BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108 -----------------------------------------
PHẠM DIỄM THÚY
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ THAY ĐỔI MIỄN DỊCH VÀ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH VẢY NẾN THÔNG THƯỜNG BẰNG UỐNG METHOTREXATE KẾT HỢP CHIẾU TIA CỰC TÍM DẢI HẸP (UVB-311NM)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI – 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108 ------------------------------------------------------- PHẠM DIỄM THÚY NGHIÊN CỨU MỘT SỐ THAY ĐỔI MIỄN DỊCH VÀ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH VẢY NẾN THÔNG THƯỜNG BẰNG UỐNG METHOTREXATE KẾT HỢP CHIẾU TIA CỰC TÍM DẢI HẸP(UVB-311 NM) Chuyên ngành: Da liễu Mã số: 9720107 LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. ĐẶNG VĂN EM 2. PGS.TS. LÝ TUẤN KHẢI
HÀ NỘI – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
1. Đây là luận án do tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của 2 Thầy:
- PGS.TS Đặng Văn Em
- PGS.TS Lý Tuấn Khải
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã được công bố
tại Việt Nam
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung thực và
khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi nghiên cứu
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2020
Tác giả
Phạm Diễm Thúy
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện thành công luận án, trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến hai Thầy hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Văn Em và PGS.TS Lý Tuấn Khải
đã định hướng cho tôi từ những ngày đầu tiên lựa chọn đề tài nghiên cứu, truyền
dạy cho tôi, giúp đỡ, hỗ trợ cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để tôi
hoàn thành luận án này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành tới:
Ban Giám đốc, Phòng Sau Đại học, Bộ môn-Khoa Da liễu dị ứng, Khoa Hóa
nghiệm, Khoa Sinh hóa của Viện Nghiên cứu khoa học Y Dược lâm sàng 108 đã
tiếp nhận và tạo mọi điều kiện cho tôi thực hiện các nội dung luận án.
Ban Giám đốc Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kiên Giang đã tạo điều kiện cho tôi
được làm nghiên cứu sinh tại Viện NCKHYDLS108.
Trung tâm nghiên cứu ứng dụng Y dược học Quân sự-Học viên Quân y và
TS.BS Đỗ Khắc Đại đã tận tình giúp đỡ tôi trong thực hiện các xét nghiệm miễn
dịch.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn TS.BS Bùi Thị Vân, TS.BS Lê Anh Tuấn và
các Thầy Cô trong chuyên ngành Da liễu đã luôn dạy bảo, giúp đỡ và tạo điều kiện
cho tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu này.
Tôi bảy tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới các bệnh nhân vảy nến đã đồng ý
tham gia nghiên cứu để tôi thực hiện được nghiên cứu này.
Cuối cùng, tôi cảm ơn chân thành các bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã
luôn đồng hành, động viên và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập
và thực hiện luận án.
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2020
Phạm Diễm Thúy
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Antigen presenting cell Tế bào trình diện kháng nguyên APC
Alanine Aminotransferase ALT
Aspartate Aminotransferase AST
BB-UVB Broadband Ultraviolet B Tia UVB phổ rộng
CLA Cutaneous lymphocyte-associated Kháng nguyên liên quan lympho da
antigen
Cluster of differentiation CD
Dendritic cell Tế bào đuôi gai DC
Dermatology life quality index Chỉ số chất lượng cuộc sống da liễu DLQI
Food and Drug Administration Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm FDA
Hoa Kỳ
HLA Human Leucocyte Antigen Kháng nguyên bạch cầu ở người
ICAM-1 Intercellular Adhesion Molecule 1 Phân tử liên kết tế bào nhóm 1
IFN-γ Interferon-γ
IL Interleukin Kháng nguyên KN
KT Kháng thể Janus kinase JAK
Lymphocyte function-associated Kháng nguyên liên quan lymho LFA
antigen
Liều đỏ da tối thiểu MED Minimal erythema dose
Major Histocompatability complex MHC Phức hợp phù hợp mô chính Methotrexate MTX
NB-UVB Tia UVB dải hẹp Narrowband ultraviolet B Nhóm nghiên cứu NNC
Nhóm đối chứng NĐC
Nhóm người khỏe NNK
Physician’s Global Assessment Đánh giá của bác sĩ PGA
Psoriasis Area and Severity Index Chỉ số độ nặng và diện tích vảy nến PASI
PUVA Psoralen + Ultraviolet A Psoralen kết hợp UVA
TCD4 T Helper Tế bào T hỗ trợ
TCD8 T suppressor T ức chế
Th1 T helper 1 Tế bào lympho T hỗ trợ 1
Th17 T helper 17 Tế bào lympho T hỗ trợ 17
TNF Tumor Necrosis Factors Yếu tố hoại tử u
UVA Ultraviolet A Tia cực tím bước sóng A
UVB Ultraviolet B Tia cực tím bước sóng B
UVC Ultraviolet C Tia cực tím bước sóng C
VNTT Vảy nến thông thường
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH
ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………………………1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ..................................................................... 3
1.1. Bệnh vảy nến thông thường ............................................................................... 3
1.1.1. Dịch tễ học bệnh vảy nến ............................................................................. 3
1.1.2. Đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông thường .......................................... 4
1.1.3. Sinh bệnh học bệnh vảy nến thông thường .................................................. 5
1.2. Vai trò TCD và cytokine trong bệnh vảy nến thông thường ........................... 21
1.2.1. Vai trò TCD4, TCD8 trong bệnh VNTT ................................................... 22
1.3. UVB-311nm và methotrexate trong điều trị bệnh vảy nến ............................. 29
1.3.1. UVB-311nm trong điều trị bệnh vảy nến thông thường ............................ 29
1.4.2. Nghiên cứu điều trị bệnh VNTT bằng MTX kết hợp chiếu UVB-311nm
trên Thế giới và Việt Nam ................................................................................... 36
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................... 38
2.1. Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................... 38
2.1.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán ................................................................................ 38
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân ....................................................................... 38
2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ ..................................................................................... 39
2.2. Vật liệu nghiên cứu .......................................................................................... 40
2.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 42
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu ................................................................................... 43
2.3.2. Cỡ mẫu nghiên cứu .................................................................................... 43
2.3.3. Các bước tiến hành .................................................................................... 44
2.3.4. Các chỉ số, biến số trong nghiên cứu ......................................................... 47
2.3.5. Các kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu ..................................................... 48
2.3.6. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả điều trị......................................................... 52
2.3.7. Xử lý số liệu ............................................................................................... 54
2.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ................................................................... 54
2.4.1. Địa điểm nghiên cứu .................................................................................. 54
2.4.2. Thời gian nghiên cứu ................................................................................. 55
2.5. Đạo đức nghiên cứu ......................................................................................... 55
2.6. Hạn chế của đề tài ............................................................................................ 55
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................. 57
3.1. Một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến ......................... 57
3.1.1. Một số yếu tố liên quan đến bệnh vảy nến ................................................ 57
3.1.2. Một số đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến ................................................... 61
3.2. Kết quả xét nghiệm miễn dịch trong máu của bệnh nhân VNTT mức độ vừa
và nặng trước và sau điều trị của NNC .................................................................. 64
3.2.1. Kết quả TCD4, TCD8 máu ngoại vi của bệnh nhân VNTT mức độ vừa và
nặng của NNC ...................................................................................................... 64
3.2.2. Kết quả định lượng các cytokine huyết thanh bệnh nhân VNTT mức độ
vừa và nặng của NNC .......................................................................................... 66
3.3. Kết quả điều trị bệnh VNTT mức độ vừa và nặng bằng uống MTX liều thấp
kết hợp chiếu UVB-311nm ..................................................................................... 73
3.3.1. Đặc điểm cá nhân của 2 nhóm ................................................................... 73
3.3.2. Kết quả điều trị của nhóm nghiên cứu ....................................................... 73
3.3.3. Kết quả điều trị của nhóm đối chứng ......................................................... 78
3.3.4. So sánh kết quả điều trị của 2 nhóm .......................................................... 82
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ........................................................................................ 84
4.1. Một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến ......................... 84
4.1.1. Một số yếu tố liên quan đến bệnh vảy nến ................................................ 84
4.1.2. Một số đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến ................................................... 96
4.2. Kết quả xét nghiệm miễn dịch trong máu bệnh nhân VNTT mức độ vừa và
nặng của NNC ........................................................................................................ 99
4.2.1. Kết quả TCD4, TCD8 trong máu của NNC .............................................. 99
4.2.2. Kết quả định lượng cytokine trong máu của NNC .................................. 101
4.3. Kết quả điều trị bệnh VNTT mức độ vừa và nặng bằng uống Methotrexate
liều thấp kết hợp chiếu UVB-311nm .................................................................... 106
4.3.1. Đặc điểm cá nhân của 2 nhóm ................................................................. 106
4.3.2. Kết quả điều trị của nhóm nghiên cứu ..................................................... 106
4.3.3. Kết quả điều trị của nhóm đối chứng ....................................................... 110
4.3.4. So sánh kết quả điều trị của 2 nhóm ........................................................ 112
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 115
KIẾN NGHỊ………………………………………………………………………117
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Phân bố bệnh nhân mắc vảy nến theo nhóm tuổi ..................................... 57
Bảng 3.2. Phân bố bệnh nhân mắc vảy nến theo mùa ............................................... 60
Bảng 3.3. Các bệnh kết hợp gặp trong bệnh vảy nến ................................................ 60
Bảng 3.4. Một số yếu tố khởi động gặp trong bệnh vảy nến .................................... 61
Bảng 3.5. Các thể lâm sàng của bệnh vảy nến .......................................................... 62
Bảng 3.6. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu ............................................................... 64
Bảng 3.7. Kết quả số lượng TCD4, TCD8 trong máu bệnh nhân VNTT ................. 64
Bảng 3.8. Liên quan giữa số lượng TCD4 với mức độ bệnh .................................... 65
Bảng 3.9. Liên quan giữa số lượng TCD8 với mức độ bệnh .................................... 65
Bảng 3.10. Liên quan giữa TCD4 với giới tính ......................................................... 66
Bảng 3.11. Liên quan giữa TCD8 với giới tính ........................................................ 66
Bảng 3.12. Đặc điểm cá nhân của 2 nhóm ................................................................ 67
Bảng 3.13. So sánh nồng độ cytokine trước điều trị của NNC với NNK ................. 67
Bảng 3.14. So sánh nồng độ cytokine trước điều trị của NNC mức vừa với NNK .. 68
Bảng 3.15. So sánh nồng độ cytokine trước điều trị của NNC mức nặng với NNK 68
Bảng 3.16. So sánh nồng độ cytokine giữa các mức độ bệnh của NNC................... 69
Bảng 3.17. Liên quan giữa nồng độ cytokine với giới tính của NNC ...................... 69
Bảng 3.18. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine với nhóm tuổi của NNC ............. 70
Bảng 3.19. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine với tuổi bệnh của NNC .............. 70
Bảng 3.20. So sánh nồng độ cytokine sau điều trị của NNC và NNK ..................... 71
Bảng 3.21. So sánh nồng độ cytokine trước-sau điều trị của NNC .......................... 71
Bảng 3.22. So sánh cytokine trước-sau điều trị mức độ vừa của NNC .................... 72
Bảng 3.23. So sánh cytokine trước-sau điều trị mức độ nặng của NNC .................. 72
Bảng 3.24. So sánh đặc điểm cá nhân của 2 nhóm nghiên cứu ................................ 73
Bảng 3.25. Kết quả điều trị của NNC theo mức độ bệnh ......................................... 75
Bảng 3.26. Kết quả điều trị của NNC theo tuổi bệnh ............................................... 76
Bảng 3.27. Kết quả điều trị của NNC theo tuổi đời .................................................. 76
Bảng 3.28. Kết quả xét nghiệm máu trước và sau điều trị của NNC ........................ 76
Bảng 3.29. Tỷ lệ tái phát sau điều trị của NNC ........................................................ 77
Bảng 3.30. Kết quả điều trị của NĐC theo mức độ bệnh ......................................... 79
Bảng 3.31. Kết quả điều trị của NĐC theo tuổi bệnh ............................................... 80
Bảng 3.32. Kết quả điều trị của NĐC theo tuổi đời .................................................. 80
Bảng 3.33. Kết quả xét nghiệm máu trước và sau điều trị của NĐC ........................ 80
Bảng 3.34. Tỷ lệ tái phát sau điều trị của NĐC ....................................................... 81
Bảng 3.35. So sánh chỉ số PASI của 2 nhóm trước và sau điều trị ........................... 82
Bảng 3.36. So sánh tác dụng không mong muốn trên lâm sàng của 2 nhóm ........... 83
Bảng 3.37. So sánh tỷ lệ tái phát của 2 nhóm sau 1 tháng ........................................ 83
Bảng 3.38. So sánh tỷ lệ tái phát của 2 nhóm sau 2 tháng ........................................ 83
Bảng 3.39. So sánh tỷ lệ tái phát của 2 nhóm sau 3 tháng ........................................ 83
Biểu đồ 3.1. Phân bố bệnh nhân mắc vảy nến theo tuổi khởi phát………...………57
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.2. Phân bố về thời gian bị bệnh của bệnh nhân vảy nến .......................... 58
Biểu đồ 3.3. Phân bố bệnh nhân mắc vảy nến theo giới ........................................... 58
Biểu đồ 3.4. Phân bố bệnh nhân mắc vảy nến theo nghề nghiệp .............................. 59
Biểu đồ 3.5. Tiền sử gia đình trong bệnh vảy nến .................................................... 59
Biểu đồ 3.6. Vị trí tổn thương lúc khởi phát bệnh .................................................... 61
Biểu đồ 3.7. Vị trí tổn thương hiện tại ...................................................................... 62
Biểu đồ 3.8. Các thể lâm sàng bệnh vảy nến thông thường ...................................... 63
Biểu đồ 3.9. Phân bố mức độ bệnh vảy nến .............................................................. 63
Biểu đồ 3.10. Thay đổi chỉ số PASI theo tuần của NNC .......................................... 74
Biểu đồ 3.11. Kết quả điều trị của NNC theo mức độ đánh giá theo tuần ................ 75
Biểu đồ 3.12. Tỷ lệ gặp tác dụng không mong muốn trên lâm sàng của NNC ........ 77
Biểu đồ 3.13. Thay đổi chỉ số PASI theo tuần của nhóm đối chứng ........................ 78
Biểu đồ 3.14. Kết quả điều trị của NĐC theo mức độ đánh giá theo tuần ................ 79
Biểu đồ 3.15. Tỷ lệ gặp tác dụng không mong muốn trên lâm sàng của NĐC ........ 81
Biểu đồ 3.16. So sánh kết quả điều trị theo mức độ đánh giá của 2 nhóm ............... 82
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1.1. Quan niệm về sinh bệnh học vảy nến theo thời gian ............................... 11
Hình 1.2. Cytokine điều tiết biệt hóa tế bào TCD4 ra các tập con chức năng .......... 12
Hình 1.3. Mô hình hiện tại của sinh bệnh học bệnh vảy nến .................................... 15
Hình 1.4. Sinh bệnh học bệnh vảy nến hiện nay ....................................................... 16
Hình 1.5. Vai trò của các yếu tố viêm trong bệnh vảy nến ....................................... 23
Ảnh 2.1. Đóng gói Methotrexate .............................................................................. 40
Ảnh 2.2: Bộ kit xét nghiệm 7 cytokine ..................................................................... 41
Ảnh 2.3. Kit xét nghiệm cytokine IL-17 ................................................................... 41
Ảnh 2.4. Hệ Thống Bio-Plex xét nghiệm cytokine ................................................... 42
Ảnh 2.5: Bộ đèn UVB-311nm tại Khoa Da liễu-Dị ứng, BVTƯQĐ 108 ................ 42
Ảnh 2.6. Kết quả xét nghiệm các CD ....................................................................... 49
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh vảy nến là bệnh viêm mạn tính, gặp mọi lứa tuổi, mọi giới, khắp mọi
châu lục. Tỷ lệ bệnh vảy nến trong cộng đồng chiếm 1-5% dân số thế giới [1],[2] và
từ năm 1970 đến năm 2000, tỷ lệ người mắc vảy nến tăng lên gấp đôi [3]. Tại Việt
Nam, chưa có nghiên cứu rộng và chính xác trong cộng đồng dân cư mà chỉ có tỷ lệ
bệnh nhân vảy nến điều trị nội trú tại phòng khám chiếm 6,44% [4] và tỷ lệ bệnh
vảy nến điều trị nội trú tại Khoa Da liễu dị ứng - Bệnh viện Trung ương Quân đội
108 từ năm 2000 đến 2010 chiếm 9,8% tổng số bệnh da [5]. Lâm sàng bệnh vảy nến
là các mảng cộm đỏ trên có nhiều vảy với kích thước khác nhau, ranh giới rõ với
vùng da lành. Tổn thương hay khu trú ở các vùng tỳ đè và đối xứng [6],[7]. Bệnh
vảy nến có hai tuýp [6],[8] và hai thể lâm sàng gồm vảy nến thông thường chiếm
85-90% và vảy nến đặc biệt chiếm 10-15% [6],[9]. Bệnh ảnh hưởng rất nhiều đến
chất lượng cuộc sống, là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Bệnh kết hợp như bệnh
tim mạch, đột quị... làm cho bệnh càng trầm trọng thêm, có thể gây suy giảm sức
lao động, gây tàn phế, thậm chí tử vong [10].
Sinh bệnh học bệnh vảy nến thông thường (VNTT) vẫn chưa sáng tỏ hoàn
toàn nhưng đến nay đa số các tác giả đồng thuận là bệnh vảy nến có cơ địa di truyền
(vảy nến tuýp I), có cơ chế tự miễn với những rối loạn miễn dịch và được khởi động
bởi một số yếu tố như stress, chấn thương da, nhiễm khuẩn khu trú, một số thuốc,
thời tiết khí hậu, nội tiết...[2],[7],[11]. Rối loạn miễn dịch trong bệnh vảy nến, được
thể hiện rõ là có nhiều cytokine tăng cao ở bệnh nhân vảy nến, đặc biệt là các
cytokine Th1/Th17 [12],[13]. Chính các cytokine này đóng vai trò duy trì và tạo nên
hai đặc tính quan trọng của bệnh vảy nến là tăng sản các tế bào thượng bì và viêm
[12]. Trục IL-23/Th17 đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh vảy nến, ức
chế trục này đem lại nhiều kết quả trong điều trị [12].
Chiến lược điều trị bao gồm giai đoạn tấn công và giai đoạn duy trì, với các
thuốc tại chỗ, toàn thân và quang, quang hóa, cùng với chiến lược dùng thuốc đơn
độc, kết hợp luân chuyển và kế tiếp đã mang lại hiệu quả điều trị và hạn chế tác
dụng không mong muốn của thuốc. Methotrexate (MTX) đến nay vẫn là tiêu chuẩn
2
vàng trong điều trị bệnh vảy nến [6],[14],[15], mặc dù có một số tác dụng phụ [16].
MTX là một chất đối kháng acid folic, ức chế tăng sinh trực tiếp các tế bào thượng
bì, MTX còn có tác dụng chống viêm mạnh, ức chế tăng sinh gián tiếp thông qua
vai trò giảm nồng độ các cytokine [15],[17]. Điều trị bệnh vảy nến bằng chiếu tia
cực tím dải hẹp (UVB-311nm) có hiệu quả làm sạch tổn thương nhanh, giảm nồng
độ một số cytokine, thời gian tái phát kéo dài, ít tác dụng không mong muốn
[18],[19],[20]. Kết hợp MTX và chiếu tia cực tím UVB-311nm là phương pháp điều
trị có hiệu quả, giảm được liều MTX. Tại Việt Nam, đến nay chưa có công trình nào
công bố kết quả định lượng cytokine trước và sau điều trị bệnh VNTT bằng uống
MTX kết hợp chiếu UVB-311nm. Do vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
một số thay đổi miễn dịch và hiệu quả điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng
uống Methotrexate kết hợp chiếu tia cực tím dải hẹp (UVB-311nm)”.
1. Khảo sát một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến tại
Khoa Da liễu - Dị ứng BVTƯQĐ 108 từ 8/2015 - 5/2018.
2. Xác định một số thay đổi miễn dịch trong máu (TCD4, TCD8 và IL-2, IL-
4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17, TNF- α, INF-γ) của bệnh nhân vảy nến thông thường
mức độ vừa và nặng trước và sau điều trị bằng uống Methotrexate kết hợp chiếu tia
cực tím dải hẹp (UVB-311nm).
3. Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh vảy nến thông thường mức độ vừa và
nặng bằng uống Methotrexate kết hợp chiếu tia cực tím dải hẹp (UVB-311nm).
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Bệnh vảy nến thông thường
1.1.1. Dịch tễ học bệnh vảy nến
Hippocrates là người đầu tiên mô tả bệnh vảy nến trong y văn. Trải qua thời
gian có rất nhiều tên gọi khác nhau. Năm 1801, Robert Willan là người đầu tiên mô
tả đặc điểm lâm sàng bệnh và đặt tên là Psoriasis, lấy từ chữ Hy Lạp “Psora” [4].
Tại Việt Nam, Đặng Vũ Hỷ là người đầu tiên đặt tên cho bệnh “Vảy nến”, xuất phát
từ đặc điểm tổn thương da của bệnh, có nhiều lớp vảy trắng đục, dễ bong, khi cạo
bong vụn ra từng mảnh nhỏ giống như cạo một cây nến trắng hoặc một vết nến nhỏ
trên mặt bàn [4].
Tỷ lệ mắc bệnh vảy nến: Tỷ lệ bệnh vảy nến khác nhau theo các tác giả, theo
thời gian, theo vùng địa lý từ 0-11,8% [1],[2],[8],[21]. Vảy nến có xu hướng gặp
nhiều ở vùng ấm áp bắc bán cầu, vùng Cáp ca và thay đổi theo địa dư [8]. Ở Châu
Âu, tỷ lệ mắc vảy nến từ 0,6-6,5% còn ở Mỹ là 3,15% và có xu hướng gia tăng
trong 2 thập niên gần đây [22]. Theo Zhang và cộng sự-2018, bệnh vảy nến chiếm
2-3% dân số [2], theo Benhadou và cộng sự-2019, bệnh chiếm khoảng 3% dân số
[1]. Còn đối với trẻ em, trong những năm gần đây, tỷ lệ mắc vảy nến theo tuổi ngày
càng tăng cả trẻ nam và nữ [23]. Ở Việt Nam, khảo sát tại huyện Kinh Môn, Hải
Dương cho thấy tỷ lệ mắc vảy nến chiếm 1,5% dân số [11]. Tại bệnh viện Trung
ương Quân đội 108, tổng kết 10 năm (2000-2010) thì tỷ lệ bệnh vảy nến điều trị nội
trú chiếm 9,8% [5].
Phân bố giới tính trong bệnh vảy nến: Theo Meglio và cộng sự-2014, vảy
nến gặp cả hai giới như nhau [8]. Tại Việt Nam, các nghiên cứu khác nhau về địa lý,
thời gian nên kết quả phân bố nam, nữ có khác nhau.
Tuổi trong bệnh vảy nến: Bệnh vảy nến có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng ít
gặp ở trẻ dưới 8 tuổi, hay gặp nhất là từ 15-30 tuổi nhưng có thể gặp lúc mới sinh
cũng như 80-90 tuổi [21]. Theo Christophers-2008, bệnh vảy nến gặp cả ở trẻ sơ
4
sinh và tuổi 88 [8]. Người lớn (0,91-8,5%) bị vảy nến nhiều hơn trẻ em (0-2,1%) và
tỷ lệ cao nhất độ tuổi 30-39 và xung quanh 60 tuổi [8].
Thể bệnh vảy nến: 2 thể bệnh vảy nến chính là vảy nến thông thường, chiếm
khoảng 80-85% tổng số bệnh vảy nến (chấm, giọt, đồng tiền, mảng) và vảy nến thể
đặc biệt chiếm 10-15% (vảy nến mụn mủ, vảy nến đỏ da toàn thân và viêm khớp
vảy nến) [9],[11].
1.1.2. Đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông thường
1.1.2.1. Triệu chứng lâm sàng
Tổn thương cơ bản của bệnh vảy nến là các mảng sẩn đỏ, thường nổi lên mặt
da so với xung quanh, ranh giới rõ, bề mặt nhiều vảy da trắng đục, hơi bóng, kích
thước to nhỏ khác nhau [4],[8],[11].
Đa số các tác giả cho thấy vị trí tổn thương khởi phát trong bệnh vảy nến là
vùng da đầu chiếm tỷ lệ từ 30-90% [4],[8],[11]. Tổn thương các mảng vùng đầu
đơn độc thường khó chẩn đoán xác định, phải làm mô bệnh học [8],[11]. Ngoài ra
tổn thương hay gặp ở các vùng tỳ đè, vùng hay bị cọ xát như khuỷu tay, đầu gối,
mấu chuyển, xương cùng, mặt trước cẳng chân, mặt duỗi cẳng tay… Các tổn
thương thường sắp xếp có tính chất đối xứng hai bên. Tổn thương vảy nến có thể
xuất hiện trên vết mổ, vết bỏng, tiêm chủng…[4],[8],[11].
Bệnh vảy nến ít ngứa gặp 20-30% các trường hợp và mức độ ngứa phụ thuộc
vào sự nhạy cảm của từng bệnh nhân. Ngứa thường chỉ ở giai đoạn hoạt động bệnh
và gắn với một trạng thái tâm lý đặc biệt [4],[6].
Số lượng tổn thương thời kỳ khởi phát có thể là đơn độc nhưng thường là
nhiều vị trí, cá biệt có trường hợp phát toàn thân. Kích thước tổn thương có thể
chấm, giọt, đồng tiền hay mảng và xác định mức độ nặng bằng PASI (Psoriasis
Area and Severity Index) [ 6],[8].
1.1.2.2. Các thể lâm sàng của VNTT
Theo Hội da liễu Việt Nam, bệnh vảy nến có hai thể chính: Vảy nến thông
thường và vảy nến đặc biệt [6],[9]. Trong đó, vảy nến thông thường có các thể:
- Vảy nến thể mảng: Thường là các đám mảng lớn trên 2 cm đường kính, có
khi nhiều mảng liên kết lại với nhau chiếm một diện tích lớn, hay gặp ở các vùng tỳ
5
đè, tiến triển mạn tính, vảy da thường nhiều, dày đặc, đặc biệt ở vùng đầu
[4],[8],[11]. Đây là thể lâm sàng hay gặp nhất, chiếm trên 80% các trường hợp vảy
nến [6],[8],[9].
- Vảy nến thể đồng tiền: Những đám thường có hình tròn như đồng tiền từ 1-
2 cm đường kính, vùng trung tâm nhạt màu hơn, ngoại vi đỏ thẫm, ranh giới rõ, tiến
triển mạn tính [8],[11].
- Vảy nến thể giọt: Kích thước tổn thương dưới 1 cm đường kính, bệnh
thường xảy ra đột ngột ở trẻ em, thanh thiếu niên, thường liên quan đến nhiễm liên
cầu đường hô hấp trên, viêm tai giữa, đáp ứng tốt với điều trị bằng kháng sinh
[4],[8],[11] và chiếm 8-10% các trường hợp vảy nến [4],[6].
1.1.2.3. Tuýp vảy nến thông thường
- Vảy nến tuýp I: Tuổi khởi phát sớm (trước 40 tuổi), có cơ địa di truyền, có
mang HLA-Cw6 và HLA-DR7.
- Vảy nến tuýp II: Khởi phát bệnh muộn (sau 40 tuổi), không có cơ địa di
truyền, không liên quan với HLA-Cw6 và HLA-DR7 [8],[11].
1.1.2.4. Mức độ bệnh của VNTT
- Dựa vào PASI, bệnh vảy nến thông thường được chia ra 3 mức độ: Mức độ
nhẹ PASI:<10; mức độ vừa PASI:10-<20 và mức độ nặng PASI:≥20 [11],[24],[25].
- Dựa theo diện tích bề mặt da cơ thể bị tổn thương: Mức độ nhẹ: diện tích
tổn thương<10%, vừa 10-20% và nặng >30% [6],[25].
1.1.3. Sinh bệnh học bệnh vảy nến thông thường
Cơ chế bệnh sinh bệnh vảy nến còn nhiều vấn đề chưa được sáng tỏ. Đến
nay, sinh bệnh học bệnh vảy nến được xác định có liên quan đến cơ địa di truyền,
rối loạn miễn dịch, được khởi động bởi nhiều yếu tố như stress, nhiễm khuẩn khu
trú... Trong đó, vai trò trung tâm là tế bào lympho T (Th1/Th17) [11],[12]. Dưới tác
động của nhiều yếu tố, các tế bào miễn dịch hoạt hóa, cytokine được tiết ra tham gia
vào sinh bệnh học bệnh vảy nến, trong đó trục IL-23/Th17 đóng vai trò trung tâm
[12].
1.1.3.1. Yếu tố di truyền
6
- HLA và bệnh VNTT: Henseler và cộng sự nhận thấy có sự kết hợp chặt
chẽ giữa HLA-Cw6 của vảy nến tuýp I với tuổi khởi phát bệnh trước 40 tuổi
[26],[27]. Zhang và cộng sự, nghiên cứu trên người Hán ở Đông Nam Trung Quốc
cho thấy HLA-Cw6 có liên quan chặt chẽ với bệnh vảy nến, là yếu tố quyết định
tính nhạy cảm mạnh nhất cho sự phát triển của bệnh vảy nến khởi phát sớm [28].
Cũng trong thời gian đó, nhiều nghiên cứu đã xác nhận sự mất cân bằng quan trọng
giữa các kháng nguyên (KN) HLA-Cw6, HLA-BW55, HLA-B13, HLA-A1, HLA-
B16 và HLA-B35 ở bệnh nhân vảy nến [11],[26], trong đó liên quan chặt chẽ nhất
là HLA-Cw6. Những người mang HLA-Cw6 có nguy cơ mắc vảy nến tăng 10-20
lần [8],[11].
Bên cạnh HLA lớp I, các nghiên cứu về sau này đã quan tâm thêm vai trò
của HLA lớp II. Nghiên cứu trên 91 bệnh nhân vảy nến thông thường, cho thấy có
liên quan đến các HLA lớp I (HLA-Cw6) và lớp II (HLA-DR7), đa số bệnh nhân có
tính đặc thù HLA-Cw6 (91,9%) đều có KN HLA-DR7, trong khi nhóm chứng là
50,3% [11]. Mặt khác, một sự kết hợp rất đáng kể giữa khởi phát bệnh sớm và sự có
mặt các KN HLA-Cw6, HLA-DR7 đã được tìm thấy (HLA-Cw6: 70%, HLA-DR7:
80,4%), ngược lại, KN HLA-DR7 được biểu hiện chỉ 28,6% trên bệnh nhân khởi
phát muộn và không có KN HLA-Cw6 (tuýp II) [11].
- Gen VNTT: Gần đây, nhờ sự giải mã bộ gen người ta nhận thấy có sự hiện
diện của nhiều vị trí trên nhiễm sắc thể (NST) có liên quan đến vảy nến, được gọi là
PSORS1, bao gồm: 6p21.3, PSORS2: 17q, PSORS3: 4q, PSORS4: 1q21, PSORS5:
3q21, PSORS6: 19p, PSORS7: 1p, PSORS8:16q, PSORS9: 4q31, PSORS10:
18p11, PSORS11: 5q31-q33 và PSORS12: 20q13. Trong đó, HLA-Cw6 và
PSORS1 là gen nhạy cảm chính đối với bệnh vảy nến [25],[29],[30]. Richardson
xác định 85% bệnh nhân vảy nến khởi phát trước 40 tuổi có KN HLA-Cw6 và có
biểu hiện lâm sàng nặng hơn, khởi phát sau 40 tuổi chỉ 15% có HLA-Cw6 [30].
- Lịch sử gia đình trong bệnh VNTT: Theo Naldi và cộng sự-1995, tỷ lệ
gặp tiền sử gia đình từ 4-91% số bệnh nhân và nếu bệnh khởi phát càng sớm thì
càng tìm thấy các trường hợp bị bệnh vảy nến trong gia đình và coi như là một yếu
tố rủi ro [31]. Nghiên cứu sinh đôi cho thấy, có 67% sinh đôi cùng trứng, 18% sinh
7
đôi khác trứng bị vảy nến [32]. Tuy nhiên, lịch sử gia đình, di truyền là đa yếu tố,
không có một yếu tố riêng biệt nào có thể gây được bệnh vảy nến mà có lẽ do tác
động của nhiều yếu tố môi trường trên một cơ địa di truyền đặc biệt mới gây được
bệnh [11],[25]. Theo Huang và cộng sự-2019, nghiên cứu trên toàn quốc Đài Loan
cho thấy tỷ lệ tiền sử gia đình gặp 24,5%, nguy cơ bị bệnh vảy nến nếu có bố mẹ bị
vảy nến tăng 5,5 lần, có anh chị em ruột nguy cơ bị vảy nến gấp 2,5 lần [33]. Theo
Mark cho thấy 71% trẻ em mắc vảy nến có tiền sử gia đình, trong đó nguy cơ mắc
vảy nến có anh chị em hoặc bố mẹ bị bệnh vảy nến tăng gấp 4 lần hoặc hơn [34].
Theo Naldi và cộng sự-2001, tiền sử gia đình mắc bệnh vảy nến có liên quan chặt
chẽ với bệnh vảy nến thể giọt [35].
1.3.3.2. Các yếu tố môi trường liên quan đến bệnh VNTT
Trên một cơ địa di truyền và bất thường về miễn dịch thì tác động bởi các
yếu tố môi trường như stress, chấn thương da, nhiễm khuẩn khu trú, một số thuốc,
thức ăn đồ uống, thuốc lá… bệnh vảy nến có thể được khởi phát, tái phát hoặc làm
trầm trọng thêm bệnh. Các yếu tố môi trường tác động vào tế bào trình diện kháng
nguyên (APC-antigen presenting cells) trong lớp thượng bì (ở da là tế bào
Langerhans). Tế bào Langerhans tác động vào tế bào lympho T hoạt hóa thành các
tế bào Th1 và Th17, di chuyển từ bạch huyết đến da, nơi chúng được kích thích để
tạo ra nhiều cytokine. Các cytokine này tương tác với các tế bào thượng bì gây ra
tăng sinh tế bào biểu mô sừng và tăng sinh mạch [36].
- Chấn thương tâm lý (stress): Stress tâm lý là yếu tố nguy cơ cho việc duy
trì và làm trầm trọng thêm bệnh vảy nến [37],[38]. Có mối liên quan chặt chẽ tỷ lệ
thuận giữa mức độ nặng của các triệu chứng vảy nến với các stress tâm lý và các
biến cố stress thường có trước một tháng [11] hoặc có khi trước đó một năm [39].
Tỷ lệ gặp stress trong bệnh vảy nến theo Roussel và cộng sự-2018 là 31-88% [39].
Cơ chế tác động của stress, gây ảnh hưởng hoạt động trục hạ đồi-tuyến yên làm
giảm nồng độ cortisol huyết thanh làm tăng hoạt tính của bệnh, các gốc oxy phản
ứng gia tăng và các hệ thống chống oxy hóa bị suy yếu được coi là có vai trò cả
trong bệnh vảy nến và cả làm trầm cảm, rối loạn lo âu [40]. Kiểm soát stress như
8
tập thể dục thường xuyên, thôi miên, tập thiền, massage, châm cứu, bấm huyệt đã
được ứng dụng trong điều trị vảy nến…[11],[39].
- Nhiễm khuẩn khu trú: Nhiễm khuẩn có vai trò trong cơ chế bệnh sinh
bệnh vảy nến đặc biệt bệnh nhân trẻ tuổi, vảy nến thể giọt thông qua kích thích tăng
sinh tế bào lympho T [11]. Nhiễm trùng đã tạo ra phản ứng tự miễn dịch và phá vỡ
dung nạp miễn dịch [36]. Mối liên quan giữa vảy nến chấm giọt và nhiễm liên cầu
khuẩn đã được thừa nhận [35],[41]. Nhiễm khuẩn khu trú trong bệnh vảy nến chủ
yếu là liên cầu tan huyết β nhóm A chiếm 57,1%, tụ cầu 28,3%, thường điều trị đáp
ứng tốt khi kết hợp với trị liệu kháng sinh [11]. Người ta thấy rằng, sau khi cắt bỏ
amidan, bệnh vảy nến thuyên giảm cả về tần suất tái phát và mức độ bệnh [42].
- Chấn thương thượng bì: Koebner người đầu tiên thông báo một bệnh
nhân vảy nến xuất hiện vảy nến sau sang chấn ở vùng da bị bệnh và nhiều tác giả
xác định chấn thương da như một yếu tố khởi động, gọi là hiện tượng Koebner, “tổn
thương gọi tổn thương” [4]. Hiện tượng Koebner thường xảy ra ở bệnh nhân vảy
nến khởi phát sớm với bệnh đang hoạt động sau khi có vết xước da do gãi, vết mổ,
vết bỏng, vết tiêm chủng, đôi khi bị cháy nắng (sunburn)…[21]. Các kích thích
khác nhau này có thể là nguồn gốc khởi động phản ứng viêm của da, phản ứng viêm
này kích thích các tế bào thượng bì tiết ra các cytokine tiền viêm (IL-6, IL-8, TNF-
α…), phân tử kết dính (ICAM-1) sẽ hoạt hóa tế bào lympho T. Tỷ lệ gặp hiện tượng
Koebner thay đổi từ 38-56% tùy theo tác giả [11]. Koebner có thể xuất hiện tại tất
cả các vị trí tổn thương và thường sau chấn thương 7-14 ngày [21].
- Vai trò một số thuốc: Vai trò của một số thuốc trong quá trình điều trị
bệnh vảy nến có thể làm khởi phát bệnh vảy nến mới hoặc vượng bệnh vảy nến đã
được nhiều tác giả đề cập bao gồm thuốc ức chế β, Lithium, corticoid đường toàn
thân, interferon, chống viêm giảm đau nhóm nonsteroid, ức chế enzyme
angiotensin, thuốc chống sốt rét (Chloroquin, quinacrin…) [11],[36],[43],[44]. Cơ
chế tác động của thuốc là can thiệp vào hệ thống miễn dịch bao gồm cả dẫn truyền
tín hiệu và sản xuất cytokine [36].
- Vai trò rượu: Các nghiên cứu gần đây chứng minh có sự liên quan thực sự
giữa bệnh vảy nến và mức độ uống rượu. Uống rượu, bia quá nhiều làm bùng phát
9
bệnh vảy nến, làm tăng nhạy cảm với gluten và gây rối loạn miễn dịch tăng sản xuất
các cytokine viêm và yếu tố tăng trưởng tế bào biểu mô sừng [36]. Có tỷ lệ đáng kể
bệnh nhân vảy nến tử vong do uống nhiều rượu bia với các bệnh kèm theo trầm
trọng như xơ gan, ung thư biểu mô tế bào gan [45]. Uống nhiều rượu bia gây bệnh
tăng huyết áp, bệnh mạch máu ngoại biên, đột quị và nhồi máu cơ tim [45]. Uống
rượu có thể làm tăng diện tích da tổn thương, giảm đáp ứng điều trị, làm vượng
bệnh [21],[45].
- Vai trò thuốc lá: Hút thuốc lá cũng như rượu có vai trò trực tiếp hay gián
tiếp kích thích, khởi động bệnh vảy nến [11],[46]. Lý giải tại sao thuốc lá là một
yếu tố nguy cơ của bệnh vảy nến rất phức tạp do nhiều độc tố trong thuốc lá chưa
được biết hết. Tuy nhiên, một lý do quan trọng là sự liên kết giữa các thụ thể
acetylcholine nicotine và nicotine (nAChR) dẫn đến sự gián đoạn về tín hiệu thần
kinh mà con đường dẫn truyền qua trung gian nAChR có thể điều chỉnh chức năng
tế bào biểu mô sừng [36]. Ngoài ra, nhiều tế bào lympho T, tế bào B, tế bào tuyến
ức có hoạt tính liên kết với nAChR và nicotine với các thụ thể này gây cản trở tín
hiệu miễn dịch [36]. Một nhận xét quan trọng là người bệnh vảy nến có tỷ lệ hút
thuốc lá nhiều hơn nhóm cộng đồng [46],[47].
- Vai trò chế độ ăn: Một chế độ ăn phù hợp có thể như là một giải pháp điều
trị phụ trợ, trái lại một số thức ăn có thể liên quan đến tái vượng bệnh [11]. Tuy
nhiên, vấn đề này cũng còn có những tranh luận [11]. Chế độ ăn acid béo không bão
hòa, gluten được cho là ảnh hưởng đến tiến triển của bệnh [21]. Một số tác giả nói
đến hiệu quả điều trị của EPA/DHA (Eicosapentaenoic Acid/Docosahexaenoic
Acid) hay dầu cá, tuy nhiên chưa được khẳng định bằng các thử nghiệm lâm sàng
ngẫu nhiên có đối chứng.
- Vai trò khí hậu, thời tiết: Ánh nắng mặt trời, dùng nước ấm có tác dụng
tốt đối với bệnh vảy nến, trái lại nước lạnh dường như làm bệnh phát triển, mùa
lạnh bệnh tái phát nhiều hơn [11]. Chính ánh nắng mặt trời có tác dụng ức chế miễn
dịch (lympho T), do đó các tổn thương vảy nến rất ít gặp ở vùng mặt, vùng hay tiếp
xúc với ánh nắng mặt trời. Điều này còn được xác định bằng sử dụng các tia cực tím
như UVA, UVB để điều trị vảy nến. Mặc dù vậy, có một nhóm nhỏ bệnh nhân lại bị
10
nặng bệnh hơn trong mùa hè khi được chiếu nắng, hay gặp ở phụ nữ có tuổi, có mẫn
cảm với ánh nắng, có thể là nguồn gốc của hiện tượng Koebner phụ thuộc phơi
nắng [11],[21].
- Các bệnh kết hợp: Bệnh vảy nến thường liên quan đến các bệnh tự miễn
như lupus ban đỏ hệ thống, pemphigus, bạch biến…[4],[11]. Các bệnh kết hợp khác
hay gặp trong bệnh vảy nến gồm tăng huyết áp (THA), béo phì, nhồi máu cơ tim, xơ
vữa mạch, tăng mỡ máu, đái tháo đường, bệnh mạch máu não, bệnh mạch máu
ngoại vi, trầm cảm [48]. Bệnh kết hợp có thể tăng theo tuổi, một nghiên cứu bệnh
nhân vảy nến trên 65 tuổi cho thấy nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 tăng gấp 4
lần, nguy cơ nhồi máu cơ tim tăng lên 3 lần và tuổi thọ bị rút ngắn 4 năm so với
nhóm người khỏe [49],[50],[51] và thường kèm theo hội chứng chuyển hóa [52].
Béo phì là một bệnh lý có gặp trong bệnh vảy nến và bằng chứng gợi ý rằng thông
qua con đường gây viêm, dẫn đến sự phát triển của bệnh vảy nến và bệnh béo phì
làm nặng thêm bệnh vảy nến hiện có [53].
1.3.3.3. Rối loạn miễn dịch trong bệnh vảy nến
- Sự hiểu biết sinh bệnh học bệnh vảy nến theo thời gian: Sự hiểu biết về
sinh bệnh học bệnh vảy nến trong 40 năm qua đã được phát triển từng bước quan
trọng như sau [54]:
+ Bệnh vảy nến được cho là rối loạn điều tiết tế bào biểu mô sừng: Từ trước
năm 1979, bệnh vảy nến được coi là một bệnh liên quan đến sự rối loạn điều tiết tế
bào biểu mô sừng dựa trên bằng chứng về sự tăng sinh quá mức các tế bào biểu mô
sừng.
+ Bệnh vảy nến được điều khiển bởi Th1: 20 năm tiếp theo (1980-2000),
bằng chứng cho thấy bệnh vảy nến là một bệnh được điều khiển bởi tế bào lympho
T. Một nghiên cứu quan trọng chứng minh rằng ức chế tế bào lympho T, nhưng
không ức chế tế bào biểu mô sừng vẫn giảm triệu chứng lâm sàng ở những bệnh
nhân bị bệnh vảy nến, là một cơ sở chứng minh vai trò miễn dịch của bệnh [55]. Kết
luận này trùng hợp với sự nhuộm hóa mô miễn dịch của các tổn thương vảy nến có
xuất hiện các tế bào TCD3 ở xung quanh mao mạch và các tế bào TCD4, TCD8 lần
lượt chiếm ưu thế ở lớp hạ bì và thượng bì. Các tác nhân ức chế tế bào T như
11
cyclosporine và tacrolimus (FK506) được bào chế và ứng dụng điều trị cho bệnh
nhân vảy nến đã cải thiện lâm sàng và mô bệnh học là giảm thâm nhập tế bào T. Sự
xác định 2 phân nhóm riêng biệt của tế bào TCD4 ở chuột, được đặt tên là Th1 và
Th2, cũng là một cái nhìn khác được thực hiện trong giai đoạn này. Lúc này, người
ta nhận ra rằng các cytokine khác nhau được tạo ra bởi các tế bào trình diện kháng
nguyên bao gồm bạch cầu đơn nhân, đại thực bào, tế bào đuôi gai, và tế bào mast
tác động lên các tế bào T ban đầu biệt hóa thành Th1, Th2 chức năng tương ứng
riêng biệt. Interleukin 12 (IL-12) được tạo ra từ các tế bào này tác động lên tế bào T
ban đầu thành Th1 hoạt hóa để sản sinh interferon-γ (IFN-γ) và yếu tố hoại tử khối
u (TNF-α), góp phần đáp ứng miễn dịch trung gian tế bào chống lại vi khuẩn nội
bào và virus. Năm 1998, phát hiện gia tăng IL-12 trong các tổn thương vảy nến dẫn
đến quan điểm bệnh vảy nến có trung gian là các tế bào Th1 [56]. Phát hiện này cho
rằng bệnh vảy nến do rối loạn điều hòa Th1 được nổi bật bởi sự phát triển và duy trì
IL-12 và cytokine Th1 khác trong các tổn thương vảy nến [55]. Thành công với chất
ức chế phẩm sinh học TNF-α sử dụng trong viêm khớp dạng thấp cũng cải thiện các
thương tổn do bệnh vảy nến gây ra [57].
Hình 1.1. Quan niệm về sinh bệnh học vảy nến theo thời gian
(Nguồn: J Am Acad Dermatol. 2014 Jul;71(1):141-50) [54]
+ Phát hiện IL-23: Một bước đột phá quan trọng trong hiểu biết của chúng ta
12
vào năm 2000 với việc phát hiện ra một loại protein mới p19 và nhận thấy rằng loại
protein này kết hợp với các đơn vị IL-12 p40 để tạo ra cytokine mới có đặc tính
riêng là IL-23 [58]. Giả thuyết rằng IL-12 là một biến thể của bệnh dựa một phần
vào phát hiện của đơn vị p40 trong các tổn thương bệnh vảy nến, các đơn vị này có
thể đại diện cho IL-23 [55]. Các đánh giá tiếp theo cho thấy sự gia tăng của cả IL-
23 p19 và đơn vị p40 trong mảng vảy nến so với da không bị tổn thương, trong khi
các tiểu đơn vị p35 IL-12 không tăng [59]. Các tế bào đơn nhân hoạt hóa và các tế
bào đuôi gai là nguồn gốc chính của IL-23 trong vùng da bị tổn thương. IL-23 đã
được phát hiện trong các tổn thương vảy nến, bổ sung trong phân tích ống nghiệm
được thực hiện để mô tả kỹ hơn về ustekinumab (ban đầu được cho rằng để ức chế
chỉ IL-12) và thể hiện sự tương tác giống hệt nhau của kháng thể với IL-12, IL-23,
và đơn thể IL- 12/23 p40 cho thấy ustekinumab có khả năng ức chế cho cả IL-12 và
IL-23 [60]. Năm 2003, phát hiện IL-23 kích thích tế bào T hoạt hóa sản sinh một
cytokine khác với các tế bào Th1 và Th2 là IL-17A và dòng tế bào TCD4+ mới này
có tên gọi là tế bào Th17 là tế bào sản sinh ra cytokine IL-17A, nó điều chỉnh thâm
nhiễm viêm và các đáp ứng tự miễn dịch [61].
+ Bệnh vảy nến là bệnh Th17/IL-17: Việc tìm ra các tế bào Th17 khẳng định
sự biệt hóa tế bào T thành các tập con tế bào T chức năng gồm Th1, Th2 và Th17
(Hình 1.2) [54].
Hình 1.2. Cytokine điều tiết biệt hóa tế bào TCD4 ra các tập con chức năng
(Nguồn: J Am Acad Dermatol. 2014 Jul;71(1):141-50) [54]
13
- Sinh bệnh học bệnh vảy nến hiện nay: Hiện nay, xác định vai trò chủ đạo
trong sinh bệnh học bệnh vảy nến là Th17 với cytokine tương ứng là IL-17A, IL-
17F, IL-22, nhưng vai trò của Th1 với các cytokine tương ứng là IFN-γ, TNF-α…
và Th2 với các cytokine tương ứng là IL-4, IL-5, IL-13 là không thể thiếu được
trong đáp ứng miễn dịch của bệnh vảy nến.
+ Các tế bào Th17: là một quần thể tế bào T chủ yếu ở vùng da tổn thương
và trong máu lưu hành có tế bào Th17, Th22, Th1 tăng và giảm sau điều trị
infliximab [62]. Các tế bào Th17 ở người chủ yếu sản sinh IL-17A, IL-17F, IL-21,
và IL-22 [62]. Bằng chứng mới đây đã cho thấy vai trò của các tế bào Th17 với
interleukin 17A (IL-17A) tương ứng đã kích thích tế bào biểu mô sừng sản sinh ra
chemokine, cytokine và chất trung gian gây phản ứng viêm qua đó cho phép IL-17A
bắc cầu hệ thống miễn dịch bẩm sinh và thích ứng nhằm kéo dài tình trạng viêm
mãn tính. Đây là nền tảng cơ sở cho việc ức chế IL-17A, là một phương pháp điều
trị tiềm năng để phá vỡ các vòng lặp của chứng viêm vảy nến.
+ Cytokine IL-17: có 6 loại được đặt tên từ IL-17A đến IL-17F, đều hoạt
động như hợp đồng hoặc riêng biệt [63]. IL-17A do các tế bào Th17 sơ khai được
kích thích sản sinh ra, là một glycoprotein liên kết disulfide, gồm 155 amino acid có
trọng lượng phân tử 35 kd. IL-17E (còn được gọi là IL-25) có mặt để tham gia vào
phản ứng Th2 [53]. IL-17C điều tiết tăng trong các tổn thương da do vảy nến và đã
được chứng minh là gây ra các biểu hiện của viêm cytokine, chemokine và peptid
kháng vi sinh vật. IL-17B và IL-17D cũng xuất hiện dưới dạng các đặc tính biến
dạng viêm và có xu hướng giảm ở bệnh vảy nến [53]. IL-17A đóng vai trò chính
trong bệnh vảy nến và mục tiêu chính của nó là tế bào biểu mô sừng, ngoài tế bào
Th17 còn có một số tế bào khác cũng sản sinh ra IL-17A [64],[65].
+ Vai trò IL-17A với tế bào biểu mô sừng [54]: Tế bào biểu mô sừng là mục
tiêu chính cho IL-17A trong bệnh vảy nến. Các thụ thể IL-17A thể hiện chủ yếu trên
bề mặt của tế bào biểu mô sừng trên toàn bộ biểu bì và ở các tế bào nằm rải rác trên
da, bao gồm một số tế bào đuôi gai, nguyên bào sợi trên da và các tế bào nội mạc.
IL-17A kích thích sự thể hiện của tế bào biểu mô sừng dưới nhiều dạng chemokine
bao gồm CCL20, CXCL1, CXCL2, CXCL3, CXCL5,và CXCL8 (IL-8). CCL20 có
14
thể bổ sung các tế bào CCR61 cho da, gồm Th17 và các tế bào đuôi gai, qua đó
thiết lập một chu trình thông tin phản hồi cho việc duy trì các tế bào viêm ở vùng da
bị tổn thương. Các chemokine CXCL có khả năng trực tiếp di chuyển bạch cầu
trung tính đến lớp biểu bì vảy nến. IL-17A làm tăng sự hiện diện của peptid kháng
khuẩn, bao gồm các loại của chủng β-defensin và S100A, từ đó kích thích hệ miễn
dịch bẩm sinh. IL-17A có tác động khác lên tế bào biểu mô sừng góp phần vào sự
sản sinh biểu bì quá mức và phá vỡ lớp hàng rào bảo vệ da, làm tăng sự hiện diện
của chất sừng 17, làm giảm sự xuất hiện của filaggrin và làm thay đổi sự hiện diện
của nhiều loại gen tham gia vào sự liên kết tế bào.
+ Vai trò của IL-17A đối với sự hình thành tổn thương vảy nến [54]: Sự hình
thành tổn thương vảy nến được tác động của nhiều tế bào, nhiều cytokine nhưng vai
trò của Th17 với IL-17A là chiếm ưu thế (Hình 1.4). Phân tích nguồn tế bào T cho
thấy sự xuất hiện nhiều tế bào Th17 trong lớp hạ bì vảy nến còn các tế bào CD8+
chiếm hầu hết số lượng tế bào T trong thượng bì vảy nến. Tế bào Th17 trong tiểu
tuần hoàn ngoại vi và ở vùng da bị tổn thương của bệnh nhân bị vảy nến đã tăng
tương quan thuận với độ nặng của bệnh được xác định bằng PASI và bệnh nhân có
PASI ≥10 có nồng độ huyết thanh IL-17A cao hơn những bệnh nhân có PASI<10.
Hơn nữa, sự hiện diện của RNA chứa IL-17A tăng lên ở vùng da bị tổn thương so
với vùng da lành. Trong nghiên cứu khác, sự cải thiện của PASI trong suốt 12 tuần
điều trị bằng chiếu UVB-311nm đã đồng thời giảm mức huyết thanh IL-17A, trong
khi giảm không rõ ràng đối với IL-23 hoặc TNF-α.
15
Hình 1.3. Mô hình hiện tại của sinh bệnh học bệnh vảy nến
(Nguồn: J Am Acad Dermatol. 2014 Jul;71(1):141-50) [54]
Tóm lại, bệnh vảy nến trên một cơ địa di truyền được kích hoạt bởi các yếu
tố môi trường, các tế bào T ban đầu được kích hoạt bởi các tế bào trình diện kháng
nguyên (APC) trong lớp thượng bì, thúc đẩy các tế bào T ban đầu biệt hóa thành T-
helper (Th1 và Th17), để các tế bào Th1 và Th17 tăng lên trong khi các tế bào Th2
và T điều tiết (Tregs) giảm bớt. Sau đó, các tế bào T được kích hoạt di chuyển từ
các hạch bạch huyết đến da, nơi chúng được kích thích để tạo ra nhiều
cytokine. Các cytokine này tương tác với các tế bào thượng bì, nội mô mạch máu và
sau đó gây ra những thay đổi, bao gồm tăng sinh tế bào biểu mô sừng và tăng sinh
mạch. Zeng và cộng sự-2017, đưa ra một hình như sau:
16
Hình 1.4. Sinh bệnh học bệnh vảy nến hiện nay
(Nguồn: Zeng J, et al-2017, Journal of Dermatology, 44: 863-872) [36]
1.1.4. Điều trị bệnh vảy nến thông thường
1.1.4.1. Mục tiêu điều trị
Hội nghị đồng thuận châu Âu và Đài Loan đã thống nhất mục tiêu điều trị
bệnh vảy nến là làm sạch tổn thương hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn và xác định
một phương pháp có hiệu quả khi đạt PASI-75 (có nghĩa là PASI sau điều trị giảm
75% so với trước khi điều trị) và giảm chỉ số ảnh hưởng của bệnh đến chất lượng
cuộc sống (DLQI - Dermatology Life Quality Index) ≤5. Nếu một phương pháp
không đạt PASI≥50 (PASI giảm 50% trở lên) thì thuốc đó không có hiệu quả điều
trị bệnh vảy nến [66],[67],[68]. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của điều trị là làm
sạch hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn các tổn thương để đạt PASI-90 hoặc PASI-
100 thì thời gian điều trị 12-16 tuần [81], có khi 24 tuần [67].
Chiến lược điều trị bao gồm: giai đoạn tấn công và duy trì [11],[67]. Mục
tiêu của giai tấn công là làm sạch tổn thương và giai đoạn duy trì là làm ổn định
bệnh duy trì kết quả của giai đoạn tấn công càng dài càng tốt [80],[81]. Hội nghị
17
đồng thuận châu Âu cũng đưa ra chỉ dẫn điều trị [79],[80]: PASI<50: sửa đổi chế độ
điều trị; PASI 50-<75, DLQI >5: sửa đổi chế độ điều trị; PASI 50-<75, DLQI ≤ 5:
tiếp tục phác đồ điều trị và PASI ≥75: tiếp tục chế độ điều trị.
Các thuốc gồm thuốc tại chỗ, liệu pháp quang và quang hóa, thuốc toàn thân
không sinh học và các thuốc toàn thân sinh học với một chiến lược dùng thuốc đơn
độc, kết hợp, kế tiếp [11],[66].
1.1.4.2. Điều trị tại chỗ
- Nguyên tắc: Thuốc tại chỗ dùng đơn độc để điều trị cho vảy nến mức độ
nhẹ hoặc được phối hợp với các thuốc toàn thân hoặc điều trị ánh sáng đối với vảy
nến mức độ vừa và nặng hoặc cho thể đặc biệt [9],[68].
- Các thuốc taị chỗ:
+ Acid salicylic: Là thuốc bạt sừng tại chỗ, nhưng cơ chế bạt sừng bong vảy
chưa được hiểu biết đầy đủ, có thể giảm sự gắn kết giữa các tế bào biểu mô với
nhau và giảm độ pH [4]. Acid salicylic thường được dùng dạng mỡ ở nồng độ 1-5%
[4].
+ Hắc ín [9],[69]: Hắc ín là cách điều trị cổ nhất mà hiện nay còn sử dụng.
Tác dụng chống ngứa do trong hắc ín có acid fenic và cresylic, tác dụng tiêu sừng
do các cresol và các dẫn chất phenolic, tác dụng giảm tăng sinh biểu bì do tác dụng
khử oxy làm tế bào bị ngạt đưa đến ức chế phát triển.
+ Anthralin [9],[70]: Cơ chế hoạt động chính xác của anthralin chưa được
biết đầy đủ. Các nghiên cứu gần đây cho rằng anthralin ngăn ngừa hoạt hóa tế bào
T, bình thường hóa quá trình biệt hóa tế bào biểu mô sừng bằng cách tác động trực
tiếp lên quá trình gián phân. Anthralin chủ yếu sử dụng theo liệu pháp tiếp xúc
ngắn. Thuốc không gây tác dụng phụ toàn thân, chủ yếu là kích thích da tại chỗ,
nhuộm màu vàng da quanh tổn thương.
+ Glucocorticoid [9],[11],[66],[71]: Corticoid điều trị tại chỗ đã được sử
dụng rộng rãi từ lâu ở nhiều nước và có hiệu quả. Corticoid có 4 tác dụng chính:
chống viêm, chống gián phân, ức chế miễn dịch, co mạch và được chia làm 4 mức
độ hoạt động dựa vào chỉ số McKenzi (chỉ số co mạch trên động vật thực nghiệm)
gồm mức độ nhẹ, vừa, mạnh và rất mạnh. Chỉ định dùng corticoid tại chỗ phải dựa
18
vào tuổi, vị trí tổn thương và diện tích tổn thương để chỉ định nhóm corticoid nhẹ,
vừa, mạnh và rất mạnh. Dùng corticoid tại chỗ loại mạnh, kéo dài có thể gây teo da,
vết rạn da, trứng cá do thuốc.
+ Vitamin D3 và dẫn xuất [9],[66],[72]: Cơ chế tác dụng của các đồng đẳng
vitamin D là do gắn với thụ thể vitamin D dẫn đến ức chế tăng sinh và làm biệt hóa
tế bào biểu mô sừng. Vitamin D3 và các dẫn xuất được chỉ định trong các trường
hợp vảy nến mảng, vảy nến đồng tiền khu trú có giới hạn. Trong quá trình điều trị
có thể gặp cảm giác bỏng, ngứa, phù, bong vảy, khô da, ban đỏ; tác dụng phụ toàn
thân như tăng calci huyết, ức chế hormon cận giáp rất hiếm gặp trừ khi bệnh nhân
dùng quá 100 g/tuần hoặc bệnh nhân có bệnh thận tiềm tàng hoặc chuyển hóa calci
kém.
+ Tazaroten [9],[66]: Tazaroten là một retinoid bôi ngoài, được áp dụng điều
trị vảy nến ở Mỹ từ năm 1995, hiện nay còn được sử dụng trong điều trị bệnh trứng
cá. Cơ chế tác động của Tazaroten do làm bình thường hóa quá trình biệt hóa tế bào
biểu mô sừng, giảm tăng sản, giảm biểu lộ của các marker viêm. Thuốc đóng ở
dạng kem 0,05% và 0,1%, thường dùng cho vảy nến thể nhẹ, không dùng cho phụ
nữ có thai và cho con bú. Thuốc gây kích ứng tại chỗ và quanh tổn thương (ban đỏ,
ngứa) nhưng có kết quả kéo dài, ít tái phát hơn corticosteroid. Bôi 1 lần vào tối và
có thể kết hợp với corticoid tại chỗ để tăng hiệu quả.
+Tacrolimus [9],[66]: Tacrolimus được phân lập từ vi khuẩn Streptomyces
tukubaensis, thuộc nhóm macrolid lacton. Thuốc có hiệu quả tốt trong điều trị viêm
da cơ địa, bạch biến ở người lớn và trẻ em trên 2 tuổi. Thuốc ức chế chức năng
calcineurin, ngăn chặn tổng hợp nhiều cytokine tiền viêm, là những chất có vai trò
quan trọng trong cơ chế bệnh sinh bệnh vảy nến. Đối với vảy nến, người ta ưu tiên
dùng cho vùng mặt và cho vảy nến trẻ em. Thuốc hầu như rất ít tác dụng phụ.
1.1.4.3. Điều trị toàn thân
Thuốc điều trị toàn thân thường được chỉ định cho vảy nến vừa và nặng
(BSA>10 hoặc PASI>10 và QLQI>10) [66],[67],[68]. Tuy nhiên, các bệnh nhân có
PASI<10 nhưng có tổn thương da đầu, mặt, tay, móng, vùng sinh dục, vảy nến
không kiểm soát được bằng thuốc tại chỗ hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng của bệnh
19
đến chất lượng cuộc sống (DLQI≥10) thì vẫn được cân nhắc dùng thuốc toàn thân.
Thuốc dùng toàn thân bao gồm thuốc toàn thân không sinh học và thuốc sinh học.
-Thuốc toàn thân không sinh học:
+Acitretin [9],[66],[73]: Là một dẫn xuất tổng hợp của vitamin A acid, có tác
dụng điều hòa tăng sinh và biệt hóa tế bào biểu mô sừng. Liều 0,3-1 mg/kg/ngày.
Tuy nhiên đây là thuốc có nhiều tác dụng phụ như khô môi, loét miệng, rụng tóc,
gây quái thai… Vì vậy cần phải cân nhắc chỉ định và theo dõi chặt chẽ khi điều trị.
+ Cyclosporine (CyA) [9],[66],[74],[75]: Có tác dụng ức chế miễn dịch, là
một chất ức chế calcineurin mạnh, ức chế hoạt hóa tế bào lympho T và sao chép gen
tổng hợp các cytokine IL2, INF-γ dẫn đến giảm IL-2, ngăn cản tăng đơn dòng
lympho T, ngăn cản hoạt hóa thành Th và giảm INF-γ sẽ cắt đứt sự qua lại giữa
lympho T và ĐTB. Khuyến cáo nên dùng liều khởi đầu là 2,5-5 mg/kg/ngày, chia
hai lần [9]. Sau 1 tháng không cải thiện lâm sàng, có thể tăng 0,5 mg/kg/ngày mỗi
tháng cho tới khi đạt liều có hiệu quả, tối đa là 5 mg/kg/ngày, duy trì 2-3 tháng [11].
Ngừng điều trị khi dùng 5 mg/kg/ngày sau 6 tuần mà không cải thiện lâm sàng [11].
Duy trì liều thích hợp 0,5-1,0 mg/kg/ngày khi sạch tổn thương hoặc có THA, giảm
chức năng thận.
+ Methotrexate: sẽ được trình bày tại mục 1.3.2
- Thuốc sinh học tác động trên tế bào lympho T:
Efalizumab: Là một kháng thể đơn dòng IgG1 trực tiếp chống lại CD11a
trong LFA-1. Efalizumab được FDA công nhận điều trị bệnh vảy nến từ tháng
10/2003 và rút lại 2009 [8],[66]. LFA-1 nằm trong tế bào lympho T, có chức năng
như một phân tử kết dính. Liều khởi đầu của Efalizumab là 0,7 mg/kg, sau đó tiếp
tục liều 1 mg/kg/tuần [76]. Tiêm dưới da 1 lần/tuần, thuốc dung nạp tốt, tác dụng
không mong muốn hay gặp là hội chứng giống cúm [12].
- Thuốc sinh học ức chế cytokine:
+ Etanercept: Là một protein hỗn dịch đối xứng, trung hòa hai phân tử TNF-
α hoặc TNF-β/lymphotoxin ở người, đã được áp dụng 2004 tại châu Âu và Mỹ, mục
tiêu phân tử là ức chế TNF [8],[12],[66].
20
+ Infliximab: Một kháng thể đơn dòng ức chế đặc hiệu TNF-α
[8],[11],[12],[66], được áp dụng tại châu Âu và Mỹ 2006 [8],[66]. Khi Infliximab
vào cơ thể, nó gắn với phân tử TNF-α trong máu và tổ chức người bệnh, không cho
TNF-α gắn với thụ thể TNF-α hoạt động. Kết quả là TNF-α không kích thích các tế
bào sản sinh cytokine tiền viêm như IL-1, IL-6, IL-8... Mặt khác Infliximab điều tiết
hoạt động của tế bào T điều chỉnh (Tregs). Những tế bào Tregs đóng vai trò quan
trọng duy trì tự dung nạp miễn dịch và ngăn ngừa bệnh tự miễn. Chỉ định trong các
trường hợp vảy nến mảng mức độ vừa, nặng không ổn định, vảy nến khớp với liều
dùng 5mg/kg/ngày bằng đường truyền tĩnh mạch tại tuần 0-2-6 và tiếp theo mỗi 6-8
tuần [8],[11],[66],[77] và điều trị duy trì liên tục tốt hơn dùng gián đoạn [78].
+ Adalimumab: kháng thể đơn dòng đặc hiệu với TNF-α, ngăn cản TNF-α gắn
vào các thụ thể [8],[12],[66], được áp dụng tại châu Âu 2007 và Mỹ 2008 [8],[66]. Chỉ
định điều trị vảy nến khớp, vảy nến thông thường vừa, nặng, viêm đa khớp vị thành
niên [11]. Liều dùng: 80 mg/tuần 1, 40 mg/tuần các tuần tiếp theo. Dùng đường tiêm
dưới da [8],[66].
+ Ustekinumab: Là kháng thể hoàn toàn đơn dòng IgG1k của người tác động
lên IL-12/23. Được áp dụng tại châu Âu và Mỹ từ 2009 [8],[66]. Nó gắn vào tiểu
đơn vị p40 của IL-12 và IL-23 có tác dụng ngăn ngừa sự liên kết của IL-12 và IL-23
đến thụ thể trên tế bào T chưa biệt hóa và phòng ngừa sự biệt hóa, tăng sinh của
quần thể Th1 và Th17 sinh bệnh [9],[66],[67]. Vì vậy nó chẹn được các cytokine
theo con đường Th1 (IL-12) và Th17 (IL-23). Chỉ định điều trị vảy nến mảng mức
độ vừa, nặng với liều khởi đầu 45 mg cho bệnh nhân dưới 100 kg và 90 mg cho
bệnh nhân trên 100 kg trọng lượng, tiêm dưới da, tiếp theo liều tại tuần thứ 4 và tiếp
theo liều cho mỗi 12 tuần [11],[12].
+ Guselkumab: Là một kháng thể đơn dòng IgG1 ở người, thuốc chẹn IL-
23p19, vượt trội hơn Adalimumab trong điều trị vảy nến vừa và nặng trong thử
nghiệm pha II [79].
+ Risankizumab: Là một kháng thể đơn dòng IgG1 được nhân hóa ức chế IL-
23 bằng cách nhắm vào mục tiêu cụ thể là tiểu đơn vị p19 do đó ngăn chặn tín hiệu
IL-23. Papp và cộng sự-2017, nghiên cứu so sánh hiệu quả điều trị của
21
Risankizumab với Ustekinumab thì kết quả Risankizumab tốt hơn Ustekinumab.
Tuy nhiên, nghiên cứu đang ở pha II, nên chưa có kết luận cụ thể [80].
+ Secukinumab [8],[66],[81]: Kháng thể đơn dòng tái tổ hợp có ái lực cao,
hoàn toàn từ người chống lại IL-17A của người thuộc lớp kháng thế IgG1/kappa.
Nó gắn chọn lọc và trung hòa cytokine tiền viêm IL-17A và ức chế hoạt động
hoạt dộng của IL-17A với thụ thể IL-17A. Từ đó, Secukinumab ức chế giải
phóng các cytokine tiền viêm, chemokine và các chất trung gian của các mô bị
tổn thương làm giảm sự tham gia qua trung gian IL-17A trong các bệnh tự miễn
và viêm. Do đó, Secukinumab làm giảm các dát đỏ, giảm thâm nhiễm và bong
vảy ở các tổn thương vảy nến mảng. IL-17A đóng vai trò chủ chốt trong sinh
bệnh học của bệnh vảy nến.
+ Ixekizumab [8],[82]: Là KT đơn dòng kháng IL-17. Ixekizumab được chỉ
định điều trị vảy nến mảng mức độ vừa và nặng, với liều 10-150 mg tiêm dưới
da. Với liều 75 mg/ngày, sau 12 tuần điều trị, 82,8% bệnh nhân vảy nến mảng
đạt PASI 75 [82].
+ Brodalumab (AMG827) [8],[83]: Là kháng thể đơn dòng thuộc lớp
IgG2 của người chống thụ thể IL-17 (IL-17R), dạng tiêm dưới da đang được
nghiên cứu pha III, bước đầu có hiệu quả điều trị vảy nến vừa và nặng [83].
- Các thuốc phân tử nhỏ (small molecule drugs):
+ Apremilast (CC-1004): Là chất ức chế đặc hiệu phân tử nhỏ của
phosphodiesterase 4 (PDE4), hoạt động nội bào để điều chỉnh sản xuất chất trung
gian tiền viêm và chống viêm [8],[84]. Apremilast đang nghiên cứu pha 3 với
liều 20 mg trong 12 tuần có hiệu quả và dung nạp tốt [84].
+ Tofacitinib: thuốc ức chế janus kinase (JAK1 và JAK3) [8],[85]. Thuốc
uống sau 12 tuần vảy nến vừa và nặng được cải thiện lâm sàng và dung nạp tốt
[85].
+ Baricitinib [8]: Là thuốc ức chế janus kinase (JAK)1/JAK2 bằng đường
uống. Papp và cộng sự-2016 nghiên cứu ngẫu nhiên 271 bệnh nhân vảy nến vừa
và nặng có 81% bệnh nhân duy trì PASI-75 trong 24 tuần [86].
1.2. Vai trò TCD và cytokine trong bệnh vảy nến thông thường
22
1.2.1. Vai trò TCD4, TCD8 trong bệnh VNTT
Vai trò TCD4, TCD8 được thể hiện qua 5 bước:
- Sự hoạt hóa của tế bào trình diện kháng nguyên mà ở da là tế bào
Langerhans: Các kháng nguyên (KN) bên ngoài là yếu tố kích hoạt như nhiễm
khuẩn được các tế bào trình diện KN tại da xử lý và di chuyển đến hạch bạch huyết
lân cận gây hoạt hóa các tế bào lympho T (TCD4).
- Tương tác giữa tế bào trình diện KN với tế bào lympho T di chuyển vào
vùng hạch lân cận: ICAM-1 là phân tử kết dính các tế bào nhóm 1 trên bề mặt tế
bào APC sẽ tương tác với LFA-1 (Lymphocyte Function-associated Antigen-1) trên
tế bào T. Tiếp theo đó, KN đã gắn MHC (Major Histocompatibility Complex - Phức
hợp tương thích mô chính) trên APC sẽ gắn vào thụ cảm thể và đồng thụ cảm thể
CD4/CD8 trên tế bào T sinh ra “tín hiệu 1”. Bên cạnh đó, quá trình tương tác còn
được tạo bởi sự gắn kết giữa các phân tử CD28 và CD80, CD28 và CD86, CD40 và
CD40L, LFA3 và CD2 của 2 tế bào tạo ra “tín hiệu 2” và lympho T (TCD4, TCD8)
được hoạt hóa.
- Các tế bào lympho hướng da sẽ di chuyển tại da: Lympho T hoạt hóa sẽ tạo
ra nhiều cytokine: IL-12, TNF-α, IFN-γ, IL-2...
- Tái hoạt hóa tế bào lympho TCD4 và TCD8 tại trung bì da và sản xuất các
chất hóa học trung gian tế bào IL-2, IL-8, IL-10… T nhớ sẽ bộc lộ CLA (Cutaneous
Lympnocyte-associated Antigen) ra bề mặt tế bào để gắn với e-selectin của tế bào
nội mô thành mạch cùng với sự gắn kết LFA-1 với ICAM-1 giúp cho các tế bào T
thoát khỏi thành mạch và di chuyển đến da. Ngoài ra, các cytokine do tế bào biểu
mô sừng tiết ra có vai trò lôi kéo các tế bào T nhớ đi chính xác đến các vị trí viêm.
- Các chất này sẽ kích thích tăng sinh thượng bì, hình thành tổn thương vảy
nến: Tại vùng da viêm, lympho T tiếp xúc với tế bào trình diện KN sẽ được hoạt
hóa lại và tiết ra các cytokine như TNF-α, IFN-γ làm kích thích các tế bào biểu mô
sừng phát triển, quá sản, rối loạn biệt hóa gây ra triệu chứng lâm sàng vảy nến.
23
1.2.2. Vai trò của cytokine
Cytokine là những polypeptid, trọng lượng phân tử thấp (8-80kD) được các
tế bào miễn dịch tạo ra để đáp ứng với các kháng nguyên, vi sinh vật hoặc các kích
thích không nhiễm trùng khác [87]. Chúng có khả năng điều chỉnh các phản ứng
miễn dịch, viêm và tương tác với hệ thống nội tiết và thần kinh [87].
Hiện nay, ngoài vai trò của cytokine, chemokine còn có vai trò của
adipokine. Adipokine được sản xuất bởi mô mỡ trắng dưới da bao gồm các chất gây
viêm (chemerin, omentin, visfatin, lipocalin-2, resistin) và chất chống viêm
(adiponectin). Sự biểu hiện bất thường của adipokine và cytokine trong da và huyết
thanh đã dẫn đến sự kích hoạt, tăng sinh và biệt hóa các tế bào biểu mô sừng cũng
như các tế bào miễn dịch góp phần phát triển các tổn thương vảy nến [87].
Cytokine được nhiều tế bào sản xuất (tế bào đuôi gai, Langerhans, Th1, Th2,
Th17, Th22, Th9...) bao gồm IL-1, IL-2, IL-4, Il-6, IL-8, IL-9, IL-10, IL-12, IL-15,
IL-17, IL-18, IL-22, IL-23 [12] và có sự liên quan chặt chẽ giữa các cytokine với
adipokine, liên quan giữa các cytokine và adipokine với nhau [66]. Đáp ứng qua
trung gian cytokine, adipokine là một quá trình phức tạp, có sự tham gia của nhiều
thành phần, nhiều khâu đoạn và đó là một đáp ứng bảo vệ tự nhiên của cơ thể,
nhưng khi sản xuất quá mức các cytokine, adipokien sẽ gây ra một loạt các bệnh lý,
trong đó có vảy nến [12].
Hình 1.5. Vai trò của các yếu tố viêm trong bệnh vảy nến
(Nguồn Fan Bai et al-2018, Oncotarget, 9(1):1266-1278) [87]
24
- INF-γ (Interferon-γ): Thụ thể của IFN-γ nằm trên bề mặt của nhiều tế bào
với biểu hiện khác nhau. Biểu hiện cao nhất được thấy ở trên tế bào T, B, tế bào
NK, bạch cầu đơn nhân, đại thực bào, nguyên bào sợi, bạch cầu trung tính và tế bào
cơ trơn [88]. IFN-γ gây kích hoạt, tăng sinh và biệt hóa tế bào T, tế bào B, đại thực
bào, tế bào NK, nguyên bào sợi và tế bào nội mô, IFN-γ kích thích sản xuất nhiều
chất gây viêm như IL-1, IL-6, IL-8, IL-12, IL-15, TNF- α, protein cảm ứng (IP-10),
NO synthase cảm ứng (iNOS), kaspase-1 và gp91phox (NOX2), một tiểu đơn vị của
NADPH oxy hóa [67]. IFN-γ kích thích tế bào đuôi gai (DC: Dendritic cells) sản
xuất IL-1 và IL-23. IFN-γ là yếu tố rất quan trọng, đặc biệt xuất hiện trong giai đoạn
sớm của bệnh vảy nến và có tăng lên trong huyết thanh và da tổn thương [12],[88].
IFN-γ làm tăng biểu hiện của thụ thể đặc hiệu của IL-12, đây là cytokine đóng vai
trò quan trọng phát triển đáp ứng miễn dịch qua trung gian Th1 và có thể đóng vai
trò trong hình thành các tổn thương vảy nến mới [12] và nồng độ IFN-γ trong huyết
thanh tăng cao tương quan với mức độ nghiêm trọng của bệnh vảy nến [88]. Nó còn
ức chế quá trình chết theo chương trình của tế bào biểu mô sừng, kích thích tăng sản
các tế bào thượng bì. Sau điều trị bằng PUVA, IFN-γ và IL-23 giảm đáng kể ở
thượng bì và trung bì [88].
- TNF-α (Tumor Necrosis Factor-α: yếu tố hoại tử khối u): Đại thực bào
trung bì, lympho T, tế bào biểu mô sừng, tế bào Langerhans là nguồn quan trọng tiết
ra TNF-α trong da vảy nến [12],[88]. TNF-α là một cytokine của Th1 và cả Th17,
tác động đến quá trình tăng sinh thượng bì, hoạt hóa và biệt hoá một số dạng tế bào,
kích thích chết theo chương trình, tăng tổng hợp một số cytokine như IL-1, IL-6
[12],[88]. TNF-α kích thích các tế bào trình diện KN (APC) tiết ra IL-23 và đáp ứng
của Th17 [88], làm tăng sản các tế bào lympho T tại chỗ, thúc đẩy thâm nhiễm các
tế bào lympho T và các tế bào viêm khác [12]. TNF-α còn làm tăng biểu đạt IL-8,
làm tăng hoá ứng động bạch cầu tới ổ viêm, cùng IFN-γ làm tăng biểu đạt các phân
tử kết dính ICAM-1 [12]. Nhiều nghiên cứu thấy rằng nồng độ TNF-α tăng trong
huyết thanh bệnh nhân vảy nến và có sự tương quan với mức độ bệnh [88]. Khi điều
trị thành công bằng các phương pháp như PUVA, UVB cộng với bôi tại chỗ
corticoid và dithranol thì TNF-α đều giảm ở cả huyết thanh và tổn thương vảy nến,
25
ngược lại điều trị cyclosporine A, acitretin hoặc Goeckeman không làm thay đổi
nồng độ TNF-α [11],[88].
- IL-23 (Interleukin-23): Tế bào đuôi gai, đại thực bào sản xuất ra IL-23. IL-
23 hoạt hóa, kích thích sự tăng sản và kéo dài thời gian tồn tại của Th17, thúc đẩy
sản xuất các cytokine như IL-17A, IL-22. Tuy nhiên, IL-17A cũng còn được sản
xuất độc lập với IL-23 [88],[89] và con đường IL-23/IL17A chiếm ưu thế trong sinh
bệnh học bệnh vảy nến [89]. Mặt khác, IL-23 làm tăng cường đáp ứng miễn dịch ở
da, gây ra hiện tượng tăng gai và thâm nhiễm tế bào viêm ở trung bì. Cytokine này
còn có khả năng kích thích TNF-α làm tăng hoạt động đại thực bào. Hiện nay, bệnh
vảy nến được cho là thâm nhiễm ở da các tế bào Th1/Th17, nó kích thích các đại
thực bào, các tế bào đuôi gai giải phóng các chất trung gian hóa học duy trì quá
trình viêm và tăng sản các tế bào thượng bì [88]. Tổn thương vảy nến dường như là
kết quả tương tác giữa một số dạng tế bào khác nhau, phản ánh sự phụ thuộc lẫn
nhau mạnh mẽ trong số các tế bào này và các sản phẩm hoạt hoá của chúng. Khi IL-
23 kích thích TNF-α, IL-22, đây được cho là nguyên nhân khởi phát vảy nến. Mặt
khác, IL-22 một cytokine hạ lưu hiệu ứng của IL-23, có thể gây ra các đặc điểm
bệnh lý ở da bệnh nhân vảy nến nuôi cấy, điều này gợi ý rằng IL-23 là một đích
thích hợp trong điều trị bệnh vảy nến. Thật vậy, trục IL-23/Th17 được cho là đóng
vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh bệnh vảy nến, ức chế trục này đạt được
thành công trong điều trị. Điều này càng được củng cố bằng sự liên quan giữa các
biến thể gen IL-23R với nguy cơ gây bệnh vảy nến và điều trị thành công bệnh vảy
nến bằng các kháng thể đơn dòng gắn với dưới nhóm p30 của IL-23 và IL-12. Hơn
nữa, dựa vào trục IL-23/Th17 giải thích được hiện tượng tăng sản các tế bào thượng
bì trong vảy nến (gây bởi IL-22), thâm nhiễm tế bào viêm (IL-17) [12]. Nồng độ IL-
23 giảm xuống khi bệnh nhân được điều trị bằng UVB, PUVA, etanercept, alefacept
[88].
- IL-22 (Interleukin-22): IL-22 là một cytokine họ IL-10 được sản xuất chủ
yếu bởi Th17, Th22 và tế bào NK [88]. Th22 có tăng trong tổn thương vảy nến, IL-
22 điều hòa tăng sinh tế bào biểu mô sừng, ức chế biệt hóa tế bào biểu mô sừng
bằng cách điều hòa một loạt các gen như filaggrin và gen liên quan, làm tăng biểu
26
hiện phân tử gây viêm dẫn đến tăng độ dày của da trên vitro, in vivo và kích thích
các tế bào biểu mô giải phóng các chemokine, IL-8 [88]. Nồng độ IL-22 trong huyết
thanh tương quan với mức độ nghiêm trọng của bệnh vảy nến, điều này gợi ý IL-22
đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh bệnh vảy nến [88]. IL-22 được xem
là cytokine của Th17, tuy nhiên những nghiên cứu gần đây cho rằng Th22 cũng sản
xuất ra IL-22 [12],[88],[90],[91]. Sự hoạt hoá IL-22 không cần TGF-β, mặc dù IL-6
và IL-23 kích thích sản xuất IL-22 trong thực nghiệm, dường như chỉ có IL-23 là
không thể thiếu để hoạt hóa IL-22 trong cơ thể. Bởi vậy số lượng IL-22 phụ thuộc
trực tiếp vào số lượng IL-23. IL-22 gây ra tăng gai, IL-23 gây viêm ở trung bì, điều
này gợi ra mối quan hệ hấp dẫn giữa hai cytokine này. IL-22 đại diện cho mối liên
hệ giữa IL-23 với hoạt hoá và tăng sản tế bào thượng bì. Thực vậy, khi phong toả
IL-22 hoặc thiếu hụt do di truyền thì thấy giảm quá trình tăng sản các tế bào gây bởi
IL-23 [12].
- IL-20 (Interleukin-20): IL-20 giống với IL-22 về cấu trúc và cùng họ với
IL-22. IL-20 được sản xuất bởi tế bào biểu mô sừng, bạch cầu đơn nhân và tế bào
đuôi gai. IL-20 có hai phức hợp thụ thể khác nhau là IL-22R1/IL-20R2 và IL-
20R1/IL-22R2. Do đó, chuỗi IL-22R1 là thành phần của cả IL-22 và IL-20. IL-20
tăng cả trong tổn thương da và cả trong máu bệnh nhân vảy nến tương quan với
PASI [88].
- IL-17 (Interleukin-17): IL-17 là sản phẩm chính của Th17 là một cytokine
quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của bệnh vảy nến [92],[93]. Th17 sản xuất ra IL-
17A, IL-17B, IL-17C, IL-17D, IL-17E, IL-17F. Trong đó, vai trò chính là IL-17A
trong sinh bệnh học bệnh vảy nến. IL-17A kích thích các tế bào nội mạc và đại thực
bào sản xuất ra các cytokine tiền viêm khác [88],[92],[93]. Nồng độ IL-17 tăng cao
trong huyết thanh bệnh nhân và tại da tổn thương, liên quan tới mức độ nặng bệnh
[12],[93].
- IL-18 (Interleukin-18): IL-18 có vai trò quan trọng trong sự kết dính tế bào
và có thể kích thích giải phóng IFN-γ và IL-18 có tăng trong huyết thanh bệnh nhân
vảy nến [87].
27
- IL-15 (Interleukin-15): IL-15 là một cytokine giống IL-2 và chất gây viêm
[88]. IL-15 tăng tuyển dụng và kích hoạt tế bào T và một số tế bào khác gây sản
xuất TNF-α, IFN-γ, IL-17, gây hình thành mạch, tuyển dụng tế bào miễn dịch và
kích hoạt tế bào biểu mô sừng [88].
- IL-12 (Interleukin-12): IL-12, IL-23 tăng ở tổn thương vảy nến, có tác
dụng thúc đẩy và duy trì Th1 sản xuất ra IFN-γ, cũng là cytokine chủ yếu tham gia
vào quá trình sinh bệnh học bệnh vảy nến [11],[12],[94]. Căn cứ vào cơ chế bệnh
sinh bệnh vảy nến người ta đã sản xuất ra các chế phẩm sinh học, là những kháng
thể đơn dòng, đối kháng IL-12, IL-23 để điều trị bệnh vảy nến đạt hiệu quả cao
[11],[12]. Đó là Ustekinumab (Stelara), kháng thể đơn dòng đối kháng IL-12, IL-23
ức chế tiểu đơn vị p40 của cả ở IL-12, IL-23 [67],[92]. Chính nó ngăn cản những
cytokine này gắn vào bề mặt tế bào T, đưa đến ngăn cản quá trình viêm trong bệnh
vảy nến [12],[92].
- IL-10 (Interleukin-10): IL-10 có tác dụng ức chế sản xuất cytokine của Th1
(IL-2 và IFN-γ), ức chế tế bào trình diện KN hoạt hóa, tăng sản xuất cytokine của
Th2 như IL-4, IL-5, IL-10… Người ta sử dụng IL-10 với liều 8 μg/kg/ngày tiêm
dưới da điều trị bệnh vảy nến thấy có hiệu quả [12].
- IL-9 (Interleukin-9): IL-9 là thành viên của IL-2, tăng rõ rệt tại vùng da tổn
thương của bệnh nhân vảy nến so với nhóm người khỏe [88]. IL-9 là một cytokine
tiền viêm kích thích sản xuất IL-17, IL-13, IFN-γ và TNF-α trong bệnh vảy nến
[67]. IL-9 được sản sinh bởi Th9 và Th17 [88].
- IL-8 (Interleukin-8): IL-8 do các tế bào biểu mô sừng tiết ra IL-8. IL-8 hoạt
hoá, thu hút và di chuyển các tế bào lympho T, NK và bạch cầu. Ngoài ra, IL-8 có
vai trò quan trọng trong kết dính tế bào, là con đường thông thường cuối cùng qua
IL-1 và TNF-α dẫn đến tăng biểu hiện của ICAM-1 [95]. IL-8 thúc đẩy tăng sinh tế
bào thượng bì và kích thích sự hình thành mạch [96]. IL-8 tăng trong huyết thanh
bệnh nhân vảy nến và có liên quan với mức độ bệnh [12],[88],[96]. IL-8 liên quan
thuận với IL-lβ, TNF-α và chịu tác dụng điều trị của methotrexate [88].
- IL-6 (Interleukin-6): IL-6 kích thích sự tăng sinh và biệt hóa các lympho T,
là yếu tố biệt hóa tế bào B thành tương bào sản xuất KT, thúc đẩy tăng sinh tế bào
28
biểu mô sừng và lympho T hoạt hóa ở bệnh vảy nến [12],[96],[97]. IL-6 góp phần
vào sự tham gia của các dòng tế bào Th17 trong nhiều tiến trình viêm và tự miễn
bằng cách ngăn chặn sự gia tăng của các tế bào T điều tiết (Tregs) [13]. IL-6 tăng
trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến hoạt động và cũng tăng đồng thời tại da vảy
nến, không liên quan với độ nặng của bệnh [11],[96].
- IL-4 (Interleukin-4): IL-4 là yếu tố phát triển lympho B (BCGF), giúp tạo
ra quần thể lympho B để sinh KT đặc hiệu [12],[87].
- IL-2 (Interleukin-2): IL-2 được tiết ra từ các tế bào NK, Th1. Nó có vai trò
quan trọng trong sự biệt hóa, tăng sinh và trưởng thành của tế bào T để trở thành
Th1, Th2, Th17, Th22 và kích thích hoạt động tế bào NK, tăng cường hóa ứng động
bạch cầu và gây ngứa [67],[96]. Các nghiên cứu trong cơ thể và thực nghiệm đều
cho thấy IL-2 tăng trong các tổn thương da và trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến
[88]. Thông qua IL-2 do TCD4 hoạt hóa tiết ra giúp TCD8 hoạt hóa gây độc cho tế
bào đích [12].
- IL-1 (Interleukin-1): IL-1 do tế bào biểu mô sừng tiết ra, IL-1 có cấu trúc
gồm 3 polypeptid, 2 cytokine là IL-1α và IL-1β liên kết cùng một thụ thể nhưng
được mã hóa gen khác nhau [96]. IL-1β ở vảy nến hoạt động tăng cao hơn giai đoạn
lui bệnh và có liên quan tỷ lệ thuận với mức độ nặng bệnh vảy nến [12]. IL-1 làm
tăng sinh các tế bào thượng bì và mạch máu [96].
- IL-33 (Interleukin-33): IL-33 là một thành viên của gia đình IL-1, các
thành viên khác là IL-1α, IL-1β, IL-18, IL-36, IL-37 và IL-38 [98],[99]. IL-33 là
một cytokine hạt nhân có nguồn gốc từ IL-1 được biểu hiện phong phú trong các tế
bào nội mô, tế bào biểu mô, tế bào giống fibroblast và nó hoạt động cân bằng nội
mô, tăng trưởng và đáp ứng miễn dịch; IL-33 hoạt động như một tín hiệu báo động
(alarmin) được phát ra khi tổn thương tế bào hoặc tổn thương mô để cảnh báo các tế
bào miễn dịch biểu hiện thụ thể ST2 (IL-1RL1) [98],[99]. Mục tiêu chính của IL-33
in vivo là các tế bào miễn dịch cư trú ở mô như tế bào mast, tế bào bạch huyết bẩm
sinh nhóm 2 (ILC2s), tế bào T điều tiết (Tregs) và các mục tiêu khác là tế bào Th2,
bạch cầu ái toan, tế bào đuôi gai, Th1, CD8+, tế bào NK, tế bào B, bạch cầu trung
tính...[99]. Đồng thời, IL-33 đóng một vai trò trong sinh bệnh học của các bệnh
29
khác như nhiễm trùng, hen phế quản, viêm mũi dị ứng, bệnh tim mạch, viêm khớp
dạng thấp, đái tháo đường, bệnh ung thư khác nhau và có liên quan đến các bệnh da
gồm viêm da dị ứng, ngứa, mày đay mạn tính, bạch biến và bệnh vảy nến [98],[99].
Soleymani và cộng sự-2016, nêu vai trò chính của các cytokine như sau (Sơ đồ 1.1):
Sơ đồ 1.1. Ảnh hưởng của cytokine đến các triệu chứng chính bệnh vảy nến
(Nguồn: Stoma AM et al-2011, Eur.Cytokine Netw, 22(4):160-168) [88]
1.3. UVB-311nm và Methotrexate trong điều trị bệnh vảy nến thông thường
1.3.1. UVB-311nm trong điều trị bệnh vảy nến thông thường
1.3.1.1. Khái quát về tia cực tím (UV: ultraviolet))
Ánh sáng cực tím (Ultraviolet: UV) bao gồm một dải hẹp trong phổ điện từ
có bước sóng từ 100 nm đến 400 nm [100]. Dựa vào bước sóng của ánh sáng cực
tím người ta đã phân ra ba loại UVA, UVB và UVC (UVA: bước sóng từ 320-400
nm; UVB: bước sóng từ 290-<320 nm và UVC: bước sóng <290 nm) [100],[101].
Riêng UVC dùng chủ yếu trong khử trùng. Ánh sáng cực tím có bước sóng ngắn
hơn được hấp thụ trong bầu khí quyển của trái đất và chỉ có ánh sáng có bước sóng
dài hơn (UVA, UVB và một lượng tối thiểu UVC) chiếu tới bề mặt trái đất.
UV có độ xuyên sâu khác nhau, bước sóng 200 nm xuyên sâu đến trên lớp
đáy, 250 nm xuyên sâu ngang lớp đáy, trên 250 nm xuyên xuống trung bì. Tác động
30
dưới 250 nm gây biến dạng ADN còn trên 250 nm tác động vào nguyên liệu tổng
hợp ADN. Các vùng da khác nhau của cơ thể sẽ có độ hấp thụ tia UV khác nhau:
đầu (25% liều sinh lý), thân (100% liều sinh lý), cánh tay (75%), cẳng tay (25%),
đùi (50% liều sinh lý), cẳng chân (25% liều sinh lý), các nếp gấp hấp thu mạnh. Có
2 phương pháp sử dụng tia UV trong da liễu là quang hóa (PUVA) và quang đơn
thuần (UVB) [11].
Cơ chế tác dụng của tia cực tím vẫn còn nhiều vấn đề chưa được rõ. UVA và
thích sự sản xuất các cytokine, neuropeptid,
UVB kích tăng sản xuất proopiomelanocorticotropin-derived peptid bao gồm cả α-MSH. α-MSH có tác dụng chống viêm (ức chế IL-1 và TNF-α); tác dụng ức chế miễn dịch (ức chế đáp
ứng miễn dịch qua trung gian tế bào) [6]; kích thích sản xuất prostaglandin của tế
bào biểu mô sừng; gây tăng chết theo chương trình (apoptosis), sự tăng sinh của các
tế bào Ts kích thích tiết IL-2, IFN-γ và hàm lượng cao IL-10. Từ đó ức chế đáp ứng
kiểu quá mẫn muộn.
1.3.1.2. UVB-311nm
Wiskeman-1978, đã sử dụng bức xạ UVB dải rộng (BB-UVB: Broadband
ultraviolet B) có bước sóng λ= 290-320 nm làm sạch tổn thương vảy nến khi
dùng liều phản ứng ban đỏ tối thiểu, đặc biệt vảy nến bã nhờn và giọt. Tuy
nhiên, do nó gây đỏ da và hiệu quả hạn chế nên phương pháp không được phổ
biến rộng [100]. Fischer-1977, khi kiểm tra hiệu quả của các bước sóng từ 254
nm đến 405 nm trong điều trị bệnh vảy nến đã lưu ý rằng một dải hẹp UVB ở
bước sóng 313 nm có hiệu quả rõ rệt giảm bệnh vảy nến, đặc biệt dùng liều cao
mà không tạo ra ban đỏ đáng kể, Farrish và Jaenicke cũng phát hiện thấy bước
sóng 313 nm có hiệu quả tốt [100]. Những phát hiện này đã thúc đẩy sự phát
triển đèn huỳnh quang nhân tạo có chứa phốt pho (TL-01) tạo ra bức xạ cực đại
ở dải hẹp 311 nm (±2nm). Sự phát triển này mở ra kỷ nguyên của phương thức
trị liệu mới với NBUVB (Narrowband Ultraviolet B), Weelden và cộng sự-1988
đầu tiên sử dụng điều trị bệnh vảy nến [100]. Đến nay, đã được sử dụng điều trị
nhiều bệnh da liễu khác như bạch biến, chàm dị ứng, rụng tóc...
31
- Cơ chế tác dụng: Cơ chế hoạt động chính xác của UVB dải hẹp (UVB-
311nm) chưa được biết hoàn toàn [100],[102]. Tuy nhiên, một số tác dụng của
UVB-311nm trong điều trị vảy nến đã được xác định như ức chế tăng sinh tế bào
biểu mô sừng, tăng hoạt động chết theo chương trình (apoptosis) của tế bào biểu
mô sừng và tác động lên một số tế bào khác tại da như tế bào lympho T xâm
nhập vào thượng bì, tế bào sắc tố, tế bào Langerhans.
+ Ức chế tăng sinh tế bào biểu mô sừng: Mục tiêu phân tử quan trọng nhất
của UVB-311nm là acid nucleic của DNA tế bào. Sự hấp thụ UVB-311nm tác
động lên acid nucleic của DNA nhân tế bào tạo ra chất nhị trùng hợp của
pyrimidin đã được xác nhận và các sản phẩm quang khác như pyrimidin-
pyrimidon, thymil-glycol, pyrimidin-purin, các phức hợp protein-AND... Cần
được nghiên cứu thêm [100]. Những sản phẩm quang này can thiệp vào quá trình
chu chuyển tế bào và chu kỳ tế bào làm kìm hãm sự phát triển của tế bào biểu
mô sừng [100]. Phản ứng quang xảy ra sau một giây, nhưng tác dụng sinh học
còn tiếp diễn trong nhiều ngày. Đây là cơ chế quan trọng nhất trong điều trị bệnh
vảy nến bằng UVB-311nm.
+ Tác dụng miễn dịch: Chiếu UVB-311nm sẽ gây ức chế miễn dịch tại chỗ và
toàn thân [102],[103]. Bên cạnh gây chết theo chương trình, điều trị chiếu UVB-
311nm gây ra sự giải phóng prostaglandin, làm giảm các cytokine tiền viêm như
IL-1α, IL-2, IL-5, IL-6 trong khi việc tổng hợp IL-10 chống viêm được tăng
cường đáng kể [103] và làm giảm số lượng tế bào Langerhans thượng bì từ 4 giờ
đến 48 giờ sau chiếu và qua nhiều lần chiếu sẽ làm giảm mật độ và chức năng
của các tế bào Langerhans lớp biểu bì khoảng 20% [103],[104]. UVB-311nm
làm giảm tế bào T trong các mảng vảy nến [100],[103]. Chiếu UVB-311nm còn
điều tiết con đường Th17 bằng cách giảm đáng kể IL-17A, IFN-α, IL-6mRNA ở
các tế bào đơn nhân máu ngoại vi của bệnh nhân vảy nến [102]. Ngoài ra, chiếu
UVB-311nm còn tác động trên tế bào sắc tố thượng bì, với liều 25 mJ/cm2 làm
tăng tốc độ tăng sinh của tế bào NCCmelan5, một dòng tế bào melanoblast
[103].
32
- Chỉ định: Dùng đơn độc hoặc phối hợp các thuốc khác như methotrexate,
soriatane, thuốc bôi các loại để điều trị các thể vảy nến [100].
- Chống chỉ định: Bệnh nhân có mẫn cảm với ánh sáng, bệnh Lupus đỏ hệ
thống và khu trú, bệnh gan và người đã điều trị tia xạ trước đó [100].
- Liều và tần suất chiếu: Phác đồ trị liệu tối ưu là làm sạch được tổn thương
vảy nến với số lần chiếu tối thiểu, liều tích lũy thấp và ít tác dụng không mong
muốn [100]. Để đạt được mục tiêu đó cần xác định liều ban đầu, tần suất chiếu,
mức tăng phần trăm của liều trong mỗi lần khám tiếp theo và liều tối đa là bao
nhiêu.
+ Liều ban đầu: thường là 70% của MED (Minimal Erythema Dose) và theo
hướng dẫn của Viện Da liễu Hoa Kỳ (AAD: American Academy of
Dermatology) liều ban đầu được đánh giá theo tuýp da (không phải dựa trên
MED) và liều ban đầu được khởi xướng là 130, 220, 260, 330, 350 và 400
mJ/cm2 cho tuýp da 1 đến 6 tương ứng và nếu được xác định là MED, liều ban
đầu là 50% MED [100].
+ Tần suất chiếu: thường 3-5 lần chiếu/tuần. Nếu bỏ liều, UVB-311nm có thể
được khởi động lại theo lịch trình sau: dưới 1 tuần, duy trì liều tiếp xúc cuối
cùng; 1-2 tuần, khởi động lại liều <25% liều cuối cùng; 2-3 tuần, khởi động lại
với liều cuối cùng 50%; đối với gián đoạn điều trị trong hơn 3 tuần, nên bắt đầu
lại liều khởi đầu trước đó [100].
+ Tăng liều: Tăng liều của chiếu UVB-311nm phụ thuộc vào phản ứng ban
đỏ (phân ra không ban đỏ, ban đỏ nhẹ (độ1): không cảm nhận được, ban đỏ vừa
(độ 2): được xác định rõ và ban đỏ nặng (độ 3): ban đỏ kéo dài >24 giờ. Không
có ban đỏ: tăng thêm 20% liều cuối cùng; ban đỏ độ 1: liều trước đó duy trì và
tăng liều tiếp theo giảm xuống còn 10%; ban đỏ độ 2: hoãn điều trị 1 lần, lặp lại
liều trước đó ở lần khám tiếp theo và giảm tới 10%; ban đỏ độ 3: không chiếu
cho đến khi phục hồi và điều trị thêm bằng cách giảm một nửa liều tiếp xúc.
Viện Da liễu Hoa Kỳ khuyến cáo tăng liều được xác định trước theo tuýp da là
15, 25, 40, 45, 60 và 65 mJ/cm2 cho da tuýp 1 đến tuýp 6, với liều tối đa 2000
mJ/cm2 cho da tuýp 1 và 2, 3000 mJ/cm2 cho da tuýp 3 và 4 và 5000 mJ/cm2 cho
33
da tuýp 5 và 6. Nếu xác định trước liều MED, liều chiếu tăng phải 10% so với
MED ban đầu cho 20 lần chiếu ban đầu và theo bác sĩ tùy ý sau đó [100].
+ Liều duy trì: Theo Dogra và cộng sự-2010, phác đồ duy trì sau điều trị là
chiếu 2 lần/tuần trong 4 tuần và 1 lần/tuần trong 4 tuần tiếp theo; tổng cộng là 12
lần chiếu đã giúp 55% bệnh nhân vảy nến được điều trị bằng UVB-311nm vẫn
ổn định [100].
- Tác dụng không mong muốn [100]:
+ Đỏ da: là tác dụng không mong muốn đáng kể nhất chiếm 10-94% [100].
+ Ngứa: gặp không thường xuyên.
+ Viêm giác mạc tiếp xúc và viêm kết mạc: có thể gặp trong UVB-311nm,
mặc dù đục thuỷ tinh thể không phải là vấn đề xảy ra với PUVA, nhưng bảo vệ
mắt trong quá trình tiếp xúc phải được tuân thủ nghiêm ngặt.
+ Xạm da: tăng dần trong điều trị và phục hồi sau điều trị ít nhất 10 tuần.
+ Gây ung thư: rất ít dữ liệu công bố về khả năng gây ung thư của UVB-
311nm. Một nghiên cứu 15 năm với 1908 bệnh nhân vảy nến điều trị bằng UVB-
311nm cho thấy không có nguy cơ tăng ung thư biểu mô vảy, biểu mô đáy hoặc
khối u ác tính [100].
- Điều trị kết hợp: UVB-311nm đã được kết hợp với các thuốc vảy nến tại
chỗ hoặc toàn thân cũng như các tác nhân sinh học. Điều trị kết hợp có lợi ích là
đáp ứng nhanh với điều trị và liều tích lũy của 2 loại thuốc sử dụng kết hợp giảm
đó sẽ giảm tác dụng không mong muốn [100].
1.3.2. Methotrexate trong điều trị bệnh VNTT
Methotrexate (MTX) là thuốc điều trị bệnh vảy nến đầu tiên (1955) được
dùng bằng đường toàn thân có hiệu quả và ngày nay vẫn được dùng và coi như là
tiêu chuẩn vàng (gold standard) cho điều trị toàn thân bệnh vảy nến [105]. FDA đã
chấp nhận MTX là thuốc điều trị vảy nến từ 1972 [105].
- Cơ chế tác dụng của Methotrexate và dược động học [105],[106]:
+ Ức chế phân bào: MTX có tên khoa học 4-Amino-N10 methyl
pteroylglutamic acide, một chất đối kháng với acid folic. Methotrexate có cấu trúc
giống như acid folic và ức chế mạnh men dihydrofolate reductase. Nó xúc tác cho
34
việc tạo ra acid dihydrofolic và tetrahydrofolic từ acid folic. Acid tetrahydrofolic là
tiền thân của acid N5-10 methylen tetrahydrofolic, một yếu tố chủ yếu cho việc biến
đổi của acid deoxyuridylic thành acid thymidylic. Acid thymidylic là cần thiết cho
việc tổng hợp acid deoxyribonucleic (AND). Ở người, MTX ức chế tổng hợp ADN
nhiều hơn là ARN. Điều này làm cho tế bào ức chế nếu MTX có mặt trong giai
đoạn S của chu kỳ tế bào.
+ Tác dụng chống viêm mạnh: MTX ngoài tác dụng ức chế phân bào còn có
tác dụng chống viêm mạnh do ức chế một số cytokine [105],[106]. Do vậy, MTX
rất có hiệu quả trong điều trị bệnh vảy nến do ức chế cả hai quá trình xảy ra trong
bệnh vảy nến là tăng sinh thượng bì (vảy) và viêm (mảng viêm đỏ) [11].
- Hấp thu và thải trừ [105]: MTX được hấp thu tốt với liều thấp tại ống tiêu hóa
với đỉnh cao trong huyết thanh sau uống thuốc từ 1-2 giờ. Sau 3-7 ngày ngừng
thuốc thì hết tác dụng và thời gian bán huỷ của MTX là 6-8 giờ. MTX phần lớn
được đào thải qua thận, 65-80% đào thải ở dạng không đổi ở nước tiểu 12 giờ đầu
sau khi uống và một lượng nhỏ tồn tại nhiều tuần trong thận, gan [105]. MTX là
một acid hữu cơ yếu, đào thải tích cực ở ống lượn gần. Độc tính của MTX có thể
tăng lên ở những bệnh nhân suy giảm chức năng thận, chính vì vậy cần điều chỉnh
liều lượng thích hợp ở những bệnh nhân này [105].
- Liều dùng [11],[105]: MTX có thể sử dụng tiêm bắp, tiêm dưới da hoặc đường
uống, nhưng phần lớn các thầy thuốc da liễu ưa dùng MTX bằng đường uống
[11],[105]. Trước khi dùng MTX khuyến cáo nên làm test ban đầu với liều 5 mg để
phát hiện tác dụng độc hại của MTX lên gan, thận, máu [105]. Sau đó, cho xét
nghiệm trong giới hạn bình thường sẽ bắt đầu dùng liều điều trị [105]. Liều điều trị
có 2 phương pháp [105]:
+ Liều duy nhất hàng tuần uống hoặc tiêm: Liều uống thường từ 7,5-30
mg/tuần. Liều dùng có thể tăng dần (2,5-5 mg/tuần) và theo dõi sát số lượng hồng
cầu, bạch cầu, tiểu cầu, chức năng gan, thận. Một số bệnh nhân có thể liều tối đa
37,5 mg/tuần. Liều tiêm bắp thường 7,5-50 mg/tuần, một số bệnh nhân cần liều tối
đa 75 mg/tuần [105]. Không được tiêm tĩnh mạch. Theo dõi sát xét nghiệm máu cơ
bản.
35
+ Liều cách quãng bằng đường uống hàng tuần: được chia ra làm 3 lần cách
nhau 12 giờ (trong 36 giờ). Ví dụ một liều 15 mg/tuần sẽ được chia ra 3 lần uống
mỗi lần 5 mg cách nhau 12 giờ (tổng là 36 giờ).
Các nghiên cứu cho thấy hiệu quả của 2 phương pháp là tương đương nhau
và theo kinh nghiệm chúng tôi nếu dùng liều từ 15 mg/tuần (6 viên) nên chia 3 lần
thì bệnh nhân cảm thấy đỡ mệt hơn. Hiện nay, không khuyến cáo dùng liều hàng
ngày vì gây tăng độc tính của thuốc.
- Chỉ định [105]: Vảy nến thông thường mức độ vừa và nặng, vảy nến đỏ da toàn
thân; viêm khớp vảy nến; vảy nến mụn mủ toàn thân, vảy nến móng, vảy nến cố thủ
một vùng có gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, công việc hàng ngày và
không đáp ứng với liệu pháp quang, quang hóa và retinoid.
- Chống chỉ định [105]: Phụ nữ có thai; phụ nữ cho con bú; nghiện rượu; bệnh gan
do rượu, bệnh gan khác; suy giảm miễn dịch như HIV; bệnh máu, bệnh thận nặng,
nhiễm khuẩn nặng; mẫn cảm với MTX; phụ nữ và nam giới muốn có con phải
ngừng thuốc ít nhất 3 tháng và không dùng cho trẻ dưới 12 tuổi, nhưng có thể xem
xét là thuốc điều trị toàn thân cho trẻ vảy nến lớn hơn.
- Tác dụng không mong muốn [105]: Toàn thân: đau đầu, sốt, ớn lạnh, chóng mặt.
Da: ngứa, đau, ban mày đay, rụng tóc. Máu: ức chế tủy xương, giảm bạch cầu, tăng
nguy cơ nhiễm trùng, thiếu máu hồng cầu khổng lồ, giảm tiểu cầu. Hệ thống tiêu
hóa: loét dạ dày, nôn, buồn nôn, ít gặp hơn viêm gan nhiễm độc, viêm họng, tiêu
chảy, viêm ruột. Hệ thống tiết niệu, sinh dục: tăng ure máu, đái máu vi thể, viêm
bàng quang, giảm tinh trùng thoáng qua, quái thai, rối loạn kinh nguyệt. Hệ thần
kinh: tình trạng buồn ngủ, nhìn mờ, trầm cảm cấp. Ngoài ra còn gặp tăng nhạy cảm
với ánh sáng, viêm phổi kẽ, hoại tử thượng bì nhiễm độc.
1.4. Một số nghiên cứu cytokine trước và sau điều trị bệnh VNTT bằng uống
MTX kết hợp chiếu UVB-311nm trên thế giới và Việt Nam
1.4.1. Nghiên cứu cytokine trước và sau điều trị bệnh VNTT trên thế giới và
Việt Nam
1.4.1.1. Trên Thế giới
36
Nghiên cứu sự thay đổi các cytokine trước và sau điều trị bệnh vảy nến bằng
một thuốc nào đó nói chung và kết hợp UVB-311nm và MTX nói riêng với những
tài liệu chúng tôi tham khảo được không nhiều. Theo Caproni và cộng sự-2009, với
30 bệnh nhân dùng entanercept 50 mg 2 lần mỗi tuần so với 30 bệnh nhân uống
acitretin 0,4 mg/kg/ngày, cả 2 dùng trong 12 tuần được đánh giá kết quả điều trị và
nồng độ IL-17, IL-22, IL-23 trước và sau điều trị của mỗi nhóm, kết quả cho thấy
hiệu quả lâm sàng (PASI) tốt hơn acitretin và chỉ có entanercept làm giảm IL-17,
IL-22 [107]. Theo Elghandour và cộng sự-2013 cho thấy, nồng độ IL-17, IL-23
huyết thanh của nhóm vảy nến điều trị bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống MTX
so với nhóm uống MTX đơn thuần đều giảm sau điều trị và kết quả tương đương
nhau và kết luận mức độ huyết thanh IL-17, IL-23 có đóng vai trò là dấu ấn sinh
học tiềm năng để dự đoán tiên lượng và đáp ứng điều trị của UVB-311nm hoặc
MTX trong điều trị bệnh vảy nến [108]. Theo Budamakuntla và cộng sự-2017, 28
bệnh nhân vảy nến được điều trị bằng UVB-311nm kết hợp MTX cho thấy PASI từ
26,23±7,5 và IL-17: 2,65±0,7 pg/ml sau điều trị PASI còn 9,66±4,2, IL-17 còn
1,99±0,57 pg/ml và kết luận là điều trị bằng Methotrexate kết hợp UVB-311nm làm
giảm cytokine IL-17 trong huyết thanh và do đó giúp điều trị bệnh vảy nến [109].
1.4.1.2. Việt Nam
Nghiên cứu nồng độ các cytokine trước và điều trị các thuốc nói chung và
UVB-311nm kết hợp MTX nói riêng, đến nay các kết quả công bố chưa nhiều. Trần
Nguyên Ánh Tú và cộng sự-2019, có kết quả nồng độ IL-17 trước và sau điều trị
bằng secukinumab [110]. Phan Huy Thục và cộng sự-2015, nghiên cứu nồng độ
một số cytokine (IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF-α, IFN-γ) trước
điều trị [111]. Riêng xác định nồng độ các cytokine trước và sau điều trị, đến nay
với các tài liệu chúng tôi tham khảo được chưa có tác giả nào trong nước công bố.
1.4.2. Nghiên cứu điều trị bệnh VNTT bằng MTX kết hợp chiếu UVB-311nm
trên Thế giới và Việt Nam
1.4.2.1. Trên Thế giới
Điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống
MTX trên thế giới đã được một số tác giả nghiên cứu. Theo Asawanonda và cộng
37
sự-2006, đã so sánh hiệu quả điều trị bệnh vảy nến bằng MTX (15mg/tuần) kết hợp
chiếu UVB-311nm với chiếu UVB-311nm kết hợp giả dược cho thấy uống MTX
kết hợp chiếu UVB-311nm cho kết quả tốt hơn so với chỉ điều trị bằng chiếu UVB-
311nm đơn thuần [112]. Theo Mahajan và cộng sự-2010, cho thấy sự kết hợp uống
MTX với UVB-311nm cho cải thiện lâm sàng nhanh hơn so với chiếu UVB-311nm
đơn thuần [113]. Theo Archier và cộng sự-2012, nghiên cứu cho thấy PUVA và
UVB-311nm đều có hiệu quả điều trị bệnh vảy nến. Tuy nhiên, sự an toàn lâu dài
của PUVA, đặc biệt là nguy cơ gây ung thư da cao còn UVB-311nm qui trình quản
lý dễ dàng hơn, chỉ định điều trị rộng hơn nên được các bác sĩ da liễu ưa thích hơn
PUVA [114]. Theo Maheshwari và cộng sự-2013, MTX kết hợp chiếu UVB-311nm
làm giảm độc tính tích lũy của cả hai tác nhân và giúp đạt được đáp ứng lâm sàng
(đạt PASI-50) nhanh hơn so với chỉ UVB-311nm đơn thuần [115]. Theo Al-
Hamamy và cộng sự-2014, nghiên cứu trên 3 nhóm là MTX kết hợp chiếu UVB-
311nm, UVB-311nm đơn thuần và uống MTX đơn thuần cho thấy sự kết hợp uống
MTX với chiếu UVB-311nm cải thiện lâm sàng (PASI) nhanh chóng và liều tích
lũy ít hơn so với chiếu UVB-311nm đơn thuần và uống MTX đơn thuần [19]. Theo
Soliman và cộng sự-2015, điều trị bệnh vảy nến bằng UVB-311nm kết hợp MTX
cho kết quả tốt hơn điều trị bằng MTX đơn thuần và kết luận MTX vẫn là chủ đạo
trong điều trị bệnh vảy nến ở các nước đang phát triển và sự kết hợp của nó với
UVB-311nm mang đến lựa chọn điều trị rẻ tiền và có lợi [20].
1.4.2.2. Việt Nam
Với các tài liệu chúng tôi tham khảo được đến nay chưa có công bố nào về
kết quả điều trị kết hợp MTX với UVB-311nm trong điều trị bệnh vảy nến nói
chung và bệnh vảy nến thông thường nói riêng.
38
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
260 bệnh nhân được chẩn đoán xác định bệnh vảy nến, điều trị nội trú tại
Khoa Da liễu-Dị ứng, BVTƯQĐ 108 từ 8/2015-5/2018. Trong đó:
- Cho mục tiêu 1: 260 bệnh nhân được chẩn đoán xác định bệnh vảy nến,
khảo sát một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng.
- Cho mục tiêu 2: 35 bệnh nhân VNTT vừa và nặng: là nhóm nghiên cứu
(NNC) của mục tiêu 3 và nhóm người khỏe (NNK): 35 người khỏe (cùng tuổi, giới
với NNC).
- Cho mục tiêu 3: 70 bệnh nhân VNTT vừa và nặng được chia 2 nhóm:
+ Nhóm nghiên cứu (NNC) 35 bệnh nhân: Uống Methotrexate + chiếu tia
cực tím dải hẹp (UVB-311nm) + bôi kem Physiogel.
+ Nhóm đối chứng (NĐC) 35 bệnh nhân: Uống Methotrexate + bôi
Physiogel.
2.1.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán
Dựa vào lâm sàng là chủ yếu: theo Habif-2010 và mô bệnh học (những bệnh
nhân khó chẩn đoán).
+ Lâm sàng: Vảy nến thông thường (vảy nến thể giọt, thể đồng tiền và thể
mảng) và vảy nến thể đặc biệt (vảy nến đỏ da toàn thân, vảy nến thể mủ, viêm khớp
vảy nến).
+ Mô bệnh học: Tăng sừng, á sừng, tăng gai, áp xe Munro, tăng nhú, thâm
nhiễm tế bào viêm. Chỉ làm mô bệnh học đối với những bệnh nhân điều trị lần đầu,
nghi ngờ chẩn đoán xác định.
2.1.2.Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
- Mục tiêu 1:
+ Tất cả bệnh nhân chẩn đoán xác định vảy nến.
+ Bệnh nhân đồng ý hợp tác nghiên cứu.
- Mục tiêu 2:
39
+ Nhóm nghiên cứu: 35 bệnh nhân VNTT vừa và nặng (chính là nhóm
nghiên cứu của mục tiêu 3)
+ Nhóm người khỏe: 35 người cùng tuổi, giới và không có bệnh tự miễn,
nhiễm trùng.
- Mục tiêu 3:
NNC:
+ Bệnh nhân VNTT mức độ vừa và nặng, ≥16 tuổi; không dùng thuốc toàn
thân ít nhất 1 tháng.
+ Không có chống chỉ định chiếu UVB-311nm (không có tăng mẫn cảm ánh
sáng, không bệnh lupus ban đỏ hệ thống) và không có chống chỉ định uống MTX
(không có bệnh gan, thận, bệnh về máu, không nghiện rượu).
+ Bệnh nhân đồng ý hợp tác nghiên cứu và đảm bảo thực hiện đúng quy
trình điều trị.
NĐC:
+ Bệnh nhân VNTT mức độ vừa và nặng, ≥16 tuổi; không dùng thuốc toàn
thân ít nhất 1 tháng.
+ Không có chống chỉ định chiếu UVB-311nm (không có tăng mẫn cảm ánh
sáng, không bệnh lupus ban đỏ hệ thống) và không có chống chỉ định uống MTX
(không có bệnh gan, thận, bệnh về máu, không nghiện rượu).
+ Bệnh nhân đồng ý hợp tác nghiên cứu và đảm bảo thực hiện đúng quy trình
điều trị.
2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ
Mục tiêu 1: Bệnh nhân không đồng ý nghiên cứu.
Mục tiêu 2:
- Nhóm nghiên cứu (NNC): Các thể vảy nến đặc biệt, VNTT mức độ vừa,
nặng, bệnh nhân<16 tuổi, có dùng thuốc toàn thân trong 1 tháng. Có chống chỉ định
chiếu UVB-311nm (có tăng mẫn cảm ánh sáng, bệnh lupus ban đỏ hệ thống) và có
chống chỉ định uống MTX (có bệnh gan, thận, bệnh về máu, phụ nữ có thai hoặc
cho con bú, nghiện rượu, nhiễm trùng cấp, mạn, bệnh suy giảm miễn dịch, bệnh ung
40
thư, dị ứng MTX). Bệnh nhân không đồng ý nghiên cứu hoặc không thực hiện đúng
quy trình điều trị.
- Nhóm người khỏe (NNK): có bệnh tự miễn, bệnh gan, thận, nhiễm trùng,
HIV, ung thư các loại.
Mục tiêu 3:
NNC: Các thể vảy nến đặc biệt, VNTT mức độ nhẹ, bệnh nhân<16 tuổi, có
dùng thuốc toàn thân trong 1 tháng. Có chống chỉ định chiếu UVB-311nm (có tăng
mẫn cảm ánh sáng, bệnh lupus ban đỏ hệ thống) và có chống chỉ định uống MTX
(có bệnh gan, thận, bệnh về máu, phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú, nghiện
rượu, nhiễm trùng cấp, mạn, bệnh suy giảm miễn dịch, bệnh ung thư, dị ứng MTX).
Bệnh nhân không đồng ý nghiên cứu hoặc không thực hiện đúng quy trình điều trị.
NĐC: Các thể vảy nến đặc biệt, VNTT mức độ nhẹ, bệnh nhân<16 tuổi, có
dùng thuốc toàn thân trong 1 tháng, có chống chỉ định uống MTX (có bệnh gan,
thận, bệnh về máu, phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú, nghiện rượu, nhiễm trùng
cấp, mạn, bệnh suy giảm miễn dịch, bệnh ung thư, dị ứng MTX). Bệnh nhân không
đồng ý nghiên cứu hoặc không thực hiện đúng quy trình điều trị.
2.2. Vật liệu nghiên cứu
- Methotrexate: Thuốc Methotrexate (MTX) viên nén hàm lượng 2,5 mg do
Khoa Dược BVTƯQĐ 108 cung cấp. Thuốc do Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên dược phẩm Trung ương 1 CPC1-Hà Nội nhập khẩu và phân phối. Thuốc
được cấp phép lưu hành tại Việt Nam với giấy phép nhập khẩu số 15384/QLD-KD.
Ảnh 2.1. Đóng gói Methotrexate
- Hóa chất, sinh phẩm:
+ Bộ kit và hóa chất xét nghiệm 7 cytokine (IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10,
TNF-α và INF-γ) do hãng Bio-Rad (Mỹ) sản xuất.
41
Ảnh 2.2: Bộ kit xét nghiệm 7 cytokine
+ Bộ kit xét nghiệm IL-17 do hãng Sigma (Mỹ) sản xuất.
Ảnh 2.3. Kit xét nghiệm cytokine IL-17
+ Hỗn hợp với số lượng bằng nhau các loại hạt nhựa khác nhau, mỗi loại
được gắn lên bề mặt một trong các loại kháng thể đơn clôn khác nhau đặc hiệu với
các cytokine của người, yếu tố kích thích tạo colony các tế bào đơn nhân và tế bào
hạt, interferon gamma (IFN-γ) và yếu tố hoại tử u alpha (TNF-α).
+ Hỗn hợp kháng thể phát hiện (detecting antibody) chứa các kháng thể đơn
clôn đặc hiệu với các cytokine đã gắn biotin.
+ Phức hợp chất huỳnh quang PE gắn streptavidin.
+ Hỗn hợp chuẩn gồm 27 cytokine của người với nồng độ đã biết.
42
+ Các dung dịch pha mẫu, dung dịch pha sinh phẩm, dung dịch rửa, dung
dịch chạy máy do Bio-Rad sản xuất và cung cấp.
+ Hệ thống Bio-Plex và phần mềm điều khiển đi kèm do hãng Bio-Rad chế
tạo.
Ảnh 2.4. Hệ Thống Bio-Plex xét nghiệm cytokine
Các vật liệu và thiết bị labo phụ trợ khác như máy lắc, máy hút chân không,
các loại pipet, đầu pipet, giấy bạc, giấy thấm, nước cất, ống nghiệm đều đạt tiêu
chuẩn quốc tế được cung cấp từ chính hãng sản xuất.
- Bộ đèn chiếu UVB-311nm: do Công ty Daavlin-Mỹ sản xuất năm 2013
Ảnh 2.5. Bộ đèn UVB-311nm tại Khoa Da liễu-Dị ứng, BVTƯQĐ 108
- Vật liệu khác: Kem Physiogel 250ml do công ty Stiefel-UK sản xuất tại
Thái Lan. Thành phần: Fruit oil, glycerin, glycol, pentylene, palmitamide MEA,
acetamit MEA, squalane, betaine, hydroxyetylxelulo, carbomer, sodium
carbomer… Tác dụng giữ ẩm da cho toàn thân.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
43
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
- Mục tiêu 1: Tiến cứu, mô tả cắt ngang để khảo sát một số yếu tố liên quan
và đặc điểm lâm sàng.
- Mục tiêu 2: Tiến cứu, mô tả cắt ngang có đối chứng so sánh.
- Mục tiêu 2: Tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên có đối chứng so
sánh.
2.3.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
- Mục tiêu 1: chọn mẫu thuận tiện, tất cả bệnh nhân vảy nến đến điều trị nội
trú tại Khoa Da liễu-Dị ứng, BVTƯQĐ 108 từ 8/2015-5/2018.
- Mục tiêu 2: Tính theo công thức của Tổ chức Y tế Thế giới [116]:
[ Z(1-α/2)√2P(1-P) + Zβ√[P1(1-P1) + P2(1-P2)]2
n1= n2=
(P1-P2)2 n1: Cỡ mẫu nhóm nghiên cứu (NNC)
Z1 - α/2: Hệ số tin cậy 95% ( = 1,96)
n2: Cỡ mẫu nhóm đối chứng (NĐC)
Zβ: Lực mẫu (= 1,645)
P1: Tỷ lệ bệnh nhân nhóm nghiên cứu có thay đổi: ước lượng là 99%
(dựa theo nghiên cứu của Phan Huy Thục-2015: tất cả 9 cytokine của bệnh nhân
VNTT đều tăng hơn nhóm người khỏe).
P2: Tỷ lệ nhóm người khỏe có thay đổi: ước lượng là 50% (dựa theo
nghiên cứu của Phan Huy Thục-2015: tất cả 9 cytokine của bệnh nhân VNTT đều tăng
hơn nhóm người khỏe).
P = P1 + P2/2=0,59+0,55=0,725
Kết quả tính toán cỡ mẫu nhóm n1 = n2 ≥ 30. Chúng tôi thực hiện mỗi nhóm
35 (35 bệnh nhân VNTT vừa, nặng và 35 người khỏe)
- Mục tiêu 3: Tính theo công thức của Tổ chức Y tế Thế giới [117]
n1=n2=[Z1-α/2√2P(1-P) +Zβ√P1(1-P1)+P2(1-P2)]2/(P1-P2)2
n1: Cỡ mẫu nhóm nghiên cứu (NNC): Nhóm bệnh nhân VNTT mức độ vừa, nặng
điều trị bằng uống MTX+chiếu UVB-311nm+bôi Physiogel.
44
n2: Cỡ mẫu nhóm đối chứng (NĐC): Nhóm bệnh nhân VNTT mức độ vừa và nặng
Z1-α/2: Hệ số tin cậy 95% (=1,96); Zβ: Lực mẫu (=1,645)
được điều trị bằng uống MTX và bôi Physiogel (không chiếu UVB-311nm).
P1: Tỷ lệ bệnh nhân nhóm nghiên cứu đạt tốt thay đổi là 75%
P2: Tỷ lệ bệnh nhân nhóm đối chứng thay đổi là 55%
P=P1+P2/2
Kết quả tính toán thì cỡ mẫu nhóm 2 (n1=n2) = 33 bệnh nhân. Chúng tôi thực
hiện mỗi nhóm 35 bệnh nhân.
Cách chọn mẫu: Bệnh nhân đủ tiêu chuẩn đưa vào điều trị thì được chọn
theo thứ tự chẵn lẻ: Số lẻ (1,3,5....) đưa vào nhóm nghiên cứu và số chẵn (2,4,6...)
đưa vào nhóm đối chứng cho đến khi đủ số lượng bệnh nhân tính theo cỡ mẫu của
mỗi nhóm.
2.3.3. Các bước tiến hành
2.3.3.1. Mục tiêu 1:
- Lập phiếu nghiên cứu.
- Khám và chẩn đoán xác định bệnh vảy nến (thể bệnh, mức độ bệnh).
- Tư vấn, tuyển chọn bệnh nhân đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu.
- Tuyển chọn bệnh nhân cho nghiên cứu mục tiêu 2 và 3.
- Nhập số liệu vào máy tính và phiếu nghiên cứu.
2.3.3.2. Mục tiêu 2
- Nhóm nghiên cứu (NNC): chính là nhóm nghiên cứu của mục tiêu 3
+ Bệnh nhân đủ tiêu chuẩn điều trị của nhóm nghiên cứu (nhóm chiếu UVB-
311nm kết hợp uống MTX 7,5 mg/tuần + bôi Physiogel 1 lần tối x 4 tuần nội trú).
+ Giải thích cho bệnh nhân hiểu qui trình nghiên cứu (dùng thuốc, xét
nghiệm và thời gian điều trị nội trú 4 tuần).
+ Lấy máu xét nghiệm lần 1 trước khi bắt đầu điều trị: TCD4, TCD8, IL-2,
IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17, TNF-α, IFN-γ và xét nghiệm HC, BC, TC, ure,
creatinin, SGOT, SGPT.
*Xét nghiệm trong 2 giờ đầu gồm: TCD4, TCD8 và máu thường qui.
45
*Lưu huyết thanh để xét nghiệm các IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17,
TNF-α, IFN-γ (để tủ lạnh -80 C liên tục cho đến khi đi làm xét nghiệm), mã hóa số
bệnh nhân ghi lên mẫu và lưu sổ sách. ⁰
+ Tiến hành điều trị theo phác đồ: 4 tuần nội trú.
+ Lấy máu lần 2 khi điều trị kết thúc 4 tuần nội trú: các nội dung cần xét
nghiệm như lần 1.
+ Tiến hành xét nghiệm các cytokine: Khi đủ số mẫu nghiên cứu và chạy
máy cùng một lúc.
+ Ghi chép mã hóa bệnh nhân nghiên cứu vào phiếu nghiên cứu.
- Nhóm người khỏe (NNK):
+ Tuyển chọn người khỏe đủ tiêu chuẩn (tương đồng về tuổi, giới, không có
bệnh miễn dịch, nhiễm trùng cấp, mạn).
+ Lấy máu 1 lần xét nghiệm cytokine IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17,
TNF-α, IFN-γ: ly tâm, lưu huyết thanh như nhóm nghiên cứu và mã hóa mẫu, ghi
chép lưu lại.
Đánh giá kết quả:
+Xác định số lượng trung bình TCD4, TCD8 trước và sau điều trị.
+Nồng độ trung bình các cytokine trước và sau điều trị.
+So sánh nồng độ trung bình các cytokine NNC với NNK.
2.3.3.3. Mục tiêu 3
- Tuyển chọn bệnh nhân VNTT đủ tiêu chuẩn vào điều trị cho 2 nhóm.
- Xác định mức độ bệnh: PASI.
- Xét nghiệm trước điều trị (lần 1): các chỉ số cần xét nghiệm
*Nhóm nghiên cứu: TCD4, TCD8, IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17,
TNF-α, IFN-γ và xét nghiệm HC, BC, TC, ure, creatinin, SGOT, SGPT. Trong đó,
xét nghiệm ngay: trong 2 giờ đầu gồm: TCD4, TCD8 và máu thường qui còn lưu
huyết thanh để xét nghiệm các IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17, TNF-α, IFN-γ
(để tủ lạnh -80 C liên tục cho đến khi đi làm xét nghiệm) và mã hóa số bệnh nhân
ghi lên mẫu, lưu sổ sách. ⁰
46
*Nhóm đối chứng: HC, BC, TC, ure, creatinin, SGOT, SGPT (không xét
nghiệm cytokine và TCD4, TCD8).
- Tiến hành điều trị cho 2 nhóm theo qui trình: 4 tuần nội trú và 8 tuần ngoại
trú.
- Xét nghiệm lần 2 sau 4 tuần điều trị nội trú: Các chỉ số xét nghiệm như lần
1 của mỗi nhóm.
- Qui trình điều trị:
+ Nhóm nghiên cứu (NNC):
* Chiếu UVB-311nm: dựa vào tuýp da, toàn bộ bệnh nhân đều tuýp 4. Liều
chiếu khởi đầu 500 mJ/cm2, tăng sau mỗi lần chiếu 100 mJ/cm2 cho đủ 2500
mJ/cm2 lần chiếu cuối cùng (khoảng cách chiếu máy đã có định sẵn). Chiếu 1
lần/ngày x 5 ngày/tuần x 4 tuần (trừ thứ 7 và chủ nhật).
* MTX: Uống 7,5 mg/tuần (3 viên) uống 1 lần vào một ngày cố định trong
tuần.
* Kem Physiogel bôi ngày 1 lần tối trong 4 tuần nội trú.
+ Nhóm đối chứng (NĐC):
* Uống MTX 7,5 mg/tuần (3 viên) uống 1 lần vào 1 ngày cố định trong tuần
* Physiogel: Bôi 1 lần/ngày tối trong 4 tuần nội trú.
- Đánh giá kết quả của 2 nhóm:
+ Kết quả điều trị trên lâm sàng sau 2 tuần, 4 tuần nội trú bằng PASI (PASI
giảm sau điều trị).
- Đánh giá tác dụng không muốn sau 2 tuần, 4 tuần điều trị: tác dụng lâm
sàng và xét nghiệm máu (HC, BC, TC, ure, creatinin, SGOT, SGPT).
- Tái phát sau 1, 2 và 3 tháng sau khi kết thúc điều trị.
47
2.3.4. Các chỉ số, biến số trong nghiên cứu
Tên biến Khái niệm Loại biến Phương Công cụ
số pháp thu thu thập
thập
Tuổi Tính năm dương lịch, dựa trên Tỷ suất Phỏng vấn Phiếu hỏi
năm sinh, năm nghiên cứu
Giới Nam hay nữ Biến nhị Phỏng vấn Phiếu hỏi
phân
Địa dư Mô tả địa dư: nông thôn, thành Biến danh Phỏng vấn Phiếu hỏi
mục thị
Nghề Học sinh, công nhân, tự do, Biến danh Phỏng vấn Phiếu hỏi
mục nghiệp nhân viên...
Tiền sử Bố mẹ, anh chị em ruột, ông bà Biến nhị Phỏng vấn Phiếu hỏi
phân gia đình bị vảy nến
Các yếu tố Thức ăn, rượu bia. Stress, Biến danh Phỏng vấn Phiếu hỏi
khởi động nhiễm khuẩn khu trú, thuốc, nội mục
tiết, thời tiết...
Tuổi đời Tuổi đời: tính theo năm dương Biến tỷ Phỏng vấn Phiếu hỏi
và tuổi lịch, dựa trên năm sinh và năm suất
khởi phát nghiên cứu
Tuổi bệnh Tính theo năm: tính từ khi bị Biến tỷ Phỏng vấn Phiếu hỏi
bệnh đến năm nghiên cứu suất
Vị trí tổn Các vị trí tổn thương: đầu, chi Biến nhị Phỏng vấn Khám
thương trên, chi dưới, thân mình... phân thực thể
Mức độ Nhẹ, vừa, nặng Biến thứ Quan sát, Theo
hạng khám xét PASI bệnh
Dựa theo PASI: nhẹ<10, vừa: Biến thứ Quan sát Phiếu Tổng
điểm triệu 10-<20, nặng ≥20 hạng và phỏng đánh giá
chứng vấn PASI
48
Cận lâm SGOT, SGPT, ure, creatinin, Biến tỷ Quan sát Phiếu xét
sàng HC, BC, TC, TCD4, TCD8, IL- suất nghiệm
2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL- khoảng
17... chia
Tác dụng Nhức đầu, chán ăn, đỏ da, mụn Biến nhị Khám lâm Phiếu hỏi
không nước, rát.... phân sàng,
mong phỏng vấn
muốn
2.3.5. Các kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu
2.3.5.1. Kỹ thuật xác định TCD4, TCD8
Nguyên lý: Kháng nguyên CD4 có trên bề mặt tế bào lympho T hỗ trợ, tế bào
mono và một số bạch cầu hạt hoạt hóa. Còn CD8 là kháng nguyên trên bề mặt các tế
bào lympho T gây độc và lympho T ức chế, CD19 là kháng nguyên trên bề mặt tế
bào lympho B và CD16+56 là kháng nguyên bề mặt các tế bào diệt tự nhiên. Vì
vậy, khi phân tích mẫu bằng kỹ thuật tế bào dòng chảy dùng các kháng thể đơn
dòng kháng CD3, CD4, CD8, CD19, CD16+56 có chất nhuộm huỳnh quang khác
nhau, ta có thể đồng thời phát hiện và xác định chính xác các dấu ấn trên bề mặt các
tế bào lympho cũng như có thể đếm được tỷ lệ phần trăm và số lượng tuyệt đối các
tế bào lympho TCD3, TCD4, TCD8, CD19, CD16+56 trong mẫu bệnh phẩm.
Mỗi bệnh nhân lấy 2 ml máu tĩnh mạch, chống đông bằng EDTA, gửi đến phòng
xét nghiệm trong vòng 1 giờ, bảo quản lạnh.
Tiến hành đếm số lượng tế bào và các thành phần tế bào máu ngoại vi bằng máy
huyết học tự động ADVIA 2120i.
Xác định số lượng và tỷ lệ tế bào lympho T bằng kỹ thuật phân tích tế bào dòng
chảy (flow cytometry) trên thiết bị FACS Callibur (BD- Hoa Kỳ) qua các bước:
- Nhuộm và cố định: Mẫu được nhuộm với thuốc thử chứa kháng thể kháng CD
tương ứng, trộn đều, ủ 15 phút ở nhiệt độ phòng, tránh ánh sáng.
- Ly giải hết hồng cầu trong hỗn hợp mẫu-thuốc thử bằng dung dịch FASC
LYSING trong 10 phút ở nhiệt độ phòng, tránh ánh sáng.
- Phân tích kết quả trên máy.
49
Kết quả được thể hiện bằng số lượng tuyệt đối (số tế bào/ml máu) và tỷ lệ phần
trăm so với tổng số lượng tế bào lympho. Máy sẽ thu nhận và khoanh vùng lần lượt
các tín hiệu quần thể lympho T (CD45+, CD3+), lympho-help (CD45+, CD3+,
CD4+), quần thể lympho T-toxic (CD45+, CD3+, CD8+).
Với mỗi mẫu máu, máy sẽ tự động cho 5 chỉ tiêu miễn dịch là số lượng TCD3,
TCD4, TCD8, CD19 và CD16+56.
Xét nghiệm được tiến hành tại khoa Huyết học Bệnh viện trung ương quân đội
108.
Ảnh 2.6. Kết quả xét nghiệm các CD
2.3.5.2. Kỹ thuật xét nghiệm cytokine
- Nguyên lý phản ứng phát hiện cytokine: Cytokine được phát hiện bằng
phản ứng miễn dịch huỳnh quang kiểu sandwich trên bề mặt của các vi hạt nhựa. Bề
mặt của vi hạt được gắn sẵn các phân tử kháng thể đơn clôn đặc hiệu với một quyết
định kháng nguyên trên phân tử cytokine. Khi ủ mẫu xét nghiệm với hạt phủ kháng
thể, các phân tử cytokine sẽ bị kháng thể đặc hiệu bắt giữ và bám vào bề mặt hạt.
Sau đó kháng thể đơn clôn thứ hai đặc hiệu với một quyết định kháng nguyên khác
50
của cytokine đã gắn biotin được thêm vào, tạo thành phức hợp miễn dịch gồm phân
tử cytokine kẹp giữa hai kháng thể đơn clôn. Cuối cùng phức hợp streptavidin-PE
được thêm vào sẽ gắn vào kháng thể đơn clôn qua tương tác streptavidin-biotin.
Dước tác động của tia laser bước sóng tử ngoại PE sẽ phát ra ánh sáng huỳnh quang
chứng tỏ sự có mặt của cytokine trong mẫu xét nghiệm. Lượng PE gắn vào tỷ lệ
thuận với lượng kháng thể thứ hai hay lượng cytokine có trên bề mặt hạt nhựa. Dựa
vào mật độ huỳnh quang phát ra từ các hạt được ủ với những nồng độ cytokine đã
biết cho phép định lượng được cytokine.
- Nguyên lý kỹ thuật flow cytometry-assisted immunoassay: Kỹ thuật flow
cytometry-assisted immunoassay sử dụng các hạt có kích thước bằng nhau (tương
tự như tế bào) nhưng phát ra tín hiệu huỳnh quang khác nhau làm giá đỡ để gắn các
phân tử sinh học như kháng thể đặc hiệu lên bề mặt. Các hạt này được phân tích
bằng phương pháp đếm tế bào/hạt theo dòng chảy (flow cytometry) với hai nguồn
laser và detector khác nhau để kích thích và nhận hai loại tín hiệu huỳnh quang độc
lập do hạt nhựa phát ra (tín hiệu định tính) và từ phản ứng đặc hiệu trên bề mặt hạt
phát ra (tín hiệu định lượng). Nhờ phần mềm máy tính có khả năng phân biệt được
nhiều loại hạt nhựa khác nhau cho phép gắn mỗi loại hạt với một kháng thể đặc hiệu
khác nhau rồi trộn lại để phát hiện đồng thời nhiều kháng nguyên khác nhau trong
cùng một mẫu xét nghiệm.
Sơ đồ 2.1. Nguyên lý phát hiện đồng thời nhiều cytokine (minh hoạ cho 2 chất)
- Qui trình xét nghiệm định lượng cytokine: Lấy 3 ml máu ly tâm tách huyết
thanh ở 4oC, tốc độ 4.000 vòng/phút trong 30 phút rồi chia đều vào 2 ống eppendof
loại 1,5 ml và bảo quản liên tục ở -80oC cho đến khi xét nghiệm.
51
- Qui trình bảo quản các cytokine: Sau khi ly tâm tách huyết thanh, chia đều
vào 2 ống eppendof loại 1,5 ml. Các ống eppendof được mã hóa theo bệnh nhân,
loại bỏ những mẫu huyết thanh có tan máu. Chuyển ngay các ống eppendof có
huyết thanh bảo quản liên tục ở -80oC cho đến khi xét nghiệm. Quá trình ly tâm tách
huyết thanh và bảo quản được tiến hành ở Khoa Sinh học phân tử-BVTƯQĐ 108.
Chia đều 25 µl hỗn hợp các hạt nhựa đã gắn kháng thể vào các giếng của một
microplate 96 giếng. Cho 50 µl huyết thanh hoặc mẫu cytokine chuẩn đã pha loãng
bậc hai với nồng độ khác nhau đã biết vào các giếng và ủ trong điều kiện lắc nhẹ
bằng máy lắc trong 30 phút tại nhiệt độ phòng. Rửa loại bỏ các thành phần không
bám vào hạt bằng phương pháp lọc qua màng lọc với máy hút chân không. Các
giếng sau đó được cho 50 µl hỗn hợp kháng thể đơn clôn kháng cytokine đã gắn
biotin vào và ủ tiếp trong điều kiện như trên để hình thành phức hợp miễn dịch kiểu
sanhdwich. Sau khi rửa như mô tả trên, 50µl dung dịch streptavidin-PE được thêm
vào và ủ trong 15 phút cho gắn vào phức hợp miễn dịch thông qua tương tác biotin-
treptavidin. Sau khi rửa loại bỏ các phức hợp streptavidin-PE tự do, các mẫu xét
nghiệm được phân tích bằng hệ thống Bio-Plex ở chế độ chọn độ nhạy cao. Hệ
thống được lập trình phân tích tối thiểu 200 hạt nhựa cho mỗi cytokine. Chủng loại
hạt nhựa được xác định bởi tín hiệu huỳnh quang do hạt nhựa phát ra. Mật độ huỳnh
quang trung bình do các hạt nhựa cùng loại phát được dùng để định lượng cytokine
bằng cách so sánh với tín hiệu từ các mẫu chuẩn phát ra. Đường chuẩn cho mỗi
cytokine được xây dựng độc lập dựa vào nồng độ đã biết của cytokine đó trong mẫu
cytokine chuẩn.
Kỹ thuật tiến hành tại Trung tâm nghiên cứu y dược học-Học viện Quân Y.
52
2.3.5.3. Xác định liều chiếu theo tuýp da
Tuýp Đặc điểm Liều khởi đầu Tăng liều mỗi Liều tối đa
da (mJ/cm2) lần (mJ/cm2) (mJ/cm2)
I Luôn bỏng nắng, 300 100 2000
không bao giờ xạm
nắng
II Luôn bỏng nắng, đôi 300 100 2000
khi xạm nắng
III Đôi khi bỏng nắng, 500 125 3000
luôn xạm nắng (Nhật)
IV Không bao giờ bỏng 500 125 3000
nắng, luôn xạm nắng
(Việt Nam, Thái Lan)
V Da sắc tố trung bình 800 150 5000
(Ấn Độ)
VI Da đen (Châu Phi) 800 150 5000
2.3.6. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả điều trị
2.3.6.1. Xác định mức độ bệnh
Đánh giá mức độ bệnh dựa theo chỉ số PASI (Psoriasis Area and Severity
Index). Mức độ nhẹ PASI<10, mức độ vừa PASI:10-< 20, mức độ nặng PASI ≥20
[11],[24].
- Cách tính PASI: chỉ số diện tích và độ nặng của bệnh vảy nến
PASI = 0,1(E+D+I)Ah+0,2(E+D+I)Au+0,3(E+D+I)At+0,4(E+D+I)Al.
Trong đó:
+ Chỉ số vùng: 0,1+0,2+0,3+0,4 = 1
Cụ thể: Đầu: 0,1; Chi trên: 0,2; thân người: 0,3; chi dưới: 0,4.
+ Chỉ số độ nặng: Ban đỏ: Erythema (E); Tróc vảy: Desquamation (D);
Thâm nhiễm: Infitration (I).
Mỗi một chỉ tiêu (E, D, I) phân ra 5 mức độ (0-4).
Rất nặng: 4; Nặng: 3; Vừa: 2; Nhẹ: 1; Không: 0.
53
+ Chỉ số diện tích (Area-A): Đầu: Head (H); Thân: Trunk (T); Chi trên:
Upper limds (U); Chi dưới: Lower limds (L).
Mỗi vùng được chia 7 mức độ (0-6): 0: 0%; 1: 1-9%; 2: 10-29%; 3: 30-49%;
4: 50-69%; 5: 70-89%; 6: 90-100%.
2.3.6.2. Đánh giá kết quả điều trị
Hiệu quả lâm sàng được tính bằng phần trăm giảm PASI theo công thức sau
[25]
PASI trước điều trị - PASI sau điều trị / PASI trước điều trị x 100
Dựa vào PASI giảm, chia ra 4 mức độ:
Tốt: PASI ≥ giảm 75%
Khá: PASI giảm 50-<75%
Vừa: PASI giảm 25-<50%
Kém, không kết quả: PASI giảm <25%
Theo Khadka và cộng sự-2015 [117], chia làm 5 mức độ:
Tốt: PASI-90 trở lên
Đạt yêu cầu: PASI-75
Cải thiện: PASI-50
Cải thiện nhẹ: PASI: 1<50
Không đáp ứng: PASI-0
Trong nghiên cứu của chúng tôi sử dụng 4 mức độ của Shikiar và cộng sự-
2006.
2.3.6.3. Xác định tác dụng không mong muốn
- Tác dụng không mong muốn của UVB dải hẹp: Tổn thương da: đỏ, ngứa,
mụn nước,...
- Tác dụng không mong muốn của MTX:
+ Toàn thân: Đau đầu, sốt, ớn lạnh, chóng mặt.
+ Da: Ban đỏ, mụn nước, ban mày đay, rụng tóc.
+ Máu: Ức chế tủy xương, giảm bạch cầu, tăng nguy cơ nhiễm trùng, thiếu
máu hồng cầu khổng lồ, giảm tiểu cầu.
54
+ Hệ thống tiêu hóa: Loét dạ dày, nôn, buồn nôn, ít gặp hơn viêm gan nhiễm
độc, viêm họng, tiêu chảy, viêm ruột.
+ Hệ thống tiết niệu, sinh dục: tăng ure máu, đái máu vi thể, viêm bàng
quang, giảm tinh trùng thoáng qua, quái thai, rối loạn kinh nguyệt.
+ Hệ thần kinh: Tình trạng buồn ngủ, nhìn mờ, trầm cảm cấp.
2.3.6.4. Đánh giá tái phát
Đánh giá tái phát được xác định khi PASI >25 so với ban đầu (tăng 25% so
với ban đầu) [117].
2.3.7. Xử lý số liệu
- Số liệu thu thập được mã hóa, nhập vào máy tính và xử lý theo chương trình
SPSS 18.0, Microsoft Excel 2007.
- Các thuật toán thống kê sử dụng trong nghiên cứu:
+ Tính tỷ lệ phần trăm (%)
+ Tính giá trị trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn
+ So sánh 2 tỷ lệ bằng test χ2
+ So sánh 2 số trung bình quan sát bằng t-test với các dữ liệu phân phối chuẩn.
+ So sánh 2 số trung bình quan sát bằng Mann-Whitney test với các dữ liệu
phân phối không chuẩn.
p > 0,05 - độ tin cậy < 95%; p < 0,05 - độ tin cậy > 95%
p < 0,01 - độ tin cậy > 99%; p < 0,01 - độ tin cậy > 99%
p < 0,001 - độ tin cậy > 99,9%
+ Tính hệ số tương quan r Pearson theo công thức:
2.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.4.1. Địa điểm nghiên cứu
- Bộ môn-Khoa Da liễu-Dị ứng, BVTƯQĐ 108: Nghiên cứu đặc điểm lâm
sàng, một số yếu tố liên quan và điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng
Methotrexate kết hợp UVB-311nm
- Khoa huyết học, BVTƯQĐ 108: xét nghiệm TCD4, TCD8.
55
- Trung tâm nghiên cứu y dược học, Học viện Quân Y: Định lượng các
cytokine IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17, TNF-α, INF-γ.
2.4.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 8/2015 đến tháng 5/2018
2.5. Đạo đức nghiên cứu
- Nghiên cứu được sự chấp thuận của Bệnh viện TƯQĐ108 và Trung tâm
nghiên cứu y dược-Học viện Quân Y.
- Nghiên cứu có sự tham gia tự nguyện của các bệnh nhân, bệnh nhân hiểu rõ
mục đích của nghiên cứu, đồng ý tham gia vào nghiên cứu và có quyền dừng bất cứ
lúc nào với bất cứ lý do gì và không có sự ép buộc nào. Nghiên cứu cũng có sự
đồng ý của các cơ sở nghiên cứu.
- Các bệnh nhân đều được giữ bí mật về các thông tin cá nhân và liên quan.
Các kết quả nghiên cứu liên quan đến cá nhân sẽ được tôn trọng, đảm bảo không bị
tiết lộ.
- Nghiên cứu chỉ nhằm mục đích khoa học, ngoài ra không có mục đích nào
khác.
2.6. Hạn chế của đề tài
Do thời gian điều trị nội trú chỉ 4 tuần nên kết quả điều trị đạt PASI-75 chưa
cao, ảnh hưởng đến kết quả định lượng cytokine.
56
MTX 7,5mg/tuần BÔI PHYSIOGEL 04 TUẦN
CHIẾU UVB-311 nm MTX 7,5mg/tuần BÔI PHYSIOGEL 04 TUẦN
KQ LÂM SÀNG TÁC DỤNG PHỤ
KQ LÂM SÀNG KQ MIỄN DỊCH TÁC DỤNG PHỤ
57
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến
3.1.1. Một số yếu tố liên quan đến bệnh vảy nến
3.1.1.1. Phân bố tuổi đời của bệnh vảy nến
Bảng 3.1. Phân bố bệnh nhân mắc vảy nến theo nhóm tuổi (n=260)
Nhóm tuổi n %
<29 23 8,8
30 - 39 39 15,0
40 – 49 54 20,8
50 – 59 72 27,7
60 – 69 46 17,7
≥ 70 26 10,0
Tổng 260 100
50,4±15,1 (18-89) X ± SD
Nhận xét: Nhóm tuổi từ 50-59 chiếm 27,7%; tuổi từ 40-49 là 20,8%; tuổi từ 60-69:
17,7%; từ 70 tuổi trở lên là 10,0% và thấp nhất ở nhóm dưới 30 tuổi (8,8%).
7.3%
31.9%
15-18 tuổi 19-<40 tuổi ≥40
60.8%
3.1.1.2. Phân bố tuổi khởi phát trong bệnh vảy nến
Biểu đồ 3.1. Phân bố bệnh nhân mắc vảy nến theo tuổi khởi phát (n=260)
58
Nhận xét: 60,8% bệnh nhân tuổi khởi phát bệnh từ 19 đến dưới 40 tuổi, cao hơn hẳn
so với nhóm từ 40 tuổi trở lên (31,9%) và tuổi 18 trở xuống chỉ 7,3%.
21.2%
31.5%
Dưới 5 năm
5-10 năm
Trên 10 năm
47.3%
3.1.1.3. Phân bố thời gian bị bệnh của bệnh vảy nến
Biểu đồ 3.2. Phân bố về thời gian bị bệnh của bệnh nhân vảy nến (n=260)
Nhận xét: Bệnh nhân vảy nến bị bệnh từ 5-10 năm chiếm tỷ lệ cao nhất 47,3%; trên
13.1%
Nam
Nữ
86.9%
10 năm chiếm 31,5% và dưới 5 năm là 21,2%.
3.1.1.4. Phân bố giới tính trong bệnh vảy nến
Biểu đồ 3.3. Phân bố bệnh nhân mắc vảy nến theo giới (n=260)
Nhận xét: Nam chiếm tới 86,9% trong khi chỉ có 13,1% bệnh nhân là nữ.
59
3.1.1.5. Phân bố nghề nghiệp trong bệnh vảy nến
Biểu đồ 3.4. Phân bố bệnh nhân mắc vảy nến theo nghề nghiệp (n=260)
Nhận xét: Bộ đội và bộ đội hưu chiếm nhiều nhất 44,2%; công chức và hưu trí
chiếm 39,6%; ít nhất là học sinh-sinh viên chiếm 5,4%.
2500%
19.6
2000%
1500%
1000%
6.5
6.2
4.2
500%
2.7
0%
Cha
Ông, bà
Mẹ
Tổng
Anh, chị, em ruột
3.1.1.6. Tiền sử gia đình gặp trong bệnh vảy nến
Biểu đồ 3.5. Tiền sử gia đình trong bệnh vảy nến (n =260)
60
Nhận xét: Tiền sử gia đình gặp 19,6%; trong đó cha chiếm cao nhất 6,5%; anh chị
em ruột 6,2%; mẹ 4,2% và thấp nhất là ông bà 2,7%.
3.1.1.7. Phân bố bệnh nhân vảy nến theo mùa
Bảng 3.2. Phân bố bệnh nhân mắc vảy nến theo mùa (n=260)
Mùa n %
Xuân (1-3) 51 19,6
Hạ (4-6) 46 17,7
Thu (7-9) 31 11,9
Đông (10-12) 119 45,8
Không rõ/không nhớ 13 5,0
Tổng 260 100
Nhận xét: Từ tháng 10-12 có tỷ lệ bệnh cao nhất 45,8%; tiếp đến là từ tháng 1-3
chiếm 19,6%; tháng 4-6 (mùa hè) chiếm 17,7%; tháng 7-9 chiếm tỷ lệ thấp nhất
11,9%. Trong đó, có 5,0% bệnh nhân không rõ hoặc không nhớ rõ.
3.1.1.8. Bệnh kết hợp trong bệnh vảy nến
Bảng 3.3. Các bệnh kết hợp gặp trong bệnh vảy nến (n=260)
Các bệnh Số lượt %
Rối loạn chuyển hóa lipid 102 39,2
Tăng huyết áp 49 18,9
Đái tháo đường 22 8,5
Loét dạ dày, tá trang 14 5,4
Bệnh tai-mũi-họng 13 5,0
Bệnh tim mạch 13 5,0
Bạch biến 7 2,7
Viêm gan B 5 1,9
Hen phế quản 4 1,5
Nhận xét: Bệnh kết hợp gặp trong bệnh vảy nến là 145 bệnh nhân chiếm 55,8%;
trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất là rối loạn chuyển hóa lipid 39,2%; tiếp đến tăng
huyết áp 18,9%; đái tháo đường 8,5%; ít nhất là hen phế quản 1,5%.
61
3.1.1.9. Một số yếu tố môi trường (khởi động) gặp trong bệnh vảy nến
Bảng 3.4. Một số yếu tố khởi động gặp trong bệnh vảy nến (n=260)
Yếu tố khởi động Số lượt %
Stress 115 44,2
Chấn thương da (vết xước, chấn thương) 27 10,4
Nhiễm khuẩn (xoang, mũi, họng) 17 6,5
Thuốc (kháng sinh, giảm đau) 22 8,5
Thức ăn (thịt chó, gà, hải sản) bia, rượu 79 30,4
Nhận xét: Stress chiếm cao nhất 44,2%; tiếp theo là thức ăn, đồ uống bia, rượu
30,4%; chấn thương da 10,4% và ít nhất là nhiễm khuẩn khu trú 6,5%.
3.1.2. Một số đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến
1.9% 4.2%
1.2%
8.5%
Đầu Chi trên Lưng Ngực Chi dưới
84.2%
3.1.2.1. Vị trí tổn thương khởi phát gặp trong bệnh vảy nến
Biểu đồ 3.6. Vị trí tổn thương lúc khởi phát bệnh (n=260)
Nhận xét: Vị trí tổn thương khởi phát gặp chủ yếu vùng da đầu chiếm 84,2%; tiếp
đến chi trên 8,5%; chi dưới 4,2%; ngực 1,9%; ít gặp nhất là vùng lưng 1,2%.
62
120
100.0
100.0
94.2
100
80
71.2
67.7
60
34.2
40
17.3
20
6.5
0
Đầu
Mặt
Chi dưới Nếp gấp Móng
Khớp
Chi trên Thân mình
3.1.2.2. Vị trí tổn thương hiện tại gặp trong bệnh vảy nến
Biểu đồ 3.7. Vị trí tổn thương hiện tại (n=260)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.7 cho thấy vị trí tổn thương hiện tại ở thân mình và chi
trên chiếm 100%, chi dưới 94,2%; đầu 71,2%; ít nhất là tổn thương khớp 6,5%.
3.1.2.3. Các thể lâm sàng gặp trong bệnh vảy nến
Bảng 3.5. Các thể lâm sàng của bệnh vảy nến (n=260)
Thể lâm sàng n %
Vảy nến thông thường 218 83,9
Viêm khớp vảy nến 17 6,5
Vảy nến đỏ da toàn thân 16 6,1
Vảy nến mụn mủ 9 3,5
Tổng 260 100,00
Nhận xét: Kết quả bảng 3.5 cho thấy, vảy nến thông thường chiếm tỷ lệ cao nhất
83,9%; viêm khớp vảy nến chiếm 6,5%; vảy nến đỏ da toàn thân chiếm 6,1% và ít
nhất là vảy nến mụn mủ 3,5%.
63
Biểu đồ 3.8. Các thể lâm sàng bệnh vảy nến thông thường (n=218)
Nhận xét: Riêng vảy nến thông thường thì thể kết hợp chiếm tỷ lệ cao nhất 62,9%;
vảy nến mảng 24,3%; vảy nến giọt 6,9% và tỷ lệ thấp nhất là vảy nến đồng tiền
6,0%.
3.1.2.4. Phân bố theo mức độ bệnh của bệnh vảy nến
Biểu đồ 3.9. Phân bố mức độ bệnh vảy nến (n=260)
Nhận xét: Mức độ vừa cao nhất 49,6%; mức độ nặng 26,9%; mức độ nhẹ 23,5%.
64
3.2. Kết quả xét nghiệm miễn dịch trong máu của bệnh nhân VNTT mức độ
vừa và nặng trước và sau điều trị của NNC
3.2.1. Kết quả TCD4, TCD8 máu ngoại vi của bệnh nhân VNTT vừa và nặng
của NNC
3.2.1.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.6. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu (n=35)
Chỉ số n %
Tuổi trung bình (X ± SD) 51,5 ± 14,9 (18-81)
Giới tính Nam 30 85,7
Nữ 5 14,3
Mức độ bệnh Vừa 23 65,7
Nặng 12 34,3
PASI (X ± SD) 17,4 ± 5,2
Nhận xét: Tuổi trung bình là 51,5± 14,9. Mức độ vừa chiếm 65,7% ; mức độ nặng
34,3%. Nam là chủ yếu chiếm 85,7%; nữ 14,3%.
3.2.1.2. Kết quả định lượng TCD4, TCD8 trong máu ngoại vi
Bảng 3.7. Kết quả số lượng TCD4, TCD8 trong máu bệnh nhân VNTT (n=35)
Trước điều trị Sau điều trị p TCD (X±SD) (X±SD) (sign test) (tb/µl) (tb/µl)
TCD4(tb/µl) 682,3 ± 266,2 511,4 ± 196,7 <0,001
TCD8 (tb/µl) 611,9 ± 365,6 419,7 ± 191,0 <0,001
Nhận xét: Số lượng TCD4 và TCD8 sau điều trị đều giảm có ý nghĩa thống kê, đều với
p<0,001.
65
- Mối liên quan giữa số lượng TCD4, TCD8 với mức độ bệnh:
Bảng 3.8. Liên quan giữa số lượng TCD4 với mức độ bệnh (n=35)
Trước điều trị Sau điều trị p TCD4 n (X±SD) (X±SD) (Sign test) (tb/µl) (tb/µl)
Mức độ vừa 23 672,6 ± 237,6 518,9 ± 219,4 <0,001
Mức độ nặng 12 701,0 ± 324,8 497,0 ± 151,7 <0,01
p (Mann-whitney test) >0,05 >0,05
Nhận xét: Kết quả tại bảng 3.8 cho thấy không có mối liên quan giữa số lượng TCD4
với mức độ bệnh (p>0,05). Nhưng số lượng TCD4 sau điều trị của cả mức độ vừa và
nặng đều giảm có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị, với p<0,001; <0,01 theo thứ
tự.
Bảng 3.9. Liên quan giữa số lượng TCD8 với mức độ bệnh (n=35)
Trước điều trị Sau điều trị p TCD8 n (X±SD) (X±SD) (Sign test) (tb/µl) (tb/µl)
Mức độ vừa 23 616,2 ± 317,8 421,2 ± 203,9 <0,001
Mức độ nặng 12 603,8 ± 459,2 416,8 ± 172,0 <0,05
p (Mann-whitney test) >0,05 >0,05
Nhận xét: Kết quả tại bảng 3.9 cho thấy số lượng TCD8 sau điều trị của cả mức độ vừa
và nặng đều giảm có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị, với p<0,001; <0,05 theo
thứ tự, nhưng không có mối liên quan giữa số lượng TCD8 với mức độ bệnh (p>0,05).
66
- Liên quan giữa số lượng TCD4, TCD8 trước-sau điều trị với giới tính:
Bảng 3.10. Liên quan giữa TCD4 với giới tính (n=35)
Trước điều trị Sau điều trị p (X±SD) (X±SD) TCD4 n (Sign test) (tb/µl) (tb/µl)
Nam 30 688,8±279,4 517,6±203,5 <0,001
Nữ 643,8±184,8 474,0±163,0 >0,05 5
p (Mann-whitney test) >0,05 >0,05
Nhận xét: Số lượng TCD4 sau điều trị của nam đã giảm có ý nghĩa thống kê so với
trước điều trị, với p<0,01; còn nữ thì sự thay đổi sau điều trị chưa có ý nghĩa thống kê,
với p>0,05.
Bảng 3.11. Liên quan giữa TCD8 với giới tính (n=35)
Trước điều trị Sau điều trị p TCD8 n (X±SD) (X±SD) (Sign test) (tb/µl) (tb/µl)
Nam 30 644,3±380,3 431,8±198,8 <0,001
Nữ 417,6±179,3 347,0±125,5 >0,05 5
p (Mann-whitney test) >0,05 >0,05
Nhận xét: Tại bảng 3.11 cho thấy số lượng TCD8 của nam sau điều trị giảm so với
trước điều trị có ý nghĩa thống kê, với p<0,001; còn nữ số lượng TCD8 sau điều trị thì
sự thay đổi chưa có nghĩa thống kê, với p>0,05.
3.2.2. Kết quả định lượng các cytokine huyết thanh bệnh nhân VNTT vừa và
nặng của NNC
67
3.2.2.1. Đặc điểm của 2 nhóm
Bảng 3.12. Đặc điểm cá nhân của 2 nhóm
Chỉ số NNC (n =35) NNK (n =35) p
Tuổi >0,05* 48,7 ± 12,8 51,5 ±14,9
30 (85,7%) 28 (80,0%) Nam Giới >0,05** 5 (14,3%) 7 (20,0%) Nữ
Vừa 23 (65,7%) Mức độ bệnh Nặng 12 (34,3%)
PASI (X ± SD) 17,4 ± 5,2
*t-test ** Chi-square test (NNC: nhóm nghiên cứu; NNK: nhóm người khỏe)
Giai đoạn hoạt động 35 (100%)
Nhận xét: NNC và NNK tương đồng về tuổi đời và giới tính, đều với p>0,05.
3.2.2.2. Kết quả định lượng cytokine trước điều trị
Bảng 3.13. So sánh nồng độ cytokine trước điều trị của NNC với NNK
Cytokine NNC (n=35) NNK (n=35) p (Mann-whitney
(pg/ml) (X±SD) (X±SD) test)
IL-2 (pg/ml) 86,259 ± 70,50 5,000 ± 0,000 <0,001
IL-4 (pg/ml) 8,041 ± 9,646 3,829 ± 5,541 <0,01
IL-6 (pg/ml) 16,687 ± 79,244 3,084 ± 6,413 >0,05
IL-8 (pg/ml) 53,024 ± 228,239 25,264 ± 66,821 <0,05
IL-10 (pg/ml) 1,984 ± 2,113 1,000 ± 0,000 <0,05
IL-17 (pg/ml) 1,798 ± 2,062 2,000 ± 0,000 <0,001
TNF-α (pg/ml) 3,438 ± 11,090 1,715 ± 1,371 >0,05
INF-γ (pg/ml) 8,311 ± 3,214 9,099 ± 2,894 >0,05
68
Nhận xét: Nồng độ IL-2, IL-4, IL-8, IL-10 đều cao hơn NNK, với p<0,001; <0,01;
<0,05; <0,05 theo thứ tự. IL-6, TNF-α, IFN-γ đều tương đương NNK, với p>0,05.
Riêng IL-17 lại thấp hơn NNK, với p<0,001.
Bảng 3.14. So sánh nồng độ cytokine trước điều trị của NNC mức độ vừa với NNK
Cytokine Mức độ vừa (n=23) NNK (n=35) p (Mann-whitney
test) (pg/ml) (X±SD) (X±SD)
IL-2 (pg/ml) 77,780 ± 72,645 5,000 ± 0,000 <0,001
IL-4 (pg/ml) 4,920 ± 4,908 3,829 ± 5,541 <0,05
>0,05 IL-6 (pg/ml) 1,603 ± 1,432 3,084 ± 6,413
>0,05 IL-8 (pg/ml) 12,565 ± 20,254 25,264 ± 66,821
IL-10 (pg/ml) 2,241 ± 2,437 1,000 ± 0,000 <0,05
IL-17 (pg/ml) 1,327 ± 0,828 2,000 ± 0,00 <0,001
>0,05 TNF-α (pg/ml) 1,561 ± 0,274 1,715 ± 1,371
>0,05 INF-γ (pg/ml) 7,963 ± 2,931 9,099 ± 2,894
Nhận xét: IL-2, IL-4, IL-10 bệnh VNTT mức độ vừa cao hơn NNK còn IL-6, IL-8,
TNF-α, INF-γ tương đương với NNK, với p>0,05. Riêng IL-17 thấp hơn NNK.
Bảng 3.15. So sánh nồng độ cytokine trước điều trị của NNC mức độ nặng với NNK
Cytokine Mức độ nặng (n=12) NNK (n=35) p (Mann-
(pg/ml) (X±SD) (X±SD) whitney test)
IL-2 (pg/ml) 102,509 ± 66,116 5,000 ± 0,000 <0,001
IL-4 (pg/ml) 14,022 ± 13,416 3,829 ± 5,541 <0,001
IL-6 (pg/ml) 45,597 ± 134,231 3,084 ± 6,413 <0,001
IL-8 (pg/ml) 130,570 ± 387,571 25,264 ± 66,821 <0,05
IL-10 (pg/ml) 1,490 ± 1,230 1,000 ± 0,000 <0,01
IL-17 (pg/ml) 2,699 ± 3,228 2,000 ± 0,000 >0,05
69
TNF-α (pg/ml) 7,036 ± 18,934 1,715 ± 1,371 >0,05
INF-γ (pg/ml) 8,977 ± 3,743 9,099 ± 2,894 <0,01
Nhận xét: Nồng độ IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, INF-γ mức độ nặng đều cao hơn
NNK. IL-17 và TNF-α không thay đổi so với NNK, đều với p>0,05.
Bảng 3.16. So sánh nồng độ cytokine giữa các mức độ bệnh của NNC
Cytokine Mức độ nặng (n=12) Mức độ vừa (n=23) p (Mann-whitney
(pg/ml) X±SD X±SD test)
IL-2 (pg/ml) 102,509 ± 66,116 77,780 ± 72,645 >0,05
IL-4 (pg/ml) 14,022 ± 13,416 4,920 ± 4,908 <0,05
IL-6 (pg/ml) 45,597 ± 134,231 1,603 ± 1,432 <0,01
IL-8 (pg/ml) 130,570 ± 387,571 12,565 ± 20,254 >0,05
IL-10 (pg/ml) 1,490 ± 1,230 2,241 ± 2,437 >0,05
IL-17 (pg/ml) 2,699 ± 3,228 1,327 ± 0,828 >0,05
TNF-α (pg/ml) 7,036 ± 18,934 1,561 ± 0,274 >0,05
INF-γ (pg/ml) 8,977 ± 3,743 7,963 ± 2,931 >0,05
Nhận xét: Nồng độ IL-4, IL-6 mức độ nặng cao hơn mức độ vừa, còn các cytokine
khác sự thay đổi chưa có ý nghĩa thống kê, đều với p>0,05.
- Mối liên quan giữa cytokine với một số yếu tố liên quan của NNC
Bảng 3.17. Liên quan giữa nồng độ cytokine với giới tính của NNC
Cytokine Nam (n=30) Nữ (n=5) p (Mann-whitney
(pg/ml) X± SD X±SD test)
IL-2 (pg/ml) 87,205 ± 70,538 80,581 ± 78,303 >0,05
IL-4 (pg/ml) 7,138 ± 8,480 13,454 ± 15,057 >0,05
IL-6 (pg/ml) 18,262 ± 85,583 7,235 ± 11,977 >0,05
IL-8 (pg/ml) 55,760 ± 245,981 36,605 ± 61,012 >0,05
70
IL-10 (pg/ml) 1,968 ± 2,207 2,079 ± 1,616 >0,05
IL-17 (pg/ml) 1,843 ± 2,210 1,524 ± 0,775 >0,05
TNF-α (pg/ml) 3,761 ± 11,976 1,5 ± 0 >0,05
INF-γ (pg/ml) 8,392 ± 3,221 7,825 ± 3,496 >0,05
Nhận xét: Sự thay đổi nồng độ các cytokine giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống
kê, đều với p>0,05.
Bảng 3.18. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine với nhóm tuổi của NNC
Cytokine 18-39 40-69 ≥70 p (kwallis
(pg/ml) (n=8) (n=23) (n=4) test)
IL-2 61,096 ± 67,294 94,414 ± 72,213 89,691 ± 72,901 >0,05
IL-4 4,475 ± 3,656 9,483 ± 11,047 6,877 ± 8,754 >0,05
IL-6 1,331 ± 1,323 24,594 ± 97,536 1,932 ± 1,499 >0,05
IL-8 5,598 ± 2,909 72,226 ± 281,078 37,463 ± 43,013 >0,05
IL-10 1,007 ± 0,021 2,000 ± 2,216 3,840 ± 2,731 >0,05
IL-17 1,777 ± 0,630 1,977 ± 2,477 0,809 ± 0,841 >0,05
TNF-α 1,500 ± 0,000 4,438 ± 13,674 1,564 ± 0,564 >0,05
IFN-γ 6,061 ± 3,242 9,007 ± 3,156 8,806 ± 1,388 <0,05
Nhận xét: Bảng 3.18 cho thấy không có mối liên quan giữa nồng độ các cytokine
với nhóm tuổi, đều với p>0,05. Riêng IFN-γ có liên quan, với p<0,05.
Bảng 3.19. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine với tuổi bệnh của NNC
Cytokine <5 5-10 >10 p (kwallis
(pg/ml) (n=9) (n=18) (n=8) test)
IL-2 76,475 ± 78,044 93,067 ± 69,410 81,948 ± 72,243 >0,05
IL-4 4,255 ± 3.483 9,979 ± 12.034 7.938 ± 7.632 >0,05
IL-6 1,491 ± 1,327 31,014 ± 110,047 1,545 ± 1,085 >0,05
IL-8 5, 5,224 ± 2,943 90,076 ± 317,312 23,432 ± 31,930 >0,05
IL-10 1,006 ± 0,019 2,054 ± 2,360 2,926 ± 2,430 >0,05
71
IL-17 1,802 ± 0,594 0,809 ± 0,841 >0,05 1,802 ± 0,594
TNF-α 1,500 ± 0,00 5,254 ± 15,451 1,532 ± 0,371 >0,05
IFN-γ 6,135 ± 3,041 8,751 ± 3,068 9,768 ± 2,780 <0,05
Nhận xét: Không có sự liên quan giữa nồng độ cytokine và tuổi bệnh, đều với
p>0,05. Riêng nồng độ INF-γ huyết thanh có liên quan, tuổi bệnh càng cao thì nồng
độ INF-γ càng tăng.
3.2.2.3. Kết quả định lượng cytokine sau điều trị
Bảng 3.20. So sánh nồng độ cytokine sau điều trị của NNC và NNK
Cytokine p (Mann-whitney NNC (n=35) NNK(n=35) (pg/ml) test)
IL-2 (pg/ml) 97,332 ± 77,427 5,000 ± 0,000 <0,001
>0,05 IL-4 (pg/ml) 4,641 ± 6,592 3,829 ± 5,541
>0,05 IL-6 (pg/ml) 11,843 ± 59,241 3,084 ± 6,413
IL-8 (pg/ml) 30,472 ± 56,832 25,264 ± 66,821 <0,05
IL-10 (pg/ml) 1,897 ± 1,771 1,000 ± 0,000 <0,001
IL-17 (pg/ml) 1,543 ± 0,779 2,000 ± 0,000 <0,01
>0,05 TNF-α (pg/ml) 2,496 ± 5,874 1,715 ± 1,371
>0,05 INF-γ (pg/ml) 7,881 ± 2,934 9,099 ± 2,894
Nhận xét: Sau điều trị IL-2, IL-8, IL-10 tăng hơn NNK, IL-4, IL-6, TNF-α, INF-γ
đều tương đương với NNK, với p>0,05. Riêng IL-17 giảm hơn NNK, với p<0,01.
Bảng 3.21. So sánh nồng độ cytokine trước-sau điều trị của NNC (n=35)
Cytokine (pg/ml) Trước điều trị Sau điều trị p (Sign test)
IL-2 (pg/ml) 86,259 ± 70,50 97,332 ± 77,427 >0,05
IL-4 (pg/ml) 8,041 ± 9,646 4,641 ± 6,592 >0,05
IL-6 (pg/ml) 16,687 ± 79,244 11,843 ± 59,241 >0,05
IL-8 (pg/ml) 53,024 ± 228,239 30,472 ± 56,832 >0,05
72
IL-10 (pg/ml) 1,984 ± 2,113 1,897 ± 1,771 >0,05
IL-17 (pg/ml) 1,798 ± 2,062 1,543 ± 0,779 >0,05
TNF- α (pg/ml) 3,438 ± 11,090 2,496 ± 5,874 >0,05
8,311 ± 3,214 7,881 ± 2,934 >0,05 INF-γ (pg/ml)
Nhận xét: Các cytokine sau điều trị (trừ IL-2) có giảm nhưng chưa có ý nghĩa thống
kê, đều với p>0,05.
Bảng 3.22. So sánh cytokine trước-sau điều trị mức độ vừa của NNC (n=23)
Cytokine (pg/ml) Trước điều trị Sau điều trị p (Sign test)
IL-2 (pg/ml) 77,780 ± 72,645 96,333 ± 71,901 >0,05
IL-4 (pg/ml) 4,920 ± 4,908 4,361 ± 5,639 >0,05
IL-6 (pg/ml) 1,603 ± 1,432 16,740 ± 73,122 >0,05
IL-8 (pg/ml) 12,565 ± 20,254 27,753 ± 48,425 >0,05
IL-10 (pg/ml) 2,241 ± 2,437 2,061 ± 1,849 >0,05
IL-17 (pg/ml) 1,327 ± 0,828 1,562 ± 0,788 >0,05
TNF-α (pg/ml) 1,561 ± 0,274 3,040 ± 7,240 >0,05
INF-γ (pg/ml) 7,963 ± 2,931 7,421 ± 3,075 >0,05
Nhận xét: Nồng độ tất cả cytokine trước và sau điều trị mức độ vừa thì sự thay đổi
không có ý nghĩa thống kê, đều với p>0,05.
Bảng 3.23. So sánh cytokine trước-sau điều trị mức độ nặng của NNC(n=12)
Cytokine (pg/ml) Trước điều trị Sau điều trị p (Sign test)
IL-2 (pg/ml) 102,509 ± 66,116 99,247 ± 90,466 >0,05
IL-4 (pg/ml) 14,022 ± 13,416 5,179 ± 8,381 >0,05
IL-6 (pg/ml) 45,597 ± 134,231 2,458 ± 2,789 >0,05
IL-8 (pg/ml) 130,570 ± 387,571 35,683 ± 72,445 >0,05
IL-10 (pg/ml) 1,490 ± 1,230 1,582 ± 1,642 >0,05
IL-17 (pg/ml) 2,699 ± 3,228 1,506 ± 0,796 >0,05
73
TNF- α (pg/ml) 7,036 ± 18,934 1,454 ± 0,161 >0,05
8,977 ± 3,743 8,762 ± 2,532 >0,05 INF-γ (pg/ml)
Nhận xét: Tất cả các cytokine của mức độ nặng trước-sau điều trị thì sự thay đổi
chưa có ý nghĩa thống kê, đều với p>0,05.
3.3. Kết quả điều trị bệnh VNTT mức độ vừa và nặng bằng uống MTX liều
thấp kết hợp chiếu UVB-311nm
3.3.1. Đặc điểm cá nhân của 2 nhóm
Bảng 3.24. So sánh đặc điểm cá nhân của 2 nhóm nghiên cứu
Nhóm Nhóm Chỉ số p nghiên cứu đối chứng
Tuổi trung bình (X ± SD) 51,5± 14,9 52,0 ± 16,0 >0,05*
Nam 30 (85,7%) 29 (82,9%) Giới >0,05** Nữ 5 (14,3%) 6 (17,1%)
Nặng 12 (34,3%) 9 (25,7%) Mức độ bệnh >0,05** Vừa 23 (65,7%) 26 (74,3%)
*t -test
**Chi2 test
***Mann-whitney test
PASI (X±SD) 17,4 ± 5,2 16,6 ±,4,6 >0,05***
Nhận xét: Tuổi trung bình, giới tính, mức độ bệnh và PASI của 2 nhóm đều tương
đương nhau, đều với p>0,05.
3.3.2. Kết quả điều trị của nhóm nghiên cứu (NNC)
3.3.2.1. Kết quả điều trị nội trú của NNC
74
20
17.4
18
16
14
13.1
12
10.1
10
8
6
5.4
4
2
0
Tuần 1
Tuần 2
Tuần 3
Tuần 4
Sign test: p12,13,14,23,24,34 <0,001
Biểu đồ 3.10. Thay đổi chỉ số PASI theo tuần của NNC (n=35)
Nhận xét: Kết quả điều trị giảm dần theo tuần từ PASI trước điều trị 17,4; sau 2
tuần giảm còn 13,1; sau 3 tuần giảm còn 10,1 và sau 4 tuần giảm còn 5,4 (PASI
giảm 69,0%).
75
120
Khá
Kém
Tốt
Vừa
0
100
2.9
11.4
80
51.4
68.6
54.3
60
40
45.7
20
34.3
28.6
2.9
0
0 Tuần 3
0 Tuần 2
Tuần 4
Biểu đồ 3.11. Kết quả điều trị của NNC theo mức độ đánh giá theo tuần (n=35)
Nhận xét: Kết quả tại biểu đồ 3.11 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân đạt khá tốt tăng dần
theo thời gian: sau 2 tuần điều trị chỉ có 45,7% đạt vừa, kém 51,4%; khá 2,9% ; sau
3 tuần khá 34,3%; vừa 54,3%; kém 11,4%. Sau 4 tuần tốt 28,6%; khá 68,6%; vừa
2,9% và không có bệnh không đạt kết quả.
Bảng 3.25. Kết quả điều trị của NNC theo mức độ bệnh (n=35)
Kết quả Nặng Vừa p (Fisher’s exact test)
n % n %
Tốt 0 0 10 43,5
Khá 11 91,7 13 56,5 <0,01 Vừa 1 8,3 0 0
Tổng 12 100 23 100
Nhận xét: Kết quả tại bảng 3.25 cho thấy có mối liên quan giữa mức độ bệnh với
kết quả điều trị, bệnh càng nặng thì kết quả càng kém và ngược lại.
76
Bảng 3.26. Kết quả điều trị của NNC theo tuổi bệnh (n=35)
p (Fisher’s Kết quả <5 năm 5-10 năm >10 năm exact test)
Tốt 3 (33,3%) 4 (22,2%) 3 (37,5%)
Khá 6 (66,7%) 14 (77,8%) 4 (50,0%) >0,05 Vừa 0 0 1 (12,5%)
Tổng 9 (100%) 18 (100%) 8 (100%)
Nhận xét: Kết quả tại bảng 3.26 cho thấy thấy không có sự liên quan giữa kết quả
điều trị và tuổi bệnh, với p>0,05.
Bảng 3.27. Kết quả điều trị của NNC theo tuổi đời (n=35)
18-39 40-69 ≥70 p (Fisher’s Nhóm tuổi (n=7) (n=24) (n=4) exact test)
Tốt 3 (37,5%) 4 (17,4%) 3 (75,0%)
Khá 5 (62,5%) 18 (78,3%) 1 (25,0%) >0,05 Vừa 0 (0%) 1 (4,3%) 0 (0%)
Tổng 8 (100%) 23 (100%) 4 (100%)
Nhận xét: Kết quả tại bảng 3.27 cho thấy không có mối liên quan giữa nhóm tuổi
đời và kết quả điều trị, với p>0,05.
3.3.2.2. Kết quả tác dụng không mong muốn của NNC
Bảng 3.28. Kết quả xét nghiệm máu trước và sau điều trị của NNC (n=35)
Chỉ số Trước điều trị Sau điều trị p (Sign test)
HC >0,05 4,9 ± 0,4 4,9 ± 0,4
BC >0,05 7,0 ± 1,8 7,2 ± 1,8
TC >0,05 260,2 ± 59,3 271,1 ± 72,7
Ure >0,05 5,6 ± 1,5 5,6 ± 1,8
Creatinin >0,05 75,8 ± 15,7 79,1 ± 16,9
AST <0,01 26,0 ± 8,6 29,1 ± 7,9
ALT <0,05 27,9 ± 12,6 30,5 ± 14,3
77
Nhận xét: HC, BC, TC, ure, creatinin trước-sau điều trị đều tương đương nhau, với
p>0,05. Riêng AST, ALT sau điều trị có tăng nhưng vẫn trong giới hạn bình
thường.
Biểu đồ 3.12. Tỷ lệ gặp tác dụng không mong muốn trên lâm sàng của NNC
Nhận xét: 4 tuần điều trị VNTT bằng uống Methotrexate liều 7,5mg/tuần kết hợp
chiếu UVB-311nm, có tác dụng không mong muốn gồm buồn nôn, đỏ da, ngứa nhẹ.
3.3.2.3. Kết quả tái phát sau điều trị của NNC
Bảng 3.29. Tỷ lệ tái phát sau điều trị của NNC (n=35)
Không hoạt động Tái phát Tổng Thời gian n (%) n % n %
31 88,6 4 11,4 35 (100) 1 tháng
27 77,1 8 22,9 35 (100) 2 tháng
23 65,7 12 34,3 35 (100) 3 tháng
Nhận xét: Tỷ lệ tái phát sau 1 tháng là 11,4%; sau 2 tháng 22,9% và sau 3 tháng là
34,3%.
78
3.3.3. Kết quả điều trị nhóm đối chứng (NĐC)
18
16.6
16
14
12.7
12
10
9.6
8
7.3
6
4
2
0
Tuần 1
Tuần 2
Tuần 3
Tuần 4
3.3.3.1. Kết quả điều trị nội trú của NĐC
Sign test: p12,13,14,23,24,34 <0,001
Biểu đồ 3.13. Thay đổi chỉ số PASI theo tuần của nhóm đối chứng (n=35)
Nhận xét: Kết quả tại biểu đồ 3.13 cho thấy PASI trước điều trị là 16,6; sau 2 tuần
điều trị giảm còn 12,7; sau 3 tuần giảm còn 9,6 và sau 4 tuần điều trị PASI giảm
còn 7,3 và sự thay đổi này đều có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
79
Biểu đồ 3.14. Kết quả điều trị của NĐC theo mức độ đánh giá theo tuần (n=35)
Nhận xét: Kết quả tại biểu đồ 3.14 cho thấy kết quả được cải thiện tăng dần theo
tuần điều trị.
Bảng 3.30. Kết quả điều trị của NĐC theo mức độ bệnh (n=35)
Kết quả Nặng Vừa
p (Fisher’s exact test) n % n %
Tốt 0 0 1 3,8
<0,01 Khá 8 88,9 17 65,4
Vừa 1 11,1 8 70,8
Tổng 9 100 26 100
Nhận xét: Có mối liên quan giữa kết quả điều trị với mức độ bệnh, bệnh càng nặng
thì kết quả càng kém và ngược lại, với p<0,01.
80
Bảng 3.31. Kết quả điều trị của NĐC theo tuổi bệnh (n=35)
p (Fisher’s Kết quả <5 năm 5-10 năm >10 năm exact test)
Tốt 0 1 (5,3%) 0
Khá 6 (85,7%) 12 (63,1%) 7 (77,8%)
>0,05 Vừa 1 (14,3%) 6 (31,6%) 2 (22,2%)
Tổng 7 (100%) 19 (100%) 9 (100%)
Nhận xét: Kết quả tại bảng 3.31 cho thấy kết quả điều trị theo nhóm tuổi bệnh (thời
gian bị bệnh) thay đổi không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05. Như vậy, không có
mối liên quan giữa kết quả điều trị với thời gian bị bệnh.
Bảng 3.32. Kết quả điều trị của NĐC theo tuổi đời (n=35)
18-39 40-69 ≥70 p (Fisher’s Nhóm tuổi (n=8) (n=23) (n=4) exact test)
Tốt 0 1 (4,2%) 0
Khá 6 (85,7%) 16 (66,6%) 3 (75,0%)
>0,05 Vừa 1 (14,3%) 7 (29,2%) 1 (25,0%)
Tổng 7 (100%) 24 (100%) 4 (100%)
Nhận xét: Kết quả tại bảng 3.32 cho thấy kết quả điều trị giữa các nhóm tuổi thay
đổi không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05. Như vậy, không có mối liên quan giữa
kết quả điều trị với nhóm tuổi.
3.3.3.2. Kết quả tác dụng không mong muốn của NĐC
Bảng 3.33. Kết quả xét nghiệm máu trước và sau điều trị của NĐC (n=35)
Trước điều trị Sau điều trị Chỉ số p (Sign test) (X±SD) (X±SD)
HC >0,05 4,8 ± 0,4 4,8 ± 0,5
BC >0,05 8,0 ± 2,7 7,6 ± 2,4
TC >0,05 262,5 ± 96,5 282,2 ± 112,7
Ure <0,05 5,0 ± 1,6 5,3 ± 1,2
81
>0,05 Creatinin 76,9 ± 19,8 75,1 ± 20,5
>0,05 AST 26,6 ± 9,8 27,4 ± 15,6
>0,05 ALT 27,3 ± 17,7 33,0 ± 31,7
Nhận xét: HC, BC, TC, creatinin, AST, ALT trước-sau điều trị đều tương đương
nhau, đều với p>0,05. Riêng ure có tăng sau điều trị nhưng vẫn trong giới hạn bình
10
9
8.6
8.6
8
7
6
5
4
3
2
1
0
Buồn nôn
Đau đầu
thường.
Biểu đồ 3.15. Tỷ lệ gặp tác dụng không mong muốn trên lâm sàng của NĐC
Nhận xét: Buồn nôn và đau đầu đều gặp 8,6%. Nhưng chỉ gặp trong 3-5 ngày đầu
của liều thuốc đầu tiên.
3.3.3.3. Kết quả tái phát sau điều trị của NĐC
Bảng 3.34. Tỷ lệ tái phát sau điều trị của NĐC (n=35)
Không hoạt động Tái phát Tổng Thời gian n (%) n % n %
1 tháng 23 65,7 12 34,3 35 (100)
2 tháng 17 48,6 18 51,4 35 (100)
3 tháng 10 28,6 25 71,4 35 (100)
82
Nhận xét: Tỷ lệ tái phát tăng dần theo tháng: sau 1 tháng tái phát 34,3%; sau 2
tháng 52,4% và sau 3 tháng tái phát chiếm 71,4%.
3.3.4. So sánh kết quả điều trị của 2 nhóm
3.3.4.1. So sánh kết quả lâm sàng
Bảng 3.35. So sánh chỉ số PASI của 2 nhóm trước và sau điều trị
Trước ĐT Sau ĐT Chỉ số Nhóm n (X±SD) (X±SD) hiệu quả (%)
NNC 35 17,4 ± 5,2 5,4 ± 2,7 69,0
NĐC 35 16,6 ± 4,6 7,3 ± 2,9 56,0
p (Mann-Whitney >0,05 <0,01 <0,001 test)
Nhận xét: Qua bảng 3.35 cho thấy kết quả điều trị của NNC (PASI giảm 69,0%) tốt
120
Khá
Tốt
Vừa
100
2.8
25.7
80
68.6
60
40
71.4
20
28.6
0
Nhóm nghiên cứu
2.9 Nhóm đối chứng
hơn NĐC (PASI giảm 56,0%) có ý nghĩa thống kê, với p<0,01.
Fisher’s exact test: p<0,01
Biểu đồ 3.16. So sánh kết quả điều trị theo mức độ đánh giá của 2 nhóm
Nhận xét: Kết quả tại biểu đồ 3.16 cho thấy NNC tốt hơn NĐC có ý nghĩa thống kê,
với p<0,001.
83
3.3.4.2. So sánh kết quả tác dụng không mong muốn của 2 nhóm
Bảng 3.36. So sánh tác dụng không mong muốn trên lâm sàng của 2 nhóm
p (Fisher’s Triệu chứng NNC NĐC exact test)
Buồn nôn 2 (5,7%) 3 (8,6%) >0,05
Đau đầu 1 (2,9%) 3 (8,6%) >0,05
Đỏ da 2 (5,7%) 0 (0%) >0,05
Ngứa 2 (5,7%) 0 >0,05
Nhận xét: qua bảng 3.36 cho thấy tác dụng không mong muốn trên lâm sàng của 2
nhóm là tương đương nhau, đều với p>0,05.
3.3.4.3. So sánh tỷ lệ tái phát của 2 nhóm
Bảng 3.37. So sánh tỷ lệ tái phát của 2 nhóm sau 1 tháng
Nhóm Không hoạt động Tái phát p (χ2 test)
NNC 31 (88,6%) 4 (11,4%) <0,05 NĐC 23 (65,7%) 12 (34,3%)
Nhận xét: Sau 4 tuần điều trị, theo dõi tái phát sau 1 tháng của NĐC nhiều hơn
NNC có ý nghĩa thống kê, với p<0,05.
Bảng 3.38. So sánh tỷ lệ tái phát của 2 nhóm sau 2 tháng
Nhóm Không hoạt động Tái phát p (χ2 test)
NNC 27 (77,1%) 8 (22,9%) <0,05 NĐC 17 (48,6%) 18 (51,4%)
Nhận xét: Sau 8 tuần điều trị, theo dõi tái phát sau 2 tháng của NĐC nhiều hơn
NNC có ý nghĩa thống kê, với p<0,05.
Bảng 3.39. So sánh tỷ lệ tái phát của 2 nhóm sau 3 tháng
Nhóm Không hoạt động Tái phát p (χ2 test)
NNC 23 (65,7%) 12 (34,3%) <0,01 NĐC 10 (28,6%) 25 (71,4%)
Nhận xét: Sau 12 tuần điều trị, theo dõi tái phát sau 3 tháng của NĐC nhiều hơn
NNC có ý nghĩa thống kê, với p<0,05.
84
CHƯƠNG 4
BÀN LUẬN
4.1. Một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến
4.1.1. Một số yếu tố liên quan đến bệnh vảy nến
4.1.1.1. Phân bố theo tuổi đời của bệnh vảy nến
260 bệnh nhân vảy nến điều trị nội trú tại Khoa Da liễu-Dị ứng, BVTƯQĐ
108, từ tháng 5/2015-5/2018, kết quả của chúng tôi tại bảng 3.1 cho thấy bệnh nhân
có tuổi đời thấp nhất là 18, cao nhất là 89 tuổi phần lớn bệnh nhân vảy nến tập trung
ở độ tuổi từ 50-59, chiếm 27,7%; 40-49 chiếm 20,8%; 60-69 chiếm 17,7%; 30-39
chiếm 15%; 70 tuổi trở lên 10% và thấp nhất tuổi dưới 29 chiếm 8,8%. Tuổi trung
bình là 50,4±15,1 (18-89).
Theo Nguyễn Lan Hương và cộng sự-2014 cho thấy với 184 bệnh nhân vảy
nến tuổi trung bình là 46,7; trong đó gặp nhiều nhất 40-49 chiếm 33,7%; 50-59
chiếm 21,7%; 60-69 chiếm 13,6%; dưới 40 tuổi là 21,2% và 70 trở lên chỉ chiếm
9,8% [118], theo Nguyễn Bá Hùng và cộng sự-2015, 83 bệnh nhân được nghiên cứu
thì tuổi trung bình là 51,5; trong đó tuổi 50-59 chiếm 27,7%; 40-49 chiếm 19,3%
[119]. Kết quả của chúng tôi tương đương với kết quả của Nguyễn Lan Hương và
Nguyễn Bá Hùng, đều với p>0,05.
Theo Adisen và cộng sự-2018, nghiên cứu 563 bệnh nhân vảy nến thì tuổi
trung bình là 43,3 (thấp nhất 18 và cao nhất 78 tuổi) [120]. Kết quả của chúng tôi
tương đương kết quả của Adisen, với p>0,05. Theo Christophers và cộng sự-2003
bệnh vảy nến gặp cả ở trẻ sơ sinh và tuổi 88 [26]. Theo Meglio và cộng sự-2014,
tuổi bệnh vảy nến hay gặp vào hai đỉnh là 30-39 và quanh 60 [8].
4.1.1.2. Phân bố theo tuổi khởi phát bệnh vảy nến
Kết quả tại biểu đồ 3.1 cho thấy, tuổi khởi phát bệnh ở tuổi 15-18 chiếm
7,3%; 19-<40 chiếm 60,8%; trên 40 là 31,9%. Như vậy, tuổi khởi phát bệnh chủ yếu
dưới 40 chiếm 68,1% [118]. Khởi phát vảy nến trước 40 tuổi, thuộc vảy nến tuýp I,
thường mang tính di truyền, bị tác động mạnh mẽ bởi các yếu tố môi trường làm
bệnh khởi phát.
85
Tuổi khởi phát bệnh vảy nến đã được nghiên cứu trên thế giới cũng như Việt
Nam và phân ra khởi phát sớm (trước 40 tuổi) và khởi phát muộn (sau 40 tuổi)
[21],[26].
Theo Đỗ Tiến Bộ-2012, bệnh vảy nến khởi phát chủ yếu trước 40 tuổi,
chiếm 77,4% [121]. Theo Nguyễn Bá Hùng-2015, tuổi khởi phát trước 40 vẫn
chiếm tỷ lệ cao 79,5% và khởi phát sau 40 tuổi là 20,5%. Như vậy, kết quả của
chúng tôi với kết quả Đỗ Tiến Bộ, Nguyễn Bá Hùng sự thay đổi không có ý nghĩa
thống kê, đều với p>0,05.
Theo Doqra và cộng sự-2016, tuổi khởi phát cao nhất trong độ tuổi từ 20 đến
dưới 40 tuổi, bé trai khởi phát cao nhất là 6-10 tuổi và bé gái khởi phát cao nhất là
tuổi 11-15 [21]. Theo Adisen và cộng sự-2018, tuổi khởi phát trung bình là
32,2±13,8 (thấp nhất 19, cao nhất 63 tuổi) [120].
Căn cứ sự có mặt của HLA-Cw6, liên quan rõ rệt với sự xuất hiện bệnh sớm
và có tiền sử gia đình, Heseler và Christopher chia vảy nến thành hai dạng tồn tại
khác nhau: Vảy nến tuýp I (khởi phát trước 40 tuổi, có HLA-Cw6 và di truyền,
chiếm 80-85% tổng bệnh vảy nến) và vảy nến tuýp II (khởi phát sau 40 tuổi, không
mang HLA-Cw6 và không di truyền, chiếm 15-20% tổng số bệnh nhân vảy nến)
[26],[27],[30].
Nghiên cứu của Mrowietz và cộng sự -2009, khoảng 60% vảy nến là tuýp I,
liên quan đến HLA-Cw6, khởi phát bệnh lứa tuổi trước 40, trong khi đó tuýp II,
khởi phát bệnh ở lứa tuổi sau 40-60, không liên quan đến yếu tố di truyền cũng như
HLA [29].
4.1.1.3. Phân bố theo thời gian bị bệnh vảy nến
Kết quả của chúng tôi tại biểu đồ 3.2 cho thấy, bệnh nhân có thời gian bị
bệnh từ 5 đến 10 năm chiếm nhiều nhất 47,3%; trên 10 năm là 31,5% và dưới 5 năm
thấp nhất 21,2%. Như vậy, tuổi bị bệnh 1-10 năm là 68,5%.
Theo Nguyễn Lan Hương và cộng sự-2014, 184 bệnh nhân vảy nến cho thấy,
bệnh nhân bị bệnh dưới 5 năm chiếm 32,6%; 5-10 năm là 37,5%; trên 10 năm
chiếm 29,9% [118]. Theo Đỗ Tiến Bộ-2012, tuổi bị bệnh từ 1-10 năm chiếm tỷ lệ
cao nhất 74,2% [121]. Theo Nguyễn Bá Hùng-2015, tuổi bị bệnh 1-10 năm chiếm
86
59,0%; trên 10 năm 49,0% [119]. Như vậy, kết quả của chúng tôi phù hợp với kết
quả Nguyễn Lan Hương, Đỗ Tiến Bộ và Nguyễn Bá Hùng, đều với p>0,05. Kết quả
này nói lên các nghiên cứu về tuổi bị bệnh tại các thời điểm khác nhau nhưng trên
cùng một địa dư thì kết quả thay đổi không đáng kể.
Theo Mrowietz và cộng sự-2009, tuổi bệnh dưới 10 năm chiếm 10%; tuổi bị
bệnh dưới 15 năm chiếm 20% và tuổi bị bệnh dưới 40 năm chiếm 60% [29]. Như
vậy, theo tác giả tuổi bị bệnh chủ yếu dưới 40 năm và nói lên bệnh vảy nến là bệnh
mạn tính kéo dài.
4.1.1.4. Phân bố theo giới tính trong bệnh vảy nến
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại biểu đồ 3.3 cho thấy nam là chủ yếu
chiếm 86,9%; nữ 13,1%.
Theo Đỗ Tiến Bộ-2012, nam chiếm 88,7%; nữ 11,3% [121], theo Nguyễn
Lan Hương và cộng sự-2014, nam chiếm 86,9%; nữ 13,1% [118] và theo Nguyễn
Bá Hùng-2015, nam chiếm 83,1%; nữ 16,9% [119]. Kết quả của chúng tôi phù hợp
với kết quả các tác giả trên, đều với p>0,05.
Theo Mrowietz và cộng sự-2009, nam chiếm 60%, nữ 40% [29], theo Adisen
và cộng sự-2018, nữ chiếm 53,9%; nam chiếm 46,1% [120]. Như vậy, kết quả
nghiên cứu về giới tính của các tác giả nước ngoài có khác nhau và kết quả của
chúng tôi có lẽ do nghiên cứu ở các vùng địa lý khác nhau nên chịu tác động của
các yếu tố môi trường khác nhau đối với nam nữ nên cho kết quả khác nhau.
Kết quả của chúng tôi cho thấy tỷ lệ nam bị vảy nến cao hơn nữ do chúng tôi
nghiên cứu tại Khoa Da liễu, BVTƯQĐ 108 là bệnh viện tuyến cuối của quân đội
chủ yếu là quân nhân nam nên tỷ lệ nam giới bao giờ cũng cao hơn.
4.1.1.5. Phân bố theo nghề nghiệp trong bệnh vảy nến
Kết quả tại biểu đồ 3.4 cho thấy bộ đội và bộ đội hưu chiếm nhiều nhất
44,2%; công chức và hưu trí 39,6%; nông dân 10,8%; ít nhất là học sinh-sinh viên
5,4%.
Theo Nguyễn Lan Hương và cộng sự-2014 thì bộ đội chiếm 42,9%; công
chức 41,9%; nông dân 9,2% và học sinh-sinh viên 5,9%, kết quả của chúng tôi phù
hợp, với p>0,05. Theo Nguyễn Bá Hùng-2015, bộ đội chiếm 62,7%; công chức
87
26,5%; học sinh-sinh viên 6,0% [119]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi không phù
hợp với kết quả của Nguyễn Bá Hùng, có thể do nghiên cứu theo thời gian và địa
điểm khác nhau.
Môi trường làm việc và nghề nghiệp đã tác động đến bệnh vảy nến. Một môi
trường làm việc phù hợp với người bệnh vảy nến sẽ giúp cho điều trị duy trì bệnh,
kéo dài thời gian ổn định, sạch bệnh, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho
người bệnh. Do vậy, mỗi người bệnh vảy nến có được nghề nghiệp phù hợp là một
yếu tố quan trọng giúp bệnh nhân vảy nến duy trì và ổn định bệnh.
4.1.1.6. Tiền sử gia đình gặp trong bệnh vảy nến
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại biểu đồ 3.5 cho thấy, tỷ lệ gặp tiền sử
gia đình chiếm 19,6%; trong đó bố hoặc mẹ bị vảy nến chiếm 10,7%; anh, chị em
ruột 6,2% và ông hoặc bà 2,7%.
Theo Đỗ Tiến Bộ-2012, tỷ lệ có tiền sử gia đình gặp trong bệnh vảy nến là
14,5% [121], kết quả của chúng tôi cao hơn có ý nghĩa thống kê, với p<0,05. Theo
Nguyễn Lan Hương và cộng sự-2014, tỷ lệ gặp tiền sử gia đình là 17,9%; trong đó
cha mẹ là 9,8%; anh chị em ruột 5,9%; ông bà 2,2% và theo Nguyễn Bá Hùng-
2015, tỷ lệ tiền sử gia đình gặp là 18,1% trong đó cha mẹ 9,8%; anh chị em ruột
5,6%; ông bà 2,6% [119]. Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả của Nguyễn
Lan Hương và Nguyễn Bá Hùng, đều với p>0,05.
Theo Huang và cộng sự-2019, nghiên cứu yếu tố gia đình tại Đài Loan cho
thấy tỷ lệ tiền sử gia đình chiếm 24,5% trong đó tiền sử gia đình bậc 1 (bố mẹ) là
18,8%; bậc 2 (anh chị em ruột) là 8,3%. Như vậy, kết quả của chúng tôi cũng phù
hợp với kết quả của Huang và cộng sự, với p>0,05.
Theo Naldi và cộng sự-1995, tiền sử gia đình trong bệnh vảy nến thay đổi
tùy theo tác giả chiếm từ 4-91% tổng số bệnh nhân vảy nến [31].
Tiền sử gia đình được cho là một tiêu chí để xác định tuýp của bệnh vảy nến:
Vảy nến tuýp I (có mang HLA-Cw6, khởi phát sớm và có tiền sử gia đình), ngược
lại vảy nến tuýp II (không mang HLA-Cw6, khởi phát muộn và không có tiền sử gia
đình) và khởi phát càng sớm thì càng tìm thấy chắc chắn hơn các trường hợp vảy
nến trong gia đình [31].
88
4.1.1.7. Phân bố bệnh vảy nến theo mùa
Kết quả của chúng tôi tại bảng 3.2 cho thấy gặp bệnh vảy nến tái vượng bệnh
nhiều nhất là mùa đông chiếm 45,8%; tiếp đến là mùa xuân chiếm 19,6%; mùa hè
11,9% và ít nhất là mùa thu 11,9%; không rõ chiếm 5,0%. Như vậy, bệnh tăng vào
mùa lạnh chiếm 65,4%.
Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về vấn đề này. Theo Đỗ Tiến Bộ-2012,
tái phát bệnh liên quan đến mùa, gặp nhiều vào mùa đông chiếm 53,6%; mùa xuân
là 23,2% [121]. Theo Nguyễn Lan Hương và cộng sự-2014, bệnh vảy nến tái phát
hoặc nặng lên vào mùa đông chiếm 47,3%; mùa xuân 21,7%; mùa thu 9,8% và mùa
hè 17,9%; như vậy bệnh tăng vào mùa lạnh [118]. Bệnh vảy nến thường nặng lên
hoặc tái phát vào mùa lạnh (từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau) [119].
Ánh nắng mặt trời, dùng nước ấm có tác dụng tốt đối với bệnh vảy nến, trái
lại dùng nước lạnh dường như làm bệnh phát triển, mùa lạnh bệnh tái phát nhiều
hơn [11]. Chính ánh nắng mặt trời có tác dụng ức chế miễn dịch (lympho T), do đó
các tổn thương vảy nến rất ít gặp ở vùng mặt, là vùng hay tiếp xúc với ánh nắng mặt
trời. Điều này còn được xác định bằng sử dụng các tia cực tím như UVA, UVB để
điều trị vảy nến. Mặc dù vậy, có một nhóm nhỏ bệnh nhân lại bị nặng bệnh hơn
trong mùa hè khi được chiếu nắng, hay gặp ở phụ nữ có tuổi, có mẫn cảm với ánh
nắng, có thể là nguồn gốc của hiện tượng Koebner phụ thuộc phơi nắng [11].
4.1.1.8. Bệnh kết hợp trong vảy nến
260 bệnh nhân vảy nến được chúng tôi nghiên cứu thì có 145 bệnh nhân có
bị bệnh kết hợp chiếm 55,8%. Trong đó, kết quả tại bảng 3.3 cho thấy rối loạn
chuyển hóa lipid chiếm tỷ lệ cao 39,2%; tiếp đến tăng huyết áp 18,9%; đái tháo
đường 8,5%; bệnh tim mạch 5,0%; bạch biến 2,7%; viêm gan 1,9% và ít nhất là hen
phế quản chiếm 1,5%.
Theo Đặng Văn Em và cộng sự-1999, 153 bệnh nhân vảy nến thì bệnh kết
hợp chiếm 29,4% [122]. Theo Đỗ Tiến Bộ-2012, bệnh kết hợp trong bệnh vảy nến
gặp 25,8%; trong đó hội chứng chuyển hóa 17,7%; bệnh thận 4,8%; bệnh tiêu hóa
1,6% [121]. Như vậy, tỷ lệ bệnh kết hợp gặp trong bệnh vảy nến của chúng tôi cao
hơn kết quả Đặng Văn Em, Đỗ Tiến Bộ có ý nghĩa thống kê, đều với p<0,01.
89
Theo Nguyễn Bá Hùng-2015, bệnh kết hợp trong bệnh vảy nến gặp 65,0%;
trong đó tăng lipid máu 31,5%; tăng huyết áp 50,0%; đái tháo đường tuýp 2 chiếm
9,3%; nhồi máu cơ tim 3,7%; đột quị não 3,7%. Kết quả tỷ lệ bệnh kết hợp trong
bệnh vảy nến của chúng tôi phù hợp với kết quả của Nguyễn Bá Hùng, với p>0,05.
Như vậy, các bệnh kết hợp của các tác giả trong nước công bố chủ yếu là rối loạn
chuyển hóa lipid, tăng huyết áp, đái tháo đường.
Theo Adisen và cộng sự-2018, nghiên cứu 563 bệnh nhân vảy nến cho thấy
tăng huyết áp chiếm 14,3%; tăng lipid máu 18,6%; hội chứng chuyển hóa 12,6%;
bệnh tim mạch 3,3%; béo phì 38,7% [120]. Kết quả của chúng tôi có tỷ lệ tăng lipid
máu cao hơn Adisen có ý nghĩa thống kê, với p<0,01 nhưng tỷ lệ tăng huyết áp,
bệnh tim mạch kết quả của chúng tôi tương đương với kết quả Adisen, với p>0,05.
Theo Kimball và cộng sự-2011, nghiên cứu 512 bệnh nhân vảy nến cho thấy
bệnh tăng lipid máu chiếm 27%, tăng huyết áp 25%. Đặc biệt, bệnh nhân vảy nến có
bệnh lý tim mạch nhập viện gấp 4 lần so bệnh nhân vảy nến không có bệnh lý tim
mạch, đây là nguyên nhân gây tăng gánh nặng kinh tế cho bệnh nhân vảy nến [10].
Theo Kaur và cộng sự-2017, một số bằng chứng chỉ ra rằng bệnh vảy nến có
liên quan đến chứng xơ vữa động mạch và nguy cơ mắc các bệnh tim mạch như
bệnh động mạch vành, bệnh tim thiếu máu cục bộ và nhồi máu cơ tim [48]. Kết quả
nghiên cứu dịch tễ cũng đã chứng minh nguy cơ phát triển bệnh tim mạch cao hơn ở
những bệnh nhân bị vảy nến nặng và nguy cơ vẫn tồn tại sau khi điều chỉnh các yếu
tố nguy cơ tim mạch thông thường như béo phì, tăng huyết áp, tiểu đường và hút
thuốc lá [48]. Bệnh nhân vảy nến nặng có nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch cao và
độc lập với các yếu tố rủi ro tim mạch truyền thống [123]. Theo Chu Sung Hu và
cộng sự-2017, bệnh vảy nến liên quan các biến cố mạch máu nghiêm trọng, xơ vữa
động mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa lipid, béo
phì…[124]. Cơ chế gây bệnh do yếu tố di truyền chung (gia tăng một số gen có liên
quan đến nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân vảy nến), liên quan con đường viêm phổ
biến (bệnh vảy nến là bệnh viêm, viêm mạn tính có thể dẫn đến viêm mạch máu, xơ
vữa động mạch, huyết khối… Tăng Th1, Th17, nồng độ cytokine liên quan đến
Th17 (IL-17, IL-6, IL-8) tăng trong máu ngoại vi và IL-17 tăng là trung gian cho
90
viêm mạch máu, phát triển xơ vữa động mạch và bệnh tim mạch đi kèm), phóng
thích các adipokin (viêm hệ thống dẫn đến viêm mô mỡ, thúc đẩy sự phóng thích
adipokin tiền viêm vào máu ngoại vi gồm leptin, adiponectin và resistin), kháng
insulin (bệnh nhân vảy nến kháng insulin cao hơn người bình thường, kháng insulin
tăng sẽ tăng nguy cơ xơ vữa động mạch và bệnh tim mạch) và có hiện tượng tăng
đông (bệnh vảy nến có tăng kích hoạt, kết tập tiểu cầu và tăng nồng độ trong máu
PAI-1 (Plaminogen Activator Inhibitor-1) dẫn đến tăng đông và tăng nguy cơ huyết
khối ở bệnh nhân vảy nến [124]. Kiểm soát bệnh tăng huyết áp ở bệnh nhân vảy nến
khó hơn những bệnh có tăng huyết áp nhưng không bị vảy nến [125].
Hiện nay, có nhiều tác giả đề cập đến hội chứng rối loạn chuyển hóa trong
vảy nến như béo phì, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, kháng insulin, không dung
nạp glucose, bệnh tim mạch, bệnh tâm thần…[30].
4.1.1.9. Một số yếu tố khởi động bệnh vảy nến
- Chấn thương tâm lý (stress): Bệnh vảy nến là bệnh da mạn tính, tái phát
dai dẳng, trong đó vai trò của chấn thương tâm lý (stress) là rất quan trọng và hầu
hết bệnh nhân vảy nến đều bị tác động ở các mức độ khác nhau. Người ta cho rằng,
chấn thương tâm lý tác động sâu sắc đến các mặt đời sống của bệnh nhân vảy nến.
Lượng hóa tác động xấu của chấn thương tâm lý trên từng bệnh nhân vảy nến cụ thể
sẽ có đóng góp tích cực khi đưa ra một chiến lược điều trị dự phòng phù hợp cho
từng bệnh nhân cụ thể [11]. Chấn thương tâm lý bao gồm stress tâm lực (physical),
stress trí óc (metal), stress xúc cảm (emotional), stress tâm lý xã hội… Những stress
này do những căng thẳng quá mức xảy ra trong đời sống hàng ngày của bệnh nhân.
Kết quả gặp chấn thương tâm lý trong bệnh vảy nến của chúng tôi tại bảng
3.4 là 44,2%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với kết quả nghiên cứu của
Đặng Văn Em và cộng sự-1999, trên 153 bệnh nhân vảy nến có 46,4% bị chấn
thương tâm lý ở các mức độ khác nhau [122]. Nguyễn Bá Hùng gặp chấn thương
tâm lý là 42,2% và Nguyễn Lan Hương-2014 gặp chấn thương tâm lý là 42,4%.
Theo Rousset và cộng sự-2018, cho thấy gặp chấn thương tâm lý ở bệnh
nhân vảy nến chiếm 31-88% [39], theo Zeng và cộng sự-2017, tỷ lệ gặp lo lắng,
91
trầm cảm trong bệnh vảy nến chiếm 10-62% [36]. Như vậy, kết qủa của chúng tôi
cũng nằm trong giới hạn kết quả của Rousset và Zeng.
Theo Aurangabadkar-2013, bệnh vảy nến liên quan đến một loạt các vấn đề
tâm lý, bao gồm lòng tự trọng kém, rối loạn chức năng tình dục, lo lắng, trầm cảm
và ý tưởng tự tử... được báo cáo tới 67,0% [49]. Kết quả của chúng tôi thấp hơn có
ý nghĩa thống kê, với p<0,05.
Chấn thương tâm lý trong bệnh vảy nến đã được nhiều tác giả nghiên cứu.
Stress tâm lý xã hội, cảm xúc cũng là một yếu tố nguy cơ tạo vòng luẩn quẩn làm
bệnh kéo dài mạn tính và tác động tâm lý có thể có 1 tháng trước đó, thậm chí 1
năm [35],[39]. Có mối liên quan chặt chẽ, tỷ lệ thuận giữa mức độ nặng của các
triệu chứng vảy nến và các stress tâm lý [11].
Căng thẳng tâm lý được biết là tác động đến bệnh vảy nến thông qua điều
hòa hệ thống miễn dịch và kích hoạt tế bào lympho T [36]. Khi bị chấn thương tâm
lý sẽ tác động lên trục hạ đồi-tuyến yên-thượng thận (Hypothalamus-Pituitary-
Adrenal) tạo ra Corticotrophin Releasing Hormone (CRH) tại Hypothalamus,
Adreno-Corticotropic Hormone (ACTH) tại tuyến yên và cortisol tại tuyến thượng
thận, sự biến đổi này có thể mãi mãi nếu tình trạng stress kéo dài. Hiểu biết về cơ
chế tác động của stress đến bệnh vảy nến góp phần thành công trong chiến lược
điều trị bệnh vảy nến bằng tâm lý trị liệu. Để khống chế tốt stress, cần có sự kết hợp
chặt chẽ giữa bệnh nhân và bác sỹ chuyên khoa để đưa ra chiến lược phù hợp. Thầy
thuốc chuyên khoa cần khai thác, tìm hiểu nguyên nhân gây stress, giải thích để
bệnh nhân lạc quan tin tưởng vào điều trị. Hiện nay người ta đưa ra một số kỹ thuật
kiểm soát stress như tập thể dục thường xuyên, tập thiền, châm cứu, bấm
huyệt…[11],[39].
- Chấn thương da (hiện tượng Koebner): Kết quả nghiên cứu tại bảng 3.4
của chúng tôi cho thấy, chấn thương da (vết xước, chấn thương da) đóng vai trò là
yếu tố khởi động bệnh chiếm 10,4%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có thấp hơn
nghiên cứu của một số tác giả. Theo chúng tôi, tỷ lệ chấn thương da phụ thuộc rất
nhiều vào nghề nghiệp, mức độ ngứa, bảo hộ lao động… của bệnh nhân.
92
Theo Nguyễn Lan Hương-2014, hiện tượng Koebner gặp 9,2%; theo Nguyễn
Bá Hùng-2015, hiện tượng Koebner gặp 11,0% gồm vảy nến xuất hiện trên vết
xước da, vết mổ và sẹo [119]. Kết quả của chúng tôi tương đương với kết quả của
Nguyễn Lan Hương và Nguyễn Bá Hùng, đều với p>0,05. Lý giải cho kết quả này
do các nghiên cứu đều cùng địa dư chỉ khác về thời gian nghiên cứu.
Các kích thích khác nhau này có thể là nguồn gốc khởi động phản ứng viêm
của da, chính phản ứng viêm này kích thích các tế bào thượng bì tiết ra các cytokine
tiền viêm (IL-6, IL-8, TNF-α…), cùng với các phân tử kết dính (ICAM-1) đã hoạt
hóa các tế bào monocyte. Phản ứng tiếp theo là sự lan rộng các chất hoạt hóa
plasminogene. Các enzyme tiêu protein này có tác dụng liền sẹo và tân tạo tổ chức,
trong sinh trưởng và biệt hóa tế bào thượng bì, vì vậy chúng có vai trò lớn trong
sinh bệnh học bệnh vảy nến. Tần suất xuất hiện hiện tượng Koebner thay đổi từ 38-
56% tùy theo tác giả [11]. Hiện tượng Koebner có thể xuất hiện tại tất cả các vị trí
tổn thương hoặc tại một vị trí, thường sau chấn thương 7-14 ngày.
- Nhiễm khuẩn (xoang, mũi, họng): Kết quả nghiên cứu tại bảng 3.4 cho
thấy, nhiễm khuẩn xoang, mũi, họng là yếu tố khởi động bệnh chiếm tỷ lệ 6,5%.
Cho đến nay, có nhiều nghiên cứu khẳng định vai trò nhiễm khuẩn là một yếu tố rất
được quan tâm trong cơ chế bệnh sinh bệnh vảy nến, đặc biệt những bệnh nhân trẻ
tuổi, vảy nến thể chấm giọt. Nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, đôi khi quanh hậu
môn, đặc biệt là liên cầu có thể làm khởi phát, đi kèm một vảy nến thể giọt hoặc
làm nặng một bệnh vảy nến có sẵn [11],[41].
Đặng Văn Em và cộng sự-1999, cho thấy 37,3% bệnh nhân vảy nến có ổ
nhiễm khuẩn khu trú mà chủ yếu là viêm nhiễm tai mũi họng [122]. Kết quả của
chúng tôi thấp hơn rõ rệt (6,5%). Có lẽ do nghiên cứu hai thời gian khác nhau khá
xa (20 năm) nên nhận thức về bệnh của bệnh nhân vảy nến đã được nâng cao hơn,
sự tự chăm sóc và ngăn chặn các yếu tố khởi động bệnh trong đó có nhiễm khuẩn đã
được hạn chế hơn nhiều.
Nguyễn Lan Hương và cộng sự-2014, trên 184 bệnh nhân vảy nến có 6,5%
có nhiễm khuẩn khu trú xoang, mũi họng [118]. Nguyễn Bá Hùng-2015, trên 83
bệnh nhân vảy nến thông thường có 9,6% có ổ nhiễm trùng khu trú mũi họng,
93
xoang [119]. Như vậy, kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả của Nguyễn Lan
Hương và Nguyễn Bá Hùng, đều với p>0,05.
Nguyên nhân nhiễm khuẩn khu trú trong bệnh vảy nến chủ yếu là liên cầu
khuẩn, hay gặp là liên cầu tan huyết β nhóm A gây bệnh chiếm 57,1%; tụ cầu
28,3%. Nhiễm liên cầu dai dẳng có thể gây các vảy nến thể mảng mạn tính, điều trị
đáp ứng tốt khi kết hợp với trị liệu kháng sinh [11],[43]. Cắt amidan đã giúp cải
thiện độ nghiêm trọng bệnh vảy nến đến 90% ở 86% bệnh nhân và kết luận rằng cắt
amidan có tác dụng có lợi đối với bệnh vảy nến giảm số lượng tế bào T lưu hành
đáp ứng với protein M liên cầu [42].
Như vậy, cho đến nay đa số các tác giả đều công nhận các nhiễm khuẩn khu
trú (tai, mũi, họng…) nguyên nhân chủ yếu là liên cầu tan huyết β nhóm A gây khởi
phát (chủ yếu vảy nến thể giọt) hoặc làm nặng và duy trì bệnh vảy nến có sẵn thông
qua kích thích tăng sinh tế bào lympho T. Nhiễm HIV có liên quan đến những đợt
vượng bệnh vảy nến, đóng vai trò là tác nhân gây biến đổi bệnh chứ không phải
kích hoạt.
- Một số thuốc: 260 bệnh nhân vảy nến chúng tôi nghiên cứu tại bảng 3.4
cho thấy có 22 bệnh nhân có tác động của một số thuốc, chiếm 8,5%.
Theo Đặng Văn Em và cộng sự-1999, nghiên cứu 153 bệnh nhân vảy nến, có
37,3% bệnh nhân có tác động của thuốc, trong đó bao gồm K-cort, DDS,
Ampicillin, thuốc đông y...[122]. Kết quả chúng tôi thấp hơn rõ rệt so với Đặng Văn
Em, có lẽ do nghiên cứu của Đặng Văn Em cách nghiên cứu của chúng tôi 20 năm,
lúc đó nhận thức của người bệnh về bệnh vảy nến chưa được đầy đủ nên cách tự
chăm sóc và cẩn thận trong sử dụng thuốc chưa được tốt. Theo Nguyễn Lan Hương-
2014, trên 184 bệnh nhân vảy nến có 9,2% có tác động của một số thuốc (kháng
sinh, giảm đau) [118]. Theo Phan Huy Thục và cộng sự-2014, 195 bệnh nhân vảy
nến có 7,7% bệnh nhân tái phát, nặng lên có liên quan với một số thuốc [126] thì
kết quả của chúng tôi tương đương với kết quả của Nguyễn Lan Hương và Phan
Huy Thục, đều với p>0,05.
Vai trò của một số thuốc trong cơ chế bệnh sinh bệnh vảy nến, có thể làm
khởi phát bệnh vảy nến mới hoặc vượng lên của bệnh vảy nến có trước đã được
94
nhiều tác giả đề cập. Các loại thuốc đó bao gồm: thuốc ức chế β, Lithium, corticoid
đường toàn thân, chống viêm nonsteroid, thuốc ức chế enzyme angiotensin, thuốc
chống sốt rét (Chloroquin, quinacrin…), chống loạn thần, tetracyclin...[11],[44].
Ngoài ra, còn liên quan thuốc chống đông máu, thuốc chống siêu vi và nhiều thuốc
sinh học mới có thể có liên quan với sự khởi phát và làm trầm trọng thêm bệnh vảy
nến [36].
Các cơ chế mà thuốc kích hoạt bệnh vảy nến rất phức tạp, vì vậy trên lâm
sàng sử dụng thuốc cho bệnh nhân vảy nến cần thận trọng [36]. Thuốc ức chế β,
Lithium là hai thuốc có khả năng phát bệnh hoặc làm trầm trọng bệnh vảy nến có
sẵn do nó làm giảm hoạt động enzyme adenylcydase và làm trầm trọng thêm việc
mất cân bằng nucleotid vòng (AMPc/GMPc của thượng bì vảy nến) [11]. Thuốc
điều trị sốt rét, ngừng đột ngột thuốc corticoid đường toàn thân cũng làm bệnh xuất
hiện hoặc chuyển sang những thể vảy nến nặng, bởi vậy khuyến cáo không dùng
corticoid toàn thân cho bệnh nhân vảy nến ở tất cả các thể.
Các thuốc chống viêm nonsteroid như indomethacine, phenylbutasone,
oxyphenylbutasone, acid salicylic… có thể làm khởi phát hoặc trầm trọng thêm
bệnh vảy nến mà cơ chế là ức chế con đường tạo prostaglandin từ acid arachidonic,
làm giảm prostaglandin E, tăng leukotriene, giảm tỷ lệ AMPc/GMPc (do GMPc
tăng), góp phần tăng sinh thượng bì [11].
- Thức ăn, đồ uống: Kết quả nghiên cứu tại bảng 3.4 cho thấy có 30,4%
bệnh nhân vảy nến bị ảnh hưởng đến tái phát, vượng bệnh bởi thức ăn, uống rượu,
bia.
Theo Đặng Văn Em và cộng sự-1999, với 153 bệnh nhân vảy nến cho thấy
có 65,4% bệnh nhân có làm bệnh tái phát hoặc nặng lên do một số thức ăn như thịt
chó, thịt gà, vịt và tôm cua [122]. Như vậy, kết quả của chúng tôi thấp hơn Đặng
Văn Em rõ rệt, với p<0,01. Lý giải kết quả này có lẽ do kết quả Đặng Văn Em đã
cách đây 20 năm, lúc đó nhận thức của người bệnh chưa tốt về bệnh nên chưa có
biện pháp ngăn ngừa các yếu tố khởi động bệnh trong đó có thức ăn cần tránh. Kết
quả của chúng tôi phù hợp với kết quả của Nguyễn Lan Hương-2014 (31,5%) [118],
Phan Huy Thục (28,6%) [126].
95
Về vai trò của chế độ ăn trong bệnh vảy nến đã được nhiều tác giả đề cập.
Một chế độ ăn phù hợp có thể như là một giải pháp điều trị phụ trợ, trái lại một số
thức ăn có thể liên quan đến tái vượng bệnh [11]. Nghiên cứu của một số tác giả cho
thấy với chế độ ăn nhiều dầu cá, các chất tương tự Vitamin A có tác dụng có lợi
trong điều trị bệnh vảy nến. Một chế độ ăn nhiều rau, hoa quả có tác dụng tăng khả
năng bảo vệ đối với bệnh. Các tác giả khuyên bệnh nhân vảy nến nên ăn giảm
đường, mỡ, muối [11]. Ngoài tiêu thụ năng lượng và rèn luyện thân thể, chế độ ăn
đóng vai trò trong cơ chế bệnh sinh bệnh vảy nến. Các yếu tố trong chế độ ăn như
acid béo không bão hòa, gluten được cho là ảnh hưởng đến tiến triển của bệnh [21].
Thực tế lâm sàng, chúng tôi thấy rằng thức ăn gây tái vượng bệnh vảy nến
trên từng bệnh nhân là khác nhau, có bệnh nhân bị tác động với thức ăn này, nhưng
bệnh nhân khác lại chịu tác động của thực phẩm khác. Chính vì vậy, trong thực
hành lâm sàng, người thầy thuốc cần khai thác tỉ mỉ các yếu tố liên quan trong đó có
thực phẩm để góp phần cho trị liệu có hiệu quả hơn.
- Vai trò của rượu: Kết quả của chúng tôi tại bảng 3.4 cho thấy tác động
của thức ăn (thịt chó, hải sản...), đồ uống (rượu, bia) đến sự phát triển bệnh vảy nến
chiếm 30,4%.
Người ta đã chứng minh có sự liên quan thực sự giữa bệnh vảy nến và mức
độ uống rượu. Chính nghiện rượu là một yếu tố quan trọng tác động đến bệnh vảy
nến, làm cho bệnh trở thành mạn tính. Theo Gisondi-2017, cho rằng tiêu thụ rượu là
một yếu tố nguy cơ độc lập cho sự phát triển bệnh vảy nến và tỷ lệ uống rượu cao
hơn ở những bệnh nhân vảy nến nam trẻ tuổi có liên quan đến mức độ lo lắng và
trầm cảm [127]. Theo Adisen và cộng sự-2018, tỷ lệ nghiện rượu ở bệnh nhân vảy
nến chiếm từ 22-24% [120].
Ở Việt Nam, theo Đặng Văn Em và cộng sự-1999, trên 153 bệnh nhân vảy
nến thông thường thấy có 65,4% bệnh nhân có liên quan đến sử dụng rượu và thức
ăn, trong đó rượu là 71,0% [122]. Theo Nguyễn Lan Hương-2014, bệnh nhân sử
dụng rượu bia và thức ăn có tác động đến bệnh vảy nến chiếm 31,5% [118], Phan
Huy Thục là 28,6%. Như vậy, kết quả của chúng tôi phù hợp với Nguyễn Lan
Hương và Phan Huy Thục nhưng thấp hơn kết quả của Đặng Văn Em. Có sự khác
96
biệt kết quả này có lẽ do nghiên cứu của Đặng Văn Em đã 20 năm, sự hiểu biết của
người bệnh về bệnh vảy nến chưa đầy đủ nên không có biện pháp dự phòng các yếu
tố khởi động nói chung và vấn đề thức ăn, đồ uống nói riêng.
Vai trò của hút thuốc lá trong nghiên cứu này chúng tôi không tìm hiểu,
nhưng qua những công bố gần đây cho thấy vai trò hút thuốc được xác định như
một yếu tố nguy cơ độc lập, không chỉ liên quan đến khởi đầu của bệnh vảy nến mà
còn liên quan đến mức độ nghiêm trọng của bệnh và đáp ứng điều trị [128],[129].
Tóm lại, trên một cơ địa di truyền được tác động bởi yếu tố môi trường (khởi
động): stress, chấn thương da, một số thuốc, nhiễm khuẩn, thức ăn đồ uống, thuốc lá
đã kích hoạt hệ thống miễn dịch và đưa đến khởi phát bệnh hoặc bệnh tái phát, nặng
lên.
4.1.2. Một số đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến
4.1.2.1. Vị trí tổn thương khởi phát
Kết quả của chúng tôi tại biểu đồ 3.6 cho thấy, tổn thương da khởi phát bệnh
chủ yếu gặp ở vùng da đầu chiếm 84,2%; chi trên 8,5%; chi dưới 4,2%; ngực 1,9%
và lưng 1,2%.
Theo Đỗ Tiến Bộ-2012, vị trí tổn thương khởi phát ở vùng đầu là 83,8%
[121]. Theo Nguyễn Lan Hương và cộng sự-2014, cho thấy khởi phát bệnh vảy nến
chủ yếu vùng đầu chiếm 80,5% [118]. Theo Phan Huy Thục-2015, khởi phát vùng
đầu chiếm 80,4% [126]. Theo Nguyễn Bá Hùng và cộng sự-2015, khởi phát vùng
đầu chiếm 80,7% [119]. Như vậy, kết quả của chúng tôi đều phù hợp với kết quả
của các tác giả trong nước nêu trên, đều với p>0.05.
Theo Mrowietz-2009, vị trí khởi phát đầu tiên là ở da đầu chiếm 30% và trên
75% trong quá trình tiến triển của bệnh [29].
Tỷ lệ bệnh nhân vảy nến có tổn thương khởi phát ở đầu thay đổi tùy tác giả
nhưng đều chiếm tỷ lệ cao [11],[29]. Tổn thương ở vùng da đầu thường vượt quá rìa
chân tóc thì chắc chắn là bị vảy nến. Tổn thương các mảng vùng đầu đơn độc
thường khó chẩn đoán xác định, phải làm mô bệnh học [11]. Khi bệnh đã tiến triển
một thời gian nhất định, với sự tác động của các yếu tố khởi động, các tổn thương
vảy nến đã xuất hiện ngoài trên đầu sẽ còn xuất hiện nơi khác. Lúc này việc chẩn
97
đoán trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên, các vị trí “đặc hiệu” của bệnh vảy nến cũng
cần được quan tâm và giúp nhiều cho việc chẩn đoán xác định [11]. Như vậy, từ kết
quả nghiên cứu trên, khi tổn thương khởi phát khu trú ở da đầu là một gợi ý cho
chẩn đoán sớm bệnh vảy nến.
4.1.2.2. Vị trí tổn thương hiện tại
Kết quả của chúng tôi tại biểu đồ 3.7 cho thấy, tổn thương da hiện tại chủ
yếu gặp ở thân mình, chi trên, đều chiếm 100%; chi dưới 94,2%; da đầu 71,2%;
móng 67,7%; mặt 34,2% và nếp gấp 17,3%; viêm khớp vảy nến 6,5%. Theo Đỗ
Tiến Bộ-2012, vị trí tổn thương ở thân mình chiếm 100%, các chi 88,7%; da đầu
53,2%; móng 62,9%; nếp gấp 12,9% và khớp 11,3% [121]. Kết quả của chúng tôi
phù hợp kết quả Đỗ Tiến Bộ.
Vị trí tổn thương rất có giá trị trong chẩn đoán bệnh vảy nến. Ngoài tổn
thương trên da đầu, vảy nến còn hay gặp ở các vùng tỳ đè, vùng bị cọ xát như
khuỷu tay, đầu gối, mấu chuyển, xương cùng, mặt trước cẳng chân, mặt duỗi cẳng
tay… sắp xếp có tính chất đối xứng hai bên [4],[11]. Tổn thương có thể xuất hiện
ngay trên các vết mổ, vết xước da, vết bỏng, tiêm chủng… còn gọi là hiện tượng
Koebner. Các vị trí như da mặt, hậu môn, sinh dục là những vùng hay gặp ở vảy
nến trẻ em.
4.1.2.3. Các thể lâm sàng
Kết quả của chúng tôi tại bảng 3.5 cho thấy vảy nến thông thường là thể hay
gặp nhất chiếm 83,9%; viêm khớp vảy nến 6,5%; vảy nến đỏ da toàn thân 6,2% và
vảy nến mụn mủ 3,5%.
Tỷ lệ vảy nến thông thường theo Nguyễn Lan Hương và cộng sự 2014, là
85,9%; Nguyễn Bá Hùng-2015 là 84,4% và Phan Huy Thục-2015 là 84,5%. Như
vậy, kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả của các tác giả trên, đều với p>0,05.
Vũ Thu Trang và cộng sự-2012, tìm hiểu cơ cấu bệnh da liễu trong 10 năm
(2000-2010) với 5196 bệnh nhân cho thấy bệnh vảy nến chiếm 9,6% trong đó vảy
nến thông thường chiếm nhiều nhất 85,3%; vảy nến đỏ da toàn thân 10,9%; viêm
khớp vảy nến 2,2% và vảy nến mụn mủ toàn thân 1,6% [5]. Kết quả của chúng tôi
cũng tương đương kết quả Vũ Thu Trang.
98
Các thể của vảy nến thông thường tại biểu đồ 3.8 cho thấy vảy nến thể mảng
chiếm 24,3%; thể chấm, giọt chiếm 6,9%; thể đồng tiền 6,0% nhưng chiếm nhiều
nhất là vảy nến thông thường kết hợp chiếm 62,9%. Vảy nến thể mảng với tổn
thương cơ bản thường là các đám mảng lớn trên 2cm đường kính, vảy nến đồng tiền
kích thước 1-<2cm và thể giọt kích thước đường kính duới 1cm. Kết quả trên phù
hợp với một số nghiên cứu khác [11],[126],[130].
Vảy nến đỏ da toàn thân, viêm khớp vảy nến và vảy nến mủ toàn thân là thể
nặng của bệnh vảy nến, thường xuất hiện trước đó đã bị vảy nến thông thường do
tác động của một số yếu tố như corticoid toàn thân, stress... và tại Việt Nam, tỷ lệ
bệnh nhân thể này có xu hướng gia tăng [11].
Tổn thương móng đa số kết hợp trên bệnh nhân vảy nến và tăng dần theo
thời gian bị bệnh chiếm từ 30-80% [11].
4.1.2.4. Mức độ bệnh
Căn cứ vào chỉ số PASI, người ta chia vảy nến thông thường ra 3 mức độ:
mức độ nhẹ: PASI <10; mức độ vừa: PASI từ 10-<20; mức độ nặng: PASI ≥20. Kết
quả của chúng tôi tại biểu đồ 3.9 cho thấy mức độ vừa chiếm tỷ lệ cao nhất 49,6%;
tiếp đến mức độ nặng 26,9%; mức độ nhẹ 23,5%. Các thể lâm sàng khác như vảy
nến đỏ da toàn thân, viêm khớp vảy nến, vảy nến mụn mủ đều xếp vào vảy nến
nặng. Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả của Nguyễn Lan Hương [118],
Phan Huy Thục [126] và Nguyễn Bá Hùng [119].
Đánh giá mức độ bệnh vảy nến là một nội dung rất cần thiết cho các bác sỹ
lâm sàng và nghiên cứu khoa học. Thông qua xác định mức độ bệnh để đưa ra chiến
lược điều trị phù hợp, đánh giá được hiệu quả điều trị, đặc biệt đánh giá hiệu quả
của một loại thuốc đưa vào nghiên cứu điều trị bệnh vảy nến.
99
4.2. Kết quả xét nghiệm miễn dịch trong máu bệnh nhân VNTT vừa và nặng
của NNC
4.2.1. Kết quả TCD4, TCD8 trong máu của NNC
35 bệnh nhân vảy nến thông thường gồm 30 nam và 5 nữ, tuổi trung bình
51,5±14,9 (18-81), mức độ vừa 23 và nặng 12 bệnh nhân, PASI trung bình 17,4±5,2
(Bảng 3.6) được điều trị bằng chiếu UVB-311nm ngày 1 lần trong 5 ngày liền/tuần
và uống Methotrexate 7,5mg/tuần, bôi kem Physiogel 1 lần/ngày tối trong 4 tuần
nội trú.
- Kết quả xác định số lượng TCD4, TCD8: Kết quả tại bảng 3.7 cho thấy:
TCD4 trước điều trị (682,3±266,2 tb/µl) đã giảm rõ rệt so với sau điều trị
(511,4±196,7 tb/µl) có ý nghĩa thống kê, với p<0,001. TCD8 trước điều trị
(611,9±365,6 tb/µl) cũng đã giảm rõ so với sau điều trị (419,7±191,0 tb/µl) có ý
nghĩa thống kê, với p<0,001.
Theo Đặng Văn Em-1998, trên 30 bệnh nhân vảy nến thông thường, đã định
lượng TCD4, TCD8 và TCD3 chỉ 1 lần chưa điều trị so sánh với nhóm người khỏe
cho thấy TCD4, TCD8 và TCD3 đều tăng hơn so với nhóm người khỏe có ý nghĩa
thống kê, đều với p<0,001 [122]. So sánh số lượng TCD4 và TCD8 trước điều trị
của chúng tôi và Đặng Văn Em là tương đương nhau, đều với p>0,05.
Theo De Pita và cộng sự-1996, số lượng tuyệt đối của TCD4, TCD8 trong
máu ngoại vi của 30 bệnh nhân vảy nến thông thường không cao hơn của 11 người
khỏe [131]. So sánh kết quả trước điều trị của chúng tôi không phù hợp với De Pita.
Lý giải cho kết quả này có thể các nghiên cứu ở các quốc gia khác nhau và tiến
hành trên các máy khác nhau nên kết quả sẽ có khác nhau.
Theo Hoxtermann và cộng sự-1998, trên 10 bệnh nhân vảy nến thông thường
được điều trị bằng fumaric acid esters trong 3 tháng cho thấy số lượng TCD4,
TCD8 sau điều trị có giảm hơn so với trước điều trị [132]. Kết quả của chúng tôi
phù hợp với Hoxterman chỉ khác là thuốc điều trị có khác nhau.
Theo Carrascosa và cộng sự-2007, sau điều trị bằng UVB-311nm thì tổng số
tế bào TCD4, TCD8 và TCD3 đều giảm trung bình 86%, 85%, 86,6% ở biểu bì và
70%, 62%, 70,3% ở hạ bì theo thứ tự [133]. Kết quả chúng tôi cũng phù hợp là sau
100
điều trị TCD4, TCD8 đều giảm, tuy phương pháp điều trị của Carrascosa chỉ dùng
UVB-311nm đơn thuần.
Theo Chiricozzi và cộng sự-2018, xác định trong da cũng như trong máu của
bệnh nhân vảy nến số lượng tế bào T cả TCD4+, TCD8+ đều tăng và dựa trên quá
trình sản xuất cytokine của chúng, nhiều tập hợp tế bào lympho TCD4+ (Th) đã
được xác định trong thâm nhiễm tế bào: Th1, Th17, Th9, Th22 [134].
- Mối liên quan giữa số lượng TCD4, TCD8 với mức độ bệnh:
Kết quả sự liên quan giữa số lượng TCD4 với mức độ bệnh của chúng tôi tại
bảng 3.8 cho thấy không có mối liên quan giữa số lượng TCD4 với mức độ bệnh,
với p>0,05; nhưng số lượng TCD4 mức độ vừa và nặng sau điều trị đều đã giảm
hơn trước điều trị. Tương tự, sự liên quan giữa số lượng TCD8 với mức độ bệnh của
chúng tôi tại bảng 3.9 cho thấy không có mối liên quan giữa số lượng TCD8 với
mức độ bệnh, với p>0,05; nhưng cả mức độ vừa và nặng sau điều trị thì số lượng
TCD8 đều đã giảm hơn trước điều trị.
Theo Đặng Văn Em-2000, 30 bệnh nhân vảy nến thông thường, định lượng
TCD4, TCD8, TCD3 trước điều trị cho thấy không có mối liên quan giữa số lượng
TCD4, TCD8 và TCD3 với mức độ bệnh [122]. Như vậy, kết quả chúng tôi phù hợp
với Đặng Văn Em.
Với các tài liệu chúng tôi tham khảo được như De Pita, Hoxterman đều
không đánh giá mối liên quan với mức độ bệnh.
Bệnh vảy nến sau khi được tác động bởi các yếu tố môi trường (stress, chấn
thương da, nhiễm trùng, một số thuốc, thức ăn, rượu, thuốc lá...) thông qua tế bào
Langerhans, TCD4 được hoạt hóa và biệt hóa thành các tế bào T dưới nhóm như
Th1, Th17, Th22, Th9, Th2, Tregs..., các tế bào T này sản xuất nhiều cytokine
tương ứng (IL-17, IL-22,...) [135] tác động lên tế bào thượng bì và tế bào nội mô
mạch máu gây tăng sinh thượng bì, tăng sinh mạch máu lớp nhú bì để tạo nên hình
ảnh lâm sàng bệnh vảy nến là đỏ và vảy.
- Mối liên quan giữa số lượng TCD4, TCD8 với giới tính:
Kết quả tại bảng 3.10 cho thấy số lượng TCD4 trước và sau điều trị của nam
và nữ là tương đương nhau, với p>0,05. Sau điều trị số lượng TCD4 ở nam giảm
101
hơn so với trước điều trị có ý nghĩa thống kê, với p<0,001; còn nữ trước và sau điều
trị số lượng TCD4 không thay đổi, với p>0,05.
Số lượng TCD8 tại bảng 3.11 cho thấy số lượng TCD8 của nam và nữ trước và
sau điều trị đều tương đương nhau, với p>0,05. Tuy nhiên, số lượng TCD8 của nam
sau điều trị giảm rõ, với p<0,001.
Theo Đặng Văn Em-2000, định lượng TCD4, TCD8 và TCD3 của 30 bệnh
nhân VNTT trước điều trị và cho thấy không có mối liên quan giữa số lượng TCD4,
TCD8 và TCD3 với giới tính [122].
Các tài liệu chúng tôi tham khảo được không thấy các tác giả nước ngoài
công bố về mối liên quan giữa các TCD với giới tính.
4.2.2. Kết quả định lượng cytokine trong máu của NNC
4.2.2.1. Đặc điểm của 2 nhóm
Kết quả tại bảng 3.12 cho thấy 35 bệnh nhân vảy nến thông thường có tuổi
trung bình 51,5±14,9; nam chiếm 85,7%; nữ 14,3% tương đương với nhóm người
khỏe cả tuổi và giới, đều với p>0,05.
Riêng nhóm nghiên cứu, mức độ vừa chiếm 65,7%; mức độ nặng 34,3%;
PASI trung bình là 17,4±5,2, thời gian bị bệnh 8,6±3,2 (năm) và 100% giai đoạn
hoạt động.
4.2.2.2. Kết quả định lượng cytokine trước điều trị
- So sánh nồng độ các cytokine trước điều trị của NNC và NNK:
Kết quả tại bảng 3.13 cho thấy nồng độ IL-2, IL-4, IL-8, IL-10 trước điều trị
của NNC cao hơn NNK, với p<0,001; p<0,01; p<0,05; p<0,05 theo thứ tự còn IL-6,
TNF-α, IFN-γ đều tương đương NNK, đều với p>0,05. Riêng IL-17 của NNK cao
hơn NNC, với p<0,001.
Theo Phan Huy Thục và cộng sự-2015 [126], trên 52 bệnh nhân vảy nến
thông thường vừa và nặng được điều trị bằng Methotrexate đạt PASI-75 so sánh với
44 người khỏe cùng tuổi và giới tính được định lượng IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10,
IL-17, IL-23, TNF-α và IFN-γ cho thấy: trước điều trị tất cả cytokine của nhóm vảy
nến thông thường đều cao hơn nhóm người khỏe có ý nghĩa thống kê, đều với
p<0,001; và không liên quan với tuổi đời, tuổi bệnh, giới tính. Riêng IL-8, IL-17,
102
IL-23 và IFN-γ có liên quan với mức độ bệnh và PASI. Ngoài ra, còn có sự liên
quan giữa IFN-γ với IL-23, TNF-α với IL-6, IL-17 với IL-4, IL-6 với IL-4. Sau điều
trị IL-17, TNF-α, IFN-γ mức độ nặng đều giảm hơn trước điều trị còn mức độ vừa
chưa giảm rõ. Như vậy, kết quả của chúng tôi phù hợp kết quả Phan Huy Thục gồm
IL-2, IL4, IL-8 và IL-10. Lý giải kết quả này có lẽ do 2 nghiên cứu cách xa nhau về
thời gian 2014, 2020 và trên máy khác nhau.
Theo Michalak-Stoma và cộng sự-2013 [13], định lượng IL-6, IL-12, IL-20,
IL17, IL-22, IL-23 trên 60 bệnh nhân vảy nến và 30 người khỏe cho thấy nồng độ
IL-6, IL-20, IL-22 trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến đều cao hơn nhóm chứng
và liên quan với mức độ nghiêm trọng của bệnh (PASI). Riêng IL-12, IL-23, IL-17
so với nhóm chứng thì sự thay đổi không có ý nghĩa thống kê, đều với p>0,05
Theo Fan Bai và cộng sự-2017, nồng độ của TNF-α, IFN-γ, IL-2, IL-6, IL-8,
IL-18, IL-22, chemerin, lipocalin-2, resistin, E-selectin, fibrinogen, và C3 trong
huyết thanh đều tăng cao hơn nhóm chứng, IL-10 giảm hơn nhóm chứng còn IL-17,
IL-12, IL-23 không thay đổi so với nhóm chứng [87].
Theo Trần Nguyên Ánh Tú và cộng sự-2018, nồng độ IL-17 và hsCRP trong
huyết thanh bệnh nhân VNTT đều tăng [136].
Theo Musi và cộng sự-1997, so sánh nồng độ TNF-α của 37 bệnh nhân vảy
nến và 30 người khỏe cho thấy TNF-α của nhóm bệnh nhân vảy nến tăng cao hơn
nhóm chứng, với p<0,01 và sau điều trị 4 tuần giảm cả TNF-α và PASI có ý nghĩa
thống kê, với p<0,001 [137].
Theo Abanmi và cộng sự-2005, nghiên cứu nồng độ IL-2, Il-6, IL-8 và TNF-
α của 29 bệnh nhân vảy nến và 25 người khỏe cho thấy nồng độ IL-2, IL-6, IL-8,
TNF-α đều tăng hơn nhóm người khỏe có ý nghĩa thống kê, đều với p<001 [138].
Theo Arican và cộng sự-2005, xác định nồng độ IL-2, IL-6, IL-8 và TNF-α
trong huyết thanh của 30 bệnh nhân vảy nến và 29 người khỏe cho thấy IL-2, Il-6,
IL-8 và TNF-α đều tăng hơn nhóm người khỏe [139].
Theo Takahhashi và cộng sự-2010, xác định nồng độ IL-2, IL-6, IL-7, IL-8,
IL-10, IL12, IL-17, IL-18, TNF-α, IFN-γ, VFGF của 122 bệnh nhân vảy nến và 78
người khỏe cho thấy IL-2, IL-6, IL-7, IL-8, IL12, IL-17, IL-18, TNF-α, IFN-γ,
103
VFGF của bệnh nhân vảy nến đều tăng hơn nhóm người khỏe có ý nghĩa thống kê
và tương quan với PASI, còn IL-10 giảm hơn nhóm người khỏe và tương quan
nghịch với PASI [140].
Theo Ragah và cộng sự-2010, đánh giá nồng độ IL-2, IL-6, TNF-α của 40
bệnh nhân vảy nến và 40 người khỏe cho thấy nồng độ IL-2, IL-6, TNF-α của nhóm
bệnh nhân vảy nến đều cao hơn nhóm người khỏe, với p<0,05; và có sự liên quan
với mức độ bệnh [141].
Theo Ylimaz và cộng sự-2012, xác định nồng độ IL-17 trong huyết thanh
của 70 bệnh nhân vảy nến và 50 người khỏe cho thấy nồng độ IL-17 của bệnh nhân
vảy nến và nhóm người khỏe thì sự thay đổi không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
Nhưng nồng độ IL-17 của mức độ nặng cao hơn mức độ vừa và nhẹ [142].
Theo Dowlatshahi và cộng sự-2013, nồng độ IL-6, TNF-α, CRP, E-selectin,
ICAM-1 của bệnh nhân vảy nến tăng cao hơn nhóm người khỏe còn IL-1β và IL-10
nhóm vảy nến và nhóm người khỏe tương đương nhau [143].
Theo Pirowska và cộng sự-2018, xác định nồng độ IL-17, IL-23, TNF-α của
60 bệnh nhân vảy nến và 15 người khỏe cho thấy nồng độ IL-23 và TNF-α của bệnh
nhân tăng cao rõ rệt so với người khỏe, với p<0,01; còn IL-17 không thay đổi so với
nhóm người khỏe, với p>0,05 [144].
Theo Verghese và cộng sự-2011, nghiên cứu nồng độ IL-4, IL-6, IL-10,
TNF-α của 30 bệnh nhân vảy nến và 30 người khỏe cho thấy IL-6 và TNF-α của
bệnh nhân vảy nến tăng cao hơn nhóm người khỏe, với p<0,001; còn IL-10 có giảm
hơn nhóm người khỏe nhưng chưa có ý nghĩa thống kê, với p>0,05; IL-4 không
thay đổi so với nhóm người khỏe, với p>0,05 [145].
Như vậy, qua nghiên cứu của các tác giả cho thấy nồng độ các cytokine
trước điều trị hầu như đều tăng cao hơn nhóm người khỏe nhưng cũng có những
cytokine không khác biệt. Điều đó nói lên định lượng cytokine trong bệnh nhân vảy
nến sẽ thay đổi tùy theo tác giả mà có lẽ kết quả phụ thuộc quốc gia dân tộc, máy
móc tiến hành và con người thực hiện.
Kết quả tại bảng 3.14 cho thấy nồng độ IL-2, IL-4, IL-10 VNTT trước điều
trị của mức độ vừa cao hơn nhóm người khỏe có ý nghĩa thống kê, với p<0,001;
104
p<0,05; p<0,05 theo thứ tự còn IL-17 thấp hơn nhóm người khỏe, với p<0,001; còn
IL-6, IL-8, TNF-α, INF-γ tương đương với nhóm người khỏe, với p>0,05. Kết quả
của chúng tôi tại bảng 3.15 cho thấy nồng độ IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, INF-γ
trước điều trị của mức độ nặng bệnh VNTT cao hơn nhóm người khỏe, với
p<0,001; p<0,001; p<0,001; p<0,05; p<0,01; p<0,01 theo thứ tự, còn IL-17, TNF-α
tương đương với nhóm người khỏe, đều với p>0,05.
So sánh nồng độ của các cytokine (IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17, TNF-
α, IFN-γ) mức độ vừa và nặng tại bảng 3.16 cho thấy chỉ có nồng độ IL-4, IL-6 liên
quan đến mức độ bệnh, bệnh càng nặng thì nồng độ IL-4, IL-6 càng tăng và ngược
lại còn các cytokine còn lại không có sự liên quan giữa nồng độ cytokine với mức
độ bệnh.
Theo Ylimaz và cộng sự-2012, xác định nồng độ IL-17 trong huyết thanh
của 70 bệnh nhân vảy nến thì nồng độ IL-17 của mức độ nặng cao hơn mức độ vừa
và nhẹ [141]. Theo Michalak-Stoma và cộng sự-2013 [13], định lượng IL-6, IL-12,
IL-20, IL17, IL-22, IL-23 trên 60 bệnh nhân vảy nến thấy nồng độ IL-6, IL-20, IL-
22 có liên quan với mức độ nghiêm trọng của bệnh (PASI) [13]. Theo Phan Huy
Thục-2015, nồng độ IL-8, IL-17, IL-23 và IFN-γ có liên quan với mức độ bệnh và
PASI [111].
- Mối liên quan giữa nồng độ các cytokine với một số yếu tố liên quan:
Kết quả tại bảng 3.17 cho thấy không có mối liên quan giữa nồng độ các
cytokine với giới tính. Tại bảng 3.18 cho thấy chỉ có nồng độ IFN-γ liên quan với
nhóm tuổi đời còn các cytokine còn lại không có mối liên quan. Kết quả tại bảng
3.19 cũng chỉ có nồng độ IFN-γ liên quan với thời gian bị bệnh còn các cytokine
còn lại thì không liên quan.
Theo Phan Huy Thục-2015, không có mối liên quan giữa nồng độ các
cytokine IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17, IL-23, TNF-α, IFN-γ với tuổi đời, tuổi
bệnh, giới tính [126].
Các tài liệu nước ngoài chúng tôi tham khảo được không thấy xác định mối
liên quan giữa nồng độ các cytokine với tuổi đời, tuổi bệnh và giới tính nên không
có số liệu để so sánh, phân tích.
105
4.2.2.3. Kết quả định lượng các cytokine sau điều trị
Kết quả của chúng tôi tại bảng 3.20 cho thấy nồng độ IL-2, IL-8, IL-10 sau
điều trị đều cao hơn nhóm người khỏe có ý nghĩa thống kê, với p<0,001; p<0,05;
p<0,001 theo thứ tự. Nồng độ IL-4, IL-6, TNF-α, INF-γ đều tương đương với nhóm
người khỏe, với p>0,05. Riêng nồng độ IL-17 giảm hơn nhóm người khỏe, với
p<0,001.
Kết quả tại bảng 3.21 của chúng tôi cho thấy 35 bệnh nhân VNTT điều trị
nội trú 4 tuần bằng chiếu UVB-311nm 5 lần/tuần và uống Methotrexate liều thấp
(7,5mg/tuần) thì nồng độ IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17, TNF-α, IFN-γ trước
và sau điều trị thay đổi chưa có ý nghĩa thống kê, đều với p>0,05. Điều này nói lên
mặc dù lâm sàng bệnh vảy nến có thể tiến triển tốt nhưng chưa giảm các cytokine là
một yếu tố duy trì sự mạn tính của bệnh vảy nến nói chung và bệnh vảy nến thông
thường nói riêng.
Theo Phan Huy Thục-2015, sau điều trị chỉ có IL-17, TNF-α, IFN-γ giảm
hơn so với trước điều trị có ý nghĩa thống kê, với p<0,05; còn IL-2, IL-4, IL-6, IL-
8, IL-10, IL-23 sau điều trị không giảm so với trước điều trị, với p>0,05 [126]. Như
vậy, kết quả của chúng tôi không phù hợp với kết quả của Phan Huy Thục. Lý giải
kết quả này trong nghiên cứu của chúng tôi chiếu UVB-311nm kết hợp uống MTX
liều thấp (7,5mg/tuần) sau 4 tuần nội trú là lấy máu xét nghiệm lần 2 (không lấy
mốc là PASI-75) còn nghiên cứu của Phan Huy Thục uống MTX liều 15mg/tuần
cho đến khi đạt PASI-75 mới lấy máu xét nghiệm định lượng các cytokine nên kết
quả định lượng các cytokine sau điều trị sẽ khác nhau.
Theo Musi và cộng sự-1997, so sánh nồng độ TNF-α của 37 bệnh nhân vảy
nến và 30 người khỏe cho thấy TNF-α trước điều trị của nhóm bệnh nhân vảy nến
tăng cao hơn nhóm chứng và sau điều trị 4 tuần giảm cả TNF-α và PASI có ý nghĩa
thống kê, với p<0,001 [136]. Kết quả của chúng tôi không phù hợp với Musi và
cộng sự-1997 sau điều trị TNF-α có giảm nhưng chưa có ý nghĩa thống kê, với
p>0,05. Có sự khác biệt có thể bệnh nhân của chúng tôi sau điều trị 4 tuần nội trú
được định lượng TNF-α nói riêng và các cytokine khác nói chung, trong khi lâm
106
sàng PASI-75 mới đạt 28,6% nên sự thay đổi cytokine nói chung và TNF-α chưa rõ
ràng.
Kết quả định lượng các cytokine trước và sau điều trị của mức độ vừa (Bảng
3.22) và mức độ nặng (Bảng 3.23) cho thấy sau điều trị các cytokine đều không
giảm so với trước điều trị ở cả 2 mức độ vừa và nặng.
Theo Phan Huy Thục-2015 cho thấy nồng độ các cytokine trước và sau điều
trị ở mức độ vừa thì sự thay đổi chưa có ý nghĩa thống kê, đều với p>0,05 còn mức
độ nặng có 3 cytokine sau điều trị giảm rõ là IL-17, TNF-α, IFN-γ còn các cytokine
khác sự thay đổi không có ý nghĩa thống kê, đều với p>0,05 [126]. Như vậy, kết
quả của chúng tôi phù hợp với kết quả Phan Huy Thục ở mức độ vừa còn mức độ
nặng của chúng tôi không giảm tất cả 8 cytokine, Phan Huy Thục có 3 cytokine IL-
17, TNF-α, IFN-γ giảm rõ.
4.3. Kết quả điều trị bệnh VNTT mức độ vừa và nặng bằng uống Methotrexate
liều thấp kết hợp chiếu UVB-311nm
4.3.1. Đặc điểm cá nhân của 2 nhóm
Kết quả tại bảng 3.24 cho thấy với 70 bệnh nhân VNTT được phân bố 2
nhóm, mỗi nhóm 35 bệnh nhân là nhóm nghiên cứu (NNC) điều trị bằng uống MTX
7,5mg/tuần kết hợp chiếu UVB-311nm 5 lần/tuần và bôi kem Physiogel 1 lần/ngày
trong 4 tuần nội trú và nhóm đối chứng (NĐC) chỉ uống MTX 7,5mg/tuần đơn
thuần kết hợp bôi Physiogel 1 lần/ngày tối trong 4 tuần nội trú. Hai nhóm được
phân bố tương đồng về tuổi, giới, mức độ bệnh và PASI. Như vậy, khi đánh giá kết
quả của 2 nhóm sẽ phù hợp và chính xác hơn.
4.3.2. Kết quả điều trị của nhóm nghiên cứu (NNC)
4.3.2.1. Kết quả điều trị của NNC
Kết quả điều trị tốt dần theo thời gian điều trị, sau 2 tuần PASI giảm còn
13,1; sau 3 tuần PASI còn 10,1 và sau 4 tuần PASI chỉ còn 5,4 (Biểu đồ 3.10).
Trong đó, kết quả tốt 28,6%; khá 68,6%; vừa 2,8% và không có bệnh nhân không
kết quả (Biểu đồ 3.11). Kết quả điều trị có liên quan với mức độ bệnh, bệnh càng
nặng kết quả càng kém hơn (Bảng 3.25) nhưng kết quả điều trị không liên quan với
tuổi bệnh (Bảng 3.26), tuổi đời (Bảng 3.27).
107
Theo Asawanonda và cộng sự-2006, có 2 nhóm bệnh nhân vảy nến điều trị
uống MTX 15mg/tuần kết hợp chiếu UVB-311nm hoặc giả dược và kết hợp chiếu
UVB-311nm cho thấy thời gian trung bình làm sạch tổn thương vảy nến trong nhóm
MTX kết hợp với UVB-311nm là 4 tuần, ít hơn đáng kể so với nhóm giả dược kết
hợp với UVB-311nm [112]. Kết quả của chúng tôi không so sánh thời gian làm
sạch tổn thương như Asawanonda và cộng sự, nhưng hai kết quả đều khẳng định kết
hợp chiếu UVB-311nm và MTX cho kết quả tốt hơn.
Theo Mahajan và cộng sự-2010 [113], 40 bệnh nhân vảy nến đều có
BSA>10 được chia thành 2 nhóm, nhóm A: 20 bệnh nhân điều trị bằng MTX kết
hợp UVB-311nm và nhóm B: giả dược kết hợp UVB-311nm. Kết thúc khi PASI đạt
75 hoặc 12 tuần. Kết quả PASI-75 đạt được của nhóm A là 19/20 bệnh nhân chiếm
95%, nhóm B là 14/20 chiếm 70% và sự khác nhau có ý nghĩa thống kê, với
p<0,004. Số tuần điều trị (p=0,001), liều tích lũy trung bình của UVB-311nm
(p=0,001) và số lượng các buổi chiếu UVB-311nm cần cho để đạt PASI-75 đã giảm
có ý nghĩa ở nhóm A so với nhóm B. Kết quả của chúng tôi cho kết quả đạt PAS-75
(69%) thấp hơn kết quả của Mahajan và cộng sự có ý nghĩa thống kê, với p<0,01.
Lý do kết quả của chúng tôi thấp hơn có lẽ do chúng tôi dùng MTX liều thấp
7,5mg/tuần còn Mahajan và cộng sự sử dụng 15mg/tuần nên kết quả tốt hơn.
Theo Maheshwari và cộng sự-2013 [115], với 30 bệnh nhân vảy nến có
BSA>10, trong đó nhóm A gồm 15 bệnh nhân uống MTX 12,5mg/tuần trong 8 tuần
phối hợp chiếu UVB-311nm 3 lần/tuần và nhóm B gồm 15 bệnh nhân khác chỉ
chiếu UVB-311nm trong suốt 8 tuần mỗi tuần 3 lần. Kết quả cho thấy sau 8 tuần
điều trị nhóm A đạt PASI-50 là 9/15 bệnh nhân chiếm 60% còn nhóm B không có
bệnh nhân nào đạt PASI-50. Như vậy, kết hợp MTX với UVB-311nm giúp đáp ứng
lâm sàng (PASI) trong thời gian ngắn hơn so với UVB-311nm đơn độc. Kết quả của
chúng tôi PASI-50 trở lên (97,2%) cao hơn kết quả Maheshwari và cộng sự (60%)
có ý nghĩa thống kê, với p<0,01.
Theo Al-Hamamy và cộng sự-2014 [19], 120 bệnh nhân vảy nến và hoàn
thành nghiên cứu là 113 đã chia thành 3 nhóm ngẫu nhiên, nhóm MN: 38 bệnh nhân
được điều trị bằng chiếu UVB-311nm kết hợp MTX, nhóm N là 38 bệnh nhân chỉ
108
điều trị bằng UVB-311nm và nhóm M là 37 bệnh nhân chỉ điều trị bằng MTX. Kết
thúc khi đạt PASI-90 hoặc tối đa 6 tháng, tùy theo điều kiện nào đến sớm hơn và
theo dõi trong 1 năm. Kết quả để đạt điều kiện kết thúc trên về số tuần trung bình
của MN là 6,11±1,28 tuần, nhóm N là 11,42±2,36 tuần và nhóm M là 20,87±4,21
tuần (p<0,0001), về số lần chiếu trung bình UVB-311nm của nhóm MN là
17,86±3,74, nhóm N là 33,51±6,9 (p<0,0001). Tổng liều tích lũy trung bình UVB-
311nm của nhóm MN là 12,13±4,02 J/cm2 so với 34,48±13,13 J/cm2 của nhóm N
(p<0,0001), liều tích lũy của MTX nhóm MN là 116,04±20,47 mg so với
298,63±60,26 mg của nhóm M (p<0,0001). Kết luận rằng kết hợp UVB-311nm với
MTX mang lại sự cải thiện lâm sàng nhanh chóng với liều tích lũy ít hơn của 2
phương pháp đơn trị liệu. Như vậy, kết quả của chúng tôi cũng cho thấy UVB-
311nm kết hợp MTX có hiệu quả hơn dùng MTX đơn thuần.
Theo Soliman và cộng sự-2015, 40 bệnh nhân vảy nến đưa vào nghiên cứu
chia ngẫu nhiên vào 2 nhóm và kết thúc có 35 bệnh hoàn thành cho thấy tỷ lệ đạt
PASI-90 của nhóm B (MTX+UVB-311nm) là 100% còn nhóm A (MTX đơn thuần)
là 83% (p<0,001) và nhóm B có liều MTX tích lũy thấp hơn nhóm A (p<0,05) [20].
Theo Khadka và cộng sự-2015, 79 bệnh nhân vảy nến, kết quả cho thấy đạt
PASI-75 của nhóm A (MTX+UVB-311nm) là 35/39 (89%) còn nhóm B (MTX đơn
thuần) là 34/40 (85%) (p=0,052), nhưng số tuần để đạt PASI-75 của nhóm A ít hơn
nhóm B (p<0,01), liều tích lũy MTX nhóm A (56,5±12,5 mg) thấp hơn nhiều so với
nhóm B (140,75±60,5 mg), với p<0,001 [116].
Theo Budamakuntla và cộng sự-2017 [109], với 28 bệnh nhân vảy nến có
PASI>10 được điều trị bằng MTX 15mg/tuần tiêm bắp kết hợp chiếu UVB-311nm
2 lần/tuần trong 12 tuần được đánh giá hiệu quả bằng giảm PASI và thay đổi nồng
độ IL-17 so với 10 nhóm chứng (người khỏe). Kết quả PASI ban đầu là 24,23±7,5
giảm còn 9,66±4,2 (p<0,0001). Nồng độ IL-17 huyết thanh trước điều trị là
2,65±0,7 pg/ml giảm sau điều trị còn 1,99±0,57 pg/ml (p<0,0001) nhưng so với
nhóm đối chứng (2,5±0,9 pg/ml) không có khác biệt (p>0,05). Có mối liên quan
giữa IL-17 với mức độ nghiêm trọng của bệnh (PASI).
109
Cơ chế tác dụng của UVB-311nm chưa biết rõ hoàn toàn, theo Reich và cộng
sự-2013, UVB-311nm có khả năng ức chế sự tăng sinh tế bào cũng như có thể gây
ra chết theo chương trình (apoptosis) của các loại tế bào khác nhau. Tuy nhiên,
người ta vẫn chưa biết rõ mục tiêu chính của UVB-311nm là tế bào nào (tế bào biểu
mô sừng, tế bào lympho hoặc có thể là tế bào Langerhans), liệu UVB-311nm có thể
tạo ra hiệu ứng điều hòa miễn dịch toàn thân hay chỉ hoạt động trong vùng da được
chiếu [103]. Theo Zhang và cộng sự-2018, UVB-311nm gây ra chết theo chương
trình của tế bào T gây bệnh và tế bào biểu mô sừng, gây ức chế miễn dịch tại chỗ và
toàn thân. Th17 và T (Tregs) đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh bệnh
vảy nến, con đường Th17 đã được điều hòa bởi UVB-311nm ở lớp biểu bì vảy nến
và đã cho thấy giảm đáng kể IL-17, TNF-α, IL-6 ở máu ngoại vi bệnh nhân vảy nến
điều trị bằng UVB-311nm [102]. Theo Dogra và cộng sự-2010, mục tiêu phân tử
quan trọng nhất của UVB-311nm là DNA tế bào, chủ yếu là các chất pyrimidine
can thiệp vào quá trình chu chuyển tế bào, chu kỳ tế bào kìm hãm sự phát triển tế
bào và được coi là cơ chế quan trọng nhất của UVB-311nm [100].
4.3.2.2. Tác dụng không mong muốn của NNC
Kết quả tại bảng 3.28 và biểu đồ 3.12 của chúng tôi cho thấy xét nghiệm
chức năng gan, thận trước và sau điều trị sự thay đổi không có ý nghĩa thống kê,
đều với p>0,05; và các triệu chứng buồn nôn, đỏ da, ngứa đều 2/35 bệnh nhân
(5,7%), đau đầu 1/35 bệnh nhân (2,9%).
Theo Heam-2008, theo dõi sau điều trị UVB-311nm của 3876 bệnh nhân vảy
nến có 27 bệnh nhân ung thư biểu mô đáy (BCC), 7 bệnh nhân ung thư tế bào vảy
(SCC) và 6 khối ung thư khác cho thấy không có mối liên quan giữa điều trị bằng
UVB-311nm và BCC, SCC hoặc khối u ác tính khác [146].
Sự kết hợp MTX và UVB-311nm là một phương pháp điều trị bệnh vảy nến
có hiệu quả, ít tác dụng không mong muốn và thời gian ổn định kéo dài hơn. Do
vậy, phương pháp điều trị bằng chiếu UVB-311nm là một phương pháp thay thế tốt
cho liệu pháp PUVA vì không cần dùng psoralen, ít tác dụng không mong muốn, ít
nguy cơ viêm da do ánh sáng và là một phương pháp điều trị bằng ánh sáng đầu tiên
(mức độ bằng chứng A) ở trẻ em, thanh thiếu niên, phụ nữ mang thai hoặc cho con
110
bú, bệnh nhân suy thận, suy gan và bằng chứng C cho bệnh nhân vảy nến bị HIV
[147].
4.3.2.3. Tỷ lệ tái phát sau điều trị
Kết quả tại bảng 3.29 cho thấy sau 4 tuần điều trị nội trú, chúng tôi theo dõi
tái phát tiếp 3 tháng cho thấy sau 1 tháng tái phát 11,4%; sau 2 tháng là 22,9% và
sau 3 tháng là 34,3%. Như vậy, điều trị bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống liều
thấp MTX 7,5mg/tuần kết quả điều trị duy trì giảm dần theo thời gian và sau 3
tháng tái phát chiếm 1/3 tổng số bệnh nhân 34,3%. Điều này cũng nói lên bệnh vảy
nến làm sạch tổn thương bằng những phương pháp hiện có là không khó nhưng duy
trì sự làm sạch đó được bao lâu mới thực sự là khó khăn chung cho các bác sĩ
chuyên khoa da liễu và cũng là nỗi lo lắng của người bệnh. Hiện nay, với các thuốc
sinh học tác động đích là giúp nhiều cho người bệnh cả giai đoạn làm sạch tổn
thương, duy trì sự ổn định bệnh dài hơn và chất lượng cuộc sống của người bệnh
được cải thiện rất nhiều.
4.3.3. Kết quả điều trị của nhóm đối chứng (NĐC)
4.3.3.1. Kết quả điều trị của NĐC
35 bệnh nhân VNTT được điều trị bằng uống MTX 7,5mg/tuần kết hợp bôi
kem Physiogel trong 4 tuần cho thấy trước điều trị PASI 16,6±4,6 giảm dần theo
thời gian điều trị, sau 2 tuần PASI còn 12,7 sau 3 tuần PASI còn 9,6 và sau 4 tuần
PASI còn 7,3 (Biểu đồ 3.13). Trong đó, tốt 2,8%; khá 71,4%; vừa 25,8%; không có
bệnh nhân không kết quả (Biểu đồ 3.14). Kết quả điều trị có liên quan với mức độ
bệnh (Bảng 3.30), không liên quan đến tuổi bệnh (Bảng 3.31), không liên quan với
tuổi đời (Bảng 3.32).
Theo Bùi Thị Vân và cộng sự-2014, 37 bệnh nhân VNTT được điều trị bằng
MTX 7,5mg/tuần kết hợp bôi mỡ salicylic 5% trong 4 tuần nội trú cho thấy PASI
giảm 61,6%; trong đó PASI-75 chiếm 8,1%; PASI-50 là 75,7%; PASI-25 là 16,2%.
Như vậy, kết quả của chúng tôi tương đương với kết quả Bùi Thị Vân, với p>0,05
[148]. Nghiên cứu của Bùi Thị Vân uống MTX 7,5mg/tuần và bôi mỡ salicylic 5%,
như vậy liều dùng MTX cũng như chúng tôi đều dùng 7,5mg/tuần, có bôi thêm mỡ
salicylic 5% một thuốc bôi bạt sừng bong vảy cổ điển, hiệu quả duy trì không tốt.
111
Theo Đặng Văn Em và cộng sự-2015, nghiên cứu trên 60 bệnh nhân vảy nến
thông thường, chia ngẫu nhiêm 2 nhóm: nhóm 1: 30 bệnh nhân uống MTX
7,5mg/tuần kết hợp bôi Daivobet 1 lần/ngày trong 4 tuần nội trú cho thấy PASI
giảm 83,7%; trong đó tốt 17,1%; khá 74,3%; vừa 8,6% [149]. Như vậy, kết quả của
chúng tôi thấp hơn. Lý do Đặng Văn Em có kết hợp bôi Daivobet hàng ngày, là một
thuốc bôi rất có hiệu quả trong điều trị bệnh vảy nến nên có kết quả tốt hơn kết quả
của chúng tôi.
Theo Haustein và cộng sự-2000, với 157 bệnh nhân vảy nến được điều trị
bằng MTX liều tối đa là 15-20 mg/tuần, dùng dài ngày và liều tích lũy trung bình
3394 mg, thời gian trung bình 237 tuần. Kết quả tốt 76%, vừa 18% và kém 6%,
61% có tác dụng phụ hay gặp là bất thường chức năng gan, ức chế tủy xương, buồn
nôn, dạ dày và rụng tóc [16]. Theo Zunrita và cộng sự-2017, điều trị MTX sau 12
tuần PASI-75 đạt 33,5%; sau 16 tuần là 34,9%; 24 tuần là 44,7% và sau 48 tuần là
52,8% [17].
MTX là một chất đối kháng cạnh tranh của dihydrofolate reductase, ngăn
chặn sự tổng hợp pyrimidine và purine, dẫn đến giảm sự tăng sinh tế bào B và tế
bào T. Ngoài ra, MTX cũng có tác dụng chống viêm; MTX liều thấp có thể liên
quan nhiều hơn đến việc ngăn chặn biểu hiện phân tử kết dính tế bào T hơn là hạn
chế sự tăng sinh tế bào. MTX đã được sử dụng làm đối chứng trong một số thử
nghiệm sinh học và MTX tuy có một số tác dụng không mong muốn nhưng đến nay
MTX vẫn là một lựa chọn hợp lý cho nhiều bệnh nhân vảy nến [106]. Ngoài ra,
MTX còn có tác dụng ức chế miễn dịch, ức chế IL-22 [150].
4.3.3.2. Kết quả tác dụng không mong muốn
Kết quả tại bảng 3.33 cho thấy xét nghiệm chức năng gan, thận trước và sau
điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng uống MTX liều 7,5mg/tuần kết hợp bôi
kem Physiogel 1 lần/ngày thì sự thay đổi không có ý nghĩa thống kê, đều với
p>0,05. Có nghĩa là chức năng gan, thận không bị ảnh hưởng khi dùng liều thấp
MTX (7,5mg/tuần). Các triệu chứng buồn nôn, đau đầu đều gặp 3/35 bệnh nhân
(8,6%) và chỉ xảy ra trong tuần đầu, không phải dừng thuốc (Biểu đồ 3.15).
112
MTX là một thuốc có hiệu quả điều trị bệnh vảy nến và được nhiều tác giả
đến nay vẫn cho MTX là “tiêu chuẩn vàng” (gold standard) trong điều trị bệnh vảy
nến do MTX ngoài tác dụng ức chế phân bào còn có tác dụng chống viêm rất mạnh.
Tuy nhiên, MTX có một số tác dụng không muốn có gặp như tổn thương gan, thận,
ức chế tủy xương... và gần đây có nêu tác dụng gây loét da [151]. Tuy nhiên, tác
dụng không mong muốn chúng tôi gặp không có gây rối loạn chức năng gan, thận,
không gây ức chế tủy xương (Bảng 3.53) chỉ có đau đầu, buồn nôn trong tuần đầu
(Bảng 3.54). Lý do kết quả chúng tôi hầu như ít tác dụng không mong muốn bởi vì
chúng tôi chỉ dùng liều thấp 7,5 mg/tuần.
4.3.3.3. Kết quả tái phát sau điều trị của NĐC
Tại bảng 3.34 cho thấy sau 4 tuần điều trị nội trú, sau đó theo dõi tái phát cho
thấy sau 1 tháng tái phát là 34,3%; sau 2 tháng tái phát là 51,4% và sau 3 tháng tái
phát là 71,1%. Như vậy, kết quả tái phát của nhóm đối chứng tăng dần theo thời
gian và sau 3 tháng điều trị thì tỷ lệ tái phát chiếm 71,1%. Kết quả này nói lên uống
MTX liều thấp trong điều trị bệnh VNTT vừa và nặng 4 tuần có làm giảm PASI
nhưng không có PASI-90 và sau khi dừng điều trị bệnh tái phát nhiều và nhanh.
4.3.4. So sánh kết quả điều trị của 2 nhóm
4.3.4.1. So sánh kết quả trên lâm sàng
Kết quả của chúng tôi sau 4 tuần điều trị nội trú của 2 nhóm tại bảng 3.35
cho thấy NNC đã giảm PASI từ 17,4±5,2 còn 5,4±2,7 (giảm PASI 69%) tốt hơn
NĐC có PASI từ 16,6±4,6 (giảm PASI 56%), với p<0,01. Trong đó, kết quả tốt
(28,6%) và khá (68,8%) của NNC cũng tốt hơn kết quả tốt (2,8%), khá (71,4%) của
NĐC có ý nghĩa thống kê, với p<0,001 (Biểu đồ 3.16).
Theo Khadka và cộng sự-2015, với 39 bệnh nhân vảy nến mảng (nhóm A)
PASI trung bình 16,02±3,51 được điều trị bằng chiếu UVB-311nm 3 lần/tuần kết
hợp uống MTX liều 0,4 mg/kg/tuần (tối đa 25 mg/tuần) so sánh với 40 bệnh nhân
vảy nến mảng (nhóm B) có PASI trung bình 14,44±2,8 chỉ dùng MTX đơn thuần
liều như nhóm A [117]. Kết quả cho thấy sau đạt PASI-75 của 2 nhóm là tương
nhau, với p>0,05 (nhóm A 89% và nhóm B 85%). Nhưng liều tích lũy MTX của
nhóm B (140,75±60,5 mg) nhiều hơn nhóm A (56,5±12,5 mg). Như vậy, kết quả đạt
113
PASI-75 của Khadka và cộng sự-2015 (89% và 85%) cao hơn kết quả PASI-75 của
chúng tôi (28,6% và 2,9%). Lý do có kết quả này do nghiên cứu của Khadka và
cộng sự-2015 dùng liều MTX (0,4 mg/kg/tuần) cao hơn chúng tôi (7,5 mg/tuần).
Nhưng so sánh kết quả 2 nhóm thì kết quả của chúng tôi NNC (MTX +
UVB-311nm) cao hơn NĐC (MTX đơn thuần) còn của Khadka và cộng sự cho kết
quả 2 nhóm tương đương nhau. Lý do có kết quả không phù hợp này có thể do
nghiên cứu ở hai địa dư khác nhau nên bệnh nhân chịu tác động của các yếu tố môi
trường khác nhau.
4.3.4.2. So sánh tác dụng không mong muốn của 2 nhóm
Kết quả các xét nghiệm HC, BC, TC, AST, ALT, ure, creatinine trước và sau
điều trị của 2 nhóm đều trong giới hạn bình thường (Bảng 3.28 và 3.33).
Kết quả của chúng tôi tại bảng 3.36 cho thấy tác dụng không mong muốn của
nhóm NNC (buồn nôn 5,7%; đau đầu 2,9%; đỏ da 5,7%; ngứa 5,7%) và NĐC (buồn
nôn 8,6%; đau đầu 8,6%) tương đương nhau, với p>0,05. Các tác dụng không mong
muốn này chỉ xảy ra trong tuần đầu và đều không phải ngừng điều trị bệnh.
Khadka và cộng sự-2015, nhóm A (MTX 0,4mg/kg/tuần + UVB-311nm) và
nhóm B (MTX 0,4 mg/kg/tuần) sau 12 tuần điều trị có tác dụng không muốn của
nhóm A (đỏ da 25,8%; nứt da 6,4%; mụn mủ 3,2%; ngứa 22,5%; yếu cơ 22,5%;
viêm gan 9,6%) và nhóm B (đỏ da 21,1%; nứt da 3,0%; mụn mủ 1,5%; ngứa 22,7%;
yếu cơ 19,6%; viêm gan 7,5%) [117]. Như vậy, kết quả tác dụng không mong muốn
của Khadka và cộng sự cả 2 nhóm đều cao hơn kết quả chúng tôi. Nguyên nhân có
kết quả này do Khadka và cộng sự dùng liều MTX cao hơn chúng tôi.
Như vậy, phương pháp chiếu MTX liều thấp kết hợp UVB-311nm có hiệu
quả điều trị tốt và tác dụng không mong muốn ít hơn.
4.3.4.3. So sánh tái phát của 2 nhóm
Kết quả tại bảng 3.37, 3.38 và 3.39 cho thấy tỷ lệ tái phát của NNC thấp hơn
NĐC sau 1, 2 và 3 tháng, đều với p<0,05.
Khadka và cộng sự-2015, theo dõi 33 bệnh nhân vảy nến (nhóm A) điều trị
bằng MTX 0,4mg/kg/tuần + UVB-311nm trong 12 tuần và theo dõi tái phát tiếp
theo 1 tháng, 2 tháng và 3 tháng cho thấy tỷ lệ tái phát sau 1 tháng 5,5%; 2 tháng
114
8,3% và 3 tháng 11,0% so với 33 bệnh nhân vảy nến (nhóm B) chỉ dùng MTX (0,4
mg/kg/tuần) trong 12 tuần và theo dõi tái phát 1 tháng 9%, 2 tháng 15% và 3 tháng
21% thì kết quả nhóm B tỷ lệ tái phát đều cao hơn nhóm A [117]. Kết quả của
chúng tôi có tỷ lệ tái phát của cả 2 nhóm đều cao hơn kết quả Khadka và cộng sự,
với p<0,05. Nguyên nhân tỷ lệ tái phát của chúng tôi đều cao hơn ở cả 2 nhóm so
với Khadka và cộng sự do chúng tôi dùng MTX liều thấp 7,5 mg/tuần trong khi
Khadka và cộng sự dùng liều 0,4 mg/kg/tuần nên hiệu quả đạt PASI-75 của Khadka
và cộng sự sau 12 tuần đã cao hơn chúng tôi, sau đó tái phát sẽ ít hơn.
115
KẾT LUẬN
1. Một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến
1.1. Một số yếu tố liên quan
- Tuổi từ 50-59 chiếm 27,7%. Tuổi khởi phát bệnh dưới 40 tuổi chiếm
68,1%. Tuổi bệnh từ 5-10 năm chiếm 47,3%. Nam giới chiếm 86,9%. Tiền sử gia
đình gặp 19,6%.
- Bệnh gặp mùa đông 45,8%; chấn thương tâm lý 44,2%; thức ăn đồ uống
30,4%; chấn thương da 10,4%; nhiễm khuẩn khu trú 6,5%.
- Bệnh kết hợp gặp 55,8%. Trong đó, rối loạn chuyển hóa lipid 39,2%; tăng
huyết áp 18,9%; đái tháo đường 8,5%; bệnh dạ dày-ruột 5,4%; bệnh tim mạch
5,0%; bạch biến 2,7%.
1.2. Đặc điểm lâm sàng
- Tổn thương khởi phát da đầu chiếm 84,2%. Tổn thương móng 76,7%; nếp
gấp 17,3%.
- Vảy nến thông thường 83,9%; viêm khớp vảy nến 6,5%; vảy nến đỏ da toàn
thân 6,1% và vảy nến mụn mủ 3,5%.
- Mức độ vừa 49,6%; nặng 26,9% và nhẹ 23,5%.
2. Kết quả xét nghiệm miễn dịch trước và sau điều trị
2.1. Định lượng TCD4, TCD8
- Số lượng TCD4, TCD8 sau điều trị (511,4±196,7 tb/µl - 419,7±191,0 tb/µl)
đã giảm hơn trước điều trị (682,3±266,2 tb/µl - 611,9±365,6 tb/µl). Sau điều trị số
lượng TCD4, TCD8 ở nam giới đều giảm còn nữ giới chưa giảm rõ.
- Không có sự khác biệt về số lượng trung bình TCD4, TCD8 của bệnh nhân
VNTT mức độ vừa so với mức độ nặng.
2.2. Định lượng cytokine trước và sau điều trị bằng uống MTX kết hợp chiếu
UVB-311nm
- Trước điều trị: Nồng độ IL-2, IL-4, IL-8, IL-10 cao hơn nhóm người khỏe
và IL-4, IL-6 tăng theo mức độ bệnh, TNF-γ thời gian bị bệnh càng nhiều thì TNF-γ
càng tăng. Riêng IL-17 mức độ vừa giảm hơn người khỏe.
116
- Sau điều trị: Các cytokine IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17, TNF-α, TFN-γ
đều giảm (trừ IL-2) so với trước điều trị nhưng chưa có ý nghĩa thống kê.
3. Kết quả điều trị bệnh VNTT bằng uống MTX kết hợp chiếu UVB-311nm
- Kết quả lâm sàng: NNC có PASI giảm từ 17,4±5,2 còn 5,4±2,7 (giảm
69,0%); trong đó: tốt 28,6%; khá 68,6%; vừa 2,8%) đã tốt hơn NĐC (PASI từ
16,6±4,6 giảm còn 7,3±2,9 (giảm 56,0%). Có sự liên quan giữa kết quả điều trị với
mức độ bệnh ở NNC, nhưng không liên quan với tuổi bệnh, tuổi đời ở cả 2 nhóm.
- Tác dụng không mong muốn: Kết quả HC, BC, TC, AST, ALT, ure,
creatinin trước và sau điều trị của 2 nhóm đều trong giới hạn bình thường. Các triệu
chứng buồn nôn, đau đầu của 2 nhóm tương đương còn đỏ da, ngứa chỉ gặp trong
NNC và các triệu chứng này chỉ gặp tuần đầu và giảm dần.
- Theo dõi tái phát: Sau 3 tháng điều trị tái phát của NNC là 34,3% thấp hơn
NĐC là 71,4%.
117
KIẾN NGHỊ
- Cần có nghiên cứu nồng độ các cytokine của những bệnh nhân VNTT đạt
PASI-100 để đánh giá sự thay đổi cytokine với lâm sàng và mức độ tái phát.
- Uống MTX kết hợp chiếu tia cực tím dải hẹp (UVB-311nm) là phương
pháp điều trị bệnh VNTT có hiệu quả, nên được áp dụng trên lâm sàng tại các cơ sở
điều trị.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Phạm Diễm Thúy, Đặng Văn Em (2018). Nghiên cứu một số yếu tố liên quan và
đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông thường điều trị tại Khoa Da liễu-Dị ứng,
BVTƯQĐ108 từ 2015-5/2018, Tạp chí Y dược lâm sàng 108, 2018,14-20
2. Phạm Diễm Thúy, Đặng Văn Em, Lý Tuấn Khải (2018). Nghiên cứu hiệu quả
điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống
Methotrexate liều thấp, Tạp chí y dược lâm sàng 108, 2019, 13(9), 302-306.
3. Phạm Diễm Thúy, Đặng Văn Em, Lý Tuấn Khải (2019). Nghiên cứu sự thay đổi
nồng độ một số cytokine trước và sau điều trị vảy nến thông thường bằng chiếu
UVB-311nm kết hợp uống Methotrexate liều thấp, Tạp chí y dược lâm sàng 108,
2019, 14(3), 131-134.
4. Phạm Diễm Thúy, Đặng Văn Em, Lý Tuấn Khải (2019). Nghiên cứu số lượng
TCD4, TCD8 trong máu bệnh nhân vảy nến thông thường được điều trị bằng chiếu
UVB-311nm kết hợp Methotrexate liều thấp, Tạp chí y dược lâm sàng 108, 2019,
10(2), 92-95.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Benhadou F, Mintoff D, del Marmol V. (2019). Psoriasis-Keratinocytes or immune
cells-Which is the trigger?, Dermatology, 235, 91-100.
2. Cerdeira CR, Rodriquez MC, Gregorio MC, et al. (2019). Biomarkers of inflammation
in obesity-psoriatic patients, Mediators inflamm, 2019, 7353420.
3. Icen M, Crowson CS, McEvoy MT, et al. (2009). Trends in incidence of adult-onset
psoriasis over three decades (aa population-based study), J Am Acad Dermatol,
60(3), 394-401.
4. Nguyễn Xuân Hiền, Nguyễn Cảnh Cầu, Trương Mộc Lợi. (1998). Bệnh vảy nến, Nhà
xuất bản y học, 7-8.
5. Vũ Thu Trang, Đặng Văn Em. (2012). Nghiên cứu cơ cấu bệnh điều trị nội trú tại
Khoa Da liễu-Dị ứng, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ 2000-2010, Tạp chí Y
dược lâm sàng 108, 7, 54-60.
6. Đặng Văn Em. (2013). Một số bệnh tự miễn thường gặp trong da liễu, Nhà xuất bản y
học, 317-510.
7. Bộ môn Da liễu-VNCKHYDLS108. (2017). Bệnh vảy nến, Giáo trình Da liễu, Nhà
xuất bản y học, Tập 1, 117-132.
8. Meglio P, Villanova F, Nestle FO. (2014). Psoriasis, Cold spring perspect med, 4(8),
a015354.
9. Hội Da liễu Việt Nam. (2017). Hướng dẫn chăm sóc và điều trị bệnh vảy nến, Nhà
xuất bản y học, 103 tr.
10. Kimball AB, Guerin A, Tsaneva M, et al. (2011). Economic burden of comorbidities
in patients with psoriasis is substantial, J Eur Acad Dermatol, 25(2), 157-163.
11. Đặng Văn Em. (2013). Bệnh vảy nến-Sinh bệnh học và chiến lược điều trị, Nhà xuất
bản Y học, 246 tr.
12. Coimbra S, Fiqueiredo A, Castro E, et al. (2012). The role of cells and ccytokines in
the pathogenesis of psoriasis, Int J Dermatol, 51(4), 389-395.
13. Michaliak-Stoma A, Bartosinska, Kowal M, et al. (2013). Serum levatls of selected
Th17 and Th22 cytokines in psoriasis patients, Disease Markers, 35(6), 625-631.
14. Ellis CN, Reiter KL, Bandekar RR, Fendrick AM. (2002). Cost-effectiveness
comparison of therapy for psoriasis with a methotrexate-based regimen versus a
rotation regimen of modified cyclosporine and methotrexate, Am Acad Dermatol,
46(2), 242-250.
15. Saporito FC, Menter MA. (2004). Methotrexate and psoriasis in the era of new
biologic agents, JAAD, 50(2), 301-309.
16. Haustein UF, Rytter M. (2000). Methotrexate in psoriasis, 26 years experience with
low-dose long-term treatment, J Eur Acad Dermatol Venereol, 14(5), 382-388.
17. Cabello Zurita C, Grau Perez M, Hemandez Femandez CP, et al. (2017). Effectveness
and safety of methotrexate in psoriasis: an eight-year experience with 218 patients,
Journal of Dermatological Treatment, 28(5), 401-405.
18. Coimbra S, Oliveira H, Reis F, Belo L, et al. (2010). Interleukin (IL)-22, IL-17, IL-
23, IL-8, vascular endothelial growth factor and tumor necrosis factor-α levels in
patients with psoriasis before, during and after psoralen-ultraviolet A and
narrowband ultraviolet B therapy, Br J Dermaatol, 163(6), 1282-1290.
19. Al-Hamamy HR, Al-Mashhadani SA, Mustafa N. (2014). Comarative study of the
effect of narrowband ultraviolet B phototherapy plus methotrexate vs. narrowband
ultraviolet B alone aand methotrexate alone in the treatment of plaque-type
psoriasis. Randomized controlled trial, Int J Dermatol, 53(12), 1531-1535.
20. Soliman A, Nofal E, Nofal A, El Desouky F, Asal M. (2015). Combination therapy of
methotrexate plu NBUVB phototherapy is more effective than methotrexate
monotherapy in the treatment of chronic plaque psoriasis, J Dermaatolog treat,
26(6), 528-534.
21. Doqra S, Mahajan R. (2016). Psoriasis, Epidemiology, clinical feature, co-
morbidities, and clinical sccoring, Indian Dermatol Online J, 7(6), 471-480.
22. Chandran V, Raychaudhuri SP. (2010). Geoepidemiology and environmental factors
of psoriasis and pssoriaticc arthritis, J Autoimmun, 34(3), J314-J321.
23. Tollefson MM, Crowson CS, McEvay MT, Maradit Kremer H. (2010). Incidence of
psoriasis in children-a population-based study, J Am Acad Dermatol, 62(6), 979-
987.
24. Heng Leong Chan. (1993). Low-dose cyclosporine A in the treatment of recalcitrant
psoriasis, Sandimmun in Dermatology, Excerpa Media, 17-20.
25. Shikiar R, Willian MK, Okun M, Thompson CS, Revicki DA. (2006). The validity
and responsiveness of three quality of life measures in the assessment of psoriasis
results of a phase II study, Health and Quality of life outcomes, 4, 71.
26. Henseler T, Christophers E. (1985). Psoriasis of early and late onset-Characterization
of two types of psoriasis vulgaaris, J Am Acad Dermatol, 13(3), 450-456.
27. Henseler T, Christophers E. (1995). HLA and psoriasis, Psoriasis, ISED/Editions du
dome, Italie-France, 10-13.
28. Zhang XJ, Zhang AP, Yang S, et al. (2003). Association of HLA class I alleles with
psoriasis vulgaris in southeastern Chinese Hans, J Dermatol Sci, 33(1), 1-6.
29. Mrowietz U, Reich K. (2009). Psoriasis-New insights into pathogenesis and
treatment, Dtsch Arztebl Int, 106(1-2), 11-19.
30. Richardson S, Gelfand JM. (2008). Update on the natural history and systemic
treatment of psoriasis, Adv Dermatol, 24, 171-196.
31. Naldi L, Cainelli T. (1995). Epidemiologie et heredite, Psoriasis, ISED/Editions du
dome, France,3-9.
32. Krueger G, Ellis CN. (2005). Psoriasis-recent advances in understanding its
pathogenesis and treatment, J Am Acad Dermatol, 53(1), S94-s100.
33. Huang YH, Kuo SF, Huaang LH, Hsieh MY. (2019). Familial aggregation of
psoriasis and co-aggregation of autoimmune disease in affected families, J Clin
Med, 8(1), 115.
34. Mak RKH, Hundhausen C, Nestle FO. (2009). Progress in understanding the
immunopathogenesis of psoriasis, Actas Dermosifiliogr, 100(2), 2-13.
35. Naldi L, Peli L, Parazzini E, et al. (2001). Family history of psoriasis, stressful life
evnets, and recent infectious disease are risk factors for a first episode of acute
guttate psoriasis: reults of a case-control study, J Am Acad Dermatol, 44(3), 433-
438.
36. Zeng J, Luo S, Huaang Y, Lu Q. (2017). Critical role of environmental factors in the
pathogenesis of psoriasis, Journal of Dermatology, 44, 863-872.
37. De Brouwer SJ, vaan Middendorp H, Stormink C, et al. (2014). The
psychophysiological stress response in psoriasis and rheumatoid arthritis, Br J
Dermatol, 170(4), 824-831.
38. Hunter HJ, Griffiths CE, Kleyn CE. (2013). Does psychosocial stress play a role in
the exacerbation of psoriasis?, Br J Dermatol, 169(5), 965-974.
39. Rousset L, Halioua B. (2018). Stress and psoriasis, Int J Dermatol, 57(10), 1165-
1172.
40. Karababa F, Yesilova Y, Turan E, Selek S, Altun H, Selek S. (2013). Impact of
depressive symptoms on oxidative stress in patients with psoriasis, Redox Rep,
18(2), 51-55.
41. Ledoux M, Chazerain V, Saiq P, Mehe E. (2009). Streptococcal perianal dermatitis
and guttate psoriasis, Dermatol Venereol, 136(1), 37-41.
42. Thorleifsdottir RH, Siqurdardottir SL, Siqurgeirsson B, et al. (2012). Improvement of
psoriasis after tonsillectomy is associated with a decrease in the frequency of
circulating T cells that recognize streptococcal determinants and homologous skin
determinants, J Immunol, 188(5), 5160-5165.
43. Fry L, Baker BS. (2007). Triggering psoriasis-the role of infections and medications,
Cin Dermatol, 25(6), 606-615.
44. Basavarai KH, Ashok NM, Rasgmi R, Praveen TK. (2010). The role of drugs in the
induction aand/or exacerbation on psoriasis, Int J Dermatol, 49(12), 1351-1361.
45. Kimball AB, Gifna D, gelfand JM. (2008). National psoriasis foundation clinical
comsensus on psoriasis morbidities and reccommendations for screening, J Am
Acad Dermatol, 58(6), 11031-1042.
46. Herron MD, Hinckley M, Hoffman MS, et al. (2005). Impact of obesity aand
smoking on psoriasis presentation and management, Arch Dermatol, 141(12), 1527-
1534.
47. Setty AR, Curhan G, Choi HK. (2007). Smoking and the risk of psoriasis in women:
nurses Health study II, Am J med, 120(11), 953-859.
48. Kaur S, Kingo K, Zilmer M. (2017). Psoriasis and cardiovascular risk-do promising
new biomarkers have clinical impact, Mediators infamm, 2017,7279818.
49. Aurangabadkar SJ. (2013). Comorbidities in psoriasis, Supplement psoriasis, 79(7),
10-17.
50. Bajaj DR, Mahesar SM, Devrajari BR, Iqbal MP. (2009). Lipid profile in patients
with psoriasis presenting at Liaquat university hospital Hyderabad, Pak Med Assoc,
59(8), 512-515.
51. Piskin S, Gurkok F, Ekuklu G, Senol M. (2003). Serum lipd levels in psoriasis,
Yonsei Med J, 44(1), 24-26.
52. Sommer DM, Jenisch S, Suchaan M, Christophers E, Wiechenthai M. (2006).
Increased prevalence of the metabolic syndrome in patients with moderate to severe
psoriasis, Arch Dermatol Res, 298(7), 3210328.
53. Jensen P, Skov L. (2016). Psoriasis and obesity, Dermatology, 232, 633-639.
54. Lynde CW, Poulin Y, Vender R, et al. (2014). Interleukin 17A: toward a new
understanding of psoriasis pathogenesis, J Am Acad Dermatol, 71(1), 141-150.
55. Gottlieb SL, Gilleaudeau P, Johnson R, et aal. (1995). Response of psoriasis to a
lymphocyte-selective toxin (DAB389IL-2) suggests a primary immune, but not
keratinocyte, pathogenic basis, Nat Med, 1(5), 442-7.
56. Yawalkar N, Karlen S, Hunger R, Brand CU, Braathen LR. (1998). Expression of
interleukin-12 is increased in psoriatic skin, J Invest Dermatol, 11(6), 1053-1057.
57. Mease PJ, Goffe BS, Metz J, VanderStoep A, Finck B, Burge DJ. (2000). Entanercept
in the treatment of psoriatic arthritis and psoriasis: a randomized trial, Lancet,
356(9227), 385-390.
58. Oppmann B, Lesley R, Blom B, et al. (2000). Novel p19 protein engages IL-12p40 to
form a cytokine, IL-23, with biological activities similar as well as distinct from IL-
12, Immunity, 13(5), 715-725.
59. Piskin G, Sylva-Steenland RM, Bos JD, Teunissen MB. (2006). In vitro and in situ
expression of IL-23 keratinocytes in healthy skin and psoriasis lesion: enhanced
expression in psoriatic skin, J Immunol, 176(3), 1908-1915.
60. Luo J, Wu SJ, Lacy ER, et al. (2010). Structural basis for the dual recognition of IL-
12 and IL-23 by ustekinumab, J Mol Biol, 402(5),797-812.
61. Park H, Li Z, Yang XO, Chang SH, Nurieva R, et al. (2005). A distinct lineage of
CD4 T cells regulates tissue inflammation by producing interleukin 17, Nat
Immunol, 6(11), 1133-1141.
62. Kagami S, Rizzo HL, Lee JJ, Koguchi Y, Blauvelt A. (2010). Circulating Th17,
Th22, and Th1 cells are increased in psoriasis, J Invest Dermatol, 130(5), 1373-
1383.
63. Pappu R, Ramirez-Carrozzi V, Ota N, Ouyang W, Hu Y. (2010). The IL-17 family
cytokines in immunity aand disease, L Clin Immunol, 30(2), 185-195.
64. Onishi RM, Gaffen SL. (2010). Interleukin-17 and its target genes: mechanisms of
interleukin-17 function in disease, Immunology, 129(3), 311-321.
65. Res PC, Piskin G, de Boer OJ, van der Loos CM, et al. (2010). Overrepresentation of
L-17A and IL-22 producing CD8 T cells in lesional skin suggests involvement in
the pathogenesis of psoriasis, Plos One, 5(11), e14108.
66. Chang T, Wong TW, Yang CH, Wang LF. (2017). Taiwanese dermatological
association consensus statement on management of psoriasis, Dermatologia Sinica,
35(2), 66-77.
67. Mrowietz U, Kragballe K, Reich K, et al. (2011). Definition of treatment goals for
moderate to severe psoriasis: a European consensus, Arch Dermaatol Res, 303(1),
1-10.
68. Gisondi P, Giglio MD, Girolomoni G. (2017). Treatment approaches to moderate to
severe psoriasis, Int J Mol Sci, 18(11), 2427.
69. Schubert B, Juillard J. (1995). Goudrons, Psoriasis, ISED/Editions du dome, France,
116-122.
70. Verschoore M, Shroot B. (1995). Anthraline, Psoriasis, ISED/Editions du dome,
France, 112-115.
71. Higgins EM, Vivier A. (1995). Glucocortocoides, Pssoriasis, ISED/Editions du dome,
France, 102-111.
72. Kragballe K. (1995). Vitsmine D et Derives, Psoriasis, ISED/Editions du dome,
France, 124-134.
73. Rosenbach T, Czarnetzki BM. (1995). Retinoides, Psoriasis, ISED/Editions du dome,
France, 152-161.
74. Grossmaan R. (1995). Cyclosporine, Psoriasis, ISED/Editions du dome, France, 174-
185.
75. Soleymani T, Vassantachart JM, Wu JJ. (2016). Comparision of guidelines for the
use cyclosporine for psoriasis: A critical appraisal and comprehensive review, Drug
Dermatol, 15(3), 293-301.
76. Lotti T, Chimenti S, Katsambas A, Ortonne JP, Dubertret L, et al. (2010). Efficacy
and safety of Efalizumab in patients with moderate-to-severe plaque psoriasis
resistant to previous anti-pssoriatic treatment: Results of a multicenter, open-label,
phase IIIb/IV trial, Arch Drug Int, 3(1), 9-18.
77. Torii H, Nakagawa H.(2010). Infliximab monotherapy in Japanese patients with
moderate-to-severe plaque psoriasis and psoriatic arthritis. A randomized, double-
blind, placebo-controlled multicenter trial, J Dermatol Sci, 59(1), 40-49.
78. Reich K, Wozel G, Zheng H, et al. (2013). Efficacy and safety of infliximab as
continuous or intermittent therapy in patients with moderate-to severe plaque
psoriasis: results of a randomized, long-term extension trial, Br J Dermatol, 168(6),
1325-1324.
79. Blauvelt A, Papp KA, Griffiths CE, et al. (2017). Eficacy and safety ò guselkumab,
an anti-tnterleukin-23 monoclonal antibody, compared with adalinumab for the
conticuous treatment of patients with moderate to severe psoriasis: Reults from the
phase III, double-blinded, placebo-and cative comparator-controlled VOYAGE1
trial, J Am Acad Dermatol, 76(3), 405-417.
80. Papp KA, Blault A, Bukhalo M, et al. (2017). Risankizumab versus ustekinumab for
moderate-to-severe plaque psoriasis, N Engl J Med, 376(16), 1551-1560.
81. Langley RG, Elewski BE, Lebwohl M, et al. (2014). Secukinumab in plaque
psoriasis-results of two phase 3 trials, N Engl J Med, 371(4), 326-338.
82. Leonardi C, Matheson R, Zachariae C, et al. (2012). Anti-interleukin-17 monoclonal
antibody ixekizumab in chronc plaque psoriasis, N Engl J Med, 366(13), 1190-
1199.
83. Lebwohl M, Strober B, Menter A, et al. (2015). Phase 3 studies comparing
brodalumab with ustekinumab in psoriasis, N Engl J Med, 373(14), 1318-1328.
84. Papp KA, Kaufmann R, Thaci D, et al. (2013). Efficacy and safety of apremilast in
subjects with moderate to severe plaque psoriasis: results from a phase II,
multicenter, randomized, ouble-blind, placebo-controoled, parallel-group, dose-
comparison study, J Eur Acad Dermatol Venereol, 27(3), e376-e383.
85. Papp KE, Menter A, Strober B, et al. (2012). Efficacy and safety of tofacitinib, an
oral janus kinase inhibitor, in the treatment of psoriasis: a phase 2b randomized
placebo-controlled dose-ranging study, Br J Dermatol, 167(3), 668-677.
86. Papp KA, Menter MA, Raman M, et al. (2016). A randomized phase 2b trial of
baricitinib, an oral Janus kinase (JAK)1/JAK2 inhibitor, in patients with moderate-
to-severe psoriasis, Br J Dermatol, 174(6), 1266.
87. Bai F, Zheng W, Dong Y, Wang J, Garstka MA, Li R, An J, Ma H. (2018). Serum
levels of adipokines and cytokines in psoriasis patients: a systematic review and
meta-analysis, Oncotarget, 9(2), 1266-1278.
88. Stoma AM, Pietrzak A, Szepietowski JC, et al. (2011). Cytokine network in psoriasis
revisited, Eur.Cytokine Netw, 22(4), 160-168.
89. Blauvelt A, Chiricozzi A. (2018). The immunologic role of IL-17 in psoriasis aand
psoriatic arthritis pathogenesis, Linical reviews in Allergy&Immunology, 55(3),
379-390.
90. Nograles KE, Zaba LC, Guttman-Yassky E, et al. (2008). Th17 cytokine interleukin
(IL)-17 and IL-22 modulate distint inflammatory and keratinocyte-response
pathways, Br J Dermatol, 159(5), 1092-102.
91. Nograles KE, Davidovici B, Krueger JG. (2010). New insights in the immunologic
basis of psoriasis, Semin Cutan Med Surg, 29(1), 3-8.
92. Meephansan J, Subpayasam U, Komine M, Ohtsuki M. (2017). Pathogenic role of
cytokine and effect of their inhibition in psoriasis, an interdisciplinary Approach to
psoriasis, 42-60.
93. Golden JB, McCormick TS, Ward NL. (2013). IL-17 in psoriasis-implications for
therapy and cardiovascular co-morbidities, Cytokine, 62(2), 195-201.
94. Shaker OG, Moustafa W, Essmat S, Abdel-Halium M, El-Komy M. (2006). The role
of interleukin-12 in the pathogenesis of psoriasis, Clin Biochem, 39(2), 119-125.
95. Arican O, Aral M, Sasmaz S, Ciragil P. (2005). Serum levels of TNF-alpha, IFN-
gamma, IL-6, IL-8, IL-12, IL17, and IL-18 in patients with active psoriasis and
correlation wih disease severity, Mediators Inflamm, 2005(5), 273—279.
96. Brotas AM, Cunha JMT, Lago EHJ, Machado CCN, Silva Carnero SC. (2012).
Tumor necrosis factor-alpha and the cytokine network in psoriasis, An Bras
Dermatol, 87(5), 673-681.
97. Zakewska AZ, Glowacka E, Okowska JW, et al. (2006). Interleukin 6 and 8 levels in
plasma and fibroblast cultures in psoriasis, Mediators of Inflammation, Article ID
81757, 1-6.
98. Cannavo SP, Bertino L, Salvo ED, Papaianni V, et al. (2019). Possible roles of IL-33
in the innaate-adaptive immune Crosstalk of psoriasis pathogenesis, Mediators of
Inflammation, Article ID 7158014, 10p.
99. Cayrol C, Girand JP. (2018). Interleukin-33 (IL-33): A nuclear ccytokine from the IL-
1 family, Immunol Rev, 281(1), 154-168.
100. Dogra S, Dipankar De. (2010). Narrowband ultraviolet B in the treatment of
psoriasis: The journey so far, Symposium-psoriasis, 76(6), 652-661.
101. Weatherhead SC, Fart PM, Reynolds NJ. (2013). Spectral effects of UV on
psoriasis, Photochem Photobiol Sci, 12(1), 47-53.
102. Zhang P, Wu MX. (2018). A clinical review of phototherapy for psoriasis, Lasers
Med Sci, 33(1), 173-180.
103. Reich A, Medrek K. (2013). Effects of narrowband UBV (311nm) irradiation on
epidermal cells, Int J Mol Sci, 14(4), 8455-8466.
104. Honigsmann H, Calzavara-Pinton PG, Ortel B. (1995). Phototherapie et
photochimotherapie, Psoriasis, ISED/Editions du dome, France, 137-150.
105. Roenigk HH. (1995). Methotrexate, Psoriasis, ISED/Editions du dome, France, 162-
173.
106. Kaffenberger BH, Kaffenberger TM, Wong HK. (2013). Immunotargeting in the
management of psoriasis, Immunotarger Thr, 2013(2), 51-60.
107. Caproni M, Antiga E, Melani L, Volpi W, Del Bianco E, Fabbri P. (2009). Serum
levels of IL-17 and IL-22 are reduced by entanercept, but not by acitretin, in
patients with psoriasis: a randomized-controlled trial, J Clin Immunol, 29(2), 210-
214.
108. Elhandour TM, Youssef SES, Aly DG, et aal. (2013). Effect of narrowband
ultraviolet B therapy versus methotrexate on serum levels of interleukin-23 in
Egyptian patients with severe psoriasis, Dermatol Res Pract, 2013, 618269.
109. Budamakuntla L, Loganathan E, Gundappa P, et aal. (2017). IL17 cytokine in
psoriasis: before and after methotrexate and NBUVB phototherapy: a longitudinal
study, Reseach Article, Cil Dermatol Res J, 2(1), 1-7.
110. Trần Nguyên Ánh Tú, Nguyễn Trọng Hào, Đặng Văn Em. (2019). Tác dụng lâm
sàng của secukinumab trong điều trị vảy nến thông thường, Tạp chí Da liễu học Việt
Nam, số 28 (5), 20-28.
111. Phan Huy Thục, Đặng Văn Em. (2015). Nghiên cứu sự thay đổi một số cytokine
trước và sau điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng methotrexate, Tạp chí Y học
thực hành, 11(941), 125-127.
112. Asawanonda P, Nateetonrungsak Y. (2006). Methotrexate plus narrowband UVB
phototherapy versus narrowband UVB phototherapy alone in the treatment of
plaque-type psoriasis: a randomized, placebo-controlled sutudy, Jam Acad
Dermatol, 54(6), 1013-1018.
113. Mahajan R, Kaur I, Kanwar AJ. (2010). Methotrexate/narrowband UVB
phototherapy combination vs. narrowband UVB phototherapy in the treatment of
chronic plaque-type psoriasis-a randomized single-blinded placebo-controlled
study, J Eur Acad Dermatol venereal, 24(5), 595-600.
114. Archier E, Devaux S, Castela E, et al. (2012). Efficacy of psoralen UVA therapy vs.
narrowband UVB therapy in chronic plaque psoriasis: a systematic literature
review, J Eur Acad Dermatol Venereol, 26(3), 11-21.
115. Maheshwari N, Singh A. (2013). A randomized sstudy of methotrexate plus
narrowband UVB versus narrowband UVB monotherapy in chronic plaque type
psoriasis in a rural populatin, International Journal of Scientific & engineering
rearch, 4(9), 2229-5518.
116. Tổ chức Y tế Thế giới-Khu vực Tây Thái Bình Dương-Viện Vê sinh dịch tễ Trung
ương. (1992). Phương pháp nghiên cứu y tế -Sách hướng dẫn huấn luyện các
phương pháp nghiên cứu, Nhà xuất bản TCYTTG khu vực-Đơn vị huấn luyện khu
vực Tây Thái Bình Dương, Cuốn số 5, 94-96.
117. Khadka DK, Agrawal S, Dhali TK. (2015). Methotrexate plus narrowband
ultraviolet B (NBUVB) versus methotrexate alone in the treatment of moderate to
severe plaque psoriasis: a randomized clinical trial, NJDVL, 13(1), 12-23.
118. Nguyễn Lan Hương, Đặng Văn Em, Lê Thanh Hùng. (2014). Nghiên cứu một số
yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng của bệnh vảy nến điều trị tại BVTƯQĐ108
từ 2010-2012, Da liễu học Việt Nam, 17-22.
119. Nguyễn Bá Hùng, Đặng Văn Em. (2015). Nghiên cứu yếu tố liên quan và đặc điểm
lâm sàng bệnh vảy nên điều trị tại Bộ môn-Khoa Da liễu dị ứng, BVTƯQĐ108 từ
1/2014-5/2015, Tạp chí Y học thực hành, 6(968), 73-76.
120. Adisen E, Uzun S, Erduran F, Gurer MA. (2018). Prevalence ò smoking, alcohol
cconsumption and metabolic syndrome in patients with psoriasis, An Bras
Dermatol, 93(2), 205-211.
121. Đỗ Tiến Bộ. (2012). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, yếu tố liên quan và hiệu quả
điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng uống vitamin A acid (soriatane), Luận văn
bác sĩ chuyên khoa cấp 2, Đại học Y Hà Nội, 84tr.
122. Đặng Văn Em-2000. Nghiên cứu một số yếu tố khởi động, cơ địa và một số thay đổi
miễn dịch trong bệnh vảy nến thông thường, Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà
Nội, 126 tr.
123. Mehata NN, Azafar RS, Shun DB, Neimann AL, et al. (2010). Patients with severe
psoriasis are at inceased risk of cardiovascular mortality: cohort study using the
general practice research database, Eur Heart J, 31(8), 1000-1006.
124. Chu-Sung Hu S, Lan CCE. (2017). Psoriasis and cardiovascular comorbidities:
Focusing on severe vascular events, cardiovascular risk factors and implications for
treatment, Int J Sci, 18(10), 2211.
125. Amstrong AW, Lin SW, Chambrs CJ, Sockolov ME, Chin DL. (2011). Psoriasis and
hypertension severity-results from a case-control study, PLoS One, 6(3), e18227.
126. Phan Huy Thục-2015. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và mối liên quan giữa nồng độ
cytokine với kết quả điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng methotrexate, Luận
án Tiến sĩ y học, Đại học Y Hà Nội, 129tr.
127. Gisondi P. (2017). High prevalence of alcohol use disorders in patients with
inflammatory skin diseases applies to psoriasis and eczema, Br J Dermatol, 177,
837-844.
128. Naldi L. (2016). Psoriasis and smoking-links and risks, Psoriasis (Auckl), 6, 65-71.
129. Kinahan CE, Mazloom S, Femandez AP. (2015). Impact of smoking on response to
systemic treatment in patients with psoriasis: a retrospective case-control study, Br
J Dermatol, 172(2), 428-436.
130. Langley RGB, Krueger GG, Griffiths CEM. (2005). Psoriasis: epidemiology,
clinical features, and quality of life, Ann Rheum Dis, 64, 18-23.
131. De Pita O, Ruffelli M, Cadoni S, et al. (1996). Psoriasis: Comparision of
immunological markers in patients with acute and remission phase, J Dermatol Sci,
13(2), 118-124.
132. Hoxtermann S, Nuchel C, Altmeyer P. (1998). Fumaric acid esters suppress
peripheral CD4- and CD8- positive lymphocytes in psoriasis, Dermatology, 196,
223-230.
133. Carrascoza JM, Tapia G, Bielsa L, Fuente MJ, Ferrandiz C. (2007). Effects of
narrawband UVB on pharmacodynamics markers of response to therapy: An
immunohistochemical study over sequential samples, Journal of Cutaneous
Pathology, 34(10), 769-776.
134. Chiricozzi A, Romanelli P, Volpe E, et aal. (2018). Scanning the
immunopathogenesis of psoriasis, International Jouranal of Molecular Sciences,
19(1), 179.
135. Lows MA, Suarez-Fanifas M, Krueger JG. (2014). Immunology of psoriasis, Annu
Rev Immunol, 32, 227-255.
136. Trần Nguyên Ánh Tú, Nguyễn Trọng Hào, Đặng Văn Em.(2018). Nồng độ IL-17A
và hsCRP trên bệnh nhân vảy nến thông thường, Tạp chí Y dược lâm sàng 108, 13,
88-91.
137. Mussi A, Bonifati C, Carducci M, et al. (1997). Serum TNF-alpha levels correlate
with disease severity and are reduced by effective therapy in plaque-type psoriasis,
J Biol Regul Homeost Agents, 11(3), 115-118.
138. Abanmi A, Al Harthi F, Al Agla R, et al. (2005). Serum levels of proinflammatory
cytokines in psoriasis patients from Saudi Arabia, Int J Dermatol, 44(1), 82-83.
139. Arican O, Aral M, Sasmaz S, Ciragil P. (2005). Serum levels of TNF-α, IFN-γ, IL-6,
IL-8, IL-12, IL-17, and IL-18 in patients with active psoriasis and correlation with
disease severity, Mediator Inflamm, 2005(5), 273-279.
140. Takahshi H, Tsui H, Hashimoto Y, et al. (2010). Serum cytokines and growth factor
levels in Japanese patients with psoriasis, Dermatology, 96.
141. Ragah HM, El Maksoud NA, Farid Roaiah MM. (2010). Biochemical significance
of proinflammatory cytokines in psoriasis vulgaris among Egyptian patients,
Jouranal of American Science, 6(11), 374-380.
142. Yilmax SB, Cicek N, Coskun M, Yegin O, Alpsoy E. (2012). Serum and tissue
levels of IL-17 in different clinical subtypes of psoriasis, Arch Dermatol Res,
304(6), 465-469.
143. Dowlatshahi EA, Van der Voort EA, Arends LR, Nijsten T. (2013). Markers of
systemic inflammation in psoriasis-a systematic review and met-analysis, Br J
Dermatol, 169(2), 266-282.
144. Pirowska M, Obtulowicz A, Lipko-Godlewska S, et al. (2018). The level of
proinflammatory cytokines: interleukins 12, 23, 17 and tumor necrosis factor α in
patients with metabolic syndrome accompanying severe psoriasis and psoriatic
arthritis, Postepy Dermatol Alergol, 35(4), 360-366.
145. Verghese B, Bhatnagar S, Tanwar R, Bhattacharjee J. (2011). Serum cytokine
profile in psoriasis- A case-control study in a Tertiary care Hospital from Northern
India, Ind J Clin Biochem, 26(4), 373-377.
146. Heam RM, Kerr AC, Rahim KF, et al. (2008). Incidence of cancers in 3867 patients
treaed with narrow-band ultraviolet B phototherapy, Br J Dermatol, 159(4), 931-
935.
147. Beani JC, Jeanmougin M. (2010). Narrow-band UVB therapy in psoriasis vulgaris:
good practice guideline and recommendations of the French Society of
photodermatiology, Ann Dermatol Venereol, 137(1), 21-31.
148. Bùi Thị Vân, Nguyễn Lan Anh, Nguyễn Minh Tuấn. (2014). Đánh giá hiệu quả điều
trị bệnh vảy nến thông thường bằng uống methotrexate liều thấp kết hợp bôi mỡ
salicylic 5%, Tạp chí Y dược lâm sàng 108, 9(2), 44-48.
149. Đặng Văn Em, Bùi Thị Vân. (2015). Nghiên cứu hiệu quả điều trị bệnh vảy nến
thông thường bằng daivobet kết hợp methotrexate liều thấp (7,5mg/tuần), Tạp chí Y
dược lâm sàng 108, 10 (1), 20-24.
150. Meephansan J, Ruchusatsawat K, Sindhupak W, et al. (2011). Effect of
methotrexate on serum levels of IL-22 in patients with psoriasis, Eu J Dermatol,
21(4), 501-504.
151. Tekur VK. (2016). Methotrexate- induced nonhealing cutaneous ulcers in a
nonpsoriasis patients without pancytopenia, Indian Dermatol Online, 7(5), 418-420.
PHỤ LỤC 1: ẢNH MINH HỌA
NHÓM NGHIÊN CỨU:
TRƯỚC ĐIỀU TRỊ SAU ĐIỀU TRỊ
TRƯỚC ĐIỀU TRỊ SAU ĐIỀU TRỊ
NHÓM ĐỐI CHỨNG:
TRƯỚC ĐIỀU TRỊ SAU ĐIỀU TRỊ
TRƯỚC ĐIỀU TRỊ SAU ĐIỀU TRỊ
Viện NCKHYDLS 108 PHIẾU NGHIÊN CỨU
Bộ môn Da liễu - dị ứng Bệnh nhân vảy nến
Mã BN:………………………
I. Hành chính
1.Họ và tên……………………..……………Giới………….Dân tộc……….
2.Tuổi đời…………….Tuổi khởi phát:……………..Tuổi bệnh…………….
3.Cân nặng…….……Vòng bụng:…..……..BMI:……..…..HA:……………
4. Địa chỉ: …………………………………………………………………….
5. Điện thoại:…………………….............…….DĐ….……………………....
6. Nghề nghiệp:……………………Văn hóa……………Địa dư……………
7. Ngày điều trị…..…/.……./201....... Ngày kết thúc….…./…..…./201..…..
8. Điều trị: nội trú SBA……………. ….MS…………..…….ngoại trú
II. Chẩn đoán:……………………………………………………………….
………………………………………………………………………………..
III. Tiền sử
1. Bản thân:………...…………………………………………………………
2. Gia đình:…………...………………………………………………………
IV. Lâm sàng
1.Tổn thương đầu tiên:……………………………………………………….
2.Thể lâm sàng:…………………………………………………………...…..
3.Tổn thương da theo PASI:
PASI=0,1(Đ+V+C)S1+0,2((Đ+V+C)S2+0,3(Đ+V+C)S3+0,4(Đ+V+C)S4
4. Tổn thương móng:…….……………………………...................................
5. Tổn thương khớp:………………………………………………………….
6.Tổn thương khác:…………………………………………………………...
7.Mức độ bệnh:……………………………………………………………….
8.Giai đoạn bệnh: Hoạt động Không hoạt động
9.Yếu tố khởi động: Stress……………………………………………………
Hiện tượng Koebner……..…………………………………..……………….
Thuốc…………..……………………………………………………………..
Thức ăn, uống:………………………………………………………………..
Thời tiết:……………………………………………………………………...
Tiền sử gia đình:............................…………………………………………
Bệnh kết hợp:....................................................................................................
V. Xét nghiệm
Chỉ số Trước điều trị Sau điều trị 4 tuần Ghi chú
HC
BC
TC
Glucosa
A.uric
Ure
Creatinin
SGOT
SGPT
Triglyceride
Cholesterol
HDL-C
LDL-C
TCD4
TCD8
IL-2
IL-4
IL-6
IL-8
IL-10
IL-17
TNF-α
IFN-γ
VI. Điều trị
6.1. Phương pháp ĐT:
* Tại chỗ: Bôi Physiogel 2 lần/ ngày
* Toàn thân:
- Chiếu UVB-311nm: 1 lần/ngày x 5 ngày (nghỉ thứ 7, CN) x 4 tuần:
Có Không
- Uống MTX: 7,5mg/1 lần/ngày/ tuần x 4 tuần:
Có Không
6.2. Kết quả điều trị
- Kết quả lâm sàng:
2 tuần Bắt đầu điều trị
CS Đ V C S TS CS Đ V C S TS
0,1 0,1
0,2 0,2
0,3 0,3
0,4 0,4
Tổng Tổng
3 tuần 4 tuần
CS CS Đ V C S TS Đ V C S TS
0,1 0,1
0,2 0,2
0,3 0,3
0,4 0,4
Tổng Tổng
Rất tốt Tốt Khá Vừa Kém
-Kết quả tác dụng không mong muốn trên lâm sàng
Buồn nôn Đau đầu Đỏ da Mụn nước Ngứa
Khác:..........................................................................................
6.3. Theo dõi tái phát
Chỉ số Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3
Không hoạt động
Tái phát
Ngày……….tháng………..năm 20….
Nghiên cứu sinh
DANH SÁCH BỆNH NHÂN VẢY NẾN ĐIỀU TRỊ TẠI KHOA DA LIỄU-DỊ ỨNG
BỆNH VIỆN TƯQĐ108 TỪ 8/ 2015 ĐẾN 5/2018
Của NCS PHẠM DIỄM THÚY
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY STT HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
1 15390 Lâm Viết Đ. 1966 5/8/2015 25/8/2015 Nhẹ 49 Nam
2 15579 Khúc Thụy D. 1968 14/8/2015 26/8/2015 Vừa 47 Nam
3 BH23791 Nguyễn Thúy N. 1978 18/8/2015 9/9/2015 Nhẹ 37 Nữ
4 25147 Phạm Văn Đ. 1962 31/8/2015 24/9/2015 Vừa 53 Nam
5 26683 Nguyễn Gia P. 1953 14/9/2015 25/9/2015 Vừa 62 Nam
6 25686 Phạm Thị L. 1971 Viêm khớp VN 4/9/2015 29/9/2015 44 Nữ
7 16234 Lê Thị L. 1968 Nhẹ 18/9/2015 3/10/2015 47 Nữ
8 16023 Nguyễn Văn G. 1984 VNĐDTT 8/9/2015 9/10/2015 31 Nam
9 16264 Vũ Ngọc L. 1964 Vừa 21/9/2015 13/10/2015 51 Nam
10 28395 Tô Minh Đ. 1994 VNĐDTT 28/9/2015 20/10/2015 21 Nam
11 29042 Nguyễn Văn M. 1960 Nhẹ 2/10/2015 21/10/2015 55 Nam
12 16297 Nguyễn Hữu M. 1963 Vừa 22/9/2015 23/10/2015 52 Nam
13 30490 Nguyễn Trọng N. 1953 VNDDTT 14/10/2015 30/10/2015 62 Nam
14 28721 Nguyễn Trọng H. 1951 VNĐDTT 30/9/2015 31/10/2015 64 Nam
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY STT HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
15 16773 Lê Văn T. 1973 42 Nam Vừa 16/10/2015 6/11/2015
16 31918 Nguyễn Văn Đ. 1993 22 Nam Nặng 27/10/2015 7/11/2015
17 32214 Trương Bạt N. 1961 54 Nam Nặng 28/10/2015 20/11/2015
18 32524 Trần T. 1928 87 Nam Vừa 4/11/2015 25/11/2015
19 17309 Nguyễn Trung K. 1995 20 Nam Nhẹ 11/11/2015 25/11/2015
20 17272 Lê Văn T. 1973 42 Nam Nhẹ 10/11/2015 25/11/2015
21 17196 Nguyễn Văn T. 1971 44 Nam Nặng 5/11/2015 26/11/2015
22 17310 Nguyễn Thị Minh P. 1965 50 Nữ Nhẹ 11/11/2015 8/12/2015
23 17632 Nguyễn Thế H. 1974 41 Nam Vừa 27/11/2015 9/12/2015
24 17439 Nguyễn Hữu M. 1963 52 Nam Vừa 18/11/2015 15/12/2015
25 14639 Trần Thị T. 1993 22 Nữ Vừa 10/12/2015 16/12/2015
26 17396 Trần Văn Đ. 1984 31 Nam Vừa 16/11/2015 18/12/2015
27 17697 Vũ Hữu H. 1972 43 Nam Vừa 1/12/2015 23/12/2015
28 35318 Nguyễn Trọng H. 1952 63 Nam Vừa 24/11/2015 23/12/2015
29 17378 Võ Quang H. 1978 37 Nam Vừa 16/11/2015 25/12/2015
30 39403 Trịnh Bá H. 1982 33 Nam Nhẹ 29/12/2015 8/1/2016
31 38716 Đỗ Văn S. 1952 63 Nam Vừa 23/12/2015 9/1/2016
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY STT HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
17869 Quách Đại N. 32 1965 50 Nam Vừa 9/12/2015 12/1/2016
215 Nguyễn Minh P. 33 1959 57 Nam Nặng 6/1/2016 28/1/2016
109 Thành Minh T. 34 1963 53 Nam Nặng 6/1/2016 28/1/2016
2137 Hoàng Văn Q. 35 1948 68 Nam Nặng 21/1/2016 3/2/2016
370 Trần Nguyên A. 36 1965 51 Nam Vừa 20/1/2016 3/2/2016
312 Nguyễn Thị O. 37 1964 52 Nữ Nhẹ 18/1/2016 3/2/2016
5376 Nguyễn Công L. 38 1996 20 Nam Vừa 29/2/2016 22/3/2016
919 Lê Thị L. 39 1968 48 Nữ Vừa 3/3/2016 22/3/2016
7519 Đinh Văn L. 40 1966 50 Nam Vừa 16/3/2016 24/3/2016
784 Nguyễn Trung C. 41 1967 49 Nam Vừa 25/2/2016 24/3/2016
1158 Lê Khắc H. 42 1985 31 Nam Vừa 16/3/2016 25/3/2016
6758 Nguyễn Xuân T. 43 1944 72 Nam Nặng 10/3/2016 26/3/2016
5754 Nguyễn Trọng N. 44 1953 63 Nam Viêm khớp VN 2/3/2016 29/3/2016
6888 Bùi Khắc H. 45 1947 69 Nam Vừa 11/3/2016 31/3/2016
7556 Nguyễn Văn S. 46 1963 53 Nam Nặng 16/3/2016 5/4/2016
1080 Dương Quang H. 47 1968 48 Nam Viêm khớp VN 14/3/2016 6/4/2016
1087 Lê Văn C. 48 1973 43 Nam Nặng 14/3/2016 8/4/2016
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY STT HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
1035 Nguyễn Văn G. 49 VNĐDTT 10/3/2016 13/4/2016 1984 32 Nam
1272 Đặng Văn L. 50 1966 50 Nam Vừa 23/3/2016 15/4/016
9380 Phạm Văn L. 51 1939 77 Nam Vừa 30/3/2016 22/4/2016
9732 Trương Thị L. 52 1986 30 Nữ Nặng 4/4/2016 22/4/2016
1444 Nguyễn Đức T. 53 1975 41 Nam Nhẹ 1/4/2016 29/4/2016
9959 Nguyễn Trọng H. 54 1952 64 Nam Vừa 5/4/2016 29/4/2016
1963 Nguyễn Hữu M. 55 1963 53 Nam Vừa 15/4/2016 11/5/2016
1705 Hà Huyền T. 56 1982 34 Nữ Nặng 15/4/2016 14/5/2016
1877 Vũ Hữu H. 57 1972 44 Nam Vừa 28/4/2016 17/5/2016
12206 Đỗ Thị T. 58 1958 58 Nữ Vừa 21/4/2016 18/5/2016
1656 Nguyễn Trọng L. 59 1962 54 Nam Nhẹ 13/4/2016 18/5/2016
1960-Q Đào Xuân V. 60 1977 39 Nam Vảy nến khớp 15/5/2016 7/6/2016
16403 Đào Thị Huyền T. 61 1985 31 Nữ Vảy nến mụn mủ 23/5/2016 8/6/2016
Q.1948 Nguyễn Văn G. 62 1983 33 Nam VNĐDTT 4/5/2016 8/6/2016
Q.2007 Võ Quang H. 63 1970 46 Nam Nặng 9/5/2016 8/6/2016
Q.211 Nguyễn Thị O. 64 1964 52 Nữ Nhẹ 16/5/2016 10/6/2016
Q.2080 Thành Minh T. 65 1963 53 Nam Nặng 12/5/2016 14/6/2016
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH STT ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
66 BH15750 Vũ Công P. 1952 64 Nam 17/5/2016 14/6/2016 Nặng
67 Q.2337 Nguyễn Trọng Q. 1986 30 Nam 31/5/2016 29/6/2016 Vừa
68 BH18593 Đỗ Minh T. 1981 35 Nam Viêm khớp VN 6/6/2016 5/7/2016
69 BH18718 Trương Văn D. 1959 57 Nam 7/6/2016 5/7/2016 Vừa
70 BH18921 Đặng Đình D. 1978 38 Nam 8/6/2016 7/7/2016 Vừa
71 Q.2796 Tạ Quang T. 1965 51 Nam 6/7/2016 12/7/2016 Nhẹ
72 BH21726 Đinh Quang T. 1954 62 Nam 28/6/2016 16/7/2016 Nhẹ
73 Q.2796 Hà Thị Việt H. 1979 37 Nữ 30/6/2016 20/7/2016 Nhẹ
74 BH21849 Trần Quốc V. 1992 24 Nam VNĐDTT 28/6/2016 26/7/2016
75 BH21722 Vũ Ngọc L. 1964 52 Nam Vừa 28/6/2016 29/7/2016
76 BH21781 Nguyễn Trọng N. 1953 63 Nam VNĐDTT 28/6/2016 29/7/2016
77 BH22349 Nguyễn Thúy Q. 1997 19 Nữ 1/7/2016 4/8/2016 Vừa
78 25273 Nguyễn Văn S. 1963 53 Nam 21/7/2016 16/8/2016 Vừa
79 3342 Nguyễn Đức T. 1975 41 Nam Viêm khớp VN 9/8/2016 19/8/2016
80 BH28365 Vũ Văn H. 1972 44 Nam 10/8/2016 23/8/2016 Nhẹ
81 Q.3395 Lê Hồng D. 1966 50 Nam 11/8/2016 26/8/2016 Vừa
82 3570 Vũ T. 1954 62 Nam 25/8/2016 31/8/2016 Nhẹ
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH STT ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
83 28615 Đoàn Doanh N. 1940 76 Nam Vừa 11/8/2016 13/9/2016
84 32542 Trần Quốc V. 1992 24 Nam VNĐDTT 7/9/2016 14/9/2016
85 3440 Nguyễn Trường A. 1979 37 Nam Vừa 16/8/2016 14/9/2016
86 30234 Nguyễn Trọng K. 1957 59 Nam Vừa 23/8/2016 27/9/2016
87 31471 Nguyễn Trọng H. 1952 64 Nam Viêm khớp VN 31/8/2016 28/9/2016
88 3628 Nguyễn Văn Q. 1977 39 Nam Vừa 30/8/2016 29/9/2016
89 31973 Trần Thị Hoàng Y. 1987 29 Nữ Nhẹ 5/9/2016 29/9/2016
90 BH32586 Vũ Ngọc L. 1964 52 Nam Nặng 8/9/2016 6/10/2016
91 BH36033 Thành Minh T. 1963 53 Nam VNĐDTT 7/9/2016 6/10/2016
92 Q.3864 Trịnh Văn G. 1971 45 Nam Vừa 15/9/2016 6/10/2016
93 BH37629 Nguyễn Văn T. 1958 58 Nam Nhẹ 11/10/2016 21/10/2016
94 37811 Quảng Trọng H. 1955 61 Nam Nhẹ 12/10/2016 26/10/2016
95 38122 Trương Bạt N. 1961 55 Nam Vừa 13/10/2016 27/10/2016
96 4402 Hà Huyền T. 1982 34 Nam Nhẹ 19/10/2016 4/11/2016
97 7423 Dương Hữu P. 1993 23 Nam Nặng 21/10/2016 5/11/2016
98 4391 Nguyễn Hữu M. 1963 53 Nam Nhẹ 19/10/2016 9/11/2016
99 Q.4753 Nguyễn Văn T. 1975 41 Nam Nhẹ 15/11/2016 29/11/2016
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH STT ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
100 Q.4513 Đặng Văn L. 1966 50 Nam Vừa 27/10/2016 29/11/2016
101 BH39634 Trần T. 1928 88 Nam Nhẹ 8/11/2016 29/11/2016
102 BH8001 Lê Thúy Q. 1976 40 Nữ Nặng 25/11/2016 29/11/2016
103 BH44092 Trịnh Đình K. 1970 46 Nam Vừa 21/11/2016 1/12/2016
104 BH41665 Nguyễn Trọng H. 1952 64 Nam Viêm khớp VN 7/11/2016 2/12/2016
105 Q.4561 Võ Quang H. 1970 46 Nam Vừa 1/11/2016 6/12/2016
106 BH42906 Đặng Duy T. 1969 47 Nam Vừa 8/11/2016 6/12/2016
107 BH4341 Vũ Ngọc L. 1964 52 Nam Vừa 15/11/2016 8/12/2016
108 Q.4755 Nguyễn Quốc T. 1959 57 Nam Nặng 15/11/2016 9/12/2016
109 BH39634 Hoàng Thạch S. 1933 83 Nam Vừa 14/11/2016 13/12/2016
110 Q.4911 Nguyễn Thị Minh P. 1965 51 Nữ Nhẹ 24/11/2016 13/12/2016
111 BH46070 Nguyễn Đình C. 1949 67 Nam Nặng 5/12/2016 30/12/2016
112 BH49434 Vũ Thị D. 1955 61 Nữ Vảy nến mụn mủ 26/12/2016 4/1/2017
113 BH999 Đoàn Ngọc N. 1984 33 Nam Nhẹ 9/1/2017 17/1/2017
114 Q5355 Nguyễn Quốc T. 1959 58 Nam Nhẹ 28/12/2016 24/1/2017
115 Q39 Tạ Mộng V. 1973 44 Nam Nặng 4/1/2017 24/1/2017
116 BH3260 Trần Quốc T. 1959 58 Nam Vừa 3/2/2017 17/2/2017
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH STT ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
117 BH3296 Nguyễn Đăng K. 1958 57 Nam Vừa 3/2/2017 17/2/2017
118 DV769 Nguyễn Thị K. 1939 78 Nữ Vừa 13/2/2017 22/2/2017
119 BH4158 Nguyễn Văn L. 1957 60 Nam Vừa 8/2/2017 7/3/2017
120 Q268 Tạ Mộng V. 1973 44 Nam VNĐDTT 6/2/2017 7/3/2017
121 BH5328 Nguyễn Trọng H. 1952 65 Nam VNĐDTT 15/2/2017 14/3/2017
122 BH5948 Vũ Ngọc L. 1964 54 Nam Vừa 20/2/2017 15/3/2017
123 BH7926 Nguyễn Đình C. 1949 68 Nam Vừa 3/3/2017 15/3/2017
124 BH6178 Nguyễn Hạnh N. 1974 43 Nữ Viêm khớp VN 21/2/2017 23/3/2017
125 VH90858 Uông Văn T. 1985 32 Nam Nhẹ 21/3/2017 24/3/2017
126 BH7504 Trần Văn T. 1960 57 Nam Nhẹ 1/3/2017 29/3/2017
127 BH8941 Trương Văn D. 1959 58 Nam Vừa 9/3/2017 30/3/2017
128 BH10626 Trần Quốc T. 1959 58 Nam Vừa 20/3/2017 4/4/2017
129 BH8956 Thành Minh T. 1963 53 Nam Nặng 9/3/2017 6/4/2017
130 BH11296 Lê Văn T. 1952 65 Nam Nhẹ 23/3/2017 7/4/2017
131 1952 65 Nam BH13275 Nguyễn Trọng H. Viêm khớp VN 4/4/2017 8/4/2017
132 Q590 Lê Văn C. 1973 44 Nam Nhẹ 13/3/2017 11/4/2017
133 BH10620 Vũ Công P. 1952 65 Nam Vừa 20/3/2017 13/4/2017
SỐ BỆNH NGÀY NGÀY NĂM STT HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH ÁN VÀO VIỆN RA VIỆN SINH
134 BH10324 Vũ Thị D. Nữ Vảy nến mụn mủ 17/3/2017 13/4/2017 1955 62
135 BH9704 Nguyễn Trọng N. Viêm khớp VN 14/3/2017 14/4/2017 1953 64 Nam
136 BH11795 Đặng Văn L. 1966 51 Nam Vừa 27/3/2017 21/4/2017
137 BH15488 Đoàn Ngọc N. 1984 33 Nam Vừa 17/4/2017 22/4/2017
138 BH16000 Nguyễn Hạnh N. 1974 43 Nữ Viêm khớp VN 19/4/2017 22/4/2017
139 BH11987 Nguyễn Trọng H. 1951 66 Nam Nặng 27/3/2017 22/4/2017
140 BH11791 Nguyễn Công T. 1973 44 Nam Vừa 27/3/2017 26/4/2017
141 BH11095 Võ Quang H. 1970 47 Nam Nặng 22/3/2017 28/4/2017
142 BH12736 Vũ Thanh V. 1994 23 Nam Nặng 31/3/2017 29/4/2017
143 BH15580 Vũ Kỳ Q. 1962 55 Nam VNĐDTT 17/4/2017 29/4/2017
144 16275 Nguyễn Thị N. 1966 51 Nữ Vừa 20/4/2017 4/5/2017
145 BH15769 Đoàn Văn S. 1962 55 Nam Vừa 18/4/2017 17/5/2017
146 Q.1059 Nguyễn Văn K. 1979 38 Nam Nhẹ 8/5/2017 18/5/2017
147 BH20159 Nguyễn Trọng H. 1951 66 Nam Nặng 15/5/2017 18/5/2017
148 BH18462 Nguyễn Ngọc M. 1975 42 Nam Nặng 4/5/2017 19/5/2017
149 BH17053 Nguyễn Thị H. 1968 49 Nữ Nặng 25/4/2017 23/5/2017
150 BH18606 Vũ Thanh V. 1994 23 Nam Vừa 5/5/2017 23/5/2017
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH STT ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
151 BH19955 Nguyễn Văn N. 1958 59 Nam 12/5/2017 25/5/2017 Nhẹ
152 BH21493 Nguyễn Đức T. 1979 38 Nam 22/5/2017 25/5/2017 Nhẹ
153 BH18066 Trần Quốc V. 1992 25 Nam VNĐDTT 3/5/2017 25/5/2017
154 BH17464 Nguyễn Trọng N. 1953 64 Nam 27/4/2017 27/5/2017 Nặng
155 BH17984 Phạm Thanh H. 1956 61 Nam 3/5/2017 30/5/2017 Vừa
156 Q.1086 Nguyễn Anh T. 1960 57 nam VNĐDTT 9/5/2017 31/5/2017
157 BH19871 Cao Viết T. 1941 76 nam 12/5/2017 9/6/2017 Vừa
158 BH20953 Vũ Văn T. 1972 45 Nam 18/5/2017 15/6/2017 Vừa
159 1952 65 Nam BH24908 Nguyễn Trọng H. Viêm khớp VN 9/6/2017 16/6/2017
160 BH23171 Trần Đình H. 1999 18 Nam 30/5/2017 20/6/2017 Vừa
161 BH27967 Trần Đình H. 1999 18 Nam 26/6/2017 4/7/2017 Nhẹ
162 BH24924 Vũ Thị L. 1944 73 Nữ 9/6/2017 5/7/2017 Nặng
163 BH27803 Cao Viết Đ. 1947 70 Nam 26/6/2017 5/7/2017 Nhẹ
164 BH29120 Trần Quốc T. 1959 58 Nam 3/7/2017 13/7/2017 Nhẹ
165 BH30408 Nguyễn Trọng H. 1951 66 Nam 10/7/2017 14/7/2017 Vừa
166 BH29935 Nguyễn Ngọc M. 1975 42 Nam Nhẹ/Xơ gan 6/7/2017 15/7/2017
167 27552 Vũ Thanh V. 1994 23 Nam Vừa 23/6/2017 18/7/2017
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH STT ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
168 BH27808 Võ Quang H. 1970 47 Nam 26/6/2017 26/7/2017 Vừa
169 BH31031 Nguyễn Thế H. 1954 63 Nam 12/7/2017 28/7/2017 Vừa
170 BH33843 Đoàn Ngọc N. 1984 33 Nam 26/7/2017 29/7/2017 Nhẹ
171 BH34103 Trần Xuân T. 1962 55 Nam 27/7/2017 3/8/2017 Nhẹ
172 BH31765 Hoàng Văn B. 1958 59 Nam Vảy nến mụn mủ 17/7/2017 8/8/2017
173 Q.1705 Nguyễn Anh T. 1960 57 Nam Nặng 10/7/2017 8/8/2017
174 BH34216 Chu Văn T. 1953 64 Nam Nặng/Xơ gan 27/7/2017 11/8/2017
175 BH37797 Vũ Hữu H. 1972 45 Nam Vừa 14/8/2017 30/8/2017
176 BH36550 Nguyễn Mai T. 1947 70 Nam Vảy nến mụn mủ 8/8/2017 30/8/2017
177 BH42595 Nguyễn Trọng H. 1951 66 Nam Vừa 11/9/2017 14/9/2017
178 Q2381 Trần Xuân Bảo L. 1993 24 Nam Nhẹ 6/9/2017 20/9/2017
179 BH43199 Phạm Văn Đ. 1962 55 Nam Vừa 13/9/2017 22/9/2017
180 BH42961 Nguyễn Phú L. 1974 43 Nam Vừa 12/9/2017 23/9/2017
181 BH44277 Cao Viết Đ. 1947 70 Nam Nhẹ 19/9/2017 29/9/2017
182 BH45740 Trương Văn N. 1942 75 Nam Nhẹ 26/9/2017 30/9/2017
183 BH43683 Lê Hồng D. 1966 51 Nam Nặng/Suy giáp 15/9/2017 4/10/2017
184 BH46038 Trịnh Thị M. 1949 68 Nữ Nhẹ 28/9/2017 5/10/2017
NGÀY NGÀY SỐ BỆNH NĂM HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH STT VÀO VIỆN RA VIỆN ÁN SINH
27/9/2017 10/10/2017 185 BH45835 Trương Văn H. 1956 61 Nam Nhẹ
18/9/2017 10/10/2017 186 Q2513 Bùi Văn D. 1983 34 Nam Nhẹ
22/9/2017 10/10/2017 187 BH44977 Nguyễn Khắc H. 1954 63 Nam Nhẹ
4/10/2017 13/10/2017 188 BH46256 Đỗ Thị N. 1980 37 Nữ Nhẹ
10/10/2017 17/10/2017 189 BH48041 Đinh Thị Á. 1943 74 Nữ Vừa
18/9/2017 20/10/2017 190 BH43970 Võ Quang H. 1970 47 Nam Vừa
19/9/2017 20/10/2017 191 Q2515 Nguyễn Văn Q. 1977 40 Nam Vừa
192 BH49288 Nguyễn Hạnh N. 1974 43 Nữ Viêm khớp VN 17/10/2017 24/10/2017
193 BH46698 Phạm Viết S. 1950 67 Nam Nặng 2/10/2017 26/10/2017
194 BH48055 Trần T. 1928 89 Nam Nặng/Nh.M cơ tim 10/10/2017 27/10/2017
195 BH50222 Nguyễn Trọng H. 1952 65 Nam Viêm khớp VN 23/10/2017 30/10/2017
196 Q2756 Trương Thế Hữu H. 1988 29 Nam Vừa 12/10/2017 9/11/2017
197 Q2786 Phạm Thành T. 1979 38 Nam Vừa 17/10/2017 9/11/2017
198 BH52811 Đoàn Ngọc N. 1984 33 Nam Nhẹ 6/11/2017 9/11/2017
199 BH52823 Nguyễn Trọng H. 1951 66 Nam Nhẹ 6/11/2017 10/11/2017
200 BH49227 Nguyễn Văn S. 1963 54 Nam Vừa 16/10/2017 14/11/2017
201 Q2773 Bùi Văn D. 1983 34 Nam Nặng 16/10/2017 14/11/2017
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH STT ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
202 Q2808 Lê Thị L. Nữ Vừa 19/10/2017 14/11/2017 1968 49
203 BH52153 Phạm Quang Đ. Nam Vảy nến mụn mủ 1/11/2017 17/11/2017 1978 39
204 BH50852 Thành Minh T. 1963 54 Nam 25/10/2017 18/11/2017 Nặng
205 BH51125 Nguyễn Thị H. 1962 55 Nữ 26/10/2017 23/11/2017 Vừa
207 BH51690 Trịnh Thị M. 1949 68 Nữ 30/10/2017 23/11/2017 Vừa
208 DV6493 Phạm Kim H. 1979 38 Nam VNĐDTT 15/11/2017 25/11/2017
209 BH52100 Trương Văn D. 1959 58 Nam 1/11/2017 28/11/2017 Vừa
210 BH52345 Nguyễn Văn T. 1946 71 Nam 2/11/2017 30/11/2017 Vừa
211 Q.3018 Phan Xuân T. 1971 46 Nam Vừa/RL nhịp tim 13/11/2017 1/12/2017
212 BH54817 Hoàng Thạch S. 1933 84 Nam Vừa/ĐTĐ+THA 16/11/2017 1/12/2017
213 BH54723 Nguyễn Khắc Đ. 1977 40 Nam Nhẹ 15/11/2017 5/12/2017
214 BH55280 Nguyễn Mai T. 1947 70 Nam VN mụn mủ/THA 20/11/2017 6/12/2017
215 BH53597 Trịnh Hữu H. 1963 54 Nam Nặng 9/11/2017 7/12/2017
216 Q3077 Bùi Văn D. 1983 34 Nam Vừa 20/11/2017 8/12/2017
217 BH54083 Đặng Việt H. 1970 47 Nam Vừa 13/11/2017 9/12/2017
218 BH54041 Nguyễn Tiến P. 1955 62 Nam Vừa 13/11/2017 9/12/2017
219 BH54803 Nguyễn Gia V. 1982 35 Nam Vừa 16/11/2017 12/12/2017
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH STT ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
220 BH55359 Trần Quốc T. 1959 58 Nam Vừa 20/11/2017 14/12/2017
221 BH55275 Đỗ Xuân C. 1936 81 Nam Vừa 20/11/2017 15/12/2017
222 BH58743 Thành Minh T. 1963 54 Nam Nhẹ 11/12/2017 15/12/2017
223 BH59259 Nguyễn Mai T. 1947 70 Nam Nhẹ 14/12/2017 16/12/2017
224 BH56063 Đặng Đình D. 1978 39 Nam Vừa 24/11/2017 19/12/2017
225 BH56053 Nguyễn Tử L. 1948 69 Nam Nặng 24/11/2017 20/12/2017
226 Q3217 Nguyễn Văn Q. 1977 40 Nam Vừa 7/12/2017 28/12/2017
227 BH57176 Võ Quang H. 1970 47 Nam Nặng 1/12/2017 29/12/2017
228 BH58936 Lương Diệu L. 1990 27 Nữ Nhẹ 12/12/2017 29/12/2017
229 BH57697 Lê Phú Đ. 1968 49 Nam Vừa 5/12/2017 30/12/2017
230 BH57566 Ngô Văn H. 1985 32 Nam Vừa 4/12/2017 30/12/2017
230 BH61306 Nguyễn Mai T. 1947 70 Nam Vảy nến mụn mủ 28/12/2017 30/12/2017
231 BH58194 Vũ Ngọc L. 1964 53 Nam Nặng 7/12/2017 9/1/2018
232 Q3251 Nguyễn Văn Q. 1977 40 Nam Vừa 12/12/2017 10/1/2018
233 BH59248 Nguyễn Ngọc C. 1945 72 Nam Vừa 14/12/2017 10/1/2018
234 BH59244 Nguyễn Xuân Q. 1968 49 Nam Vừa 14/12/2017 10/1/2018
235 BH1729 Nguyễn Mai T. 1947 71 Nam Nhẹ 11/1/2018 13/1/2018
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH STT ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
236 BH148 Nguyễn Việt H. 1985 Nam 33 Nhẹ 2/1/2018 16/1/2018
237 BH77 Cao Viết Đ. 1947 Nam 71 Nhẹ 2/1/2018 23/1/2018
Viêm khớp VN 2/1/2018 23/1/2018 238 BH166 Đào Xuân V. 1977 Nam 41
Nam Vừa/Viêm gan C 11/1/2018 23/1/2018 239 BH1819 Vũ Ngọc L. 1964 54
240 BH3222 Đoàn Ngọc N. 1984 Nam 34 Nhẹ 22/1/2018 25/1/2018
241 BH3831 Nguyễn Mai T. 1947 Nam 71 Nhẹ 24/1/2018 27/1/2018
Nam Nặng/Viêm gan B 3/1/2018 30/1/2018 242 BH227 Trần Nhật L. 1973 45
243 BH1298 Lê Phú Đ. 1968 Nam 50 Vừa 9/1/2018 30/1/2018
244 BH981 Nguyễn Trọng H. 1951 Nam 67 Nặng 8/1/2018 6/2/2018
245 BH1046 Trịnh Hữu H. 1963 Nam 55 Vừa 8/1/2018 6/2/2018
246 BH5031 Lê Quang P. 1991 Nam 27 Nhẹ 1/2/2018 8/2/2018
247 BH4345 Nguyễn Xuân Q. 1968 Nam 50 Vừa 29/1/2018 9/2/2018
248 BH3938 Đặng Văn L. 1966 Nam 52 Vừa 25/1/2018 9/2/2018
249 BH7415 Đào Xuân V. 1977 Nam 41 Vừa 26/2/2018 3/3/2018
250 BH6651 Nguyễn Văn H. 1981 Nam 37 Nặng 22/2/2018 6/3/2018
251 BH7509 Nguyễn Văn S. 1969 Nam 49 Nhẹ 27/2/2018 8/3/2018
252 BH7888 Trịnh Mai L. 1998 20 Nữ Vừa/Td viêm bì cơ 28/2/2018 9/3/2018
SỐ BỆNH NĂM NGÀY NGÀY HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI MỨC ĐỘ BỆNH STT ÁN SINH VÀO VIỆN RA VIỆN
253 BH7258 Nguyễn Mạnh H. 1998 20 Nam Vảy nến mụn mủ 26/2/2018 9/3/2018
254 DV1031 Nguyễn Quang T. 1998 20 Nam Nặng 12/3/2018 15/3/2018
255 BH6726 Trần Đình T. 1961 57 Nam Nặng 22/2/2018 16/3/2018
256 BH9940 Hoàng Văn H. 1966 52 Nam Vừa 13/3/2018 13/4/2018
257 BH13701 Nguyễn Văn Đ. 1959 59 Nam Nặng 3/4/2018 28/4/2018
258 BH15856 Hoàng Ngọc T. 1958 60 Nam Vừa 16/4/2018 12/5/2018
259 BH49227 Nguyễn Văn S. 1963 55 Nam Vừa 18/4/2018 18/5/2018
260 BH19097 Trần Gia L. 1932 86 Nam Vừa 7/5/2018 30/5/2018
BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG QUÂN ĐỘI 108 XÁC NHẬN:
Nghiên cứu sinh Phạm Diễm Thúy đã: Nghiên cứu một số thay đổi miễn dịch và hiệu quả điều trị bệnh vảy nến thông
thường điều trị bằng uống methotrexate kết hợp chiếu tia cực tím dải hẹp (UVB-311nm)” trên 260 bệnh nhân vảy nến điều trị
nội trú tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Trong đó, có 70 bệnh nhân vảy nến thông thường được chọn nghiên cứu điều
trị: 35 bệnh nhân nhóm nghiên cứu và 35 bệnh nhân nhóm đối chứng.
Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đồng ý cho nghiên cứu sinh được sử dụng các số liệu có liên quan trong bệnh án để
công bố trong công trình luận án.
Hà Nội, ngày tháng 07 năm 2020
DANH SÁCH 35 BỆNH NHÂN VẢY NẾN THÔNG THƯỜNG
NHÓM NGHIÊN CỨU
NĂM NGÀY NGÀY RA STT SỐ BA HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI SINH VÀO VIỆN VIỆN
BH51125 Nguyễn Thị H. 1962 26/10/2017 23/11/2017 Nữ 1 55
BH51690 Trịnh Thị M. 1949 30/10/2017 23/11/2017 Nữ 2 68
3 BH52100 Trương Văn 58 D. 1959 Nam 1/11/2017 28/11/2017
4 BH52345 Nguyễn Văn 71 T. 1946 Nam 2/11/2017 30/11/2017
5 BH53597 Trịnh Hữu 54 H. 1963 Nam 9/11/2017 7/12/2017
6 BH54083 Đặng Việt 47 H. 1970 Nam 13/11/2017 9/12/2017
7 BH15769 Đoàn Văn 55 S. 1962 Nam 18/4/2017 17/5/2017
8 BH54041 Nguyễn Tiến 62 P. 1955 Nam 13/11/2017 9/12/2017
9 BH55275 Đỗ Xuân 81 C. 1936 Nam 20/11/2017 15/12/2017
10 BH56053 Nguyễn Tử 69 L. 1948 Nam 24/11/2017 20/12/2017
11 BH18921 Đặng Đình 38 D. 1978 Nam 8/6/2016 6/7/2016
12 BH57697 Lê Phú 49 Đ. 1968 Nam 5/12/2017 30/12/2017
40 Q. 1977 13 BH57566 Nguyễn Văn Nam 12/12/2017 10/1/2018
72 14 BH59248 Nguyễn Ngọc C. 1945 Nam 14/12/2017 10/1/2018
15 Q2515 Nguyễn Văn 40 Q. 1977 Nam 19/9/2017 20/10/2017
16 Q2756 Trương Thế 29 H. 1988 Nam 12/10/2017 9/11/2017
Hữu
55 S. 1963 17 BH49227 Nguyễn Văn Nam 18/4/2018 18/5/2018
18 Q2773 Bùi Văn 34 D. 1983 Nam 16/10/2017 14/11/2017
19 Q2786 Phạm Thành 38 T. 1979 Nam 17/10/2017 9/11/2017
20 Q2808 Lê Thị 49 L. 1968 Nữ 19/10/2017 14/11/2017
21 BH54803 Nguyễn Gia 35 V. 1982 Nam 16/11/2017 12/12/2017
22 BH57566 Ngô Văn 32 H. 1985 Nam 4/12/2017 30/12/2017
23 19871 Cao Viết 76 T. 1941 Nam 12/5/2017 9/6/2017
59 Đ. 1959 24 BH13701 Nguyễn Văn Nam 3/4/2018 28/4/2018
NGÀY NGÀY RA NĂM STT SỐ BA HỌ VÀ TÊN TUỔI GIỚI VÀO VIỆN VIỆN SINH
BH9940 Hoàng Văn H. 1966 Nam 13/3/2018 13/4/2018 25 52
26 15856 Hoàng Ngọc Nam 16/4/2018 12/5/2018 1958 T. 60
27 BH24529 Dương Hữu Nam 5/6/2018 30/6/2018 1993 P. 25
28 BH19511 Nguyễn Phi Nam 8/5/2018 31/5/2018 1972 T. 46
29 BH17984 Phạm Thanh Nam 3/5/2017 30/5/2017 1956 H. 61
30 BH17053 Nguyễn Thị Nữ 25/4/2017 23/5/2017 1968 H. 49
31 12206 Đỗ Thị Nữ 21/4/2016 18/5/2016 1958 T. 58
32 BH15750 Vũ Công Nam 17/5/2017 14/6/2017 1952 P. 64
18 33 BH23171 Trần Đình H. 1999 Nam 30/5/2017 20/6/2017
1972 T. 45 34 BH20953 Vũ Văn Nam 18/5/2017 15/6/2017
1960 T. 57 35 Q1705 Nguyễn Anh Nam 10/7/2017 8/8/2017
Hà Nội, ngày tháng 07 năm 2020
XÁC NHẬN CHỦ NHIỆM KHOA NGHIÊN CỨU SINH
CỦA BVTƯQĐ108 DA LIỄU-DỊ ỨNG
TS BÙI THỊ VÂN PHẠM DIỄM THÚY
DANH SÁCH 35 BỆNH NHÂN VẢY NẾN THÔNG THƯỜNG
NHÓM ĐỐI CHỨNG
STT SBA HỌ VÀ TÊN GIỚI NĂM TUỔI NGÀY NGÀY RA
SINH VÀO VIỆN VIỆN
Q919 Lê Thị L. Nữ 1968 3/3/2016 22/3/2016 48 1
9732 TrươngThị L. Nữ 1986 4/4/2016 22/4/2016 30 2
1705 HàHuyền T. Nữ 1982 15/4/2016 14/5/2016 34 3
BH22349 NguyễnThúy Q. Nữ 1997 1/7/2016 4/8/2016 19 4
Q2337 NguyễnTrọng Q. Nam 1986 31/5/2016 29/6/2016 30 5
3440 NguyễnTrường A. Nam 1979 16/8/2016 14/9/2016 37 6
1087 Lê Văn C. Nam 1973 14/3/2016 8/4/2016 43 7
Q998 PhạmHồng T. Nam 1975 8/3/2016 7/4/2016 41 8
22301 VũHữu H. Nam 1972 23/5/2018 25/6/2016 43 9
10 BH11791 NguyễnCông T. Nam 1973 27/3/2017 26/4/2017 44
11 BH42960 ĐặngDuy T. Nam 1969 8/11/2016 6/12/2016 47
12 BH21722 VũNgọc L. Nam 1964 28/6/2016 29/7/2016 52
1272 ĐặngVăn L. Nam 1966 23/3/2016 15/4/016 50 13
25273 NguyễnVăn S. Nam 1963 21/7/2016 16/8/2016 53 14
109 Thành Minh T. Nam 1963 6/1/2016 28/1/2016 53 15
16 BH18718 TrươngVăn D. Nam 1959 7/6/2016 5/7/2016 57
30234 NguyễnTrọng K. Nam 1957 23/8/2016 27/9/2016 59 17
BH2363 VũCông P. Nam 1952 15/1/2018 10/2/2018 66 18
9959 NguyễnTrọng H. Nam 1952 5/4/2016 29/4/2016 64 19
20 BH46070 NguyễnĐình C. Nam 1949 5/12/2016 30/12/2016 67
6888 BùiKhắc H. Nam 1947 11/3/2016 31/3/2016 69 21
28615 ĐoànDanh N. Nam 1940 11/8/2016 13/9/2016 76 22
Q784 NguyễnTrung C. Nam 1967 25/2/2016 24/3/2016 49 23
24924 VũThị L. Nữ 1944 9/6/2017 5/7/2017 73 24
25 BH46698 PhạmViết S. Nam 1950 2/10/2017 26/10/2017 67
STT SBA HỌ VÀ TÊN GIỚI NĂM TUỔI NGÀY NGÀY RA
SINH VÀO VIỆN VIỆN
26 Q4755 NguyễnQuốc T. Nam 1959 15/11/2016 9/12/2016 57
27 BH43970 Võ Quang H. Nam 1970 18/9/2017 20/10/2017 47
28 BH19097 Trần Gia L. Nam 1932 7/5/2018 30/5/2018 86
17869 QuáchĐại N. Nam 1965 9/12/2015 12/1/2016 50 29
39634 HoàngThạch S. Nam 1936 14/11/2016 13/12/2016 80 30
31 BH55359 TrầnQuốc T. Nam 1959 20/11/2017 14/12/2017 58
32 BH18606 Vũ Thanh V. Nam 1994 5/5/2017 23/5/2017 23
33 BH11987 NguyễnTrọng H. Nam 1951 27/3/2017 22/4/2017 66
17396 TrầnVăn Đ. Nam 1985 16/11/2015 18/12/2015 31 34
17439 NguyễnHữu M. Nam 1963 18/11/2015 15/12/2015 52 35
Hà Nội, ngày tháng 07 năm 2020
XÁC NHẬN CHỦ NHIỆM KHOA NGHIÊN CỨU SINH
CỦA BVTƯQĐ108 DA LIỄU-DỊ ỨNG
TS. BÙI THỊ VÂN PHẠM DIỄM THÚY