BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ MINH CHI
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI VÀ
THẢM THỰC VẬT VÙNG CỬA SÔNG
- VEN BIỂN SÔNG HÀM LUÔNG,
TỈNH BẾN TRE
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2007
1
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, hình
ảnh và các kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào.
Bến Tre, ngày 30 tháng 9 năm 2007
Phạm Thị Minh Chi
3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến:
- GS.TSKH Lê Huy Bá, người đã giúp đỡ, động viên, hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
- Quí thầy cô giảng dạy khoa Sinh Trường ĐH Sư Phạm TP.HCM.
- Quí thầy cô giảng dạy khoa Sinh Trường ĐH Khoa học tự nhiên - ĐH Quốc
giaTP.HCM.
- PGS.TS Trần Hợp
- TS Viên Ngọc Nam, giảng viên Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM
- Quí thầy cô Ban Giám Hiệu và các đồng nghiệp giảng dạy Trường THPT Phú
Hưng - tỉnh Bến Tre.
- Quí cô chú Sở Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn tỉnh Bấn Tre, Ban quản lý
Lâm trường - Khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú - Bến Tre.
- Các anh chị ở Trung tâm CEER.
- UBND 3 xã An Thủy, An Điền, Thạnh Hải. Các cô bác, anh chị, đặc biệt là các
em học sinh ở 2 xã An Điền, Thạnh Hải huyện Thạnh Phú.
- Các nhà thực vật học Th.s Trịnh Thị Lâm, CN Đặng Văn Sơn, CN Nguyễn
Quốc Đạt và Viện Sinh học nhiệt đới TP.HCM.
- Th.s Ngô Thị Phương Uyên, giảng viên Khoa Địa chất Trường ĐH Khoa học
tự nhiên - ĐH Quốc gia TP.HCM.
- Cử nhân Trịnh Thị Nga và Phân Viện điều tra Quy hoạch và Thiết kế nông
nghiệp TP.HCM.
- Ông Đoàn Văn Phúc, trưởng Phòng Tài nguyên môi trường và Sở Tài nguyên
môi trường tỉnh Bến Tre.
- Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre.
Đóng góp không nhỏ trong thành công ngày hôm nay, xin được bày tỏ lòng biết
4
ơn sâu sắc đối với gia đình, Ba, Má và các bạn bè thân thiết đã động viên giúp đỡ rất
nhiều về tinh thần và vật chất để tôi hoàn thành luận văn này.
Phạm Thị Minh Chi
5
MỤC LỤC
0TLỜI CAM ĐOAN0T ................................................................................................ 3
0TLỜI CẢM ƠN0T ...................................................................................................... 4
0TMỤC LỤC0T ............................................................................................................ 6
0TDanh mục các chữ viết tắt0T .................................................................................. 9
0TMỞ ĐẦU0T ............................................................................................................ 10
0T1.Lý do chọn đề tài0T ................................................................................................. 10
0T2.Mục đích nghiên cứu:0T ......................................................................................... 11
0T3.Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu0T .................................................. 12
0T4.Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài0T ............................................. 12
0T5.Cấu trúc luận văn0T ................................................................................................ 13
0TChương 1: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU0T ................................................ 15
0T1.1.Tổng hợp tư liệu và tài liệu đã có0T .................................................................... 17
0T1.2.Phương pháp phỏng vấn trực tiếp0T .................................................................. 17
0T1.3.Khảo sát, thu thập số liệu ở thực địa0T .............................................................. 18
0T1.4.Xác định và kiểm tra tên khoa học0T ................................................................. 20
0T1.5.Lập danh lục thực vật0T ...................................................................................... 21
0T1.6.Thu mẫu và bảo quản tiêu bản thực vật0T ........................................................ 21
0T1.7.Cách lấy mẫu đất về phân tích0T ........................................................................ 22
0T1.8.Phương pháp xử lý, phân tích số liệu0T ............................................................. 23
0TChương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU0T .............................................................. 24
0T2.1.Các nghiên cứu trước đây về thành phần loài và thảm thực vật cửa sông
0T2.2.Khái quát các nhóm nhân tố sinh thái phát sinh quần thể thảm thực vật
ven biển, trong và ngoài nước:0T .............................................................................. 24
6
0T2.2.1.Nhóm nhân tố tự nhiên0T ............................................................................. 27
0T2.2.2.Nhân tố con người0T ..................................................................................... 45
0TChương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN0T ....................................................... 50
0T3.1.Thành phần loài thực vật vùng cửa sông ven biển sông Hàm Luông - tỉnh
cửa sông ven biển.0T................................................................................................... 27
0T3.1.1.Nhân tố bản địa0T .......................................................................................... 50
0T3.1.2.Thực vật quý hiếm vùng cửa sông ven biển sông Hàm Luông:0T .............. 60
0T3.1.3.Nhân tố di cư:0T ............................................................................................ 60
0T3.1.4.Giới thiệu một số loài thực vật trong vùng cửa sông ven biển sông Hàm
Bến Tre0T .................................................................................................................... 50
0T3.2.Các kiểu quần hệ thực vật0T ............................................................................... 89
0T3.2.1.Kiểu RNM trên bãi triều thấp ven biển:0T ................................................... 89
0T3.2.2.Kiểu RNM trên đất bùn chặt:0T .................................................................... 94
0T3.2.3.Kiểu RNM trên đất bùn phù sa lỏng ngập nước mặn sang lợ:0T ............. 100
0T3.2.4.Hệ thực vật trên đất cồn cát cửa sông ven biển:0T .................................... 116
0T3.3.Một số hình thái đặc sắc của các loài cây ngập mặn0T ................................... 119
0T3.3.1.Một số hình thái của rễ:0T .......................................................................... 119
0T3.3.3.Hiện tượng thai sinh và trụ mầm:0T .......................................................... 126
0TKẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ0T ........................................................................ 128
0T1.Kết luận0T .............................................................................................................. 128
0T1.1.Thành phần loài thực vật ở vùng ven biển cửa sông Hàm Luông0T ........... 128
0T1.2.Các kiểu quần hệ thực vật0T .......................................................................... 129
0T2.Kiến nghị0T ............................................................................................................ 130
0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T .............................................................................. 133
Luông tỉnh Bến Tre.0T ........................................................................................... 62
7
0TTiếng Việt0T .............................................................................................................. 133
0TTiếng Anh0T .............................................................................................................. 137
0TPHỤ LỤC0T ......................................................................................................... 138
0TPhụ lục 1: Danh lục các loài thực vật ven biển cửa sông Hàm Luông - Tỉnh
0TPhụ lục 2: Kết quả phân tích đất0T ........................................................................ 151
0TPhụ lục 3: Kết quả phân tích đất0T ........................................................................ 152
0TPhụ lục 4: Các loài trên ô tiêu chuẩn số 1 ở bãi Trảng Lầy - Tiểu khu 17, xã
Bến Tre0T .................................................................................................................. 138
0TPhụ lục 5: Các loài trên ô tiêu chuẩn số 2 trên đất bồi đã ổn định gần ngã ba
Thạnh Hải, khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú0T ........................................... 153
rạch Cây Dừa - Tiểu khu 16, xã Thạnh Hải, khu BTTN đất ngập nước Thạnh
0TPhụ lục 6: Các loài trên ô tiêu chuẩn số 3 ở bãi bồi phù sa lỏng gần Vàm Rỏng
Phú0T ......................................................................................................................... 154
0TPhụ lục 7: Các loài trên ô tiêu chuẩn số 4 ở bãi bồi phù sa lỏng gần rạch Tắt
- Tiểu khu 13, xã An Điền, khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú0T ................. 156
0TPhụ lục 8: Các loài trên ô tiêu chuẩn số 5 ở bãi bồi phù sa lỏng ở cồn Hố gần
Bần - Tiểu khu 12, xã An Điền, khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú0T ......... 158
rạch Đùng, phía bờ tả sông Hàm Luông - xã An Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến
0TPhu lục 9: Kết quả xử lý số liệu 30 ô tiêu chuẩn ở vùng ven biển cửa sông Hàm
Tre.0T ......................................................................................................................... 159
Luông bằng phần mềm Primer50T ......................................................................... 160
8
Danh mục các chữ viết tắt
BTTN: Bảo tồn thiên nhiên
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
ĐDSH: Đa dạng sinh học
HST: Hệ sinh thái
KHCN&MT: Khoa học công nghệ và môi trường
Otc: Ô tiêu chuẩn
RNM: Rừng ngập mặn
WWF: Quỹ Quốc tế và Bảo vệ thiên nhiên
9
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Bến Tre là một trong các tỉnh ven biển Nam Bộ thuộc đồng bằng châu thổ sông
Cửu Long. Nơi đây có điều kiện tự nhiên khá un đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phát ừiển các ngành nghề kinh tế biển, kinh tế vườn với năng suất sinh học cao cũng
như tiềm năng du lịch sinh thái là rất lớn. Nhưng đồng thời nơi đây đang đối mặt với
những thách thức về sự ô nhiêm môi trường, mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt nguồn
trữ lượng tự nhiên diễn ra ngày càng tăng mà nguyên nhân trước đây là do sự hủy diệt
của bom đạn, chất độc hóa học trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, ảnh hưởng của sự
bùng nổ dân số sau chiến tranh và tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Từ
đó, sự giảm súc về chất lượng, sổ lượng và vẻ đẹp của các cảnh quan thiên nhiên, nơi
cư trú của những động vật hoang dã, nguy cơ làm giảm sự đa dạng sinh học (ĐDSH)
trở thành mối lo ngại hàng đầu đối với các nhà khoa học, các nhà quản lý cũng như
các cư dân vốn đã từng gắn bó lâu đời với vùng đất trù phú với nhiều phong cảnh sông
nước hữu tình giữa những dãy cù lao rừng xanh bát ngát.
Vùng cửa sông ven biển sông Hàm Luông thuộc khu vực ven biển của hệ thống
cửa sông Cửu Long ở miền Tây Nam Bộ đổ ra biển Đông qua chín cửa, với bờ nam
(huyện Thạnh Phú) có đường bờ biển dài gần 25km, bờ bắc (huyện Ba Tri) có đường
bờ biển dài gân l0km. Nơi đây có những yêu tô thuận lợi cho sự hình thành và phát
triền thảm rừng ngập nước mặn - lợ điển hình vùng cửa sông thuận ven biển nhiệt đới
gió mùa.
Thảm thực vật ven biển nhiệt đới, trong đó rừng ngập mặn (RNM) là một trong
những hệ sinh thái (HST) đặc sắc ở vùng ven biển, đặc biệt trên 13 tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL), RNM có một vị trí quan trọng trong các tài nguyên, vì
chăng những RNM cung cáp cho nhu cầu thiết yếu của nhân dân như củi, than, gỗ gia
dụng, lá để lợp nhà, làm vách... mà đất RNM cũng có thể dùng trồng lúa và hoa màu,
đánh bắt nuôi trồng thủy hải sản đặc biệt là nuôi tôm xuất khẩu, đem lại nguồn thu
nhập quan trọng, nhưng đồng thời là nguyên nhân chính đã làm giảm diện tích rừng.
10
Hơn nữa, RNM là nơi quần tụ của vô số loài sinh vật khác (nhuyễn thể, giáp xác, cá,
bò sát, chim, thú, ...); RNM không chỉ là nơi cư trú mà còn cung cấp nguồn dinh
dưỡng, hỗ trợ cho sự tồn tại và phát triển phong phú của các quần thể sinh vật cửa
sông ven biển đồng thời còn là nơi "ương ấp" những ấu thể của nhiều loài sinh vật
biển, nơi duy trì ĐDSH cho biển (Mohamed & Rao, 1971; Frusher, 1983); là trạm
dừng chân của nhiều loài chim di cư từ phương Bắc xuống các vùng nhiệt đới xích
đạo phía Nam để tránh rét trong mùa đông [16, tr.152-127]. RNM còn là một thành
lũy đê che chắn tốt những ruộng vườn, nhà cửa hạn chế đáng kể tác hại do gió bão của
biển Đông và nạn xói lở bờ biển, kể cả khi có sóng thần, cải thiện khí hậu để mở rộng
diện tích lục địa và đem lại sự cân bằng sinh thái cho những tỉnh Nam Bộ [28, tr. 196-
197].
Bên cạnh đó, thảm rừng ngập mặn cửa sông ven biển còn chứa đựng một số loài
cây quý hiếm có giá trị và là nơi bảo tồn các nguồn gen chịu đất ngập nước mặn vùng
nhiệt đới gió mùa.
Những giá trị tiêu biểu vừa nêu trên của hệ thực vật ven biển cửa sông Hàm
Luông thông qua vai trò làm giàu cho nên kinh tế biển bền vững, mang lại sự thoải
mái cho đời sống văn hóa tinh thần, là tiềm năng du lịch sinh thái, đặc biệt là các giá
trị về bảo tồn đa dạng sinh vật và cân bằng hệ sinh thái đã thôi thúc chúng tôi nghiên
cứu sâu hơn về thành phần loài thực vật và các loại hình rừng vùng cửa sông ven biển
nơi đây, góp phân bảo vệ tốt sinh cảnh ngập nước ven biển và bảo tồn những loài thực
vật quý hiếm trong vùng.
2.Mục đích nghiên cứu:
- Khảo sát, điều tra thành phần loài cây trên đất ngập mặn vùng cửa sông ven
biển sông Hàm Luông, ghi nhận các đặc điểm hình thái của cơ quan sinh dưỡng, sinh
sản thích nghi với điều kiện môi trường khắc nghiệt thường xuyên ngập triều, nhiều
sóng gió biển, cường độ chiếu sáng cao, thế nên đất bùn lầy thiếu khí.
- Sự phân bố, mức độ ảnh hưởng của những điêu kiện khắc nghiệt này đến sự
hình thành các kiểu RNM ở cửa sông ven biển sông Hàm Luông.
- Mối quan hệ giữa loài, quân xã thực vật vùng ven biển cửa sông Hàm Luông.
11
Những đóng góp của luận văn:
• Xây dựng danh lục thực vật vùng ven biển cửa sông Hàm Luông - tỉnh Bến
Tre, sắp xếp theo họ, bộ trong hệ thống sinh tiến hóa.
• Mô tả theo các phiếu điều tra, định danh theo Danh pháp thực vật, bổ sung
bằng các bộ ảnh màu, bộ tiêu bản của các loài thực vật đặc trưng cho vùng cửa sông
ven biển sông Hàm Luông - tỉnh Bến Tre.
• Khảo sát, ghi nhận các đặc điểm thích nghi về hình thái của các loài cây ngập
mặn.
• Điều tra thu thập tài liệu liên quan đến RNM ở địa phương, thu thập số liệu trên
ô tiêu chuẩn, định hình cho các trạng thái rừng để có cơ sở nhận định về cấu trúc và
kết cấu của các kiểu rừng thuộc thảm thực vật ngập mặn vùng ven biển cửa sông Hàm
Luông.
• Thống kê các loài theo nhóm loài cây ngập mặn chủ yếu, nhóm tham gia RNM,
các loài cây quý hiếm có giá trị để góp phần bảo tồn ĐDSH của HST rừng ngập nước
cửa sông ven biển Nam Bộ.
• Đóng góp một vài tư liệu cho việc tuyên truyền giáo dục, bảo vệ môi trường và
tài nguyên thiên nhiên đồng thời giới thiệu một số địa điểm có cảnh quan thiên nhiên
đẹp, có ý nghĩa giáo dục, phục vụ tham quan, an dưỡng, du lịch sinh thái.
3.Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
Đề tài: "Nghiên cứu thành phân loài và thảm thực vật ngập mặn vùng cửa sông
ven biển sông Hàm Luông — tỉnh Bến Tre" chỉ khảo sát những sinh cảnh thuộc thảm
thực vật ngập mặn vùng cửa sông ven biển năm ven theo chiêu dài bờ biển trên đất bãi
bôi cách mép nước từ 50 – l000m (có bản đồ khoanh vùng nghiên cứu, bảng 1.1)
4.Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Những năm trước đây, tỉnh Bến Tre cũng đã có những dự án nghiên cứu bảo vệ
ĐDSH cho địa phương, đã tiến hành điều tra, khảo sát, thống kê thành phần loài thực
vật, động vật cũng như đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường nước và đề xuất biện
pháp bảo vệ môi trường cho vùng cửa sông ven biển tỉnh Bến Tre:
12
- Dự án xây dựng Khu Bảo tồn sân chim Vàm Hồ nằm bên hữu ngạn sông Ba
Lai (xã Mỹ Hòa, huyện Ba Tri, Bến Tre).
- Dự án đầu tư phát triển Khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú (nằm trên 3 xã
An Điền, Thạnh Phong, Thạnh Hải), do Sở KH-CN&MT tỉnh Bến Tre phối hợp thực
hiện với Phân viện Điều tra Quy hoạch rừng II và các cơ quan, các cán bộ khoa học có
liên quan khác, 1998. Hệ sinh thái RNM ven cửa sông Hàm Luông, tỉnh Bến Tre, ít,
nhiều đã có sự tác động của con người, diện tích rừng bị chia cắt, bao đê thành những
đám nhỏ, hiện tượng suy giảm nguồn Tài nguyên sinh vật, giảm số cá thể đang diễn ra
khá rõ rệt, một số loài có nguy cơ bị tiêu diệt trong thảm RNM vốn sẵn là tương đối
mỏng ở vùng cửa sông ven biển đầy biến động này.
Do đó, việc nghiên cứu thảm thực vật ngập mặn nhằm hướng tới việc thống kê,
xác định thực trạng suy thoái của các nguồn tài nguyên thực vật, giáo dục, phục hồi và
bảo vệ các dạng sinh cảnh, các loài quý hiếm, hạn chế tác động làm biến đổi môi
trường, định hướng khai thác và sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên sinh vật là rất cần
thiết.
5.Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, 3 chương và phần kết luận:
- Phần : Mở đầu
- Chương 1: Phương pháp nghiên cứu
- Chương 2: Tổng quan tài liệu
- Chương 3: Kết quả và thảo luận
- Phần : Kết luận và kiến nghị
13
14
Chương 1: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thành phần loài thực vật là một nội dung nhỏ trong công tác điều tra
ĐDSH ở mức độ đa dạng loài (định nghĩa về ĐDSH của WWF (1989) đã nêu lên 3
mức độ là đa dạng di truyền, đa dạng loài và đa dạng hệ sinh thái); còn được gọi là
điều tra khu hệ thực vật, là các hoạt động khảo sát thực địa nhằm cung cấp những
thông tin về số lượng loài hiện có và sự phân bố của chúng trong các dạng sinh cảnh
nêu có thể. Kết quả của việc nghiên cứu này sẽ cung cấp một bảng danh mục các loài
có mặt trong khu vực theo hệ thống phân loại, làm cơ sở cho việc nghiên cứu bảo vệ
tính ổn định của các quần thể và hệ sinh thái.
Nghiên cứu ĐDSH vùng cửa sông ven biển được dựa trên cơ sở xác định sự
phân bố của các loài theo cấp độ mặn khác nhau từ biển (nước mặn) vào đất liền
(nước lợ, nước ngọt). Vùng cửa sông ven biển là khu vực có vị trí cực kỳ quan trọng
trong hoạt động kinh tế, giải trí và các quá trình tái tạo thiên nhiên. Vùng cửa sông có
những ưu thế của vùng tiếp xúc giữa các quyển nên sức sản xuất rất cao, tạo ra sản
lượng thu hoạch lớn cho con người so với nhiều hệ sản xuất tự nhiên khác. Như là một
quy luật, HST cửa sông nằm trong trạng thái cân bằng mỏng manh trong mối tương
tác sông - biển và với các HST liên đới trên cạn và biển xa bờ, nhưng đồng thời còn
gánh chịu những hậu quả do hoạt động kinh tế của con người gây ra. Vì vậy, vùng
sinh thái ở đây đặc biệt khắc nghiệt, mà nguồn dinh dưỡng lại dồi dào nên mức độ đa
dạng về loài sinh vật thấp hơn so với các HST khác, song, thế vào đó là tính đa dạng
về di truyền và sự giàu có về số lượng của chúng [23, tr.41].
Thảm thực vật (Vegetation) là lớp phủ của thực vật trên mặt đất với nhiều quần
thể thực vật khác nhau, là tấm gương phản chiếu một cách trung thành nhất, mà lại
tổng hợp được các điêu kiện của hoàn cảnh tự nhiên; mỗi quần thể thực vật bao gồm
những đơn vị cụ thể mà hình dạng, cấu trúc, thành phân, ranh giới, trạng mùa, động
thái, vùng phân bố v.v... đều dựa trên cơ sở sinh thái học và địa lí thực vật học (quan
điểm quần thể - của nhiều tác giả) [28, tr.22] là nên tảng cho GS.TSKH Thái Văn
Trừng xây dựng luận điểm về Sinh thái phát sinh quần thể trong thảm thực vật rừng
nhiệt đới (1998). Cửa sông Cửu Long và Tây Nam bộ được bao phủ bởi thảm RNM
điên hình của vùng bờ biển nhiệt đới gió mùa. Sự phân bố của cây RNM phụ thuộc
15
chủ yếu vào nền đáy, chế độ ngập triều, độ muối của nước và sóng gió, vì thế, chúng
tạo nên các đới phân bố rất rõ rệt trong không gian vùng cửa sông [24, tr.42].
Những bãi lầy cây mắm, bần, đước, sú, vẹt ở các vùng nhiệt đới ven biển đóng
vai trò không thể thay thế được trong việc điều tiết thủy triều và nước lũ, giữ lại
những trầm tích giàu dinh dưỡng và là nơi trú ẩn cho cá, các loài động vật khác.
Nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học (GS.TSKH Lê Huy Bá, 2003) chứng tỏ
RNM góp vai trò vô cùng quan trọng trong việc nuôi tôm sú bền vững ở vùng ven
biển. Nếu đánh mất HST vùng cửa sông ven biển sẽ là một mất mát to lớn đối với toàn
bộ HST ven biển của tỉnh Bến Tre.
Nghiên cứu đa dạng về loài có thể được thực hiện ở hầu hết các quốc gia, lãnh
thổ có thể được thực hiện bởi bất kỳ ai yêu quý thiên nhiên. Sự ĐDSH được hiểu phổ
biến nhất và dễ nghiên cứu nhất ở mức đơn giản là sự giàu có của loài. Sự đa dạng của
loài được đánh giá thông qua việc điêu tra, định tên và thống kê số lượng cá thể và
thành phần các loài trong một lãnh thổ để từ đó có những hướng quản lý, sử dụng hợp
lý nguồn tài nguyên quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng.
16
* Sơ đồ nghiên cứu:
1.1.Tổng hợp tư liệu và tài liệu đã có
Tổng hợp tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, các ngành nghề vùng
cửa sông ven biển tỉnh Bến Tre.
1.2.Phương pháp phỏng vấn trực tiếp
Trên cơ sở phiếu điều tra (phụ lục 9), chúng tôi tìm cách tiếp cận và phỏng vấn
những người được khoán giữ rừng, người dân địa phương sống gần Khu BTTN về
17
thành phần loài, mức độ phong phú, phân bố thực tại của chúng nhăm khai thác triệt
đê vê tình trạng các loài sinh vật đã và đang hiện diện trong vùng nghiên cứu.
1.3.Khảo sát, thu thập số liệu ở thực địa
Có nhiêu phương pháp điều tra thảm thực vật và thực vật, trong phạm vi nghiên
cứu của luận văn này chúng tôi đã áp dụng phương pháp điều tra theo tuyến và ô tiêu
chuẩn điển hình, dựa trên phương pháp nghiên cứu thảm thực vật ở rừng ẩm nhiệt đới
Brazin của Cain S. và Castro (1960) được GS. Thái Văn Trừng cải tiến (1998) trong
"Những hệ sinh thái rừng nhiệt đới ở Việt Nam" [28, tr.52-71], đồng thời có áp dụng
một số phương pháp khác trong các tài liệu [9], [49, tr.41-75, tr.315-331].
Việc thu thập mẫu để xác định tên taxon và xây dựng bảng danh lục thực vật
được tiến hành qua nhiều đạt khảo sát thực địa, vào các mùa trong năm (mùa mưa,
mùa khô) và tùy thuộc thời điểm đơm bông kết trái của các loài thực vật khác nhau.
Tiến hành khảo sát sơ bộ để xác định các khu vực, các tuyến, điểm trên bản đồ
thực địa (bản đồ hiện trạng hoặc bản đồ hành chính).
Trong các chuyến thực địa chính, tiến hành khảo sát theo khu vực tuyến, điểm
trên bản đồ thực địa.
√ Phương pháp điều tra theo tuyến
Thảm thực vật ngập mặn cửa sông ven biển sông Hàm Luông, tỉnh Bến Tre được
chúng tôi chia thành 5 khu vực khảo sát: bãi Trảng Lầy, bãi bồi ngã ba rạch Cây Dừa,
bãi bồi Vàm Rỏng, bãi bồi rạch Tắt Bần, bãi bồi rạch Đùng - cồn Hố. Tại mỗi khu vực
cách mép nước ven bờ khi nước ròng khoảng từ 50 – l000m, các tuyến điều tra thu
thập được thiết lập theo đường đê dọc các con sông, rạch (được xem như là tuyến
chính), các tuyên phụ được mở về hai bên (mỗi bên 10 - 20m) và đi qua các quần xã
khác nhau. Trên mỗi tuyến, tiến hành ghi chép đặc điểm các kiểu sinh cảnh, điều tra
các loài thực vật bậc cao có mạch và các tác động tự nhiên hay do con người lên thảm
thực vật. Mỗi loài thu 4-5 tiêu bản.
√ Phương pháp điều tra theo ô tiêu chuẩn
Các ô tiêu chuẩn được định vị và xây dựng dọc theo các tuyến điều tra, được
18
chọn một cách ngẫu nhiên nhằm đảm bảo đại diện cho hầu hết các khu vực khác nhau,
đại diện cho tính chất của thảm thực vật trong phạm vi nghiên cứu.
Kích thước ô tiêu chuẩn:
Kích thước ô phụ thuộc vào các kiểu thảm thực vật, các sinh cảnh. Trong vùng
nghiên cứu của đề tài này, thành phần loài cây ngập mặn là khá đơn giản trong điều
kiện môi trường nên đất bán cố định, bị chia cắt nhiều bởi hệ thống lạch triều chằng
chịt, gây nhiều bất lợi cho việc điều tra nên chúng tôi chọn ô nhỏ 10m x 10m. Dùng la
2 dùng thước dây 50m để thiêt lập các ô (10m x 10m = 100mP
P).
bàn để xác định các hướng (Đông, Tây, Nam, Bấc) nơi được chọn làm ô tiêu chuân,
Cách đo đếm, ghi chép thảm thực vật trong ô:
Dùng phiếu điều tra để ghi chép thảm thực vật trong ô.
+ Phần đầu phiếu ghi các thông tin cơ bản của ô như số thứ tự ô, tọa độ, kiểu
thảm thực vật, ngày điều tra, người điều tra...
+ Đo đếm và định loại cây gỗ, cây bụi. Cần ghi tên của tất cả các cây gỗ và cây
bụi trong ô, cây nào chưa biết tên phải lấy tiêu bản và đánh dấu vào phiếu để định
loại. Tiến hành đo đếm mật độ (số cây/ô), đường kính thân cách mặt đất l,3m (DR1,3mR),
chiều cao dưới cành (H RdcR), chiều cao vút ngọn (HRvnR), đường kính tán cây (DRtánR) của tất
cả các cây gỗ có DR1,3mR >= l0cm.
+ Đo ở vị trí l,3m, trừ trường hợp cây có bạnh vè thì đo đường kính tại vị trí kết
thúc bạnh vè trên thân cây.
+ Đối với các cây bị phân cành dưới l,3m xem như là 2 cây riêng biệt.
Biểu đồ trắc diện quần thể:
Phương pháp mô tả câu trúc ngoại mạo và thành phân loài cây bằng biểu đồ
phẫu diện được Richards P. W. và Davis T.A.W. đề ra từ năm 1933 -1934 trong khi
nghiên cứu thảm thực vật vùng nhiệt đới ở Moraballi của Guyana thuộc Anh [28,
tr.52].
Phẫu đồ rừng là bản vẽ mô tả mặt cắt ngang và mặt cắt dọc. Phẫu đồ rừng cho ta
thấy kết cấu tầng rừng (phẫu đồ ngang), hình dạng tán của từng loài và độ tàn che của
19
rừng (phẫu đồ đứng).
+ Phẫu đồ rừng được vẽ trên giấy kẻ ly, công việc được tiến hành cùng với đo,
đêm cây, theo nguyên tác vẽ từng cây một.
+ Phẫu đồ đứng (mặt cắt dọc): Chọn một lát cắt có chiều dài (thường là cạnh của
ô tiêu chuẩn), và chiêu sâu 5m (10 x 5m). Cây gân vẽ trước, cây xa vẽ sau, nên khi thể
hiện trên giấy kẻ ly, những cây đứng phía trước có nét liền, những cây phía sau có nét
đứt đoạn.
+ Phau đô ngang (mặt cắt ngang): được chiêu từ tán cây xuống, vẽ trên toàn bộ
diện tích ô tiêu chuẩn. Do đó, cây cao nhất sẽ là nét liền và những cây dưới tán sẽ là
nét rời.
+ Vẽ phẫu đồ đứng cho một cây được tiến hành như sau: Xác định vị trí ngọn
cây. Đo tán cây về hai hướng Nam Bắc và Đông Tây để xác định vị trí của tán cây
trên mặt phẳng. Quan sát kỹ hình dạng thân cây, cành cây và tán cây để vẽ chúng trên
giấy kẻ ly sao cho hình vẽ giống với thực tế.
+ Vẽ phẫu đồ ngang cho một cây: Xác định tọa độ gốc cây bằng cách đo khoảng
cách giữa góc cây với 2 cạnh của dãy (cạnh của ô tiêu chuẩn) để thể hiện gốc cây trên
mặt phẳng ngang. Quan sát hình dạng và kích thước của tán cây theo mặt phẳng ngang
để vẽ trên giấy kẻ ly [49, tr.50-51].
Cần ghi tên các loài cây hiện diện trên hình vẽ của chúng (nêu tên cây được viết
tắt thì phải có chú thích) hoặc số thứ tự của cây đó trong bảng.
Đối với cây có thực vật phụ sinh hoặc dây leo ta vẽ ngay trên cây đó.
1.4.Xác định và kiểm tra tên khoa học
Việc xác định tên khoa học có thể tiến hành ngoài thực địa hay trong phòng tiêu
bản.
- Ngoài thực địa: Việc xác định tên cây ngoài thực địa có lợi thế là sử dụng tiêu
bản còn tươi, các bộ phận cây chưa thay đổi về hình dạng và màu sắc, nhưng lại gặp
khó khăn là thiếu tài liệu để tra cứu.
- Trong phòng tiêu bản: Những loài mà chưa xác định chính xác tên khoa học thì
20
cần được ghi chép, mô tả thật chi tiết các đặc điểm của loài nhất là đặc điểm của bông,
trái để việc giám định tại phòng tiêu bản thuận lợi hơn. Giám định tên khoa học trên
cơ sở lá, hoa và ảnh chụp kết họp với tài liệu mô tả, đối chiếu với tài liệu bộ "Cây cỏ
Việt Nam" của Phạm Hoàng Hộ là chính.
Trường hợp khó giám định được tên khoa học, mang mẫu về Phòng tiêu bản
thực vật - Viện sinh học nhiệt đới, 85 Trần Quốc Toản, Q3, TP.HCM để đối chiếu với
bộ mẫu lưu trữ tại đây.
1.5.Lập danh lục thực vật
Danh lục thực vật là một bảng thống kê toàn bộ các loài thực vật đã gặp hoặc thu
được tiêu bản trong khu vực điều tra nghiên cứu.
Danh lục thực vật được sắp xép theo các ngành thực vật từ thấp đến cao. Vị trí
của các họ dựa theo Hệ thống Takhtajan 1973 trong quyển "Cẩm nang tra cứu và nhận
biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam" (Nguyễn Tiến Bân, 1997), trong các họ xếp
các chi và loài theo vần abc (theo tên khoa học).
Đối với tên Việt Nam, có thể có nhiều tên, chọn tên thường gọi nhất để đầu tiên,
sau đến tên sau, tên dân gian.
1.6.Thu mẫu và bảo quản tiêu bản thực vật
√ Thu thập mẫu
Mẫu vật đạt tiêu chuẩn là thu hái mẫu đầy đủ các bộ phận lá, hoa, quả... Trong
trường hợp lá hoặc cụm hoa, quả to thì thu riêng các bộ phận khác nhau.
Giữ mẫu đem về ép: Mau thu được xếp ngay ngắn, ép trong cặp mẫu hoặc cho
vào túi ni lông.
√ Ép và làm khô mẫu vật
Mẫu thu hái về cần vuốt thẳng, giữ đúng hình dáng tự nhiên, đặt giữa hai tờ giấy
báo (khổ lớn gấp đôi). Trường họp mẫu dài hoặc rộng hơn khổ báo, ta có thể bẻ gấp
khúc lại 1 - 2 điểm nhưng các lá, cành không được chồng chéo lên nhau. Xếp mẫu vào
tờ báo sao cho thấy được cả hai mặt lá, cuống lá và chóp lá, sau đó xếp lên mẫu 4 - 5
21
tờ báo khác đê tạo độ cách giữa các mâu và có khả năng hút âm, đông thời tránh các
cành của mâu vật không in vết lên mẫu vật khác. Xếp tiêu bản lên một cặp gỗ với số
lượng mẫu vừa đủ (dày khoảng 15 - 20cm), dùng dây cột chặt cặp gỗ lại.
Sau khi ép xong mang ra phơi nắng và thường xuyên thay giấy đệm để mẫu mau
khô và ít bị rụng lá. Trường hợp không có nắng, phải sấy khô bằng bép lửa, lò sấy
hoặc tủ sấy. Nhiệt độ để sấy khô tiêu bản tốt nhất là 40 - 50°C và phải thay giấy nhiều
lần trong ngày. Đối với các chùm quả mọng cần đeo số hiệu mẫu và không ép trong
cặp gỗ mà để sấy ở ngoài cho chóng khô.
Để giữ được màu khi sấy khô, trước khi ép nên nhúng nhanh vào nước sôi. Đối
với các loài cây có nhựa mủ cũng cần nhúng mẫu vào nước sôi trước khi đem ép để
tránh hiện tượng rụng lá. Có thể dùng hóa chất để giữ màu, bằng cách ngâm mẫu vào
dung dịch CuSOR4R 5% trong 1 ngày đêm hoặc trong dung dịch gồm 200ml nước nóng
đã hòa tan 30gr phèn chua, 5gr tiêu diêm, sau đó vớt ra, đê ráo nước ròi ép và sây khô.
√ Xử lý mẫu đã sấy khô
Sau khi đã sấy khô, để ngăn chặn côn trùng và nấm phá hại, mẫu phải được
ngâm tẩm các chất độc. Dung dịch thường được sử dụng là clorua thủy ngân (HgClR2R),
được pha chế bằng cách lấy 1 lít cồn 90° pha với 1/2 lít nước và 30gr HgClR2R, khuấy
đều. Ngâm mẫu trong 4-5 phút, vớt ra, đặt giữa hai tờ báo cho ráo, ép, và sây lại [49,
tr.70].
√ Khâu kết mẫu
Sau khi mẫu đã được xử lý hóa chất và sấy khô lại có thể đem khâu kết để cố
định mẫu. Giây dùng khâu két là loại bìa troki cứng, bên, màu trăng. Khô giây qui
định khâu tiêu bản là (28 X 42)cm hoặc (30 X 42)cm. Góc dưới bên trái của tiêu bản,
dán Êtyket có kích thước (7 X 10)cm, ghi các nội dung: tên phòng tiêu bản (tên cơ
quan, tên trường...), số hiệu, tên Việt Nam, tên khoa học, họ, môi trường sống, người
và ngày thu mẫu, người giám định.
1.7.Cách lấy mẫu đất về phân tích
Đối với RNM thu lấy mẫu đất ở vị trí sâu l0cm và 40cm. Mỗi ô tiêu chuẩn lấy 3
22
vị trí rồi trộn theo vị trí sâu với nhau và đem về phòng thí nghiệm để phân tích. Mẫu
đất được gởi phân tích tại phòng phân tích thuộc Phân viện Quy hoạch và Thiết kế
nông nghiệp, số 20 Võ Thị Sáu, Q.1, TP.HCM.
1.8.Phương pháp xử lý, phân tích số liệu
Sử dụng phân mềm Primer 5 (Clarke & Warwick, 1994) để xác định các biểu đồ
Bray - Curtis (Cluster) và MDS, xác định các chỉ số sinh học S, N, d, J',... giữa các
quần xã.
Sử dụng Excel để tính toán các giá trị trung bình cho các chỉ số trên.
23
Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1.Các nghiên cứu trước đây về thành phần loài và thảm thực vật cửa sông
ven biển, trong và ngoài nước:
Kiểu rừng kín thường xanh mưa âm nhiệt đới vùng cửa sông ven biển với các giá
trị đa dạng độc đáo và phức tạp; mang ý nghĩa lớn không những đối với sự bảo tồn các
giá trị về ĐDSH mà còn đem lại sự phát triển trù phú và bền vững cho cả một khu vực
đồng bằng vùng cửa sông ven biển; đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tổ
chức các nhà khoa học và quản lý trong và ngoài nước.
Tổ chức quốc tê nghiên cứu vê vùng cửa sông có thê kê đèn là Liên đoàn Nghiên
cứu Cửa sông (Estuarine Research Federation - ERF) được thành lập năm 1971 nhằm
thực hiện các nghiên cứu phục vụ cho việc bảo tồn và duy trì tính ĐDSH vùng cửa
sông của tất cả các quốc gia trên thế giới có quan tâm đến lĩnh vực này
(http://erf.org/abouterf.html.).
Ở Mỹ, Hệ thống Nghiên cứu Bảo tồn Cửa sông Quốc gia (NERRS) đã tiến hành
thành lập mạng lưới bảo vệ vùng cửa sông bao gồm 26 khu vực cửa sông được chọn
để thực hiện các nghiên cứu về nước, quan trắc chất lượng nước và giáo dục môi
trường nhăm cung cáp những thông tin khoa học vê các cửa sông đông thời giúp cho
người dân yêu quý và bảo vệ các nguồn tài nguyên vùng cửa sông của Hoa Kỳ
(http://www.aed.org/Proiects/nerrs.cfìn). Có khoảng 29 dự án về các vấn đề vùng cửa
sông, trong đó có 4 dự án đề cập đến thống kê ĐDSH của vùng cửa sông ở phía Bắc
Carolina (Hoa Kỳ) đã được thực hiện bởi Viện Hợp tác kỹ thuật Môi trường Cửa sông
và Duyên hải (The Cooperative Institude for Coastal & Estuarine Environmental
Technology - CICEET). Các dự án này đã cung cấp cơ sở dữ liệu và phương pháp
đánh giá nhanh các thông số để bị thay đổi như trâm tích và đặc điểm của nến đáy. Từ
đó thành lập bản đồ các sinh cảnh vùng nước nông và xây dựng hệ thống ghi hình
phục vụ cho công tác khảo sát thực địa, điều tra ĐDSH của hệ thủy sinh vật
(http://www.ciceet.unh.edu).
Ngoài ra, những nghiên cứu giáo dục bảo vệ hệ sinh thái vùng cửa sông cũng
24
được xây dựng thành hệ thông thông tin giáo dục thể hiện trên trang web
http://www.estuaries. gov, nhằm kỷ niệm ngày Các cửa sông Quốc gia Hoa Kỳ. Trang
web này thật sự là một công cụ giúp các nhà giáo, sinh viên, và bất kỳ ai quan tâm đến
những cảnh quan cực kỳ lôi cuốn, nơi mà các dòng sông đổ ra biển, nơi mà đất liền và
biển gặp nhau, có cơ hội đê tìm hiêu và học cách sống hài hòa, thân thiện với thiên
nhiên vùng cửa sông.
Ở Úc, những nghiên cứu về vùng cửa sông được thực hiện trong chương trình
bảo tồn ĐDSH của quốc gia từ 2001 - 2005 (http://www.deh.gov.au). Chương trình
Bảo vệ và Phục hồi các Hệ sinh thái vùng cửa sông và ven biển được đề cập trong
trang web: http://www.deh.gov.au/biodiversity/publications/objectives/chapter3.html
như là một hợp phân của nghiên cứu cơ bản về vùng duyên hải về khả năng tồn tại lâu
dài của các HST vùng cửa sông, duy trì các quá trình và hệ thống sinh thái, bảo vệ
ĐDSH vùng cửa sông ở tất cả các mức độ, ngăn ngừa dịch hại vùng cửa sông ven
biển. Dự án nghiên cứu vùng cửa sông tiêu biểu của Úc là "Hiện trạng môi trường
Tasmania". Hệ tảo vùng cửa sông, điều kiện sinh thái của các sinh cảnh vùng cửa
sông, các quần xã và các loài bị đe dọa được nghiên cứu khá chi tiết trong dự án này
nhằm xây dựng các khu vực cửa sông cần được bảo vệ (http://www.rpdc.tas.gov.au).
Ở các nước Châu Á, những nghiên cứu về ĐDSH vùng cửa sông chủ yêu được
thực hiện thông qua các dự án hợp tác giữa các quốc gia Châu Á và tổ chức ERF. Các
nước tham gia vào các dự án này có: Malaysia (Thành phần quần thể thực vật nổi và
mức độ phân bố của chúng trong sông Langat, 2003...), Nhật (So sánh cách sử dụng
môi trường cửa sông hiện nay và trong lịch sử, 2003...), Thái Lan,... Các dự án chủ
yếu đề cập đến các chương trình giáo dục nâng cao hiểu biết của người địa phương về
tầm quan trọng của các HST cửa sông, tác động của các hoạt động khai thác thủy sản,
phát triển công nghiệp (cảng).. .đến ĐDSH của các cửa sông ở các quốc gia này.
Ở Việt Nam, trong luận án tiến sĩ khoa học, Phan Nguyên Hồng đã mô tả khá kỹ
sinh thái thảm RNM Việt Nam, chia RNM Việt Nam ra làm 4 khu vực (khu vực I, II,
III, IV tương ứng ven biển Đông Bắc, ven biển đồng bằng Bắc Bộ, ven biển Trung Bộ
và ven biển Nam Bộ) và nêu lên thành phân các loài trong vùng RNM cũng như phân
chia chia các nhóm cây trong RNM [14],[15].
25
Những hiểu biết tổng quát về vùng cửa sông ở Việt Nam còn khá hiếm do các
nghiên cứu cơ bản về vùng cửa sông chưa được thực hiện. Mặc dù một số công trình
nghiên cứu chuyên ngành đã được tiến hành nhưng mang tính riêng lẻ. Trong khi nhu
cầu sử dụng đất, khai thác và nuôi trồng thủy sản tại các vùng cửa sông mỗi ngày một
tăng, dẫn đến tình trạng suy giảm ĐDSH tại các khu vực này diễn ra nhanh chóng.
Đến năm 1993, tiến sĩ Vũ Trung Tạng mới đưa ra công trình nghiên cứu khá toàn diện
về vùng cửa sông của Việt Nam trong quyển "Các hệ sinh thái cửa sông Việt
Nam"[23]. Đây là tập hợp các nghiên cứu: "Câu trúc sinh học vùng cửa sông ven biển
thuộc các tỉnh phía Bắc - 1972 - 1976", "Nguồn lợi thủy sản các đầm phá Thừa Thiên
-1976 - 1977", "Điều tra tổng hợp vùng nước cửa sông Cửu Long - 1977 -1980",
"Đánh giá tài nguyên thiên nhiên vùng cửa sông ven biển trước châu thổ Bắc bộ -
1981 - 1985".. .v.v cùng với những kết quả nghiên cứu các đề tài trong các vùng dọc
bờ biển của nhiều tác giả khác. Công trình này đã tổng kết những kiến thức về HST
cửa sông nhiệt đới, phân tích những chức năng và câu trúc của HST này và đưa ra các
xu hướng khai thác hợp lý nhằm duy trì, phục hồi HST cửa sông đặc trưng của Việt
Nam.
Một công trình nghiên cứu nổi tiếng về các HST rừng Việt Nam của GS.TSKH
Thái Văn Trừng trong quyển "Những hệ sinh thái rừng nhiệt đới ở Việt Nam, 1999" là
tập hợp những nghiên cứu của tác giả về thảm thực vật rừng Việt Nam sau gần 30
năm [28]. Trong đó, tác giả có phân tích kĩ trường hợp các HST thực vật rừng trên
đồng bằng sông Cửu Long là kết quả nghiên cứu từ đề tài "Điều tra cơ bản đồng bằng
sông Cửu Long, 1981 - 1984 của Chương trình 60-B". Hệ sinh thái RNM được tác giả
xếp thành một kiểu phụ do điều kiện thổ nhưỡng đặc biệt mà phát sinh, chủ yếu là
rừng rậm thường xanh, nửa thường xanh, rụng lá mưa ẩm nhiệt đới, trong bảng phân
loại thảm thực vật rừng Việt Nam. Tác giả cũng đê cập đèn kiêu quân xã thực vật trên
đất cát ven biển; mà Phạm Hoàng Hộ đã mô tả khá tỉ mỉ; Thái Văn Trừng xem đó là
một kiểu phụ thổ nhưỡng trên đất khô hạn của HST rừng âm nhiệt đới [28, tr.246-
247].
Trong những năm qua, tỉnh Bến Tre cũng đã có những dự án nghiên cứu bảo vệ
ĐDSH cho địa phương, đã tiến hành điều tra, khảo sát, thống kê thành phần loài thực
26
vật. Theo kết quả nghiên cứu của Viện điều tra quy hoạch rừng II đã ghi nhận tại Khu
BTTN đất ngập nước Thạnh Phú có: [44]
❖Hệ thực vật bậc cao: có 119 loài, thuộc 45 họ.
❖Hệ thực vật nôi: có 185 loài gôm các ngành Bacillariophyta chiếm (79%),
Cyanophyta (9%), Chlorophyta, Pyrrophyta, Euglenophyta
❖Hệ động vật rừng: có 27 loài bò sát, 5 loài lưỡng cư, 16 loài thú và 60 loài
chim.
❖Hệ động vật nổi: có 93 loài gồm các ngành Arthropoda (62%), Protozoa,
Platyhelminthes, Mollusca, Annelida, Echinodermata, Chaetonatha.
❖Hệ cá: có 96 loài cá được nhận diện trong vùng dự án. Một số dự án đang thực
hiện trong vùng cửa sông nơi đây:
- Xây dựng Khu Bảo tôn sân chim Vàm Hồ năm bên hữu ngạn sông Ba Lai (xã
Mỹ Hòa, huyện Ba Tri, Bến Tre).
- Đầu tư bảo vệ và phát triền Khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú giai đoạn II
(2005-2010).
- Báo cáo đề tài ''Đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường nước ven biển và cửa
sông tỉnh Bến Tre và đề xuất biện pháp bảo vệ môi trường trong khu vực"(Trung tâm
Bảo vệ Môi trường - Viện Kỹ thuật nhiệt đới và Bảo vệ môi trường, 1996).
2.2.Khái quát các nhóm nhân tố sinh thái phát sinh quần thể thảm thực vật
cửa sông ven biển.
2.2.1.Nhóm nhân tố tự nhiên
√ Vị trí địa lý
Bến Tre là một trong 13 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, được hợp thành bởi
3 cù lao lớn: An Hoá, Bảo và Minh do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long (sông Mỹ
Tho, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên) bồi tụ nên qua nhiều thế kỷ, có
tọa độ địa lý từ 9°48 đến 11°20 vĩ độ Bắc và 105°57' đến 106°48' kinh độ Đông.
27
Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt, mà đầu nhọn nằm ở thượng
nguồn, các nhánh sông lớn giông như nan quạt xòe rộng ra ở phía đông và đều đổ
nước ra biển Đông theo hướng tây bắc - đông nam. Diện tích tự nhiên của tỉnh có
232,161 ha. về ranh giới hành chính Bấn Tre giáp với các tỉnh sau:
-Phía bắc giáp tỉnh Tiên Giang có ranh giới chung là sông Tiền;
-Phía tây và tây - nam giáp tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh có ranh giới chung là
sông Cổ Chiên;
-Phía đông và đông - nam tiếp giáp với biển Đông với chiều dài bờ biển là 65km.
Thảm thực vật vùng ven biển cửa sông Hàm Luông được khảo sát từ vàm rạch
Tiệm Tôm thuộc xã An Thủy huyện Ba Tri năm ven theo bờ sông hướng ra đường bờ
biển khoảng 6km (bờ tả), và từ vàm rạch Cừ thuộc xã An Điền hướng ra đường bờ
biển qua xã Thạnh Hải huyện Thạnh Phú tiêp giáp biển dài khoảng 15km (bờ hữu).
Tọa độ địa lý của vùng cửa sông Hàm Luông được khảo sát:
+ Kinh độ Đông từ 106°33' đến 106°4l'.
+ Vĩ độ Bắc từ 9°50' đến 9°59.
Vị trí và ranh giới:
-Phía Bắc giáp với xã Tân Thúy và Bảo Thuận huyện Ba Tri -Phía Đông và
Đông Nam giáp với biển Đông
-Phía Tây giáp với xã Mỹ An huyện Thạnh Phú - ranh giới phía Tây và Tây Bắc
là rạch Cừ huyện Thạnh Phú, sông Hàm Luông và Rạch Tiệm Tôm huyện Ba Tri.
-Phía Nam giáp với xã Thạnh Phong - tiểu khu 19 - là vùng ven biển cửa sông
Cổ Chiên thuộc Khu Bảo tồn thiên nhiên (BTTN) đất ngập nước Thạnh Phú.
Như vậy, thực vật vùng ven biển cửa sông Hàm Luông được khảo sát thuộc địa
giới hành chính của 3 xã: An Thủy thuộc huyện Ba Tri, xã An Điền và Thạnh Hải
thuộc huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Trong đó, thảm thực vật cửa sông ven biển
thuộc 2 xã An Điền, Thạnh Hải năm trong Khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú,
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
28
Khu Bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Thạnh Phú nằm về phía Đông Nam tỉnh
Bến Tre, ở cuối cù lao Minh, chân đạp sóng biển Đông (với bờ biển dài 25km, tính từ
Vàm Ròng đến Khâu Bằng), thuộc địa giới của 3 xã (An Điền, Thạnh Hải và Thạnh
Phong, huyện Thạnh Phú), cách trung tâm thị xã Bến Tre 70km đi theo quốc lộ 60 và
quốc lộ 57.
Diện tích của Khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú chuyển sang giai đoạn II
(2005-2010) [46]được điều chỉnh còn:
Tổng diện tích dự án là 6.276 ha
Trong đó: * Khu bảo tồn là 2.584 ha
* Vùng đệm là 3.692 ha
√ Địa hình – địa mạo
* UĐịa hình:
Cửa sông Hàm Luông là một trong những đơn vị của vùng cửa sông Cửu Long
đổ nước ra biển Đông qua 9 cửa - hình thành nên vùng châu thổ (delta) rộng lớn ở khu
vực Tây Nam Bộ.
2 một phần của lưu vực phía hạ lưu Kratie, Campuchia - có diện tích 49.520 kmP
P. Phần
2 nằm ở Việt Nam có diện tích 39.000 kmP
P, chiếm 79% diện tích của toàn đồng bằng
Khu vực đông bằng sông Cửu Long ở nước ta thuộc đông bằng sông Mê Công là
sông Mê Công (Mekong Delta) [40].
Trên bức ảnh vũ trụ chụp từ vệ tinh, Bến Tre hiện ra như một lưỡi phù sa mới
của sông Tiền, mang đặc trưng cơ bản của đồng bằng sông Cửu Long là tính bằng
phẳng rất cao. Chênh mực tuyệt đối giữa điểm thấp nhất và điểm cao nhất là 3,5m,
một điều khó biểu diễn trên mặt cắt bình thường của nhà địa chất[22,tr.l82].
Địa hình tỉnh Bến Tre có hình dáng gần như một tam giác cân có cạnh đáy tiếp
giáp với biển Đông, địa hình tương đối bằng phang, có xu hướng thấp dần từ Tây Bắc
xuống Đông Nam và nghiêng ra phía biển Đông. Cục bộ có các giồng cát phân bố
thành tuyến, hình cánh cung, cao hơn địa hình xung quanh từ 1 - 5m.
Phần đất nằm ở các cửa sông ven biển tỉnh Bến Tre chủ yếu là đất trũng thật
29
thấp, luôn luôn ngập dưới mức triều trung bình, gồm có đất đầm mặn và bãi thủy
triều, loại này khó vượt quá cao độ 0,5m, với độ chia cắt lớn do hệ thống sông và lạch
triều chằn chịt, do quá trình bồi lắng khá mạnh vùng ven bờ và trong RNM; bên cạnh
còn có những gờ bờ biển là những giống cắt mới nằm sát ven biển, có cao độ từ 1 đến
5m.
* UĐịa mạo:
❖ Địa mạo thổ nhưỡng:
Vùng cửa sông ven biển sông Hàm Luông ở phía Thạnh Phú Bến Tre có 3 dạng
địa mạo chính; theo Dự án "Quy hoạch sử dụng đất đai huyện TPhú đến 2010".
Đồng bằng châu thổ nhiễm mặn: Từ Mỹ Hưng - Bình Thạnh đến Thạnh Phong
- Thạnh Hải; địa hình tương đối bằng phẳng nhưng có sự chênh lệch giữa vùng ven
lạch triều và vùng trũng xa sông do mức độ bồi lắng không đều, độ chia cắt lớn với
các lạch triều và hệ thống sông rạch chằng chịt, ảnh hưởng triều gần như tức thời;
phần cuối vùng đồng bằng là một đầm lầy mặn được phủ RNM. Phân lớn đất đai
thuộc nhóm phù sa nhiễm mặn nhiều và phù sa nhiễm mặn thường xuyên dưới RNM
và một vài dãy đất phèn tiềm tàng nhiễm mặn.
Giồng cát: bao gồm các giồng cát đã phân hóa trắc diện nằm sâu trong đất liền
và các giống cát chưa phân hóa trắc diện vùng bãi triều cao ven biển. Cao trình giồng
cát cao dần và mật độ giồng dày dẫn ra hướng biển. Có nhiều giồng cát cao trình >
5m.
Bãi triều cao: bờ biển Thạnh Phú được bồi lắng rất mạnh hình thành một bãi
triều cao rộng lớn tại khu vực bờ Đông Nam với 5 cồn cát trên bãi triều (các cồn Cao,
Dài, Ông Mười, Đâm, Năm Ngọng).
❖ Địa mạo nền đáy:
- Khái quát về quá trình hình thành:
Động lực chính tạo nên vùng nước lợ và mở rộng châu thô ra biển là hệ thông
sông Cửu Long thuộc hạ nguồn sông Mê Công. Mê Công là con sông lớn thứ mười
trên thế giới với lưu vực bát nguồn từ Tây Tạng ở độ cao 5.000 m, chiều dài dòng
30
chính là 4.220km và có tông diện tích lưu vực 795.000km , bao gồm các phần đất của
Trung Quốc, Myanma, một phần ba Thái Lan, toàn bộ Lào và Campuchia và một phần
3 sông Hậu ròi dồn nước ra biển qua 9 cửa. Sông có lượng dòng chảy lớn, 550.109mP P
năm Việt Nam. Vào lãnh thổ nước ta sông chảy theo hai nhánh chính: sông Tiền và
nước và từ 75 đến 100 triệu tấn bùn cát mỗi năm. Đặc trưng của hệ thống sông này là
sự ăn thông của nó với một hồ chứa nước tự nhiên - Biển Hồ, qua dòng Tônlê Sap [23,
tr.22].
Các quá trình động lực biển cũng có ý nghĩa đáng kể lên vùng cửa sông là dòng
triều, sóng và hải lưu ven bờ. Sự phối hợp hoạt động của các dòng sông và dòng biển
gây ra do sóng, thủy triều và hải lưu ven bờ, ảnh hưởng rất mạnh đến cấu trúc và đời
sống của vùng cửa sông.
Một trong những hệ quả của các quá trình hoạt động tương tác sông-biển là sự
phân bố và sắp xếp tại các trầm tích. Những vật liệu bào mòn từ lục địa được dòng
sông mang ra biển hoặc từ biển được dòng triều đem vào bờ khi tới vùng cửa sông
được chọn lọc và lắng đọng tại các khu vực khác nhau tùy thuộc vào kích thước và
năng lượng riêng của chúng tương ứng với các lực tác động. Kết quả trên đưa đến sự
xuất hiện những xoang đáy, những dải cát và sa khoáng, những bãi ngâm có các cáp
độ hạt khác nhau, nguồn gốc khác nhau, hoặc trầm tích sông hoặc trầm tích biển hoặc
có nguồn gốc hỗn hợp sông - biển [23, tr.27].
Do đặc điểm của điều kiện tự nhiên đã tạo nên các đặc trưng hình thái cửa sông
Cửu Long có những nét đặc thù riêng, đặc biệt là vấn đề bồi lắng bùn cát kéo dài và
nâng cao các cửa sông, thường tạo thành các bãi bồi, các cồn, các đảo, các cù lao, các
bar chắn lấy cửa sông, buộc sông phải phân dòng để đưa nước ra biển, đây cũng là
phương thức "lấn biển" tự nhiên của các rìa châu thổ. Luồng lạch bị thay đổi theo mùa
dưới tác dụng của gió mùa, sóng và hải lưu - Sóng chuyển vào bờ gặp bãi nông
thường gây ra sóng nhào, không chỉ làm xáo động mạnh khôi nước mà còn hủy hoại
bờ và bãi biển, độ cao của sóng, do gió gây ra tùy thuộc vào cường độ và hướng ổn
định của gió; - Và hệ quả là các bãi bồi non biến đổi lên tục trong năm (hình thành,
mất đi, dịch chuyên), là nơi tương tác rất phức tạp giữa sông và biển, lượng phù sa đô
ra biển hàng năm là 75 triệu tân. Hàng năm cửa sông Cửu Long lân ra biển hàng trăm
31
ha... Hiện nay, cửa sông Bassac đã bị bồi lấp, cửa Ba Lai đang bị bồi lấp... [38].
- Địa mạo nền đáy cửa sông Hàm Luông ngày nay
+ Thực trạng bồi, lở hai bên bờ sông:
Đáy sông thuộc phía Bến Tre thường là nông, độ sâu trung bình từ 5 -6m, trong
khi phía Tiền Giang, độ sâu từ 8 - 9m. Sự biến đổi lòng sông diễn ra khá phức tạp.
Tình trạng xói lở bờ cũ, hình thành bờ mới, tách ra nhập vào của các cồn bãi trên sông
diễn ra thường xuyên, liên tục.
Cửa sông Cửu Long là dạng cửa sông thuận, ở đây lượng nước ngọt thượng
nguồn chở đầy khoáng phù sa chảy ra lớn hơn lượng nước biển xâm nhập vào. Thêm
vào đó, lực quay của Trái Đất gây ra do sự chuyển động xung quanh trục của mình
(gọi là hiệu suất Cariolit) ở Bắc bán cầu thường làm cho dòng nước mặn chảy vào
vùng cửa sông lệch sang phía phải và tại phía đối diện nước ngọt lặn xuống sâu hơn.
Tại đây, sự tương tác sông - biển diễn ra mãnh liệt và trở thành yếu tố động lực quan
trọng đối với sự biến động của các yếu tố khác của môi trường, nó không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phân bố của độ muối, mà còn làm biến đổi địa hình tầng đáy và
sắp xếp lại các chất lắng đọng [23, tr.12].
Trong thực tế, cửa sông Hàm Luông có đáy sông nông hơn cửa Đại (5 - 9m) ,
trung bình từ 6 - 7m, theo kiểu lòng máng cong đều, rãnh sâu lệch về phía bờ nam (8 -
9m).
Trước các cửa sông nhiệt đới như hệ thống sông Hồng và Cửu Long thường hình
thành các cồn, bãi ngầm kế tiếp nhau, gọi là các tiền châu thổ (avandelta), ngăn cản sự
xâm nhập của dòng triều vào vùng cửa sông. Hình dạng của các cồn, bãi ngầm luôn
biển động do lực tương tác sông biển, song có xu thế lần lượt nâng cao khỏi mặt nước,
và thường có hình yên ngựa dốc thoải ra biển do dòng triều khi đi vào bờ đã mang
theo trầm tích vun dần lên, còn bờ phía trong lại dốc, đổ xuống những hố sâu do hoạt
động của các "thác triều" khi vượt qua đỉnh cồn [23, tr.14].
Các sông tỉnh Bến Tre, nhìn chung phân bố theo hình nan quạt và tương uối
thẳng, có độ rộng tăng dần và độ sâu giảm dần về phía biển và có hiện tượng bồi lắng
tăng dần từ nội địa ra biển. Tại vùng cửa sông Hàm Luông, chiều rộng lòng sông hơn
32
3km và chiều rộng trung bình khoảng 800 ÷ 1500m, cũng xuất hiện nhiều cồn và bãi
ngầm chắn vùng cửa sông.
Vùng cửa sông Hàm Luông được điều tra [38] bắt đầu từ cù lao Đất thuộc xã An
Hiệp huyện Ba Tri đến cửa sông thuộc các xã An Thủy huyện Ba Tri (bờ tả) và xã
Thạnh Hải huyện Thạnh Phú (bờ hữu), có chế độ thủy văn, thủy lực rất phức tạp, nên
các hoạt động xói lở bờ và bồi lắng tại đây xảy ra rất mạnh mẽ và đan xen lẫn nhau,
đặc biệt tại vùng cửa sông thì cả hai bên bờ hằng năm được bồi mạnh và nhiều cù lao
đang được hình thành do tác động bồi.
Phía bờ tả sông Hàm Luông: khu vực từ ngang cửa sông đường bờ không có
biến động lớn, chỉ từ đoạn từ rạch Đùng (rạch Bác Kỳ) đến khu vực cột đèn báo thuộc
xã An Thủy và đoạn thượng lưu rạch Mương Đào có khoảng 2,5km đường bờ bị sạt lở
nhưng mức độ khác nhau, trung bình là từ 1m đến 3m trong một năm, đoạn đường bờ
còn lại bồi nhưng tốc độ bồi rất ít hàng năm vào khoảng 2km người dân địa phương
trồng lúa hoặc hoa màu như đậu phong, sắn nước, đậu xanh, dưa hấu, phần còn lại chủ
yêu là rừng bần tự nhiên, bần cao đến 15 – l6m, xen kẽ một ít dừa nước, mấm, nhưng
cũng có những khu vực bần mới mọc nhưng rất dày và trong tương lai đoạn này sẽ trở
thành những khu rừng mới, góp phần làm ổn định đường bờ chống lại những tác động
của sóng và thủy triều.
Phía bờ hữu sông Hàm Luông: khu vực từ ngang cù lao Đất đến cửa sông,
đường bờ sạt lở mạnh nhất ở khu vực ngang đuôi cù lao Đất, qua rạch Đẹt về hạ lưu
200m thuộc xã Mỹ Hưng, huyện Thạnh Phú, tốc độ sạt lở trung bình là 2 - 3m trong
một năm. Quan trắc lưu hướng cho thấy trong đoạn này dòng chảy ép sát bờ, đặc biệt
khi triều rút lưu tốc khá lớn làm cho đường bờ liên tục bị sạt lở. Đoạn đường bờ tiếp
theo ra đến cửa sông Hàm Luông được bồi, tốc độ bồi trung bình mỗi năm vào khoảng
1 - 2m. Dọc theo bờ người dân địa phương chỉ trồng hoa màu hoặc đắp bờ đê bao để
nuôi trồng thủy sản, phần còn lại là những rừng bần lớn cao khoảng 16 – 17m mọc
xen kẽ những bãi bần non, dừa nước, điên điển. Rừng bần tự nhiên mới mọc rất dày
xen kẽ với bần lớn chủ yếu trên bãi bồi thuộc xã An Điền, với đoạn ngang rạch Cừ
mép nước chỉ cách bờ khoảng l00m, còn khu vực ngang rạch Tắt Bần khi nước ròng
mép nước cách bờ cả Hon, và trong tương lai đoạn này sẽ trở thành những khu rừng
33
mới, góp phần làm ổn định đường bờ chống lại những tác động của sóng và thủy triều.
Tuy nhiên, vùng cửa sông Hàm Luông đoạn từ cù lao Đất đến cửa sông hiện nay đã
xuất hiện các bãi ngầm và đây là các cồn mới nổi có thể thấy được khi triều kiệt. Theo
những tài liệu khảo sát trong một số năm gần đây các cồn ngang phân nhánh bờ tả và
phần đuôi cù lao Đất ngày càng được bôi rộng, dài thêm ra và hiện nay có hai côn ở
đuôi cù lao đang cỏ xu thê nhập vào với nhau. Đây là một vấn đề khó khăn cho các
phương tiện giao thông thủy vùng cửa sông, nhất là trong điều kiện nhà nước đã đầu
tư xây dựng tại ngã ba sông Hàm Luông - rạch Tiệm Tôm một cảng cá có quy mô lớn
[38, tr.49].
+ Cát bùn và bãi thủy triều:
Sông Tiền hằng năm đổ ra biển khoảng 286 tỷ mét khối nước. Với lượng nước
ngậm cát bình quân xáp xỉ 0,12kg/m , các sông thuộc Bến Tre được hưởng một lượng
bùn cát khoảng 25 triệu tấn, lượng bùn cát này là nguồn phân bón thiên nhiên, một
phần bồi đắp cho đất đai, đồng ruộng thêm màu mỡ, phần còn lại đổ ra cửa sông, lắng
đọng tạo thành bãi bồi, mỗi năm lấn ra biển tới hàng chục mét.
Bãi thủy triều có địa mạo rất bằng phẳng. Đây là một đặc trưng cơ bản. Tuy vậy
mặt bên trên bao giờ cũng có dấu vết của dòng nước và của sóng. Dòng nước tạo
những lượn sóng, nên bãi bôi có chò lồi, chỗ lõm. Một số nơi, rãnh nước cắt ngang cắt
dọc bãi, tạo thành lòng lạch chăng chịt. Bãi cũng có nếp nhãn, đường cào, khe, lổ.
Sinh vật như ngao, giun, cua, còng cũng tạo nên cấu trúc hang ổ rất đặc sắc, ảnh
hưởng đến địa mạo của toàn bãi. Bãi thủy triều gồm có hai loại. Một loại chứa cát,
nằm nơi biển có sóng gió to (bãi triều giàu năng lượng) nên gọi là bãi cát thủy triều.
Ngược lại, nơi khuất sóng trong vũng kín hoặc nửa kín, có toàn bùn pha sét và chất
hữu cơ, nên được gọi là bãi bùn thủy triều. Cả hai loại bãi này đều thuộc trầm tích
mảnh vỡ. Cát ở đây có kích thước từ 0,25 đến 0,8mm đường kính, là loại cát hạt mịn.
Bãi thủy triều thuộc về đất không trưởng thành, do đó không thể xây dựng được gì ở
đó. Bãi cát thủy triều dù sao vẫn mang tính nén dẽ tốt, có công dụng kinh tế là làm bãi
tắm cho an dưỡng và du lịch.
Bãi thủy triều thuộc môi trường nửa ướt, nửa khô. Mỗi ngày bãi bị ngập hai lần
và bị phơi khô hai lần, do vậy có các hải sản đặc biệt như hào, ngao, sò huyết, về môi
34
trường, chất trầm tích bãi thủy triều chứa vi sinh vật phong phú, là nguồn thức ăn tự
nhiên cho các sinh vật ăn lọc, tôm, cá.
Khi sóng biển tác động lên cát của bãi thủy triêu, phân thô theo chân sóng lao
lên bờ, tạo ra những gờ rất dê nhận ra bằng mất thường cũng như trên ảnh chụp từ
máy bay. Gờ bãi biển có thể dừng phát triển ở đó. Trong trường hợp có gió tác động
thêm vào, gà lại nhô cao hơn, từ 0,5m nó đạt +2 rồi +3m. Nếu vật liệu trầm tích thích
hợp và sớm ổn định thì sẽ hình thành đất giồng sau này [22, tr.190].
√ Khí hậu
Bến Tre nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với hai mùa
riêng biệt là mùa Khô và mùa Mưa. Điều kiện hoàn lưu cơ bản là hoàn lưu gió mùa
của một vùng đông bằng ven biển năm trong khu vực chí tuyên. Theo số liệu thu thập
từ trạm khí tượng thủy văn tại Ba Tri và Thị xã, dưới đây là một sô đặc trung khí hậu
của vùng cận duyên biển Đông:
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 27°C; cao nhất tuyệt đối 36,2°C xảy ra vào
tháng Năm; nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối 19°C xảy ra vào tháng Ba; biển độ nhiệt ngày
từ 8 - 10°C.
Độ ẩm: độ ẩm không khí tương đối trung bình là 87,2 %.
Lượng mưa trung bình năm là 175 lmm, số ngày mưa 133ngày/năm, phân bố
không đều giữa các tháng trong năm. Lượng mưa tập trung vào các tháng mùa mưa
(tháng 5 - 11), ẩm độ không khí cao trong các ngày có mưa lớn, gió mùa Tây Nam.
Tháng Mười được coi là giai đoạn ngắn ngủi từ thời kỳ gió mùa mùa hạ (mùa mưa)
chuyển sang thời kỳ gió mùa mùa đông (mùa khô), lúc này hoàn lưu Tây Nam đã
hoàn toàn suy yếu. Mùa khô từ tháng Mười một đến tháng Tư năm sau và hầu như
không có mưa trong các tháng 1, 2, 3, 4. Lúc này, gió thịnh hành là gió mùa Đông
Bắc. Gió mùa Đông Bắc về mùa đông đem theo không khí lạnh từ phía bắc xuống
miền Bắc Việt Nam với vận tốc 10 - 12 m/s, ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng và
sự phân bố của thực vật nhiệt đới nói chung và cây ngập mặn nói riêng. Nó tiếp tục
tràn xuống các vùng vĩ độ thấp, trong quá trình di chuyển trên chặn đường dài qua
mấy chục vĩ độ theo phương kinh tuyến đến vùng Nam bộ, chúng đã biến tính nhanh,
35
khối không khí lạnh này đã trở nên nóng ấm không khác biệt gì nhiều so với không
khí nhiệt đới [16, tr.6].
Đặc điểm đáng chú ý là chế độ mưa trái ngược lại với yếu tố nhiệt độ và bức xạ.
Yếu tố mưa biến động mạnh mẽ theo không gian và thời gian. Sự tương phản theo
mùa của chế độ mưa rất rõ rệt. Lượng mưa hàng năm càng lớn thì mùa khô càng ngắn
và khác nghiệt hơn và ngược lại. Hai yếu tố này của khí hậu có tác dụng phân hóa
mạnh mẽ các tính chất lập địa quan trọng đối với cây trông Nông Lâm nghiệp thể hiện
thông qua sự cung cấp thêm lượng nước ngọt bởi nước mưa làm giảm mặn và giảm
lượng nước bốc hơi, hạn chế sự lôi kéo muối tập trung lên mặt theo mao quản và hiện
tượng "dậy phèn" gây ảnh hưởng lớn tới sự sinh trưởng và phân bố của thực vật. Ảnh
hưởng của khí hậu đối với thực vật còn tùy thuộc vào chế độ ngập của thủy triều.
Những nơi bị ngập triều hàng ngày tương đối thấp thì ít bị ảnh hưởng hơn những nơi
đất bị ngập theo chu kỳ dài hơn [44], [46].
Gió: vùng ven biển Bấn Tre chịu ảnh hưởng của gió mùa: gió mùa Tây Nam về
mùa hè thổi từ Ấn Độ Dương lên mang theo mưa từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm
và gió mùa Đông Bắc (gió chướng) thịnh hành trong mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3
năm sau, với vận tốc cao từ 3-5 m/s, có khi đạt đến 10 m/s trong các tháng 3 và tháng
11 - 12, sức gió mạnh, giật từng cơn tạo nên sóng lớn vỗ mạnh làm xói lở ven bờ ở
các khu vực Côn Bủng, Côn Lợi, Cây Bàng (bờ nam cửa sông Hàm Luông) và Côn
Hô (bờ bắc) [46].
Gió chướng vào mùa khô - cũng là lúc mà lượng nước trên thượng nguồn rất hạn
chế - và nêu gió thuận chiêu với dòng triều lên còn là nguyên nhân trực tiếp gây ra
nước dâng, đẩy nước có độ mặn cao từ biển vào sâu trong các cửa sông Cửu Long có
tác dụng làm xáo trộn độ mặn ở lớp nước mặt trên sông, khiến cho quy luật phân bô
mặn theo chiều sâu bị biến đổi. Ở các cửa sông Tiền (Bến Tre), gió mùa Đông Bắc đã
làm tăng độ mặn ở các vùng sông rạch gần biển do đặc điểm trên. Tình trạng đó đã
làm cho một sô cây chịu mặn nhiêu như Avicennia, Ceriops, Xylocarpus ... phân bố
sâu vào bãi lầy trong kênh rạch, đây một số loài nước lợ như bần chua (Sonneratia
caseolaris) vào xa trong nội địa hoặc ra phía gần cửa sông [14].
Bão: thỉnh thoảng tỉnh Bến Tre mới chịu ảnh hưởng của bão một đôi lần và
36
thường diễn ra vào các tháng 11, 12 và tháng giêng. Phần lớn các trận bão thường
không gây thiệt hại gì đáng kể, ngoại trừ những khi có gió mạnh, đẩy nước biển dâng
lên tràn vào ruộng đồng, gây thiệt hại cho mùa màng và ghe tàu đánh bắt thủy sản;
như trong năm 1997, cơn bão số 5 đã gây thiệt hại nặng nề cho tỉnh Bến Tre trên 300
tỷ đồng, hoặc vào đầu tháng 12 năm 2006, con bão Durian (số 9 VN) là cơn bão có
quy mô không lớn và cường độ không mạnh lắm (Thị xã cấp 7, tại Ba Tri cấp 11 giật
trên cấp 12) nhưng gây nhiêu thiệt hại nghiêm trọng về con người và tài sản vì đây là
lần đầu bão đổ bộ vào tỉnh lâu nay (tính từ năm có bão năm Thìn_1904 xảy ra ở khu
vực ĐBSCL).
37
√ Thủy văn
Nằm ở hạ lưu sông Mê Công, sông Hàm Luông là một nhánh của sông Tiền, bắt
đầu từ phía tây bắc tỉnh Bến Tre, chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và đổ nước ra
biển Đông tại cửa Hàm Luông, có chiều dài 71km, sông thường uốn khúc và rẽ nhánh,
chiều rộng trung bình khoảng 800 ÷ 1500m và tại nơi cửa sông rất rộng trên 3km.
❖ Nguồn nước mặt:
Nước ngọt của các sông chảy qua Bến Tre được cung cấp bởi nước ngọt từ sông
Tiền thuộc vùng hạ lưu sông Mê Công. Sông Mê Công tiêp nhận nước từ chi lưu
chính Tônlê Sap tại Phnôm Pênh. Do điều tiết của Biển Hồ ở Campuchia, hàng năm
vào mùa lũ từ tháng 7 đèn tháng 11, một phần nước lũ của sông Mê Công chảy ngược
theo sông Tônlê Sap đi vào khu vực dự trữ nước tự nhiên do Biển Hồ tạo ra, để rồi từ
3 Tiền, sông Hậu với tổng lượng nước khoảng 80kmP
P .
tháng 12 đèn tháng 5 năm sau nước ngọt từ Biển Hồ lại bổ sung cho dòng chảy sông
Lượng nước từ thượng nguồn bên phía sông Tiên chiếm xấp xỉ 52% tổng lượng
nước của cả sông Tiền và sông Hậu. Sông Tiên đô nước ra biển Đông qua 6 cửa: cửa
Tiêu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên và cửa Cung Hầu. Trên các
3 80% (Hàm Luông 3.360mP
3 P/s, Cổ Chiên 2.880mP
P/s), vào mùa khô tháng 12 - 4 chỉ
3 chiếm 20 - 25% (Hàm Luông 828mP
3 P/s, Cổ Chiên 710mP
P/s).
nhánh của sông Tiền, lưu lượng nước từ nguồn vào mùa lũ (tháng 7-11) chiêm 70 -
Nằm kề bên biển Đông, những con sông Bến Tre không những tiếp nhận nguồn
38
nước từ Biển Hồ và từ thượng nguồn sông Mê Công đổ vê, mà hằng ngày, hằng giờ
còn tiếp nhận nguồn nước biển do thủy triều đây vào [22, tr.163].
Các sông rạch ở khu vực này chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không
đều của biển Đông. Mạng lưới kinh rạch tự nhiên chằng chịt và thông ra biển như các
rạch Soi Đước, Cây Dừa, rạch cồn Bủng. Trong một ngày đêm có hai đỉnh triều và hai
chân triều nhưng không đều nhau, chênh lệch của đỉnh triều từ 0,2 - 0,4m, và chênh
lệch của chân triêu lớn hơn từ 1 - l,5m. Vào các ngày đầu tháng và giữa tháng âm lịch
(theo trăng) có 2-3 ngày triều cường và 2-3 ngày triều kém sau các ngày 8 và 23 âm
lịch.
Các ngày triều cường cao độ triều bình quân 3,7 - 3,8m có khi cực đại đến 4,2m
vào các tháng 11 (dương lịch) đến tháng 1 năm sau, phần lớn diện tích đất trong vùng
đều ngập triều; thời kỳ triều yếu vào các tháng 6 đến tháng 7. Biên độ triều bình quân
2,6m. Ở khu vực cửa sông ngập sâu từ 1,0-l,5m; các địa hình cao trung bình ngập sâu
khoảng 0,3-0,5m, các giồng cồn cát ngập 0,2m.
Tốc độ truyền triều nhanh, trên sông Hàm Luông khá mạnh ước khoảng 15 -
25km/h, làm trở ngại cho việc lưu thông và vận chuyên đường thủy trên các sông rạch
chính (Soi Đước, Cây Bàng, rạch Cồn Bửng, Cây Dừa, Hồ Cỏ...). Ở khu trảng lầy cửa
sông, tốc độ bồi lắng phù sa sông biển cao, hình thành nên các doi đất mới từ cồn
Bửng xuống Khâu Bằng làm dòng nước chảy ngược về rạch Cây Dừa. Do phù sa sông
biển bồi lắng cao, nhiều đoạn sông rạch bị nông cạn làm việc giao thông thủy phụ
thuộc vào thủy triều.
Môi trường nước trong vùng có sự khác biệt rõ rệt giữa mùa mưa và mùa khô.
Sự chênh lệch vê nhiệt độ nước hàng năm trong khoảng 4,9 - 8,5 C. Nhiệt độ cao nhất
của nước xảy ra trong tháng 3 và tháng 4. Nhiệt độ thấp nhất của nước quan sát được
trong tháng 12 và tháng 1. Trong các điều kiện mặt đất hơi cao hoặc ngập nông thì
trong mùa khô, nhiệt độ cao gây ra bốc hơi mạnh có thể gây ra tác hại rất lớn cho thực
vật do nồng độ muối tập trung lên mặt cao và có thể xì phèn sinh ra nhiều độc tố, nếu
là đất có tầng phèn nông. Các yếu tố độc hại có hàm lượng cao cùng với nhiệt độ cao
khiến cho các loài thực vật hiện diện ít và sinh trưởng rất chậm chạp.
Vào mùa nước kiệt khi nước sông đổ ra giảm xuống, quá trình xâm nhập mặn
39
tăng lên. Vào tháng 4-5 giữa mùa khô - năm 2006 - tại trạm An Thuận (trên cửa sông
Hàm Luông thuộc xã An Thủy huyện Ba Tri, cách đường bờ biển 5km) độ mặn lớn
nhát trong ngày có thể lên đến 20,8‰ và các tháng đâu mùa khô (tháng 2) và cuối
mùa khô (tháng 6) đều trên 17‰. Năm 2007, sự xâm nhập mặn sâu nhất, với lượng
gió chướng mạnh thổi suốt trong ¾ số giờ trong ngày đã đẩy độ mặn 1‰ lên tới Chợ
Lách; còn tại trạm An Thuận vào tháng 4 năm 2007, độ mặn lên đến 24,8‰. Mùa mưa
vào tháng 11, nước ở cửa sông được pha loãng độ mặn chỉ còn từ 1,96‰ đến 6,01 ‰.
Sự khác nhau giữa độ mặn của nước trong các đầm nuôi tôm và phía bên ngoài không
đáng kê (vào khoảng dưới 34 ‰. Trị số độ pH của nước thay đổi không đáng kể,
thường trung tính hoặc hơi kiềm ngoại trừ một số nơi độ pH đo được đôi khi là 6,8
hoặc 6,9. Sự khác nhau giữa độ pH của nước trong vuông tôm và nước trong các kênh
vào khoảng 0,1 - 0,3.
Chế độ ngập triều và độ mặn là những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới sự
phân bố, sinh trưởng của cây RNM và sản xuất Lâm Ngư nghiệp. Hoạt động của thủy
triều có tác dụng đem ấu trùng vào và cải tạo lớp đất mặt. Chế độ ngập triều bao gồm:
thời gian hoặc chu kỳ ngập triều và độ ngập sâu. Trong cùng một chế độ bán nhật
triều, thời gian hoặc chu kỳ ngập triều và độ sâu ngập có thể phân biệt theo độ cao của
đất kết hợp với tính chất chỉ thị của các loài thực vật hiện có.
Diễn biển của độ mặn của nước trong vùng là do tương quan diễn biển của triều
và lượng nước ngọt từ thượng nguồn tới. Sự khác biệt về độ mặn của đất, nhất là ở
tầng đất mặt, có quan hệ trực tiếp mật thiết tới đời sống của thực vật thì bị chi phối bởi
độ cao và dạng địa mạo. Độ mặn chung của khu vực càng lớn thì sự phân hóa về độ
mặn giữa các diện tích đất tương đôi nhỏ có độ cao khác nhau càng quan trọng. Độ
mặn là một trong ba yếu tố (thủy triều, lưu lượng nước sông và độ mặn) ảnh hưởng rất
lớn đến sự phát tán, phân bố thành phần loài cây ưu thế của RNM. Sự biến thiên về độ
mặn của môi trường nước theo mùa làm cho thành phần các loài thủy sinh rất phong
phú, ở đây xuất hiện các loài thủy sinh vật tiêu biểu của môi trường nước mặn, nước
lợ và cả nước ngọt [46].
❖ Nguồn nước ngầm:
40
Trong vùng có những dạng nước ngâm đang được người dân khai thác như nước
ngâm trong các giồng cát, nước ngâm tầng nông và nước ngâm tầng sâu.
Nước ngâm trong các giồng cát thường phân bố trên các giồng khá cao và rộng
với độ rộng trên 40% và được bổ sung hàng năm bằng nước mưa. Trên giồng cát cũng
có các thấu kính nước, độ sâu 1 - l,5m, chất lượng khá ổn định nhưng cung lượng
nghèo nàn.
Nước ngầm tầng nông được thăm dò và phát hiện trong tầng Holoxen và
Pleistoxen, ở độ sâu khoảng 40 - 90m nhưng chất lượng không tốt, độ khoáng hóa
- có pH trung tính 6,5 - 6,8, độ cứng cao 312 mg/1 CaC03, nhiễm lợ ClP
P 450- 6.787
3 mg/1, cung lượng khai thác dự báo của tầng này thấp, chỉ khoảng 370 mP
P/ ngày. Tầng
cao. Tầng thứ nhất phân bố ở độ sâu 30 - 50m, chiều dày tầng chứa nước < 10m, nước
thứ hai phân bố ở 60 - 90m, chiều dày tầng chứa nước > 10m, nước ngọt tập trung ở
P 454,5-
- khá cao 0,04 - 10 mg/1, độ cứng cao 1.573 - 2.823 mg/1 CaCOR3R, nhiễm lợ ClP
3 15.071 mg/1, khả năng khai thác dự báo của tâng này khoảng 379 mP
P / ngày. Nhìn
khu vực trung tâm và Nam huyện Thạnh Phú, nước có pH gần trung tính 6,0 - 7,5, sắt
chung, nước ngầm tầng nông của địa bàn hạn chế về cung lượng khai thác, chất lượng
có nhiều hạn chế (độ cứng cao, nhiễm lợ, khá nhiều sắt... và chỉ phân bố trong phạm
vi từ thị trấn Thạnh Phú ra phía Đông Nam [39].
Nước ngầm tầng sâu ở 95 - 125 mét, có áp suất cao và chất lượng tốt, hiện đang
được sử dụng cho sinh hoạt của nhân dân, nhưng khả năng khai thác cũng không dồi
dào.
Nước ngầm không đủ đáp ứng cho trồng trọt mà chủ yếu phải dựa vào nước
mưa. Do vậy, cần phải lấy việc chống bốc hơi, ngăn chặn mao dẫn phèn, là biện pháp
hàng đâu đê giải quyêt đủ nước ngọt cho sản xuất và cân bằng sinh thái. Nước ngầm
tầng sâu không ảnh hưởng được tới thực vật, chỉ có nước ngầm tầng nông mới có tác
dụng nhưng nước ngầm tầng nông đều bị nhiễm mặn, trừ ở các giồng cát [46, tr.13].
❖ Hải văn:
Vùng ven biển Thạnh Phú có chế độ bán nhật triều, biển độ triều tối đa đến trên
4 mét vào tháng 11 và 12. Ngoài ra, còn có dòng chảy thuận nghịch do ảnh hưởng của
41
chế độ gió mùa biển Đông, tốc độ tối đa khoảng 1,0 m/s, tối thiểu 10 cm/s.
Sóng biển có độ cao cực đại (bình quân 1.25 m và tôi đa là 3 m) vào các tháng
10 đến tháng 2 khi có ảnh hưởng rõ nét của gió Đông Bắc (gió chướng) hoặc sóng
lừng khi ảnh hưởng bão.
Vùng bờ biển Thạnh Phú biển đổi rất mạnh và là một trong những vùng bồi lắng
rất nhanh của đồng bằng sông Cửu Long.
Phần phía bắc của bờ biển (cửa sông Hàm Luông) bị xói lở trên chiều dài gần
9km với tốc độ xói lở tối đa trong vòng 35 năm nay khoảng 5-30 m/năm. Phần vật liệu
xói lở này, cộng với vật liệu phù sa của sông Hàm Luông và vùng ven bờ biển Đông,
được chuyển tải xuồng phía Nam và bồi lắng suốt chiều dài trên 13 km bờ biển, hình
thành một bãi triều cao rộng lớn (>1.500 ha) với thành phần cơ giới chủ yếu là cát,
cao trình lớn và vẫn còn biến động về hình thái. Bãi triều cao đã được bồi dâng cao
dần và mép bãi triều cách đường bờ cũ năm 1965 khoảng 1.800 - 2.500 mét [39].
√ Địa chất và thổ nhưỡng
• Quá trình thành tạo vùng châu thổ Nam Bộ:
Sự hình thành vùng cửa sông Cửu Long gắn liền với lịch sử hình thành đồng
bằng châu thổ, tuy nhiên tuổi địa chất và địa hình của nó còn rất trẻ, chỉ khoảng 2.000
năm trước đây. Theo các tài liệu địa chất, xưa kia, từ sau nguyên đại Cổ sinh, trên nên
của châu thô Nam bộ hiện nay, tôn tại một địa hào lớn, chịu sự vận động lún hạ từ từ,
biển nó thành một vịnh biển nông. Trải qua chu kỳ vận động tạo núi Himalaya, toàn
bộ bán đảo Đông Dương được nâng lên làm cho phần thượng và trung lưu sông Cửu
Long cũng như các sông khác trong vùng tăng sức xâm thực. Các sông này chuyển
vận một khôi lượng vật chất khổng lồ và phối hợp với hiện tượng trầm tích sông hồ,
lấp đầy vùng biển để tạo ra đồng bằng Campuchia và đồng bằng châu thổ Nam Bộ (Lê
Bá Thảo, 1977). Cuối Pleistoxen phần lớn lãnh thổ của đồng bằng không chịu ảnh
hưởng của biển, địa hình chủ yếu chịu tác dụng xâm thực, bào mòn. Từ đầu Holoxen
biển tiến chậm vào đồng bằng, phủ lên những nơi có địa hình thấp, hình thành một
chế độ biển nông với lớp trầm tích dày 13m ở độ sâu 14 - 27m tùy nơi so với mặt đất
hiện nay. Vào giữa Holoxen biển tiến cực đại trên toàn đồng bằng tới các vùng Hà
42
Tiên, Châu Đốc, Đồng Tháp Mười. Sau đó, biển lại rút từ từ, làm xuất hiện các sình
lầy bao phủ bởi cây rừng ngập mặn như Đồng Tháp Mười, U Minh (Phạm Hùng và
nnk, 1979) và trong quá trình đó phù sa các sông lấp đầy dần các vùng đất trũng ven
dòng cùng với sự phát triển của các nhánh sông, tam giác châu hiện đại ra đời, các cửa
sông cũng xuất hiện.
Sự sắp xếp các lớp trầm tích được xác nhận bởi các mũi khoan địa chất. Trong
vùng trầm tích Holoxen muộn chỉ dày khoảng 6m, dưới nữa là lớp trầm tích Holoxen
trung dày 8m ở độ sâu 6 đến 14m (tại Cần Thơ). Toàn bộ lớp phù sa tuổi Holoxen có
độ dày khoảng 30 - 70m tùy nơi. Dưới nó là trầm tích phù sa Pleistoxen có vết tích
phong hóa feralit, với đôi chỗ là đá ong (Laterit) [23, tr.141].
Vùng Cai Lậy, Bến Tre, đại bộ phận được hình thành cách đây 1000 năm. Càng
về phía biển, đất càng trẻ.
Giải đoán địa chất ở tỉnh Bến Tre trong chương trình tìm kiếm dầu khí nơi
ĐBSCL cho thấy móng đá mang tính uốn nếp nhặt với các nếp lồi dạng vòm nằm bên
dưới Ba Tri và Thạnh Phú. Tất cả đều sâu 500m trở lên. Nép uốn lồi dạng vòm là biểu
hiện của đá phiến sét (loại này xuất hiện bình thường ở Thủ Đức, Biên Hòa, Hố Nai,
Vĩnh Cữu, Trị An). Phần còn lại của diện tích toàn tỉnh chỉ gồm có mặt phẳng với
biểu hiện băm nát và bằng đủ loại đứt gãy và thớ chảy: đó là chứng tích của một móng
đá với thành phần núi lửa là chủ yếu (theo kinh nghiệm thì loại móng đá này xuất hiện
ở Bà Rịa, Vỏ Đắt, Vĩnh Hảo) đều tạo nên nước khoáng, có khả năng làm nên các vỉa
nước ngầm đặc biệt ở Bến Tre [23, tr.186].
Giữa móng đá sâu và phù sa trẻ bên trên là một loạt đất bồi dày, gọi chung là phù
sa cô xuât hiện ở độ sâu 30m ở thị xã Bến Tre, càng sâu hơn vê phía đông nam phải
đến 80m (ở Ba Tri) mới gặp được nó. Lịch sử trầm tích phù sa cổ bắt đầu từ
Pleistoxen. Trãi qua hai lần nước biển tràn ngập vùng châu thổ này; lần thứ nhất cách
đây 100 ngàn năm, lần thứ hai cách đây 6 ngàn năm; chất đất ngày nay của vùng được
hình thành từ việc sắp xếp các trầm tích sông biển trong một thời kỳ rất dài gần với
lịch sử biển tiên nhiêu hơn biển lùi. Do đó phần lớn đất đai đều bị nhiễm mặn ở các
mức độ khác nhau. Trong vùng có các nhóm đất chính sau:
+ Nhóm đất mặn:
43
Đất phù sa nhiêm mặn nhiêu (Mn), phân bố từ An Thạnh - An Quy đến ranh
RNM Thạnh Phong - Thạnh Hải, thời gian nhiễm mặn trên 8 tháng/năm, đất chưa
thuần thục, khá nhiêu mùn, đạm, kali, nghèo lân, dung tích hấp thụ cao nhưng mất cân
đối, thành phần cơ giới nặng; khó cải tạo để sản xuất nông nghiệp và tăng vụ có hiệu
quả.
Nhóm đất này thích nghi nuôi trồng luân canh lúa một vụ - tôm hoặc nuôi
chuyên tôm trong những điều kiện thích hợp. Trên các vùng có trắc diện tầng sâu
nghèo hữu cơ, độ mặn ổn định, có thể phát triển một số diện tích nuôi tôm ở mức độ
bán thâm canh, thâm canh.
Đất phù sa nhiễm mặn thường xuyên dưới rừng ngập mặn (Mm), diện tích 7.048
ha, phân bố gần như trùng với ranh RNM Thạnh Phong - Thạnh Hải, thời gian nhiễm
mặn gần như quanh năm, ảnh hưởng triều tức thời, đất không thuần thục, giàu mùn,
đạm, kali, nghèo lân, dung tích hấp thu mất cân đối, thành phần cơ giới nặng.
Nhóm đất này thích nghi cho việc khôi phục RNM hoặc có thể khai thác nuôi
tôm dưới dạng quảng canh cải tiến, nuôi tôm trong lâm phần... Khả năng nuôi ở mức
độ bán thâm canh, thâm canh kém do trắc diện giàu hữu cơ.
+ Nhóm đất phèn:
Chỉ có một loại là loại đất phèn tiềm tàng nhiễm mặn, tầng sinh phèn sâu hơn 50
em (SpM), phân bô chủ yêu tại xã Mỹ An và An Điền, đất nhiễm mặn > 8 tháng/ năm,
tầng mặn không thuần thục, giàu mùn, đạm, kali, nghèo lân, dung tích hấp thu trung
bình, nhưng rất mất cân đối, thành phần cơ giới nặng.
Nhóm đất này thích nghi nuôi trồng luân canh lúa một vụ - tôm hoặc nuôi
chuyên tôm trong những điều kiện thích hợp. Khả năng nuôi ở mức độ bán thâm canh,
thâm canh kém do trắc diện giàu hữu cơ, đất kém thuần thục và khả năng sinh phèn
khá cao khi đào ao vuông.
+ Nhóm đất giồng:
Chỉ có một loại là đất cát giồng đã phân hóa phẫu diện (Cz), là loại đất có độ phì
kém nhưng phổ thích nghi rộng cho các loại cây trồng cạn, nghèo mùn, đạm, kali, lân,
dung tích hấp thu thấp, thành phần cơ giới nhẹ, thích nghi cho thổ canh và các cây
44
trồng cạn, rau màu.
Nhóm đất này phân bố trên khắp địa bàn thành các giồng hình cánh cung song
song với đường bờ biển; có thể nói Thạnh Phú là huyện có tỉ trọng đất giồng nhiều
nhất tỉnh Bến Tre.
Ngoài ra, trên vùng bãi triều cao có khoảng trên 1.500 ha đất giồng đã phân hóa
phẫu diện và đang phát triền thành giồng cát [39].
2.2.2.Nhân tố con người
Vùng cửa sông ven biển sông Hàm Luông được khảo sát thuộc địa giới hành
chính của 3 xã:
Bờ bắc cửa sông Hàm Luông là xã An Thủy huyện Ba Tri.
Bờ nam cửa sông Hàm Luông là xã An Điền và Thạnh Hải huyện Thạnh Phú.
√ Tình hình dân sinh kinh tế
+ Dân cư: tập trung chủ yếu ở những giồng cát điển hình nằm sâu bên trong gần
trung tâm xã, hoặc giồng cát ven biển trên các cồn, những khu đất giáp ranh hoặc khu
rừng phòng hộ ven biển thuộc vùng đệm khu Bảo tồn. Cư dân trong vùng đệm được
xác nhận quyền sử dụng đất và phải là những hộ dân sinh sống hợp pháp ở vùng đệm
từ lâu đời cũng như nghiêm cấm di dân từ bên ngoài vào vùng đệm, sống chủ yếu
bằng nghề nông - lâm - ngư nghiệp như trồng rau màu, lúa nước, nuôi thủy sản, đánh
bắt hạn chế tài nguyên thủy sản ven bờ và canh tác RNM - trên từng lô đất của các hộ,
diện tích rừng cần được duy trì ở mức độ từ 30% đến 40%. Một dự án riêng cho sự
phát triển vùng đệm đang được hình thành nhằm mục tiêu chung là phát triển kinh tế
xã hội, cải thiện điều kiện sống của các cộng đồng dân cư, giảm sức ép về kinh tế xã
hội đối với khu Bảo tồn.
+ Dân tộc: Chủ yếu là dân tộc Kinh, rất ít dân tộc Hoa.
+ Tính ngưỡng tôn giáo: Một bộ phận theo Phật giáo, Thiên Chúa giáo, đạo
Cao đài,... còn lại chủ yếu không theo đạo, chỉ lập Miếu thờ, tổ chức những ngày hội
làng “Lễ hội Nghinh Ong”.
+ Dân số: Tính đến gần cuối năm 2006
45
+ Kinh tế - xã hội:
An Điền: là một xã ven cửa sông Hàm Luông có nên kinh tế thuần nông, chủ yếu
sản xuất nông nghiệp với cây chủ lực là cây lúa nước, chăn nuôi gia súc. Người dân
trong vùng còn có nghề rừng, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy hải sản.
Thạnh Hải: là xã ven biển nằm về phía bờ nam cửa sông Hàm Luông, trực tiếp
giáp biển Đông có nền kinh tế chuyên về lâm - ngư nghiệp, nuôi trống và đánh bắt
thủy hải sản. Trong vùng còn có diện tích khá lớn những giồng cát điển hình và cồn
cát ven biển là nơi người dân chủ yếu canh tác rau màu và chăn nuôi. Nghề thủ công
nghiệp, thương mại, dịch vụ-du lịch của hai xã An Điền và Thạnh Hải phát triển nhỏ
lẻ, chưa tương xứng với điều kiện môi trường sinh thái trù phú vùng cửa sông ven
biển.
An Thủy: là xã ven biển thuộc bờ bắc cửa sông Hàm Luông, trực tiếp giáp biển
Đông có thế mạnh về ngư nghiệp, đánh bất xa bờ, nuôi trồng, chế biến thủy hải sản.
Thương nghiệp khá phát triển với nhiều cơ sở lớn, nhỏ thu mua thủy hải sản dọc theo
các tuyến kênh, rạch thông với cửa sông Hàm Luông. Trên địa bàn xã, cư dân một số
nơi sống bằng nghề trồng lúa, làm giồng, làm muối... Dịch vụ-du lịch cũng chưa phát
triển ngang tầm với điều kiện sẵn có.
√ Tình hình giao thông
Tình hình giao thông trên 3 xã ven biển gặp nhiều khó khăn, địa hình bị chia cắt,
có nhiều cồn bãi. Đến cuối năm 2006, các tuyến giao thông đến trung tâm xã An Điền
khá thuận lợi, có 5/6 công tình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng như: cầu lộ Mõ Cày,
cầu Ba Vệ, cầu 6/12, cầu Rạch Giồng Giữa, bê tông lộ Mõ Cày, tổng kinh phí các
công trình là 209.341.000 đồng.
46
Việc đầu tư giao thông nông thôn trong 2 xã An Thủy và Thạnh Hải, tuy được
đầu tư nhưng chưa đúng mức. Năm 2006, nhân dân đóng góp sửa đoạn lộ từ ngã ba
Mũi Tàu đến Ủy ban nhân dân xã Thạnh Hải với số tiền là 6.260.000 đông. Các tuyến
đường liên ấp thông ra các cồn cát ven biển (cồn Bửng, cồn Lợi, cồn Tra...) chưa được
đầu tư nâng cấp; mức đóng góp của nhân dân còn hạn chế; chưa có cầu bắc qua các
cồn vẫn còn nhiều bến đò ngang nhỏ lẻ kém an toàn, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển,
việc đi lại, thông tin liên lạc với trung tâm xã của cư dân, đặc biệt là các em học sinh
trên các cồn bãi gặp nhiều khó khăn nhất là trong những mùa mưa, lũ, triều cường.
√ Sản xuất nông nghiệp
An Điền là một trong các xã thuộc tiểu vùng 2 của huyện Thạnh Phú (gồm xã An
Thạnh, An Qui, An Thuận, An Điền và một phần của Thị trấn Thạnh Phú) được quy
hoạch luân canh 1 vụ tôm vào mùa nắng và 1 vụ lúa vào mùa mưa, đã đem lại hiệu
quả rõ rệt [22, tr.142]. Trong năm 2006, tổng diện tích gieo xạ trên địa bàn đạt 706,5
ha.
Vì là vùng đất bị nhiễm mặn quanh năm nên cây ăn trái ở An Điền kém phát
triển. Ngoài cây lúa, cây mía ở An Điền cũng phát triển khá tốt, toàn xã có tổng diện
tích đất trồng mía là 5,1 ha với năng suất thu hoạch bình quân 50-60 tấn/ha. Người
dân còn tận dụng những bãi đất trống để trồng cỏ chăn nuôi bò, dê, cừu...
Trên địa bàn xã An Thủy và Thạnh Hải chủ yếu là đất mặn để trồng rừng, nuôi
tôm sú và diện tích khá lớn đất giồng cát; Thạnh Hải (235 ha), An Thủy (211 ha),
trồng hoa màu như sắn, Dưa hấu, Đậu phong, rất ít cây ăn trái. Xã An Thủy có rừng
chiếm 8,1% diện tích toàn xã. Riêng xã An Thủy có khoảng 27 ha đất diêm nghiệp.
√ Lâm nghiệp
Hiện nay, công tác trồng rừng vẫn tiếp tục được tiến hành, việc giao rừng cho
nhân dân và các tổ chức quản lý thực hiện chủ yếu ở các ấp cửa sông ven biển. Người
dân được hướng dẫn khoanh nuôi rừng tự nhiên, chăm sóc, quản lý, trồng thêm rừng,
khai thác và nuôi thủy hải sản dưới tán rừng; diện tích đất có rừng ở xã Thạnh Hải
khoảng 656 ha, ở xã An Điền là 407 ha, ở xã An Thủy là 248 ha.
√ Chăn nuôi - Thủy sản
47
Trong những năm qua, nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm như trâu, bò, dê, lợn, gà,
vịt khá phát triển trên những vùng đất ven rừng và trên các khu vực giồng cát đã góp
phần tăng thu nhập cho nhân dân 3 xã. Tuy nhiên, do diễn biến phức tạp của dịch cúm
gia cầm, lở mồm long mong đã gây nhiều khó khăn cho một bộ phận không nhỏ cư
dân trong vùng.
Nghề nuôi trông, đánh bắt thủy hải sản là thế mạnh của vùng. Việc nuôi tôm sú
công nghiệp và nuôi quảng canh đang phát triển mạnh. Trên những bãi bùn cát, nghề
nuôi nghêu, sò huyết đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho các thành viên trong các
Hợp tác xã. Riêng xã An Điền còn khuyến khích bà con thả tôm càng xanh xen trong
ruộng lúa vào những tháng nước ngọt, bước đầu mang lại hiệu quả khá tốt. Đánh bắt
hải sản xa bờ đặc biệt phát triển mạnh ở phía bờ Bắc (thuộc Ba Tri) cửa sông Hàm
Luông, riêng ở xã An Thủy huyện Ba Tri, cuối năm 2006 có số lượng tàu thuyền đánh
cá là 637 chiếc.
√ Công nghiệp - Thủ công nhgiệp
Phát triên chậm chưa ngang tầm với tiềm năng sẵn có, chỉ có vài cơ sở nhỏ như
buôn bán tôm giống, sản xuất nước đá cây, xay xác lúa gạo, nhiều điểm nhỏ lẻ thu
mua hải sản, chưa có nhà máy chế biến thủy sản, công nghiệp đóng ghe, tàu chưa phát
triển.
√ Dịch vụ - Du lịch
Dịch vụ nhỏ lẻ, chủ yếu cung cấp những nhu cầu vật chất đơn giãn. Các chợ
trung tâm xã thường ở cách xa các cồn bãi ven biển, giao thông bộ gặp nhiều khó
khăn, giao thông thủy đặc biệt phát triển. Mặc dù phong cảnh, tài nguyên sông nước
đầy hấp dẫn, nhiều bãi cồn cát sạch đẹp, khu di tích lịch sử "Đầu cầu tiếp nhận vũ khí
Bắc - Nam" đang được đâu tư phát triển, nhưng du lịch vẫn chưa phát triển, chưa thu
hút được nhiều du khách.
√ Văn hóa - Xã hội
- Giáo dục: Được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng, nhìn chung tỷ lệ học
sinh lên lớp khá cao, tỷ lệ tốt nghiệp THCS đạt trên 70%. Hiện tượng học sinh vùng
biển bỏ học theo gia đình làm ăn xa thường xảy ra, học sinh bỏ học cấp 1 chiếm gần
48
1%, cấp 2 trên 5%.
- Y tế: Mỗi xã đều có 1 trạm y tế xã, đều có bác sĩ tổ chức khám chữa bệnh,
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, thực hiện tốt chương trình tiêm chủng quốc
gia, kết hợp thực hiện tốt y tế học đường.
- Chính sách xã hội: Công tác chăm lo sức khỏe, trợ cấp cho người có công cách
mạng, các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, hộ nghèo đặc biệt được quan tâm. Các
ngành và các cấp lãnh đạo thường xuyên vận động các tổ chức trong và ngoài tỉnh để
xây cất nhà tình thương, nhà tình nghĩa, hỗ trợ vốn làm ăn trong nhân dân. Số hộ
nghèo hàng năm đều có giảm, bình quân số hộ nghèo trong 3 xã vào năm 2006 là
20%.
49
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1.Thành phần loài thực vật vùng cửa sông ven biển sông Hàm Luông -
tỉnh Bến Tre
3.1.1.Nhân tố bản địa
Ở Việt Nam, Giáo sư Tiến sĩ Phan Nguyên Hồng chia RNM ven biển thành 4
khu vực, trong đó, RNM Bến Tre thuộc khu vực IV - khu vực ven biển Nam Bộ - là
khu vực có những điều kiện sinh thái thuận lợi cho các thảm thực vật ngập mặn sinh
trưởng và phát triển. Bên cạnh đó, khu vực này gần các quân đảo Malaysia và
Indonesia là nơi xuất phát của cây ngập mặn, do thế mà thành phần của chúng phong
phú nhất và kích thước cây lớn hơn các khu vực khác ở nước ta [15].
Trong quá trình thống kê và so sánh về thành loài giữa các vùng, nhiều tác giả đã
chia hệ thực vật ngập mặn thành 2 nhóm: nhóm các loài cây ngập mặn thực sự và
nhóm tham gia RNM. So sánh với danh mục 36 loài cây ngập mặn chủ yếu của RNM
Việt Nam được Phan Nguyên Hồng công bố năm 1999, có 25 loài thuộc 17 chi, 13 họ
ở RNM ven biển cửa sông Hàm Luông vừa được nhận diện đến thời điểm này.
Nhóm cây tham gia RNM ở vùng ven biển cửa sông Hàm Luông có 34 loài
thuộc 33 chi, 21 họ.
Ngoài hai nhóm thực vật RNM được kể trên, theo "Báo cáo thực vật và thảm
thực vật khu BTTN rừng ngập mặn cần Giờ" (Nguyễn Bội Quỳnh, 1997) còn đề cập
đến nhóm các loài nhập cư. Nhóm này gồm các loài vốn thuộc vùng nội địa, không
tham gia vào RNM nhưng do hoàn cảnh đất thay đổi như đắp đường, bờ bao vuông
tôm, nền nhà, đất cao không còn ngập triều hay do được nhập vào cây trồng với mục
đích kinh tế v.v. [35, tr.54]. Thêm vào đó, ven bờ biển đã hình thành những bãi cát
cao, nơi mà chỉ có các loài cây cỏ dạng bụi sinh sống còn RNM không thể phát triển
[28, tr.200].
50
51
52
53
This image cannot currently be displayed.
Theo tài liệu đã công bố trong Dự án đầu tư phát triển Khu BTTN đất ngập nước
Thạnh Phú - huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre có 119 loài thực vật hiện diện trong Khu
54
Bảo tồn này [44]- thuộc bờ hữu sông Hàm Luông. Kết họp với việc khảo sát và điều
tra bổ sung, thành phần loài thực vật ở vùng ven biển cửa sông Hàm Luông đạt 199
loài thuộc 155 chi, 58 họ, 34 bộ, 2 ngành. Trong đó, nhóm cây ngập mặn chính thức
được bô sung 7 loài, bổ sung thêm cho nhóm cây tham gia RNM là 9 loài.
55
56
57
This image cannot currently be displayed.
58
59
3.1.2.Thực vật quý hiếm vùng cửa sông ven biển sông Hàm Luông:
Theo sách đỏ Việt Nam năm 1996, trong số 199 loài thực vật cửa sông ven biển
sông Hàm Luông được thống kê thì có 03 loài thuộc 03 họ ( Bảng 3.1) là những loài
thực vật quý hiếm cần được quan tâm bảo vệ.
3.1.3.Nhân tố di cư:
Vùng cửa sông ven biển sông Hàm Luông là một phân của đồng bằng sông Cửu
Long, đây là một trong hai đồng bằng châu thổ lớn nhất cả nước, thuộc địa bàn 13 tỉnh
ĐBSCL, nằm trong vùng đông bằng sông Mê Công ( gồm một phần thuộc Campuchia
và phần rộng lớn còn lại thuộc Việt Nam). Đồng bằng này được thành tạo bởi con
sông lớn thứ 10 trên thế giới, dài 3.183 km, bắt nguồn từ Tây Tạng chảy qua các phần
đất của Trung Quốc, Myanma, một phần ba Thái Lan, toàn bộ Lào và Campuchia và
60
một phần năm Việt Nam và đổ ra biển Đông qua chín cửa sông [28, tr.197]. Phía bắc
của ĐBSCL tiếp giáp với hạ du sông Đồng Nai - Sài Gòn ở miền Đông Nam Bộ nằm
ở cuối dải Trường Sơn. Địa hình trong vùng tương đối thấp và bằng phẳng, tuy bị chia
cắt nhiều bởi hệ thống sông rạch chằng chịt nhưng với điều kiện tự nhiên như trên đã
tạo cho hệ động vật, thực vật trong vùng, nhất là các sinh vật thích nghi trong môi
trường đất ngập nước có mối liên lạc rộng với các vùng có thể ở rất xa. Riêng về quần
hệ thực vật của vùng đông bằng cửa sông ven biển nơi đây cũng có sự ảnh hưởng của
4 nhân tố di cư của khu hệ thực vật Châu Á như: [28, tr.86-98]
√ Từ phía Nam lên là luồng thực vật nhiệt đới của khu hệ thực vật Malaysia -
Indonesia với đặc trưng là họ Sao Dầu (Dipterocarpaceae). Theo một số tác giả, trung
tâm hình thành cây ngập mặn là Indonesia và Malaysia (Cương, 1964, Chapman,
1975). Theo Phan Nguyên Hồng [14], nguồn giống cây ngập mặn được vận chuyển
vào Việt Nam chủ yếu do các dòng chảy đại dương và dòng chảy ven bờ; vào mùa hè
gió mùa Tây Nam đưa dòng chảy mang nguồn giông từ phía Nam lên.
√ Từ phía Tây Bắc xuống là luồng thực vật á nhiệt đới và ôn đới của khu hệ thực
vật Himalaya - Vân Nam - Quý Châu Trung Quốc, với các họ đặc trưng: họ Re
(Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Chè (Theraceae), họ Đỗ Quyên (Ericaceae), họ
Sim (Myrtaceae) .. .Hầu hết các loài cây trong các họ này là các cây thường xanh lá
rộng.
√ Từ phía Tây và Tây Nam sang là luồng thực vật thân thuộc với khu hệ thực vật
Ấn Độ - Miến Điện với các họ đặc trưng: họ Bàng (Combretaceae), họ Cỏ roi ngựa
(Verbenaceae), họ Tung (Datiscaceae), họ Gòn (Bombaceae)... Phần lớn các họ này có
các loài cây rụng lá ương mùa khô, hình thành các kiểu rừng kín nửa thường xanh và
rụng lá ở Việt Nam.
√ Từ khu hệ thực vật đệ tam, Bắc Việt Nam - Nam Trung Hoa xuống, với các họ
đặc trưng: họ Đậu (Fabaceae), họ Xoan (Meliaceae), họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae),
họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Na (Annonaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae), họ
Nhãn (Sapindaceae)...
61
3.1.4.Giới thiệu một số loài thực vật trong vùng cửa sông ven biển sông Hàm
Luông tỉnh Bến Tre.
MÁI DẦM Cryptocoryne ciliata Wydler
Họ Ráy Araceae
Cỏ sống ở bùn, thân ngầm to 15mm. Lá đứng; phiến tròn dài thon cao khoảng 30
- 50cm, nhọn hai đầu, gân phụ xéo, không dày lắm; cuống dài đến 20cm. Phát hoa
giữa lá; mo thon nâu đỏ bìa có rìa dài, ống dài 15 - 17cm, phù ở đáy (nơi thụ); buồng
nhỏ, có phần đực cách phần cái; 7-8 bông cái hợp thành vòng. Trái mập, có cạnh tròn,
to 3 - 4cm, hột dài 8mm. Cây trổ bông quanh năm.
Cây thường mọc dựa rạch, cửa sông, rừng sác trong mực nước triều lên xuồng.
Gặp nhiêu ở dưới tán rừng bân thuộc Tiêu khu 12 - thuộc xã An Điền huyện Thạnh
Phú trong Khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú.
Nhân dân thường dùng lá để nuôi heo (Phan Nguyên Hồng, 1984) [42].
MẮM BIỂN Avicennia marina (Forssk.) Vierh.
Họ Cỏ roi ngựa Verbenaceae
Cây gỗ dạng bụi, nhỏ nhất giữa các loài Mắm, thường cao 5 - 6m, phân cành sát
góc, nhánh tháp, tàn rộng, thân ít khi thẳng. Rễ hô hấp hình chông. Lá đơn, mọc đôi,
hình thuôn, elip, chân hình nêm, đâu nhọn đèn tròn, dài 5 – 11cm, bìa nguyên hơi dạn
sóng, mặt dưới có lông mịn hơi vàng. Bông gồm 8-12 bông tạo thành tụ tán ở ngọn,
thường có 3 nhánh, bông có 4 cánh bông vàng tới cam, có mùi thơm mạnh. Trái hình
tim, dài 1,5 – 2cm, vỏ màu vàng xanh, có lông mịn.
Tại vùng cửa sông Hàm Luông, thường gặp loài này trên các bãi bôi từ lỏng đến
chặt, ở gần bờ biển, bị ngập bởi con nước triều thấp hàng ngày. Tạo thành quần thụ
đơn thuần hoặc hỗn giao với các loài Sonneratia alba J. Sm. (Bần đắng), Avicennia
alba BI. (Mắm trắng), Ceriops decandra (Griff) Ding Hou (Dà quánh), Sesuvium
portulacastrum L. (Sam biển). Trổ bông vào tháng 4-8, trái vào tháng 8-11.
Cây có kích thước nhỏ, gỗ nhẹ, thường dùng làm củi. Một số nơi khác, dùng lá
và trái làm thức ăn cho gia súc vì chứa nhiều tinh bột. Theo Vũ Văn Chuyên (1978), lá
62
của loài này chứa nhiều đạm làm phân xanh rất tốt, trái ăn được. Vỏ chứa 17% tanin,
11% tinh bột, 8% chất béo [42, tr.183].
XUỔI Xylocarpus granatum Koen.
Họ Xoan Meliaceae
Cây gô cao 5 - 1 m; góc thân thường mở rộng với bạnh gốc rất phát triển; vỏ
màu nâu đỏ khi non và khi trưởng thành thường bong tróc từng miếng mỏng, màu đỏ
dạt giống vỏ cây ôi. Lá kép lông chim 1 lần chẵn, thường mang 2-3 cặp lá chét hình
trứng ngược, dày, đầu lá tròn, dài 6 -8cm. Hoa tự xim ở nách lá hay đầu cành, màu
trắng, tạo thành tụ tán ít bông với trục chính không thật rõ ràng và phân nhánh không
đều. Trái nang hóa gỗ, tròn , to 10 - 20cm, lúc non có màu xanh và hơi sần sùi, khi
chín quả màu nâu và láng hơn, nứt làm 4 mảnh, 8 - 12 hột rộng, dày, to 8cm, có cạnh;
hạt nhẹ nổi trên mặt nước. Mùa hoa vào tháng 10 - 11 dl, trái chín tháng 5 - 7 dl [35].
Cây mọc trên đất bùn cát đã nâng cao, ngập triều trung bình hay triêu cao, độ
mặn thấp. Có thể gặp cây Xuổi ở Tiểu khu 15 trong Khu BTTN đất ngập nước Thạnh
Phú thuộc xã Thạnh Hải.
Cây cho gỗ màu hường, khá nặng, sớ mịn, gỗ ít bị mối mọt nên được dùng đóng
đồ mộc, làm đồ mỹ nghệ..nhưng vì kích thước nhỏ và ngày nay cây trở nên hiếm gặp
nên giá trị kinh tế không cao. Vỏ chứa nhiều tanin có thể dùng để nhuộm và thuộc da,
dầu từ hạt để đốt hay đánh bóng. Dân địa phương còn dùng vỏ và hạt để trị tiêu chảy.
XU SUNG Xylocarpus moluccensis (Lam.) Roem.
Họ Xoan Meliaceae
Cây gỗ nhỏ, cao 5 - 10m; nhánh trơn, vỏ nâu dợt, nứt thành những đường dọc rất
mảnh; rễ thở gần giống như hình đầu gối. Lá kép lông chim 1 lần chẵn, mang 2-3 cặp
lá chét bầu dục, đầu lá kép hẹp và hơi nhọn, phiến mỏng, dai và sậm màu hơn Xu ổi.
Bông trắng, nhỏ, tạo thành chùm tụ tán ở nách lá, thơm. Trái là nang, tròn nhỏ hơn Xu
ổi, vỏ quả lúc non láng hơn và khi trưởng thành vẫn có màu xanh sáng hơi vàng, cũng
nứt thành 4 mảnh. Cây trổ bông sau khi thay lá vào khoảng tháng 4 - 6 dl [42].
Thường gặp Xu sung ở ven bờ rạch, đất chỉ bị ngập bởi con nước triều cao xen
lẫn với cây rừng sát khác, cũng có thể tạo thành quân thụ; ở cửa sông Hàm Luông có
63
thể gặp trong Tiểu khu 12, 15, 16, 17, 18 của Khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú.
Cây cho gỗ sớ mịn, chắc, lỏi đỏ nhạt, giác vàng, vân đẹp có thể dùng làm bàn
ghế đẹp và quý song những cây già thường bị bọng ruột làm cây kém giá trị và dùng
làm củi; vỏ chứa tanin dùng nhuộm lưới. Theo Phan Nguyên Hồng (1999), Xu sung
cũng như Xu ổi còn có công dụng chữa bỏng, vết thương ngoài da với bộ phận sử
dụng là vỏ và tanin.
SÚ Aegiceras corniculatum (L.) Blanco
Họ Đơn nem Myrsinaceae
Cây gỗ nhỏ cao 1,5 - 3,5m, thân ngắn, phân nhiều nhánh, không rễ phổi, bộ rễ
ngầm phát triển mạnh. Lá đơn, mọc cách sát nhau gần như đối, xếp xoắn ốc, dài 5 -
7cm, dày, dai, phiến hình trứng ngược, gốc hình nêm, đầu tròn đến lõm, mặt trên láng
nhiều chấm tuyền, màu xanh ô liu lúc khô. Hoa tụ tán đơn có 10 - 15 bông mọc ở
ngọn, màu trắng, rất thơm. Qủa nang hình trụ cong lưỡi liềm, dài 4 - 7cm, đầu nhọn,
gốc có đài tồn tại, màu xanh ô liu; 1 hột nảy mầm trên cây mẹ. Bông trổ vào tháng 11
- 4 dl; trái chín tháng 12-7 dl.
Thường mọc ven bờ sông, bãi bùn gần cửa sông nước lợ hay mặn; mọc xen với
các cây rừng sát khác, có thể tạo thành đám rộng. Loài này gặp ở cả bờ tả (xã An
Thủy huyện Ba Tri) và bờ hữu (Tiểu khu 12,13 thuộc xã An Điền huyện Thạnh Phú)
của vùng ven biển cửa sông Hàm Luông.
Loài tiểu mộc này chỉ được sử dụng chủ yếu để làm củi, vỏ, trái, chứa nhiều
tanin và saponin; nhất là ở hột chất độc saponin rất cao dùng để thuốc cá, với tác dụng
phá hoại hồng huyết cầu. Lá cây dùng làm phân bón. vỏ và lá còn được dùng nâu
nước súc miệng chữa bưu cô (Võ Văn Chi – Trần Hợp, 1999). Ở một số nơi, Sú còn
được gây trồng làm nguồn nuôi ong lấy mật; ngoài ra, do hệ rễ phát triển có khả năng
giữ đất cao và khả năng nảy mầm của hạt rất mạnh, cây con mọc khỏe nên có thể
trồng chắn sóng bảo vệ đê biển rất tốt [42, tr. 150].
VẸT TRỤ, VẸT KHANG Bruguiera cylindrica (L.) Blume
Họ Đước Rhizophoraceae
Cây gỗ cao 10 - 15m có banh góc nhỏ, vỏ trơn màu xám nhạt. Lá đơn, nguyên,
64
mọc đối, hình bầu dục, tà nhọn hai đầu, cuống thường hơi đỏ, lá kèm màu xanh lục dài
2 - 4cm. Lá và nhánh cây khi tươi có mùi thuôc bác. Hoa trắng hơi xanh, hợp thành
tán thường 3 hoa; đài màu xanh hình ông, cứng, tròm, với 8 thùy thẳng nhọn, cong ở
cuối; 8 cánh hoa trắng gắn xen kẽ với tai đài, mỗi cánh chẻ làm hai thúy với 2 hay 3
sợi tơ cứng đầu mỗi thúy. Trái mang đài tồn tại với những cánh đài cong vểnh lên; trụ
mầm màu xanh ủng tím và dài 8 - 15cm lúc trưởng thành, hơi khía rãnh. Bông nở vào
tháng 5-6 dl, trái chín vào tháng 10 - 11 dl.
Loài này thường mọc rải rác trên các nơi đất cao, chỉ thỉnh thoảng ngập triều của
các con nước rong, gần bờ biển hoặc cửa sông có nước mặn. Loài này hiện diện vài
cây sông trong vuông tôm sinh thái ở Tiểu khu 13, 15, 16 Khu BTTN đất ngập nước
Thạnh Phú.
Cây cho gỗ màu vàng đỏ mịn có mùi đặc biệt, được sử dụng làm nhà cửa, đóng
đồ thông thường và cung cấp chất đốt. Đạt non có thể dùng làm rau sống, trụ mầm
chứa nhiều tinh bột có thể chế biến làm thức ăn [42, tr. 118].
VẸT ĐEN Bruguiera sexangula (Lour.) Poir.
Họ Đước Rhizophoraceae
Cây gỗ có thể cao đến 25m, ở cửa sông Hàm Luông cây thường thấp khoảng
10m, cây con có rễ khí sinh xếp thành nạng ôm lấy gốc và phát triển thành banh gốc
khi trưởng thành. Lá đơn, mọc đối, thường tập trung ở ngọn, nhẵn bóng mặt trên, hình
thuôn, hai đầu nhọn; lá kèm màu vàng lục dài 3 -4cm, sớm rụng. Bông mọc đơn độc ở
nách lá, đầu của thùy đài không sắc và cũng không có lông tơ; nụ bông bầu dục nhọn
ở hai đầu; đài màu vàng lục và cùng tồn tại với quả. Quả với đài còn lại có hình như
cái nôm cá, trụ mầm thẳng, dài 6-8cm, có 6 cạnh tà, màu xanh lục ửng nâu khi trái
chín. Mùa hoa quả vào khoảng tháng 6 - 8 dl.
Thường gặp ở nơi bùn chặt có nước mặn đến nước ngọt, nơi bìa rừng, cửa sông
nước lợ, có thể sống được ở đất ẩm không ngập nước. Gặp ở Tiểu khu 12, 13, 15, 16,
17.
Gỗ dùng trong xây dựng, đóng đồ dùng thông thường; vỏ chứa nhiều tanin dùng
thuộc da và nhuộm lưới. Phối quả ngâm nước qua đêm có thể ăn được, lá làm rau, quả
65
làm chất thay trâu, dịch tò quả làm thuốc đỏ mắt và trong lá có chất alkaloids chống
phát triển bứu cổ (Sở, 1995). Củi tốt dùng hầm than, gốc già chụm thơm như trầm
(Phạm Hoàng Hộ, 1991 - 1993) [35, tr.110].
TRANG Kandelia candel (L.) Druce
Họ Đước Rhizophoraceae
Cây gỗ nhỏ chỉ cao đến 7m, không có rễ khí sinh nhưng có banh gốc, vỏ có
mảnh nhỏ, lóp vỡ trong màu đỏ; vỏ thân màu xám trơn. Lá đơn, mọc đối, hình bầu dục
thon dài, đầu tròn, gốc hình nêm, mép lá nguyên, thường uốn phía lưng; lá kèm hình
chỉ, dài 1,5 - 2cm, rụng sớm. Bông trắng, thơm hợp thành tụ tán lưỡng phân 4-8 bông
ở nách lá, cọng bông dài 2 - 3cm; 5-6 tai đài hình ông, nhọn cuộn lại sau khi bông nở;
5 cánh bông màu trắng gần như xẻ đôi, có nhiều sợi nhỏ dài giữa các thùy. Trái thai
sinh mang trụ mầm dài 15 - 40cm; đài tồn tại cùng với trái, 5-6 cánh đài hình dải cong
vểnh lên. Cây trổ bông nhiều vào tháng 4 - 6 dl, trái chín vào tháng 7 - 9 dl.
Cây Trang mọc trên đất bùn cát dọc sông có độ mặn thay đổi; thường mọc hỗn
giao với Đước, Bần, Sú. Ở vùng cửa sông Hàm Luông, loài này sống ở cả hai bãi bồi
phía bờ tả - xã An Thủy và bờ hữu trong Tiểu khu 12, 13, 14 Khu BTTN đất ngập
nước Thạnh Phú.
Dân địa phương dùng cây Trang trong xây dựng thông thường, làm củi. Thường
gặp loài này ở miền Bắc và được trồng ven biển Thái Bình, Hà Nam Ninh để bảo vệ
đê biển, nuôi ong lấy mật; lá chứa chất Iod có thể dùng để trị bịnh bưu cổ (basedovv);
trái chứa nhiều tinh bột, có thể dùng nuôi heo; vỏ cây chứa 12,3% tanin (Vũ Văn
Chuyên, 1977) [42, tr.128].
ĐƯỚC ĐÔI Rhizophora apiculata Blume
Họ Đước Rhizophoraceae
Cây gỗ cao đến 25 - 30m, đường kính đến 0,7m, rễ chống chân nôm rất phát
triển. Lá đơn, mọc đối, hình bầu dục, chân nêm, đầu nhọn có khi có một chót nhỏ,
mềm, dày, mặt trên xanh sẫm và láng bóng, mặt dưới có nhiều chấm đen, lá kèm đỏ.
Bông nhỏ màu vàng nhạt tạo thành tụ tán 2 bông trên cuống ngắn và mập; đài hợp xẻ
4 thùy hình tam giác dày, sẽ ở lại cùng với trái; cánh bông 4, mỏng, trăng trắng, không
66
lông. Trái màu nâu nhám, với trụ mầm dài 20 - 30cm màu xanh sẫm, khi chín có màu
nâu đỏ. Mùa hoa tháng 4 - 5 hay quanh năm; trái chín tháng 11.
Cây ưa sáng, thích hợp với loại đất bôi bùn mèm đèn hơi chặt ngập triều định kỳ
hàng ngày, không phát triển được ở nơi ngập úng lâu ngày và tăng trưởng chậm trên
đất bôi đã dẻ chặt. Trong Khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú, có thể thấy rất nhiều
ở tất cả các Tiểu khu do được trồng vì giá trị kinh tế cao; bên ngoài Khu Bảo tồn
Đước cũng được các hộ gia đình trong các xã ven biển tỉnh Bên Tre trông với diện
tích khá nhiêu trong các vuông tôm nhỏ lẻ. Nguôn cây Đước giống được cung cấp từ
Cà Mau.
Cây cho gỗ màu nâu dợt, cứng, không mùi, với các vạch tủy tuyến màu nâu đỏ.
Gỗ cứng nặng, dùng làm cừ, cột, đóng bàn ghế…Than hầm cho nhiệt lượng cao rất
được ưa chuộng, vỏ chứa tanin dùng để thuộc da, nhuộm; trái cũng có tanin và một
lượng tinh bột đáng kể có thể dùng vào việc chăn nuôi; Lá cũng được Nhật Bản chế
biến thành các sản phẩm công nghiệp như mặt kính đồng hồ, hàm lượng đạm trong lá
từ 1,4 - 1,45% (Phan Nguyên Hồng, Nguyễn Bảo Khanh, Võ Xuân Dung, 1981) có
thể dùng làm phân xanh [42,tr.l30].
ĐƯNG, ĐƯỚC BỘP Rhizophora mucronata Poir.
Họ Đước Rhizophoraceae
Cây gỗ cao đến 20 - 30m, đường kính đến 0,7m, rễ chống chân nôm rất phát
triển, cao đến l,5m và cũng có nhiều rễ ăn nổi trên mặt đất. Lá đơn mọc đối, hình bầu
dục rộng, màu lục tươi, to hơn lá Đước đôi và có gai mũi dài 1 - 2cm. Bông hợp thành
tụ tán lưỡng phân 2 - 3 lần với 4-8 bông, có cuống dài hơn Đước đôi, 4 cánh bông
màu vàng lợt, mép có nhiều lông trắng mịn như len, đài dính có 4 tai hình tam giác,
màu vàng lợt trước khi nở. Trái hơi tròn, dài 6 - 7cm, màu nâu nhám với 4 tai đài lật
ngược; trụ mầm rất dài đến l00cm (có lẽ là dài nhất trong họ Đước ở RNM), màu xanh
sáng, có bì khẩu lồi nổi lốm đốm khắp thân trụ mầm. Cây trổ bông lúc 3 - 4 năm tuổi,
mùa bông từ 11 - 12 dl, trái chín vào tháng 4 - 8 dl.
Loài này đặc biệt phát triên nhanh tại nơi bị ngập nước triêu, khá sâu, trên các
bãi bôi đang ôn định với nhiêu chất mùn ở ven biển, ít khi gặp phía trong rừng sát vì
67
trái dài và nặng nên dòng nước không mang đến được. Đưng cũng sống và phát triển ở
đất bùn pha cát. Ven cửa sông Hàm Luông, có thể gặp cây Đưng rải rác lẫn trong các
bãi rừng Bần chua phía bờ tả - thuộc xã An Thủy có nước triều lên xuống hàng ngày,
phía bờ hữu chỉ có dăm bảy cá thể trưởng thành sống trong các vuông tôm sinh thái ở
các Tiểu khu 15,16,17.
Cây Đưng có gỗ màu nâu vàng, sáng, nặng, rắn chắc dùng trong xây dựng, đóng
đồ thông thường, làm củi, than hầm có chất lượng cao; đặc biệt dùng xẻ ván do có
phần gỗ lõi nhiều vân đẹp lại không dễ nứt như ván Đước (Rhizophora apiculata B1.).
Vỏ chứa nhiều tanin làm chất nhuộm hay làm thuốc cầm máu, trị tiêu chảy; vỏ của rễ
có thể dùng làm nhang đuổi muỗi; trụ mầm chứa lượng tanin và tinh bột đáng kể; chồi
non ăn như rau sống [42].
BẦN CHUA Sonneratia caseolaris (L.) Engl.
Họ Bần Sonneratiaceae
Cây gỗ cao đến 18 m, thân rộng đến 50cm, nhánh non, đỏ, cành thường rũ
xuống, rễ thở nhiều, mọc dựng đứng từ dưới bùn lên, cao 15 -20cm. Lá đơn, mọc đối,
dày, giòn; phiến lá trưởng thành thon hay bầu dục, đầu nhọn, cuống và gân chính màu
đỏ nhạt. Bông đơn độc hay dạng xim 2 ngả gồm vài bông ở ngọn; nụ tròn màu xanh
lục; 6 tai đài màu xanh lợt ở mặt ngoài và tím hông ở mặt trong; nhiêu chỉ nhị hình
sợi, trắng ở phần đầu và đỏ tím ở đáy. Trái mọng, màu xanh, góc có 6 thùy đài xếp
phẳng, hạt nhiều, trái chín rất thơm, vị chua. Cây trổ bông vào cuối mùa nắng từ tháng
3 - 4 dl, trái chín vào tháng 7 - 9 dl.
Là loại cây tiên phong điển hình ở vùng ven kênh rạch, cửa sông ven biển có
nước lợ. Có thể khăp nơi trong vùng, cây phát triển tốt với kích thước cao lớn ở các
bãi bùn ít cát [42].
Thân cây lớn có thể dùng làm cột trong xây cát thông thường, đóng đô nhỏ, làm
củi; vỏ chứa nhiều tanin; rễ hô hấp làm nút chai; trái ăn được; lá có thể dùng làm thức
ăn cho gia súc (nuôi Dê). Một vài nơi, gỗ Bân chua còn có thể khai thác làm bột giấy;
làm chân độn cho giày, dép, guốc. Cây cũng có vai trò lấn biển, hạn chế xói mòn, sạt
lở bờ, che chắn gió bão cho vùng ven biển cửa sông Hàm Luông.
68
MƯỚP XÁC VÀNG Cerbera odollam Gaertn.
Họ Trúc đào Apocynaceae
Cây gỗ nhỏ không lông, vỏ trăng trắng, mủ trắng. Lá có phiến thon dài, dài 20 -
35cm, bóng láng, gân bên mảnh, nhiều, cuống dài. Cụm hoa ở ngọn nhánh, hoa rộng 4
- 5cm, ống và thùy tràng màu trắng, tâm màu vàng cam, nhị 5. Qủa hạch thường chỉ
có 1, tròn, to 8 - 12cm, màu xanh.
Cây mọc dọc bờ biển nhiều nước châu Á và Ôxtrâylia. Ở nước ta cây mọc hoang
và cũng được ừồng ở vùng nước lợ. Có thể gặp loài này ở Tiểu khu 12, 13 xã An Điền
huyện Thạnh Phú tỉnh Bến Tre.
Hạt rất độc, dùng để duốc cá [5, tr. 638].
VUỐT HÙM Caesalpinia bonduc (L.) Roxb.
(Ở Bến Tre gọi cây này là Óc ó)
Họ Vang Caesalpiniaceae
Cây nhỡ leo, có cành màu xám, mảnh, có lông tơ, có gai. Lá có trục, dài 30 -
50cm, có gai. Lá lông chim 3 - 9 đôi có trục dài 4 - 15cm, có gai, lá chét 12-24 mọc
đối, nhiều lông vàng lúc non, lá chét trên cùng lớn hơn cả, gân bên 8 - 10 đôi. Chùm
hoa ở trên nách lá, có khi có 1 - 2 nhánh, dài 12 -20cm, có lông mèm, có gai. Lá bấc
hình dải 6 - 12mm, cuông hoa 4 - 6mm, nụ có lông mềm, đài có lông, không đều
nhau, cánh hoa vàng, không đều, nhị có chỉ nhị có lông, bầu có cuống, có 2 noãn. Quả
đậu hình bầu dục, dài 5 - 8cm, rộng 4cm, phủ gai đứng, cao 7 - 9mm. Hạt 1 - 2, to
2cm, màu xanh mắt mèo có đốm sậm.
Loài của vùng xích đạo. Thường gặp ven rừng, trong các lùm bụi dọc bờ biển. ơ
vùng ven biển cửa sông Hàm Luông - Bên Tre, có thê gặp loài này trong Tiểu khu 12,
13 xã An Điền. Ra hoa tháng 7 - 10, có quả tháng 11-3.
Cây cũng có khi trồng làm hàng rào. Hạt được dùng làm thuốc trị bệnh sốt rét
cơn; cũng được dùng trị lỵ. Ở Vân Nam (Trung Quốc), hạt được xem là có tác dụng
noãn vị và bổ thận, dùng trị thận hư và vị hàn. Ở Indonêxia, người ta cũng dùng hạt
làm thuốc trị giun và ho. Lá được dùng ở Malaixia làm thuốc hãm uống trục sán xơ
69
mít; còn ở Thái Lan, lá dùng làm thuốc chữa tiêu tiện không bình thường, rễ dùng làm
toát mô hồi chữa và hóc xương ...[5, tr. 516].
ĐẬU CỘ BIỂN Canavalia cathartica Thouars
Họ Đậu Fabaceae
Dây leo 5 -7m. Lá kép chân vịt, 3 lá chét hình trứng bầu dục, dài 4 -10cm, đáy
tà, đầu nhọn. Phát hoa đến 25cm, hoa to màu hồng tím. Trái đậu dài 9 - 12cm; 5 - 6
hạt màu nâu.
Thường mọc dựa rạch trên đất bùn rắn.
Hạt độc vì chứa nhiều saponin (Phạm Hoàng Hộ, 1991-1993). Dân địa phương
dùng lá nuôi gia súc như bò, dê, thỏ [35].
CÓC KÈN NƯỚC Derris trifoliata Lour.
Họ Đậu Fabaceae
Dây leo quân, có khi đứng cao 1m, thân già màu nâu, sân sùi. Lá kép lẻ, thường
gồm 3 - 5 lá chét hình trứng đến bầu dục thon, không lông. Bông thành chùm dài l0cm
hay hơn ở nách lá, màu trắng hay hơi ủng hồng, dài 1cm. Trái đậu dẹp, có 2 cánh rất
nhỏ, hình bầu dục, dài 3 - 4cm, xanh rồi vàng nâu; 1 đôi khi 2 hột. Mùa trổ bông kết
trái 4 - 8 dl.
Cây thường mọc dựa sông rạch ở cả nơi nước mặn và lợ hay nơi bùn chặt đất
mặn phèn thoái hóa; gặp ở khắp hai bờ cửa sông Hàm Luông; một vài nơi dưới tán
rừng Bần, Cóc kèn nước mọc chen chút là loại dây leo ưu thế trong RNM nơi đây.
Rễ chứa rotenon (Phạm Hoàng Hộ, 1991 - 1993). Rotenon có tác dụng diệt sâu
bọ. Loài cây này có thể có giá trị quan trọng trong việc làm giàu đạm cho đất RNM
(Nguyễn Hoàng Trí, 1996). Thân dây mọc lâu năm, to sần sùi được thái nhỏ, phơi
khô, tẩm rượu, sao vàng, khử thổ rồi ngâm với rượu độ một tuần, chiết ra chai để dùng
làm thuốc chữa bệnh tê thấp khớp; hoặc đem xắc mỏng, sao vàng, sắc uống trị dị ứng
do ăn tôm, cua. Rễ dùng thuốc cá [42, tr.98].
ME NƯỚC, Dalbergia candenatensis (Dennst.) Prain
CÓC KÈN BÁNH LÁI - ở Bến Tre
70
Họ Đậu Fabaceae
Dây leo, cao 1,5 - 2m, có cành vặn, có khi có tua cuốn và có móc. Nhánh nhẵn,
có lỗ bì, màu nâu. Lá có 5 lá chét (ít khi 7 - 8) hình trái xoan ngược, tù có khi lõm,
nhẵn ở mặt bên, có ít lông rải rác ở mặt dưới. Hoa xếp thành chùm hoặc chùy ở nách
lá, ngả 1 bên, dài hình chuông; cánh hoa màu trắng, có móng, nhị 9 - 10, xếp 1 bó,
nhụy nhẵn, có cuống liềm, tù và có một mũi lồi cứng ở đỉnh, thon lại thành cuống
ngắn ở gốc, nhẵn. Hạt hình thận, cỡ 15 x 8mm, màu đỏ đỏ.
Loài phổ biến ở Ấn Độ, Xri Lanca, Bằngglađet, Mianma, Nam Trung Quốc,
Thái Lan, Campuchia, Việt Nam đến Philippin và Ôxtrâylia. Cây mọc dọc các RNM
và trong các rừng lân cận chịu ảnh hưởng của thủy triều. Cũng gặp ở vùng núi đất.
Ở An Giang, dân gian dùng dây làm thuốc trị ung nhọt, ban chân, ho suyễn, bằng
huyết, rong huyết, trẻ con cam tích, người lớn trướng sưng [5, tr. 880]. Vùng cửa sông
ven biển ở Bến Tre, người dân dùng dây Cóc kèn bánh lái, Rau muống biển và Óc ó
(Vuốt hùm) chặt nhỏ, phơi khô, sắc uống trị đau nhức, tê thấp khớp.
DỨA GAI Pandanus odoratissimus L.f. var. vietnamensis (St-Jonh) Stones
Họ Dứa gai Pandanaceae
Cây nhỏ, phân nhánh ở ngọn, cao 3 -5m, với nhiều rễ phụ trong không khí thòng
xuồng đất. Lá ở ngọn các nhánh, dài 1 - 2m, rộng 5 - 6cm, mặt dưới hơi mốc, chót có
đuôi dài, trên gân chính và 2 bên mép có gai nhọn. Cụm quả tạo thành một khối hình
trứng, rộng 19cm, dài 27cm, nâu đỏ, mang vào 100 phân quả cao 6cm, rộng 3 - 4cm,
do 5 - 6 tâm bì; nuôm đen, xoan hay tròn. Đơm bông kết trái vào mùa mưa [7].
Cây mọc dại ở bờ biển, trên đất cát pha đã ôn định. Vùng ven biển cửa sông
Hàm Luông, có thê gặp loài này ở côn Ông Lê - xã An Điền, côn Lợi -xã Thạnh Hải
huyện Thạnh Phú, cồn Hố - xã An Thủy huyện Ba Tri.
Lá dùng làm chiêu và bao bì. Đạt non và rễ dùng làm thuốc thông tiểu trong các
trường họp đái buốt, đái ra sỏi, sạn, thủy thũng. Chồi non ở ngọn cũng ăn được như
nõn Dừa. Dân trong vùng còn còn dùng trái chín kết hợp với các vị khác như Đu đủ,
Rau om dùng trị tiêu đường.
LÁC NƯỚC, CÓI Cyperus malaccensis Lam.
71
Họ Cói Cyperaceae
Cỏ sống ở bùn, lâu năm, nhiều chồi và căn hành cao đến l,2m; thà xanh, có 3
cạnh bén, 3 mặt lõm. Lá dài bằng nửa thân, bẹ dài. Phát hoa có lá hoa rộng, dài hơn
phát hoa, có 3 - 10 tua dài, mỗi tua có 4 - 10 giá hoa, giá hoa dài 15 - 22mm, mang 20
- 40 hoa. Trái là bế quả nâu đen, 3 cạnh ngắn, vòi chẻ 3.
Thường mọc thành quần thụ ở bãi bồi ven sông rạch, đồng bằng, ruộng, bưng
sình lầy, phát triển tốt nơi có nước triều lên xuống hàng ngày. Ở vùng ven cửa sông
Hàm Luông, loài này có kích thước thấp bé 0,6 m do mọc dưới tán rừng Bần, Đước,
Vẹt, Trang, Sú.
Dùng làm dây buộc hay dệt chiếu, thảm, còn dùng để lợp nhà rất bền, hay để chế
biến loại giấy không thấm nước, giấy than, giấy lót ống thép; củ (thân rễ) rửa sạch, xắt
mỏng phơi khô làm thuốc lợi tiểu, trị phù thủng, đau bụng, tiêu hóa kém, liều dùng 10
- 20g sắc uống (Đô Tất Lợi, 1981) [42, tr.225].
CÚ BIỂN Cyperus stoloniferus Retz.
Họ Cói Cyperaceae
Cỏ sống quanh năm ở bãi cát cao, dựa biển có rễ là căn hành mảnh, có vảy và
phù ở đáy thành củ nâu đen; thân cao 15 - 30cm, có 3 cạnh. Lá rộng 2 - 3mm. Phát
hoa có 2 - 3 lá hoa dài, tua ngắn mang gié hoa màu nâu, gié hoa dài 6 - 12mm, vảy dài
2 - 2,5mm, không mũi. Bế quả hình xoan, màu đen.
Củ có tinh dầu thơm, bổ, trợ tim [12, tr.545].
CỎ PHAO, LÔ LÔNG, SẶT Themeda villosa (Poir.) A. Camus
Họ Hòa thảo Poaceae
Cỏ lớn, cao 1,5 - 2,5m; lóng cứng, có bông ruột, dày cơm, to đến 2 em, tròn hơi
dẹp, dài 20 cm ở gần gốc. Lá có phiến dài 50 - 70cm, rộng 1,5 -2cm; bẹ dẹp, cứng, đỏ
mặt trong. Chùm tụ tán cao 35 – l00cm, dày. Gíe hoa không cọng thụ, đầy lông nâu,
gíe hoa có cọng, thon nhọn [12].
Sống dựa sông, rạch tụ hợp thành từng bãi rộng lớn ven bìa rừng ngập nước từ
mặn đến lợ, hoặc trên đồng ruộng, vuông tôm thường xuyên ngập nước. Có thể gặp
72
loài này ở khắp vùng cửa sông Hàm Luông. Quân hợp Sặt phát triển mạnh tại những
nơi RNM bị khai thác quá mức.
MUÔNG LÁ KHẾ, VỌNG GIANG NAM Cassia occidentalis L.
Họ Vang Caesalpiniaceae
Cây thân cỏ, cao tới 0,7 - l,5m. Lá kèm hình dải nhọn, 1 - 2cm. Lá có trục 8 -
12cm, cuống lá 3 - 4cm, có tuyến to. Lá chét 3-5 đôi, dạng màng, hình trái xoan thuôn
không cân, 4 - 10 x 2 - 3cm, nhọn ở đầu, tròn ở gốc. Cụm hoa chùm thường ở ngọn,
có cuống ngắn, với 2 - 4 hoa; hoa có cuống 5 - l0mm, lá đài không đều, các lá đài
ngoài gần tròn, 6mm, các lá đài trong hình trái xoan, lớn hơn; cánh hoa vàng có vân
tím, hai cánh ngoài hơi lớn hơn, có móng ngắn; nhị có 3 cỡ, bầu có lông mềm. Quả
đậu dẹp, màu nâu; l0 - 12 x 1cm; hạt 30 - 40, dẹp, to 3 - 4mm.
Loài của vùng nhiệt đới châu Mỹ và phổ biển như các loài cỏ dại trong các vùng
nóng. Ở nước ta, cây mọc hoang khắp nơi từ Bắc chí Nam. Ra hoa kết quả quanh năm.
Chồi non và quả non ăn được. Hoa được dùng làm nước hãm cho phụ nữ có
mang uống. Lá giã ra dùng trị các bệnh ngoài da. Rễ nổi tiếng là xổ và hạ nhiệt. Hạt,
thân, lá được sử dụng nhiều làm thuốc ở nước ta cũng như ở Trung Quốc. Hạt được
dùng trị cao huyết áp, đau đầu, mặt đỏ sưng đau, lở miệng, bí đại tiện thường xuyên,
lỵ, đau bụng, viêm ruột mạn tính. Thân, lá được dùng trị ho, đái ra máu, bí đại tiện,
mụn nhọt sưng lở, vét thương rắn cắn và sâu bọ đốt [5, tr. 603].
CHÀNG RÀNG Dodonea viscosa (L.) Jacq.
Họ Nhãn Sapindaceae
Cây gỗ nhỏ cao 1 - 2m, nhánh có cạnh, không lông. Lá đơn, thon ngược, đáy từ
từ hẹp, mỏng, dai, không lông. Hoa nhỏ thành chùm ở nách lá. Trái tạo bởi 2 đôi khi 3
buồng kín rỗng với 2-3 cánh mỏng hướng đều ra ngoài, rộng 4 - 6mm, màu vàng rơm
đến nâu dợt; môi buồng có 1 hột tròn, đen huyền, đường kính 2mm.
Mọc dại trên bãi cát dựa biển, đồi cát dưới 250m khắp cả nước. Có thể gặp loài
này trên cồn Hố thuộc bờ tả cửa sông Hàm Luông.
Lá hơi nhẫn có tác dụng hạ đường máu, trị phù, tê thấp, trị sốt, phát hàn. Gỗ
73
thơm, kiện vị, xổ, hạ nhiệt. Ở Mỹ dùng làm kiểng có lẽ vì cây cho hoa và trái đẹp [12,
tập 2, tr.327].
KHEO, NÚC ÁO Á Colubrina asiatica (L.) Brongn.
Họ Táo Rhamnaceae
Cây nhỏ, phân nhiều nhánh trườn dài lên các cây gỗ lớn lân cận, cành non gần
tròn, không lông. Lá đơn, mọc cách, phiến lá hình trái xoan, dài 3 -9cm, mép có răng
mềm, mặt trên bóng láng màu lục thẫm, mặt dưới dạt. Hoa hợp thành xim ở nách lá, 5
lá đài hình tam giác, 5 cánh hoa rất hẹp màu ngà hay trắng xanh; nhị 5, ẩn sâu trong
cánh hoa. Qủa nang hình cầu 5 - 6mm, màu lục, khi chín khô có màu nâu đỏ, 3 hột.
Phân bố ở Ấn Độ, Xri Lanca, Nam Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Malaixia,
Indonexia, tới Ôxtrâylia và Nuven Calêđoni. Thường gặp ở bìa rừng và các lùm bụi
dựa theo bờ biển cao. Có thể gặp loài này ở cồn Ông Lễ - Tiểu khu 13 Khu BTTN đất
ngập nước Thạnh Phú. Ra hoa tháng 7 - 9, có quả tháng 8- 10.
Dân gian dùng lá nhai ra dùng xoa lên các vết cắn của rết để trị độc; Có người
dùng cây này phối hợp với cây Ráy gai để trị xơ gan cổ trướng. [P.H.Hộ, QI, tr.717].
Ở Nuven Calêđôni, người ta dùng chồi non để ăn sau khi đã nấu thật kỹ. Vỏ cây chứa
saponin, được dùng để giặt quần áo, có khi người ta dùng lá. Vỏ và lá cũng được dùng
làm duốc cá. Rễ và vỏ được xem như có tính khử lọc, chống bệnh scorbut và làm liền
sẹo [5, tr. 749].
TIỀN QUẢ WIGHT Toxocarpus wightianus Hook. & Am.
Họ Thiên lý Asclepiadaceae
Dây leo mảnh có lông hoe mau rụng, không có mủ. Lá mọc đối, có phiến xoan
bầu dục, dài khoảng 4cm, đầu có gai mũi, láng ít khi có lông mặt dưới, mặt trên xanh
lục, mặt dưới xanh sáng, gân phụ 4 cặp, cuống 4 - 5mm. Chùm tụ tán kép ở nách lá, lá
hoa nhỏ, kết lộp; 5 cánh hoa vàng, cao 1cm, hơi xoăn phía đầu; cọng mảnh, dài l,5cm;
đài nhỏ. Manh nang dài 6 - 7cm, trái non màu xanh trắng, khi chín khô màu vàng nâu,
vỏ tách làm 2 cánh; hột to 9 x 3mm, khi chín có màu nâu đỏ, nhiều lông mào, trắng
dài hon 3cm [12].
Thường gặp ở những nơi đất chặt, bờ đê, ven rừng ngập mặn, ven sông rạch.
74
Dân địa phương thường gọi là Rau kìm; lá được dùng nấu canh với tép hoặc trộn
với dầu giấm ăn như rau sống.
BÌM CHÂN CỌP Ipomoea pes-tigridis L.
Họ Khoai lang Convolvulaceae
Cây thân cỏ hằng năm, cứng, quấn, mọc bò hay leo, đây lông cứng. Lá hình chân
vịt, dài 3 - 5cm, rộng 5 - 6cm, có 7 - 9 thùy hình ngọn giáo, nhọn sắc ở đầu, thon lại
và rất hẹp ở gốc, dài 25 - 40mm, có lông trắng nằm ở cả 2 mặt; cuống lá dài 2 - 5cm,
có lông cứng. Hoa trắng hay hường, khoảng lo cái, xếp thành đầu gần hình cầu, có
cuống dài, ở nách lá. Lá bắc tạo thành bao chung, có lông mềm màu trắng. Qua nang
xám, hình cầu, đường kính 8mm, bao bởi đài hoa cùng lớn lên với quả, có 4 van. Hạt
4, màu hung nâu, có 3 góc và lún phún lông tơ.
Phân bố ở Việt Nam, Campuchia, Ấn Độ, Thái lan, Malaixia, Philippin. Cây
mọc dọc đường đi, đất hoang ráo vùng đông bằng lên đèn độ cao l00m.
Cây được dùng làm thức ăn cho gia súc. Ở Giava, lá thường dùng làm thuốc đắp
trị đinh nhọt. Ở Trung Quốc, rễ được dùng trị ho ra máu, các loại sưng và vết thương
chó cắn. Ở Ấn Độ, rễ được xem như có tác dụng gây xổ và trừ độc chó cắn và cũng
được dùng trị nhọt đầu đinh [6, tr. 1453].
THÙ LÙ Physalis angulata L.
Họ Cà Solanaceae
Cỏ hàng niên, cao 0,5m, thân có cạnh, mập, phân nhánh nhiêu. Lá đơn, mọc
cách, phiên nguyên hình tam giác, đâu nhọn, dài 4 – l0cm, rộng 3 -5cm, mèm, ít lông,
cuồn dài, gân màu trắng lộ rõ mặt dưới. Bông vàng tươi, đơn độc ở nách lá, 5 cánh
bông dính ở góc thành hình chuông. Trái mập, tròn lcm, màu vàng khi chín, với lá đài
bao kín, hột nhiều, dẹp. Trổ bông tháng 3 - 5 d, trái vào tháng 5 - 8 dl.
Cây ưa sáng mọc dại khắp nơi từ 1 - 1500m tại Việt Nam. Thường gặp ở ruộng
rẫy cũ, bờ ao, ven sông nước ngọt. Vùng ven biển cửa sông Hàm Luông, loài này sống
trên những dãi giồng cát ven biển có nước ngọt ẩm ướt.
Trái chín dùng nấu canh, lá non và đọt luộc ăn được nhưng có vị đắng, cần vò
75
kỹ trước khi nấu; dùng làm thuốc trị rắn cắn; rễ dùng làm thuốc trị bệnh tiểu đường,
lợi tiểu. (Vũ Văn Chuyên, 1978) [42].
NỤ AO Solanum nigrum L.
Họ Cà Solanaceae
Cỏ hàng niên, cao 0,5m, nhiều nhánh, ít lông, có mùi hôi. Lá đơn, mọc cách,
phiên nguyên hình tam giác, dài 4 – l0cm, rộng 2 - 4cm, đầu nhọn, bìa có răng, mềm,
cuống ngắn có cánh. Bông nhỏ, trắng, tạo thành tán trên thân, nhánh, không mọc ở kẽ
lá. Trái mập, tròn 5 - 8mm, màu vàng hay tím than lúc chín, nhiều hột nhỏ lmm, dẹp,
hình thận. Mùa bông trái quanh năm.
Cây mọc dại khăp nơi từ 1 - 2500m trên đất trảng, ẩm ướt.
Cây có chứa chất solanin độc, nhất là ở trái; trâu, bò, dê rất thích ăn lá này nhưng
ăn nhiều sẽ bị ngộ độc. Cây độc, gây ngủ song dùng ít để trị ho, trị sưng gan, lợi tiểu;
dịch ép cây tươi dùng chữa bệnh ngoài da nhất là bệnh vây nến (Đỗ Tất Lợi, 1981)
[42, tr.163].
ĐÌNH LỊCH, THỚT NỐT Hygrophila salicifolia (Vahl) Nees
Họ Ô rô Acanthaceae
Cỏ cao đến 1m, không lông hay có rất ít, thân vuông. Lá đơn, mọc đối, phiến
nguyên thon dài đến hẹp, dày, đầu nhọn, dài 3 - 7cm, rộng 1-2 cm. Bông tím dợt, mọc
chụm ở nách lá, tiền diệp hẹp, lá đài dài 6 – l0mm, dính nhau đến 1/2 hay 3/3. Trái là
nang hình trụ, nâu đậm, nổ mạnh khi tẩm nước, nhiều hột nhỏ có lông hút nước. Mùa
trổ bông vào tháng 5 - 9 dl, cây khô và trái chín vào tháng 12 - 3 dl.
Có thể gặp ở bờ ruộng, bờ bao vuông tôm cạnh rừng hay nơi âm; gặp ở Tiểu khu
12 - xã An Điền trong Khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú.
Hột là vị thuốc Đình lịch, có vị cay tính hàn, không độc, thông đờm tiêu ích,
chữa phù thủng, hạ cơn suyễn. [42, tr.173].
CỎ CHUA LÈ, MẶT TRĂNG Emilia sonchifolia (L.) DC.
Họ Cúc Asteraceae
76
Cây thân thảo, cao 30 - 50cm, màu xanh hoặc tím tía, nhẵn. Lá ở cây còn non
nhìn tựa như lá rau Má, lá ở cây trưởng thành không cuống, hình bầu dục, có tai ở
góc; lá ở phía dưới cuống của cụm hoa dài tựa như lá rau Muống. Cụm hoa hình đầu,
thưa, mang những hoa giống nhau màu hồng hay tím nhạt. Bế quả hình trụ có 1 chùm
lông trắng. Mùa hoa hầu như quanh năm, kết quả vào tháng 12-5, thường tàn vào
tháng 6.
Cây mọc dại ở khắp nơi, ven đường, bờ ruộng ẩm, bãi cát khắp các tỉnh đồng
bằng.
Lá cây dùng nấu canh ăn, có thể ăn sống. Cây có vị đắng, tính mát, có tác dụng
thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm, lợi thủy; dùng chữa cảm mạo, viêm đau họng, ung
nhọt, viêm thần kinh da, kiết lỵ cấp, rắn độc cắn [7, tr.245].
HẢI CÚC, SA SÂM Launaea sarmentosa (Willd.) Sch.-Bip ex Kuntze
Họ Cúc Asteraceae
Cây cỏ sống lâu năm. Gốc rễ dày lên. Thân bò trên mặt cát, mỗi gốc cây có thể
mọc ra 2 - 3 thân bò hình sợi dài có nhiều đốt, mỗi đôi dài 20 -30cm, ở mỗi đốt thân
có rễ ăn xuống đất và có lá ở trên như một cây riêng; cứ như vậy cây mọc lan rộng ra
mãi. Lá mọc thành hoa thị ở quanh gốc, dài 3 -8cm, rộng 5 - 15mm, thon hẹp dần ở
gốc, thùy tận cùng hình tam giác lớn hơn; các thùy bên hình tam giác tù; các thùy góc
càng xuống càng hẹp dần. Cụm hoa đầu màu vàng, ở gốc cây hoặc ở các đốt, có cuống
ngắn, thường mọc đơn độc hoặc thành cụm ít hoa. Quả bế hình trụ, có màu lông dễ
rụng.
Cây mọc hoang ở các bãi cát ven biển Châu Phi và nhiếu nước Châu Á, Ấn Độ,
Trung Quốc, Việt Nam. Cây mọc trên cát của bãi biển, ở nơi có phân chim nhiều như
các đảo ngoài biển khơi thì Sa sâm xanh tốt.
Có quả vào tháng 6.
Thuốc bổ, chữa ho, sốt, trừ đờm, chữa bạch tạng, bạch huyết (Trần Đình Lý và
cộng sự, 1993). Vào mùa thu, khoảng tháng 8 - 9, củ của cây được đào về, rửa sạch,
phơi khô hoặc dùng tươi nấu nước uống, có giá trị tăng lực rất tốt, nước có màu vàng
đỏ như mật ong, thơm ngọt và mát. Lá dùng nấu canh hoặc làm rau trộn với dầu giấm
77
ăn sống như rau xà lách; lá còn được dùng làm thuốc lợi sữa, trị tạng bạch huyết. Rễ
cây phơi khô làm thuốc uống giải khát, giúp tiêu hóa. Toàn cây nghiền ra dùng đắp trị
vết cắn của con sứa [6,tr. 1517].
CỎ ỐNG Panicum repens L.
Họ Hòa thảo Poaceae
Cỏ đa niên, căn hành mọc ngâm phù tròn thành củ và cho ngó ngọn, trắng to;
thân bọng, cao 50 - 70cm. Lá có phiến không lông, hình mủi mác hẹp, cứng thẳng,
xanh mốc mặt trên, xanh đậm mặt dưới; bẹ và chân lá có rìa lông. Bông hợp thành tụ
tán thẳng đứng ở ngọn, hẹp, phân nhánh không đều, cao 7 - 20cm, gié hoa xanh rồi
trắng. Trổ bông vào tháng 5 - 7 dl [42, tr.40].
Cỏ ống phân bố rộng rãi ở khắp các vùng nhiệt đới, là loại cây ưa cát và đầm lầy,
thường gặp từ các vùng ven biển đến núi cao 1600m; loài này cũng có khả năng chịu
mặn giỏi, chịu được phèn và có khả năng chịu được lũ lụt nên thường tạo thành từng
bãi cỏ tốt ở ven các cửa sông, cả trên đất rừng sát, ưa đất cát hay phù sa cát, kể cả
những đụn cát ven biển có độ ẩm cao.
Căn hành phơi khô, sắc uống có tác dụng lợi tiểu, điều kinh hoặc để trị rắn độc
cắn. Người dân còn dùng ngó cây nấu với nước cốt dừa, uống sổ lãi cho trẻ em rất
hiệu quả. Cỏ ống là loại cỏ chăn nuôi tốt của các vùng đất mặn, đầy phèn ven biển
như nuôi trâu, bò, dê, thỏ...
DỪA Cocos nucifera L.
Họ Càu dừa Arecaceae
Cây gỗ lớn, thân cô độc hình trụ, rộng 20 - 30cm, cao đến 20m, thân nhẵn có
nhiều vết sẹo to do bẹ lá rụng để lại. Lá rất to, dài đến 5m, có bẹ, yếm ôm lấy thân cây
với nhiều lá phụ màu lục láng xếp thành 2 dãy đều đặn, có 1 gân chánh to, màu vàng
sáng. Bông mo (buồng hoa) ở kẽ lá, khi trổ mo nứt 1 rãnh lộ ra phát hoa màu trắng
vàng phân nhiều nhánh, nhánh mang hoa đực ở trên, hoa cái ở đáy. Trái nhân cứng to;
trái khô gồm 3 lớp vỏ, vỏ trong cùng là sọ Dừa. Một hạt to, có phôi nhũ (cái dừa và
nước) to, mầm (mộng Dừa) nhỏ.
Được trồng rộng rãi ở nông thôn Việt Nam, xung quanh ao hồ, mương rạch, lạch
78
sông. Cây mọc khỏe, ưa đất thoáng dày, ẩm ướt từ nước ngọt, lợ đến mặn; đặc biệt
cây sống trên vùng đất nước lợ, trái cho nước ngọt hơn. Vùng ven biển cửa sông Hàm
Luông, Dừa cũng được trồng nhưng không nhiêu vì năng suất không cao như buồng ít
trái, nhỏ, mỏng cơm, ít béo...
Nước Dừa dùng uổng tươi, giải nhiệt, lợi tiêu, lợi sữa; nước Dừa vô trùng dùng
làm dịch truyền tĩnh mạch, chữa tiêu chảy và dịch tả. Rễ Dừa dùng sắc uống, lợi tiểu,
chữa bệnh về gan, chữa ho. Dầu Dừa dùng làm xà bông lỏng...[7].
CHÙM LÉ, GAI ME Azima sarmentosa (Blume) Benth. & Hook.
Họ Gai me Salvadoraceae
Cây gỗ nhỏ hay bụi, có gai rất nhọn, gai dài tới 1,5 - l,8cm. Cành gần hình 4
cạnh. Lá mọc đối, hình bầu dục rộng, đôi khi gần tròn, dài 3,5 - 4cm, rộng 2,5 - 4cm,
góc lá tù, đỉnh có mũi nhọn, mép nguyên. Cụm hoa chùy ở nách lá và đỉnh cành, dài 2
- 5cm. Hoa nhỏ, 3mm, đem tính, màu trắng. Trái mọng, đường kính 6mm, màu trắng
ngà, có cuống, chứa 2-3 hạt. Mùa hoa trái tháng 8-11.
Cây mọc ở vùng đất gần cửa sông ven biển ngập nước mặn đến lợ. Gặp rãi rác
trong những lùm bụi vắng vẻ, vì cây có nhiều gai và không có giá trị sử dụng nên
người dân thường phát hoang chặt bỏ loài này.
Công dụng không rõ, chỉ biết trái ăn được. Đây là loài thực vật quý hiếm được
đề cập trong Sách Đỏ Việt Nam vì là nguồn gen hiếm và là đại diện duy nhất của chi
Azima cũng như của họ Salvadoraceae ở Việt Nam [37].
* Một số hình ảnh vế các loài cây ngập mặn chủ yếu ở vùng cửa sông ven biển
sông Hàm Luông:
79
80
This image cannot currently be displayed.
81
82
83
This image cannot currently be displayed.
84
85
This image cannot currently be displayed.
86
87
88
3.2.Các kiểu quần hệ thực vật
Thảm thực vật ở vùng ven biển cửa sông Hàm Luông chủ yếu được hình thành ở
dạng RNM trên các bãi đất bùn lỏng đến đất chặt ngập nước mặn hàng ngày, ngoại trừ
trên các bãi cát được hình thành ven bờ biển cây ngập mặn không phát triển mà chỉ
hình thành những trảng cỏ với vài loài như cỏ tranh, cú biển, rau muống biển, hải cúc,
cúc hai hoa, điền thanh, cỏ ống, cỏ chông... Theo quan điểm sinh thái phát sinh của hệ
sinh thái rừng và dựa trên hệ thống phân loại tự nhiên các quần thể trong thảm thực
vật rừng nhiệt đới mà Thái Văn Trừng đã xếp RNM là một kiểu phụ thổ nhưỡng vùng
ven biển của kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới [28, tr.199] và quần xã
thực vật trên bãi cát ven biển là một kiểu phụ thổ nhưỡng trên đất khô hạn của hệ sinh
thái rừng ẩm nhiệt đới [28, tr.246].
3.2.1.Kiểu RNM trên bãi triều thấp ven biển:
Nằm tiếp giáp với biển, trên những lưỡi cồn mới nổi; chất phù sa sông biển bồi
lắng cao, chịu ảnh hưởng của thủy triều ngày, ngập 6-8 giờ/ ngày, có những điều kiện
hóa lý đặc biệt khắc nghiệt với độ mặn nước biển cao, vì ảnh hưởng trực tiếp của sóng
và gió biển nên tốc độ truyền triều rất nhanh; đã hình thành quần xã cây ngập mặn tiên
phong là Mắm biển và Bần đắng với những cây gỗ nhỏ, sớm phân cành sát gốc.
♦Ô tiêu chuẩn số 1 - ở bãi Trảng Lầy - đường ra cồn Bủng - Tiểu khu 17 khu
BTTN đất ngập nước Thạnh Phú - xã Thạnh Hải ( vị trí được xác định ở bảng đồ ...)
Điều kiện địa hình, đất đai:
Ô tiêu chuẩn có kích thước (10 x 10)m.
Tọa độ địa lý: 48P: 0682016, UTM: 1089337.
Theo báo cáo về kết quả phân tích đất của Phân viện điều tra quy hoạch rừng II,
đất mặn ven biển dưới RNM nơi đây ở dạng chưa thuần thục, tầng mặt thường đang
trong quá trình bồi lắng phù sa dạng bùn mềm đến bùn chặt bị ngập triều hàng ngày,
bão hòa muối NCl, lân hữu cơ, gley mức độ trung bình đến mạnh. Đất mặn có thành
phần cơ giới nặng, hàm lượng sét khá cao 40 - 60%, các tầng sâu thành phần cơ giới
2+
2+
nhẹ hơn. Độ phì nhiêu ở mức trung bình OM = 2,24 - 3,44% ; N% tầng mặt 0,112 -
P/MgP
+ P: 157,7 - P thường < 1, NaP
0,154%, P tổng số trung bình, Kali khá giàu; tỉ lệ CaP
89
- 219,2 me/l00g đất; ClP
P: 0,58 - 1,4% ; độ dẫn điện EC: 2,5 - 3,9 mS/cm; tổng muối tan
TMT = 0,7-l,5%[44].
Thành phần loài:
Trên ô tiêu chuẩn số 1, chúng tôi xác định được 8 loài thuộc 7 họ (phụ lục 4).
Trong đó có 61 cây gỗ của 4 loài, thuộc 3 họ, đều không phát triển chiều cao, thường
không quá 4m; 3 loài cây bụi cỏ, quyết; và 1 loài dây leo ưu thế là Finlaysonia
obovata Wall. (Thiên lý đại) thuộc họ Asclepiadaceae (họ Thiên lý). Trong kiểu rừng
này, các loài cây gỗ đều có kích thước thấp, bé, thân nhỏ sớm phân cành, phát triển
theo chiều ngang, mọc khá dày mau chóng phủ lấy phần đất xung quanh gốc, với loài
ưu thế là Avicennia marina (Forssk.) Vierh. (Mắm biển) thuộc họ Verbenaceae (họ cỏ
roi ngựa) có mật độ lòn 5.400 cây/ha, có độ che phủ 65,3m2, chiếm 65,3% diện tích
che phủ; kế đến là loài Sonneratia alba J. Sm. (Bần đắng) thuộc họ Sonneratiaceae, có
mật độ 200 cây/ha, có độ che phủ 4,5m2, chiếm 4,5% diện tích che phủ; loài
Avicennia alba Blume (Mắm trắng) thuộc họ Verbenaceae có mật độ 300 cây/ha, có
độ che phủ 2,4m , chiếm 2,4% diện tích che phủ; loài Ceriops decandra (Griff.) Ding
2 phủ 0,5mP
P, chiếm 0,5% diện tích che phủ. Ngoài ra, các loài dạng cỏ, bụi như
Hou (Dà quánh) thuộc họ Rhizophoraceae (họ Đước) có mật độ 200 cây/ha, có độ che
Sesuvium portulacastrum L. (Sam biển) thuộc họ Aizoaceae (họ Hải châu) có mật độ
5.000 bụi/ha, loài Acanthus ilicifolius L. (Ô rô tím) thuộc họ Acanthaceae (họ Ô rô) có
mật độ 700 bụi/ha, loài Acrostichum aureum L. (Ráng đại) thuộc họ Pteridaceae (họ
cỏ seo gà) có mật độ 200 bụi/ha; những loài này có độ che phủ đất không đáng kể.
Cấu trúc tầng:
Kiểu rừng này có cấu trúc tầng rất đơn điệu và có thể dễ dàng nhận ra dựa trên
trắc diện ngang (l0 x 10)m và trắc diện dọc của một bằng dài có kích thước (10 x 3)m.
Ô tiêu chuẩn số 1 đại diện cho kiểu rừng ngập mặn trên bãi triều thấp ven biển,
đất bùn sét mèm, độ mặn cao, năm trên đường đi ra côn Bủng, trên bãi Trảng Lầy
thuộc Tiểu khu 17 khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú - có tổng diện tích che phủ
chiếm 66,3%, chỉ với 2 tầng, chủ yếu là tầng cây bụi tháp và tầng cỏ quyết thưa thớt.
Ở tầng cây bụi thấp có chiều cao cả ngọn trung bình là 2,1m, diện tích che phủ
90
trung bình chiếm 1,2%.
Loài ưu thế là Avicennia marina (Forssk.) Vierh. (Mắm biển), có chiều cao cả
ngọn trung bình là 2m, chiều cao dưới tán trung bình là 0,2m, đường kính tán trung
bình là 1,1m, độ bao phủ chiếm 65,3% là loài quan trọng nhất của thảm. Kế đến là
Sonneratia alba J. Sm. (Bần đắng), có chiều cao cả ngọn trung bình là 3m, chiều cao
dưới tán trung bình là 1m, đường kính tán trung bình là l,5m, độ bao phủ chiếm 4,5%.
Kế đến là Avicennia alba Blume (Mắm trắng), có chiều cao cả ngọn trung bình là
2,5m, chiêu cao dưới tán trung bình là 1m, đường kính tán trung bình là l,5m, độ bao
phủ chiếm 2,4%. Loài Ceriops decandra (Griff.) Ding Hou (Dà quánh) sinh trưởng rất
kém, chỉ chiếm 0,5% diện tích che phủ.
Có thể kê thêm tầng cỏ, quyết bao gồm những thực vật như Sesuvium
portulacastrum L. (Sam biển) thuộc họ Aizoaceae (họ Hải châu), loài Acanthus
ilicifolius L. (Ô rô tím) thuộc họ Acanthaceae (họ Ô rô), loài Acrostichum aureum L.
(Ráng đại) thuộc họ Pteridaceae (họ cỏ seo gà); những loài này thường mọc dưới tán
các cây bụi nên độ che phủ đất không đáng kể, nhưng cũng có tác dụng giữ đất do hệ
rễ chùm mọc lan rộng bám lấy lớp đất bùn bề mặt.
91
92
This image cannot currently be displayed.
93
3.2.2.Kiểu RNM trên đất bùn chặt:
Trên những vùng đất bồi, càng đi sâu vào đất liền thì địa hình được nâng dần lên
và cấu trúc đất mặn trở nên chặt và ổn định, đất có tầng phù sa dày, luôn bị ngập triều
4-6 giờ/ngày; nhiều khu vực trong khu BTTN có cống và bờ bao điều tiết mực nước
thủy triều, kết hợp nuôi tôm sinh thái; thực vật chủ yếu là rừng Đước trồng và dọc
theo những bờ đất cao ven sông rạch là những thảm xanh của các loài cây ngập mặn
như Bần, Mắm, Xu, Dà ... Chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát các ô tiêu chuẩn trong
những khu vực rừng tự nhiên và không lập ô tiêu chuẩn trên kiểu rừng trồng mà chỉ
trích dẫn những số liệu đã nghiên cứu của Phân Viện điều tra quy hoạch rừng II về
kiểu rừng này.
* Về rừng Đước trồng:
Trong vùng có thể gặp những rừng Đước được trồng vào những năm 1987,
1990, 1991, 1992,1996 ...
Rừng Đước trồng năm 1990 (diện tích 143,6 ha), hiện nay có:
Độ tàn che là 0,7, rừng một tầng, ở giai đoạn phân hóa. □
Mật độ là 3.540 cây/ha. □
Các thông số khác: Du = 7,4cm; Hít = 8,4m; Hdc = 3,7m □
Tái sinh mạnh của Dà và Xu, đặc biệt là Xu trở thành tầng dưới tán rừng □
This image cannot currently be displayed.
Đước.
Hình 3.54: Rừng Đước trồng ở Tiểu khu 15.
♦ Ô tiêu chuẩn số 2 - ở bãi bồi ổn định ngã ba rạch Cây Dừa - Tiểu khu 16
94
khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú, xã Thạnh Hải.
Điều kiện địa hình, đất đai:
Ô tiêu chuẩn có kích thước (l0 x 10)m.
Tọa độ địa lý: UTM: X = 0683835, Y = 1091773.
Theo kết quả báo cáo của Phân viện điều tra quy hoạch rừng II, thì đất ở đây có
tầng đất mặt mịn, ở địa hình rất bằng phang, luôn bị ngập nước 0,2 -0,3m, có màu nâu
xám, sét có ít đốm rỉ nâu đỏ, lẫn cây và xác bã thực vật phân giải màu đen nhạt; đất
mềm, dẻo dính, khá chặt, gley trung bình ở nông, bán thuần thục, chuyển lớp rõ. Đất
có thành phần cơ giới nặng (thịt nặng - sét), các chất dinh dưỡng trung bình khá.
Một phẩu diện được lây trong ô tiêu chuẩn, sâu xuống 40m. Theo kết quả phân
tích (Phụ lục 3) của Phân viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp được kết quả như
sau:
Tỷ lệ cấp hạt sét chiếm tỷ trọng 49%, tương ứng cấp hạt cát 25%, thịt 26%. Hàm
lượng mùn khá cao OM tầng mặt đạt 5,293%, tầng dưới OM = 3,004%. N% = 0,126 -
0,168, lân tổng số nghèo PR2ROR5R = 0,027 - 0,030, kali khá cao. Khả năng hấp thụ CEC =
P
19,58 - 20,21 me/l00g đất. Cation kiềm trao đổi cao: CaR2+R = 3,14 - 3,27 me/l00g đất,
MgR2+R = 4,53 - 5,90 me/lOOg đất, Na+ = 2,90 - 3,86 me/lOOg đất. Độ dẫn điện EC - (cao) = 6,70 - 6,78 mS/cm. Đất có phản ứng trung tính pH(HR2RO) = 6,28 - 6,53. ClP
P = 0,115 - 0,176%. Nhìn chung đất mặn, khá giàu dinh dưỡng, nhiễm phèn trung
2- SOR4RP
(cao) = 0,486 - 0,497% do bị ảnh hưởng của thủy triều thường xuyên. Phèn trung bình
bình.
Thành phần loài:
Trên ô tiêu chuẩn số 2, chúng tôi xác định được 15 loài thuộc 11 họ (phụ lục 5).
Trong đó có 28 cây gỗ thuộc 6 loài, 5 họ, đều có chiều cao trung bình không hơn 8m,
loài cây gô ưu thê là Avicennia ojficinalis L. (Mắm đen), thuộc họ Verbenaceae (họ cỏ
roi ngựa) và Xylocarpus moluccensis (Lam.) M.Roem. (Xu sung) thuộc họ Meliaceae
(họ Xoan); 4 loài bụi cỏ quyết và 3 loài dây leo. Ngoài 2 loài ưu thế kể trên, các loài
còn lại có số lượng cá thể hiện diện trong ô tiêu chuẩn là khá đồng đều nhau.
Ở kiểu rừng này, loài Avicennia officinalis L. (Mắm đen), thuộc họ Verbenaceae
95
có mật độ tương đối lớn 1.200 cây/ha, có độ che phủ 23,5m , chiếm 23,5% diện tích
2 có mật độ 600 cây/ha, có độ che phủ 10,1mP
P, chiếm 10,1% diện tích che phủ; kế đến
che phủ; kế đến là loài Xylocarpus moluccensis (Lam.) M.Roem. thuộc họ Meliaceae
là loài Rhizophora apiculata Blume (Đước đôi) thuộc họ Rhizophoraceae (họ Đước)
có mật độ 400 cây/ha, có độ che phủ 9m , chiêm 9% diện tích che phủ; loài Avicennia
2 4,3mP
P, chiếm 4,3% diện tích che phủ; loài Lumnitzera racemosa Willd. (Cóc trắng)
2 thuộc họ Combretaceae (họ Bàng) có mật độ 200 cây/ha, có độ che phủ 4,5mP
P, chiếm
alba BI. (Mâm trăng) thuộc họ Verbenaceae có mật độ 300 cây/ha, có độ che phủ
2 cũng có mặt trong ô tiêu chuẩn với độ che phủ 2,3mP
P, chiếm 2,3% diện tích che phủ
4,5% diện tích che phủ; loài Sonneratiaceae ovata Backer thuộc họ (họ Bần) rất hiếm
của ô; loài Hibiscus tiliaceus L. (Tra hụp) thuộc họ Malvaceae (Họ Bông) có mật độ
100 cây/ha, có độ che phủ 0,3m , chiêm 0,3% diện tích che phủ; loài Nypa fruticans
Wurmb (Dừa nước) thuộc họ (họ Cau dừa) có mật độ 300 cây/ha, có độ che phủ l,5m ,
chiếm 1,5% diện tích che phủ; các loài cây thân bụi chỉ chiếm khoảng 1% diện tích
của ô tiêu chuẩn.
Cấu trúc tầng:
Kiểu rừng này cũng có cấu trúc tầng đơn điệu và có thể dễ dàng nhận ra dựa trên
trắc diện ngang (10 x 10)m và ứắc diện dọc của một bằng dài có kích thước (10 x 3)m.
Ô tiêu chuẩn số 2 - đại diện cho kiểu rừng ngập mặn trên đất bồi đã ổn định, có
cấu trúc chặt, nằm len lỏi ở những mé sèo, rạch sâu bẽn trong, hơi cách xa biển - có
tổng diện tích che phủ chiếm 60,1%, cũng chỉ với 2 tầng, chủ yếu là tầng cây gỗ thấp
và tầng bụi cỏ quyết.
Ở tầng cây gỗ thấp có chiều cao cả ngọn trung bình là 3,5m, diện tích che phủ
trung bình chiếm 59%. Loài ưu thế là Avicennia officinalis L. (Mắm đen) có chiều cao
cả ngọn trung bình là 4m, chiều cao dưới tán trung bình là 1m, đường kính tán trung
bình là l,4m, độ bao phủ chiếm 23,5% là loài ưu thế của thảm. Kế đến là Xylocarpus
moluccensis (Lam.) M.Roem. có chiêu cao cả ngọn trung bình là 3m, chiều cao dưới
tán trung bình là l,3m, đường kính tán trung bình là 1m, độ bao phủ chiếm 10,1%; kế
đến là loài Rhizophora apỉculata Blume (Đước đôi) có chiều cao cả ngọn trung bình là
4m, chiều cao dưới tán trung bình là 1m, đường kính tán trung bình là l,5m, độ bao
96
phủ chiêm 9%; loài Avicennia alba Blume (Mắm trắng) có chiêu cao cả ngọn trung
bình là 3m, chiều cao dưới tán trung bình là 1m, đường kính tán trung bình là l,2m, độ
bao phủ chiếm 4,3%; loài Lumnitzera racemosa Willd. (Cóc trắng) chiều cao cả ngọn
trung bình là 2,5m, chiêu cao dưới tán trung bình là 0,5m, đường kính tán trung bình
là l,5m, độ bao phủ chiếm 4,5%; loài Nypa fruticans Wurmb (Dừa nước) thuộc họ (họ
Càu dừa) có chiều cao cả ngọn trung bình là 1m, chiếm 1,5% diện tích che phủ.
Ở tầng cỏ quyết gồm những cây bụi, chỉ cao gằn 0,5m gồm 4 loài sau:
Acrostichum aureum L. (Ráng đại) thuộc họ Pteridaceae (họ cỏ seo gà); loài
Clerodendrum inerme (L.) Gaertn.(Chùm gọng) thuộc họ Verbenaceae (họ cỏ roi
ngựa); loài Pluchea indica (L.) Lees (Cúc tần) và loài Wedelia biflora (L.) DC. (Sơn
cúc hai hoa) thuộc họ Asteraceae (họ Cúc).
Quần phiến cây leo nơi đây khá phong phú với 3 loài; Derris trifoliata Lour.
(Cóc kèn nước) thuộc họ Fabaceae (Họ Đậu); loài Finlaysonia obovata Wall (Thiên lý
đại) và loài Toxocarpus wightianus Hook. & Am. (Tiền quả Wight) thuộc họ
Asclepiadaceae (họ Thiên lý).
97
98
This image cannot currently be displayed.
99
3.2.3.Kiểu RNM trên đất bùn phù sa lỏng ngập nước mặn sang lợ:
Ngược vào vùng cửa sông một đoạn 8 – l0km về phía thượng lưu, tốc độ của
sóng, gió có phần giảm nhẹ, hai bên bờ sông Hàm Luông đã hình thành những bãi sin
bồi chưa thuần thục, từ phù sa sông kết hợp với các trầm tích biển do sóng và thủy
triều chuyển vào, với tốc độ bồi rất ít hàng năm khoảng 0,5m đèn 1m hoặc không bồi.
Chất lượng phù sa khá tốt vì chứa nhiều muối dinh dưỡng.
Phù sa sông Hàm Luông tuy nhiều nhưng khi ra đến biển thì bị chuyển xuống
phía Nam bồi tụ cho bán đảo Cà Mau, nên những bãi bồi ở cửa sông nơi đây tương đối
hẹp; do lực quay của Trái Đất gây ra bởi sự chuyển động xung quanh trục của mình ở
Bắc Bán cầu làm cho dòng nước mặn (dòng triều) chảy vào vùng cửa sông lệch sang
phía phải và tại phía đối diện dòng nước ngọt lặn xuống sâu hơn [23, tr. 13]; có thể vì
lí do trên mà phía bờ hữu cửa sông Hàm Luông (thuộc xã An Thủy, huyện Ba Tri)
thường xuyên chịu lực ép của dòng triều mà phù sa của dòng sông từ thượng nguồn
không bồi qua được nên bãi bồi phía bờ hữu (khi nước ròng, bãi bên rộng nhất chỉ
khoảng 80m) hẹp hơn rất nhiều so với bờ tả (thuộc xã An Điền, huyện Thạnh Phú, bãi
bên khá rộng, khi nước ròng mép nước cách bờ từ khoảng l00m đến lkm). Bên cạnh
đó, Hàm Luông là nhánh sông lớn, lưu vực nhiều (chiếm tỉ lệ 16% lưu lượng của cả
hệ sông Cửu Long, Q = 380m3 /s về mùa khô) và cửa sông Hàm Luông thuộc dạng
cửa sông thuận; ở đây nước mưa và lượng nước ngọt chảy ra lớn hơn lượng nước biển
xâm nhập vào, do đó có sự xáo trộn nước ngọt với nước biển ngay vùng cửa sông hình
thành nên vùng nước lợ điển hình và dọc hai bên triền sông được phủ xanh bởi thảm
rừng ngập mặn mà ưu thế thuộc về nhóm cây chỉ thị cho môi trường nước lợ gồm Bần
chua, Dừa nước, mái dầm... Ở kiểu rừng này chúng tôi tiến hành khảo sát 3 ô tiêu
chuẩn:
♦Ô tiêu chuẩn số 3 - ở bãi bồi phù sa lỏng gần Vàm Rông - Tiểu khu 13, khu
BTTN đất ngập nước Thạnh Phú, xã An Điền.
Điều kiện địa hình, đất đai:
Ô tiêu chuẩn có kích thước (10 x 10)m, đặt ở bãi triều phía bờ tả của cửa sông
Hàm Luông, cách mép bờ l00m.
100
Tọa độ địa lý: 48P: 0680109, UTM: 1098558.
Theo báo cáo của Phân viện điêu tra quy hoạch rừng II (1998), đất mặn nơi đây
- mức độ phân giải chất hữu cơ chậm. Các độc tố trong đất khá cao ClP
P: 0,89 - 1,41%,
có thành phần cơ giới nặng (lượng sét pha trung bình), hàm lượng hữu cơ khá cao,
EC: 2,5 - 3,3 mS/cm.
Thành phần loài:
Trên ô tiêu chuẩn số 3, chúng tôi xác định được 5 loài thuộc 5 họ (phụ lục 6).
Trong đó có 53 cây gỗ, thì có 8 cây gỗ có đường kính D1.3>= lOcm, thuộc 3 loài, 3
họ; 15 cây bụi thuộc 1 loài là Acanthus ilicifolius L. (Ô rô tím) thuộc họ Acanthaceae
(họ Ô rô).
2 mật độ tương đối lớn 3.100 cây/ha, có độ che phủ 44,6mP
P, chiếm 44,6% diện tích che
Ở kiểu rừng này, loài Avicennia alba Bl. (Mắm trắng) thuộc họ Verbenaceae có
phủ, là loài ưu thế nhất của kiểu rừng này; kế đến là Sonneratia caseolaris (L.) Engl.
(Bần chua) thuộc họ Sonneratiaceae (họ Bân) có mật độ 1.100 cây/ha, có độ che phủ
44m, chiếm 44% diện tích che phủ; trên đây là hai loài quan trọng của kiêu quân xã
Mầm trăng – Bần chua đặc trưng cho vùng nước lợ ở cửa sông Hàm Luông, trong đó
loài Mắm trắng còn giữ ưu thế vì nơi đây còn gần biển. Kế đến là Aegyceras
corniculatum (L.) Blanco (Sú) thuộc họ Myrsinaceae (họ Đơn nem) có mật độ 800
cây/ha, có độ che phủ 9m2, chiếm 9% diện tích che phủ; một loài cây gỗ thân bụi là
Nypa fruticans Wurmb (Dừa nước) thuộc họ (họ Càu dừa) thuộc nhóm cây chỉ thị cho
môi trường nước lợ, có mật độ 200 cây/ha, có độ che phủ 1m , chiếm 1% diện tích che
phủ.
Cấu trúc tầng:
Dựa trên trắc diện ngang (10 x 10)m và trắc diện dọc của một bằng dài có kích
thước (10 x 3)m, chúng tôi có thể mô tả phân nào các thành phần rừng nơi đây.
Ô tiêu chuẩn số 3 là một trong những đại diện cho kiểu RNM trên bãi bồi phù sa
chưa ổn định ở cửa sông ven biển sông Hàm Luông, có tổng diện tích che phủ chiếm
68%, được cấu trúc chủ yếu bởi 2 tầng.
Ở tầng cây gỗ, có chiều cao cả ngọn trung bình là 10,7m, chiều cao dưới tán
101
trung bình là 4,5m, đường kính tán trung bình là 1,1m, độ che phủ trung bình 3%, tập
trung phần lớn ở loài Sonneratia caseolaris (L.) Engl. (Bân chua) và một vài cây của
loài Avicennia alba Blume (Mắm trắng).
Ở tầng cây bụi có chiều cao trung bình là 2,9m, diện tích che phủ trung bình
chiếm 1,9%.
Loài Avicennia alba Blume (Mắm trắng) có chiều cao cả ngọn trung bình là 6m,
chiều cao dưới tán trung bình là 2m, đường kính tán trung bình là 1,1m, độ bao phủ
chiếm chiếm 44,6%; kế đến là loài Sonneratia caseolaris (L.) Engl. (Bần chua) có
chiều cao cả ngọn trung bình là 10m, chiều cao dưới tán trung bình là 4,5m, đường
kính tán trung bình là 2m, độ bao phủ chiếm chiếm 44%, đây là hai loài ưu thế của
kiểu rừng này. Kế đến là Aegyceras comiculatum (L.) Blanco (Sú) có chiều cao cả
ngọn trung bình là 3,5m, chiều cao dưới tán trung bình là 0,5m, đường kính tán trung
bình là 1m, độ bao phủ chiếm 9%, đây cũng là loài sống ở nơi có độ mặn thay đổi
nhiều vào mùa mưa. Loài Nypa fruticans Wurmb (Dừa nước) có chiều cao cả ngọn
trung bình là Im, đường kính tán trung bình là 0,7m, độ bao phủ chiếm chiếm 1%.
102
103
This image cannot currently be displayed.
104
This image cannot currently be displayed.
♦Ô tiêu chuẩn số 4 - trên bãi bồi phù sa lỏng ở rạch Tắt Bần - Tiểu khu 12,
khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú, xã An Điền.
Điều kiện địa hình, đất đai:
Ô tiêu chuẩn có kích thước (10 x 10)m, đặt ở triền sông phía bờ tả của cửa sông
Hàm Luông, cách mép bờ 200m.
Tọa độ địa lý: 48P: 0678153, UTM: 1099739.
Tầng đất mặt dưới rừng ngập mặn ở dạng chưa thuần thục, phù sa mịn dạng bùn
lỏng đang trong quá trình bồi lắng, bị lún quá đầu gói, màu xám xanh đen.
Một phẩu diện được khoan trong ô tiêu chuẩn, ở độ sâu 50m. Theo kết quả phân
tích (Phụ lục 2) của Phân viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp được kết quả như
sau:
Tỷ lệ cấp hạt sét chiếm tỷ trọng 49%, tương ứng cấp hạt cát 21%, thịt 30%. Hàm
lượng mùn khá cao OM tầng mặt đạt 3,362%, tầng dưới OM = 3,791%. N% = 0,154 -
105
2+
0,168%, lân tổng số nghèo PR2ROR5R = 0,033 - 0,034%, kali khá cao. Khả năng hấp thụ
P = 2,77 - 3,02
2+
CEC = 16,93 - 17,00 me/l00g đất. Cation kiềm trao đổi cao: CaP
+ P = 1,93 - 1,93 me/l00g đất. Độ dẫn P = 3,02 - 3,02 me/l00g đất, NaP
P
P = 0,077 - 0,078%. Nhìn chung đất nước lợ,
- điện EC = 2,25 - 3,26 mS/cm. Đất có phản ứng trung tính pH(H20) = 5,52 - 5,53. ClP 2- (trung bình) = 0,146 - 0,217%. Phèn SOR4RP
me/l00g đất, MgP
khá giàu dinh dưỡng, ít nhiễm phèn.
Thành phần loài:
Trên ô tiêu chuẩn số 4, chúng tôi xác định được 8 loài thuộc 6 họ (phụ lục 7).
Trong đó có 63 cây gỗ, thì có 3 cây gỗ có đường kính D1.3>= l0cm, thuộc 5 loài, 4
họ; khoảng 85 cây bụi thuộc họ Acanthaceae (họ Ô rô) gôm 2 loài Acanthus
ebracteatus Vahl. (Ô rô trắng) và Acanthus ilicifolius L. (Ô rô tím); một loài dây leo
họ Đậu (Fabaceae) ưu thế trong kiểu rừng này là Cóc kèn nước (Derris trifoliata
Lour.)
Trên ô tiêu chuân này, loài Sonneratia caseolaris (L.) Engl. (Bân chua) thuộc họ
2 với loài còn lại, có mật độ 1.100 cây/ha, có độ che phủ lớn nhất 44mP
P, chiếm 44%
Sonneratiaceae (họ Bần), tuy có mật độ vừa phải nhưng ưu thế sinh khối vượt trội so
diện tích che phủ, là loài đóng vai trò quan trọng hàng đầu và thường gặp nhất của
kiểu rừng này; kế đến là loài Kandelia candel (L.) Druce (Trang) thuộc họ
2 19,8mP
P do có kích thước nhỏ, chiếm 19,8% diện tích che phủ, cũng là loài ưu thế của
Rhizophoraceae (họ Đước) có mật độ cao nhất 3.100 cây/ha, có độ che phủ chỉ đạt
kiểu rừng này với nhiều cây con tái sinh; kế đến là loài Avicennia alba Bl. (Mâm
trăng) thuộc họ Verbenaceae có mật độ 1.500 cây/ha, có độ che phủ 15m2, chiếm 15%
diện tích che phủ; loài Rhizophora apiculata Bl. (Đước đôi) thuộc họ Rhizophoraceae
(họ Đước) có mật độ 100 cây/ha, có độ che phủ 2,3m , chiêm 2,3% diện tích che phủ;
2 có độ che phủ 4,1mP
P, chiếm 4,1% diện tích che phủ. Ngoài ra, ở tầng cây bụi còn có 2
loài Nypa fruticans Wurmb. (Dừa nước) thuộc họ (họ Càu dừa) có mật độ 500 cây/ha,
loài ưu thế như Acanthus ebracteatus Vahl. (Ô rô trắng) 5.000 bụi/ha, loài Acanthus
ilicifolius L. (Ô rô tím) 3.500 bụi/ha. Loài dây leo ưu thế Derris trifoliata Lour. (Cóc
kèn nước) 400 bụi/ha.
Cấu trúc tầng:
106
Dựa trên trắc diện ngang (l0 x 10)m và trắc diện dọc của một bằng dài có kích
thước (l0 x 3)m, chúng tôi có thể mô tả phân nào các sinh dạng rừng ngập mặn nơi
đây.
Ô tiêu chuẩn số 4 là một trong những đại diện cho kiểu RNM trên bãi bồi phù sa
chưa ổn định ở cửa sông ven biển sông Hàm Luông, có tổng diện tích che phủ chiếm
68%, được cấu trúc chủ yếu bởi 2 tầng.
Ở tâng cây gỗ, có chiều cao cả ngọn trung bình là 12,5m, chiều cao dưới tán
trung bình là 4m, đường kính tán trung bình là 2m, độ che phủ trung bình 4%, chỉ có 1
loài hiện diện ở tầng này là Sonneratia caseolaris (L.) Engl. (Bần chua).
Ở tầng cây bụi có chiều cao trung bình là 3.1m, diện tích che phủ trung bình
chiếm 1,6%.
Loài Sonneratia caseolaris (L.) Engl. (Bần chua) có chiều cao cả ngọn trung
bình là 6m, chiều cao dưới tán trung bình là 3m, đường kính tán trung bình là 2m, độ
bao phủ chiếm chiếm 44%; kế đến là loài Kandelia candel (L.) Druce (Trang) có
chiều cao cả ngọn trung bình là 2m, chiều cao dưới tán trung bình là Im, đường kính
tán trung bình là 0,8m, độ bao phủ chiếm chiếm 19,8%; kê đèn là loài Avicennia alba
Bl. (Mắm trắng) có chiều cao cả ngọn trung bình là 4m, chiều cao dưới tán trung bình
là 1m, đường kính tán trung bình là 1m, độ che phủ chiếm chiếm 15%; loài
Rhizophora apiculata Bl. (Đước đôi) có chiều cao cả ngọn trung bình là 6m, chiều cao
dưới tán trung bình là 0,7m, đường kính tán trung bình là l,5m, độ che phủ chiếm
chiếm 2,3%; loài Nypa fruticans Wurmb. (Dừa nước) nơi đây có kích thước khá lớn
với chiều cao cả ngọn trung bình là Im, độ che phủ chiếm chiếm 4,1%. Nhìn chung
trong kiêu rừng này, tâng cây bụi tập trung nhiêu loài hơn với nhiêu loài đặc trưng cho
nhóm cây chịu độ mặn tương đôi tháp (Trang, Ô rô, Cóc kèn nước…) và nhóm cây
nước lợ điển hình (Dừa nước, Bần chua...), có mật độ cao và sức sống rất tốt.
107
This image cannot currently be displayed.
108
109
110
Về rừng Bần trồng:
Rừng Bần chua trong khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú có diện tích trên 315
ha, chủ yếu là rừng khoanh nuôi tự nhiên. Trong số này có đến 116 ha được gây trồng
năm 1994 theo triển khai thực hiện Dự án 327 ("Phủ xanh đất trống đồi trọc" - 1990)
và Dự án 661 (“Trồng mới 5 triệu ha rừng” -1998) vào năm 1999 trồng thêm 10 ha.
Rừng Bần chua trồng hiện nay có:
□ Độ tàn che là 2m, rừng một tầng, ở giai đoạn phân hóa.
□ Mật độ là 3.700 cây/ha.
□ Các thông số khác: DR1.3R = 25cm; Htt = 18m; Hdc = 3m
□ Tái sinh mạnh của Trang, Sú, Dừa nước, Vẹt dưới tán rừng Bần; tầng cỏ thấp
là Mái dầm, Ô rô, Lác nước.
111
Ô tiêu chuẩn số 5 - trên bãi bồi phù sa lỏng ở rạch Đùng - cồn Hố, ấp 7,
xã An Thủy huyện Ba Tri.
Điều kiện địa hình, đất đai:
Ô tiêu chuẩn có kích thước (l0 x 10)m, đặt ở bãi triều phía bờ hữu của cửa sông
Hàm Luông, cách mép bờ 50m.
Tọa độ địa lý: 48P: 0679106, UTM: 1102947.
Tầng đất mặt dưới rừng ngập mặn ở dạng chưa thuần thục, phù sa mịn dạng bùn
lỏng đang trong quá trình bồi lắng.
Thành phần loài:
Trên ô tiêu chuẩn số 5, chúng tôi xác định được 6 loài thuộc 6 họ (phụ lục 8).
Trong đó có 37 cây gỗ, thì có 10 cây gỗ có đường kính D1.3>= l0cm, thuộc 5 loài, 4
112
họ; chỉ có 1 loài cỏ bụi là Acanthus ebracteatus Vahl. (Ô rô trắng).
2 Sonneratiaceae (họ Bần), có mật độ 1.100 cây/ha, có độ che phủ lớn nhất 53,2mP
P,
Trên ô tiêu chuẩn này, loài Sonneratia caseolaris (L.) Engl. (Bần chua) thuộc họ
chiếm 53,2% diện tích che phủ, là loài ưu thế của kiểu rừng này, kế đến là loài
2 mật độ 300 cây/hạ, có độ che phủ 6,8mP
P, chiếm 6,8% diện tích che phủ; loài cây gỗ
Rhizophora mucronata Poir. in Lamk (Dưng) thuộc họ Rhizophoraceae (họ Đước) có
P, chiếm 10,3% diện tích che phủ; kế đến là loài
2 cây/ha, có độ che phủ 10,3mP
dạng bụi Nypa fruticans Wurmb. (Dừa nước) thuộc họ (họ Cau dừa) có mật độ 2.100
Avicennia alba Bl. (Mầm trắng) thuộc họ Verbenaceae có mật độ 500 cây/hạ, có độ
2 thuộc họ Rhizophoraceae (họ Đước) có mật độ 200 cây/ha, có độ che phủ 1mP
P, chiếm
che phủ 5m , chiếm 5% diện tích che phủ; loài Kandelia candel (L.) Druce (Trang)
1% diện tích che phủ.
113
114
115
Kết quả khảo sát ở 3 khu vực bãi bồi phù sa ven cửa sông Hàm Luông (gần
Vàm Rỏng - An Điền, gần rạch Tắt Bần - An Điền, Thạnh Phú về phía bờ tả và gần
rạch Đùng - An Thủy, Ba Tri vê phía bờ hữu) cho thấy ở mỗi khu vực thành phần loài
có khác nhau đôi chút. Do ô mẫu có kích thước nhỏ (10 x 10)m và chỉ đặt ở vài điểm
khảo sát nên kết quả này cũng chỉ mang tính chất tương đôi. Tuy nhiên, với két quả
khảo sát phân nào cũng đã xác định được vài loài ưu thế thể hiện ở độ bao phủ lớn,
giữ vai ữò quan trọng của thảm RNM nơi đây và thường gặp ở kiêu rừng này.
+ Ở tầng cây gỗ: Loài đóng vai trò gần như duy nhất cho tầng này cũng như ở
bậc dinh dưỡng của các sinh vật sản xuất trong rừng ngập nước lợ điển hình nó có khả
năng cho năng suất cao nhất là Sonneratia caseolaris (L.) Engl. (Bần chua) mà những
cây trưởng thành của loài có chiêu cao trung bình 17 - 18m và đường kính ngang ngực
trung bình 25 - 28cm. Những cây Bần chua cao lớn vẫn còn giữ thế tiên phong ra
hướng biển cho tới khi đến vùng cửa sông sát biển (khu vực Vàm Rỏng) thì loài
Avicennia alba Bl. (Mắm trắng) có phần chiếm ưu thế với vài cây cao khoảng l0 -
12m.
+ Ở tầng cây bụi có thể có các loài ưu thế như Kandelia candel (L.) Druce
(Trang), Avicennia alba Bl. (Mắm trắng). Ngoài ra, còn có các loài Nypa fruticans
Wurmb. (Dừa nước), Rhizophora mucronata Poir. in Lamk (Dưng), Rhizophora
apiculata Bl. (Đước đôi), Acanthus ebracteatus Vahl. (Ô rô trắng) và Acanthus
ilicifolius L. (Ô rô tím), Cryptocoryne ciliata Wydler (Mái dầm)...
Dạng dây leo chiếm ưu thế ở kiểu rừng này thuộc về nhóm cây họ Đậu là Derris
trifoliata Lour. (Cóc kèn nước), có khi vươn cao, leo quân dày đặc quanh những thân
cây Bân cao lớn, loài này có thê có giá trị trong việc làm giàu đạm cho đất RNM nơi
đây.
3.2.4.Hệ thực vật trên đất cồn cát cửa sông ven biển:
Trong vùng ven biển cửa sông Hàm Luông, nhiêu dãy côn cát rộng lớn (cồn
Bủng, cồn Lợi, cồn Ồng Lễ, cồn Hố) tương đối ổn định phân bố dọc theo đường bờ
biển hai bên cửa sông và cao hơn các vùng phù sa xung quanh, phần cồn giáp biển khi
nước triều rút để lộ ra những bãi cát thủy triều rộng trên lkm, mà trên đó cây ngập
mặn không thê phát triển được, chỉ có các động vật hai mảnh vỏ sinh sống khá tốt như
116
ngao, hào. Những bãi cát thủy triều nơi đây là những bãi ừiều giàu năng lượng, do
thường chịu ảnh hưởng của sóng gió thủy triều, đặc biệt vào mùa chướng hàng năm
(tháng 11 đến tháng 3) gió chướng thổi mạnh với vận tốc cao từ 3 - 5m/s, có khi đạt
đèn l0m/s, sóng biển cao tối đa đến 3m. Khi sóng gió biển tác động lên bãi thủy triều,
phần thô theo chân sóng lao lên bờ, tạo ra những gờ bãi biển có thể nhô cao từ 0,5m
rồi đạt +2 đến +3m; nếu vật liệu trầm tích thích hợp, sớm ổn định sẽ giúp mở rộng
thêm diện tích các côn ra hướng biển và hình thành đất giồng sau này [22, tr. 190].
Theo báo cáo của Phân viện điêu tra quy hoạch rừng II (1998) thì đất cát ven
biển nơi đây có thành phần cơ giới nhẹ, hàm lượng cát (0,02 - 2mm) thường từ 70 -
74,8%, đất có màu vàng sáng, xám, ẩm. Đất có phản ứng kiêm cao pH:8, hàm lượng
P:
2- P%=0,036%, SOR4RP
- N%=0,02%, PR2ROR5R%=0,062%, KR2-RO%=0,333%; hàm lượng ClP 2+
2+
+ 0,04%; NaP P: 19,23 me/l00g; CaP
P: 0,9 me/l00g; MgP
P: 0,5 me/l00g; độ dẫn điện và
hữu cơ thấp OM:0,517%, mức độ khoáng hóa cao C/N=ll; mức độ phì nhiêu thấp
tổng muối tan thấp EC: 0,13 mS/cm, TMT= 0,046% [44, tr.6].
Ở dạng sinh cảnh này, chúng tôi đã khảo sát khu vực cồn Lợi thuộc xã Thạnh
Hải và cồn Ông Lễ, xã An Điền huyện Thạnh Phú.
Thực vật tiên phong ở những gò bãi biển nơi đây mọc rãi rác như: Ipomoea pes-
caprae (L.) Sw. subsp. brasiliense (L.) Ooststr. (Muông biển), Imperata cylindrica
(L.) P.Beauv. var. major (Nees) Hubb. (Cỏ tranh), Panicum repens L. (Cỏ ống),
Sesbania sesban (L.) Men-. (Điền thanh), Cyperus stolonifems Ketz. (Cú biển),
Cassytha filiformis L. (Dây tơ xanh), Spinifex littorerus (Burm.f.) Merr. (Cỏ chông),
Launea sarmentosa (Wilid.) Kuntze (Hải cúc, Sa sâm).
117
Vào sâu bên trong, cồn cát tương đối cố định có những dãy rừng trồng Phi lao
(Casuarina equisetifolia J.R & Forst), đặc biệt là 7 hecta rừng Phi lao ở cồn Ồng Lễ
thuộc Tiểu khu 13, xã An Điền được quản lý rất tốt từ những đám rừng nhỏ (2-5 năm
tuổi) nối tiếp những đám rừng lớn (trồng từ 1993) có cây cao đến 17m, đường kính
ngang ngực 18cm. Nhìn chung, phần lớn diện tích đất giồng cát trên các cồn còn lại
được người dân sử dụng luân canh các cây hoa màu như Pachyrhizus erosus (L.) Urb.
(Sắn, Củ đậu), Arachis hypogaea L. (Đậu phong), Citrulius lanatus (Thunb) Mats. &
Nak. (Dưa hấu). Xa xa trong những rú bụi thứ sinh ven biển cao khoảng 4 - 7m có thể
gặp các loài cây như Thespesia populnea (L.) Soland. (Tra bồ đề), Hibiscus tiliaceus
L. (Tra hụp), Clerodendrum inerme (L.) Gaertn. (Chùm gọng), Lumnitzeraracemosa
Willd. (Cóc trăng), Phoenix paludosa Roxb. (Chà là biển), Pandanus odoratissimus L.
f. var. vietnamensis (St-John) Stones. (Dứa gai), Pluchea Indica (L.) Lees. (Lức),
Sesbannia sesban (L.) Men". (Điên điển), Wedelia biflora (L.) DC. (Sơn cúc hai hoa),
Canavalia cathartica Thouars (Đậu cộ biển), Azima sarmentosa (Blume) Benth. &
Hook. (Chùm lé), Calophyllum inophyllum L. (Mù u). Ngoài ra còn có một số loài
118
Terminalia catappa L. (Bàng biển), Dodonea viscosa Jacq. (Chàng ràng), Colubrina
asiatica (L.) Brogn. (Kheo, Núc áo Á).
Ngoài 5 ô tiêu chuẩn cơ bản được vẽ phẫu đồ rừng nêu trên, trên tuyến điều tra
chính rẽ về hai phía đối diện theo kiểu xương cá chúng tôi tiến hành khảo sát thêm 25
ô tiêu chuẩn thể hiện các dạng sinh cảnh tương đương với 1 trong 5 ô tiêu chuẩn cơ
bản. Điều này đã giúp chúng tôi xác định khá đầy đủ số loài thực vật đang tồn tại nơi
đây. Bên cạnh đó, qua việc xử lý, phân tích các số liệu thu được trên 30 ô tiêu chuẩn
này bằng phân mềm Primer5 (Phụ lục 9) giúp chúng tôi đánh giá khá kĩ về hiện trạng
mối quan hệ giữa loài, quân xã thực vật vùng ven biển cửa sông Hàm Luông.
3.3.Một số hình thái đặc sắc của các loài cây ngập mặn
RNM ven biển ở các cửa sông Bến Tre là một kiểu sinh cảnh tiêu biểu trong
thảm thực vật rừng nhiệt đới, là một kiểu phụ thổ nhưỡng vùng ven biển của kiểu rừng
kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, thuộc khu vực RNM ven biển Nam Bộ, sông trên
đất phù sa lăng đọng và ngập nước mặn của thủy triêu lên xuồng hằng ngày hay định
kỳ. Đặc biệt, RNM vùng ven biển cửa sông Hàm Luông chịu ảnh hưởng mặn của
nước biển (18 - 19 /oo vào 6 tháng mùa khô) được pha loãng (khoảng 2 - 6%0 ở các
tháng mưa) bởi nước ngọt của sông Cửu Long và nước mưa. Bên cạnh đó, đôi bờ sông
Hàm Luông có cao trình bồi lở khá cao, nên phù sa tuy nhiều nhưng khi ra đến biển
thì bị chuyên xuồng mũi Cà Mau do đó bãi bồi thường hẹp, có các đảo cửa sông và
luôn biến động; nên các loài cây ngập nước mặn - lợ nơi đây đã có những hình thức
thích nghi rất độc đáo với những điều kiện môi trường hóa lý đây khắc nghiệt trên
vùng đất ngập nước ven biển cửa sông Hàm Luông.
Không những thế mà các cây ngập mặn còn hình thành những tính trạng về hình
thái, sinh lý đặc biệt giống hệt nhau giữa các loài cây không hệ có quan hệ thân thuộc
gì với nhau, thể hiện ở mọi đặc tính của chúng đêu hướng cả vào một khuôn khổ phù
hợp với sinh cảnh, chỉ vì cùng sống trong một sinh cảnh tương tự.
3.3.1.Một số hình thái của rễ:
Do phải sống trong nền đất bùn mềm, hàng ngày chịu tác động định kỳ của nước
triều, sóng, gió nên các loài cây ngập mặn đã tự trang bị một hệ thống rễ thật hoàn
119
thiện.
- Rễ chống: Để có thể đứng vững trên thể nền bùn mềm, nhất là ở chi Đước phát
triển mạnh bộ rễ tầng mặt - các rễ bên mọc ra từ phần thân trên mặt đất, hướng tua tủa
ra xung quanh rồi cắm xuống đất bùn tạo dáng hình nom chụp xuống với thế kiềng
vững chắc trước dòng triều và sóng biển. Ngoài tác dụng làm giá đỡ cho cây, rễ chống
2 vỏ trên bề mặt rễ, trung bình 5-10 lỗ/cmP
P.
còn giữ chức năng thu nhận không khí cho phần trong đất được thực hiện bởi các lỗ
- Rễ hô hấp: Ở các chi bần, mấm, từ các rễ bên nằm ngang gần mặt đất lan rất
rộng ra xung quanh và mọc ra nhiều rễ hô hấp hình chông đâm thẳng lên không khí.
2 vỏ lớn: chi Bần trunh bình 9 — 11 lổ vỏ/cmP
2 P, chi Mẩm 14 - 16 lổ vỏ/cmP
P.
Rễ hô hấp thích nghi với việc thu nhận không khí khi nước triều xuống, có số lượng lỗ
Bên cạnh hai kiểu rễ phổ biến trên, một số loài cây ngập mặn có rễ gập hình đầu
gối xuất phát từ các rễ bên ở quanh gốc thân, từng đoạn một lại nổi lên trên mặt đất,
lúc đầu nhọn, sau tù và nhẵn dần. Từ các phần nhô này mọc ra các rễ dinh dưỡng đâm
xuống đất. Ở vài loài khác như Trang, các loài trong chi Vẹt hình thành những banh
gốc gần giống như banh gốc của một số loài cây trong rừng mưa nhiệt đới. Bạnh gốc
có nhiều lỗ vỏ hoặc vỏ nứt dọc, lớp ngoài mềm có tác dụng thu nhận không khí, phía
dưới mọc ra nhiều rễ bên, làm nhiệm vụ dinh dưỡng.
- Rễ dinh dưỡng: Đặc điểm chung của các loài cây sông trong đâm lầy mặn,
thường xuyên ngập triều là không có rễ cọc. Ở ba chi thuộc họ Đước (Đước, Trang,
Dà), khi cây con cắm xuống bùn, tò các phần lõm ở cuối trụ mầm mọc ra các rễ bên.
Ở các loài khác, thường rễ cọc bị thui dần khi ăn sâu vào bùn. Thay vào đó, hệ thống
rễ bên xuất phát từ gốc thân phát triển mạnh theo hướng ăn ngang; từ các rễ này mọc
ra các rễ đâm xuống đất để lấy chất dinh dưỡng mọc ngược lên thành rễ hô hấp. Rễ
dinh dưỡng có nhiều đặc điểm thích nghi với môi trường bùn mềm, thiếu oxy [10,
tr.76].
120
121
122
123
This image cannot currently be displayed.
124
125
3.3.3.Hiện tượng thai sinh và trụ mầm:
Đa số các loài cây ngập mặn có một phương thức sinh sản đặc biệt. Hạt của các
loài cây này nảy mầm sau khi chín, ngay trên cây mẹ, sinh ra cây con nối liền với quả
gọi là trụ mầm [16, tr.88]. Cách nảy mầm này không chỉ xảy ra cho các loài trong họ
Đước (Rhizophoraceae), mà còn cho cả những loài thuộc chi Sú trong họ Đơn nem
(Myrsinaceae), chi Mâm; hạt cũng nảy mầm trên cây mẹ nhưng trụ mầm nằm kín
trong vỏ quả, không ló ra ngoài như các cây họ Đước. Rừng Sú, Mắm, Vẹt có lẽ là
một hình ảnh nổi bật nhất của hiện tượng đồng quy hình thái trong những loài thực vật
không thân thuộc vê họ hàng, nhưng cùng sông trong một môi trường đặc biệt giông
nhau [28, tr.148].
126
127
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.Kết luận
RNM ở ven biển cửa sông Hàm Luông - tỉnh Bến Tre là một trong những vùng
đất ngập nước cửa sông ven biển, nước lợ điển hình thuộc hệ thống cửa sông Cửu
Long rộng lớn; lưu lượng nước trên nhánh sông Hàm Luông là khá lớn cùng với
lượng nước mưa trung bình hằng năm cao, hội đủ yếu tố của một cửa sông thuận trên
miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nắng nóng, mưa nhiều, mùa khô hạn lại
gay gắt, với các yếu tố khí hậu biến động sâu sắc có tác dụng phân hóa mạnh mẽ đến
các tính chất lập địa.
Sự tương tác giữa động lực dòng sông với các động lực dòng biển như dòng
triều, sóng và hải lưu ven bờ; nổi bật ở dòng sông xuống có lưu lượng lớn đặc biệt vào
mùa lũ, còn dòng triều lên có tốc độ truyền triều nhanh, sóng biển khá cao, chế độ bán
nhật triều cao, không đều; nên quá trình giao tranh giữa dòng sông và dòng biển luôn
diển ra mãnh liệt, các yếu tố vô sinh, hữu sinh mang đầy tính nhạy cảm, tốc độ bồi lở
khá cao làm cho diện tích lớp bùn phù sa nơi đây hẹp hơn rất nhiều so với bán đảo Cà
Mau dưới phía Nam.
Do ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu, lực tương tác dòng sông – dòng biển, vai
trò giữ đất của thảm thực vật cửa sông ven biển đã hình thành nên các loại đất: đất phù
sa lỏng lợ đến mặn, đất mặn chặt và đất giồng cát ven bờ.
Hệ thực vật ở đây chủ yếu là các cây RNM thích ứng với điều kiện môi trường
đất ngập nước mặn rồi lợ rất khắc nghiệt, nắng hạn gay gắt, hoàn lưu gió mùa gồm gió
mùa Tây Nam và gió Chướng phức tạp góp phần làm tăng sức xâm thực của sóng biển
Đông và dòng hải lưu ven bờ. Vì thế mà thành phần loài có khả năng thích nghi với
điều kiện đầy biến động của môi trường trở nên kém đa dạng, nhưng thay vào đó là
sức chịu đựng cao của các cá thể là cơ sở hình thành nên các tính trạng đặc sắc làm
tăng tính đa dạng về di truyền và sự giàu có về số lượng của chúng.
1.1.Thành phần loài thực vật ở vùng ven biển cửa sông Hàm Luông
Nhóm cây ngập mặn chính thức ở vùng ven biển cửa sông Hàm Luông có có 25
loài thuộc 17 chi, 13 họ.
128
Nhóm cây tham gia RNM ở vùng ven biển cửa sông Hàm Luông có 34 loài
thuộc 33 chi, 21 họ.
Từ kết quả nghiên cứu và khảo sát thực địa chúng tôi đã thống kê có đến 199
loài thực vật, thuộc 155 chi, 58 họ, 34 bộ, 2 ngành ở vùng cửa sông nơi đây (xem phụ
lục 1). Trong đó, nhóm cây ngập mặn chính thức được bổ sung 7 loài, bổ sung thêm
cho nhóm cây tham gia RNM là 9 loài.
1.2.Các kiểu quần hệ thực vật
Qua kết quả khảo sát thực địa và tham khảo các tài liệu, chúng tôi rút ra một số
kết luận về các kiểu sinh cảnh cũng như các đặc điểm sinh thái của thảm thực vật ngập
mặn vùng ven biển cửa sông Hàm Luông như sau:
- Kiểu RNM trên bãi triều thấp ven biển: Các loài cây gỗ đều có kích thước thấp
trung bình 2m, thân nhỏ sớm phân nhiều cành sát gốc, phát triển theo chiều ngang
thích nghi với điều kiện độ mặn nước biển cao, chịu ảnh hưởng trực tiếp của sóng và
gió biển, dòng triều lên rất nhanh, rừng mọc khá dày mau chóng phủ lấy phần đất
xung quanh. Các loài thường gặp ở kiểu rừng này là Avicennia marina (Forssk.)
Vierh. (Mắm biển), Sonneratia alba J. Sm. (Bần đắng), Avicennia alba Blume (Mắm
trắng), Ceriops decandra (Griff.) Ding Hou, Sesuviumportulacastrum L. ...
- Kiểu RNM trên đất bùn chặt: Các loài ở khu vực này có kích thước trung bình
3 - 4m, thường mọc thành từng dãy dày ven bờ các con rạch ở những phân đất cao bên
trong, gồm các loài Avicennia officinalis L. (Mâm đen), loài Xylocarpus moluccensis
(Lam.) M.Roem. (Xu sung), loài Rhizophora apiculata Blume, loài Avicennia alba Bl.
(Mắm trắng), loài Lumnitzera racemosa Willd (Cóc trắng), loài Sonneratiaceae ovata
Backer (Bần ổi), loài Hibiscus tiliaceus L. (Tra hụp), loài Nypa fruticans Wurmb.
- Kiểu RNM trên bãi bùn phù sa lỏng ngập nước mặn rồi lợ: Trong kiêu rừng
này các loài có kích thước khá cao trung bình từ lo - 15m chủ yêu là các loài chịu độ
mặn cao trung bình, đặc biệt ở loài Sonneratia caseolaris (L.) Engl. (Bần chua) chỉ thị
cho môi trường nước lợ có ưu thế vượt trội có cây cao đến 18m và đường kính thân
ngang ngực đến 28cm, bên cạnh có các loài Kandelia candel (L.) Druce (Trang),
Aegyceras corniculatum (L.) Blanco (Sú), Bruguiera sexangula (Lour.) Poir. (Vẹt
129
đen), loài Avicennia alba Bl. (Mắm trắng), loài Nypa fruticans Wurmb, Rhizophora
mucronata Poir. (Đưng), loài Rhizophora apiculata Blume, tầng cây bụi còn có 2 loài
ưu thế như Acanthus ebracteatus Vahl (Ô rô trắng), loài Acanthus ilicifolius L. (Ô rô
tím), loài dây leo ưu thế Derris trifoliata Lour. (Cóc kèn nước).
- Hệ thực vật trên đất cồn cát cửa sông ven biển: Quần xã thực vật tiên phong ở
khu vực này thích nghi với điều kiện đất cát khô ẩm, nghèo dinh dưỡng, chịu tác động
của gió mặn hàng ngày, chỉ ngập ở những nước triều cao vào mùa chướng có thể gặp
các loài Ipomoea pes-caprae (L.) Sw. subsp. brasiliense (L.) Ooststr. (Muống biển),
Imperata cylindrica (L.) P.Beauv. var. major (Nees) Hubb. (Cỏ tranh), Panicum
repens L. (Cỏ ống), Sesbania sesban (L.) Men. (Điền thanh), Cyperus stolonlierus
Ketz. (Cú biển), Cassytha filiformis L. (Dây tơ xanh), Spinifex littorerus (Burm.f.)
Merr. (Cỏ chông), Launea sarmentosa (Willd.) Kuntze (Hải cúc) và một số loài cây
gỗ như Lumnitzera racemosa Willd. (Cóc trắng), Hibiscus tiliaceus L. (Tra búp),
Calophyllum inophyllum L. (Mù u), Terminalia catappa L. (Bàng biển),
Phoenixpaludosa Roxb. (Chà là) ....
2.Kiến nghị
Vùng đông bằng sông nước thoáng mát với nhiêu kênh rạch uôn quanh theo
những dãy viền xanh ngút ngàn như suối tóc dài óng ả của cô gái miền Tây tuổi trăng
tròn đang thả mình bồng bềnh bên dòng sông hiền hòa thơ mộng, nơi đây sẽ là điểm
hẹn du lịch sinh thái lí tưởng cho du khách để thư giãn, tìm cơ hội học cách sống thân
thiện với thiên nhiên sau thời gian dài chịu sức ép của nhịp sống hối hả, hiện đại nơi
đô thị.
RNM có giá trị sinh thái quý báu mà không có gì thay thế được. Cây RNM là
cây tiên phong của vùng đất mới bồi và là công cụ của đất trong công cuộc lấn biển
[23]. Các cây RNM như những công dân lao động cần mẫn, anh dũng nhát ở nơi đâu
sóng ngọn gió, luôn đi đâu trong công cuộc kiên thiêt đất nước, làm cho tổ quốc thêm
giàu đẹp, ngày đêm miệt mài mở mang bờ cõi, gìn giữ sự yên vui cho xóm làng,
nương rẫy.
Con người là một trong những nhân tô sinh thái có tác động rất lớn đến cảnh
130
quan tự nhiên trong vùng. Không ít những hoạt động khai thác gỗ, củi, đào bới, đánh
bắt thủy hải sản (chạc khoai - sâm đất, lịch cũ, cua giống ...) trái phép, chăn thả rong
gia súc (trâu, bò, dê) của người dân địa phương, việc bao đê, mở rộng diện tích mặt
nước nuôi tôm sinh thái trong một sô tiêu khu rừng trong phần lõi khu Bảo tồn ... đã
làm phá vỡ cấu trúc rừng, các mối cân bằng sinh thái tự nhiên, làm gia tăng tính biển
động của các yêu tô môi trường vốn rất khắc nghiệt như nhiệt độ, độ mặn, độ độc
phèn cũng như dư lượng các chất hóa học nuôi thủy sản có xu hướng ngày càng tăng
và hậu quả là làm giảm nhanh sức sinh trưởng, phát triển, khả năng sinh sản và phát
tán nguồn giống, mở rộng diện tích thảm RNM.
RNM cửa sông ven biển có diện tích không lớn lăm, nhưng nó có ý nghĩa sinh
thái to lớn trong việc ổn định trầm tích sông - biển, mở rộng diện tích vùng đông bằng
châu thô lân dân ra biển, điêu tiêt khí hậu, cân bằng sinh thái. RNM là nơi lưu giữ, bảo
tồn phát triển các dạng sinh cảnh ngập nước mặn và lợ điên hình với nhiêu loài động
thực vật quí hiêm, có giá trị kinh tê cao, đặc trưng cho vùng.
Do vậy, cần thiết có biện pháp bảo vệ và bảo tồn hệ thực vật:
- Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục cộng đồng, nâng cao ý thức tự giác
bảo vệ rừng dưới các hình thức phát thanh, truyền hình, sách báo, sinh hoạt câu lạc bộ
khuyên nông, khuyên lâm, khuyên ngư, tập huân giáo dục về các giá trị của hệ sinh
thái RNM, những ảnh hưởng tiêu cực có thể xảy ra do mất rừng, phổ biến pháp luật
quản lý bảo vệ rừng và bảo vệ môi trường, những quy định về quyền và nghĩa vụ của
người dân địa phương trong việc quản lý bảo vệ và phát triên rừng.
- Đây mạnh công tác xã hội hóa lâm nghiệp bằng cách tiêp tục giao khoán rừng
đến từng hộ sống trong khu vực. Thường xuyên kiểm tra công tác trồng rừng và bảo
vệ rừng, tăng cường công tác giám sát những nơi có nguy cơ bị cháy cao.
- Nghiêm minh xử lí các trường họp vi phạm đôn phá rừng, săn bát động vật trái
phép, lấn chiếm đất rừng bất hợp pháp, phối hợp chặt chẽ việc tuần tra bảo vệ rừng
giữa các cán bộ ngành kiểm lâm, kiểm ngư, lâm trường, công an, chính quyền địa
phương, bộ đội biển phòng để kịp thời ngăn chặn các trường họp vi phạm.
- Triển khai nhanh các chương trình, dự án về chăm lo hỗ trợ vốn cho người dân
131
vùng đệm định canh định cư, đầu tư phát triển nghề nuôi nghêu, sò trên bãi bùn, cát
ven bờ, nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa, chương trình nước sạch, chính sách đãi
ngộ chăm lo công tác giáo dục cho con em ở địa phương, tăng cường biện pháp kiểm
soát dân số, cấm di dân từ bên ngoài vào vùng đệm, hỗ trợ vốn và kỹ thuật để người
dân đầu tư khai thác đánh bắt xa bờ ... từ đó điều kiện sống của người dân được cải
thiện, không còn gây sức ép kinh tế, xã hội lên khu Bảo tồn.
- Thực hiện nhiều hành động cụ thể để hạn chế thời gian nuôi tôm sinh thái
nhằm đảm bảo cho rừng có đủ thời gian tiếp xúc với môi trường nước triều sạch thay
mới hàng ngày, đủ thời gian phát tán cây con giống. Như một hành động cụ thể của
ngành thủy sản, bước đầu có ảnh hưởng tích cực đến việc bảo vệ môi trường sống
vùng cửa sông nơi đây là việc kết hợp với UBND tỉnh Bến Tre ra chỉ thị "Về việc thực
hiện thời gian gián đoạn sau đợi nuôi tôm sú trên địa bàn tỉnh Bến Tre" thực thi từ
ngày 01/9/2007, ngừng việc nuôi tôm sú đến khi có chỉ thị mới, nhằm ngăn ngừa bệnh
đốm trắng ....
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là tìm
nguồn tài liệu tham khảo, hoặc tài liệu liên quan đến vùng thì được nghiên cứu cách
nay đã lâu từ những năm 1980, chúng tôi còn thiếu sự kết hợp giữa các ngành địa
chất, thổ nhưỡng, thủy sản ... . Tuy nhiên qua luận văn này chúng tôi mong muốn góp
phần tìm hiểu hệ thực vật vùng ven biển cửa sông Hàm Luông. Chúng tôi hy vọng có
nhiều công trình nghiên cứu sâu hơn về hệ thực vật cũng như các quá trình diễn thế
của các kiểu rừng ở những bãi bồi phù sa được nâng dần lên khi tiến sâu vào đất liền.
Nghiên cứu và đánh giá tác động của con người lên thảm thực vật nơi đây và các biện
pháp hạn chế việc phá rừng, giảm đa dạng sinh học.
132
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lê Huy Bá (2003), Sinh thái môi trường đất, Nxb ĐHQG TP.HCM.
2.Lê Huy Bá, GSTS Lâm Minh Triết (2000), Sinh thái Môi trường ứng dụng,
Nxb Khoa học và Kỹ thuật.
3.Nguyễn Tiền Bân (1997), Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt
kín ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp.
4.Hoàng Thị Bé (2004), Atlas Khuẩn lam - Nấm - Thực vật, Nxb Đại học sư
phạm.
5.Võ Văn Chi (2003), Từ điển thực vật thông dụng, tập 1, Nxb Khoa học và Kỹ
thuật.
6.Võ Văn Chi (2004), Từ điển thực vật thông dụng, tập 2, Nxb Khoa học và Kỹ
thuật.
7.Võ Văn Chi (2005), 250 cây thuốc thông dụng, Nxb Hải Phòng.
8.Võ Văn Chi (2007), Sách tra cứu tên cây cỏ Việt Nam, Nxb Giáo dục
9.Nguyễn Văn Dưỡng, Trần Hợp (1970), Kỹ thuật thu hái mẫu vật làm tiêu bản
cây cỏ, Nxb Nông thôn.
10.Vũ Tự Lập (2005), Địa lý tự nhiên Việt Nam, Nxb Giáo dục Hà Nội.
11.Đỗ Tất Lợi (1999), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Y học.
12.Phạm Hoàng Hộ (2000), Cây cỏ Việt Nam (3 tập), Nxb Trẻ - In lần thứ hai.
13.Phạm Hoàng Hộ, Trần Phước Đường, Lê Công Kiệt, Võ Ái Quắc, Nguyễn
Văn Khiêm (1992), Chuyên khảo về Đồng Tháp Mười - Tài nguyên thực vật, Nxb Trẻ.
14.Phan Nguyên Hồng (1991), Thảm thực vật rừng ngập mặn Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ sinh học.
15.Phan Nguyên Hồng (Chủ biển)(1997), Vai trò của rừng ngập mặn Việt Nam -
Kỹ thuật trồng và chăm sóc, Nxb Nông nghiệp.
133
16.Phan Nguyên Hồng (Chủ biên)(1999), Rừng ngập mặn Việt Nam, Nxb Nông
nghiệp.
17.Hà Quốc Hùng, Đặng Trung Tấn (1999), sổ tay cây cỏ rừng ngập Cà Mau,
Khoa học Công nghệ và Môi trường tỉnh Cà Mau / Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng
kỹ thuật rừng ngập Cà Mau - In tại Xí nghiệp in Trần Ngọc Hy tỉnh Cà Mau.
18.Thiều Lê Phong Lan (2006), Nghiên cứu thảm thực vật khô hạn ven biển
huyện Ninh Hải - tỉnh Ninh Thuận, Luận văn Thạc sĩ sinh học, Trường Đại học Sư
phạm TP.HCM.
19.Viên Ngọc Nam (2005), Giáo trình đa dạng sinh học, Bài hướng dẫn thực
hành phần mềm Primer5 và Biodiversity, Cao học Lâm nghiệp - Đại học Nông Lâm
TP.HCM ( file.pdf- Đa dạng sinh học).
20.Nguyễn Phi Ngà (1999), Thảm thực vật trên đất ngập nước của Vườn Quốc
gia Nam Cát Tiên, Luận án Thạc sĩ khoa học chuyên ngành Sinh thái, Trường ĐHQG
TP.HCM - Đại học Khoa học tự nhiên.
21.Nguyễn Hoàng Nghĩa / Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (1999), Bảo
tồn đa dạng sinh học, Nxb Nông nghiệp Hà Nội.
22.Thạch Phương - Đoàn Tứ (Chủ biên) (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb Khoa học
xã hội.
23.Vũ Trung Tạng (1994), Các hệ sinh thái cửa sông Việt Nam, Nxb Khoa học
và Kỹ thuật Hà Nội.
24.Nguyễn Văn Thêm (2002), Sinh thái rừng, Nxb Nông nghiệp, TP. HCM.
25.Nguyễn Nghĩa Thìn (2005), Đa dạng sinh học và Tài nguyên di truyền thực
vật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
26.Nguyễn Văn Thôn, Lâm Bỉnh Lợi (1972), Rừng ngập nước Việt Nam, Nha
Thủy Lâm / Viện Khảo cứu Nông nghiệp, Sài Gòn.
27.Nguyễn Hoàng Trí (1996), Thực vật Rừng ngập mặn Việt Nam, Nxb Giáo dục
Hà Nội.
28.Thái Văn Trừng (1998), Những hệ sinh thái rừng nhiệt đới ở Việt Nam, Nxb
134
Khoa học và Kỹ thuật.
29.Thái Văn Trừng (1978), Thảm thực vật rừng Việt Nam trên quan niệm hệ sinh
thái, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
30.Nguyễn Văn Tuyên (2001), Sinh thái và Môi trường, Nxb Giáo dục.
31.C.Vili (1971), Sinh học, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
32.E.P.Odum (1978), Cơ sở sinh thái học tập I, Nxb Đại học và trung học
chuyên nghiệp Hà Nội.
33.E.P.Odum (1979), Cơ sở sinh thái học tập II, Nxb Đại học và trung học
chuyên nghiệp Hà Nội.
34.P.Duvigneaud - M.Tanghe; người dịch Hoàng Thị Sản, Lê Trọng Cúc (1978),
Sinh quyển và vị trí con người, Nxb Khoa học kỹ thuật Hà Nội.
35.Ban Quản lý Rừng phòng hộ Môi trường thành phố Hồ Chí Minh (2002), Khu
Dự trữ Sinh quyển Rừng ngập mặn Cần Giờ, Nxb Nông nghiệp.
36.Ban Từ điển Nxb Khoa học và Kỹ thuật (2004), Từ điển sinh học Anh - Việt
và Việt - Anh, Nxb Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.
37.Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1996), Sách đỏ Việt Nam phần thực
vật, Nxb Khoa học và Kỹ thuật.
38.Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn / Viện Khoa học và Thủy lợi Miền
Nam, TP.HCM (2005), Điều tra cơ bản năm 2005 - Báo cáo tổng hợp kết quả - Đo
đạc giám sát diễn biến lòng dẫn, bồi lấp sạt lở bờ sông, cửa sông Đồng Nai - Sài Gòn
và sông Cửu Long.
39.Bộ Thủy sản / Viện nghiên cứu nuôi trông thủy sản II phối hợp với Sở Thủy
sản Bến Tre (2003), Dự án "Quy hoạch chi tiết nuôi trồng thủy sản huyện Thạnh Phủ
tỉnh Bến Tre, thời kỳ 2003 - 2010 ".
40.Chính phủ Việt Nam / ủy ban Kế hoạch Nhà Nước - Ngân hàng Thế giới /
Ban Thư ký sông Mê Công - Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (1993), Quy
hoạch tổng thể Đông bằng sông Cửu Long Việt Nam - Bản tiếng Việt, NEDECO -
Công ty cố vấn Kỹ thuật Hà Lan.
135
41.Sở Tài nguyên và Môi trường Bến Tre (2005), Báo cáo Hiện trạng môi
trường tỉnh Bến Tre năm 2005.
42.Sở Lâm nghiệp Minh Hải (1990), sổ tay cây cỏ rừng ngập Cà Mau – Lưu
hành nội bộ.
43.Trung tâm Sinh thái, Môi trường và Tài nguyên - CEER (2005), Nghiên cứu,
đánh giá Đa dạng sinh học và nguồn lợi sinh vật ở vùng cửa sông ven biển tỉnh Bến
Tre; xây dựng các giải pháp quản lý, sử dụng hợp lý, Đề cương đề tài - chủ nhiệm đề
tài GS.TSKH Lê Huy Bá.
44.Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre (1998), Dự án Đầu tư Phát triển Khu Bảo tồn
thiên nhiên đất ngập nước Thạnh Phú huyện Thạnh Phủ - tỉnh Bến Tre giai đoạn 1999
- 2003, Phân viện Điều tra Quy hoạch rừng II (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn).
45.Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre / Sở Giáo dục - Đào tạo (2002) - TS Châu
Quang Hiền (Chủ biển), Bến Tre Tài nguyên, Môi trường và Phát triển, Lưu hành
trong tỉnh.
46.Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre / Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bến
Tre / Ban Quản lý Khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú (2005), Báo cáo Dự án Đầu
tư bảo vệ và phát triển Khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú giai đoạn II (2005 -
2010).
47.Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre / Sở Thủy sản Bến Tre (2004), Báo cáo Đánh
giả tác động Môi trường của Dự án Quy hoạch chỉ tiết Nuôi trồng thủy sản huyện
Thạnh Phủ - tỉnh Bến Tre thời kỳ 2003 - 2010, Công ty tư vấn và dịch vụ Khoa học
Công nghệ Thủy sản, TP.HCM.
48.Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre / Sở Thủy sản Bến Tre (2000), Báo cáo toàn
văn Tổng kết đề tài - Điều tra Quy hoạch Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản
vùng ven bờ và xa bờ tỉnh Bến Tre, Trung tâm Khoa học TN & CNQG Viện Hải
dương học Nha Trang.
49.WWF - Chương trình Đông Dương (2003), sổ tay hướng dẫn điều tra và
giám sát đa dạng sinh học, tr. 41 - 75, 315 - 352, Nxb Giao thông vận tải.
136
Tiếng Anh
50.Patrick Humphreys & Matti Palo (1998), Forests in Global Warming - World
Institude for Development Economics Research, The United Nation University
WIDER.
51.Profesor R.W.Steel Diretor (1972 - 1981), Natural Resources in Tropical
Countries, Published by Singapore University.
137
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Danh lục các loài thực vật ven biển cửa sông Hàm Luông - Tỉnh
Bến Tre
138
139
140
141
142
143
144
This image cannot currently be displayed.
145
This image cannot currently be displayed.
146
147
This image cannot currently be displayed.
148
149
150
Phụ lục 2: Kết quả phân tích đất
Người thu mẫu: Phạm Thị Minh Chi
Số mẫu: 02 mẫu
Loại mẫu: Mẫu đất
Nơi thu mẫu: Bãi bồi rừng Bần chua - Tiểu khu 12 - xã An Điền huyện Thạnh
Phú.
Ngày gửi mẫu: 15.7.2007
Ngày trả kết quả: 02.8.2007
151
Phụ lục 3: Kết quả phân tích đất
Người thu mẫu: Phạm Thị Minh Chi
Số mẫu: 02 mẫu
Loại mẫu: Mầu đất
Nơi thu mẫu: Đất rừng Đước, Mắm - Tiểu khu 15 - xã Thạnh Hải huyện Thạnh
Phú
Ngày gửi mẫu: 15.7.2007
Ngày trả kết quả: 02.8.2007
152
Phụ lục 4: Các loài trên ô tiêu chuẩn số 1 ở bãi Trảng Lầy - Tiểu khu 17, xã
Thạnh Hải, khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú
Người khảo sát: Phạm Thị Minh Chi
UChú thích:
Ngày khảo sát: 16/11/2006
DS: Dạng sống; G: Gỗ lớn, Gn: Gỗ nhỏ, B: Cây bụi, DL: Dây leo, DX: Dương
xỉ, C: cỏ SL: Số lượng
H(m) TB/Max: Chiều cao cả ngọn, trung bình và lớn nhất.
2 Scp mP
P: Diện tích che phủ tính theo từng loài.
H.DC(m) TB/Max : Chiều cao dưới cành, trung bình và lớn nhất.
MĐ/ha: Mật độ cây/ 1 ha.
SS: Sức sống; +++ (rất tốt), ++ (khá), + (trung bình), - (yếu)
153
Phụ lục 5: Các loài trên ô tiêu chuẩn số 2 trên đất bồi đã ổn định gần ngã
ba rạch Cây Dừa - Tiểu khu 16, xã Thạnh Hải, khu BTTN đất ngập nước
Thạnh Phú
Người khảo sát: Phạm Thị Minh Chi
UChú thích:
Ngày khảo sát: 13/01/2007.
DS: Dạng sống; G: Gỗ lớn, Gn: Gỗ nhỏ, B: Cây bụi, DL: Dây leo, DX: Dương
xỉ, C: cỏ SL: Số lượng
H(m) TB/Max: Chiều cao cả ngọn, trung bình và lớn nhất.
154
2 Scp mP
P: Diện tích che phủ tính theo từng loài. MĐ/ha: Mật độ cây/1 ha.
H.DC(m) TB/Max: Chiều cao dưới cành, trung bình và lớn nhất.
SS: Sức sống; +++ (rất tốt), ++ (khá), + (trung bình).
155
Phụ lục 6: Các loài trên ô tiêu chuẩn số 3 ở bãi bồi phù sa lỏng gần Vàm
Rỏng - Tiểu khu 13, xã An Điền, khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú
Người khảo sát: Phạm Thị Minh Chi
Ngày khảo sát: 29/4/2007.
156
UChú thíchU:
DS: Dạng sống; G: Gỗ lớn, Gn: Gỗ nhỏ, B: Cây bụi, GB: Cây gỗ dạng bụi SL:
Số lượng
H(m) TB/Max: Chiều cao cả ngọn, trung bình và lớn nhất.
H.DC(m) TB/Max : Chiều cao dưới cành, trung bình và lớn nhất.
DI.3 >= 10 cm TB/Max: Đường kính ngang ngực lớn hơn hoặc bằng 10 em,
2 Scp mP
P: Diện tích che phủ tính theo từng loài.
trung bình và lớn nhất.
MĐ/ha: Mật độ cây/1 ha.
SS: Sức sống; +++ (rất tốt), ++ (khá), + (trung bình).
157
Phụ lục 7: Các loài trên ô tiêu chuẩn số 4 ở bãi bồi phù sa lỏng gần rạch
Tắt Bần - Tiểu khu 12, xã An Điền, khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú
Người khảo sát: Phạm Thị Minh Chi
U
U
UChú thíchU:
Ngày khảo sát: 29/4/2007.
DS: Dạng sống; G: Gỗ lớn, Gn: Gỗ nhỏ, B: Cây bụi, GB: Cây gỗ dạng bụi, DL:
Dây leo SL: Số lượng
H(m) TB/Max: Chiều cao cả ngọn, trung bình và lớn nhất.
H.DC(m) TB/Max: Chiều cao dưới cành, trung bình và lớn nhất.
DI.3 >= 10 cm TB/Max: Đường kính ngang ngực lớn hom hoặc bằng lo em,
2 Scp mP
P: Diện tích che phủ tính theo từng loài.
trung bình và lớn nhất.
MĐ/ha: Mật độ cây/ 1 ha.
SS: Sức sống; +++ (rất tốt), ++ (khá), + (trung bình).
158
Phụ lục 8: Các loài trên ô tiêu chuẩn số 5 ở bãi bồi phù sa lỏng ở cồn Hố
gần rạch Đùng, phía bờ tả sông Hàm Luông - xã An Thủy, huyện Ba Tri,
tỉnh Bến Tre.
Người khảo sát: Phạm Thị Minh Chi
U
UChú thíchU:
Ngày khảo sát: 7/5/2007.
DS: Dạng sống; G: Gỗ lớn, Gn: Gỗ nhỏ, B: Cây bụi, GB: Cây gỗ dạng bụi, DL:
Dây leo SL: Số lượng
H(m) TB/Max: Chiều cao cả ngọn, trung bình và lớn nhát.
H.DC(m) TB/Max: Chiều cao dưới cành, trung bình và lớn nhất.
DI .3 >= 10 cm TB/Max: Đường kính ngang ngực lớn hơn hoặc bằng 10 cm,
2 Scp mP
P: Diện tích che phủ tính theo từng loài. MĐ/ha: Mật độ cây/ 1 ha.
trung bình và lớn nhất.
SS: Sức sống; +++ (rất tốt), ++ (khá), + (trung bình).
159
Phu lục 9: Kết quả xử lý số liệu 30 ô tiêu chuẩn ở vùng ven biển cửa sông
Hàm Luông bằng phần mềm Primer5
160
UChú thíchU:
S: Tổng số loài
N: Tổng số cá thể
d: Chỉ số phong phú Margalef
J': Chỉ số tương đồng - Độ đồng đều
1-Lambda': Chi số đa dạng sinh học Simpson
❖Kết quả phân tích về số lượng loài (S):
Kết quả thống kê cho thấy, số lượng loài (S) biến động trên các ô tiêu chuẩn từ 2
đến 20 loài thực vật, trung bình trong mỗi ô tiêu chuẩn có khoảng từ 7 - 8 loài. Trong
đó, có 14 ô tiêu chuẩn có từ 8 loài trở lên, chiếm 47% trong tổng số 30 ô đo đếm. Qua
đó cho thấy rằng, độ giàu có của thành phần loài ừong vùng không cao. Đặc biệt, với
16 ô tiêu chuẩn còn lại chỉ có từ 2 - 6 loài, đây cũng là những quần xã Bần chua, Sú,
Mắm, Đước, Vẹt đặc trưng cho vùng đất bùn phù sa, những bãi bồi ven cửa sông ngập
nước triều lên xuống hàng ngày.
Có 3 ô có 2 loài là:
□Otc7 là rừng trồng cây Rhizophora apiculata Blume (Đước đôi) và Avicennia
marna (Forssk.) Vierh. (Mắm biển) - ở cồn Bửng, Tiểu khu 18.
□Otc11 là rừng khoanh nuôi tự nhiên Sonneratia caseolaris (L.) Engl. (Bần
chua) và Avicennia alba Bl. (Mắm trắng) -Tiểu khu 13.
□Otc20 là rừng khoanh nuôi tự nhiên Sonneratia caseolaris (L.) Engl. (Bần
chua) và Avicennia alba Bl. (Mắm trắng) -Tiểu khu 12.
❖Số lượng cá thể (N):
Số lượng cá thể (N) trong các ô đo đếm biến động từ 30 đến 616 cá thể, trung
bình có gần 96 cá thể, điều này cho thấy số lượng cá thể trong các quần xã có biến
động khá nhiều.
❖ Chỉ số Margalef (d):
Chỉ số Margalef (d) về độ phong phú loài biến động từ 0,27 đến 4,09; trung bình
161
là 1,58.
Có 3 ô có chỉ số Margalef thấp nhất (d = 0,27 ÷ 0,3) là các ô tiêu chuẩn 7, 11,
20; đại diện cho những kiểu RNM trên các bãi triều thấp đến trung bình như quần xã
Bần chua - Mắm trắng, Đước đôi - Mắm biển mà số loài hiện diện nghèo nàn chỉ với 2
loài. Ngược lại, 0tcl2 có độ phong phú loài (d = 4,09) cao nhất trong vùng xảy ra ở
kiểu rừng hôn giao trên đất côn cát ven biển - ở cồn Ông Lễ thuộc Tiểu khu 13 khu
BTTN đất ngập nước Thạnh Phú - với sự có mặt của 20 loài tạo thành quần xã với
một số loài cây gỗ như Avicennia officinalis L. (Mắm đen), Excoecaria agallocha L.
(Gia), Annona glabra L. (Bình bát), Hibiscus tiliaceus L. (Tra búp), Terminalian
catappa L. (Bàng biển), Casnarina equisetifolia J.R.Forst. & G.Forst. (Phi lao),
Calophyllum inophyllum L. (Mù u), 8 loài cây bụi, cỏ và 5 loài dây leo.
Có 12/30 ô tiêu chuẩn có chỉ số Margalef lớn hơn chỉ số trung bình (d = 1,58),
chiếm 40%.
Qua đó, cho thấy sự phong phú về loài trong các quần xã ở vùng ven biển cửa
sông Hàm Luông là tương đối thấp. Kết quả này cũng phù hợp, vì vùng ven cửa sông
là nơi đất chưa ổn định, quá trình thành tạo đất có sự biến động lớn do ảnh hưởng giao
tranh giữa các yếu tố môi trường; đặc biệt là động lực của dòng triều và dòng nước
ngọt luôn thay đổi hàng ngày, hàng mùa, hàng năm đã và đang tạo nên tóc độ bôi tụ -
xói lở thường xuyên thay đôi. Với những điều kiện môi trường luôn biển động, đầy
phức tạp như thế có lẽ cũng làm hạn chế phần nào sự phong phú về thành phần loài
nơi đây, nhưng lại sản sinh ra những loài thực vật đặc trưng cho vùng với những đặc
điểm thích nghi rất đặc sắc. Trong số đó, nổi bật ở sự thích nghi của hệ rễ cây RNM;
các loại rễ chống, rễ thở, bạnh gốc, rễ đầu gối phát triển mạnh, xu hướng lan rộng bao
khắp bề mặt vùng đất loãng bãi bồi có tác dụng như giá thể lắng tụ và ổn định các hạt
phù sa sông -biển, mang ý nghĩa sinh thái to lớn cho việc mở rộng vùng đông bằng
châu thổ.
❖Chỉ số đồng đều - tương đồng (J'):
Chỉ số đồng đều (J') biến động từ 0,18 đến 0,92; trung bình là 0,72. Trong đó, 20
ô tiêu chuẩn có độ đồng đều lớn hơn chỉ số đồng đều trung bình của các quần xã được
162
khảo sát, chiếm 67%. Điều này nói lên rằng, số lượng loài trong các ô khá đều nhau;
hay là trong phần lớn các quần xã sự ưu thế phân bố đều ở hầu hết các loài, trong
những quần xã như thế có khả năng tồn tại những loài hiếm; như ở ô tiêu chuẩn 21
(J'= 0,83) có loài hiếm gặp trong vùng là Xu ổi (Xylocarpus granatum Koen.) và ở ô
29 (J'= 0,63) có loài chỉ gặp lác đác vài cá thể như Bần ổi (Sonneratia ovata Backer).
Ngược lại, một vài quân xã có chỉ sô tương đông rất tháp; chỉ sô đông đều thấp
nhất xảy ra ở ô 20 (J'= 0,18), kế đến là ô 11 (J'= 0,32), ô 24 (J'= 0,33), ô 25 (J'= 0,43).
Trong nhóm những ô tiêu chuẩn có chỉ số tương đồng thấp hơn chỉ số tương đồng
trung bình, sự ưu thế chỉ tập trung vào 1 hay vài loài nhất định; như ô mẫu 20 và 11
chỉ có 1 loài ưu thế chiếm số lượng quan trọng là loài Bần chua (Sonneratia
caseolaris (L.) Engl.), ô 24 ưu thế tập trung vào 2 loài Ô rô trắng (Acanthus
ebracteatus Vahl.) và Cóc kèn nước (Derris trifoliata Lour.), ô 25 loài ưu thế là Mắm
trắng (Avicennia alba Blume), ô 26 (J'= 0,51) có loài dây leo thuộc họ Đậu đóng góp
rất lớn cho sinh khối rừng ngập nước nơi đây là Cóc kèn nước (Derris trifoliata
Lour.), thêm vào đó là quần xã Mắm biển (Avicennia marina (Forssk.) Vierh.) ở bãi
Trảng Lầy thuộc Dự án Wetland (cũng thuộc Khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú,
Tiểu khu 17) cũng được thể hiện trong nhóm này ở ô số 3 (J'= 0,61).
❖Chỉ số đa dạng sinh học Simpson (1-Lambda'):
Chỉ số ĐDSH Simpson biến động từ 0,05 đến 0,92; trung bình là 0,65. Trong đó,
21/30 ô tiêu chuẩn có chỉ số ĐDSH Simpson lớn hơn chỉ số ĐDSH Simpson trung
bình, chiếm 70%.
Chỉ số đa dạng sinh học Simpson càng lớn thì mức độ ưu thế loài càng thấp, chỉ
số tương đồng cao và ĐDSH càng cao; ô tiêu chuẩn 12 có chỉ số Simpson lớn nhất là
0,93 và độ giàu có về loài cao nhất là 20 loài với độ phong phú loài cao nhất d=4,09 là
hợp lí như đã phân tích ở trên vì ô 12 là quần xã hỗn giao diễn thế từ đất ngập mặn lên
đất cồn cát ven biển cao trung bình. Ồ 20 có chỉ số Simpson nhỏ nhất là 0,05 và độ
giàu có về loài thấp nhất là 02 loài, chỉ số tương đồng thấp nhất J'=0,27 với mức độ ưu
thế rất cao ở loài Bần chua trong rừng Bần trồng và khoanh nuôi tự nhiên ở Tiểu khu
12, xã An Điền.
163
♦ Chỉ số stess:
Trong các quần xã khảo sát có chỉ số stress là 0,17 ở mức chấp nhận được; chỉ
số stress càng nhỏ càng tốt. Chứng tỏ rằng mối quan hệ hữu cơ trong các quân xã này
còn khá chặt chẽ, môi quan hệ cạnh tranh giữa các cá thể, các loài được điều hòa cân
bằng, các quần xã vẫn còn xu thế thích nghi khá tốt với điều kiện môi trường tự nhiên
luôn biến động của vùng cửa sông ven biển, cũng như những hoạt động sinh sống của
cư dân trong vùng làm gia tăng sự biển động tự nhiên của môi trường là có diễn ra
nhưng chưa đáng báo động.
Vì lí do trên, các cấp quản lý nơi đây cần có biện pháp họp lí, kịp thời nhằm hạn
chế tối đa những tác động làm biến đổi môi trường sống theo chiều hướng bất lợi; đặc
biệt tuyệt đối không được tác động cơ giới lên vùng đất này như dùng cô-be, sán cạp
để đào, khoét vuông tôm hay xây đắp đê biển quá gần sát vùng đất bồi tụ đang đi vào
xu thế ổn định, hoặc có cao trình bồi - xói lở hàng năm cao.
Bên cạnh đó, chúng ta cần đảm bảo cho các quần xã RNM tồn tại trong môi
trường đất ngập nước triều lên xuống hàng ngày và môi trường đất, nước không bị ô
nhiễm bởi các chất độc hóa học dư thừa từ các hoạt động sản xuất nuôi trồng thủy hải
sản; tạo điều kiện sống sót tối đa cho các nhóm loài thực vật lẫn động vật nơi đây;
cũng cần lưu ý về sự sinh trưởng, phát triển, phát tán hạt và cây con, xu thế mở rộng
diện tích quân tụ của những loài cây ngập mặn phụ thuộc rất lớn vào dòng chảy thủy
triều, đặc biệt rất thuận lợi ở chế độ bán nhật triều không đều của vùng Nam Bộ nước
ta [16, tr.7].
Tóm lại, vì sự phát triên lâu dài của vùng đông bằng châu thổ, vì sự tôn tại bền
vững và phát triển chung của các vùng ven biển tỉnh Bến Tre, vì giá trị quý báu về
tiềm năng ĐDSH, du lịch sinh thái của Khu BTTN đất ngập nước Thạnh Phú nói
riêng, chúng ta không nên vì lợi ích kinh tế tức thời trong một vài năm mà có những
hành vi làm hạn chê sinh trưởng, phát triên lâu dài của thành phân loài và thảm thực
vật cũng là nơi trú ân, ương nuôi tự nhiên của nhiêu loài động vật có giá trị kinh tế cao
quanh vùng cửa sông này.
164
165
Qua biểu đồ cho thấy các quần xã tự nhiên ở mức tương đồng 30% được gộp
thành 7 nhóm như sau:
Nhóm quần xã thứ nhất có 1 ô tiêu chuẩn: 7. □
Nhóm quần xã thứ hai có 2 ô tiêu chuẩn: 1 và 29. □
Nhóm quần xã thứ ba có 2 ô tiêu chuẩn: 12 và 30. □
Nhóm quần xã thứ tư có 1 ô tiêu chuẩn: 26. □
Nhóm quần xã thứ năm có 8 ô tiêu chuẩn: 15, 21,22, lo, 2, 8, 6 và 9. □
Nhóm quần xã thứ sáu có 6 ô tiêu chuẩn: 14, 24, 13, 4, 5 và 16. □
Nhóm quần xã thứ bảy: 10 ô tiêu chuẩn còn lại. □
Ở mức tương đồng 30%, những nhóm quần xã có ít số otc sẽ được ưu tiên bảo
tồn, phát triển để có số lượng, diện tích đủ lớn.
Qua các số liệu thống kê các chỉ số ĐDSH, phân tích Cluster, MDS cho thây các
quân xã tự nhiên ở mức tương đông 30% được phân thành 7 nhóm quân xã chính:
Nhóm thứ nhất: Mắm biển, Đước đôi. □
Nhóm thứ hai: Mắm trắng, Mắm biển, Bần đắng, Hải châu ... □
Nhóm thứ ba: quần xã hỗn giao Tra hụp, Gia, Cóc kèn nước, Me nước, □
Dây vác, Lõa hùng ...
Nhóm thứ tư: Mắm đen, Cóc kèn nước, Me nước ... □
Nhóm thứ năm: Mắm đen, Xu sung, Dà quánh ... □
Nhóm thứ sáu: Bần chua, Cóc kèn nước, Ô rô trắng ... □
Nhóm thứ bảy: Bần chua, Mắm trắng, Trang, Dừa nước, Sú ... □
Như vậy, chúng ta cần quan tâm đến các nhóm quần xã thứ nhất, thứ tư, thứ hai,
thứ ba; trong mỗi nhóm quần xã này chỉ có 1 hoặc 2 ô tiêu chuẩn.
Trong nhóm thứ nhất có 1 ô tiêu chuẩn là 0tc7 mà chỉ số Margalef (d) phong phú
về loài là rất thấp; đây là quần xã Mấm biển trong vuông tôm sinh thái gần khu vực
rừng Mắm biển tự nhiên thuộc Dự án Wetland (cũng thuộc Tiểu khu 17 Khu BTTN
166
đất ngập nước Thạnh Phú), nếu quần xã này phát triển trong môi trường tự nhiên
không bị bao đê, giữ nước để nuôi tôm thì độ đa dạng về loài ở ô tiêu chuẩn này sẽ
tăng lên rõ rệt như otc1 (thuộc Dự án Wetland).
Trong nhóm quần xã thứ tư có 1 ô tiêu chuẩn là 0tc26; quần xã này đặc biệt có
độ phong phú về loài thấp, độ đồng đều giữa các loài rất thấp; quần xã này có dấu hiệu
bị thoái hóa, các cây gỗ lớn như Bần chua và Mắm đen bị giảm số lượng thay vào đó
là sự phát triển mạnh của các loài thân bụi thấp bé như Cóc kèn nước, Me nước, Ô rô
tím với sự ưu thế tập trung ở loài dây leo họ Đậu là Cóc kèn nước (Derris trifoliata
Lour.). Trên thực tế, quần xã này có môi trường sống đất phù sa đã được nâng cao dần
lên chỉ bị ngập bởi con nước triều cao (phía trong cồn Ông Lễ, Tiểu khu 13 Khu
BTTN đất ngập nước Thạnh Phú) nên loài Bần chua thưa dần, loài Mắm đen vẫn tiếp
tục phát triển hơn, nhưng do có sự tác động của con người đến để khai thác củi, cắt
Cóc kèn về làm thức ăn cho gia súc như dê, bò, trâu... làm cho quần xã càng thưa thớt
và loài dây leo có cơ hội phát triển mạnh. Quần xã này đang ở trong giai đoạn diễn thế
thích nghi với sự thay đổi của môi trường sống từ bãi bồi thấp lên đất thịt chặt, cao
cũng rất nhạy cảm với sự tác động của con người, nêu khai thác quá mức thì quân xã
cây gỗ ở đây sẽ nhanh chóng diễn thế sang trảng dây leo, bụi cỏ với chức năng bảo vệ,
che chăn đất rất tháp.
Trong nhóm thứ hai có 2 ô tiêu chuẩn là otcl và 0tc29. Otcl có chỉ số phong phú
Margalef (d) gần mức trung bình, nhưng tính tương đồng ở các loài không cao, sự ưu
thế tập trung vào loài Mắm biển (Avicennia marina (Forssk.) Vierh.) phát triển trên
bãi bùn phù sa với tỉ lệ sét, cát cao; nằm khuất phía trong cách biển bởi rạch cồn Bủng
và một cồn cát cao lớn là cồn Bừng; đây là bãi Trảng Lầy thuộc Dự án Wetland ngập
nước triều hàng ngày, tốc độ truyền triều rất nhanh vì sát biển, độ ngập triều cao vì là
bãi thấp. Thêm vào đó, đường bờ biển phía ngoài cồn Bủng đang có hiện tượng biển
xâm thực mạnh từ 15 năm nay, tốc độ xói lở rất mạnh; theo người dân trong vùng thì
từ năm 1997 đến nay đường bờ lở vào phía ương khoảng 8-9 km, trung bình mỗi năm
phần đất liền nơi đây bị dòng triều cuốn đi gần 1 km hướng sâu vào trong . Vì những
điều kiện tự nhiên biến động phức tạp như trên, thảm thực vật Mắm biển phía trong,
trên bãi Trảng Lầy nếu được bảo tồn đúng mức, sẽ mang lại tác dụng sinh thái to lớn,
167
làm giảm tốc độ truyền triều sâu vào phần đất bên trong, hạn chế xói lở; có thể ví 105
hécta rừng Mắm biển trên bãi Trảng Lầy nơi đây như là một dãy đê biển xanh vô giá
mà tạo hóa đã ban tặng cho vùng. Otc29 có chỉ số Margalef (d) trên chỉ số trung bình,
nhưng độ tương đồng về loài thấp, sự ưu thế ở loài cỏ nước mặn (Paspalum
vaginatum Sw.) và loài Mắm trắng (Avicennia alba Blume), đặc biệt trong ô tiêu
chuẩn này có một loài hiếm gặp là Bần ổi (Sonneratia ovata Backer) cần được quan
tâm bảo tồn.
Trong nhóm quần xã thứ ba, có 2 ô tiêu chuẩn là otcl2 và Otc30. Cả hai ô tiêu
chuẩn này có chỉ số phong phú loài Margalef (d) và độ đồng đều về loài cao hơn cả
trong số 30 otc, nên sự quan tâm bảo vệ để các quần xã này phát triển rộng thêm là hết
sức cần thiết vì có giá trị ĐDSH cao; ngoài ra 0tcl2 trên cồn cát ven cửa sông có loài
hiếm gặp là Bàng biển (Terminalia catappa L.), Otc30 trên vùng đất chặt ngập nước
triều cao có loài hiếm gặp là Mướp xác vàng (Cerbera odollam Gaertn.).
Thể hiện mức độ đa dạng bên trong, phân bố đường cong càng thấp thì tính đa
2 độ phong phú cho biêt sô lượng loài trên môi ô tiêu chuân 100mP
P. Từ đồ thị ta thấy:
dạng càng cao, mức độ phong phú loài trong quần xã càng lớn. Trong nghiên cứu này,
168
Trong 30 ô nghiên cứu, ô 12 có độ phong phú cao nhất và ô 20 có độ phong phú thấp
nhất. Như vậy, có thể kết luận quần xã 12 (Tra bụp, Bình bát, Cóc kèn nước, Me
nước, Dây vác, Lõa hùng ...) có mức ĐDSH cao hơn hẳn và quần xã 20 (rừng trồng
Bần chua xen rất ít Mắm trắng) có mức ĐDSH kém nhất so với các quần xã khác
trong khu vực.
169
Qua biểu đồ phân tích Cluster, MDS cho thấy các nhóm loài tương đồng ở mức
30% được gộp thành 16 nhóm như sau:
Nhóm 1 có 1 loài: mang mã số 20 (Đưng). □
Nhóm 2 có 1 loài: 45 (Dây cám). □
Nhóm 3 có 1 loài: 14 (Sú). □
Nhóm 4 có 2 loài: 4,49 (Mái dầm, Lác nước). □
Nhóm 5 có 2 loài: 1, 26 (Ô rô trắng, Cóc kèn nước). □
Nhóm 6 có 4 loài: 21, 6, 5,23. □
Nhóm 7 có 2 loài: 22, 51 (Bần trắng, San sát). □
Nhóm 8 có 2 loài: 2, 42 (Ô rô tím, cỏ phao). □
Nhóm 9 có 2 loài: 3, 8 (Hải châu, Mắm biển). □
170
□ Nhóm 10 có 9 loài: 30, 32, 25, 48,40, 44, 50, 9, 29.
□ Nhóm 11 có 7 loài: 36, 35, 41, 37, 39, 38, 43.
□ Nhóm 12 có 10 loài: 19, 7, 18, 13, 28, 15, 27, 31, 11, 33.
□ Nhóm 13 có 2 loài: lo, 24 (Cóc trắng, Bần ổi).
□ Nhóm 14 có 1 loài: 12 (Xu ổi).
□ Nhóm 15 có 1 loài: 16 (Vẹt trụ).
□ Nhóm 16 gồm 4 loài còn lại: 17, 34,46,47.
Ở mức tương đồng 30%, những nhóm nào có ít số loài sẽ được ưu tiên bảo tồn,
phát triển để có số lượng cá thể, diện tích phân bố đủ lớn nhằm tránh sự mất đi những
loài này trong khu vực.
Như vậy, chúng ta cần quan tâm đến các nhóm loài thứ 1, 2, 3, 14, 15; trong mỗi
nhóm này chỉ có 1 loài.
Nhóm 1 là loài Rhizophora mucronata Poir. (Dưng), họ Rhizophoraceae (Đước).
Loài cây này có mặt trong rừng sát ở Bến Tre từ lâu đời nhưng tò khi có chủ trương
toong loài Đước đôi (Rhizophora apiculata Blume) nguồn giống từ Cà Mau mang lên,
vì mục đích kinh tế rừng Đước đôi nơi đây được mở rộng diện tích khá nhanh, khu
vực sống tự nhiên của loài Dưng dần dần bị thu hẹp. Thêm vào đó, các khu bao đê
nuôi tôm sinh thái mọc lên ngày càng nhiều, bao trùm hầu hết vùng RNM ven biển
nơi đây đã gây hạn chế lớn đến sự phát tán giống theo dòng triều ra vào hàng ngày của
các loài cây ngập mặn trong đó có loài Đưng. Cũng cần đặc biệt quan tâm đến loài
này vì đặc điểm di truyền ở trụ mầm quá lớn; lớn và nặng nhất ừong các loài họ Đước;
nên chính bản thân nó cũng đã gặp khó khăn ương sự di chuyển trụ mầm nhờ dòng
ừiều, mở rộng diện tích để duy trì nòi giống.
Nhóm 2 là loài Sarcolobus globosus Wall. (Dây cám) họ Asclepiadaceae (Thiên
lý). Loài Dây cám có phân bố hẹp, chỉ gặp trong một khoảng nhỏ trên bãi bồi cao của
khu rừng Bân chua ở Tiêu khu 12, An Điền.
Nhóm 3 là loài Aegiceras corniculatum (L.) Blanco (Sú), họ Myrsinaceae (Đơn
nem). Loài này mọc rãi rác trên bãi bồi phù sa lỏng dưới tán rừng Bần chua, Mắm.
171
Loài sú có kích thước nhỏ chỉ cao đến 3m, thường được người dân dùng làm củi. Đặc
biệt loài này có bông rất thơm, nêu được quan tâm bảo tôn đúng mức ; cấm chặt phá
cây rừng dù loài có kích thước to hay nhỏ và tổ chức gây trồng; thì chẳng những bảo
vệ được sự ĐDSH mà còn có thể phát triển nghề nuôi ong ròng lấy mật nhằm cải tạo
thêm chất lượng thực phẩm, đảm bảo tăng cường sức khỏe cho cư dân trong vùng.
Nhóm 14 là loài Xylocarpus granatum Koen. (Xu ổi), họ Meliaceae (Xoan). Loài
này chỉ gặp vài cá thể trên thể nền đất mặn chặt ở Tiểu khu 15, xã Thạnh Hải.
Nhóm 15 là loài Bruguiera cylindrica (L.) Blume (Vẹt Trụ), họ Rhizophoraceae
(Đước). Loài Vẹt trụ chỉ gặp dăm bảy cá thê ở Tiêu khu 15, 16, xã Thạnh Hải. Cả hai
loài Xu ổi và Vẹt trụ cũng có số phận giống như loài Dưng về khu vực sống của chúng
nằm ương vùng nuôi tôm sinh thái nên khả năng phát tán giống bị hạn chế tối đa, cây
con tái sinh có sức sống kém hoặc không thể nảy mầm như ở Xu ổi. Nếu chậm được
quan tâm bảo vệ, trong tương lai không xa RNM ở đây sẽ mất đi những loài ngập mặn
chính thức quan trọng này.
172