BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
NGUYỄN THỊ THỦY
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LIPID VÀ HOẠT TÍNH
CHỐNG OXI HÓA MỘT SỐ HẠT THỰC VẬT
HỌ ĐẬU (FABACEAE) Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
NGUYỄN THỊ THỦY
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LIPID VÀ HOẠT TÍNH
CHỐNG OXI HÓA MỘT SỐ HẠT THỰC VẬT
HỌ ĐẬU (FABACEAE) Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
Chuyên ngành: Hóa học các hợp chất thiên nhiên Mã số: 9.44.01.17
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Đoàn Lan Phương 2. GS.TS. Phạm Quốc Long
HÀ NỘI - 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS Đoàn Lan Phương và GS.TS Phạm Quốc Long.
Các số liệu và kết quả thu được trong luận án là hoàn toàn trung thực và chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Thủy
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận án này được hoàn thành tại Viện Hóa học các Hợp chất thiên nhiên,
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của Ban lãnh đạo Viện Hóa
học các Hợp chất thiên nhiên, Học viện Khoa học và Công nghệ đã tạo điều kiện và
giúp đỡ tôi hoàn thành luận án.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Đoàn Lan Phương và
GS.TS Phạm Quốc Long là những người thầy đã hướng dẫn tận tình và tạo mọi
điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện luận án.
Tôi xin cảm ơn tập thể phòng Hóa sinh hữu cơ, phòng phân tích hóa học -
Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên đã tạo điều kiện cơ sở vật chất giúp tôi hoàn
thành nghiên cứu.
Tôi cũng cám ơn đề tài nghị định thư Việt Nam - Liên Bang Đức số
44/2014/HĐ-NĐT giữa Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên và Bộ Khoa học và
Công nghệ do PGS.TS Đoàn Lan Phương làm chủ nhiệm đã tài trợ cho các nghiên
cứu trong luận án này.
Đồng thời, tôi gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, khoa Khoa học cơ bản, bộ môn Khoa học tự nhiên và anh, chị, em
đồng nghiệp đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc đến gia đình tôi,
những người đã tạo mọi điều kiện về vật chất và tinh thần cho tôi trong quá trình
làm luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2022
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Thủy
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................... ii
MỤC LỤC ............................................................................................................. iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................... vi
DANH MỤC CÁC BẢNG ..................................................................................... ix
DANH MỤC CÁC HÌNH ...................................................................................... xi
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1. TỔNG QUAN ...................................................................................... 4
1.1. Phân loại, đặc điểm thực vật, phân bố của một số loài thực vật thuộc họ Đậu .......... 4
1.1.1. Phân loại họ Đậu............................................................................................ 4
1.1.2. Đặc điểm thực vật, phân bố, giá trị sử dụng của quả, hạt thực vật của 11
loài thực vật thuộc họ Đậu ở Việt Nam ........................................................... 4
1.2. Tình hình nghiên cứu về thành phần lipid và hoạt tính chống oxi hóa các
hạt thực vật thuộc họ Đậu trên thế giới và trong nước ..................................... 9
1.2.1. Tổng quan về thành phần lipid hạt thực vật .................................................... 9
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ............................................................... 24
1.2.3. Tình hình nghiên cứu trong nước. ................................................................ 37
1.3. Tổng quan về hóa tính toán ........................................................................... 39
1.3.1. Phương trình Schrödinger ............................................................................ 39
1.3.2. Các phương pháp bán thực nghiệm (semi-empirical methods) ..................... 39
1.3.3. Các phương pháp ab initio (Ab inito methods) ............................................. 40
1.3.4. Các phương pháp phiếm hàm mật độ (density functional theory, DFT):....... 41
1.3.5. Tình hình ứng dụng hóa học tính toán trong nghiên cứu khả năng chống
oxy hóa của acid phenolic ............................................................................. 42
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................... 44
2.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................... 44
2.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 46
2.2.1. Phương pháp xác định hàm lượng lipid tổng ................................................ 46
2.2.2. Phương pháp phân tích thành phần lipid trong các mẫu hạt họ Đậu.............. 46
2.2.3. Phương pháp phân lập và nhận dạng các phospholipid. ................................ 48
2.2.4. Các phương pháp khảo sát hoạt tính chống oxi hóa ...................................... 50
iv
Chương 3. THỰC NGHIỆM ............................................................................... 53
3.1. Chiết tách và xác định hàm lượng lipid tổng các mẫu hạt họ Đậu ................... 53
3.2. Xác định thành phần lipid trong các mẫu hạt họ Đậu ...................................... 54
3.2.1. Xác định thành phần và hàm lượng các lớp chất lipid trong các mẫu hạt họ Đậu ...... 54
3.2.2. Xác định thành phần và hàm lượng acid béo trong các mẫu hạt họ Đậu ....... 54
3.2.3. Xác định thành phần và hàm lượng tocopherol ............................................ 54
3.2.4. Xác định thành phần và hàm lượng phytosterol............................................ 55
3.2.5. Xác định thành phần và hàm lượng triacylglycerol. ..................................... 55
3.2.6. Xác định thành phần và hàm lượng phenolic tổng ........................................ 55
3.3. Phân lập và nhận dạng các phospholipid ......................................................... 56
3.3.1. Xác định thành phần, hàm lượng các lớp chất phospholipid ......................... 56
3.3.2. Xác định các dạng phân tử các phospholipid của lipid hạt Sưa ..................... 56
3.4. Khảo sát hoạt tính chống oxi hóa .................................................................... 57
3.4.1. Xác định hoạt tính chống oxi hóa theo DPPH .............................................. 57
3.4.2. Khảo sát tiềm năng chống oxi hóa bằng phiếm hàm mật độ (DFT) hiệu
năng cao ....................................................................................................... 58
Chương 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ........................................................... 59
4.1. Hàm lượng lipid tổng và các lớp chất lipid của 11 mẫu hạt họ Đậu nghiên cứu ........ 59
4.1.1. Hàm lượng lipid tổng ................................................................................... 59
4.1.2. Thành phần và hàm lượng các lớp chất lipid ................................................ 60
4.1.3. Thành phần và hàm lượng acid béo .............................................................. 65
4.1.4. Thành phần và hàm lượng tocopherol .......................................................... 70
4.1.5. Thành phần và hàm lượng phytosterol ......................................................... 76
4.1.6. Thành phần và hàm lượng triacylglycerol .................................................... 80
4.1.7. Thành phần và hàm lượng các phenolic ....................................................... 83
4.2. Thành phần và hàm lượng phospholipid của 11 mẫu hạt họ Đậu ..................... 86
4.2.1. Thành phần và hàm lượng các phospholipid trong 11 mẫu hạt họ Đậu
nghiên cứu .................................................................................................... 86
4.2.2. Xác định các dạng phân tử phospholipid của mẫu hạt Sưa (Dalbergia
tonkinensis Prain) .......................................................................................... 88
4.3. Kết quả thử hoạt tính chống oxi hóa ............................................................. 107
4.3.1. Kết quả thử nghiệm hoạt tính chống oxi hóa của 11 mẫu lipid hạt họ Đậu
nghiên cứu bằng phương pháp DPPH .......................................................... 107
v
4.3.2. Kết quả khảo sát tiềm năng chống oxi hóa của một số acid phenolic bằng
phiếm hàm mật độ (DFT) hiệu năng cao ..................................................... 111
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 124
1. Kết quả về hóa học .......................................................................................... 124
2. Kết quả khảo sát tác dụng sinh học .................................................................. 125
KIẾN NGHỊ ....................................................................................................... 126
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................... 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 129
vi
STT Ký hiệu
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Diễn giải Tiếng anh
1 APCI Phương pháp ion hóa khí quyển Atmospheric pressure chemical
ionization
2 ABTS 2,2’-azinobis(3- 2,2’-azinobis(3-
ethylbenzothiazoline-6- ethylbenzothiazoline-6-sulfonate)
sulfonate)
3 BDE Entanpi phân ly liên kết Bond dissociation enthalpy
4 CAEP Ceramide Ceramide aminoethylphosphonate
5 CC Sắc ký cột Column chromatography
6 DHA Acid docosahexaenoic Docosahexaenoic acid
7 DPA Acid docosapentaenoic Docosapentaenoic acid
8 DPG Diphosphatidylglycerol Diphosphatidylglycerol(cardiolipin)
9 DPPH 1,1-Diphenyl-2-picrylhydrazyl 1,1-Diphenyl-2-picrylhydrazyl
10 DM Chất khô Dry matter
11 DFT Phiếm hàm mật độ hiệu năng cao Density functional theory
12 EPA Acid eicosapentaenoic Eicosapentaenoic acid
13 ESI Phương pháp ion hóa phun điện tử Electrospray ionization
14 ED50 Nồng độ bảo vệ ở 50% Effective dose at 50%
15 FRAP Khả năng khử sắt Ferric reducing antioxidant power
16 GC Sắc ký khí Gas chromatography
17 GCMS Sắc ký khí khối phổ Gas chromatography-mass
spectrometry
18 HAT Chuyển nguyên tử H H-atom transfer
19 HPLC Sắc ký lỏng hiệu năng cao High performance liquid
chromatography
20 HRMS Phố khối phân giải cao High resolution mass spectrometry
21 IC50 Nồng độ ức chế 50% Inhibitory concentration 50%
22 IE Năng lượng ion hóa Ionization energie
STT Ký hiệu
vii
Diễn giải Tiếng anh
23 IT Bẫy ion Ion trap
24 LCMS Sắc ký lỏng khối phổ Liquid chromatography mass
spectrometry
25 LDL Lipoprotein nồng độ thấp Low-density lipoproteins (LDL)
26 LPC Lyso phosphatidylcholine Lyso phosphatidylcholine
27 LPE Lyso phosphatidylethanol amine Lyso phosphatidylethanol amine
28 LPI Lyso phosphatidylinositol Lyso phosphatidylinositol
29 LPS Lyso phosphatidylserine Lyso phosphatidylserine
30 MADG Monoalkyldiacylglycerol Monoalkyldiacylglycerol
31 MALDI Ion hóa phản hấp thụ laser được Matrix assisted laser desorption
hỗ trợ bởi chất nền ionization
32 MS Phổ khối Mass spectrometry
33 ME Methyl ester Methyl ester
34 MIC Nồng độ ức chế tối thiểu Minimum inhibitory concentration
35 MUFA Acid béo một nối đôi Monounsaturated fatty acid
36 NL Lipid trung tính Neutral lipid
37 NMR Phổ cộng hưởng từ hạt nhân Nuclear magnetic resonance
Ái lực proton Proton affinities 38 PA
Phosphatidylcholine Phosphatidylcholine 39 PC
40 PDE Entanpi phân ly proton Entanpi phân ly proton
Phosphatidylethanolamine Phosphatidylethanolamine 41 PE
Phosphatidylglycerol Phosphatidylglycerol 42 PG
Phosphatidylinositol Phosphatidylinositol 43 PI
Phospholipid Phospholipid 44 PL
45 PoL Lipid phân cực Polar lipid
46 PS Phosphatidylserine Phosphatidylserine
47 PUFA Acid béo đa nối đôi Polyunsaturated fatty acid
48 Q Khối tứ cực Quadrupole
49 SC50 Khả năng bẫy gốc tự do 50% Scavening capacity 50%
STT Ký hiệu
viii
Diễn giải Tiếng anh
50 SPLET Cơ chế truyền electron mất Sequential proton loss - electron
proton tuần tự transfer
51 SETPT Cơ chế truyền proton chuyển Sequential electron transfer - proton
electron tuần tự transfer
52 SET Cơ chế chuyển 1 electron Single electron transfer
53 ST Sterol Sterol
54 TEAC Hoạt tính chống oxi hóa tương tự Trolox Equivalent Antioxidant
Trolox Activity
55 TG Triacylglycerol Triacylglycerol
56 TL Lipid tổng Total lipid
57 TLC Sắc ký lớp mỏng Thin-layer chromatography
58 MS/TOF Khối phổ kế thời gian bay Mass/Time of flight
59 UV Phổ tử ngoại Ultraviolet
60 WE Sáp Wax ester
ix
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Đặc điểm thực vật, phân bố, giá trị sử dụng của 11 loài thực vật được
nghiên cứu thuộc họ Đậu ở Việt Nam .................................................... 5
Bảng 1.2. Hàm lượng trung bình tocopherol tổng và tocotrienol tổng trong các
phân họ Đậu nghiên cứu ...................................................................... 29
Bảng 2.1. Danh sách 11 mẫu hạt họ Đậu nghiên cứu ............................................ 44
Bảng 4.1. Thành phần và hàm lượng các lớp chất lipid chính trong hạt 11 loài
thuộc họ Đậu nghiên cứu ..................................................................... 63
Bảng 4.2. Thành phần và hàm lượng các acid béo trong lipid ha ̣t của 11 loài họ
Đậu nghiên cứu (% so với tổng acid béo) ............................................. 66
Bảng 4.3. Thành phần và hàm lượng các tocopherol trong lipid ha ̣t của 11 loài
họ Đậu nghiên cứu ................................................................................ 71
Bảng 4.4. So sánh tương quan giữa hàm lượng γ-tocopherol với acid α-linolenic
(18:3(n-3)) và α-tocopherol với acid linoleic (18:2(n-6)) ........................... 74
Bảng 4.5. Thành phần và hàm lượng các phytosterol trong lipid ha ̣t của một số
loài họ Đậu nghiên cứu (mg/kg) ........................................................... 77
Bảng 4.6. Thành phần và hàm lượng các triglyceride trong lipid ha ̣t một số loài
họ Đậu nghiên cứu (% so với tổng TG) ................................................ 82
Bảng 4.7. Thành phần và hàm lượng các hợp chất phenolic trong lipid ha ̣t 11
loài họ Đậu nghiên cứu (mg/kg) ........................................................... 84
Bảng 4.8. Thành phần và hàm lượng các phospholipid trong lipid tổng của 11
mẫu hạt họ Đậu nghiên cứu .................................................................. 87
Bảng 4.9. Tín hiệu của ion phân tử [M-H]- của các dạng phân tử có mặt trong
lớp chất phosphatidylethanolamine của mẫu hạt Sưa (Dalbergia
tonkinensis Prain) trên phổ MS1 ............................................................ 90
Bảng 4.10. Dữ liệu phổ MS/MS[E-] của dạng phân tử PE có tín hiệu ion âm [M-H]-
tại giá trị m/z 714,5006 (PE 16:0/18:2) ..................................................... 91
Bảng 4.11. Thành phần và hàm lượng các dạng phân tử phosphatidylethalnolamine
trong mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) ...................................... 95
x
Bảng 4.12. Tín hiệu của ion phân tử [M+H]+ của các dạng phân tử có mặt trong
lớp chất phosphatidylcholine của mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) trên phổ MS1 ................................................................................ 97
Bảng 4.13. Dữ liệu phổ MS1, MS2, MS3 của dạng phân tử PC có tín hiệu ion
dương [M+H]+ tại giá trị m/z 758,5691 ................................................. 98
Bảng 4.14. Các dạng phân tử phosphatidylcholine của mẫu hạt Sưa (Dalbergia
tonkinensis Prain) ............................................................................... 101
Bảng 4.15. Tín hiệu của ion phân tử [M-H]- của các dạng phân tử có mặt trong
lớp chất phosphatidylinositol của mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) trên phổ MS1 .............................................................................. 102 Bảng 4.16. Dữ liệu phổ MS2 của các dạng phân tử PI .......................................... 103
Bảng 4.17. Các dạng phân tử phospholipid trong mẫu hạt Sưa (Dalbergia
tonkinensis Prain) ............................................................................... 105
Bảng 4.18. Kết quả thử hoạt tính kháng oxi hóa DPPH của một số hạt Đậu
nghiên cứu (dịch chiết methanol) ........................................................ 107
Bảng 4.19: Quan hệ giữa hoạt tính chống oxi hóa và hàm lượng tocopherol ........ 109
Bảng 4.20: Các thông số phản ứng nội tại bao gồm hiệu chỉnh năng lượng điểm 0
(ZPC) của các acid phenolic. ................................................................ 116
Bảng 4.21: Năng lượng tự do Gibbs tiêu chuẩn (rG0) ............................................ 119
Bảng 4.22: Năng lượng hoạt hóa tự do Gibbs (ΔG#,1M, tính bằng kcal/mol) ............. 121
xi
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Một số acid béo no ................................................................................. 11
Hình 1.2. Một số acid béo không no một nối đôi ................................................... 12
Hình 1.3. Một số acid béo không no đa nối đôi ...................................................... 13
Hình 1.4. Cấu trúc phân tử của triacylglycerol (TAG) ........................................... 15
Hình 1.5. Sơ đồ cấu tạo của glycerophospholipid .................................................. 16
Hình 1.6. Một số glycerophospholipid phổ biến .................................................... 16
Hình 1.7. Công thức tổng quát của sphingophospholipid ....................................... 18
Hình 1.8. Một số tocopherol thường gặp trong lipid hạt thực vật họ Đậu ............... 20
Hình 1.9. Khung cấu trúc của steroid ..................................................................... 21
Hình 1.10. Một số phytosterol thường gặp trong lipid hạt thực vật họ Đậu ............ 22
Hình 1.11. Cấu trúc cơ bản của acid phenolic ........................................................ 24
Hình 2.1. Quá trình đo MSn ................................................................................... 49
Hình 2.2. Cấu trúc của 8 acid phenolic với các vị trí nguyên tử được đánh số ........ 51
Hình 3.1. Sơ đồ nghiên cứu chung ......................................................................... 53
Hình 4.1. Hàm lượng % lipid tổng trong 11 mẫu hạt họ Đậu. ................................ 61
Hình 4.2. Bản mỏng TLC và sắc ký đồ các lớp chất lipid một số loài họ Đậu ........ 62
Hình 4.3. Phần trăm acid béo no và không no trong 11 mẫu lipid hạt họ Đậu
nghiên cứu ............................................................................................ 67
Hình 4.4. Tương quan giữa hàm lượng γ-tocopherol với acid α-linolenic
(18:3(n-3)) và acid linoleic (18:2(n-6)) ................................................. 75
Hình 4.5. Hàm lượng % β-sitosterol (so với phytosterol tổng) ............................... 80
Hình 4.6. Hàm lượng PC, PE, PI trong lipid tổng của 11 mẫu hạt họ Đậu .............. 87
Hình 4.7. Sắc ký đồ HRMS [E-] lớp chất phosphatidylethanolamine mẫu hạt
Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) ........................................................ 89
Hình 4.8. Phổ HRMS [E-] của lớp chất phosphatidylethanolamine của mẫu hạt
Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) trên phần mềm xử lý v.3.60.361 ...... 90
Hình 4.9. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PE có tín hiệu
ion âm [M-H]- tại giá trị m/z 714,5006 .................................................. 90
xii
Hình 4.10. Sự phân mảnh trong phổ MS/MS[E-] của dạng phân tử PE có tín
hiệu ion âm tại m/z 714,5006 (PE 16:0/18:2) ........................................ 91
Hình 4.11. Sự phân mảnh của ion phân tử PE có tín hiệu ion âm tại m/z
714,5006 ............................................................................................... 92
Hình 4.12. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PE có tín hiệu
ion âm [M-H]- tại giá trị m/z 716,5344 .................................................. 92
Hình 4.13. Sự phân mảnh trong phổ MS/MS[E-] của dạng phân tử PE có tín
hiệu ion âm tại m/z 716,5344 (PE 16:0/18:1) [M-H]- 738,5053 ............. 93
Hình 4.14. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PE có tín hiệu
ion âm [M-H]- tại giá trị m/z 738,5053 .................................................. 93
Hình 4.15. Sự phân mảnh trong phổ MS/MS[E-] của dạng phân tử PE có tín
hiệu ion âm tại m/z 738,5053 (PE 18:2/18:2) ........................................ 93
Hình 4.16. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PE có tín hiệu
ion âm [M-H]- tại giá trị m/z 740,5298 .................................................. 94
Hình 4.17. Sự phân mảnh trong phổ MS/MS[E-] của dạng phân tử PE có tín
hiệu ion âm tại m/z 740,5298 (PE 18:1/18:2) ........................................ 94
Hình 4.18. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PE có tín hiệu
ion âm [M-H]- tại giá trị m/z 742,5452 .................................................. 94
Hình 4.19. Sự phân mảnh trong phổ MS/MS[E-] của dạng phân tử PE có tín
hiệu ion âm tại m/z 742,5452 (PE 18:0/18:2) ........................................ 95
Hình 4.20. Sắc ký đồ HRMS [E+] lớp chất phosphatidylcholine mẫu hạt Sưa
(Dalbergia tonkinensis Prain) ............................................................... 96
Hình 4.21. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PC có tín hiệu
ion dương [M+H]+ tại giá trị m/z 758,5691 .......................................... 97
Hình 4.22. Sự phân mảnh của ion phân tử PC có tín hiệu ion dương tại m/z
758,5691 ............................................................................................... 98
Hình 4.23. Sự phân mảnh trong phổ MS2 và MS3 [E-] của dạng phân tử PC có
tín hiệu ion âm [M+HCOO]- tại m/z 802,5536 ...................................... 99
Hình 4.24. Sự phân mảnh trong phổ MS2 [E-] của dạng phân tử PC có tín hiệu
ion âm [M-CH3]- tại m/z 742,5305 (PC 16:0/18:2) ................................ 99
xiii
Hình 4.25. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PC có tín hiệu
ion dương [M+H]+ tại giá trị m/z 782,5676 ........................................ 100
Hình 4.26. Sự phân mảnh trong phổ MS2 và MS3 [E-] của dạng phân tử PC có
tín hiệu ion âm [M+HCOO]- tại m/z 826,5629 .................................... 100
Hình 4.27. Sự phân mảnh trong phổ MS2 [E-] của dạng phân tử PC có tín hiệu
ion âm [M-CH3]- tại m/z 766,5450 ...................................................... 101
Hình 4.28. Sắc ký đồ HRMS [E-] lớp chất phosphatidylinositol mẫu hạt Sưa
(Dalbergia tonkinensis Prain) ............................................................. 102
Hình 4.29. Sự phân mảnh trong phổ MS2 [E-] của dạng phân tử PI có tín hiệu
ion âm [M-H]- tại m/z 833,5123 .......................................................... 103
Hình 4.30. Sự phân mảnh của ion phân tử PI có tín hiệu ion âm tại m/z
833,5123. ............................................................................................ 104
Hình 4.31. Sự phân mảnh trong phổ MS2 [E-] của dạng phân tử PI có tín hiệu
ion âm [M-H]- tại m/z 861,5467 .......................................................... 104
Hình 4.32. Kết quả thử hoạt tính kháng oxi hóa theo DPPH của 11 mẫu hạt họ
Đậu nghiên cứu .................................................................................. 108
Hình 4.33. Cấu trúc tối ưu của các acid phenolic đã nghiên cứu được tính
toán trong pha khí theo mức lý thuyết LC- PBE/6-311++G(d, p). .... 112
Hình 4.34. Năng lượng các obital biên (EL và EH ) và chênh lệch năng lượng
hai orbital biên (EL-H = EL - EH) của các acid phenolic được
nghiên cứu. ......................................................................................... 113
Hình 4.35. Trạng thái chuyển tiếp (TS) của phản ứng HAT giữa GALA,
CAFA, CHLA và FERA với gốc tự do HOO• trong pha khí .............. 120
1
MỞ ĐẦU
Thế giới thực vật là nguồn tài nguyên phong phú và vô cùng quý giá về
những hợp chất thiên nhiên có hoạt tính sinh học. Theo ước tính của IUCN (Hiệp
hội Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên) có khoảng trên 380.000 loài thuộc giới thực
vật trên trái đất; trong đó chủ yếu là các loài thuộc ngành thực vật hạt kín
(Angiospermae) [1]. Sự đa dạng sinh học của ngành thực vật hạt kín có thể được
giải thích bởi sự tương tác giữa chúng và môi trường dẫn đến sự chọn lọc tự nhiên
so với các loại cây trồng khác. Tuy nhiên khi xã hội ngày càng phát triển kéo theo
đó là các vấn nạn môi trường ngày càng tăng cao như tình trạng ô nhiễm môi
trường, suy thoái môi trường cũng như sự cố môi trường. Những vấn nạn này đã và
đang làm cho môi trường sống của sinh giới nói chung, thực vật nói riêng đang bị
tàn phá nghiêm trọng, thậm chí một số loài đã và đang bị đe dọa tuyệt chủng ngoài
tự nhiên. Tiếc rằng trong đó còn nhiều loài có giá trị kinh tế và khoa học cao, nhiều
loài cây có chứa hợp chất lipid và các hợp chất có hoạt tính sinh học cao mới được
nghiên cứu rất ít hoặc chưa được nghiên cứu.
Theo số liệu thống kê, hệ thực vật bậc cao Việt Nam có trên 10.000 loài,
trong đó có khoảng 564 loài là các cây có dầu [2]. Nhiều loài thực vật có chứa lipid
thuộc một số họ như: Bầu bí - Cucurbitaceae; Đậu - Fabaceae; Bồ hòn -
Sapindaceae; Hồng xiêm - Sapotaceae; Thầu dầu - Euphorbiaceae; Chè - Theaceae;
Thị - Ebenaceae; Cúc - Asteraceae; Măng cụt - Clusiaceae, Thông - Pinaceae; Na -
Annonaceae; Hoa hồng - Rosaceae, Long não - Lauraceae; Đào lộn hột -
Anacardiaceae;… Trong đó họ Đậu (Fabaceae) là một họ thực vật trong bộ Đậu,
đây là một trong ba họ thực vật có hoa lớn trên thế giới.
Lipid họ Đậu cũng bao gồm một số hợp chất của lipid thực vật như: các acid
béo, phospholipid, tocopherol, triacyclycerol, sphingolipid và những phytosterol…
Các hợp chất này có hoạt tính sinh học cao, đó không chỉ là nguồn nguyên liệu có giá
trị sử dụng làm thực phẩm mà còn là nguồn nguyên liệu cần thiết cho nhiều lĩnh vực
khác: nguyên liệu thiết yếu cho công nghiệp chế biến sơn, xà phòng, thực phẩm, mỹ
phẩm,… đặc biệt còn được sử dụng trong dân gian như các bài thuốc cổ truyền để
điều trị các bệnh viêm nhiễm, chống lão hóa và một số căn bệnh hiểm nghèo [1].
2
Cho đến nay, các kiến thức về các thành phần hóa học hạt thực vật Việt Nam
nói chung và hạt thực vật họ Đậu nói riêng là rất ít và mới chỉ có một vài thông tin
có sẵn, trước đây một số tác giả như Phạm Văn Nguyên (1981) [2], Bùi Kim Anh
(2005) [3], Đào Văn Hoằng (2011) [4]... đã có một số ít công trình nghiên cứu về
lipid từ thực vật, tuy nhiên cho đến nay đã không còn cập nhật bởi sự biến đổi của
môi trường và sự phát triển của các phương pháp nghiên cứu hiện đại. Trong khi hạt
một số loài chứa lipid chủ lực như: Đậu nành, Lạc, Vừng… đóng góp vai trò lớn
trong dinh dưỡng; thì lipid một số hạt khác như: Trẩu, dầu Sở, hạt Điều… lại có vai
trò quan trọng trong công nghiệp, mặt khác lipid của hạt: Mù u, Dâm bụt dấm,
Măng cụt… lại có tiềm năng nhiều trong y, dược.
Tuy thực tiễn đã có nhiều áp dụng những công nghệ tiên tiến trong khai thác
sử dụng dầu hạt để sản xuất, thì những nghiên cứu chuyên sâu khoa học và có hệ
thống về hóa học lipid và các hoạt chất từ nguồn gốc hạt thực vật bản địa ở nước ta
gần như còn bỏ ngỏ. Mặt khác, các số liệu trước đây còn tản mạn và độ chính xác
chưa cao do điều kiện hạn chế về kỹ thuật và máy móc phân tích nên chưa thể đi
sâu vào thành phần, hàm lượng các hợp chất có hoạt tính sinh học cao. Vì vậy, với
mong muốn tìm kiếm các hoạt chất ứng dụng trong y, dược từ nguồn dược liệu Việt
Nam, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn là: “Nghiên cứu thành
phần lipid và hoạt tính chống oxi hóa một số hạt thực vật họ Đậu (Fabaceae) ở
Việt Nam” với mục tiêu và nội dung nghiên cứu như sau:
Mục tiêu đề tài:
1. Xác định hàm lượng và thành phần lipid của một số hạt thực vật họ Đậu
(Fabacae) ở Việt Nam.
2. Đánh giá hoạt tính chống oxi hóa trên mô hình DPPH và phiến hàm mật
độ hiệu năng cao DFT.
Nội dung nghiên cứu:
1. Thu thập 11 loài hạt thực vật họ Đậu ở Việt Nam, xác định tên khoa học.
2. Xác định hàm lượng và thành phần lipid bao gồm:
- Hàm lượng lipid tổng.
- Thành phần và hàm lượng các lớp chất lipid.
3
- Thành phần và hàm lượng các acid béo.
- Thành phần và hàm lượng tocopherol.
- Thành phần và hàm lượng phytosterol.
- Thành phần và hàm lượng triacylglycerol.
- Thành phần và hàm lượng hợp chất phenolic.
- Thành phần, hàm lượng phospholipid và các dạng phân tử.
3. Xác định hoạt tính chống oxi hóa theo phương pháp DPPH và khảo sát
tiềm năng chống oxi hóa của một số acid phenolic bằng phiếm hàm mật độ (DFT)
hiệu năng cao.
4
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Phân loại, đặc điểm thực vật, phân bố của một số loài thực vật thuộc họ Đậu
1.1.1. Phân loại họ Đậu
Theo định nghĩa của hệ thống APG (Angiosperm Phylogeny Group) thì họ
Đậu (danh pháp khoa học: Fabaceae), từ đồng nghĩa: Leguminosae (hay Fabaceae
sensu lato) là một họ trong bộ Đậu [5].
Trên thế giới số lượng các chi và loài của cây họ Đậu được các nhà khoa học
rất quan tâm và đưa ra được các số liệu qua từng giai đoạn. Năm 1865, Bentham và
các cộng sự đã thống kê được họ Đậu có 399 chi và 6.500 loài [6]. Đến năm 1981,
Polhill và Raven cho biết họ Đậu có 650 chi và 18.000 loài [7]. Vào năm 2005,
Lewis và cộng sự đã đưa ra được bản tóm tắt bách khoa về các chi họ Đậu và thống
kê được họ Đậu có 727 chi và 19.325 loài [8]. Tháng 3 năm 2013, một lần nữa
Lewis và cộng sự đã xác định được họ Đậu có 751 chi và 19.500 loài, kết quả này đã
được sự đồng thuận rất cao từ các nhà khoa học trên thế giới [9]. Như vậy số lượng các
chi và loài cây họ Đậu được ghi nhận tăng lên đáng kể trong vòng 150 năm qua.
Họ Đậu (Fabaceae) được chia thành 3 phân họ như sau [9]:
- Phân họ Vang (Caesalpinioideae) hay họ Vang (Caesalpiniaceae).
- Phân họ Trinh nữ (Mimosoideae) hay họ Trinh nữ (Mimosaceae).
- Phân họ Đậu (Faboideae hay Papilionoideae) hay họ Fabaceae nghĩa
hẹp hay họ Papilionaceae.
Các loài đa dạng tập trung nhiều trong các phân họ Trinh nữ (Mimosoideae)
và phân họ Đậu (Faboideae), đây là họ thực vật có hoa lớn thứ ba, sau họ Phong
lan và họ Cúc [5].
1.1.2. Đặc điểm thực vật, phân bố, giá trị sử dụng của quả, hạt thực vật của 11
loài thực vật thuộc họ Đậu ở Việt Nam
Họ Đậu phân bố ở hầu hết các nơi trên thế giới, tập trung chủ yếu ở vùng có khí
hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cụ thể, chúng phân bố nhiều ở các quốc gia: Thái Lan,
Campuchia, Myanma, Lào, Trung Cuốc, Đài Loan, Angola, Zambia, Hàn Cuốc, Nhật
Bản, Nga, Đài Loan, Ấn Độ, Costa Rica, Mexico, Ecuador, Peru, Phillipin, Indonesia,
5
Singapo, Malaixia, Myanma, Campuchia, Tây Ban Nha, Úc [1, 10]… Còn ở Việt Nam,
phân bố và công dụng của 11 loài thực vật thuộc họ Đậu nghiên cứu trong luận án
được tìm hiểu ở bảng 1.1 như sau:
Bảng 1.1. Đặc điểm thực vật, phân bố, giá trị sử dụng của 11 loài thực vật được
nghiên cứu thuộc họ Đậu ở Việt Nam [1, 10, 11]
Tên
Phân bố địa lý
Tên khoa
TT
thông
Đặc điểm thực vật
học
Việt Nam
Công dụng
thường
Qủa đầu to, dài 15 cm, rộng 6
Gỗ loại 1.
- 9 cm, dày 2 - 3 cm, hóa gỗ
Hạt non có
mạnh khi già, màu nâu thẫm
Gia Lai, Đắc
thể
ăn
chứa từ 7 - 8 hạt, nằm ngang,
Afzelia
Lắc, Đồng Nai,
được. Hạt
hình trứng dài 25 - 30 mm,
xylocarpa
Ninh Thuận,
cũng được
1
Cà te
dày 18 - 24 mm, màu nâu
(Kurz)
Kon
Tum,
làm
thuốc
thẫm hay màu đen, gốc có áo
Craib
Khánh Hòa,
sắc
ngậm
hạt cứng màu da cam. Hạt
Tây Ninh
chữa
đau
hình trụ có cạnh, vỏ hạt cứng
răng và đau
màu đen, dây rốn cứng màu
dạ dày.
vàng nhạt.
Quả Đậu tương thẳng hoặc
hơi cong, có chiều dài từ 2 tới
Hạt
làm
7 cm hoặc hơn. Quả có màu
thực phẩm,
sắc biến động từ vàng trắng
ép lấy dầu.
Glycine
Cao Bằng, Hà
Thân,
lá
Đậu
tới vàng sẫm. Một quả chứa
2
soja Sieb.
Giang, Lạng
làm thức ăn
tương leo
từ 1 tới 5 hạt, nhưng hầu hết
& Zucc.
Sơn.
các giống quả thường từ 2
gia
súc
đến 3 hạt. Hạt có nhiều hình
hoặc phân
dạng khác nhau: hình thận,
bón.
hình bầu dục, tròn dẹt...
6
Tên
Phân bố địa lý
Tên khoa
TT
thông
Đặc điểm thực vật
học
Việt Nam
Công dụng
thường
Củ
làm
thực phẩm,
chống khô,
chống nứt
Quả thuôn dài, hơi dẹt, hơi có
nẻ và làm
lông, không
cuống, dài
Được trồng ở
mịn da. Lá
Pachyrhiz
khoảng 10 - 12 cm, được
khắp các địa
và hạt độc,
3
us erosus
Củ đậu
ngăn vách nhiều rãnh ngang,
phương
trong
được dùng
(L.) Urb
thường chứa từ 4-9 hạt.
cả nước.
trị ghẻ lở,
các
bệnh
ngoài
da,
làm
thuốc
trừ sâu hại
cây trồng.
Hạt có tác
dụng lợi
tiểu, giúp
Quả đậu hình thận, dày. Hạt
chống co
có kích cỡ khoảng 1,5 x 0,5 -
giật và
0,6 cm. Quả dài trung bình
Thừa Thiên
giảm đau.
Dalbergia
khoảng 45 - 60 cm, có khi lên
Huế, Đồng
Tuy nhiên,
entadoides
Dây Trắc
4
tới 1 - 1,2 m, rộng 5 - 7 cm,
Nai, Thành
hạt bàm
Pierre ex
bàm bàm
phố Hồ Chí
bàm có độc
Prain
eo giữa các hạt, nội bì mỏng. Hạt tròn dẹt, nhẵn, màu nâu,
Minh
tính, kỵ thai
đường kính 4 - 5 cm, có vỏ
nên phụ nữ
mang thai
dày cứ ng như sừng.
tuyệt đối
không được
dùng.
7
Tên
Phân bố địa lý
Tên khoa
Đặc điểm thực vật
TT
thông
học
Việt Nam
Công dụng
thường
Gia Lai, Kon
Gỗ
tốt,
Tum, Đắc Lắc,
được dùng
Dalbergia
Quả đậu hình trái xoan thuôn,
Bình Phước ,
trong
xây
5
mamosa
Cẩm lai
nhọn ở hai đầu. Một hay hai
Lâm
Đồng,
dựng, đóng
Pierre
hạt trong mỗi quả.
Đồng Nai, Tây
đồ gỗ cao
Ninh
cấp
Quảng Bình,
Gỗ tốt,
Quả dạng đậu, hình bầu dục
Hà Nội, Vĩnh
được dùng
thuôn dài, dài 5-7,5 cm, rộng
Phúc Quảng
trong xây
khoảng 2-2,5 cm. Quả chứa
Ninh, Ninh
dựng, mỹ
Dalbergia
1-2 hạt, mỗi hạt có đường
Bình, Thừa
nghệ. Cây
6
tonkinensis
Sưa
kính khoảng 8-9 mm, hình
Thiên Huế,
có khả năng
Prain
thận dẹp. Quả khi chín không
Gia Lai, Đồng
tạo trầm và
tự nứt.
Nai, Khánh
cho tinh
Hòa, Phú Yên,
dầu.
Hòa Bình
Quả
ăn
Gia Lai, Kon
được,
thân
Quả dạng quả Đậu hình trụ,
Tum, Đắc Lắc,
có tác dụng
hơi có đốt, dài 20 - 60 cm
Đắc Nông,
trị kiết, rễ
Muồng
hoặc hơn, đường kính quả 15
Nha Trang, Đà
hạ
nhiệt,
Cassia
7
hoàng
-25 mm, mang nhiều hạt trái
Lạt, Đà Nẵng,
hoa
tăng
fistula L.
yến
xoan rộng, khi khô có vỏ
Sài Gòn, Thái
tiết
mật,
cứng,
Nguyên, Hà
kháng sinh,
Nội.
chống siêu
khuẩn…
Quả đậu thuôn, dài khoảng 5
Được trồng ở
Hạt
khô
Phaseolus
Đậu ngự
- 12 cm, rộng khoảng 2,5 cm,
khắp các địa
được dùng
8
lunatus L.
đầu quả thường có mũi nhọn;
phương
trong
làm
thực
8
Tên
Phân bố địa lý
Tên khoa
TT
thông
Đặc điểm thực vật
học
Việt Nam
Công dụng
thường
chứa 2 - 4 hạt. Tùy theo từng
cả nước.
phẩm giàu
giống trồng mà kích cỡ và
protein.
màu sắc của hạt khác nhau
Ngoài
ra
(màu có thể đồng nhất hay có
còn có tác
vằn, đốm trắng, xanh, vàng,
dụng trị sốt.
nâu, đỏ, đen, tía…).
Hạt
dùng
làm
thực
Quả đậu dài, hơi cong hay
Được trồng ở
phẩm. Thân
gần như thẳng, có nhiều màu
nhiều nơi, đặc
(tươi)
có
sắc khác nhau (xanh, vàng,
Phaseolus
biệt các vùng
tác
dụng
Đậu
đốm hay có sọc đỏ tía, …).
9
vulgarisan
núi cao: Lai
làm
giảm
trắng
Hạt dạng hình trứng, hình cầu
d L.
Châu, Lào Cai,
lượng
hay hình bầu dục, với nhiều
Lạng
Sơn,
đường
màu sắc khác nhau, tùy theo
Lâm Đồng…
trong máu,
từng giống trồng.
chống
nấm…
Vigna
Quả đậu dài, rủ xuống, mang
Được trồng
unguiculat
a (L.)
Đậu
nhiều hạt. Hạt đậu hình thận,
nhiều ở vùng
Quả làm
10
Walp. ssp.
trứng
vỏ ngoài có nhiều đốm màu
đồng bằng và
thực phẩm
cylindrica
cuốc
nâu đậm hoặc nhạt; tương tự
trung du Bắc
(L.) Verdc.
như màu vỏ trứng chim cuốc.
Bộ.
- Cv.
9
Tên
Phân bố địa lý
Tên khoa
TT
thông
Đặc điểm thực vật
học
Việt Nam
Công dụng
thường
Hạt
dùng
làm
thực
phẩm,
làm
Quả đậu dạng hình trụ dài,
thuốc
trị
Vigna
kích thước 6 - 12 x 0,5 cm;
thùy thũng,
angularis
Khánh Hòa,
màu vàng rơm, màu nâu hoặc
đầy trướng,
11
(Willd.)
Đậu đỏ
TP Hồ Chí
màu đen (tùy theo từng giống
sưng
phù
Ohwi &
Minh…
trồng). Mỗi quả có 6 - 14 hạt.
chân
tay,
Ohashi
Hạt hình trụ hay hình thận.
vàng da, đái
đỏ, phong
thấp, mụn
nhọt…
1.2. Tình hình nghiên cứu về thành phần lipid và hoạt tính chống oxi hóa các
hạt thực vật thuộc họ Đậu trên thế giới và trong nước
1.2.1. Tổng quan về thành phần lipid hạt thực vật
1.2.1.1. Lipid
Lipid là những hợp chất hữu cơ tự nhiên rất phong phú có trong tế bào cơ thể
sống của động vật, thực vật và vi sinh vật. Lipid có khả năng hòa tan trong các dung
môi hữu cơ như chloroform, benzene, ether và rượu…Lipid là lớp chất tự nhiên có
nhiều chức năng sinh học khác nhau: chúng kết hợp với carbohydrate và protein để
tạo thành thành phần chủ yếu của tất cả các tế bào thực vật và động vật. Ở thực vật,
lipid tồn tại dưới dạng cấu trúc và dự trữ. Lipid dự trữ ở thực vật chủ yếu trong quả
và hạt ở dạng dầu. Ở dạng cấu trúc, lipid có trong thành phần chính của màng tế bào
và bảo vệ lớp bề mặt của tế bào [12]. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học
đã tìm ra các bằ ng chứng chỉ ra rằ ng một số các hợp chất như: sphingosin 1-
phosphate; diacylglycerol và phosphatidylinositol phosphate; các prostaglandin; các
hormone steroid ví dụ estrogene, testosterone và cortisol; và các oxysterol… là một
phần quan trọng trong quá trình truyền tín hiệu tế bào [13].
10
Ngoài ra, chúng ảnh hưởng đến hiệu suất, hỗ trợ và sử lý sai sót của màng tế
bào. Tham gia vào quá trình phân chia các tế bào và bào quan, là thành phần không
thể thiếu của quá trình quang hợp [14].
Lipid còn cung cấp các vitamin A, D, E, F, K và F cho cơ thể sống và là
nguồn năng lượng dự trữ (37,6.106 J/kg), quy định các quá trình trao đổi chất. Lipid
góp phần tạo ra kết cấu, tính cảm vị đặc trưng của nhiều thực phẩm.
Về cấu trúc hóa học, trong hạt thực vật nói chung và trong hạt thực vật họ
Đậu nói riêng, lipid được chia làm ba nhóm chính: lipid đơn giản, lipid phức hợp,
và các dẫn xuất lipid. Lipid đơn giản là lipid có hai bán phần cấu trúc gồm một số
loại như: glyceryleste (este của glycerol và acid béo: các Triacylglycerol,
monoacylglycerol và diacylglycerol..); cholesteryl este, sáp (este của rượu mạch
dài và acid béo); các ceramide (amide của acid béo với các dihydroxy hoặc
trihydroxy amine mạch dài chứa 12-22 nguyên tử cacbon như: sphingosin). Lipid
phức hợp có nhiều hơn hai bán phần cấu trúc như: phospholipid (gồm một số loại:
phosphatidylcholine (PC), phosphatidylethanolamine (PE), phosphatidylserine (PS)
và phosphatidylinositol (PI)...); acid phosphoric và các nhóm khác chứa nitơ; acid
phosphatidic là diacylglycerol được este hóa để gắn thêm acid phosphoric;
sphongolipid, chất dẫn xuất của ceramide... Các dẫn xuất lipid: Chúng xuất hiện
hoặc được giải phóng khỏi hai nhóm chính khác do thủy phân các khối xây dựng
cho các lipid đơn giản và phức hợp, chúng bao gồm: acid béo và rượu; vitamin hòa
tan trong chất béo như vitamin A, D, E và K; các hydrocarbon; các sterol [1].
Các lớp chất của lipid: Lipid có nguồn gốc thực vật chứa nhiều lớp chất với
độ phân cực khác nhau, trong lipid họ Đậu thường có các lớp: hydrocacbon (HC) và
sáp (W), sterol (ST), acid béo tự do (FFA), triacylglycerol (TG), diacylglycerol
(DG), monoalkyldiacylglycerol (MADG) và lipid phân cực (Pol).
1.2.1.2. Acid béo
Acid béo thuộc nhóm lipid đơn giản nhưng là lớp chất lipid quan trọng nhận
được sự quan tâm lớn của các nhà khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu về lipid.
Thành phần và hàm lượng của các acid béo là một trong những yếu tố quan trọng
nhất quyết định tính chất của lipid. Cấu trúc đa dạng của lipid được bắt nguồn từ
các acid béo khác nhau tham gia vào trong thành phần của nó. Cho đến nay, các nhà
khoa học đã phát hiện trong giới thực vật có hơn 400 các acid béo khác nhau ở mức
11
độ và đặc điểm phân nhánh của mạch hydrocacbon, số lượng và vị trí các nối đôi
trong mạch, vị trí và số lượng các nhóm chức, độ dài của mạch hydrocacbon …[15].
Một số acid béo có tác động tích cực đến sức khỏe con người như khả năng
chống viêm, chống ung thư, kháng khuẩn, chống ký sinh trùng… hoặc được sử
dụng trong một số ngành: thực phẩm, dược phẩm và sản xuất mỹ phẩm [16].
Acid béo được chia thành hai loại:
- Acid béo bão hòa (SFA)
Acid stearic (C18:0) Acid palmitic (C16:0)
Acid margaric (C17:0) Acid arachidic (C20:0)
Hình 1.1. Một số acid béo no
Hầu hết các acid béo no thường thấy trong tự nhiên có cấu tạo mạch thẳng
với số nguyên tử cacbon chẵn. Các acid với số nguyên tử cacbon từ C2 đến C30 thì
đã được biết đến nhưng phổ biến và quan trọng nhất trong lipid hạt họ Đậu là C12
đến C22. Chúng có thể được gọi tên theo tên thường, tên khoa học hoặc gọi theo ký
hiệu số như C16:0, chỉ acid no mạch thẳng có 16 nguyên tử cacbon. Một số tên
thông thường của các acid béo có nguồn gốc từ nguồn gốc tìm ra chúng như acid
palmitic được phát hiện đầu tiên trong lipid hạt cọ...
Những acid béo đơn giản trong tự nhiên là các acid béo no, với mạch
hydrocacbon dài và không phân nhánh, có công thức chung là: CH3(CH2)nCOOH
Một số acid béo no thường gặp trong lipid hạt thực vật họ Đậu như acid
palmitic, acid margaric (C17:0), acid stearic (C18:0), acid arachidic (C20:0), acid
arachidic (C20:0), acid behenic (C22:0) có trong một số loài thuộc họ Đậu như:
Pachyrhizus erosus, Macroptilium lathyroides, Crotalaria mucronata, Tylosema
esculentum… [17].
12
- Acid béo chưa bão hòa
* Acid béo không no một nối đôi (MUFA)
Hơn một trăm acid béo một nối đôi đã được tìm thấy trong tự nhiên, nhưng
hầu hết chúng là những hợp chất hiếm. Thực tế tất cả các acid béo một nối đôi đều
có công thức chung CH3(CH2)mCH=CH(CH2)nCOOH. Và đa phần có số nguyên tử
cacbon chẵn, tồn tại ở dạng cấu hình cis đồng phân của acid béo một nối đôi [1].
Trong lipid hạt thực vật họ Đậu thường tìm thấy một số acid béo không no một nối
đôi (hình 1.2) như sau:
Acid oleic (18:1(n-9)) Acid vaccenic (18:1(n-11))
Acid palmitoleic (16:1(n-7))
Acid eicosenoic (20:1(n-9))
Hình 1.2. Một số acid béo không no một nối đôi
* Acid béo không no đa nối đôi (PUFA) [18]
Các acid béo không no đa nối đôi được sinh tổng hợp bởi quá trình chuyển
hóa enzyme: no hóa, kéo dài mạch và ngắt mạch. Hầu hết các acid béo đa nối đôi
quan trọng thuộc họ n-3, n-6, n-9 và hình thành dựa trên cơ sở là các acid linolenic,
linoleic và oleic. Trong tự nhiên đến nay đã phát hiện 12 họ acid béo từ họ n-1 đến n-12.
Acid béo omega-3: Acid béo omega-3 (n-3 hay ω3) là những acid béo mà
trong phân tử có nhiều nối đôi, nối đôi đầu tiên bắt đầu từ vị trí cacbon thứ ba tính
từ nhóm methyl cuối cùng của mạch. Điển hình cho các acid béo họ 3 là acid
eicosapentaenoic (EPA), thu hút sự quan tâm đặc biệt như một loại thuốc quan
trọng trong việc phòng ngừa và điều trị tim mạch, làm giảm quá trình viêm, nó có
hiệu quả trong điều trị một số bệnh ung thư và có thể làm chậm quá trình tăng
trưởng của các khối u, và acid docosahexaenoic (DHA), acid này cần thiết cho phát
triển hoàn thiện chức năng nhìn của mắt, sự phát triển của hệ thần kinh. DHA có tác
13
dụng giảm cholesterol toàn phần, triglyceride máu và LDL-cholesterol (cholesterol
xấu) giúp dự phòng xơ vữa động mạch, bệnh nhồi máu cơ tim. Nếu thiếu DHA
trong quá trình phát triển trẻ sẽ có chỉ số thông minh IQ thấp.
Acid béo omega-6: Acid béo omega-6 (n=6 hay ω6) là những acid béo mà
trong phân tử có nhiều nối đôi, nối đôi đầu tiên bắt đầu từ vị trí cacbon thứ sáu tính
từ nhóm methyl cuối cùng của mạch. Điển hình cho các acid béo họ ω6 là acid
linoleic (acid cis-9, cis-12-octadecadienoic) là loại acid béo phổ biến nhất được tìm
thấy trong hầu hết các mô của động vật và thực vật. Theo thuật ngữ viết tắt nó là
18:2 (n-6). Nó là một acid béo thiết yếu trong thức ăn của động vật, vì nó không thể
được tổng hợp trong các mô của động vật nhưng nó là cần thiết cho sự phát triển
bình thường, sinh sản và phát triển khỏe mạnh. Các enzyme trên động vật chỉ có thể
chèn các liên kết đôi mới giữa một liên kết đôi hiện tại và nhóm carboxyl. Do đó,
acid linoleic là tiền thân của một acid béo hình thành bởi quá trình thoái hóa và kéo
dài mạch, trong đó cấu trúc đầu cuối (n-6) được giữ lại. Trong số này, acid
arachidonic (20:4 (n-6)) đặc biệt quan trọng như là một thành phần thiết yếu của
phospholipid màng và như tiền chất của prostaglandin. Các hợp chất này có tác
dụng dược lý tốt và là đối tượng nghiên cứu chuyên sâu. Acid cis-6, cis-9, cis-12-
octadecatrienoic (18:3 (n-6)), một chất trung gian quan trọng trong quá trình sinh
tổng hợp acid arachidonic.
Acid linoleic 18:2(n-6)
Acid linolenic (18:3(n-3)) Acid arachidonic (20:4n-6)
Acid eicosenoic (20:1(n-9)) Acid eicosapentaenoic (20:5(n-3))
Hình 1.3. Một số acid béo không no đa nối đôi
14
Các acid béo một nối đôi và đa nối đôi là những acid béo đặc trưng của thực
vật, đặc biệt là trong lipid hạt họ Đậu, các acid này có trong một số loài như:
Adenocarpus complicatus, Crotalaria mucronata, Macroptilium lathyroides… [17].
1.2.1.3. Triacylglycerol và các hợp chất có liên quan
Triacylglycerol (thường gọi là "triglyceride") bao gồm một phần glycerol,
mỗi nhóm hydroxyl được este hóa bằng một acid béo. Các triacylglycerol có thể
được sinh tổng hợp với một carbon bất đối xứng ở vị trí C-2, do đó có thể tồn tại ở
các dạng đồng phân đối quang. Một hệ thống "đánh số theo lập thể" đã được
khuyến cáo để mô tả các dạng này. Trong một công thức chiếu Fischer của một dẫn
xuất L-glycerol tự nhiên, nhóm hydroxyl bậc hai được hiển thị bên trái của C-2;
nguyên tử cacbon trên này sẽ trở thành C-1 và nguyên tử cacbon dưới trở thành C-3.
Tiền tố "sn" (viết tắt của stereospecifical numbering) được đặt trước tên gốc của
hợp chất. Nếu tiền tố bị bỏ qua, sau đó hoặc là hóa lập thể không được biết hoặc
hợp chất là hỗn hợp racemic [1].
Gần như tất cả các chất béo và dầu quan trọng về mặt thương mại có nguồn
gốc động vật và thực vật đều bao gồm hầu hết các loại lipid đơn giản này. Thành
phần acid béo có thể thay đổi rất nhiều. Trong lipid hạt, các acid béo không bão hòa
C18 có xu hướng chiếm ưu thế hơn.
Lipid của một số hạt và nấm đã được tìm thấy với các thành phần
triacylglycerol có chứa acid béo mang nhóm chức hydroxyl, nhóm hydroxyl trong
đó được este hóa thành một acid béo bổ sung. Các lipid này được gọi là các estolid.
Diacylglycerol và các monoacylglycerol có chứa hai mol và một mol acid
béo trên mỗi mol glycerol, và hiếm khi có ở mức lớn hơn trong các mô của thực vật
tươi. Nói chung, chúng đôi khi được gọi là "bán phần glycerid". 1,2-diacyl-sn-
glycerol quan trọng như chất trung gian trong quá trình sinh tổng hợp
triacylglycerol và các lipid khác. Ngoài ra, nó đã trở nên rõ ràng rằng chúng là
những trung gian trong tế bào quan trọng, được tạo ra từ quá trình thủy phân
phosphatidylinositol và các hợp chất liên quan bởi các enzyme đặc biệt của loại
phospholipas C và chúng liên quan đến việc điều chỉnh các quá trình quan trọng
trong tế bào động vật có vú [19].
15
2-monoacyl-sn-glycerol được hình thành như các sản phẩm trung gian hoặc
các sản phẩm cuối cùng của quá trình thủy phân enzyme của các Triacylglycerol.
Hình 1.4. Cấu trúc phân tử của triacylglycerol (TAG)
Khi thủy phân triacylglycerol nhận được các acid béo có thể no hoặc không
no, có số nguyên tử cacbon khác nhau.
1.2.1.4. Phospholipid và dạng phân tử
Hai nhóm lipid phân cực phổ biến nhất là glycolipid và phospholipid.
Glycolipid là thành phần màng tế bào, được tìm thấy trong tất cả các đối
tượng, từ vi khuẩn tới con người, trong phân tử của chúng có chứa hexose, thường
là galactose hoặc các dẫn xuất của galactose, đôi khi là glucose. Hầu hết các
glycolipid ở vi khuẩn và thực vật là các glycoglycerolipid, trong khi ở động vật và
con người thì các glycosphingolipid chiếm ưu thế [20].
Phospholipid là thành phần chính của lớp lipid phân cực. Theo GS. Phạm Quốc
Long và cộng sự, phospholipid tham gia vào cấu trúc của màng tế bào, có ảnh hưởng
quyết định đến chức năng, cấu tạo màng tế bào và hàng loạt vấn đề sinh tổng hợp khác
trong cơ thể sinh vật, từ vi sinh vật tới thực vật, động vật và con người [18].
Phospholipid trong hạt thực vật chủ yếu là glycerophospholipid.
Glycerophospholipid
Glycerophospholipid là phospholipid chính trong các tế bào nhân thực, cấu
tạo bởi mạch khung chính là glycerol [21]. Cấu tạo của glycerophospholipid chứa
đuôi kỵ nước (các gốc acid béo) và đầu ưa nước (glycerol, nhóm phosphate và bazo
nitơ) để đảm bảo tính bán thấm của màng tế bào.
16
Trong hạt thực vật, tại vị trí sn-1, gốc R1 (nhóm acyl) liên kết với glycerol
bằng liên kết este với nhóm acyl. Tại vị trí sn-2, gốc R2 (nhóm acyl) luôn liên kết
với glycerol bằng liên kết este. Tại vị trí sn-3, nhóm phosphate với các đầu bazơ
nitơ khác nhau liên kết với glycerol (hình 1.5) [22].
Hình 1.5. Sơ đồ cấu tạo của glycerophospholipid
Các glycerophospholipid khác nhau ở đầu phân cực. Nhóm đầu có thể là
choline, ethanolamine, glycerol, inositol, serine… tạo thành cás phospholipid như
phosphatidylcholine (PC), phosphatidylethalnol amine (PE), phosphatidylinositol
(PI), phosphatidyl serine (PS) tương ứng. Dạng đơn giản nhất của diacyl
glycerophospholipid là acid phosphatidic. Khi trong phân tử phospholipid chỉ có
một acid béo (thường ở vị trí sn-1), ở vị trí sn-2 là nhóm -OH, thì được gọi là các
lyso phospholipid như lyso phosphatidylcholine (LPC), lyso phosphatidylethanol
amine (LPE), lyso phosphatidylinositol (LPI), lyso phosphatidylserine (LPS).
Ngoài ra còn có diphosphatidyl glycerol (hay cardiolipin) (hình 1.6).
Hình 1.6. Một số glycerophospholipid phổ biến
17
Các cấu trúc hóa học của glycerophospholipid có thể được phân loại theo
đầu phân cực, kiểu liên kết giữa các đuôi không ưa nước với glycerol, chiều dài và
độ bão hòa của đuôi không phân cực và số đuôi không phân cực. Sự thay đổi đầu
phân cực tạo ra các glycerophospholipid khác nhau: phosphatidylcholine (PC),
phosphatidylethanolamine (PE), phosphatidylserine (PS), acid phosphatidic (PAc),
phosphatidylinositol (PI), phosphatidylglycerol (PG) và diphosphatidylglycerol
(DPG) hay còn được gọi là cardiolipin. Kiểu liên kết (este hoặc ether) giữa đuôi
không phân cực và glycerol tạo ra 3 phân lớp glycerophospholipids khác nhau:
điacyl, alkyl acyl, alkenyl acyl hoặc plasmalogene.
Độ dài của các đuôi không phân cực tạo ra các PC khác nhau, ví dụ:
dipalmitoyl PC từ các acid béo C16, dimyristoyl PC từ các acid béo C14 và
distearoyl PC từ các acid béo C18. Độ bão hòa của các đuôi không phân cực đặc
trưng cho các glycerophospholipid khác nhau, ví dụ: dioleoyl PC từ các acid béo
C18 có 1 nối đôi và distearoyl PC từ các acid béo C18 no. Các nghiên cứu của E.
Falch và đồng nghiệp cho thấy chiều dài các mạch acid béo và độ bão hòa cũng phụ
thuộc vào nguồn cung cấp phospholipid. Ví dụ phospholipid có nguồn gốc từ thực
vật như Đậu nành có các mạch acid béo không dài hơn 18 cacbon nguyên tử và chỉ
chứa 1-3 nối đôi, trong khi các phospholipid từ lòng đỏ trứng gà hay từ các nguồn
hải sản thường xuyên có mặt các acid béo C20, C22 với 4-6 liên kết đôi trong phân
tử như các acid béo eicosapentaenoic (EPA), docosahexaenoic (DHA). Trong lòng
đỏ trứng gà chỉ chứa lượng nhỏ EPA, DHA còn trong hải sản, hàm lượng các acid
béo này rất dồi dào [23].
Số lượng các gốc không phân cực trong phân tử có thể là 1 hoặc 2.
Lysophospholipid chỉ có một acid béo (thường ở vị trí sn-1) liên kết với mạch
glycerol [24]. Bao gồm: lyso phosphatidylcholine (LPC), lyso phosphatidylethanol
amine (LPE), lyso phosphatidylinositol (LPI), lyso phosphatidylserine (LPS) (hình
1.6). Các lyso được tạo thành do quá trình phân hủy phospholipid.
Sphingophospholipid cấu tạo bởi mạch khung chính là sphingosine và được chia
làm hai dạng sphingomyelin (SM) và ceramide aminoethylphosphonate (CAEP).
18
b) a)
Hình 1.7. Công thức tổng quát của sphingophospholipid
a) Sphingomyelin (SM), b) Ceramide aminoethylphosphonate (CAEP)
Thành phần phospholipid trong hạt họ Đậu khá đa dạng, nhưng hầu hết các
loài họ Đậu đều có đầy đủ các phân lớp chính đó là PE, PC, PI…: Lupinus luteus L.,
Glycine max [L.] Merr.[25]. Một số loài họ Đậu có thêm thành phần PS với hàm
lượng không lớn [4].
1.2.1.5. Tocopherol
Từ năm 1922, nhà khoa học Evans đã nhận thấy mặc dù được nuôi dưỡng
bằng chế độ ăn có đủ protein và các vitamin đã biết thiết yếu vào thời đó, nhưng
khả năng sinh sản của chuột thí nghiệm vẫn yếu. Tuy nhiên, nếu bổ sung vào chế độ
ăn uống của nhóm chuột thí nghiệm nói trên: rau xà lách tươi, mầm lúa mì có chứa
một chất tác dụng tốt với quá trình sinh sản thì chuột sẽ sinh sản tốt hơn. Sau đó
Evans và Bishops đã chứng minh rằng chất đó có hàm lượng cao trong dầu mầm lúa
mì. Đến năm 1936, Evans đã chiết thành công chất đó dưới dạng tinh khiết và đã
đặt tên là tocopherol (Toco có nghĩa là sự sinh sản). Chất này ở dạng dầu vàng nhạt,
tan được trong dầu thực vật và trong các dung môi hữu cơ không tan trong nước và
chính là thành phần chủ yếu có trong lipid. Sau đó, người ta đã biết nhiều
tocopherol khác nhau, trong đó chất tocopherol đầu tiên được Evans phân lập là α-
tocopherol, cũng là một trong những tocopherol quan trọng nhất [18].
Các tocopherol cùng với các tocotrienol và plastoquinone, được gọi là
tocochromanol.
Trong tự nhiên thường tìm thấy α-tocopherol (vitamin E) cùng với β và γ -
tocopherol. α-tocopherol ở dạng kết tinh có tnc = 2,5 - 3,50C, không tan trong nước,
19
dễ tan trong dầu, chất béo, acetone, clorofom, ethanol. α-tocopherol bền đối với tác
dụng của nhiệt, kiềm khi không có mặt của oxygen, không bị phân hủy bởi acid
dưới 1000C. Nó bị oxy hóa bởi oxygen không khí, quá trình oxy hóa này sẽ nhanh
hơn khi có thêm các muối sắt, bạc và có khả năng bị oxy hóa bởi chất oxy hóa khác
như FeCl3 tạo các sản phẩm oxy hóa khác như: α-tocopherol quinon (là chất hiệp
trợ cho hydro để khử dạng chất kìm hãm bị oxy hóa). Vitamin E được sử dụng làm
chất kháng oxy hóa trong lipid thực vật và chất béo, trong điều trị bệnh thiếu
vitamin E [26]. Hầu hết nghiên cứu gần đây về các tocopherol và các tocotrienol đã
tập trung vào giải thích cơ chế của đặc tính chống oxy hóa của chúng, vị trí và vai
trò của chúng trong màng sinh học, và đặc biệt là về lợi ích của những hợp chất này
đối với sức khỏe con người [27]. Hơn thế nữa, những tiến bộ gần đây trong sinh học
phân tử của thực vật đã cung cấp những hiểu biết mới về việc tổng hợp α-
tocopherol để tăng lượng vitamin E trong thực phẩm và do đó ngăn ngừa thiếu hụt
chất dinh dưỡng [28]. Là yếu tố quan trọng của quá trình dinh dưỡng và ngăn cản
quá trình thoái hóa cơ. Trong phân tử của các tocopherol có nhóm OH của phenol
rất dễ bị oxy hóa vì vậy trong y học người ta sử dụng vitamin E dưới dạng este của
α-tocopherol, vì các este ít bị ảnh hưởng của các tác nhân oxy hóa [29]..
γ-tocopherol là chất dầu nhớt, mầu vàng, có ts(0,1)= 200-2010C, không tan
trong nước, rất dễ tan trong dầu, chất béo, trong acetone, clorofooc, ethanol. γ-
tocopherol là chất có hiệu lực kháng oxy mạnh, đối với hiệu lực chống vô sinh thì
chất này yếu hơn γ-tocopherol tới 100 lần. Vì trong các tocopherol đều có 3 nguyên
tử carbon bất đối (C*) cho nên chúng có các đồng phân quang học và các raxemat.
Các tocopherol tự nhiên đều là những đồng phân quang hoạt quay phải, còn các
tocopherol tổng hợp đều là những raxemat hay hỗn hợp raxemic [29].
α-tocopherol là dạng chủ yếu được tìm thấy trong lá, thân của thực vật, trong
khi tocotrienols chủ yếu được tìm thấy trong hạt [28]. Trong số bốn tocopherol thì
chỉ có α-tocopherol có thể được hấp thụ và vận chuyển trong cơ thể con người nên
nó có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với sức khỏe con người.
20
RRR-α-Tocopherol (RRR-α-T)
α-tocotrienol (α-T3)
(Vitamin E)
γ-tocopherol (γ-T) β-tocopherol (β-T)
β-tocotrienol (β-T3)
plastochromanol-8 (P8)
δ-tocopherol (δ-T) γ-tocotrienol (γ-T3)
δ-tocotrienol (δ-T3)
Hình 1.8. Một số tocopherol thường gặp trong lipid hạt thực vật họ Đậu
Trong lipid hạt thực vật họ Đậu chứa hầu hết các tocopherol cơ bản: tocopherol,
tocotrienol và plastoquinon như: Adenolobus, Caesalpiniamoltis, Gonocytisus Spach.,
Gonocytisus Spach., Lupinus L., Colutea L., Vicia L., Lathyrus L.,[30].
1.2.1.6. Phytosterol
Steroid là một loại hợp chất hữu cơ có chứa một sự sắp xếp đặc trưng của
bốn vòng cycloankan được nối với nhau. Cấu trúc lõi steroid thường bao gồm
mười bảy nguyên tử cacbon, liên kết bởi bốn vòng "hợp nhất": ba vòng
21
cyclohexane (vòng A, B và C trong hình minh họa) và một vòng cyclopentan
(vòng D) (gọi tắt là gonane). Steroid thay đổi theo các nhóm chức gắn với lõi
bốn vòng này và theo trạng thái oxy hóa của các vòng. Sterol là dạng steroid có
nhóm hydroxyl ở vị trí thứ ba và khung có nguồn gốc từ cholestan. Do đó, nó là
một loại rượu của gonan và sterol là một phân nhóm của steroid.
Hình 1.9. Khung cấu trúc của steroid
Sterol xuất hiện ở hầu hết các sinh vật nhân chuẩn, bao gồm thực vật, động
vật, nấm, và cũng có thể được tạo ra bởi một số vi khuẩn (tuy nhiên có thể với các
chức năng khác nhau) [31].
Sterol của thực vật được gọi là phytosterol và sterol của động vật được gọi
là zoosterol. Zoosterol quan trọng nhất là cholesterol là chất quan trọng đối với
cấu trúc màng tế bào, và có chức năng như một tiền chất của các vitamin tan trong
chất béo và các hormone steroid; phytosterol đáng chú ý bao
gồm campesterol, sitosterol và stigmasterol. Ergosterol là một sterol có
trong màng tế bào của nấm, nơi nó có vai trò tương tự như cholesterol trong các tế
bào động vật [31].
Phytosterol là phytosteroid, tương tự như cholesterol, đóng vai trò là thành
phần cấu trúc của màng sinh học của thực vật. Chúng bao gồm sterol và stanol thực
vật [31]. Hơn 250 phytosterol và các hợp chất liên quan đã được xác định [32].
Phytosterol tự do chiết xuất từ lipid không hòa tan trong nước, tương đối không hòa
tan trong dầu và hòa tan được trong rượu. Trong lipid hạt thực vật nói chung và
lipid hạt họ Đậu nói riêng như: Glycine soja, Vigna angularis, Phaseolus lunatus,
Phaseolus vulgarisand, Phaseolus coccineus, A. xylocarpa, C. fistula, D.
entadoides, D. mammosa, D. tonkinensis, Pterogyne nitens, L. albus, L.
angustifolius, L. mutabilis, L. albescens, L. gibertianus, Crotalaria incana… cũng
đều chứa các phytosterol cơ bản của thực vật như: campesterol, campestanol,
stigmasterol, sitostanol…[32].
22
β- Sitostanol Campesterol
Stigmasterol Δ7-Camersterol
β-sitosterol Cholesterol
Brassicasterol Clerosterol
24-methylenecholesterol Δ5,24-Stigmastadienol
Campestanol (3β-OH) Clerosterol (3β-OH)
Hình 1.10. Một số phytosterol thường gặp trong lipid hạt thực vật họ Đậu
23
1.2.1.7. Tổng quan về các hoạt chất khác trong hạt thực vật
Hợp chất phenolic
Hợp chất phenolic thiên nhiên bao gồm một dãy lớn những hợp chất hữu cơ có
vòng benzene liên kết trực tiếp với một hay nhiều nhóm hydroxyl. Chúng được phân
bố rộng rãi trong giới thực vật và là các sản phẩm trao đổi chất phong phú của thực vật.
Hơn 8.000 cấu trúc phenolic đã được tìm thấy, từ các phân tử đơn giản như các acid
phenolic đến các chất polyme như tannine [33]. Mặc dù không có một phân loại duy
nhất, hợp chất phenolic có thể được phân loại thành bảy nhóm: flavonoid, acid
phenolic, tannine đơn giản và cô đặc, stilben, coumarine, các lignane và lignine [34].
Các hợp chất phenolic thực vật có tác dụng chống lại bức xạ tia cực tím hoặc
ngăn chặn các tác nhân gây bệnh, ký sinh trùng và động vật ăn thịt, cũng như làm
tăng các màu sắc của thực vật. Chúng có ở khắp các bộ phận của cây và vì vậy,
chúng cũng là một phần không thể thiếu trong chế độ ăn uống của con người. Các
hợp chất phenolic là thành phần phổ biến của thức ăn thực vật (trái cây, rau, ngũ
cốc, ô liu, các loại đậu, sô-cô-la, vv) và đồ uống (trà, cà phê, bia, rượu, vv), và góp
phần tạo nên các đặc tính cảm quan chung của thức ăn thực vật. Ví dụ, các hợp chất
phenolic làm tăng vị đắng, sự se của trái cây và nước trái cây, bởi vì sự tương tác
giữa các hợp chất phenolic, chủ yếu là các procyanidine và glycoproteine trong
nước bọt. Các anthocyanine, một trong sáu phân nhóm của một nhóm polyphenol
thực vật lớn được gọi là các flavonoid, tạo màu da cam, đỏ, xanh và màu tím của
nhiều loại trái cây và rau quả như táo, quả, củ cải và hành tây. Các hợp chất
phenolic được biết đến như là những hợp chất quan trọng nhất ảnh hưởng đến
hương vị và sự khác biệt màu sắc giữa các loại rượu vang trắng, hồng và đỏ, các
hợp chất này phản ứng với oxy và có ảnh hưởng đến việc bảo quản, lên men và cất
giữ rượu vang [35].
Ngoài ra chúng có khả năng làm chậm hoặc ức chế tổn thương tế bào liên
quan đến quá trình oxy hóa, chẳng hạn như quá trình peroxy hóa lipid và phân hủy
oxy hóa DNA, thông qua hoạt động thu gom của chúng chống lại các gốc tự do. Sự
mất cân bằng giữa các gốc tự do và chất chống oxy hóa (cả nội sinh và chế độ ăn
uống) có liên quan đến lão hóa [36].
Acid phenolic
Các acid phenolic có thể được chia thành hai nhóm: nhóm các dẫn xuất của
acid benzoic chẳng hạn như acid gallic, p-hydroxybenzoic, vanillic, syringic..., và
24
nhóm các dẫn xuất của acid cinnamic như acid coumaric, acid caffeic và acid
ferulic. Acid caffeic là một acid phenolic phổ biến nhất, chứa trong nhiều loại trái
cây và rau quả, thường được este hóa với acid quinic trong acid chlorogenic, là một
hợp chất phenolic chủ yếu trong cà phê. Một acid phenolic phổ biến khác là acid
ferulic, đó là chất có trong ngũ cốc và được este hóa tạo thành các hemicellulose có
trong thành tế bào [37].
a. b.
Hình 1.11. Cấu trúc cơ bản của acid phenolic (a. hydroxylbenzoic;
và b. acid cinnamic)
Acid phenolic chủ yếu được tìm thấy trong trái cây (xoài, đào, việt quất, lê,
anh đào, mơ và trái cây họ Cam quýt), rau (cà chua, bina và cà tím), một số loại ngũ
cốc, hạt và quả hạch có dầu, cà phê...Bên cạnh hoạt tính chống oxy hóa, acid
phenolic có tác dụng trong việc ngăn ngừa sự phát triển của tế bào ung thư bao gồm
ung thư bạch cầu, ung thư hắc tố, ung thư vú, ung thư cổ tử cung và ung thư ruột kết
[38]. Chủ yếu là do tác động của chúng lên các enzyme khác nhau liên quan đến sự
tăng sinh tế bào ác tính. Hơn nữa, acid phenolic có thể biểu hiện các tác dụng chống
viêm và làm giảm nồng độ của một số hợp chất không mong muốn cho phép phục
hồi nhanh hơn và giảm tỷ lệ mắc bệnh đường hô hấp [39].
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.2.2.1. Tình hình nghiên cứu thành phần lipid từ hạt thực vật họ Đậu trên thế giới
a. Tình hình nghiên cứu thành phần acid béo
Năm 2004, Mabaleha và các cộng sự đã xác định được lượng lipid tổng bằng
phương pháp chiết Soxhlet từ sáu giống khác nhau thuộc loài Đậu trắng (Phaseolus
vulgaris) thu thập ở cao nguyên và chân núi Lesotho ở miền nam châu Phi. Kết quả
thu được, hàm lượng của lipid tổng trong sáu mẫu thấp, dao động từ 1,5% đến
2,0%. Bằng phương pháp sắc ký khí đã biết được thành phần và hàm lượng acid
béo. Kết quả cho thấy, phần trăm ací béo không bão hòa chiếm ưu thế (dao động từ
25
79,67 đến 84,24% trong sáu mẫu nghiên cứu), trong đó chủ yếu là acid α-linolenic
(36,47-48,81%), acid linoleic (20,96-36,10%), và một lượng đáng kể acid palmitic
(14,33-18,23%). Như vậy, tuy điều kiện khí hậu và đất đai khác nhau nhưng các các
kết quả thu được ở các giống cây họ Đậu nghiên cứu thuộc miền nam châu Phi khá
giống với lipid ở các giống P. vulgaris được trồng ở các nơi khác trên thế giới [40].
Vào năm 2007, Islam và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu thành phần và
hàm lượng acid béo của Đậu trứng cuốc ở Tucson, Mỹ. Trong nghiên cứu này, hàm
lượng acid béo của Đậu trứng cuốc (Vigna unguiculata) đã được xác định bằng
phương pháp sắc ký khí. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các acid béo phong phú nhất
được tìm thấy trong hạt Đậu trứng cuốc (hạt còn nguyên mầm, lá mầm và mô phôi)
là acid palmitic (C16:0), acid palmitoleic (PAA) (C16:1), acid stearic (SA) (C18:0),
acid oleic (OA) (C18:1), acid linoleic (LA) (C18:2), acid linolenic (LIA) (C18:3) và
acid arachidic (AA) (C20:0). Hàm lượng acid béo bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ, giống
cây trồng và loại mô. Hàm lượng acid palmitic trong mô lá mầm và phôi cao hơn ở
nhiệt độ cao hơn. Hàm lượng acid stearic cao nhất trong mô phôi ở 30°C. Hàm
lượng acid oleic cao hơn ở nhiệt độ cao hơn ở cả mô phôi và mô lá mầm. Hàm
lượng acid linoleic cao hơn trong mô lá mầm [41].
Năm 2010, Yoshida và nhóm nghiên cứu đã lựa chọn hạt của năm giống khác
nhau (Erimo, Otome, Roman, Akane và Toyomi) thuộc Đậu đỏ (Vigna angularis)
thu hoạch tại Tokachi, Hokkaido, Nhật Bản. Các acid béo chính được tìm thấy trong
nghiên cứu này là acid: palmitic (16:0), stearic (18:0), oleic (18:1n-9), linoleic
(18:2n-6) và α-linolenic (18:3n-3). Các acid béo bão hòa mạch dài (20:0 và 22:0)
cũng được phát hiện với hàm lượng thấp (0,8-3,2% so với lipid tổng). Trong những
mẫu nghiên cứu, chủ yếu là các acid béo không bão hòa như acid linoleic (18:2n-6),
acid α-linolenic (18:3n-3) và acid oleic (18:1n-9), với hàm lượng lớn tương ứng dao
động từ 70,6% đến 73,8% (so lipid tổng) [42].
Lianhe và cộng sự (2012) đã xác định được hàm lượng acid béo trong hạt của
loài Dalbergia odorifera thu thập ở Tỉnh Hải Nam, Trung Quốc. Kết quả cho thấy,
acid béo chính trong dầu là acid linoleic (60,03%), acid oleic (17,48%) và acid
palmitic (16,72%). Các acid béo không bão hòa chiếm hàm lượng chủ yếu
26
(79,63%), trong đó acid béo không bão hòa đơn và không bão hòa đa tương ứng
chiếm 17,76% và 61,87% tổng số acid béo [43].
Năm 2014, Manuela Renna và cộng sự đã tiến hành xác định hàm lượng acid béo
trong dầu hạt của loại cây họ Đậu Vicia L. Taxa thu thập tại Tusinia. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, thành phần acid béo dao động từ acid lauric (C12:0) đến acid lignoceric
(C24:0) với hàm lượng lần lượt là 1.235,14 đến 1.580,34 mg.100g -1 chất khô (DM).
Trong khi đó, hàm lượng acid linoleic (C18:2) là 647,87 mg đến 801,93 mg.100g-1DM,
(tức là trên 50% tổng acid béo), acid oleic (C18:1) là 181,32 - 346,79 mg.100g-1DM,
tức là 13,2% đến 24,6% acid béo) và acid linolenic(C18:3) là 42,01 mg đến 97,72
mg.100 g-1DM, (tức là từ 3,4% đến 7,1% tổng số acid béo) là các acid béo không bão
hòa phong phú nhất. Acid palmitic (C16:0) là 189,86 đến 281,07 mg.100 g-1 DM, tức là
15,4% đến 17,8% tổng acid béo) và acid stearic (C18:0) là 24,35 -52,75 mg.100 g-1
DM, tức là 2,0 đến 4,0% tổng acid béo) là những acid bão hòa chính [44].
Năm 2016, nhóm nghiên cứu của Knothe xác định được thành phần acid béo
của sáu loại dầu hạt họ Đậu: Centrosema pubescens, Clitoria ternatea, Crotalaria
mucronata, Macroptilium lathyroides, Pachyrhizus erosus (Củ đậu), và Senna alata
thu thập tại Philippin. Các acid béo phổ biến gặp nhiều nhất trong các mẫu là acid
linoleic, acid palmitic, acid stearic, acid oleic và acid linolenic. Các acid béo bão
hòa mạch dài gặp ở hầu hết các mẫu, riêng với Centrosema pubescens và
Macroptilium lathyroides còn gặp các acid béo mạch dài trên 20 cacbon, như
Centrosema pubescens có 6% C24:0, Macroptilium lathyroides có 4% C22:0 và 3%
C24:0. Các kết quả thu được tương đối phù hợp với các kết quả nghiên cứu trước
đây về các loại dầu họ Đậu [17].
Wati và cộng sự (2017) đã xác định được hàm lượng acid béo từ hạt Muồng
hoàng yến (Cassia fistula) từ hai địa điểm Hisar và Palwal, ở Haryana, Ấn Độ.
Bằng phép phân tích sắc ký khí lỏng (GLC) hàm lượng các acid béo chính trong
mẫu nghiên cứu có kết quả là acid linoleic tối đa 54,3 ± 0,7%, acid oleic 19,2 ±
0,4% và acid palmitic 18,5 ± 0,3%. Kết quả cũng chỉ ra rằng các acid béo thu được
từ hai địa điểm là khác nhau [45].
27
b. Tình hình nghiên cứu thành phần tocopherol
Năm 1998, Ivanov đã xác định được hàm lượng và thành phần tocopherol và
tocotrienol trong dầu hạt của 43 loài thuộc 28 họ thực vật khác nhau ở Bungari. Các
kết quả được thảo luận trong phần tổng quan về tiềm năng sử dụng của chúng như
là vitamin E cô đặc và là nguồn chất chống oxy hóa để bảo quản lipid thực phẩm.
Hàm lượng lipid trong hạt của các loài được khảo sát thay đổi trong các giới hạn
rộng: từ 2,4% ở Plantago major L. (Fam. Plantaginaceae) đến 65,2% ở họ Corylus
avellana L. (Fam.Betulaceae). Tổng hàm lượng của T và T-3 (tính bằng mg/kg trên
lipid của hạt) khác nhau ở các loài được nghiên cứu và dao động trong khoảng khá
rộng: từ 24,5 mg/kg đối với Myrrhoides nodosa (L.) cho đến 3.879,4 mg/kg đối với
loài Castanea vesca Gaertn. (Họ Đậu) [46]. Sáu loài ( chiếm 14,0%) chứa lượng T
và T-3 lớn hơn và vượt quá hàm lượng tocopherol trong dầu mầm thực vật đã được
công bố trước đây, trong đó có hai loài thuộc họ Đậu là:
Gleditsia triacanthos L. (họ Đậu) 1.111,4 mg/kg
Robinia pseudoacacia L. (họ Đậu) 1.210,7 mg/kg
Dẫn xuất T bão hòa có trong hầu hết các loài nghiên cứu (32 loài chiếm 74,4%),
chỉ có 11 loài (25,6%) chứa các dẫn xuất T-3 không no. Hàm lượng α-tocopherol của
Robinia pseudoacacia L. (họ Đậu) chiếm hàm lượng tương đối cao 84,8% so với
tổng hàm lượng tocochromanols [46].
Năm 2004, Bagci và đồng nghiệp bằng phương pháp HPLC đã nghiên cứu
thành phần và hàm lượng tocochromanol của một số loài họ Đậu (Leguminosae)
được chọn thuộc các chi khác nhau (Lupinus L., Colutea L., Vicia L., Lathyrus L.,
Hedysarum L. Onobrychis Adans., Hedysarum L., Trigonella L.) thu thập tại Thổ
Nhĩ Kỳ [30]. Trong nghiên cứu này một số loại dầu hạt Đậu đã được đánh giá là
nguồn tiềm năng của các tocopherol và tocotrienol tự nhiên. Các dẫn xuất α, β, γ và
δ- của tocopherol, tocotrienols và 8-plastochromanol được phát hiện trong một số
loại dầu hạt Đậu đã nghiên cứu. Trong đó, dẫn xuất α và γ-tocopherol là thành phần
phong phú nhất trong tất cả các mẫu đã nghiên cứu trừ Lathyrus incpicuus,
Onobrychis huetiana, và O. hypargyrea. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong
một số mẫu hạt Đậu thu thập tại Bungari (Arachis hypogaea, Gleditsia triacanthos
28
và Robinia pseudoacacia) [47]. Các loài Colutea và Trigonella có hàm lượng
tocopherol cao nhất (tương ứng 85,7% và 89,4%) trong tất cả mẫu nghiên cứu. Mặt
khác, Hedysarum cappadocicum (69,9%), Vicia michauxii var. stenophylla
(80,2%), V. cappadocica (93,4%), và trong các loài Onobrychis nói chung (ngoại
trừ O. huetiana và O. hypargyrea) đều có hàm lượng γ-tocopherol cao trong mỗi
loại dầu. Hàm lượng tocopherol trong các mẫu Lathyrus incpicuus (51,7%), L.
laxiflorus subsp. Laxiflorus (46,7%) và O. huetiana (34,3%) cũng ở mức cao, tuy
nhiên hầu hết các mẫu khác không có. Trong các phân tích tocochromanol của dầu
hạt Đậu từ Thổ Nhĩ Kỳ này đều chứa hàm lượng các tocotrienol ít. Hàm lượng
tocotrienol cao nhất được tìm thấy ở Onobrychis hypargyrea (65,6%), Lupinus
varius (45,9%) và Gonocytisus dirmilensis (23,3%) trong khi các mẫu khác ở mức
thấp hơn 10%. Các tocotrienol khác không được tìm thấy hoặc được xác định với
hàm lượng rất nhỏ. Plastochromanol-8 (P-8) được tìm thấy ở dạng vết trong hầu hết
các nghiên cứu trừ hai loài thuộc chi Lathyrus taxa. Các kết quả phân tích cho thấy
phần trăm tocopherol tổng của các mẫu Đậu được nghiên cứu cao hơn so với hàm
lượng tocotrienol tổng.
Năm 2012, Lianhe đã xác định được hàm lương tocopherol trong hạt của loài
Dalbergia odorifera thu thập ở Tỉnh Hải Nam, Trung Quốc. Kết quả thu được, hàm
lượng tocopherol là 511,9 mg/kg dầu hạt, bao gồm γ-tocopherol (351,1 mg/kg dầu)
và α-tocopherol (160,8 mg/kg dầu). Các β - tocopherol, δ -tocopherol không phát
hiện trong dầu. Trong dầu, γ-tocopherol chiếm 68,6% tổng hàm lượng tocopherol
tương tự như dầu đậu nành và dầu hạt cải [43].
Năm 2016, Fernandez và các cộng sự đã xác định thành phần và hàm lượng
tocopherol trong hạt của 50 loài thuộc họ Đậu (Trong đó: Fabaceae (n = 6 loài),
Caesalpinioideae (n = 17 loài), Mimosoid (n = 11 loài), Papilionoideae (n = 27
loài)), các loài này thu thập tại Anh và Tây Ban Nha. Bằng phương pháp sắc ký
lỏng hiệu năng cao (HPLC) các tác giả thu được kết quả ở bảng 1.2 [48].
Tocochromanols có ở nồng độ cao hơn carotenoid. Tám tocochromanols chính
α-, β-, γ-, δ-tocopherols (T) và α-, β-, γ-, δ-tocotrienols (T3) cũng được tìm thấy trong
các mẫu hạt Đậu được phân tích. Tất cả các loài đều chứa tocopherol, nhưng chỉ có
29
24% số loài có chứa tocotrienol với nồng độ thấp hơn nhiều (dao động từ 0,0 đến 3,1
μg/g) so với nồng độ của tổng số tocopherol (7,1 đến 151,3 μg/g).
Bảng 1.2. Hàm lượng trung bình tocopherol tổng và tocotrienol tổng trong các
phân họ Đậu nghiên cứu [48]
STT Phân họ Đậu Tocopherols tổng Tocotrienols tổng
1 Caesalpinioideae 54,1 ± 13,1 0,5 ± 0,1
2 Mimosoid 53,9 ± 12,0 0,3 ± 0,2
Papilionoideae 3 50,3 ± 5,2 Không xác định
Phân họ Đậu khác 4 63,8 ± 25,0 0,4 ± 0,2
c. Tình hình nghiên cứu thành phần sterol
Năm 1997, thành phần dầu hạt của các loài Lupinis (L.) hoang dã và trồng
trọt đã được phân tích bằng sắc ký lỏng khí (GLC) bởi Fuentes. Các mẫu sterol và
acid béo của Lupinus albescens và L. gibertianus, được xem như là nguồn tài
nguyên quan trọng của Châu Mỹ, đã được báo cáo lần đầu tiên và được so sánh với
các loài Lupinus albus, L. angustifolius và L. mutabilis khác. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, số lượng các thành phần sterol tương tự nhau giữa các loại giống nhau. β-
sistosterol là hợp chất chính, với dao động từ 46,4% trong L. mutabilis đến 66,49%
trong L. angustifolius, tiếp đó là campesterol với 17,39% trong mẫu L. albescens và
24,91% trong loài L. gibertianus. Các sterol khác chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong các
loại hạt Đậu này là stigmasterol và cholesterol. Hàm lượng Δ5-avenasterol trong các
mẫu Đậu hoang dã và Đậu trồng chỉ tìm thấy trong loại Đậu L. hispaniciis. Trong
khi đó Δ7-stigmasterol và Δ7-avenasterol lần đầu tiên tìm thấy ở chi Lupinus [48].
Vào năm 2007, nhóm tác giả Ryan đã xác định được thành phần phytosterol
trong năm loài thuộc họ Đậu: Phaseolus lunatus (Đậu ngự), Cicer arietinum (Chick
peas), Phaseolus vulgaris (Đậu trắng), Lens culinaris (Lentils), và Pisum sativum
(Peas). Kết quả chỉ ra rằng trong các mẫu đều chứa các phytosterol chủ yếu là: β-
sitosterol, campesterol và stigmasterol. Tổng hàm lượng phytosterol dao động từ
134 mg/100g (Đậu trắng) đến 242 mg/100g (Đậu Peas). Đậu ngự và Đậu trắng chứa
hàm lượng stigmasterol cao tương ứng là (86,2 mg/100 g và 41,4 mg/100g). Ngoài
ra β-sitosterol trong Đậu ngự và Đậu trắng cũng tương đối cao, tương ứng là (85,1
30
mg/100g và 86,5 mg/100g). Kết quả này cho thấy các cây họ Đậu nghiên cứu có
thành phần và hàm lượng phytosterol khác với các nhóm thực phẩm khác [49].
Năm 2010, Lalita đã xác định thành phần acid béo và sterol của dầu hạt được
xác định từ 5 loài Cassia, bao gồm: Cassia absus Linn., Cassia alata Linn., Cassia
javanica Linn., Cassia laevigata Linn., Cassia roxburghii DC. Hàm lượng dầu
chiếm khoảng 3,5% đến 6,2%. Thành phần acid béo và sterol trong dầu hạt của 5
loài Cassia được phân tích bằng sắc ký khí. Bốn acid béo: acid palmitic (C16:0),
acid stearic (C18:0), acid oleic (C18:1) và acid linoleic (C18:2) (và một lượng nhỏ
acid linolenic (C18:3) trong C. roxburghii và C. absus) đã được tìm thấy trong cả
năm mẫu. Dầu hạt chủ yếu chứa các acid béo không no như acid linoleic (C18:2)
(chiếm khoảng 45,96% đến 60.25%) và acid oleic (C18:1) (chiếm 26,29% đến
34,91%). Acid palmitic (C16:0) là loại acid no phổ biến nhất. Ba sterol là
cholesterol, stigmasterol và β-sitosterol được tìm thấy trong tất cả các mẫu. Trong
khi β-sitosterol là sterol chủ yếu của C. javanica (67,50 %), C. alata (64,79 %), C.
roxburghii (63,29 %) và C. absus (53,42%) thì stigmasterol là thành phần chính của
C. laevigata (45,34 %). Acid linoleic, acid oleic, stigmasterol và β-sitosterol được
xác định là các thành phần chính của dầu hạt của năm loài đã trên [50].
Năm 2018, Saptarini và công sự đã nghiên cứu trên hai loại Đậu đỏ
(Phaseolus vulgaris L.) và Đậu cô ve (Pisum sativum L.) được tiêu thụ hàng ngày ở
Bandung, Tây Java, Indonesia, là những thực vật có chứa phytosterol. Theo kinh
nghiệm, phytosterol được dùng như tác nhân chống cholesterol. Phytosterol có thể
thay thế cholesterol trong chu trình trao đổi chất, bởi vì cấu trúc của nó tương tự với
cholesterol. Trong nghiên cứu này, hàm lượng phytosterol tổng trong mẫu hạt Đậu
đỏ và Đậu cô ve trồng tại Bandung được xác định như là nguồn thực phẩm chức
năng tiềm năng. Bằng phương pháp so màu với các tác nhân Liebermann-Burchard
được sử dụng để xác định hàm lượng phytosterol tổng. Kết quả cho thấy, lượng
phytosterol tổng trong 100 g Đậu đỏ và Đậu cô ve lần lượt là 112,94 ± 0,68 mg
và 82,88 ± 0,42 mg, với sự sai khác là P=3,34x10-7. Như vậy, Đậu đỏ có tiềm
năng được sử dụng như là nguồn thực phẩm chức năng để đáp ứng nhu cầu
phytosterol hàng ngày [51].
31
d. Tình hình nghiên cứu thành phần phenolic
Năm 2007, Korus và cộng sự đã định lượng phenolic từ hạt của ba giống
khác nhau (Rawela, Tip-Top và Toffi), thuộc loài Phaseolus vulgaris L. (Đậu trắng),
thu thập tại Ba Lan. Myricetin, quercetin, cyanidin, acid chlorogenic, acid caffeic,
acid ferulic và acid p-coumaric là những thành phần phenolic chính có trong cả ba
giống. Trong đó, Rawela chứa lượng phenolic cao nhất là 90,28 mg/100g khối
lượng mẫu khô, với giống Tip-Top và Toffi thấp hơn, tương ứng là 35,61 mg/100g
và 30,48 mg/100g [52].
Năm 2014, Berber đã biết được hàm lượng phenolic và flavonoid của loài
Adenocarpus complicatus (thuộc họ Đậu) thu thập tại làng Golyuzu thuộc quận
Seydisehir gần tỉnh Konya, Thổ Nhĩ Kỳ. Quả và các bộ phận khác nhau thu được từ
loài này được nghiền và lấy 15 gam để chiết xuất bằng methanol. Tổng hàm lượng
phenol trong quả (36,21 mgGAE/g) cao hơn so với nguyên liệu hỗn hợp (13,79
mgGAE/g). Chiết xuất methanolic của nguyên liệu hỗn hợp có lượng flavonoid cao
hơn so với chiết xuất từ quả. Tổng hàm lượng phenolic trong các phần khác nhau
của loài Adenocarpus complicatus có thể so sánh với kết quả được báo cáo trong
các tài liệu đối với một số loài thuộc họ Đậu khác như Trifolium pannonicum
(106,81 mgGAE/g), Oxytropis halleri (78,84 mgGAE/ g), Coronilla (38
mgGAE/g), Ceratonia siliqua (16,4-39,4 mgGAE/g), Glycyrrhiza echinata (146,3
mgGAE/g ở các bộ phận thân, lá, quả và 114,3 mgGAE/g trong rễ). Flavonoid là
thành phần chính của các hợp chất phenolic và mức độ của nó tương quan với khả
năng chống oxy hóa [53].
Năm 2016, Orak đã xác định được thành phần và hàm lượng phenolic trong các
giống Đậu trắng (Phaseolus vulgaris) ở Thổ Nhĩ Kỳ. Bằng phương pháp RP-HPLC,
hàm lượng phenolic của các hạt thay đổi trong khoảng 0,33 đến 0,63 mgGAE/g. Các
hợp chất phenolic chiếm ưu thế là acid ferulic hoặc caffeic. TPC dao động trong
khoảng 2,79 mgGAE/g đối với chiết xuất của Zülbiye var. và 5,34 mgGAE/g đối với
chiết xuất của Göksun var. TPC cao nhất thể hiện trên một g hạt giống được tìm thấy
đối với hai giống có tên là Göynük và Göksun, tức là 0,63 và 0,61 mgGAE/g.
Năm 2016, Goldson Barnaby đã xác định được thành phần và hàm lượng
phenolic trong hạt của năm loài Đậu: Cassia fistula (Muồng hoàng yến), Delonix
32
regia, Senna siamea, Spathodea campanulata và Tibouchina granulosa thu thập từ
những cây mọc trong khuôn viên trường Đại học ở Tây Ấn. Kết quả cho thấy tổng
hàm lượng phenolic cao nhất được tìm thấy ở T. granulosa (96,35 ± 2,88 mg/g acid
gallic) và S. siamea (79,37±4,46 mg/g acid gallic) [54].
Tác giả Diniyah (2020), đã biết được hàm lượng phenolic tổng từ ba giống
thuộc loài Phaseolus lunatus (Đậu ngự) thu thập tại Indonesia. Từ phương pháp
HPLC, đã xác định được hàm lượng phenol dao động từ 15,21 - 38,60 mg đương
lượng acid gallic/g trọng lượng khô. Trong đó, acid gallic, epicatechin và acid
coumaric là các thành phần chiếm ưu thế trong cả ba giống [55].
e. Tình hình nghiên cứu thành phần phospholipid
Năm 2005, Yoshida đã xác định được các lớp phospholipid (PL) của các hạt
Đậu trắng (Phaseolus vulgaris L.) thu thập từ năm giống khác nhau (Kentucky,
Hatsumidori, Satsukimidori, Suratowander và Morotuko) được trồng ở Nhật Bản.
Hàm lượng PL thu được giảm dần theo thứ tự từ Morotuko, Suratowander,
Satsukimidori, Hatsumidori đến Kentucky. Hàm lượng PE, PC, PI, và các thành
phần khác trên các mẫu hạt Đậu dao động lần lượt trong khoảng 279,9 -361,8 mg,
547,5 - 656,6 mg và 297,0 - 386,0 mg trên 100 g đậu. PC là thành phần chiếm ưu
thế (44,8 - 47,0%), sau đó là PI (21,8 - 27,7%) và PE (21,9 - 25,9%). Các PL khác
chiếm hàm lượng ít hơn (4,5-5,3%). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, PE ở
Kentucky, Hatsumidori và Satsukimidori thấp hơn ở Suratowander và Morotuko.
Các acid béo chính trong ba PL là aid: palmitic, oleic, linoleic và linolenic. Đậu
Phaseolus vulgaris L. là loài đậu chứa dầu thấp điển hình, và PL tạo thành các
thành phần chính của màng tế bào trong Đậu. Vì lipid màng tham gia vào các quá
trình cơ bản của tế bào như vận chuyển ion, tạo năng lượng và các phản ứng sinh
học, nên chúng được bảo tồn cao cả về số lượng và chất lượng [56].
Năm 2009, Olennikov đã lựa chọn hạt của hai loài thuộc họ Đậu, Sophora
flavescens và Styphnolobium japonicum làm đối tượng nghiên cứu. Lipid của hai
loại Đậu này được chiết tách theo phương pháp Folch. Thành phần các chất trong
dịch chiết được xác định bằng cách sử dụng cột silicagel để tách lipid trung hòa
(NL), glycolipids (GL), và phospholipids (PL) bằng dung môi CHCl3, acetone và
33
methanol. Hàm lượng lipid tổng trong các loại hạt S. flavescens và S. japonicum lần
lượt là 3,37 và 5,31%. Trong đó, hàm lượng NL, PL và GL cao nhất được tìm thấy
trong hai loại hạt lần lượt là 74,22 ± 2,34 và 39,04 ± 1,38; 8,70 ± 0,41 và 9,18 ±
0,55; 15,05 ± 0,57 và 50,54 ± 1,37% khối lượng [57].
Năm 2017, Ginka và các cộng sự đã định lượng các thành phần phospholipid,
sterol và tocopherol từ ba giống hạt Madia sativa (BGR 457, BGR 458 và BGR
459) ở Bungari. Hàm lượng lipid tổng trong ba mẫu hạt lần lượt là 36,6, 34,2 và
35,4%. Tổng hàm lượng phospholipid lần lượt là 2,4; 1,7 và 2,6% và các lớp
phospholipid chính là: phosphatidylcholine, phosphatidylinositol và
phosphatidylethanolamine. Lượng sterol trong dầu là 0,3% cho tất cả các mẫu và
thành phần chính là β-sitosterol, kế tiếp là campesterol và stigmasterol [58].
Năm 2021, Liu và các cộng sự đã nghiên cứu ảnh hưởng của muối đến thành
phần và hàm lượng phospholipid trong lá Đậu tương (Glycine max [L.] Merr.). Theo
kết quả nghiên cứu thì trong lá Đậu tương gồm các PL cơ bản là galactolipid (GLs)
(monogalactosyldiacylglycerol (MGDG) và digalactosyldiacylglycerol (DGDG)),
phospholipid (PLs)( phosphatidylcholine (PC) và phosphatidylethanolamine (PE),
phosphatidylinositol (PI), acid phosphatidic (PAc), phosphatidylglycerol (PG),
phosphatidylserine (PS)) và lysophospholipid (lysoPL)( (lysoPC, lysoPE và
lysoPG)). Năm thành phần chứa hàm lượng cao nhất trong lá Đậu tương: MGDG
(50,0-52,8%), DGDG (16,0-18,2%), PG (11,5-12,0%), PE (7,8-8,2%), và PC (3,7-
6,2%). Sau 30 phút xử lý muối thì hàm lượng một số lớp lipid màng (DGDG,
MGDG, PG, PC và PE) giảm nhanh, nhưng lysoPC tăng 1,4 lần sau 1 giờ và 1,7
lần sau 2 giờ, PAc (36: 3) và PAc (36: 6) được tăng lên sau 2 giờ. Sau khi xử lý
muối, MGDG (36: 6), DGDG (36: 6) và DGDG (34: 3) giảm xuống đáng kể ở 0,5
giờ, nhưng trở lại bình thường sau 1 giờ. Trong số ba loại, chỉ có DGDG (34: 3)
tăng lên rõ rệt sau khi xử lý muối 2 giờ. Với PC (36:3), PC (36:4), PC (36:5), và
PC (34:2) thấp hơn sau 0,5 giờ xử lý muối, phục hồi sau 1 giờ và giảm trở lại sau 2
giờ. Ngược lại, tất cả các loài phân tử được phát hiện của lysoPC, bao gồm lysoPC
(16:0), lysoPC (18:2) và lysoPC (18:3) chỉ tăng cao sau 1 hoặc 2 giờ. Tương tự như
PC, hầu hết các loại phân tử PE giảm sau 0,5 giờ và tăng lại sau 2 giờ, với PE (36:6)
giảm ở tất cả các thời điểm [59].
34
Việc nhận dạng dạng phân tử các phospholipid cũng được các nhà khoa học
quan tâm:
Năm 2020, bằng phương pháp sắc ký lỏng, khối phổ kết hợp với ion hóa phun
mù điện tử (LC-ESI-MS), Calvano và các cộng sự đã xác định cấu trúc của
phospholipid và chuỗi acid béo trong hạt cây Lupinus luteus. Nghiên cứu này đã
đưa ra được cấu tạo của hơn 200 lipid phân cực bao gồm 52 PC, 42 PE, 42 PA, 35
PG, 16 LPC, 13 LPE, và 10 PI. Các acid béo (FA) thấy có nhiều nhất dưới dạng
chuỗi acyl được este hóa trong PL là 18:1 (oleic), 18:2 (linoleic), 16:0 (palmitic) và
18:3 (linolenic) với hàm lượng tương đối cao của chuỗi acyl béo như 22:0
(behenic), 24:0 (lignoceric), 20:1 (gondoic) và 22:1 (erucic). Kết quả cũng cho thấy
phosphatidylcholine (PC) chứa hàm lượng cao nhất (41±6%), kế tiếp là LPC dạng
lyso (30±11%), phosphatidylethanolamine (PE, 13± 4%), phosphatidylglycerol (PG,
5,1± 1,7%), acid phosphatidic (PA, 4,9±1,8%), phosphatidylinositol (PI, 4,7±1,1%),
và LPE (1,2±0,5%) [60].
1.2.2.2. Tình hình nghiên cứu hoạt tính chống oxi hóa từ các bộ phận khác nhau
của một số loài thực vật họ Đậu trên thế giới
Năm 2007, Korus và cộng sự nghiên cứu được ảnh hưởng của thời gian và
nhiệt độ ép đùn hạt tới khả năng chống oxi hóa theo DPPH từ hạt của ba giống
khác nhau (Rawela, Tip-Top và Toffi), thuộc loài Phaseolus vulgaris L. (Đậu trắng),
thu thập tại Ba Lan. Kết quả cho thấy, tốc độ thu dọn gốc tự do DPPH cao nhất đối
với Tip-Top (giảm 33% trong vòng 5 phút và 52% trong vòng 10 phút); Toffi và
Rawela thấp hơn (lần lượt là 26 và 11% trong vòng 5 phút, 49 và 38% trong vòng
10 phút). Sau 40 phút, tốc độ quyét gốc tự do là tương tự nhau ở tất cả các loại dầu:
92% đối với Rawela, 96% đối với Tip-Top và 90% đối với Toffi. Sau 60 phút, các
giá trị tương ứng tăng lên 97, 99 và 94%. Các điều kiện ép đùn có ảnh hưởng không
rõ ràng đến khả năng chống oxy hóa. Tuy nhiên, khi xem xét hàm lượng phenolic
tổng, có thể thấy rằng khi ép dầu ở nhiệt độ thấp (120°C) thì hàm lượng phenolic
tổng cao hơn so với ép ở nhiệt độ cao (180°C) [52].
Zia-Ul-Haq và cộng sự (2013) đã xác định hoạt tính chống oxy hóa từ dịch
chiết methanolic của bốn giống đậu trứng cuốc (Vigna unguiculata (L) Walp.) là
35
CP1, CP2, White star và AS dandy được thu thập từ Khoa Nông học, Đại học
Bahauddin Zakariya, Multan, Pakistan. Kết quả chỉ ra, hàm lượng phenolic tổng
(TPC) cao nhất thu được trong trường hợp White star (19,3 mgGAE/g) trong khi
TPC thấp nhất thu được trong trường hợp CP1 (11,9 mgGAE/g). Khả năng chống
oxi hóa trên hệ DPPH từ dịch chiết methanolic dao động từ 25,1 μmol Trolox/g
(CP1) đến 32,5 μmol Trolox/g (White star). Giá trị FRAP của Đậu trứng cuốc dao
động từ 13,2 mmol Fe2+/g (CP2) đến 19,4 mmol Fe2+/g (White star). Kết quả này có
sự khác biệt so với các nghiên cứu trước đây về hoạt tính của Đậu trứng cuốc [61].
Năm 2014, Kamagate đã nghiên cứu khả năng chống oxi hóa của loài Cassia
siamea (thuộc họ Đậu). Tác giả sử dụng [2,2’-azinobis(3-ethylbenzothiazoline-6-
sulfonate) (ABTS)] là một gốc tự do bền để xác định chất oxi hóa, kết quả từ dịch
chiết methanol của vỏ cây (800 và 1000 μg/mL) đã ức chế 60,5% và 51,34% gốc tự
do so với rutin ức chế 62,56% gốc tự do. Ngoài ra tác giả còn sử dụng phương
pháp thử nghiệm DPPH thông qua phản ứng bao vây gốc tự do (1,1-diphenyl-2-
picrylhydrazyl (DPPH)), kết quả cho thấy chiết xuất methanol của hoa (250 μg/mL)
trung hòa 96% gốc DPPH. Chiết xuất này (500 μg/mL) thu được 42,7%, 32,7% và
• -, H2O2
• và NO. Ngoài ra, chiết xuất
64,5% tương ứng nồng độ của của O2
methanol của lá làm giảm các gốc hydroxyl (OH•), peroxyl (ROO•) và superoxide
• -) với giá trị IC₅₀ đạt 349,9 μg chiết xuất /mg DPPH. Kết quả thử nghiệm in
(O2
vivo trên chuột cho thấy dịch chiết ethanol của hoa (50-150 mg/kg) được bảo vệ
đáng kể chống lại giai đoạn cấp tính của nhiễm độc gan và thay đổi mô bệnh phẩm
(hoại tử, thoái hóa mỡ). Những kết quả này cho thấy C. siamea có tác dụng bảo vệ
tế bào gan [62].
Cùng năm đó (2014), Jean đã xác định hoạt tính hoạt tính từ dịch chiết acetone
lá của chín loài cây họ Đậu (Crotalaria capensis, Indigofera cylindrica, Erythrina
caffra, Lonchocarpus nelsii, Virgilia divaricata, Dalbergia nitidula (họ Sưa),
Podalyria calyptrata, Xylia torreana, Bauhinia racemosa). Kết quả cho thấy tất cả
các chất chiết xuất có hoạt tính chống oxy hóa từ trung bình đến mạnh, giá trị IC₅₀
xảy ra trong khoảng 9,31 ± 2,14 đến 271,58 ± 51,96 μg/mL trên hệ DPPH, và 14,56
± 3,96 đến 207,09 ± 70,75 μg/mL trên hệ ABTS. Trong đó, chất chiết xuất từ D.
36
nitidula có khả năng quét gốc tự do (IC₅₀ là 9,31 ± 2,14 μg/mL) gần với khả năng
quét gốc tự do của Trolox đối chứng (IC₅₀ là 9,71 ± 2,23 μg/mL) trong hệ DPPH,
một kết quả tương tự thu được với dịch chiết Xylia torreana (IC₅₀ là 14,56 ± 3,96
μg/mL) trong hệ ABTS trong đó Trolox có IC₅₀ là 12,48 ± 3,7 μg/mL. Những kết
quả này chỉ ra rằng hai chất chiết xuất này có thể là một nguồn tiềm năng của chất
chống oxy hóa tự nhiên [63].
Ztotek và cộng sự (2015) đã xác định hàm lượng và khả năng chống oxy hóa
của phenolic trong mầm hạt Đậu đỏ (Vigna angularis) thu thập từ Balan, trong các
điều thí nghiệm nhất định. Tác giả đã đưa ra kết luận: Tất cả các điều kiện thí
nghiệm (ngoại trừ tác dụng nhiệt) đều làm giảm hàm lượng phenol trong các mẫu
phân tích. Khả năng chống oxi hóa tốt nhất xảy ra với dịch chiết từ vỏ hạt Đậu đỏ
trong điều kiện tác dụng nhiệt (đun nóng trong hai giờ ở 40°C). Khả năng cao nhất
trong việc trung hòa các gốc tự do sinh ra từ DPPH đã được ghi nhận đối với mầm
hạt Đậu đỏ trong điều kiện tác dụng nhiệt là (13,20 μmol TEAC/g trọng lượng khô).
Trong khi mức thấp nhất được xác định đối với các chiết xuất thu được từ mầm hạt
Đậu đỏ trong điều kiện tác dụng bởi H2O2 (mầm được tưới trong vòng 24 giờ với
200 mM H2O2) là (9,72 TEAC μmol TEAC/g trọng lượng khô) [64].
Daniela (2017) đã tiến hành phân tích thành phần hóa học và hoạt chất chống
oxy hóa của hạt Đậu đỏ (Vigna angularis) thu thập từ Brazil. Nghiên cứu đã biết
được carbohydrate và protein của hạt Đậu đỏ cao (65,60 g/100g và 17,87 g/100g).
Khi so sánh với hạt Đậu chưa nấu, các hợp chất phenolic của hạt Đậu đã nấu biến
mất nhưng vẫn giữ được một nửa các hoạt tính chống oxy hóa. Trong khi đó, hạt
Đậu đỏ ở dạng chưa nấu và khi đã nấu chín chứa hàm lượng carbohydrate (67,09 và
46,20 g/100g hạt khô) và protein (4,02 và 6,48g/100g hạt khô) cao, hàm lượng lipid
thấp (0,33 và 2,73 g/100g hạt khô). Hoạt tính chống lại tác nhân oxi hóa ở mẫu Đậu
đỏ khi chưa nấu cao (64,13% quét gốc tự do DPPH), còn khi đã nấu chín (29,59%
quét gốc tự do DPPH) [65].
Năm 2018, Butsayamat đã nghiên cứu về thành phần dinh dưỡng và các hoạt
chất chống oxi hóa từ hạt của cây Cà te (Afzelia xylocarpa (Kurz) Crai) thu thập tại
Thái Lan. Kết quả đánh giá hoạt tính kháng lại tác nhân oxi hóa trên hệ DPPH,
37
ABTS từ dịch chiết ethanol hạt của loài Afzelia xylocarpa (Kurz) Crai cho thấy:
Dịch chiết ethanol từ hạt của loài Afzelia xylocarpa (Kurz) Crai có tác dụng quét
gốc tự do mạnh trên hệ DPPH, ABTS với giá trị IC₅₀ tương ứng là 8,80 ± 0,03
(mg/mL) và 3,12 ± 0,02 (mg/mL) [66].
Peiretti và các cộng sự (2019) đã nghiên cứu thành phần phenol và khả năng
chống oxy hóa của Đậu tương (Glycine max (L.) Merr.) ở bảy giai đoạn: sinh dưỡng
(V5 và V6) và giai đoạn sinh sản (R1, R2, R3, R4 và R5) thu thập từ Sipcam, nước
Ý. Kết quả cho thấy, các chiết xuất có hàm lượng phenol tổng cao nhất thu được ở
giai đoạn V6 và R5. Giá trị TEAC thấp nhất được tìm thấy cho giai đoạn R2 và giá trị
cao nhất cho các giai đoạn R3 và R1. Giá trị FRAP dao động từ 623 đến 780 µmol
Fe2+/g chiết xuất. Khả năng chelat hóa Fe2+ dao động trong khoảng 36,5 - 51,7%.
Đặc tính chống oxi hóa cao nhất thu được đối với dịch chiết ở giai đoạn V5 với giá
trị EC50 thấp nhất (0,126 mg/mL); giá trị EC50 cao nhất (0,218 mg/mL) được tìm
thấy ở giai đoạn R2 [67].
1.2.3. Tình hình nghiên cứu trong nước.
Từ những năm 1980 nhóm tác giả Phạm Văn Nguyên đã thống kê số liệu hơn
500 loài cây thực vật có dầu trong đó 51 loài phổ biến [2].
Các tác giả Hồ Sơn Lâm (2009), Võ Thị Bạch Huệ (1998), Phạm Thanh Loan
(2014) [68] đã nghiên cứu ứng dụng các acid béo trong dầu hạt thầu dầu, hạt cao
su, hạt trẩu làm chất phụ gia cho dầu mỡ bôi trơn trong công nghiệp. Nhóm nghiên
cứu của tác giả Bùi Kim Anh [4] và Đào Văn Hoằng [69] đã sử dụng một số loại hạt
làm chất ngán ăn cho sâu bọ. Tuy nhiên, các số liệu còn tản mạn và do điều kiện
hạn chế về kỹ thuật và máy móc phân tích nên chưa thể đi sâu nghiên cứu thành
phần, hàm lượng các lớp chất có hoạt tính sinh học và có giá trị sử dụng trong cuộc
sống như acid béo, tocopherol, phenolic...
Khoảng 20 năm gần đây, nhóm nghiên cứu của GS.TS Phạm Quốc Long đã
tập trung đi sâu vào nghiên cứu thành phần hóa học của lipit từ hạt ở một số hạt
thực vật tại Việt Nam và đã cung cấp thêm một số dẫn liệu mới về các acid béo và
bắt đầu khảo sát các hoạt tính sinh học, cơ chế sinh hóa của lipid có nguồn gốc thiên
nhiên từ hạt thực vật và sinh vật biển theo hướng hiện đại cập nhật quốc tế.
38
Năm 1992, Công Ước của Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển
(UNCED) đã tuyên bố một trong những yêu cầu chính trong việc bảo tồn và sử dụng
bền vững đa dạng sinh học là sử dụng cân bằng và hiệu quả các lợi ích từ việc sử
dụng các nguồn tài nguyên di truyền, bao gồm những kiến thức về tiềm năng di
truyền được bảo tồn trong giới thực vật. Cho đến nay, có rất ít thông tin về tiềm năng
di truyền này, nên việc nghiên cứu về thành phần giống cây trồng hoang dã ngày
càng cấp thiết. Ở Việt Nam, họ Đậu khá đa dạng về loài và được phân bố rộng khắp
các miền trong cả nước trong đó có chứa một số loài thuộc chi Sưa thuộc cây gỗ quý
cần bảo tồn và nhân giống trồng. Qua tổng quan về tình hình nghiên cứu thành phần
hóa học và hoạt tính sinh học một số loài thực vật thuộc họ Đậu trên thế giới và ở
Việt Nam cho thấy hạt thực vật họ Đậu là nguồn dinh dưỡng dồi dào và phong phú có
chứa carbohydrate, protein hay lipid, đồng thời cũng là nguồn hợp chất có hoạt tính
sinh học, nhưng các kết quả nghiên cứu một cách hệ thống về dầu hạt của chúng còn
rất ít và gần như bỏ ngỏ ở trong nước. Theo tài liệu thu thập được chúng tôi thấy chưa
có số liệu tổng hợp một cách toàn diện có hệ thống về thành phần hóa học lipid cũng
như hoạt tính sinh học của các loài này, mới chỉ có một số ít kết quả về lipid tổng,
protein, acid béo và giá trị dinh dưỡng của một số hạt họ Đậu sử dụng trong ngành
thực phẩm ăn uống. Gần đây, nhóm nghiên cứu của GS. Nguyễn Mạnh Cường đã
công bố một số kết quả nghiên cứu về cấu trúc hóa học và hoạt tính sinh học như hoạt
tính chống đái tháo đường in vitro từ thân, lõi gỗ và lá của loài Sưa [70].
Đặc biệt với hạt Củ đậu, hạt Sưa, Muồng hoàng yến, Cà te, Cẩm lai vú, Trắc
bàm bàm… chúng tôi chưa tìm thấy thông tin nào về thành phần hóa học các lớp
chất lipid cũng như hoạt tính chống oxy hóa, đây cũng là lý do chúng tôi lựa chọn
và thực hiện đề tài luận án này. Các loài được lựa chọn nghiên cứu về thành phần
hóa học và hoạt tính sinh học trong khuôn khổ của đề tài luận án là: Đậu tương leo
(Glycine soja), Củ đậu (Pachyrhizus erosus), Đậu ngự (Phaseolus lunatus), Đậu đỏ
(Vigna angularis), Đậu trứng cuốc (Vigna unguiculata), Đậu trắng (Phaseolus
vulgaris), Trắc bàm bàm (Dalbergia entadioides), Cẩm lai vú (Dalbergia
mammosa), Sưa (Dalbergia tonkinensis), Muồng hoàng yến (Cassia fistula), Cà te
(Afzelia xylocarpa).
39
1.3. Tổng quan về hóa tính toán
1.3.1. Phương trình Schrödinger
Hóa học lượng tử tính toán (hay hóa tính toán) là một chuyên ngành của hóa
lý thuyết với mục đích nhằm tạo ra và áp dụng các mô hình toán học gần đúng và
các chương trình máy tính để giải quyết các vấn đề hóa học. Cơ sở chính của hóa
tính toán là phương trình Schrödinger. Đây là phương trình vi phân tuyến tính riêng
phần mô tả hàm sóng của một hệ cơ lượng tử (quantum-mechanical system). Dạng
tổng quát nhất của phương trình Schrödinger phụ thuộc thời gian được cho như sau:
Trong đó, Ĥ là toán tử Hamilton, là vector trạng thái của hệ lượng tử.
Đối với các hệ hóa học, ở trạng thái cơ bản, tính chất của các nguyên tử và phân tử
không thay đổi theo thời gian. Khi đó phương trình Schrödinger không còn phụ
thuộc với thời gian được gọi là phương trình Schrödinger ở trạng thái tĩnh
(stationary states).
ĤΨ = ΕΨ
Từ nghiệm năng lượng (𝐸) và hàm sóng , qua các xử lý thống kê chúng sẽ
cho biết mọi thông tin về tính chất hóa học, nhiệt động học và động hóa học của các
hệ nghiên cứu.
Tuy nhiên, phương trình Schrödinger cho các hệ có nhiều hơn một electron
là không thể giải chính xác. Do đó, rất nhiều phương pháp gần đúng đã được phát
triển để giải phương trình Schrödinger. Cơ sở chung của các phương pháp gần đúng
này là xây dựng các hàm sóng dự đoán ban đầu, 𝜓 (Phương pháp hàm sóng) hoặc
hàm mật độ electron dự đoán ban đầu, 𝜓2, (Phương pháp phiếm hàm mật độ) sau đó
sử dụng các phương pháp cực tiểu hóa giá trị năng lượng E để thu được nghiệm
hàm sóng hoặc hàm mật độ electron gần đúng [71].
1.3.2. Các phương pháp bán thực nghiệm (semi-empirical methods)
Các phương pháp bán thực nghiệm là phương pháp gần đúng dựa vào hàm
sóng, sử dụng lý thuyết Hartree -Fock dưới dạng đơn giản. Trong quá trình giải
phương trình Schrödinger, nhiều đại lượng được bỏ qua hoặc thay thế bằng các giá
40
trị thực nghiệm. Do đó phương pháp bán thực nghiệm không yêu cầu máy tính có
cấu hình cao, thời gian tính toán rất nhanh, nhưng kết quả có độ chính xác không
cao và có thể rất sai lệch nếu các phân tử được tính toán không tương tự với các
phân tử trong cơ sở dữ liệu được sử dụng để tham số hóa. Các phương pháp bán
thực nghiệm thường được sử dụng như CNO, INDO, NDDO, ZINDO, AM1, PM3,
RM1 và PM6. Do độ chính xác hạn chế, nên ngày nay hầu như các phương pháp
bán kinh nghiệm không được sử dụng, hoặc chỉ sử dụng để khảo sát nhanh cấu trúc
và một số thông số nhiệt động học, và sau đó cần tính toán lại bằng các phương
pháp có độ chính xác cao hơn [72].
1.3.3. Các phương pháp ab initio (Ab inito methods)
Các phương pháp ab initio là các phương pháp gần đúng dựa trên hàm sóng,
trong đó phương trình Schrödinger được giải mà không sử dụng các tham số thực
nghiệm mà hoàn toàn dựa trên lý thuyết. Phương pháp đơn giản nhất trong họ này là
phương pháp Hartree-Fock (HF). Tuy nhiên, độ chính xác của phương pháp HF là
khá hạn chế vì bỏ qua tương quan electron (electron correlation), và xem các
electron chuyển động độc lập với nhau. Chính vì vậy người ta đã đề xuất sử dụng
các phương pháp hàm sóng có xét đến tương quan electron, còn gọi là các phương
pháp “hậu Hartree-Fork” (post Hartree-Fock methods) có độ chính xác cao hơn nhiều so
với phương pháp HF. Một số phương pháp hậu Hartree-Fock phổ biến như:
Phương pháp lý thuyết nhiễu loạn Møller-Plesset (Møller-Plesset
perturbation theory) như MP2, MP3 và MP4,
Phương pháp tương tác cấu hình (configuration interaction, CI) như CIS,
CID, CISD, CISDT, CISDTQ,…
Phương pháp cụm ghép nối (coupled cluster: CC) như CCD, CCSD,
CCSD(T), CCSDT, CCSDTQ,…
Phương pháp đa cấu hình (Multi-configurational self-consistent field -
MCSCF) như CASSCF, CASPT2, NEVPT2, MRPT2,…
Các phương pháp hàm sóng hậu Hartree-Fock có độ chính xác cao, như
phương pháp CCSD(T), có thể cạnh tranh với thực nghiệm, nhưng yêu cầu rất cao
về cấu hình của máy tính, thời gian tính toán lâu, và là lựa chọn không khả thi cho
các phân tử lớn với hàng chục nguyên tử trở lên [73].
41
1.3.4. Các phương pháp phiếm hàm mật độ (density functional theory, DFT)
Lý thuyết phiếm hàm mật độ (DFT) là lý thuyết cơ học lượng tử dựa trên mật
độ electron ρ(r) = │Ψ(r)│2 thay vì hàm sóng Ψ(r) để tính năng lượng E của hệ.
Phương pháp DFT là sự thay thế đầy hứa hẹn cho các phương pháp hậu
Hartree-Fock khi tính toán trên các hệ phân tử lớn, như các bài toán phản ứng giữa
các phân tử hữu cơ với gốc tự do. Các phép tính DFT được thực hiện nhanh hơn
nhiều (khoảng 102 đến 105 lần) so với phương pháp hậu Hartree-Fock cho cùng một
hệ phân tử. Ngoài ra, độ chính xác về năng lượng cũng không thua kém nhiều và
cũng cho ta biết đầy đủ thông tin của hệ phân tử khảo sát. Nhờ khả năng tính toán
nhanh chóng và độ chính xác cao ở mức chấp nhận được, nên DFT được áp dụng
ngày càng rộng rãi cho hệ phân tử lớn [74].
Nhìn chung, kết quả tính toán theo phương pháp DFT chính xác nhất là đối
với những phép tính hiệu chỉnh gradient hoặc phép tính lai (hybrid).
Các hàm hiệu chỉnh gradient: Hàm hiệu chỉnh gradient bao gồm giá trị của
cả mật độ spin electron và gradient. Hàm trao đổi hiệu chỉnh gradient phổ biến là
hàm do Becke đề xuất vào năm 1988, hàm tương quan hiệu chỉnh gradient được sử
dụng rộng rãi là hàm LYP của Lee - Yang - Parr. Sự kết hợp của 2 dạng này tạo nên
phương pháp B-LYP [75]. Perdew cũng đề nghị một số hàm tương quan hiệu chỉnh
quan trọng như Perdew 86 và Perdew-Wang 91 [76].
Các hàm lai: Hàm lai được định nghĩa là hàm trao đổi, là sự kết hợp tuyến
tính của phép tính Hartree - Fock, phép tính cục bộ và phép tính trao đổi hiệu chỉnh
gradient. Hàm trao đổi này sau đó kết hợp với hàm cục bộ và/hoặc hàm tương quan
hiệu chỉnh gradient. Những hàm lai được biết nhiều nhất là hàm 3 tham biến của
Becke: B3LYP và B3PW91. Hàm lai của Becke được xem là có tính ưu việt so với
nhiều loại hàm truyền thống [76].
Ta có thể thấy mỗi hàm DFT là một cách giải gần đúng khác nhau cho
phương trình Schrödinger, và được đề xuất cho các mục đích khác nhau trong các
hệ phân tử hay các phản ứng khác nhau. Chính vì vậy đối với một mục đích cụ thể
như hệ phản ứng giữa các phân tử hữu cơ (có cấu trúc lớn) với gốc tự do (nhằm
khảo sát khả năng chống oxi hóa) thì việc sử dụng các hàm DFT khác nhau sẽ cho
kết quả với độ chính xác khác nhau khi so sánh với thực nghiệm (hoặc khi so sánh
42
với các hàm hậu Hartree-Fock như ab initio). Để giải quyết vấn đề này, có nhiều
nghiên cứu khác nhau đã khảo sát số lượng lớn các hàm DFT thông dụng cho phản
ứng giữa hợp chất hữu cơ và gốc tự do.
Việc tìm ra một phương pháp DFT thích hợp nhất để nghiên cứu khả năng
chống lại tác nhân oxi hóa của các acid phenolic trong dung môi là cần thiết. Vì
vậy, năm 2014, Galano và Alvarez-Idaboy đã khảo sát hiệu quả của 18 hàm DFT
khác nhau (kết hợp với cùng một bộ hàm cơ sở 6-311++G(d,p)) trong việc tính toán
vận tốc của 19 phản ứng giữa các hợp chất hữu cơ và gốc tự do trong dung môi. Kết
quả tính toán được so sánh với kết quả thực nghiệm từ nhiều nghiên cứu khác nhau
trong lý thuyết. Hiệu quả của các phương pháp khác nhau được so sánh thông qua
sai số tuyệt đối tối đa (maximum absolute errors - MAE). Kết quả cho thấy các
phiếm hàm DFT gồm LC-ωPBE, M06-2X, BMK, B2PLYP, M05-2X và MN12SX là
các phương pháp tính toán có độ tin cậy cao trong việc tính toán các tính chất hình
học và thông số nhiệt động của phản ứng chuyển nguyên tử hydro (HAT) - là một
trong các cơ chế chính của phản ứng quét gốc tự do của chất hữu cơ. Trong đó, phiếm
hàm LC-PBE có sai số nhỏ nhất khi so với giá trị thực nghiệm, với giá trị sai số
MEA nhỏ hơn 2 kcal/mol, tuy nhiên nó hiếm khi được sử dụng trong lĩnh vực tính
toán phản ứng chống oxy hóa quét gốc tự do. Trong khi đó, phiếm hàm B3LYP, là
một trong các hàm DFT được sử dụng rộng rãi nhất từ trước đến nay, thì lại tỏ ra
không phù hợp để tính toán động học phản ứng giữa chất hữu cơ và gốc tự do, với sai
số lớn, đến gần 5 kcal/mol. Vì vậy, từ nghiên cứu này, Galano và cộng sự đã khuyến
cáo sử dụng các phiếm hàm như LC-ωPBE cho các tính toán động học phản ứng
quét gốc tự do của chất hữu cơ trong dung môi [77].
1.3.5. Tình hình ứng dụng hóa học tính toán trong nghiên cứu khả năng chống oxy
hóa của acid phenolic
Lĩnh vực nghiên cứu về phản ứng của hợp chất hữu cơ với gốc tự do là một
lĩnh vực rộng lớn có ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực từ sinh học, y học, đến
môi trường và hóa học. Trong đó, các phản ứng quét gốc tự do của các hợp chất hữu
cơ được quan tâm rộng rãi bởi rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm lẫn tính toán mô
phỏng. Riêng các nghiên cứu hoạt tính quét gốc tự do của các acid phenolic được
thực hiện từ lâu bởi nhiều nghiên cứu, và dùng nhiều phương pháp tính toán với
nhiều phiếm hàm DFT khác nhau. Trong phần này, chúng tôi tóm tắt sơ lược lại
43
một số nghiên cứu gần đây nhất, đặc biệt các nghiên cứu sử dụng phiếm hàm có độ
chính xác cao là LC-PBE.
Galano và các cộng sự (2014) đã tính toán giá trị entanpi phân ly liên kết
(BDE) ở mức lý thuyết M05-2X/6-311++G(d,p) trong dung môi benzene của acid
caffeic và acid gallic lần lượt là 78,8 và 78,1 kcal/mol. Trong khi đó năng lượng ion
hóa (IP) được tính ở cùng điều kiện lần lượt là 157,0 và 163,0 kcal/mol [77].
Saqib và đồng nghiệp (2016) đã đánh giá tác dụng chống oxy hóa
mạnh của acid chlorogenic sử dụng hàm DFT/B3LYP/6-31G. Và BDE của hai
nhóm O8H và O9H tương ứng là 68,3 và 87,6 kcal/mol. Các liên kết hydro nội phân
tử trong acid chlorogenic và các gốc của nó đóng một vai trò quan trọng trong việc
ổn định của các gốc tự do hình thành [78].
Nhóm tác giả Tabrizi (2020) đã tính được giá trị BDE trong nước của acid
caffeic và acid ferulic lần lượt là 85,1 và 84,6 kcal/mol tại mức lý thuyết M05-2X/6-
311++G(d,p), trong khi các giá trị tương tự trong dung môi pentylethanoat tương ứng
là 85,1 và 85,8 kcal/mol. Giá trị ái lực của proton (PA) cũng được tính toán và đưa ra
kết quả tương ứng là 26,8 và 26,1 kcal/mol trong nước lần lượt đối với acid caffeic và
acid ferulic. Giá trị IP của chúng trong nước bằng 135,3 và 134,0 kcal/mol [79].
De Souza và Petherrson (2021) đã nghiên cứu một phép tính chuẩn trên liên
kết O-H, DBE và IP cho acid gallic trong pha khí và trong nước bằng cách sử dụng lý
thuyết hàm mật độ (DFT), và các phương pháp Ab initio chính xác cao như MP2,
CCSD, CCSD(T). Bộ hàm cơ sở 6-311++G(df,p), cc- pVDZ , aug -cc- pVDZ , cc-
pVTZ và aug -cc- pVTZ đã được sử dụng. Kết quả là giá trị DBE tính bằng phương
pháp DFT M06-2X rất gần với các kết quả từ phương pháp CCSD(T)/aug-cc-
pVTZ ; M06-2X cũng được cho là thích hợp nhất để tính toán giá trị IP cho các dạng
GA được proton hóa [80].
Qua nghiên cứu tổng quan về hóa tính toán và tình hình ứng dụng hóa học
tính toán trong nghiên cứu khả năng chống oxy hóa của acid phenolic, chúng tôi lựa
chọn phiếm hàm có độ chính xác cao LC-ωPBE kết hợp với bộ hàm cơ sở 6-
311++G(d,p) là phương pháp chính để khảo sát tiềm năng chống oxi hóa của một số
acid phenolic được lựa chọn trong luận án.
44
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các mẫu hạt họ Đậu nghiên cứu được chọn, tách vỏ, làm sạch, sấy khô ở 40oC,
được lưu giữ tiêu bản tại Viện Hóa học các Hợp chất thiên nhiên, các mẫu được bảo
quản ở -4oC và được định tên khoa học bởi TS. Nguyễn Quốc Bình (Bảo tàng Thiên
nhiên Việt Nam - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam). Tên khoa học và
nơi lấy mẫu của các mẫu nghiên cứu được chia làm các nhóm sau (bảng 2.1):
Bảng 2.1. Danh sách 11 mẫu hạt họ Đậu nghiên cứu
TT Tên khoa học Hình ảnh mẫu Ký hiệu Tên thông thường Thời gian và địa điểm lấy mẫu
Nhóm dinh dưỡng, y, dược
11/06/2017
Phaseolus Đậu Phú Yên M9 1 lunatus L. ngự
Vigna 21/11/2017
angularis Phú Yên Đậu đỏ M12 2 (Willd.) Ohwi
& Ohashi
Vigna 21/11/2017
unguiculata Đậu Phú Yên
3 (L.) Walp. ssp. trứng M13
cylindrica (L.) cuốc
Verdc. - Cv.
21/11/2017
Phaseolus Đậu Phú Yên 4 M14 vulgaris L. trắng
45
TT Tên khoa học Hình ảnh mẫu Ký hiệu Tên thông thường
Thời gian và địa điểm lấy mẫu 18/11/2017 Đậu Glycine soja Phú Yên tương BH73 5 Sieb. & Zucc. leo
20/12/2017 Pachyrhizus
Phú Thọ 6 erosus (L.) Củ đậu BH101
Urb
Nhóm công nghiệp
04/07/2016 Dalbergia Dầu Tiếng 7 tonkinensis Sưa M1
Prain
10/10/2016 8 Dalbergia Trắc Phú Cuốc bàm entadioides BH109
Pierre ex Prain bàm
11/10/2016 Dalbergia Cẩm lai Cát Tiên 9 mammosa BH114 vú Pierre
10/12/2016 Muồng Phú Yên Cassia fistula 10 hoàng M8 L. yến
04/11/2016 Afzelia Phú Yên 11 xylocarpa Cà te BH56
(Kurz) Craib
46
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp xác định hàm lượng lipid tổng
Hàm lượng lipid từ mẫu hạt được chiết tách theo phương pháp ISO/DIS
659:1988 Germany [81], bằng thiết bị đun nóng có hồi lưu chuyên dụng
(Twisselman apparatus).
2.2.2. Phương pháp phân tích thành phần lipid trong các mẫu hạt họ Đậu
2.2.2.1. Phương pháp xác định thành phần và hàm lượng các lớp chất lipid trong
các mẫu hạt họ Đậu
Thành phần và hàm lượng các lớp chất lipid được phân tích và xác định trên
bản mỏng tráng sẵn Sorbfil (6cm × 6cm, Sorbfil, Krasnodar, LB Nga) theo Imbs
A.B. năm 2015 [82]. Phát hiện chất bằng đèn tử ngoại ở hai bước sóng 254 nm và
368 nm hoặc dùng thuốc thử là dung dịch H2SO4 10% phun đều lên bề mặt bản
mỏng, sấy khô nóng trên bếp điện từ cho đến khi hiện màu. Scan bản mỏng trên
máy Epson perfection 2400 PHOTO với thang màu xám, độ phân giải và kích thước
tiêu chuẩn. Định lượng các lớp chất trong lipid tổng được xác định dựa trên việc đo
diện tích và cường độ màu trong chương trình phân tích hình ảnh Sorbfil TLC
Videodensitometer, Krasnodar, LB Nga.
2.2.2.2. Phương pháp xác định thành phần và hàm lượng acid béo trong các mẫu
hạt họ Đậu
Thành phần và hàm lượng acid béo xác định theo phương pháp ISO 5509:1997 [83].
Các acid béo trong lipid tổng được methyl hóa sang dạng methyl ester bằng
H2SO4 2%/MeOH, phân tích trên máy sắc ký khí GC và GC-MS. Máy sắc ký khí hãng
Hewlett Packard instrument Model 5890 Series II, CP-Sil 88 (cột mao quản chuyên
dụng CP-Sil 88, 100 mm/0,25mm/0,25µm với hệ chất chuẩn C16:0, C18:0). Chương trình
nhiệt độ: nhiệt độ 155-220oC (1,5oC/min), tốc độ: 10oC/ phút, 260oC/5 phút; split:1:50;
injector 250oC, detherctor 250oC, khí mang là He với tốc độ dòng 1 mL/phút, bơm
mẫu tự động với thể tích 0,9 µL.
2.2.2.3. Phương pháp xác định thành phần và hàm lượng tocopherol
Thành phần và hàm lượng tocopherol xác định theo tiêu chuẩn ISO
9936:2006 [84] và phân tích trên thiết bị sắc ký lỏng cao áp HPLC hãng Merck-
47
Hitachi F-1000 Fluorescence Spectrophotometherr, 295/330 nm, D-2500. Mẫu được
bơm tự động trong buồng bơm mẫu tự động Merck 655-A40, cột 25cm x 4,6mm
ID, tốc độ: 1,3 mL/phút, hệ pha động: heptane/tert-buthyl methylether (99+1,v/v),
Chromato integrator, hệ dung môi chạy heptane/tert-buthyl methylether (99:1,v/v).
2.2.2.4. Phương pháp xác định thành phần và hàm lượng phytosterol
Thành phần và hàm lượng phytosterol xác định theo tiêu chuẩn ISO
659:1998 [85] bởi sắc ký khí lỏng (GLC), các hợp chất được tách ra trên cột SE 54
CB (dài 50 m, đường kính trong 0,25 mm, độ dày lớp phim 0,25μm) (Macherey-
Nagel, Duren, Đức). Các thông số khác như sau: khí mang hydro, tỷ lệ phân chia
20:1, nhiệt độ buồng bơm mẫu và đầu dò được điều chỉnh đến 3200C, chương trình
nhiệt độ cha ̣y 2450C đến 2600C tăng 50C/phút.
2.2.2.5. Phương pháp xác định thành phần và hàm lượng triacylglycerol.
Thành phần và hàm lượng triacylglycerol được xác định theo phương pháp
được mô tả trong IOC: 2008 [86] trên máy sắc ký lỏng cao áp pha đảo AOCS
Official Method Ce 5b-89, cột pha đảo C18: 250 mm × 4,6 mm; 5 µm; nhiệt độ
350C, hệ dung môi rửa giải đẳng dòng gồm có acetone: acetoneitrin (60: 40, v/v) tốc
độ dòng 1 mL/phút.
2.2.2.6. Phương pháp xác định thành phần và hàm lượng phenolic tổng
Xác định hàm lượng phenolic tổng số bằng phương pháp Foline - Ciocalteu [87],
dựa trên sự khử của tungstat/molybdat trong thuốc thử Folin-Ciocalteu bởi hợp chất
phenolic trong môi trường kiềm tạo ra sản phẩm có màu, đo độ hấp thu ở bước sóng
cực đại của sản phẩm thu được để xác định nồng độ acid gallic ở pha đảo ngược
(RP-HPLC) bằng dòng Agilent Technologies 1100, kết hợp với máy dò đa bước
sóng UV-VIS, được sử dụng để phát hiện mười ba acid phenolic. Cột pha đảo là
250 mm × 4,6 mm, 4 μm Hypersil ODS C18 được sử dụng ở nhiệt độ phòng.
Pha động bao gồm acetoneitril (dung môi A) và nước với acid sulfuric 0,2%
(dung môi B). Các thông số khác bao gồm tốc độ dòng chảy ở mức 0,5 mL/phút, thể
tích tiêm ở 20μL và bước sóng để theo dõi đỉnh ở 280 nm. Chương trình độ dốc
được đặt như sau: 15% A/85% B, 0-12 phút; 40% A / 60% B, 12-14 phút; 60%
A/40% B, 14-18 phút; 80% A/20% B, 18-20 phút; 90% A/10% B, 20-24 phút;
100% A, 24-28 phút.
48
2.2.3. Phương pháp phân lập và nhận dạng các phospholipid.
Việc xác định các dạng phân tử lipid phân cực là một bài toán phức hợp cần
phải giải quyết bằng nhiều phương pháp, trong đó phương pháp phổ khối lượng là
một phương pháp quan trọng để phân tích cấu trúc lipid trong một hỗn hợp [88].
Chúng tôi đã lựa chọn phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao kết nối phổ khối
phân giải cao (HPLC-HRMS) trên thiết bị LC/MS- IT-TOF để nghiên cứu.
2.2.3.1. Phổ khối phân giải cao trong xác định dạng phân tử lipid phân cực
Phổ khối phân giải cao (HRMS) xác định dạng phân tử của các phân lớp
trong lớp lipid phân cực đã được phân tách bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC),
được ghi trên thiết bị Shimadzu LCMS-IT-TOF, do hãng Shimadzu (Kyoto, Nhật
Bản) cung cấp.
LCMS-IT-TOF là một loại phổ kế mới kết hợp các công nghệ khối phổ
(MS), bẫy ion (ion trap - IT) và thời gian bay (time of flight - TOF). Trong nghiên
cứu khối phổ, hợp chất cần phân tích được chuyển sang dạng dẫn xuất dễ bay hơi,
sau đó được ion hóa bằ ng các phương pháp thích hợp. Các ion tạo thành được đưa
vào nghiên cứu trong bộ phân tích khối của máy khối phổ. Sự phát triển của kỹ
thuật hiện nay có thể cho phép tích hợp đồng thời hai kiểu quét ion dương (+) và
ion âm (-) nhằ m tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà nghiên cứu. Trong kỹ
thuật bẫy ion (IT) sự thay đổi thế trong bẫy sẽ giữ lại một hay vài ion nhất định
(trong chế độ chọn lọc ion) hay gia tốc các ion (trong chế độ MS nhiều lần). IT có
khả năng tích lũy các ion, phân tích khối, phân lập ion và phân rã ion bằ ng va
chạm do vậy đây là phương tiện rất thuận lợi cho việc nghiên cứu cơ chế phân
mảnh. Kỹ thuật TOF dựa trên sự khác nhau về vận tốc của các ion có khối lượng
khác nhau khi ở trong cùng một mức năng lượng. TOF có độ phân giải cao và số
khối chính xác (tới 0,0001) [89].
Trong phân tích một hỗn hợp chất, việc sử dụng MS một lần không thể mang
lại kết quả chính xác. Để khắc phục điều này, người ta đã sử dụng các kỹ thuật khối
phổ 2 lần, 3 lần thậm chí nhiều hơn. Kỹ thuật này được gọi là MS/MS hay MSn.
Nguyên tắc của kỹ thuật này là lựa chọn một ion xác định trong các ion của lần ion
hóa thứ nhất để phân mảnh nhỏ hơn và loại bỏ tất cả các ion khác trong bộ phận
phân tích ion. Vì phổ khối khi nhận được lần này chỉ từ một ion xác định nên không
49
bị ảnh hưởng của các tạp chất khác trong mẫu phân tích. Bẫy ion IT có khả năng cô
lập, phân mảnh ion tới MSn (n từ 1 - 10) nhờ công nghệ làm sạch mới và đây là
chức năng hỗ trợ cho việc phân tích cấu trúc phân tử phức tạp rất hiệu quả (hình 2.1). Tuy vậy trên thực tế người ta thường chỉ thực hiện tới MS2, MS3, vì số ion ở
những lần sau giảm nên độ nhạy của phép phân tích cũng giảm.
Hình 2.1. Quá trình đo MSn
Sử dụng phương pháp phổ khối cùng với sự trợ giúp của các thiết bị phân
tích hiện đại, những năm gần đây, khoa học về lipid đã thu được những thành công
trong việc phân tích “dạng phân tử” của các lớp chất lipid trong các đối tượng sinh
vật khác nhau. Các thiết bị phân tích phổ khối ngày càng hiện đại và cho các kết quả
có độ tin cậy cao, giới hạn phân tích ngày càng được mở rộng. Với sự tiến bộ lớn
trong các kỹ thuật phân tích, phổ khối giúp làm sáng tỏ dữ liệu về các dạng phân tử
của lipid, mở ra những hiểu biết mới trong nghiên cứu hóa sinh lipid.
2.2.3.2. Phương pháp xác định thành phần, hàm lượng các lớp chất phospholipid
Thành phần và hàm lượng của các phospholipid được xác định theo phương
pháp Kostetsky [90], sử dụng TLC (sắc ký lớp mỏng) 2 chiều, với hai hệ dung môi
là: Hệ A: CHCl3:MeOH:28%NH4OH (70:30:5, v:v:v), hệ B: CHCl3:MeOH:
(CH3)2CO:CH3COOH:H2O (70:30:5:5:2, v:v:v:v:v).
2.2.3.3. Phương pháp xác định các dạng phân tử các phospholipid của mẫu lipid hạt Sưa
Dạng phân tử các phospholipid từ các mẫu lipid hạt Sưa được phân tích bằng
phương pháp phổ khối phân giải cao HRMS, được ghi trên thiết bị Shimadzu
LCMS-IT-TOF, do hãng Shimadzu (Kyoto, Nhật Bản) cung cấp [91].
Hàm lượng và cấu trúc các dạng phân tửcủa lipid phân cực được phát hiện
bằng phép đo phổ khối có độ phân giải cao (HRMS) LC/MS-IT-TOF (Shimadzu,
50
Nhật Bản), quá trình phân tích được thực hiện trong chế độ ion hóa phun mù điện tử
(ESI). Nhiệt độ nguồn ion là 250°C, phạm vi phát hiện m/z 100-1200, điện áp nguồn
là -3,5 kV trong trường hợp hình thành ion âm và 4,5 kV trong trường hợp hình
thành ion dương. Áp suất khí mang (N2) là 200 kPa và tốc độ dòng khí N2 là 1,5
L/phút. Các dạng phân tử riêng lẻ của lipid phân cực được phát hiện bằng cách so
sánh với các tiêu chuẩn xác thực trên phần mềm xử lý Shimadzu LC-MS
(v.3.60.361), mỗi mảnh ion trong MS và MS/MS đã có tính sai số tuyệt đối
(difference). Sau khi kiểm tra sai số của các ion, cùng với độ bội của liên kết và
dạng phân tử thỏa mãn chúng tôi sẽ chọn và xác định diacyl để từ đó xác định được
dạng phân tử. Việc xác định phần trăm các dạng phân tử riêng lẻ trong mỗi dạng
thành phần của lipid phân cực được thực hiện bằng cách tính diện tích của từng
peak sắc ký ion so với tổng diện tích các peak nhận diện được.
2.2.4. Các phương pháp khảo sát hoạt tính chống oxi hóa
2.2.4.1. Phương pháp xác định hoạt tính chống oxi hóa theo DPPH
Đây là phương pháp thử nghiệm DPPH thông qua phản ứng bao vây tự do
(DPPH) (Antioxidant activity assay - DPPH free radical scavenging) theo phương
pháp của Yuvaraj năm 2013 [92].
* Nguyên tắc: 1,1-diphenyl-2-picrylhydrazyl (DPPH) có khả năng tạo ra các
gốc tự do bền trong dung dịch ethanol bão hòa. Khi cho các chất thử nghiệm vào
hỗn hợp này, nếu chất có khả năng làm trung hòa hoặc bao vây các gốc tự do sẽ làm
giảm cường độ hấp phụ ánh sáng của các gốc tự do DPPH. Hoạt tính chống oxi hóa
được đánh giá thông qua giá trị hấp phụ ánh sáng của dịch thí nghiệm so với đối
chứng khi đọc trên máy Elisa ở bước sóng 515 nm.
2.2.4.2. Đối tượng và phương pháp khảo sát tiềm năng chống oxi hóa bằng phiếm
hàm mật độ (DFT) hiệu năng cao
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá khả năng chuyển electron, khả năng
chuyển nguyên tử hydro và chuyển proton của 8 acid phenolic có trong dịch chiết từ lipid
hạt bao gồm acid: gallic (GALA), caffeic (CAFFA), anillic (VANA), isovanillic (ISOVA),
acid -coumaric (COUMA), ferulic (FERA), cinnamic (CINNA) và chlorogenic(CHLA).
51
Trước hết, năng lượng phân ly liên kết (BDEs) và ái lực proton (PAs) của
các liên kết C-H và O-H khác nhau dọc theo các phân tử cũng như khả năng ion
hóa (IPs ) của chúng đã được tính toán. Sau đó, năng lượng tự do Gibbs (rG0) của
phản ứng trao đổi nguyên tử H (HAT), phản ứng cộng vào nối đôi (RAF), các phản
ứng trao đổi electron (SET) và trao đổi proton đối với gốc tự do HOO• cũng được
khảo sát. Cuối cùng, động học của phản ứng HAT và SET được tính trong cả pha
khí và trong nước. Tất cả các tính toán được thực hiện bằng phiếm hàm LC-ωPBE
kết hợp với bộ hàm cơ sở 6-311++G(d,p). Các kết quả thu được sau đó được so
sánh với các kết quả khác trong tài liệu để cung cấp thêm thông tin về độ tin cậy của
phiếm hàm được sử dụng.
Hình 2.2. Cấu trúc của 8 acid phenolic với các vị trí nguyên tử được đánh số
Tất cả các tính toán được thực hiện bằng bộ phần mềm Gaussian 16
Rev.A.03 [93]. Cấu dạng hình học tối ưu và các tần số nhiệt động của các acid
nghiên cứu được tính theo bộ hàm cơ sở 6-311++G(d,p) kết hợp với phiếm
hàm LC- PBE [94]. Ba cơ chế chống oxy hóa phổ biến đã được đánh giá trong
nghiên cứu này bao gồm cơ chế chuyển nguyên tử H (HAT), mất proton (PL) và
khả năng nhường electron (SET). Các thông số hoạt tính nội tại đặc trưng cho ba cơ
chế được khảo sát trong nước ở 298,15 K và 1 atm, và được tính toán như sau [95]:
(1) BDE(AH) = 𝐻(A) + 𝐻(H) − 𝐻(AH)
PA = H(A) + H(H+) - H(AH) (2)
(3) IE = 𝐻(AH+) + 𝐻(e−) − 𝐻(AH)
52
Trong đó H là tổng entanpi nhiệt và điện tử bao gồm hiệu chỉnh năng lượng
tại điểm không (ZPE) ở nhiệt độ 298,15 K và thường được tính theo biểu thức dưới đây:
H = ZPE + 0 + (Etrans + Erot + Evib + Ee) + kB.T (4)
Trong đó, Etrans, Erot, Evib, Ee lần lượt là các năng lượng tịnh tiến, quay và dao
động, electron đối với entanpi; 0 là tổng năng lượng điện tử tại 0oK và ZPE là năng
lượng dao động tại điểm không. E tot = ( E trans + E rot + E rung + E e ) tương ứng với
giá trị hiệu chỉnh nhiệt đối với năng lượng, và H corr = E tot + k B.T là giá trị hiệu
chỉnh nhiệt đối với entanpi. k B là hằng số Boltzmann có giá trị 1.380662 ×
10 −23 J/K. Giá trị entanpi của nguyên tử hydro trong pha khí được tính ở cùng mức
với lý thuyết. Entanpi trong pha khí của proton (H+) được lấy giá trị là 1,4811
kcal/mol (5/2RT, giá trị của khí lý tưởng) và của electron (e ) là 0,7519
kcal/mol [96].
Ảnh hưởng của dung môi nước cũng được đánh giá bằng cách sử dụng mô
hình phân cực liên tục (PCM) kết hợp với biến thể SMD [95] của biến thể hình thức
phương trình tích phân (IEFPCM) có sẵn như là phương pháp SCRF mặc
định. Phương pháp được sử dụng tạo ra khoang chất tan thông qua một tập hợp các
quả cầu chồng lên nhau. Các entanpi giải phóng điện tử và proton trong dung môi
nước được tính toán như đã gợi ý trong tài liệu [97]. Về cơ bản, một proton hoặc
một điện tử liên kết với phân tử dung môi ( Ssol ) để tạo ra các hạt mang điện, [tương
sol và (S−e) - ●
sol ]. Các hạt được tạo thành được đặt trong dung môi
ứng là (S−H) +
phân cực. Kết quả là, H ( e - ) và H (H+) được tính ở mức lý thuyết LC- PBE/6-
311++G(d,p) trong nước tương ứng bằng - 13,8 và −252,5 kcal/mol.
Cuối cùng, để cung cấp cái nhìn sâu sắc về các hoạt tính chống oxy hóa của
các acid phenolic nghiên cứu, phản ứng của chúng đối với HOO được xem
xét. Năng lượng tự do Gibbs của phản ứng ( rG 0 ), năng lượng tự do Gibbs hoạt
hóa ( r G # ) cũng được tính toán và bằng giá trị chênh lệch giữa tổng năng lượng
của các sản phẩm và năng lượng của trạng thái chuyển tiếp so với tổng năng lượng
của các chất phản ứng. Động học của các phản ứng trong pha khí và dung môi cũng
được tính toán dựa trên cơ học lượng tử đối với khả năng quét gốc tự do (QM-
ORSA) [98]. Tất cả các tính toán hằng số tốc độ được khảo sát bằng cách sử
dụng phần mềm tính toán Eyringpy [99].
53
Chương 3
THỰC NGHIỆM
Các mẫu hạt họ Đậu được tiến hành theo sơ đồ sau:
Hình 3.1. Sơ đồ nghiên cứu chung
3.1. Chiết tách và xác định hàm lượng lipid tổng các mẫu hạt họ Đậu
Lấy 100 gam mẫu hạt đã được sấy khô, đem nghiền nhỏ trong máy nghiền bi
và sau đó chiết bằng 150 ml n-hexan (chiết 2 lần) trong thiết bị đun nóng có hồi lưu
chuyên dụng (Twisselman apparatus) ở nhiệt độ dưới 500C trong 6 giờ. Dịch chiết
thu được đem cô cất loại dung môi trên máy quay cất chân không ở 400C và áp suất
25 tor [81]. Phần bã sau khi tách dung môi được chiết với MeOH thu được cặn
MeOH, gộp cặn chiết hexan và MeOH thu được lipid tổng. Lipid tổng của hạt sau
khi cân trên cân phân tích Sartorius analytic (10-4) và được tính toán theo % khối
lượng so với mẫu hạt khô ban đầu (mỗi mẫu cân 3 lần, lấy giá trị trung bình). Lipid
được bảo quản ở nhiệt độ -100C trong tủ lạnh sâu Panasonic MDF-U334-PE.
54
3.2. Xác định thành phần lipid trong các mẫu hạt họ Đậu
3.2.1. Xác định thành phần và hàm lượng các lớp chất lipid trong các mẫu hạt họ Đậu
Lipid tổng sau khi loại bỏ hết dung môi bằng khí argon, được hòa tan trong
CHCl3 (10mg/mL) trước khi đem chấm lên bản mỏng tráng sẵn Sorbfil (6cm x 6cm,
Sorbfil, Krasnodar, LB Nga) với ba nồng độ tăng dần. Hệ dung môi triển khai thứ
nhất là n-hexane/dietylether/acid acetic (85:15:1, v:v:v) để nhận biết các lớp lipid
trung tính và hệ dung môi thứ hai là CHCl3/CH3OH (2:1, v:v) để nhận biết lớp lipid
phân cực. Bản mỏng sau triển khai được hiện hình với thuốc thử H2SO4 10%/CH3OH
và sấy ở nhiệt độ 1000C trong 10 phút. Sử dụng máy scan Epson Perfection 2400
PHOTO (Nagano, Nhật Bản) với độ phân giải và kích thước tiêu chuẩn. Các lớp
chất lipid trên bản mỏng và hàm lượng các lớp chất được nhận diện bằng độ nhạy
sáng trên phần mềm phân tích Sorbfil TLC Videodensitometherr, Krasnodar, Nga.
3.2.2. Xác định thành phần và hàm lượng acid béo trong các mẫu hạt họ Đậu
Lấy 100 mg lipid tổng hòa tan trong 1 mL n-hexane sau đó bổ sung 50 µL
MeONa/MeOH1%, lắc kỹ trong một phút, thêm 100 µL H2O vào đem ly tâm chế độ
5000 V/phút, bổ sung 50 µL HCl 0,1N. Phần dịch dưới loại bỏ, phần dịch trên được
làm khan bởi Na2SO4. Chuyển mẫu lipid tổng đã ở dạng methyl este sang ống mẫu để
phân tích trên máy sắc ký khí của hãng Hewlett Packard instrument Model 5890 Series
II. Các cấu trúc acid béo được xác định bằng GC-MS. Các phổ được so sánh với thư
viện NIST và kho lưu trữ khối phổ acid béo. Nhận dạng các acid béo bằng phần
mềm chuyên dụng tính toán chuyển đổi qua giá trị thời gian lưu tương đương ELC
(Equivalent Chain- lengths of methyl ester derivaties of fatty acids) cho cột mao
quản chuyên dụng CP-Sil 88, có sử dụng hệ chất chuẩn C16:0, C18:0 trên máy C-R3A
theo công thức sau:
3.2.3. Xác định thành phần và hàm lượng tocopherol
Hòa tan 70 mg-100 mg lipid tổng trong 100 µL n-hexane sau đó lấy 20 µL ra
và đem phân tích trên thiết bị sắc ký lỏng cao áp HPLC hãng Merck-Hitachi F-1000
55
Fluorescence Spectrophotometherr, 295/330 nm, D-2500. Mẫu được bơm tự động
trong buồng bơm mẫu tự động Merck 655-A40, cột 25 cm x 4,6 mm ID, tốc độ: 1,3
mL/phút, hệ pha động: heptane/tert-buthyl methylether (99+1,v/v), Chromato
integrator, hệ dung môi chạy heptane/tert-buthyl methylether (99:1,v/v).
3.2.4. Xác định thành phần và hàm lượng phytosterol
Cân 150 mg lipid tổng, sau đó hò a tan trong 100 mL ethanol, xà phòng hó a
bằng dung dịch kali hydroxide ở 70oC. Các phytosterol được phân lập khi đi qua cột
nhôm oxit (Merck, Darmstadt, Đức) khi đó acid béo đươ ̣c giữ lại. Phần phytosterol
được tách ra từ cột được tinh chế lại bằng phương pháp sắc ký lớp mỏng (Merck,
Darmstadt, Đức) và sau đó hàm lượng và thành phần của sterol được xác định bởi
GLC sử dụng betulin là chất chuẩn nội. Các hợp chất được tách ra trên cột SE 54
CB (dài 50 m, đường kính trong 0,25 mm, độ dày lớp phim 0,25μm) (Macherey-
Nagel, Duren, Đức). Các đỉnh (peak) được xác định bằng các chất chuẩn (β-
sitosterol, campesterol, stigmasterol) và bằng một hỗn hợp các sterol được phân lập
từ lipid hạt cải (brassicasterol) hoặc từ lipid hạt hướng dương (Δ7-avenasterol, Δ7-
stigmasterol, Δ7-campesterol). Tất cả sterol sau đó được xác định bằng cách so sánh
thời gian lưu của các chất chuẩn.
3.2.5. Xác định thành phần và hàm lượng triacylglycerol.
Cân 0,1 g lipid tổng, hòa tan vào 2 mL acetone và lọc qua ống tiêm kích
thước lỗ 0,45 µm. 20 µL lipid tổng sau khi lọc được trực tiếp bơm tự động vào hệ
thống HPLC Thermo Finnigan điều chỉnh nhiệt độ cột (Spectra System AS3000), sử
dụng chất chuẩn triglyceride.
3.2.6. Xác định thành phần và hàm lượng phenolic tổng
Lipid tổng được hòa tan trong MeOH, được lọc bằng màng lọc 0,45 µm, sau
đó được bơm vào với thể tích 20 µL. Việc xác định các pic được thực hiện bằng cách
so sánh các quan sát ở bước sóng 280 nm, đỉnh được xác định bởi thời gian lưu đồng
nhất so với tiêu chuẩn. Phân tích đã được thực hiện trong ba lần. Định lượng các hợp
chất phenolic đã đạt được bằng cách sử dụng một lượng acid trans-2-hydroxycinnamic
đã biết làm chất chuẩn nội.
56
3.3. Phân lập và nhận dạng các phospholipid
Việc phân tích các dạng phân tử lipid phân cực là một bài toán phức hợp cần
phải giải quyết bằng nhiều phương pháp, trong đó phương pháp phổ khối lượng là
một phương pháp quan trọng để phân tích cấu trúc lipid trong một hỗn hợp. Chúng
tôi đã lựa chọn phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao kết nối phổ khối phân giải
cao (HPLC-HRMS) trên thiết bị LC/MS- IT-TOF để nghiên cứu. Ở Việt Nam chưa
có nhóm nào tiến hành nghiên cứu theo hướng này.
Thực nghiệm tại Phòng Hóa sinh hữu cơ, Viện Hóa học các Hợp chất thiên
nhiên và Viện Sinh vật biển, Phân Viện Viễn đông, Viện Hàn lâm Khoa học Liên
bang Nga.
3.3.1. Xác định thành phần, hàm lượng các lớp chất phospholipid
Lipid tổng được hòa tan trong MeOH, và tiến hành phân tích. Sau khi chạy
xong hệ dung môi A,B (Hệ A:CHCl3:MeOH:28%NH4OH (70:30:5, v:v:v), hệ B:
CHCl3:MeOH:(CH3)2CO:CH3COOH:H2O (70:30:5:5:2, v:v:v:v:v).). Hiện màu
bằ ng H2SO4/MeOH 10% hơ nóng trên bếp sấy. Xác định vị trí các lớp chất rồi cạo
ra cho vào các ống nghiệm đã đánh dấu tương ứng, thêm 50 μL HClO4 rồi đun trên
bếp ở nhiệt độ 180-1900C trong 20 phút. Lấy các ống nghiệm ra để nguội, thêm tiếp
vào mỗi ống nghiệm 450 μL amonium molybdate, lắc kĩ, đun cách thủy ở nhiệt độ
sôi của H2O trong 15 phút. Lấy ra, để nguội rồi tiến hành đo trên máy quang phổ kế
UV 1800 (Shimardzu, Nhật Bản). Tiến hành đo 3 lần và lấy giá trị trung bình hàm
lượng các lớp chất, tính hàm lượng phần trăm.
3.3.2. Xác định các dạng phân tử các phospholipid của lipid hạt Sưa
Lipid tổng được hòa tan trong MeOH, và tiến hành phân tích dạng phân tử
trên thiết bị LCMS- IT- TOF. Sau khi bơm mẫu, các lớp lipid được tách riêng bằng
phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC của hãng Shimadzu Prominence với
hai máy bơm LC-20AD, mô-đun tạo áp suất cao, lò cột CTO-20A, máy lấy mẫu tự
động SIL-20A, mô-đun chuyển động CBM-20A, bộ khử nhiễu DGU-20A3. Cột
hillic Develosil 100-5 Si (ID 150 mm × 2 mm ID, kích thước chất mạng 5 μm)
(Nomura Chemical), sử dụng hệ thống sắc ký Nexera-e (Shimadzu, Nhật Bản), thực
hiện bằng cách sử dụng cột hillic và gradient bao gồm hai dung môi, A và B. Dung
57
môi A là acetoneitril/nước (94:6, v:v) và dung môi B là nước tinh khiết. Cả hai
dung môi đều chứa acid acetic 20 mM và 10 mM amoniac. Tốc độ bắt đầu từ 0%
dung môi B, sau đó được tăng lên 20% trong 30 phút và duy trì ở mức 20% trong
10 phút trước khi giảm xuống 0% trong 7 phút tổng thời gian chạy là 47 phút). Tốc
độ dòng là 0,2 mL/phút.
Hàm lượng và cấu trúc các dạng phân tử của lipid phân cực được phát hiện
bằng phép đo phổ khối có độ phân giải cao (HRMS) LC/MS-IT-TOF (Shimadzu,
Nhật Bản). Các dạng phân tử riêng lẻ của lipid phân cực được phát hiện bằng cách
so sánh với các tiêu chuẩn xác thực trên phần mềm xử lý Shimadzu LC-MS
(v.3.60.361), mỗi mảnh ion trong MS và MS/MS đã có tính sai số tuyệt đối
(difference). Sau khi kiểm tra sai số của các ion, cùng với độ bội của liên kết và
dạng phân tử thỏa mãn chúng tôi sẽ chọn và xác định diacyl để từ đó xác định được
dạng phân tử. Việc định lượng từ dạng phân tử riêng lẻ trong mỗi dạng thành phần
của lipid phân cực được thực hiện bằng cách tính diện tích của từng peak sắc ký ion
so với tổng diện tích các peak nhận diện được.
3.4. Khảo sát hoạt tính chống oxi hóa
3.4.1. Xác định hoạt tính chống oxi hóa theo DPPH
Thực nghiệm tại Phòng Sinh học thực nghiệm, Viện Hóa học các hợp chất
thiên nhiên.
Mẫu được pha trong DMSO (Dimethyl sulfoxid) 100% với nồng độ 4
mg/mL đối với lipid hạt họ Đậu. Sử dụng acid ascorbic 5 mM trong DMSO 10%
làm đối chứng dương.
Sau đó mẫu được nhỏ trên phiến vi lượng 96 giếng với dung dịch DPPH
(được pha trong ethanol 96%) để được nồng độ cuối của mẫu thử trong phản ứng từ
200 μg/mL đến 12,5 μg/mL (đối với mẫu chiết thô) và từ 50 μg/mL đến 3,1 μg/mL
(mẫu tinh sạch).
Ủ ở 37oC trong 30 phút và đo mật độ quang (OD) ở bước sóng 515 nm trên
thiết bị đo quang (Infinite F50, Tecan, Thụy Sỹ).
Khả năng trung hòa các gốc tự do (Scavenging capacity, SC %):
58
Giá trị trung bình của SC (%) ở các nồng độ mẫu được đưa vào chương trình
- OD
ODThí nghiệm
DMSO
SC(%) = [100 -
x100] ± σ
ODchứng(-)
xử lý số liệu Excel theo công thức:
Độ lệch tiêu chuẩn tính theo công thức của Ducan như sau:
Xác định SC50:
Giá trị IC50 là nồng độ của chất thử mà tại đó trung hòa được 50% các gốc tự
do, được xác định bằng phần mềm TableCurve AISN (Jandel Scientific, Mỹ) qua
giá trị SC% và dãy các nồng độ chất thử tương ứng.
Kết quả các thử nghiệm là giá trị trung bình của ít nhất 3 phép thử lặp lại ±
độ lệch chuẩn (p ≤ 0,05).
Các mẫu có biểu hiện hoạt tính (SC ≥ 50%) sẽ được thử nghiệm để tìm giá trị
SC50. Giá trị SC50 (Scavenging Concentration at 50% - nồng độ trung hòa được 50%
gốc tự do của DPPH) sẽ được xác định nhờ vào phần mềm máy tính TableCurve.
3.4.2. Khảo sát tiềm năng chống oxi hóa bằng phiếm hàm mật độ (DFT) hiệu
năng cao
Thực nghiệm tại Phòng Hóa sinh hữu cơ, Viện Hóa học các hợp chất thiên
nhiên và Viện Nghiên cứu và Phát triển, Đại học Duy Tân, Đà Nẵng.
Tất cả các tính toán được thực hiện bằng phiếm hàm LC-ωPBE kết hợp với
bộ hàm cơ sở 6-311++G(d,p). Các kết quả thu được sau đó được so sánh với các kết
quả khác trong tài liệu để cung cấp thêm thông tin về độ tin cậy của phiếm hàm
được sử dụng.
59
Chương 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Hàm lượng lipid tổng và các lớp chất lipid của 11 mẫu hạt họ Đậu nghiên cứu
4.1.1. Hàm lượng lipid tổng
Sau khi tiến hành chọn mẫu, chiết tách và loại bỏ dung môi theo sơ đồ
nghiên cứu chung, chúng tôi thu được trọng lượng lipid tổng của 11 mẫu hạt họ Đậu
ở hình 4.1 như sau:
Hình 4.1. Hàm lượng % lipid tổng trong 11 mẫu hạt họ Đậu
Hàm lượng lipid tổng của các mẫu hạt họ Đậu trong nghiên cứu dao
động mạnh từ 0,99% (Muồng hoàng yến) đến 20,91% (hạt Củ đậu). Kết quả
này cho thấy lượng lipid tổng trong Đậu tương leo (16,91%), hay trong hạt Củ
đậu (20,91%) là cao và tương đương với hàm lượng lipid của các đối tượng
thuộc nhóm các cây dinh dưỡng thuộc họ Đậu như Đậu nành (22,1%) [18]. Tuy
60
nhiên so với nghiên cứu của Augustus và Badami et al.[100, 101] chỉ tìm thấy
một lượng nhỏ lipid trong hạt từ hai loài Dalbergia thuộc nhóm các cây công
nghiệp thuộc họ Đậu dao động từ 4,8% (D. sissoo) đến 7,4% (D. paniculatae)
thì các kết quả thu được trong các mẫu hạt Sưa (13,86%) hay trong hạt Cẩm lai
(8,43%) là tương đối phù hợp. Hàm lượng của lipid tổng trong nhóm dinh
dưỡng cao hơn so với một số hạt thuộc loài Dalbergia (thuộc nhóm công
nghiệp) và phù hợp với công bố trước đây đối với một số loài Đậu hoang dã tại
Hàn Quốc (lượng lipid tổng dao động từ 2,8% đến 18,0% và từ 1,3-2,3 g/100 g
đối với một số giống Đậu lima [102]. Các loài còn lại thuộc nhóm y, dược có
lượng lipid tổng thấp dao động từ 1,24% (Đậu trứng cuốc) đến 2,01% (Đậu đỏ).
Từ lượng lipid tổng đã cho thấy một số mẫu hạt họ Đậu có hàm lượng
này vượt trội so với các mẫu còn lại như: Sưa (13,86%), Cẩm lai (8,43%), Củ
đậu (20,91%)... Đây sẽ là một trong các căn cứ để chúng tôi lựa chọn mẫu lipid
hạt họ Đậu cho các nghiên cứu tiếp theo.
4.1.2. Thành phần và hàm lượng các lớp chất lipid
Kết quả bản mỏng TLC và sắc ký đồ các lớp chất lipid của 11 mẫu hạt họ
Đậu nghiên cứu được thể hiện qua hình 4.2 như sau:
61
Ký hiệu Tên mẫu Bản mỏng TLC Sắc ký đồ
Phaseolus M 9
lunatus L. (Đậu
ngự)
M12 Vigna angularis
(Đậu (Willd.) Ohwi &
đỏ) Ohashi
M 13 Vigna
(Đậu unguiculata (L.)
trứng Walp. ssp.
cuốc) cylindrica (L.)
Verdc. - Cv.
M 14 Phaseolus
(Đậu vulgaris L.
trắng)
BH 73 Glycine soja
(Đậu Sieb. & Zucc.
tương
leo)
62
BH 101 Pachyrhizus
(Củ erosus (L.) Urb
đậu)
M 1 Dalbergia
(Sưa) tonkinensis
Prain
BH 109 Dalbergia
(Trắc entadoides
bàm Pierre ex Prain
bàm)
BH 114 Dalbergia
(Cẩm mamosa Pierre
lai)
M 8 Cassia fistula L.
(Muồng
hoàng
yến)
BH56 Afzelia xylocarpa
(Cà te) (Kurz) Craib
Hình 4.2. Bản mỏng TLC và sắc ký đồ các lớp chất lipid một số loài họ Đậu
63
Kết quả phân tích định lượng bằng phần mềm Sorbfil TLC Videodensitometherr
DV xác định được phần trăm khối lượng các lớp chất lipid chính của 11 mẫu hạt, số liệu
được trình bày trong bảng 4.1:
Bảng 4.1. Thành phần và hàm lượng các lớp chất lipid chính trong hạt
11 loài thuộc họ Đậu nghiên cứu (n=3).
Hàm lượng các lớp chất lipid (% so với lipid tổng)
Mẫu
Pol
ST
DG
FFA
TG
HW
M 9 (Đậu ngự)
19,10±0,04
19,3±0,05
5,5±0,01
13,2±0,05
29,60±0,03
13,40±0,05
M12 (Đậu đỏ)
22,50±0,04
8,30±0,05
9,50±0,02
15,3±0,06
37,20±0,02
7,20±0,05
M 13 (Đậu trứng
24,88±0,04
9,59±0,03
8,15±0,04
14,31±0,04
35,54±0,05
7,53±0,03
cuốc)
M 14 (Đậu trắng)
20,80±0,05
10,7±0,06
8,2±0,03
16,50±0,05
37,70±0,04
6,10±0,05
BH 73 (Đậu
18,51±0,04
15,37±0,05
7,81±0,03
17,52±0,02
31,42±0,02
9,37±0,05
tương leo)
BH 101 (Củ đậu)
-
17,88±0,02
3.46±0,04
13,57±0,03
65,09±0,01
-
M 1 (Sưa)
18,29±0,06
0,05±0,05
0,2±0,05
3,87±0,05
76,38±0,02
1,21±0,05
BH 109 (Trắc
-
17,28±0,03
2,49±0,05
7,53±0,06
70,14±0,01
0,84±0,06
bàm bàm)
BH 114 (Cẩm lai) 16,07±0,03
3,16±0,03
4,06±0,06
4,71±0,03
69,51±0,01
2,49±0,05
M 8 (Muồng
-
19,39±0,05
7,07±0,04
21,92±0,05
43,63±0,06
7,99±0,05
hoàng yến)
BH56 (Cà te)
11,56±0,03
3,65±0,03
2,6±0,02
14,12±0,02
69,94±0,003 0,15±0,05
Ghi chú: (Pol: lipid phân cực, ST: sterol, DG: Diacylglycerol, FFA: fatty acid,
TG: triacylglycerol, MADG: monoalkyldiacylglycerol, HW: hydrocacbon + sáp).
Kết quả phân tích cho thấy, trong lipid tổng của các mẫu hạt nghiên cứu có
đầy đủ các lớp chất cơ bản: lipid phân cực (PoL), sterol (ST), acid béo tự do (FFA),
triacylglycerol (TG), diacylglycerol (DG), hydrocarbon và sáp (HC + W) ( Bảng
4.1). Một số lớp chất được nghiên cứu là có tiềm năng chứa các hợp chất có hoạt
tính sinh học tốt như Pol, FFA, TG, ST [103].
Các lớp chất như FFA, PoL, TG được xem là lớp chất điển hình, chiếm hàm
lượng lớn trong các mẫu nghiên cứu. Trong đó lớp chất triacylglycerol (TG) có mặt
ở tất cả các mẫu và chiếm tỷ lệ cao nhất : từ 29,60% (Đậu ngự (M9)) đến 76,38%
(Sưa). Hàm lượng TG trong các mẫu thuộc nhóm các cây công nghiệp cao hơn so
64
với các cây thuộc nhóm dinh dưỡng và y, dược. Cụ thể: trong nhóm các cây công
nghiệp hàm lượng TG dao động từ 43,63% với Muồng hoàng yến đến 69,94% với
Cà te hoặc 76,38% với Sưa, còn trong nhóm dinh dưỡng và y, dược hàm lượng TG
dao động ở mức thấp hơn từ 29,60% với Đậu ngự đến 37,70% với Đậu trắng, riêng
mẫu Củ đậu trong nhóm dinh dưỡng lại đạt ở mức cao 65,09% gần với nhóm cây
cây công nghiệp.
Lớp chất lipid phân cực (Pol) là lớp chất phổ biến nhất trong lipid hạt họ Đậu
với 100% các mẫu đều xuất hiện với hàm lượng trung bình chiếm vị trí thứ hai
trong 6 lớp chất được tìm thấy (cao nhất trong lớp chất này là lipid hạt Muồng
hoàng yến (M8: 19,39%), lipid hạt Sưa (M1: 18,29%), hay trong lipid hạt Đậu trứng
cuốc (M13: 24,88%..). Lớp chất này gợi ý sự tồn tại của phospholipid, một dạng
lipid phân cực có hoạt tính sinh học cao và xuất hiện nhiều trong lipid của hạt Đậu
nành [102, 104]. Nếu trong nhóm cây công nghiệp có hàm lượng TG cao hơn hàm
lượng TG trong nhóm cây dinh dưỡng và y, dược thì ngược lại hàm lượng Pol trong
nhóm cây dinh dưỡng và y, dược lại cao hơn so với hàm lượng Pol trong nhóm cây
công nghiệp. Cụ thể: trong nhóm cây dinh dưỡng và y, dược hàm lượng Pol dao
động từ 17,88% trong Củ đậu đến 22,50% với Đậu trắng hoặc 24,88% với Đậu
trứng cuốc, thì hàm lượng Pol trong nhóm cây công nghiệp chỉ dao động từ 11,56%
với Cà te đến 17,28% với Trắc bàm bàm. Riêng mẫu hạt Sưa hàm lượng Pol đạt
18,29% và Muồng hoàng yến đạt 19,39% lại tương đối cao gần với kết quả của nhóm
dinh dưỡng và y, dược. Đây này là dữ liệu quan trọng trong việc lựa chọn mẫu để nghiên
cứu chuyên sâu.
Lớp chất sterol là lớp chất phổ biến của lipid hạt họ Đậu, tương tự như
lớp chất TG và Pol thì sterol cũng xuất hiê ̣n trong tất cả các mẫu vớ i hàm lươ ̣ng
cao nhất đạt 19,30% (hạt Đậu ngự (M9)) hay 9,59% (hạt Đậu trắng (M13))…Hàm
lượng sterol trong nhóm dinh dưỡng, y, dược cao hơn trong nhóm công nghiệp. Cụ
thể, trong nhóm dinh dưỡng, y, dược hàm lượng sterol cao nhất đạt 15,37% với Đậu
tương leo hoặc 19,30% với Đậu ngự trong khi hàm lượng sterol trong nhóm công
nghiệp cao nhất chỉ đạt 7,07% với Muồng hoàng yến hoặc 3,65% với Cà te. Đây là
lớp chất phổ biến trong sinh vật và có chức năng sinh học quan trọng. Việc sử dụng
65
sterol thực vật sẽ giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim, mạch vành, phòng ngừa và điều
trị được nhiều bệnh liên quan đến tim mạch [105].
Lớp chất acid béo tự do (FFA) là lớp chất khá phổ biến trong các mẫu
hạt họ Đậu, có trong tất cả các mẫu với hàm lượng từ 3,87% (Sưa) đến 21,92%
(Muồng hoàng yến). Tương tự như Pol và sterol, hàm lượng FFA trong các mẫu
lipid hạt thuộc nhóm cây dinh dưỡng, y, dược cao hơn trong nhóm cây công
nghiệp. Trong nhóm cây dinh dưỡng, y, dược hàm lượng FFA trung bình đạt
15,07%, còn trong nhóm cây công nghiệp hàm lượng FFA chỉ đạt trung bình
10,43%. Những kết quả phân tích trên đây là cơ sở để chúng tôi có những
nghiên cứu tiếp theo.
Lớp chất diacylglycerol (DG) chỉ xuất hiện 8/11 mẫu với hàm lượng trung
bình đạt 5,75%, trong đó tập chung chủ yếu ở nhóm dinh dưỡng và y, dược với
phần trăm dao động từ 5,5% (Đậu ngự) đến 9,5% (Đậu đỏ), còn trong nhóm cây
công nghiệp thuộc họ Đậu thì hàm lượng DG cao nhất chỉ đạt 4,06% với Cẩm lai,
các mẫu khác hầu như không có hoặc chỉ có với hàm lượng rất thấp.
Lớp hydrocacbon và sáp (HW) xuất hiện khá phổ biến trong lipid hạt họ Đậu
với 10/11 mẫu với hàm lượng cao nhất đạt 13,40% với Đậu ngự và tập chung chủ
yếu trong nhóm dinh dưỡng và y, dược.
Như vậy, qua nghiên cứu các lớp chất cơ bản từ lipid của các mẫu hạt họ
Đậu nghiên cứu ta thấy trong cả 11 mẫu thì thành phần chủ yếu là FFA, TG, PoL,
và ST, vì vậy chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về thành phần và hàm lượng
của các hợp chất này.
4.1.3. Thành phần và hàm lượng acid béo
Qua quá trình làm thực nghiệm chúng tôi định lượng được thành phần các
acid béo trong dầu ha ̣t của 11 mẫu hạt họ Đậu thu được ở bảng 4.2, đã phát hiện 20 loại
acid béo và một dạng squalen. Về giá trị dinh dưỡng, lipid hạt họ Đậu là một lipid
thực vật có giá trị dinh dưỡng cao với hàm lượng lớn các acid không bão hòa tốt
cho sức khỏe như acid oleic, acid linoleic, acid linolenic với trung bình tổng hàm
lượng các acid này 80% và các acid béo bão hòa có khả năng tăng cholesterol “xấu”
trong máu ở hàm lượng thấp [106].
66
Bả ng 4.2. Thành phần và hàm lượng các acid béo trong lipid ha ̣t của 11 loài họ Đậu nghiên cứu (% so với tổng acid béo)
Mẫu M9 (Đậu ngự)
Mẫu M12 (Đậu đỏ)
Mẫu M14 (Đậu trắng)
Mẫu BH101 (Củ đậu)
Mẫu M1 (Sưa)
Mẫu BH114 (Cẩm lai)
Thành phần acid béo
Mẫu BH73 (Đậu tương leo)
Mẫu BH109 (Trắc bàm bàm)
Mẫu M8 (Muồng hoàng yến)
Mẫu BH56 (Cà te)
Mẫu M13 (Đậu trứng cuốc)
-
-
16:1(n-7) 16:1(n-9)
- 0,17±0.03 17:0 0,28±0.05 18:0 5,79±0.03
- 16,46 ±0.04 0,39±0.01 - - 4,04±0.14 0,94±0.03 15,88±0.04 -
18:1(n-7) 18:1(n-9) 18:1(n-11) 18:2(n-6) 18:3(n-3)
20:1(n-9) 20:1(n-11) 20:2(n-6) 20:4(n-3)
22:0 2,08±0.04
22:2(n-6)
24:0
- 7,12±0.1 0,12±0.25 - 0,08±0,01 2,78±0.5 0,7±0.14 8,76±0.01 0,70±0,10 50,50±0.01 24,72±0.03 54,4±0.02 1,37±0.05 1,0±0.04 1,00±0.04 0,21±0,10 0,21±0.19 - - - - - - - 1,18±0.05 - - - 1,38±0.06 - 0,83±0.05 - -
14:0 16:0 23,42±0.004 12,64±0.03 0,62±0,01 - 0,18±0.03 3,25±0.1 - - 6,56±0.02 5,61±0.01 1,14±0,01 0,46±0,01 41,64±0.004 49,01±0.01 26,10±0,02 17,77±0,02 0,48±0.05 20:0 1,01±0.03 0,02±0,01 0,16±0,01 - - - - - - 1,04±0.03 0,92±0.03 - - 0,8±0.05 17,23±0,01
- - 0,18±0,01 - 33,51±0,02
- 9,47±0.004 0,15±0.05 - 0,17±0.19 1,30±0.05 - 5,13±0.02 2,11±0.01 29,20±0.02 49,53±0.01 0,38±0.05 0,15±0.03 - 0,07±0.14 0,05±0.04 1,90±0.01 - 0,51±0.01 - - 13,73±0,01
- 7,91±0.004 0,26±0.01 - 0,21±0.15 1,62±0.05 - 5,57±0.02 2,16±0.01 20,34±0.02 59,39±0.01 0,39±0.05 0,15±0.01 - - - 1,28±0.02 - 0,72±0.01 - - 12,13±0,03
- 11,13±0.02 0,09±0.05 - 0,11±0.1 2,76±0.04 - 29,66±0.04 0,08±0,01 48,09±0.05 6,76±0,01 0,38±0.05 0,29±0,02 - - - 0,58±0.05 - 0,07±0,01 - - 15,03±0,01
0,64±0.05 28,11±0,05 - 0,13±0,04 0,19±0,04 5,78±0,05 0,06±0,04 25,74±0,03 - 32,37±0,01 0,79±0,04 0,99±0,04 - 0,4±0,02 0,03±0,03 0,04±0,04 2,02±0,04 0,09±0,05 - - - 37,73±0,03
- 13,2±0,02 0,2±0,05 0,1±0,03 4,5±0,04 11,6±0,10 3,6±0,20 64,7±0,05 1,5±0,03 0,1±0,004 0,1±0,002 - - - 0,3±0,003 - - - - 18,20±0,04
- 16,91±0,04 - 0,52±0,01 0,67±0,30 6,47±0,02 - 25,06±0,01 0,5±0,004 22,97±0,02 7,30±0,03 1,44±0,05 0,50±0,002 - - - 15,30±0,10 - 2,50±0,10 - - 43,26±0,01
- 12,09±0,02 0,20±0,001 - 0,20±0,002 6,63±0,01 - 51,2±0,3 0,60±0,002 20,06±0,01 1,20±0,02 1,90±0,03 0,3±0,04 - - - 3,39±0,002 - 1,30±0,01 - - 25,50±0,04
24,06±0,02 10,17±0,01
82,77±0,03
66,49±0,02
86,27±0,03
87,87±0,01
84,97±0,02
59,65±0,02
81,80±0,05
56,74±0,05
74,50±0,01
70,12±0,01 88,82±0,02
- 17,77±0,03 41,64±0.01 6,12±0.02 0,43
- 26,10±0,02 49,93±0.01 6,58±0.02 0,52
- 49,58±0.01 29,27±0.02 5,28±0.02 1,69
1,67±0.03 59,39±0.01 20,34±0.02 5,72±0.02 2,92
- 6,76±0,01 48,09±0.04 29,95±0.04 0,14
2,62±0.05 0,83±0,04 32,49±0,01 25,87±0,03 0,026
- 1,5±0,03 64,7±0,04 11,7±0,10 0,023
- 7,30±0,03 22,97±0,02 26,08±0,01 0,32
1,13±0,02 1,20±0,02 20,06±0,01 51,5±0,3 0,06
- - 1,37±0.05 54,4±0.01 50,50±0.01 24,72±0.03 8,97±0.01 16,92±0.04 2,2 0,03
24:1(n-9) Squalen Acid béo no Acid béo không no Khác n-3 n-6 n-9 n-3/n-6
67
Mẫu BH56 (Cà te) Mẫu M8 (Muồng hoàng yến) Mẫu BH114 (Cẩm lai) Mẫu BH109 (Trắc bàm bàm) Mẫu M1 (Sưa) Mẫu BH101 (Củ đậu) Mẫu BH73 (Đậu tương leo) Mẫu M14 (Đậu trắng) Mẫu M13 (Đậu trứng quốc) Mẫu M12 (Đậu đỏ) Mẫu M9 (Đậu ngự)
0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100%
Acid béo no
Acid béo không no
Phần trăm acid béo no và không no trong 11 mẫu lipid hạt họ Đậu
Hình 4.3. Phần trăm acid béo no và không no trong 11 mẫu lipid hạt họ Đậu
nghiên cứu
Nhóm các acid béo no (SFA): đã xác định được 7 acid béo no với phần trăm
dao động từ 10,17% (Cà te) đến 43,26% (Trắc bàm bàm). Trong các mẫu hạt nghiên
cứu đều chứa các acid no thường gặp trong lipid hạt: acid palmitic (16:0) có kết quả
dao động trung bình từ 11,13% (Đậu tương leo (BH73)) đến 28,11% (hạt Củ đậu
(BH101)); acid stearic (18:0) có hàm lượng từ 0,04% - 6,63%, hạt Cẩm lai
(BH114) có hàm lượng cao nhất đạt 6,63%... Hai mẫu Trắc bàm bàm (BH109) và
hạt Cẩm lai vú (BH114) còn có acid béo no behenic (22:0) chiếm tỷ lệ 15,25% và
3,39%, trong khi các acid béo no còn lại trong các mẫu đều có tỷ lệ thấp hơn 1%.
Tuy nhiên, acid margaric (14:0) hầu như không xuất hiện ở các mẫu đã nghiên cứu.
Nhóm các acid béo không no: đã xác định được 13 acid béo không no có
tổng hàm lượng dao động từ 56,74% đến 88,82%. Trong đó, các acid như oleic,
acid linoleic và acid linolenic chiếm chủ yếu, với acid linoleic (18:2(n-6)) là acid
cần thiết cho cơ thể sống, hàm lượng tương đối cao (64,7%) với hạt Sưa (M1) cao
hơn Đậu nành (BH73) (trung bình 50%) và gần bằng với hạt rum (70%) [18], acid
linoleic (ω-6) là acid có tác dụng ngừa tim mạch và làm giảm huyết áp [107].
Hàm lượng acid béo không no trong cả 2 nhóm dinh dưỡng, y, dược và nhóm
công nghiệp đều cao.
68
Trong nhóm dinh dưỡng hàm lượng acid béo không no rất cao từ 66,49%
(Đậu đỏ) đến 87,87% (Đậu trắng). Cụ thể với acid béo linolenic (18:3(n-3)) là acid
béo cần thiết cho cơ thể con người, nó được sử dụng để ngăn một số bệnh như ung
thư, tiểu đường, tiêu hóa… vì vậy acid này được sử dụng trong dược phẩm , bổ
sung vào chế độ dinh dưỡng nhằm giảm các nguy cơ cao huyết áp, đột quỵ,… [108,
109]. Acid này đã được tìm thấy với số lượng đáng kể trong rau xanh, Đậu nành,
hạt lanh, hạt cải, cũng như trong thực vật phù du, tảo và cá,… [32]. Trong các mẫu
hạt họ Đậu nghiên cứu thuộc nhóm các cây dinh dưỡng, y, dược thì Đậu trắng và
Đậu trứng cuốc chiếm hàm lượng acid linolenic cao nhất (59,39% và 49,53%). Kết
quả này gần với kết quả nghiên cứu của một số loài thực vật có giá trị dinh dưỡng
rất cao, hàm lượng acid linolenic chiếm hàm lượng lớn như: Salvia hispanica
(64%), Perilla frutescens (58%), Linum usitatissimum (55%), và Phaseolus vulgaris
(49%) [110]. Đậu ngự và Đậu đỏ có hàm lượng acid linolenic thấp hơn là 17,77%
và 26,10%. Acid oleic (18:1(n-9)) chiếm hàm lượng thấp trong tổng số acid béo, từ
5,13% (Đậu trứng cuốc) đến 29,66% (Đậu tương leo). Các acid béo không no khác
cũng được tìm thấy nhưng với hàm lượng rất thấp (<2,5% tổng số acid béo) bao
gồm C16:1(n-7), C18:1(n-11) và C20:1(n-9).
Nhóm các cây công nghiệp thuộc họ Đậu có hàm lượng acid béo không no
khá cao dao động từ 56,74% (Trắc bàm bàm) đến 88,82% (Cà te). Acid có chủ yếu
ở Cẩm lai và Sưa là acid oleic (51,12%) và acid linoleic (64,75%) tương ứng, loài
Trắc bàm bàm chứa lượng acid oleic tương đối cao (25,10%) và acid linoleic
(23,0%). Tuy nhiên, so với các loài Dalbergia khác, loài Trắc bàm bàm có số liệu
về acid linolenic (7,3%). Ở một loài được nghiên cứu khác, D. odorifera, dầu hạt
của loài được báo cáo có chứa acid linoleic (60%), acid oleic (17,55), và acid
palmitic (16,7%) [108], tương tự như thành phần của lipid hạt Sưa. Thành phần acid
béo của Cẩm lai tương đương với của D. paniculata trong đó acid palmitic (17,8%),
acid oleic (48,2%) và acid linoleic (22,5%) được tìm thấy là các chất đặc trưng.
Thành phần acid béo của lipid hạt Sưa rất giống với lipid hạt Hướng dương được
đặc trưng bởi hàm lượng acid linoleic cao và hàm lượng acid oleic vừa phải dẫn đến
gần 82% tổng acid béo không bão hòa trong lipid hạt. Còn trong lipid hạt Cà te thì
69
các acid béo không bão hóa chính lần lượt là acid linolenic và acid linoleic vì đây là
acid béo thiết yếu cho sức khỏe và không thể được sản xuất trong cơ thể con người.
Hàm lượng acid linolenic cao chỉ được tìm thấy trong một số hạt thực vật nổi tiếng với
giá trị dinh dưỡng cao như hạt Chia (64%), Tía tô (58%), Linum usitatissimum
(55%)… [111]. Mẫu thành phần acid béo của Cà te khá giống với mẫu được báo cáo
cho hạt P. frutescens và Cà te có thể là một nguồn dinh dưỡng cao tiềm năng[112].
Hai mẫu Trắc bàm bàm (BH109) và Củ đậu (BH101) có hàm lượng acid béo
không no ở mức trung bình là 56,74% và 59,65%; các mẫu còn lại ở mức khá cao
chiếm tỷ lệ 66,49% (Đậu đỏ) - 89,35% (Cà te). Ở các mẫu Trắc bàm bàm, hạt Cẩm
lai vú, hạt Sưa, hạt Đậu tương leo, Củ đậu và Đậu đỏ, các acid oleic và linoleic
chiếm chủ yếu với tổng hàm lượng của chúng là 37,78% - 75,71%. Ở các mẫu còn
lại, các acid linoleic và linolenic chiếm chủ yếu với hàm lượng 58,34% - 79,29%.
Nhóm acid béo omega3 (n-3), omega6 (n-6), omega9 (n-9): Trong các mẫu
thực nghiệm thì hàm lượng nhóm ω3 (hay n-3, omega-3) và ω6 (hay n-6, omega-6)
tương đối cao, hàm lượng omega9 (n-9) trung bình thấp hơn, đây được coi là những
acid béo thiết yếu rất cần thiết cho con người. Hàm lượng các acid béo ω3 trong
mẫu hạt Cà te cao nhất đạt 54,4%, ω6 trong mẫu Đậu trắng (M14) đạt 20,34%, ω9
cao nhất trong Cẩm lai đạt 51,5%. Ngoài ra, những lợi ích của các acid béo không
no đa nối đôi đối với não và sức khỏe con người cũng được ghi nhận rõ ràng, bao
gồm cả tác dụng tim mạch, cải thiện chức năng tim và gan, giảm huyết áp, chống
huyết khối, viêm khớp, ung thư và bệnh phổi [113].
Về chỉ số n-3/n-6 (ω3/ω6): Dao động từ 0,023 - 2,92, trong đó 7/11 mẫu
gồm Đậu ngự, Đậu đỏ, Đậu trứng quốc, Đậu trắng, Đậu tương leo, Trắc bàm bàm,
Cà te nằm trong khoảng từ 0,14 - 2,92. Theo khuyến cáo của WHO, thực phẩm có
chỉ số n3/n6 >0,1 là tốt cho sức khỏe con người, và theo kết quả phân tích thì Đậu
trắng (2,92), và Cà te (2,2) là các mẫu có tỉ lệ cao nhất cũng tương ứng với hàm
lượng ω3 cao nhất.
Những kết quả thu được trên đây là tiền đề cho những nghiên cứu sâu hơn về
thành phần lipid hạt họ Đậu.
70
4.1.4. Thành phần và hàm lượng tocopherol
Bên cạnh những acid béo có lợi cho sức khỏe, 11 mẫu lipid hạt họ Đậu nghiên
cứu còn chứa các nhóm chất có hoạt tính sinh học như nhóm tocopherol, phenolic, một
số hợp chất thuộc phân nhóm flavonoids chống oxy hóa hiệu quả. Những nghiên cứu
đánh giá về thành phần hoạt chất trong hạt hay lipid các hạt thực vật này còn hạn chế
hoặc chưa được công bố. Vitamin E là thuật ngữ chung dùng để chỉ tocopherol và
tocotrienols (α, β, ν, δ) - các chất chống oxy hóa tự nhiên ngăn ngừa sự ôi thiu của dầu
trong quá trình bảo quản. Tocopherol trong lipid thực vật được cho là bảo vệ acid béo
không bão hòa đa nối đôi khỏi bị oxy hóa. Trong tất cả các vitamin E, α -tocopherol có
hiệu quả kháng oxy hóa cao nhất, bên cạnh đó vitamin E cũng là một nhóm chất cần thiết
cho sự phát triển cơ thể và sức khỏe của con người. Thiếu vitamin E gây ra các khiếm
khuyết trong hệ thống thần kinh đang phát triển của trẻ em và tan máu ở nam giới [106].
Kết quả thu được ở bảng 4.3 như sau:
71
Bả ng 4.3. Thành phần và hàm lượng các tocopherol trong lipid ha ̣t của 11 loài họ Đậu nghiên cứu
Tocopherol
Tổng
α-T
α-T3
β-T
γ-T
β-T3
P8
γ-T3
δ-T
δ-T3
Mẫu
(mg/kg)
M 9 (Đậu ngự)
0,44±0,05
19,96±0,003
0,15±0,04
0,91±0,05
1±0,03
22,47±0,03
-
-
-
-
M12 (Đậu đỏ)
1,41±0,04
2,7±0,03
12,74±0,01
1,06±0,03
17,92±0,03
-
-
-
-
-
M 13 (Đậu trứng cuốc)
5,15±0,05
247,85±0,003
2,61±0,03
10,702±0,05 0,62±0,05 266,92±0,01
-
-
-
-
M 14 (Đậu trắng)
6,74±0,03
0,35±0,04
152,58±0,002
2,02±0,03
-
-
2,87±0,03
164,55±0,01
-
-
BH 73 (Đậu tương leo)
2,17±0,03
0,42±0,05
3,94±0,05
-
-
-
8,31±0,03
14,85±0,04
-
-
BH 101 (Củ đậu)
1,13±0,05
0,36±0,05
59,73±0,01
1,28±0,04
-
-
0,38±0,05
62,87±0,01
-
-
M 1 (Sưa)
20,9±0,04
2,14±0,01
-
2,06±0,01
-
-
-
1,03±0,02
26,13±0,03
-
BH 109 (Trắc bàm bàm) 3,81±0,05
1,10±0,03 0,86±0,003
2,72±0,01
-
-
-
8,5±0,04
-
-
BH 114 (Cẩm lai)
14,88±0,02
0,25±0,02
20,29±0,05
0,79±0,03
-
-
-
36,2±0,05
-
-
M 8 (Muồng hoàng yến) 133,8±0,01 4,46±0,02
3,18±0,02
29,56±0,04
7,29±0,02
0,67±0,05
2,39±0,03
-
181,37±0,01
-
BH56 (Cà te)
52,76±0,02 2,36±0,03
0,68±0,03
239,37±0,004
1,91±0,05
0,57±0,03
-
-
297,64±0,01
-
72
Một thành phần quan trọng trong lipid hạt thực vật đó là các tocopherol (α-T,
β-T, γ -T, δ-T) và tocotrienol (α-T3, β-T3, γ -T3, δ-T3), chúng đều thuộc lớp chất
tocols (vitamin E), thường được tìm thấy trong lipid tổng của các loại hạt thực vật.
Về mặt ý nghĩa sinh học, chúng có tác dụng như những chất có hoạt tính sinh học
cao được sử dụng như những chất chống oxy hóa tự nhiên, ngăn chặn quá trình
peroxy hóa của các acid béo không bão hòa đa. Năm 2011, Matthaus và các cộng sự
đã chỉ ra được mối liên quan mật thiết giữa γ-tocopherol và acid béo không no α-
linolenic [114]. Tocophenol ngoài giá trị dinh dưỡng nó còn có tác dụng ức chế sự
phát triển của tế bào ung thư và làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim [114].
Các tocopherol trong các mẫu hạt thuộc họ Đậu (Fabaceae) nhìn chung đều
có hàm lượng tổng thấp. Trong nhóm dinh dưỡng, y, dược hàm lượng tocopherol
tổng dao động từ (17,92 mg/kg (Đậu đỏ) đến 266,92 mg/kg (Đậu trứng cuốc)), còn
trong nhóm công nghiệp hàm lượng tocopherol tổng dao động từ (8,5 mg/kg (Trắc
bàm bàm) đến 297,64 mg/kg (Cà te)), như vậy trong cả hai nhóm chỉ có Đậu trứng
cuốc và Cà te là có kết quả thuộc nhóm trung bình, kết quả này phù hợp với các
nghiên cứu trước đây về hạt họ Đậu [114].
Thành phần tocopherol của tất cả các mẫu thuộc họ này chỉ có một mẫu thấy
sự xuất hiện của dạng γ-T3 là Muồng hoàng yến nhưng với hàm lượng thấp (0,67
mg/kg). Các dạng khác như β-T3, P8 và δ-T3 cũng chỉ xuất hiện một số mẫu với
hàm lượng thấp. Dạng β-T3 xuất hiện ở hai mẫu trong nhóm dinh dưỡng, y, dược
(hạt Đậu ngự (0,15 mg/kg), hạt Đậu trứng cuốc (2,61 mg/kg)) và ba mẫu trong
nhóm công nghiệp là (Sưa (2,06 mg/kg), Cà te (1,91 mg/kg) và Muồng hoàng
yến(7,29 mg/kg. Dạng P8 chỉ xuất hiện ở bốn mẫu với hàm lượng thấp trong đó có
hai mẫu thuộc nhóm dinh dưỡng, y, dược là Củ đậu (1,28 mg/kg) và Đậu trắng
(2,02 mg/kg) và hai mẫu thuộc nhóm công nghiệp là Cẩm lai (0,79 mg/kg), và Cà te
(0,57 mg/kg). Dạng δ -T3 chỉ xuất hiện ở hai mẫu hạt Đậu ngự (1,0 mg/kg) và hạt
Đậu trứng cuốc (0,62 mg/kg) thuộc nhóm dinh dưỡng, y, dược.
Có 10/11 mẫu hàm lượng tocopherol tập trung ở dạng γ-T chủ yếu là các
mẫu thuộc nhóm dinh dưỡng, y dược: Đậu trứng cuốc, Đậu trắng, Đậu đỏ, Đậu ngự
và Củ đậu với hàm lượng lần lượt là 247,85 mg/kg, 152,58 mg/kg, 12,74 mg/kg,
73
19,96 mg/kg và 59,73 mg/kg. Còn trong nhóm công nghiệp hàm lượng γ-T tập
trung chủ yếu ở Cà te (239,37 mg/kg) và Muồng hoàng yến (29,56 mg/kg).
Tocopherol là chất chống oxy hóa tự nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các hoạt
tính chống oxy hóa và chống viêm thể hiện mạnh hơn khi hàm lượng γ-tocopherol
cao hơn [114]. Chức năng sinh hóa chính của các tocopherol là bảo vệ các acid béo
không bão hòa đa nối đôi (PUFA) chống lại quá trình peroxy hóa.
Với α-tocopherol chỉ có hai mẫu không có là Đậu ngự và Đậu trứng cuốc.
Ngược lại với kết quả của γ-T thì α-T lại tập trung chủ yếu ở nhóm công nghiệp với
hàm lượng từ 3,81 mg/kg (Trắc bàm bàm) đến 133,8 mg/kg (Muồng hoàng yến).
Trong nhóm dinh dưỡng, y, dược hàm lượng α-T rất thấp, trung bình chỉ đạt 2,86
mg/kg. Nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra rằng γ-tocopherol có tác dụng ức chế sự phát
triển của tế bào ưng thư và chống nhồi máu cơ tim hơn so với α-tocopherol [114].
* Mối tương quan giữa γ-tocopherol, α -tocopherol với acid α-linolenic (18:3(n-3))
và acid linoleic (18:2(n-6))
Kamal‐Eldin và nhóm cộng sự đã chứng minh được mối liên hệ giữa hàm lượng
tocopherol và mức độ không bão hòa của acid béo trong lipid thực vật. Kết quả đã chỉ
ra mối tương quan thuận giữa acid linolenic (18: 3) và γ-tocopherol [115], và các kết
quả thực nghiệm của chúng tôi cũng trùng khớp với mối tương quan này.
Các tocopherol rất cần thiết để bảo vệ các PUFA ở thực vật và động vật khỏi
bị oxy hóa. Tocopherol chống oxy hóa qua nhiều cơ chế hóa và lý sinh: quét sạch
các thể loại oxy hoạt động và gốc tự do, chấm dứt các phản ứng tự oxy hóa ở lipid.
Nguồn PUFA hay nguồn tocopherol bắt nguồn từ lipid thực vật khác nhau, giữa các
loai lipid lại có khác biệt về thành phần FA và mức tocopherol. Người tiêu thụ cũng
như nhà sản xuất dầu ăn thường lo lắng về tính kém bền oxy hóa của acid linoleic
(18:2), về những rủi ro có thể nảy sinh cho sức khỏe từ các acid béo một nối đôi và
các acid béo trans mới có ở các thứ dầu không no khác sau quá trình hydro hóa.
Biến đổi thành phần FA để cải thiện tính bền oxy hóa của lipid thực vật vốn là mục
tiêu của nhiều công trình nghiên cứu. Chức năng hóa sinh chính của các tocopherol
là bảo vệ các PUFA chống peroxy hóa. Có một vấn đề quyết định được đặt ra là liệu
có mối quan hệ hóa sinh giữa các mức tocopherol với mức không no của các lipid
74
thực vật (nguồn PUFA thực phẩm và nguồn vitamin E), có một mối tương quan
dương tính giữa acid linoleic (18:2) với α-tocopherol, và mối tương quan dương
tính giữa acid α-linolenic (18:3) với γ-tocopherol, kết luận này phù hợp với các kết
quả tham khảo ở tài liệu [106]. Từ mối tương quan dương tính giữa acid linoleic,
acid linolenic với α-tocopherol và γ-tocopherol có thể kết luận: hạt thực vật có hàm
lượng PUFA cao thì hoạt tính chống oxy hóa của chúng sẽ cao hơn các lipid hạt
khác. Nếu vận dụng PCA cùng các kỹ thuật lượng đa biến khác nữa vào dữ liệu lấy
từ các kiểu hình, gen khác nhau của cùng một loài sẽ tìm hiểu được liệu có sự liên
kết về di truyền giữa sinh tổng hợp tocopherol với sinh tổng hợp PUFA ở trong các
loài thực vật.
Bảng 4.4. So sánh tương quan giữa hàm lượng γ-tocopherol với acid α-linolenic
(18:3(n-3)) và α-tocopherol với acid linoleic (18:2(n-6))
18:2(n-6)
18:3(n-3)
Mẫu
α-T (mg/kg) γ-T (mg/kg)
(% so tổng
(% so tổng
acid béo)
acid béo)
-
19,96
41,64
17,77
M 9 (Đậu ngự)
1,41
12,74
49,01
26,1
M12 (Đậu đỏ)
-
247,85
29,2
49,53
M 13 (Đậu trứng cuốc)
6,74
152,58
20,34
59,39
M 14 (Đậu trắng)
2,17
3,94
48,09
6,76
BH 73 (Đậu tương leo)
1,13
59,73
32,37
0,79
BH 101 (Củ đậu)
20,9
-
64,7
1,5
M 1 (Sưa)
3,81
2,72
22,97
7,3
BH 109 (Trắc bàm bàm)
14,88
20,29
20,06
1,2
BH 114 (Cẩm lai)
133,8
29,56
50,5
1,37
M 8 (Muồng hoàng yến)
52,76
239,37
24,72
54,4
BH56 (Cà te)
18:3(n-3) (% so tổng acid béo)
γ-T (mg/kg)
α-T (mg/kg)
G K / G M G N Ợ Ư L I
Ố H K
400 350 300 250 200 150 100 50 0
% SO LIPID TỔNG
75
Hình 4.4. Tương quan giữa hàm lượng γ-tocopherol với acid α-linolenic (18:3(n-3))
và acid linoleic (18:2(n-6))
Nói về mối tương quan giữa các acid béo và các tocopherol, theo
Bauernfeind cả hàm lượng tocopherol và thành phần acid béo trong các loại hạt có
lipid đều bị chi phối bởi các khác biệt về thứ dạng, về mức chín tới của hạt lúc thu
hoạch cũng như bởi các điều kiện địa lý, khí hậu ở nơi gây trồng lấy hạt [106].
Nói chung thì dường như chức năng chính của các tocopherol trong các hệ
sinh học vốn là chất chống oxi hóa, ức chế oxi hóa PUFA. Tuy nhiên α-tocopherol
hay γ-tocopherol mới là chất chống oxi hóa cho lipid thực vật có hiệu lực nhất thì
đang còn tranh cãi. Dưới góc độ hóa học thì α- tocopherol dọn dẹp, bẫy các gốc tự
do hữu hiệu hơn γ-tocopherol, song có nhược điểm chính nó lại “trợ oxi hóa” trong
một số tình huống [106]. Qua kết quả tổng hợp ở bảng 4.4 và hình 4.4 thì các hạt
giàu C18:3 như: Đậu trứng cuốc (49,53%), Đậu trắng (59,39%) hay Cà te
(54,4%)… thì hàm lượng γ-tocopherol tương ứng cũng lớn là 247,85 mg/kg, 152,58
mg/kg, 239,37 mg/kg, nhưng ngược lại với γ-tocopherol thì hàm lượng α-
tocopherol lại thấp (dưới 100 mg/kg) như: Cà te có 52,76 mg/kg, Đậu trắng 6,74
mg/kg, còn Đậu trứng cuốc thậm chí còn không có α-tocopherol. Kết quả này cũng
phù hợp với các nghiên cứu trước đây của Gensler, và ông cho rằng điều này là do sự
can dự của α-tocopherol vào những phản ứng “trợ oxi hóa” hoặc “cùng oxi hóa” [116].
76
4.1.5. Thành phần và hàm lượng phytosterol
Sterol thực vật là các thành phần thực vật tự nhiên hoạt động như cholesterol.
Cholesterol chiếm một vị trí trung tâm trong toàn bộ sự chuyển hóa steroid của cơ
thể động vật và là nguyên liệu đầu cho tất cả các steroid khác trong cơ thể.
Cholesterol là sterol đặc thù của các động vật bậc cao, trong cơ thể cholesterol có
hai chức năng chủ yếu: trong ruột nó tham gia vào việc làm tiêu tan các acid mỡ và
là cấu tạo của màng tế bào. Sterol thực vật có thể được thêm vào nhiều loại sản
phẩm thực phẩm và kết hợp với các chất có lợi khác, việc bổ sung sterol thực vật
vào chế độ ăn uống giúp giảm nguy cơ bệnh tim mạch vành.
77
Bả ng 4.5. Thành phần và hàm lượng các phytosterol trong lipid ha ̣t của một số loài họ Đậu nghiên cứu (mg/kg)
Mẫu M13
Mẫu BH73
Mẫu BH109
Mẫu M8
Mẫu M14
Mẫu M1
Mẫu M9
Mẫu M12
Mẫu BH101
Mẫu BH114
Mẫu BH56
(Đậu trứng
(Đậu tương
(Trắc bàm
(Muồng hoàng
Cá c da ̣ng phytosterol
(Đậu ngự)
(Đậu đỏ)
(Củ đậu)
(Cẩm lai)
(Đậu trắng)
(Sưa)
cuốc)
leo)
bàm)
yến)
(Cà te)
Cholesterol
28,09±0.01
34,67±0.11
30,91±0.05
30,13±0.05
24,42±0.04
5,25±0.01
23,6±0,01
19,88±0,01
46,67±0,01
90,29±0,02
50,62±0,02
Cholestanol
ISTD
ISTD
ISTD
ISTD
ISTD
ISTD
ISDT
ISTD
ISTD
ISTD
ISTD
-
-
Brassicasterol
74,06±0.37
28,38±0.02
12,32±0.03
11,76±0.01
14,1±0,03
38,36±0,05
7,58±0,04
-
-
24-MethylenCholesterol
-
-
280,23±0.04
31,93±0.04
20,40±0.05
1,57±0.02
8,5±0,01
41,09±0,01
6,49±0,01
69,73±0,03
-
Campesterol
1059,94±0.01
2563,38±0.03 2087,89±0.03
2172,66±0.05
664,55±0.03 133,73±0.02
29,6±0,01
266,26±0,02
162,01±0,01
3353,02±0,01
256,93±0,01
-
-
Campestanol
1626,83±0.02
-
56,19±0.04
5,94±0.05
< LOQ
-
12,26±0,04
211,38±0,02
59,67±0,03
Stigmasterol
16841,3±0.004
616,11±0.03 11876,3±0.01
12051,4±0.02
652,67±0.04 418,22±0.01
50,2±0,02
274,29±0,03
234,29±0,03 4645,01±0,001
470,07±0,001
∆7-Campesterol
135,48±0.01
334,61±0.02
111,96±0.04
98,38±0.04
35,06±0.03
11,02±0.04
8,5±0,04
50,26±0,04
19,59±0,01
88,74±0,03
123,05±0,02
-
-
∆5,23-Stigmastadienol
-
443,31±0.02
28,59±0.03
30,16±0.05 180,60±0,03
1734,9±0,01
29,67±0,04 4758,72±0,002
4758,72±0,03
Clerosterol
394,27±0.01
203,31±0.05
467,85±0.01
0
13,74±0.04
7,41±0.02
49,5±0,02
64,27±0,03
6,66±0,02
898,05±0,01
-
β-sitosterol
18473,14±0.17
24997,31±0.002 25511,93±0.002 22407,14±0.01
2273,33±0.02 973,36±0.005
156,6±0,01
1781,0±0,01 1878,32±0,01 19247,7±0,001
609,99±0,03
-
Sitostanol
406,44±0.01
-
210,80±0.05
105,81±0.03
40,66±0.02
< LOQ
374,16±0,02
72,64±0,03
296,05±0,02
582,41±0,02
∆5-Avenasterol
2934,90±0.01
511,46±0.04 2963,66±0.01
3832,01±0.03
97,92±0.04
38,83±0.04
13,4±0,02
152,42±0,04
127,81±0,01
1724,,38±0,02
234,61±0,05
∆5,24-Stigmastadienol
460,69±0.03
133,19±0.03
423,75±0.01
694,41±0.02
8,74±0.05
8,09±0.02
< LOQ
479,82±0,03
-
159,18±0,02
284,49±0,02
∆7-Stigmastenol
302,22±0.02
227,61±0.02
380,88±0.02
93,53±0.11
189,76±0.04
10,95±0.05
< LOQ
1297,5±0,01
68,56±0,02
140,50±0,02
110,1±0,05
∆7-Avenasterol
551,60±0.02
20,42±0.01
309,33±0.02
60,66±0.05
53,87±0.04
5,30±0.04
< LOQ
83,96±0,01
14,26±0,03
103,68±0,03
33,25±0,05
Tổng (mg/kg)
43214,86
29996,35
44164,50
42154,68
4237,37 1702,24±0.03
534,6
6658,21
2686,81 31027,70±0,002 7573,90±0,001
78
Hàm lượng phytosterol trong các mẫu họ Đậu (Fabaceae) cao, trung bình đạt
19.483,29 mg/kg. Trong đó, tập chung chủ yếu ở nhóm dinh dưỡng, y, dược với
hàm lượng phytosterol ở mức rất cao là: hạt Đậu ngự (43.214,86 mg/kg), hạt Đậu
trắng (42.154,68 mg/kg), hạt Đậu đỏ (29.996,35 mg/kg), và hạt Đậu trứng cuốc
(44.164,50 mg/kg). Nhóm cây công nghiệp có hàm lượng phytosterol tổng thấp hơn
tập chung chủ yếu ở hạt Muồng hoàng yến (31.027,7 mg/kg), hay hạt Cà te
(7.573,90 mg/kg)…Trong cả hai nhóm thì hàm lượng phytosterol của Đậu tương
leo (4.237,37 mg/kg), Sưa (534,6 mg/kg), Củ đậu (1.702,24 mg/kg)…thấp hơn so
với các mẫu khác và kết quả này gần với hàm lượng phytosterol trong ngũ cốc (có
hàm lượng phytosterol dao động từ 436 mg/kg (ngô) đến 1065 mg/kg (kiều mạch)
[117]. Tổng hàm lượng phytosterol được phát hiện trong các loại Đậu dao động từ
1.340 mg/kg (Đậu tây) đến 2.420 mg/kg (Đậu Hà Lan) [49]. Phytosterol là một
trong những hợp chất quan trọng nhất trong các chất không xà phòng hóa của lipid
thực vật và có liên quan đến việc cung cấp các hoạt tính sinh học cho lipid. Gần đây
khả năng làm giảm cholesterol ở người của chúng đã được đặc biệt quan tâm. Các
nghiên cứu lâm sàng đã nhiều lần chỉ ra rằng phytosterol được dùng làm chất bổ
sung chế độ ăn uống, hoặc là thành phần bổ sung trong thực phẩm, làm giảm
cholesterol huyết thanh và mức độ cholesterol lipid mật độ thấp ở những đối tượng
bình thường và tăng cholesterol máu nhẹ. Cơ chế liên quan có thể liên quan đến
việc ức chế hấp thu cholesterol trong chế độ ăn uống và mật từ lòng ruột. Ngoài tác
dụng giảm cholesterol, phytosterol đã được cho là có các hoạt động chống viêm,
kháng khuẩn, kháng nấm, chống viêm và chống khối u. Chúng cũng có hiệu quả
trong điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt, tăng đường huyết và ung thư ruột
kết. Ngoài việc sử dụng trong y học, phytosterol còn là đặc trưng của các loài thực
có lipid, hỗ trợ việc phân loại theo loài và có thể được sử dụng đánh giá chất lượng
lipid thương mại. Phytosterol rất hữu ích như là nguồn nguyên liệu thô để tổng hợp
các hormone, dược phẩm, mỹ phẩm và làm chất phụ gia cho nhựa nhiệt dẻo được sử
dụng trong sản xuất vật liệu cao su [49].
Trong phytosterol thì β-sitosterol, campesterol và stigmasterol chiếm hàm
lượng lớn, đây là các thành phần tự nhiên không thể thiếu của màng tế bào thực vật
79
có nhiều trong lipid thực vật, quả hạch, hạt và ngũ cốc [49]. Trong khi phytosterol
được cho là có nhiều tác dụng sinh học bao gồm các hoạt động chống viêm, chống
oxy hóa, chống ung thư, và khả năng làm giảm cholesterol của chúng đã được
nghiên cứu rộng rãi nhất [118]. Hàm lượng campesterol tập trung nhiều ở nhóm
dinh dưỡng, y, dược: Đậu đỏ (2.563,38 mg/kg), Đậu trứng cuốc (2.087,89 mg/kg), Đậu
trắng (2.172,66 mg/kg) hay Đậu ngự (1.059,94 mg/kg), trong nhóm công nghiệp hàm
lượng campesterol không cao nhưng riêng Muồng hoàng yến lại có hàm lượng
campesterol cao nhất trong các mẫu đã nghiên cứu đạt 3.353,02 mg/kg. Tương tự như
campesterol thì stigmasterol cũng tập trung chủ yếu ở nhóm dinh dưỡng, y, dược: Đậu
ngự (16.841,30 mg/kg), Đậu trắng (12.051,40 mg/kg), Đậu trứng cuốc (11.876,11
mg/kg), còn trong nhóm cây công nghiệp hàm lượng stigmasterol ở mức thấp chỉ riêng
Muồng hoàng yến ở mức trung bình đạt 4.645,01 mg/kg.
Trong các mẫu thì hàm lượng β-sitosterol chiếm ưu thế. β-sitosterol là một
trong nhiều phytosterol (sterol thực vật) có cấu trúc hóa học tương tự như
cholesterol được tìm thấy trong lipid thực vật quả hạch, bơ và β-sitosterol được bổ
sung qua đường uống được sử dụng cho bệnh viêm tuyến tiền liệt, sỏi mật, bệnh vẩy
nến, dị ứng và bệnh lao. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng β-sitosterol có khả năng
chống tăng cholesterol máu, chống viêm, kháng khuẩn, chống nấm, chống tăng lipid
máu, và giảm đường huyết trong khi tiêm insulin. Hơn nữa, phystosterol - đặc biệt
là β-sitosterol - dường như có tiềm năng ngăn ngừa hóa học cũng như hóa trị liệu
chống lại các bệnh ung thư phổ biến như ung thư ruột kết, ung thư vú, ung thư dạ
dày, ung thư phổi và ung thư tuyến tiền liệt [118]. Qua bảng 3.5 và bảng 3.6 ta thấy
hàm lượng β-sitosterol chiếm hàm lượng lớn nhất trong phytosterol tổng của hầu
hết các đối tượng nghiên cứu, trong nhóm cây công nghiệp thì Muồng hoàng yến,
Cẩm lai và Trắc bàm bàm có hàm lượng β-sitosterol lớn nhất với giá trị tương ứng
là 19.247,70 mg/kg (chiếm 62,03% so với phytosterol tổng); 1.878,32 mg/kg
(chiếm 70,0% so với phytosterol tổng) và 1.781,0 mg/kg (chiếm 26,75%), các hạt
còn lại có hàm lượng thấp hơn; Cà te (609,99 mg/kg- chiếm 8%) và Sưa (156,60
mg/kg - chiếm 29,29%). Trong nhóm cây dinh dưỡng, y, dược thì hàm lượng β-
sitosterol rất cao: Đậu ngự (18.473,14 mg/kg - chiếm 42,74%), Đậu đỏ (24.997,31
80
mg/kg - chiếm 83,33%), Đậu trứng cuốc (25.511,93 mg/kg- chiếm 57,76%), Đậu
trắng (22.407,14 mg/kg - chiếm 53,15%), Đậu tương leo (2.273,33 mg/kg - chiếm
53,65%) và Củ đậu có 57,18% β-sitosterol. Kết quả này phù hợp với các kết quả
nghiên cứu trước đây về lipid hạt của Sesbania Grandiflora (họ Đậu) với β-
sitosterol ở lượng cao đáng kể 74,06% [119], hoặc so với các loại lipid từ hạt: Đậu
nành, Hướng dương và Ngô với hàm lượng β-sitosterol tương ứng dao động từ
47,0% đến 60,0%, 50,0% đến 70,0%, và 54,8% đến 66,6% [120].
Hàm lượng β-sitosterol (% so với phytosterol tổng)
83.33
70
62.03
57.76 53.15 53.65 57.18
42.74
% g n ợ ư
l
29.29 26.75
8
m à H
90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
Hình 4.5. Hàm lượng % β-sitosterol (so với phytosterol tổng)
Mẫu hạt Trắc bàm bàm, ngoài sitosterol (1.781,04 mg/kg) thì ∆5,23-
stigmastadienol và ∆7-stigmastenol cũng có hàm lượng cao là 1.734,87 mg/kg và
1.297,52 mg/kg. Mẫu hạt Sưa có ∆5,23-stigmastadienol và sitosterol chiếm hàm
lượng chủ yếu 180,64 mg/kg và 156,64 mg/kg. Cà te và Muồng hoàng yến có hàm
lượng ∆5,23-stigmastadienol đều ở mức cao là 4.758,72 mg/kg. Những kết quả
nghiên cứu về 11 mẫu lipid hạt họ Đậu về thành phần và hàm lượng phytosterol này
gần với kết quả nghiên cứu trước đó về thành phần sterol trong lipid hạt: Hướng
dương, Ngô, Rum hoặc Đậu tương [121].
4.1.6. Thành phần và hàm lượng triacylglycerol
Lần đầu tiên thành phần và hàm lượng các triacylglycerol đã được nghiên
cứu và kết quả được chỉ ra ở bảng 4.6.
81
Monomere TAG chiếm chủ yếu trong các mẫu với hàm lượng từ 54,8% -
96,74%. Trong đó, nhóm dinh dưỡng, y, dược chiếm hàm lượng cao với: Đậu tương
leo (96,74%), Củ đậu (87,76%), Đậu trắng (85,25%), Đậu trứng cuốc (84,72%), Đậu
ngự (63,17%), Đậu đỏ (54,80%). Monomere TAG trong nhóm cây công nghiệp có
hàm lượng cao ở Muồng hoàng yến (93,2%), Cẩm lai (91,75%) hay Cà te (70,48%).
Ngoài monomere TAG thì ở mẫu hạt Đậu ngự, diglyceride và FFA cũng có
hàm lượng % tương ứng là 15,45% và 20,19%; ở mẫu hạt Đậu đỏ FFA chiếm tới
37,48%. Mẫu hạt Trắc bàm bàm: monome TAG và FFA có hàm lượng cao nhất
chiếm 10,46% và 23,99% trong các thành phần đã nhận dạng được, các thành phần
còn lại chiếm tỷ lệ từ 2,63% - 8,57%. Mẫu hạt Sưa có các thành phần nhận dạng
được khá đồng đều, trong đó monome TAG, diglyceride, monoglyceride, FFA và
glycerol chiếm các tỷ lệ lần lượt là 12,65%; 5,32%; 9,88%, 8,44% và 24,66%.
Kết quả này đồng nhất với kết quả nghiên cứu của Jahaniaval và cộng sự
(2000), monomere TAG trong lipid hạt Ngô, Đậu tương, và hạt Diêm mạch (lần
lượt là 19,83, 20,5 và 19,22%) cao hơn so các thành phần khác của TAG và cao hơn
so các loài Amaranthus (họ Dền) (5,44-8,03%). Theo nghiên cứu thì hàm lượng
monomere TAG là UUU (U: unsaturates) với thành phần đều là các acid béo không
no, chiếm hàm lượng cao nhất trong tất cả các mẫu lipid hạt: Đậu tương (54,2% so
lipid tổng), Ngô (58,8% so lipid tổng), Diêm mạch (62,15% so lipid tổng)…[122].
82
Bả ng 4.6. Thành phần và hàm lượng các triglyceride trong lipid ha ̣t một số loài họ Đậu nghiên cứu (% so với tổng TG)
Mẫu
Mẫu BH73
Mẫu BH109
Mẫu M8
Mẫu M9
Mẫu M12
Mẫu M14
Mẫu BH101
Mẫu M1
Mẫu BH114
Cá c da ̣ng
TT
M13(Đậu
(Đậu tương
(Trắc bàm
(Muồng
Mẫu BH56
triglyceridee
(Đậu ngự)
(Đậu đỏ)
(Đậu trắng)
(Củ đậu)
(Sưa)
(Cẩm lai)
trứng cuốc)
leo)
bàm)
hoàng yến)
(Cà te)
1 Olygomere TAG
0,25±0,04
0,17±0,04
-
-
-
-
0,1±0,06
-
-
-
Polymere TAG
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
2
Trimere TAG
-
-
2,63±0,02
-
0,1±0,05
-
-
-
-
-
3
Dimere TAG
2,99±0,03
-
0,57±0,05
0,1±0,05
0,19±0,03
0,1±0,05
0,45±0,04
-
-
-
4
5 Monomere TAG 63,17±0,02
54,8±0,03
84,72±0,01
85,25±0,01
96,74±0,001 87,76±0,003 12,65±0,01
10,46±0,04
91,75±0,002
93,2±0,002
70,48±0,07
6
Diglyceride
15,45±0,03
6,48±0,05
1,65±0,02
2,83±0,04
5,32±0,05
6,78±0,02
3,53±0,03
3,57±0,03
-
-
7 Monoglyceride
0,94±0,05
-
0,1±0,05
9,88±0,03
6,78±0,02
0,31±0,05
2,21±0,03
-
-
-
-
FFA
20,19±0,03 37,48±0,03 15,28±0,05
14,18±0,04
1,02±0,05
0,41±0,04
8,44±0,02
23,99±0,03
0,96±0,2
3,13±0,05
14,32±0,03
8
1,06±0,05
-
Glycerol
0,42±0,05
4,6±0,05
24,66±0,05
8,57±0,05
-
-
-
-
-
9
0,44±0,05
-
10
Khác
1,07±0,03
0,07±0,08
4,11±0,02
39,05±0,05
37,8±0,03
3,45±0,03
-
-
-
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
Tổng
83
4.1.7. Thành phần và hàm lượng các phenolic
Qua phân tích thành phần và hàm lượng các các phenolic của 11 mẫu lipid
hạt họ Đậu đã phát hiện 13 loại phenolic. Trong hầu hết các mẫu thì hàm lượng các
chất dao động từ 0,16 đến 34,47 mg/kg (Bảng 4.7).
84
Bảng 4.7. Thành phần và hàm lượng các hợp chất phenolic trong lipid ha ̣t 11 loài họ Đậu nghiên cứu (mg/kg)
Mẫu
Mẫu
Mẫu BH73
Mẫu
Mẫu M8
Mẫu M9
Mẫu M12
Mẫu M14
Mẫu BH101
Mẫu M1
BH109
Mẫu BH56
M13(Đậu
(Đậu tương
BH114
(Muồng hoàng
Các phenolic
(Đậu ngự)
(Đậu đỏ)
(Đậu trắng)
(Củ đậu)
(Sưa)
(Trắc bàm
(Cà te)
trứng cuốc)
leo)
(Cẩm lai)
yến)
bàm)
Acid Chlorogenic 4,13±0,02 5,15±0,02
6,54±0,04 11,06±0,03
1,89±0,03
0,32±0,01
19,8±0,02
1,8±0,04
0,4±0,03
9,54±0,04
0,64±0,04
Acid Gallic
1,85±0,03 1,7±0,03
2,62±0,03 3,06±0,01
0,6±0,05
4,68±0,03
0,7±0,03
0,7±0,01
0,16±0,04 1,76±0,04 Acid Caffeic 1,3±0,03 8±0,04 4,68±0,01 0,32±0,04 0,49±0,01 2,25±0,02 Acid Vanillic 2,15±0,02 0,92±0,04 1,88±0,02 4,37±0,02 2,0±0,02 0,6±0,01 2,6±0,05 0,4±0,04 0,35±0,04 1,49±0,03 Acid Isovanillic 1,66±0,05 1,74±0,04 2,0±0,04 0,19±0,05 1,92±0,05 Vanillin 1,03±0,02 7,16±0,03 0,2±0,02 0,7±0,002 0,3±0,05 0,98±0,03 Acid β-Coumaric 11,41±0,05 13,21±0,02 5,18±0,03 0,6±0,05 2,3±0,04 6,7±0,02 1,11±0,05 3,27±0,02 Acid Ferulic 2,08±0,02 14,49±0,03 3,2±0,02 6,33±0,03 4,28±0,04 0,16±0,002 0,8±0,002 23,8±0,4 21,8±0,01 0,24±0,04 0,68±0,04 Taxifolin 3,11±0,03 3,99±0,03 1,71±0,04 1,24±0,05 9,8±0,4 34,5±0,3 3,2±0,01 4,89±0,03 11,7±0,03 Acid Rosmarinic 8,37±0,05 6,51±0,02 2,79±0,03 2,54±0,03 0,29±0,05 10,6±0,2 0,7±0,01 27,4±0,3 0,28±0,05 3,41±0,02 Daidzein 1,44±0,04 0,88±0,04 2,26±0,04 0,44±0,06 1,6±0,01 2,3±0,04 1,9±0,04 1,19±0,03 Acid Cinnamic 1,67±0,02 1,17±0,04 0,64±0,05 0,2±0,03 0,6±0,004 0,7±0,001 0,16±0,04 0,98±0,05 Naringinin 0,71±0,05 3,25±0,02 6,03±0,02 3,64±0,04 1,4±0,01 6,0±0,01 1,2±0,03 0,62±0,04 1,58±0,04 85 Nói chung, acid ferulic và acid chlorogenic là hai acid tồn tại trong hầu hết các mẫu và chiếm hàm lượng cao nhất. Với acid ferulic có hàm lượng từ 0,24 mg/kg (M8: Muồng hoàng yến) đến 23,8 mg/kg (BH109: Trắc bàm bàm). Hàm lượng của acid chlorogenic tương đối cao dao động từ 0,32 mg/kg (BH101: Củ đậu) đến 19,80 (M1: Sưa). Acid chlorogenic là một nhóm hợp chất polyphenol hình thành thông qua liên kết este giữa acid quinic với các acid hydroxy-cinnamic (chủ yếu là acid caffeic, acid ferulic và acid β-coumaric) [123]. Những nghiên cứu mới cho thấy tác dụng có lợi của acid chlorogenic đối với hội chứng chuyển hóa (Metabolic syndrome). Hội chứng này được định nghĩa bao gồm một loạt các yếu tố sinh lý, hóa sinh, lâm sàng và chuyển hóa làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và tiểu đường type 2. Các biểu hiện của hội chứng bao gồm các rối chuyển hóa lipid máu (tăng cholesterol tổng số trong máu, tăng hàm lượng LDL-cholesterol, triglyceride, giảm hàm lượng HDL-cholesterol), huyết áp cao, đường máu cao, dễ viêm, gan nhiễm mỡ và ngưng thở khi ngủ. Hội chứng này được coi như hội chứng mang tính toàn cầu vì chi phí chữa trị cao và số người mắc ngày càng tăng ngay cả trong thanh niên và trẻ em [124]. Trong nhóm các cây dinh dưỡng, y, dược, hàm lượng acid ferulic thay đổi từ 0,16 mg/kg (Củ đậu) đến 14,49 mg/kg (Đậu đỏ). Hàm lượng acid chlorogenic thay đổi từ 0,32 mg/kg (Củ đậu) đến 11,06 mg/kg (Đậu trắng). Acid caffeic chỉ có trong hạt năm mẫu và hàm lượng từ 0,32 mg/kg (Đậu tương leo) đến 8,00 mg/kg (Đậu trứng cuốc). Có ba mẫu chứa acid β-coumaric với hàm lượng dưới 6 mg/g, bao gồm: Đậu ngự (11,41 mg/kg), Đậu đỏ (13,21 mg/kg) và Đậu tương leo (5,18 mg/kg). Hạt Đậu trắng cũng có naringinin và acid vanillic hàm lượng lần lượt là 6,03 và 4,37 mg/kg. Các giá trị được thu được ở đây khác với các giá trị đó được công bố cho các loại hạt họ Đậu (Đậu, Đậu lăng, Đậu faba, Đậu broad, Đậu everlasting và Đậu chickpea) ở một số nơi khác [125]. Trong nhóm các cây công nghiệp, hàm lượng acid ferulic dao động từ 0,24 mg/kg với Muồng hoàng yến đến 23,8 mg/kg với Trắc bàm bàm. Sưa có hàm lượng acid chlorogenic và acid rosmarinic cao tương ứng là 19,80 mg/kg và 10,6 mg/kg; Trắc bàm bàm có taxifolin (34,5 mg/kg) và acid ferulic (23,8 mg/kg); Cẩm lai có 86 acid rosmarinic (27,3 mg/kg) và acid ferulic (21,8 mg/kg) là các phenolic chính. Hơn nữa, một số phenolic khác tương đối cao, như naringinin trong Trắc bàm bàm (6,0 mg/kg), acid β-coumaric trong Cẩm lai (6,7 mg/kg), và taxifolin trong Sưa (9,8 mg/kg) hay trong Cà te (11,7 mg/kg). Các kết quả thu được trong cả nhóm công nghiệp và nhóm dinh dưỡng, y, dược gần với các kết quả thu được với một số loại Đậu như Đậu xanh (Vigna radiata), Đậu trứng cuốc (Vigna unguiculata), Đậu đen (Vigna cylindrica), Đậu adzuki (Vigna angularis), Đậu nành (Glycine max) và Đậu phộng (Arachis hypogaea), Đậu lăng, Đậu faba, Đậu broad, Đậu everlasting…[125]. Như vậy, các hợp chất phenolic là những hợp chất phong phú về hoạt tính sinh học (kháng nấm, kháng khuẩn, gây độc tế bào, kháng viêm, kháng androgen, kháng tiểu đường,…), trong đó hoạt tính kháng oxi hóa được các nhà khoa học rất quan tâm [124]. Theo Santana và các cộng sự (2017), đã cho biết acid chlorogenic có hoạt tính chống oxy hóa, đặc biệt là chống lại quá trình oxy hóa lipid, nhờ vậy acid chlorogenic trở thành ứng cử viên tuyệt vời cho việc bào chế các chất bổ sung vào chế độ ăn uống và thực phẩm chức năng [124]. Trong 11 mẫu nghiên cứu thì dầu hạt Sưa có hàm lượng acid chlorogenic cao nhất, điều này gợi ý cho chúng tôi có những nghiên cứu sâu hơn về cấu tạo hóa học và hoạt tính sinh học của loài này. 4.2. Thành phần và hàm lượng phospholipid của 11 mẫu hạt họ Đậu 4.2.1. Thành phần và hàm lượng các phospholipid trong 11 mẫu hạt họ Đậu nghiên cứu So sánh với chất chuẩn trên TLC 1 chiều và 2 chiều với nhiều hệ dung môi khác nhau và kết hợp với các tài liệu tham khảo đã công bố về các lớp chất phospholipid, kết quả xác định trong lipid phân cực của 11 mẫu hạt họ Đậu có ở các phân lớp phospholipid đặc trưng của thực vật là phosphatidylethanolamine (PE), phosphatidylcholine (PC), phosphatidylinositol (PI),… và có mẫu có mặt lysophospholipid (LPE, LPC) hiện vết trên bản mỏng với hàm lượng nhỏ. Sau đó định lượng theo phương pháp của Kostetsky [126]. Kết quả thu được được trình bày trong bảng 4.8. 87 Bảng 4.8. Thành phần và hàm lượng các phospholipid trong lipid tổng của 11 mẫu hạt họ Đậu nghiên cứu 10,91 33,92 15,31 22,17 - 6,07 10,67 0,95 - - M 9 (Đậu ngự) 35,33 18,42 23,12 7,15 15,98 - - - - 0 M12 (Đậu đỏ) 16,12 3,76 32,27 17,5 24 6,35 - - 0 M13 (Đậu trứng cuốc) - 3,4 0,5 37,5 25,7 20,4 - 9,2 - 3,3 M14 (Đậu trắng) - - - 32 20 14 - 16 18 0 BH73 (Đậu tương leo) - - 14,56 34,17 20,34 13,71 - 17,22 - 0 BH101 (Củ đậu) - 3,89 0,41 32,31 20,8 14,58 7,82 1,06 - 0,13 M1 (Sưa) - 0,23 32,09 19,57 14,44 - - 16,94 1,62 BH109 (Trắc bàm bàm) 15,11 - - 17,32 30,76 17,47 18,83 - - 15,35 0,27 BH114 (Cẩm lai) - - 23,19 25,23 22,34 14,11 - - 0,05 M8 (Muồng hoàng yến) 15,08 - - - 38,49 23,64 19,02 4,3 14,37 - 0,18 BH56 (Cà te) Hình 4.6. Hàm lượng PC, PE, PI trong lipid tổng của 11 mẫu hạt họ Đậu Qua kết quả thu được ở bảng 4.8 trên thì lớp chất PC, PE, PI chứa hàm lượng cao nhất và có ở tất cả 11 mẫu hạt họ Đậu nghiên cứu. Trong đó, PC chứa thành phần chủ yếu với lượng dao động từ 23,19% (M8) đến 38,49% (BH56). Tiếp đó là hai lớp chất PE và PI, cũng chiếm hàm lượng khá cao trong tổng phospholipid, xấp xỉ 20% cho mỗi phân lớp. Lớp chất LPE không xuất hiện trong Đậu tương leo (BH73), Đậu trắng (M14), Đậu đỏ (M12), và Cà te (BH56), các loài còn lại LPE 88 dao động với hàm lượng từ 10,91% (M9) đến 17,32% (BH114). Lớp LPC chỉ thấy xuất hiện trong mẫu Đậu trứng cuốc (M13: 3,76%) và Đậu trắng (M14: 3,4%). Lớp chất PAc không xuất hiện hoặc xuất hiện rất ít trong các mẫu hạt nghiên cứu. Lớp PG chỉ có trong bốn mẫu (M12, M13, M8, BH56) với nồng độ từ 4,3% đến 14,1%. Tương tự như PG, PAc cũng chỉ có trong bốn mẫu (BH73, M9, M14, M1) với nồng độ trung bình khoảng 9%. Trong các mẫu nghiên cứu thì DPG có hàm lượng từ 10,06% (hạt Sưa: M1) đến 18% ( Đậu tương leo: BH73). Như vậy, kết quả định lượng thành phần phospholipid trong 11 mẫu hạt Đậu cũng tương đồng với các công trình nghiên cứu trước đó về thành phần phospholipid trong lipid của một số loài thuộc họ Đậu khác với thành phần phospholipid chính là PC, PE, PI [25, 127]. Qua nghiên cứu về thành phần hóa học, chúng tôi thấy: Sưa là một loài cây công nghiệp quý, trong hạt Sưa chứa hàm lượng lipid cao, với thành phần phenolic thì lipid hạt Sưa có hàm lượng acid chlorogenic cao nhất. Ngoài ra, mới chỉ có một số kết quả nghiên cứu về cấu trúc hóa học và hoạt tính sinh học như hoạt tính chống đái tháo đường in vitro từ thân, lõi gỗ và lá của loài Sưa do nhóm nghiên cứu của GS Nguyễn Mạnh Cường cung cấp [70]... nên chúng tôi chọn lipid hạt Sưa làm đối tượng phân tích sâu hơn về dạng phân tử phospholipid. 4.2.2. Xác định các dạng phân tử phospholipid của mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) Trên cơ sở kết quả phân tích thành phần và hàm lượng các phân lớp phospholipid trong lipid tổng, các dữ liệu về sự phân mảnh trong bộ phổ chất chuẩn của hãng Shimadzu Solution với phần mềm xử lý v.3.60.361, dạng phân tử của các phân lớp phospholipid của mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) đã được phân tích và nhận dạng bằng phương pháp phổ khối phân giải cao. Hỗn hợp Et3N : AcOH được sử dụng để giúp làm bền các ion phân tử và giúp cho các tín hiệu ion ổn định hơn khi cùng lúc đồng thời ghi nhận các tín hiệu trên phổ ion âm và ion dương. 4.2.2.1. Dạng phân tử phosphatidylethalnolamine (PE) của mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain). Công thức phân tử (CTPT): CxHyNO8P 89 Phosphatidyletanolamin có công thức cấu tạo (CTCT) như sau: Phân lớp PE được phân lập bằng các phương pháp sắc ký, nhận biết bằng chất chuẩn và các thuốc thử đặc hiệu, sau đó tiến hành phân tích trên máy LC- HRMS-IT-TOF của hãng Shimadzu với cột sắc ký hillic Develosil 100-5 Si (ID 150 mm × 2 mm ID, kích thước chất mạng 5 μm). Các thông tin thu được từ phổ MS1 và MS2 trên phổ ion âm và ion dương sẽ được sử dụng để nhận dạng các dạng phân tử của PE trong mẫu hạt Sưa Dalbergia tonkinensis Prain. Kết quả thu được như sau: Hình 4.7. Sắc ký đồ HRMS [E-] lớp chất phosphatidylethanolamine mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) Trên phổ khối phân giải cao HRMS của các phân tử phosphatidylethanolamine, có thể thấy đồng thời các tín hiệu của các ion âm [M-H]- và các ion dương [M+H]+ tương ứng. Trên phổ ion âm xuất hiện 5 tín hiệu của các ion phân tử [M-H]- tương ứng với các dạng phân tử chính có trong lớp chất PE của mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) (hình 4.7, bảng 4.9). Tiếp tục thực hiện bắn phá MS/MS đối với các tín hiệu của ion phân tử [M-H]- đã được chọn lọc sẽ biết được sự có mặt của các mạch acyl/alkyl hoặc alkenyl trong mỗi dạng phân tử PE. Dữ liệu phổ MS phân giải cao thu được xử lý trên phần mềm v.3.60.361 của hãng Shimadzhu (Hình 4.8). 90 Hình 4.8. Phổ HRMS [E-] của lớp chất phosphatidylethanolamine của mẫu hạt
Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) trên phần mềm xử lý v.3.60.361 Bảng 4.9. Tín hiệu của ion phân tử [M-H]- của các dạng phân tử có mặt trong
lớp chất phosphatidylethanolamine của mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis
Prain) trên phổ MS1 TT [M-H]- 1
2
3
4
5 Thời gian
lưu
22,92
22,74
22,66
22,43
22,95 714,5006
716,5344
738,5053
740,5298
742,5452 [M-H]- 714,5006 Hình 4.9. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PE có tín hiệu ion âm [M-H]- tại giá trị m/z 714,5006 91 Trên phổ, tín hiệu có cường độ mạnh nhất ghi nhận tại m/z 714,5006 thể hiện dạng phân tử có có hàm lượng lớn nhất trong lớp chất. Tín hiệu của ion [M+H]+ tương ứng trên phổ ion dương có giá trị tại m/z 716,5240 (Hình 4.9). CTPT tương ứng tính toán được là C39H74NO8P, với 8O trong phân tử thể hiện đây là một dạng phân tử diacyl PE. Trên phổ ion âm MS/MS[E-] của ion phân tử [M-H]- của dạng phân tử này có 3 ion mảnh (hình 4.10, bảng 4.10) với tín hiệu tại m/z 452,277 tương ứng với ion phân tử mất đi một mảnh trung hòa C18H30O (C18H31COOH - H2O); m/z 279,231 tương ứng với anion của acid béo C18H32O2; m/z 255,229 tương ứng với mảnh ion của acid béo C16H32O2. Các thông tin này cho thấy trong dạng phân tử của PE có [M-H]- 714,5006 đồng thời có 2 acid béo 16:0 và 18:2. Theo các thành phần nguyên tố thu được và giá trị của khối lượng phân tử, kết hợp với các tài liệu nghiên cứu trước đó đã được công bố, so sánh với bộ cơ sở dữ liệu, dạng phân tử PE xác định được là PE 16:0/18:2 Hình 4.10. Sự phân mảnh trong phổ MS/MS[E-] của dạng phân tử PE có tín hiệu ion âm tại m/z 714,5006 (PE 16:0/18:2) Bảng 4.10. Dữ liệu phổ MS/MS[E-] của dạng phân tử PE có tín hiệu ion âm [M-H]- tại giá trị m/z 714,5006 (PE 16:0/18:2) m/z m/z 452,277 [C21H44NO7P]- C18H30O 279,231 714,5006 C18H32O2 C39H74NO8P 255,229 C16H32O2 92 Hình 4.11. Sự phân mảnh của ion phân tử PE có tín hiệu ion âm tại m/z 714,5006 [M-H]- 716,5344 Đối với tín hiệu ion âm tại m/z 716,5344, tín hiệu của ion [M+H]+ tương ứng trên phổ ion dương có giá trị tại m/z 718,5358 (hình 4.12). CTPT tương ứng tính
toán được là C39H76NO8P, là một diacyl PE. Trên phổ ion âm MS/MS[E-] của ion
phân tử [M-H]- của dạng phân tử này có 2 ion mảnh (hình 4.13), tín hiệu tại 281,247 tương ứng với anion của acid béo C18H34O2; m/z 255,228 tương ứng với mảnh ion của acid béo C16H32O2. Dữ liệu thu được thể hiện trong dạng phân tử PE này có mặt 2 acid béo 16:0 và 18:1. Dạng phân tử PE xác định được là PE 16:0/18:1 Hình 4.12. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PE có tín hiệu ion
âm [M-H]- tại giá trị m/z 716,5344 Hình 4.13. Sự phân mảnh trong phổ MS/MS[E-] của dạng phân tử PE có tín hiệu
ion âm tại m/z 716,5344 (PE 16:0/18:1) 93 [M-H]- 738,5053 Hình 4.14. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PE có tín hiệu ion âm [M-H]- tại giá trị m/z 738,5053 Đối với tín hiệu ion âm tại m/z 738,5053, tín hiệu của ion [M+H]+ tương ứng trên phổ ion dương có giá trị tại m/z 740,5229 (hình 4.14). CTPT tương ứng tính toán được là C41H74NO8P, là một diacyl PE. Trên phổ ion âm MS/MS[E-] của ion phân tử [M-H]- của dạng phân tử này chỉ thu được 1 ion mảnh (hình 4.15), tín hiệu tại 279,230 tương ứng với anion của acid béo C18H32O2; Cấu hình PE 18:2/18:2 phù hợp với các thông tin thu được. Do dạng phân tử PE chứa 2 mạch acid béo giống nhau nên trên phổ MS/MS chỉ thu được tín hiệu của anion của 1 acid béo. Dạng phân tử PE xác định được là PE 18:2/18:2. Hình 4.15. Sự phân mảnh trong phổ MS/MS[E-] của dạng phân tử PE có tín hiệu ion âm tại m/z 738,5053 (PE 18:2/18:2) 94 [M-H]- 740,5298 Hình 4.16. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PE có tín hiệu ion âm [M-H]- tại giá trị m/z 740,5298 Hình 4.17. Sự phân mảnh trong phổ MS/MS[E-] của dạng phân tử PE có tín hiệu ion âm tại m/z 740,5298 (PE 18:1/18:2) Đối với tín hiệu ion âm tại m/z 740,5298, tín hiệu của ion [M+H]+ tương ứng trên phổ ion dương có giá trị tại m/z 742,5372 (Hình 4.16). CTPT tương ứng tính toán được là C41H76NO8P, là một diacyl PE. Trên phổ ion âm MS/MS[E-] của ion phân tử [M-H]- 740,5298 thu được tín hiệu của 2 ion mảnh (Hình 4.17), tín hiệu tại 279,228 tương ứng với anion của acid béo C18H32O2, tín hiệu tại 281,247 tương ứng với anion của acid béo C18H34O2. Dữ liệu thu được thể hiện trong dạng phân tử PE này có mặt 2 acid béo 18:1 và 18:2. Dạng phân tử PE xác định được là PE 18:1/18:2 [M-H]- 742,5452 Hình 4.18. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PE có tín hiệu ion
âm [M-H]- tại giá trị m/z 742,5452 95 Hình 4.19. Sự phân mảnh trong phổ MS/MS[E-] của dạng phân tử PE có tín hiệu ion âm tại m/z 742,5452 (PE 18:0/18:2) Đối với tín hiệu ion âm tại m/z 742,5452, tín hiệu của ion [M+H]+ tương ứng trên phổ ion dương có giá trị tại m/z 744,5533 (hình 4.18). CTPT tương ứng tính toán được là C41H78NO8P, là một diacyl PE. Trên phổ ion âm MS/MS[E-] của ion phân tử [M-H]- 742,5452 thu được tín hiệu của 2 ion mảnh (hình 4.19), tín hiệu tại 279,229 tương ứng với anion của acid béo C18H32O2, tín hiệu tại 283,249 tương ứng với anion của acid béo C18H36O2,. Dữ liệu thu được thể hiện trong dạng phân tử PE này có 2 acid béo 18:0 và 18:2. Dạng phân tử PE xác định được là PE 18:0/18:2 Như vậy, trong phân lớp PE của mẫu hạt Sưa Dalbergia tonkinensis Prain nhận dạng được 5 dạng phân tử, toàn bộ là các diacylphospholipid. Quá trình xác định hàm lượng các dạng phân tử được tính toán theo diện tích mỗi pic. Kết quả về hàm lượng các dạng phân tử PE được thể hiện trong bảng 4.11. Trong phân lớp PE phân bố chủ yếu là các acid béo C18, trong đó có mặt nhiều nhất là acid béo 18:2. Acid béo 16:0 có 2 dạng phân tử PE. Bảng 4.11. Thành phần và hàm lượng các dạng phân tử phosphatidylethalnolamine trong mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) TT Dạng phân tử PE CTPT % trong phân lớp PE [M-H]-
m/z
714,5006 C39H74NO8P 40,08 1 16:0/18:2 716,5051 C39H76NO8P 8,62 2 16:0/18:1 738,5053 C41H74NO8P 29,06 3 18:2/18:2 740,5298 C41H76NO8P 12,65 4 18:1/18:2 742,5452 C41H78NO8P 9,60 5 18:0/18:2 96 4.2.2.2. Dạng phân tử phosphatidylcholine (PC) của mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) CTPT: CxHyNO8P CTCT của phosphatidylcholine: Tương tự như phân lớp PE, phân lớp phosphatidylcholine được phân lập và tiến hành phân tích trên máy LC-HRMS-IT-TOF. Các thông tin thu được về MS1, MS2 và MS3 trên phổ ion âm và ion dương sẽ được sử dụng để nhận dạng các dạng phân tử của PC trong mẫu hạt Sưa Dalbergia tonkinensis Prain. Đối với các phân tử PC, thấy được tín hiệu của ion phân tử trên phổ ion dương tốt hơn ion phân tử trên phổ ion âm. Trên phổ MS[E-] thu được tín hiệu của ion âm [M+HCOO]- và [M-CH3]-, đồng thời trên phổ MS[E+] có được tín hiệu của ion dương [M+H]+. Dựa vào các dữ liệu MS2 và MS3 đã sàng lọc được 6 tín hiệu tương ứng với 6 dạng phân tử trong lớp chất này (hình 4.20, bảng 4.12). Hình 4.20. Sắc ký đồ HRMS [E+] lớp chất phosphatidylcholine mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) 97 Bảng 4.12. Tín hiệu của ion phân tử [M+H]+ của các dạng phân tử có mặt trong lớp chất phosphatidylcholine của mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) trên phổ MS1 [M+H]+ 1 27,32 758,5691 2 27,22 782,5676 3 26,94 784,5895 4 26,94 786,5972 5 26,99 788,6141 m/z [M+H]+ 758,5691 Trong số các tín hiệu thu được, tín hiệu ion dương [M+H]+ có cường độ mạnh nhất tại m/z 758,5691; tương ứng với dạng phân tử PC chiếm hàm lượng cao nhất trong phân lớp này. Trên phổ ion âm các ion [M+HCOO]- và [M-CH3]- tương ứng có tín hiệu tại m/z 802,5536 và 742,5305 (hình 4.21). Công thức phân tử tính toán được là C42H80NO8P, với 8O trong phân tử đây là một diacyl PC. Hình 4.21. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PC có tín hiệu ion dương [M+H]+ tại giá trị m/z 758,5691 98 dương [M+H]+ tại giá trị m/z 758,5691 m/z 758,5691 [M+HCOO-C2H4O2]- 742,5305 802,5536 C42H80NO8P 279,2280 C18H32O2 (C18:2) 255,2283 C16H32O2 (C16:0) 279,2291 C18H32O2 (C18:2) 742,5305 255,2347 C16H32O2 (C16:0) Hình 4.22. Sự phân mảnh của ion phân tử PC có tín hiệu ion dương tại m/z 758,5691 [M+HCOO]- 802,5536 Các thông tin về dữ liệu phổ MS2, MS3 thu được của dạng phân tử PC được trình bày trong bảng 4.13. Trên phổ ion âm MS2 của ion [M+HCOO]- 802,5536 có xuất hiện tín hiệu tại m/z 742,5305 tương ứng với anion [M+HCOO-C2H4O2]-. Trên phổ MS3 của ion mảnh 742,5305 cho các ion mảnh có tín hiệu tại m/z 279,2280 tương ứng với anion của acid béo C18H32O2 (18:2), và tín hiệu tại m/z 255,2283 tương ứng với anion của acid béo C16H32O2 (16:0) (hình 4.23). 99 Hình 4.23. Sự phân mảnh trong phổ MS2 và MS3 [E-] của dạng phân tử PC có tín hiệu ion âm [M+HCOO]- tại m/z 802,5536 Trên phổ ion âm MS2 của ion [M-CH3]- 742,5305 thu được tín hiệu của các ion mảnh tại m/z 279,2291 tương ứng với anion của acid béo C18H32O2 (18:2n), và tín hiệu tại m/z 255,2347 tương ứng với anion của acid béo C16H32O2 (16:0) (Hình 4.24). Từ các dữ liệu thu được, dạng phân tử của PC với các ion [M+H]+ cho tín hiệu tại m/z 758,5691, ion âm [M+HCOO]- tại m/z 802,5536, ion âm [M-CH3]- tại m/z 742,5305 được xác định là phosphatidylcholine 16:0/18:2 Hình 4.24. Sự phân mảnh trong phổ MS2 [E-] của dạng phân tử PC có tín hiệu ion âm [M-CH3]- tại m/z 742,5305 (PC 16:0/18:2) [M+H]+ 782,5676 Tín hiệu ion phân tử dương [M+H]+ tại m/z 782,5676 có cường độ mạnh thứ 2 trong phân lớp phosphatidylcholine. Những tín hiệu đồng thời phát hiện được trên phổ ion âm của các ion [M+HCOO]- và [M-CH3]- tại m/z 826,5629 và 766,5450 (Hình 4.25). Công thức phân tử tính toán được là C44H80NO8P, với 8O trong phân tử đây cũng là một diacyl PC. 100 Hình 4.25. Sắc ký đồ phổ MS[E-] và MS[E+] của dạng phân tử PC có tín hiệu ion dương [M+H]+ tại giá trị m/z 782,5676 Trên phổ ion âm MS2 của ion [M+HCOO]- 826,5629 có xuất hiện tín hiệu tại m/z 766,5480 tương ứng với anion [M+HCOO-C2H4O2]-. Trên phổ MS3 của ion mảnh 766,5480 cho ion mảnh có tín hiệu tại m/z 279,2290 tương ứng với anion của acid béo C18H32O2 (18:2) (hình 4.26). Trên phổ ion âm MS2 của ion [M-CH3]- 766,5450 thu được tín hiệu của các ion mảnh tại m/z 279,2334 tương ứng với anion của acid béo C18H32O2 (18:2) (hình 4.27). Cấu hình PC 18:2/18:2 phù hợp với các thông tin thu được. Do dạng phân tử PC chứa 2 mạch acid béo giống nhau nên trên phổ MS2 và MS3 chỉ thu được tín hiệu anion của 1 acid béo. Dạng phân tử PC xác định được là PC 18:2/18:2. hiệu ion âm [M+HCOO]- tại m/z 826,5629 101 Hình 4.27. Sự phân mảnh trong phổ MS2 [E-] của dạng phân tử PC có tín hiệu
ion âm [M-CH3]- tại m/z 766,5450 Các thành phần còn lại trong phân lớp PC được xác định tương tự. Kết quả về thành phần và hàm lượng các dạng phân tử của phân lớp phosphatidylcholine (PC) trong mẫu hạt Sưa Dalbergia tonkinensis Prain được trình bày trong bảng 4.14. Cũng tương tự như phân lớp phosphatidylethanolamine, trong phân lớp PC có mặt chủ yếu các acid béo C16:0 và C18, trong đó acid béo C18 chiếm ưu thế, có trong 5/6 dạng phân tử PC. Tỉ lệ phân bố nhiều nhất là acid béo 18:2. Bảng 4.14. Các dạng phân tử phosphatidylcholine của mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) 1
2
3
4
5 758,5691
782,5676
784,5895
786,5972
788,6141 C42H80NO8P
C44H80NO8P
C44H82NO8P
C44H84NO8P
C44H86NO8P 4.2.2.3. Dạng phân tử phosphatidylinositol (PI) của mẫu hạt Sưa Dalbergia tonkinensis Prain CTPT: CxHyO13P CTCT của phosphatidylinositol 102 Đối với phosphatidylinositol, trên phổ MS1 sẽ thấy được tín hiệu của ion âm [M-H]-. Trên mẫu được phân tích, chúng tôi nhận được 02 tín hiệu của 02 ion phân tử (bảng 4.15, hình 4.27). Các ion này được chọn để thực hiện phân tích MS2. Phổ MS2 của ion [M-H]- cho rất nhiều tín hiệu của các ion mảnh, trong đó có một số ion mảnh đặc trưng, tương ứng với sự mất đi từ ion mẹ các mảnh trung hòa như: phân tử acid béo, mất đi đồng thời phân tử acid béo và inositol (C6H10O5), ngoài ra trong phổ MS2 còn xuất hiện tín hiệu của anion các acid béo có trong phân tử PI. Dựa vào các dữ liệu thu được từ các ion mảnh sẽ xác định được dạng phân tử của phosphatidylinositol cần nhận dạng. Bảng 4.15. Tín hiệu của ion phân tử [M-H]- của các dạng phân tử có mặt trong lớp chất phosphatidylinositol của mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) trên phổ MS1 m/z 1 20,57 833,5123 2 20,47 861,5467 Hình 4.28. Sắc ký đồ HRMS [E-] lớp chất phosphatidylinositol mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) 103 Các dữ liệu thu được trên phổ MS2 được trình bày trong bảng 4.16. MS2 Dạng Hàm lượng [M-H]-, phân tử % trong phân CTPT Ion mảnh [M-H-X]- m/z X PI lớp PI m/z Thành phần 553,2737 C25H46O11P C18H32O2 C24H42O7 391,2248 C19H36O6P (C6H10O5 + C18H32O2) 68,33 833,5123 C43H79O13P C34H64O4 Bảng 4.16. Dữ liệu phổ MS2 của các dạng phân tử PI 297,0435 C9H14O9P (C18H32O2 + C16H32O2) 279,2350 C18H31O2 255,2340 C16H31O2 581,3092 C27H50O11P C18H32O2 C24H42O7 419,2556 C21H40O6P (C6H10O5 + C18H32O2) 31,67 861,5467 C45H83O13P 283,2640 C18H35O2 279,2360 C18H31O2 Đối với ion [M-H]- tìm được ở m/z 833,5123. Công thức phân tử tính toán được là C43H79O13P. 13O trong phân tử cho biết PI ở dạng diacyl. Trên phổ ion âm MS2, thu được 5 tín hiệu ion mảnh chính (bảng 4.16). Tín hiệu ở m/z 255,2340 và m/z 279,2350 tương ứng với anion của 2 acid béo 16:0 [C16H31O2]- và 18:2 [C18H31O2]-. Tín hiệu ở m/z 297,0435 tương ứng với mảnh ion [C9H14O9P]-, hình thành bởi ion mẹ mất đi 2 acid béo. Tín hiệu ở m/z 553,2737 tương ứng với mảnh ion [C25H46O11P]-, hình thành bởi ion mẹ mất đi acid béo C18H32O2. Ion mảnh tại m/z 391,2248 tạo thành do ion [M-H]- mất đi đồng thời một acid béo C18H32O2 và inositol (C6H10O5). Dựa vào các mảnh ion thu được, có thể xác định dạng phân tử của PI là 16:0/18:2. Hình 4.29. Sự phân mảnh trong phổ MS2 [E-] của dạng phân tử PI có tín hiệu
ion âm [M-H]- tại m/z 833,5123 104 Hình 4.30. Sự phân mảnh của ion phân tử PI có tín hiệu ion âm tại m/z
833,5123. Đối với ion [M-H]- quan sát được ở m/z 861,5467. Công thức phân tử tính toán được là C45H83O13P. 13O trong phân tử cho biết PI ở dạng diacyl. Trên phổ ion âm MS2, thu được 4 tín hiệu ion mảnh chính (bảng 4.16). Tín hiệu tại m/z 283,2640 và m/z 279,2360 tương ứng với anion của 2 acid béo 18:0 [C18H35O2]- và 18:2 [C18H31O2]-. Tín hiệu ở m/z 581,3092 tương ứng với mảnh ion [C27H50O11P]-, hình thành bởi ion mẹ mất đi acid béo C18H32O2. Ion mảnh tại m/z 419,2556 tạo thành do ion [M-H]- mất đi đồng thời một acid béo C18H32O2 và inositol (C6H10O5). Dựa vào các mảnh ion thu được, có thể xác định dạng phân tử của PI là 18:0/18:2. Hình 4.31. Sự phân mảnh trong phổ MS2 [E-] của dạng phân tử PI có tín hiệu
ion âm [M-H]- tại m/z 861,5467 So với hai phân lớp PE và PC, phân lớp PI có thành phần đơn giản với 2 dạng phân tử. Acid béo được tìm thấy trong phân lớp là 16:0, 18:0 và 18:2. Tổng hợp kết quả thu được về dạng phân tử các phân lớp phospholipid trong mẫu hạt Sưa được đưa ra trên bảng 4.17. 105 Bảng 4.17. Các dạng phân tử phospholipid trong mẫu hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis Prain) PE 40,08 1 8,62 2 29,06 3 12,65 4 9,60 5 PC 31,20 6 26,14 7 16,90 8 20,83 9 4,93 10 PI 68,33 11 31,67 12 Nhận xét: Trong lipid phân cực của mẫu hạt Sưa Dalbergia tonkinensis Prain chúng tôi đã xác định được 12 dạng phân tử phospholipid gồm: 5 dạng phân tử PE, 5 dạng phân tử PC và 2 dạng phân tử PI. Tất cả các dạng phân tử phospholipid xác định được trong 3 phân lớp này đều là các diacyl phospholipid. Các acid béo chính có trong các dạng phân tử là 16:0, 18:0, 18:1, 18:2. Kết quả này cũng phù hợp với thông tin thu được về thành phần acid béo của mẫu hạt Sưa Dalbergia tonkinensis Prain (mục 4.1.3), với hàm lượng các acid béo chính: 18:2(n-6) chiếm 64,7% tổng acid béo, acid béo 18:1(n-9) có hàm lượng 11,6%, hàm lượng acid béo 16:0 là 13,2% và acid béo 18:0 là 4,5%. Kết quả nghiên cứu này có sự tương đồng với các kết quả của tác giả Calvano khi nghiên cứu về các phospholipid chính trong lipid hạt cây Lupinus luteus L. (họ Đậu) [60]. 106 Nhận xét về chung về thành phần và hàm lượng các lớp chất lipid: - Hàm lượng lipid tổng dao động từ 0,99% (Muồng hoàng yến) đến 20,91% (Củ đậu) và lượng lipid tổng trong nhóm dinh dưỡng, y, dược cao hơn trong nhóm cây công nghiệp. - Hàm lượng acid béo cao tập trung chủ yếu ở nhóm acid béo không no (có tổng phần trăm dao động từ 56,74% đến 88,82%), đây là nhóm các chất có nhiều hoạt tính sinh học cần được tiếp tục nghiên cứu như lợi ích của các acid béo không no đa nối đôi đối với não, tác dụng tim mạch, cải thiện chức năng tim và gan, giảm huyết áp… - Hàm lượng tocopherol tổng dao động từ 8,5 mg/kg (Trắc bàm bàm) đến 297,64 mg/kg (Cà te). Tocopherol là chất chống oxy hóa tự nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các hoạt tính chống oxy hóa và chống viêm thể hiện mạnh hơn khi hàm lượng γ-tocopherol cao hơn, và kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hàm lượng γ-tocopherol trong nhóm dinh dưỡng, y, dược cao hơn trong nhóm công nghiệp. Nghiên cứu đã chỉ ra tương quan giữa hàm lượng γ-tocopherol với acid α-linolenic (18:3(n-3)) và α-tocopherol với acid linoleic (18:2(n-6)). - Hàm lượng phytosterol trong các mẫu họ Đậu (Fabaceae) cao, trung bình đạt 19,483,29 mg/kg. Phytosterol được cho là có nhiều tác dụng sinh học bao gồm các hoạt động chống viêm, chống oxy hóa, chống ung thư, và khả năng làm giảm cholesterol… - Monomere TAG chiếm chủ yếu trong các mẫu với hàm lượng từ 54,8% đến 96,74%, Trong đó, nhóm dinh dưỡng, y, dược chiếm hàm lượng cao. - Hàm lượng các chất trong phenolic tổng dao động từ 0,16 đến 34,47 mg/kg, Trong đó acid ferulic và acid chlorogenic là hai acid tồn tại trong hầu hết các mẫu và chiếm hàm lượng cao nhất, Gần đây một số tác giả đã đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa thành phần phenolic và hoạt tính chống oxi hóa trong lipid hạt một số loài họ Đậu. - Qua xác định thành phần và hàm lượng các phopholipid của 11 mẫu lipid hạt họ Đậu thì lớp chất PC, PE, PI chứa hàm lượng cao nhất và có mặt ở tất cả 11 mẫu. Trong đó, PC chứa thành phần chủ yếu với lượng dao động từ 23,19% (M8) 107 đến 38,49% (BH56). Tiếp theo là hai lớp chất PE và PI, cũng chiếm hàm lượng khá cao trong tổng phospholipid, xấp xỉ 20% cho mỗi phân lớp. - Đã xác định được 12 dạng phân tử trong lipid phân cực của mẫu hạt Sưa Dalbergia tonkinensis Prain gồm: 5 dạng phân tử PE, 5 dạng phân tử PC và 2 dạng phân tử PI. Tất cả các dạng phân tử phospholipid xác định được trong 3 phân lớp này đều là các diacyl phospholipid. Các acid béo chính xuất hiện trong các dạng phân tử là 16:0, 18:0, 18:1, 18:2 Với các kết quả nghiên cứu về thành phần, phần trăm các lớp chất này đã tạo cơ sở cho chúng tôi có những nghiên cứu sâu hơn về hoạt tính sinh học, nhất là khả năng chống oxi hóa của chúng. 4.3. Kết quả thử hoạt tính chống oxi hóa 4.3.1. Kết quả thử nghiệm hoạt tính chống oxi hóa của 11 mẫu lipid hạt họ Đậu nghiên cứu bằng phương pháp DPPH Kết quả xác định hàm lượng phenolic tổng và thử hoạt tính kháng oxi hóa theo DPPH của 11 mẫu lipid hạt họ Đậu nghiên cứu được đưa ra ở bảng 4.18. Bảng 4.18. Kết quả thử hoạt tính kháng oxi hóa DPPH của một số hạt Đậu nghiên cứu (dịch chiết methanol) DPPH Phenolic tổng TT Ký hiệu Tên thông thường (mg/g) (SC50, g/mL) Đậu ngự 8,79±1,06 23,69± 4,65 1 M9 Đậu đỏ 18,46± 5,18 14,27± 0,24 2 M12 Đậu trứng cuốc 16,11±2,17 68,6± 0,56 3 M13 12,90± 1,91 91,56± 5,13 Đậu trắng 4 M14 5 Đậu tương leo 5,30± 6,82 25,43±1,29 BH73 6 Củ đậu 16,45±1,17 63,88±1,29 BH101 Sưa 19,50±1,97 11,9± 1,13 7 M1 8 Trắc bàm bàm 23,00± 5,90 15,4± 5,18 BH109 9 Cẩm lai 24,80± 6,19 18,5±1,93 BH114 17,4 ± 0,06 Muồng hoàng yến 18,20±2,43 10 M8 26,62±2,14 20,17±1,08 11 Cà te BH56 26,48 Vitamin C 108 91.39 68.6 63.88 0
5
C 25.43 i 23.68 20.17 18.5 I
ị
r
t
á
G 17.4 15.4 14.27 11.9 Axis Title Kết quả thử hoạt tính kháng oxi hóa theo DPPH của
các mẫu hạt Đậu nghiên cứu Hình 4.32. Kết quả thử hoạt tính kháng oxi hóa theo DPPH của 11 mẫu hạt họ Đậu nghiên cứu Như vậy, qua nghiên cứu tác dụng chống oxi hóa của 11 mẫu hạt họ Đậu sử dụng phương pháp DPPH thì giá trị SC50 dao động từ 11,9 (Sưa) đến 91,56 (Đậu trắng). Tổng quan bước đầu cho thấy 08/11 loài nghiên cứu thể hiện tính chất chống oxi hóa, trong đó cả 5 loài thuộc nhóm cây công nghiệp thuộc họ Đậu đều thể hiện hoạt tính kháng oxi hóa tốt gồm ba loài thuộc chi Dalbergia là Dalbergia entadoides Pierre ex Prain (Trắc bàm bàm), Dalbergia mamosa Pierre (Cẩm lai) và Dalbergia tonkinensis Prain (Sưa) với giá trị SC50 tương ứng là 15,4 g/mL, 18,5 g/mL và 11,9 g/mL, như vậy trong số các mẫu này thì lipid hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis) có hoạt tính chống oxy hóa tốt nhất. Trước đây đã có một số nghiên cứu về hoạt tính chống oxy hóa từ một số loài thuộc chi này bao gồm Dalbergia sissoo, Dalbergia odorifera và Dalbergia saxatilis trong đó Dalbergia odorifera là cây được nghiên cứu nhiều nhất với hoạt tính chống oxy hóa được tìm thấy trong vỏ cây, rễ, hạt và lõi gỗ [128]. Bên cạnh đó hai loài Muồng hoàng yến và Cà te cũng thể hiện với giá trị SC50 lần lượt là 17,4 g/mL và 20,17 g/mL. Các loài còn lại thuộc nhóm dinh dưỡng và y, dược hầu như không thể hiện hoạt tính tốt, chỉ riêng có Đậu đỏ thể hiện hoạt tính kháng oxi hóa ở mức trung bình với giá trị SC50 đạt 14,27g/mL (acid ascorbic (vitamin C) đóng vai trò là chất chuẩn) đạt được giá trị SC50 là 26,48% theo DPPH). 109 Các kết quả nghiên cứu trên đã góp phần giúp các nhà khoa học trong tương lai có thể định hướng đối tượng nghiên cứu và phát triển các sản phẩm chống oxi hóa một cách cụ thể và hiệu quả hơn. Qua số liệu thu được chúng tôi nhận thấy có mối quan hệ giữa khả năng chống oxi hóa và hàm lượng phenolic tổng và quan hệ giữa hoạt tính này và hàm lượng tocopherol, cụ thể như sau: 4.3.1.1. Mối quan hệ giữa hoạt tính chống oxi hóa và hàm lượng tocopherol Mối quan hệ giữa hoạt tính chống oxi hóa và hàm lượng tocopherol được thể hiện qua bảng 4.19: Bảng 4.19: Quan hệ giữa hoạt tính chống oxi hóa và hàm lượng tocopherol DPPH Tổng hàm lượng α-T (SC50, STT Mẫu tocopherol (mg/kg) (mg/kg) g/mL) - M 9 (Đậu ngự) 22,47±0.03 23,69± 4,65 1 M12 (Đậu đỏ) 1,41±0,04 17,92±0.03 14,27± 0,24 2 - M 13 (Đậu trứng cuốc) 266,92±0.01 68,6± 0,56 3 M 14 (Đậu trắng) 6,74±0,03 164,55±0.01 91,56± 5,13 4 BH 73 (Đậu tương leo) 2,17±0,03 14,85±0.04 25,43±1,29 5 BH 101 (Củ đậu) 1,13±0,05 62,87±0.01 63,88±1,29 6 M 1 (Sưa) 20,9±0,04 26,13±0.03 11,9± 1,13 7 BH 109 (Trắc bàm bàm) 3,81±0,05 8,5±0.04 15,4± 5,18 8 BH 114 (Cẩm lai) 14,88±0,02 36,2±0.05 18,5±1,93 9 10 M 8 (Muồng hoàng yến) 133,8±0,01 181,37±0.01 17,4 ± 0,06 11 BH56 (Cà te) 52,76±0,02 297,64±0.01 20,17±1,08 Qua bảng tổng hợp trên chúng tôi nhận thấy một số mẫu có tốt thì tương ứng có hàm lượng tocopherol tổng cao như: Muồng hoàng yến (181,37 mg/kg), Cà te (279,64 mg/kg). Bên cạnh đó, một số mẫu có hàm lượng tocopherol tổng cao: (Đậu trứng cuốc: 266,92 mg/kg, Đậu trắng: 164,55 mg/kg) nhưng lại không thể hiện khả 110 năng chống oxi hóa, như vậy hàm lượng tocopherol tổng cao chưa đủ để xác định tốt, tác dụng này còn được quyết định bởi tác dụng chống oxi hóa và hàm lượng của mỗi hợp chất tocopherol có trong lipid hạt. Điều này được làm rõ qua mối tương quan giữa hàm lượng α-tocopherol và hoạt tính kháng oxi hóa, đa số các mẫu có tốt thì có hàm lượng α-tocopherol cao như nhóm các cây công nghiệp (Sưa, Trắc bàm bàm, Cẩm lai, Muồng hoàng yến, Cà te), riêng chỉ có Đậu đỏ (trong nhóm dinh dưỡng, y, dược) không theo quy luật này, đây là yếu tố cần có những nghiên cứu sâu hơn. Mối quan hệ giữa α-tocopherol và này cũng đồng nhất với các kết quả mà tác giả Castro đã đưa ra năm 2006 [129]. 4.3.1.2. Mối quan hệ giữa hoạt tính chống oxi hóa và hàm lượng phenolic tổng Mối quan hệ giữa hoạt tính chống oxi hóa và hàm lượng phenolic tổng được thể hiện qua bảng 4.18. Kết quả cho thấy một số mẫu có hoạt tính này thì tương ứng cũng có hàm lượng phenolic tổng cao cụ thể như: Sưa (19,50 (mg/g), Trắc bàm bàm (23,00 (mg/g)), Cẩm lai (24,80 (mg/g)), Cà te (26,62 (mg/g)), Muồng hoàng yến (18,2 (mg/g)). Tuy nhiên trong các mẫu này thì Cà te có hàm lượng phenolic tổng cao nhất nhưng lại không thể hiện đặc tính chống oxi hóa tốt nhất. Hay một số mẫu có hàm lượng phenolic tổng tương đối cao như: Đậu trứng quốc (16,11 mg/g), Củ đậu (16,45 mg/kg) lại không thể hiện hoạt tính chống lại tác nhân oxi hóa. Qua những phân tích trên, hàm lượng phenolic tổng cao chưa đủ để xác định hoạt tính chống oxi hóa, cũng tương tự như kết luận về mối quan hệ giữa hoạt tính này và hàm lượng tocopherol tổng, tác dụng này còn được quyết định bởi tác dụng chống oxi hóa và hàm lượng của mỗi hợp chất phenolic có trong lipid hạt. Như vậy, hợp chất phenolic nào ảnh hưởng đến đặc chống oxi hóa này là vấn đề đặt ra để chúng tôi có những nghiên cứu tiếp theo. Mối quan hệ giữa hoạt tính kháng oxi hóa và hàm lượng phenolic tổng, cũng như mối quan hệ giữa hoạt tính kháng oxi hóa và hàm lượng của mỗi hợp chất phenolic đã được một số nhà khoa học: Oomah et al và các cộng sự [130], Kumar và các cộng sự [131], Shang và các cộng sự [132] nghiên cứu. Do đó, các nhà khoa học có thêm một chỉ số đánh dấu tiềm năng sử dụng để dự đoán hoạt tính này với các đối tượng nghiên cứu. 111 Nhận xét: Bằng thực nghiệm với đối tượng nghiên cứu là hạt Sưa, chúng tôi nhận thấy đây là loài có hàm lượng lipid hạt cao (13,86%), hàm lượng phenolic tổng cao (19,5 mg/kg), hàm lượng acid chlorogenic trong phenolic cao nhất (19,8 mg/kg), và có tác dụng chống oxi hóa tốt nhất theo DPPH. Để khẳng định thêm về các kết quả thực nghiệm này, cũng như để biết được hợp chất phenolic nào ảnh hưởng đến khả năng chống oxi hóa, chúng tôi có những nghiên cứu lý thuyết sử dụng phiếm hàm mật độ hiệu năng cao (DFT). 4.3.2. Kết quả khảo sát tiềm năng chống oxi hóa của một số acid phenolic bằng phiếm hàm mật độ (DFT) hiệu năng cao Acid phenolic là một trong những lớp chất chính của các hợp chất phenolic thực vật và được tìm thấy trong các loại hạt, vỏ của trái cây và lá có nguồn gốc thực vật khác nhau [131]. Gần đây, một số acid phenolic, bao gồm: acid chlorogenic , acid gallic, caffeic, acid vanillic, acid isovanillic, acid - coumaric, acid ferulic và acid cinnamic chiếm đến 14,5% trọng lượng, đã được xác định trong dịch chiết của 11 mẫu dầu hạt họ Đậu (Fabaceae). Nghiên cứu này dùng lý thuyết phiếm hàm mật độ (DFT) để khảo sát khả năng chống oxy hóa của 8 acid phenolic bao gồm acid gallic, acid vanillic, acid isovanillic, acid ferulic, acid caffeic, acid β-coumaric, acid cinnamic, acid chlorogenic. Năng lượng phân ly liên kết (BDEs) của các liên kết C- H, O-H, ái lực proton (PA) và năng lượng ion hóa (IP) của các chất nghiên cứu được tính toán chi tiết bằng cách sử dụng phiếm hàm LC-ωPBE kết hợp với bộ hàm cơ sở 6-311++G(d,p) [94]. Năng lượng Gibbs tự do tiêu chuẩn (∆rG0) của phản ứng quét gốc tự do HOO• cũng được tính toán, cuối cùng là đánh giá động học của phản ứng HAT. 4.3.2.1. Tính chất hình học và điện tử - mô hình tĩnh Hình 4.33 thể hiện cấu trúc tối ưu của tất cả 8 acid phenolic được đánh giá dựa vào hàm LC- PBE/6-311 ++ G(d, p) trong pha khí. 112 Hình 4.33. Cấu trúc tối ưu của các acid phenolic đã nghiên cứu được tính
toán trong pha khí theo mức lý thuyết LC- PBE/6-311++G(d, p). Trong đó:
(A) gallic (GALA),(B) vanillic (VANA),(C) isovanillic (ISOVA), (D) ferulic (FERA),
(E) caffeic (CAFFA), (F) -coumaric (COUMA), (G) cinnamic (CINNA)
và (H) chlorogenic (CHLA)) Nói chung, các tính chất hình học tính theo mức lý thuyết (level of theory) LC-PBE/6-311++ G(d, p) có độ tin cậy cao với độ sai lệch nhỏ khi so sánh với các kết quả thu được theo phương pháp CCSD(T)/cc-pVDZ, Ví dụ, độ dài của liên kết C6-C12 bằng 1,48 và 1,49 Å, C8-O2 bằng 1,37 và 1,38 Å, C7-O1 là 1,36 và 1,37 Å, C9-O3 là 1,35 và 1,37 Å thu được bằng hai phương pháp tương ứng. Hơn nữa, các đặc tính điện tử như orbital phân tử bị chiếm chỗ có mức năng lượng cao nhất (HOMO), orbital phân tử không bị chiếm chỗ có mức năng lượng thấp nhất (LUMO) và bản đồ điện thế tĩnh điện (ESP) được hiển thị trong hình 4.34. Nói chung, cả hai obital biên chủ yếu nằm trong vòng phenyl và ở nguyên tử oxi trong phân tử. Các vị trí này cũng tương ứng với các vùng phân tử có điện tích 113 âm nhất. Do đó, các vùng này có thể là các vị trí hoạt động trong phản ứng chuyển điện tử với các gốc tự do bên ngoài. Hình 4.34. Năng lượng các obital biên (EL và EH ) và chênh lệch năng lượng hai orbital biên (E L-H = EL - EH ) của các acid phenolic được nghiên cứu (Kết quả được tính toán trong pha khí theo thuyết LC-PBE/6-311++G(d, p)). Các obitan biên (LUMO và HOMO) đóng một vai trò quan trọng trong khả năng phản ứng của phân tử, Năng lượng LUMO càng thấp thì orbital LUMO càng dễ nhận electron và ngược lại, khi năng lượng HOMO càng cao thì khả năng nhường electron của phân tử càng cao. Như vậy, chênh lệch năng lượng LUMO - HOMO càng hẹp thì phản ứng chuyển electron của phân tử càng tốt. Hình 4.34 thể hiện năng lượng LUMO, HOMO và chênh lệch năng lượng LUMO - HOMO của tám acid phenolic được nghiên cứu trong công trình này. Kết quả cho thấy năng lượng LUMO thay đổi từ 0,02 eV đối với CINA đến 0,80 eV đối với VANA, trong khi năng lượng HOMO của chúng thay đổi từ -9,46 eV đối với CINA đến -8,60 eV đối với FERA. Và các giá trị độ rộng dải năng lượng thấp nhất được công nhận cho FERA (8,8 eV ), CAFA (8,9 eV ) và CHLA (8,9 eV ). Kết quả này cho thấy FERA, CAFA và CHLA có thể có hoạt tính chống oxy hóa tốt hơn thông qua quá trình chuyển điện tử. 4.3.2.2. Các thông số phản ứng nội tại đặc trưng cho các cơ chế chống oxy hóa Ba quá trình chống oxy hóa bao gồm chuyển nguyên tử H (HAT), mất proton (PL) và chuyển electron (SET) được xem xét đầu tiên trong phần này, PL và SET 114 tương ứng với các bước đầu tiên của cơ chế hai giai đoạn, tức là lần lượt chuyển electron - mất proton liên tiếp (SPL-ET) và chuyển electron - chuyển proton liên tiếp (SET-PT). Ba cơ chế này có thể được đánh giá- ba phản ứng khơi mào đầu tiên và được đặc trưng hóa bằng các thông số nội tại bao gồm lần lượt là entanpy phân ly liên kết (BDE), ái lực proton (PA) và thế ion hóa (IP) (Bảng 4.19). Thông số BDE đặc trưng cho khả năng phân ly và nhường nguyên tử H của các liên kết có nguyên tử hydro. Do đó, giá trị DBE càng thấp thì khả năng nhường nguyên tử hydro cho gốc tự do dễ dàng hơn, đồng thời khả năng chống oxi hóa cao hơn thông qua quá trình HAT. Trong pha khí, tất cả các acid phenolic đều có tiềm năng chống oxy hóa với giá trị BDE thay đổi từ 75,3 (đối với CHLA) đến 85,0 kcal/mol (đối với VANA) , ngoại trừ acid cinnamic (CINA) với BDE là 108,3 kcal mol. Tất cả các hợp chất được nghiên cứu có khả năng phản ứng thấp hơn các chất chống oxy hóa tiêu chuẩn, tức là acid ascorbic (73,8 kcal/mol) và trolox (72,7 kcal/mol). Tương tự, các giá trị BDE trong nước không thay đổi nhiều so với các giá trị thu được trong pha khí, vì phản ứng HAT bao gồm chuyển tiếp các hạt trung hòa (nguyên tử), BDE trong nước thay đổi từ 79,0 (đối với GALA) đến 84,2 kcal/mol (đối với COUMA) cũng cao hơn BDE của acid ascorbic (75,7 kcal/mol) và của trolox (74,7 kcal/mol) được tính ở cùng mức độ theo lý thuyết. Đáng chú ý là tất cả các vị trí nhường H dễ dàng nhất đều nằm ở nhóm hydroxyl của vòng phenyl. Vị trí nhường H dễ nhất trên các nhóm hydroxyl của vòng benzyl có thể được giải thích bởi mật độ spin thấp nhất của các chất nhường H, tức là các O nguyên tử. Hơn nữa, phiếm hàm LC-PBE kết hợp với bộ cơ sở 6-311++G(d, p) là một phiếm hàm mật độ DFT hiệu năng cao cho các tính toán BDE. Trên thực tế, các giá trị BDE thu được của GALA chỉ khác 0,1 đến 0,3 kcal/mol so với giá trị thu được ở mức lý thuyết RO-CCSD(T)/aug-cc-pVDZ [80]. Và BDE (O1-H) của CAFA thu được trong pha khí tính ở mức lý thuyết RO-CCSD(T)/aug-cc-pVDZ chỉ cao hơn 0,6 kcal/mol so với giá trị tương tự ở LC-PBE/6-311++G(d, p), tương ứng là 76,8 so với 76,2 kcal/mol. Trong khi đó, BDE thu được theo mức lý thuyết M05-2X/6- 311+G(d, p) được đánh giá thấp hơn từ 4,9 (đối với CAFA) đến 5,7 kcal/mol (đối với FERA) trong nghiên cứu này. 115 Ái lực proton (PA) cho biết khả năng nhường proton của một hợp chất để tạo thành gốc tự do. Giá trị PA càng thấp thì khả năng nhường proton càng cao- điều này cho thấy hợp chất được nghiên cứu là có tiềm năng chống oxy hóa cao thông qua quá trình PL (cho proton). Như có thể thấy trong Bảng 3.10, các giá trị PA trong pha khí thay đổi từ 320,7 (đối với CHLA) đến 342,3 kcal/mol (đối với ISOVA). Tuy nhiên, các PA trong pha nước giảm đáng kể so với các PA tương ứng trong pha khí, vì PL bao gồm quá trình chuyển hạt mang điện tích, vì vậy dung môi, đặc biệt là dung môi phân cực giúp quá trình này thuận lợi hơn. Trên thực tế, PA trong nước thay đổi từ 22,0 (đối với CHLA) thành 45,8 kcal/mol (đối với COUMA). 116 Bảng 4.20: Các thông số phản ứng nội tại bao gồm hiệu chỉnh năng lượng điểm 0 (ZPC) của các acid phenolic. (Được tính toán theo mức lý thuyết LC-PBE/6-311++G(d, p) trong pha khí và trong nước. Đơn vị tính bằng kcal/mol. BDE: entanpi phân ly
liên kết, IP: thế ion hóa, PA: ái lực với proton. Ascorb. là acid ascorbic). Pha Pha Pha Pha Pha Pha Pha khí Pha khí Pha khí Pha khí Pha khí Gas nước nước. nước. nước nước nước 184.8 121.1 192.2
(189.1a) 126.2
(150.1a) O1H 333.3 31.0 O1H 33.8 82.7 33.0 80.1 337.6 35.1 O2H O2H 78.5
(78.8 a) 82.0
(87.2b) O3H 84.1 346.8 36.5 - - 342.2 O3H 85.4
(85.3 a) - O4H 339.5 - 101.0 102.2 383.8 78.6 C11H - - 71.7 375.3 188.9 125.0 C12H O2H 341.7 34.3 188.6 125.1 - O3H - 53.1 O1H 395.7 89.8 C12H 94.2 97.1 - - 343.6 O2H 96.7 187.9 124.8 101.2 103.8 385.7 C10H O2H 349.3 37.5 - - 89.9 377.9 C11H 117 Pha Pha Pha Pha Pha Pha Pha khí Pha khí Pha khí Pha khí Pha khí Gas nước. nước nước. nước nước nước 96.4 108.0 O3H 200.5 136.3 116.5 112.9 97.4 94.1 392.1 89.3 C12H O1H 180.3 119.0 382.8 C6H 76.9 33.8 C10H 115.5 110.7 376.7 O14H 70.9 343.4 O13H - - 179.9 120.2 378.2 71.8 C8H - - O3H 104.1 120.9 361.6 47.6 411.5 150.3 C10H 100.6 96.8 O4H 75.3 120.5 345.0 42.4 O5H 87.3 95.2 O2H 72.7 74.7 O8H 331.8 34.2 O9H - - 339.0 35.6 O3H 73.8 75.7 C19H 87.3 102.4 383.7 78.8 O2H 108.3 112.3 345.4 41.2 a Các giá trị được tính toán theo mức lý thuyết RO-CCSD(T)/aug-cc-pVDZ [77]; b giá trị tính theo mức lý thuyết M05-2X/6- 311+G(d, p)[79]; c giá trị mà chúng tôi đã tính toán lại trong công trình này theo RO-CCSD(T)/aug-cc-pVDZ//LC-wPBE/6- 311++G(d, p).. 118 Cuối cùng, khả năng ion hóa (IP) là khả năng của một hợp chất nhường một điện tử để tạo thành một gốc tự do. Do đó, giá trị IP càng thấp thì khả năng nhường điện tử càng cao và khi đó hoạt tính chống oxy hóa thông qua quá trình chuyển điện tử SET càng cao. Tương tự trong quá trình PL, dung môi phân cực như nước làm giảm đáng kể giá trị IP so với trong pha khí. Giá trị PA trong pha khí thay đổi từ 179,9 (đối với CHLA) thành 200,5 kcal/mol (đối với CINA) trong khi các giá trị trong nước thay đổi từ 119,0 (đối với FERA) đến 136,3 kcal/mol (đối với COUMA). Trên cơ sở BDE, PA và IP của các hợp chất được nghiên cứu, có thể thấy rằng trong pha khí, quá trình HAT chiếm ưu thế hơn so với PL và SET. Ngược lại, trong pha nước, PL có nhiều ưu thế hơn HAT và SET. Ưu điểm quan trọng nhất của phương pháp tính toán thông số phản ứng nội tại này là giúp sàng lọc nhanh chóng khả năng chống oxy hóa của một chất. Tuy nhiên, điểm hạn chế là nó không xem xét đến bản chất phản ứng của gốc tự do với chất có khả năng chống oxy hóa. Vì vậy, trong phần sau chúng ta sẽ tính năng lượng tự do Gibbs tiêu chuẩn của phản ứng giữa các acid phenolic với gốc HOO • trong pha khí và trong nước. 4.3.2.3. Các tính chất nhiệt hóa và động học của phản ứng với gốc tự do HOO• Gốc tự do hydroperoxyl HOO• được chọn làm gốc tự do tham chiếu trong tính toán các đặc tính chống oxy hóa [97]. Năng lượng tự do Gibbs tiêu chuẩn của phản ứng (rG0) được tính bằng hiệu số năng lượng của sản phẩm và chất phản ứng. Về cơ bản, một phản ứng được coi là tự phát và tỏa nhiệt với giá trị (rG0) âm. Như kết quả, Bảng 4.21 tóm tắt các giá trị (rG0) của các phản ứng HAT, PL và SET của các acid phenolic đã nghiên cứu với gốc HOO • trong pha khí và trong nước. 119 Bảng 4.21: Năng lượng tự do Gibbs tiêu chuẩn (rG0) (Bao gồm năng lượng dao động điểm không (ZPE) của các phản ứng HAT, PL và SET của các acid phenolic với gốc tự do HOO• được tính theo mức lý thuyết LC- PBE/6-311++G(d,p) trong pha khí và trong nước. Đơn vị tính bằng kcal/mol). HAT PL SET Hợp chất Pha Pha Pha khí Pha khí Pha khí Pha nước nước nước GALA -4.4 -2.1 186.6 23.1 169.8 35.8 VANA -0.7 3.7 194.5 41.7 166.1 33.7 ISOVA -1.7 4.0 196.4 41.3 166.0 34.7 FERA -5.9 0.2 196.7 42.5 157.9 27.5 CAFA -3.3 -3.4 184.9 25.6 162.8 31.8 COUMA -1.2 0.4 187.9 28.4 166.7 33.1 CINA 15.1 48.6 196.4 42.0 177.6 45.2 CHLA -3.8 -4.3 187.1 5.1 158.2 31.3 Có thể thấy rằng hầu hết các phản ứng HAT giữa các hợp chất acid phenolic và gốc tự do HOO• là tự phát và thuận lợi với các giá trị (rG0) âm trong nước dao động từ -5,9 (FERA) đển -0.7 kcal/mol (đối với VANA), ngoại trừ hợp chất CINA (15,1 kcal/mol trong nước). Trong pha khí, chỉ có GALA, CAFA và CHLA có phản ứng thuận lợi với gốc HOO• thông qua phản ứng HAT. Hơn nữa, tất cả các phản ứng mất proton (PL) và chuyển điện tử đơn lẻ (SET) với gốc HOO• đều không thuận lợi trong cả pha khí và trong nước với năng lượng tự do có giá trị dương lớn. Do đó, lưu ý một cách hợp lý rằng tính chất chống oxy hóa của acid phenolic chỉ dựa trên khả năng chuyển nguyên tử H. Trong nghiên cứu sau, động học của phản ứng HAT của hầu hết các chất có tiềm năng chống oxy hóa bao gồm GALA, FERA, CAFA và CHLA được đánh giá trong pha khí. Hình 4.35 trình bày cấu trúc các trạng thái chuyển tiếp (TS) của phản ứng HAT giữa gốc HOO • và GALA, CAFA, FERA và CHLA, những acid phenolic phản ứng mạnh nhất, được phát hiện trong nghiên cứu này. 120 Hình 4.35. Trạng thái chuyển tiếp (TS) của phản ứng HAT giữa GALA, CAFA, CHLA và FERA với gốc tự do HOO• trong pha khí (Được tính theo mức lý thuyết LC-PBE/6-311++G(d,p). Liên kết đo bằng Angstrom, góc đo bằng độ. Giá trị trong ngoặc là entanpi tương đối của TS tính bằng kcal/mol). Người ta đã chấp nhận rộng rãi rằng quá trình chuyển nguyên tử H xảy ra thông qua ba trạng thái bao gồm phức chất phản ứng (RC), trạng thái chuyển tiếp (TS) và phức sản phẩm (PC). Quá trình phản ứng được khơi mào bằng sự hình thành phức giữa acid phenolic với gốc HOO• tại vị trí phản ứng để tạo thành trạng thái RC có năng lượng thấp hơn năng lượng của trạng thái của các chất phản ứng ban đầu. Sau đó, tại một cấu trúc đặc biệt có tên là trạng thái chuyển tiếp TS, nguyên tử H bị kéo dài ra và sau đó liên kết O-H bị phá vỡ. Nguyên tử H hình thành một liên kết sigma mới với nguyên tử O trong gốc HOO • (Hình 4.35). Entanpi tương ứng của TS lần lượt là 9,8; 7,6; 7,2 và 14,0 kcal/mol cao hơn so với các chất phản ứng ban đầu đối với GALA, CAFA, CHLA và FERA. Cuối cùng H2O2 tạo phức PC với các gốc tự đo được tạo thành của acid phenolic với các năng lượng tương ứng thấp hơn so với các sản phẩm được tách ra cuối cùng. 121 Bảng 4.22: Năng lượng hoạt hóa tự do Gibbs (ΔG#,1M, tính bằng kcal/mol) ΔG#,1M, kTST (298,15 K), Phản ứng (kcal/mol) (cm3/molecule/s) CAFA-O1H + OOH 18.9 8.90×10-20 CHLA-O8H + OOH 17.9 4.20×10-19 FERA-O2H + OOH 25.6 2.40×10-20 GALA-O1H + OOH 21.1 2.30×10-20 (Đo ở nồng độ tiêu chuẩn (1M) và hằng số phản ứng TST (kTST , tính bằng cm3/molecule/s), bao gồm hiệu chỉnh xuyên hầm Eckart ở 298,15 K được tính trong pha khí cho các phản ứng HAT của GALA, CAFA, CHLA và FERA với gốc tự do HOO•. Tất cả các đặc tính điện tử được tính theo mức lý thuyết LC-PBE/6-311++G(d, p)). Năng lượng hoạt hóa tự do Gibb ở nồng độ chuẩn (1M) và hằng số tốc độ được tính toán thông qua lý thuyết trạng thái chuyển tiếp (TST) ( k TST ) ở nhiệt độ 298,15 K cho bốn phản ứng HAT đã nghiên cứu được trình bày trong bảng 4.21. Như có thể nhìn thấy trong Bảng 4.21, CHLA đại diện cho năng lượng hoạt hóa tự do thấp nhất ( tức là 17,9 kcal/mol) và tốc độ phản ứng cao nhất (tức là 4,20 × 10-19 cm3/phân tử/s). Kết quả này một lần nữa khẳng định hoạt tính chống oxy hóa cao nhất của acid chlorogenic (CHLA) đối với gốc HOO• trong điều kiện phản ứng được nghiên cứu. Do đó, trong số tám acid được nghiên cứu thì GALA, CAFA, CHLA và FERA đại diện như các chất chống oxy hóa hoạt động nhất xảy ra qua quá trình HAT với giá trị rG 0 âm, trong khi những quá trình chống oxy hóa khác như PL hoặc SET không được thể hiện với năng lượng tự do cao. Đặc biệt, acid chlorogenic thể hiện là chất chống oxy hóa mạnh nhất thông qua quá trình HAT với năng lượng tự do hoạt hóa thấp nhất và tốc độ phản ứng cao nhất. Một nghiên cứu lý thuyết về hoạt tính chống oxy hóa của tám acid phenolic bao gồm acid: gallic (GALA), caffeic (CAFFA), vanillic (VANA), isovanillic (ISOVA), - coumaric (COUMA), ferulic (FERA), cinnamic (CINNA) và chlorogenic (CHLA) có sẵn trong chiết xuất dầu hạt đã được nghiên cứu. Phiếm hàm LC-PBE kết hợp với bộ 122 hàm cơ sở 6-311++G(d,p) đã được sử dụng trong pha khí và trong nước. Các kết luận có thể đưa ra như sau: • Kết quả toán dựa theo mức lý thuyết LC-PBE/6-311++G(d,p) cho thấy là một phương pháp tính toán có độ tin cậy rất cao trong việc tính toán các tính chất hình học và thông số nhiệt động khi so sánh với kết quả từ phương pháp CCSD(T)/aug-cc-pVDZ. Ngoài ra, sự khác biệt của kết quả BDE được tính theo hai phương pháp này chỉ nằm trong khoảng nhỏ từ 0,1 đến 0,3 kcal/mol. Vì vậy, phiếm hàm LC-PBE kết hợp với bộ hàm cơ sở 6-311++G(d,p) hoặc cao hơn được gợi ý GALA, CAFA, CHLA và FERA là chất chống oxy hóa phản ứng mạnh nhất cho các tính toán đặc tính chống oxy hóa. xảy ra thông qua quá trình HAT với rG 0 âm là -3,3 kcal/mol đối với CAFA đến - Entanpi tương ứng của phản ứng HAT lần lượt là 9,8, 7,6, 7,2 và 14,0 5,9 kcal/mol đối với các hợp chất FERA trong phản ứng với gốc HOO• trong nước. kcal/mol đối với GALA, CAFA, CHLA và FERA. Trong khi đó, các tính toán động học dựa trên TST xác nhận rằng CHLA thể hiện là chất chống oxy hóa phản ứng mạnh nhất thông qua phản ứng HAT với năng lượng hoạt hóa tự do thấp nhất (tức là 17,9 kcal/mol) và tốc độ phản ứng cao nhất (tức là 4,20 × 10-19 cm3/phân tử /s). Như vậy, tác dụng chống oxi hóa của lipid hạt họ Đậu không chỉ phụ thuộc vào hàm lượng phenolic tổng mà còn phụ thuộc vào từng hợp chất phenolic cụ thể, điều này cũng được tác giả Chen và các cộng sự đưa ra năm 2020 [133]. Kết luận: - Đã khảo sát được tiềm năng chống oxi hóa của một số acid phenolic bằng phiếm hàm mật độ (DFT) hiệu năng cao. Kết quả cho thấy GALA, CAFA, CHLA và FERA là chất chống oxy hóa phản ứng mạnh, các tính toán động học dựa trên TST xác nhận rằng CHLA thể hiện là chất chống oxy hóa phản ứng mạnh nhất thông qua phản ứng HAT. - Kết quả thử hoạt tính theo DPPH: 08/11 loài nghiên cứu thể hiện hoạt tính chống oxi hóa, trong đó ba loài thuộc chi Dalbergia là Dalbergia entadoides Pierre ex Prain (Trắc bàm bàm), Dalbergia mamosa Pierre (Cẩm lai) và Dalbergia tonkinensis Prain (Sưa) với giá trị SC50 tương ứng là 15,4g/mL, 18,5g/mL và 11,9g/mL, như vậy trong số các mẫu này thì lipid hạt Sưa (Dalbergia tonkinensis 123 Prain) có hoạt tính chống oxy hóa tốt nhất. Đã nêu được mối quan hệ giữa hoạt tính chống oxi hóa và hàm lượng phenolic tổng và nêu được mối quan hệ giữa tocopherol và hoạt tính này. - Kết quả này một lần nữa khẳng định việc lựa chọn lipid hạt Sưa là đối tượng nghiên cứu cấu trúc phân tử phospholipid là phù hợp, bời theo thực nghiệm thì hạt Sưa có hàm lượng của lipid tổng cao, hàm lượng acid chlorogenic trong thành phần phenolic cao nhất, và có tính chống oxi hóa theo DPPH tốt nhất. Còn theo kết quả tính toán lý thuyết dự đoán hoạt tính kháng oxi hóa trên công cụ DFT, một lần nữa khẳng định acid chlorogenic thể hiện là chất chống oxy hóa phản ứng mạnh nhất (thông qua phản ứng HAT), qua đây chúng tôi nhận thấy có sự tương đồng giữa kết quả nghiên cứu tính toán lý thuyết và kết quả thực nghiệm với đối tượng là lipid hạt Sưa. - Cấu trúc hoạt chất CHLA sẽ là mô hình tiềm năng cho ta tìm kiếm các hoạt chất chống oxi hóa có nguồn gốc thiên nhiên, và cũng là “khuôn mẫu phân tử” để chúng ta sàng lọc, thiết kế và tổng hợp ra các hoạt chất tương tự trong tương lai. 124 KẾT LUẬN 1. Kết quả về hóa học Lần đầu tiên 11 hạt thực vật thuộc họ Fabaceae ( Họ Đậu) ở Việt Nam, bao gồm nhóm các cây dinh dưỡng, y, dược (Đậu tương leo (Glycine soja), Củ đậu (Pachyrhizus erosus), Đậu ngự (Phaseolus lunatus), Đậu đỏ (Vigna angularis), Đậu trứng cuốc (Vigna unguiculata), Đậu trắng (Phaseolus vulgaris),) và nhóm các cây công nghiệp (Trắc bàm bàm (Dalbergia entadioides), Cẩm lai vú (Dalbergia mammosa), Sưa (Dalbergia tonkinensis), Muồng hoàng yến (Cassia fistula), Cà te (Afzelia xylocarpa), đã được nghiên cứu toàn diện về hàm lượng lipid, một số lớp chất cơ bản trong lipid, thành phần và hàm lượng: triglyceride, acid béo, tocopherol, phytosterol, phenolic. Hàm lượng lipid tổng phần lớn thấp dưới 3% (tính theo khối lượng mẫu khô). Một số mẫu có hàm lượng cao vượt trội như: Đậu tương leo (16,91) và Củ đậu (20,91), Sưa (13,86%). Đã xác định được một số lớp chất cơ bản trong lipid hạt họ Đậu: lipid phân cực (Pol), sterol (ST), Diacylglycerol (DG), acid béo tự do (FFA), triacylglycerol (TG), hydrocacbon + sáp (HW). 1.1. Đã xác định được 9 dạng triglyceride trong mẫu nghiên cứu. Monomere TAG chiếm chủ yếu trong các mẫu với hàm lượng từ 54,8% - 96,74%. 1.2. Đã phát hiện sự có mặt của các acid béo không no là chủ yếu trong lipid hạt họ Đậu, tổng hàm lượng dao động từ 56,74% đến 88,82%. Trong đó, tập trung chủ yếu ở nhóm các acid có hoạt tính sinh học cao như ω3 và ω6. Có 7 mẫu nghiên cứu vượt tiêu chuẩn của WHO về chỉ số ω3/ω6 tốt cho sức khỏe (>0,1). 1.3. Đã xác định được thành phần và hàm lượng của 15 phytosterol trong 11 mẫu nghiên cứu và đã chỉ ra được hàm lượng phytosterol tổng trung bình trong các đối tượng nghiên cứu cao (19.483,29 mg/kg). Có 05 mẫu ở mức cao vượt trội: Đậu ngự (43.214,86 mg/kg), Đậu trắng (42.154,68 mg/kg), Đậu đỏ (29.996,35 mg/kg), Cà te (40.342,54 mg/kg) và hạt Đậu Trứng cuốc (44.164,50 mg/kg). 1.4. Có 09 mẫu có hàm lượng tổng tocopherol thấp (dưới 100 mg/kg), chỉ có một mẫu thuộc nhóm trung bình là hạt Đậu đỏ (M12:164,55 mg/kg) và một mẫu thuộc nhóm có hàm lượng cao là hạt Đậu Trứng cuốc (M13: 266,92 mg/kg). Đã chỉ 125 và α-tocopherol với acid linoleic (18:2(n-6)). ra được mối tương quan giữa hàm lượng γ-tocopherol với acid α-linolenic (18:3(n-3)) 1.5. Hàm lượng phenolic tổng trong các mẫu nghiên cứu dao động từ 0,16 - 34,47 mg/kg. Trong đó 2 hợp chất acid ferulic và acid chlorogenic là hai acid tồn tại trong hầu hết các mẫu và chiếm hàm lượng cao nhất. Acid chlorogenic trong lipid hạt Sưa cao vượt trội so các mẫu khác. 1.6. Lần đầu tiên xác định được thành phần và hàm lượng các phospholipid trong lipid tổng của 11 mẫu hạt họ Đậu nghiên cứu. Các lớp chất PC, PE, PI chứa hàm lượng cao nhất và có mặt ở tất cả 11 mẫu hạt nghiên cứu. Trong đó, PC chứa thành phần chủ yếu với hàm lượng dao động từ 23,19% (M8: Muồng hoàng yến) đến 38,49% (BH56: Cà te). Bên cạnh đó, hai lớp chất PE và PI, cũng chiếm hàm lượng khá cao trong tổng phospholipid, xấp xỉ 20% cho mỗi lớp chất. 1.7. Đã xác định được các “dạng phân tử” phospholipid của lipid hạt Sưa. Kết quả cho thấy phospholipid của hạt Sưa có 3 lớp chất gồm PE, PC, PI. Trong đó PE có 5 dạng phân tử, PC có 5 dạng phân tử và có 2 dạng phân tử của PI. Đây là những số liệu lần đầu được tìm thấy và công bố trong hạt Sưa. 2. Kết quả khảo sát tác dụng sinh học 2.1. Kết quả nghiên cứu hoạt tính chống oxi hóa theo DPPH cho thấy: 08/11 loài thể hiện hoạt tính chống oxi hóa, gồm ba loài thuộc chi Dalbergia là: Trắc bàm bàm, Cẩm lai và Sưa đều thể hiện hoạt tính này tốt. Trong đó, lipid hạt Sưa có hoạt tính chống oxy hóa tốt nhất. Các loài: Đậu ngự, Đậu đỏ, Đậu tương leo, Muồng hoàng yến và Cà te đều thể hiện hoạt tính chống oxi hóa ở mức khá. Ba loài là Đậu trứng cuốc, Đậu trắng và Củ đậu không thể hiện hoạt tính chống oxi hóa. 2.2. Lần đầu khảo sát tiềm năng chống oxi hóa của một số acid phenolic bằng phiếm hàm mật độ (DFT) hiệu năng cao, cụ thể: Acid gallic (GALA), acid caffeic (CAFFA), acid ferulic (FERA), và acid chlorogenic (CHLA) là chất chống oxy hóa phản ứng mạnh xảy ra thông qua quá trình HAT. Trong đó, acid chlorogenic (CHLA) là chất chống oxy hóa phản ứng mạnh nhất thông qua phản ứng HAT với năng lượng hoạt hóa tự do thấp nhất (17,9 kcal/mol) và tốc độ phản ứng cao nhất (4,20 × 10-19 cm3/phân tử/s). Kết quả tính toán theo lý thuyết này phù hợp với các kết quả nghiên cứu thực nghiệm. 126 Các kết quả trên cho thấy các hạt thuộc họ Đậu là nguồn chất có hoạt tính chống oxy hóa có thể sử dụng trong thực phẩm hoặc làm nguồn nguyên liệu sử dụng trong ngành công nghiệp mỹ phẩm. KIẾN NGHỊ - Tiếp tục các nghiên cứu sâu hơn về hoạt tính chống oxy hóa về các loài khác thuộc họ Đậu nhằm xây dựng hồ sơ tạo cơ sở khoa học cho ra những sản phẩm có giá trị ứng dụng thực tiễn của công nghiệp thực phẩm và mỹ phẩm. - Tiếp tục khảo sát thêm các dạng phân tử phospholipid của các mẫu còn lại. - Kết hợp phương pháp lý thuyết với thực nghiệm để đánh giá và làm rõ hoạt tính và cơ chế chống oxy hóa của các hợp chất có nguồn gốc thiên nhiên. Trên cơ sở đó có thể thiết kế và tổng hợp các hợp chất mới có khả năng chống oxy hóa cao hơn. - Trong thời gian tới chúng tôi kiến nghị có những nghiên cứu tiếp theo về thành phần và hàm lượng các hợp chất trong các mẫu nghiên cứu có sự biến động theo thời điểm thu hoạch. 127 NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN 1. Lần đầu tiên 11 hạt thực vật thuộc họ Fabaceae (Họ Đậu) ở Việt Nam, bao gồm nhóm các cây dinh dưỡng, y, dược và nhóm các cây công nghiệp đã được nghiên cứu hệ thống đầy đủ về hàm lượng lipid, một số lớp chất cơ bản trong lipid, thành phần và hàm lượng: triglyceridee, acid béo, tocopherol, phytosterol, phenolic. 2. Lần đầu tiên xác định được thành phần và hàm lượng các phospholipid trong lipid tổng của 11 mẫu hạt họ Đậu nghiên cứu và khảo sát nhận dạng được “các dạng phân tử” trong trong phospholipid của hạt Sưa trên công cụ LCMS-IT-TOF cho thấy có 5 dạng phân tử của PE, 5 dạng phân tử của PC và 2 dạng phân tử của PI. 3. Đã khảo sát hoạt tính chống oxi hóa 11 mẫu hạt nghiên cứu theo phương pháp DPPH và lần đầu tiên khảo sát tiềm năng chống oxi hóa của một số acid phenolic bằng phiếm hàm mật độ (DFT) hiệu năng cao: Acid gallic (GALA), acid caffeic (CAFFA), acid ferulic (FERA), và acid chlorogenic (CHLA) là chất chống oxy hóa phản ứng mạnh nhất xảy ra thông qua quá trình HAT. Trong đó, acid chlorogenic (CHLA) là chất chống oxy hóa phản ứng mạnh nhất thông qua phản ứng HAT với năng lượng hoạt hóa tự do thấp nhất và tốc độ phản ứng cao nhất. Các kết quả tính toán trên cũng phù hợp với kết quả thực nghiệm trên DPPH. 128 CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Lan Phuong Doan, Thi Thuy Nguyen, Minh Quan Pham, Quoc Toan Tran,
Quoc Long Pham, Dinh Quang Tran, Van Thai Than and Long Giang Bach (2019),
Extraction Process, Identification of Fatty Acids, Tocopherols, Sterols and Phenolic
Constituents, and Antioxidant Evaluation of Seed Oils from Five Fabaceae Species,
Processes, 7, 456; doi:10.3390/pr7070456. in Vietnam, Processes, Species Grown 8, 2. Thi Thuy Nguyen, Lan Phuong Doan, Thu Huong Trinh Thi, Hong Ha
Tran, Quoc Long Pham, Hai Ha Pham Thi, Long Giang Bach, Bertrand Matthäus and
Quoc Toan Tran (2020), Fatty Acids, Tocopherols, and Phytosterol Composition of
Seed Oil and Phenolic Compounds and Antioxidant Activity of Fresh Seeds from
Three Dalbergia
542,
http://dx.doi.org/10.3390/pr8050542. 3. Doan Lan Phuong, Nguyen Thi Thuy, Pham Quoc Long,Ping-Chung Kuo,
and Tran Dinh Thang (2019), Composition of fatty acids, tocopherols, sterols, total
phenolics, and antioxidant activity of seed oils of Afzelia xylocarpa and Cassia
fistula. Chemistry of Natural Compounds, 55(2), 242- 246.
https://doi.org/10.1007/s10600-019-02659-x. 3,4, tr. 145-149. 4. Nguyễn Thị Thủy, Đặng Thị Minh Tuyết, Đào Thị Kim Dung, Đặng Thị
Phương Ly, Trịnh Thị Thu Hương, Phạm Quốc Long, Trần Đình Quang, Đoàn Lan
Phương (2019), Khảo sát hàm lượng lipid và thành phần acid béo trong một số hạt
thực vật thuộc cây gỗ quý trong họ Đậu (Fabaceae) ở Việt Nam, Tạp chí hóa học,
Tập 57, số 4E 5. Nguyen Thi Thuy, Dang Thi Minh Tuyet, Dao Thi Kim Dung, Pham Minh
Quan, Pham Quoc Long, Nguyen Thi Mai, Lanh Thi Ngoc, Doan Lan Phuong
(2020), Research of fatty acids, tocopherols and sterols of seed oils extracting from
Pachyrhizus erosus (L.) urb.) in Vietnam, Tạp chí khoa học và công nghệ, tập 58, số
6A, tr. 102-109. 6. Thi Thuy Nguyen, Thi Ngoc Anh Hoang, Thi Thuy Huong Le, Thi Minh
Chau Tran, Dinh Hieu Truong, Minh Quan Pham, Quoc Long Pham, Manh Cuong
Nguyen, Lan Phuong Doan, Duy Quang Dao (2022), Antioxidant potential of eight
phenolic acids using high-performance density functional theory, Tạp chí khoa học
và công nghệ, tập 60, số 1, tr. 21-32. 7. Nguyen Thi Thuy, Pham Minh Quan, Pham Quoc Long, Dao Thi Kim Dung,
Nguyen Thi Mai, Duong The Vi, Nguyen Thi Diep, Doan Lan Phuong, Study on
lipid and phospholipid composition from the seed oil of Dalbergia tonkinensis Prain.
(2021), Tạp chí khoa học và công nghệ, (Đã chấp nhận đăng). 129 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đoàn Lan Phương., Phạm Minh quân., Lã Đình Mỡi., Nguyễn Quốc Bình., B. Mattaus., Phạm Quốc Long., Lipid từ một số loài hạt thực vật Việt Nam. 2018, Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và công nghệ, Hà Nội, 31-177. 2. Phạm Văn Nguyên., Những cây có dầu béo ở Việt Nam. 1981, Nhà xuất bản khoa học kĩ thuật, Hà Nội, 2-10. 3. Bùi Anh Khoa., Nghiên cứu thành phần hóa học và khảo sát hoạt tính gây ngán ăn đối với côn trùng của hạt một số loài thuộc chi Citrus và lá cây tứ chẻ ba, họ Rutcaceae. Luận án Tiến sỹ hóa học, 2005: p. 174tr. 4. Đào Văn Hoằng., Thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học: ứng dụng của hóa học xanh cho nông nghiệp bền vững. Công nghiệp Hóa chất, 2011. 9: p. 30-35. 5. Nguyễn Đăng Khôi., Danh mục các loài thực vật Việt Nam.Tập II. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, 2003: p. 779-786. 6. Bentham G., Genera plantarum. Reeve and Company, 1865: p. 434-600. 7. Polhill, R.M., Raven, P.H., Papilionoideae Advances in Legume Systematics Part 1. Royal Botanic Gadens, 1981: p. 191-208. 8. Lewis, G., Schrire, B., Mackinder, B., Lock, M., Legumes of the world. Royal Botanic Gadens, 2005: p. 14-20. 9. Lewis, G., Schrire, BD., Mackinder, BA., Rico, L., Clark, R., A 2013 linear sequence of legume genera set in a phylogenetic context—a tool for collections management and taxon sampling. South African Journal of Botany, 2013. 89: p. 76-84. 10. Trần Hợp., Cây gỗ kinh tế. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, Hà Nội 1993: p. 272-308. 11. Võ Văn Chi., Trần Hợp., Cây cỏ có ích ở Việt nam. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2002: p. 310-311. 12. Ozek, G., Ozbek, M. U., and Arslan, M., Lipid andessential oil constituents of cota hamzaoglui Özbek & vural(Asteraceae). Chemistry journal of the Turkish Chemical Society, 2018. 5(3): p. 1361-1370. 13. Eyster, K.M., The membrane and lipids as integral participants in signal transduction: lipid signal transduction for the non-lipid biochemist. Advances in physiology education, 2007. 31(1): p. 5-16. 14. Kirchhoff, H., Haase, W., Wegner, S., Danielsson, R., Ackermann, R., and Albertsson, P. A., Low-light-induced formation of semicrystalline photosystem II arrays in higher plant chloroplasts. Biochemistry., 2007. 46(39): p. 11169-11176. 130 15. Li, C., Cheng, X., Jia, Q., Song, H., Liu, X., Wang, K., and Zhang, M., Investigation of plant species with identified seed oil fatty acids in Chinese literature and analysis of five unsurveyed Chinese endemic species. Frontiers in Plant Science, 2017. 8: p. 224-225. 16. Maeda, N., Kokai, Y., Ohtani, S., Sahara, H., Kumamoto-Yonezawa, Y., Kuriyama, I., and Mizushina, Y., Anti-tumor effect of orally administered spinach glycolipid fraction on implanted cancer cells, colon-26, in mice. Lipids, 2008. 43(8): p. 741-748. 17. Knothe, G., Luis F. Razon., Domingo A. Madulid., Esperanza Maribel G. Agoo., and Maria Ellenita G. de Castro., Fatty acid profiles of some Fabaceae seed oils. Journal of the American Oil Chemists' Society 2016. 7: p. 1007-1011. 18. Phạm Quốc Long., Châu Văn Minh., Lipit và các axit béo hoạt tính sinh học có nguồn gốc thiên nhiên. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 2005: p. 70-74. 19. Vance, D.E., Ridgway, Neale, D., The methylation of phosphatidylethanolamine. Progress in lipid research, 1988. 27(1): p. 61-79. 20. Hamberg, M., Liepinsh, Edvards., Otting, Gottfried., Griffiths, William. , Isolation and structure of a new galactolipid from oat seeds. Lipids, 1998. 33(4): p. 355-363. 21. Olennikov, D.N., Tankhaeva, L.M., Sandanov, D.V. , Fatty acids from seeds of Sophora flavescens and Styphnolobium japonicum. Chemistry of natural compounds, 2009. 45(2): p. 225-226. 22. Đặng Thị Phương Ly., Nghiên cứu thành phần lipid và các dạng phân tử phospholipid tù một số loài san hô mềm ở Việt Nam. Luận án tiến sỹ hóa học, 2016. Hà Nội: p. 1-11. 23. Baer, E., From the trioses to the synthesis of natural phospholipids: A research trail of forty years. The American Oil Chemists’ Society, 1965. 42(4): p. 257-266. 24. Szuhaj B. F., Lecithins: sources, manufacture & uses,. Journal of the American Oil Chemists' Society, 1989. 25. Calvano, C.D., Mariachiara Bianco., Giovanni Ventura., Ilario Losito., Francesco Palmisano., and Tommaso RI Cataldi., Analysis of phospholipids, lysophospholipids, and their linked fatty acyl chains in yellow lupin seeds (Lupinus luteus L.) by liquid chromatography and tandem mass spectrometry. Molecules 2020. 4: p. 805. 131 26. Epstein, S.S., Forsyth, J., Saporoschetz, I. B., and Mantel, N., An exploratory investigation on the inhibition of selected photosensitizers by agents of varying antioxidant activity. Radiation Research, 1966. 28: p. 322-335. 27. Wang, X., and Quinn, P. J. , The location and function of vitamin E in membranes. Molecular Membrane Biology, 2000. 17: p. 143-156. 28. Grusak, M.A., and DellaPenna, D., Improving the nutrient composition of plants to enhance human nutrition and health. Annual Review of Plant Biology, 1999. 50: p. 133-161. 29. Hess, J.L., Alscher R.G., Vitamin E: α-Tocopherol. Antioxidants in Higher Plants, 1993: p. 111-134. 30. Bagci, Eyup., Bruehl, Ludger., Özçelik, Hasan., Aitzetmuller, Kurt., Vural, Mecit., Sahim, Ahmet, A study of the fatty acid and tocochromanol patterns of some Fabaceae (Leguminosae) plants from Turkey I. Grasas y aceites, 2004. 55(4): p. 378-384. 31. Moreau, R.A., Nyström, Laura., Whitaker, Bruce D., Winkler-Moser, Jill K., Baer, David J., Gebauer, Sarah K., Hicks, Kevin B. , Phytosterols and their derivatives: Structural diversity, distribution, metabolism, analysis, and health- promoting uses. Progress in Lipid Research, 2018. 70: p. 35-61. 32. Doan, L.P., Nguyen, Thi Thuy., Pham, Minh Quan., Tran, Quoc Toan., Pham, Quoc Long., Tran, Dinh Quang., Than, Van Thai., and L.G. Bach, Extraction process, identification of fatty acids, tocopherols, sterols and phenolic constituents, and antioxidant evaluation of seed oils from five Fabaceae species. Processes, 2019. 7(7): p. 456. 33. Galotta, A.L.Q.A., Boaventura, Maria Amelia D., Lima, Luciana ARS. , Antioxidant and cytotoxic activities of'açaí'(Euterpe precatoria Mart.). Quimica Nova, 2008. 31(6): p. 1427-1430. 34. Garcia-Salas, P., Morales-Soto, Aranzazu., Segura-Carretero, Antonio., Fernández-Gutiérrez, Alberto. , Phenolic-compound-extraction systems for fruit and vegetable samples. Molecules, 2010. 15(12): p. 8813-8826. 35. Dai, J., Mumper, Russell J., Plant phenolics: extraction, analysis and their antioxidant and anticancer properties. Molecules, 2010. 15(10): p. 7313-7352. 132 36. Mahugo Santana, C., Sosa Ferrera, Zoraida., Esther Torres Padrón., Juan Santana Rodríguez, José., Methodologies for the extraction of phenolic compounds from environmental samples: new approaches. Molecules, 2009. 14(1): p. 298-320. 37. Jurikova, T., Mlcek, Jiri., Skrovankova, Sona., Balla, Stefan., Sochor, Jiri., Baron, Mojmir., Sumczynski, Daniela., Black crowberry (Empetrum nigrum L.) flavonoids and their health promoting activity. Molecules, 2016. 21(12): p. 1685. 38. Hernandez-Arriaga, A.M., Oomah, B Dave., Campos-Vega, Rocio., Microbiota source impact in vitro metabolite colonic production and anti-proliferative effect of spent coffee grounds on human colon cancer cells (HT-29). Food Research International, 2017. 97: p. 191-198. 39. De Almeida, D.A.T., Rosa, Suellen Iara Guirra., Da Cruz, Thais Campos Dias., Pavan, Eduarda., Damazo, Amílcar Sabino., Soares, Ilsamar Mendes., Ascêncio, Sérgio Donizeti., Macho, Antonio. , Mandevilla longiflora (Desf.) Pichon improves airway inflammation in a murine model of allergic asthma. Journal of ethnopharmacology, 2017. 200: p. 51-59. 40. Mabaleha, M.B., Yeboah, S.O. , Characterization and compositional studies of the oils from some legume cultivars, Phaseolus vulgaris, grown in Southern Africa. Journal of the American Oil Chemists' Society, 2004. 81(4): p. 361-364. 41. Islam, S., Carmen, Rafaela C., Garner, James O. , Fatty acid compositions in ungerminated (whole seed), cotyledon and embryo tissues of cowpea (Vigna unguiculata L. Walp) seed grown under different temperatures. Journal of Food Agriculture Environment 2007. 5(1): p. 189-190. 42. Yoshida, H., Tomiyama, Yuka., Yoshida, Naoko., Shibata, Kyoko., Mizushina, Yoshiyuki., Regiospecific profiles of fatty acids in triacylglycerols and phospholipids from adzuki beans (Vigna angularis). Nutrient, 2010. 2(1): p. 49-59. 43. Lianhe, Z., Li, Wang., Xing, Huang., Zhengxing, Chen., Physicochemical properties, chemical composition and antioxidant activity of Dalbergia odorifera T. Chen seed oil. Journal of the American Oil Chemists' Society, 2012. 89(5): p. 883-890. 133 44. Manuela Renna., A.G.-B., Carola Lussiana., Luca M., Battaglini,Khouloud Belfayez., and Riccardo Fortina., Fatty Acid Composition of the Seed Oils of Selected Vicia L. Taxa from Tunisia. Italian Journal of Animal Science 2014. 13 (2): p. 308-316. 45. Wati, M., Khabiruddin, M., Phytochemical properties of seeds and oils of Cassia Fistula (two locations). Oriental Journal of Chemistry, 2017. 33(4): p. 1969. 46. Ivanov, S. and K. Aitzetmüller, Untersuchungen über die Tocopherol-und Tocotrienolzusammensetzung der Samenlipide einiger Arten der bulgarischen Flora. Fett, 1998. 100(8): p. 348-352. 47. Ivanov, S.A., Aitzetmüller, K., Untersuchungen über die Tocopherol-und Tocotrienolzusammensetzung der Samenlipide einiger Arten der bulgarischen Flora. Fett, 1998. 100(8): p. 348-352. 48. Fuentes, E., Planchuelo, Ana M., Sterol and fatty acid patterns in wild and cultivated species of Lupinus (Leguminosae). Zeitschrift fur Naturforschung C, 1997. 52(1-2): p. 9-14. 49. Ryan, E., Galvin, Karen., O’Connor, Tom P., Maguire, Anita R., and N.M. O’Brien, Phytosterol, squalene, tocopherol content and fatty acid profile of selected seeds, grains, and legumes. Plant Foods for Human Nutrition, 2007. 62(3): p. 85-91. 50. Lalita, L. and S. Oberoi, A comparative study of fatty acids and sterols profiles in seed oil of five Cassia species. Archives of Applied Science Research, 2010. 2(1): p. 295-301. 51. Saptarini, N.M., Herawati, Irma Erika. , Total phytosterol content in red beans (Phaseolus Vulgaris L.) and peas (Pisum sativum L.) from Bandung, Indonesia. Drug Invention Today, 2018. 10(8): p. 1505-1507. 52. Korus, J., Gumul, Dorota., Czechowska, Kamila. , Effect of extrusion on the phenolic composition and antioxidant activity of dry beans of Phaseolus vulgaris L. Food Technology Biotechnology 2007. 45(2): p. 139-146. 53. Berber, A., Gokhan Zengin, Abdurrahman Aktumsek, Murad Aydin Sanda, and Tuna Uysal., Antioxidant capacity and fatty acid composition of different parts of Adenocarpus complicatus (Fabaceae) from Turkey. Revista de biologia tropical 62, 2014. 1: p. 349-358. 134 54. Goldson Barnaby, A., Reid, R., and Warren, D. , Antioxidant activity, total phenolics and fatty acid profile of Delonix regia, Cassia fistula, Spathodea campanulata, Senna siamea and Tibouchina granulosa. Anal Pharm Res, 2016. 3(2): p. 00056. 55. Diniyah, N., Alam, Md Badrul., Lee, Sang-Han. , Antioxidant potential of non- oil seed legumes of Indonesian’s ethnobotanical extracts. Arabian Journal of Chemistry, 2020. 13(5): p. 5208-5217. 56. Yoshida, H., Tomiyama, Yuka., Yoshida, Naoko., Shibata, Kyoko., Mizushina, Yoshiyuki., Characterization in the fatty acid distributions of triacylglycerols and phospholipids in kidney beans (Phaseolus vulgaris L.). Journal of food lipids, 2005. 12(2): p. 169-180. 57. Olennikov, D.N., L. M. Tankhaeva, and D. V. Sandanov. , Fatty acids from seeds of Sophora flavescens and Styphnolobium japonicum. Chemistry of natural compounds, 2009. 2: p. 225-226. 58. Antova, G.A., Angelova-Romova, Maria Y., Petkova, Zhana Y and O.T. Teneva, Marcheva, Marina P., Zlatanov, Magdalen. D., Biologically active components in Madia sativa seed oil. Journal of food science technology, 2017. 54(10): p. 3044-3049. 59. Liu, A., Zhixia Xiao., Zhili Wang., Hon-Ming Lam., and Mee-Len Chye., Galactolipid and phospholipid profile and proteome alterations in soybean leaves at the onset of salt stress. Frontiers in plant science 2021. 12: p. 383-384. 60. Calvano, C.D., et al., Analysis of phospholipids, lysophospholipids, and their linked fatty acyl chains in yellow lupin seeds (Lupinus luteus L.) by liquid chromatography and tandem mass spectrometry. Molecules, 2020. 25(4): p. 805. 61. Zia-Ul-Haq, M., Ahmad, Shakeel., Amarowicz, Ryszard., De Feo, Vincenzo. , Antioxidant activity of the extracts of some cowpea (Vigna unguiculata (L) Walp.) cultivars commonly consumed in Pakistan. Molecules, 2013. 18(2): p. 2005-2017. 62. Kamagate, M., Koffi, Camille., Kouame, N Mathieu and A. Akoubet, Alain, N., Yao, R., Die, H. , Ethnobotany, phytochemistry, pharmacology and toxicology profiles of Cassia siamea Lam. The Journal of Phytopharmacology, 2014. 3(1): p. 57-76. 135 63. Dzoyem, J.P., McGaw, Lyndy J., Eloff, Jacobus N. , In vitro antibacterial, antioxidant and cytotoxic activity of acetone leaf extracts of nine under- investigated Fabaceae tree species leads to potentially useful extracts in animal health and productivity. BMC Complementary and Alternative Medicine, 2014. 14(1): p. 1-7. 64. Złotek, U., Szymanowska, Urszula., Baraniak, Barbara., Karas, Monika., Antioxidant activity of polyphenols of adzuki bean (Vigna angularis) germinated in abiotic stress conditions. Acta Scientiarum Polonorum Technologia Alimentaria, 2015. 14(1): p. 55-63. 65. Orsi, D.C., Nishi, Adriana Candida Faustino., Carvalho, Vania Silva., Asquieri, Eduardo Ramirez., Chemical composition, antioxidant activity and development of desserts with azuki beans (Vigna angularis). Brazilian Journal of Food Technology, 2017. 20: p. 166-168. 66. Butsayamat Rattanadon., S.T., Pornpimol Ponkham., Suchana Wanich., Metta Kengchuwong., and Kwanyuen Leamsamrong. , Nutritional Compositions and Antioxidant Activities of Makamong (Afzelia xylocarpa (Kurz) Craib), Flower Fence(Caesalpinia pulchrrima (L.) Sw.) and Tamarind (Tamarindus indica (L.) Kernels). Songklanakarin Journal of Science and Technology, 2018. 15: p. 40-47. 67. Peiretti, P.G., Karamac, Magdalena., Janiak, Michał., Longato, Erica., Meineri, Giorgia., Amarowicz, Ryszard., Gai, Francesco. , Phenolic composition and antioxidant activities of soybean (Glycine max (L.) Merr.) plant during growth cycle. Agronomy, 2019. 9(3): p. 153. 68. Võ Thị Bạch Huệ., Chiết xuất axit carpamic từ lá đu đủ Carica papaya L. caricaceae Dược học 1998. 6: p. 12-13. 69. Đào Văn Hoằng., Thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học: ứng dụng của hóa học xanh cho nông nghiệp bền vững. Tạp chí Công nghiệp Hóa chất, 2011. 9. 70. Nguyen, V.B., Wang, San-Lang., Nhan, Ngu Truong., Nguyen, Thi Hanh., Nguyen, Nguyen Phuong Dai., Nghi, Do Huu., Cuong, Nguyen Manh., New records of potent in-vitro antidiabetic properties of Dalbergia tonkinensis heartwood and the bioactivity-guided isolation of active compounds. Molecules, 2018. 23(7): p. 1589. 136 71. Ramachandran, K.I., Deepa, Gopakumar., Namboori, Krishnan., Computational chemistry and molecular modeling: principles and applications. 2008: Springer Science and Business Media. 72. Stewart, J.J.P., Optimization of parameters for semiempirical methods II. Applications. Journal of computational chemistry, 1989. 10(2): p. 221-264. 73. Marx, D., Hutter, Jurg., Ab initio molecular dynamics: basic theory and advanced methods. 2009: Cambridge University Press, Germany. 74. Labanowski, J.K., Andzelm, Jan W., Density functional methods in chemistry. 2012: Springer Science and Business Media. 75. Becke, A.D., Density‐functional thermochemistry. I. The effect of the exchange‐ only gradient correction. The Journal of chemical physics, 1992. 96(3): p. 2155-2160. 76. Takao Tsuneda., Density functional theory in quantum chemistry. Springer Science and Business Media, 2014. 77. Galano, A., Alvarez‐Idaboy, Juan Raul., Kinetics of radical‐molecule reactions in aqueous solution: A benchmark study of the performance of density functional methods. Journal of computational chemistry, 2014. 35(28): p. 2019-2026. 78. Saqib, M., Iqbal, Shahid., Mahmood, Asif., and R. Akram, Theoretical investigation for exploring the antioxidant potential of chlorogenic acid: a density functional theory study. International Journal of Food Properties, 2016. 19(4): p. 745-751. 79. Tabrizi, L., Nguyen, Thi Le Anh., Tran, Hoang Dieu Thao., Pham, Minh Quan., Dao, Duy Quang., Antioxidant and Anticancer Properties of Functionalized Ferrocene with Hydroxycinnamate Derivatives—An Integrated Experimental and Theoretical Study. Journal of Chemical Information Modeling, 2020. 60(12): p. 6185-6203. 80. De Souza, G.L.C., Peterson, Kirk A. , Benchmarking antioxidant-related properties for gallic acid through the use of DFT, MP2, CCSD, and CCSD (T) approaches. The Journal of Physical Chemistry A, 2021. 125(1): p. 198-208. 81. Standardization., I.O.f., Oil seeds- Determination of oil content. ISO Geneva, Switzerland,Standard, 1988.: p. 1-12. 137 82. Imbs, Andrey B., Dang, Ly., Rybin, Viacheslav G., Svetashev, Vasily., Fatty acid, lipid class, and phospholipid molecular species composition of the soft coral Xenia sp.(Nha Trang Bay, the South China Sea, Vietnam). Lipid, 2015. 50(6): p. 575-589. 83. Standardization.., I.O.f., Animal and Vegetable Fats and Oils—Preparation of Methyl Esters of Fatty Acids. Standard No. 5509; ISO: Geneva, Switzerland, 1988. 84. International Organization for Standardization No. 9936; ISO: Geneva, S., Animal and vegetable fats and oils—determination of tocopherol and tocotrienol contents by high‐performance liquid chromatography. 2006. 85. Council, I.O., Determination of the Composition and Content of Sterols by Capillary Column Gas Chromatography. COI/T, 20/Doc. No. 10 Rev; Madrid, Spain, 2001. 86. Council), I.I.O., Determination of the difference between actual and theoretical content of triacylglycerols with ECN 42. 2008: p. COI/T.20/Doc. no. 20 /Rev. 2. 87. Saeed, N., Khan, Muhammad., R Shabbir, Maria.,, Antioxidant activity, total phenolic and total flavonoid contents of whole plant extracts Torilis leptophylla L. BMC complementary alternative medicine, 2012. 12(1): p. 221. 88. Boukhchina, S., Sebai, Khaled., Cherif, Ammar., Kallel, Habib., and P.M. Mayer, Identification of glycerophospholipids in rapeseed, olive, almond, and sunflower oils by LC MS and LC MS MS. Canadian Journal of Chemistry, 2004. 82(7): p. 1210-1215. 89. Imbs, A.B., Dang, L.T.P., The molecular species of phospholipids of the cold- water soft coral Gersemia rubiformis (Ehrenberg, 1834)(Alcyonacea, Nephtheidae). Russian Journal of Marine Biology, 2017. 43(3): p. 239-244. 90. Kostetsky, E., The phospholipid-composition of Spongia, Coelenterata, Plathelminthes, Nemertini, Annelida, Sipunculida and Echiurida. Biologiya Morya-Marine Biology, 1984(5): p. 46-53. 91. Imbs, A.B., Dang, Ly., Rybin, Viacheslav G., Svetashev, Vasily., Fatty acid, lipid class, and phospholipid molecular species composition of the soft coral Xenia sp.(Nha Trang Bay, the South China Sea, Vietnam). Lipids, 2015. 50(6): p. 575-589. 138 92. Yuvaraj, P., Subramoniam, A., Louis, Therasilin., Madhavachandran, V., Narasu, M Lakshmi., Attenuation of expression of cytokines, oxidative stress and inflammation by hepatoprotective phenolic acids from Thespesia populnea Soland ex Correa stem bark. Ann. Phytomed, 2013. 2: p. 47-56. 93. Gaussian09, R.A., 1, mj frisch, gw trucks, hb schlegel, ge scuseria, ma robb, jr cheeseman, g. Scalmani, v. Barone, b. Mennucci, ga petersson et al., gaussian. Inc., Wallingford CT, 2009. 121: p. 150-166. 94. Vydrov, O.A., Scuseria, Gustavo E., Assessment of a long-range corrected hybrid functional. The Journal of chemical physics, 2006. 125(23): p. 234109. 95. Marenich, A.V., Cramer, Christopher J., Truhlar, Donald G., Universal solvation model based on solute electron density and on a continuum model of the solvent defined by the bulk dielectric constant and atomic surface tensions. The Journal of Physical Chemistry B, 2009. 113(18): p. 6378-6396. 96. Bartmess, J.E., Thermodynamics of the electron and the proton. The Journal of Physical Chemistry, 1994. 98(25): p. 6420-6424. 97. Galano, A., Merino, Gabriel., Alvarez‐Idaboy, Juan Raul., A computational methodology for accurate predictions of rate constants in solution: Application to the assessment of primary antioxidant activity. Journal of computational chemistry, 2013. 34(28): p. 2430-2445. 98. Dzib, E., Cabellos, José Luis., Ortíz‐Chi, Filiberto., Pan, Sudip., and A. Galano, Merino, Gabriel., Eyringpy: A program for computing rate constants in the gas phase and in solution. International Journal of Quantum Chemistry, 2019. 119(2): p. e25686. 99. Leopoldini, M., Marino, Tiziana., Russo, Nino., Toscano, Marirosa., Antioxidant properties of phenolic compounds: H-atom versus electron transfer mechanism. The Journal of Physical Chemistry A, 2004. 108(22): p. 4916-4922. 100. Augustus, G.D.P.S. and Seiler, Promising oil producing seed species of western ghats (Tamil Nadu, India). Industrial Crops and Products, 2001. 13(2): p. 93-100. 101. Badami, R.C., Characterisation of fifteen varieties of genotype peanuts for yield, oil content and fatty acid composition. Journal of the Oil Technologists' Association of India 1979: p. 85-87. 139 102. Nguyễn Thị Nguyệt., A.I., Rybin Viacheslav., Phạm Quốc Long., Vũ Thị Oanh., Nguyễn Thị Hồng Vân., Phạm Thị Hồng Minh., Nguyễn Quốc Bình., Đoàn Lan Phương. , Nghiên cứu lipid, axit béo, các dạng phân tử của lớp chất lysophosphatidylethanolamine (LPE) trong mẫu hạt sến hoang dã Madhuca elliptica (Pierre ex Durbard) H.J. Lam. Tạp chí Hóa học, 2015. 53: p. 500-504. 103. Aldini, R., Micucci, Matteo., Cevenini, Monica., Fato, Romana., Bergamini, Christian., Nanni, Cristina., Cont, Massimiliano., Camborata, Cecilia., Spinozzi, Silvia., Montagnani, Marco., Antiinflammatory effect of phytosterols in experimental murine colitis model: prevention, induction, remission study. PloS one, 2014. 9(9): p. e108112. 104. Khotimchenko, S., Kulikova, IV., Lipids of different parts of the lamina of Laminaria japonica Aresch. Botanica Marina, 2000. 43(1): p. 87-91. 105. Phạm Luận., Phương pháp phân tích sắc ký và chiết tách. 2014: Nhà xuất bản Bách khoa Hà Nội. 106. Đoàn Lan Phương., Nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học một số dẫn xuất tocopherol và acid béo có nguồn gốc tự nhiên. Luận án tiến sỹ hóa học, 2009. 107. Gunstone, F.D., Harwood, John L., Dijkstra, Albert J., The lipid handbook with CD-ROM. 2007, CRC press. 108. Ajayi, I.A., Oderinde, Rotimi A., Kajogbola, David O., Uponi, Joseph., Oil content and fatty acid composition of some underutilized legumes from Nigeria. Food chemistry, 2006. 99(1): p. 115-120. 109. Doan, L.P., Nguyen, Thi Thuy., Long, Pham Quoc., Pham, Minh Quan., Thuy, Tran Thi Thu., Minh, Pham Thi Hong., Ping-Chung, Kuo., Tran, Dinh Thang., Fatty acid, tocopherol, sterol compositions and antioxidant activity of three Garcinia seed oils. Records of Natural Products, 2018. 12(4): p. 323. 110. Kojima, M., Ohnishi, Masao., Ito, Seisuke., Composition and molecular species of ceramide and cerebroside in scarlet runner beans (Phaseolus coccineus L.) and kidney beans (Phaseolus vulgaris L.). Journal of Agricultural Food and Chemistry, 1991. 39(10): p. 1709-1714. 111. Matthäus, B., The new database seed oil fatty acids (SOFA). Lipid Technology, 2012. 24(10): p. 230-234. 140 112. Peiretti, P.G., Fatty acid content and chemical composition of vegetative parts of perilla (Perilla frutescens L.) after different growth lengths. 2011: Journal of Medicinal Plants. p. 72-78. 113. Mozaffarian, D. and J.H. Wu, Omega-3 fatty acids and cardiovascular disease: effects on risk factors, molecular pathways, and clinical events. Journal of the American College of Cardiology, 2011. 58(20): p. 2047-2067. 114. Matthaus, B., Ozcan, MM. , Chemical evaluation of flower bud and oils of tumbleweed (Gundelia tourneforti L.) as a new potential nutrition sources. Journal of food biochemistry, 2011. 35(4): p. 1257-1266. 115. Kamal‐Eldin, A., Andersson, Roger., A multivariate study of the correlation between tocopherol content and fatty acid composition in vegetable oils. Journal of the American Oil Chemists' Society, 1997. 74(4): p. 375-380. 116. Gensler, W.J., Recent developments in the synthesis of fatty acids. Chemical Reviews, 1957. 57(2): p. 191-280. 117. Normen, L., Bryngelsson, Susanne., Johnsson, Monica., Evheden, Pascale., Ellegard, Lars., Brants, Henny., Andersson, Henrik., Dutta, Paresh., The phytosterol content of some cereal foods commonly consumed in Sweden and in the Netherlands. Journal of Food Composition Analysis, 2002. 15(6): p. 693-704. 118. De Jong, A., Plat, Jogchum., Mensink, Ronald P., Metabolic effects of plant sterols and stanols. The Journal of Nutritional Biochemistry, 2003. 14(7): p. 362-369. 119. Huma, S., Ghazala, H Rizwani., Muhammad, Zia-ul-Haq., Shakeel, Ahmad., Hina, Zahid., Tocopherol and phytosterol profile of Sesbania grandiflora (Linn.) seed oil. Journal of Medicinal Plants Research, 2012. 6(18): p. 3478-3481. 120. Aued-Pimentel, S., Takemoto, Emy., Antoniassi, Rosemar., and E.S.G. Badolato, Composition of tocopherols in sesame seed oil: an indicative of adulteration. Grasas y aceites, 2006. 57(2): p. 205-210. 121. Gupta, R., Sharma, Anil K., Dobhal, MP., Sharma, M.C., Gupta, R.S., Antidiabetic and antioxidant potential of β‐sitosterol in streptozotocin‐induced experimental hyperglycemia. Journal of diabetes, 2011. 3(1): p. 29-37. 141 122. Jahaniaval, F., Kakuda, Y., Marcone, M.F. , Fatty acid and triacylglycerol compositions of seed oils of five Amaranthus accessions and their comparison to other oils. Journal of the American Oil Chemists' Society, 2000. 77(8): p. 847-852. 123. Clifford, M.N., Chlorogenic acids and other cinnamates-nature, occurrence and dietary burden. Journal of the Science of Food and Agriculture, 1999. 79(3): p. 362-372. 124. Santana-Gálvez, J., Cisneros-Zevallos, Luis., Jacobo-Velázquez, Daniel., Chlorogenic acid: Recent advances on its dual role as a food additive and a nutraceutical against metabolic syndrome. Molecules, 2017. 22(3): p. 358. 125. Rocha-Guzman, N.E., Herzog, Annete., Gonzalez-Laredo, Ruben Francisco., Ibarra-Perez, Francisco Javier., Zambrano-Galvan, Graciela., Gallegos-Infante, Jose Alberto., Antioxidant and antimutagenic activity of phenolic compounds in three different colour groups of common bean cultivars (Phaseolus vulgaris). Food chemistry, 2007. 103(2): p. 521-527. 126. Kostetsky, E.Y., The phospholipid-composition of Spongia, Coelenterata, Plathelminthes, Nemertini, Annelida, Sipunculida and Echiurida. Biologiya Morya-Marine Biology, 1984(5): p. 46-53. 127. Yoshida H., T.Y., Kita S., Mizushina Y,, Lipid classes, fatty acid composition and triacylglycerol molecular species of kidney beans (Phaseolus vulgaris L.). European Journal of Lipid Science and Technology, 2005. 107: p. 307-315. 128. Hou, J., Wu, Hou., Ho, ChiTang., Weng, XinChu., Antioxidant activity of polyphenolic compounds from Dalbergia odorifera T. Chen. Pakistan Journal of Nutrition, 2011. 10(7): p. 694-701. 129. Castro, I.A., Rogero, Marcelo M., Junqueira, Roberto M., Carrapeiro, Mariana M., Free radical scavenger and antioxidant capacity correlation of α- tocopherol and Trolox measured by three in vitro methodologies. International journal of food sciences and nutrition, 2006. 57(1-2): p. 75-82. 130. Oomah, B.D., Cardador‐Martinez, Anaberta., Loarca‐Piña, Guadalupe., Phenolics and antioxidative activities in common beans (Phaseolus vulgaris L). Journal of the Science of Food Agriculture, 2005. 85(6): p. 935-942. 142 131. Kumar, N., Goel, Nidhi., Goel, Nidhi., Phenolic acids: Natural versatile molecules with promising therapeutic applications. Biotechnology Reports, 2019. 24: p. e00370. 132. Shang, Y., Li, Xiangzhou., Li, Zhaoshuang., Shen, Liqun., Zhou, Jun., Hu, Runfeng., Chen, Kai. Mechanistic study on the radical scavenging activity of viniferins. Journal of Molecular Structure, 2022. 1260: p. 132830. 133. Chen, J., Yang, Jing., Ma, Lanlan., Li, Jun., Shahzad, Nasir., Kim, Chan Kyung., Structure-antioxidant activity relationship of methoxy, phenolic hydroxyl, and carboxylic acid groups of phenolic acids. Scientific reports, 2020. 10(1): p. 1-9.Ký hiệu
LPE LPC PAc PC
PE
PI
PG PS DPG Uknown
MS/MS
[M-H]-
CTPT
Ion mảnh [M-H-X]- ***
Mảnh trung hòa
X
CTPT
TT
Thời gian lưu
Bảng 4.13. Dữ liệu phổ MS1, MS2, MS3 của dạng phân tử PC có tín hiệu ion
MS1
MS3
Thành phần
MS2
Ion
[M+H]+
[M+HCOO]-
[M-CH3]-
Hình 4.26. Sự phân mảnh trong phổ MS2 và MS3 [E-] của dạng phân tử PC có tín
TT
[M+H]+
CTPT
%trong phân lớp
PC
30,20
26,14
16,90
20,83
4,93
Dạng phân tử
PC
18:2/16:0
18:2/18:2
18:2/18:1
18:2/18:0
18:1/18:0
[M-H]-
TT
Thời gian lưu
16:0/18:2
18:0/18:2
TT
Dạng phân tử
% trong từng phân lớp
16:0/18:2
16:0/18:1
18:2/18:2
18:1/18:2
18:0/18:2
18:2/16:0
18:2/18:2
18:2/18:1
18:2/18:0
18:1/18:0
16:0/18:2
18:0/18:2
BDE
PA
IP
BDE
PA
IP
Cpd./liên
Cpd.
kết
/bonds
GALA
CAFA
79.0
80.7
330.1
77.9
(78.2a)
76.2
(81.1b)
(76.8c)
332.1
28.0
26.5
VANA
85.0
83.8
COUMA
340.9
26.9
80.9
84.2
333.1
45.8
ISOVA
84.3
83.0
BDE
PA
IP
BDE
PA
IP
Cpd./liên
Cpd.
kết
/bonds
342.3
26.7
CINA
342.6
27.5
108.3
102.2
FERA
338.9
81.2
(86.9b)
79.2
(84.6b)
28.0
CHLA
Trolox
320.7
22.0
75.3
79.8
Ascorb.