BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108
LÊ THỊ HỒNG THANH
NGHIÊN CỨU THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ MỘT SỐ CYTOKINE
TRONG MÁU VÀ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH VẢY NẾN
THÔNG THƯỜNG BẰNG CYCLOSPORIN A
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Y DƯỢC LÂM SÀNG 108
LÊ THỊ HỒNG THANH
NGHIÊN CỨU THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ MỘT SỐ CYTOKINE
TRONG MÁU VÀ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH VẢY NẾN
THÔNG THƯỜNG BẰNG CYCLOSPORIN A
Chuyên ngành: Da liễu
Mã số: 62.72.01.52
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. ĐẶNG VĂN EM
Hà Nội – 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
1. Đây là luận án do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Đặng Văn Em.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp nhận của cơ sở nghiên
cứu.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2021
NGHIÊN CỨU SINH
Lê Thị Hồng Thanh
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện thành công luận án, trước hết tôi xin bày tỏ biết ơn sâu sắc
đến Thầy hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng văn Em đã định hướng, truyền
dạy cho tôi kiến thức, cũng như giúp đỡ, hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu để tôi hoàn thành luận án nay.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành tới:
Ban Giám đốc, Phòng Sau Đại học, Bộ môn-Khoa Da liễu dị ứng của
Viện Nghiên cứu khoa học Y Dược lâm sàng 108 đã tạo mọi điều kiện cho tôi
thực hiện các nội dung luận án.
Ban Giám đốc, Phòng Đào tạo, Khoa xét nghiệm máu, cùng tập thể đội
ngũ Y Bác sỹ phòng khám Chuyên đề bệnh vảy nến của Viện Da liễu Trung
ương.
Bộ môn Miễn dịch - Học viện Quân Y.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn TS.BS Bùi Thị Vân, TS.BS Đỗ Khắc
Đại và các Thầy cô trong chuyên ngành Da liễu đã luôn giúp đỡ và tạo điều
kiện cho tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu này.
Tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các bệnh nhân vảy nến đã
đồng ý tham gia nghiên cứu để tôi thực hiện nghiên cứu này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn đồng
hành, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày tháng năm 2021
Lê Thị Hồng Thanh
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục biểu đồ
Danh mục hình
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................ 3
1.1. Bệnh vảy nến .......................................................................................... 3
1.1.1. Dịch tễ học ...................................................................................... 3
1.1.2. Đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến ................................................... 4
1.1.3. Cơ chế bệnh sinh ........................................................................... 10
1.1.4. Các phương pháp điều trị .............................................................. 21
1.2. Vai trò của cytokine trong bệnh sinh bệnh vảy nến thông thường ...... 27
1.3. Điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng CyA (Cyclosporin A) ....... 33
1.3.1. Cấu trúc hoá học của CyA ............................................................ 33
1.3.2. Cơ chế tác dụng của CyA ............................................................. 34
1.3.3. Cách sử dụng của CyA ................................................................. 35
1.4. Một số nghiên cứu thay đổi nồng độ cytokine và hiệu quả điều trị vảy
nến thông thường bằng CyA. ...................................................................... 36
1.4.1. Trên thế giới .................................................................................. 36
1.4.2. Việt Nam ....................................................................................... 38
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 40
2.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 40
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................... 40
2.1.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán ................................................................... 40
2.1.3. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân .......................................................... 40
2.1.4. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân ...................................................... 41
2.2. Vật liệu nghiên cứu .............................................................................. 41
2.3. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 45
2.3.1. Nghiên cứu yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng ..................... 45
2.3.2. Đánh giá thay đổi IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF-α,
IFN-γ của bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng trước và sau
điều trị bằng Cyclosporin A .................................................................... 45
2.3.3. Nghiên cứu hiệu quả điều trị bệnh vảy nến thông thường mức độ
nặng bằng CyA ....................................................................................... 47
2.3.4. Các kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu ........................................ 48
2.3.5. Các chỉ số, biến số trong nghiên cứu ............................................ 51
2.3.6. Phương pháp xử lý số liệu ............................................................ 52
2.4. Địa điểm, thời gian ............................................................................... 53
2.5. Đạo đức nghiên cứu ............................................................................. 53
2.6. Hạn chế đề tài ....................................................................................... 53
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................... 55
3.1. Một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông
thường ......................................................................................................... 55
3.1.1. Một số yếu tố liên quan đến bệnh vảy nến thông thường ............. 55
3.1.2. Một số đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông thường ................ 60
3.2. Kết quả định lượng một số cytokine trong huyết thanh nhân VNTT
mức độ nặng trước và sau điều trị CyA ...................................................... 62
3.2.1. Đặc điểm của 2 nhóm (NNC và NĐC) ......................................... 62
3.2.2. Kết quả định lượng cytokine trước điều trị ................................... 63
3.2.3. Kết quả định lượng cytokine sau điều trị ...................................... 77
3.3. Kết quả điều trị bệnh VNTT mức độ nặng bằng Cyclosporin A ......... 82
3.3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu ............................................. 82
3.3.2. Kết quả điều trị bệnh VNTT bằng cyclosporin ............................. 84
3.3.3. Kết quả tác dụng không mong muốn ............................................ 86
3.3.4. Kết quả tái phát sau điều trị .......................................................... 88
Chương 4: BÀN LUẬN ................................................................................ 89
4.1. Một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông
thường ......................................................................................................... 89
4.1.1. Một số yếu tố liên quan đến bệnh vảy nến thông thường ............. 89
4.1.2. Một số đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông thường .............. 102
4.2. Kết quả thay đổi nồng độ một số cytokine trong máu của bệnh nhân
VNTT mức độ nặng trước và sau điều trị CyA ........................................ 105
4.2.1. Đặc điểm của nhóm nghiên cứu và nhóm đối chứng .................. 106
4.2.2. Kết quả định lượng cytokine trước điều trị ................................. 106
4.2.3. Kết quả định lượng cytokine sau điều trị .................................... 113
4.3. Kết quả điều trị bệnh VNTT mức độ nặng bằng Cyclosporin A ....... 115
4.3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu ........................................... 115
4.3.2. Kết quả điều trị bệnh VNTT mức độ nặng bằng cyclosporine A 116
4.3.3. Kết quả tác dụng không mong muốn .......................................... 119
4.3.4. Kết quả tái phát sau khi dừng điều trị ......................................... 122
KẾT LUẬN .................................................................................................. 124
KIẾN NGHỊ ................................................................................................. 126
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
APC Antigen presenting cell: Tế bào trình diễn kháng nguyên
ALT Alanine Aminotransferase
AST Aspartate Aminotransferase
BC Bạch cầu
BCĐTT Bạch cầu đoạn trung tính
BVTWQĐ 108 Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
CD Cluster of differentiation
CTM Công thức máu
CyA Cyclosporin A
DLQI Dermatology life quality index:
Chỉ số chất lượng cuộc sống da liễu
EGF Epidermal growth factor: Yếu tố phát triển thượng bì
FDA Food and Drug Administration
HC Hồng cầu
HDL-C High densitylipoprotein cholesterol
HLA Human leucocyte antigen
ICAM-1 Intercellular adhension molecule 1
IGF-1 Insulin like growth factor-1
Ig Immunoglobulin : Globilin miễm dịch
IL Interleukin
IL-1, 2 Interleukin-1, 2
IL-2R IL -2 receptor
sIL-2R solube IL-2 receptor
IFN-𝛾 Interferon−𝛾
JAK1,2 Janus kinase 1,2
KN Kháng nguyên
KT Kháng thể
LDL-C Low densitylipoprotein cholesterol
MHC Major histocompatibility
MTX Methotreaxate
NNC Nhóm nghiên cứu
NĐC Nhóm đối chứng
PASI Psoriasis area and severity index
Chỉ số diện tích và độ nặng bệnh vảy nến
PsA Psoriastic arthritis: Viêm khớp vảy nến
PUVA Psoralen Ultravolet A
SHM Sinh hoá máu
TBSA Total body surface area: Diện tích bề mặt toàn bộ cơ thể
Th T helper
TNF-𝛼 Tumor necrosis factor-𝛼: Yếu tố hoại tử u alpha
UVA, B Ultraviolet A, B
VNTT Vảy nến thông thường
DANH MỤC BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
3.1. Phân bố bệnh nhân mắc vảy nến thông thường (VNTT) theo nhóm tuổi
................................................................................................................ 55
3.2. Phân bố bệnh nhân mắc VNTT theo mùa ................................................ 59
3.3. Các bệnh kết hợp gặp trong bệnh VNTT ................................................. 59
3.4. Một số yếu tố khởi động gặp trong bệnh VNTT ...................................... 60
3.5. Đặc điểm cá nhân của 2 nhóm ................................................................. 62
3.6. So sánh nồng độ cytokine trước điều trị của 2 nhóm ............................... 63
3.7. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine trước điều trị với kết quả điều trị
của NNC ................................................................................................ 64
3.8. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine trước điều trị với giới tính của
NNC ........................................................................................................ 65
3.9. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine trước điều trị với nhóm tuổi của
NNC ........................................................................................................ 66
3.10. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine trước điều trị với tuổi bệnh của
NNC ........................................................................................................ 67
3.11. Mối liên quan giữa nồng độ các cytokine trước điều trị với PASI và
với cytokine ........................................................................................... 68
3.12. So sánh nồng độ cytokine sau điều trị của NNC và NĐC ..................... 77
3.13. So sánh nồng độ cytokine trước- sau điều trị của NNC ......................... 78
3.14. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine sau điều trị với kết quả điều trị
của NNC ................................................................................................. 79
3.15. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine sau điều trị với giới tính của
NNC ....................................................................................................... 80
3.16. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine sau điều trị với nhóm tuổi của
NNC ........................................................................................................ 81
3.17. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine sau điều trị với tuổi bệnh của
NNC ....................................................................................................... 82
3.18. Mức độ bệnh, thời gian bị bệnh và PASI ............................................... 82
3.19. Phân bố nhóm tuổi ................................................................................ 83
3.20. Phân bố theo giới tính ............................................................................ 83
3.21. Phân bố thời gian bị bệnh ...................................................................... 83
3.22. Thay đổi chỉ số PASI trước và sau điều trị ............................................ 84
3.23. Kết quả điều trị theo mức độ .................................................................. 84
3.24. Kết quả điều trị sau 10 tuần theo giới ................................................... 85
3.25. Kết quả điều trị sau 10 tuần theo nhóm tuổi .......................................... 85
3.26. Kết quả xét nghiệm máu trước và sau điều trị ....................................... 87
3.27. Tỷ lệ tái phát sau điều trị ........................................................................ 88
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ Tên biểu đồ Trang
3.1. Phân bố bệnh nhân mắc VNTT theo tuổi khởi phát ................................ 56
3.2. Phân bố về thời gian bị bệnh của bệnh nhân VNTT ................................ 56
3.3. Phân bố bệnh nhân mắc bệnh VNTT theo giới ........................................ 57
3.4. Phân bố bệnh nhân mắc VNTT theo nghề nghiệp ................................... 57
3.5. Tiền sử gia đình trong bệnh VNTT .......................................................... 58
3.6. Vị trí tổn thương lúc khởi phát bệnh VNTT ............................................ 60
3.7. Vị trí tổn thương hiện tại bệnh VNTT ..................................................... 61
3.8. Các thể lâm sàng bệnh VNTT .................................................................. 61
3.9. Phân bố mức độ bệnh VNTT theo PASI ................................................. 62
3.10. Mối tương quan giữa nồng độ IL-6 với chỉ số PASI ............................. 69
3.11. Mối tương quan giữa nồng độ IL-8 với chỉ số PASI ............................. 69
3.12. Mối tương quan giữa nồng độ IL-10 với chỉ số PASI ........................... 70
3.13. Mối tương quan giữa nồng độ IL-12 với chỉ số PASI ........................... 70
3.14. Mối tương quan giữa nồng độ IL-17 với chỉ số PASI ........................... 71
3.15. Mối tương quan giữa nồng độ TNF-α với chỉ số PASI ......................... 71
3.16. Mối tương quan giữa nồng độ IFN-γ với chỉ số PASI ........................... 72
3. 17. Mối tương quan giữa nồng độ IL-6 với IL-10 ...................................... 72
3.18. Mối tương quan giữa nồng độ IL-6 với IL-12 ....................................... 73
3.19. Mối tương quan giữa nồng độ IL-6 với TNF-α ..................................... 73
3.20. Mối tương quan giữa nồng độ IL-8 với IL-12 ...................................... 74
3.21. Mối tương quan giữa nồng độ IL-8 với TNF-α ..................................... 74
3.22. Mối tương quan giữa nồng độ IL-10 với TNF-α ................................... 75
3.23. Mối tương quan giữa nồng độ IL-12 với TNF-α ................................... 75
3.24. Mối tương quan giữa nồng độ IL-12 với IFN-γ .................................... 76
3.25. Tác dụng không mong muốn trên lâm sàng ........................................... 86
DANH MỤC HÌNH
Hình Tên hình Trang
1.1. Vảy nến thể chấm giọt, đồng tiền .............................................................. 5
1.2. Vảy nến thể mảng ...................................................................................... 6
1.3. Mô bệnh học vảy nến thông thường .......................................................... 8
1.4. Sinh bệnh học bệnh vảy nến theo thời gian ............................................. 18
1.5. Sinh bệnh học vảy nến ............................................................................. 21
1.6. Mạng lưới cytokine trong bệnh vảy nến .................................................. 28
2.1. Thuốc Neoral ........................................................................................... 42
2.2. Kem dưỡng ẩm Cetaphil .......................................................................... 42
2.3. Bộ kít xét nghiệm cytokine ...................................................................... 43
2.4. Hệ thống máy Luminex ........................................................................... 44
2.5. Sơ đồ nghiên cứu………………………………………………………
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh vảy nến là một bệnh da mạn tính nhưng lành tính, có đặc điểm lâm
sàng đa dạng, bệnh gặp ở mọi lứa tuổi, cả hai giới, ở khắp các châu lục, chiếm
tỷ lệ 1,5-5% dân số thế giới [1], [2]. Lâm sàng bệnh vảy nến là các dát đỏ trên
có nhiều vảy với kích thước khác nhau, ranh giới rõ với vùng da lành. Tổn
thương thường khu trú ở các vùng tỳ đè và đối xứng [1], [3]. Bệnh tuy ít gây
nguy hiểm đến tính mạng nhưng ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc
sống. Trường hợp bệnh nặng có thể gây suy giảm sức lao động, gây tàn phế
thậm chí gây tử vong [3], [4].
Sinh bệnh học bệnh vảy nến thông thường còn chưa sáng tỏ. Tuy nhiên,
bằng sự phát triển của khoa học (hoá mô miễn dịch, miễn dịch, sinh học phân
tử…) đa số các tác giả đã xác định bệnh vảy nến là một bệnh da có yếu tố di
truyền, có cơ chế tự miễn và được khởi động bởi các yếu tố: chấn thương tâm
lý, nhiễm khuẩn cư trú, các chấn thương da, bệnh liên quan đến một số thuốc,
thức ăn, thời tiết khí hậu…[5] dưới sự điều khiển của tế bào lympho T mà vai
trò chính là Th1/Th17 và các cytokine do chúng tiết ra, trong đó trục IL-23/
Th17 đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh bệnh vảy nến [6], [7],
[8].
Việc điều trị bệnh vảy nến thông thường đến nay còn nan giải, có rất
nhiều thuốc, nhiều phương pháp điều trị khác nhau nhưng chưa có phương
pháp nào chữa khỏi hẳn được bệnh mà chỉ nâng cao chất lượng cuộc sống cho
người bệnh ở các mức độ khác nhau và kéo dài thời gian ổn định bệnh, tránh
các biến chứng. Tuy nhiên, trong quá trình điều trị còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như: tuổi, thể bệnh, mức độ bệnh, điều kiện kinh tế của bệnh nhân …
[9], [10].
2
Cyclosporin A (CyA) được tách ra từ một loại nấm tên là Tolypocladium
inflatum Gams từ năm 1969. Ngoài tính chất kháng nguyên của nó người ta
đã phát hiện tính ức chế miễn dịch của CyA trong phòng thí nghiệm. Trong
chuyên ngành da liễu, CyA được sử dụng để điều trị những bệnh như: lupus
ban đỏ hệ thống, viêm da cơ địa dị ứng, lichen phẳng, rụng tóc và trong điều
trị bệnh vảy nến. Trong điều trị vảy nến CyA có tác dụng ức chế hoạt hoá tế
bào TCD4+, ức chế hoá ứng động bạch cầu đa nhân trung tính, từ đó tác động
lên các rối loạn miễn dịch trong bệnh vảy nến trong đó có vai trò của một số
cytokine như IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF-α, IFN-γ [5], [11].
Đến nay đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về cơ chế
bệnh sinh, sự thay đổi các cytokine trong bệnh vảy nến. Tại Việt Nam chưa có
nghiên cứu nào xác định thay đổi các cytokine trước và sau điều trị và hiệu
quả điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng CyA. Vì vậy, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu thay đổi nồng độ một số cytokine trong
máu và hiệu quả điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng Cyclosporin A”.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Khảo sát một số yếu tố liên quan, đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến
thông thường điều trị ngoại trú tại phòng khám chuyên đề bệnh vảy nến –
Bệnh viện Da liễu trung ương.
2. Xác định sự thay đổi nồng độ IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17,
TNF-𝛼, IFN-𝛾 trong huyết thanh của bệnh nhân vảy nến thông thường mức
độ nặng trước và sau điều trị bằng Cyclosporin A.
3. Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh vảy nến thông thường mức độ nặng
bằng Cyclosporin A.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Bệnh vảy nến
1.1.1. Dịch tễ học
Bệnh vảy nến được mô tả từ thời thượng cổ, trong y văn của Hypocrat và
bệnh mang nhiều tên khác nhau: Phong thể Wilian, herpes squamosus,
furfuraceus. Đến năm 1801 Robert Willan (1757-1812) là người đầu tiên
dùng danh từ Psoriasis xuất phát từ chữ Hy lạp “Psora” để chỉ tất cả các bệnh
có vảy mủ [12]. Ở Việt Nam, Đặng Vũ Hỷ là người đầu tiên đặt tên cho bệnh
này là “vảy nến”, xuất phát từ đặc điểm tổn thương da của bệnh, có nhiều lớp
vảy mầu trắng đục, dễ bong, khi cạo bong vụn ra từng mảnh nhỏ như cạo trên
một cây nến trắng hoặc một vết nến nhỏ giọt trên mặt bàn [5], [12].
Tỉ lệ bệnh vảy nến: Bệnh vảy nến thường gặp cả ở nam cũng như nữ, từ
trẻ em đến người lớn tuổi, ở các lục địa [2], [3]. Nhưng tuỳ theo tác giả, tuỳ
theo địa phương, tỉ lệ bệnh có khác nhau. Theo Mark Lebwohl ở Mỹ (2003)
bệnh vảy nến chiếm khoảng 3% dân số, tỷ lệ mắc bệnh ở người da trắng gấp 2
lần người da đen [13]. Theo Chandran V. và cs (2010), ở Châu Âu tỷ lệ mắc
bệnh vảy nến từ 0,6 – 6,5%, ở Mỹ là 3,15% và ít gặp ở Trung Quốc, Nhật Bản
so với Châu Âu [14]. Theo Egeberg A. và cs (2020) bệnh vảy nến chiếm 2 –
3% dân số thế giới, tỷ lệ ở các nước Bắc Âu từ 8–11% dân số [15]. Ở Việt
Nam, theo tài liệu Bộ môn Da liễu Đại học Y Hà Nội thì tỷ lệ bệnh vảy nến
chiếm 2,2 % tổng số bệnh nhân đến khám trong năm 2010 ở Bệnh viện Da
liễu trung ương [12]. Theo Đặng Văn Em (1995), nghiên cứu bệnh nhân vảy
nến điều trị nội trú từ 1990 đến 1994 tại Khoa Da liễu, Bệnh viện 103 và
Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 chiếm 6,16% [16].
Phân bố giới tính: theo các tác giả nước ngoài tỉ lệ nam nữ của bệnh vảy
nến là gần tương đương nhau [13], [17]. Tại Việt Nam, đã có một số nghiên
4
cứu về giới tính trong bệnh vảy nến được thực hiện ở các cơ sở điều trị khác
nhau. Nguyễn Thị Hồng Hạnh và Đặng Văn Em (2009), nghiên cứu bệnh
nhân vảy nến điều trị nội trú tại Khoa Da liễu – Dị ứng, Bệnh viện TWQĐ
108; nam chiếm tỉ lệ 91,59%, nữ 8,41% [18]. Đỗ Tiến Bộ (2012) tỷ lệ vảy nến
ở nam giới là 88,7%, nữ 11,3% [19].
Tuổi trong bệnh vảy nến: bệnh vảy nến thông thường có thể bắt đầu ở
mọi lứa tuổi, người lớn tỷ lệ mắc bệnh từ 0,51-11,43%, trẻ em từ 0-1,37% và
có xu hướng tăng ở người lớn tuổi [20], hay gặp ở lứa tuổi 55-60 [3].
Thể bệnh vảy nến: Vảy nến thông thường chiếm khoãng 85-90% tổng số
bệnh nhân vảy nến và vảy nến thể đặc biệt (vảy nến đỏ da toàn thân, vảy nến
mụn mủ và viêm khớp vảy nến) chiếm 10-15% [5], [21].
1.1.2. Đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến
Hiện nay bệnh vảy nến được chia làm 2 thể chính:
- Vảy nến thông thường: gồm thể mảng, đồng tiền, chấm giọt…
- Vảy nến đặc biệt: vảy nến mụn mủ, vảy nến đỏ da toàn thân, viêm khớp
vảy nến và vảy nến móng.
1.1.2.1. Triệu chứng lâm sàng bệnh vảy nến thông thường
Tổn thương cơ bản là các mảng đám đỏ da, dày, ranh giới rõ, bề mặt
nhiều vảy da trắng đục, dễ bong, kích thước to nhỏ khác nhau [5], [24].
Tổn thương thường khu trú ưu tiên ở da những vùng tỳ đè, dễ sang chấn
(rìa trán, khuỷu tay, bờ xương trụ cẳng tay, đầu gối, mặt trước xương chày,
xương cùng…) thường ở mặt duỗi nhiều hơn mặt gấp, ở những vùng da có
chấn thương thượng bì đủ độ sâu (vết bỏng, vết mổ, vết xước da, nơi chủng
đậu, nơi châm cứu…). Tổn thương có thể khu trú hoặc rải rác nhiều nơi, có
khi khắp toàn thân, thường có tính chất đối xứng. Vị trí tổn thương của vảy
nến có giá trị rất lớn cho chẩn đoán. Vị trí tổn thương cần được quan tâm lúc
khởi phát và hiện tại. Theo nhiều tác giả cho thấy đa số tổn thương vảy nến
5
khởi phát vùng đầu [5], [24]. Theo Nhâm Thế Thy Uyên, Đặng văn Em
(2002), nghiên cứu 204 bệnh nhân vảy nến có 62,74% khởi phát bệnh vảy nến
ở vùng đầu, các vùng khác của cơ thể chiếm số lượng ít hơn [23].
Số lượng tổn thương rất thay đổi: tổn thương khởi phát có thể đơn độc,
nhưng thường là nhiều nơi và cá biệt có trường hợp khởi phát toàn thân. Số
lượng tổn thương tiến triển tự nhiên hay tái phát sau 1 liệu trình điều trị hoặc
được khởi động của các yếu tố môi trường thì ngày càng tăng lên [5].
Kích thước tổn thương: dựa vào kích thước tổn thương cho phép phân ra
các thể vảy nến như: vảy nến thể chấm giọt, tổn thương dưới 1cm đường kính;
vảy nến đồng tiền, tổn thương từ 1-2cm đường kính và vảy nến thể mảng có
tổn thương >2 cm đường kính. Có khi nhiều mảng liên kết với nhau thành hình
đa cung chiếm một vùng diện tích lớn [5].
Bệnh nhân vảy nến thường ngứa ít hoặc nhiều, tùy từng người, từng thể,
từng giai đoạn bệnh. Thường gặp ngứa nhiều nhất ở các thể đang tiến triển, một
số trường hợp không ngứa mà có cảm giác vướng víu, ảnh hưởng thẩm mỹ [5].
1.1.2.2. Các thể lâm sàng của vảy nến thông thường
- Vảy nến thể chấm, giọt (Guttate psoriasis): Kích thước tổn thương chỉ
từ 1-2mm đến vài mm đường kính tối đa dưới 1cm và thường nổi rải rác khắp
người, nhất là nửa người trên. Thể này thường gặp ở trẻ em và người trẻ tuổi,
bệnh xuất hiện đột ngột, liên quan tới viêm amidal do liên cầu khuẩn, viêm tai
giữa, đáp ứng tốt với trị liệu kháng sinh, có thể tự đỡ và khỏi [5], [24].
(Nguồn: Đặng Văn Em. Bệnh vảy nến: Sinh bệnh học và chiến lược điều trị (2013) [5]).
Hình 1.1. Vảy nến thể chấm giọt, đồng tiền
6
- Vảy nến thể đồng tiền (Nummular psoriasis): Đây là thể điển hình và
phổ biến nhất, kích thước tổn thương từ 1-2cm đường kính, xu hướng tròn
như đồng tiền, vùng trung tâm có nhạt màu hơn, ngoại vi đỏ thẫm, số lượng
vài chục đám hoặc hơn nữa [5], [24].
- Vảy nến thể mảng (Plaque psoriasis): Đây là thể mạn tính, tiến triển từ
vài cm trở lên, có tính chất cố thủ dai dẳng. Thường là các đám mảng lớn trên
2cm, có khi 5-10cm đường kính hoặc lớn hơn, khu trú ở các vùng tỳ đè [5],
[24].
(Nguồn: Đặng Văn Em. Bệnh vảy nến: Sinh bệnh học và chiến lược điều trị (2013) [5]).
Hình 1.2. Vảy nến thể mảng
Ngoài ra còn phân theo vị trí tổn thương:
+ Vảy nến da đầu: đa số bệnh vảy nến khởi phát vùng đầu sau 1 thời
gian mới xuất hiện nơi khác. Chẩn đoán lúc này chủ yếu dựa theo kinh
nghiệm, tổn thương vượt quá ria trán và chưa chắc chắn cần làm mô bệnh
học.
+ Vảy nến lòng bàn tay chân: có những bệnh nhân khởi phát bệnh ở lòng
bàn tay, bàn chân. Sau 1 thời gian mới xuất hiện nơi khác.
+ Vảy nến móng: khởi đầu bằng tổn thương móng ít gặp, chủ yếu là kết
hợp với vảy nến thông thường, vảy nến đỏ da toàn thân.
+ Vảy nến niêm mạc: tổn thương vảy nến vùng niêm mạc thường ít gặp.
+ Vảy nến đảo ngược: là vảy nến xuất hiện ở vùng nếp kẽ như nách, nếp
7
dưới vú, rốn, nếp kẽ mông, bẹn, biểu hiện tổn thương là mảng ranh giới rõ,
màu đỏ, nhẵn với bề mặt ướt; có thể có nhiễm thêm nấm Candida thường gặp
hơn ở bệnh nhân đái tháo đường và dùng corticoid tại chỗ [5].
1.1.2.3. Týp vảy nến thông thường
Theo Gudjonsson J. và cs (2007) đã chia bệnh vảy nến thông thường
thành 2 týp [5], [25]:
- Týp 1: Tuổi khởi phát sớm (trước 40 tuổi), có yếu tố di truyền, có tiền
sử gia đình, có mang HLA-Cw6 và DR7, tuổi khởi phát dưới 40 tuổi.
- Týp 2: Tuổi khởi phát muộn (sau 40 tuổi), không có yếu tố di truyền,
không có tiền sử gia đình, không mang HLA-Cw6 và DR7.
1.1.2.4. Mô bệnh học vảy nến thông thường
Trong đa số trường hợp bệnh nhân vảy nến, việc chẩn đoán thường dễ
dàng và việc làm sinh thiết là không cần thiết. Nhưng khi có những trường
hợp không điển hình thì mới cần đến mô bệnh học. Các tổn thương thường
phối hợp với nhau 1 cách điển hình như sau:
- Chứng tăng sừng (hyperkeratosis), á sừng (parakeratosis) là đặc trưng
đặc biệt rõ ràng nhất trong các tổn thương mới xuất hiện. Các tế bào sừng này
không còn nhân, á sừng là hiện tượng tế bào sừng bong ra vẫn còn nhân
- Quá sản lớp gai (hyperacanthose): phần lớp gai phía trên các nhú bì bị
dẹt lại chỉ còn 1-2 lớp tế bào dẹt không còn hình đa giác, các khe gian bào
phù nề. Phần các mào giữa nhú dài ra đâm sâu xuống chân bì tạo nên hình dùi
trống. Có tăng sinh và giãn rộng các mao mạch tạo nên các mao mạch ngoằn
ngoèo; có thâm nhiễm các tế bào viêm quanh mạch máu chân bì là lympho T,
bạch cầu đa nhân…
- Hiện tượng thoát bào: từ các mao mạch ở lớp nhú được thoát bào đi
vào lớp biểu bì gồm tế bào lympho, bạch cầu đa nhân trung tính. Bạch cầu đa
nhân trung tính đi vào khe gian bào ở lớp gai có chỗ tập trung thành cụm tạo
nên ổ áp xe Munro. Áp xe Munro thường khu trú ngay sát dưới lớp sừng và
8
có khi ở các lớp gai và nói lên bệnh đang hoạt động.
Ngoài ra có sự thâm nhiễm các tế bào đơn nhân, bạch cầu đa nhân trung
tính…; các nhú chân bì bị sung huyết, phù nề và có tăng sinh, giãn rộng các
mao mạch cửa sổ dưới nhú bì [5], [26].
(Nguồn: theo Chen M. và cs. (2006) [27]).
Hình 1.3. Mô bệnh học vảy nến thông thường
1.1.2.5. Chẩn đoán vảy nến thông thường
Chẩn đoán đầy đủ bệnh vảy nến bao gồm: Chẩn đoán xác định, chẩn
đoán mức độ bệnh, chẩn đoán giai đoạn bệnh.
1.1.2.5.1. Chẩn đoán xác định
Chẩn đoán xác định vảy nến thường dựa vào lâm sàng. Trong một số
trường hợp bệnh sử và thăm khám lâm sàng không đủ chẩn đoán thì cần sinh
thiết làm giải phẫu bệnh để chẩn đoán xác định [5], [28].
1.1.2.5.2. Chẩn đoán mức độ bệnh
Thông qua xác định mức độ bệnh để đưa ra chiến lược điều trị phù hợp,
đánh giá được hiệu quả điều trị.
9
Hiện nay, để đánh giá mức độ bệnh vảy nến thông thường dựa vào hai
phương pháp:
Chẩn đoán mức độ bệnh theo PASI (Psoriasis Area and Severity Index)
Bệnh vảy nến thông thường được chia là 3 mức độ dựa theo chỉ số
PASI như sau [5], [29], [30]:
- Mức độ nhẹ PASI: <10
- Mức độ vừa PASI: 10 -< 20
- Mức độ nặng PASI: ≥20
Chẩn đoán mức độ bệnh theo diện tích bề mặt cơ thể (TBSA: Total body
surface area)
Năm 1993, Ruffelli chia mức độ bệnh vảy nến thông thường làm 4 mức
độ sau [9], [31]:
- TBSA: <25%: Mức độ 1
- TBSA: 25-<50%: Mức độ 2
- TBSA: 50-75%: Mức độ 3
- TBSA: >75%: Mức độ 4
Trong đó, một lòng bàn tay bệnh nhân bằng 1% diện tích cơ thể.
Cách tính TBSA có thể suy diễn từ PASI như sau:
100% TBSA = PASI tối đa = 72
1.1.2.5.3. Chẩn đoán giai đoạn
- Giai đoạn tiến triển: Có tổn thương mới, hoặc có mở rộng diện tích
tổn thương.
- Giai đoạn lui bệnh: Các tổn thương thu nhỏ hoặc có tổn thương sạch
giảm.
- Giai đoạn ổn định: Tổn thương tồn tại nhiều tháng nhiều năm, không
phát triển thêm hoặc sạch tổn thương chưa tái phát.
10
Theo Mizutani (1997) bệnh vảy nến thông thường được chia làm hai
giai đoạn (Trích dẫn theo Đặng Văn Em [9]):
- Giai đoạn hoạt động: Những bệnh nhân có PASI tăng trong hai tuần
trước đó.
- Giai đoạn không hoạt động: Những bệnh nhân PASI đã giảm hoặc
không thay đổi trong hai tuần trước đó.
1.1.3. Cơ chế bệnh sinh
Bệnh sinh của bệnh vảy nến còn nhiều điểm chưa sáng tỏ, nhưng đến
nay đa số các tác giả đã thống nhất cho bệnh vảy nến là bệnh da có yếu tố di
truyền, bệnh da do gen [7], [19], [20], có cơ chế tự miễn, có hiện tượng tăng
sinh quá mức tế bào thượng bì và được khởi động bởi một số yếu tố (stress,
nhiễm khuẩn, chấn thương cơ học, vật lý, thời tiết, vai trò của thuốc, thức
ăn…). Có nhiều cytokine tham gia vào cơ chế bệnh sinh bệnh vảy nến nhưng
trục IL-23/Th17 đóng vai trò trung tâm [32], [33].
1.1.3.1. Yếu tố di truyền
Yếu tố di truyền trong bệnh vảy nến đã được công nhận, nhưng cách di
truyền như thế nào thì chưa thật sáng tỏ. Đa số các nhà nghiên cứu đã thừa nhận
bệnh vảy nến là bệnh có cơ địa di truyền chủ yếu theo tính trội, bằng nhiều gen tác
động kết hợp với nhau tạo thành một “thể địa vảy nến”. Yếu tố di truyền trong
bệnh vảy nến được xác định gồm ba vấn đề liên quan: HLA, týp vảy nến và lịch
sử gia đình [21].
- Tiền sử gia đình
Tiền sử gia đình của người bị bệnh vảy nến đã được một số tác giả nhận
xét có liên quan đến việc phát bệnh sớm và nếu trong họ hàng có người bị
bệnh vảy nến thì tỷ lệ bị bệnh vảy nến càng cao. Có quan điểm cho rằng bệnh
vảy nến là một bệnh di truyền và sự phát triển vảy nến có lịch sử gia đình [9],
[34], [35].
11
Theo Baker J (1994) cho thấy tiền sử gia đình gặp ở 30% bệnh nhân có
bố hoặc mẹ bị vảy nến và có 72% các cặp sinh đôi cùng trứng bị vảy nến [34].
Pelsyak M (2012), tỷ lệ sinh đôi cùng trứng bị vảy nến là 70%, nếu bố hoặc
mẹ bị vảy nến tỷ lệ di truyền là 15-25%, nêú cả bố mẹ mắc bệnh thì tỷ lệ di
truyền là 40-60%. Yếu tố di truyền không thể gây bệnh riêng biệt mà có sự
tác động của nhiều yếu tố môi trường kích thích và duy trì bệnh vảy nến [35].
Theo Huang và cs (2019) khi nghiên cứu trên dân số chung Đài Loan
cho thấy nguy cơ bị bệnh vảy nến ở thế hệ thứ 1 tăng gấp 5,5 lần; thế hệ thứ 2
tăng gấp 2,5 lần [36].
- Tuổi khởi phát bệnh và týp vảy nến
Bệnh vảy nến có thể khởi phát ở mọi lứa tuổi nhưng ít gặp dưới 10 tuổi,
tuổi hay gặp nhất từ 15-30. Dựa trên tuổi khởi phát sớm (bệnh khởi phát dưới
40 tuổi), muộn (bệnh khởi phát >=40 tuổi), tiền sử gia đình và sự có mặt của
kháng nguyên HLA người ta đã phân ra hai typ vảy nến [25], [37]. Vảy nến
typ 1 (khởi phát bệnh sớm dưới 40 tuổi), có yếu tố di truyền vì mang HLA-
CW6 và DR7, yếu tố môi trường dễ tác động, tỷ lệ gặp cao 88%. Vảy nến typ
II (khởi phát bệnh muộn >= 40 tuổi), không liên quan yếu tố di truyền vì
không mang HLA-CW6 và HLA-DR7 chỉ chiếm 28,6%, yếu tố môi trường
khó tác động, tỷ lệ gặp thấp 12% [9], [25].
- Vai trò của HLA trong bệnh vảy nến
HLA giữ vai trò chủ đạo trong việc khởi phát, điều hòa và thực hiện
đáp ứng miễn dịch, nó được truyền cho thế hệ sau. Do HLA chịu trách nhiệm
về đáp ứng miễn dịch nên chúng sẽ có liên quan đến một số bệnh tự miễn và
đặc biệt là bệnh vảy nến.
Theo Zhang và cs (2003), nghiên cứu dân số ở Đông Nam Trung Quốc
cho thấy HLA lớp I đặc biệt là HLA-CW6 có liên quan chặt chẽ với bệnh vảy
nến, liên quan đến sự khởi phát bệnh sớm [38].
12
Trong những năm gần đây đã có nhiều tác giả nghiên cứu các KN HLA
và đa số cũng trùng hợp với những KN được các tác giả tìm ra trước đó [5].
Như vậy, ở những bệnh nhân vảy nến có sự kết hợp với KN HLA lớp I là:
HLA-B13, HLA-B15, HLA-B35, HLA-CW3…trong đó liên quan chặt chẽ
nhất là HLA-CW6. Những người mang HLA-CW6 có nguy cơ mắc vảy nến
tăng 9-15 lần và bị bệnh vảy nến thực sự tăng lên 20%. Căn cứ vào sự có mặt
của HLA-CW6, tuổi khởi phát bệnh, lịch sử gia đình để phân ra vảy nến typ I,
typ II [5].
Một nghiên cứu tiến hành trên 91 bệnh nhân vảy nến thông thường, cho
thấy có liên quan đến các HLA lớp I (HLA-CW6) và lớp II (HLA-DR7). Hầu
hết bệnh nhân, chiếm 91,9% có tính đặc thù CW6, đều có KN DR7, trong khi
nhóm chứng là 50,3% [5]. Mặt khác một sự kết hợp rất đáng kể giữa khởi
phát bệnh sớm và sự có mặt các KN HLA-CW6, HLA-DR7 đã được tìm thấy
(HLA-CW6: 70%, HLA-DR7: 80,4%), ngược lại, KN HLA-DR7 được biểu
hiện chỉ 28,6% trên bệnh nhân khởi phát muộn và không có KN HLA-CW6
(typ II) [5].
- Gen liên quan đến vảy nến: Cho đến nay, người ta đã xác định bệnh
vảy nến có nhiều vị trí gen liên quan: PSORS-1: 6p21.3, PSORS-2: 17q25,
PSORS-3: 4q, PSORS-4: 1q21, PSORS-5: 3q21, PSORS-6: 19p và PSORS-7:
1p, PSORS-8: 16q, PSORS-9: 4q31, PSORS-10: 18p11, PSORS-11: 5q31-
q33, PSORS-12: 20q13... Trong đó PSORS-1 là gen nhạy cảm chính [39],
[40].
1.1.3.2. Các yếu tố liên quan đến sự phát sinh, phát triển bệnh vảy nến
Những yếu tố cổ điển đã được nhiều tác giả nói đến từ lâu và gần đây
càng thấy rõ vai trò quan trọng của nó như: stress, nhiễm khuẩn khu trú, chấn
thương thượng bì… Những yếu tố từ trước ít được nói đến nhưng trong
những năm gần đây được chú ý vì có liên quan đến sự phát sinh, phát triển
13
bệnh vảy nến như: thuốc, các chất kích thích, khí hậu thời tiết, chế độ ăn, nội
tiết…Các yếu tố trên được xác định là yếu tố khởi phát bệnh và cũng có vai
trò làm tái phát hay trầm trọng thêm bệnh vảy nến [35].
- Căng thẳng thần kinh (stress)
Các yếu tố stress đã được khẳng định có liên quan đến sự phát bệnh và
vượng bệnh, bệnh nhân bị bệnh vảy nến thuộc týp thần kinh dễ bị kích thích,
hay lo lắng… Đó là những stress tâm lực (do điều kiện sống quá vất vả, lao
động quá nặng nhọc), stress tâm trí (quá căng thẳng trong học tập, công tác),
stress xúc cảm (khi có những chấn thương đột ngột như người thân qua đời,
tai nạn bất ngờ). Và ngay cả “lâm sàng xấu xí “của bênh vảy nến cũng là một
stress tâm lý thường xuyên [9], [41], [42], [43].
Các stress này làm tăng tiết hormon trục tuyến yên-thượng thận, các
hormon này sẽ tác động lên da gây ra những dị thường của các thụ thể ở tế
bào sừng và hậu quả là tế bào keratine tăng sản bất thường [43].
Theo Fortune và cs (1998) điều tra 162 bệnh nhân vảy nến thấy yếu tố
stress liên quan bệnh vảy nến là 60,1% trường hợp, trong đó 46% tin rằng thái
độ của họ có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến tiến triển của bệnh [41].
Manolache L. (2010) nhận thấy có 54,4% bệnh nhân vảy nến có yếu tố stress
liên quan với khởi động bệnh/ tái phát hoặc bệnh nặng thêm [42], [43]. Hiện
nay người ta đưa ra một số kỹ thuật kiểm soát stress như tập thể dục thường
xuyên, tập Yoga, tập thiền, massage, châm cứu, bấm huyệt…[9].
- Nhiễm khuẩn khu trú
Vai trò của các ổ nhiễm khuẩn khu trú liên quan tới quá trình phát sinh
và phát triển bệnh vảy nến. Trong đó chủ yếu là các nhiễm khuẩn đường hô
hấp trên (viêm mũi họng, viêm amidal, viêm xoang, viêm răng lợi…) [44],
đặc biệt do liên cầu tan huyết b nhóm A gây bệnh là 57,1%, tụ cầu là 28,3%.
Một nhiễm khuẩn liên cầu dai dẳng có thể gây các thể vảy nến mảng mạn tính
14
và điều trị bằng rifampicin uống kết hợp với hoặc erythromycin thấy có hiệu
quả, bệnh không giảm với liệu pháp đơn trị liệu không có kháng sinh, đặc biệt
cải thiện tốt vảy nến thể giọt ở trẻ em. Tính mẫn cảm với liên cầu này có thể
do bệnh nhân mang một số kháng nguyên phù hợp tổ chức, nhất là kháng
nguyên HLA-B13 [9], [25]. Chính protein liên cầu M và độc tố là kháng
nguyên bề mặt kích thích tăng sinh tế bào lympho T rõ rệt [9], [25]. Các
nhiễm khuẩn khu trú do nhiễm liên cầu khuẩn có thể làm khởi phát vảy nến
thể giọt hoặc làm nặng một bệnh vảy nến đã có sẵn thường sau 1-2 tuần [44],
[45], [46].
-Chấn thương cơ học, vật lý
Năm 1876, Koebner thông báo đã quan sát được ở một bệnh nhân vảy
nến tổn thương xuất hiện sau các sang chấn vùng da không bị bệnh [47]. Qua
nhiều nghiên cứu các tác giả xác định chấn thương da như một yếu tố khởi
động mà người ta gọi là hiện tượng Koebner. Tần suất của hiện tượng
koebner thay đổi từ 38-76% số bệnh nhân, phản ứng xuất hiện vảy nến
thường xảy ra 1-2 tuần sau chấn thương da [5], [25].
Tổn thương vảy nến xuất hiện tại những nơi có chấn thương thượng bì
(hiện tượng Koebner): Vết mổ, vết bỏng, vết xước da do cào gãi, trà sát, nơi
châm cứu, nơi chủng đậu, vết xăm… [48]. Các kích thích này làm khởi động
phản ứng viêm của da và kích thích tế bào miễn dịch tiết ra các cytokine tiền
viêm (IL-6, IL-8, TNF-a), cùng các phân tử kết dính (ICAM-1) đã hoạt hoá
các tế bào đơn nhân (monocytes). Phản ứng tiếp theo sau chấn thương thượng
bì là sự lan rộng các chất hoạt hoá plasminogene. Các enzyme tiêu protein
này có tác dụng trong liền sẹo và tân tạo tổ chức, trong sinh trưởng và biệt
hoá tế bào thượng bì [5], [47]. Hiện tượng Koebner chỉ xuất hiện khi tổn
thượng thượng bì đủ độ sâu và bệnh đang tiến triển. Hiện tượng Koebner
cũng là cơ sở để giải thích tại sao trong bệnh vảy nến có vị trí tổn thương đặc
15
hiệu, đó là do các vi chấn thương xảy ra một cách thường xuyên tại vị trí đó
[9], [25].
- Khí hậu, thời tiết
Tiến triển của bệnh vảy nến có liên quan rõ tới mùa, thời tiết khí hậu.
Balato N. và cs (2013) nhấn mạnh đến ảnh hưởng của độ ẩm, ánh sáng, nhiệt
độ ngoài trời đối với quá trình tiến triển của bệnh vảy nến. Phần lớn bệnh
nặng về mùa đông, nhẹ về mùa hè [49]. Điều này có thể được giải thích theo
rối loạn miễn dịch ở bệnh nhân vảy nến. Ánh nắng có tác dụng ức chế tế bào
lympho T, do đó có thể sử dụng các tia cực tím như UVA, UVB để điều trị
bệnh vảy nến mức độ vừa đến nặng [25].
-Vai trò một số thuốc:
Một số thuốc làm khởi phát hoặc trầm trọng hơn bệnh vảy nến: Các
thuốc ức chế b, lithium, thuốc chống sốt rét, thuốc chống viêm không steroid,
ức chế enzyme angiotensin [50], [51], [52].
Ngừng đột ngột thuốc corticoid toàn thân cũng làm bệnh xuất hiện hoặc
chuyển sang những thể vảy nến nặng (vảy nến đỏ da toàn thân hoặc vảy nến
mụn mủ). Theo Baker H. và Ryan T.J (1968) nghiên cứu 104 bệnh nhân vảy
nến mụn mủ có ít nhất 1/3 bệnh nhân khởi phát vảy nến mụn mủ sau khi dừng
corticoid toàn thân [53].
- Vai trò của chế độ ăn:
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy chế độ ăn, uống ảnh hưởng đến
tiến triển của bệnh vảy nến [25]. Đặc biệt trong chế độ ăn có nhiều dầu cá đã
cho kết quả tốt và có thể đóng vai trò điều trị phụ trợ không thể xem nhẹ [54].
Ăn nhiều hoa quả có tác dụng tăng khả năng bảo vệ đối với bệnh [9]. Nhiều
nghiên cứu cho thấy chế độ ăn ít hoặc không có gluten giúp cải thiện tình
trạng bệnh [55], [56].
16
- Vai trò của rượu:
Những nghiên cứu gần đây đã chứng minh có sự liên quan thực sự giữa
bệnh vảy nến và mức độ tiêu thụ rượu [57]. Rượu có thể tác động trực tiếp
hay gián tiếp kích hoạt quá trình sản xuất các cytokine viêm và yếu tố tăng
trưởng keratinocytes làm bùng phát hoặc nặng lên bệnh vảy nến. Hơn nữa
bệnh nhân vảy nến mức độ trung bình hoặc nặng có tỉ lệ tử vong cao hơn do
các bệnh liên quan đến rượu đặc biệt là bệnh lý tim mạch [58].
Rượu là yếu tố nguy hiểm cho bệnh vảy nến, uống liên tục > 80g/ngày
gây tăng thêm ngứa, rối loạn giấc ngủ và giảm hiệu quả điều trị [9].
- Vai trò thuốc lá:
Hút thuốc lá chủ động hoặc thụ động đều là yếu tố nguy cơ của bệnh vảy
nến. Lý do giải thích thuốc lá là yếu tố nguy cơ bệnh vảy nến tương đối phưc
tạp, liên quan đến nhiều độc tố chưa biết rõ có trong khói thuốc lá. Tuy nhiên
một lí do quan trọng đó là sự gắn kết giữa nicotine và receptor nicotine
acetylcholine (nAChR) dẫn đến làm gián đoạn dẫn truyền tín hiệu thần kinh,
qua đó ảnh hưởng đến quá trình điều hoà chức năng keratinocyte [58]. Bệnh
nhân hút >20 điếu thuốc lá/ngày tăng nguy cơ bệnh mức độ nặng so với nhóm
ít hơn 10 điếu/ ngày [59]. Theo Gerdes S. và cs (2009) nghiên cứu trên 1203
bệnh nhân thì có 43,3% bệnh nhân có liên quan với hút thuốc lá và liên quan
đến mức độ bệnh nặng [60]. Theo Naldi và cộng sự (1992), cho thấy có sự
tăng tỷ lệ toàn bộ bệnh vảy nến trong những người nam giới nghiện thuốc lá.
Tỉ lệ tăng gấp 2,1 lần ở nhóm bệnh nhân hút >15 điếu mỗi ngày [61].
- Bệnh kết hợp:
Bệnh phối hợp trong bệnh vảy nến thường liên quan với các bệnh tự
miễn như: Lupus ban đỏ, pemphigus, bạch biến…Ngoài ra bệnh vảy nến có
thể kết hợp với tỉ lệ cao với nhiễm khuẩn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, đái
17
tháo đường, viêm khớp vảy nến, ung thư, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hoá,
béo phì, nhồi máu cơ tim [9], [62], [63].
Hội chứng chuyển hoá (HCCH) và vảy nến có mối liên quan được đặc
trưng bởi tình trạng béo phì, tăng triglyceride, giảm HDL-C, kháng insulin và
tăng huyết áp. Béo phì bản thân nó là yếu tố nguy cơ độc lập phát triển bệnh
vảy nến. Tỉ lệ HCCH cao hơn ở bệnh nhân vảy nến nữ giới [63]. Theo
Salihbegovic E. M (2015) có tới 54,28% bệnh nhân vảy nến có tăng huyết áp,
mức độ tăng huyết áp có liên quan chặt chẽ với mức độ bệnh [64]. Nghiên
cứu của Love T.J và cs (2011) chỉ ra có tới 40% bệnh nhân vảy nến có HCCH
[65].
Bệnh nhân vảy nến có tình trạng tăng cholesterol kết hợp có thể tăng
LDL-C, và không có sự thay đổi nồng độ HDL-C. Do đó, bệnh vảy nến là yếu
tố nguy cơ độc lập của tình trạng tăng lipid máu, hậu quả cuối cùng có thể dẫn
đến các bệnh lý tim mạch do vữa xơ. Vì vậy, cần đánh giá và theo dõi tình
trạng tăng lipid máu cũng như bệnh lý mạch vành ở bệnh nhân vảy nến [66],
[67].
1.1.3.3. Rối loạn miễn dịch trong bệnh sinh bệnh vảy nến
Những rối loạn miễn dịch liên quan đến cơ chế bệnh sinh bệnh vảy nến
hết sức phức tạp. Dưới tác động của nhiều yếu tố, đầu tiên là tế bào
Langerhans ở da bắt giữ, xử lý thông tin về KN (cho đến nay KN chính xác
chưa được xác định) và trở thành tế bào trình diện KN mẫn cảm. Các tế bào
Langerhans xuyên qua màng đáy, đến trình diện với các tế bào lympho T ở
hạch bạch huyết, tế bào lympho T được hoạt hóa. Các tế bào lympho T được
hoạt hóa chủ yếu là CD4+, CD8+. Khi được hoạt hóa các tế bào lympho T đi
vào hệ thống tuần hoàn, tương tác cùng các tế bào nội mạch, di chuyển đến
vùng da viêm, tập trung quanh các mạch máu trung bì và tạo ra các đáp ứng
miễn dịch thông qua các cytokine, chemokine. Có nhiều cytokine do tế bào
18
lympho T và các tế bào khác tiết ra. Dưới tác động của các cytokine, làm tăng
sản các tế bào thượng bì, gây viêm, tăng sinh mạch [5], [68]. Trong bệnh sinh
bệnh vảy nến có ba mắc xích quan trọng là tế bào đuôi gai, tế bào keratine và
tế bào lympho, mà vai trò chính là tế bào lympho T (Th1 và Th17) [68].
(Nguồn: J Am Acad Dermatol. 2014., 71(1): 141 – 150) [69].
Hình 1.4. Sinh bệnh học bệnh vảy nến theo thời gian
Trước năm 1980, bệnh vảy nến được cho rằng bệnh liên quan đến cơ
chế gây nên rối loạn điều tiết làm tăng sinh quá mức các tế bào sừng gây nên
tình trạng bệnh lý. Những những năm tiếp theo (1980-2000), nhiều tác giả lại
cho rằng bệnh được điều khiển bởi tế bào lympho T. Theo Gottlieb SL và cs
(1995), khi dùng thuốc ức chế tế bào lympho T nhưng không ức chế tế bào
sừng làm giảm bệnh vảy nến, chứng minh cho vai trò của lympho T trong
bệnh sinh [70]. Tại vùng da tổn thương vảy nến, các tế bào tua có khả năng
hoạt hoá các tế bào lympho T, trong khi các vùng da khác hoặc da người bình
thường thì không. Trong bệnh vảy nến, những tế bào tua chưa trưởng thành,
có tên là Langerhans, nhận biết và bắt giữ KN, những KN này cho đến nay
vẫn chưa được xác định, di chuyển đến hạch bạch huyết, kích thích các tế bào
lympho T bằng cách trình diện KN. Các tế bào T hoạt hoá đi vào hệ tuần
19
hoàn, tương tác với các tế bào nội mạc, di chuyển đến vùng da viêm, tụ tập
quanh các mạch máu trung bì. Tuy nhiên, các sự kiện liên quan đến bắt đầu
hoạt hóa các tế bào tua chưa được xác định. Bởi vậy, sự hoạt hóa tế bào T có
thể theo cách trình diện KN cổ điển, bởi các tế bào APC tới các receptor tế
bào lympho T[68]. Các tác nhân ức chế tế bào lympho T như cyclosporine
được dùng để điều trị bệnh nhân vảy nến cho cải thiện lâm sàng và mô bệnh
học giảm thâm nhiễm tế bào lympho T. Các cytokine khác nhau được tạo ra
bởi các tế bào trình diện kháng nguyên, bạch cầu đơn nhân, đại thực bào, tế
bào đuôi gai tác động lên các tế bào T biệt hoá thành Th1, Th2. Interleukin 12
(IL-12) được tạo ra từ các tế bào này kích thích hoạt hoá Th1 sản sinh ra
interferon- gamma (IFN-𝛾) và yếu tố hoại tử u (TNF-𝛼) có vai trò quan trọng
trong bệnh sinh bệnh vảy nến [69]. Năm 1998, các tác giả phát hiện có sự gia
tăng IL-12 tại các tổn thương vảy nến, càng khẳng định bệnh vảy nến có trung
gian là Th1 [71]. Đến năm 2000, Oppman B và cs phát hiện ra loại protein
p19, kết hợp với IL-12 p40 tạo cytokine IL-23 [72]. Các đại thực bào và các
tế bào tua gai là nguồn gốc chính sản xuất ra IL-23 trong da tổn thương [69].
Năm 2003, phát hiện IL-23 kích thích tế bào lympho T hoạt hoá sản sinh IL-
17A và dòng tế bào này được gọi là Th17 là tế bào sản sinh cytokine IL-17A,
là cytokine chìa khoá trong bệnh lý bệnh vảy nến [73].
Hiện nay sinh bệnh học vảy nến ngày càng sáng tỏ, bên cạnh vai trò
của Th1 với các cytokine tương ứng IFN-𝛾, TNF-𝛼 ...và Th2 với các cytokine
tương ứng IL-4, IL-5, IL-13…thì xác định Th17 đóng vai trò chủ đạo trong
sinh bệnh học bệnh vảy nến với cytokine tương ứng là IL-17A, IL-17F, IL-22
tạo nên bệnh sinh bệnh vảy nến. Chất trung gian hóa học của Th17 bao gồm
IL-1, IL-6, yếu tố chuyển đổi phát triển β (TGF-β), kích thích biệt hóa dòng
CD4+ thành Th17 nhớ hoạt hóa [69]. Trong cơ thể, sản lượng Th1 phụ thuộc
vào IL-12, trong khi đó Th17 phụ thuộc vào IL-23. Cùng với nhau các
cytokine này tạo nên các đặc trưng viêm trong bệnh vảy nến [69], [74].
20
Các tế bào Th17 sản xuất ra IL-17, một thành phần quan trọng hình
thành và duy trì quá trình viêm. Nồng độ IL-17 tăng cao trong huyết thanh
bệnh nhân và tại da tổn thương vảy nến, liên quan tới mức độ nặng bệnh và
kéo dài tình trạng viêm mạn tính [74]. IL-17 có 6 loại được đặt tên từ IL-17A
đến IL-17F, trong đó IL-17A đóng vai trò chính trong bệnh sinh vảy nến và
đích của nó là tế bào sừng, IL-17B và IL-17D xuất hiện dưới dạng đặc tính
viêm và có xu hướng giảm ở bệnh vảy nến, IL-17C tăng trong tổn thương da
vảy nến, IL-17E có mặt tham gia vào phản ứng Th2 [69], [75]. Các thụ thể
IL-17A chủ yếu trên bề mặt của tế bào sừng trên toàn bộ biểu bì và các tế bào
nằm rải rác trên da gồm tế bào đuôi gai, nguyên bào sợi. IL-17A kích thích
các tế bào sừng thông qua các chemokin gồm CCL20, CXCL1, CXCL2,
CXCL3, CXCL5 và CXCL8 (IL-8). CCL20 bổ sung các tế bào CCR61 cho
da, qua đó thiết lập việc duy trì các tế bào viêm vùng da tổn thương. IL-17A
tác động làm sản sinh quá mức biểu bì và phá vỡ hàng rào bảo vệ da, làm tăng
sự hiện diện của chất sừng 17, làm giảm xuất hiện filaggrin và làm thay đổi
nhiều loại gen tham gia vào liên kết tế bào [69].
Như vậy bệnh vảy nến là bệnh có yếu tố di truyền được kích hoạt bởi
các yếu tố môi trường, tạo nên các phản ứng miễn dịch, hoạt hoá các tế bào
lympho biệt hoá thành Th1, Th17, sản sinh ra các cytokine tương tác với các
tế bào thượng bì và nội mô mạch máu gây ra tăng sinh tế bào sừng và tăng
sinh mạch, duy trì và tạo thành tình trạng viêm cũng như tổn thương da vảy
nến.
21
(Nguồn: J Am Acad Dermatol. 2014 Jul;71(1):141-50) [69].
Hình 1.5. Sinh bệnh học vảy nến
1.1.4. Các phương pháp điều trị
Đến nay chưa điều trị khỏi được bệnh vảy nến. Vì vậy, mục tiêu điều trị
là nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh ở các mức độ khác
nhau, nhằm trả lại cuộc sống bình thường hoặc gần như bình thường cho họ.
Việc điều trị cần có một chiến lược cụ thể và hợp lý, thích hợp với từng giai
đoạn bệnh (tấn công và duy trì) và thể bệnh. Trong đó mục tiêu của giai đoạn
tấn công là làm sạch tổn thương và hạn chế tối đa tác dụng không mong muốn
của liệu pháp điều trị. Các thuốc điều trị giai đoạn tấn công để chống lại sự
tăng sản quá mức và rối loạn biệt hoá tế bào sừng. Mục tiêu giai đoạn duy trì:
ngăn cản tái phát, loại trừ, khống chế các yếu tố khởi động và điều trị sớm
những tổn thương xuất hiện lại. Để đạt được mục đích đó phải có chiến lược
dùng thuốc phù hợp, dùng đơn độc, dùng kết hợp, dùng luân chuyển, kế tiếp
và có chiến lược dự phòng tốt. Việc kết hợp, luân chuyển và kế tiếp trong
điều trị vảy nến là một nghệ thuật, đòi hỏi người thầy thuốc phải có kinh
nghiêm, kiến thức kết hợp với hợp tác của người bệnh mới hy vọng kéo dài sự
ổn định bệnh và tránh được những tác dụng không mong muốn của thuốc bôi,
thuốc toàn thân đến mức tối đa [9], [24].
22
Các thuốc điều trị bệnh vảy nến hiện nay bao gồm: các thuốc dùng tại
chỗ (bôi, đắp và tắm) và các thuốc dùng đường toàn thân và các thuốc sinh
học, liệu pháp quang và quang hoá [9], [24].
1.1.4.1. Thuốc điều trị tại chỗ
Thuốc tại chỗ dùng đơn độc để điều trị cho vảy nến mức độ nhẹ hoặc
phối hợp với các thuốc toàn thân hoặc điều trị ánh sáng cho vảy nến mức độ
vừa và nặng [24], [76].
- Acid Salicylic: là thuốc bạt sừng tại chỗ được sử dụng nhiều năm để
điều trị vảy nến, nhưng cơ chế bạt sừng chưa được hiểu biết đầy đủ, có thể
giảm sự gắn kết giữa các tế bào keratin với nhau và giảm độ pH [5], [77].
Acid Salicylic thường được dùng dạng mỡ ở nồng độ 1-5%, nhưng dùng cho
trẻ em nồng độ giảm còn 0,5-1% [5], [77].
- Tar (Hắc ín): có nguồn gốc thảo mộc hay than đá. Tar là thuốc điều
trị vảy nến rất tốt, an toàn và được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, nó có nhược
điểm là dính bẩn và có mùi nồng. Hắc ín tương đối hiệu quả khi điều trị diện
tích cơ thể lớn, không gây ra tác dụng phụ toàn thân [77].
- Anthraline (dioxyanthranol): cơ chế hoạt động chính xác của anthralin
chưa được biết đầy đủ, các nghiên cứu gần đây cho rằng anthralin có tác dụng
ức chế miễn dịch, ngăn ngừa hoạt hóa tế bào T, bình thường hóa quá trình biệt
hóa keratinocyte bằng cách tác động trực tiếp lên quá trình gián phân [78].
Được sử dụng chủ yếu biện pháp tiếp xúc ngắn. Không có tác dụng phụ toàn
thân, trở ngại chủ yếu là kích thích da, nhuộm màu vàng da quanh tổn thương
(giảm đi khi dùng tiếp xúc ngắn) [9], [78].
- Glucocorticoid: chống viêm do ức chế huy động BCĐN, chống gián
phân do ức chế tổng hợp DNA ở pha G1, G2 của gián phân, ức chế miễn dịch,
co mạch [9],[79]. Thuốc Glucocorticoid được bệnh nhân rất ưa thích vì nó có
tác dụng làm bệnh đỡ nhanh, thuốc không gây bẩn quần áo, thuốc không có
23
mùi khó chịu. Nhược điểm gây teo da, rạn da, trứng cá, nhiễm khuẩn tại chỗ,
viêm nang lông, nhờn thuốc, đặc biệt có thể gây hiện tượng “phản hồi”
(rebound- khi ngừng thuốc, bệnh có thể tái phát nặng hơn trước) [9], [79].
- Vitamin D và dẫn xuất: cơ chế tác dụng của các đồng đẳng vitamin D
là do gắn với thụ thể vitamin D dẫn đến ức chế tăng sinh biểu bì, điều hòa
miễn dịch tại chỗ, chống viêm [80]. Calcipotriol được coi là thuốc bôi tốt nhất
trong điều trị bệnh vảy nến do tác dụng làm bệnh đỡ nhanh, tránh được hiện
tượng nhờn thuốc và hiện tượng “phản hồi”. Tuy nhiên, thuốc có thể gây tăng
canxi máu nếu bôi quá nhiều so với liều quy định (100g/tuần), chỉ được phép
bôi dưới 17% diện tích da, thuốc đắt tiền, có thể có cảm giác rát bỏng, ban đỏ
tại vùng bôi thuốc [9].
- Tazarotene: cơ chế tác động của tazaroten được cho là bình thường hóa
quá trình biệt hóa tế bào keratin, giảm tăng sản, giảm biểu lộ của các marker
viêm [81]. Hiện có dạng gel 0,05%; 0,1%. Dùng cho vảy nến thể nhẹ bôi tại
chỗ 1 lần/đêm, không dùng cho phụ nữ có thai và cho con bú.
-Tacrolimus: tacrolimus được phân lập từ vi khuẩn streptomycess
tukubaenis[5]. Thuốc ức chế chức năng calcineurin, ngăn chặn tổng hợp nhiều
cytokine tiền viêm, là những chất trong vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh
sinh bệnh vảy nến [82]. Đối với vảy nến, người ta ưu tiên dùng cho vùng mặt
và cho vảy nến trẻ em [82], [83].
1.1.4.2. Thuốc điều trị toàn thân
Thuốc được chỉ định cho vảy nến mức độ vừa và nặng. Tuy nhiên các
bệnh nhân mức độ nhẹ nhưng có tổn thương da đầu, mặt, tay, móng và vảy
nến không kiểm soát được bằng thuốc tại chỗ hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng
đến chất lượng cuộc sống thì cân nhắc dùng thuốc toàn thân [76].
- Retinoid và các dẫn xuất: trong điều trị vảy nến Retinoid được sử dụng
dưới dạng Etretinat (thời gian bán hủy dài) và Acitretin (thời gian bán hủy
24
ngắn). Retinoid ức chế miễn dịch và chống thâm nhiễm tế bào viêm biều bì
vảy nến bằng cách ức chế tăng sinh tế bào lympho T hoạt hóa và ức chế hóa
ứng động BCĐNTT, giảm trình diện kháng nguyên của tế bào Langerhans
cho tế bào Lympho T, ức chế biểu lộ HLA lớp II của tế bào keratin, điều hòa
tăng trưởng và biệt hóa tế bào keratin. [5], [84], [85]. Liều acitetrin khởi đầu
là 10-25mg/ngày, tăng dần liều mỗi 2 tuần cho đến khi có tác dụng phụ viêm
môi và khô da xuất hiên, liều tối ưu là 0,3-0,5 mg/kg/ngày [86].
- Methotrexate: là một thuốc kháng chuyển hóa, kháng Acid folic, làm
chậm tổng hợp DNA và gần đây thấy tác dụng chống viêm rất tốt và điều biến
miễn dịch [9],[87]. Theo khuyến cáo của Hội Da liễu Châu Âu (2015) dùng
MTX với liều khởi đầu là 15 mg/ tuần và tuỳ thuộc vào từng bệnh nhân liều
dao động từ 15-25 mg/ tuần [88]. Có thể tăng đến 37,5 mg/ tuần, chia làm 3
lần cách nhau 12 giờ (trong 36 giờ dùng hết liều thuốc) [84]. Những tác dụng
ngoài ý muốn hay gặp của MTX như: ỉa chảy, buồn nôn, khó chịu dạ dày, suy
tuỷ cấp, độc với máu và gan (dùng dài ngày) và ít gặp hơn như: đau đầu, nôn
mửa, cảm giác mệt mỏi... [9], [84], [87].
- Cyclosporin: trình bày ở phần sau
- Các thuốc sinh học:
+ Thuốc ức chế TNF-α
Infliximab: là một kháng thể đơn dòng ức chế đặc hiệu TNF-α, được
sản xuất theo phương pháp sinh học từ kháng thể người và chuột [84],[89].
Khi Infliximab vào cơ thể, nó gắn với phân tử TNF-α trong máu và tổ chức
người bệnh, không cho TNF-α gắn với thụ thể TNF-α hoạt động. Kết quả là
TNF-α không kích thích các tế bào sản sinh cytokine tiền viêm [84], [89].
Chỉ định: Vảy nến mảng mức độ vừa, nặng và vảy nến khớp [89]. Liều dùng:
5mg/kg cân nặng bằng đường truyền tĩnh mạch tại tuần 0-2-6 và tiếp theo mỗi
6-8 tuần. Liều và thời gian có thể điều chỉnh [84].
25
Etanercept: là protein hỗn dịch receptor TNF người tái tổ hợp, nó ức
chế hoàn toàn và có hiệu quả với TNF nội sinh bằng cách tương tác với các
receptor bề mặt tế bào. Đây là protein hỗn dịch đối xứng, trung hòa hai phân
tử TNF-α hoặc TNF-β/lymphotoxin [84], [90]. Etanercept được chỉ định điều
trị cho các trường hợp vảy nến mảng mức độ vừa, nặng, vảy nến khớp, viêm
đa khớp dạng thấp, viêm khớp vị thành niên và viêm cột sống dính khớp [90].
Liều dùng: 50mg/2 lần/tuần/tiêm dưới da trong 3 tháng sau đó giảm liều
50mg/ 1 lần/tuần [84].
Adalimumab: là kháng thể đơn dòng đặc hiệu với TNF-α, ngăn cản
TNF-α gắn vào các receptor [84]. Adalimumab đã được FDA (Cơ quan Dược
phẩm-thực phẩm Hoa Kỳ) và EMA (Cơ quan Dược phẩm Châu Âu) công
nhận để điều trị viêm khớp dạng thấp và viêm khớp vảy nến[91].
Adalimumab được chỉ định điều trị vảy nến khớp, vảy nến thông thường vừa,
nặng [91], [92]. Liều dùng: 80mg/tuần 1, 40 mg/tuần các tuần tiếp theo.
Thuốc dùng đường tiêm dưới da [84].
+ Thuốc ức chế cytokine
Thuốc ức chế IL-12, IL-23: ustekinumab (Stelara). Năm 2009, FDA
(Cơ quan Dược phẩm-thực phẩm Hoa Kỳ) chấp nhận Ustekinumab là thuốc
điều trị vảy nến mảng, đạt hiệu quả cao trong các trường hợp mức độ vừa và
nặng. Ustekinumab là kháng thể đơn dòng ngăn ngừa IL-12, IL-23 gắn vào
phức hợp receptor trên bề mặt tế bào đích, vì vậy nó chẹn được các cytokine
theo con đường Th1 (IL-12) và Th17 (IL-23) [93], [94]. Liều dùng: khởi đầu
45 mg cho bệnh nhân dưới 100 kg và 90 mg cho bệnh nhân trên 100 kg trọng
lượng, tiêm dưới da, tiếp theo liều tại tuần thứ 4 và tiếp theo liều cho mỗi 12
tuần. Tăng liều khi tới mỗi một 8 tuần ở nhóm bệnh nhân dùng liều 90 mg mà
không đạt PASI-75 tại 28 tuần [9], [93], [94].
26
Thuốc ức chế IL-17 : secukinumab là kháng thể đơn dòng tái tổ hợp, nó
gắn chọn lọc và trung hoà cytokine tiền viêm IL-17A và ức chế hoạt động của
IL-17A với thụ thể IL-17A. Từ đó ức chế giải phóng các cytokine tiền viêm,
chemokine và các chất trung gian của các mô bị tổn thương làm giảm sự tham
gia qua trung gian IL-17A, do đó làm giảm các dát đỏ, giảm thâm nhiễm và
bong vảy ở các tổn thương vảy nến mảng. Liều khuyến cáo cho vảy nến mảng
là 300 mg tiêm dưới da tại tuần 0, 1, 2, 3 và 4 (liều dẫn nhập) và cứ mỗi 4
tuần/ lần (liều duy trì) [95].
+ Thuốc tác động trên tế bào lympho T
Alefacept : ức chế tăng sinh và hoạt hóa tế bào lympho T bằng cách ức
chế tương tác giữa LFA-3 và CD2, giảm số lượng tế bào lympho T qua mối
liên quan giữa tế bào lympho T và tế bào giết tự nhiên (NK) [84], [96].
Alefacept điều trị vảy nến mức độ vừa và nặng. Liều trung bình 15 mg/tuần
(tiêm bắp) trong 12 tuần liền, nếu điều trị 2 đợt phải nghỉ 12 tuần [84], [96].
Efalizumab : là một kháng thể đơn dòng IgG1 trực tiếp chống lại
CD11a trong LFA-1. LFA-1 nằm trong tế bào lympho T, có chức năng như
một phân tử kết dính. LFA-1 gồm hai bán đơn vị CD18 và CD11a, đóng vai
trò chủ chốt trong việc bắt giữ tế bào lympho T, keratin và tế bào nội mạc.
Efalizumab ngăn cản sự kết hợp giữa LFA-1 với ICAM-1 do tác động tực tiếp
lên LFA-1. Từ đó ngăn chặn tín hiệu đến LFA-1 [9], [84]. Efalizumab được
FDA công nhận điều trị bệnh vảy nến từ tháng 10/2003 [84], [97]. Liều khởi
đầu của Efalizumab là 0,7mg/kg, sau đó tiếp tục liều 1mg/kg/tuần. Tiêm dưới
da 1 lần/tuần [84], [97].
+ Các thuốc phân tử nhỏ:
Apremilast: là chất ức chế đặc hiệu phân tử nhỏ của phosphodiesterase
4 (PDE4), hoạt động nội bào để điều chỉnh sản xuất chất trung gian tiền viêm
27
và chống viêm. Đang được nghiên cứu pha 3 với liều 30mg trong 12 tuần có
hiệu quả tốt [98].
Baricitinib: là thuốc ức chế janus kinase (JAK1 và JAK2). Sau 12 tuần
điều trị baricitinib cho bệnh nhân vảy nến mức độ vừa và nặng, tình trạng da
được cải thiện đáng kể [99].
- Liệu pháp quang và quang hoá trị liệu:
+ Quang trị liệu (Phototherapy): đến nay được sử dụng nhiều nhất là
UVB, đặc biệt là UVB dải hẹp (UVB: 311nm), rất có hiệu quả trong điều trị
vảy nến. UVB có tác dụng ức chế tăng sinh biểu bì, cảm ứng tế bào lympho T
ức chế, giảm số lượng và giảm khả năng trình diện kháng nguyên của tế bào
Langerhans, tác động lên tế bào keratin (điều hòa tiết IL-1, IL-6, PG-E2,
TNF-𝛼…) [5]. UVB có thể dùng đơn độc hoặc thường được dùng phối hợp
với các thuốc như methotrexate, retinoid để đạt hiệu quả tốt [5].
+Quang hóa trị liệu (Photochemotherapy): PUVA có tác dụng ức chế
tổng hợp DNA, giảm số lượng và giảm hoạt hóa Lympho T, ức chế biểu lộ
HLA-DR của tế bào sừng, hiệu quả chống phân bào, làm sạch tổn thương
nhanh chóng, có hiệu lực trong giai đoạn vượng bệnh và tái phát bệnh [5].
PUVA được chỉ định điều trị cho các trường hợp vảy nến mức độ nặng, khó
điều trị, vảy nến thể mảng không đáp ứng với các phương pháp điều trị thông
thường, vảy nến lòng bàn tay, chân đáp ứng tốt với điều trị PUVA-Acitriene
[5].
1.2. Vai trò của cytokine trong bệnh sinh bệnh vảy nến thông thường
Cytokine là những protein sinh học, trọng lượng phân tử thấp, do các tế
bào miễn dịch tạo ra, tham gia vào quá trình biệt hoá tế bào, điều hoà đáp ứng
miễn dịch và viêm. Đáp ứng qua trung gian cytokine là một quá trình phức
tạp, có sự tham gia của nhiều thành phần, sự cần thiết của cơ chế bảo vệ tự
nhiên của cơ thể, nhưng khi sản xuất quá mức các cytokine trong da và huyết
28
thanh đã dẫn đến tăng sinh, biệt hoá các tế bào keratine cũng như các tế bào
miễn dịch gây nên tổn thương bệnh vảy nến [100], [101]. Cytokine được
nhiều tế bào sản xuất (tế bào đuôi gai, Langerhans, Th1, Th2, Th17…) bao
gồm IL-1, IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-15, IL-17, IL-18, IL-22, IL-
23, TNF-𝛼, IFN-𝛾 [101].
(Nguồn: Goldsmith LA và cs; Fitzpatrick’s Dermatology in General Medicine, 8th Edition.)
Hình 1.6. Mạng lưới cytokine trong bệnh vảy nến
- Interferon- 𝛾 (IFN-𝛾): là interferon týp II, receptor của nó nằm trên bề
mặt của rất nhiều tế bào nhưng biểu hiện của nó khác nhau trên các tế bào
[102]. IFN-𝛾 được tiết ra bởi các tế bào Th1, tế bào tua và tế bào NK [101].
IFN-𝛾 là yếu tố rất quan trọng, đặc biệt xuất hiện trong giai đoạn sớm của
bệnh làm tăng số lượng các tế bào miễn dịch di chuyển đến da, ảnh hưởng đến
đáp ứng miễn dịch, điều chỉnh hoạt hoá tế bào, tăng sản và biệt hoá tế bào T,
B, đại thực bào, tế bào NK, nguyên bào sợi, tế bào nội mạch. IFN-𝛾 kích thích
sản xuất nhiều yếu tố tiền viêm như IL-1, IL-6, IL-8, IL-12, IL-15, TNF-𝛼.
IFN-𝛾 còn kích thích tế bào tua sản xuất IL-1, IL-23, IL-23 kích thích Th17,
Th22 sản xuất IL-17, IL-22 [102]. Nó còn ức chế quá trình chết theo chương
trình của tế bào biểu mô sừng, kích thích tăng sản các tế bào thượng bì. IL-2
tiết ra từ tế bào lympho T, IL-12 tiết ra từ tế bào Langerhans điều chỉnh các
29
bản sao IFN-𝛾 cũng như TNF-𝛼. IL-2 còn chịu trách nhiệm cho quá trình biệt
hoá, tăng sản và trưởng thành của các tế bào lympho T hiệu quả (T effector).
IL-18 làm tăng kết dính tế bào và giải phóng IFN-𝛾 [101]. Nhiều nghiên cứu
thấy rằng nồng độ IFN-𝛾 tăng trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến và liên
quan đến mức độ bệnh [103]. Tiêm IFN-𝛾 vào da bệnh nhân gây được thương
tổn vảy nến tại nơi tiêm [9].
- Yếu tố hoại tử u (TNF-𝛼: Tumor necrosis factor): TNF-𝛼, một cytokine
của Th1 và Th17, ảnh hưởng đến quá trình tăng sản, hoạt hoá và biệt hoá một
số dạng tế bào, kích thích chết theo chương trình, tăng tổng hợp một số
cytokine như IL-1, IL-6, yếu tố ức chế bạch cầu (LIF), và hoạt động của các
phân tử kết dính ICAM-1 [101]. TNF-𝛼 kích thích các tế bào trình diện KN
(APCs) tiết ra IL-23 và đáp ứng của Th17 [102]. TNF-𝛼 chủ yếu làm tăng sản
các tế bào lympho tại chỗ, thúc đẩy thâm nhiễm tế bào lympho T và các tế
bào viêm khác. TNF-𝛼 còn làm tăng biểu đạt IL-8, làm tăng hoá ứng động
bạch cầu tới ổ viêm, cùng với IFN-𝛾 làm tăng biểu đạt các phân tử kết dính
ICAM-1 [101]. Đại thực bào trung bì, lympho T, keratinocyte, tế bào
Langerhans là nguồn quan trọng tiết ra TNF-𝛼 trong da vảy nến [101]. Nhiều
nghiên cứu thấy rằng nồng độ TNF-𝛼 tăng trong huyết thanh bệnh nhân vảy
nến và có sự tương quan với mức độ bệnh. Khi điều trị thành công bằng
PUVA, UVB với bôi tại chỗ Corticoid thì TNF-𝛼 đều giảm ở cả huyết thanh
và tổn thương vảy nến, nhưng điều trị với cyclosporine A, acitretin không làm
thay đổi nồng độ TNF-𝛼 [102].
- IL-23: IL-23 được tế bào tua, đại thực bào sản xuất ra, IL-23 hoạt hoá,
kích thích sự tăng sản và kéo dài thời gian tồn tại của Th17, thúc đẩy sản xuất
các cytokine IL-17A, IL-22 và cytokine IL-23/IL-17 là chìa khoá trong bệnh
lý vảy nến. Mặt khác IL-23 làm tăng cường đáp ứng miễn dịch týp I ở da, gây
ra hiện tượng tăng gai và thâm nhiễm tế bào viêm ở trung bì. Cytokine này
30
còn có khả năng kích thích TNF-𝛼 làm tăng biểu đạt trong đại thực bào. Có
sự gia tăng Il -23 và receptor của nó tại da tổn thương [101]. Nồng độ
cytokine này giảm xuống khi bệnh nhân được điều trị bằng UVB, PUVA,
etanercept, alefacept. Khi IL-23 kích thích IL-22, TNF-𝛼 đây được cho là
nguyên nhân khởi phát vảy nến. Mặt khác IL-22 có thể gây ra các đặc điểm
bệnh lý ở da bệnh nhân vảy nến khi nuôi cấy, điều này gợi ý rằng IL-23 là
một đích thích hợp trong điều trị bệnh vảy nến. Thật vậy trục IL-23/Th17
được cho là đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bênh sinh bệnh vảy nến, ức
chế trục này đạt được thành công trong điều trị. Điều này càng được củng cố
bằng sự liên quan giữa các biến thể gen IL-23R với nguy cơ gây bệnh vảy nến
và điều trị thành công bệnh vảy nến bằng các kháng thể đơn dòng gắn với
dưới nhóm p30 của IL-23 và IL-12. Hơn nưã dựa vào trục IL-23/Th17 giải
thích được hiện tượng tăng sản các tế bào thượng bì trong vảy nến (gây bởi
IL-22), thâm nhiễm tế bào viêm (IL-17) [101].
- IL-17: tế bào Th17 sản xuất ra IL-17, IL-17 có 6 loại được đặt tên từ
IL-17A đến IL-17F, trong đó IL-17A là một thành phần quan trọng hình thành
và duy trì quá trình viêm, do IL-17A kích thích tế bào nội mạc và đại thực bào
sản xuất ra các cytokine tiền viêm khác [69], [74]. Nồng độ IL-17 tăng cao
trong huyết thanh bệnh nhân và tại da tổn thương, liên quan với mức độ bệnh
[101].
- IL-22: là một cytokine họ IL-10, chất trung gian điều hành giữa hệ
miễn dịch và các tế bào thượng bì, làm tăng sản các tế bào thượng bì, gây ra
những đáp ứng tiền viêm như sản xuất ra các cytokine, chemokine, protein
pha cấp…IL-22 được xem là cytokine của Th17. Tuy nhiên, những nghiên
cứu gần đây cho rằng Th22 cũng sản xuất ra IL-22 [101]. Sự hoạt hoá IL-22
không cần TGF–𝛽, mặc dù IL-6, IL-23 kích thích sản xuất IL-22 trong thực
nghiệm, dường như chỉ có IL-23 là không thể thiếu để hoạt hoá IL-22 trong
31
cơ thể. Bởi vậy số lượng IL-22 phụ thuộc trực tiếp vào số lượng IL-23. IL-22
gây ra tăng gai, IL-23 gây viêm ở trung bì, điều này gợi ý mối quan hệ giữa
hai cytokine này. Nồng độ IL-22 tăng cao trong huyết thanh bệnh nhân và liên
quan đến mức độ bệnh, gợi ý IL-22 đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh
sinh bệnh vảy nến. IL-22 đại diện cho mối liên hệ giữa IL-23 với hoạt hoá và
tăng sản tế bào thượng bì. Thực vậy, khi phong toả IL-22 hoặc do thiếu hụt di
truyền thì thấy giảm quá trình tăng sản các tế bào gây bởi IL-23 [101].
- IL-20: giống với IL-22 về cấu trúc, được sản xuất bởi tế bào keratin
với sự có mặt của IL-22, bạch cầu đơn nhân và tế bào đuôi gai. IL-20 tăng cả
trong tổn thương da và huyết thanh bệnh nhân vảy nến. Trong máu IL-20 liên
quan với mức độ bệnh [102].
- IL-15: là một cytokine giống IL-2 là một cytokine tiền viêm. IL-15
tăng kích hoạt tế bào T và một số tế bào khác gây sản xuất TNF-𝛼, IFN-𝛾, IL-
17, gây hình thành mạch và kích hoạt tế bào keratin [102].
- IL -12: IL-12, IL-23 tăng ở tổn thương vảy nến, có tác dụng thúc đẩy
và duy trì Th1 sản xuất ra IFN-𝛽, cũng là cytokine chủ yếu tham gia vào quá
trình sinh bệnh học bệnh vảy nến [9], [71]. Căn cứ vào cơ chế bệnh sinh bệnh
vảy nến người ta đã sản xuất ra các chế phẩm sinh học, là những kháng thể
đơn dòng, đối kháng IL-12, IL-23 điều trị bệnh vảy nến đạt hiệu quả cao. Đó
là Ustekinumab (Stelara), kháng thể đơn dòng đối kháng IL -12, IL -23, nó
gắn với p40 ở cả IL-12 và IL-23; ngăn cản những cytokine này gắn vào bề
mặt tế bào T, đưa đến ngăn cản quá trình viêm trong bệnh vảy nến [9],[101].
- IL-10: có tác dụng ức chế sản xuất cytokine của Th1 (IL-2 và
IFN−𝛾), ức chế tế bào trình diện KN hoạt hoá, tăng sản xuất cytokine của
Th2 như IL-4, IL-5, IL-10… Người ta sử dụng IL-10 với liều 8µg/kg/ngày
tiêm dưới da điều trị bệnh vảy nến thấy có hiệu quả [5].
- IL-8: trong bệnh vảy nến các tế bào biểu mô sừng tiết ra IL-8 làm di
32
chuyển và thoái hoá bạch cầu hạt. IL-8 hoạt hoá làm di chuyển các tế bào
lympho T, NK và bạch cầu. Ngoài ra IL-8 có vai trò quan trọng trong kết dính
tế bào, thúc đẩy tăng sinh tế bào keratin, tân tạo mạch [101]. IL-8 tăng trong
huyết thanh bệnh nhân vảy nến và có liên quan với mức độ bệnh [103].
- IL-6: kích thích sự tăng sinh và biệt hoá các lympho T, là yếu tố biệt
hoá tế bào B thành tương bào sản xuất kháng thể, thúc đẩy tăng sinh tế bào
sừng và lympho T hoạt hoá ở bệnh vảy nến [5],[104]. Góp phần vào sự tham
gia của các dòng tế bào Th17 trong nhiều tiến trình viêm và tự miễn bằng
cách ngăn chặn sự gia tăng của các tế bào Tr (T điều hoà) [105]. IL-6 tăng
trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến tiến triển và cũng tăng đồng thời tại da
vẩy nến [103].
- IL-4: là yếu tố phát triển lympho B (BCGF), giúp tạo ra quần thể
lympho B để sinh kháng thể đặc hiệu [5].
- IL-2: được tiết ra từ các tế bào NK, Th1. Nó là yếu tố quan trọng
trong sự biệt hoá, tăng sinh và tăng trưởng tế bào T để trở thành Th1, Th2,
Th17, Th22 và kích thích hoạt động tế bào NK, tăng cường hoá ứng động
bạch cầu và gây ngứa [102]. Các nghiên cứu trong cơ thể và thực nghiệm đều
cho thấy IL-2 tăng trong các tổn thương bệnh vảy nến [5]. Thông qua IL-2 do
TCD4 hoạt hoá tiết ra giúp TCD8 gây độc cho tế bào đích [102].
33
IL-2 Ngứa
IL-17, IL-6, IL-22, IL-23, IL-20, IL-15, TGF-β Tăng gai
IL-23, IL-22, IL-20 Á Sừng
IL-23, IL-22, IL-17 Tăng sừng
IL-15, TGF-β, IL-20, IL-6 Tăng sinh mạch
IL-17, IL-20, IL-22 Hàng rào bảo vệ vi sinh vật
IL-17, IL-6, IL-15, IL-20, IL-20, TGF-β Hóa ứng động bạch cầu
IL-6, IL-17, IL-23, IL-22, IL-15, IL-20 Viêm thượng bì và trung bì
(Nguồn: Stoma AM và cs (2011), Cytokine network in psoriasis revisited. Eur.Cytokin
Netw, 22(4):160-168) [102].
Sơ đồ 1.1. Ảnh hưởng của các Cytokine đến đặc điểm bệnh vảy nến
1.3. Điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng CyA (Cyclosporin A)
1.3.1. Cấu trúc hoá học của CyA
Cyclosporin là một polypeptid vòng có phân tử lượng thấp, được chiết
xuất từ nấm. Phân tử cyclosporin có 11 amino acid và có trọng lượng phân tử
1203 Da. Cyclosporin trung tính và không hòa tan trong nước, nhưng hòa tan
trong các dung môi hữu cơ và lipid. Amino acid ở các vị trí 11, 1, 2, và 3 là
các vị trí hoạt động ức chế miễn dịch. Cấu trúc vòng của thuốc cần thiết cho
tác dụng ức chế miễn dịch của thuốc [5], [106], [107]. Trong da liễu, CyA đã
được sử dụng để điều trị những bệnh khó khăn như: lupus ban đỏ hệ thống,
viêm da cơ địa dị ứng, viêm da cơ, lichen phẳng, bệnh rụng tóc (pelade). Tuy
nhiên tác dụng ngoạn mục nhất của CyA là bệnh vảy nến mảng mạn nặng.
Đầu tiên do tình cờ 4 bệnh nhân sạch tổn thương vảy nến khi điều trị CyA do
viêm khớp dạng thấp được công bố năm 1979. Những năm sau đó nhiều
nghiên cứu được công bố chứng minh hiệu quả của CyA trong điều trị bệnh
vảy nến [5].
34
1.3.2. Cơ chế tác dụng của CyA
CyA tác động lên nhiều loại tế bào nhưng tác dụng mạnh nhất của nó là
trên chức năng tế bào lympho T (TCD4 +) [9], [108]:
+ Ức chế hoạt hoá các tế bào lympho T (chủ yếu TCD4 +) ở mức mã hoá
ARN thông tin của một số lymphokin nhất là IL-2, IL-4, IFN-𝛾 và GM-CSF
là những cytokine chịu trách nhiệm hoạt hoá tế bào bạch cầu đơn nhân, đại
thực bào. Tác dụng miễn dịch này thông qua một thụ thể nội bào được gọi là
cytophilin. Phức hợp cyclosporine–cyclophilin gắn với calcineurin đưa đến ức
chế phosphatase, ngăn cản sự cuộn lại và truyền tín hiệu cho hoạt hoá gen IL-
2 trong nhân tế bào đưa đến ức chế hoạt hoá IL-2. Vì vậy, IL-2 và thụ thể IL-
2 trên TCD4 đều giảm dưới tác dụng của CyA trong bệnh vảy nến.
+ Ức chế hoá ứng động bạch cầu đa nhân trung tính: CyA ức chế hoá
ứng động bạch cầu đa nhân trung tính, nhưng không ức chế khả năng thực bào
của chúng.
+ Tác dụng trên tế bào keratin: CyA ức chế trực tiếp tế bào sừng nuôi
cấy ở giai đoạn G1 nhưng phải nồng độ cao hơn nồng độ ức chế tăng sinh
lympho T. Trên thực tế điều trị bệnh nhân vảy nến không thể được vì phải
dùng liều 14 mg/kg/ngày mới có hiệu quả này. Trên bệnh nhân điều trị bằng
CyA cũng không làm giảm IL-6, TGF-alpha có ở mảng vảy nến. Như vậy
thực tế CyA không có tác dụng trực tiếp ức chế tăng sinh của tế bào keratin.
+ Ức chế trình diễn KN của tế bào Langerhans ở nuôi cấy và ở bệnh
nhân vảy nến. Như vậy CyA dùng cho bệnh nhân vảy nến chắc chắn có hiệu
quả là do CyA làm giảm hoạt hoá tế bào lympho T, phối hợp với sự giảm sản
xuất các cytokine (EGF, TGF-alpha… và IFN-𝛾) cũng như bằng việc giảm
trình diễn kháng nguyên của tế bào Langerhans và không phải tác dụng trực
tiếp lên tế bào keratin. Đồng thời CyA còn ức chế hoá ứng động bạch cầu đa
nhân trung tính nhưng không ức chế hoạt tính thực bào của chúng.
35
1.3.3. Cách sử dụng của CyA
* Chỉ định:
Vảy nến thông thường vừa, nặng; vảy nến điều trị bằng phương pháp
khác thất bại như bằng PUVA, MTX … [109], [110].
* Chống chỉ định:
Các bệnh gây tăng creatinin huyết thanh (viêm cầu thận mạn, suy
thận...), tăng huyết áp, có tiền sử ung thư và có các bệnh suy giảm miễn dịch,
bệnh nhiễm trùng nặng [9].
* Liều dùng:
- Liều khởi đầu: 2,5-3 mg/kg/ngày, chia 2 lần sáng tối [24], [109].
- Đáp ứng lâm sàng thường đạt được sau 4 tuần điều trị, hiệu quả tối đa
thấy được ở tuần thứ 8-16. Nếu bệnh nhân không đáp ứng với điều trị ban đầu
sau 4-6 tuần có thể tăng thêm 0,5 mg/kg/ngày mỗi tháng cho tới khi đạt liều
có hiệu quả (tối đa 5mg/kg/ngày) [109]. Nên ngưng điều trị khi dùng liều 5
mg/kg/ngày sau 4 tuần lâm sàng không cải thiện [24]. Khi đạt được đáp ứng
tốt có thể ngừng thuốc và dùng lại khi bệnh tái phát với liều hiệu dụng trước
đó [109]. Cyclosporin A được sử dụng như một liệu pháp điều trị ngắn hạn từ
2-4 tháng (tuần thứ 10-16). Quá trình điều trị có thể được lặp lại ở khoảng
thời gian tương tự hoặc dùng như liệu pháp dài ngày. Phác đồ điều trị dài
ngày liều khởi đầu 3-5 mg/kg/ngày, sau khi đạt được hiệu quả lâm sàng thì
giảm liều mỗi 2 tuần cho đến liều duy trì 0,5-3 mg/kg/ngày. Nếu tái phát thì
tăng liều lại [24]. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy dùng CyA liều 2,5-5
mg/kg/ngày trong vòng 12-16 tuần giảm nhanh bệnh ở 80-90% bệnh nhân
[109].
Liều khởi đầu: 2,5-3 mg/kg/ngày, chia 2 lần sáng tối [24], [86], [111].
* Tác dụng không mong muốn:
- Thận: gây rối loạn chức năng thận, trở về bình thường khi ngừng thuốc
36
và thay đổi cấu trúc thận nhân tạo. Phòng tổn thương thận bằng cách dùng
liều < 5mg/kg/ngày và phải giảm liều khi creatin tăng >30% so với trước điều
trị [9], [109].
- Tim mạch: tăng huyết áp là biến chứng có gặp. Khi có tăng huyết áp có
thể dùng hạ áp nhóm ức chế kênh canxi, không dùng thuốc lợi tiểu (gây tăng
rối loạn chức năng thận), ức chế 𝛽, và ngừng điều trị khi dùng thuốc hạ áp
không có kết quả. Tăng nhóm mỡ máu [9], [112], [113].
- Nhiễm khuẩn: khi dùng CyA dài ngày có thể gây nhiễm khuẩn như:
herpes simplex, zona và các nhiễm khuẩn da khác [9], [113].
- Các tác dụng khác: men gan tăng nhẹ, thiếu máu đẳng sắc, tăng nguy
cơ xuất hiện ung thư da, và một số biểu hiện toàn thân như: mệt mỏi, sút cân,
rối loạn tiêu hoá, đau đầu (các triệu chứng này thường liên quan đến liều) [9],
[109], [112], [113].
* Theo dõi điều trị CyA
- Khám toàn thân và da liễu [5].
- Định lượng creatinin huyết thanh trước khi bắt đầu điều trị, 1 lần/2 tuần
trong 3 tháng đầu, sau đó 1 lần/tháng. Khi điều trị duy trì định lượng 1 lần/2
tháng (liều 2,5 mg/kg/ngày), 1 lần/tháng (liều >2,5 mg/kg/ngày) [5], [88].
- Huyết áp đo 2 lần trước khi điều trị (đo 2 lần cách nhau 1h để khẳng
định huyết áp), 1 lần/2 tuần trong 3 tháng đầu, sau đó 1 lần/tháng nếu bệnh
nhân ổn định và ngừng thuốc khi điều trị thuốc hạ áp không kết quả [5].
- Xét nghiệm: mỡ máu, men gan, ... trước khi điều trị [5], [88].
1.4. Một số nghiên cứu thay đổi nồng độ cytokine và hiệu quả điều trị vảy
nến thông thường bằng CyA.
1.4.1. Trên thế giới
Kể từ khi nghiên cứu đầu tiên về các tác dụng trên lâm sàng của CyA
trong bệnh vảy nến được mô tả năm 1979 do Mueller và Herrman tiến hành,
37
đến nay một số lượng đáng kể dữ liệu lâm sàng đã được tích luỹ cho chúng ta
những thông tin quan trọng về hiệu quả, độ an toàn của CyA trong điều trị
bệnh vảy nến thông thường và không đáp ứng với các phương pháp điều trị
khác [114]. Năm 2001 Faerber L. và cs trong nghiên cứu phân tích gộp trên
579 bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng, trong nhóm 303 bệnh
nhân điều trị CyA với liều 2,5 mg/kg/ngày trong đó có 88 bệnh nhân cần nâng
lên liều 5mg/kg/ngày, sau 10-12 tuần thì PASI đạt được lần lượt là 69,8% và
71,5% [115]. Theo Colombo D. và cs (2010), nghiên cứu trên 193 bệnh nhân
vảy nến thông thường với khoảng liều CyA trung bình từ 1,5-3,1 mg/kg/ngày
trong tổng thời gian 14 tháng, ghi nhận kết quả 90% bệnh nhân đạt lui bệnh
trên lâm sàng, PASI giảm từ 23,31 xuống còn 5,64 [110]. Theo Okubo Y. và
cs (2011) tiến hành nghiên cứu 35 bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ
vừa-nặng với liều CyA 3 mg/kg/ngày nhận thấy 74% bệnh nhân đạt được lui
bệnh sau trung bình 101,5 ngày; mức PASI giảm từ 17,8 xuống 3,3 khi kết
thúc điều trị; 40% bệnh nhân không tái phát sau 6 tháng [116].
Tuy nhiên có rất ít dữ liệu về hiệu quả điều trị, tính an toàn khi sử dụng
CyA ở nhóm đối tượng là trẻ em và thiếu niên. Nghiên cứu của V Di Lernia
và cs (2015) trên 38 bệnh nhân vảy nến thông thường <17 tuổi, dùng CyA với
liều trung bình là 3,2 mg/kg/ngày (khoảng liều 2-5mg/kg/ngày), 15 bệnh nhân
(chiếm 39,4%) đạt được PASI ≥75% sau 16 tuần điều trị, 8 bệnh nhân (chiếm
21,05%) dừng điều trị do có những bất thường về xét nghiệm hoặc tác dụng
phụ. Không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào được ghi nhận [117]. Năm
2016, E Bulbul Baskan và cs khi nghiên cứu trên 22 bệnh nhân nhi bị vảy nến
thông thường mức độ nặng được điều trị bằng CyA với liều trung bình là
3,47±0,62 mg/kg/ngày nhận thấy có 17 bệnh nhân đáp ứng rất tốt, thời gian
trung bình để sạch tổn thương là 4 tuần [118].
Vì vậy các tác giả đưa ra kết luận rằng CyA có hiệu quả điều trị và dung
38
nạp tốt, nếu được theo dõi chặt chẽ các tác dụng phụ thì CyA có thể là một
biện pháp điều trị tối ưu thay thế cho các thuốc ức chế miễn dịch đường toàn
thân đang được sử dụng ở các bệnh nhân nhi bị vảy nến thông thường mức độ
nặng.
- Tác dụng của CyA lên sự thay đổi nồng độ các cytokine và các
“cytokine viêm” trong huyết thanh bệnh nhân vảy nến thông thường trước và
sau điều trị với những tài liệu chúng tôi tham khảo được không nhiều.
Haider A. và cs (2008) khi nghiên cứu hiệu quả của CyA trong điều trị
bệnh nhân vảy nến mức độ nặng cho thấy hiệu quả cải thiện tốt tình trạng
bệnh, cũng như tác dụng ức chế hoạt động của Th17 (IL-17, IL-22), IFN–
gamma. Do đó CyA có hiệu quả tốt trong điều trị bệnh vảy nến [119].
Nghiên cứu của Akcali C. và cs (2014) trên 21 bệnh nhân vảy nến mức
độ vừa đến nặng được điều trị bằng cyclosporin liều 3mg/kg/ngày trong 8
tuần cho thấy PASI từ 22,08±6,58 giảm còn 6,43±6,39 và nồng độ TNF-𝛼 từ
35,46±7,94 pg/ml giảm còn 9,60±0,67 pg/ml; IL-2 từ 23,24±9,02 pg/ml giảm
còn 5,67±2,85 pg/ml và kết luận CyA có hiệu quả trong điều trị vảy nến thông
thường mức độ vừa đến nặng [120].
2017, Ikonomidis I và cs nghiên cứu hiệu quả của thuốc ức chế IL12/23
(ustekinumab), ức chế TNF-𝛼 (entanercept) và CyA liên quan với chức năng
tim mạch ở bệnh nhân vảy nến cho thấy với liều CyA 2,5-3mg/kg/ngày trong
vòng 16 tuần, thì kết quả nồng độ IL-6, IL-17 giảm có ý nghĩa thống kê, cũng
như cải thiện chức năng tim mạch. Trong khi IL-10, IL-12, TNF-𝛼 thay đổi
chưa có sự khác biệt [121].
1.4.2. Việt Nam
Hiện tại chúng tôi chưa tham khảo được nhiều các nghiên cứu về hiệu
quả điều trị của CyA trong điều trị bệnh nhân vảy nến nói chung và bệnh vảy
nến thông thường nói riêng. Đào Thị Mai Hương (2017), điều trị 25 bệnh
39
nhân vảy nến đỏ da toàn thân bằng Cyclosporin A liều 200mg/ ngày, đến khi
PASI <50 giảm liều 0,5-1 mg/kg mỗi 2 tuần, theo dõi 3 tháng, kết quả chỉ số
PASI giảm 90,53%, tỷ lệ bệnh nhân đạt PASI-50, 75, 90 lần lượt là 96%,
96%, 4% và không gặp tác dụng phụ nào quá nghiêm trọng [122]. Hoàng Thị
Ngọc Lý (2012) điều trị 35 bệnh nhân vảy nến thông thường bằng
Cyclosporin liều 100 mg/ngày trong vòng 4 tuần cho kết quả PASI từ 25,09
còn 4,09 (giảm 83,7%), trong đó rất tốt 2,86%, tốt 91,42%, khá 2,86%, vừa
2,86%. Các xét nghiệm chức năng gan, thận và máu vẫn trong giới hạn bình
thường [5].
Nghiên cứu thay đổi nồng độ một số cytokine trước và sau điều trị bệnh
vảy nến thông thường với CyA, đến nay với các tài liệu chúng tôi tham khảo
được chưa có tác giải nào công bố.
Một số nghiên cứu về nồng độ các cytokine trong bệnh vảy nến thông
thường trước và sau điều trị với các phương pháp khác nhau. Phan Huy Thục
(2015), nghiên cứu nồng độ các cytokine (IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-
17, TNF-𝛼, IFN-𝛾) trước điều trị bệnh nhân vảy nến thông thường [123].
Phạm Diễm Thuý (2019), nghiên cứu sự thay đổi nồng độ một số cytokine
trước và sau điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng chiếu UVB-311nm kết
hợp uống Methotrexate liều thấp, sau 4 tuần điều trị nồng độ IL-2, IL-4, IL-8,
IL-10, IL-17, TNF-𝛼, IFN-𝛾 và GM-CSF huyết thanh chưa thay đổi nhưng
nồng độ IL-6 giảm rõ rệt [124].
40
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
130 bệnh nhân được chẩn đoán xác định bệnh vảy nến thông thường điều
trị ngoại trú tại phòng khám chuyên đề bệnh vảy nến - Bệnh viện da liễu
Trung ương từ tháng 10/2016-10/2019. Trong đó:
- Mục tiêu 1: 130 bệnh nhân được chẩn đoán xác định bệnh vảy nến
thông thường, để nghiên cứu một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng.
- Mục tiêu 2: 35 bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng (nhóm
nghiên cứu) và 44 người bình thường (nhóm đối chứng) tương đồng về tuổi,
giới với nhóm nghiên cứu để nghiên cứu thay đổi nồng độ một số cytokine
trước và sau điều trị bằng CyA.
- Mục tiêu 3: 35 bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng được
điều trị bằng CyA.
2.1.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán
- Lâm sàng: Vảy nến thể mảng, đồng tiền, chấm giọt (có các triệu chứng:
dát đỏ, bong vảy, giới hạn rõ với da lành [5], [28].
- Mô bệnh học: dày sừng, á sừng, mất lớp hạt, tăng gai, thâm nhiễm, có
các ổ áp xe Munro- Saboraud hay những xốp mủ Kogoj- Lapierre và thay đổi
mao mạch ở nhú bì (Khi lâm sàng không điển hình mới dùng chẩn đoán mô
bệnh học) [5], [26]. Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ làm mô bệnh học
những bệnh nhân lâm sàng chưa rõ ràng.
2.1.3. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
- Mục tiêu 1:
+ Bệnh nhân được chẩn đoán xác định bệnh vảy nến thông thường do
41
nghiên cứu sinh trực tiếp thăm khám điều trị ngoại trú tại phòng khám chuyên
đề bệnh vảy nến - Bệnh viện da liễu Trung ương từ tháng 10/2016-10/2019.
+ Đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Mục tiêu 2:
+ Nhóm nghiên cứu: Bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng trên
18 tuổi (cùng với nhóm nghiên cứu của mục tiêu 3). Không có chống chỉ định
dùng CyA (các bệnh lý gây tăng creatinine huyết thanh, tăng huyết áp, có tiền
sử ung thư và các bệnh suy giảm miễn dịch, bệnh nhiễm trùng nặng), đồng ý
tham gia nghiên cứu.
+ Nhóm đối chứng: Tương đồng về tuổi, giới và không có bệnh lý rối
loạn chuyển hoá, ung thư, bệnh lý tự miễn, nhiễm trùng. Lấy tại Bệnh viện đa
khoa 16A, qua khám sức khoẻ định kỳ. Người tham gia được giải thích rõ về
mục đích của việc tham gia nhóm đối chứng, và đồng ý tham gia.
- Mục tiêu 3:
+ Bệnh nhân vảy nến thể thông thường mức độ nặng trên 18 tuổi
+ Không có chống chỉ định dùng CyA
+ Đồng ý tham gia nghiên cứu
2.1.4. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân
- Mục tiêu 1: không đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Mục tiêu 2,3:
+ Bệnh nhân vảy nến thể thông thường mức độ nhẹ, vừa; < 18 tuổi.
+ Có chống chỉ định dùng CyA.
+ Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
+ Bệnh nhân đang sử dụng các thuốc đường toàn thân khác: MTX,
retinoid, thuốc chế phẩm sinh học trong vòng 1 tháng trở lại đây.
+ Bệnh nhân đang mắc các bệnh nhiễm trùng cấp và mạn tính
2.2. Vật liệu nghiên cứu
42
- Viên nén Neoral 25 mg, 100 mg do Novartis sản xuất
Hình 2.1. Thuốc Neoral
- Kem dưỡng ẩm Cetaphil do Gelderma sản xuất, phân phối bởi DSKH
Việt Nam
Hình 2.2. Kem dưỡng ẩm Cetaphil
- Hoá chất, sinh phẩm
+ Bộ kit và hoá chất xét nghiệm các cytokine (IL-2, IL-6, IL-8, IL-10,
IL-12, IL-17, TNF-𝛼, IFN-𝛾) do hãng Invitrogen (Mỹ) sản xuất.
43
Hình 2.3. Bộ kít xét nghiệm cytokine
44
Hình 2.4. Hệ thống máy Luminex
+ Hỗn hợp với số lượng bằng nhau các loại hạt nhựa khác nhau, mỗi loại
được gắn lên bề mặt một trong các loại kháng thể đơn clon khác nhau đặc
hiệu với các cytokine của người, yếu tố kích thích tạo colony các tế bào đơn
nhân và tế bào hạt, interferon gamma, yếu tố hoại tử u alpha.
+ Hỗn hợp kháng thể phát hiện chứa các kháng thể đơn clôn đặc hiệu với
các cytokin đã gắn biotin.
+ Phức hợp chất huỳnh quang PE gắn streptavidin.
+ Hỗn hợp chuẩn gồm 27 cytokin của người với nồng độ đã biết.
+ Các dung dịch pha mẫu, dung dịch pha sinh phẩm, dung dịch rửa, dung
dịch chạy máy do Invitrogen sản xuất và cung cấp
+ Hệ thống máy Luminex
+ Các vật liệu và thiết bị labo phụ trợ khác như máy lắc, máy hút chân
không, các loại pipet, giấy bạc, giấy thấm, nước cất, ống nghiệm đều đạt tiêu
chuẩn quốc tế được cung cấp từ chính hãng sản xuất.
45
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng
- Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, tiến cứu.
- Cỡ mẫu: Chọn mẫu thuận tiện: bệnh nhân vảy nến thông thường do
nghiên cứu sinh trực tiếp thăm khám điều trị ngoại trú tại phòng khám chuyền
đề bệnh vảy nến - Bệnh viện da liễu Trung ương.
- Bước tiến hành:
+ Khám chọn bệnh nhân tham gia nghiên cứu: khám lâm sàng, đánh giá
tổn thương và phân loại mức độ bệnh bằng PASI.
+ Thu thập số liệu (theo mẫu bệnh án nghiên cứu):
∙ Mã bệnh nhân, thông tin về đặc điểm đối tượng nghiên cứu: tuổi, giới,
nghề nghiệp, địa dư, thời gian khởi phát, thời gian bị bệnh…
∙ Đặc điểm lâm sàng: Lý do vào viện, vị trí tổn thương đầu tiên, vị trí tổn
thương hiện tại, tổn thương phối hợp, mức độ bệnh.
∙ Thể lâm sàng: vảy nến thể thông thường.
∙ Các yếu tố liên quan: tiền sử gia đình, stress, thuốc, thức ăn, liên quan
đến mùa trong năm, bệnh kết hợp
+ Tổng hợp kết quả
2.3.2. Đánh giá thay đổi IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF-𝛂,
IFN-𝛄 của bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng trước và sau
điều trị bằng Cyclosporin A
- Thiết kế nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả cắt ngang, có đối chứng so sánh
- Cỡ mẫu: được tính theo công thức của Tổ chức Y tế Thế giới [125]:
2
[ Z(1-/2)√2P(1-P) + Zß√[P1(1-P1) + P2(1-P2)]
n1= n2=
2 (P1-P2)
46
n1: Cỡ mẫu nhóm nghiên cứu (NNC)
n2: Cỡ mẫu nhóm đối chứng (NĐC)
Z1 - 𝛼/2: Hệ số tin cậy 95% (= 1,96)
Z𝛽: Lực mẫu (= 1,645)
P1: Tỷ lệ bệnh nhân nhóm nghiên cứu có thay đổi: Ước lượng là 90%
P2: Tỷ lệ bệnh nhân nhóm đối chứng có thay đổi: Ước lượng là 50%
Tỷ lệ P ước lượng dựa theo nghiên cứu của Phạm Thuý Diễm [124]
P = P1 + P2/2=0,59+0,55=0,725
Kết quả tính toán cỡ mẫu nhóm n1 = n2 ≥ 30 bệnh nhân. Như vậy, mỗi nhóm
ít nhất phải là ≥ 30 bệnh nhân.
- Các bước tiến hành:
* Nhóm nghiên cứu (NNC):
+ Tuyển chọn bệnh nhân đủ tiêu chuẩn
+ Thu thập số liệu
+ Lấy máu xét nghiệm lần 1 (trước khi điều trị): 5 ml máu tĩnh mạch làm
xét nghiệm thường quy (CTM, AST, ALT, ure, creatinine, cholesteron,
triglycerid); ly tâm, lưu huyết thanh để xét nghiệm định lượng IL-2, IL-6, IL-
10, IL-12, IL-17, IFN-γ, TNF-α (để tủ đông -80 độ C liên tục cho đến khi làm
xét nghiệm) và mã hoá số bệnh nhân ghi lên mẫu và lưu sổ sách. Mẫu máu
làm xét nghiệm CTM được đựng trong ống có chất chống đông EDTA, máy
xét nghiệm DXH600. Mẫu máu làm xét nghiệm SHM được đựng trong ống
có chất chống đông Heparin, máy xét nghiệm AU680. Mẫu máu để tách huyết
thanh được đựng trong ống không có chất chống đông.
+ Tiến hành điều trị theo 10 tuần bằng CyA
+ Lấy máu xét nghiệm lần 2 (sau khi kết thúc điều trị 10 tuần điều trị):
lấy 5 ml máu tĩnh mạch làm xét nghiệm như lần 1.
47
+ Đánh giá kết quả:
Nồng độ các cytokine trước và sau điều trị.
So sánh nồng độ các cytokine nhóm nghiên cứu với nhóm đối chứng
* Nhóm đối chứng(NĐC):
+ Tương đồng về tuổi, giới với nhóm nghiên cứu
+ Lấy máu xét nghiệm miễn dịch 1 lần: 5 ml máu tĩnh mạch, ly tâm và
lưu huyết thanh để làm xét nghiệm định lượng IL-2, IL-6, IL-10, IL-12, IL-
17, IFN-γ, TNF-α. Lưu huyết thanh để tủ đông -80 độ C liên tục cho đến khi
làm xét nghiệm. Mã hoá mẫu và ghi chép lưu lại.
2.3.3. Nghiên cứu hiệu quả điều trị bệnh vảy nến thông thường mức độ
nặng bằng CyA
- Thiết kế nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng so sánh trước sau điều trị
- Cỡ mẫu: Như cỡ mẫu nhóm nghiên cứu của mục tiêu 2 là ≥30 bệnh
nhân vảy nến thông thường mức độ nặng.
- Các bước tiến hành:
+ Tuyển chọn bệnh nhân là nhóm nghiên cứu của mục tiêu 2
+ Điều trị CyA
Tiến hành điều trị với liều: 2,5-3mg/kg/ngày. Chia uống 2 lần sáng và tối
trước bữa ăn. Điều trị 10 tuần.
+ Bôi tổn thương bằng kem Cetaphil ngày 1 lần vào buổi sáng.
+ Đánh giá hiệu quả điều trị sau 5 tuần và sau 10 tuần điều trị bằng chỉ
số PASI (PASI giảm sau điều trị)
+ Đánh giá tác dụng không mong muốn: triệu chứng lâm sàng và xét
nghiệm chức năng gan, thận, lipid máu sau 5 tuần và sau 10 tuần điều trị.
∙ Lâm sàng: tăng huyết áp, mệt mỏi, đau đầu, sút cân …
∙ Thay đổi về xét nghiệm: AST, ALT, creatinine, cholesterol,
Triglyceride.
+ Đánh giá tái phát sau 10 tuần diều trị: Sau 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng.
Bệnh nhân được đánh giá tái phát khi chỉ số PASI >20% so với PASI thời
48
điểm ngừng điều trị [5].
2.3.4. Các kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu
2.3.4.1. Đánh giá mức độ bệnh và hiệu quả điều trị dựa theo chỉ số PASI
+ Đánh giá mức độ bệnh vảy nến thể thông thường dựa theo chỉ số PASI
(Psoriasis area and severity index): Mức độ nhẹ: PASI<10, Mức độ vừa: PASI
từ 10 đến dưới 20, mức độ nặng: PASI>=20 [5], [29], [30].
Cách tính chỉ số PASI: chỉ số diện tích và độ nặng của bệnh vảy nến
thông thường) [126]:
PASI= 0,1(E+I+D) Ah+0,2(E+I+D) Au+0,3(E+I+D) At+0,4(E+I+D) Al
Trong đó:
∙ Chỉ số vùng của cơ thể: 0,1+ 0,2+ 0,3+ 0,4 = 1
Đầu: 0,1 Chi trên: 0,2 Thân mình: 0,3 Chi dưới: 0,4
∙ Chỉ số độ nặng của tổn thương vảy nến cho từng vùng:
Đỏ da: Erythema (E)
Thâm nhiễm: Infiltration (I)
Vảy da: Desquamation (D)
Mỗi chỉ tiêu (E+I+D) được chia thành 5 mức độ tính theo điểm số là 0,
1, 2, 3, 4 tương ứng: không, nhẹ, vừa, nặng, rất nặng.
∙ Chỉ số diện tích tổn thương ở từng vùng cơ thể - Area (A):
Đầu: head (h)
Chi trên: upper limds (u)
Thân mình: trunk (t)
Chi dưới: lower limds (l)
Trong đó mỗi vùng được chia làm 7 mức độ tính theo điểm số từ 0-6 (0
điểm: 0%, 1 điểm: 1-9%, 2 điểm: 10-29%, 3 điểm: 30-49%, 4 điểm: 50-69%,
5 điểm: 70-89%, 6 điểm: 90-100%).
+ Đánh giá kết quả điều trị: hiệu quả lâm sàng được tính bằng phần trăm
giảm PASI theo công thức [5], [127]:
(PASI trước điều trị - PASI sau điều trị)/ PASI trước điều trị ´100
49
Dựa vào PASI giảm chia ra các mức độ:
Rất tốt: PASI giảm 100%
Tốt: PASI giảm ≥ 75%-99%
Khá: PASI giảm từ 50-< 75%
Trung bình: PASI giảm từ 25-<50%
Kém, không hiệu quả: PASI giảm <25%
2.3.4.1. Kỹ thuật định lượng cytokin trong huyết thanh
- Nguyên lý kỹ thuật xét nghiệm phát hiện cytokine: Sử dụng hệ thống
máy Luminex. Cytokine được phát hiện bằng phản ứng miễn dịch huỳnh
quang kiểu sandwich trên bề mặt của các vi hạt nhựa. Bề mặt của vi hạt được
gắn sẵn các phân tử kháng thể đơn clon đặc hiệu với một quyết định kháng
nguyên trên phân tử cytokine. Khi ủ mẫu xét nghiệm với hạt phủ kháng thể,
các phân tử cytokine sẽ bị kháng thể đặc hiệu bắt giữ và bám vào bề mặt hạt.
Sau đó kháng thể đơn clon thứ hai đặc hiệu với một quyết định kháng nguyên
khác của cytokine đã gắn biotin được thêm vào, tạo thành phức hợp miễn dịch
gồm hai phân tử cytokine kẹp giữa hai kháng thể đơn clon. Cuối cùng phức
hợp streptavidin-PE được thêm vào sẽ gắn vào kháng thể đơn clon qua tương
tác streptavidin-biotin. Dưới tác động của tia laser bước sóng tử ngoại PE sẽ
phát ra ánh sáng huỳnh quang chứng tỏ sự có mặt của cytokine trong mẫu xét
nghiệm. Lượng PE gắn vào tỷ lệ thuận với lượng kháng thể thứ hai hay lượng
kháng thể có trên bề mặt hạt nhựa. Dựa vào mật độ huỳnh quang phát ra từ
các hạt được ủ với những nồng độ cytokine đã biết cho phép định lượng
cytokine.
- Qui trình xét nghiệm định lượng cytokine: Lấy 3ml máu ly tâm tách
huyết thanh ở 4oC, tốc độ 4.000 vòng/phút trong 30 phút rồi chia đều vào 2
o ống eppendof loại 1,5 ml và bảo quản liên tục ở -80 C cho đến khi xét
nghiệm.
+ Qui trình bảo quản các cytokine: Sau khi ly tâm tách huyết thanh, chia
50
đều vào 2 ống eppendof loại 1,5 ml. Các ống eppendof được mã hóa theo
bệnh nhân, loại bỏ những mẫu huyết thanh có tan máu. Chuyển ngay các ống
o eppendof có huyết thanh bảo quản liên tục ở -80 C cho đến khi xét nghiệm.
Huyết thanh bảo quản tối đa 3 năm. Quá trình ly tâm tách huyết thanh và bảo
quản được tiến hành ở Khoa xét nghiệm- Bệnh viện Da liễu trung ương.
Chia đều 25 𝜇l hỗn hợp các hạt nhựa đã gắn kháng thể vào các giếng của
một microplate 96 giếng. Cho 50 𝜇l huyết thanh hoặc mẫu cytokine chuẩn đã
pha loãng bậc 2 với các nồng độ khác nhau đã biết vào các giếng và ủ trong
điều kiện lắc nhẹ bằng máy trong 30 phút tại nhiệt độ phòng. Rửa loại bỏ các
thành phần không bám vào hạt bằng phương pháp lọc qua màng lọc với máy
hút chân không.
Các giếng sau đó được cho 50 𝜇l hỗn hợp kháng thể đơn clon kháng
cytokine đã gắn biotin vào và ủ tiếp trong điều kiện như trên để hình thành
phức hợp miễn dịch kiểu sandwich. Sau khi rửa như mô tả ở trên thêm 50 𝜇l
dung dịch streptavidin-PE vào và ủ trong 15 phút cho gắn vào phức hợp miễn
dịch thông qua tương tác biotin-streptavidin. Sau khi rửa loại bỏ các phức hợp
streptavidin-PE tự do, các mẫu xét nghiệm được phân tích bằng hệ thống Bio
– Flex. Chủng loại hạt nhựa được xác định bởi tín hiệu huỳnh quang do hạt
nhựa phát ra.
- Đọc két quả: Mật độ huỳnh quang trung bình do các hạt nhựa cùng loại
phát ra được dùng để định lượng cytokine bằng cách so sánh với tín hiệu từ
các mẫu chuẩn phát ra. Đường chuẩn cho mỗi cytokine được xây dựng độc
lập dựa vào nồng độ đã biết của cytokine đó trong mẫu cytokine chuẩn.
Quy trình xét nghiệm định lượng các cytokine theo quy trình của nhà sản
xuất bộ kít xét nghiệm 13 cytokine của hãng Invitrogen (Mỹ).
- Nơi thực hiện: Bộ môn Miễn dịch-Học viện Quân Y.
51
2.3.5. Các chỉ số, biến số trong nghiên cứu
Tên biến số Khái niệm Loại biến Phương pháp
thu thập Công cụ
thu thập
Tuổi Phỏng vấn Phiếu hỏi Dựa trên năm sinh,
năm nghiên cứu
Giới Nam hay nữ Phỏng vấn Phiếu hỏi Biến tỷ
suất
Biến nhị
phân
Nghề nghiệp Phỏng vấn Phiếu hỏi Biến danh
mục
Phỏng vấn Phiếu hỏi Biến nhị
phân Tiền sử gia
đình
Phỏng vấn Phiếu hỏi Biến danh
mục Các yếu tố
khởi động
Phỏng vấn Phiếu hỏi Biến tỷ
suất Tuổi đời và
tuổi khởi
phát
Tuổi bệnh Phỏng vấn Phiếu hỏi
trên, chi Phỏng vấn Vị trí tổn
thương Công chức, hưu trí,
học sinh sinh viên,
công nhân, tự do …
Ông bà, bố mẹ, anh
chị em
Thức ăn, rượu bia,
stress, nhiễm khuẩn
khu trú, thuốc …
Tính theo năm dương
lịch, năm sinh và năm
nghiên cứu
Tính từ khi bị bệnh
đến năm nghiên cứu
Đầu, chi
dưới, thân mình …
Mức độ bệnh Nhẹ, vừa, nặng Biến tỷ
suất
Biến nhị
phân
Biến thứ
hạng Quan sát, khám
xét
theo
PASI:
vừa:10<20, Biến thứ
hạng Tổng điểm
triệu chứng Quan sát và
phóng vấn Khám
thực thể
Theo
PASI
Phiếu
đánh giá
PASI
Cận lâm sàng Quan sát Phiếu xét
nghiệm
Biến tỷ
suất
khoảng
chia Dựa
nhẹ<10,
nặng ≥ 20
AST, ALT,
ure,
creatinin, HC, BC, IL-
2, IL-12, IL-6, IL-8,
IL-10, IL-17…
Phiếu hỏi Đau đầu, mệt mỏi,
tăng huyết áp … Biến nhị
phân Tác dụng
không mong
muốn Khám lâm
sàng, phỏng
vấn
52
2.3.6. Phương pháp xử lý số liệu
Xử lý số liệu theo phương pháp toán thống kê y- sinh học. Cụ thể:
- Số liệu được thu thập, nhập vào máy tính, quản lý và xử lý theo chương
trình SPSS 20.0, Microsoft Excel 2010.
- Các thuật toán thống kê được sử dụng trong nghiên cứu:
+ Tính tỷ lệ phần trăm (%)
+ Tính giá trị trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn
- Kiểm định hai số trung bình quan sát bằng test-t Student có n bằng
X
X
-
2
1
nhau với cá dữ liệu có phân phối chuẩn.
2
2
2
+
SD
n
SD
1
n
1
2
Khi n1=n2 thì t =
- So sánh 2 số trung bình bằng test Mann-Whitney với các dữ liệu không
theo phân phối chuẩn
P > 0,05: độ tin cậy <95%
P < 0,05: độ tin cậy >95%
P< 0,01: độ tin cậy >99%
P < 0,001: độ tin cậy >99,9%
- So sánh kết quả nghiên cứu bằng c2= S(0-E)2/E
- Phân tích tương quan giữa các biến bằng Correlate Bivariate: với các
biến phân phối chuẩn sử dụng tương quan Pearson, với các biến phân phối
không chuẩn sử dụng tương quan Spearman.
Đánh giá:
p >0,05: sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
p <0,05: sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
- Mối tương quan r:
r >0: tương quan thuận;
r <0: tương quan nghịch
- Mức độ tương quan:
53
|r| ≥0,7: tương quan rất chặt chẽ
0,5 ≤ 𝑟 < 0,7: tương quan khá chặt chẽ
0,3 ≤ 𝑟 < 0,5: tương quan chặt chẽ
|r| < 0,3: tương quan lỏng lẻo
2.4. Địa điểm, thời gian
- Địa điểm:
+ Phòng khám chuyên đề bệnh vảy nến – Bệnh viện Da liễu trung ương.
+ Bộ môn Miễn Dịch – Học viện Quân y
+ Bệnh viện đa khoa 16A – Hà Đông, Hà Nội (Lấy nhóm đối chứng).
- Thời gian: 10/2016-10/2019
2.5. Đạo đức nghiên cứu
- Nghiên cứu được sự chấp thuận của Bệnh viện Da liễu Trung ương,
Bộ môn Miễn dịch-Học viện Quân y và sự động thuận của người bệnh.
- Bệnh nhân được giải thích rõ về mục đích, ý nghĩa của nghiên cứu và
tự nguyện tham gia nghiên cứu và được đơn phương dừng tham gia bất cứ lúc
nào, không có sự ép buộc.
- Các thông tin của bệnh nhân được bảo mật và chỉ phục vụ cho mục
đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu chỉ nhằm mục đích khoa học và không có mục đích nào
khác.
- Các bệnh nhân không tham gia nghiên cứu vẫn được khám, tư vấn điều
trị theo phương pháp khác.
2.6. Hạn chế đề tài
- Số lượng bệnh nhân điều trị chưa lớn, thời gian điều trị chưa dài.
- Không có nhóm đối chứng để so sánh điều trị trong mục tiêu 3.
54
130 Bệnh nhân vảy nến thông
thường
Yếu tố liên quan, đặc điểm lâm
sàng
44 người khỏe
35 bệnh nhân vảy nến thông
thường mức độ nặng
-XN th. quy
-XN cytokine lần 1
Điều trị bằng CyA 10 tuần
-XN th.qui
-XNcytokine lần 2
KẾT QUẢ:
- Yếu tố liên quan, đặc điểm lâm sàng
- Kết quả định lượng cytokine
- Kết quả điều trị bằng cyclosporine A SƠ ĐỒ THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Hình 2.5. SƠ ĐỒ NGHIÊN CỨU
55
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông
thường
3.1.1. Một số yếu tố liên quan đến bệnh vảy nến thông thường
3.1.1.1. Phân bố tuổi đời của bệnh vảy nến thông thường
Bảng 3.1. Phân bố bệnh nhân mắc vảy nến thông thường (VNTT) theo nhóm
tuổi (n=130)
Nhóm tuổi (tuổi) n %
9 6,92 <20
10 7,69 20-29
15 11,54 30-39
12 9,23 40-49
33 25,38 50-59
33 25,38 60-69
18 13,85 ≥70
130 100 Tổng
50,89 ± 17,86 𝑿± SD
Nhận xét: Tuổi từ 50-59 và 60-69 chiếm cao nhất 25,38%, tuổi < 20 là
thấp nhất 6,92%.
56
< 40 tuổi
>= 40 tuổi
53,08 %
46,92 %
3.1.1.2. Phân bố tuổi khởi phát trong bệnh vảy nến thông thường
Biểu đồ 3.1. Phân bố bệnh nhân mắc VNTT theo tuổi khởi phát (n=130)
Nhận xét: Tuổi khởi phát < 40 tuổi chiếm tỉ lệ 53,08% cao hơn so với
nhóm ≥40 tuổi.
< 5 năm
5-10 năm
> 10 năm
25,38 %
38,46 %
36,15 %
3.1.1.3. Phân bố thời gian bị bệnh của bệnh vảy nến thông thường
Biểu đồ 3.2. Phân bố về thời gian bị bệnh của bệnh nhân VNTT (n=130)
Nhận xét: Bệnh nhân bị bệnh vảy nến thông thường > 10 năm chiếm tỉ lệ
cao nhất 38,46%, 5-10 năm chiếm 36,15% và < 5 năm là 25,38%.
57
Nam
Nữ
33,85%
66,15%
3.1.1.4. Phân bố giới tính trong bệnh vảy nến thông thường
Biểu đồ 3.3. Phân bố bệnh nhân mắc bệnh VNTT theo giới (n=130)
Nhận xét: Nam là chiếm tỷ lệ chủ yếu 66,15%.
100
90
80
70
60
50
40
31,54 %
23,85 %
30
22,31 %
20
10,00 %
7,69 %
4,62 %
10
0
Bộ đội
Nông dân
Hưu trí
Công chức,
viên chức
Học sinh, sinh
viên
Nội trợ, lao
động tự do
3.1.1.5. Phân bố nghề nghiệp trong bệnh vảy nến thông thường
Biểu đồ 3.4. Phân bố bệnh nhân mắc VNTT theo nghề nghiệp (n=130)
Nhận xét: Nông dân chiếm tỷ lệ nhiều nhất 31,54%, bộ đội chiếm tỷ lệ
thấp nhất 4,62%.
58
3.1.1.6. Tiền sử gia đình gặp trong bệnh vảy nến thông thường
12,32%
87,68%
Biểu đồ 3.5. Tiền sử gia đình trong bệnh VNTT (n=130)
Nhận xét: Tiền sử gia đình gặp 12,32%, trong đó gặp nhiều nhất là bố
hoặc mẹ chiếm 6,93%.
59
3.1.1.7. Phân bố bệnh vảy nến thông thường theo mùa
Bảng 3.2. Phân bố bệnh nhân mắc VNTT theo mùa (n=130)
n Mùa (tháng) %
18 Xuân (1-3) 13,85
12 Hạ (4-6) 9,23
0 Thu (7-9) 0,00
76 Đông (10-12) 58,46
24 Không rõ/ không nhớ 18,46
Nhận xét: Mùa đông gặp bệnh VNTT cao nhất 58,46%, tiếp đến là mùa
130 Tổng 100,0
xuân chiếm 13,85%.
3.1.1.8. Bệnh kết hợp trong bệnh vảy nến thông thường
Bảng 3.3. Các bệnh kết hợp gặp trong bệnh VNTT (n=130)
Các bệnh Số lượt %
Rối loạn chuyển hóa lipid 22 16,92
Tăng huyết áp 22 16,92
Đái tháo đường 12 9,23
Loét dạ dày. tá tràng 1 0,77
Bệnh tai, mũi, họng 14 10,77
Bệnh tim mạch 8 6,15
Viêm gan B 6 4,62
Nhận xét: Tăng huyết áp và rối loạn chuyển hoá lipid chiếm tỷ lệ cao
16,92%, đái tháo đường 9,23%, ít nhất là loét dạ dày-tá tràng 0,77%.
60
3.1.1.9. Một số yếu tố môi trường (khởi động) gặp trong bệnh VNTT
Bảng 3.4. Một số yếu tố khởi động gặp trong bệnh VNTT (n=130)
Yếu tố khởi động Số lượt %
Stress 50 38,46
Chấn thương da (vết xước, chấn thương) 27 20,77
Nhiễm khuẩn (xoang, mũi, họng) 7 5,38
Thuốc (kháng sinh, giảm đau, ...) 11 8,46
Thức ăn, bia, rượu 35 26,93
Không rõ 0 0
Nhận xét: Stress chiếm tỷ lệ cao nhất 38,46%, tiếp theo là do thức ăn,
uống 26,93%, chấn thương da 20,77%.
3.1.2. Một số đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông thường
3.1.2.1. Vị trí tổn thương khởi phát gặp trong bệnh vảy nến thông thường
1,54%
2,31%
6,15%
17,69%
72,31%
Biểu đồ 3.6. Vị trí tổn thương lúc khởi phát bệnh VNTT (n=130)
Nhận xét: Vị trí tổn thương khởi phát gặp chủ yếu vùng da đầu chiếm
72,31%, ít gặp nhất là vùng ngực 1,54%.
61
3.1.2.2. Vị trí tổn thương hiện tại gặp trong bệnh vảy nến thông thường
91,54%
86,92%
80,77%
72,31%
35,38%
3,85%
3,08%
0%
Biểu đồ 3.7. Vị trí tổn thương hiện tại bệnh VNTT (n=130)
Nhận xét: Vị trí tổn thương hiện tại ở thân mình là nhiều nhất 91,54%,
tiếp đến là tổn thương ở chi dưới 86,92%, đầu 80,77%, chi trên 72,31%, thấp
nhất là tổn thương ở móng 3,08%.
95,38 %
100
90
80
70
3.1.2.3. Các thể lâm sàng gặp trong bệnh vảy nến thông thường
)
60
%
50
(
ệ
l
ỷ
T
40
30
20
3,08 %
10
1,54 %
0
Vảy nến mảng
Vảy nến đồng tiền
vảy nến giọt
Thể lâm sàng
Biểu đồ 3.8. Các thể lâm sàng bệnh VNTT (n=130)
Nhận xét: Trong vảy nến thông thường thì vảy nến mảng chiếm tỷ lệ cao
nhất 95,38%, ít gặp nhất là vảy nến đồng tiền 1,54%.
62
3.1.2.4. Phân bố theo mức độ bệnh của bệnh vảy nến thông thường
36,15%
53,08%
10,77%
Biểu đồ 3.9. Phân bố mức độ bệnh VNTT theo PASI (n=130)
Nhận xét: Mức độ nhẹ cao nhất 53,08%, mức độ nặng 36,15% và thấp
nhất là mức độ vừa 10,77%.
3.2. Kết quả định lượng một số cytokine trong huyết thanh nhân VNTT
mức độ nặng trước và sau điều trị CyA
3.2.1. Đặc điểm của 2 nhóm (NNC và NĐC)
Bảng 3.5. Đặc điểm cá nhân của 2 nhóm
Chỉ số NNC NĐC p
Tuổi 53,97 ± 13,98 51,32 ± 13,46 > 0,05
Nam 21 (60,00%) 28 (63,64%) Giới > 0,05 Nữ 14 (40,00%) 16 (36,36%)
Nhận xét: NNC và NĐC tương đồng về tuổi đời và giới tính, với p>0,05.
63
3.2.2. Kết quả định lượng cytokine trước điều trị
- Kết quả định lượng các cytokine:
Bảng 3.6. So sánh nồng độ cytokine trước điều trị của 2 nhóm
P
Cytokine NNC NĐC
IL-2
(X±SD)
2,00 ± 0,00
2,00 ± 0,00
> 0,05
(X±SD)
42,27 ± 98,35
3,50 ± 0,00
IL-6
< 0,001
Trung vị (25-
6,76
75)
(6,76- 6,76)
(X±SD)
495,15 ± 783,79
2,20 ± 5,13
IL-8
< 0,001
Trung vị (25-
163,82
1,00
75)
(26,57 - 670,07)
(1,00 - 1,00)
(X±SD)
3,92 ± 3,84
0,73 ± 0,50
IL-10
< 0,001
Trung vị (25-
2,54
0,49
75)
(2,38 - 3,50)
(0,49 - 1,17)
(X±SD)
1,47 ± 0,69
0,90 ± 0,44
IL-12
< 0,001
Trung vị (25-
1,39
0,66
(0,89 - 1,90)
(0,66 - 1,25)
75)
1,04 ± 2,11
0,69 ± 0,00
(X±SD)
IL-17
< 0,001
Trung vị (25-
0,416
(0,416 - 0,416)
75)
4,88 ± 7,78
0,34 ± 0,82
< 0,001
(X±SD)
TNF-α
Trung vị (25-
3,00
0,11
(2,34 - 4,38
(0,11 - 0,11)
75)
2,37 ± 3,24
0,71 ± 0,39
< 0,001
(X±SD)
IFN-γ
0,78
Trung vị (25-
1,72
< 0,001
75)
(1,25 - 2,44)
(0,51 - 0,87)
(pg/ml) (n = 35) (n = 44)
Nhận xét: Nồng độ IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF-𝛼, IFN-𝛾 ở
NNC trước điều trị đều cao hơn NĐC với p<0,001. Trong khi nồng độ IL-2 ở
NNC không có sự khác biệt với NĐC với p>0,05.
64
- Mối liên quan giữa nồng độ các cytokine trước điều trị với một số yếu tố
liên quan của NNC:
Bảng 3.7. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine trước điều trị với kết quả điều
trị của NNC (n=34)
Kết quả điều trị theo PASI n X±SD p
26 Tốt 2 ± 0,00 IL2 > 0,05 (pg/ml) 8 Khá 2 ± 0,00
26 Tốt 51,17 ± 112,06 IL6 > 0,05 (pg/ml) 8 Khá 17,76 ± 31,12
26 Tốt 597,62 ± 880,69 IL8 > 0,05 (pg/ml) 8 Khá 220,69 ± 239,71
26 Tốt 3,86 ± 4,10 IL10 > 0,05 (pg/ml) 8 Khá 3,09 ± 0,84
26 Tốt 1,55 ± 0,74 IL12 > 0,05 (pg/ml) 8 Khá 1,24 ± 0,52
26 Tốt 1,15 ± 2,42 IL17 > 0,05 (pg/ml) 8 Khá 0,76 ± 0,63
26 Tốt 5,11 ± 8,82 TNF– α > 0,05 (pg/ml) 8 Khá 4,50 ± 3,81
(1 bệnh nhân có hiệu quả điều trị kém nên không đưa vào bảng kết quả).
26 Tốt 1,96 ± 1,46 IFN- γ > 0,05 (pg/ml) 8 Khá 3,79 ± 6,34
Nhận xét: Không có mối liên quan giữa nồng độ các cytokine trước điều
trị với kết quả điều trị ở NNC với p>0,05.
65
Bảng 3.8. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine trước điều trị với giới tính của
NNC(n=35)
Nam Nữ
p (Mann- Cytokine
(n=21) (n=14)
whitney test) (pg/ml)
(X±SD) (X±SD)
2,000 ± 0,00 2,000 ± 0,00 > 0,05 IL-2
55,85 ± 117,79 21,89 ± 56,62 > 0,05 IL-6
439,93 ± 824,68 577,98 ± 740,35 > 0,05 IL-8
3,78 ± 2,74 4,12 ± 5,18 > 0,05 IL-10
1,40 ± 0,66 1,58 ± 0,74 > 0,05 IL-12
1,39 ± 2,67 0,51 ± 0,37 > 0,05 IL-17
TNF-α 5,65 ± 9,99 3,74 ± 1,48 > 0,05
TNF-γ 2,49 ± 3,91 2,18 ± 1,96 > 0,05
Nhận xét: Sự thay đổi các cytokine trước điều trị giữa nam và nữ khác
biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
66
Bảng 3.9. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine trước điều trị với nhóm tuổi
của NNC (n=35)
p
Cytokine 18-39 tuổi 40-69 tuổi ≥ 70 tuổi
(kwallis
(pg/ml) (n=4) (n=25) (n=6)
test test)
IL-2 2,00 ± 0,00 2,00 ± 0,00 2,00 ± 0,00 > 0,05
IL-6 6,76 ± 0,00 44,47 ± 108,94 56,74 ± 86,76 > 0,05
534,97 ± 390,88
IL-8 > 0,05 450,32 ± 766,17 655,38 ± 1107,27
IL-10 2,25 ± 0,22 3,83 ± 4,15 5,42 ± 3,49 < 0,05
IL-12 1,78 ± 0,87 1,39 ± 0,66 1,65 ± 0,71 > 0,05
IL-17 0,76 ± 0,69 1,16 ± 2,47 0,71 ± 0,55 > 0,05
TNF-α 3,96 ± 1,17 5,31 ± 9,17 3,73 ± 1,92 > 0,05
TNF-γ 2,03 ± 0,66 1,84 ± 1,52 4,79 ± 7,17 > 0,05
Nhận xét: Không có mối liên quan giữa nồng độ các cytokine trước điều
trị với nhóm tuổi với p>0,05. Riêng IL-10 có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p<0,05.
67
Bảng 3.10. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine trước điều trị với tuổi bệnh
của NNC (n=35)
p
Cytokine <5 năm 5-10 năm >10 năm
(kwallis
(pg/ml) (n=5) (n=11) (n=19)
test test)
IL-2 2,00 ± 0,00 2,00 ± 0,00 2,00 ± 0,00 > 0,05
IL-6 6,76 ± 0,00 72,08 ± 113,18 34,35 ± 100,97 > 0,05
IL-8 427,61 ± 392,24 564,74 ± 864,38 472,64 ± 840,47 > 0,05
IL-10 6,72 ± 8,57 2,99 ± 1,15 3,72 ± 2,83 > 0,05
IL-12 1,70 ± 0,69 1,51 ± 0,80 1,39 ± 0,64 > 0,05
IL-17 0,42 ± 0,00 0,70 ± 0,55 1,40 ± 2,81 > 0,05
TNF-α 3,97 ± 0,90 8,27 ± 13,58 3,17 ± 1,14 > 0,05
IFN-γ 3,49 ± 2,92 1,54 ± 0,59 2,55 ± 4,11 > 0,05
Nhận xét: Không có sự liên quan giữa nồng độ các cytokine trước điều
trị với tuổi bệnh với p>0,05.
68
- Liên quan giữa nồng độ các cytokine với PASI và cytokine với nhau:
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa nồng độ các cytokine trước điều trị với PASI
và với cytokine (n=35)
IL6 IL8 IL10 IL12 IL17 TNF-α IFN-γ
-0,23 0,24 -0,14 0,14 -0,04 0,12 -0,06 r PASI
0,19 0,17 0,43 0,43 0,83 0,49 0,75 p
0,57** 0,40* 0,37* 0,16 0,57** 0,08 r IL6 0,000 0,02 0,03 0,35 0,000 0,66 p
0,23 0,58** 0,20 0,78** 0,16 r IL8 0,19 0,000 0,26 0,000 0,37 p
0,32 0,05 0,36* 0,13 r IL10 0,07 0,77 0,03 0,45 p
0,14 0,67** 0,45** r IL12 0,43 0,000 0,01 p
0,17 0,28 r
IL17 0,32 0,10 p
0,26 r TNF-α
0,13 p
Nhận xét: Kết qủa bảng 3.11 cho thấy, không có sự liên quan giữa nồng
độ các cytokine với chỉ số PASI với p>0,05. Có sự liên quan giữa IL-6 với
IL-8 (r=0,57, p<0,001), IL-6 với IL-10 (r=0,40, p<0,05), IL-6 với IL-12
(r=0,37, p<0,05), IL-6 với TNF-α (r=0,57, p<0,001). IL-8 với IL-12 (r=0,58,
p<0,001), IL-8 với TNF-α (r=0,78, p<0,001). IL-10 với TNF-α (r=0,36,
p<0,05). IL-12 với TNF-α (r=0,67, p<0,001), IL-12 với IFN-γ (r=0,45,
p<0,05).
69
Biểu đồ 3.10. Mối tương quan giữa nồng độ IL-6 với chỉ số PASI (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.10 cho thấy, không có mối tương quan giữa
nồng độ IL-6 và chỉ số PASI với r=-0,23, p>0,05.
Biểu đồ 3.11. Mối tương quan giữa nồng độ IL-8 với chỉ số PASI (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.11 cho thấy, không có mối tương quan giữa
nồng độ IL-8 và chỉ số PASI với r=0,24, p>0,05.
70
Biểu đồ 3.12. Mối tương quan giữa nồng độ IL-10 với chỉ số PASI (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.12 cho thấy, không có mối tương quan giữa
nồng độ IL-10 và chỉ số PASI với r=-0,14, p>0,05.
Biểu đồ 3.13. Mối tương quan giữa nồng độ IL-12 với chỉ số PASI (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.13 cho thấy, không có mối tương quan giữa
nồng độ IL-12 và chỉ số PASI với r=0,14, p>0,05.
71
Biểu đồ 3.14. Mối tương quan giữa nồng độ IL-17 với chỉ số PASI (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.14 cho thấy, không có mối tương quan giữa
nồng độ IL-17 và chỉ số PASI với r=-0,04, p>0,05.
Biểu đồ 3.15. Mối tương quan giữa nồng độ TNF-𝛼 với chỉ số PASI (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.15 cho thấy, không có mối tương quan
giữa nồng độ TNF-α và chỉ số PASI với r=0,12, p>0,05.
72
Biểu đồ 3.16. Mối tương quan giữa nồng độ IFN-𝛾 với chỉ số PASI (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.16 cho thấy, không có mối tương quan giữa
nồng độ IFN-γ và chỉ số PASI với r=-0,06, p>0,05.
Biểu đồ 3. 17. Mối tương quan giữa nồng độ IL-6 với IL-10 (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.17 cho thấy, có sự tương quan thuận giữa
nồng độ IL-6 với IL-10 với r=0,40, p<0,05.
73
Biểu đồ 3.18. Mối tương quan giữa nồng độ IL-6 với IL-12 (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.18 cho thấy, có sự tương quan thuận giữa
nồng độ IL-6 với IL-12 với r=0,37, p<0,05.
Biểu đồ 3.19. Mối tương quan giữa nồng độ IL-6 với TNF-𝛼 (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.19 cho thấy, có sự tương quan thuận, chặt
chẽ giữa nồng độ IL-6 với TNF-α với r=0,57, p<0,001.
74
Biểu đồ 3.20. Mối tương quan giữa nồng độ IL-8 với IL-12 (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.20 cho thấy, có sự tương quan thuận, chặt
chẽ giữa nồng độ IL-8 với IL-12 với r=0,58, p<0,001.
Biểu đồ 3.21. Mối tương quan giữa nồng độ IL-8 với TNF-𝛼 (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.21 cho thấy, có sự tương quan thuận, chặt
chẽ giữa nồng độ IL-8 với TNF-α với r=0,78, p<0,001.
75
Biểu đồ 3.22. Mối tương quan giữa nồng độ IL-10 với TNF-𝜶 (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.22 cho thấy, có sự tương quan thuận giữa
nồng độ IL-10 với TNF-α với r=0,36, p<0,05.
Biểu đồ 3.23. Mối tương quan giữa nồng độ IL-12 với TNF-𝛼 (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.23 cho thấy, có sự tương quan thuận, chặt
chẽ giữa nồng độ IL-12 với TNF-α với r=0,67, p<0,001.
76
Biểu đồ 3.24. Mối tương quan giữa nồng độ IL-12 với IFN-𝛾 (n=35)
Nhận xét: Kết quả biểu đồ 3.24 cho thấy, có sự tương quan thuận giữa
nồng độ IL-12 với IFN-γ với r=0,45, p<0,05.
77
3.2.3. Kết quả định lượng cytokine sau điều trị
Bảng 3.12. So sánh nồng độ cytokine sau điều trị của NNC và NĐC
Cytokine
NNC
NĐC
p (Mann-
(pg/ml)
(n=35)
(n=44)
whitney test)
2,00 ± 0,00
IL-2
(X±SD)
2,00 ± 0,00
> 0,05
(X±SD)
16,22 ± 40,01
3,50 ± 0,00
IL-6
< 0,001
Trung vị
6,76
(25-75)
(6,76 - 6,76)
(X±SD)
609,80 ± 902,12
2,20 ± 5,13
205,05
IL-8
< 0,001
Trung vị
1,00
(56,48 - 799,64)
(25-75)
(1,00 - 1,00)
(X±SD)
3,40 ± 2,99
0,73 ± 0,50
IL-10
< 0,001
Trung vị
2,54
0,49
(25-75)
(2,08 - 3,26)
(0,49 - 1,17)
(X±SD)
1,46 ± 0,60
0,90 ± 0,44
IL-12
< 0,001
Trung vị
1,39
0,66
(25-75)
(0,89 - 1,89)
(0,66 - 1,25)
(X±SD)
0,65 ± 0,84
0,69 ± 0,00
IL-17
< 0,001
Trung vị
0,42
(25-75)
(0,42 - 0,42)
(X±SD)
3,55 ± 1,39
0,34 ± 0,82
TNF-α
< 0,001
Trung vị
3,00
0,11
(25-75)
(2,67 - 4,38)
(0,11 - 0,11)
IFN-γ
(X±SD)
1,43 ± 0,53
0,71 ± 0,39
< 0,001
Nhận xét: Nồng độ IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF-𝛼, IFN-𝛾 sau
điều trị ở NNC đều cao hơn NĐC với p<0,001. Trong khi nồng độ IL-2 ở
NNC không có sự khác biệt với NĐC với p>0,05.
78
Bảng 3.13. So sánh nồng độ cytokine trước- sau điều trị của NNC (n=35)
Cytokine p Trước điều trị Sau điều trị (pg/ml) (sign test)
IL-2 (X±SD) 2,00 ± 0,00 2,00 ± 0,00 >0,05
IL-6 (X±SD) 42,27 ± 98,35 16,22 ± 40,01 >0,05
IL-8 (X±SD) 495,15 ± 783,80 609,80 ± 902,12 >0,05
IL-10 (X±SD) 3,92 ± 3,84 3,40 ± 2,99 >0,05
IL-12 (X±SD) 1,47 ± 0,60 1,46 ± 0,60 >0,05
IL-17 (X±SD) 1,04 ± 2,11 0,65 ± 0,84 >0,05
TNF-α (X±SD) 4,88 ± 7,78 3,55 ± 1,39 >0,05
INF-γ (X±SD) 2,37 ± 3,24 1,43 ± 0,53 <0,05
Nhận xét: Trước và sau điều trị nồng độ các cytokine thay đổi không có
ý nghĩa thống kê với p>0,05. Riêng nồng độ IFN-𝛾 giảm sau điều trị có ý
nghĩa thống kê với p<0,05.
79
- Mối liên quan giữa nồng độ các cytokine sau điều trị với một số yếu tố:
Bảng 3.14. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine sau điều trị với kết quả điều
trị của NNC (n=34)
Kết quả điều trị theo PASI n X±SD p
26 2 ± 0,00 Tốt > 0,05 IL2 8 2 ± 0,00 Khá
26 15,17 ± 41,51 Tốt > 0,05 IL6 8 20,81 ± 39,72 Khá
26 651,54 ± 1015,96 Tốt > 0,05 IL8 8 416,07 ± 431,61 Khá
26 2,86 ± 1,08 Tốt > 0,05 IL10 8 3,20 ± 1,24 Khá
26 1,48 ± 0,68 Tốt > 0,05 IL12 8 1,42 ± 0,32 Khá
26 0,56 ± 0,51 Tốt > 0,05 IL17 8 0,47 ± 0,15 Khá
26 3,53 ± 1,48 Tốt > 0,05 TNF – α 8 3,52 ± 1,24 Khá
26 1,44 ± 0,58 Tốt > 0,05 IFN- γ 8 1,37 ± 0,37 Khá
(có 1 bệnh nhân kết quả kém, vì số lượng bé nên không đưa vào so sánh)
Nhận xét: Không có mối liên quan giữa nồng độ các cytokine sau điều trị
với kết quả điều trị ở NNC với p>0,05.
80
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine sau điều trị với giới tính của
NNC (n=35)
Nam Nữ
Cytokine p (Mann- (n=21) (n=14)
(pg/ml)
whitney test)
(X±SD) (X±SD)
2,00 ± 0,00 2,00 ± 0,00 > 0,05 IL-2
16,85 ± 46,23 15,27 ± 29,94 > 0,05 IL-6
564,94 ± 817,88 677,09 ± 1044,60 > 0,05 IL-8
3,82 ± 3,84 2,78 ± 0,36 > 0,05 IL-10
1,41 ± 0,40 1,55 ± 0,83 > 0,05 IL-12
0,64 ± 0,94 0,67 ± 0,68 > 0,05 IL-17
3,35 ± 1,01 3,85 ± 1,83 > 0,05 TNF-α
1,37 ± 0,33 1,52 ± 0,73 > 0,05 TNF-γ
Nhận xét: Sự thay đổi nồng độ các cytokine sau điều trị giữa nam và nữ
khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
81
Bảng 3.16. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine sau điều trị với nhóm tuổi
của NNC (n=35)
Cytokine
(pg/ml) 18-39 tuổi
(n=4) 40-69 tuổi
(n=25) ≥ 70 tuổi
(n=6) p
(kwallis
test test)
2,00 ± IL-2 2,00 ± 2,00 ± > 0,05 0,00 0,00 0,00
7,89 ± IL-6 6,76 ± 19,73 ± > 0,05 2,76 0,00 47,12
IL-8 1161,57 ± 524,43 ± 597,67 ± > 0,05 727,14 1806,39 759,28
5,20 ± IL-10 2,43 ± 3,13 ± < 0,05 6,98 0,45 1,21
1,86 ± IL-12 1,72 ± 1,33 ± > 0,05 0,70 0,92 0,49
1,20 ± IL-17 0,42 ± 0,56 ± > 0,05 1,73 0,00 0,52
4,30 ± 3,31 ± TNF-α 3,89 ± > 0,05 2,36 1,47 1,05
TNF-γ 1,43 ± 1,43 ± 0,60 1,45 ± 0,28 > 0,05 0,29
Nhận xét: Không có mối liên quan giữa nồng độ các cytokine sau điều trị
với nhóm tuổi với p>0,05. Riêng IL-10 có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p<0,05.
82
Bảng 3. 17. Mối liên quan giữa nồng độ cytokine sau điều trị với tuổi bệnh
của NNC (n=35)
p Cytokine <5 năm 5-10 năm >10 năm (kwallis (pg/ml) (n=5) (n=11) (n=19) test test)
2,00 ± 0,00
2,00 ± 0,00
2,00 ± 0,00
IL-2 > 0,05
IL-6 > 0,05
29,23 ± 50,24
7,38 ± 2,04
17,91 ± 48,60
> 0,05 IL-8
1094,34 ± 545,47
435,87 ±626,31
582,99 ± 839,07
2,97 ± 0,43
2,93 ± 1,08
3,79 ± 3,99
> 0,05 IL-10
> 0,05 IL-12
1,70 ± 0,78
1,31 ± 0,63
1,49 ± 0,55
> 0,05 IL-17
0,42 ± 0,00
0,45 ± 0,13
0,83 ± 1,11
4,09 ± 1,38
3,75 ± 1,93
3,29 ± 1,00
> 0,05 TNF-α
1,42 ± 0,37
1,32 ± 0,29
1,50 ± 0,66
> 0,05 IFN-γ
Nhận xét: Không có sự liên quan giữa nồng độ các cytokine sau điều trị với
tuổi bệnh với p>0,05.
3.3. Kết quả điều trị bệnh VNTT mức độ nặng bằng Cyclosporin A
3.3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.18. Mức độ bệnh, thời gian bị bệnh và PASI (n=35)
Chỉ số NNC
Mức độ bệnh Nặng 35 (100%)
Thời gian bị bệnh (X±SD) 17,11±11,55
PASI trước điều trị (X±SD) 25,38 ± 4,20
Nhận xét: 100% bệnh nhân VNTT đều mức độ nặng và PASI trung bình
là 25,38±4,20 cũng thuộc mức độ nặng.
83
Bảng 3.19. Phân bố nhóm tuổi (n=35)
n Nhóm tuổi %
03 < 30 8,57
02 30 – 39 5,71
06 40 – 49 17,14
13 50 – 59 37,14
05 60 – 69 14,29
06 >= 70 17,14
35 Tổng số 100,0
Nhận xét: Nhóm tuổi từ 50-59 chiếm tỷ lệ cao nhất 37,14%, thấp nhất
tuổi từ 30-39 chiếm 5,71%.
Bảng 3.20. Phân bố theo giới tính (n=35)
n Giới tính %
21 Nam 60,00
14 Nữ 40,00
35 Tổng 100,00
Nhận xét: Nam 60,00% chiếm tỷ lệ nhiều hơn nữ 40,00%.
Bảng 3.21. Phân bố thời gian bị bệnh (n=35)
n Thời gian bị bệnh %
5 <5 năm 14,29
11 5-10 năm 31,43
19 > 10 năm 54,29
35 Tổng số 100,0
Nhận xét: Thời gian bị bệnh > 10 năm chiếm tỷ lệ cao nhất 54,29%, thấp
nhất là < 5 năm 14,29%.
84
3.3.2. Kết quả điều trị bệnh VNTT bằng cyclosporin
Bảng 3.22. Thay đổi chỉ số PASI trước và sau điều trị (n=35)
n PASI PASI giảm
Thời điểm (X±SD) p (%)
Trước điều trị 35 25,38 ± 4,20
(1) 16,09 p12<0,001
(63,39%) Sau điều trị 5 tuần (2) 35 9.29 ± 3.20 p13<0,001
p23<0,001 Sau điều trị 10 tuần 35 5,50 ± 3,74 19,88
(3) (78,33%)
Nhận xét: Điều trị bệnh VNTT bằng cyclosporin sau 5 tuần thì PASI
giảm 63,39%, sau 10 tuần thì giảm rõ rệt (78,33%) so với trước điều trị có ý
nghĩa thống kê, đều với p<0,001.
Bảng 3.23. Kết quả điều trị theo mức độ (n=35)
Sau 5 tuần Sau 10 tuần Kết quả điều trị n % n %
Tốt 8 22,86 26 74,28
Khá 21 60,0 8 22,86
Trung bình 6 17,14 0 0
Kém 0 0 1 2,86
Tổng số 35 100,0 35 100,0
Nhận xét: Sau 5 tuần khá chiếm tỉ lệ cao nhất 60%, tốt 22,86%, trung
bình 17,14%; sau 10 tuần tốt là chủ yếu tốt 74,28%, khá 22,86% và kém
2,86%.
85
Bảng 3.24. Kết quả điều trị sau 10 tuần theo giới (n=35)
Giới tính
p (fisher’ s
Kết quả điều trị
Tổng
Nam
Nữ
exact test)
n
14
12
26
Tốt
%
66,67
85,71
74,28
n
6
2
8
Khá
%
28,57
14,29
22,86
> 0,05
n
1
0
1
Kém
%
4,76
0,00
2,86
n
21
14
35
Tổng số
%
100,00
100,00
100,00
Nhận xét: Sau điều trị bệnh VNTT bằng cyclosporin kết quả điều trị
không có sự khác biệt giữa nam và nữ, với p>0,05.
Bảng 3.25. Kết quả điều trị sau 10 tuần theo nhóm tuổi (n=35)
Nhóm tuổi Kết quả p điều trị <30 30-39 40-49 50-59 60-69 ≥70
0 4 11 5 3 3 n Tốt %
100,00
0,00
57,14
84,62
100,00
50,00
2 2 2 0 2 0 n > 0,05 Khá
0,00
100,00
42,86
15,38
0,00
33,33
%
0 0 0 0 1 0 n Kém %
0,00
0,00
0,00
0,00
0,00
16,67
Nhận xét: Không có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi và kết quả điều trị,
với p>0,05.
86
3.3.3. Kết quả tác dụng không mong muốn
100
90
80,00 %
80
70
3.3.3.1. Tác dụng không mong muốn trên lâm sàng
)
%
60
50
(
ệ
l
ỷ
T
40
30
20
11,43 %
5,71 %
10
2,86 %
0
Đau đầu
Mệt mỏi
THA
Không có tác dụng
KMM
Tác dụng không mong muốn
Biểu đồ 3.25. Tác dụng không mong muốn trên lâm sàng
Nhận xét: Mệt mỏi hay gặp hơn chiếm tỷ lệ 11,43%, đau đầu chiếm
5,71% và tăng huyết áp ít gặp nhất chiếm tỷ lệ 2,86%.
87
3.3.3.2. Tác dụng không mong muốn trên xét nghiệm
Bảng 3.26. Kết quả xét nghiệm máu trước và sau điều trị (n=35)
Chỉ số Trước điều trị
(1) Sau điều trị
5 tuần (2) Sau điều trị
10 tuần (3)
74,24 ± 16,33 75,78 ± 17,44 74,11 ± 17,74
4,37 ± 0,91 4,66 ± 0,94 4,78 ± 0,98
1,35 ± 0,67 1,65 ± 1,31 1,48 ± 1,03 Creatinin
(𝜇𝑚𝑜𝑙/𝐿)
Cholesterol
(mmol/L)
Triglycerid
(mmol/L)
GOT (U/L) 28,45 ± 11,65 25,18 ± 8,41 23,74 ± 7,35
GPT (U/L) 29,32 ± 20,12 23,38 ± 14,66 21,42 ± 10,08
Bạch cầu (G/L) 7,77 ± 1,67 8,27 ± 2,54 8,00 ± 2,31
64,30 ± 7,32 65,19 ± 9,61 65,08 ± 9,36 BC Trung tính
(%)
Hồng cầu (T/L) 4,71 ± 0,56 4,76 ± 0,59 4,82 ± 0,59
140,09 ± 13,29 141,74 ± 12,47 142,06 ± 13,70 Hemoglobin
(g/L)
HCT (L/L) 0,42 ± 0,04 0,42 ± 0,03 0,43 ± 0,04 p
(Sign test)
p12 > 0,05
p13 > 0,05
p12 >0,05
p13 < 0,01
p12 > 0,05
p13> 0,05
p12 > 0,05
p13< 0,05
p12 > 0,05
p13< 0,05
p12 > 0,05
p13> 0,05
p12 > 0,05
p13> 0,05
p12 > 0,05
p13< 0,05
p12 > 0,05
p13 > 0,05
p12 > 0,05
p13> 0,05
Nhận xét: Sau 5 tuần điều trị các chỉ số xét nghiệm đều nằm trong giới
hạn bình thường, không có sự khác biệt so với trước điều trị với p>0,05.
Creatinin, Triglycerid, BC, HC trước và sau 10 tuần điều trị đều tương đương
nhau với p>0,05. Cholesterol, HC có tăng sau 10 tuần điều trị, với p<0,01 và
p<0,05 nhưng vẫn trong giới hạn bình thường. GOT, GPT sau 10 tuần điều trị
giảm có ý nghĩa thống kê với p<0,05 nhưng cũng đều nằm trong giới hạn bình
thường.
88
3.3.4. Kết quả tái phát sau điều trị
Bảng 3.27. Tỷ lệ tái phát sau điều trị (n=34)
Tái phát Thời gian %
1 tháng 29,41 n
10
2 tháng 58,82 20
3 tháng 82,35 28
(có 1 bệnh nhân sau 10 tuần điều trị đạt kết quả kém và được điều trị
Tổng số 100,00 34
tiếp nên số bệnh nhân theo dõi tái phát còn 34)
Nhận xét: Sau kết thúc điều trị 10 tuần, tỷ lệ tái phát tăng dần theo thời
gian: sau 1 tháng tái phát chiếm 29,41%, sau 2 tháng tái phát 58,82% và sau 3
tháng tái phát là 82,35%.
89
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. Một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông
thường
4.1.1. Một số yếu tố liên quan đến bệnh vảy nến thông thường
4.1.1.1. Phân bố tuổi đời của bệnh vảy nến thông thường
Qua nghiên cứu 130 bệnh nhân vảy nến thông thường điều trị ngoại trú
tại phòng khám chuyên đề bệnh vảy nến-Bệnh viện Da liễu Trung ương, từ
tháng 10/2016-10/2019, kết quả tại bảng 3.1 cho thấy bệnh nhân có tuổi thấp
nhất là 8 tuổi, cao nhất là 79 tuổi, phần lớn bệnh nhân vảy nến thông thường
tập trung ở độ tuổi 40-59 chiếm 34,61%, 50-59 là 25,38% và độ tuổi <20 là
thấp nhất 6,92%. Như vây, bệnh vảy nến thông thường tập trung cao trong độ
tuổi lao động.
Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các tác giả. Theo Phan Huy Thục
(2015), phần lớn bệnh nhân vảy nến tập trung ở độ tuổi 20-60, trong đó độ
tuổi từ 40–49 là 25,6%, 50–59 là 24,4% [123]. Theo Nguyễn Trọng Hào,
bệnh nhân vảy nến tập trung ở độ tuổi 41-59 chiếm cao nhất 40,6%, 31-40
chiếm tỷ lệ 28,1% và thấp nhất là độ tuổi <20 chiếm tỷ lệ 6,3% [128]. Theo
Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2009), tuổi gặp cao nhất trong bệnh vảy nến là
nhóm tuổi từ 30-59 chiếm 60,28%, trong đó độ tuổi 40-49 chiếm 21,5% và
50-59 chiếm 19,62%, thấp nhất là 0% với độ tuổi <20 [18].
Theo Langley và cs (2005), bệnh vảy nến gặp tất cả mọi lứa tuổi cả trẻ
sơ sinh và người già, và cao ở độ tuổi 55-60 [3]. Bệnh vảy nến hay gặp lứa
tuổi 15-30, nhưng cũng có thể gặp ở trẻ mới sinh cũng như 80-90 tuổi [25].
Nghiên cứu của Armstrong và cs (2020) cho thấy bệnh vảy nến có thể xuất
hiện ở mọi lứa tuổi, trong đó tập trung cao ở độ tuổi 18-39 và 50-69 [8].
90
Như vậy, bệnh vảy nến có thể gặp ở mọi lứa tuổi từ trẻ sơ sinh đến người
già, nhưng bệnh tập trung cao ở độ tuổi lao động chính xã hội, đây là độ tuổi
có nhiều biến động trong cuộc sống, ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần. Do
đó bệnh vảy nến không chỉ tác động trực tiếp lên bản thân bệnh nhân mà còn
ảnh hưởng đến gia đình cũng như ảnh hưởng lên nền kinh tế xã hội.
4.1.1.2. Phân bố tuổi khởi phát trong bệnh vảy nến thông thường
Qua nghiên cứu 130 bệnh nhân vảy nến thông thường, tại biểu đồ 3.1
cho thấy, tuổi khởi phát bệnh ở độ tuổi <40 tuổi chiếm tỷ lệ 53,08%, trên 40
tuổi chiếm 46,92%. Như vậy tuổi khởi phát trước 40 tuổi chiếm chủ yếu hơn.
Khởi phát bệnh vảy nến thônng thường trước 40 tuổi thuộc vảy nến týp 1,
thường mang tính di truyền và bị tác động mạnh mẽ bởi các tác nhân môi
trường làm khởi phát bệnh.
Theo Phan Huy Thục (2015), tuổi khới phát bệnh vảy nến chủ yếu dưới
40 tuổi chiếm 58,34%, thuộc vảy nến týp 1 [123]. Nguyễn Thị Hồng Hạnh
(2009), tuổi khới phát dưới 40 tuổi chiếm tỷ lệ 53,75% cao hơn nhóm trên 40
tuổi chiếm tỷ lệ 46,25% [18]. Theo Đặng Văn Em (2000), nghiên cứu 153
bệnh nhân vảy nến thông thường cho thấy tuổi khới phát trước 40 tuổi là chủ
yếu chiếm 71,89% [1]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với tác giả
Phan Huy Thục và Nguyễn Thị Hồng Hạnh nhưng lại thấp hơn tác giả Đặng
Văn Em. Do việc xác định tuổi khởi phát bệnh có thể gặp những khó khăn,
phần lớn bệnh nhân cho rằng bệnh khởi phát khi có những tổn thương ngoài
da đầu tiên của bệnh vảy nến. Nhiều bệnh nhân không nhớ rõ chính xác được
thời điểm xuất hiện thương tổn vảy nến ở da hoặc những cơ sở y tế không có
đủ kinh nghiệm và phương tiện để chẩn đoán bệnh vảy nến nên đã chẩn đoán
nhầm với những bệnh da khác, đặc biệt trong những trường hợp thương tổn
không điển hình. Do vậy tỷ lệ tuổi khới phát có sự khác nhau ở các tác giả.
91
Theo Henseler và Christophers (1985), tuổi khởi phát bệnh vảy nến dưới
40 tuổi chiềm tỷ lệ 74,2% ở nam giới và 66,4% ở nữ giới, đỉnh khởi phát từ
độ tuổi 16-22 [37]. Theo Adisen và cs (2018), tuổi khởi phát trung bình là
32,2±13,8 (thấp nhất là 19 tuổi, cao nhất là 63 tuổi) [129].
Căn cứ vào sự có mặt của HLA lớp I, đặc biệt la HLA-CW6, Henseler và
Christophers chia vảy nến thành 2 typ vảy nến: vảy nến typ I, khởi phát trước
40 tuổi, có di truyền và HLA-CW6 chiếm 85,6%. Vảy nến týp II, khởi phát
sau 40 tuổi, không di truyền và HLA-CW6 chiếm 14,6% [37]. Nghiên cứu
của Mrowietz và cs (2009), khoãng 60% bệnh nhân vảy nến thuộc týp I với sự
có mặt của HLA-CW6, có yếu tố di truyền và đỉnh khởi phát 20-30 tuổi; 40%
thuộc týp II không liên quan đến yếu tố di truyền cũng như HLA, đỉnh khởi
phát 50-60 tuổi [39].
4.1.1.3. Phân bố thời gian bị bệnh của bệnh vảy nến thông thường
Qua nghiên cứu 130 bệnh nhân vảy nến thông thường, tại biểu đồ 3.2
cho thấy, bệnh nhân bị bệnh trên 10 năm chiếm nhiều nhất với tỷ lệ 38,46%, 5
– 10 năm là 36,15% và thấp nhất là dưới 5 năm chiếm tỷ lệ 25,38%.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2009), trên 214 bệnh
nhân vảy nến có 35,05% bị bệnh trên 10 năm [18]. Theo Nguyễn Bá Hùng
(2015), tuổi bị bệnh trên 10 năm cao nhất với tỷ lệ 41% [130]. Nghiên cứu
của chúng tôi tương tự như các tác giả trên.
Nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt với tác giả Đỗ Tiến Bộ (2012),
tuổi bệnh từ 1–10 năm chiếm tỷ lệ cao nhất 74,2% [19]. Do bệnh nhân nghiên
cứu của chúng tôi được quản lý, theo dõi, điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Da
liễu Trung ương – tuyến cuối trong chuyên ngành da liễu; vì vậy đa phần là
bệnh nhân vảy nến cũ bị bệnh nhiều năm, và tái phát nhiều lần.
Theo Mrowietz và cs (2009), tuổi bệnh dưới 40 năm chiếm tỷ lệ 60%,
dưới 15 năm chiếm 20% và thấp nhất là dưới 10 năm chiếm 10% [39]. Như
92
vậy bệnh vảy nến là một bệnh da mạn tính kéo dài, bệnh tái phát từng đợt.
4.1.1.4. Phân bố giới tính trong bệnh vảy nến thông thường
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại biểu đồ 3.3 cho thấy, nam là chủ
yếu chiếm tỷ lệ 66,15%, nữ 33,85%.
Theo Đặng Văn Em (1995), nam giới bị bệnh vảy nến chiếm 88,16%, nữ
giới chiếm 11,84% [16]. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2009), bệnh nhân vảy nến
chủ yếu là nam giới chiếm 91,56% [18]. Phan Huy Thục (2015), cho thấy
nam giới bị bệnh vảy nến chiếm 86,9% [123]. Như vậy bệnh vảy nến chủ yếu
ở nam giới.
Theo báo cáo toàn cầu của WHO (Tổ chức Y tế giới) (2016), cho thấy tỷ
lệ bệnh vảy nến tương đương nhau ở cả 2 giới. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu
chỉ ra rằng tỷ bệnh ở nam giới nhìn chung cao hơn nữ giới [2]. Theo
Mrowietz và cs (2009), tỷ lệ nam giới bị vảy nến là 60%, nữ giới là 40% [39].
Tỷ lệ phân bố giới tính có thể có sự khác nhau giữa các tác giả có lẽ do
nghiên cứu ở các vùng địa lý khác nhau, chịu tác động của các yếu tố môi
trường khác nhau dẫn đến tỷ lệ nam, nữ có sự khác biệt.
4.1.1.5. Phân bố nghề nghiệp trong bệnh vảy nến thông thường
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại biểu đồ 3.4 cho thấy, tỷ lệ bệnh vảy
nến phân bố theo nhiều nhóm nghề nghiệp khác nhau, gặp cao nhất ở đối tượng
làm nông chiếm 31,54%, hưu trí 23,85% và thấp nhất là bộ đội chiếm 4,62%.
Theo Phan Huy Thục (2015), bộ đội chiếm tỷ lệ cao nhất 44,04%, ít nhất
là học sinh sinh viên 5,96% [123]. Theo Nguyễn Bá Hùng (2015), bộ đội
chiếm 62,7%, học sinh sinh viên 6% [130]. Kết quả của chúng tôi khác so với
các tác giả do địa điểm, thời gian nghiên cứu khác nhau.
Trong thực hành lâm sàng, các thầy thuốc cần chú ý đến nghề nghiệp của
bệnh nhân từ đó xác định được những yếu tố về công việc tác động đến bệnh,
93
đưa ra chiến lược điều trị và dự phòng hợp lý, nhằm đạt hiệu quả tối ưu, góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh.
4.1.1.6. Tiền sử gia đình gặp trong bệnh vảy nến thông thường
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại biểu đồ 3.5 cho thấy, tỷ lệ gặp tiền
sử gia đình chiếm 12,32% trong đó có cha hoặc mẹ mắc bệnh chiếm tỷ lệ
6,93%, anh chị em ruột 4,62% và ông bà mắc bệnh chiếm tỷ lệ 0,77%.
Theo Đỗ Tiến Bộ (2012), tỷ lệ gặp tiền sử gia đình chiếm tỷ lệ 14,5%
[19]. Đặng Văn Em (2000), tỷ lệ gặp tiền sử gia đình chiếm tỷ lệ 12,42% [1].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các tác giả trên. Nhưng nghiên
cứu của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Phan Huy Thục (2015), tỷ lệ gặp
tiền sử gia đình chiếm tỷ lệ 20,84% trong đó bố và mẹ bị vảy nến chiếm
11,31%, anh chị em ruột 6,55% và ông bà là 2,98% [123]. Tuỳ thuộc vào từng
nghiên cứu mà tiền sử gia đình có sự khác nhau.
Theo Baker (1994) cho thấy tiền sử gia đình gặp ở 30% bệnh nhân có bố
hoặc mẹ bị vảy nến và có 72% các cặp sinh đôi cùng trứng bị vảy nến [34].
Theo Huang và cs (2019) khi nghiên cứu trên dân số chung Đài Loan cho
thấy nguy cơ bị bệnh vảy nến ở thế hệ thứ 1 tăng gấp 5,5 lần; thế hệ thứ 2
tăng gấp 2,5 lần. Tỷ lệ tiền sử gia đình chiếm 24,5% [36].
Như vậy tiền sử gia đình là một trong những yếu tố nguy cơ của bệnh
vảy nến và cùng với các yếu tố từ môi trường làm khởi phát hoặc làm nặng
lên tình trạng vảy nến. Vấn đề di truyền trong bệnh vảy nến được xác định có
sự liên quan với HLA, đặc biệt là HLA-CW6. Theo Zhang và cs (2003),
nghiên cứu dân số ở Đông Nam Trung Quốc cho thấy HLA lớp I đặc biệt là
HLA-CW6 có liên quan chặt chẽ với bệnh vảy nến, liên quan đến sự khởi
phát bệnh sớm [38]. Theo Gudjonsson J. E., và Elder J. T. (2007), nhận thấy
bệnh vảy nến có liên quan với các HLA như HLA-B13, B37, B46, B57, CW6,
DR7, trong đó HLA-CW6 đóng vai trò cao nhất trong bệnh sinh bệnh vảy nến
94
[25]. Căn cứ vào sự có mặt của HLA-CW6, tuổi khởi phát bệnh, tiền sử gia
đình để xác định týp vảy nến, gồm týp I (có mang HLA-CW6, khởi phát sớm
trước 40 tuổi, có tiền sử gia đình) và týp II (không mang HLA-CW6, khởi
phát muộn sau 40 tuổi, không có tiền sử gia đình) [25].
4.1.1.7. Phân bố bệnh vảy nến thông thường theo mùa
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.2 cho thấy, bệnh vảy nến
thông thường vượng bệnh nhiều nhất vào mùa đông chiếm tỷ lệ 58,46%, mùa
xuân 13,84%, mùa hè 9,23%. Như vậy bệnh chủ yếu nặng hơn vào mùa lạnh
chiếm 72,30%.
Theo Phan Huy Thục (2015), bệnh vảy nến nặng hơn chủ yếu vào mùa
đông với tỷ lệ 45,84%, mùa xuân là 20,82%, bệnh tái vượng liên quan đến
mùa mà chủ yếu là mùa đông chiếm 66,66% [123]. Đỗ Tiến Bộ (2012), tái
phát bệnh liên quan đến mùa, gặp nhiều vào mùa đông chiếm 56,4%, mùa
xuân là 24,2%, bệnh vảy nến nặng hoặc khởi phát hoặc tái phát chủ yếu vào
mùa lạnh chiếm 80,6% [19]. Như vậy, bệnh vảy nến thường nặng lên hoặc tái
phát vào mùa lạnh (từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau)
Theo Balato N. và cs (2013) nhấn mạnh đến ảnh hưởng của độ ẩm, ánh
sáng, nhiệt độ ngoài trời đối với quá trình tiến triển của bệnh vảy nến. Phần
lớn bệnh nặng về mùa đông, nhẹ về mùa hè [49].
Ánh nắng mặt trời, dùng nước ấm có tác dụng tốt đối với bệnh vảy nến,
trái lại dùng nước lạnh dường như làm bệnh phát triển, mùa lạnh bệnh tái phát
nhiều hơn [5]. Điều này có thể được giải thích theo rối loạn miễn dịch ở bệnh
nhân vảy nến. Ánh nắng có tác dụng ức chế tế bào lympho T, do đó có thể sử
dụng các tia cực tím như UVA, UVB để điều trị bệnh vảy nến mức độ vừa
đến nặng [25].
95
4.1.1.8. Bệnh kết hợp trong bệnh vảy nến thông thường
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.3 cho thấy, có nhiều bệnh
kết hợp gặp trong bệnh vảy nến thông thường, trong đó tăng huyết áp và rối
loạn chuyển hoá lipid chiếm tỷ lệ cao 16,92%, đái tháo đường 9,23%, bệnh tai
mũi họng 10,77%, bệnh tim mạch 6,15%, viêm gan B 4,62% và ít nhất là loét
dạ dày tá tràng 0,77%.
Theo Phan Huy Thục (2015), ở bệnh nhân vảy nến rối loạn chuyển hoá
lipid chiếm tỷ lệ cao 38,69%, tiếp đến tăng huyết áp 16,67%, đái tháo đường
9,52% [123]. Theo Đỗ Tiến Bộ (2012), nghiên cứu trên 62 bệnh nhân vảy nến
thì tỷ lệ có hội chứng chuyển hoá chiếm 17,7%, bệnh thân 4,8%, bệnh tiêu
hoá 1,6% [19]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các tác giả.
Theo Kimball và cs (2011), nghiên cứu 114512 bênh nhân vảy nến cho
thấy bệnh tăng lipid máu chiếm 27,3%, tăng huyết áp 25,4%, đái tháo đường
8,7%, bệnh tim mạch 8,6% và bệnh nhân vảy nến có bệnh lý tim mạch nhập
viện gấp 4,19 lần so với bệnh nhân vảy nến không có bệnh lý tim mạch, đây
là nguyên nhân gây tăng gánh nặng kinh tế cho bệnh nhân vảy nến [131].
Bệnh vảy nến có thể kết hợp với tỉ lệ cao với nhiễm khuẩn, bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính, đái tháo đường, viêm khớp vảy nến, ung thư, tăng huyết áp,
rối loạn chuyển hoá, béo phì, nhồi máu cơ tim ... [62], [63].
Hội chứng chuyển hoá (HCCH) và vảy nến có mối liên quan được đặc
trưng bởi tình trạng béo phì, tăng triglyceride, giảm HDL-C, kháng insulin và
tăng huyết áp. Béo phì bản thân nó là yếu tố nguy cơ độc lập phát triển bệnh
vảy nến. Tỉ lệ HCCH cao hơn ở bệnh nhân vảy nến nữ giới [63].
Theo Nguyễn Trọng Hào (2016) cho thấy tỷ lệ rối loạn lipid máu ở bệnh
nhân vảy nến là 53,9%, bệnh nhân vảy nến tăng triglycerid, cholesterol, LDL-
C, và giảm HDL-C [128].
96
Theo Jamil và cs (2016), nghiên cứu 120 bệnh nhân cho thấy tỷ lệ rối
loạn lipid máu là 55,8% [132].
Theo Salihbegovic E. M (2015) có tới 54,28% bệnh nhân vảy nến có
tăng huyết áp, mức độ tăng huyết áp có liên quan chặt chẽ với mức độ bệnh
[64]. Nghiên cứu của Chan và cs (2019) ở bệnh nhân vảy nến người
Singapore tỉ lệ HCCH lên tới 45,1% [133].
Hội chứng chuyển hoá gặp trên bệnh nhân vảy nến có thể do tính chất
viêm mạn tính, chuyển hoá tại chỗ và toàn thân, yếu tố di truyền, lối
sống…Vảy nến là tình trạng viêm mạn tính đặc trưng bởi sự gia tăng hoạt
động của Th1 và Th17. Ngoài những tương đồng về miễn dịch giữa bệnh vảy
nến và các bệnh lý liên quan, có một số gen chung giữa những tình trạng này,
đó là HLA-CW6 và TNF-𝛼. Hơn nữa, IL-1, IL-6, IL-8, IFN-𝛾 và IL-17 cũng
góp phần tạo nên những bất thường tiền xơ vữa như rối loạn lipid máu, đề
kháng insulin, rối loạn chức năng nội mô, hoạt hoá hệ thống đông máu và
stress tiền oxy hoá [134]. TNF-𝛼 là một chất hoạt hoá mạnh enzyme c-Jun
amino-terminal kinase, qua đó kích thích chất điều hoà hoạt tính tiền viêm
protein-1 và có liên hệ với béo phì. Nó cũng có thể dẫn đến sự đề kháng
insulin thông qua ức chế quá trình phosphoryl hoá thụ thể tyrosine và thụ thể
substrate 1 của insulin [134]. Trong bệnh vảy nến, rối loạn chuyển hoá lipid
tại chỗ như phospholipid, ceramides, acid béo tự do và cholesterol ở da dẫn
đến tương tác phân tử giữa thượng bì và huyết thanh gây nên rối loạn lipid
máu [134].
Nguy cơ bệnh tim mạch ở bệnh nhân vảy nến như béo phì, tăng huyết
áp, đái tháo đường typ 2, tăng mỡ máu và hút thuốc. Thời gian và mức độ
bệnh vảy nến liên quan đến tần suất bệnh lý tim mạch như nhồi máu cơ tim,
bệnh mạch vành và đột quỵ [134]. Theo Hu S. C. S. và Lan C. C. E. (2017),
nghiên cứu ở Anh, Bắc Mỹ cho thấy bệnh vảy nến liên quan đến các yếu tố
97
nguy cơ bệnh tim mạch, và liên quan đến mức độ bệnh; nguy cơ bệnh tim
mạch càng cao ở bệnh nhân vảy nến trẻ tuổi hoặc bệnh nhân trên 60 tuổi
[135].
4.1.1.9. Một số yếu tố môi trường (khởi động) bệnh vảy nến thông thường
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.4 cho thấy, tỷ lệ gặp stress
trong bệnh vảy nến thông thường khá cao chiếm 38,46%. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi phù hợp với các tác giả Phan Huy Thục (2015), stress trong
bệnh vảy nến gặp với tỷ lệ 34,87% [123]. Đặng Văn Em (2000), nghiên cứu
trên 153 bệnh nhân vảy nến thì 46,40% có yếu tố chấn thương tinh thần, trong
đó chủ yếu là stress xúc cảm chiếm 70,42%, tiếp theo là stress trí óc chiếm
14,90% và stress thể lực chiếm 12,68% [1]. Nguyễn Trọng Hào (2016),
43,8% bệnh nhân vảy nến mô tả stress là yếu tố gây vượng bệnh hay khởi
phát bệnh [128].
Theo Fortune và cs (1998) điều tra 162 bệnh nhân vảy nến thấy yếu tố
stress liên quan bệnh vảy nến là 60,1% trường hợp, trong đó 46% tin rằng thái
độ của họ có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến tiến triển của bệnh [41].
Manolache L. (2010) nhận thấy có 54,4% bệnh nhân vảy nến có yếu tố stress
liên quan với khởi động bệnh hoặc tái phát hoặc nặng thêm bệnh [42], [43].
Theo Rousset và Halioua (2018), cho thấy có 31-88% bệnh nhân vảy nến mô
tả stress là yếu tố gây vượng bệnh hay khởi phát bệnh [136].
Các stress này làm tăng tiết hormon trục tuyến yên-thượng thận, các
hormon này sẽ tác động lên da gây ra những dị thường của các thụ thể ở tế
bào sừng và hậu quả là tế bào keratin tăng sản bất thường [43].
Hiểu biết về cơ chế tác động của stress đến bệnh vảy nến góp phần thành
công trong chiến lược điều trị bệnh vảy nến bằng tâm lý trị liệu. Để khống chế
tốt stress, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa bệnh nhân và bác sỹ chuyên khoa
để đưa ra chiến lược phù hợp. Thầy thuốc da liễu cần khai thác, tìm hiểu
98
nguyên nhân gây stress, giải thích để bệnh nhân lạc quan tin tưởng vào điều
trị. Hiện nay người ta đưa ra một số kỹ thuật kiểm soát stress như tập thể dục
thường xuyên, tập Yoga, tập thiền, massage, châm cứu, bấm huyệt…[9].
- Chấn thương da (hiện tượng Koebner):
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.4 cho thấy, chấn thương da
(vết xước, chấn thương) chiếm tỷ lệ 20,77%. Tỷ lệ chấn thương da phụ thuộc
nhiều vào nghề nghiệp, mức độ ngứa, dân trí, bảo hộ lao động…của bệnh
nhân.
Tổn thương vảy nến xuất hiện tại những nơi có chấn thương thượng bì:
Vết mổ, vết bỏng, vết xước da do cào gãi, chà sát, nơi châm cứu, nơi chủng
đậu, vết xăm… [48]. Các kích thích này làm khởi động phản ứng viêm của da
và kích thích tế bào miễn dịch tiết ra các cytokine tiền viêm (IL-6, IL-8, TNF-
a), cùng các phân tử kết dính (ICAM-1) đã hoạt hoá các tế bào đơn nhân
(monocytes). Phản ứng tiếp theo sau chấn thương thượng bì là sự lan rộng các
chất hoạt hoá plasminogene. Các enzyme tiêu protein này có tác dụng trong
liền sẹo và tân tạo tổ chức, trong sinh trưởng và biệt hoá tế bào thượng bì [5],
[47].
Theo Nhâm Thế Thy Uyên (2002), chấn thương da gây xuất hiện vảy
nến chiếm 24,02% [23]. Theo Nguyễn Trọng Hào (2016) cho thấy có 23,4%
bệnh nhân ghi nhận có hiện tượng Koebner [128]. Nghiên cứu của chúng tôi
phù hợp với các tác giả.
Theo Naldi và Gambini (2007), 30% bệnh nhân vảy nến xuất hiện
thương tổn trên vùng da bị chấn thương [137]. Qua nhiều nghiên cứu các tác
giả xác định chấn thương da như một yếu tố khởi động mà người ta gọi là
hiện tượng Koebner. Tần suất của hiện tượng koebner thay đổi từ 38-76% số
bệnh nhân, phản ứng xuất hiện vảy nến thường xảy ra 1-2 tuần sau chấn
thương da [5], [25].
99
Hiện tượng Koebner chỉ xuất hiện khi tổn thượng thượng bì đủ độ sâu và
bệnh đang tiến triển. Hiện tượng Koebner cũng là cơ sở để giải thích tại sao
trong bệnh vảy nến có vị trí tổn thương đặc hiệu, đó là do các vi chấn thương
xảy ra một cách thường xuyên tại vị trí đó [9], [25].
- Nhiễm khuẩn (xoang, mũi, họng):
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.4 cho thấy, nhiễm khuẩn
xoang, mũi, họng chiếm tỷ lệ 5,38%. Có nhiều nghiên cứu chỉ ra vai trò của
các ổ nhiễm khuẩn khu trú liên quan tới quá trình phát sinh và phát triển bệnh
vảy nến. Trong đó chủ yếu là các nhiễm khuẩn xoang, mũi, họng.
Theo Nhâm Thế Thy Uyên (2002), nhiễm khuẩn khu trú chiếm 11,27%,
trong đó viêm xoang, mũi, họng chiếm 6,86% [23]. Phan Huy Thục (2015),
nhiễm khuẩn xoang, mũi, họng chiếm tỷ lệ 4,62% [123]. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi tương tự với các tác giả.
Nguyên nhân nhiễm khuẩn đặc biệt do liên cầu tan huyết b nhóm A gây
bệnh là 57,1%, tụ cầu là 28,3%. Một nhiễm khuẩn liên cầu dai dẳng có thể
gây các thể vảy nến mảng mạn tính [5]. Tính mẫn cảm với liên cầu này có thể
do bệnh nhân mang một số kháng nguyên phù hợp tổ chức, nhất là kháng
nguyên HLA-B13 [9], [25]. Chính protein liên cầu M và độc tố là kháng
nguyên bề mặt kích thích tăng sinh tế bào lympho T rõ rệt [9], [25]. Các
nhiễm khuẩn khu trú do nhiễm liên cầu khuẩn có thể làm khởi phát vảy nến
thể giọt hoặc làm nặng một bệnh vảy nến đã có sẵn thường sau 1-2 tuần [44].
Phòng ngừa và điều trị sớm bằng kháng sinh thích hợp, hạn chế sự tấn
công của nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, nhiễm khuẩn ngoài da (đặc biệt trẻ
em) đã ngăn cản xuất hiện vảy nến thể giọt [5], và cải thiện tốt vảy nến thể
giọt ở trẻ em [45], [46].
100
- Một số thuốc:
Trong số 130 bệnh nhân chúng tôi nghiên cứu theo bảng 3.4, có 11/130
bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 8,46% có liên quan đến một số thuốc như kháng sinh,
giảm đau trong tiến triển của bệnh. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp
với tác giả Phan Huy Thục (2015), bệnh nhân có mối liên quan với một số
thuốc kháng sinh, giảm đau làm bệnh nặng hơn chiếm tỷ lệ 7,69% [123].
Nhưng kết quả của chúng tôi lại thấp hơn tác giả Đặng Văn Em (1995), 125
bệnh nhân vảy nến được nghiên cứu có 15,2% có tác động của thuốc. Trong
đó, K-cort chiếm 31,5%, DDS 15,79%, ampicillin 5,26% [16]; có lẽ do
nghiên cứu thực hiện tại các thời điểm khác nhau, hiểu biết của bệnh nhân về
bệnh vảy nến còn hạn chế nên chưa biết cách thận trọng khi sử dụng thuốc.
Trong bệnh vảy nến một số thuốc có thể làm khởi phát hoặc trầm trọng
hơn bệnh vảy nến: Các thuốc ức chế b, lithium, thuốc chống sốt rét, thuốc
chống viêm không steroid, ức chế enzyme angiotensin [50], [51], [52]. Thuốc
ức chế beta và lithium là hai thuốc có khả năng phát bệnh hoặc làm trầm trọng
thêm bệnh vảy nến có sẵn do nó làm giảm hoạt động enzyme adenylcydase là
làm trầm trọng thêm việc mất cân bằng nucleotid vòng (AMPc/GMPc của
thượng bì vảy nến) [50]. Các thuốc chống viêm nonsteroid như
Indomethacine, phenylbutasone, oxyphenylbutasone, acid salicylic… có thể
khởi phát hoặc trầm trọng hơn bệnh vảy nến mà cơ chế là ức chế con đường
tạo prostaglandin từ acid arachidonic, làm giảm prostaglandin E, tăng
leucotrien, góp phần tăng sinh thượng bì [5].
Ngừng đột ngột thuốc corticoid toàn thân cũng làm bệnh xuất hiện hoặc
chuyển sang những thể vảy nến nặng (vảy nến đỏ da toàn thân hoặc vảy nến
mụn mủ). Theo Baker H. và Ryan T.J (1968) nghiên cứu 104 bệnh nhân vảy
nến mụn mủ có ít nhất 1/3 bệnh nhân khởi phát vảy nến mụn mủ sau khi dừng
corticoid toàn thân [53]. Do vậy, đến nay các thầy thuốc chuyên khoa đều
khuyến cáo không dùng corticoid toàn thân để điều trị cho tất cả các thể vảy
nến [5].
101
- Thức ăn, đồ uống:
130 bệnh nhân chúng tôi nghiên cứu theo bảng 3.4 cho thấy, tỷ lệ bệnh
nhân bị ảnh hưởng bởi thức ăn, đồ uống đến tiến triển của bệnh chiếm
26,93%.
Theo Phan Huy Thục (2015), có 28,72% bệnh nhân vảy nến bị ảnh
hưởng đến tái phát, vượng bệnh bởi thức ăn, uống rượu bia [123]. Nguyễn Thị
Hồng Hạnh (2009), có 36,47% bệnh nhân vảy nến bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn
uống [18]. Kết quả của chúng tôi gần tương tự như các tác giả.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy chế độ ăn, uống ảnh hưởng đến
tiến triển của bệnh vảy nến [25]. Đặc biệt trong chế độ ăn có nhiều dầu cá đã
cho kết quả tốt và có thể đóng vai trò điều trị phụ trợ không thể xem nhẹ [54].
Ăn nhiều hoa quả có tác dụng tăng khả năng bảo vệ đối với bệnh [9]. Nhiều
nghiên cứu cho thấy chế độ ăn ít hoặc không có gluten giúp cải thiện tình
trạng bệnh [55], [56].
Trong thực hành lâm sàng, chúng tôi nhận thấy ảnh hưởng của thức ăn
đến tái vượng bệnh vảy nến có yếu tố cá thể, có bệnh nhân bị tác động với
thức ăn này nhưng bệnh nhân khác lại bị tác động bởi thức ăn khác. Do đó các
thầy thuốc da liễu cần khai thác tỉ mỉ các yếu tố liên quan đến thức ăn đồ
uống ảnh hưởng đến tiến triển bệnh của bệnh nhân để đưa ra tư vấn điều trị
đạt hiệu quả tốt hơn.
Về vai trò của rượu, những nghiên cứu gần đây đã chứng minh có sự liên
quan thực sự giữa bệnh vảy nến và mức độ tiêu thụ rượu [57]. Rượu có thể tác
động trực tiếp hay gián tiếp kích hoạt quá trình sản xuất các cytokine viêm và
yếu tố tăng trưởng keratinocytes làm bùng phát hoặc nặng lên bệnh vảy nến.
Hơn nữa bệnh nhân vảy nến mức độ trung bình hoặc nặng có tỉ lệ tử vong cao
hơn do các bệnh liên quan đến rượu đặc biệt là bệnh lý tim mạch [58]. Theo
Poikolainen K. và cs, cho thấy nguy cơ mắc bệnh vảy nến ở người sử dụng
102
rượu 100g/ngày so với người không sử dụng rượu là 2,2 lần [138]. Chính
nghiện rượu là một yếu tố quan trọng tác động đến bệnh vảy nến, đặc biệt là
làm cho bệnh trở nên mạn tính. Những bệnh nhân nam bị vảy nến nặng
thường là những người tiêu thụ rượu quá mức, sự tiêu thụ rượu làm giảm hiệu
quả điều trị và gây ra những rối loạn tâm lý [9].
Theo Đặng Văn Em (2000) nghiên cứu trên 153 bệnh nhân vảy nến cho
thấy có 71% bệnh nhân vảy nến có liên quan đến việc sử dụng rượu [1].
Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2009), rượu có liên quan rõ rệt và nhiều nhất đến sự
phát triển bệnh vảy nến chiếm tỷ lệ 56% [18].
Theo Svanstrom C. và cs (2019), tỷ lệ uống rượu ở bệnh nhân vảy nến
khoảng 17-30%, có mối liên quan giữa lượng rượu tiêu thụ hàng ngày với tình
trạng mệt mỏi, trầm cảm [139].
Như vậy, bệnh vảy nến là một bệnh có cơ địa di truyền được tác động
bởi các yếu tố môi trường: stress, chấn thương da, một số thuốc, nhiễm
khuẩn, thức ăn đồ uống sẽ kích hoạt các phản ứng miễn dịch và dẫn đến khởi
phát bệnh hoặc làm trầm trọng hơn bệnh vảy nến đã có.
4.1.2. Một số đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông thường
4.1.2.1. Vị trí tổn thương khởi phát
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại biểu đồ 3.6 cho thấy, vị trí tổn
thương khởi phát bệnh chủ yếu vùng da đầu chiếm 72,31%, chi trên 17,69%,
chi dưới 6,15%, lưng 2,31%, ít nhất là vùng ngực 1,54%. Kết quả của chúng
tôi phù hợp với các tác giả Phan Huy Thục (2015), tổn thương da khởi phát
bệnh chủ yếu gặp ở vùng da đầu chiếm 80,36% [123]. Nguyễn Bá Hùng
(2015), khởi phát vùng đầu chiếm 81% [130]. Nguyễn Thị Hồng Hạnh
(2009), vị trí tổn thương đầu tiên lúc phát bệnh gặp ở vùng đầu chiếm tỷ lệ
cao nhất 67,28% [18].
Theo Mrowiet U (2009), vị trí khởi phát vùng đầu chiếm tỷ lệ 30% và
103
trên 75% trong quá trình tiến triển của bệnh [39].
Theo nhiều tác giả cho thấy đa số tổn thương vảy nến khởi phát vùng
đầu [5], [22]. Tổn thương các mảng vùng đầu đơn độc thường khó chẩn đoán,
muốn chẩn đoán xác định phải làm mô bệnh học nhưng khi có tổn thương
vượt quá ria trán thì gần như chắc chắn là bị vảy nến [9]. Khi bệnh vảy nến đã
qua một thời gian nhất định với sự tác động của các yếu tố khởi động, các tổn
thương vảy nến đã xuất hiện ngoài trên đầu còn có nơi khác. Lúc này việc
chẩn đoán bệnh đa số không còn khó. Tuy nhiên, các vị trí đặc hiệu của bệnh
cũng cần được quan tâm và giúp nhiều cho việc quyết định chẩn đoán [9].
Như vậy, trong thực hành lâm sàng các thầy thuốc da liễu nên chú trọng
đến việc nhận biết các tổn thương đỏ da bong vảy vùng đầu để có thể chẩn
đoán sớm bệnh vảy nến, và có lựa chọn thích hợp điều trị cho bệnh nhân.
4.1.2.2. Vị trí tổn thương hiện tại
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại biểu đồ 3.7 cho thấy, vị trí tổn
thương hiện tại thân mình là nhiều nhất 91,54%, tiếp đến là tổn thương ở chi
dưới 86,92%, đầu 80,77%, chi trên 72,31%, thấp nhất là tổn thương ở móng
3,08%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Phan
Huy Thục (2015), tổn thương da hiện tại gặp chủ yếu ở thân mình chiếm
90,48%, da đầu 80,36% [123].
Theo Wozel G. (2008), nghiên cứu ở Hà Lan tỷ lệ gặp tổn thương vảy
nến ở da đầu chiếm 79%, nghiên cứu ở Đức tỷ lệ chiếm 81%. Ngoài tổn
thương vảy nến ở da đầu còn kết hợp với tổn thương ở thân mình, chi trên, chi
dưới và các vùng da khác [140].
Ngoài tổn thương trên da đầu, vảy nến còn hay gặp ở các vùng tỳ đè,
vùng bị cọ xát (rìa trán, khuỷu tay, bờ xương trụ cẳng tay, đầu gối, mặt trước
xương chày, xương cùng…) thường ở mặt duỗi nhiều hơn mặt gấp, sắp xếp có
tính chất đối xứng hai bên [9]. Tổn thương có thể xuất hiện ở những vùng da
104
có chấn thương thượng bì đủ độ sâu (vết bỏng, vết mổ, vết xước da, nơi chủng
đậu, nơi châm cứu…) [48].
Dựa vào vị trí tổn thương hiện tại giúp chẩn đoán bệnh vảy nến, cũng
như chẩn đoán mức độ bệnh, theo dõi tiến triển của bệnh giúp các thầy thuốc
da liễu đánh giá hiệu quả của phương pháp điều trị đang áp dụng cho bệnh
nhân, từ đó có chiến lược điều trị tiếp theo phù hợp nhằm nâng cao cuộc sống
cho người bệnh.
4.1.2.3. Các thể lâm sàng
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại biểu đồ 3.8 cho thấy, trong vảy nến
thông thường thì vảy nến thể mảng chiếm chủ yếu 95,38%, ít nhất là vảy nến
thể đồng tiền 1,54%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự các tác giả
Đỗ Tiến Bộ (2012), vảy nến thể mảng chiếm tỷ lệ cao 91,9% [19]. Phan Huy
Thục (2015), vảy nến thể mảng chiếm 85,21% [123].
Nghiên cứu của Armstrong A. W. (2020) cho thấy, vảy nến thể mảng
chiếm 80-90% [8]. Lebwohl M. (2003), trên 80% bệnh nhân vảy nến là thể
mảng [13].
Như vậy, theo nghiên cứu của nhiều tác giả thấy rằng vảy nến thể mảng
là thể lâm sàng hay gặp nhất. Đây là thể mạn tính, tiến triển từ vài cm trở lên,
có tính chất cố thủ dai dẳng. Thường là các đám mảng lớn trên 2cm, có khi 5-
10cm đường kính hoặc lớn hơn, khu trú ở các vùng tỳ đè [17], [24].
4.1.2.4. Mức độ bệnh
Dựa theo chỉ số PASI, người ta chia vảy nến thông thường thành 3 mức
độ: mức độ nhẹ khi PASI<10; mức độ vừa khi PASI từ 10-<20; mức độ nặng
khi PASI≥20 [5], [29], [30]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại biểu đồ 3.9
cho thấy, mức độ nhẹ cao nhất chiếm tỷ lệ 53,08%, mức độ nặng chiếm
36,15% và thấp nhất là mức độ vừa chiếm 10,77%. Kết quả nghiên cứu của
105
chúng tôi phù hợp với Nguyễn Trọng Hào (2016), mức độ nhẹ chiếm tỷ lệ cao
nhất 58% [128].
Có nhiều tác giả nghiên cứu về mức độ bệnh vảy nến. Phan Huy Thục
(2015), cho thấy mức độ vừa chiếm tỷ lệ cao nhất 50,0%, mức độ nặng chiếm
37,32%, mức độ nhẹ chiếm 12,68%% [123]. Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2009),
mức độ nhẹ chiếm tỷ lệ 34,11%, mức độ vừa 35,05%, mức độ nặng 30,84%
[18]. Kết quả nghiên cứu của các tác giả có sự khác nhau giữa các mức độ
bệnh, điều này dễ hiểu vì nghiên cứu là nghiên cứu cắt ngang tại một thời
điểm nhất định với các địa điểm khác nhau. Trong khi bệnh vảy nến là một
bệnh mạn tính, tái phát và vượng bệnh nhiều lần trong quá trình tiến triển của
bệnh.
Đánh giá mức độ bệnh vảy nến là một nội dung quan trọng và cần thiết
cho các thầy thuốc da liễu trong thực hành lâm sàng và trong nghiên cứu khoa
học. Nhờ đó mà đưa ra chiến lược điều trị phù hợp, đánh giá được hiệu quả
điều trị.
4.2. Kết quả thay đổi nồng độ một số cytokine trong máu của bệnh nhân
VNTT mức độ nặng trước và sau điều trị CyA
Bệnh vảy nến là một bệnh da mạn tính, hay tái phát, ảnh hưởng nhiều
đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Bệnh sinh của bệnh vảy nến còn
nhiều điểm chưa sáng tỏ, nhưng đến nay đa số các tác giả đã thống nhất cho
bệnh vảy nến là bệnh da có yếu tố di truyền [7], [19], [20], có cơ chế miễn
dịch, có hiện tượng tăng sinh quá mức tế bào thượng bì và được khởi động
bởi một số yếu tố (stress, nhiễm khuẩn, chấn thương cơ học, vật lý, thời tiết,
vai trò của thuốc, thức ăn…). Có nhiều cytokine tham gia vào cơ chế bệnh
sinh bệnh vảy nến nhưng trục IL-23/TH17 đóng vai trò trung tâm [32].
Cytokine là những protein sinh học, trọng lượng phân tử thấp, do các tế bào
miễn dịch tạo ra, tham gia vào quá trình biệt hoá tế bào, điều hoà đáp ứng
106
miễn dịch và viêm. Đáp ứng qua trung gian cytokine là một quá trình phức
tạp, có sự tham gia của nhiều thành phần, sự cần thiết của cơ chế bảo vệ tự
nhiên của cơ thể, nhưng khi sản xuất quá mức các cytokine trong da và huyết
thanh đã dẫn đến tăng sinh, biệt hoá các tế bào keratin cũng như các tế bào
miễn dịch gây nên tổn thương bệnh vảy nến [100], [101]. Cytokine được
nhiều tế bào sản xuất (tế bào đuôi gai, Langerhans, Th1, Th2, Th17…) bao
gồm IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF-𝛼, IFN-𝛾… [101]. Vì vậy,
việc xác định nồng độ các cytokine trong máu bệnh nhân vảy nến góp phần
sáng tỏ thêm cơ chế bệnh sinh của bệnh, từ đó có các phương pháp điều trị
đích nhằm nâng cao hiệu quả điều trị, kéo dài thời gian ổn định bệnh.
4.2.1. Đặc điểm của nhóm nghiên cứu và nhóm đối chứng
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.5 cho thấy, tuổi trung bình
của nhóm nghiên cứu là 53,97±13,98, nam chiếm 60,00%, nữ 40,00%. Tuổi
trung bình ở nhóm đối chứng là 51,32 ± 13,46, nam chiếm 63,64%, nữ
36,36%. Như vậy, tuổi đời và giới tính của 2 nhóm là tương đương nhau đều
với p >0,05.
4.2.2. Kết quả định lượng cytokine trước điều trị
- Nồng độ cytokine trước điều trị: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại
bảng 3.6 cho thấy, nồng độ IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF-𝛼, IFN-𝛾
trước điều trị của nhóm nghiên cứu cao hơn so với nhóm đối chứng với
p<0,001. Riêng IL-2 thì không thay đổi giữa 2 nhóm với p>0,05. Không có sự
liên quan giữa nồng độ các cytokin với PASI, nhưng có mối liên quan giữa
một số cytokin với nhau. Cụ thể: IL-6 liên quan thuận với IL-8, IL-10, IL-12,
TNF-α; IL-8 liên quan thuận với IL-12, TNF-α; IL-10 liên quan với TNF-α và
IL-12 liên quan thuận với TNF-α, IFN-γ.
Theo Phan Huy Thục (2015), nồng độ cytokine ở 72 bệnh nhân vảy nến
thông thường cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng với p<0,01
107
(IL-17, IFN-𝛾) và p<0,001 (IL-6, IL-8, IL-10, TNF-𝛼, IL-23) [123]. Kết quả
của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả của Phan Huy Thục là IL-6, IL-8, IL-
10, IL-12, IL-17, TNF-α, IFN-γ trong máu bệnh nhân vảy nến thông thường
đều cao hơn nhóm đối chứng có ý nghĩa thống kê.
Theo Arican O. và cs (2005), nghiên cứu nồng độ các cytokine trên 30
bệnh nhân vảy nến (18 nam, 12 nữ) so với người khoẻ cho thấy, nồng độ IL-
6, IL-8, IL-12, IL-18, TNF-𝛼, IFN-𝛾 đều tăng cao có ý nghĩa thống kê với
p<0,01. IL-17 cao hơn so với người khoẻ nhưng chưa có ý nghĩa thống kê.
Nồng độ tăng cao IFN-𝛾, IL-12, IL-17, IL-18 có liên quan với mức độ bệnh
vảy nến. Và tác gỉa đề xuất việc định lượng nồng độ các cytokine có thể là
một chỉ số tham gia vào đánh giá mức độ bệnh [103]. Kết quả chúng tôi cho
thấy IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF-, IFN- đều tăng cao hơn nhóm
người khỏe như kết quả của Arican.
Theo Takahashi H. và cs (2010), nghiên cứu nồng độ cytokine ở 122
bệnh nhân vảy nến người Nhật Bản trước và sau điều trị với độ tuổi trung
bình 47,5±7,6, có 81 nam và 41 nữ so với 78 người khoẻ cho thấy, nồng độ
IL-2 không có sự khác biệt với người khoẻ; nồng độ IL-6, IL-8, IL-12, IL-17,
TNF-𝛼, IFN-𝛾 cao hơn so với người khoẻ có ý nghĩa thống kê với p<0,05 và
có mối tương quan thuận giữa mức độ bệnh (PASI) với nồng độ IL-12, IL-17,
TNF-𝛼, IFN-𝛾 [141].
Theo Coimbra S. và cs (2010), nghiên cứu trên 34 bệnh nhân vảy nến so
với 20 người khoẻ đối chứng cho thấy, nồng độ IL-17, IL-22, IL-23 đều cao
hơn ở nhóm bệnh nhân vảy nến có ý nghĩa thống kê với p<0,001, IL-8 với
p<0,05. Còn nồng độ TNF-𝛼 cao hơn so với nhóm người khoẻ. Tuy nhiên, sự
khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê. Như vậy, trục IL-23/Th-17 đóng vai
trò chính trong bệnh sinh vảy nến [142].
108
Theo Michalak-Stoma và cs (2013), nghiên cứu so sánh 60 bệnh nhân
vảy nến và 30 người khoẻ đối chứng cho thấy, nồng độ IL-6, IL-20, IL-22
trong máu bệnh nhân vảy nến đều cao hơn nhóm đối chứng và liên quan mức
độ bệnh. IL-12, IL-17, IL-23 so với nhóm người khoẻ đối chứng sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê đều với p>0,05 [105].
Theo Borska L. và cs (2008), xác định nồng độ IL-10, IL-12 ở 55 bệnh
nhân vảy nến so với 47 người khoẻ thấy rằng nồng độ IL-10, IL-12 của bệnh
nhân vảy nến tăng cao có ý nghĩa thống kê với p<0,001 [143].
Theo Abanmi A. và cs (2005), định lượng nồng độ IL-2 receptor hoà tan,
IL-6, IL-8 và TNF-𝛼 ở 29 bệnh nhân vảy nến và 25 người khoẻ cho thấy nồng
độ IL-2 receptor hoà tan, IL-6, IL-8 và TNF-𝛼 đều cao hơn so với nhóm
người khoẻ với p<0,05 [144].
Theo Abdel Hamid và cs (2011) khi nghiên cứu trên 60 bệnh nhân vảy
nến người Ai Cập (31 nữ, 29 nam, tuổi trung bình 40,2±17,4) nhận thấy,
nồng độ TNF-𝛼, IFN-𝛾 tăng cao rõ rệt so với người khoẻ với p<0,001 và
nồng độ IL-8 tăng cao hơn với p<0,05. Tác giả cũng đề xuất việc sử dụng
TNF-𝛼 là chỉ số đánh giá mức độ nặng của bệnh [145].
Theo Verghese B. và cs (2011), nghiên cứu trên 30 bệnh nhân vảy nến
và 30 người khoẻ tương đồng về tuổi, giới nhận thấy, nồng độ TNF-𝛼 và IL-6
đều tăng hơn rõ rệt ở nhóm bệnh nhân vảy nến với p<0,001. Riêng IL-4, IL-
10 sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê với p>0,05 [146].
Theo Bajaj S. và cs (2017), định lượng nồng độ IL-17, IL-22 và IL-23 ở
30 bệnh nhân vảy nến cho thấy nồng độ IL-17, IL-22 và IL-23 tăng cao rõ rệt
ở bệnh nhân vảy nến có ý nghĩa thống kê với p<0,05, p<0,001 so với nhóm
người khoẻ tương đồng về tuổi, giới. Nồng độ các interleukin này tương quan
chặt chẽ với mức độ bệnh [147].
109
Như vậy, qua các nghiên cứu của các tác giả cho thấy trong bệnh vảy
nến các cytokine (IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF-𝛼, IFN-𝛾 tăng
cao hơn so với người khoẻ. Các cytokine tạo ra và duy trì các đáp ứng miễn
dịch, dẫn đến tăng sinh, biệt hoá các tế bào keratin cũng như các tế bào miễn
dịch gây nên tổn thương trong bệnh vảy nến.
IFN –𝛾 là yếu tố quan trọng, xuất hiện trong giai đoạn sớm của bệnh vảy
nến làm tăng số lượng các tế bào miễn dịch di chuyển đến da, ảnh hưởng đến
đáp ứng miễn dịch; IFN –𝛾 kích thích sản xuất nhiều yếu tố tiền viêm như IL
-1, IL-6, IL-8, IL-12, IL-15, TNF-𝛼. IFN-𝛾 còn kích thích tế bào tua sản xuất
IL-1, IL-23, IL-23 kích thích Th17, Th22 sản xuất IL-17, IL-22 [102]. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.6 cho thấy, nồng độ IFN- 𝛾 là
2,366±3,236 pg/ml tăng cao rõ rệt so với nhóm đối chứng (p<0,001). Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các tác giả Phan Huy Thục (2015)
[123], Arican O. và cs (2005) [103], Takahashi H. và cs (2010) [141], Abdel
Hamid và cs (2011) [145].
TNF-𝛼, một cytokine của Th1 và Th17, ảnh hưởng đến quá trình tăng
sản, hoạt hoá và biệt hoá một số dạng tế bào. TNF-𝛼 kích thích các tế bào
trình diện KN (APCs) tiết ra IL-23 và đáp ứng của Th17 [102]. TNF-𝛼 chủ
yếu làm tăng sản các tế bào lympho tại chỗ, thúc đẩy thâm nhiễm tế bào
lympho T và các tế bào viêm khác. TNF-𝛼 còn làm tăng biểu đạt IL-8, làm
tăng hoá ứng động bạch cầu tới ổ viêm, cùng với IFN-𝛾 làm tăng biểu đạt các
phân tử kết dính ICAM-1 [101]. Nồng độ TNF-𝛼 tăng ở bệnh nhân vảy nến.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.6 cho thấy, nồng độ TNF-𝛼 là
4,884±7,777 pg/ml tăng cao rõ rệt so với nhóm đối chứng với p<0,001. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các tác giả Phan Huy Thục (2015)
[123], Arican O. và cs (2005) [103], Takahashi H. và cs (2010) [141], Abanmi
110
A. và cs (2005) [144], Abdel Hamid và cs (2011) [145], Verghese B. và cs
(2011) [146].
IL-17 là một thành phần quan trọng hình thành và duy trì quá trình viêm,
do IL-17A kích thích tế bào nội mạc và đại thực bào sản xuất ra các cytokine
tiền viêm khác [69], [74]. Nồng độ IL-17 tăng cao trong huyết thanh bệnh
nhân và tại da tổn thương, liên quan với mức độ bệnh [101]. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi tại bảng 3.6 cho thấy, nồng độ IL-17 là 1,037±2,107pg/ml
tăng cao rõ rệt so với nhóm đối chứng với p< 0,001. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi phù hợp với các tác giả Phan Huy Thục (2015) [123], Takahashi H.
và cs (2010) [141], Coimbra S. và cs (2010) [142], Bajaj S. và cs (2017)
[147].
IL-12 tăng ở tổn thương vảy nến, có tác dụng thúc đẩy và duy trì Th1 sản
xuất ra IFN-𝛽, cũng là cytokine chủ yếu tham gia vào quá trình sinh bệnh học
bệnh vảy nến [9], [71]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.6 cho
thấy, nồng độ IL-12 là 1,471±0,689 pg/ml tăng cao rõ rệt so với nhóm đối
chứng với p<0,001. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các tác giả
Arican O. và cs (2005) [103], Takahashi H. và cs (2010) [141], Borska L. và
cs (2008) [143].
IL-10 có tác dụng ức chế sản xuất cytokine của Th1 (IL-2 và IFN−𝛾), ức
chế tế bào trình diện KN hoạt hoá, tăng sản xuất cytokine của Th2 như IL-4,
IL-5… Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.6 cho thấy, nồng độ IL-
10 là 3,919±3,835 pg/ml tăng cao rõ rệt so với nhóm đối chứng với p<0,001.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các tác giả Phan Huy Thục
(2015) [123], Borska L. và cs (2008) [143].
Trong bệnh vảy nến các tế bào biểu mô sừng tiết ra IL-8 làm di chuyển
và thoái hoá bạch cầu hạt. IL-8 hoạt hoá làm di chuyển các tế bào lympho T,
NK và bạch cầu. Ngoài ra IL-8 có vai trò quan trọng trong kết dính tế bào,
111
thúc đẩy tăng sinh tế bào keratin, tân tạo mạch [101]. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi tại bảng 3.6 cho thấy, nồng độ IL-8 là 495,150±783,798 pg/ml tăng
cao rõ rệt so với nhóm đối chứng với p<0,001. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi phù hợp với các tác giả Phan Huy Thục (2015) [123], Arican O. và cs
(2005) [103], Takahashi H. và cs (2010) [141], Abanmi A. và cs (2005) [144],
Abdel Hamid và cs (2011) [145].
IL-6 kích thích sự tăng sinh và biệt hoá các lympho T, là yếu tố biệt hoá
tế bào B thành tương bào sản xuất kháng thể, thúc đẩy tăng sinh tế bào sừng
và lympho T hoạt hoá ở bệnh vảy nến [5], [104]. IL-6 tăng trong huyết thanh
bệnh nhân vảy nến tiến triển và cũng tăng đồng thời tại da vẩy nến [103]. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.6 cho thấy, nồng độ là IL-6
42,266±98,348 pg/ml tăng cao rõ rệt so với nhóm đối chứng với p<0,001. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các tác giả Phan Huy Thục (2015)
[123], Arican O. và cs (2005) [103], Takahashi H. và cs (2010) [141],
Michalak-Stoma và cs (2013) [105], Abanmi A. và cs (2005) [144], Verghese
B. và cs (2011) [146].
IL-2 được tiết ra từ các tế bào NK, Th1. Nó là yếu tố quan trọng trong sự
biệt hoá, tăng sinh và tăng trưởng tế bào T để trở thành Th1, Th2, Th17, Th22
và kích thích hoạt động tế bào NK, tăng cường hoá ứng động bạch cầu và gây
ngứa [102]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.6 cho thấy, nồng độ
IL-2 là 2,000±0,000 pg/ml không có sự khác biệt so với nhóm đối chứng với
p>0,05. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với tác giả Takahashi H.
và cs (2010) [141].
- Mối liên quan giữa nồng độ các cytokine trước điều trị với một số yếu
tố liên quan: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.7 cho thấy, không
có sự liên quan giữa nồng độ các cytokine trước điều trị với kết quả điều trị
với p>0,05. Tại bảng 3.8 cho thấy, nồng độ các cytokine trước điều trị chưa
112
có sự khác biệt giữa hai giới với p>0,05. Bảng 3.9 cho thấy, chỉ có nồng độ
IL-10 trước điều trị có thay đổi giữa các nhóm tuổi, tuổi càng cao thì nồng độ
IL-10 càng tang với p<0,05. Các cytokine còn lại không có mối liên quan với
nhóm tuổi với p>0,05. Bảng 3.10 cho thấy, không có sự liên quan giữa nồng
độ các cytokine trước điều trị với tuổi bệnh với p>0,05.
Theo Phan Huy Thục (2015), không có mối liên quan giữa nồng độ các
cytokine (IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17, IL-23, TNF-𝛼, IFN-𝛾) với tuổi
đời, tuổi bệnh, giới tính [123]. Như vậy, kết quả của chúng tôi phù hợp với
Phan Huy Thục.
Theo Bajaj S. và cs (2017), không có mối liên quan giữa nồng độ các
cytokine IL-8, IL-17, IL-22, IL-23 với thời gian bị bệnh, tuổi, giới của bệnh
nhân vảy nến [147]. Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả của Bajaj.
Mối liên quan giữa nồng độ các cytokine trước điều trị với chỉ số PASI:
Kết qủa nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.11 cho thấy, chưa có sự liên quan
giữa nồng độ các cytokine với chỉ số PASI với p>0,05. Theo tác giả Phan
Huy Thục (2015) nghiên cứu 72 bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ
nhẹ-vừa-nặng cho thấy có sự liên quan giữa nồng độ IL-17, IL-23, IFN-𝛾 với
mức độ bệnh (PASI) [123]. Theo Takahashi H. và cs (2010), nghiên cứu trên
122 bệnh nhân với các mức độ bệnh từ nhẹ-vừa nhận thấy nồng độ IL-12, IL-
17, TNF-𝛼, IFN-𝛾 có mối tương quan thuận với mức độ bệnh (PASI) [141].
Theo Bajaj S. và cs (2017), nghiên cứu 30 bệnh nhân vảy nến mức độ vừa-
nặng nhận thấy nồng độ IL-17, IL-22 và IL-23 tương quan chặt chẽ với mức
độ bệnh [147]. Chúng tôi chỉ nghiên cứu mức độ nặng nên không xác định
được mối liên quan với mức độ bệnh.
Ngoài ra qua kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.11, biểu đồ
3.17 – 3.24 cho thấy, có sự tương quan giữa các cytokine với nhau, giữa IL-6
với IL-8 (r=0,57, p<0,001), IL-6 với IL-10 (r=0,40, p<0,05), IL-6 với IL-12
113
(r=0,37, p<0,05), IL-6 với TNF-α (r=0,57, p<0,001). IL-8 với IL-12 (r=0,58,
p<0,001), IL-8 với TNF-α (r=0,78, p<0,001). IL-10 với TNF-α (r=0,36,
p<0,05). IL-12 với TNF-α (r=0,67, p<0,001), IL-12 với IFN-γ (r=0,45,
p<0,01). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với tác giả Phan Huy
Thục (2015), có mối tương quan giữa các cytokine, IL-6 với IL-10, IL-6 với
TNF-α, IL-10 với TNF-α, IL-23 với IFN-γ, IL-17 với IFN-γ [123]. Chúng tôi
chưa tham khảo được các tác giả nước ngoài về sự liên quan nồng độ của các
cytokine.
Lý giải cho sự liên quan giữa nồng độ IL-6 huyết thanh với nồng độ
huyết thanh IL-8, IL-10, IL-12, TNF-α là vì IL-6 là một cytokine kích thích
tăng sinh và biệt hóa tế bào lympho T, thúc đẩy tăng sinh tế bào sừng, tăng
sinh tế bào lympho T hoạt hóa trong bệnh vảy nến [104] và các IL-8, IL-10,
IL-12 và TNF-α cũng làm tiến triển bệnh vảy nến nên cũng sẽ tăng trong bệnh
vảy nến hoạt động. Do vậy, sẽ có sự tăng thuận chiều của IL-6 với các
cytokine đó.
4.2.3. Kết quả định lượng cytokine sau điều trị
- Nồng độ cytokine sau điều trị : Kết quả của chúng tôi tại bảng 3.12 cho
thấy nồng độ IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF-𝛼, IFN-γ sau điều trị ở
nhóm nghiên cứu vẫn cao hơn nhóm đối chứng, sự thay đổi này có ý nghĩa
thống kê với p<0,001. Tuy nhiên, nồng độ IL-2 sau điều trị ở nhóm nghiên
cứu không có sự khác biệt so với nhóm đối chứng với p>0,05.
Kết quả của chúng tôi tại bảng 3.13 cho thấy nồng độ IL-6, IL-10, IL-12,
IL-17, TNF-𝛼 sau điều trị đều giảm hơn so với trước điều trị, tuy nhiên sự
thay đổi chưa có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Nồng độ IL-2, IL-8 không có
sự thay đổi so với trước điều trị với p>0,05. Riêng nồng độ IFN- γ sau điều trị
giảm hơn rõ so với trước điều trị với p<0,05. Điều này cho thấy trong bệnh
vảy nến mặc dù triệu chứng lâm sàng có cải thiện nhưng các thay đổi miễn
114
dịch thì chậm. Có thể đó là một yếu tố duy trì sự mạn tính của tổn thương vảy
nến.
Theo Haider. A và cs (2008), nghiên cứu ở 11 bệnh nhân vảy nến thông
thường điều trị CyA liều 4mg/kg/ngày trong 8 tuần nhận thấy nồng độ các
cytokine IL-17, IL-22, TNF-𝛼, IFN- γ giảm sau điều trị [119].
Theo Ikonomidis. I và cs (2017), sau khi điều trị 50 bệnh nhân vảy nến
thông thường bằng CyA liều 2,5-3mg/kg/ngày trong vòng 16 tuần cho thấy,
nồng độ IL-6, IL-17 giảm có ý nghĩa thống kê với p<0,05, trong khi IL-10,
IL-12, TNF-𝛼 thay đổi chưa có sự khác biệt với p>0,05 [121]. Nghiên cứu
của chúng tôi có sự khác biệt với các tác giả, có thể do liều CyA điều trị và
thời gian điều trị ở các nghiên cứu là khác nhau, do đó kết quả định lượng
nồng độ các cytokine có thể khác nhau.
Ở Việt Nam hiện tại chúng tôi chưa tham khảo được nghiên cứu nào về
thay đổi nồng độ các cytokine sau điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng
cyclosporine A. Chỉ có một vài nghiên cứu về thay đổi nồng độ các cytokine
ở bệnh nhân vảy nến thông thường bằng các thuốc khác. Như Phạm Diễm
Thuý và cs (2019) cho thấy, nồng độ các cytokine IL-2, IL-4, IL-8, IL-10, IL-
17, TNF- 𝛼 , IFN-γ sau điều trị bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống
Methotrexate liều thấp (7,5mg/tuần), sự thay đổi so với trước điều trị chưa có
ý nghĩa thống kê với p>0,05. Riêng IL-6 sau điều trị giảm rõ rệt với p<0,001
[124]. Phan Huy Thục (2015), nghiên cứu ở 52 bệnh nhân vảy nến thông
thường mức độ vừa-nặng sau điều trị bằng Methotrexate với liều 7,5mg/tuần,
nồng độ IL-17, TNF-𝛼, IFN-γ thấp hơn so với trước điều trị với p<0,05.
Không có sự khác biệt trước và sau điều trị với các cytokine IL-2, IL-4, IL-8,
IL-10, IL-23 với p>0,05 [123]. Nghiên cứu của chúng tôi và các tác giả đều
cho thấy sau điều trị nồng độ các cytokine đều có sự thay đổi (sau điều trị
thấp hơn so với trước điều trị) nhưng sự thay đổi này chưa đủ lớn để có sự
115
khác biệt có ý nghĩa thống kê, chỉ 1, 2 cytokin có ý nghĩa thống kê. Cho thấy
bệnh vảy nến là một bệnh lý mạn tính, luôn có sự hiện diện của các yếu tố
miễn dịch duy trì bệnh. Do đó, điều trị khi đạt được hiệu quả trên lâm sàng
vẫn cần liệu pháp để duy trì tình trạng bệnh ổn định tránh tái phát vượng
bệnh.
- Mối liên quan giữa nồng độ các cytokine sau điều trị với một số yếu
tố : Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.14, 3.15, 3.16, 3.17 cho thấy,
không có sự liên quan giữa nồng độ các cytokine sau điều trị với kết quả điều
trị, giới tính, nhóm tuổi, tuổi bệnh đều với p>0,05. Riêng tại bảng 3.16, nồng
độ IL-10 sau điều trị có thay đổi giữa các nhóm tuổi, tuổi càng cao thì nồng
độ IL-10 càng tăng với p<0,05.
Chúng tôi chưa tham khảo được nghiên cứu nào về mối liên quan giữa
nồng độ các cytokine sau điều trị với kết quả điều trị, giới tính, nhóm tuổi,
tuổi bệnh nên chưa có dữ liệu để so sánh.
4.3. Kết quả điều trị bệnh VNTT mức độ nặng bằng Cyclosporin A
4.3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.18 cho thấy, nhóm nghiên
cứu gồm 35 bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng, PASI trung bình
25,38±4,20, thời gian bị bệnh 17,11±11,55 năm. Thiết kế nghiên cứu của
chúng tôi không có nhóm đối chứng, đánh giá hiệu quả trước và sau điều trị.
Đối tượng nghiên cứu theo bảng 3.19, tập trung chủ yếu ở độ tuổi 50-59
tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 37,14%, đây là độ tuổi có nhiều biến động trong
cuộc sống, ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần, làm tái vượng bệnh vảy nến.
Kết quả này cũng phù hợp với các tác giả Phan Huy Thục [123], Nguyễn
Trọng Hào [128], Armstrong [8]. Và nam chiếm tỷ lệ cao hơn nữ giới
(60,00% so với 40,00%) (3.20). Thời gian mắc bệnh >10 năm chiếm tỷ lệ cao
nhất 54,29%, thấp nhất là <5 năm 14,29% (3.21). Điều này cũng phù hợp với
116
đặc điểm bệnh vảy nến, là bệnh mạn tính và đối tượng nghiên cứu của chúng
tôi là bệnh nhân mức độ nặng nên thường là bệnh nhân vảy nến cũ bị bệnh
nhiều năm, và tái phát nhiều lần.
4.3.2. Kết quả điều trị bệnh VNTT mức độ nặng bằng cyclosporine A
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.22 và bảng 3.23 cho thấy,
sau 5 tuần và 10 tuần điều trị 35 bệnh nhân VNTT mức độ nặng bằng
cyclosporine A liều 2,5-3mg/kg/ngày, kết hợp bôi kem dưỡng ẩm Cetaphil thì
PASI giảm sau tuần thứ 5 từ 25,38±4,20 xuống còn 9.29 ± 3.20 và giảm rõ rệt
sau tuần thứ 10 xuống còn 5,50±3,74, sự thay đổi có ý nghĩa thống kê với
p<0,001. Trong đó, sau 5 tuần điều trị, bệnh nhân đạt hiệu quả khá chiếm cao
nhất 60%, tốt 22,86%, trung bình 17,14%. Tiếp tục duy trì điều trị sau 10
tuần, hiệu quả điều trị tăng cao bệnh nhân đạt tốt chiếm 74,28%, khá 22,86%
và có 1 bệnh nhân đáp ứng kém 2,86%. Không có bệnh nhân nào sạch tổn
thương 100%. Kết quả điều trị không có sự khác biệt giữa nam và nữ, với
p>0,05 (bảng 3.24) và cũng không có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi với
p>0,05 (bảng 3.25).
Như vậy, điều trị bệnh vảy nến thông thường mức độ nặng với
cyclosporine A đạt được kết quả tốt. Nghiên cứu của chúng tôi có 1 bệnh
nhân đáp ứng kém có thể do trong quá trình điều trị vào tuần thứ 8 bệnh nhân
phẫu thuật đục thuỷ tinh thể, có chỉ định dùng kháng sinh dự phòng và thuốc
giảm đau NSAIDS, vì vậy gây tái vượng bệnh vảy nến.
Theo Hoàng Thị Ngọc Lý (2012), khi điều trị 35 bệnh nhân vảy nến
thông thường bằng CyA liều 100 mg/ngày chỉ số PASI giảm từ 25,09 còn
4,09; giảm 83,7%; trong đó tốt 91,42%; khá 2,86%; vừa 2,86% [5].
Theo Đào Thị Mai Hương (2017), điều trị 25 bệnh nhân vảy nến đỏ da
toàn thân bằng Cyclosporin A liều 200mg/ ngày, đến khi đạt PASI 50 giảm
117
liều 0,5-1 mg/kg mỗi 2 tuần, theo dõi 3 tháng, kết quả chỉ số PASI giảm
90,53%, tỷ lệ bệnh nhân đạt PASI-50, 75, 90 lần lượt là 96%, 96%, 4% [122].
Theo Marhle G. và cộng sự (1995), điều trị trên 210 bệnh nhân vảy nến
trong thời gian 10 tuần với liều CyA khởi đầu 2,5 mg/kg/ngày đạt mức giảm
PASI 71% [148].
Theo Faerber L. và cs (2001), trong nghiên cứu phân tích gộp trên 579
bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng, trong nhóm 303 bệnh nhân
điều trị CyA với liều 2,5 mg/kg/ngày trong đó có 88 bệnh nhân cần nâng lên
liều 5mg/kg/ngày, sau 10-12 tuần thì PASI đạt được lần lượt là 69,8% và
71,5% [115].
Theo Okubo Y. và cs (2011) tiến hành nghiên cứu 35 bệnh nhân vảy nến
thông thường mức độ vừa – nặng với liều CyA 3 mg/kg/ngày nhận thấy 74%
bệnh nhân đạt được lui bệnh sau trung bình 101,5 ngày; mức PASI giảm từ
17,8 xuống 3,3 khi kết thúc điều trị; 40% bệnh nhân không tái phát sau 6
tháng [116].
Theo Ojeda R. và cs (2005), điều trị 70 bệnh nhân vảy nến thông thường
mức độ nặng với liều 2,5-3 mg/kg/ngày, sau 8 tuần điều trị PASI ≥75%
chiếm 61,4%, PASI 50-<75% chiếm 24,3%, PASI <50% chiếm 14,3%. Điều
trị tiếp tục trong 6 tháng, chỉ số PASI trung bình tiếp tục giảm, PASI trung
bình đạt 6 [149].
Theo Yoon H. S. và cs (2007), điều trị 61 bệnh nhân vảy nến mức độ
nặng với liều cyclosporine A lần lượt 2,5mg/kg/ngày và 5mg/kg/ngày, sau 12
tuần cho thấy, nhóm bệnh nhân điều trị liều 2,5mg/kg/ngày đạt mức PASI 50
chiếm 72,7%, PASI 75 chiếm 51,5% ; thời gian đạt PASI 50 là 6,2 tuần, thời
gian đạt PASI 75 là 7,8 tuần. Ở nhóm bệnh nhân điều trị liều 5mg/kg/ngày, tỷ
lệ bệnh nhân đạt PASI 50 là 85,7%, PASI 75 là 75% ; thời gian đạt PASI 50
là 3,8 tuần, thời gian đạt PASI 75 là 5,8 tuần [150].
118
Theo Flytstrom I. và cs (2008), điều trị 31 bệnh nhân vảy nến thông
thường mức độ nặng với liều khởi đầu 3mg/kg/ngày 12 tuần cho thấy, PASI
giảm từ 15,5±6,3 xuống còn 3,6±3,0, PASI 75 chiếm 58%, PASI 90 chiếm
29% [151].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các tác giả, cho thấy CyA
có hiệu quả tốt, thời gian đạt được đáp ứng nhanh trong điều trị bệnh vảy nến.
CyA dùng cho bệnh nhân vảy nến có hiệu quả là do CyA làm giảm hoạt
hoá tế bào lympho T, phối hợp với sự giảm sản xuất các cytokine (EGF, TGF-
𝛼 … và IFN-𝛾) cũng như bằng việc giảm trình diễn kháng nguyên của tế bào
Langerhans và không phải tác dụng trực tiếp lên tế bào keratin. Đồng thời
CyA còn ức chế hoá ứng động bạch cầu đa nhân trung tính nhưng không ức
chế hoạt tính thực bào của chúng [9], [108].
Theo khuyến cáo đồng thuận của Hội da liễu-Hội vảy nến quốc gia Mỹ
năm 2008, liều CyA dùng 2,5-5mg/kg/ngày, điều trị 12-16 tuần thì tình trạng
cải thiện rõ rệt ở 80-90% bệnh nhân. Và dùng liều 3mg/kg/ngày thì PASI 75
đạt được ở 50-70% bệnh nhân, PASI 90 đạt được ở 30-50% bệnh nhân. CyA
ngoài được dùng để điều trị vảy nến thông thường còn có hiệu quả với vảy
nến mụn mủ, đỏ da toàn thân, vảy nến móng [152].
Theo Colombo D. (2010), khoãng liều điều trị CyA từ 2,5-5mg/kg/ngày,
trong đó liều 2,5-3mg/kg/ngày bệnh nhân đạt được hiệu quả điều trị so với tác
dụng phụ là tối ưu nhất, đạt được hiệu quả điều trị cao nhất trong vòng 2-3
tháng sau khi dùng thuốc. Và dùng CyA điều trị bệnh vảy nến dùng liệu pháp
ngắn ngày 12-16 tuần [110].
Theo Laburte C. và cs (1994), khi điều trị 251 bệnh nhân vảy nến với 2
mức liều CyA là 2,5mg/kg/ngày so với 5mg/kg/ngày 12 tuần, nhận thấy với
liều 2,5mg/kg/ngày 52% bệnh nhân đạt được PASI 75. Tác dụng phụ khi sử
dụng liều này ít hơn so với liều 5mg/kg/ngày, chủ yếu là làm giảm nguy cơ
119
tăng creatinine máu >30% giá trị nền. Vì vậy, tác giả khuyến cáo liều
2,5mg/kg/ngày là liều khởi đầu tối ưu [112].
Theo Vassantachart J. M. và cs (2017) cho thấy liều khuyến cáo điều trị
khởi đầu với CyA là 2,5-3mg/kg/ngày, chia 2 lần uống sáng và tối [109].
Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng CyA điều trị bệnh vảy nến thông
thường mức độ nặng với liều 2,5-3mg/kg/ngày, liều này phù hợp với điều trị
và khuyến cáo của các tác giả.
Nghiên cứu của các tác giả và các khuyến cáo đều cho thấy thời gian
điều trị CyA đạt hiệu quả tối ưu sau 12-16 tuần điều trị. Tuy nhiên, nghiên
cứu của chúng tôi chỉ tiến hành trong 10 tuần vì thuốc CyA khá đắt tiền so với
điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam nói chung và bệnh nhân vảy nến nói
riêng. Hơn nữa sau 10 tuần điều trị, chúng tôi nhận thấy bệnh nhân đáp ứng
tốt có hiệu quả cao, bệnh nhân đạt được PASI ≥75 là chủ yếu chiếm 74,28%.
4.3.3. Kết quả tác dụng không mong muốn
CyA có hiệu quả tốt trong điều trị bệnh vảy nến, nhưng khi sử dụng
CyA cũng có những tác dụng không mong muốn như: gây rối loạn chức năng
thận, trở về bình thường khi ngừng thuốc, tăng huyết áp, khi có tăng huyết áp
có thể dùng hạ áp nhóm ức chế kênh canxi, tăng nhóm mỡ máu, khi dùng
CyA dài ngày có thể gây nhiễm khuẩn như: herpes simplex, zona và các
nhiễm khuẩn da khác. Ngoài ra còn có thể gặp men gan tăng nhẹ, thiếu máu
đẳng sắc, tăng nguy cơ xuất hiện ung thư da, và một số biểu hiện toàn thân
như: mệt mỏi, sút cân, rối loạn tiêu hoá, đau đầu (các triệu chứng này thường
liên quan đến liều) [9], [109], [112], [113].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.26 và biểu đồ 3.25 cho thấy,
điều trị 35 bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng bằng CyA liều 2,5-
3mg/kg/ngày, sau 5 tuần các chỉ số xét nghiệm đều nằm trong giới hạn bình
thường, không có sự khác biệt so với trước điều trị với p>0,05; sau 10 tuần
120
các chỉ số xét nghiệm Creatinin, Triglycerid, BC, HC, HCT trước và sau điều
trị đều tương đương nhau với p>0,05. Cholesteron, HC có tăng sau điều trị,
với p<0,01 và p<0,05 nhưng vẫn trong giới hạn bình thường. GOT, GPT sau
điều trị giảm có ý nghĩa thống kê với p<0,05 nhưng cũng đều nằm trong giới
hạn bình thường cho phép. Và có 11,43% bệnh nhân mệt mỏi, 5,71% đau đầu,
2,86% tăng huyết áp.
Đối với các bệnh nhân có biểu hiện mệt mỏi và đau đầu đều là biểu hiện
thoáng qua, không cần can thiệp điều trị hoặc ngừng điều trị. 1 bệnh nhân
tăng huyết áp (150/85mmHg), chúng tôi tham vấn chuyên khoa tim mạch và
hướng dẫn cho bệnh nhân sử dụng thuốc hạ áp nhóm chẹn kênh canxi, sau sử
dụng thuốc huyết áp bệnh nhân được kiểm soát tốt và bệnh nhân không cần
ngừng điều trị CyA.
Theo Hoàng Thị Ngọc Lý (2012) khi điều trị bằng CyA liều 100
mg/ngày trong 4 tuần các xét nghiệm chức năng gan, thận và máu vẫn trong
giới hạn bình thường [5]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với tác
giả.
Theo Laburte C. và cs (1994), khi điều trị 251 bệnh nhân vảy nến với 2
mức liều CyA là 2,5mg/kg/ngày so với 5mg/kg/ngày 12 tuần, nhận thấy với
liều 2,5mg/kg/ngày 52% bệnh nhân ghi nhận có 22% bệnh nhân tăng
creatinine >30%, tăng men gan chỉ ghi nhận ở nhóm dùng liều 5mg/kg/ngày,
có 6% bệnh nhân tăng huyết áp [112].
Theo Marhle G. và cộng sự (1995), điều trị trên 210 bệnh nhân vảy nến
trong thời gian 10 tuần với liều CyA khởi đầu 2,5 mg/kg/ngày, ghi nhận có
7,7% bệnh nhân tăng creatinine, 7,5% bệnh nhân tăng cholesterol, 15,6%
bệnh nhân tăng triglycerid, 9,2% bệnh nhân có mệt mỏi, 9,2% bệnh nhân có
đau đầu, không ghi nhận trường hợp nào tăng huyết áp [148].
Theo Faerber L. và cs (2001), trong nghiên cứu phân tích gộp trên 579
121
bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng, trong nhóm 303 bệnh nhân
điều trị CyA với liều 2,5 mg/kg/ngay sau 10-12 tuần, ghi nhận có có 4,3 %
bệnh nhân tăng creatinine hơn 30% so với giá trị ban đầu, 13,5% bệnh nhân
tăng cholesterol, 14,1% bệnh nhân tăng triglycerid, tăng men gan (GOT,
GPT) không đáng kể (dao động 1-1,6%), 3,8% bệnh nhân đau đầu, không có
bệnh nhân nào mệt mỏi, 1,1% bệnh nhân có tăng huyết áp (≥ 160/95 mmHg)
[115].
Theo Okubo Y. và cs (2011) tiến hành nghiên cứu 35 bệnh nhân vảy nến
thông thường mức độ vừa-nặng với liều CyA 3 mg/kg/ngày, ghi nhận chỉ có 2
bệnh nhân có tăng creatinine và cải thiện khi giảm liều CyA, có 9 bệnh nhân
tăng huyết áp [116].
Theo Ojeda R. và cs (2005), điều trị 70 bệnh nhân vảy nến thông thường
mức độ nặng với liều 2,5-3 mg/kg/ngày, sau 8 tuần điều trị, ghi nhận chỉ có 2
bệnh nhân tăng creatinine và cải thiện khi giảm liều CyA, có 3 bệnh nhân tăng
huyết áp [149].
Theo Yoon H. S. và cs (2007), điều trị 61 bệnh nhân vảy nến mức độ
nặng với liều cyclosporine A lần lượt 2,5mg/kg/ngày và 5mg/kg/ngày, sau 12
tuần cho thấy, nhóm bệnh nhân điều trị liều 2,5mg/kg/ngày ghi nhận có 1
bệnh nhân (3%) tăng men gan, không có bệnh nhân rối loạn chức năng thận,
có 1 bệnh nhân tăng huyết áp [150].
Theo Flytstrom I. và cs (2008), điều trị 31 bệnh nhân vảy nến thông
thường mức độ nặng với liều khởi đầu 3mg/kg/ngày 12 tuần ghi nhận có 6
bệnh nhân tăng creatinine (19%), không có bệnh nhân tăng men gan, có 48%
bệnh nhân có mệt mỏi, 29% bệnh nhân có triệu chứng đau đầu [151].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận được các tác dụng
không mong muốn như các tác giả trên, điều này có thể do các nghiên cứu
tiến hành trên các nhóm bệnh nhân ở vùng địa lý khác nhau, chịu ảnh hưởng
122
bởi các yếu tố như thể chất, chế độ ăn cũng như lối sinh hoạt khác nhau, chính
vì vậy nó tác động đến đáp ứng thuốc có thể có phần khác biệt.
Qua kết quả của các nghiên cứu trên, nhìn chung tác dụng không mong
muốn hay gặp nhất ở bệnh nhân vảy nến khi điều trị bằng CyA là rối loạn
chức năng thận đặc trưng bởi tăng creatinin. Bởi CyA được cho rằng có liên
quan đến rối loạn chức năng co mạch ở tiểu động mạch đến và đi của cầu
thận, tăng áp lực lọc trong cầu thận dẫn đến giảm mức lọc cầu thận là yếu tố
ban đầu dẫn đến tăng crearinin máu. Rối loạn chức năng co mạch là kết quả
của việc tăng các yếu tố co mạch gồm endothelin, thromboxan, hoạt hoá hệ
renin-agiotensin, cũng như giảm các yếu tố giãn mạch như prostaglandin E2
và NO. Ngoài ra các gốc tự do, tăng hoạt tính hệ giao cảm đóng vai trò trong
việc gây độc thận của CyA, đồng thời tăng giữ natri, kali. Điều này cũng dẫn
đến tăng huyết áp ở bệnh nhân vảy nến điều trị với CyA [153].
Tác dụng độc trên thận của CyA khi điều trị bệnh vảy nến thì được ghi
nhận phụ thuộc vào liều và thời gian điều trị: liều cao 5mg/kg/ngày và thời
gian trên 2 năm ghi nhận có tổn thương thận không hồi phục biểu hiện bởi
tình trạng thoái hoá hyalin các tiểu động mạch, xơ hoá ổ đoạn và xơ hoá cầu
thận [154]. Do vậy nhiều tác giả khuyến cáo chỉ dùng CyA điều trị bệnh vảy
nến thời gian ngắn, điều trị ngắt quãng 3-6 tháng cho hiệu quả tốt [109],
[111]. Và theo khuyến cáo đồng thuận của hội da liễu – hội vảy nến quốc gia
Mỹ năm 2008 và hội da liễu Châu Âu (2015) điều trị bệnh vảy nến thông
thường bằng CyA kéo dài tối đa 2 năm vì những lý do an toàn [88], [152].
4.3.4. Kết quả tái phát sau khi dừng điều trị
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.27 cho thấy, 35 bệnh nhân
VNTT mức độ nặng điều trị bằng cyclosporine liều 2,5-3mg/kg/ngày, kết hợp
bôi kem dưỡng ẩm Cetaphil trong 10 tuần kết thúc điều trị có 34 bệnh đạt kết
quả khá và tốt (không có bệnh nhân rất tốt: sạch 100% tổn thương) còn 1
123
bệnh nhân đạt kết quả kém được tiếp tục điều trị phương pháp khác, chúng tôi
theo dõi tái phát sau ngừng điều trị của 34 bệnh nhân, nhận thấy sau 1 tháng
tỷ lệ bệnh nhân tái phát chiếm 29,41%, sau 2 tháng chiếm 58,82% và sau 3
tháng tỷ lệ tái phát lên đến 82,35%.
Theo Ho V. C. và cs (2001), cho thấy sau khi dừng điều trị bằng CyA có
46 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 60,5% tái phát với thời gian trung bình là 115 ngày
[155].
Theo Shupack J. và cs (1997), cho thấy tỷ lệ tái phát bệnh vảy nến sau
ngừng điều trị CyA liều 3mg/kg/ngày là 42% bệnh nhân với thời gian sau 6
tháng [156].
Như vậy, thời gian tái phát sau khi dừng điều trị CyA ở bệnh vảy nến
của chúng tôi ngắn hơn so với kết quả các tác giả, do thời gian điều trị với
CyA của chúng tôi ngắn hơn nên để duy trì đáp ứng sẽ kém hơn, nhanh tái
phát hơn. Bệnh vảy nến để làm sạch tổn thương bằng các phương pháp điều
trị là không khó, nhưng để duy trì được đáp ứng lâu dài là thực sự khó khăn.
Điều này là một thách thức đối với thầy thuốc chuyên ngành da liễu, cũng như
mối lo lắng của người bệnh. Do vậy sau khi đạt được đáp ứng lui bệnh thầy
thuốc cần có chiến lược điều trị tiếp theo giúp bệnh nhân duy trì ổn định bệnh,
hạn chế tái phát và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh
124
KẾT LUẬN
Nghiên cứu 130 bệnh nhân vảy nến thông thường điều trị tại Bệnh viện
Da liễu Trung ương, chúng tôi rút ra một số kết luận:
1. Một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh VNTT
1.1. Yếu tố liên quan
- Độ tuổi 40-59 chiếm 34,61% và độ tuổi <20 là thấp nhất 6,92%.
- Tuổi khởi phát bệnh ở độ tuổi <40 chiếm 53,08%, nam chiếm 66,15%.
- Tiền sử gia đình là 12,32%, cha hoặc mẹ bị vảy nến chiếm 6,93%
- Bệnh gặp nhiều nhất vào mùa đông 58,46%. Stress 38,46%, thức ăn đồ
uống 26,93%, chấn thương da 20,77%, nhiễm khuẩn khu trú 5,38%.
- Gặp tăng huyết áp 16,92%, rối loạn chuyển hoá lipid 16,92%, đái tháo
đường 9,23%, bệnh tai mũi họng 10,77%, bệnh tim mạch 6,15%.
1.2. Đặc điểm lâm sàng
- Tổn thương khởi phát chủ yếu vùng da đầu chiếm 72,31%.
- Tổn thương hiện tại thân mình 91,54%, chi dưới 86,92%, đầu 80,77%,
chi trên 72,31%, móng 3,08%.
- Vảy nến thể mảng 95,38%, vảy nến chấm giọt 3,08%, vảy nến thể đồng
tiền 1,54%.
- Mức độ nhẹ 53,08%, mức độ nặng 36,15%, mức độ vừa 10,77%.
2. Kết quả định lượng nồng độ một số cytokine của bệnh nhân VNTT
mức độ nặng trước và sau điều trị Cyclosporin A
- Trước điều trị: Nồng độ IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF-𝛼, IFN-𝛾
của nhóm nghiên cứu đều cao hơn so với nhóm đối chứng. Có sự liên quan
giữa IL-6 với IL-8, IL-10, IL-12, TNF-𝛼; giữa IL-8 với IL-12 và TNF-𝛼; giữa
IL-10 với TNF-𝛼 và giữa IL-12 với TNF-𝛼 và IFN-𝛾.
125
- Sau điều trị: Chỉ có IFN-γ giảm so với trước điều trị, còn nồng độ IL-6,
IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF-𝛼 đều không giảm so với trước điều trị và vẫn
cao hơn nhóm đối chứng.
- Không có mối liên quan giữa nồng độ các cytokine trước và sau điều trị
với kết quả điều trị (PASI), nhóm tuổi, giới tính, tuổi bệnh.
3. Kết quả điều trị bệnh VNTT mức độ nặng bằng Cyclosporin A
- Sau 10 tuần điều trị bằng CyA cho thấy: PASI giảm 78,33% (từ
25,38±4,20 xuống còn 5,50±3,74). Trong đó, tốt 74,28%, khá 22,86% và kém
2,86% (không có bệnh nhân sạch tổn thương 100%). Kết quả điều trị không
liên quan với giới tính, nhóm tuổi.
- Tác dụng không mong muốn gặp 11,43% mệt mỏi; 5,71% đau đầu;
2,86% tăng huyết áp. Kết quả xét nghiệm chức nặng gan, thận trước và sau
điều trị đều trong giới hạn bình thường.
- Tỷ lệ tái phát sau khi ngừng điều trị (10 tuần): sau 1 tháng 29,41%, sau
2 tháng 58,82% và sau 3 tháng 82,35%.
126
KIẾN NGHỊ
- Cần xác định yếu tố khởi động (môi trường) trên từng bệnh nhân cụ thể
để có biện pháp khống chế các yếu tố đó, tạo thuận lợi cho việc điều trị bệnh
cho bệnh nhân.
- Cần có nghiên cứu tiếp về nồng độ các cytokine huyết thanh ở những
bệnh nhân đạt rất tốt (sạch tổn thương) được điều trị bằng CyA hoặc các
thuốc khác có thay đổi so với trước điều trị không. Từ đó, có chiến lược điều
trị đạt địch và duy trì phù hợp.
- Điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng cyclosporine A hiệu quả tốt,
đáp ứng lui bệnh nhanh, ít tác dụng không mong muốn. Có thể ứng dụng
trong thực hành lâm sàng. Nhưng cần có điều trị duy trì sau khi dừng điều trị
bằng CyA.
127
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Lê Thị Hồng Thanh, Đặng Văn Em (2020). Nghiên cứu một số yếu tố
liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông thường khám và
điều trị tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, Tạp chí Y Dược lâm sàng
108, 2020, (15), tr. 7-11.
2. Lê Thị Hồng Thanh, Đặng Văn Em (2020). Nghiên cứu hiệu quả điều
trị bệnh vảy nến thông thường mức độ nặng bằng cyclosporin A tại
Bệnh viện Da liễu Trung ương, Tạp chí Y Dược lâm sàng 108, 2020,
(15), tr. 23-26.
3. Lê Thị Hồng Thanh, Đặng Văn Em (2020). Nghiên cứu sự thay đổi
nồng độ một số cytokine ở bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ
nặng trước và sau điều trị bằng cyclosporin A, Tạp chí Y học Việt Nam,
2021, 500 (2), tr. 31-34.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Văn Em. (2000). Nghiên cứu một số yếu tố khởi động, cơ địa và
một số thay đổi miễn dịch trong bệnh vảy nến thông thường. Luận án
tiến sỹ y học, Đại học Y Hà Nội, 126 tr.
2. WHO. (2016). The burden of psoriasis. Global report on psoriasis.,
Chapter 2.
3. Langley R. GB, Krueger GG., Griffiths CEM. (2005). Psoriasis:
epidemiology, clinical features, and quality of life. Ann Rheu Dis., 64(2):
18 – 23.
4. Bhosle MJ, Kulkarni A, Feldman SR, et al. (2006). Quality of life in
patients with psoriasis. Health and quality of life outcomes., 4(1): 35.
5. Đặng Văn Em. (2013). Bệnh vảy nến: Sinh bệnh học và chiến lược điều
trị. Sách chuyên khảo Nhà xuất bản y học, 236 tr.
6. Fitch E, Harper E, Skorcheva I, et al. (2007). Pathophysiology of
psoriasis: recent advances on IL-23 and Th17 cytokines. Current
rheumatology reports., 9(6): 461-467.
7. Hugh JM, WeinbergJM. (2018). Update on the pathophysiology of
psoriasis. Cutis., 102(5S): 6-12.
8. Armstrong AW, Read C. (2020). Pathophysiology, Clinical Presentation,
and Treatment of Psoriasis: A Review. Jama., 323(19): 1945-1960.
9. Đặng Văn Em. (2013). Bệnh vảy nến. Một số bệnh tự miễn dịch thường
gặp trong Da liễu. NXB Y học, 319 – 511.
10. Lambert JLW, Segaert S, Ghislain PD, et al. (2020). Practical
recommendations for systemic treatment in psoriasis according to age,
pregnancy, metabolic syndrome, mental health, psoriasis subtype and
treatment history (BETA-PSO: Belgian Evidence-based Treatment
Advice in Psoriasis; part 1). Journal of the European Academy of
Dermatology and Venereology., 34(8): 1654-1665.
11. Berth-Jones J. (2005). The use of ciclosporin in psoriasis. Journal of
dermatological treatment., 16(5-6): 258-277.
12. Bộ môn Da liễu- Viện NCKHYDLS108. (2017). Bệnh vảy nến. Giáo
trình Da liễu, Tập 1 Nhà xuất bản Y học, tr 117-132.
13. Lebwohl M. (2003). Psoriasis. The Lancet, Vol 361: p1197-1204.
14. Chandran. V, Raychaudhuri SP. (2010). Geoepidemiology and
environmental factors of psoriasis and psoriatic arthritis. Journal of
autoimmunity., 34(3): J314-J321.
15. Egeberg. A., See. K., Garrelts. A., et al. (2020). Epidemiology of
psoriasis in hard-to-treat body locations: data from the Danish skin
cohort. BMC dermatology., 20: 1-8.
16. Đặng Văn Em. (1995). Một số nhận xét về: Lâm sàng, dịch tễ học và
điều trị bệnh vảy nến. Luận văn thạc sĩ y khoa, Học viện Quân y, 68 tr.
17. Di Meglio P, Villanova F, Nestle FO. (2014). Psoriasis. Cold Spring
Harbor perspectives in medicine., 4(8): 1-30.
18. Nguyễn Thị Hồng Hạnh. (2009). Nghiên cứu tình hình, đặc điểm lâm
sàng và tác dụng điều trị bệnh vảy nến bằng đường uống methotrexate
trong 36 giờ/tuần. Luận văn thạc sỹ y học, Học viện quân y, 73tr.
19. Đỗ Tiến Bộ. (2012). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, yếu tố liên quan và
hiệu quả điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng uống Vitamin A acid
(Soriatane). Luận văn chuyên khoa cấp II, Chuyên ngành Da liễu, Đại
học y Hà Nội., 83 tr.
20. Michalek IM, Loring B, John SM. (2017). A systematic review of
worldwide epidemiology of psoriasis. Journal of the European Academy
of Dermatology and Venereology., 31(2): 205-212.
21. Deng Y, Chang C, Lu Q. (2016). The inflammatory response in
psoriasis: a comprehensive review. Clinical reviews in allergy &
immunology., 50(3): 377-389.
22. Bộ môn Da liễu - Học viện Quân y (2008). Vảy nến, Vảy nến mụn mủ.
Giáo trình bệnh da và hoa liễu (giáo trình dùng cho đào tạo đại học). Nhà
xuất bản quân đội nhân dân, tr 140-156.
23. Nhâm Thế Thy Uyên. (2002). Tình hình, đặc điểm lâm sàng và kết quả
điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng cao vàng. Luận án thạc sỹ y
học, Học viện quân y, 64 tr.
24. Hội Da liễu Việt Nam. (2017). Hướng dẫn chăm sóc và điều trị bệnh vảy
nến. Nhà xuất bản Y học. 103 tr.
25. Gudjonsson JE, Elder JT. (2007). Psoriasis: epidemiology. Clinics in
dermatology., 25(6): 535-546.
26. De Rosa G, Mignogna C. (2007). The histopathology of
psoriasis. Reumatismo, 46-48.
27. Chen M, Bruno E, Santos E, et al. (2006). A brief review of the
“vulgaris” lesions of the skin. The Internet Journal of
Dermatology, 6(1):113-125
28. Raychaudhuri SK, Maverakis E, Raychaudhuri SP. (2014). Diagnosis
and classification of psoriasis. Autoimmunity reviews, 13(4-5), 490-495.
29. Feldman SR, Krueger GG. (2005). Psoriasis assessment tools in clinical
trials. Annals of the rheumatic diseases, 64(2): 65-68.
30. Ihtatho D, Fadzil MA, Affandi AM, et al. (2007). Area assessment of
psoriasis lesion for PASI scoring. 29th Annual International Conference
of the IEEE Engineering in Medicine and Biology Society., 3446-3449.
31. De Pita O, Ruffelli M, Cadoni S, et al. (1996). Psoriasis: comparison of
immunological markers in patients with acute and remission
phase. Journal of dermatological science., 13(2): 118-124.
32. Ogawa E, Sato Y, Minagawa A, et al. (2018). Pathogenesis of psoriasis
and development of treatment. The Journal of dermatology, 45(3): 264-
272.
33. Hawkes JE, Chan TC, Krueger JG. (2017). Psoriasis pathogenesis and
the development of novel targeted immune therapies. Journal of Allergy
and Clinical Immunology., 140(3): 645-653.
34. Barker J . (1994). The immunopathology of psoriasis. Baillière's clinical
rheumatology, 8(2): 429-438.
35. Peslyak. M. (2012). Model of pathogenesis of psoriasis. Part 1. Systemic
psoriatic process, 8 (4): 1245-1249
36. Huang YH, Kuo CF, Huang LH, et al. (2019). Familial aggregation of
psoriasis and co-aggregation of autoimmune diseases in affected
families. Journal of Clinical Medicine, 8(1): 115.
37. Henseler T, Christophers E. (1985). Psoriasis of early and late onset:
characterization of two types of psoriasis vulgaris. Journal of the
American Academy of Dermatology, 13(3): 450-456.
38. Zhang XJ, Zhang AP, Yang S, et al. (2003). Association of HLA class I
alleles with psoriasis vulgaris in southeastern Chinese Hans. Journal of
dermatological science, 33(1): 1-6.
39. Mrowietz U, Reich K. (2009). Psoriasis—new insights into pathogenesis
and treatment. Deutsches Ärzteblatt International, 106(1-2): 11.
40. Zheng J, Jin S, Shi R. (2003). Confirmation of PSORS psoriasis
susceptibility loci in a Chinese population. Archives of dermatological
research, 295(1): 14-18.
41. Fortune DG., Richards HL, Main CJ, et al. (1998). What patients with
psoriasis believe about their condition. Journal of the American
Academy of Dermatology, 39(2): 196-201.
42. Manolache L, Petrescu-Seceleanu D, Benea V. (2010). Life events
involvement in psoriasis onset/recurrence. International journal of
dermatology, 49(6): 636-641.
43. Hunter HJA, Griffiths CEM, Kleyn CE. (2013). Does psychosocial stress
play a role in the exacerbation of psoriasis? British Journal of
Dermatology., 169(5): 965-974.
44. Fry L, Baker BS. (2007). Triggering psoriasis: the role of infections and
medications. Clinics in dermatology, 25(6): 606-615.
45. Herbst RA, Hoch O, Kapp A, et al. (2000). Guttate psoriasis triggered by
perianal streptococcal dermatitis in a four-year-old boy. Journal of the
American Academy of Dermatology, 42(5): 885-887.
46. Garritsen FM, Kraag DE, De Graaf M. (2017). Guttate psoriasis
triggered by perianal streptococcal infection. Clinical and Experimental
Dermatology, 42(5): 536-538.
47. Sagi L, Trau H. (2011). The koebner phenomenon. Clinics in
dermatology, 29(2): 231-236.
48. Arias-Santiago S, Espiñeira-Carmona. M. J., Aneiros-Fernández. J.
(2013). The Koebner phenomenon: psoriasis in tattoos. CMAJ, 185(7):
585-585.
49. Balato N, Di Costanzo L, Patruno C, et al. (2013). Effect of weather and
environmental factors on the clinical course of psoriasis. Occupational
and environmental medicine., 70(8): 600-600.
50. Basavaraj KH, Ashok NM, Rashmi R, et al. (2010). The role of drugs in
the induction and/or exacerbation of psoriasis. International journal of
dermatolog., 49(12): 1351-1361.
51. Tsankov N, Angelova I, Kazandjieva J. (2000). Drug-induced psoriasis.
Recognition and management. American journal of clinical
dermatology, 1(3): 159.
52. Rongioletti F, Fiorucci C, Parodi. A. (2009). Psoriasis induced or
aggravated by drugs. The Journal of Rheumatology Supplement, 83: 59-
61.
53. Baker H, Ryan TJ. (1968). Generalized pustular psoriasis: a clinical and
epidemiologicai, study of 104 cases. British Journal of
Dermatology, 80(12): 771-793.
54. Millsop JW, Bhatia BK, Debbaneh M, et al. (2014). Diet and psoriasis,
part III: role of nutritional supplements. Journal of the American
Academy of Dermatology, 71(3): 561-569.
55. Wolters M. (2005). Diet and psoriasis: experimental data and clinical
evidence. British Journal of Dermatology, 153(4): 706-714.
56. Bhatia BK, Millsop JW, Debbaneh M, et al. (2014). Diet and psoriasis,
part II: celiac disease and role of a gluten-free diet. Journal of the
American Academy of Dermatology, 71(2): 350-358.
57. Brenaut E, Horreau C, Pouplard C, et al. (2013). Alcohol consumption
and psoriasis: a systematic literature review. Journal of the European
Academy of Dermatology and Venereology, 27: 30-35.
58. Zeng J, Luo S, Huang Y, et al. (2017). Critical role of environmental
factors in the pathogenesis of psoriasis. The Journal of
dermatology, 44(8): 863-872.
59. Naldi L. (2016). Psoriasis and smoking: links and risks. Psoriasis
(Auckland, NZ., 6: 65.
60. Gerdes S, Zahl VA, Weichenthal. M, et al. (2010). Smoking and alcohol
intake in severely affected patients with psoriasis in
Germany. Dermatology, 220(1): 38-43.
61. Naldi L, Parazzini F, Brevi A, et al. (1992). Family history, smoking
habits, alcohol consumption and risk of psoriasis. British Journal of
Dermatology, 127(3): 212-217.
62. Takeshita J, Grewal S, Langan SM, et al. (2017). Psoriasis and comorbid
diseases: epidemiology. Journal of the American Academy of
Dermatology, 76(3): 377-390.
63. Aurangabadkar SJ. (2013). Comorbidities in psoriasis. Indian Journal of
Dermatology, Venereology, and Leprology, 79(7): 10.
64. Salihbegovic EM, Hadzigrahic N, Suljagic ., et al. (2015). Psoriasis and
high blood pressure. Medical archives, 69(1): 13.
65. Love TJ, Qureshi AA, Karlson EW, et al. (2011). Prevalence of the
metabolic syndrome in psoriasis: results from the National Health and
Nutrition Examination Survey, 2003-2006. Archives of
dermatology, 147(4): 419-424.
66. Piskin S, Gurkok F, Ekuklu G, et al. (2003). Serum lipid levels in
psoriasis. Yonsei medical journal, 44(1): 24-26.
67. Bajaj DR, Mahesar SM, Devrajani BR, et al. (2009). Lipid profile in
patients with psoriasis presenting at Liaquat University Hospital
Hyderabad. JPMA. The Journal of the Pakistan Medical
Association, 59(8): 512.
68. Sanchez APG. (2010). Immunopathogenesis of psoriasis. Anais
brasileiros de dermatologia, 85(5): 747-749.
69. Lynde CW, Poulin Y, Vender R, et al. (2014). Interleukin 17A: toward a
new understanding of psoriasis pathogenesis. Journal of the American
Academy of Dermatology, 71(1): 141-150.
70. Gottlieb SL, Gilleaudeau P, Johnson R, et al. (1995). Response of
psoriasis to a lymphocyte-selective toxin (DAB389IL-2) suggests a
primary immune, but not keratinocyte, pathogenic basis. Nature
medicine, 1(5): 442-447.
71. Yawalkar N, Karlen S, Hunger R, et al. (1998). Expression of
interleukin-12 is increased in psoriatic skin. Journal of Investigative
Dermatology, 111(6): 1053-1057.
72. Oppmann B, Lesley R, Blom B, et al. (2000). Novel p19 protein engages
IL-12p40 to form a cytokine, IL-23, with biological activities similar as
well as distinct from IL-12. Immunity, 13(5): 715-725.
73. Aggarwal S, Ghilardi , Xie MH, et al. (2003). Interleukin-23 promotes a
distinct CD4 T cell activation state characterized by the production of
interleukin-17. Journal of Biological Chemistry, 278(3): 1910-1914.
74. AbuHilal MD, Walsh S, Shear N. (2016). The role of IL-17 in the
pathogenesis of psoriasis and update on IL-17 inhibitors for the
treatment of plaque psoriasis. Journal of cutaneous medicine and
surgery, 20(6): 509-516.
75. Johansen C, Usher PA, Kjellerup RB, et al. (2009). Characterization of
the isoforms and receptors in lesional psoriatic interleukin-17
skin. British Journal of Dermatology, 160(2): 319-324.
76. Gisondi P, Del Giglio M, Girolomoni G. (2017). Treatment approaches
to moderate to severe psoriasis. International journal of molecular
sciences, 18(11): 24-27.
77. Lebwohl M. (1999). The role of salicylic acid in the treatment of
psoriasis. International journal of dermatology, 38(1): 16-24.
78. Kemény L, Ruzicka T, Braun-Falco. O. (1990). Dithranol: a review of
the mechanism of action in the treatment of psoriasis vulgaris. Skin
Pharmacology and Physiology, 3(1): 1-20.
79. Uva L, Miguel D, Pinheiro C, et al. (2012). Mechanisms of action of
topical corticosteroids in psoriasis. International journal of
endocrinology, 8(20: 29-34.
80. Soleymani T, Hung T, Soung J. (2015). The role of vitamin D in
psoriasis: a review. International Journal of Dermatology, 54(4): 383-
392.
81. Weinstein GD. (1997). Tazarotene gel: efficacy and safety in plaque
psoriasis. Journal of the American Academy of Dermatology, 37(2): S33-
S38.
82. Lebwohl M, Freeman AK, Chapman MS, et al. (2004). Tacrolimus
ointment is effective for facial and intertriginous psoriasis. Journal of the
American Academy of Dermatology, 51(5): 723-730.
83. Malecic N, Young H. (2016). Tacrolimus for the management of
psoriasis: clinical utility and place in therapy. Psoriasis (Auckland,
NZ), 6: 153.
84. Li LY, Brimhall AK, Menter. A. (2006). Systemic therapy for moderate-
to-severe psoriasis. Expert Review of Dermatology, 1(1): 77-92.
85. Gollnick HP, Dümmler U. (1997). Retinoids. Clinics in
dermatology, 15(5): 799-810.
86. Paul C, Gallini A, Maza A, et al. (2011). Evidence-based
recommendations on conventional systemic treatments in psoriasis:
systematic review and expert opinion of a panel of
dermatologists. Journal of the European academy of dermatology and
venereolog., 25: 2-11.
87. Haustein UF, Rytter M. (2000). Methotrexate in psoriasis: 26 years’
experience with low-dose long-term treatment. Journal of the European
Academy of Dermatology and Venereology, 14(5): 382-388.
88. Nast A, Gisondi P, Ormerod AD, et al. (2015). European S3-guidelines
on the systemic treatment of psoriasis vulgaris-update 2015-short
version-EDF in cooperation with EADV and IPC. Journal of the
European Academy of Dermatology and Venereology, 29(12): 2277-
2294.
89. Gall JS, Kalb RE. (2008). Infliximab for the treatment of plaque
psoriasis. Biologics: Targets & Therapy, 2(1): 115.
90. Leonardi CL, Powers JL, Matheson RT, et al. (2003). Etanercept as
monotherapy in patients with psoriasis. New England Journal of
Medicine, 349(21): 2014-2022.
91. Alwawi EA, Mehlis SL, Gordon KB. (2008). Treating psoriasis with
adalimumab. Therapeutics and clinical risk management, 4(2): 345.
92. Menter. A, Gordon KB, Leonardi CL, et al. (2010). Efficacy and safety
of adalimumab across subgroups of patients with moderate to severe
psoriasis. Journal of the American Academy of Dermatology, 63(3): 448-
456.
93. Laws PM, Warren RB. (2011). Ustekinumab for the treatment of
psoriasis. Expert Review of Clinical Immunology, 7(2): 155-164.
94. Ruiz Salas V, Puig L, Alomar A. (2012). Ustekinumab in clinical
practice: response depends on dose and previous treatment. Journal of
the European Academy of Dermatology and Venereology, 26(4): 508-
513.
95. Yang EJ, Beck KM, Liao W. (2018). Secukinumab in the treatment of
psoriasis: patient selection and perspectives. Psoriasis: Targets and
Therapy, 8: 75.
96. Korman NJ, Moul DK. (2005, March). Alefacept for the treatment of
psoriasis: a review of the current literature and practical suggestions for
everyday clinical use. In Seminars in cutaneous medicine and surgery,
24(1): 10-18.
97. Schön MP. (2008). Efalizumab in the treatment of psoriasis: mode of
action, clinical indications, efficacy, and safety. Clinics in
dermatology, 26(5): 509-514.
98. Keating GM. (2017). Apremilast: a review in psoriasis and psoriatic
arthritis. Drugs, 77(4): 459-472.
99. Papp KA, Menter MA, Raman M, et al. (2016). A randomized phase 2b
trial of baricitinib, an oral Janus kinase (JAK) 1/JAK2 inhibitor, in
Journal of patients with moderate-to-severe psoriasis. British
Dermatology, 174(6): 1266-1276.
100. Baliwag J, Barnes DH. Johnston A. (2015). Cytokines in
psoriasis. Cytokine, 73(2): 342-350.
101. Coimbra S, Figueiredo A, Castro E, et al. (2012). The roles of cells and
cytokines in the pathogenesis of psoriasis. International journal of
dermatology, 51(4): 389-398.
102. Michalak-Stoma A. Pietrzak A, Szepietowski JC, et al. (2011). Cytokine
network in psoriasis revisited. European cytokine network, 22(4): 160-
168.
103. Arican O, Aral M, Sasmaz S, et al. (2005). Serum levels of TNF-α, IFN-
γ, IL-6, IL-8, IL-12, IL-17, and IL-18 in patients with active psoriasis
and correlation with disease severity. Mediators of inflammation, 2005.
104. Brotas AM, Cunha JMT, Lago EHJ, et al. (2012). Tumor necrosis factor-
alpha and the cytokine network in psoriasis. Anais brasileiros de
dermatologia, 87(5): 673-683.
105. Michalak-Stoma A, Bartosińska J, Kowal.M, et al. (2013). Serum levels
of selected Th17 and Th22 cytokines in psoriatic patients. Disease
markers, 35(6): 345-349.
106. Wenger RM, Payne TG, Schreier MH. (1986). Cyclosporine: chemistry,
structure-activity relationships and mode of action. In Metabolic Control
in Diabetes Mellitus Beta Adrenoceptor Blocking Drugs NMR Analysis
of Cancer Cells Immunoassay in the Clinical Laboratory Cyclosporine,
Springer: 157-191.
107. Boukhris T, Lahiani-Skiba M, Bounoure F, et al. (2012). New approach
for pre-formulation of an oral cyclosporine. Digest Journal of
Nanomaterials & Biostructures (DJNB, 7(1): 245-249
108. Wong RL, Winslow CM. (1993). The mechanisms of action of
cyclosporin A in the treatment of psoriasis. Immunology today, 14(2):
69-74.
109. Vassantachart JM, Jacob.SE. (2017). Cyclosporine in the treatment of
psoriasis. Journal of the Dermatology Nurses' Association, 9(2): 98-101.
110. Colombo D, Flori L, Altomare G, et al. (2010). Clinical outcome
evaluation following cyclosporine a treatment in moderate to severe
psoriasis: a retrospective study. International journal of
immunopathology and pharmacology, 23(1): 363-367.
111. Colombo MD, Cassano N, Bellia G, et al. (2013). Cyclosporine regimens
in plaque psoriasis: an overview with special emphasis on dose, duration,
and old and new treatment approaches. The Scientific World Journal,
24(3): 126-128.
112. Laburte C, Grossman R, Abi-Rached J, et al. (1994). Efficacy and safety
of oral cyclosporin A (CyA; Sandimmun®) for long-term treatment of
chronic severe plaque psoriasis. British Journal of Dermatology, 130(3):
366-375.
113. Krupp P, Monka C. (1990). Side-effect profile of cyclosporin A in
patients treated for psoriasis. British Journal of Dermatology, 122: 47-
56.
114. Christophers E, Mrowietz U, Henneicke HH, et al. (1992). Cyclosporine
in psoriasis: a multicenter dose-finding study in severe plaque
psoriasis. Journal of the American Academy of Dermatology, 26(1): 86-
90.
115. Faerber L, Braeutigam M, Weidinger G, et al. (2001). Cyclosporine in
severe psoriasis. American journal of clinical dermatology, 2(1): 41-47.
116. Okubo Y, Natsume S, Usui K, et al. (2011). Low-dose, short-term
ciclosporin (Neoral®) therapy is effective in improving patients’ quality
of life as assessed by Skindex-16 and GHQ-28 in mild to severe
psoriasis patients. The Journal of Dermatology, 38(5): 465-472.
117. Di Lernia V, Stingeni L, Boccaletti V, et al. (2016). Effectiveness and
safety of cyclosporine in pediatric plaque psoriasis: a multicentric
retrospective analysis. Journal of Dermatological Treatment, 27(5): 395-
398.
118. Bulbul Baskan E, Yazici S, Tunali. S, et al. (2016). Clinical experience
with systemic cyclosporine A treatment in severe childhood
psoriasis. Journal of Dermatological Treatment, 27(4): 328-331.
119. Haider AS, Lowes MA, Suárez-Fariñas M, et al. (2008). Identification of
cellular pathways of" type 1," Th17 T cells, and TNF-and inducible
nitric oxide synthase-producing dendritic cells in autoimmune
inflammation through pharmacogenomic study of cyclosporine A in
psoriasis. Journal of immunology, 180(3): 1913.
120. Akçali C, Guven EH, Kirtak N, et al. (2014). Serum concentrations of
interleukin-2 and tumour necrosis factor-α under cyclosporine versus
acitretin treatment in plaque-type psoriasis. Journal of international
medical research, 42(5): 1118-1122.
121. Ikonomidis I, Papadavid E, Makavos G, et al. (2017). Lowering
interleukin-12 activity improves myocardial and vascular function
compared with tumor necrosis factor-a antagonism or cyclosporine in
psoriasis. Circulation: Cardiovascular Imagin., 10(9): 006283.
122. Đào Thị Mai Hương, Lê Hữu Doanh. (2017). Điều trị bệnh đỏ da toàn
thân do vảy nến bằng uống cyclosporine. Tạp chí y dược lâm sàng 108,
12: 25-38.
123. Phan Huy Thục. (2015). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và mối liên quan
giữa nồng độ cytokine với kết quả điều trị bệnh vảy nến thông thường
bằng methotrexate. Luận án tiến sỹ y học, Đại học Y hà nội., 129 tr.
124. Phạm Diễm Thuý, Đặng Văn Em, Lý Tuấn Khải. (2019). Nghiên cứu sự
thay đổi nồng độ một số cytokine trước và sau điều trị bệnh vảy nến
thông thường bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống Methotrexate liều
thấp. Tạp chí y dược lâm sàng 108, 14(3): 131-134.
125. Tổ chức Y tế Thế giới-khu vực Tây Thái Bình Dương-Viện vệ sinh dịch
tễ Trung ương. (1992). Phương pháp nghiên cứu y tế-Sách hướng dẫn
huấn luyện các phương pháp nghiên cứu. Nhà xuất bản TCYTTG khu
vực-Đơn vị huấn luyện khu vực Tây Thái Bình Dương, 5: 94-96.
126. Fredriksson T, Pettersson U. (1978). Severe psoriasis–oral therapy with a
new retinoid. Dermatology, 157(4): 238-244.
127. Shikiar R, Willian MK, Okun MM, et al. (2006). The validity and
responsiveness of three quality of life measures in the assessment of
psoriasis patients: results of a phase II study. Health and quality of life
outcomes, 4(1): 1-12.
128. Nguyễn Trọng Hào. (2016). Nghiên cứu rối loạn lipid máu ở bệnh nhân
vảy nến và hiệu quả điều trị hỗ trợ của Simvastatin trên bệnh vảy nến
thông thường. Luận án Tiến sĩ y học, Đại học Y Hà Nội, 118 tr.
129. Adişe. E, Erduran F, Uzun S, et al. (2018). Prevalence of smoking,
alcohol consumption and metabolic syndrome in patients with
psoriasis. Anais brasileiros de dermatologia, 93(2): 205-211.
130. Nguyễn Bá Hùng (2015). Hiệu quả điều trị bệnh vảy nến thông thường
bằng kem Explaq kết hợp uống methotrexate. Luận văn chuyên khoa II,
Học viện Quân y, 94tr.
131. Kimball AB, Guerin A, Tsaneva M, et al. (2011). Economic burden of
comorbidities in patients with psoriasis is substantial. Journal of the
European Academy of Dermatology and Venereology, 25(2): 157-163.
132. Jamil A, Ahsan U, Malik LM, et al. (2016). Frequency of dyslipidemia
in patients with psoriasis. Journal of Pakistan Association of
Dermatology, 24(4): 307-311.
133. Chan WMM, Yew YW, Theng TSC, et al. (2019). Prevalence of
metabolic syndrome in patients with psoriasis: a cross-sectional study in
Singapore. Singapore medical journal, 1(1): 1-16.
134. Pietrzak A, Michalak-Stoma A, Chodorowska G, et al. (2010). Lipid
disturbances in psoriasis: an update. Mediators of inflammation, 12 (4):
26-33.
135. Hu SCS, Lan CCE. (2017). Psoriasis and cardiovascular comorbidities:
focusing on severe vascular events, cardiovascular risk factors and
implications for treatment. International journal of molecular
sciences, 18(10): 2211.
136. Rousset L, Halioua B. (2018). Stress and psoriasis. International journal
of dermatology, 57(10): 1165-1172.
137. Naldi L, Gambini D. (2007). The clinical spectrum of psoriasis. Clinics
in dermatology, 25(6): 510-518.
138. Poikolainen K, Reunala T, Karvonen J, et al. (1990). Alcohol intake: a
risk factor for psoriasis in young and middle aged men. British Medical
Journal, 300: 780-783.
139. Svanström C, Lonne-Rahm SB, Nordlind K. (2019). Psoriasis and
alcohol. Psoriasis: Targets and Therapy, 9: 75.
140. Wozel G. (2008). Psoriasis treatment in difficult locations: scalp, nails,
and intertriginous areas. Clinics in dermatology, 26(5): 448-459.
141. Takahashi H, Tsuji H, Hashimoto Y, et al. (2010). Serum cytokines and
growth factor levels in Japanese patients with psoriasis. Clinical and
Experimental Dermatology: Experimental dermatology, 35(6): 645-649.
142. Coimbra S, Oliveira H. Reis F, et al. (2010). Interleukin (IL)-22, IL-17,
IL-23, IL-8, vascular endothelial growth factor and tumour necrosis
factor-α levels in patients with psoriasis before, during and after
psoralen–ultraviolet A and narrowband ultraviolet B therapy. British
Journal of Dermatology, 163(6): 1282-1290.
143. Borska L, Andrys C, Krejsek J, et al. (2008). Serum levels of the pro-
inflammatory cytokine interleukin-12 and the anti-inflammatory
cytokine interleukin-10 in patients with psoriasis treated by the
Goeckerman regimen. International journal of dermatology, 47(8): 800-
805.
144. Abanmi A, Al Harthi F, Al Agla R, et al. (2005). Serum levels of
proinflammatory cytokines in psoriasis patients from Saudi
Arabia. International journal of dermatology, 44(1): 82-83.
145. Abdel-Hamid MF, Aly DG, Saad NE, et al. (2011). Serum levels of
interleukin-8, tumor necrosis factor-α and γ-interferon in Egyptian
psoriatic patients and correlation with disease severity. The Journal of
dermatology, 38(5): 442-446.
146. Verghese B, Bhatnagar S, Tanwar R, et al. (2011). Serum Cytokine
Profile in Psoriasis-A Case–Control Study in a Tertiary Care Hospital
from Northern India. Indian Journal of Clinical Biochemistry, 26(4):
373.
147. Bajaj S, Gautam RK, Khurana A, et al. (2017). Effect of narrow band
ultraviolet B phototherapy on T helper 17 cell specific cytokines
(interleukins-17, 22 and 23) in psoriasis vulgaris. Journal of
Dermatological Treatment, 28(1): 14-17.
148. Mahrle G, Schulze HJ, Färber L, et al. (1995). Low-dose short-term
cyclosporine versus etretinate in psoriasis: improvement of skin, nail,
and joint involvement. Journal of the American Academy of
Dermatology, 78-88.
149. Ojeda R, Sánchez Regaña M, Massana J, et al. (2005). Clinical
experience with the use of cyclosporin A in psoriasis. Results of a
retrospective study. Journal of dermatological treatment, 16(4): 238-
241.
150. Yoon HS, Youn JI. (2007). A comparison of two cyclosporine dosage
regimens for the treatment of severe psoriasis. Journal of dermatological
treatment, 18(5): 286-290.
151. Flytström I, Stenberg B, Svensson Å, et al. (2008). Methotrexate vs.
ciclosporin in psoriasis: effectiveness, quality of life and safety. A
randomized controlled trial. British Journal of Dermatology, 158(1):
116-121.
152. Rosmarin DM, Lebwohl M, Elewski BE, et al. (2010). Cyclosporine and
psoriasis: 2008 National Psoriasis Foundation Consensus
Conference. Journal of the American Academy of Dermatology., 62(5):
838-853.
153. Naesens. M., Kuypers. D. R., Sarwal. M. (2009). Calcineurin inhibitor
nephrotoxicity. Clinical Journal of the American Society of
Nephrology, 4(2): 481-508.
154. Zachariae H, Kragballe K, Hansen HE, et al. (1997). Renal biopsy
findings in long-term cyclosporin treatment of psoriasis. British Journal
of Dermatology, 136(4): 531-535.
155. Ho VC, Griffiths CE, Berth-Jones J, et al. (2001). Intermittent short
courses of cyclosporine microemulsion for the long-term management of
psoriasis: a 2-year cohort study. Journal of the American Academy of
Dermatology, 44(4): 643-651.
156. Shupack J, Abel E, Bauer E, et al. (1997). Cyclosporine as maintenance
therapy in patients with severe psoriasis. Journal of the American
Academy of Dermatolog., 36(3): 423-432.
PHIẾU NGHIÊN CỨU
Bệnh nhân vảy nến
Mã BN:………………………
I. Hành chính
1.Họ và tên……………………..……………Giới………….Dân tộc……….
2.Tuổi đời…………….Tuổi khởi phát:……………..Tuổi bệnh…………….
3.Cân nặng…….……Vòng bụng:…..……..BMI:……..…..HA:……………
4. Địa chỉ: …………………………………………………………………….
5. Điện thoại:…………………….............…….DĐ….……………………....
6. Nghề nghiệp:……………………Văn hóa……………Địa dư……………
7. Ngày điều trị…..…/.……./202....... Ngày kết thúc….…./…..…./202..…..
8. Điều trị: nội trú c SBA……………. ….MS…………..…….ngoại trú c
II. Chẩn đoán:……………………………………………………………….
………………………………………………………………………………..
III. Tiền sử
1. Bản thân:………...…………………………………………………………
2. Gia đình:…………...………………………………………………………
IV. Lâm sàng
1.Tổn thương đầu tiên:……………………………………………………….
2.Thể lâm sàng:…………………………………………………………...…..
3.Tổn thương da theo PASI:
PASI=0,1(Đ+V+C)S1+0,2((Đ+V+C)S2+0,3(Đ+V+C)S3+0,4(Đ+V+C)S4
4. Tổn thương móng:…….……………………………...................................
5. Tổn thương khớp:………………………………………………………….
6.Tổn thương khác:…………………………………………………………...
7.Mức độ bệnh:……………………………………………………………….
8.Giai đoạn bệnh: c Hoạt động cKhông hoạt động
9.Yếu tố khởi động: Stress……………………………………………………
Hiện tượng Koebner……..…………………………………..………………..
Thuốc…………..……………………………………………………………...
Thức ăn, uống:………………………………………………………………...
Thời tiết:……………………………………………………………………....
Tiền sử gia định:............................…………………………………………...
Bệnh kết hợp:..............................................................................................
V. Xét nghiệm
Chỉ số
Sau điều trị 5 tuần Sau điều trị 10 tuần
..
Trước điều trị HC
BC
TC
Glucose
A.uric
Ure
Creatinin
SGOT
SGPT
Triglyceride
Cholesterol
HDL-C
LDL-C
IL-2
IL-6
IL-8
IL-10
IL-12
IL-17
TNF-α
IFN-γ
VI. Điều trị
6.1.Phương pháp ĐT:
* Tại chỗ: Bôi Cetaphil 1 lân/ngày (sáng) x 10 tuần liền
* Toàn thân:
5 tuần
TS Đ V V C C S S
TS CS
0,1
0,2
0,3
0,4
Tổng
-Uống Cyclosporin A liều 2,5 - 3mg/kg/kg cân nặng/ngày chia 2 lần sáng tối
trước ăn x 10 tuần liền.
Có c Không c.
6.2. Kết quả điều trị
- Kết quả lâm sàng:
Bắt đầu điều tri
CS Đ
0,1
0,2
0,3
0,4
Tổng
Rất tốt c Tốt c Khá c Vừa c Kém c
- Kết quả tác dụng không mong muốn trên lâm sàng
Buồn nôn: c Đau đầu: c Mệt: c Tăng HA: c
Khác:...................................................................................................
V 10 tuần
S Đ V C C S TS
TS CS
0,1
0,2
0,3
0,4
Tổng
Bắt đầu điều tri
CS Đ
0,1
0,2
0,3
0,4
Tổng
Rất tốt c Tốt c Khá c Vừa c Kém c
-Kết quả tác dụng không mong muốn trên lâm sàng
Buồn nôn: c Đau đầu: c Mệt: c Tăng HA: c
Khác:..............................................................................................
6.3. Theo dõi tái phát
Chỉ số Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3
Không hoạt động
Tái phát
Ngày……….tháng………..năm 202….
Bác sỹ điều trị
ẢNH VẢY NẾN TRƯỚC – SAU 10 TUẦN ĐIỀU TRỊ
Trước điều trị Sau điều trị 10 tuần
Sau điều trị 10 tuần Trước điều trị
Trước điều trị Sau điều trị
ẢNH VẢY NẾN TRƯỚC – SAU 10 TUẦN ĐIỀU TRỊ
Trước điều trị Sau điều trị 10 tuần
Trước điều trị Sau điều trị 10 tuần
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
CAM KẾT THAM GIA NGHIÊN CỨU
Đề tài: “NGHIÊN CỨU THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ MỘT SỐ CYTOKINE TRONG
MÁU VÀ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH VẢY NẾN THÔNG THƯỜNG
BẰNG CYCLOSPORIN A”
Họ và tên:
Tuổi:
Địa chỉ:
Số điện thoại:
Nghề nghiệp:
Tôi là bệnh nhân điều trị ngoại trú tại phòng khám chuyên đề vảy nến –
Bệnh viện Da liễu Trung ương. Sau khi được bác sỹ khám và tư vấn điều trị,
tôi đã hiểu rõ mục đích nghiên cứu, thời gian cũng như tác dụng điều trị, tác
dụng không mong muốn khi sử dụng thuốc.
Tôi tình nguyện tham gia sử dụng thuốc Cyclosporin A theo hướng dẫn
điều trị của bác sỹ. Tôi xin tuân thủ đúng quy trình sử dụng thuốc, tái khám
đúng hẹn.
Hà Nội, ngày tháng năm 201
Bệnh nhân Bác sỹ điều trị