút ngay lập tức
bằng cách nhấn bàn đạp tối đa. Phẫu thuật viên cần hiểu rõ cách sử dụng và đƣợc
huấn luyện kỹ để sử dụng nó một cách có hiệu quả mà không để xảy ra tai biến.
113
Hình 4.3: Sử dụng dụng cụ cắt hút lưỡi cong để mở rộng ngách trán ra trước.
4.3.4. Sử dụng IGS đúng cách và hiệu quả:
Phẫu thuật viên cần phải đọc thật thông thạo phim CT scan, để đƣa ra
nhận định đúng trong lúc mổ.
Phẫu thuật viên sử dụng IGS trong những thời điểm quan trọng: dùng để
xác định các cấu trúc giải phẫu nguy hiểm cần tránh nhƣ xƣơng giấy, sàn sọ;
thăm dò tìm đƣờng dẫn lƣu xoang trán, xác định các tế bào ngách trán trong lúc
mổ và xác định đã mở thông đƣợc vào ngách trán và xoang trán.
IGS rất thích hợp để xác định nhƣ có còn tế bào sàng nào hay không, xác
định xoang trán, xoang bƣớm [62].
Khi thông tin trên màn hình IGS không tƣơng ứng với phẫu trƣờng thì cần
dựa vào kinh nghiệm của phẫu thuật viên [62]. Khi không chắc chắn về độ chính
xác của máy, phẫu thuật viên cần kiểm tra lại, và đăng ký tƣơng tác lại nếu cần.
IGS hệ thống quang học sử dụng trong nghiên cứu có độ chính xác cao, sử
dụng tƣơng đối đơn giản, có thể kết hợp với các dụng cụ mổ có sẵn thông qua bộ
phận kết nối, mà không cần phải trang bị thêm các dụng cụ có gắn sẵn các quả
cầu định vị khá mắc tiền. Nhƣợc điểm của hệ thống IGS này là bị cản trở khi bị
che khuất bởi tay phẫu thuật viên hay ngƣời phụ mổ, nên khi sử dụng dụng cụ
114
định vị, cần lƣu ý tránh che khuất tầm nhìn của camera đối với các quả cầu định
vị gắn trên trán bệnh nhân và trên dụng cụ. Tuy nhiên khi đã sử dụng quen thì
nhƣợc điểm này dễ dàng đƣợc khắc phục và không còn là trở ngại cho cuộc mổ.
Độ chính xác của IGS hiện nay nói chung rất cao ≤ 2mm, đủ để thực hiện phẫu
thuật nội soi mũi xoang một cách an toàn [29], [35], [62]. Một số yếu tố có thể
làm sai lệch bao gồm:
- Gắn vòng đầu không chặt, dẫn đến xê dịch vị trí 3 quả cầu định vị
- Các quả cầu không đƣợc bắt vít sát vào vòng đầu, vào bộ phận kết nối
với dụng cụ.
- Do đăng ký tƣơng tác với bề mặt da của khuôn mặt bệnh nhân.
Trƣớc khi phẫu tích ở vùng nào quan trọng hay nguy hiểm, chúng tôi đều
kiểm tra lại độ chính xác bằng cách đƣa dụng cụ định vị vào cấu trúc giải phẫu
hằng định nhƣ xƣơng chính mũi, gai mũi,… để bảo đảm chắc chắn không bị sai
lệch. Trong trƣờng hợp bị sai lệch (thực tế rất ít khi xảy ra) thì chúng tôi kiểm tra
lại các nguyên nhân kể trên và tiến hành đăng ký tƣơng tác lại.
Không có biến chứng lớn nhƣ chảy dịch não tủy, tổn thƣơng ổ mắt đƣợc
ghi nhận trong nghiên cứu của chúng tôi mặc dù chúng tôi tiến hành phẫu thuật
triệt để hơn, chuyên sâu hơn so với trƣớc khi đƣợc trang bị máy IGS.
* Vai trò của IGS trong phẫu thuật ngách trán:
IGS giúp xác định lỗ thông ngách trán và xoang trán chính xác mà không
gây sang chấn. Dùng dụng cụ thăm dò ngách trán có định vị để xác định vị trí và
sự thông thoáng, đồng thời đánh giá tƣơng quan với các cấu trúc lân cận: sàn sọ,
xƣơng giấy. IGS giúp phân biệt lỗ thông xoang trán với lỗ thông của tế bào trên
115
ổ mắt mở vào trong ngách trán, mà trƣớc đây khi chƣa có IGS rất khó để phân
biệt. IGS còn giúp nhận diện các tế bào nằm cao bên trong xoang trán như tế
bào K3, tế bào bóng trán: các tế bào này rất giống xoang trán khi quan sát từ
bên dưới với nội soi, và khi mở vào các tế bào này, nếu không được trang bị
IGS, phẫu thuật viên dễ nhầm lẫn là đã mở được vào xoang trán, nên có thể
bỏ sót bệnh tích dẫn đến viêm xoang trán tái phát sau mổ. IGS làm gia tăng sự
tự tin của phẫu thuật viên đối với phẫu thuật nội soi xoang trán, và tăng tỉ lệ mở
thành công ngách trán lên đáng kể [17], [62], [85].
Hình 4.4: Nội soi rất khó phân biệt đâu là lỗ thông xoang trán ở TH này nếu không có IGS. Thực tế lỗ bên (P) là tế bào trên ổ mắt, và lỗ bên (T) nhỏ hơn là lỗ thông xoang trán. “Nguồn:Lessa 2007, Braz J Otorhinolaryngol”[52] Trên thực tế tại bệnh viện Tai Mũi Họng TP.HCM, từ khi hệ thống IGS
đƣợc triển khai vào 2007, phẫu thuật nội soi mũi xoang nói chung và phẫu thuật
nội soi ngách trán đã có nhiều tiến bộ đáng kể so với trƣớc kia. Phần mềm khảo
sát CT scan 3 chiều giúp xác định và hiểu rõ các cấu trúc của ngách trán mà
trƣớc kia rất khó xác định và dễ nhầm lẫn; tỉ lệ mở thành công ngách trán tăng
cao và đƣợc xác định chắc chắn, việc phẫu tích các tế bào ngách trán đƣợc chú
trọng và đạt hiệu quả cao. Đặc biệt là các trƣờng hợp mổ lại bị mất mốc giải
116
phẫu, mô sẹo và xƣơng bít tắc ngách trán, IGS giúp mở thông ngách trán qua
một lớp xƣơng hay mô sẹo gây bít tắc hoàn toàn xoang trán một cách khá an
toàn, đƣợc thực hiện trong một số trƣờng hợp trong lô nghiên cứu của chúng tôi.
Trước kia khi chưa được trang bị IGS, khi gặp những trường hợp tương tự,
các bác sĩ khoa mũi xoang tại bệnh viện Tai Mũi Họng TP.HCM, kể cả các
phẫu thuật viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, thường phải ngưng phẫu thuật hoặc
phải phối hợp với đường ngoài để bảo đảm an toàn cho bệnh nhân. IGS còn
giúp rất nhiều cho công tác giảng dạy và huấn luyện vì giúp phẫu thuật viên chỉ
ra các cấu trúc giải phẫu đang mổ trên 3 bình diện CT scan với thời gian thực,
giúp giảng viên biết đƣợc ngƣời đƣợc huấn luyện đang phẫu tích ở đâu một cách
chính xác nhờ vậy tiếp tục giảng dạy hiệu quả và an toàn [62].
4.3.5. Sử dụng thìa nạo chữ J có định vị:
Chúng tôi luôn gắn các quả cầu định vị vào thìa nạo chữ J để xác định và
phẫu tích ngách trán đƣợc chính xác và an toàn. Chúng tôi chọn thìa nạo chữ J vì
dễ gắn với các quả cầu định vị thông qua một bộ phận nối, các quả cầu đƣợc gắn
rất chắc chắn, không bị xê dịch, nên bảo đảm không bị sai lệch độ chính xác;
Hơn nữa thìa nạo chữ J là dụng cụ hầu nhƣ không thể thiếu trong các phẫu thuật
nội soi ngách trán của chúng tôi, vì có độ cong thích hợp, cũng nhƣ kích thƣớc
đủ nhỏ: giúp xác định và phẫu tích mở rộng ngách trán một cách hiệu quả, an
toàn, ít gây sang chấn, và tổn thƣơng niêm mạc. Thìa nạo chữ J có định vị giúp
bẻ gãy các cấu trúc xƣơng đƣợc tốt hơn, nên mở rộng đƣờng dẫn lƣu đƣợc nhanh
chóng và hiệu quả hơn.Trƣớc đây, khi chƣa sử dụng hệ thống IGS, chúng tôi
thƣờng sử dụng cây thăm dò xoang trán để thăm dò và mở rộng đƣờng dẫn lƣu
xoang trán vì đầu của cây thăm dò có kích thƣớc rất nhỏ (đƣờng kính 0,5mm) vì
dễ đƣa vào những nơi hẹp, tuy nhiên lại gặp khó khăn trong việc mở rộng
117
đƣờng dẫn lƣu xoang trán do kích thƣớc nhỏ, hơn nữa đầu của cây thăm dò khá
nhọn nên nếu dùng sức có thể gây tổn thƣơng sàn sọ. Từ khi được trang bị hệ
thống IGS, chúng tôi có sáng kiến sử dụng thìa nạo chữ J có gắn định vị, loại
kích thước nhỏ, với đầu của thìa nạo hình bầu dục kích thước 1,5 x 3mm của
Xomed. Do được gắn với các quả cầu định vị, nên nó giúp ích nhiều trong việc
tìm ra đường dẫn lưu xoang trán và mở rộng ngách trán được hiệu quả hơn,
và an toàn hơn. Chúng tôi cũng sử dụng thìa nạo này để phẫu tích các tế bào
ngách trán rất hiệu quả và có thể đƣa lên cao vào trong xoang trán để phẫu tích
các tế bào nằm cao nhƣ tế bào K3 và tế bào bóng trán, tế bào vách liên xoang
trán mà vẫn kiểm soát đƣợc vị trí của nó nhờ hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh IGS.
Thìa nạo chữ J cũng rất hiệu quả để lấy bỏ các lớp xƣơng dày và cứng gây bít
tắc ngách trán trong các trƣờng hợp mổ lại.
4.3.6. Phẫu thuật mở ngách trán – phẫu tích tế bào Agger nasi với IGS :
Các nguyên tắc và phƣơng pháp sau đƣợc chúng tôi áp dụng giúp mở ngách
trán với sự hiện diện của Agger nasi :
- Lấy bỏ bóng sàng trƣớc khi mở ngách trán, để có phẫu trƣờng rộng rãi, dễ
đƣa dụng cụ vào, cũng nhƣ làm rộng thêm ngách trán về phía sau và thuận lợi
cho lấy tế bào trên bóng hay bóng trán nếu có.
- Lấy bỏ thành trƣớc Agger nasi trong trƣờng hợp lỗ thông xoang trán nằm cao,
hoặc tế bào Agger nasi lớn, nhằm giúp quan sát và phẫu tích ngách trán thuận
lợi hơn, thƣờng chỉ cần dùng ống nội soi 0 độ lúc phẫu tích, sau đó mới kiểm
tra lại bằng ống nội soi 30-45 độ. Đƣa kềm gặm xƣơng hay citelli xoang trán
song song với chân bám cuốn giữa để lấy bỏ thành trƣớc Agger nasi, tránh
lấy xƣơng lên quá cao làm mất ổn định cuốn giữa và gây hiện tƣợng cuốn
giữa đi ra ngoài làm hẹp ngách trán. Có thể tạo vạt niêm mạc trong trƣờng
118
hợp cần lấy xƣơng lên cao hơn, sau đó phủ lại những chỗ lộ xƣơng để tránh
hiện tƣợng co kéo cuốn giữa ra ngoài.
- Thăm dò đƣờng dẫn lƣu xoang trán bằng thìa nạo chữ J có định vị. Độ cong
gập góc thìa nạo chữ J cần tƣơng ứng với độ cong của đƣờng dẫn lƣu xoang
trán đƣợc xem xét trên CT scan mặt cắt sagittal trƣớc mổ, có nhƣ vậy mới
thăm dò đƣợc thuận lợi. Tránh trƣờng hợp sử dụng thìa nạo chữ J có độ gập
góc ít, mà hƣớng của ngách trán lại gập góc ra trƣớc nhiều, trong trƣờng hợp
này sẽ rất khó tìm đƣợc đƣờng dẫn lƣu xoang trán, và nếu cố gắng tìm có thể
gây tổn thƣơng sàn sọ, chảy dịch não tủy.
- Sau khi đã thăm dò xác định Agger nasi, cách tìm ra đƣờng dẫn lƣu xoang
trán là đƣa thìa nạo chữ J ra phía sau hoặc phía sau trong của Agger nasi, sẽ
lọt vào đƣờng dẫn lƣu xoang trán và có thể đƣa lên cao vào xoang trán. Khi
có sự hiện diện kèm theo một tế bào Aggernasi lớn, tế bào này thƣờng đẩy
phần cao của mỏm móc hƣớng vào phía trong và gắn vào cuốn giữa. Trong
trƣờng hợp này, Agger nasi sẽ đẩy đƣờng dẫn lƣu xoang trán ra phía sau. Vì
vậy phẫu thuật viên sẽ không tìm thấy đƣờng lên ngách trán ở phía trong phần
cao mỏm móc mà phải đi từ phía sau thành sau của Agger nasi và bẻ gãy
thành sau và trần của Agger nasi để bộc lộ hoàn toàn lỗ thông tự nhiên của
xoang trán [99].
- Sau khi đã thăm dò đƣợc lỗ thông xoang trán, dùng thìa nạo chữ J có định vị
đƣa ra phía sau Agger nasi và nạo theo hƣớng từ sau ra trƣớc để tránh làm tổn
thƣơng sàn sọ. Chọn lựa thìa nạo chữ J có độ cong thích hợp với hƣớng của
đƣờng dẫn lƣu xoang trán.
119
- Khi đã mở rộng ngách trán khoảng > 3 mm đƣờng kính, chúng tôi mở rộng
thêm ra 2 bên và ra trƣớc bằng dụng cụ cắt hút (microdebrider) lƣỡi cong, lấy
bỏ xƣơng vụn và niêm mạc dƣ thừa bằng dụng cụ này.
Lấy bỏ Agger nasi đối với các trƣờng hợp không phức tạp cũng đủ để
dẫn lƣu xoang trán bị viêm, mặc dù việc lấy bỏ tế bào này không thật sự làm
mở rộng lỗ thông tự nhiên của xoang trán, nhƣng nó giải quyết đƣợc sự tắc
nghẽn bên dƣới nó, và đó có thể là chỗ hẹp nhất của đƣờng dẫn lƣu xoang
trán, nhất là những trƣờng hợp có tế bào Agger nasi to, và đƣờng dẫn lƣu
xoang trán phải đi trên và xung quang tế bào này [72], [104].
Nhờ vào hệ thống IGS, chúng tôi đã mở thành công ngách trán trong
tất cả các trƣờng hợp nghiên cứu. Reardon hồi cứu trên 800 ca phẫu thuật nội
soi mũi xoang nhận thấy tỉ lệ mở thành công ngách trán tăng lên đáng kể khi
sử dụng IGS [85].
Theo đánh giá của chúng tôi, khảo sát vị trí bám của phần cao mỏm
móc khá quan trọng trong việc tìm đƣờng dẫn lƣu xoang trán. Tuy nhiên việc
khảo sát Agger nasi còn quan trọng hơn vì nó ảnh hƣởng nhiều đến cấu trúc
ngách trán, cũng nhƣ là mốc để phân loại các tế bào ngách trán. Agger nasi
chính là chìa khóa để mở thông ngách trán.
4.3.7. Phẫu tích các tế bào ngách trán với IGS:
Đứng trên quan điểm phẫu thuật, ngách trán có thể đƣợc xem nhƣ một cái
hộp có 4 thành, muốn mở ngách trán rộng cần phải tiếp cận đúng cách với các
thành này [14], [15]. Tác động lên thành trƣớc bằng cách lấy bỏ phần cao mỏm
móc, agger nasi và các tế bào K1, K2, K3. Thành sau: lấy bỏ phần bám phía trên
của bóng sàng, mở thông tế bào trên ổ mắt, lấy tế bào trên bóng hay bóng trán
nếu có để mở rộng tối đa theo đƣờng kính trƣớc sau. Động mạch sàng trƣớc nằm
120
ở sàn sọ phía sau ngách trán, đƣợc khảo sát trƣớc khi mổ xem có nằm lộ ra ngoài
treo ngay dƣới sàn sọ hay không để tránh làm tổn thƣơng. Cuốn giữa là giới hạn
trong, tế bào vách liên xoang trán nếu có sẽ làm hẹp ngách trán ở thành trong,
lấy bỏ vách xƣơng giữa xoang trán và tế bào liên xoang trán sẽ làm rộng đƣờng
dẫn lƣu xoang trán (trƣờng hợp đƣờng kính trƣớc sau hẹp có thể xem xét mở
thêm tế bào này dù không bị viêm). Phía ngoài: các tế bào nằm sát xƣơng giấy
cần đƣợc lấy bỏ, trong trƣờng hợp có xƣơng giấy ổ mắt dày do hiện tƣợng tạo
xƣơng mới, có khi cần lấy bỏ chỉ chừa lại cốt mạc ổ mắt nguyên vẹn để làm
rộng đƣờng dẫn lƣu xoang trán.
Các tế bào ngách trán đƣợc khảo sát kỹ trên CT scan 3 chiều trƣớc mổ về
kích thƣớc và vị trí của nó trong ngách trán để lên kế hoạch phẫu tích thích hợp.
Tỉ lệ gặp các tế bào ngách trán trong lô nghiên cứu của chúng tôi là 87/122
ngách trán chiếm tỉ lệ 71,3% (không tính đến tế bào Agger nasi).
Tế bào K1, K2:
Xác định các tế bào K1, K2 trên CT scan 3 chiều. Bƣớc tiếp theo là nhận
định đƣờng dẫn lƣu xoang trán tƣơng quan nhƣ thế nào với các tế bào này. Đây
là bƣớc quan trọng để giúp phẫu thuật viên biết cách đƣa dụng cụ để phẫu tích
mở ngách trán. Khi đã xác định tế bào, cách phẫu tích an toàn là đƣa dụng cụ vào
đƣờng dẫn lƣu xoang trán lên phía trên tế bào này và bẻ xƣơng của tế bào xuống
dƣới. Nếu đƣa dụng cụ thăm dò không đúng hƣớng vào đƣờng dẫn lƣu xoang
trán, có thể làm tổn thƣơng sàn sọ, xƣơng giấy ổ mắt. Thông thƣờng, sau khi lấy
bỏ tế bào Agger nasi, đƣờng dẫn lƣu xoang trán nằm ngay phía sau của tế bào
K1 và K2, và trƣớc tế bào trên bóng. Dụng cụ thăm dò và phẫu tích cần phải đƣa
ra sau các tế bào K1 và K2.
121
Một số trƣờng hợp khác, đƣờng dẫn lƣu xoang trán nằm phía trong tế bào
K1, K2. Nên khi đƣa dụng cụ thăm dò và phẫu tích cần phải đƣa bên trong tế bào
này. Một số rất ít trƣờng hợp, đƣờng dẫn lƣu nằm bên ngoài tế bào K1, K2.
Hình 4.5: Tế bào K1 đã được mở
(A) (B)
Hình 4.6: Tế bào K2: (A) K2 trên CT scan 3 chiều trước mổ; (B) lấy K2 mở thông ngách trán.
122
Tế bào K3:
Đƣờng dẫn lƣu xoang trán thƣờng nằm phía trong tế bào K3. Tế bào K3
lớn làm hẹp và đẩy đƣờng dẫn lƣu xoang trán vào trong. Cây thăm dò đƣờng dẫn
lƣu xoang trán cần phải đƣa vào phía trong tế bào K3.
Một số trƣờng hợp K3 rất to, chỉ cần lấy thành trong của K3 gây tắc nghẽn
lỗ thông tự nhiên xoang trán. Trần của tế bào K3 có thể để lại nếu không gây tắc
nghẽn, nhất là khi xƣơng dày và cứng, hoặc khi tế bào K3 phát triển quá cao lên
phía trên, không thể lấy hết trần của nó qua nội soi [99].
Đƣờng dẫn lƣu xoang trán nằm phía sau tế bào K3, trong một số trƣờng
hợp đƣờng dẫn lƣu rất hẹp, và khi cố gắng đƣa cây thăm dò hoặc J currete vào dễ
gây nguy hiểm vì rất gần với sàn sọ.
Tế bào Kuhn type 4 cổ điển hay theo phân loại mới của Wormald không
thể lấy qua nội soi mà phải phối hợp với đƣờng ngoài. Trong mẫu nghiên cứu
của chúng tôi không có tế bào K4.
(A) (B) Hình 4.7: Đường dẫn lưu xoang trán nằm phía trong (A) và sau (B) tế bào K3
123
Tế bào trên ổ mắt:
Cần lấy hết vách xƣơng giữa ngách trán và tế bào này, tránh làm tổn
thƣơng động mạch sàng trƣớc nằm ngay phía sau dƣới tế bào này. Tế bào trên ổ
mắt nằm phía sau và phía ngoài so với lỗ thông tự nhiên xoang trán [15].
(A) (B)
Hình 4.8: Chú ý động mạch sàng trước khi mở tế bào trên ổ mắt:(A) mở tế bào trên ổ mắt (T); (B) động mạch sàng trước (mũi tên chỉ).
Tế bào trên bóng: chúng tôi thƣờng lấy bỏ tế bào trên bóng để mở rộng
ngách trán sau khi đã mở đƣợc ngách trán vì an toàn hơn, ít nguy cơ làm tổn
thƣơng sàn sọ hơn.
Tế bào bóng trán: cũng nhƣ tế bào trên bóng, chúng tôi lấy bỏ tế bào
bóng trán sau khi đã mở đƣợc ngách trán vì sẽ an toàn và ít nguy cơ làm tổn
thƣơng sàn sọ hơn. Tuy nhiên tế bào bóng trán nằm cao trong xoang trán nên khó
phẫu tích hơn nhiều, đòi hỏi phải sử dụng dụng cụ góc nhƣ kềm giraffe,… và tay
nghề của phẫu thuật viên. Trong trƣờng hợp trần của tế bào bóng trán nằm quá
124
cao, có thể không cần phải lấy hết, chỉ cần mở thông là đủ để dẫn lƣu tế bào
bóng trán và xoang trán bị viêm và làm rộng đƣờng kính trƣớc sau của ngách
trán.
Hình 4.9: Mở tế bào bóng trán.
Tế bào vách liên xoang trán
Đối với tế bào vách liên xoang trán nếu khí hóa nhiều gây hẹp ngách trán,
hoặc bị viêm: lấy bỏ thành ngoài tế bào này bằng curette và kềm giraffe để làm
rộng thêm ngách trán [60], [89], [99]. Chỉ cần mở thông một bên vách tế bào này
vào ngách trán là đủ. Do tế bào nằm rất cao nên thƣờng đòi hỏi phải tạo vạt niêm
mạc và sử dụng các dụng cụ góc thích hợp nhƣ thìa nạo chữ J, kềm girraffe.
Với việc sử dụng các dụng cụ có độ cong thích hợp, kết hợp với ống soi
góc, kết hợp với kỹ thuật tạo vạt niêm mạc, chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết các
tế bào ngách trán đều có thể phẫu tích đƣợc qua nội soi (ngoại trừ tế bào K4).
125
4.3.8. Phẫu thuật mổ lại:
A. Nguyên nhân gây bít tắc ngách trán, xoang trán sau phẫu thuật NSMX:
Theo Kuhn: ba nguyên nhân chính gây sẹo hẹp bít tắc ngách trán sau phẫu
thuật nội soi xoang trán là: (1) không lấy đủ tế bào Agger nasi và các tế bào
ngách trán; (2) lột bỏ niêm mạc nhiều hay phẫu tích thô bạo dẫn tới tạo mô sẹo,
viêm xƣơng, và tạo xƣơng mới; (3) cuốn giữa bị đẩy ra ngoài về phía vách mũi
xoang hoặc bị cắt cụt một phần nên gây dính bít tắc ngách trán [46], [87]. Otto
đƣa ra 7 nguyên nhân gây bít tắc ngách trán sau mổ với tỉ lệ: bệnh lý niêm mạc
(67%), còn tế bào sàng(53%), cuốn giữa đi ra ngoài (30%), còn tế bào Agger
nasi (13%), sẹo hẹp (12%), còn tế bào ngách trán (8%), và xƣơng tân tạo (7%),
hầu hết đều có hơn một nguyên nhân kể trên, trung bình là 1.6 nguyên nhân[68].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hầu hết các bệnh nhân có tiền căn
PTNSMX ở nơi khác và trong giấy xuất viện không ghi rõ có đƣợc phẫu thuật
ngách trán hay không, nên chúng tôi dựa vào bệnh tích, tình trạng sẹo hẹp qua
nội soi và hình ảnh CT scan trƣớc mổ và bệnh tích trong khi mổ để phỏng đoán
bệnh nhân có đƣợc phẫu thuật liên quan đến ngách trán hay chƣa. Tỉ lệ các
nguyên nhân gây bít tắc ngách trán ở các trƣờng hợp mổ lại trong nghiên cứu của
chúng tôi khác với của Otto, có lẽ là do tất cả các trƣờng hợp của Otto đều có
động chạm đến ngách trán trong phẫu thuật trƣớc đó, và các phẫu thuật này đa số
đã đƣợc làm triệt để; còn trong nghiên cứu của chúng tôi có những trƣờng hợp bị
bít tắc ngách trán do dính cuốn giũa vào vách mũi xoang mà chƣa động chạm
đến ngách trán; hơn nữa các trƣờng hợp phẫu thuật nội soi ngách trán tái phát
đƣợc chuyển từ các bệnh viện tuyến dƣới đều không đƣợc phẫu tích đúng mức
và đúng phƣơng pháp. Các nguyên nhân có thể gây ra bít tắc ngách trán trong lô
nghiên cứu của chúng tôi bao gồm:
126
(1) Dính cuốn giữa vào vách mũi xoang có hay không kèm cuốn giữa bị cắt
cụt không hoàn toàn:
Dính cuốn giữa vào vách mũi xoang có thể do các nguyên nhân sau:
phẫu thuật gây xây xát nhiều ở cuốn giữa và vách mũi xoang, đặt bấc mũi
không đúng kỹ thuật đẩy cuốn giữa ra ngoài, không phát hiện và tách dính
sớm sau mổ, hoặc do cấu trúc tự nhiên của cuốn giữa cong ngƣợc, dễ gây
dính vào vách mũi xoang sau mổ. Nếu phát hiện sớm sau mổ có thể tách
dính dƣới gây tê tại phòng soi, có thể kết hợp bôi mytomicin chống dính.
Trong trƣờng hợp dính mức độ nhiều, mô sẹo dày chắc gây bít tắc cần
phải mổ lại. Khi phẫu thuật lại, cần lấy bỏ mô sẹo, xƣơng tân sinh, các tế
bào sàng còn sót ở khe giữa để làm rộng hố sàng. Một trong những nguyên
nhân gây dính cuốn giữa-vách mũi xoang thƣờng gặp là cuốn giữa bị cắt
cụt không hoàn toàn, khiến phần còn lại của cuốn giữa có khuynh hƣớng
đi ra ngoài gây dính làm bít tắc ngách trán [93]. Trong trƣờng hợp bắt
buộc phải cắt bỏ cuốn giữa nhƣ trong phẫu thuật bệnh lý khối u thì cần cắt
sát đến chỗ bám của nó. Cần tránh tối đa cắt cuốn giữa khi PTNSMX vì
dễ gây dính, cũng nhƣ gây rất nhiều khó khăn cho phẫu thuật viên khi phải
mổ lại vì mất mốc giải phẫu quan trọng là cuốn giữa.
Dính cuốn giữa – vách mũi xoang có thể gây viêm xoang trán sau
mổ do bít tắc ngách trán cho dù trƣớc đó phẫu thuật nội soi không động
chạm đến ngách trán và bệnh nhân không bị viêm xoang trán. Đây là
nguyên nhân gây tắc xoang trán do thầy thuốc gây ra nếu trƣớc khi mổ
bệnh nhân không bị viêm xoang trán.
127
(2) Phẫu thuật nạo sàng trƣớc còn sót tế bào sàng: đây cũng là nguyên nhân
khá thƣờng gặp gây tắc ngách trán: do hố nạo sàng hẹp dễ bị bít tắc và tạo
mô sẹo và xƣơng tân sinh.
(3) Phẫu thuật ngách trán thô bạo, lột bỏ niêm mạc gây sẹo hẹp, và xƣơng tân
sinh:
Nếu lột bỏ niêm mạc nhiều, sẽ gây viêm xƣơng do không có niêm mạc che
phủ dẫn đến hình thành sẹo dính và xƣơng tân sinh [67], [83], [99]. Phẫu
thuật mở lại xoang trán trong các trƣờng hợp này thƣờng gặp nhiều khó
khăn do xƣơng dày và cứng, dễ chảy máu, đồng thời các cấu trúc giải
phẫu bị biến dạng hay bị mất. Trƣờng hợp bị bít tắc ngách trán hoàn toàn,
khi thăm dò sẽ không tìm đƣợc đƣờng lên xoang trán, khả năng gây tai
biến chảy dịch não tủy hay vỡ xƣơng giấy cao. Hệ thống IGS trong trƣờng
hợp này rât hữu ích, giúp tìm ra đƣờng vào xoang trán đƣợc an toàn, nhất
là khi cần đột phá qua một lớp xƣơng cứng để vào đƣợc xoang trán.
A B
Hình 4.10: Ngách trán bị tắc hoàn toàn (A) và được mở rộng với IGS (B).
128
(4) Phẫu thuật mở ngách trán không đủ rộng, không lấy hết tế bào Agger nasi,
không lấy bỏ các tế bào ngách trán [12], [14]: đây là lỗi thƣờng gặp nếu
phẫu thuật viên không đƣợc huấn luyện mổ ngách trán đúng cách, không
đủ trang thiết bị cần thiết. Ngách trán nằm cao và hƣớng ra trƣớc, khó
thao tác khi phẫu thuật, nhất là khi có sự hiện diện của các tế bào nằm cao
trong ngách trán nhƣ tế bào K3, tế bào bóng trán…, đòi hỏi phải sử dụng
các dụng cụ gập góc thích hợp nhƣ J currette, kềm giraffe,… Do đó cần
đánh giá kỹ cấu trúc ngách trán trên CT scan trƣớc mổ để tiên lƣợng mức
độ khó của phẫu thuật, và có kế hoạch mổ thích hợp. IGS trong trƣờng
hợp này rất hữu ích giúp lấy hết các tế bào gây tắc nghẽn ngách trán. Còn
sót Agger nasi và các tế bào ngách trán trong lần mổ trƣớc gây viêm
xoang trán tái phát là nguyên nhân khá thƣờng gặp trong lô nghiên cứu
của chúng tôi.
(5) Động chạm đến lỗ thông tự nhiên xoang trán mà không mở rộng nó: lỗ
thông xoáng trán là phần cao nhất của ngách trán, khi bị tổn thƣơng niêm
mạc ở vùng này sẽ rất dễ gây sẹo hẹp bít tắc xoang trán và sẽ rất khó khi
mổ lại, và ngay cả khi mổ lại đƣợc ngách trán rộng, tỉ lệ tái phát vẫn rất
cao [99].
Trong lô nghiên cứu, có 1 bệnh nhân tái phát do phẫu thuật trƣớc đó
lột bỏ niêm mạc nhiều và động chạm đến lỗ thông tự nhiên của xoang
trán, đồng thời bệnh nhân có cơ địa sẹo hẹp. Khi mổ lại lần 1, chúng tôi
gặp rất nhiều khó khăn do mô sẹo nhiều, xƣơng bít toàn bộ ngách trán rất
dày và cứng, hốc sàng gần nhƣ không còn. Với hƣớng dẫn của IGS, chúng
tôi đã mở đƣợc ngách trán khá rộng sau khi đã lấy bỏ xƣơng gây bít tắc,
nhƣng lại không có niêm mạc che phủ. Sau mổ 8 tuần, bệnh nhân này bị
129
bít tắc ngách trán hoàn toàn do mô hạt viêm và mô sẹo, dù đƣợc chăm sóc
tích cực, chấm mytomicin, dùng corticoid uống và xịt mũi. Khi mổ lại lần
2 chúng tôi phải dùng khoan để mở rộng sàn xoang trán. Tuy vậy lỗ thông
xoang trán vẫn bị sẹo co nhỏ lại, nhƣng vẫn còn một lỗ nhỏ và bệnh nhân
hết nhức đầu.
Do lỗ thông xoang trán rất dễ bị sẹo hẹp, nhất là khi tổn thƣơng niêm
mạc trên toàn bộ chu vi lỗ thông, nên khi phẫu thuật ngách trán tuyệt đối
không đụng chạm đến lỗ thông tự nhiên của nó. Trong trƣờng hợp bắt
buộc phải mở rộng lỗ thông thì phải mở rộng tối đa theo đƣờng kính trƣớc
sau, và mở rộng sàn xoang trán vào trong bằng khoan, vì xƣơng sàn xoang
trán chỗ này thƣờng rất dày, để tránh bít tắc sau mổ.
(6) Bệnh lý niêm mạc: bệnh tái phát do bệnh lý niêm mạc hay polyp mũi: dấu
hiệu thƣờng gặp là dày và thoái hóa niêm mạc, hay polyp ở ngách trán và
xoang trán. Trong trƣờng hợp này, nếu phẫu thuật viên đƣa đƣợc ống hút
cong đƣờng kính 3mm qua đƣợc polyp hay niêm mạc phù nề ở ngách trán
vào xoang trán (chứng tỏ không có tắc nghẽn do các cầu trúc xƣơng) thì
không cần phẫu thuật lại mà chỉ cần lấy polyp dƣới gây tê tại phòng soi,
và có thể thực hiện nhiều lần, kèm theo điều trị nội khoa tích cực. Nguyên
nhân tái phát trong trƣờng hợp này không phải do lỗi của phẫu thuật viên,
mà do cơ địa của bệnh nhân.
Mổ lại trong những trƣờng hợp này (khi có chỉ định) tƣơng đối đơn
giản vì cấu trúc xƣơng của ngách trán đã đƣợc mở đủ rộng, chỉ cần lấy bỏ
polyp và làm mỏng niêm mạc dày thoái hóa là có thể phục hồi lại sự thông
thoáng của ngách trán. Tuy nhiên vẫn cần phải bảo tồn niêm mạc để tránh
gây sẹo hẹp. Sau mổ cần điều trị nội khoa tích cực bệnh lý niêm mạc.
130
Các bệnh nhân trong lô nghiên cứu đa số có nhiều hơn 1 trong số các
nguyên nhân kể trên, trung bình là 3,6.
Nhƣ vậy phẫu thuật ngách trán không đúng mức hoặc quá mức đều dẫn
đến kết quả không mong muốn. Không có quan điểm phẫu thuật “nửa vời”
hay phẫu thuật ngách trán bán phần hay từng phần, nếu đã phẫu thuật
ngách trán thì phải lấy sạch các tế bào; vì nếu không lấy hết các tế bào dễ
gây hẹp tái phát do không đủ rộng, tạo mô sẹo.
(A) (B) (C)
(D) (E) (F)
Hình 4.11: Tắc ngách trán sau mổ: (A) ngách trán bị bít tắc hoàn toàn trước mổ; (B)&(C): mở thông xoang trán qua một lớp xương dày và cứng;
(D): ngách trán bị bít tắc sau mổ lần 1; (E) mở rộng sàn xoang trán (mổ lần 2); (F): lỗ thông xoang trán sau mổ lần 2 co nhỏ.
131
B. Phẫu thuật nội soi ngách trán với IGS ở các bệnh nhân có tiền căn mổ nội
soi mũi xoang:
- Chúng tôi xem xét kỹ phim CT scan trƣớc mổ: có còn sót tế bào Agger nasi,
còn sót phần cao mỏm móc, còn các tế bào ngách trán, mức độ thông khí của
xoang trán, đƣờng kính trƣớc sau của ngách trán, có hình ảnh sinh xƣơng hay
không để tiên lƣợng mức độ khó của phẫu thuật trƣớc khi quyết định phẫu
thuật lại cho bệnh nhân.
- Các nguyên nhân gây bít tắc ngách trán ở 31 trƣờng hợp có tiền căn
PTNSMX (có hoặc không kèm phẫu thuật kinh điển) bao gồm: sẹo dính vùng
sàng trƣớc-khe giữa, cuốn giữa đi ra ngoài, cóhình ảnh sinh xƣơng trên CT
scan, nạo sàng còn sót tế bào sàng trƣớc, còn tế bào Agger nasi, còn tế bào
ngách trán, bệnh lý niêm mạc- polyp. Trong đó các nguyên nhân theo chúng
tôi rất khó để xử lý khi mổ lại là: sẹo hẹp, và xƣơng gây bít tắc ngách trán.
Do đó khi phẫu thuật nội soi ngách trán lần đầu, cần phẫu tích nhẹ nhàng, tỉ
mỉ, và phải có đầy đủ trang thiết bị, dụng cụ chuyên dùng cho ngách trán để
hạn chế tối đa gây sang chấn, tổn thƣơng niêm mạc, bộc lộ xƣơng không có
niêm mạc che phủ: là các yếu tố thuận lợi gây sẹo hẹp và viêm xƣơng sau mổ.
Các nguyên nhân khác do lỗi của phẫu thuật viên, theo quan sát của chúng
tôi, thƣờng gặp là: không lấy hết tế bào Agger nasi, không lấy các tế bào
ngách trán, cắt bán phần cuốn giữa gây sẹo hẹp khe giữa, và dính cuốn giũa
vào vách mũi xoang, những lỗi này có thể sửa chữa đƣợc khi mổ lại.
- Do là phẫu thuật mổ lại nên các mốc giải phẫu thƣờng mất hoặc bị biến dạng,
cuốn giữa có thể không còn hoặc bị cắt cụt một phần gây khó khăn cho cuộc
mổ. Xƣơng tân tạo sẽ gây bít tắc và dễ chảy máu, gây khó khăn cho việc tìm
132
đƣờng đi vào xoang trán. Cần lƣu ý sàn sọ có khuynh hƣớng thấp dần về phía
trong, về phía chỗ bám cuốn giữa, ở nơi đi ra của động mạch sàng trƣớc: sàn
sọ chỗ này mỏng, dễ bị tổn thƣơng gây chảy dịch não tủy [15]. IGS giúp xác
định các mốc quan trọng: sàn sọ, xƣơng giấy, động mạch sàng trƣớc, vị trí đi
vào ngách trán an toàn. IGS giúp xác định và lấy bỏ các tế bào ngách trán
hiệu quả và an toàn [15], [40]. Tại bệnh viện Tai Mũi Họng TP.HCM, hiện
nay đối với đa số các trƣờng phẫu thuật mổ lại ngách trán, chúng tôi đều sử
dụng IGS.
- Nếu có dính cuốn giữa vào vách mũi xoang thì tách dính và lấy bỏ toàn bộ
mô xƣơng và tế bào sàng trƣớc còn sót lại nhằm tránh dính tái phát. Lấy sạch
các tế bào sàng trƣớc còn lại, thăm dò và lấy phần còn lại của Agger nasi, các
tế bào ngách trán nếu có, bảo tồn tối đa niêm mạc, tránh động chạm đến lỗ
thông tự nhiên của xoang trán.
- Trong trƣờng hợp có xƣơng gây bít tắc ngách trán, cần thao tác cẩn thận, có
khi phải dùng khoan. Nếu có sẹo hẹp bít tắc ở vùng lỗ thông tự nhiên xoang
trán thì cần phải mở rộng lỗ thông tự nhiên xoang trán, lấy bỏ sàn xoang trán
theo phân loại Draf IIA hay Draf IIB. Trƣờng hợp đã phẫu thuật Draf IIB thất
bại thì xem xét phẫu thuật Draft III [23]. Trên thực tế chƣa có trƣờng hợp nào
trong lô nghiên cứu của chúng tôi bị bít tắc tái phát cần phải làm đến phẫu
thuật Draf III hay Lothrop cải tiến.
C. Kỹ thuật tạo vạt niêm mạc:
Trƣớc khi mổ, chúng tôi khảo sát cấu trúc ngách trán chi tiết trên CT
scan định vị ba chiều của máy IGS, nếu thấy cấu trúc ngách trán phức tạp: có
133
các tế bào ngách trán nằm cao hay các trƣờng hợp mổ lại mà tắc nghẽn nằm
cao trong ngách trán, chúng tôi sẽ áp dụng phƣơng pháp tạo vạt niêm mạc.
(xem bảng 3.20). Điểm cải tiến của kỹ thuật tạo vạt niêm mạc của chúng tôi
so với Wormald là vạt ngắn hơn (5-7mm so với 10mm của Wormald);
Wormald sử dụng kỹ thuật này trong mọi trƣờng hợp lấy tế bào ngách trán và
chỉ lấy xƣơng thành trƣớc Agger nasi; còn chúng tôi không dùng cho mọi
trƣờng hợp mà chỉ sử dụng để phẫu tích các tế bào ngách trán nằm cao, và
còn sử dụng trong cả những trƣờng hợp mổ lại để lấy xƣơng và mô sẹo bít tắc
ngách trán, ngay cả trong những trƣờng hợp không còn Agger nasi, hay
không có tế bào ngách trán; đôi khi chúng tôi còn lấy một phần xƣơng của
ngành lên xƣơng hàm trên để mở rộng đƣờng dẫn lƣu xoang trán.
Ƣu điểm của phƣơng pháp này là:
- Sử dụng ống soi 0º trong hầu hết thời gian phẫu thuật ngách trán nên dễ
dàng, thuận lợi hơn khi mổ. Phẫu thuật viên thƣờng gặp khó khăn khi
sử dụng các dụng cụ góc nhƣ kềm giraffe mà phải dùng ống soi 30º,
45º và nhất là 70º. Nhờ góc nhìn thuận lợi hơn khi mổ nên lấy bỏ bệnh
tích ở ngách trán và các tế bào ngách trán dễ dàng hơn.
- Vạt niêm mạc giúp tránh co kéo cuốn giữa ra ngoài làm hẹp ngách trán
sau mổ.
Với phƣơng pháp này, chúng tôi mở ngách trán qua nội soi thành công đối
với các trƣờng hợp ngách trán phức tạp có tế bào Agger nasi lớn, K1, K2, K3…
mà chƣa gặp các tai biến nguy hiểm nhƣ chảy dịch não tủy, vỡ xƣơng giấy,...
Nhờ kỹ thuật tạo vạt niêm mạc, việc chăm sóc sau mổ nội soi ngách trán
và theo dõi tái khám thuận lợi: dễ dàng tiếp cận và đánh giá ngách trán sau mổ
134
do góc nhìn vào ngách trán rộng và dễ hơn. Các thao tác nhƣ hút máu bầm, lấy
bỏ vảy sau mổ ở ngách trán đƣợc thực hiện tƣơng đối thuận lợi.
4.4. Triệu chứng lâm sàng, nội soi và CT scan sau mổ:
Việc chăm sóc và theo dõi sau mổ đóng vai trò quan trọng để đạt đƣợc kết
quả tốt và lâu dài. Mục đích của chăm sóc sau phẫu thuật là [41]:
- Ngăn ngừa sẹo dính, bít tắc ngách trán
- Tránh hẹp khe giữa sau mổ
Để tránh bít tắc khe giữa sau mổ, chúng tôi có thực hiện các nguyên tắc và
biện pháp sau:
- Bảo tồn cuốn giũa, không cắt bỏ cuốn giữa khi mổ, nhất là cắt bán
phần.
- Lấy bỏ máu đông, vảy ở khe giữa và ngách trán cẩn thận, nhẹ nhàng
dƣới nội soi.
- Rửa mũi sau mổ nhiều lần mỗi ngày trong ít nhất 4 tuần.
- Xịt corticoid tại chỗ ít nhất trong 8 tuần.
* Kết quả phẫu thuật
Cải thiện triệu chứng sau mổ: cải thiện nhức đầu/nhức trán: 94,3%, cải
thiện nghẹt mũi 97,1%, gần với kết quả của Friedman là 95,4% và 98,7%.[30]
Nhức đầu/nhức trán sau mổ: 1 trƣờng hợp nhức trán nhiều do bít tắc ngách
trán tái phát sau mổ 8 tuần, đây là trƣờng hợp bệnh nhân có tiền căn phẫu thuật
ngách trán trƣớc đó và bị sẹo hẹp và xƣơng mới làm bít tắc hoàn toàn đƣờng dẫn
lƣu xoang trán. 3 bệnh nhân có nhức đầu mức độ trung bình sau mổ 8-24 tuần,
135
trong đó có 2 bệnh nhân sau mổ có polyp nhỏ ở ngách trán và 1 bệnh nhân có
phù nề niêm mạc ngách trán. 3 bệnh nhân này đƣợc điều trị nội khoa tích cực,
kết hợp lấy bỏ polyp dƣới gây tê tại phòng soi khi cần, đều đáp ứng tốt, không
cần phải mổ lại.
Kết quả thông thoáng ngách trán sau mổ của chúng tôi: tốt 86,1%,
trung bình 13,1%, xấu 0,8%. Nguyên nhân gây hẹp ngách trán sau mổ là sẹo
dính, polyp hoặc cả hai. Tỉ lệ ngách trán thông thoáng của Fiedman sau mổ 1
năm là 90% và sau 54-72 tháng là 71,2%; của Chiu là 86% sau 32 tháng. Tỉ lệ
thành công sau mổ ngách trán các tác giả trong khoảng từ 79-98%, nguyên nhân
gây tái phát chủ yếu là sẹo dính và polyp[72].
Tỉ lệ sẹo dính sau mổ của chúng tôi là 9% thấp hơn so với 13,3% của
Friedman [30], tỉ lệ cần mổ lại của chúng tôi là 0,8% cũng thấp hơn so với 6,2%
của Friedman, có lẽ do thời gian theo dõi sau mổ của Friedman lâu hơn của
chúng tôi (54-72 tháng), và nghiên cứu của Friedman bao gồm cả các phẫu thuật
phức tạp nhƣ Draf IIB, Draf III, còn chúng tôi chỉ thực hiện Draf I và Draf IIA .
Có 1 trƣờng hợp (0,8%) bít tắc hoàn toàn sau mổ 8 tuần, phải phẫu thuật
lại, đây là trƣờng hợp duy nhất cần phải phẫu thuật lại trong lô nghiên cứu của
chúng tôi. 10 trƣờng hợp còn lại (8,8%) có sẹo dính ở khe giữa, đƣợc tách dính
dƣới gây tê tại phòng soi mũi xoang, đều cho kết quả khá tốt, không cần phải mổ
lại. Để hạn chế tối đa sẹo dính, trong lúc mổ chúng tôi luôn tuân theo nguyên tắc
bảo tồn niêm mạc, hạn chế tối đa làm trầy xƣớc niêm mạc, hạn chế đƣa ống hút
vào đƣờng dẫn lƣu xoang trán khi không thật cần thiết, sử dụng các dụng cụ
thích hợp nhƣ, thìa nạo chữ J, dụng cụ cắt hút lƣỡi cong, citelli ngách trán,…
Sau mổ, bệnh nhân đƣợc chăm sóc hút vảy, máu bầm, đƣợc rửa mũi thƣờng
136
xuyên với nƣớc muối sinh lý trong ít nhất 4 tuần và corticoid xịt mũi trong ít
nhất 8 tuần.
Trong số 11 trƣờng hợp có sẹo dính sau mổ, có 8 trƣờng hợp có sẹo dính
trƣớc mổ, và 3 trƣờng hợp không có sẹo dính do tiền căn phẫu thuật xoang trƣớc
đó, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,039<0,05). Nhƣ vậy sẹo dính trƣớc mổ
cũng là yếu tố thuận lợi gây sẹo dính sau mổ, mà chúng ta gọi là cơ địa dễ bị sẹo
dính.
Tỉ lệ polyp nhỏ ngách trán sau mổ trong nghiên cứu của chúng tôi là 9,8%
gần giống với tỉ lệ của Friedman là 9,3% [30]. Tất cả các trƣờng hợp polyp
ngách trán sau mổ của chúng tôi, đều ghi nhận có polyp mũi trƣớc mổ. Nhƣ vậy,
polyp trƣớc mổ có liên quan đến polyp ngách trán sau mổ, đặc biệt mức độ polyp
mũi nặng vƣợt ngoài phạm vi khe giữa (độ 2 trở lên) có liên quan rõ hơn so với
mức độ polyp ở khe giữa. Đây là tình trạng bệnh lý niêm mạc của bệnh nhân gây
tái phát, cần kiểm soát lâu dài bằng điều trị nội khoa [94]. Các trƣờng hợp này
đều đƣợc điều trị nội khoa tích cực, kết hợp lấy bỏ polyp dƣới gây tê tại phòng
soi khi cần, sau đó đều cho kết quả khá tốt, không gây triệu chứng nhức trán cho
bệnh nhân.
Chăm sóc sau mổ tỉ mỉ, kết hợp điều trị nội khoa, nhất là các trƣờng hợp
có cơ địa dị ứng, bệnh lý niêm mạc, sẹo dính trƣớc mổ góp phần quan trọng
trong việc duy trì sự thông thoáng của ngách trán sau mổ và giảm thiểu tái phát.
Kết quả CT sau mổ cải thiện khá tốt: 38 trƣờng hợp đƣợc chụp CT sau
mổ với kết quả xoang trán sáng chiếm 86,8%, mờ không hoàn toàn 10,5%, và
mờ hoàn toàn 2.6%. 1 TH mờ hoàn toàn là TH bị tắc ngách trán hoàn toàn sau
mổ cần phải mổ lại mà chúng tôi đã đề cập ở trên.
137
(A)
(B) (C)
Hình 4.12: Mở tế bào K3: hình trong lúc mổ (A); hình nội soi (B) và CT scan (C) sau mổ 14 tháng.
4.5. Đề xuất quy trình phẫu thuật nội soi ngách trán với IGS:
Từ 122 trƣờng hợp đƣợc phẫu thuật trong nghiên cứu, chúng tôi đề xuất quy
trình phẫu thuật nội soi ngách trán với IGS nhƣ sau:
4.5.1. Trường hợp mổ lần đầu:
Bƣớc 1: Khảo sát ngách trán trên CT scan ba chiều, tiên lƣợng trƣớc cuộc mổ,
và lên kế hoạch mổ thích hợp cho từng trƣờng hợp cụ thể.
138
- Kích thƣớc xoang trán và nhất là đƣờng kính trƣớc sau của lỗ thông xoang
trán: càng hẹp thì phẫu thuật càng khó khăn, đồng thời khả năng sẹo dính sau
mổ cao.
- Sự hiện diện của Agger nasi, các tế bào ngách trán. Nếu có 1 tế bào ngách
trán đơn giản nhƣ tế bào trên bóng, tế bào K1 thì độ khó ở mức độ vừa phải.
Nếu có tế bào K2, K3, tế bào bóng trán, tế bào vách liên xoang trán, hoặc kết
hợp nhiều loại tế bào: thì mức độ khó là cao.
- Cấu trúc xƣơng của hệ thống xoang nói chung và ngách trán nói riêng: xƣơng
càng dày, có hiện tƣợng sinh xƣơng trên CT scan thì khi phẫu thuật sẽ gặp
khó khăn do xƣơng dày và cứng: khó phẫu tích và dễ chảy máu.
- Hình ảnh polyp chiếm đầy ngách trán và xoang trán gây biến dạng cấu trúc
giải phẫu sẽ gây khó khăn cho cuộc mổ, và thƣờng chảy máu nhiều trong lúc
mổ.
Bƣớc 2: Cắt polyp, mở lỗ thông xoang hàm ở khe giữa, nạo sàng:
- Cắt polyp mũi nếu có bằng dụng cụ cắt hút.
- Lấy bỏ mỏm móc, mở lỗ thông xoang hàm ở khe giữa, mở bóng sàng.
- Nạo sàng sau nếu có bệnh tích trên CT scan. Sử dụng que thăm dò định vị và
ống hút thẳng có gắn quả cầu định vị để xác định sàn sọ, xƣơng giấy, tế bào
Onodi, thần kinh thị ở thành ngoài tế bào Onodi để tránh làm tổn thƣơng các
cấu trúc quan trọng này.
Bƣớc 3: Mở tế bào Agger nasi, tìm đƣờng dẫn lƣu xoang trán với IGS:
Gắn quả cầu định vị vào thìa nạo chữ J, đăng ký tƣơng tác thìa nạo chữ J. Sử
dụng thìa nạo chữ J trong thăm dò và phẫu tích ngách trán.
139
- Nhận định vị trí của đƣờng dẫn lƣu xoang trán trên CT scan 3 chiều, và
tƣơng quan của nó so với vị trí của các tế bào ngách trán: nằm trƣớc hay nằm
sau, bên trong hay bên ngoài.
- Dùng thìa nạo chữ J có định vị để xác định tế bào Agger nasi và đƣờng dẫn
lƣu xoang trán. Dùng thìa nạo chữ J để phẫu tích bẻ thành sau và thành trong
của Agger nasi để bộc lộ đƣờng dẫn lƣu xoang trán, bẻ gãy trần của tế bào
Agger nasi. Trƣờng hợp tế bào Agger nasi lớn, và lỗ thông tự nhiên xoang
trán nằm cao hoặc có tế bào ngách trán nằm cao nhƣ tế bào K3, tế bào bóng
trán, tế bào vách liên xoang trán, thì dùng kềm citelli xoang trán để lấy bỏ
thành trƣớc tế bào Agger nasi.
Bƣớc 4: Phẫu tích các tế bào ngách trán với IGS:
- Xác định các tế bào ngách trán bằng thìa nạo chữ J có định vị, mở thông
thành dƣới của nó. Sau đó đƣa thìa nạo chữ J vào trong lòng tế bào ngách trán
và chạm vào trần của tế bào, xác định lại chắc chắn một lần nữa với IGS. Rút
thìa nạo ra, đƣa vào đƣờng dẫn lƣu xoang trán và bẻ gãy thành của tế bào
ngách trán làm hẹp đƣờng dẫn lƣu theo hƣớng ra trƣớc, ra sau hoặc ra hai
bên, hƣớng bẻ tùy thuộc vào tƣơng quan của tế bào so với đƣờng dẫn lƣu.
Lấy bỏ xƣơng vụn và niêm mạc dƣ thừa bằng kềm hƣơu cao cổ hoặc dụng cụ
cắt hút, cắt polyp ngách trán bằng dụng cụ cắt hút. Hút nhầy, bơm rửa nếu có
nhầy đặc hoặc chất bã đậu trong xoang trán. Tiếp tục lập lại các thao tác này
cho đến khi thấy đƣợc lỗ thông tự nhiên của xoang trán thông thoáng.
- Trong trƣờng hợp tế bào ngách trán làm chít hẹp không đƣa đƣợc thìa nạo
hay que thăm dò vào đƣợc trong đƣờng dẫn lƣu xoang trán, thì đƣa thìa nạo
vào trong lòng tế bào ngách trán, bẻ gãy thành tế bào hay đục thủng trần của
140
nó để thông vào đƣờng dẫn lƣu xoang trán. Lƣu ý trƣớc khi phẫu tích bằng
cách này, đầu của thìa nạo phải cách sàn sọ hay mảnh sàng >2mm để đảm
bảo chắc chắn không gây tổn thƣơng làm chảy dịch não tủy, nếu thao tác quá
mạnh tay thì vẫn còn một khoảng an toàn là 2mm. Sau khi lọt vào đƣợc trong
đƣờng dẫn lƣu xoang trán thì tiếp tục mở rộng nó nhƣ đã kể trên.
Phƣơng pháp phẫu tích cụ thể cho từng loại tế bào ngách trán đã đƣợc
chúng tôi mô tả ở mục 4.3.7.
4.5.2. Trường hợp có tiền căn phẫu thuật mũi xoang trước đó:
Bƣớc 1: Khảo sát ngách trán trên CT scan ba chiều, tiên lƣợng trƣớc cuộc mổ
Bên cạnh các dấu hiệu trên CT cần khảo sát nhƣ các trƣờng hợp mổ lần
đầu, cần đánh giá thêm các dấu hiệu sau:
- Cuốn giữa không còn: gây rất nhiều khó khăn cho phẫu thuật, do là mốc giải
phẫu rất quan trọng nhất trong phẫu thuật nội soi xoang trán. Cuốn giữa bị cắt
cụt dính vào vách mũi xoang là dấu hiệu tiên lƣợng phẫu thuật khó, cũng nhƣ
dễ dính cuốn giữa vách mũi xoang tái phát sau mổ.
- Sẹo dính, hình ảnh sinh xƣơng trên CT scan, đặc biệt là khi có một lớp xƣơng
bít tắc hoàn toàn ngách trán và xƣơng dày: gây khó khăn cho việc tìm đƣờng
dẫn lƣu xoang trán.
- Còn sót mỏm móc, còn tế bào ngách trán gây viêm xoang trán tái phát.
Bƣớc 2: Cắt polyp (nếu có), mở lỗ thông xoang hàm ở khe giữa nếu lần mổ
trƣớc chƣa thực hiện (trong trƣờng hợp bệnh nhân đƣợc hợp phẫu thuật nạo
sàng hàm kinh điển trƣớc đây thì chỉ đƣợc mở lỗ thông ở khe dƣới), hoặc mở
thông lại nếu bị bít tắc hay có lỗ thông phụ gây hiện tƣợng dẫn lƣu vòng. Tách
141
sẹo dính cuốn giữa vào vách mũi xoang (nếu có), lấy bỏ mỏm móc còn sót, lấy
bỏ mô sẹo gây bít tắc hốc sàng, nạo các tế bào sàng trƣớc còn lại. Nạo sàng sau
nếu có bệnh tích.
Dùng cây thăm dò có định vị hoặc ống hút thẳng có gắn các quả cầu định vị xác
định các cấu trúc quan trọng: mảnh sàng, trần sàng, xƣơng giấy, vị trí của động
mạch sàng trƣớc trƣớc khi phẫu tích để tránh làm tổn thƣơng, xác định có bị mất
xƣơng giấy do lần mổ trƣớc hay không để tránh làm tổn thƣơng thêm cấu trúc ổ
mắt; Vì đây là trƣờng hợp mổ lại nên có thể sẽ không còn các mốc giải phẫu nhƣ
cuốn giữa, mỏm móc ,… hoặc các mốc giải phẫu bị biến dạng, sẹo dính bít tắc
các hốc xoang, nên có khi phẫu thuật viên không biết nên bắt đầu từ đâu và phẫu
tích nhƣ thế nào cho an toàn.
Bƣớc 3: Mở tế bào Agger nasi nếu lần mổ trƣớc chƣa thực hiện hoặc chỉ mở
một phần, tìm đƣờng dẫn lƣu xoang trán với IGS nhƣ đã mô tả ở bƣớc 2 của TH
mổ lần đầu mục 4.5.1.
Bƣớc 4: Phẫu tích các tế bào ngách trán với IGS nhƣ đã mô tả ở bƣớc 3 của
mục 4.5.1, đối với các trƣờng hợp lần mổ trƣớc bệnh nhân chƣa đƣợc phẫu tích
các tế bào ngách trán hoặc phẫu tích còn sót.
Bƣớc 5: Phẫu tích mô sẹo hay xƣơng gây bít tắc ngách trán: thực hiện trƣớc
hay sau bƣớc 3 hay bƣớc 4, hoặc bỏ qua bƣớc 3 hay bƣớc 4, tùy thuộc vào có
hay không tế bào ngách trán, và tùy thuộc vào mô sẹo, và xƣơng gây bít tắc nằm
bên dƣới hay bên trên tế bào ngách trán. Trong trƣờng hợp đƣờng dẫn lƣu xoang
trán bị bít tắc hoàn toàn bằng một lớp xƣơng cứng hay mô sẹo dày, và phẫu
trƣờng trong các trƣờng hợp này thƣờng rất hẹp, thì dùng thìa nạo có định vị
chạm vào bên dƣới lớp xƣơng cứng hay mô sẹo, quan sát trên màn hình IGS thấy
142
vị trí của đầu thìa nạo đã đƣợc đặt vào đúng chỗ cần mở thông, và cách mảnh
sàng và sàn sọ >2mm, lúc này ấn thìa nạo chữ J để đục thủng lớp xƣơng và mô
sẹo để vào đƣờng dẫn lƣu xoang trán, nếu xƣơng dày và cứng quá thì dùng thìa
nạo để nạo xƣơng từ từ. Lƣu ý phải dùng sức vừa phải và hƣớng của thìa nạo
phải tƣơng ứng với hƣớng của đƣờng dẫn lƣu xoang trán để tránh làm tổn
thƣơng sàn sọ, mảnh sàng gây chảy dịch não tủy. Đây là bƣớc quyết định, và khó
khăn nhất vì “sai một li đi một dặm” nên chúng tôi luôn phải kiểm tra lại tính
chính xác của dụng cụ định vị trƣớc khi thực hiện. Sau đó tiếp tục nạo xƣơng,
lấy mô sẹo, mở rộng đƣờng dẫn lƣu xoang trán. Mở rộng lỗ thông tự nhiên
xoang trán nếu có sẹo hẹp tại vùng này.
143
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu phẫu thuật nôi soi ngách trán với hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh
định vị ba chiều, thực hiện trên 122 ngách trán, chúng tôi rút ra kết luận nhƣ sau:
1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu là các trƣờng hợp phẫu thuật nội soi ngách trán có
mức độ khó, cần sử dụng hệ thống IGS: trong đó nổi bật là các trƣờng hợp có
tế bào ngách trán, các trƣờng hợp có tiền căn phẫu thuật nội soi trƣớc đó.
Đặc điểm lâm sàng của mẫu nghiên cứu: chủ yếu là nhức trán/ nhức đầu
(91%) và nghẹt mũi (89,7%); Đặc điểm nội soi: 78,7% có dịch nhầy đục ở
khe giữa, 73% có phù nề niêm mạc mức độ nặng, 75,4% có polyp mũi trong
đó 41% có polyp vƣợt ngoài khe giữa. Đặc điểm CT scan: trung bình Lund
Mackay cho mỗi xoang trán là 1,53; trung bình của hệ thống xoang mổ một
bên là 8,5.
Tỉ lệ Agger nasi trong nghiên cứu của chúng tôi là 88,5% và tỉ lệ riêng cho
các trƣờng hợp không có tiền căn phẫu thuật nội soi mũi xoang là 94,5%.
71,3% trƣờng hợp có một hay nhiều tế bào ngách trán với tỉ lệ của từng loại:
tế bào trên ổ mắt: 13,1%, K1: 22,1%, K2: 3,3%, K3: 9%, tế bào trên bóng:
24,6%, tế bào bóng trán: 13,9%, tế bào vách liên xoang trán: 2,5%.
2. Về kết quả phẫu thuật nội soi ngách trán với IGS:
IGS giúp phẫu tích một cách chính xác, đặc biệt trong việc xác định và lấy
tế bào ngách trán, xác định đƣờng dẫn lƣu ngách trán, và hữu ích cho các
trƣờng hợp mổ lại khi các mốc giải phẫu không còn, cũng nhƣ mô xƣơng và
sẹo dính gây bít tắc ngách trán, giúp cho cuộc mổ đƣợc an toàn hơn. Nhờ vào
144
IGS, chúng tôi mở thành công ngách trán tất cả các trƣờng hợp nghiên cứu,
mà không có biến chứng nào xảy ra.
Chúng tôi nhận thấy việc sử dụng dụng cụ cắt hút, và nhất là thìa nạo chữ
J có định vị rất hiệu quả và ít gây sang chấn cho phẫu tích ngách trán. Kỹ
thuật tạo vạt niêm mạc giúp chúng tôi tiếp cận ngách trán đƣợc tốt hơn trong
những trƣờng hợp tế bào ngách trán nằm cao hay tắc nghẽn đƣờng dẫn lƣu
xoang trán nằm ở vị trí cao, và giúp tránh mô sẹo gây co kéo cuốn giữa làm
hẹp ngách trán.
Kếtquả về sự thông thoáng ngách trán sau mổ qua nội soi: tốt 86,1%, trung
bình 13,1%, xấu 0,8%. Kết quả CT sau mổ: 38 trƣờng hợp đƣợc chụp CT sau
mổ với kết quả xoang trán sáng chiếm 86,8%, mờ không hoàn toàn 10,5%, và
mờ hoàn toàn 2.6%.
3. Từ kết quả trên, chúng tôi đề xuất quy trình phẫu thuật nôi soi ngách trán với
IGS để đạt hiệu quả cao và an toàn, bao gồm:
- Khảo sát CT scan 3 chiều trƣớc mổ để tiên lƣợng cuộc mổ, và lên kế
hoạch mổ thích hợp cho từng trƣờng hợp cụ thể.
- Đƣa ra trình tự và chi tiết các bƣớc phẫu thuật nội soi ngách trán với
IGS, trong đó việc sử dụng thìa nạo chữ J có định vị rất hiệu quả để
thăm dò và phẫu tích ngách trán.
Tuy vậy IGS không thay thế đƣợc các kiến thức về giải phẫu, CT scan, và
kỹ năng phẫu thuật của phẫu thuật viên. “Luôn nhớ rằng bạn là phi công, và IGS
không thể tự bay mà không có bạn, nó chỉ là một phƣơng tiện” (Uddin, 2003)
[97].
145
KIẾN NGHỊ
Cần đầu tƣ trang bị hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh IGS ở các bệnh viện có thực
hành, và giảng dạy chuyên sâu về phẫu thuật nội soi mũi xoang, đặc biệt đối với
các trƣờng hợp phẫu thuật mũi xoang phức tạp nhƣ xoang bƣớm, xoang trán, tế
bào Onodi và các trƣờng hợp mổ lại; và những trƣờng hợp phẫu thuật sàn sọ,
tuyến yên qua nội soi đƣờng mũi.
Nghiên cứu phẫu thuật Draf III với hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh IGS đối với
các trƣờng hợp tắc ngách trán tái phát nhiều lần, u nhú ngƣợc xâm lấn cao vào
trong xoang trán.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
1. Trần Viết Luân, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Nhan Trừng Sơn, Nguyễn
Thị Quỳnh Lan (2010).“Kỹ thuật tạo vạt niêm mạc trong phẫu thuật nội
soi ngách trán phức tạp”. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, Tập
14, Phụ bản của Số 1 - 2010, tr.84-88.
2. Trần Viết Luân, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Nhan Trừng Sơn (2012),
“Nghiên cứu phẫu thuật nội soi ngách trán với hệ thống hƣớng dẫn
hình ảnh định vị ba chiều”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh,
Tập 16, Phụ bản của số 1 - 2012, tr.163-168.
3. Trần Viết Luân, Nguyễn Thị Ngọc Dung, Nhan Trừng Sơn (2012),
“Phẫu thuật điều trị tắc ngách trán sau phẫu thuật nội soi mũi xoang
với hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh (IGS)”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ
Chí Minh, Tập 16, Phụ bản của số 1 - 2012, tr.169-174.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Phạm Kiên Hữu (2010). Phẫu thuật nội soi xoang, Nhà xuất bản y học, tr.188-
194.
2. Nguyễn Hữu Khôi Phạm Kiên Hữu, Nguyễn Hoàng Nam (2005). Phẫu thuật nội soi mũi xoang kèm Atlas minh họa, Nhà xuất bản Đại học quốc gia TP.HCM, tr.12-27.
3. Lê Quang, Nguyễn Thị Ngọc Dung (2011). “Khảo sát mối tƣơng quan giữa agger nasi và độ hẹp ngách trán”. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh Tập 15, Phụ bản của số 1 - 2011, tr.208-215.
4. Nguyễn Thị Kiều Thơ (2009). Khảo sát cấu trúc giải phẫu ngách trán và các cấu trúc liên quan dựa trên phẫu tích và hình ảnh MSCT 64 ở sọ người Việt nam trưởng thành. Luận văn thạc sĩ y học- Đại học Y Dƣợc TP. Hồ Chí Minh, tr.22-50.
5. Lâm Huyền Trân (2007). Điều trị vỡ xoang trán bằng phẫu thuật nội soi. Luận án Tiến sĩ y học- Đại học Y Dƣợc TP. Hồ Chí Minh, tr.57-83. 6. Đỗ Thành Trí (2007). Đánh giá mối quan hệ giữa phần trên mỏm móc và tế bào Agger nasi qua MSCT 64 lát cắt. Luận văn thạc sĩ y học- Đại học Y Dƣợc TP. Hồ Chí Minh, tr.47-62.
Tài liệu tiếng Anh
7. American Academy of Otolaryngology-Head and Neck Surgery (2010). computer-aided intra-operative use of
“AAO-HNS policy on surgery”.http://www.entnet.org/Practice/policystatements.cfm.
8. Anon J (1994). "Computer assisted endoscopic sinus surgery". Laryngoscope
104, pp.901-905.
9. Aygun N, Uzuner O, Zinreich SJ (2005). "Advances in imaging of the
paranasal sinuses". Otolaryngol Clin North Am 38 (3), pp.429-37.
10. Bent J, Cuilty-Silver C, Kunh F (1994). "The frontal cell as a cause of frontal
sinus obstruction". Am. J. Rhinol 8pp.185-191.
11. Bolger WE, Butzin CA , Parsons DS (1991). "Paranasal sinus bony anatomic variations and mucosal abnormalities: CT analysis for endoscopic sinus surgery". Laryngoscope 101 (1 Pt 1), pp.56-64.
12. Bradley DT , Kountakis SE (2004). "The role of agger nasi air cells in patients requiring revision endoscopic frontal sinus surgery". Otolaryngol Head Neck Surg 131 (4), pp.525-7.
13. BrainLAB (2006). Clinical User Guide Kolibri cranial/ENT ( BrainLAB AG
Germany), pp.15-367.
14. Chiu AG, Kennedy DW (2005). "Revision endoscopic frontal sinus surgery".
The Frontal Sinus, Springer, pp.191-199.
15. Chiu AG , Vaughan WC (2004). "Revision endoscopic frontal sinus surgery with surgical navigation". Otolaryngol Head Neck Surg 130 (3), pp.312-8.
16. CIGNA. 2005. Image Guided Sinus Surgery. 17. Citardi MJ (2001). "Computer-aided frontal sinus surgery". Otolaryngol Clin
North Am 34 (1), pp.111-22.
18. Citardi MJ , Batra PS (2005). "Image-guided sinus surgery: current concepts and technology". Otolaryngol Clin North Am 38 (3), pp.439-52, vi. 19. Costa DJ, Sindwani R (2009). "Advances in surgical navigation".
Otolaryngol Clin North Am 42 (5), pp.799-811, ix.
20. Daniels DL, Mafee MF, Smith MM, Smith TL, Naidich TP, Brown WD, Bolger WE, Mark LP, Ulmer JL, Hacein-Bey L, Strottmann JM (2003). "The frontal sinus drainage pathway and related structures". AJNR Am J Neuroradiol 24 (8), pp.1618-27.
21. DelGaudio JM, Hudgins PA, Venkatraman G, Beningfield A (2005). "Multiplanar computed tomographic analysis of frontal recess cells: effect on frontal isthmus size and frontal sinusitis". Arch Otolaryngol Head Neck Surg 131 (3), pp.230-5.
22. Draf W, Weber R, Kratzsch B, Hosemann W, Schaefer SD (2001). "Modern concepts of frontal sinus surgery". Laryngoscope, 111(1), pp.137-46.
23. Draf W (2005). "Endonasal Frontal Sinus Drainage Type I-III According to
Draf". The Frontal Sinus, Thieme, pp.219-232.
24. Dubin MG , Kuhn FA (2005). "Stereotactic computer assisted navigation: state of the art for sinus surgery, not standard of care". Otolaryngol Clin North Am 38 (3), pp.535-49.
25. Duque CS , Casiano RR (2005). "Surgical anatomy and embryology of the
frontal sinus". The Frontal Sinus, Springer, pp.21-30.
26. Eliashar R (2003). "Image guided navigation sytem - a new technology for complex endoscopic endonasal surgery". Postgrad Med J, pp.686-690. 27. Ercan I, Cakir BO, Sayin I, Basak M, Turgut S (2006). "Relationship between the superior attachment type of uncinate process and presence of agger nasi cell: a computer-assisted anatomic study". Otolaryngol Head Neck Surg 134 (6), pp.1010-4.
28. Figueroa R , Sulivan J (2005). "Radiologic anatomy of the frontal sinus". The
Frontal Sinus, Springerpp.7-20.
29. Fried MP, Kleefield J, Gopal H, Reardon E, Ho BT , Kuhn FA (1997). "Image-guided endoscopic surgery: results of accuracy and performance in a multicenter clinical study using an electromagnetic tracking system". Laryngoscope 107 (5), pp.594-601.
30. Friedman M, Bliznikas D, Vidyasagar R, Joseph NJ , Landsberg R (2006). "Long-term results after endoscopic sinus surgery involving frontal recess dissection". Laryngoscope 116 (4), pp.573-9.
31. Friedman M, Landsberg R, Schults RA, Tanyeri H , Caldarelli DD (2000). "Frontal sinus surgery: endoscopic technique and preliminary results". Am J Rhinol 14 (6), pp.393-403.
32. Graham S (2005). "Complications of frontal sinus surgery". The Frontal
Sinus, Springer, pp.267-273.
33. Han JK, Ghanem T, Lee B , Gross CW (2009). "Various causes for frontal sinus obstruction". American Journal of Otolaryngology–Head and Neck Medicine and Surgery 30, pp.80–82.
34. Hassan R (2005). "History of frontal sinus surgery". The Frontal Sinus,
Springer, pp.1-6.
35. Hemmerdinger SA, Jacobs JB , Lebowitz RA (2005). "Accuracy and cost analysis of image-guided sinus surgery". Otolaryngol Clin North Am 38 (3), pp.453-60.
36. Hopkins C, Browne JP, Slack R, Lund V , Brown P (2007). "The Lund- Mackay staging system for chronic rhinosinusitis: how is it used and what does it predict?". Otolaryngol Head Neck Surg 137 (4), pp.555-61. 37. Huang BY, Lloyd KM, DelGaudio JM, Jablonowski E , Hudgins PA (2009). "Failed endoscopic sinus surgery: spectrum of CT findings in the frontal recess". Radiographics 29 (1), pp.177-95.
38. Jacobs JB (1997). "100 years of frontal sinus surgery". Laryngoscope 107
(11 Pt 2), pp.1-36.
39. Jacobs JB, Lebowitz RA, Sorin A, Hariri S, Holliday R (2000). "Preoperative
sagittal CT evaluation of the frontal recess". Am J Rhinol 14 (1), pp.33-7.
40. Kacker A, Tabaee A , Anand V (2005). "Computer-assisted surgical navigation in revision endoscopic sinus surgery". Otolaryngol Clin North Am 38 (3), pp.473-82, vi.
41. Karanfilov BI , Kuhn FA (2005). "The endoscopic frontal recess approach".
The Frontal Sinus Springer, pp.170-189.
42. Kim KS, Kim HU, Chung IH, Lee JG, Park IY , Yoon JH (2001). "Surgical anatomy of the nasofrontal duct: anatomical and computed tomographic analysis". Laryngoscope 111 (4 Pt 1), pp.603-8.
43. Kingdom TT , Orlandi RR (2004). "Image-guided surgery of the sinuses: current technology and applications". Otolaryngol Clin North Am 37 (2), pp.381-400.
44. Knott PD, Batra PS , Citardi MJ (2006). "Computer aided surgery: concepts and applications in rhinology". Otolaryngol Clin North Am 39 (3), pp.503- 22, ix.
45. Koele W, Stammberger H, Lackner A , Reittner P (2002). "Image guided surgery of paranasal sinuses and anterior skull base - five years experience with the InstaTrak-System". Rhinology 40 (1), pp.1-9.
46. Kuhn FA (2006). "An integrated approach to frontal sinus surgery".
Otolaryngol Clin North Am 39 (3), pp.437-61, viii.
47. Kuhn FA, Bolger WE , Tisdal RG (1991). "The Agger nasi cell in frontal recess obstruction: An anatomic, radiologic and clinical correlation". Op Tech Otolaryngol Head Neck Surg 2 pp.226.
48. Kuhn FA , Javer AR (2001). "Primary endoscopic management of the frontal
sinus". Otolaryngol Clin North Am 34 (1), pp.59-75.
49. Landsberg R , Friedman M (2001). "A computer-assisted anatomical study of
the nasofrontal region". Laryngoscope 111 (12), pp.2125-30.
50. Lebowitz R, Brunner E , Jacobs J (1995). "The Agger nasi cell: radiological evaluation and endoscopic management in chronic frontal sinusitis". Operative techniques in otolaryngology - head and neck surgery 6 (3 ), pp.171-175.
51. Lee WT, Kuhn FA , Citardi MJ (2004). "3D computed tomographic analysis in patients without frontal sinusitis".
of frontal recess anatomy Otolaryngol Head Neck Surg 131 (3), pp.164-73.
52. Lessa MM, Voegels RL, Cunha Filho B, Sakae F, Butugan O , Wolf G (2007). "Frontal recess anatomy study by endoscopic dissection in cadavers". Braz J Otorhinolaryngol 73 (2), pp.204-9.
53. Levine HL, Clemente MP (2005). "Surgical Anatomy of the Paranasal Sinus". Sinus Surgery - Endoscopic and Microscopic Approaches - Thieme, pp.1-56.
54. Loehrl TA (2000). "Use of computer-aided surgery for frontal sinus
ventilation". Laryngoscope, pp.1962-1967.
55. Loehrl TA et al. . . (2001). "Computer-guided endoscopic sinus surgery". Current opinion in Otolaryngology & Head and neck surgery (9), pp.53- 56.
56. Lund VJ , Kennedy DW (1997). "Staging for rhinosinusitis". Otolaryngol
Head Neck Surg 117 (3 Pt 2), pp.S35-40.
57. Maccabee M, Hwang PH (2001). "Medical therapy of acute and chronic frontal rhinosinusitis". Otolaryngol Clin North Am 34 (1), pp.41-7. 58. McLaughlin RB, Jr. (2001). "History of surgical approaches to the frontal
sinus". Otolaryngol Clin North Am 34 (1), pp.49-58.
59. McLaughlin RB, Jr. (2001). "Clinical relevant frontal sinus anatomy and
physiology". Otolaryngol Clin North Am 34 (1), pp.1-16.
60. Merrit R, Bent JB , Kuhn FA (1996). "The intersinus septal cell". Am J
Rhinol, pp.299-302.
61. Metson R (1998). "A comparision of image guidance system for sinus
surgery". Laryngoscope 108pp.1164-1170.
62. Metson R (2003). "Image-guided sinus surgery: lessons learned from the first
1000 cases". Otolaryngol Head Neck Surg 128 (1), pp.8-13.
63. Metson R, Gray ST (2005). "Image-guided sinus surgery: practical
considerations". Otolaryngol Clin North Am 38 (3), pp.527-34.
64. Metson R , Ung F (2005). "Image guidance in frontal sinus surgery". The
Frontal Sinus Springer, pp.202-209.
65. Metson RB, Cosenza MJ, Cunningham MJ, Randolph GW (2000). "Physician experience with an optical image guidance system for sinus surgery". Laryngoscope 110 (6), pp.972-6.
66. Meyer TK, Kocak M, Smith MM , Smith TL (2003). "Coronal computed tomography analysis of frontal cells". Am J Rhinol 17 (3), pp.163-8. 67. Orlandi RR, Kennedy DW (2001). "Revision endoscopic frontal sinus
surgery". Otolaryngol Clin North Am 34 (1), pp.77-90.
68. Otto KJ , DelGau JM (2010). "Operative findings in the frontal recess at time
of revision surgery". Am J Otolaryngol 31, pp.3.
69. Owen R , Kuhn FA (1997). "Supraorbital ethmoid cell". Otolaryngol. Head
Neck Surg 116, pp.254-261.
70. Palmer JN , Kennedy DW (2005). "Historical perspective on image-guided
sinus surgery". Otolaryngol Clin North Am 38 (3), pp.419-28.
71. Park SS, Yoon BN, Cho KS , Roh HJ (2010). "Pneumatization Pattern of the Frontal Recess: Relationship of the Anterior-to-Posterior Length of Frontal Isthmus and/or Frontal Recess with the Volume of Agger Nasi Cell". Clin Exp Otorhinolaryngol 3 (2), pp.76-83.
72. Pletcher SD, Sindwani R , Metson R (2006). "The Agger Nasi Punch-Out recess". (POP): maximizing exposure of frontal the
Procedure Laryngoscope 116 (9), pp.1710-2.
73. Rao VM, Sharma D, Madan A (2001). "Imaging of frontal sinus disease: concepts, interpretation, and technology". Otolaryngol Clin North Am 34 (1), pp.23-39.
74. Reardon EJ (2002). "Navigational risks associated with sinus surgery and the clinical effects of implementing a navigational system for sinus surgery". Laryngoscope 112 (7 Pt 2 Suppl 99), pp.1-19.
75. Reardon EJ (2005). "The impact of image-guidance systems on sinus
surgery". Otolaryngol Clin North Am 38 (3), pp.515-25.
76. Reitzen SD, Wang EY, Butros SR, Babb J, Lebowitz RA , Jacobs JB (2010). "Three-dimensional reconstruction based on computed tomography images of the frontal sinus drainage pathway". J Laryngol Otol 124 (3), pp.291-6.
77. Rosbe K, Jones K (1998). "Usefulness of patient symptoms and nasal endoscopy in the diagnosis of chronic rhinosinusitis". Am J Rhinol 12, pp.167-171.
78. Sadoughi B (2012). "Image-guided surgery".
http://emedicine.medscape.com/article/875524-overview
79. Seiden AM , Martin VT (2001). "Headache and the frontal sinus".
80. "3-D Reconstruction in Radiology".
Otolaryngol Clin North Am 34 (1), pp.227-41. (2006). Shreiber R www.carestream.com/3drecon_whitepaper.pdf.
81. Sillers M (2005). "Chronic frontal sinusitis". The Frontal Sinus Springer,
pp.43-49.
82. Simmen D , Jones N (2005). "Management of the anterior ethmoid artery". Manual of endoscopic sinus surgery and its extended applications, pp.207-208.
83. Simmen D, Jones N (2005). "Frontoethmoidectomy ± Frontal Sinusotomy". Manual of endoscopic sinus surgery and its extended application pp.69- 99.
84. Sindwani R, Bucholz RD (2005). "The next generation of navigational
technology". Otolaryngol Clin North Am 38 (3), pp.551-62.
85. Sindwani R, Metson R (2005). "Image-guided frontal sinus surgery".
Otolaryngol Clin North Am 38 (3), pp.461-71.
86. Siow JK (2007). "Paranasal sinus anatomy - Radiologic, endoscopy and
anatomical correlations". Endo-Press, pp.8-22.
87. Smith TL (2001). "Surgical management of frontal sinusitis". Current
Opinion Otolaryngol Head Neck Surgery 9, pp.42–47
88. Smith TL, Stewart MG, Orlandi RR, Setzen M, Lanza DC (2007). "Indications for image-guided sinus surgery: the current evidence". Am J Rhinol 21 (1), pp.80-3.
89. Som PM, Lawson W (2008). "Interfrontal sinus septal cell: a cause of obstructing inflammation and mucoceles". AJNR Am J Neuroradiol 29 (7), pp.1369-71.
90. Sonnenburg RE, Senior BA (2004). "Revision endoscopic frontal sinus surgery". Curr Opin Otolaryngol Head Neck Surg 12 (1), pp.49-52. 91. Stammberger H (2007). "“Uncapping the egg”- the endoscopic approach to
frontal recess and sinuses ". Endo-Press, pp.9-13.
92. Stammberger HR , Kennedy DW (1995). "Paranasal sinuses: anatomic terminology and nomenclature. The Anatomic Terminology Group". Ann Otol Rhinol Laryngol Suppl 167, pp.7-16.
93. Stankiewicz J (2001). "Management of endoscopic sinus surgery failures". Current Opinion in Otolaryngology & Head and Neck Surgery 9, pp.48– 52.
94. Stankiewicz JA , Chow JM (2005). "The frontal sinus and nasal polyps". The
Frontal Sinus, Springer, pp.87-93.
95. Tabaee A, Kacker A, Kassenoff TL, Anand V (2003). "Outcome of computer-assisted sinus surgery: a 5-year study". Am J Rhinol 17 (5), pp.291-7.
96. Tuncer U, Soylu L, Aydogan B, Karakus F, Akcali C (2003). "The effectiveness of steroid treatment in nasal polyposis". Auris Nasus Larynx 30 (3), pp.263-8.
97. Uddin FJ, Sama A, Jones NS (2003). "Three-dimensional computer-aided
endoscopic sinus surgery". J Laryngol Otol 117 (5), pp.333-9.
98. Wormald PJ (2008). "Anatomy of frontal recess and frontal sinus with three- dimensional reconstruction". Endoscopic sinus surgery - Anatomy, three – dimensional reconstruction, and surgical technique, pp.43-61.
99. Wormald PJ (2008). "Surgical approach to the frontal sinus and frontal three-dimensional - Antomy,
recess". Endoscopic Sinus Surgery reconstruction, and surgical technique, pp.82-100.
100. Wormald PJ (2006). "Three-dimensional building block approach to understanding the anatomy of frontal recess and frontal sinus". Sinus Surgery - Operative Techniques in Otolaryngology Head and Neck Surgery, pp.2-5.
101. Wormald PJ (2003). "The agger nasi cell: the key to understanding the anatomy of the frontal recess". Otolaryngol Head Neck Surg 129 (5), pp.497-507.
102. Wormald PJ, Chan SZ (2003). "Surgical techniques for the removal of frontal recess cells obstructing the frontal ostium". Am J Rhinol 17 (4), pp.221-6.
103. Yeak S, Siow JK, John AB (1999). "An audit of endoscopic sinus surgery".
Singapore Med J 40 (1), pp.18-22.
104. Yoon JH, Moon HJ, Kim CH, Hong SS, Kang SS, Kim K (2002). "Endoscopic frontal sinusotomy using the suprainfundibular plate as a key landmark". Laryngoscope 112 (9), pp.1703-7.
105. Zhang L, Han D, Ge W, Xian J, Zhou B , Fan E (2006). "Anatomical and computed tomographic analysis of the interaction between the uncinate process and the agger nasi cell". Acta Otolaryngol 126, pp.845-852.
Phụ lục 1
Giôùi:
Ngaøy sinh:
Tuoåi: Soá ñieän thoaïi:
Soá nhaäp vieän:
BEÄNH AÙN NGHIEÂN CÖÙU
Khaùc (ghi roõ): ………………………………
6. Dò öùng:
Thuoác
Suyeãn
VMDÖ
Chaøm da
Khaùc
I. HAØNH CHAÙNH: 1. Hoï Teân: 2. Ñòa chæ: 3. Ngheà nghieäp: 4. Ngaøy nhaäp vieän: II. TIEÀN SÖÛ: 5. Thoùi quen: Huùt thuoác laù □ Soá löôïng........... Uoáng röôïu bia□ Soá löôïng.................
Ñaëc ñieåm Baûn thaân Gia ñình 7. Tiền căn ngoại khoa : 8. Beänh noäi khoa maïn tính keøm theo: 9. Tieàn söû gia ñình: III. BEÄNH SÖÛ: 10. Lí do nhaäp vieän: …………………………………………………………………………… 11. Caùc trieäu chöùng xaûy ra caùch nhaäp vieän: ………năm, …… thaùng, .......tuaàn. 12. Trieäu chöùng cơ năng tröôùc moå:
Ñaëc ñieåm Ngheït muõi (0,1,2,.3) Nhöùc traùn/ nhöùc ñaàu (0,1,2,3) Chaûy muõi tröôùc (0,1,2) Chaûy muõi sau (0,1,2) Maát khöùu giaùc (0,1,2)
Möùc ñoä
IV. LAÂM SAØNG – CAÄN LAÂM SAØNG - HÌNH AÛNH HOÏC 13. Noäi soi:
Phuø neà nieâm maïc (0,1,2) Dòch tieát (0,1,2) Polyp (0,1,2) Seïo dính (0,1,2)
(P)
(T)
14. CT scan:
Heä thoáng xoang
Tröôùc moå
(P)
(T)
Xoang traùn (0, 1, 2) Xoang haøm (0, 1, 2) Saøng tröôùc (0, 1, 2) Saøng sau (0, 1, 2) Xoang böôùm (0, 1, 2) Phöùc hôïp loå thoâng muõi xoang (0 hoaëc 2)
Teá baøo thuoäc ngaùch traùn
Ager nasi Tế bào trên ổ mắt Tế bào sàng trán
K1 K2 K3
Tế bào trên bóng Tế bào bóng trán Tế bào vách liên xoang trán
(P)
(T)
(P)
(T)
Vị trí bám phần cao mỏm móc (xƣơng giấy,cuốn giữa,sàn sọ) ĐK trƣớc sau (Hẹp: ≤8mm, rộng >8mm) Xƣơng tân tạo (có; không) Veïo vaùch ngaên (gai, maøo) Concha bullosa cuốn giữa
Caùc ghi nhận khác
15. Xeùt nghieäm tieàn phaãu: CTM, ñoâng maùu toaøn boä, men gan, chöùc naêng thaân, XQ phoåi thaúng, ECG : □ Bình thöôøng □ Baát thöôøng (ghi roõ)
V. PHAÃU THUAÄT: 16. Phaãu thuaät: Ngaøy: Chaån ñoaùn tröôùc moå: Chaån ñoaùn sau moå: Phöông phaùp phaãu thuaät: Phöông phaùp voâ caûm: Thôøi gian thieát laäp, ñaêng kyù maùy IGS: Ñoä chính xaùc cuûa maùy IGS:
Thôøi gian phaãu thuaät: Öôùc löôïng maùu maát: Tai bieán trong luùc moå:
Phaãu thuaät
Môû NT Phẫu tích teá baøo ngaùch traùn Taïo vaït nieâm maïc Tình traïng nieâm maïc ngaùch traùn Dòch tieát ngaùch traùn Môû loã thoâng xoang haøm ôû KG Nạo sàng tröôùc Nạo sàng sau Môû xoang bƣớm Caét conchabullosa cuốn giữa CHVN Cắt polyp
(T)
(P)
17. Bieán chöùng sau phaãu thuaät:
(T)
Chaûy maùu Nhieãm truøng Chaûy dòch naõo tuyû Vôõ xöông giaáy, baàm maét Khaùc
(P)
6 tháng
9 tháng
12 tháng
18. Giaûi phaãu beänh (neáu coù): VI. THEO DOÕI SAU MOÅ 19. Trieäu chöùng cô naêng sau moå Ñaëc ñieåm
2 tuaàn
4 tuaàn 8 tuaàn
12 tuaàn
1 tuần
Ngheït muõi (0,1,2,3) Nhöùc traùn/ nhöùc ñaàu (0,1,2,3) Chaûy muõi tröôùc (0,1,2) Chaûy muõi sau (0,1,2) Maát khöùu giaùc (0,1,2)
6 tháng
9 tháng
12 tháng
12 tuaàn
20. Triệu chứng nội soi sau mổ: Ñaëc ñieåm Ñoùng vaûy (0,1,2) Seïo dính (0,1,2) Phuø neà nm (0,1,2)
1 tuần
2 tuaàn
4 tuaàn 8 tuaàn
Moâ haït vieâm (0 1,2) Ngaùch traùn (0 1,2)
21. CT scan sau mổ:
Sau moå
Heä thoáng xoang
(T)
(P)
Xoang traùn (0, 1, 2) Xoang haøm (0, 1, 2) Saøng tröôùc (0, 1, 2) Saøng sau (0, 1, 2) Xoang böôùm (0, 1, 2) Phöùc hôïp loå thoâng muõi xoang (0 hoaëc 2)
- Khaùng sinh - Röûa muõi - Corticosteroid xòt muõi - Corticosteroid uống - Khaùng histamine
22. Ñieàu trò noäi khoa sau moå:
Ngaøy.......... thaùng ...... naêm ..... Ngöôøi thöïc hieän Traàn Vieát Luaân
Phụ lục 2
DANH SÁCH BỆNH NHÂN NGHIÊN CỨU
Số nhập viện
Giới
1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. 19. 20. 21. 22. 23. 24. 25. 26. 27. 28. 29. 30. 31. 32. 33. 34.
Họ tên BÙI ĐÌNH K ĐẶNG VĂN NH VÕ VĂN E TRƢƠNG TẾ M QUÁCH CHÍ TR LÊ PHƢỚC H TRƢƠNG ỨNG PH LÊ VĂN CH LÊ TẤN T LÊ HOÀNG L NGUYỄN HỒNG TH NGUYỄN THỊ C HUỲNH THỊ THU H CAO XUÂN TH HUỲNH VĂN S NGUYỄN PHƢƠNG B DƢ VĂN PH ĐẶNG VĂN H PHAN VĂN B NGUYỄN XUÂN TR HUỲNH T KIM L ĐỖ NGỌC H TRẦN THỊ TR VÕ VĂN BÉ T NGUYỄN THỊ TH NGUYỄN THỊ Đ HUỲNH VĂN TH VŨ SỸ NGH NGUYỄN THỊ D PHẠM THỊ PH LÊ TRẦN HOÀN V PHAN VĂN S NGUYỄN THỊ H TRƢƠNG HOÀNG D
Nam Nam Nam Nữ Nam Nam Nam Nam Nam Nữ Nữ Nữ Nữ Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nữ Nam Nam Nữ Nữ Nam Nam Nữ Nam
Tuổi 57 52 41 63 30 52 63 42 58 38 22 42 25 41 44 35 37 25 51 24 25 44 30 19 35 33 32 30 24 30 27 41 33 25
1535 2078 2177 3127 3968 7348 3242 3246 3221 5528 2069 5552 5560 5590 5592 7347 7366 7377 7426 7473 7493 7525 7528 7607 7697 9859 9873 9911 9922 9921 10722 10726 10752 10796
35. 36. 37. 38. 39. 40. 41. 42. 43. 44. 45. 46. 47. 48. 49. 50. 51. 52. 53. 54. 55. 56. 57. 58. 59. 60. 61. 62. 63. 64. 65. 66. 67. 68. 69. 70. 71. 72. 73. 74. 75. 76.
TRẦN THỊ NGỌC TR NGUYỄN TRUNG TH VÕ HỒNG S NGUYỄN THỊ TH HOÀNG VĂN PH CHUNG QUẾ S NGUYỄN HỮU D TRỊNH VĂN TH TỐNG VĂN TH TẠ THỊ Đ DƢƠNG VĂN N TĂNG XUÂN S HOÀNG THỊ THANH TH TRẦN THỊ KIM L NGUYỄN THỊ ÁI V NGUYỄN VIẾT B NGUYỄN HỮU C KIỀU ĐÌNH T NGUYỄN VĂN NH PHẠM HỒNG TH TRẦN TH NGUYỄN TUẤN A HUỲNH THỊ NGỌC TH TRẦN THỊ Q VÕ HOÀNG Â VÕ THỊ HỒNG V NGUYỄN THỊ KIM L TRẦN THỊ L BÙI THỊ N LÊ TRUNG TH LÊ QUỐC D TRẦN THỊ THANH V CẨM THỊ H LÊ THỊ MỸ L TRẦN THỤY DIỄM CH NGUYỄN THỊ KIM A MAI THỊ YẾN TR MAI THỊ CH ĐINH THỊ TH NGUYỄN THỊ THÚY PH ĐINH VĂN H LÊ THỤY NHÃ PH
Nữ Nam Nam Nữ Nam Nam Nam Nam Nam Nữ Nam Nam Nữ Nữ Nữ Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nữ Nữ Nam Nữ Nữ Nữ Nữ Nam Nam Nữ Nữ Nữ Nữ Nữ Nữ Nữ Nữ Nữ Nam Nữ
35 21 62 29 50 33 28 46 29 48 54 55 56 40 30 35 48 24 41 32 53 28 16 30 38 25 41 47 42 37 32 18 23 30 16 52 24 37 46 34 42 28
52 625 632 698 1247 1713 2059 2061 2535 2573 2578 3112 3174 3114 3149 3469 3711 3753 3800 3799 4850 4938 4941 6327 9184 9775 10633 11122 11927 11983 11982 357 439 3327 4825 4970 7712 9712 11373 11397 13156 13157
77. 78.
NGUYỄN VĂN Đ TỪ VĂN T
44 63
14072 9269
Nam Nam
Xác nhận của Bệnh viện Tai Mũi Họng TP. Hồ Chí Minh Phòng kế hoạch tổng hợp Đã ký