BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN SỐT RÉT - KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG

LÊ HỮU LỢI

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA,

MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN VÀ HIỆU QUẢ BIỆN PHÁP

CAN THIỆP Ở NGƯỜI BỆNH ĐẾN KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ

TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH KON TUM

(2018 - 2020)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

HÀ NỘI - 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN SỐT RÉT - KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG TRUNG ƯƠNG

LÊ HỮU LỢI

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA,

MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN VÀ HIỆU QUẢ BIỆN PHÁP

CAN THIỆP Ở NGƯỜI BỆNH ĐẾN KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ

TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH KON TUM

(2018 - 2020)

Chuyên ngành: Dịch tễ học

Mã số: 972 01 17

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. TS. NGUYỄN QUANG THIỀU

2. TS. PHAN HƯỚNG DƯƠNG

HÀ NỘI - 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, do chính tôi

thực hiện. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực, chính xác và chưa

từng được công bố trên bất kỳ công trình nào khác. Kết quả nghiên cứu do

chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của thầy giáo hướng dẫn, chấp hành y

đức trong tiến hành nghiên cứu.

Tác giả luận án

Lê Hữu Lợi

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận án này, với tất cả sự chân thành, tôi xin bày tỏ

lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy TS. Nguyễn Quang Thiều và thầy TS. Phan

Hướng Dương đã dìu dắt trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.

Tôi xin trân trọng cảm ơn tới PGS.TS. Trần Thanh Dương, Viện trưởng

cùng Ban Lãnh đạo Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.

Tôi xin trân trọng cảm ơn đến sự quan tâm của thầy PGS.TS. Cao Bá Lợi

cùng tập thể cán bộ Phòng Khoa học và Đào tạo Viện Sốt rét - Ký sinh trùng -

Côn trùng Trung ương đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập.

Tôi biết ơn TS.BS.CK2.Võ Văn Thanh - Giám đốc Sở Y tế tỉnh Kon

Tum, BS.CK2 Võ Văn Thiện - Giám đốc Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum

cùng tập thể Quý Bác sĩ, Quý đồng nghiệp Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum

đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu, triển khai đề tài.

Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cha Mẹ kính yêu, các

Em trong gia đình và người vợ yêu quý, các con bé bỏng - tất cả là nguồn động

viên, khuyến khích và chia sẻ để tôi hoàn thành luận án này.

Lê Hữu Lợi

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

American Heart Association AHA

Hiệp hội tim mạch Hoa Kỳ

BMI Body Mass Index

Chỉ số khối cơ thể

BN Bệnh nhân

CSHQ Chỉ số hiệu quả

DTTS Dân tộc thiểu số

ĐTĐ Đái tháo đường

THA Tăng huyết áp

HATT Huyết áp tâm thu

HATTr Huyết áp tâm trương

HbA1C Glycohemoglobin A1c

Hemoglobin bị glycosyl hóa

HCCH Hội chứng chuyển hóa

HDL-C High Density Lipoprotein C

Cholesterol lipoprotein tỷ trọng cao

IAS International Atherosclerosis Society

Hiệp hội xơ vữa mạch quốc tế

IDF International Diabetes Federation

Liên đoàn đái tháo đường quốc tế

IL-6 Interleukin-6

LDL-C Low Density Lipoprotein C

Cholesterol lipoprotein tỷ trọng thấp

NCEP/ATP III National Cholesterol Education Program

Chương trình giáo dục cholesterol quốc gia

NEFA Non-Esterified Fatty Acid

Acid béo không được ester hóa

NHLBI National Heart, Lung, and Blood Institute

Viện tim, phổi và máu quốc gia Hoa Kỳ

Plasminogen Activator Inhibitor-1 PAI-1

Tumor Necrosis Factors α TNF- α

Yếu tố hoại tử u –α

VLDL Very Low Density Lipoprotein

Lipoprotein tỷ trọng rất thấp

YTNC Yếu tố nguy cơ

VB Vòng bụng

WHF World Heart Federation

Liên đoàn tim mạch thế giới

WHO World Health Organization

Tổ chức Y tế Thế giới

i

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

MỤC LỤC ............................................................................................... i

DANH MỤC BẢNG ............................................................................... vi

DANH MỤC HÌNH ............................................................... ................ x

ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................... ................ 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................. ................ 3

1.1. Một số khái niệm và lịch sử nghiên cứu hội chứng chuyển hóa .... 3

1.1.1. Khái niệm .............................................................. ................ 3

1.1.2. Khái quát về lịch sử nghiên cứu hội chứng chuyển hóa ........ 3

1.2. Cơ chế bệnh sinh, đặc điểm dịch tể lâm sàng, chẩn đoán, điều trị ... 5

1.2.1. Cơ chế bệnh sinh .................................................... ................ 8

1.2.2. Đặc điểm dịch tể lâm sàng ..................................... ................ 8

1.2.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán, điều trị ............................... ................ 10

1.2.3.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng chuyển hóa ..... ................ 10

1.2.3.2. Điều trị ................................................................ ................ 11

1.3. Đặc điểm về phân bố bệnh nhân mắc hội chứng chuyển hóa ........... 11

1.3.1. Phân bố bệnh nhân mắc hội chứng chuyển hóa trên thế giới . 11

1.3.2. Phân bố bệnh nhân mắc hội chứng chuyển hóa tại Việt Nam. 15

1.4. Một số yếu tố nguy cơ trong hội chứng chuyển hóa ........ ................ 17

1.4.1. Các yếu tố không thay đổi được ............................ ................ 17

1.4.2. Các yếu tố có thể thay đổi được ............................. ................ 19

1.5. Biện pháp can thiệp dự phòng hội chứng chuyển hóa .... ................ 26

1.5.1. Dự phòng trong cộng đồng đối với người chưa mắc .............. 26

1.5.2. Can thiệp dự phòng đối với người mắc ................. ................ 28

ii

1.5.2.1. Các biện pháp can thiệp dự phòng không dùng thuốc ......... 28

1.5.2.2. Các biện pháp can thiệp dự phòng có dùng thuốc ............... 30

1.5.2.3. Các biện pháp can thiệp dư phòng kết hợp ......... ................ 35

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...... 38

2.1. Mục tiêu 1: Mô tả thực trạng hội chứng chuyển hóa và một số yếu

tố lên quan ở người bệnh đến khám và điều trị tại Bệnh viện đa khoa

tỉnh Kon Tum (2018 - 2019).................................................................... 38

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................ ................ 38

2.1.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn ........................................... ................ 38

2.1.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ .............................................. ................ 38

2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu .......................... ................ 39

2.1.2.1. Địa điểm nghiên cứu ........................................... ................ 39

2.1.2.2. Thời gian nghiên cứu: ........................................ ................ 39

2.1.3. Phương pháp nghiên cứu ....................................... ................ 39

2.1.3.1. Thiết kế nghiên cứu ............................................. ................ 39

2.1.3.2. Cỡ mẫu ............................................................... ................ 39

2.1.3.3. Phương pháp chọn mẫu ....................................... ................ 40

2.1.4. Nội dung nghiên cứu ................................................... ................ 40

2.1.5. Các biến số và chỉ số nghiên cứu ........................... ................ 41

2.1.6. Kỹ thuật và công cụ sử dụng trong nghiên cứu ... ................ 45

2.2. Mục tiêu 2: Đánh giá hiệu quả biện pháp can thiệp điều trị kết hợp

với truyền thông, giáo dục thay đổi hành vi, lối sống cho bệnh nhân có

hội chứng chuyển hóa .............................................................................. 48

2.2.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................ ................ 48

2.2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân .......................... ................ 48

2.2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ .............................................. ................ 48

2.2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu .......................... ................ 49

2.2.2.1. Địa điểm nghiên cứu ........................................... ................ 49

iii

2.2.2.2. Thời gian nghiên cứu: ........................................ ................ 49

2.2.3. Phương pháp nghiên cứu ....................................... ................ 49

2.2.3.1. Thiết kế nghiên cứu ............................................. ................ 49

2.2.3.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu .................... ................ 49

2.2.4. Nội dung nghiên cứu .............................................. ................ 49

2.2.4.1. Tư vấn thay đổi lối sống của người bệnh ............ ................ 50

2.2.4.2. Điều trị bằng thuốc .............................................. ................ 51

2.2.4.3. Giám sát, hỗ trợ người bệnh tuân thủ can thiệp .. ................ 52

2.2.5. Các biến số, chỉ số nghiên cứu ............................... ................ 53

2.2.6. Kỹ thuật và công cụ sử dụng trong nghiên cứu ... ................ 54

2.2.6.1. Kỹ thuật thu thập thông tin ................................. ................ 54

2.2.6.2. Công cụ thu thập thông tin .................................. ................ 54

2.2.6.3. Kỹ thuật xét nghiệm máu .................................... ................ 54

2.3. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu ........................... ................ 56

2.4. Sơ đồ nghiên cứu ............................................................. ................ 57

2.5. Phương pháp kiểm soát nhiễu và hạn chế sai số ............ ................ 59

2.6. Đạo đức trong nghiên cứu ............................................... ................ 59

2.6.1. Thành viên tham gia nghiên cứu ............................ ................ 60

2.6.2. Đối tượng tham gia nghiên cứu ............................. ................ 60

2.6.3. Hội đồng Khoa học và Đạo đức Y sinh học ......... ................ 60

2.6.4. Quản lý dữ liệu ....................................................... ................ 60

2.6.5. Dịch vụ chăm sóc y tế ............................................ ................ 61

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................... ................ 62

3.1. Xác định tỷ lệ mắc ở bệnh nhân đến khám và một số đặc điểm dịch

tễ lâm sàng ở bệnh nhân có hội chứng chuyển hóa tại Bệnh viện đa khoa

tỉnh Kon Tum .......................................................................... ................ 62

3.1.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu ............................. ................ 62

iv

3.1.2. Tỷ lệ mắc và đặc điểm dịch tễ, lâm sàng hội chứng chuyển

hóa .......................................................................... ................ 66

3.1.3. Yếu tố liên quan với hội chứng chuyển hóa .......... ................ 74

Mục tiêu 2: Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp điều trị kết

hợp với điều chỉnh lối sống ở bệnh nhân có hội chứng chuyển hóa tại

điểm nghiên cứu (2018 - 2019) .............................................. ................ 80

Chương 4: BÀN LUẬN ........................................................ ................ 96

4.1. Xác định tỷ lệ mắc ở bệnh nhân đến khám và một số đặc điểm dịch

tễ lâm sàng ở bệnh nhân có hội chứng chuyển hóa tại Bệnh viện đa khoa

tỉnh Kon Tum .......................................................................... ................ 96

4.1.1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu ............................ ................ 96

4.1.2. Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng hội chứng chuyển hóa ................ 96

4.1.3. Yếu tố liên quan hội chứng chuyển hóa ................. ................ 107

4.3. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp điều trị kết hợp với

điều chỉnh lối sống ở bệnh nhân có hội chứng chuyển hóa .... ................ 118

KẾT LUẬN ............................................................................ ................ 128

1. Thực trạng hội chứng chuyển hóa và một số yếu tố liên quan ở 1.039

người bệnh đến khám và điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum

(2018-2019) ............................................................................ ................ 128

2. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp điều trị kết hợp với

truyền thông, giáo dục thay đổi hành vi, lối sống cho 226 bệnh nhân có

hội chứng chuyển hóa ............................................................. ................ 128

KIẾN NGHỊ .......................................................................... ................ 130

TÍNH KHOA HỌC, TÍNH MỚI, TÍNH THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

v

DANH MỤC BẢNG

Bảng Tên bảng Trang

Bảng 2.1 Các biến số về nhân trắc 41

Bảng 2.2 Các biến số về các thói quen 43

Bảng 2.3 Các biến số về đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng 44

Bảng 2.4 Các chỉ số đánh giá hiệu quả can thiệp 53

Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới tính và nhóm Bảng 3.1 tuổi (n=1.039) 62

Đặc điểm trình độ học vấn, nơi cư trú, nghề nghiệp và Bảng 3.2 tình trạng hôn nhân của đối tượng nghiên cứu (n=1.039) 63

Đặc điểm thói quen ăn uống và vận động của đối tượng Bảng 3.3 nghiên cứu (n=1.039) 65

Bảng 3.4 Tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa theo địa dư (n=1.039) 67

Tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa theo nhóm tuổi Bảng 3.5 68 (n=1.039)

Tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa theo nhóm dân tộc Bảng 3.6 (n=1.039) 68

Bảng 3.7 Phân bố BN mắc HCCH theo trình độ học vấn (n=226) 69

Bảng 3.8 Tỷ lệ các thành phần của hội chứng chuyển hóa theo giới 70

Số lượng các thành phần và điểm trung bình các thành Bảng 3.9 phần của hội chứng chuyển hóa 71

Giá trị trung bình của các thành phần hội chứng chuyển Bảng 3.10 hóa theo giới 72

Giá trị trung bình các thành phần hội chứng chuyển hóa Bảng 3.11 ở các nhóm dân tộc 73

Tỷ lệ tăng các thành phần hội chứng chuyển hóa ở các Bảng 3.12 nhóm dân tộc trong nghiên cứu 74

vi

Bảng 3.13 Liên quan giữa nhóm tuổi với hội chứng chuyển hóa 74

Bảng 3.14 Liên quan giữa giới với hội chứng chuyển hóa 75

Bảng 3.15 Liên quan giữa dân tộc với hội chứng chuyển hóa 75

Liên quan giữa trình độ học vấn với hội chứng chuyển Bảng 3.16 75 hóa

Bảng 3.17 Liên quan giữa nghề nghiệp với hội chứng chuyển hóa 76

Bảng 3.18 Liên quan giữa nơi cư trú với hội chứng chuyển hóa 76

Bảng 3.19 Liên quan giữa tình trạng hôn nhân với hội chứng chuyển hóa 77

Bảng 3.20 Liên quan giữa thói quen ăn mặn với hội chứng chuyển hóa 77

Bảng 3.21 Liên quan giữa thói quen ăn nhiều mỡ với hội chứng chuyển hóa 77

Bảng 3.22 Liên quan giữa thói quen ăn ít xơ với hội chứng chuyển hóa 78

Liên quan giữa thói quen uống rượu với hội chứng Bảng 3.23 chuyển hóa 78

Bảng 3.24 Liên quan giữa hút thuốc lá với hội chứng chuyển hóa 78

Bảng 3.25 Liên quan giữa ít vận động với hội chứng chuyển hóa 79

Phân tích đa biến các yếu tố liên quan với hội chứng Bảng 3.26 chuyển hóa 79

Bảng 3.27 Hiệu quả can thiệp giảm thói quen ăn mặn (n=129) 80

Hiệu quả can thiệp giảm thói quen ăn nhiều dầu mỡ Bảng 3.28 (n=148) 81

Bảng 3.29 Hiệu quả can thiệp giảm thói quen ăn ít xơ (n=150) 81

Bảng 3.30 Hiệu quả can thiệp giảm thói quen hút thuốc lá (n=142) 82

Bảng 3.31 Hiệu quả can thiệp giảm thói quen uống rượu (n=165) 82

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ thói quen ít vận động Bảng 3.32 (n=126) 83

Bảng 3.33 Hiệu quả can thiệp giảm VB (n=214) 83

Bảng 3.34 Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ người mắc THA (n=117) 84

vii

Bảng 3.35 Hiệu quả can thiệp giảm số đo huyết áp (n=117) 84

Bảng 3.36 Hiệu quả can thiệp giảm glucose máu (n=197) 85

Bảng 3.37 Hiệu quả can thiệp giảm triglyceride máu (n=209) 85

Bảng 3.38 Hiệu quả can thiệp lên nồng độ HDL-C (n=116) 86

Bảng 3.39 Hiệu quả can thiệp giảm cân nặng (n=226) 86

Bảng 3.40 Tỷ lệ can thiệp giảm cân nặng (n=226) 87

Hiệu quả can thiệp thay đổi chỉ số khối cơ thể BMI Bảng 3.41 (n=216) 87

Bảng 3.42 Hiệu quả can thiệp thay đổi HbA1C (n=50) 88

Bảng 3.43 Hiệu quả can thiệp thay đổi cholesterol toàn phần (n=49) 88

Bảng 3.44 Hiệu quả can thiệp thay đổi LDL-C (n=44) 89

Hiệu quả can thiệp giảm 3 thành phần hội chứng chuyển Bảng 3.45 hóa (n=57) 90

Hiệu quả can thiệp giảm 4 thành phần hội chứng chuyển Bảng 3.46 hóa (n=103) 91

Hiệu quả can thiệp giảm 5 thành phần hội chứng chuyển Bảng 3.47 hóa (n=66) 92

Bảng 3.48 Hiệu quả can thiệp giảm hội chứng chuyển hóa (n=226) 93

Kết quả can thiệp giảm tỷ lệ hội chứng chuyển hóa và Bảng 3.49 các thành phần hội chứng chuyển hóa (n=226) 94

viii

DANH MỤC HÌNH

Hình Tên hình Trang

Hình 1.1 13

Hình 2.1 Tỷ lệ phân bố hội chứng chuyển hóa trên thế giới Sơ đồ nghiên cứu 58

Thành phần dân tộc của đối tượng nghiên cứu Hình 3.1 (n=1.039) 64

Tỷ lệ các thành phần của hội chứng chuyển hóa Hình 3.2 (n=1.039) 65

Hình 3.3 Tỷ lệ BN mắc hội chứng chuyển hóa (n=1.039) 66

Phân bố về nơi cư trú của BN mắc hội chứng chuyển Hình 3.4 69 hóa (n=226)

Hình 3.5 70 Tỷ lệ BN mắc HCCH theo dân tộc (n=226)

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh không lây nhiễm là mộ trong những nguyên nhân dẫn đầu về tử

vong trên phạm vi toàn cầu, Việt Nam đang phải đối mặt với sự gia tăng ngày

càng trầm trọng của các bệnh không lây nhiễm. Trong giai đoạn 1990 - 2010,

gánh nặng bệnh tật do các bệnh truyền nhiễm giảm từ 45,6% xuống 20,8%,

trong khi đó, gánh nặng bệnh tật do các bệnh không lây nhiễm tăng tương ứng

từ 42% lên 66%, Việt Nam đang phải đối mặt với một mô hình bệnh tật kép.

Trong khi vẫn phải nỗ lực để kiểm soát bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và mới

nổi như đại dịch COVID-19, chúng ta cũng đang phải đối mặt với sự gia tăng

của bệnh không lây nhiễm và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, chiếm

khoảng 70% gánh nặng bệnh tật. Theo của Tổ chức Y tế thế giới đến năm 2020

tỷ lệ tử vong do bệnh không lây nhiễm tăng lên khoảng 44 triệu người trên thế

giới, khu vực Đông Nam Á có khoảng 10,4 triệu trường hợp [1].

Hội chứng chuyển hóa là một chuỗi các bất thường về chuyển hóa, bao

gồm nhiều yếu tố nguy cơ đã được Bộ Y tế chỉ ra nhằm kiểm soát giảm nhẹ các

gánh nặng bệnh tật, là một trong những mối quan tâm hàng đầu trong thế kỷ

XXI. Tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa gia tăng ngày càng mạnh mẽ khắp thế

giới đặc biệt ở các nước đang phát triển, do sự phát triển về kinh tế và những

thay đổi về lối sống [1], [2]. Tỷ lệ hội chứng chuyển hóa dao động từ 10% đến

84% tùy thuộc vào khu vực, giới, tuổi, chủng tộc, ước tính khoảng 1/4 dân số

thế giới mắc hội chứng chuyển hóa [3], [4]. Khu vực châu Á Thái Bình Dương

với dân số gần 1/2 trên thế giới, đã được phát hiện có sự gia tăng nhanh chóng

các bệnh lý béo phì, đái tháo đường type 2 và các bệnh lý tim mạch, gia tăng

nhanh chóng người mắc hội chứng chuyển hóa, ở nhiều quốc gia khoảng 1/5

dân số trưởng thành bị ảnh hưởng bởi hội chứng này và có xu thế gia tăng, do

đó cần có chiến lược dự phòng tỷ lệ bệnh tật và tử vong liên quan [5]. Các

nghiên cứu ở miền bắc Việt Nam cho thấy tỷ lệ hội chứng chuyển hóa trong độ

tuổi 55-64 lên đến 27% và có khoảng 40% dân số từ 40-64 tuổi có 2 thành phần

2

của hội chứng và được gọi là “tiền hội chứng chuyển hóa” [6].

Kon Tum là một tỉnh miền núi khu vực bắc Tây Nguyên, theo số liệu

thống kê năm 2016 cho thấy mật độ dân số thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, với nhiều

dân tộc sinh sống trong đó có nhiều dân tộc thiểu số. Bệnh viện Đa khoa tỉnh

Kon Tum là tuyến cuối điều trị bệnh nhân trong toàn tỉnh. Năm 2017, nghiên

cứu về hội chứng chuyển hóa ở nhóm cán bộ trung cao cấp cho thấy tỷ lệ mắc

hội chứng này là 27% [7]. Thay đổi lối sống đóng vai trò quan trọng trong điều

trị Hội chứng chuyển hóa cùng với sử dụng thuốc điều trị. Can thiệp thay đổi

lối sống không chỉ là biện pháp điều trị mà còn dự phòng các biến chứng và sự

tiến triển của các bệnh kèm theo nếu có. Can thiệp thay đổi lối sống phải phù

hợp với văn hóa, phong tục tập quán của mỗi khu vực. Tuy nhiên, cho đến nay

tại tỉnh Kon Tum chưa có một nghiên cứu mang tính toàn diện nhằm đánh giá

các chỉ số lâm sàng, cận lâm sàng, yếu tố liên quan đến hội chứng cũng như

các can thiệp trong đó can thiệp thay đổi lối sống phù hợp nhằm tăng cường

hiệu quả điều trị.

Từ nhu cầu thực tế của việc chẩn đoán và điều trị Hội chứng chuyển hóa

tại Kon Tum, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu thực trạng Hội chứng

chuyển hóa, một số yếu tố liên quan và hiệu quả biện pháp can thiệp ở

người bệnh đến khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kon Tum

(2018 - 2020)”, nhằm mục tiêu:

1. Mô tả thực trạng hội chứng chuyển hóa và một số yếu tố lên quan ở

người bệnh đến khám và điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum (2018 -

2019);

2. Đánh giá hiệu quả biện pháp can thiệp điều trị kết hợp với truyền

thông, giáo dục thay đổi hành vi, lối sống cho bệnh nhân có hội chứng chuyển

hóa.

3

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Một số khái niệm và lịch sử nghiên cứu hội chứng chuyển hóa

1.1.1. Khái niệm

Hội chứng chuyển hóa (HCCH) - hay còn gọi là hội chứng X, hội chứng

kháng insulin - là một hội chứng bao gồm nhiều bất thường về trao đổi chất

làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch, đái tháo đường (ĐTĐ). Hội chứng

chuyển hóa liên quan tới tăng nguy cơ rất nhiều bệnh, bao gồm ĐTĐ, bệnh

mạch máu ngoại vi, bệnh tim mạch, thoái hóa mỡ ở gan, hội chứng buồng trứng

đa nang, sỏi, hen, ngừng thở khi ngủ. Các đặc điểm chính của HCCH gồm béo

trung tâm (béo bụng), tăng triglyceride máu, giảm cholesterol lipoprotein tỷ

trọng cao (HDL-C), tăng glucose máu và tăng huyết áp (THA) [8].

1.1.2. Khái quát về lịch sử nghiên cứu hội chứng chuyển hóa

Năm 1765, bác sĩ người Ý, JB Morgagni, đã phát hiện mối liên quan giữa

béo phì phủ tạng, THA, xơ vữa động mạch, acid uric tăng cao trong máu và hội

chứng ngưng thở khi ngủ [9]. Tại Vienna, Áo, trong Chiến tranh thế giới thứ

nhất, hai bác sĩ, Karl Hitzenbergervà Martin Richter-Quittner, đã quan sát thấy

sự liên quan lâm sàng lẫn nhau của rối loạn chuyển hóa và THA và ĐTĐ [10].

Tác giả Vague và cộng sự đã thiết lập mối liên hệ giữa béo phì và sự phát triển

của ĐTĐ, THA, bệnh gout và xơ vữa động mạch, vai trò khác nhau của hai

dạng béo phì (béo phì toàn thân và trung tâm/béo bụng) trong sự phát triển của

bệnh tim mạch, giữa béo bụng và các bệnh lý chuyển hóa khác [10].

Giữa năm 1960, một số nhà khoa học công bố về sự tập hợp các thành

phần khác nhau được mô tả bằng nhiều tên khác nhau như: hội chứng ba rối

loạn chuyển hóa (trisyndrome metabolique), hội chứng đa chuyển hóa

(plurimetabolic syndrome), hội chứng thịnh vượng (wohlstandssyndrom).

Randle và cộng sự đã mô tả về chu trình glucose-acid béo, trong đó nêu ra vai

trò của acid béo non-ester trong sự phát triển của kháng insulin và ĐTĐ. Năm

4

1981, Hanefeld và Leonhardt mô tả “hội chứng chuyển hóa” bao gồm bệnh

ĐTĐ týp 2, tăng insulin máu, béo phì, THA, tăng lipid máu, bệnh gout và bệnh

máu khó đông [10].

Năm 1988, Gerald M. Reaven, mô tả Hội chứng kháng insulin (IRS) tại

cuộc họp khoa học Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ hàng năm và THA và đặt

tên là “hội chứng X” [11]. Một năm sau, Norman Kaplan thêm béo trung tâm

(tăng lớp mỡ ở nội tạng và dưới da của vùng bụng), từ đó yếu tố này được coi

là một trong những thành phần đặc trưng của hội chứng. Kaplan tóm tắt các đặc

điểm chính của hội chứng gồm bốn thành phần (béo trung tâm, rối loạn glucose

máu, tăng triglyceride máu và THA), và đặt tên là “tứ chứng chết chóc” (“the

deadly quartet”). Sau đó, DeFronzo và Ferrannini, Haffner đã sử dụng thuật

ngữ “hội chứng kháng insulin” để mô tả thực thể này, cho rằng kháng insulin

có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của những rối loạn này [12].

Năm 1999, Tổ chức y tế thế giới (WHO) đề xuất tên gọi và các tiêu chí

của hội chứng kháng insulin [13]. Nhóm các nhà nghiên cứu tại Châu Âu

nghiên cứu về đề kháng insulin đã đề xuất một phiên bản HCCH sửa đổi chỉ sử

dụng cho các đối tượng không ĐTĐ và đổi tên thành hội chứng kháng insulin.

Năm 2001, Ban chuyên gia về Phát hiện, đánh giá và điều trị Cholesterol

máu cao ở người lớn áp dụng định nghĩa của HCCH được đề xuất trong báo

cáo thứ ba của Chương trình giáo dục cholesterol quốc gia “National

cholesterol education program -NCEP”. Năm 2003, Hiệp hội các bác sĩ Nội

tiết lâm sàng Hoa Kỳ đã sửa đổi quan điểm này và tập trung vào việc đề kháng

insulin như là nguyên nhân chính của HCCH và một lần nữa loại trừ các đối

tượng ĐTĐ khỏi HCCH và quay trở lại tên hội chứng kháng insulin. Năm 2005,

IDF đã ban hành một định nghĩa mới về HCCH, trong đó béo bụng là một tiêu

chuẩn bắt buộc [14].

Năm 2007, Hiệp hội Quản lý Cân nặng và Phòng chống Béo phì, Hiệp

hội Béo phì, Hiệp hội Dinh dưỡng Hoa Kỳ, và ADA đã đưa ra một tuyên bố

5

đồng thuận và cho rằng chưa có một bằng chứng thuyết phục chứng minh rằng

béo bụng là YTNC độc lập với các YTNC chuyển hóa, tim mạch đã biết [15].

Năm 2009, Liên đoàn Đái tháo đường quốc tế (IDF), Viện tim phổi máu

quốc gia Hoa Kỳ (NHLBI), Hội tim mạch Hoa Kỳ (AHA), Liên đoàn tim mạch

thế giới (WHF), Hiệp hội xơ vữa mạch quốc tế (IAS) và Hiệp hội nghiên cứu

về béo phì quốc tế (IASO) ra tuyên bố đồng thuận trên toàn thế giới về các tiêu

chí của HCCH, trong bản đồng thuận này, béo bụng không phải là một thành

phần bắt buộc của HCCH và được chấp nhận trên toàn thế giới [15].

1.2. Cơ chế bệnh sinh, đặc điểm dịch tể lâm sàng, chẩn đoán, điều trị

1.2.1. Cơ chế bệnh sinh

HCCH được công nhận là một trạng thái tiền viêm và tiền xơ vữa với sự

gia tăng mô mỡ (hiện được coi là cơ quan nội tiết), đề kháng insulin là nguyên

nhân chính gây bệnh. Mức độ hoạt động thể lực thấp và lượng calo tương đối

cao trong chế độ ăn góp phần tích tụ chất béo trong cơ thể và kháng lại các hoạt

động của insulin. Sự dư thừa chất béo sẽ làm cho các tế bào mỡ phì đại và tăng

sản, dẫn đến trạng thái thiếu oxy khi nguồn cung cấp máu phát triển không kịp

đáp ứng. Thiếu oxy dẫn đến hoại tử tế bào với thâm nhiễm đại thực bào và sản

xuất các cytokine có nguồn gốc từ mô mỡ, trong đó có yếu tố hoại tử u -α (TNF-

α), interleukin (IL-6), plasminogen activator inhibitor-1 (PAI-1), adiponectin,

ngoài ra còn leptin, resistin, visfatin, monocyte chemoattractantprotein-1,

protein - 4 liên kết retinol, protein liên kết acid béo. Mức độ béo phì tăng liên

quan đến việc tăng nồng độ của những cytokine tiền viêm này [16].

Insulin được tiết ra bởi tế bào beta của đảo tụy Langerhans, hoạt động

thông qua thụ thể glycoprotein nằm trong các cơ quan đích. Insulin liên kết với

tiểu đơn vị α ngoại bào của thụ thể insulin, thông quá các cơ chế kích hoạt nội

bào, làm ức chế phân giải lipid [16].

Yếu tố chính dẫn đến kháng insulin là sự dư thừa các acid béo lưu hành

trong máu, các acid béo này do các enzyme lipase phân giải triglyceride hoặc

6

lipoprotein giàu triglyceride trong các mô. Insulin có tác dụng ức chế lipase và

khi kháng insulin dẫn đến tăng phân giải lipid, tạo ra nhiều acid béo hơn và

càng gia tăng tình trạng kháng insulin. Sự gia tăng nồng độ các acid béo tự do

tại gan dẫn đến tăng sản xuất glucose, triglyceride và tiết ra các VLDL. Các bất

thường liên quan đến lipid/lipoprotein bao gồm giảm HDL-C và tăng số lượng

LDL-C. Sự gia tăng glucose trong máu, và ở một mức độ nào đó là tăng các

acid béo tự do, làm tăng bài tiết insulin của tuyến tụy, dẫn đến tăng insulin máu.

Tăng insulin máu có thể dẫn đến tăng cường tái hấp thu natri và tăng cường

hoạt động của hệ thần kinh giao cảm (SNS) góp phần vào việc THA, cũng như

tăng mức các acid béo tự do lưu hành [8]. Kết quả của sự gia tăng triglyceride

máu là sự rối loạn lipid máu biểu hiện qua tăng tổng hợp LDL-C, gia tăng thanh

thải HDL-C, làm tăng nguy cơ xơ vữa động mạch. Nồng độ HDL-C giảm cũng

được cho là hậu quả của sự giảm sút các ATP-1, yếu tố làm trung gian vận

chuyển cholesterol ở tế bào ngoại vi [17].

Yếu tố hoại tử u –α (TNF- α), một cytokine tiền viêm được đặt tên theo

hoạt động chống khối u của nó, liên quan nhiều tình trạng bệnh lý tim mạch,

bao gồm xơ vữa động mạch và suy tim. TNF- α hoạt động như một chất trung

gian hóa học tương tự hormon làm giảm đề kháng insulin trong tế bào mỡ [18].

TNF-α làm giảm sự ức chế sản xuất glucose ở gan do insulin, tăng tổng hợp

acid béo và cholesterol, tăng sản xuất VLDL ở gan và tăng phân giải lipid của

tế bào mỡ. Tăng phân giải lipid làm tăng nồng độ các acid béo không được ester

hóa (NEFA), điều này cũng kích thích và cung cấp chất nền để tổng hợp chất

béo trung tính ở gan, để tăng tiếp tục tạo và giải phóng VLDL. Tăng nồng độ

NEFA huyết tương cũng gây giảm sự hấp thu và quá trình oxy hóa glucose. Do

đó, tăng nồng độ NEFA và tăng TNF-α góp phần vào rối loạn lipid máu và

ĐTĐ, cụ thể là tăng nồng độ chất béo trung tính trong huyết tương lúc đói, giảm

HDL-C và tăng LDL-C, góp phần làm tăng glucose huyết tương [8].

IL-6 là cytokine đóng vai trò quan trọng vai trò trong cơ chế bệnh sinh

7

của kháng insulin và ĐTĐ typ 2. IL-6 và các cytokine khác tăng cường sản xuất

glucose, VLDL ở gan, THA và kháng insulin ở cơ. Mức IL-6 tăng cao trong

mô mỡ của bệnh nhân (BN) ĐTĐ và béo phì. Các nghiên cứu dịch tễ học cho

thấy nồng độ IL-6 tăng lên liên quan đến THA, xơ vữa động mạch và các biến

cố tim mạch [19].

PAI-1 là một chất ức chế protease serine có tác dụng ức chế plasminogen

ở mô và là chất tiền huyết khối (prothrombotic). PAI-1 lưu hành tăng ở BN

HCCH béo phì, ĐTĐ typ 2, và có mối tương quan thuận giữa mức độ nặng của

HCCH và nồng độ PAI-1 trong huyết tương. PAI-1 cũng tham gia vào phát

triển mô mỡ và kiểm soát tín hiệu insulin [20].

Adiponectin là một phân tử quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của

HCCH. Adiponectin được tiết ra bởi các tế bào mỡ và có chức năng trong việc

nhạy cảm với insulin, chống hình thành xơ vữa và giãn mạch [21].

Nồng độ cao của các cytokine kích thích gan sản xuất protein phản ứng

C (CRP). Các cytokin này tạo ra phản ứng viêm trong thành mạch, với sự lưu

hành của CRP và các yếu tố viêm khác có vai trò trong tiên lượng bất lợi về

bệnh tim mạch và gia tăng nguy cơ ĐTĐ type 2 ở người có hoặc không mắc

HCCH. Do đó, sinh lý bệnh của sự đề kháng insulin, HCCH và xơ vữa động

mạch có nguồn gốc từ viêm [17].

Kháng leptin cũng có vai trò trong HCCH. Leptin giảm sự thèm ăn, thúc

đẩy tiêu hao năng lượng và tăng nhạy insulin, leptin có thể điều chỉnh chức

năng tim mạch thông qua cơ chế phụ thuộc vào nitric oxide. Có bằng chứng về

sự đề kháng leptin trong não và các mô khác dẫn đến viêm, kháng insulin, tăng

lipid máu và nhiều rối loạn tim mạch như THA, xơ vữa động mạch [8].

Giả thuyết stress oxy hóa giải thích sự liên quan giữa HCCH và quá trình

lão hóa. Do các khiếm khuyết của quá trình phosphoryl hóa oxy trong ty thể ở

những người già, hoặc con cái của BN ĐTĐ typ 2, sự khiếm khuyết này dẫn

đến tích tụ triglyceride và các phân tử lipid liên quan trong cơ thể [8]

8

Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy ruột non đóng một vai trò quan

trọng trong sự phát triển của kháng insulin, HCCH và ĐTĐ typ 2. Ruột được

coi là cơ quan nội tiết lớn nhất trong cơ thể, tiết ra rất nhiều các hormone

peptide. Trong đó có glucagon-like peptide 1 (GLP-1), một hormone peptide

kích thích tế bào beta tuyến tụy sản xuất insulin để đáp ứng với bữa ăn, làm

chậm quá trình rỗng của dạ dày, tăng cảm giác no và cải thiện độ nhạy insulin.

Vai trò của ruột non trong việc đề kháng insulin được thấy ở những BN béo

phì, ĐTĐ đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ dạ dày, nối dạ dày với hỗng tràng. Phần

lớn BN có mức đường huyết bình thường, tăng tiết insulin và mức HbA1c bình

thường, không phụ thuộc vào việc giảm cân [8].

Kháng insulin cũng có thể trực tiếp dẫn đến suy giảm chức năng nội mạc,

nội mạc bình thường không liên kết với bạch cầu. Tăng insulin máu có thể làm

tăng sự biểu hiện của phân tử kết dính ICAM-1, làm tăng sự gắn kết của đại

thực bào với nội mạc; VCAM-1 với bạch cầu đơn nhân và tế bào lympho T. Cơ

chế cảm ứng VCAM-1 có thể phụ thuộc vào tình trạng viêm do các hạt

lipoprotein biến đổi tích tụ trong nội mạc động mạch để đáp ứng với tăng lipid

máu trong HCCH. Trong thành phần của các hạt lipoprotein biến đổi, có một

số phospholipid bị oxy hóa và các aldehyde chuỗi ngắn phát sinh từ quá trình

oxy hóa lipoprotein, có thể kích hoạt phiên mã của gen VCAM-1 được điều

hòa một phần bởi NF-κB [22] và các cytokine tiền viêm như IL-1β hoặc TNF-

α tăng lên ở HCCH. Do đó, các cytokine tiền viêm là mối liên hệ giữa thay đổi

chức năng nội mạc với rối loạn lipid máu của HCCH [8].

1.2.2. Đặc điểm dịch tể lâm sàng

Các triệu chứng lâm sàng của hội chứng chuyển hóa thường không rõ và

đòi hỏi khám lâm sàng mới phát hiện. Sự hiện diện của các dấu hiệu này gợi ý

bác sĩ lâm sàng tìm kiếm các bất thường sinh hóa liên quan đến HCCH.

- Tăng chu vi vòng bụng (VB): Chu vi VB là một thành phần quan trọng

của tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH. Tăng mô mỡ nội tạng, mỡ tự do có nguồn

9

gốc từ mô mỡ sẽ đến gan. Ngược lại, tăng mỡ dưới da bụng sẽ giải phóng các

sản phẩm chất béo vào hệ thống tuần hoàn và ít ảnh hưởng đến chuyển hóa ở

gan. Tăng tương đối lượng mỡ dưới da ở người Châu Á và người da đỏ gốc Á

có thể giải thích sự phổ biến hơn của HCCH trong những quần thể này so với

người Mỹ gốc Phi [8].

- Huyết áp: Huyết áp liên quan với lượng natri đưa vào cơ thể ở người

béo phì. Insulin cũng có tác dụng thải natri niệu và gia tăng hoạt tính thần kinh

giao cảm. Phản ứng viêm các mạch máu và tổn thương chức năng giãn mạch

của lớp nội mạc có thể gây co mạch, gia tăng hậu gánh, và tăng hấp thu natri ở

thận góp phần vào THA ở người HCCH. Có khoảng 50% người THA có tình

trạng kháng insulin và rối loạn dung nạp glucose ở mô ngoại biên [8].

- Tăng glucose máu: Hầu hết người mắc ĐTĐ typ 2 đều béo phì, chủ

yếu là béo bụng, có liên quan tới sự thiếu hụt tương đối insulin hoặc tình trạng

kháng insulin do sự khiếm khuyết tiết insulin. Biểu hiện tăng glucose máu ở

những người này có thể không xảy ra trong nhiều năm cho đến khi xuất hiện

rối loạn dung nạp glucose và các bất thường của HCCH. Do đó, sự tiến triển

của các bệnh lý mạch máu lớn và mạch máu nhỏ tiến triển kéo dài cho đến khi

biểu hiện rõ ĐTĐ, có khoảng 50% số người khi được chẩn đoán ĐTĐ đã có

các bệnh mạch máu lớn và mạch máu nhỏ [8].

- Rối loạn lipid máu: Đặc điểm lipid ở HCCH đặc trưng bởi sự gia tăng

nồng độ apolipoprotein B chứa lipoprotein, trigliceride, và lipoprotein tỷ trọng

trung bình, cũng như giảm HDL-C và một tỷ lệ gia tăng các phần LDL chưa

ester hóa nhỏ đậm đặc với nồng độ LDL-C tương đối bình thường hoặc tăng

nhẹ. Đặc điểm này có thể gặp ở người ĐTĐ type 2 và người không có ĐTĐ

nhưng có tình trạng kháng insulin. Tiến triển tình trạng xơ vữa động mạch thông

qua nhiều cơ chế, bao gồm gia tăng sự nhạy với oxy hóa, giảm sự thanh thải

thông qua các recepter ở gan, gia tăng sự thu nhận các yếu tố xấu trung gian

nhận được và giữ lại ở các thành động mạch lớn. Hơn nữa, tình trạng kháng

10

insulin thúc đẩy sự hoạt động của lipase ở gan, làm thủy phân và giảm nồng độ

các HDL-C chống xơ vữa động mạch [8].

1.2.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán, điều trị

1.2.3.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng chuyển hóa

Nhiều hội chuyên khoa đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH, mỗi tổ chức

đều đưa ra các tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH khác nhau và đều nhấn mạnh vai

trò đặc biệt của một tiêu chí nào đó. Các nghiên cứu về dịch tễ học thường áp

dụng tiêu chuẩn chẩn đoán của IDF hay ATP III. IDF đã đưa ra một bộ tiêu chí

mới để sử dụng cả về mặt dịch tễ học và thực hành lâm sàng trên toàn thế giới

với mục đích xác định những người mắc HCCH để làm rõ bản chất của hội

chứng và tập trung các chiến lược điều trị để giảm nguy cơ tim mạch lâu dài

dịch bệnh. IDF cũng đã đưa ra các khuyến nghị về các tiêu chí bổ sung khi

nghiên cứu về HCCH, cần nhiều nghiên cứu hơn nữa về HCCH ở các khu vực,

bao gồm nghiên cứu về căn nguyên của hội chứng [23].

Năm 2009, một tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH được đồng thuận và chấp

nhận nhiều nhất là bản tuyên bố đồng thuận trên toàn thế giới về các tiêu chí

của HCCH được quốc tế thống nhất về HCCH của Liên đoàn Đái tháo đường

quốc tế (IDF), Viện tim phổi máu quốc gia Hoa Kỳ (NHLBI), Hội tim mạch

Hoa Kỳ (AHA), Liên đoàn tim mạch thế giới (WHF), Hiệp hội xơ vữa mạch

quốc tế (IAS) và Hiệp hội nghiên cứu về béo phì quốc tế (IASO) đã đưa ra đồng

thuận thống nhất tiêu chuẩn cụ thể BN đủ 3 tiêu chuẩn trong 5 tiêu chuẩn sau

được xem là đủ tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH:

- Tăng VB: Chỉ số VB ≥ 90 cm (đối với nam), ≥ 80 cm (đối với nữ);

- Tăng trigliceride: trigliceride ≥ 150 mg/dL (1,7mmol/L) hoặc đang

điều trị thuốc tăng tricglicerides;

- Giảm HDL-C (high-density lipoprotein cholesterol): nồng độ HDL-C

máu < 40 mg/dL (1,0 mmol/L) (đối với nam) hay < 50 mg/dL (1,3 mmol/L)

(đối với nữ) hoặc đang dùng thuốc điều trị hạ HDL-C;

11

- Tăng huyết áp: Huyết áp tâm thu (HATT) ≥ 130 mmHg và/hoặc huyết

áp tâm trương (HATTr) ≥ 85mmHg; hoặc đang điều trị thuốc điều trị THA.

- Tăng glucose máu lúc đói: Glucose máu ≥ 100mg/dL hoặc đang điều

trị thuốc tăng glucose máu [15].

1.2.3.2. Điều trị

Chẩn đoán xác định và quản lý BN mắc HCCH trong việc thực hiện đầy

đủ các phương pháp điều trị nhằm giảm nguy cơ mắc các bệnh mạn tính tiếp

theo có ý nghĩa quan trọng.

Các phương pháp phòng ngừa hiệu quả bao gồm thay đổi lối sống, chủ

yếu là giảm cân, ăn kiêng và tập thể dục, và việc điều trị bao gồm việc sử dụng

thuốc điều trị thích hợp để giảm các YTNC. Điều trị bằng thuốc nên được xem

xét thực hiện đối với những người không đáp ứng với các biện pháp dự phòng

và thay đổi lối sống. Hiện nay không có phương pháp nào được công nhận để

ngăn ngừa hoặc cải thiện toàn bộ HCCH. Do đó, hầu hết các biện pháp điều trị

là điều trị từng thành phần của HCCH riêng biệt, đặc biệt nhấn mạnh vào những

thành phần dễ dàng cải thiện với việc điều trị bằng thuốc. Trên thực tế, việc

điều trị thuốc để hạ huyết áp, glucose máu hoặc trigliceride sẽ dễ dàng hơn là

bắt đầu một chiến lược dài hạn để thay đổi lối sống của mọi người (tập thể dục

nhiều hơn và ăn uống tốt hơn) nhằm mục đích giảm cân, hạ huyết áp, glucose

máu và trigliceride [18].

1.3. Đặc điểm về phân bố bệnh nhân mắc hội chứng chuyển hóa

1.3.1. Phân bố bệnh nhân mắc hội chứng chuyển hóa trên thế giới

Phân bố tỷ lệ HCCH khác nhau trên khắp thế giới có thể liên quan tới sự

khác nhau về độ tuổi và dân tộc của các quần thể được nghiên cứu và các tiêu

chí chẩn đoán được áp dụng.

Các nghiên cứu trên thế giới cũng ghi nhận có sự khác biệt về tỷ lệ HCCH

giữa các nhóm dân tộc, khác biệt về thành phần của HCCH và các YTNC của

HCCH cũng khác nhau giữa các dân tộc, sự khác nhau đó được giải thích ngoài

12

yếu tố về các thói quen sinh hoạt của nhóm dân tộc khác nhau thì yếu tố gen

cũng đóng vai trò quan trọng [24], [25].

Nghiên cứu tỷ lệ gia tăng HCCH trong 10 năm ở các dân tộc sống tại

Châu Á thấy có sự gia tăng nhanh chóng: Trung Quốc tăng từ 13,7% lên 21,3%;

Hàn Quốc tăng từ 24,9% lên 31,3%, Đài Loan tăng từ 13,6 lên 25,5% [5].

Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc HCCH ở nông thôn cao hơn thành thị

(39,9% so với 32,8%), ở cả nam giới (39,7% so với 33,3%) và phụ nữ (lần lượt

là 40,2% so với 32,3%) ở Hoa Kỳ, có thể là do sự khác biệt về thành phần nhân

khẩu học và các yếu tố hành vi liên quan đến béo phì giữa cư dân thành thị và

nông thôn [26].

Nghiên cứu của Kiros Fenta Ajemu ở Ehiopia cũng ghi nhận tỷ lệ nữ có

nguy cơ mắc HCCH cao hơn so với nam (OR 1,14; 95% CI: 0,91-1,43) [27].

Nghiên cứu tại Colombia thấy tỷ lệ HCCH là 7,7%, tỷ lệ nam (11,1%) cao hơn

nữ (5,3%) (p<0,001) [28].

HCCH được xác định khi có 3 trong 5 tiêu chuẩn: tăng VB, THA, tăng

glucose máu, rối loạn lipid máu (tăng trigliceride và giảm HDL-C), chúng tôi

chưa thấy công bố tỷ lệ HCCH ở người dân tộc thiểu số nào, tuy nhiên kết quả

nghiên cứu tỷ lệ THA ở người dân tộc thiểu số có sự khác nhau ở Nam Trung

bộ [29], tỷ lệ THA ở người Mông tại Đăk Nông là 19,2%, trong đó tỷ lệ THA

ở nhóm nam giới (20,2%) cao hơn nữ giới (18,1%) [30].

Tỷ lệ hiện mắc HCCH trên toàn thế giới dao động từ <10% đến 84%, tùy

thuộc vào khu vực, môi trường thành thị hoặc nông thôn, thành phần (giới tính,

tuổi, chủng tộc và dân tộc) của dân số được nghiên cứu và định nghĩa của

HCCH, ước tính rằng 1/4 dân số trưởng thành trên thế giới mắc HCCH. Tình

trạng kinh tế xã hội cao hơn, lối sống ít vận động và chỉ số khối cơ thể (BMI)

cao có liên quan đáng kể với HCCH. Cameron và cộng sự. đã kết luận rằng sự

khác biệt về cơ địa, chế độ ăn uống, mức độ hoạt động thể chất, hút thuốc, tiền

sử gia đình mắc ĐTĐ và trình độ học vấn sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc HCCH

13

và các thành phần của nó. Tỷ lệ quan sát được của HCCH trong Khảo sát Kiểm

tra Sức khỏe và Dinh dưỡng Quốc gia (NHANES) ở những đối tượng có cân

nặng bình thường là 5%, ở những người thừa cân là 22% và ở những người béo

phì là 60%. Tỷ lệ này tiếp tục tăng theo độ tuổi (20 - 29 tuổi: 10%, 40 - 49 tuổi:

20%, 60 - 69 tuổi: 45%), nam: 8% - 43% và nữ từ 7% - 56% trên khắp thế giới.

Park và cộng sự nhận thấy rằng có sự gia tăng tỷ lệ mắc HCCH từ 20 - 70 tuổi

đối với nam và nữ, tương ứng Ponholzer và cộng sự báo cáo rằng tỷ lệ mắc

HCCH cao ở phụ nữ sau mãn kinh, dao động từ 32,6% - 41,5%. Một báo cáo

của Framingham Heart Study chỉ ra rằng sự gia tăng trọng lượng ≥ 2,25kg trong

khoảng thời gian 16 tuổi có liên quan đến việc tăng tới 45% nguy cơ phát triển

HCCH, và nó đã được chỉ ra bởi Palaniappan và cộng sự rằng mỗi lần tăng 11

cm vòng eo có liên quan đến việc điều chỉnh tăng 80% nguy cơ phát triển

HCCH trong vòng 5 năm. Sự gia tăng nhiều YTNC của HCCH làm gia tăng

YTNC tim mạch nhiều hơn là chỉ tăng 1 YTNC, nguy cơ tăng lên theo số lượng

các thành phần HCCH [18].

Hình 1.1. Tỷ lệ phân bố hội chứng chuyển hóa trên thế giới [31]

Tại Mỹ: Tỷ lệ mắc HCCH thường song song với tỷ lệ béo phì và tỷ lệ

mắc ĐTĐ typ 2 (một trong những biểu hiện của HCCH). Theo dữ liệu của

NHNES, trong giai đoạn 1988 - 2010, BMI trung bình ở Hoa Kỳ tăng 0,37%

14

mỗi năm ở cả nam và nữ và VB tăng lần lượt 0,37 và 0,27% mỗi năm ở phụ nữ

[32]. Theo dữ liệu quốc gia về Sức khỏe và Dinh dưỡng (NHANES) 2003 -

2006, tỷ lệ mắc HCCH điều chỉnh theo tuổi ở người lớn Hoa Kỳ là 28% ở nam

và 30% ở nữ [8]. Theo dữ liệu của CDC được công bố vào năm 2017, khoảng

30,2 triệu người lớn từ 18 tuổi trở lên hoặc 12,2% người trưởng thành ở Hoa

Kỳ mắc ĐTĐ typ 2 (T2DM). Tỷ lệ tiền ĐTĐ hoặc HCCH nhiều hơn khoảng ba

lần. Vì vậy, khoảng 1/3 số người trưởng thành ở Hoa Kỳ mắc HCCH [32].

Châu Âu: Hiện tại, hơn 55 triệu người châu Âu được chẩn đoán ĐTĐ

theo tiêu chuẩn IDF. Tỷ lệ HCCH tại Trung Âu, 60% tại Atlantic European,

52% ở Địa Trung Hải và 50% ở Tây Bắc Âu. Tại Pháp, các nghiên cứu về đối

tượng 30-60 tuổi đã cho thấy tỷ lệ hiện mắc bệnh <10% cho mỗi giới, tỷ lệ

17,5% người từ 60–64 tuổi bị HCCH. Sự gia tăng công nghiệp hóa toàn cầu có

liên quan đến tỷ lệ béo phì gia tăng, dự đoán sẽ làm tăng tỷ lệ mắc HCCH đáng

kể, đặc biệt là khi dân số già đi. Hơn nữa, sự gia tăng tỷ lệ và mức độ nghiêm

trọng của bệnh béo phì ở trẻ em phản ánh qua HCCH ở dân số trẻ hơn [8].

Châu Phi: HCCH cũng đang trở nên phổ biến ở Châu Phi, trái ngược

với xu hướng được coi là hiếm trước đây. Tỷ lệ mắc HCCH ở người Nigeria

THA là 34,3% - 42,9% dựa theo tiêu chuẩn khác nhau (ATP III, WHO, IDF).

Tỷ lệ lưu hành của HCCH khác nhau giữa các quần thể khác nhau, tỷ lệ hiện

mắc được ước tính là từ 17% - 25% [33]. Tỷ lệ HCCH ở Ethiopia được công

bố 33,79% [33]. Nghiên cứu ở Nam Phi thấy tỷ lệ HCCH là 42,6%, trong đó tỷ

lệ HCCH ở nữ là 46,3%, nam 29,3% [27]. Tỷ lệ HCCH tăng cao tại Châu Phi

trái với các báo cáo trước đây về tỷ lệ mắc HCCH thấp ở Châu Phi. Tỷ lệ mắc

bệnh cao có thể là do nghiên cứu được thực hiện ở khu vực thành thị. Đô thị

hóa được biết là có liên quan đến việc ít vận động cũng như chuyển đổi dinh

dưỡng [34].

Châu Á: Nghiên cứu phân tích tổng hợp của P. Ranasinghe (2017) về tỷ

lệ và xu hướng mắc HCCH ở người trưởng thành ở châu Á-Thái Bình Dương

15

cho thấy khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang đối mặt với dịch HCCH. Ở

một số nước, có trên 1/5 người trưởng thành bị ảnh hưởng bởi HCCH và tỷ lệ

tăng dần. Có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia về tỷ lệ hiện mắc HCCH. Thừa

cân gia tăng chỉ ra người Nam Á có nguy cơ cao mắc các bệnh tim mạch so với

người Mỹ da trắng và đặc biệt họ có nguy cơ mắc HCCH và ĐTĐ type 2. Tương

tự, thay đổi thói quen và lối sống góp phần cải thiện HCCH là cần thiết [35].

Tỷ lệ lưu hành HCCH ghi nhận cao nhất trong khu vực (49,0%) tại Pakistan

(Karachchi, 2004). Tỷ lệ hiện mắc trong một cuộc khảo sát quốc gia được thực

hiện ở Hàn Quốc vào năm 2011 - 2012 là 31,3% (NCEP-ATP III sửa đổi) [5].

Tại Derong, Trung Quốc điều tra tỷ lệ mắc HCCH là 3,6% [36], tại Bắc Kinh,

tỷ lệ này là 25,59% [37].

Đông Nam Á: Theo báo cáo IDF năm 2012 tại Đông Nam Á cho thấy

1/5 số người lớn đang sống với ĐTĐ và 8,7% số ca sống chung với bệnh mà

không có điều trị. Theo Hội ĐTĐ quốc tế cho thấy trong năm 2012 có 70,3 triệu

người bị ĐTĐ và dự kiến năm 2030 con số này tăng lên 120,9 triệu ca [35].

Một cuộc khảo sát quốc gia từ Philippines được thực hiện năm 2003 cho thấy

tỷ lệ HCCH là 11,9%. Tỷ lệ HCCH cao tiếp theo đã được báo cáo từ Malaysia

(37,1%) [5]. Tại Malaysia tỷ lệ HCCH trong công chức là 20,6% [38].

1.3.2. Phân bố bệnh nhân mắc hội chứng chuyển hóa tại Việt Nam

Các nghiên cứu về HCCH ở Việt Nam cũng đã được thực hiện trên nhiều

nhóm BN, tại nhiều khu vực trong nước. Nghiên cứu của Dung Thi Pham được

công bố năm 2019 cho thấy tỷ lệ HCCH người Việt Nam ở vùng nông thôn

trung bình là 19,6% (95% CI: 17,8 - 21,4), trong đó nữ chiếm tỷ lệ 24,2 % (95%

CI: 21,5 - 26,9), nam 14,8 (95% CI: 2,5 - 17,1), có sự khác biệt về tỷ lệ HCCH

giữa nam và nữ (p < 0,001), các yếu tố ảnh hưởng HCCH là THA (OR = 4,0;

95% CI: 3,2 - 5,2) và và rối loạn lipid máu (OR = 4,4; 95% CI: 3,4 -5,9) [39].

Kết quả tổng hợp cho thấy các nghiên cứu ở Việt Nam được tiến hành

trên nhiều đối tượng khác nhau tại các bệnh viện và tại cộng đồng. Các tác giả

16

sử dụng cả tiêu chuẩn của IDF và NCEP, tuy nhiên những nghiên cứu gần đây

đa số sử dụng tiêu chuẩn của NCEP. Tỷ lệ mắc HCCH rất dao động, từ 3,9% -

25% ở điều tra cộng đồng trên nhiều lứa tuổi khác nhau [39], [40], [41], [42].

Theo thống kê, tổng số dân của 53 dân tộc thiểu số (DTTS) tại Việt Nam

có khoảng 13,4 triệu người (chiếm 14,6% dân số cả nước) với 3,04 triệu hộ,

sống rải rác trên 63 tỉnh/thành phố. Khu vực Tây Nguyên với khoảng 2 triệu

người dân tộc thiểu số sinh sống, xếp thứ hai sau khu vực trung du và miền núi

phía Bắc (khoảng 6,7 triệu người). Các DTTS có tuổi thọ thấp hơn, tỷ lệ tử

vong trẻ em cao hơn, thu nhập bình quân thấp, gặp khó khăn hơn trong việc

tiếp cận các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng…Có sự chênh lệch

lớn về tuổi thọ bình quân giữa các DTTS, dân tộc có tuổi thọ trung bình cao

nhất cao hơn nhóm có tuổi thọ trung bình thấp nhất đến 12 tuổi. Tuổi thọ bình

quân của nhóm DTTS là 72,1 - thấp hơn 1 tuổi so với mức trung bình của cả

nước (73,2 tuổi), tuổi thọ trung bình các dân tộc thiểu số sinh sống ở khu vực

như: Xơ đăng (70,5), Giẻ triêng (69,7), Rơ măm (65,57)…. [43]. Đến nay, chưa

thấy có công trình nghiên cứu về đặc điểm HCCH được tiến hành ở Tây Nguyên

cũng như ở người DTTS.

Tại Kon Tum: Kon Tum là một tỉnh miền núi khu vực bắc Tây nguyên,

dân số thành thị 181.937 người (32,74%); dân số nông thôn: 373.708 người

(67,26%); nam 278.964 người (50,21%); nữ 276.681 người (49,79%). DTTS

chiếm 53,65% với 43 dân tộc cùng sinh sống, trong đó có 07 dân tộc tại chỗ,

gồm: Xơ Đăng, Ba Na, Gia Rai, Giẻ Triêng, Hre, Brâu và Rơ Măm. Ngoài ra,

còn có các dân tộc từ miền Bắc, miền Trung và miền Nam di cư vào sinh sống.

Tỷ lệ dân tộc sinh sống như sau: Kinh (46,79%), Xơ Đăng (24,40%), Ba Na

(12,51%), Giẻ Triêng (7,39%), Gia Rai (4,75%), Brâu (0,09%), Rơ Mâm

(0,11%), Hre (0,72%), dân tộc thiểu số khác (3,24%). Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận

đa chiều năm 2020 là 10,29%, tỷ lệ nghèo chung cao hơn cả nước và các tỉnh

Tây Nguyên lân cận (Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Đăk Nông). Toàn tỉnh có

17

13 bệnh viện, trong đó Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum là bệnh viện tuyến

tỉnh hạng II, cơ cấu 750 giường bệnh kế hoạch; Gồm có 31 Khoa, 05 Phòng

chức năng, là tuyến cuối cùng điều trị các BN nặng trong toàn tỉnh số lượt khám

hàng năm đạt 219.644 lượt; số BN điều trị ngoại trú trung bình hàng ngày đạt

732 lượt; điều trị nội trú hàng năm 31.718 lượt [44].

Năm 2002, Đào Duy An công bố tỷ lệ THA ở người dân tộc thiểu số tại

thị xã Kon Tum là 12,54%, THA tâm thu đơn độc 6,34%, tỷ lệ THA ở người

Ba Na là 15%, Gia Rai là 14,52%, Rơ ngao là 10,3%, người Xơ Đăng là 18,18%

[45]. Năm 2017, nghiên cứu về HCCH tại Kon Tum thấy tỷ lệ mắc ở nhóm đối

tượng trung cao là 27,36% [7].

1.4. Một số yếu tố nguy cơ trong hội chứng chuyển hóa

Các yếu tố nguy cơ (YTNC) của HCCH có thể được phân thành hai nhóm

là các yếu tố không thay đổi được và yếu tố thay đổi được

1.4.1. Các yếu tố không thay đổi được

- Tuổi: Tuổi là YTNC của HCCH, tuổi càng cao thì nguy cơ mắc HCCH

càng cao. HCCH ảnh hưởng đến gần 50% người Hoa Kỳ trên 50 tuổi [8].

Nghiên cứu tại Ấn Độ thấy tỷ lệ mắc HCCH cao nhất ở người 50 - 59 tuổi

(31,9%), sau đó là nhóm 40 - 49 tuổi (29%), > 60 tuổi (20,3%), 30 - 39 tuổi

(17,4%), thấp nhất ở nhóm < 30 tuổi (1,1%) [46]. Nghiên cứu tại Malaysia thấy

tỷ lệ mắc HCCH cao nhất ở người ≥ 55 tuổi (31,5%), sau đó là nhóm 45 - 54

tuổi (26,6%), 35 - 44 tuổi (16,5%), <35tuổi (10,7%) [47], tại Ethiopia tỷ lệ mắc

HCCH tăng từ 1,6% ở nhóm tuổi 15 ± 24 đến 10,8% ở nhóm trên 65 tuổi [48],

tại Trung Quốc thấy tỷ lệ HCCH ở nam và nữ là là 0,4% và 0,2% người tuổi 18

– 29; ở nhóm 30 - 39 tuổi là 4,3% và 0,4%; ở nhóm 40 - 49 tuổi là 8,2% và

1,6%, ở nhóm 50 - 59 tuổi là 10,8% và 4,7%, ở nhóm người 60 - 69 tuổi là

7,4% và 4,8%, ở nhóm người ≥ 70 tuổi là 6,3% và 4,5% [36]. Tác động của

tuổi tới từng thành phần HCCH khác nhau. Nghiên cứu tại Ba Lan thấy tuổi có

ảnh hưởng rõ ràng tới tỷ lệ mắc HCCH, béo bụng, THA, tăng glucose máu ở

18

nam và nữ, tuy nhiên ít ảnh hưởng tới tỷ lệ HDL-C thấp, ở nữ ít liên quan tới

nguy cơ tăng triglyceride [49]. Tuổi càng cao nguy cơ mắc HCCH càng lớn,

tuy nhiên những người trẻ tuổi cũng có nguy cơ mắc HCCH. Tại thành phố Hồ

Chí Minh thấy tỷ lệ HCCH ở người 13 - 16 tuổi là 4,6% [50], tại Hà Nội phát

hiện trẻ 10 tuổi bị HCCH [51].

- Giới: Nhiều nghiên cứu dịch tễ học đánh giá sự khác biệt về tỷ lệ mắc

HCCH giữa nam và nữ, tuy nhiên, kết quả không thống nhất. Tỷ lệ mắc HCCH

ở các nghiên cứu khác nhau có kết quả khác nhau: nam cao hơn nữ [52], [53],

[54] hoặc tỷ lệ nữ mắc cao hơn nam [46], [55], [56] hoặc chưa tìm thấy sự khác

biệt giữa tỷ lệ HCCH ở nam và nữ [57]. Bolanowski và cộng sự (2010) báo cáo

rằng tỷ lệ HCCH ở nam và nữ xác định theo IDF khác nhau (49,92% và 43,87%,

p = 0,0179) nhưng theo NCEP không khác nhau (38,35% và 38,97%, p =

0,9835) [49]. Độ tuổi của dân số được nghiên cứu cũng có thể ảnh hưởng đến

sự chênh lệch giới tính. Ở Hàn Quốc, nam giới dưới 50 tuổi có tỷ lệ mắc HCCH

cao hơn phụ nữ, nhưng điều này đã bị đảo ngược ở những người tham gia trên

50 tuổi [58]. Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh, thấy nam giới xuất hiện

HCCH sớm hơn nữ, nhưng ở phụ nữ tuổi cao thì tỷ lệ mắc HCCH ở nữ lại cao

hơn so với nam [47]. Ảnh hưởng của giới tới HCCH có thể khác nhau tùy chủng

tộc, phụ nữ Indonesia có nguy cơ mắc HCCH cao hơn nam nhưng phụ nữ Hà

Lan có nguy cơ mắc thấp hơn nam giới [55].

Một số cuộc điều tra trước đây được thực hiện tại Việt Nam cho thấy tỷ

lệ mắc HCCH ở phụ nữ tương đương với nam giới [59] hoặc thấp hơn ở nam

giới [60]. Một điều tra tại thành phố Hồ Chí Minh thấy tỷ lệ tăng VB cao hơn

ở nữ, tỷ lệ THA cao hơn ở nam, tỷ lệ tăng cholesterol hay glucose chưa khác

biệt giữa nam và nữ [47].

- Dân tộc: Các yếu tố chủng tộc có thể ảnh hưởng tới nguy cơ mắc

HCCH cũng như các thành phần HCCH khác nhau. Nghiên cứu tại Canada thấy

tỷ lệ mắc HCCH ở người bản địa thấp hơn những người dân tộc khác (13,5% ở

19

người Inuit (người thổ dân bản địa), và 30% trong số các đối tượng không phải

là thổ dân (OR = 1,489) [61]. Tại Trung Quốc người Tây Tạng có tỷ lệ HCCH

thấp nhất (6,17%), người Trung Quốc gốc Hàn Quốc có nguy cơ cao nhất (OR

= 5,989), sau đó là người Hui (OR = 4,020), người Hán (OR = 2,975), người

Miao, Tujia, Li, Mông Cổ. Tỷ lệ béo bụng, tăng lipid máu, giảm HDL-C, THA

và IFG cao nhất ở người Hán, Li, Hui, Li và gốc Hàn; trong khi tỷ lệ phổ biến

thấp nhất trong các thành phần của HCCH ở dân tộc Li và Tây Tạng. Ở tất cả

các dân tộc tỷ lệ giảm HDL-C và THA cao nhất trong số các thành phần của

HCCH, trong khi tăng glucose máu ít phổ biến hơn, đặc biệt ở các dân tộc Miao,

Mông Cổ, Tây Tạng, Hui và Tujia [24]. Yinxia Su và cộng sự (2020) nghiên

cứu trên ở người Trung Quốc trưởng thành thấy tỷ lệ mắc HCCH thấp nhất ở

người có tỷ lệ các thói quen xấu cao nhất (hút thuốc, uống rượu, ít hoạt động

thể chất), đó là ở nhóm người (Kyrgyzstan, Kazak và người Mông Cổ). Các tác

giả cho rằng nền tảng di truyền của một số nhóm dân tộc có thể đóng một vai

trò quan trọng trong nguy cơ mắc HCCH mặc dù họ có nhiều thói quen được

coi là nguy cơ mắc HCCH [25].

1.4.2. Các yếu tố có thể thay đổi được

- Lạm dụng rượu, bia, đồ uống có chứa cồn (C2H5OH): Rượu có thể

ảnh hưởng đến tổng hợp lipoprotein, chủ yếu thông qua việc giảm mức HDL-

C và sản xuất apolipoprotein loại A ở gan. Ngoài ra, rượu có thể gây rối loạn

quá trình tạo glucose ở gan, ngăn cản quá trình oxy hóa lactate thành pyruvate

trong quá trình chuyển hóa carbohydrate. Những tác động của việc uống rượu

có thể dẫn đến sự phát triển của HCCH. Theo khuyến cáo của WHO thì nam

uống ≤ 2 ly rượu chát (300 ml rượu)/ngày hoặc 2 ≤ lon bia (≤ 14 lon/tuần); nữ

uống ≤ 1 ly rượu chát (150 ml rượu)/ngày hoặc ≤ 1 lon [62].

Nghiên cứu cho thấy lạm dụng rượu bia có liên quan đến việc gia tăng

tỷ lệ mắc HCCH tương đối phức tạp và thay đổi theo giới tính, độ tuổi và mức

độ uống rượu [63]. Tác hại của tiêu thụ rượu nhiều là do sự gia tăng trong huyết

20

tương triacylglycerol và THA [64].

Sự liên quan giữa rượu và các thành phần của HCCH cũng rất phức tạp.

Nghiên cứu của Buja A và cộng sự (2010) cho thấy một số thành phần của

HCCH (HATT, glucose máu và VB) bị ảnh hưởng đáng kể bởi việc uống rượu

ở nam giới, trong khi không có mối liên quan đáng kể nào như vậy được ghi

nhận ở nữ giới [65]. Theo Su Kang Kim và cộng sự (2017), tiêu thụ rượu có

liên quan đến việc tăng chất béo trung tính và cholesterol HDL-C thấp ở nam

giới, làm giảm chất béo trung tính và tăng cholesterol HDL-C ở phụ nữ [57].

Hirakawa M và cộng sự (2015) thấy những người uống rượu ít có VB nhỏ hơn,

những người uống nhiều rượu (nghiện rượu nặng và rất nặng) có VB lớn hơn,

chỉ số BMI cao hơn, huyết áp cao hơn, mức đường huyết lúc đói cao hơn, mức

triglyceride (TG) cao hơn và mức HDL-C cao hơn trong khi họ có cholesterol

lipoprotein tỷ trọng thấp thấp hơn. Tỷ lệ THA, tăng glucose máu và trigliceride

cao ở những người nghiện rượu nặng và rất nặng cao hơn đáng kể so với những

người không uống rượu. Tỷ lệ mức cholesterol HDL-C thấp giảm khi mức độ

tiêu thụ rượu tăng lên. Tỷ lệ mắc HCCH thấp hơn đáng kể ở những người uống

rượu nhẹ và cao hơn ở những người nghiện rượu rất nặng so với những người

không uống rượu. Có mối liên hệ có ý nghĩa giữa việc uống rượu từ 60 g/ngày

trở lên và tỷ lệ mắc bệnh HCCH [66].

- Hút thuốc lá: Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng hút thuốc làm

giảm độ nhạy insulin, gây ra kháng insulin, và tăng các YTNC tim mạch như

tăng nồng độ chất béo trung tính trong huyết tương, giảm HDL-C và tăng đường

huyết, hút thuốc có liên quan với các bất thường về trao đổi chất [67].

Trong số hơn 1000 thành phần, nicotine được biết đến nhiều nhất trong

số các thành phần độc hại chính thải ra từ khói thuốc lá. Các thụ thể nicotinic

acetylcholine (nAChRs) xuất hiện nhiều vị trí ở hệ thần kinh trung tâm và ngoại

vi. Nicotine kích thích thụ thể này, tăng cường giải phóng một số chất dẫn

truyền thần kinh và hormone trong hệ thống thần kinh trung ương và ngoại vi,

21

epinephrine và norepinephrine bởi tủy thượng thận, cortisol vỏ thượng thận,

trục dưới đồi-tuyến yên-thượng thận (HPA) và hệ thống renin-angiotensin-

aldosterone (RAAS) cũng liên quan đến các quá trình này. Nên rõ ràng có mối

liên hệ giữa hút thuốc lá và một số bệnh rối loạn chuyển hóa [68].

Một nghiên cứu phân tích từ Châu Á (Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc,

Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ), Châu Âu (Na Uy, Anh và Phần Lan) và Bắc Mỹ, kết

luận rằng hút thuốc chủ động liên quan đáng kể đến việc tăng nguy cơ HCCH

(nguy cơ tương đối (RR) 1,26, 95% CI: 1,10-1,44) [69]. Có một số nghiên cứu

thấy hút thuốc lá chưa ảnh hưởng tới nguy cơ mắc HCCH [24].

Có sự khác biệt về tác động của hút thuốc với HCCH giữa hai giới. Ở

nam giới, hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy có một mối liên hệ thuận giữa

hút thuốc và tỷ lệ mắc HCCH [70]. Tuy nhiên ở nữ nghiên cứu thấy thuốc lá

không liên quan tới nguy cơ mắc HCCH (RR = 0,85; 95% CI: 0,60 - 1,21) [69].

Nghiên cứu tại Mỹ thấy hút thuốc ảnh hưởng tới nồng độ HDL-C giảm ở những

người Mỹ gốc Phi nhiều hơn so với những người Mỹ da trắng [71]. Do đó, sự

ảnh hưởng của hút thuốc lá cũng có thể ảnh hưởng của từng yếu tố khác nhau

trên các quần thể người khác nhau.

- Ăn nhiều mỡ : Ăn thực phẩm có nhiều chất béo no (có nhiều trong mỡ

động vật) và chất béo chuyển hóa (trong thực phẩm chế biến sẵn) làm tăng nguy

cơ mắc các bệnh tim mạch và bệnh ĐTĐ [72]. Tuy nhiên ăn thực phẩm có nhiều

chất béo chủ yếu làm tăng nồng độ LDL-C, một thành phần không phải là một

tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH [73]. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng việc thay

thế carbohydrate bằng bất kỳ chất béo nào, đặc biệt là chất béo không bão hòa,

sẽ làm giảm triglyceride, tăng HDL-C, và giảm huyết áp, nhưng không ảnh

hưởng đến nồng độ glucose hay độ nhạy insulin. Việc bổ sung 3 - 4 g chất béo

N3 sẽ làm giảm TG và huyết áp và giảm tỷ lệ đối tượng mắc HCCH. Chất béo

từ sữa (50% chất béo bão hòa) cũng liên quan đến tỷ lệ mắc HCCH thấp hơn

trong các nghiên cứu thuần tập [40]. Mặt khác, chất béo bão hòa bao gồm thuật

22

ngữ chỉ nhiều thực phẩm có nguồn gốc, thành phần rất khác nhau, do đó tác

động tới HCCH sẽ khác nhau. Dữ liệu cho thấy rằng tiêu thụ chất béo no có

nguồn gốc từ sữa có tác dụng bảo vệ chống HCCH [74].

- Ăn nhiều muối: Ước tính năm 2010 cho thấy hầu hết mọi người ăn

trung bình từ 9 - 12 gam muối mỗi ngày, gấp đôi so với lượng khuyến nghị

hàng ngày [75]. Ăn nhiều muối có ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị huyết áp. Tại

Hàn Quốc Oh SW và cộng sự (2017) thấy ăn mặn liên quan tới THA ở người

mọi lứa tuổi, tuy nhiên ăn mặn ít liên quan tới béo phì, tăng triglyceride, tăng

glucose máu hay mức độ kháng insuline ở người cao tuổi mặc dù có mối liên

quan rõ ràng ở người trẻ tuổi [76]. Một nghiên cứu quan sát trên 18.146 người

trưởng thành của Cuộc khảo sát Sức khỏe và Dinh dưỡng Quốc gia Hàn Quốc

(2008 - 2011) cho thấy có mối tương quan thuận giữa lượng natri bài tiết (phản

ánh lượng muối tiêu thụ) và huyết áp. Nồng độ triglyceride và glucose có mối

quan hệ tuyến tính (p <0,005) với lượng natri bài tiết. Ở cả nam giới và phụ nữ,

mối quan hệ thuận giữa bài tiết natri và VB, mối quan hệ nghịch với HDL-C (p

≤ 0,001). Tỷ lệ phần trăm chất béo trong cơ thể, khối lượng chất béo cơ thể,

mức insulin và chỉ tiêu đánh giá mức độ kháng insulin (HOMA-IR) có liên

quan đến lượng natri bài tiết. Nguy cơ HCCH dựa trên sự bài tiết natri ước tính

tăng 1,279 lần ở tứ phân vị thứ hai (95% CI: 1,088 - 1,504); 1,479 lần ở tứ phân

vị thứ ba (95% CI: 1,262 - 1,734), và 1,929 lần ở tứ phân vị cao nhất so với tứ

phân thấp nhất (95% CI: 1,654 - 2,249) [77]. Kết quả này chứng tỏ ăn mặn có

liên quan đến tất cả các thành phần của HCCH.

- Ăn ít rau, quả, chất xơ: Trong chiến lược quốc gia phòng chống bệnh

không lây nhiễm, Bộ Y tế khuyến cáo nên thực hiện thay đổi những hành vi

như hút thuốc lá, sử dụng rượu bia ở mức có hại, dinh dưỡng không hợp lý (ăn

ít trái cây, ăn mỡ, ăn mặn), ít hoạt động thể lực [72]. Một nghiên cứu hậu phân

tích 11 nghiên cứu, với tổng số 28.241 người tham gia và 9140 trường hợp có

HCCH. Nhóm ăn chất xơ nhiều nhất giảm nguy cơ HCCH so với nhóm ăn

23

lượng chất xơ thấp nhất (OR = 0,85; 95% CI: 0,79 - 0,92; p = 0,005). Có mối

quan hệ giữa lượng tiêu thụ chất xơ và tỷ lệ mắc HCCH. So với nhóm không

tiêu thụ chất xơ, OR (95% CI) của HCCH trên các mức tiêu thụ 10; 20; 30 và

40 g/chất xơ/ngày là 0,85 (0,79 -0,91), 0,76 (0,67 - 0,85), 0,73 (0,65 - 0,83) và

0,73 (0,65 - 0,82) [78]. Tuy nhiên mối liên quan nghịch giữa lượng chất xơ

trong khẩu phần ăn và nguy cơ mắc HCCH chỉ thấy trong các nghiên cứu quan

sát mà không có các nghiên cứu thuần tập [79].

- Béo phì: Tình trạng thừa cân trên toàn thế giới gần đây làm gia tăng tỷ

lệ HCCH. Béo trung tâm là một đặc điểm chính của HCCH, là tiêu chuẩn chẩn

đoán HCCH. Sự phổ biến của HCCH có mối mối quan hệ chặt chẽ với tỷ lệ

tăng VB và tăng mỡ. Tuy nhiên, BN có cân nặng bình thường cũng có thể kháng

insulin và có thể mắc HCCH [8]. Tại Hà Nam, Việt Nam, Trần Quang Bình và

Phạm Trần Phương điều tra trên người có chỉ số khối cơ thể bình thường thấy

tỷ lệ HCCH là 12,3%; hơn 80% người có ít nhất một chỉ tiêu thành phần HCCH,

hay gặp nhất là rối loạn lipid máu (47,2% giảm HDL-C, 39,9% tăng

triglyceride) [80].

- Hoạt động thể lực: Lối sống ít vận động là một yếu tố dự báo các biến

cố bệnh tim, mạch vành và nguy cơ tử vong liên quan đến các bệnh này. Nhiều

thành phần quá trình trao đổi chất của HCCH liên quan đến lối sống ít vận

động, bao gồm tăng mô mỡ (chủ yếu ở trung tâm), giảm HDL-C, tăng

triglyceride, THA và glucose. Những người xem truyền hình, video hoặc sử

dụng máy tính > 4 giờ ngày có nguy cơ mắc HCCH tăng gấp hai lần [8] so với

những người xem truyền hình, video hoặc sử dụng máy tính < 1 giờ/ ngày [8].

Hoạt động thể lực thường xuyên giúp giảm cân, giảm huyết áp và cải

thiện rối loạn lipid, bao gồm tăng HDL-C và giảm chất béo trung tính [81].

Gebreyes và cộng sự (2018) nghiên cứu tại Ethiopia thấy tỷ lệ mắc HCCH cao

hơn ở những người hoạt động thể chất ở mức độ thấp so với người hoạt động

thể chất ở mức độ cao (9,9% so với 3,6%) [48]. Nghiên cứu tiến hành trên thanh

24

niên ở thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ mắc HCCH ở nhóm thanh niên

có mức độ hoạt động thể lực thấp nhất (<43 phút hoạt động thể lực/ngày) cao

hơn năm lần so với nhóm hoạt động thể lực cao nhất (>103 phút/ngày) (OR =

5,3; 95% CI: 1,5 - 19,1) [82].

Cường độ hoạt động thể lực có thể liên quan tới nguy cơ HCCH. Nghiên

cứu của Sisson SB và cộng sự (2010) thấy nguy cơ mắc HCCH giảm 10% với

mỗi 1000 bước thêm/ngày [83]. Hye Soon Park và cộng sự (2004) nhận thấy

rằng nam giới, tập thể dục vừa phải (2 - 3 buổi/tuần) làm giảm nguy cơ mắc

HCCH (OR = 0,6 95% CI (0,5 - 0,9), p < 0,05) so với người không tập thể dục

hoặc tập nặng, trong khi tác dụng tích cực của tập thể dục không được ghi nhận

ở nữ [58]. Một số nghiên cứu thấy ít hoạt động thể lực cũng chưa ảnh hưởng

nhiều đến tỷ lệ mắc HCCH ở người cao tuổi [24], [25], [84]. Lý do cho sự khác

biệt của tác động của hoạt động và HCCH trong các nghiên cứu có thể do mức

độ hoạt động thể lực trong thời gian nghỉ ngơi không được xem xét. Thực tế

khoảng 90% số thời gian thức trong ngày của một người được dành cho các

hoạt động ít vận động hoặc các hoạt động cường độ nhẹ. Theo điều tra STEPS

2015, trung vị thời gian hoạt động thể lực nhiều ở Việt Nam là 87,9 phút [85].

Có tác giả cho rằng các hoạt động thời gian không tập thể lực có thể có ảnh

hưởng mạnh mẽ hơn đến HCCH và các thành phần của nó so với hoạt động thể

lực ở mức độ vừa phải đến hoạt động mạnh (thường chỉ diễn ra trong thời gian

ngắn) [86].

Ước tính năm 2016, có 28% người trên 18 tuổi trên toàn thế giới không

đạt mức WHO khuyến nghị cho hoạt động thể chất. Tỷ lệ không hoạt động thể

chất ở các nước thu nhập cao nhiều hơn 2 lần so với các nước có thu nhập thấp.

Phụ nữ ít hoạt động hơn nam giới ở đa số các quốc gia [75].

- Nơi ở: Nơi ở cũng có thể ảnh hưởng tới nguy cơ mắc HCCH. Đa số các

nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc HCCH người sống ở thành thị cao hơn những

người sống ở nông thôn. Nghiên cứu tại Ethiopia thấy tỷ lệ mắc HCCH ở thành

25

thị là 11,7%; cao hơn so với tỷ lệ này ở nông thôn (3,2%) [48]. Wang Y (2007)

nghiên cứu tại Trung Quốc đã công bố kết quả tỷ lệ mắc HCCH tăng từ 8% lên

10,6% ở khu vực thành thị và 4,9% lên 5,3% ở khu vực nông thôn [87]. Nghiên

cứu tại Derong, Trung Quốc thấy tỷ lệ chung của HCCH ở khu vực thành thị là

6,6%, cao hơn so với tỷ lệ 3,0% ở nông thôn. Tỷ lệ béo phì (BMI ≥25,0 kg/m2),

rối loạn lipid máu và tăng đường huyết, tỷ lệ mắc từ hai thành phần HCCH trở

lên ở người dân sống trong khu vực thành thị cao hơn so với nông thôn, tuy

nhiên cũng ghi nhận tỷ lệ THA ở vùng nông thôn cao hơn ở thị trấn (p <0,001)

[36]. Tại Việt Nam nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh thấy người sống ở

khu vực thành thị có tỷ lệ béo bụng cao hơn, tuy nhiên tỷ lệ tăng glucose máu,

tăng cholesterol, THA hay HCCH không khác biệt giữa hai khu vực thành thị

và nông thôn [47]. Nghiên cứu tại Hà Nam thấy người sống ở thành thị có nguy

cơ mắc HCCH cao hơn người sống ở nông thôn 2,45 (1,61 - 3,75) lần [80].

Tác động của nơi ở có thể khác nhau giữa hai giới. Nghiên cứu tại Thái

Lan cho thấy ở nam giới, tỷ lệ mắc HCCH ở thành thị cao hơn ở nông thôn

(23,1% so với 17,9%, p <0,05), nhưng ở nữ tỷ lệ này cao hơn ở nông thôn

(27,9% so với 24,5%, p <0,05). Giảm HDL-C và tăng triglyceride máu phổ

biến hơn ở các vùng nông thôn, trong khi béo phì, THA và tăng đường huyết

phổ biến hơn ở các vùng thành thị [88]. Park và cộng sự (2004) nghiên cứu tại

Hàn Quốc thấy nguy cơ mắc HCCH ở nữ sống ở nông thôn (OR = 0,8 (0,6 -

0,9) thấp hơn nữ sống ở thành thị tuy nhiên không thấy sự khác biệt ở nam giới

sống ở hai khu vực khác nhau [58]. Nghiên cứu tại Ba Lan thấy người sống ở

khu vực thành thị có nguy cơ HCCH, HDL-C thấp cao hơn, và ở phụ nữ, tỷ lệ

tăng đường huyết cao hơn [49].

Cao độ địa hình cũng có thể ảnh hưởng tới HCCH hay các thành phần

HCCH. Amaya Lopez-Pascual và cộng sự (2017) nghiên cứu tại Tây Ban Nha,

theo dõi 6.860 người trong thời gian trung bình là 10 năm, có 6,73% các trường

hợp xuất hiện HCCH. Những người sống ở khu vực có độ cao cao nhất (> 456

26

m) có nguy cơ phát triển HCCH thấp hơn đáng kể so với những đối tượng ở

khu vực thấp nhất (<122 m) (HR = 0,75; 95% CI: 0,58 - 0,97; p = 0,029).

Nghiên cứu cho thấy rằng cứ mỗi 100 mét độ cao bổ sung, tỷ lệ HCCH sẽ giảm

hàng năm, đạt mức có ý nghĩa thống kê (giá trị p = 0,003) sau 8 năm theo dõi

[89]. Nghiên cứu tại Ecuador thấy người sống ở vùng núi cao (>2.500m) có

nguy cơ tăng cholesterol máu (OR = 0,24; p <0,001), tăng đường huyết (OR =

0,25; p <0,05) và HCCH (OR = 0,24; p <0,05) thấp hơn; số lượng các thành

phần HCCH cũng thấp hơn so với người sống ở khu vực đồng bằng [90].

1.5. Các biện pháp can thiệp dự phòng hội chứng chuyển hóa

1.5.1. Dự phòng trong cộng đồng đối với người chưa mắc

Việc triển khai dự phòng HCCH trong cộng đồng được Bộ Y tế hết sức

quan tâm, cụ thể Bộ Y tế đã đề ra Quyết định số 346/QĐ-BYT ngày 30/01/2015

về việc Ban hành Kế hoạch Phòng chống bệnh không lây nhiễm giai đoạn 2015-

2020 và Chiến lược quốc gia phòng chống bệnh không lây nhiễm giai đoạn

2015 - 2025. Các biện pháp can thiệp dự phòng đối với người chưa mắc HCCH

gồm can thiệp đối với người khỏe mạnh và can thiệp dự phòng đối với người

có 1 thành phần của HCCH hoặc 2 thành phần của HCCH (tiền HCCH), một

kết quả nghiên cứu trong nước công bố tỷ lệ tiền HCCH lên đến có khoảng 40%

dân số từ 40 - 64 tuổi [6].

Các phương pháp phòng ngừa hiệu quả bao gồm thay đổi lối sống, chủ

yếu là giảm cân, ăn kiêng và tập thể dục, và việc điều trị bao gồm việc sử dụng

thuốc điều trị thích hợp để giảm các YTNC cụ thể. Điều trị bằng thuốc nên

được xem xét thực hiện đối với những người có các YTNC không thay đổi với

các biện pháp dự phòng và thay đổi lối sống. Hiện nay không có phương pháp

nào được công nhận để ngăn ngừa hoặc cải thiện toàn bộ HCCH [18].

Do đó, hầu hết các biện pháp điều trị là điều trị từng thành phần của

HCCH riêng biệt, đặc biệt nhấn mạnh vào những thành phần dễ dàng cải thiện

với việc điều trị bằng thuốc. Thực tế, điều trị thuốc để giảm huyết áp, glucose

27

máu hoặc trigliceride sẽ dễ dàng hơn là bắt đầu một chiến lược dài hạn để thay

đổi lối sống của mọi người (tập thể dục nhiều hơn và ăn uống tốt hơn) nhằm

mục đích giảm cân, có xu hướng hạ huyết áp, glucose máu và trigliceride [18].

- Đánh giá rủi ro: Mục tiêu của liệu pháp là giảm cả YTNC ngắn hạn và

dài hạn, HCCH thường xảy ra khi các YTNC dài hạn không được chuẩn đoán

và điều trị kịp thời.

- Thay đổi lối sống: Thay đổi lối sống được kết hợp bằng nhiều phương

pháp, trong đó nhấn mạnh các biện pháp quản lý các YTNC, sử dụng thuốc

điều trị YTNC, điều trị tình trạng huyết áp, glucose máu, lipid máu, và các bài

tập thể lực với cường độ vừa phải hàng ngày tối thiểu 30 phút cho hầu hết các

ngày trong tuần, khuyến nghị mục tiêu > 10.000 bước chân trong ngày.

- Giảm cân: Bốn liệu pháp có thể được sử dụng để giảm cân: hạn chế

năng lượng (ví dụ giảm 500 kcal/ngày), tăng hoạt động thể lực theo khuyến

cáo, điều chỉnh hành vi lối sống phù hợp từng cá nhân, có thể điều trị thuốc

giảm cân được quy định.

- Điều chỉnh chế độ ăn: Các phương pháp hiệu quả và lành mạnh để giảm

cân lâu dài là chế độ ăn kiêng giảm năng lượng, bao gồm giảm 500 đến 1000

calo/ngày.

- Hoạt động thể chất: Khuyến nghị các hoạt động thể dục phù hợp thực

tế, thường xuyên và vừa phải. Tập thể dục tiêu chuẩn là mỗi ngày ít nhất 30

phút hoạt động thể chất cường độ vừa phải. Tuy nhiên, ưu tiên dành cho 60

phút đi bộ nhanh cường độ trung bình để được bổ sung bằng các hoạt động

khác. Loại thứ hai bao gồm nhiều đợt hoạt động ngắn (10 đến 15 phút) (đi bộ

giải lao tại nơi làm việc, làm vườn hoặc làm việc nhà), sử dụng thiết bị tập thể

dục đơn giản (ví dụ: máy chạy bộ), chạy bộ, bơi lội, đi xe đạp, chơi gôn, thể

thao đồng đội và tham gia huấn luyện đối kháng; tránh các hoạt động ít vận

động phổ biến trong thời gian rảnh rỗi (xem tivi và chơi game).

28

- Thay đổi hành vi: Cung cấp cho BN các nguyên tắc và kỹ thuật để sửa

đổi thói quen ăn uống và sinh hoạt của họ. Sự nhấn mạnh trong thay đổi hành

vi nên bao gồm lợi ích của hỗ trợ xã hội, tránh căng thẳng, chế độ tập thể dục

thường xuyên và cải thiện thói quen ăn uống (ví dụ: đặt mục tiêu, lập kế hoạch

bữa ăn, đọc nhãn, ăn các bữa ăn bình thường, giảm khẩu phần ăn, tự giám sát,

và tránh các cuộc ăn chơi trác táng). Sự can thiệp làm thay đổi các chỉ số nhận

thức với các khuyến nghị cụ thể về chế độ ăn uống và tập thể dục. Khuyến

khích tập thể dục để giảm nguy cơ mắc bệnh mãn tính cũng rất quan trọng ở

người lớn và trung niên vì nó có thể làm chậm quá trình suy giảm chức năng

liên kết cơ thể.

- Tiếp cận điều trị thuốc: Kết hợp với các biện pháp can thiệp thay đổi

lối sống, giảm cân, điều chỉnh chế độ ăn, hoạt động thể chất, thay đổi hành vi

và tiếp cần điều trị thuốc đối với các trường hợp bép phì không đáp ứng với các

biện phán không dùng thuốc, THA, tăng glucose máu, rối loạn lipid máu [18].

1.5.2. Can thiệp dự phòng đối với người mắc

Các biện pháp can thiệp dự phòng nhằm giảm tỷ lệ mắc và hạn chế các

biến chứng do HCCH ở BN mắc HCCH bao gồm hai biện pháp dự phòng là

can thiệp không dùng thuốc và biện pháp can thiệp bằng điều trị thuốc hoặc kết

hợp cả hai biện pháp.

1.5.2.1. Các biện pháp can thiệp dự phòng không dùng thuốc

Các nghiên cứu về hiệu quả can thiệp gồm đánh giá can thiệp về dinh

dưỡng, can thiệp về thay đổi hoạt động thể lực, hay can thiệp kết hợp nhiều

biện pháp khác nhau.

Thay đổi chế độ ăn

Béo phì là yếu tố nguy cơ dẫn đến HCCH vì vậy giảm cân là cách tiếp

cận chính quản lý HCCH. Việc giảm cân ít nhất 5% trọng lượng cơ thể sẽ cải

thiện độ nhạy insulin kèm theo những thay đổi thuận lợi trong nhiều thành phần

của HCCH. Nói chung, các khuyến nghị để giảm cân bao gồm sự kết hợp của

29

hạn chế calo, tăng cường hoạt động thể chất và thay đổi hành vi. Hạn chế calo

là biện pháp phần quan trọng nhất để giảm cân, trong khi gia tăng hoạt động

thể chất rất quan trọng để duy trì giảm cân. Các xu hướng tăng lại cân sau khi

giảm cân thành công nhấn mạnh sự cần thiết của thay đổi hành vi lâu dài. Trước

khi chỉ định một chế độ ăn kiêng để giảm cân, cần nhấn mạnh rằng BN đã mất

một thời gian dài để gia tăng khối lượng chất béo; do đó, việc hiệu chỉnh không

thể diễn ra nhanh chóng, 1 cân Anh (453,6 gram) chất béo tương đương 3500

kcal, hạn chế khoảng 500 kcal hàng ngày tương đương với việc giảm 1 cân Anh

trọng lượng mỗi tuần. Chế độ ăn hạn chế carbohydrate thường giúp giảm cân

ban đầu nhanh hơn. Tuy nhiên, sau 1 năm, số lượng cân nặng giảm ít hoặc

không khác gì so với khi chỉ hạn chế calo. Như vậy, việc tuân thủ chế độ ăn

uống quan trọng hơn chế độ ăn kiêng đã chọn. Một chế độ ăn uống phù hợp,

nhiều trái cây, rau, ngũ cốc nguyên hạt, thịt gia cầm và cá nên được khuyến

khích để tối đa hóa lợi ích sức khỏe [8].

Tại Đông Nam Á có một số nghiên cứu tập trung vào các can thiệp dinh

dưỡng dựa trên cung cấp các chất có nguồn gốc thực vật như dầu hạt đen, trà

hoa hồng (Hibiscus sabdariffa L.), bổ sung vitamin D. Một hướng khác là

nghiên cứu về giáo dục dinh dưỡng ở những người bị HCCH, so sánh giữa

nhóm đối chứng (được cung cấp gói giáo dục sức khỏe tổng quát) và nhóm can

thiệp (nhận được các buổi giáo dục dinh dưỡng tăng cường), kết quả can thiệp

giáo dục dinh dưỡng đã cải thiện mức cholesterol toàn phần ở nam giới và vòng

eo ở phụ nữ bị HCCH [91].

Fereidoun Azizi và cộng sự (2013) tiến hành thử nghiệm trên 6870 đối

tượng, nhóm can thiệp bằng các biện pháp thay đổi lối sống, cải thiện chế độ

dinh dưỡng và chế độ ăn uống, tăng mức độ hoạt động thể chất và bỏ thuốc lá.

Sau 3,6 năm, sự gia tăng tỷ lệ HCCH ở nhóm can thiệp ít hơn so với nhóm

chứng (p <0,002), tỷ lệ béo bụng, tăng đường huyết, tăng triglyceride và giảm

HDL-C thấp hơn ở nhóm can thiệp, thay đổi huyết áp chưa có ý nghĩa [92].

30

Tăng hoạt động thể lực

Tăng hoạt động thể lực cũng được khuyến cáo trong thay đổi lối sống

[72]. Một số BN có nguy cơ cao nên đánh giá nguy cơ tim mạch trước khi bắt

đầu chương trình tập thể dục. Cần nâng dần mức độ hoạt động thể chất để tăng

cường sự tuân thủ và tránh chấn thương. Gia tăng hoạt động thể chất để đạt

mục tiêu giảm trọng lượng và cần 60 - 90 phút hoạt động hàng ngày để đạt được

mục tiêu giảm cân. Ngay cả khi không thể thực hiện mức độ hoạt động này,

hoạt động cường độ vừa phải hàng ngày ít nhất 30 phút cũng có lợi ích sức

khỏe đáng kể. Nên đa dạng các hoạt động thể chất, như làm vườn, đi bộ, dọn

nhà, bên cạnh những bài tập chính thức như chạy bộ, bơi hoặc quần vợt [8].

Tại Malaysia thử nghiệm năm 2014 có sự tham gia của 140 nhân viên

chính phủ mắc HCCH chia làm hai nhóm, nhóm can thiệp theo dõi các bài đăng

và đối thoại trên Facebook thúc đẩy hoạt động thể chất, nhóm chứng. Sau can

thiệp nhóm Facebook có số bước mỗi ngày tăng hơn so với nhóm đối chứng,

có mối tương quan mạnh đến rất mạnh giữa những thay đổi về số bước mỗi

ngày và những thay đổi trong các biến số khác (cân nặng, chỉ số khối cơ thể,

khối lượng chất béo, tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể, vòng eo), sinh hóa (tổng lượng

cholesterol, HDL-C cholesterol, LDL cholesterol, triglyceride và glucose lúc

đói) và huyết áp [93]. Chee Huei Phing và cộng sự tuyển chọn 189 người tham

gia thử nghiệm, so sánh giữa 3 nhóm (một nhóm được nhắc nhở thời điểm gồm

các biểu ngữ đặt tại các vị trí thích hợp để cung cấp động lực tăng cường hoạt

động thể chất, một nhóm thể dục nhịp điệu và nhóm chứng. Kết quả: số bước

đi trung bình cao hơn đáng kể trong nhóm thể dục nhịp điệu, tỷ lệ mắc HCCH

giảm mạnh nhất ở nhóm thể dục nhịp điệu (giảm 79,4% so với đánh giá lúc ban

đầu) [94].

1.5.2.2. Các biện pháp can thiệp dự phòng có dùng thuốc

Thuốc điều chỉnh lipid máu

Triglyceride lúc đói > 500 mg/dL nên được điều trị để ngăn ngừa tăng

31

triglyceride máu và viêm tụy. Nhóm thuốc fibrate là loại thuốc được lựa chọn

để giảm nồng độ triglyceride, thường giảm 30 - 45%.

Rất ít thuốc điều chỉnh lipid làm tăng mức HDL-C: Statin, fibrat và chất

cô lập acid mật có tác dụng khiêm tốn (5 - 10%), trong khi ezetimibe và acid

béo omega-3 không có tác dụng. Acid nicotinic là loại thuốc duy nhất hiện có

với khả năng tăng cholesterol HDL-C. Đáp ứng liên quan đến liều lượng, và

acid nicotinic có thể làm tăng HDL-C lên đến 30% trên mức cơ sở. Không có

bằng chứng cho thấy tăng HDL-C với acid nicotinic ảnh hưởng có lợi đến các

biến cố ASCVD ở BN có hoặc không có HCCH [8].

Chẩn đoán rối loạn lipid máu khi: BN có một trong các tiêu chuẩn:

Cholesterol >200mg/dL; Trigliceride >150 mg/dL; HDL-C <40 mmol/L; LDL-

C >100mg/dL.

Bước 1: thay đổi lối sống, đánh giá lại sau 2 - 3 tháng.

Nếu vẫn rối loạn lipid máu: thay đổi lối sống kèm điều trị bằng thuốc.

- Các nhóm thuốc

+ Nhóm statin (HMG-CoA reductase inhibitors): tác dụng: ức chế enzym

Hydroxymethylglutaryl CoA Reductase là một enzymtổng hợp cholesterol, làm

giảm cholesterol nội sinh, kích thích tăng tổng hợp thụ thể LDL-C nên tăng thu

giữ LDL-C tại gan. Kết quả sẽ giảm LDL-C, VLDL, cholesterol, trigliceride và

tăng HDL-C. Ngoài ra nhóm statin còn giảm quá trình viêm của nội mạc mạch

máu, giúp thoái triển mảng xơ vữa, tăng tổng hợp nitric oxide (NO) của tế bào

nội mạc. Liều dùng một số thuốc: Atorvastatin: 10-20mg/ngày, liều tối đa 80

mg/ngày; Rosuvastatin: 10-20mg/ngày, liều tối đa 40 mg/ngày; Simvastatin:

10-20 mg/ngày, liều tối đa 80 mg/ngày; Lovastatin: 20-40 mg/ngày, liều tối đa

80 mg/ngày; Fluvastatin: 20-40 mg/ngày, liều tối đa 80 mg/ngày; Pravastatin:

20-40 mg/ngày, liều tối đa 80 mg/ngày.

+ Nhóm fibrate: làm giảm trigliceride do kích thích PPAR alpha làm tăng

oxy hóa acid béo, tăng tổng hợp enzym LPL, làm tăng thanh thải các lipoprotein

32

giàu trigliceride, ức chế tổng hợp apoC-III ở gan, tăng thanh thải VLDL. Các

fibrat cũng làm tăng HDL-C do thúc đẩy trình diện apoA-I và apoA-II. Liều

dùng: Gemfibrozil: liều thường áp dụng trên lâm sàng: 600 mg/ngày; Clofibrat:

1000 mg/ngày; Fenofibrat: 145 mg/ngày.

+ Nhóm acid Nicotinic (Niacin, vitamin PP): Thuốc có tác dụng giảm

trigliceride do ức chế phân hủy từ tổ chức mỡ và giảm tổng hợp trigliceride ở

gan, ức chế tổng hợp và ester hóa acid béo tại gan, tăng thoái biến apo B, giảm

VLDL, giảm LDL-C, và tăng HDL-C (do giảm thanh thải apoA-I). Liều dùng

Niacor: 100 mg/dL, liều tối đa 1000 mg/ngày; Niaspan: 250 mg/dL, liều tối đa

1500 mg/ngày; Slo-niacin: 500 mg/dL, liều tối đa 2000 mg/ngày.

+ Nhóm Resin (Bile acid sequestrants): Resin trao đổi ion Cl- với acid

mật, tăng tổng hợp acid mật từ cholesterol, làm tăng bài tiết mật và giảm

cholesterol ở gan, kích thích tổng hợp thụ thể LDL-C, tăng thải LDL-C. Liều

dùng, chỉ định trong trường hợp tăng LDL-C: Cholestyramin: 4 -8 g/ngày, liều

tối đa 32 mg/ngày; Colestipol liều: 5 -10 g/ngày, liều tối đa 40 mg/ngày;

Colesevelam: 3750 g/ngày, liều tối đa 4375 mg/ngày.

+ Ezetimibe : Thuốc ức chế hấp thụ cholesterol tại ruột, làm giảm LDL-

C và tăng HDL-C. Liều lượng: 10mg/ngày. Chỉ định: tăng LDL-C.

+ Omega 3 (Fish Oils): Cơ chế tăng dị hóa trigliceride ở gan. Liều thường

áp dụng trên lâm sàng: 3g/ngày, liều tối đa 6g/ngày. Chỉ định trong trường hợp

tăng trigliceride [2].

Thuốc điều chỉnh huyết áp

Lựa chọn thuốc hạ huyết áp tùy thuộc vào nhiều yếu tố: tuổi, bệnh kèm,

và đánh giá YTNC. Ở những BN có HCCH không có bệnh ĐTĐ, sự lựa chọn

thuốc điều trị THA ban đầu là một thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACE)

hoặc chất chẹn thụ thể angiotensin II, vì hai chất này có hiệu quả và dung nạp

tốt. Ở tất cả BN THA, nên thực hiện chế độ ăn hạn chế natri, bổ sung nhiều trái

cây và rau, ngũ cốc nguyên hạt và các sản phẩm từ sữa ít béo [8].

33

Phân độ huyết áp và phân tầng nguy cơ tim mạch để xác định huyết áp

mục tiêu và chiến lược điều trị.

Mục tiêu: Huyết áp < 140/90 mmHg (<135/80 mmHg nếu có ĐTĐ hoặc

bệnh thận mạn tính).

THA độ 1 (140-159/90-99mmHg): lợi tiểu thiazide liều thấp. Có thể thay

thế bằng một thuốc khác thuộc các n hóm chẹn canxi, ức chế men chuyển, ức

chế thụ thể, chẹn beta…

THA độ 2; 3 ( ≥ 160/100mmHg): Kết hợp ≥ 2 loại thuốc (ưu tiên kết hợp

với lợi tiểu liều thấp). Có thể dùng các nhóm chẹn canxi, ức chế men chuyển,

ức chế thụ thể, chẹn beta…Phối hợp thêm với các nhóm thuốc lợi tiểu, chẹn

canxi, ức chế men chuyển, ức chế thụ thể, chẹn beta, chẹn anpha khi cần thiết…

Nếu không đạt mục tiêu: tăng liều hoặc phối hợp thuốc đến khi đạt huyết

áp mục tiêu [95].

Thuốc điều chỉnh glucose máu

Ở những BN mắc HCCH và bệnh ĐTĐ typ 2, kiểm soát đường huyết

tích cực dẫn đến thay đổi thuận lợi mức triglyceride và/hoặc HDL-C. Ở những

BN rối loạn đường huyết lúc đói không bị ĐTĐ, can thiệp lối sống bao gồm

giảm cân, hạn chế chất béo bão hòa trong chế độ ăn uống,và tăng cường hoạt

động thể chất đã được chứng minh là làm giảm tỷ lệ mắc ĐTĐ typ 2. Metformin

cũng làm giảm tỷ lệ mắc ĐTĐ, mặc dù ảnh hưởng ít rõ rệt hơn so với sự can

thiệp lối sống. Một số nhóm thuốc (biguanides, thiazolidinediones) tăng độ

nhạy insulin. Vì kháng insulin là nguyên nhân chính cơ chế sinh lý bệnh của

HCCH, các loại thuốc đại diện trong các nhóm này làm giảm tỷ lệ hiện mắc

HCCH. Cả metformin và thiazolidinediones tăng cường hoạt động của insulin

trong gan và ngăn chặn sản xuất glucose nội sinh. Thiazolidinediones cũng cải

thiện sự hấp thu glucose qua trung gian insulin ở cơ và mô mỡ. Trong một phân

tích tổng hợp của chín thử nghiệm với 12.026 người tham gia,

thiazolidinediones pioglitazone so với giả dược có liên quan đến việc giảm biến

34

cố tim mạch ở BN kháng HCCH, tiền ĐTĐ và ĐTĐ typ 2. Thiazolidinediones

và metformin đã được chứng minh là giảm các dấu hiệu viêm, một yếu tố trong

cơ chế bệnh sinh HCCH [8].

Tại mỗi bước nếu không đạt được đích điều trị (HbA1C < 7%) sẽ chuyển

bước tiếp theo.

Tư vấn, thay đổi lối sống: không hút thuốc, không uống rượu bia, chế độ

ăn lạt, ít dầu mỡ, tăng rau củ quả trái cây và hoạt động thể lực áp dụng cho tất

cả người bệnh, các giai đoạn.

Tư vấn tuân thủ điều trị, kiểm soát cân nặng.

Lựa chọn ưu tiên: Metformin, thay thế Sulfonylurea hoặc ức chế men α-

Glucosidase

Lựa chọn thứ 2: Sulfonylurea, thay thế bằng Metformin (nếu không phải

là lựa chọn đầu tiên), ức chế men DPP-4 hoặc Thiazolidinedione.

Lựa chọn thứ 3: Insulin nền hoặc insulin hỗn hợp, thay thế bằng ức chế

men α-Glucosidase, Ức chế men DPP-4 hoặc Thiazolidinedione, Thuốc đồng

vận GLP-1

Lựa chọn thứ 4: Insulin nền + liệu trình insulin điều trị trước ăn, thay thế

bằng Insulin nền hoặc Insulin hỗn hợp [2].

Thuốc giảm cân

- Thuốc ức chế sự thèm ăn:

Được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ chấp thuận

bao gồm phentermine (sử dụng ngắn hạn [3 tháng]) cũng như một số các chất

bổ sung gần đây như topiramate, lorcaserin, naltrexone/bupropion và liều cao

(3,0 mg) liraglutide (thay vì 1,8 mg, tối đa để điều trị ĐTĐ typ 2), được chấp

thuận không hạn chế về thời gian điều trị. Trong các thử nghiệm lâm sàng, sự

kết hợp phentermine giải phóng chậm/ topiramate dẫn đến giảm khoảng 8%

trọng lượng so với giả dược ở 50% BN. Lorcaserin giúp giảm cân ít hơn khoảng

5%. Naltrexone/bupropion giải phóng chậm làm giảm trọng lượng cơ thể ≥10%

35

trong khoảng 20% BN. Liraglutide liều cao giảm khoảng 6% trọng lượngso với

giả dược với khoảng 33% BN có giảm trọng lượng > 10% [8].

- Chất ức chế hấp thu:

Orlistat ức chế hấp thụ chất béo khoảng 30% và có hiệu quả vừa phải so

với giả dược (giảm cân hơn khoảng 4%). Orlistat làm giảm tỷ lệ mắc ĐTĐ typ

2, đặc biệt rõ ràng ở những BN bị rối loạn dung nạp glucose.

Nói chung, đối với tất cả các loại thuốc giảm cân, giảm trọng lượng nhiều

hơn dẫn đến cải thiện các thành phần HCCH nhiều hơn.

Phẫu thuật giảm cân là một lựa chọn cho BN HCCH có chỉ số khối cơ

thể > 40 kg/m2, hoặc > 35 kg/m2 với bệnh kèm theo. Một số nghiên cứu ứng

dụng phẫu thuật những BN có chỉ số khối cơ thể thấp 30 kg/m2 và bệnh ĐTĐ

typ 2. Phẫu thuật nối tắt dạ dày hoặc cắt dọc dạ dày tạo ống tay áo giúp giảm

và cải thiện cân nặng đáng kể trong hầu hết các thành phần của HCCH [8].

1.5.2.3. Các biện pháp can thiệp dự phòng kết hợp

Các chương trình can thiệp quản lý HCCH thường kết hợp nhiều biện

pháp khác nhau. Một nghiên cứu hậu phân tích dữ liệu từ 10 thử nghiệm, với

1160 người tham gia, so sánh giữa chăm sóc thông thường và can thiệp lối sống

có giám sát cho thấy những cải thiện đáng kể ở tất cả các chỉ tiêu. Giảm VB (-

4,9cm), HATT (-6,5mmHg), HATTr (-1,9mmHg), triglyceride (-0,46) và

glucose máu lúc đói (-0,68) tuy nhiên không giảm HDL-C. Tỷ lệ mắc HCCH

giảm 39% ở những người tham gia nhóm can thiệp so với nhóm chứng (OR=

0,61; 95% CI: 0,38 - 0,96) [96].

Trevor J. Orchard và cộng sự (2008) nghiên cứu trên 3243 người, kết quả

sau 3 năm tỷ lệ mắc HCCH giảm ở nhóm thay đổi lối sống nhiều hơn nhóm

metformin so với giả dược (41% và 17%, p = 0,03) [97].

Tại Đông Nam Á, hầu hết các nghiên cứu can thiệp giảm VB đều cho

thấy có sự cải thiện đáng kể về huyết áp, và đường huyết. Tỷ lệ thành công

trong cải thiện thông số rối loạn lipid thấp hơn [91].

36

Patrícia Pozas Saboya và cộng sự (2017) nghiên cứu ngẫu nhiên có đối

chứng bao gồm 72 cá nhân mắc HCCH từ 30-59 tuổi can thiệp trong 12 tuần.

Kết quả can thiệp theo nhóm và cá nhân giảm đáng kể chỉ số khối cơ thể, VB,

huyết áp tâm thu sau 3 tháng và cải thiện chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên,

những thay đổi này không duy trì sau 6 tháng kể từ khi kết thúc can thiệp. Tác

giả khuyến cáo can thiệp nhiều biện pháp, theo nhóm, có thể là một chiến lược

hiệu quả và khả thi về mặt kinh tế trong việc kiểm soát HCCH [98].

Một số nghiên cứu khác đánh giá các hình thức can thiệp khác nhau.

Leila Jahangiry và cộng sự (2015) nghiên cứu này đánh giá hiệu quả của thay

đổi lối sống dựa trên tương tác web. Kết quả cho thấy HCCH giảm nhiều hơn

ở nhóm can thiệp ở các lần theo dõi (3 và 6 tháng), các chỉ số khác cải thiện

nhiều hơn gồm huyết áp, cân nặng, chỉ số khối cơ thể và HDL-C [99]. Tại Nhật

Bản, việc tham gia tích cực vào chương trình can thiệp lối sống làm giảm nguy

cơ liên quan đến HCCH, trong khi đó việc tham gia vừa phải ít tác động [100].

Tại Việt Nam có một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả các biện pháp can

thiệp phòng chống HCCH. Hồ Thị Kim Thanh nghiên cứu tình trạng HCCH ở

cộng đồng tỉnh Hải Dương, can thiệp kết hợp tư vấn, truyền thông nâng cao sức

khỏe với điều tra, can thiệp tích cực bằng thay đổi chế độ ăn uống, luyện tập và

điều trị thuốc kiểm soát huyết áp, glucose máu, lipid máu tại trạm y tế giúp

người cao tuổi mắc HCCH cải thiện tốt huyết áp, lipid máu, tình trạng kháng

insulin và thay đổi hành vi sức khỏe tốt hơn [84].

Nghiên cứu tại Việt Nam trên tình nguyện viên từ 50 - 65 tuổi, so sánh

hai nhóm, nhóm can thiệp (175 người) nhận chương trình dinh dưỡng và hoạt

động thể chất trong 6 tháng, nhóm đối chứng (162 người) chỉ được tư vấn về

chế độ ăn uống và hoạt động thể chất tiêu chuẩn vào một lần duy nhất. Kết quả:

nhóm can thiệp đã tăng HDL-C (+0,42 mmol/L, p <0,001), giảm VB (-1,63 cm,

p <0,001), cân nặng và BMI khi so sánh với nhóm đối chứng. Tỷ lệ HCCH

giảm ở cả nhóm can thiệp và nhóm chứng (p <0,001), lần lượt giảm xuống

37

56,0% và 75,9%, nhưng tỷ lệ HCCH sau chương trình thấp hơn đáng kể ở nhóm

can thiệp (p <0,001). Số lượng trung bình của các thành phần HCCH giảm đáng

kể trong nhóm can thiệp (p <0,001) [101].

Nguyễn Xuân Thủy và cộng sự nghiên cứu tác động can thiệp hướng dẫn

thay đổi chế độ ăn uống, luyện tập, có cộng tác viên thường xuyên hướng dẫn,

kiểm tra, nhắc nhở người tham gia. Kết quả sau 6 tháng giảm tỷ lệ HCCH 27,5%

so với nhóm chứng, các chỉ số sinh hóa máu như glucose, triglyceride, HDL-C

hay LDL-C đều thay đổi theo hướng tích cực. Ngoài ra đối tượng tham gia can

thiệp còn thay đổi thói quen, tỷ lệ ăn nhiều mỡ, ăn mặn giảm đi, tỷ lệ tham gia

luyện tập thể lực tăng lên, tuy nhiên tỷ lệ ăn ít rau, hút thuốc lá hay uống rượu

bia thay đổi chưa có ý nghĩa [102], [103].

Nguyễn Đức Công và cộng sự theo dõi hiệu quả sự can thiệp vào các

YTNC ở đối tượng cán bộ của tỉnh ủy Bạc Liêu. Các biện pháp can thiệp tổng

hợp gồm thuốc điều trị, tư vấn thay đổi lối sống. Sau can thiệp thấy giá trị trung

bình VB giảm đi; giá trị trung bình sinh hóa máu (glucose, triglyceride và HDL-

C) thay đổi chưa ý nghĩa nhưng tỷ lệ bất thường giảm đi so với trước can thiệp

(ngoại trừ tỷ lệ tăng glucose máu) [104].

38

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu 1: Mô tả thực trạng hội chứng chuyển hóa và một số yếu tố

lên quan ở người bệnh đến khám và điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh

Kon Tum (2018 - 2019)

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu

2.1.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn

Đối tượng nghiên cứu là những người từ 18 tuổi trở lên đến khám bệnh

tại khoa Khám Bệnh.

Tiêu chuẩn chẩn đoán Hội chứng chuyển hóa:

Theo tiêu chuẩn thống nhất về HCCH của Liên đoàn Đái tháo đường

quốc tế (IDF), Viện tim phổi máu quốc gia Mỹ (NHLBI), Liên đoàn tim mạch

thế giới (WHF), Hiệp hội xơ vữa mạch quốc tế (IAS) và Hiệp hội nghiên cứu

về béo phì quốc tế nếu BN đủ 3 tiêu chuẩn trong 5 tiêu chuẩn sau được chẩn

đoán HCCH [3]:

- Tăng VB: VB ≥ 90 cm (đối với nam), ≥ 80 cm (đối với nữ);

- Tăng huyết áp: Huyết áp tâm thu ≥ 130 mmHg và/hoặc huyết áp tâm

trương ≥ 85mmHg; hoặc đang điều trị thuốc điều trị tăng huyết áp.

- Tăng trigliceride: Trigliceride ≥ 150 mg/dL (1,7mmol/L) hoặc đang

điều trị thuốc tăng trigliceride;

- Giảm HDL-C: nồng độ HDL-C máu ở nam giới < 40 mg/dL (1,0

mmol/L) hay < 50 mg/dL (1,3 mmol/L) đối với nữ, hoặc đang dùng thuốc điều

trị hạ HDL-C;

- Tăng glucose máu: Glucose máu lúc đói ≥ 100mg/dL (5,6 mmol/L)

hoặc đang điều trị thuốc tăng glucose máu.

2.1.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ

- Bệnh nhân không tình nguyện tham gia nghiên cứu;

- Bệnh nhân đột quỵ, tai biến mạch máu não, tai biến tim mạch;

39

- Bệnh nhân sa sút trí tuệ, không minh mẫn, di chứng tai biến mạch máu

não không đi lại được;

- Bệnh nhân đã được chẩn đoán HCCH: đang mắc bệnh cấp, mạn tính;

đang điều trị thuốc hạ huyết áp, thuốc hạ glucose máu, thuốc điều trị rối loạn

lipid máu.

- Bệnh nhân đang có rối loạn tâm thần kinh, không hợp tác nghiên cứu;

- Bệnh nhân đang có suy giảm miễn dịch, ảnh hưởng đến một số tiêu

chuẩn chẩn đoán HCCH (suy dinh dưỡng, bụng báng).

2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

2.1.2.1. Địa điểm nghiên cứu:

+ Thu thập bệnh án và khám, mô tả đặc điểm lâm sàng tại Khoa Khám

Bệnh, Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum.

+ Các kỹ thuật xét nghiệm máu, sinh hóa, miễn dịch: thực hiện tại Khoa

Xét nghiệm, Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum.

2.1.2.2. Thời gian nghiên cứu: Tiến hành từ tháng 4/2018 đến tháng 9/2018.

2.1.3. Phương pháp nghiên cứu

2.1.3.1. Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phân tích tất cả các ca bệnh đến khám đủ

tiêu chuẩn chọn mẫu.

2.1.3.2. Cỡ mẫu

- Cỡ mẫu

Dựa theo công thức tính cỡ mẫu ước lượng một tỷ lệ [105], [106]:

2 1−

α 2

n = Z 1 − p pε2

Trong đó:

n = số mẫu cần thiết cho nghiên cứu;

α là mức ý nghĩa thống kê, chọn α = 0,05, do đó = 1,96;

40

p = 0,27 là tỷ lệ BN mắc HCCH theo kết quả nghiên cứu trước đó tại

khoa Khám bệnh - Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum khoảng 27% [7];

Ɛ = sai số tương đối so với tỷ lệ p, chọn giá trị tương đối Ɛ = 0,1.

Khi đó, n = 1038,66, cỡ mẫu làm tròn là 1.039. Như vậy, cỡ mẫu điều

tra trong nghiên cứu mô tả là 1.039 người.

2.1.3.3. Phương pháp chọn mẫu

Chọn mẫu thuận tiện, BN đến khám tại khoa Khám Bệnh - Bệnh viện đa

khoa tỉnh Kon Tum đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn chọn mẫu sẽ được lập danh

sách, hồ sơ bệnh án nghiên cứu, lưu mẫu huyết thanh. Lấy đến đủ số mẫu nghiên

cứu thì dừng.

2.1.4. Nội dung nghiên cứu

Tất cả đối tượng nghiên cứu khi đến khám tại khoa Khám Bệnh - Bệnh

viện đa khoa tỉnh Kon Tum được thăm khám, xét nghiệm để xác định:

+ Đặc điểm dân số học của đối tượng nghiên cứu.

+ Tỷ lệ mắc HCCH.

+ Mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở BN mắc HCCH.

+ Bệnh nhân được thăm khám, xét nghiệm theo mẫu thống nhất (phụ lục

3) phương pháp STEPS (STEPwise approach to surveillance of non-

communicable diseases) của Tổ chức y tế thế giới, để thu thập thông tin trong

hoạt động giám sát YTNC bệnh không lây nhiễm. Ba bước thu thập số liệu cơ

bản bao gồm:

Bước 1: Sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn để thu thập các thông tin về nhân

khẩu học và thói quen, hành vi, bao gồm các thông tin về cá nhân, xã hội, hút

thuốc, sử dụng rượu bia, thói quen ăn uống và hoạt động thể lực.

Bước 2: Đo các chỉ số nhân trắc, đo huyết áp, khám toàn thể.

Bước 3: Xét nghiệm máu: lấy máu lúc đói định lượng: glucose, HbA1c,

cholesterol toàn phần, triglyceride, HDL-C, LDL-C.

- Đặc điểm lâm sàng: Đánh giá lâm sàng thực hiện trên tất cả đối tượng

41

và thực hiện hỏi bệnh sử, tiền sử, khám thực thể vào thời điểm bắt đầu nghiên

cứu theo Phiếu báo cáo ca bệnh (case record forms - CRF).

+ Tính các chỉ số nhân trắc: đo cân nặng, chiều cao, VB.

+ Khám tổng thể, đo huyết áp, xác định giá trị huyết áp tối đa, huyết áp

tối thiểu.

+ Đánh giá các yếu tố liên quan: Tuổi, nhóm tuổi, giới tính, trình độ học

vấn, nơi cư trú, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, dân tộc.

+ Đánh giá các yếu tố liên quan: Ăn mặn, ăn ít xơ, hoạt động thể lực, sử

dụng rượu bia, ăn nhiều dầu mỡ, hút thuốc lá.

- Đặc điểm cận lâm sàng: xét nghiệm sinh hóa máu các chỉ số glucose,

trigliceride, HDL-C.

2.1.5. Các biến số và chỉ số nghiên cứu (Phụ lục 3)

Bảng 2.1. Các biến số về nhân trắc

Tên Phương Phân TT biến Định nghĩa và cách tính pháp thu loại số thập

- Tuổi: được xác định bằng năm nghiên cứu

trừ đi năm sinh.

- Phân loại 2 nhóm tuổi: > 45 tuổi và ≤ 45 Liên Phỏng 1 Tuổi tuổi [107] và theo nhóm tuổi cách nhau 10 tục vấn

tuổi để tìm hiểu nhóm tuổi có tỷ lệ HCCH

cao nhất.

Phỏng Nhị 2 Giới Nam hoặc nữ vấn và phân Quan sát

Dân Dân tộc Kinh, Xê đăng, Ba na, Giẻ triêng, Định Phỏng 3 tộc Khác (Gia rai, Brâu, Rơ măm...). danh vấn

Nghề + Nhóm lao động trí óc: người có hoạt động Định Phỏng 4

42

Tên Phương Phân TT biến Định nghĩa và cách tính pháp thu loại số thập

nghiệp thể lực nhẹ gồm những người lao động trí danh vấn

óc hoặc làm công việc hành chính, ít vận

động các nghề nghiệp: Sinh viên, Cán bộ,

Hưu trí....

+ Nhóm lao động tay chân gồm: lao động

tay chân, buôn bán, ...

Trình Gồm 4 nhóm tốt nghiệp: Tiểu học và trung Thứ Phỏng 5 độ học học cơ sở; Trung học phổ thông; Trung cấp bậc vấn vấn và cao đẳng; Đại học, sau đại học.

Tình

Định Phỏng trạng Độc thân, lập gia đình, ly hôn, góa bụa. 6 danh vấn hôn

nhân

Thành thị gồm các phường trong thành phố, Nơi Định Phỏng 7 thị trấn tại các huyện; Nông thôn: gồm các cư trú danh vấn xã tại thành phố và huyện.

Vòng Tăng VB khi VB ≥ 90 cm đối với nam và ≥ Liên Khám 8 tục lâm sàng Bụng 80 cm đối với nữ [2], [3]

Liên Khám Chiều 9 Chiều cao: được tính theo cm. tục lâm sàng cao

Liên Khám Cân 10 Cân nặng: được tính bằng đơn vị kg. tục lâm sàng nặng

Chỉ số Chỉ số khối cơ thể BMI (Body Mass Index) Thứ Khám 11 khối được tính [2]: bậc lâm sàng cơ thể

43

Tên Phương Phân TT biến Định nghĩa và cách tính pháp thu loại số thập

BMI

Bảng 2.2. Các biến số về các thói quen

Phương Tên biến Phân TT Định nghĩa và cách tính pháp thu số loại thập

Thói quen ăn mặn (có/ không): là ước

Thói quen tính chế độ ăn hàng ngày có lượng Nhị Phỏng 1 ăn mặn natri ≥ 2 g/ngày (tương đương ≥ 5 g phân vấn

muối/ngày) ở người lớn [108].

Thói quen Thói quen ăn ít dầu mỡ (có/ không): Nhị Phỏng 2 ăn ít dầu Chế độ ăn có hạn chế tổng năng lượng phân vấn mỡ ăn vào từ chất béo dưới 30% [109].

Thói quen ăn ít chất xơ (có/ không):

được tính bằng tổng lượng xơ đưa vào Thói quen cơ thể bao gồm: ≤ 5 gam rau Nhị Phỏng 3 ăn ít chất sống/ngày kèm ≤ 3gam nước ép trái phân vấn xơ cây/ngày kèm 3 hạt ngũ cốc nguyên

hạt kèm 3 hạt tinh chế [110].

Uống rượu

bia, thức Uống rượu, bia khi (có/không): Nam Nhị Phỏng 4 uống có uống > 14 đơn vị cồn/tuần; Nữ uống > phân vấn cồn 7 đơn vị cồn/tuần) [62].

(C2H5OH)

44

Phương Tên biến Phân TT Định nghĩa và cách tính pháp thu số loại thập

Hút thuốc lá (có/không): Là người đã

Hút thuốc từng hút thuốc, đã hút hơn 100 điếu Nhị Phỏng 5 lá thuốc lá trước đó và hiện tại vẫn đang phân vấn

hút thuốc lá [111].

+ Có hoạt động thể lực (có/không): khi

hoạt động thể chất ít nhất 150 Hoạt động Nhị Phỏng 6 phút/tuần cường độ vừa phải hoặc 75 thể lực phân vấn phút hoạt động thể chất cường độ

cao/tuần [112].

Bảng 2.3. Các biến số về đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng

Phương

Phân pháp TT Tên biến số Định nghĩa và cách tính loại thu

thập

- Khai thác tiền sử về THA, cách thức Khám điều trị hiện tại của đối tượng nghiên Liên lâm 1 Huyết áp cứu nếu bị THA. tục sàng - Phân loại THA theo Bộ Y tế [95].

Xét Glucose máu lúc đói, đơn vị tính Liên nghiệm 2 Glucose máu mg/dL (mmol/L). Giá trị bình thường tục máu <100mg/dL (5,6 mmol/L) [2].

Xét HbA1c: bình thường 4,8-6,5% Liên nghiệm 3 HbA1c mmol/dL [2]. tục máu

Xét 4 Trigliceride Trigliceride: bình thường <150 Định

45

Phương

Phân pháp TT Tên biến số Định nghĩa và cách tính loại thu

thập

mg/dL (1,7mmol/L) [2]. lượng nghiệm

máu

HDL-C: nồng độ HDL-C bình Xét thường ≥ 40 mg/dL (1,0 mmol/L) Liên 5 HDL-C nghiệm (đối với nam) hay ≥ 50 mg/dL (1,3 tục máu mmol/L) (đối với nữ) [2].

Xét Cholesterol: nồng độ Cholesterol Liên 6 Cholesterol nghiệm bình thường < 5,2 mmol/L [2]. tục máu

Xét LDL-C: nồng độ LDL-C bình Liên nghiệm 7 LDL-C thường ≤3,4 mmol/L [2]. tục máu

2.1.6. Kỹ thuật và công cụ sử dụng trong nghiên cứu

- Kỹ thuật phỏng vấn sử dụng bộ câu hỏi soạn sẵn, hỏi bệnh sử, tiền sử,

các yếu tố liên quan thói quen ăn uống, sinh hoạt...liên quan HCCH, khám thực

thể ghi chép vào bệnh án nghiên cứu (Phụ lục 3).

- Kỹ thuật khám lâm sàng:

+ Đo VB bằng thước dây thông thường, không co giãn, có đơn vị nhỏ nhất

milimet. Người bệnh đứng thẳng và thở ra. Sử dụng thước dây không co dãn

để đo chu vi VB, quấn thước dây quanh VB, ngang mức rốn, thước dây quấn

không quá chặt và thẳng ngay cả ở phía sau lưng. Số đo VB trên thước dây

được ghi nhận ngay sau khi thở ra. Đo VB đo tương ứng với điểm giữa của bờ

dưới xương sườn cuối với bờ trên mào chậu theo đường nách giữa. Đối tượng

đứng ở tư thế thoải mái, hai tay buông thõng, vòng đo ở mặt phẳng nằm ngang.

46

Tăng VB khi VB ≥ 90 cm (nam) và ≥ 80 cm (nữ) [2], [3]

+ Đo chiều cao đứng: độ chia chính xác tới milimet, chiều cao được tính

theo cm. Đối tượng bỏ guốc dép, đi chân không, đứng quay lưng vào thước đo.

Gót chân, mông, vai, chẩm theo một đường thẳng áp sát vào thước đo, mắt nhìn

thẳng, lưng thẳng, tay buông thõng theo hai bên mình. Kéo chặn đầu của thước

từ trên xuống dưới đến khi áp sát đỉnh đầu, nhìn vào thước đọc kết quả.

+ Đo cân nặng: Sử dụng cân SECA (độ chính xác 0,1 kg). Đo trọng lượng

khi BN đói, trước khi lấy máu, mặc quần áo gọn nhất. Đối tượng đứng thẳng

giữa bàn cân, không cử động, mắt nhìn thẳng, tay buông 2 bên thân, trọng lượng

phân bố đều cả 2 chân, cân được đặt ở vị trí ổn định và bằng phẳng, đủ ánh

sáng.

+ Đo huyết áp: Đối tượng được ngồi nghỉ ngơi trước khi đo 15 phút, đo

huyết áp 2 lần cách nhau 2 phút. Kết quả ghi theo đơn vị mmHg. Số đo huyết

áp của đối tượng sẽ được tính là kết quả trung bình của 2 lần đo. Nếu kết quả

giữa 2 lần đo chênh nhau trên 10 mmHg, hoặc huyết áp tối đa trên 140 mmHg

hoặc huyết áp tối thiểu trên 90 mmHg thì đối tượng sẽ được đo lại lần thứ 3 sau

15 phút và kết quả được tính là số đo huyết áp của lần thứ 3. Dụng cụ sử dụng

là huyết áp kế đồng hồ của Nhật.

- Kỹ thuật xét nghiệm máu:

+ Lấy 3 ml máu tĩnh mạch buổi sáng, khi đói (đối tượng nhịn đói ít nhất 8

tiếng trước khi lấy máu) và được nghỉ ngơi ít nhất 10 phút trước khi lấy máu.

Lấy máu vào ống nghiệm không chống đông, ly tâm lấy huyết thanh, giữ trong

các box lạnh sau đó làm các xét nghiệm cần nghiên cứu.

+ Xét nghiệm glucose: Theo phương pháp so màu enzym (Enzymatic

colorimetric test, GODPAP).

+ Xét nghiệm HbA1c:

* Nguyên lý định lượng HbA1c: Nguyên lý miễn dịch huỳnh quang

* Bằng phương pháp miễn dịch độ đục theo nguyên tắc: HbA1c phản ứng

47

với kháng thể kháng HbA1c tạo thành một phức hợp miễn dịch có thể hòa tan

được. Sau đó những polyhapten (4 kháng nguyên) từ thuốc thử R2 sẽ gắn với

những kháng thể dư thừa. Phức hợp kết dính có độ đục tạo thành được đo bằng

quang kế ở bước sóng 570nm. Nồng độ HbA1c (g/l) được máy tự động tính

dựa trên đường biểu diễn logarit – log của độ hấp phụ của bốn nồng độ chuẩn.

Định lượng hemoglobin (Hb) bằng kỹ thuật đo quang ở bước sóng 570nm. Tính

tỷ lệ theo công thức:

HbA1c (%) = 0,82x + 2,76 HbA1c (g/l)x100 Hemoglobin(g/l)

+ Xét nghiệm lipid máu:

Các xét nghiệm định lượng cholesterol toàn phần, triglyceride, HDL-C,

LDL-C được tiến hành trên máy xét nghiệm sinh hoá tự động TOBO - 480 của

Hãng Tokyo Beoki Medysis Inc (Mã số 5503570117) do Nhật Bản sản xuất,

tại Khoa Hóa sinh, Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum. Mẫu huyết thanh lưu

được bảo quản ở 15-25oC trong vòng 8 giờ, ở 2-8oC được 72 giờ. Rã đông một

lần. Để bệnh phẩm, chuẩn, control ở nhiệt độ phòng (20-25oC) và lắc đều trước

khi tiến hành xét nghiệm.

* Kỹ thuật định lượng cholesterol toàn phần: Cholesterol toàn phần được

định lượng bằng phương pháp enzyme so màu (kỹ thuật CHOD – PAP:

cholesterol oxydase phenazon amino peroxidase). Phản ứng hóa học tạo phức

hợp màu hồng cánh sen. Dựa vào mật độ quang đo được ở bước sóng 540/600

nm để xác định nồng độ cholesterol toàn phần trong máu.

* Kỹ thuật định lượng HDL-C: Kháng thể kháng β-lipoprotein người

trong thuốc thử gắn với các lipoprotein ngoại trừ HDL-C (Chylomicron,

lipoprotein có tỷ trọng rất thấp (VLDL) và lipoprotein có tỷ trọng thấp (LDL)).

Nồng độ HDL-C được định lượng bởi sự có mặt của một hệ thống chất tạo màu

enzyme.

* Định lượng LDL-C: Sử dụng công thức của Friedewald để tính hàm

48

lượng LDL-C đối với những đối tượng có kết quả xét nghiệm triglyceride <4,5

mmol/L:

LDL­C = Cholesterol toàn phần − [HDL­C] − (mmol/L) [Trigliceride] 2,2

Những đối tượng có kết quả xét nghiệm triglyceride ≥ 4,5 mmol/L, tiến

hành xét nghiệm định lượng trực tiếp theo nguyên tắc: Trong thuốc thử của

Hãng có hoạt chất bảo vệ LDL khỏi các phản ứng enzyme hóa. Các lipoprotein

không phải LDL (HDL, VLDL và Chylomicron) đều bị phá hủy do phản ứng

với enzyme đặc trưng. LDL-C có trong dịch hòa tan sẽ được định lượng theo

kỹ thuật CHOD-PAP như đối với cholesterol toàn phần.

* Kỹ thuật định lượng triglyceride: Triglyceride được định lượng bằng

phương pháp so màu dùng enzym (kỹ thuật GPO-PAP: Glycerol phosphat

oxidase phenazol amino peroxida). Phản ứng hóa học tạo phức hợp màu hồng

tím, đậm độ màu tỷ lệ thuận với nồng độ triglyceride. Dựa vào mật độ quang

đo được ở bước sóng 660/800 nm để xác định nồng độ triglyceride trong máu.

+ Xét nghiệm huyết thanh trên máy sinh hóa theo quy trình SOPs;

+ Đối chiếu theo thông số sinh hóa bình thường người Việt Nam;

+ Đo bằng máy sinh hóa tự động Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum.

2.2. Mục tiêu 2: Đánh giá hiệu quả biện pháp can thiệp điều trị kết hợp với

truyền thông, giáo dục thay đổi hành vi, lối sống cho bệnh nhân có hội

chứng chuyển hóa

2.2.1. Đối tượng nghiên cứu

2.2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân

Bệnh nhân được xác định mắc HCCH ở mục tiêu 1, đồng ý tiếp tục tham

gia nghiên cứu, được chọn nghiên cứu can thiệp ở mục tiêu 2.

2.2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ

- Bệnh nhân không tình nguyện tham gia nghiên cứu;

- Bệnh nhân đột quỵ, tai biến mạch não, tai biến tim mạch;

49

- Bệnh nhân sa sút trí tuệ, không minh mẫn, di chứng tai biến mạch não

không đi lại được;

- Đang mắc bệnh cấp, mạn tính khác; đang điều trị thuốc hạ huyết áp,

thuốc hạ glucose máu, thuốc điều trị rối loạn lipid máu.

- Bệnh nhân đang có rối loạn tâm thần kinh, không hợp tác nghiên cứu;

- Bệnh nhân đang có suy giảm miễn dịch, ảnh hưởng đến một số tiêu

chuẩn chẩn đoán HCCH (suy dinh dưỡng, bụng báng).

2.2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

2.2.2.1. Địa điểm nghiên cứu

+ Hoạt động tư vấn, hướng dẫn và điều trị thực hiện tại phòng khám ngoại

trú Bệnh viện đa khoa Kon Tum.

+ Các kỹ thuật xét nghiệm máu, sinh hóa, miễn dịch thực hiện tại Khoa

Xét nghiệm, Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum.

+ Các hoạt động ăn uống, sinh hoạt, vận động thể lực thực hiện tại gia

đình và cộng đồng nơi BN sinh sống.

2.2.2.2. Thời gian nghiên cứu: Tiến hành từ tháng 4/2018 đến tháng 4/2019.

2.2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.2.3.1. Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu can thiệp không đối chứng, so sánh trước sau.

2.2.3.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu

Toàn bộ BN được xác định mắc HCCH từ mục tiêu 1 tham gia tiếp tục

vào nghiên cứu can thiệp, so sánh trước sau.

Toàn bộ BN mắc HCCH đến khám tại khoa Khám Bệnh - Bệnh viện đa

khoa tỉnh Kon Tum trong thời gian từ tháng 4/2018 đến tháng 9/2018 được lập

danh sách, hồ sơ bệnh án nghiên cứu, lưu mẫu huyết thanh. Các đối tượng

nghiên cứu được đánh giá tại 2 thời điểm, trước và sau khi can thiệp.

2.2.4. Nội dung nghiên cứu

Nội dung can thiệp bao gồm: Tư vấn thay đổi lối sống; sử dụng thuốc

50

điều trị theo chỉ định và giám sát hỗ trợ người bệnh tuân thủ can thiệp.

2.2.4.1. Tư vấn thay đổi lối sống của người bệnh

Thay đổi lối sống là nền tảng của điều trị và dự phòng hội chứng chuyển

hóa. Các nội dung can thiệp dinh dưỡng, luyện tập được chúng tôi xây dựng

dựa trên các khuyến cáo về dinh dưỡng, tập luyện phòng bệnh ĐTĐ, tim mạch

và rối loạn chuyển hóa lipid trên thế giới và Việt Nam: khuyến cáo của IDF

[107], khuyến cáo của nhóm nghiên cứu về các nguyên tắc phòng và điều trị

bệnh đái tháo đường Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương [113]. Khuyến cáo

của Hội nội tiết đái tháo đường Việt Nam, Khuyến cáo của Hội tim mạch học

Việt Nam,Viện Dinh dưỡng quốc gia [114]… phù hợp với các đối tượng nghiên

cứu theo nguyên tắc cá nhân hóa.

Nội dung can thiệp dinh dưỡng và tập luyện

Mức năng lượng và cân nặng : Mức năng lượng của đối tượng được

đánh giá theo kết quả điều tra chế độ ăn quen thuộc trong vòng 24 giờ. Mức

năng lượng giảm từ từ, mỗi lần giảm 200 - 300 kcal. Mục tiêu giảm cân 5 -

10% cân nặng cơ thể trong vòng 6 tháng. Đạt và duy trì mức cân nặng hợp lý

ở mức BMI từ 18,5 - 22,9 kg/m2.

Để đối tượng nghiên cứu hiểu được cụ thể mức giảm năng lượng trong

khẩu phần ăn, chúng tôi sử dụng các hình ảnh chụp từng bát cơm, bát rau, đĩa

thịt lợn (số lượng miếng thịt cụ thể), từng loại hoa quả… tương ứng từng mức

năng lượng cụ thể do chúng tôi tự chụp trên thực tế xây dựng nên.

+ Glucid: Hạn chế các loại thực phẩm có chỉ số tăng đường huyết cao

(GI-glucose index), tăng sử dụng thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp, chứa

nhiều chất xơ: rau xanh, đậu, các loại ngũ cốc nguyên vỏ, hoa quả tươi ...

Chỉ số tăng đường huyết của thực phẩm theo quốc tế: Chỉ số đường huyết

rất thấp < 40%, chỉ số đường huyết thấp từ 40 - 55%, chỉ số đường huyết trung

bình từ 56 - 69% và chỉ số đường huyết cao ≥ 70%. Chúng tôi hướng dẫn đối

tượng nghiên cứu danh sách chỉ số tăng đường huyết của một số loại thực phẩm

51

chính của Viện Dinh dưỡng (phần phụ lục 4) để lựa chọn thực phẩm.

+ Lipid: Tăng sử dụng các loại mỡ không no, có nhiều trong dầu thực

vật, mỡ cá..., hạn chế chất béo bão hòa (mỡ động vật) và cholesterol (có nhiều

ở nội tạng động vật và lòng đỏ trứng).

+ Chất xơ: Tăng cường sử dụng chất xơ (có nhiều trong rau xanh, hoa

quả tươi). Nên bắt đầu bữa ăn bằng lưng bát con rau xanh. Bữa ăn hỗn hợp có

nhiều chất xơ sẽ làm giảm tăng glucose máu sau ăn.

+ Những người bị THA cần hạn chế ăn mặn.

+ Hạn chế bia rượu, không hút thuốc lá.

+ Cơ cấu bữa ăn: Cần thiết cá nhân hóa cả bữa chính và bữa phụ. Đối

tượng nghiên cứu cần duy trì 3 bữa ăn chính. Bữa phụ nếu có cũng cần xem xét

có phù hợp không. Mức năng lượng của bữa phụ chỉ nên chiếm 10-20% tổng

số năng lượng.

+ Vận động thể lực: Tránh lối sống tĩnh tại, tăng cường vận động trong

công việc hàng ngày tại nơi làm việc cũng như tại nhà: hạn chế xem tivi, đi cầu

thang bộ thay vì cầu thang máy, làm việc gia đình, làm vườn … Khuyến khích

tập luyện hàng ngày, ít nhất 30 phút/ngày với cường độ tập luyện trung bình

như: đi bộ nhanh, chạy, bơi, đạp xe đạp tốc độ trung bình... Nếu không có chống

chỉ định, đối tượng nghiên cứu có thể tập luyện những môn thể thao đối kháng

ít nhất 2 lần/tuần.

2.2.4.2. Điều trị bằng thuốc

Các thuốc sử dụng bao gồm các thuốc hạ đường huyết (các thuốc uống),

thuốc hạ huyết áp và thuốc điều trị mỡ máu theo phác đồ điều trị của Bộ Y tế.

Thuốc điều trị là những thuốc được cấp phép của Bộ Y tế, thông qua đấu thầu

và giám sát của Bảo hiểm xã hội Việt Nam để sử dụng điều trị tại Bệnh viện đa

khoa tỉnh Kon Tum.

Bệnh nhân được áp dụng can thiệp điều trị kết hợp với truyền thông, giáo

dục thay đổi hành vi, lối sống khi được xác đinh mắc hội chứng chuyển hóa

52

theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của Bộ Y tế. Tái khám hàng tháng sau

khi được chẩn đoán mắc HCCH, được tư vấn chế độ dinh dưỡng, tập luyện kết

hợp điều trị thuốc theo phác đồ Bộ Y tế về Quy trình điều trị THA [95], quy

trình điều trị rối loạn lipid máu [2], quy trình điều trị ĐTĐ [115]. Định kỳ hàng

tháng được thăm khám, xét nghiệm, giám sát thực hiện chế độ dinh dưỡng,

luyện tập đồng thời đánh giá mức tuân thủ điều trị, tác dụng không mong muốn

của thuốc để điều chỉnh phù hợp.

2.2.4.3. Giám sát, hỗ trợ người bệnh tuân thủ can thiệp

Nhằm đảm bảo đối tượng nghiên cứu thực hiện đúng các tư vấn, hướng

dẫn thực hiện các biện pháp can thiệp, cũng như điều chỉnh kịp thời những vấn

đề phát sinh, thực hiện chưa phù hợp theo hướng dẫn và các tác dụng phụ khi

dùng thuốc; nhóm nghiên cứu đã xây dựng “Bệnh án nghiên cứu” để theo dõi

tuân thủ điều trị và thay đổi của can thiệp để có điều chỉnh và điều trị phù hợp

với đối tượng có HCCH” (Phụ lục 3). Nội dung giám sát bao gồm việc thực

hiện thay đổi lối sống: chế độ dinh dưỡng, luyện tập hàng ngày cũng như kết

quả khám hàng tháng của các đối tượng nghiên cứu. Dựa trên các kết quả khám,

đánh giá hàng tháng của từng cá nhân đối tượng nghiên cứu, nghiên cứu sinh

sẽ có điều chỉnh, tư vấn phù hợp cho đối tượng tiếp tục thực hiện can thiệp

đúng theo yêu cầu. Các đối tượng sử dụng thuốc được khám, đánh giá về việc

tuân thủ chỉ định điều trị cũng như các tác dụng phụ có thể có của việc sử dụng

thuốc. Sau khi điều trị tích cực (thay đổi lối sống và thuốc nếu cần thiết), các

đối tượng đạt mục tiêu điều trị, thay đổi lối sống tiếp tục được duy trì và giám

sát nhằm đảm bảo kết quả bền vững trong thời gian nghiên cứu.

Kết quả điều trị được đánh giá dựa vào thăm khám lâm sàng và xét

nghiệm ở các thời điểm trước điều trị và sau điều trị 6 tháng. Trong quá trình

nghiên cứu, đánh giá lâm sàng và cận lâm sàng tại 4 thời điểm: trước điều trị,

sau điều trị 1 tháng, 3 tháng để theo dõi kết quả điều trị và đánh giá hiệu quả

can thiệp ở tháng thứ 6. Tuy nhiên, do BN có thể không tái khám đúng hoàn

53

toàn theo lịch hẹn nên quy ước khoảng dao động có thể chấp nhận được là ± 5

ngày, do đó đánh giá thời điểm sau điều trị 1 tháng dao động từ ngày thứ 25 -

35, sau điều trị 3 tháng dao động từ ngày thứ 85 - 95 và sau điều trị 6 tháng dao

động từ ngày thứ 175 - 185. Các lần tái khám đều thăm khám lâm sàng có thể

kết hợp xét nghiệm máu, tuy nhiên, lần tái khám tháng thứ 6 thì được khám và

xét nghiệm để đánh giá hiệu quả can thiệp. Ngoài ra, BN được thông báo có thể

quay trở lại tái khám bất kỳ ngày nào khi có triệu chứng nặng hoặc xảy ra tác

dụng không mong muốn nghiêm trọng của thuốc.

2.2.5. Các biến số, chỉ số nghiên cứu

Bảng 2.4. Các chỉ số đánh giá hiệu quả can thiệp

Phương Tên Phân pháp TT biến Định nghĩa và cách tính loại thu số thập

Là hiệu số của số lượng các biến số, chỉ

số liên quan các thói quen sinh hoạt, chỉ

Chỉ số lâm sàng, chỉ số cận lâm sàng, các Liên Xử lý 1 số thành phần của HCCH...trước khi được tục số liệu giảm can thiệp điều chỉnh lối sống kết hợp điều

trị và số thay đổi đạt được sau khi can

thiệp 6 tháng.

So sánh các chỉ tiêu trước và sau khi can

Chỉ thiệp thay đổi lối sống kết hợp điều trị

Liên Xử lý số theo công thức: 2 tục số liệu hiệu

quả

54

2.2.6. Kỹ thuật và công cụ sử dụng trong nghiên cứu

2.2.6.1. Kỹ thuật thu thập thông tin

Hỏi bệnh sử, tiền sử, các yếu tố liên quan thói quen ăn uống, sinh

hoạt...liên quan HCCH, khám thực thể ghi chép vào bệnh án nghiên cứu (Phụ

lục 3).

2.2.6.2. Công cụ thu thập thông tin

- Đo VB bằng thước dây thông thường, không co giãn, có đơn vị nhỏ nhất

milimet.

- Đo chiều cao đứng bằng thước gỗ 3 mảnh, độ chia chính xác tới milimet.

- Đo cân nặng: Sử dụng cân SECA (độ chính xác 0,1 kg). Trọng lượng cơ

thể được tính đơn vị kg.

- Đo huyết áp: Đối tượng được ngồi nghỉ ngơi trước khi đo 15 phút, đo

huyết áp 2 lần cách nhau 2 phút. Kết quả ghi theo đơn vị mmHg. Số đo huyết

áp của đối tượng sẽ được tính là kết quả trung bình của 2 lần đo. Nếu kết quả

giữa 2 lần đo chênh nhau trên 10 mmHg, hoặc huyết áp tối đa trên 140 mmHg

hoặc huyết áp tối thiểu trên 90 mmHg thì đối tượng sẽ được đo lại lần thứ 3 sau

15 phút và kết quả được tính là số đo huyết áp của lần thứ 3. Dụng cụ sử dụng

là huyết áp kế đồng hồ của Nhật.

2.2.6.3. Kỹ thuật xét nghiệm máu:

+ Xét nghiệm glucose: Theo phương pháp so màu enzym (Enzymatic

colorimetric test, GODPAP).

+ Xét nghiệm HbA1c:

* Nguyên lý định lượng HbA1c: Dựa trên nguyên lý miễn dịch huỳnh

quang.

* Bằng phương pháp miễn dịch độ đục theo nguyên tắc: HbA1c phản ứng

với kháng thể kháng HbA1c tạo thành một phức hợp miễn dịch có thể hòa tan

được. Sau đó những polyhapten (4 kháng nguyên) từ thuốc thử R2 sẽ gắn với

55

những kháng thể dư thừa. Phức hợp kết dính có độ đục tạo thành được đo bằng

quang kế ở bước sóng 570nm. Nồng độ HbA1c (g/l) được máy tự động tính

dựa trên đường biểu diễn logarit – log của độ hấp phụ của bốn nồng độ chuẩn.

Định lượng hemoglobin (Hb) bằng kỹ thuật đo quang ở bước sóng 570nm. Tính

tỷ lệ theo công thức:

HbA1c (%) = 0,82x + 2,76 HbA1c (g/l)x100 Hemoglobin(g/l)

+ Xét nghiệm lipid máu:

Các xét nghiệm định lượng cholesterol toàn phần, triglyceride, HDL-C,

LDL-C được tiến hành trên máy xét nghiệm sinh hoá tự động TOBO - 480 của

Hãng Tokyo Beoki Medysis Inc (Mã số 5503570117) do Nhật Bản sản xuất,

tại Khoa Hóa sinh, Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum. Mẫu huyết thanh lưu

được bảo quản ở 15-25oC trong vòng 8 giờ, ở 2-8oC được 72 giờ. Rã đông một

lần. Để bệnh phẩm, chuẩn, control ở nhiệt độ phòng (20-25oC) và lắc đều trước

khi tiến hành xét nghiệm.

* Kỹ thuật định lượng cholesterol toàn phần: Cholesterol toàn phần được

định lượng bằng phương pháp enzyme so màu (kỹ thuật CHOD – PAP:

cholesterol oxydase phenazon amino peroxidase). Phản ứng hóa học tạo phức

hợp màu hồng cánh sen. Dựa vào mật độ quang đo được ở bước sóng 540/600

nm để xác định nồng độ cholesterol toàn phần trong máu.

* Kỹ thuật định lượng HDL-C: Kháng thể kháng β-lipoprotein người

trong thuốc thử gắn với các lipoprotein ngoại trừ HDL-C (Chylomicron,

lipoprotein có tỷ trọng rất thấp (VLDL) và lipoprotein có tỷ trọng thấp (LDL)).

Nồng độ HDL-C được định lượng bởi sự có mặt của một hệ thống chất tạo màu

enzyme.

* Định lượng LDL-C: Sử dụng công thức của Friedewald để tính hàm

lượng LDL-C đối với những đối tượng có kết quả xét nghiệm triglyceride <4,5

mmol/L:

56

LDL­C = Cholesterol toàn phần − [HDL­C] − (mmol/L) [Trigliceride] 2,2

Những đối tượng có kết quả xét nghiệm triglyceride ≥4,5 mmol/L, tiến

hành xét nghiệm định lượng trực tiếp theo nguyên tắc: Trong thuốc thử của

Hãng có hoạt chất bảo vệ LDL khỏi các phản ứng enzyme hóa. Các lipoprotein

không phải LDL (HDL, VLDL và Chylomicron) đều bị phá hủy do phản ứng

với enzyme đặc trưng. LDL-C có trong dịch hòa tan sẽ được định lượng theo

kỹ thuật CHOD-PAP như đối với cholesterol toàn phần.

* Kỹ thuật định lượng triglyceride: Triglyceride được định lượng bằng

phương pháp so màu dùng enzym (kỹ thuật GPO-PAP: Glycerol phosphat

oxidase phenazol amino peroxida). Phản ứng hóa học tạo phức hợp màu hồng

tím, đậm độ màu tỷ lệ thuận với nồng độ triglyceride. Dựa vào mật độ quang

đo được ở bước sóng 660/800 nm để xác định nồng độ triglyceride trong máu.

+ Xét nghiệm huyết thanh trên máy sinh hóa theo quy trình SOPs;

+ Đối chiếu theo thông số sinh hóa bình thường người Việt Nam;

+ Đo bằng máy sinh hóa tự động Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum.

2.3. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu

- Theo phương pháp thống kê y sinh học, sử dụng phần mềm SPSS 20.0

(SPSS-IBM Company). Kết quả được trình bày dưới dạng bảng và biểu đồ.

- Kiểm định sự phân phối chuẩn của các biến định lượng bằng chỉ số

Skewness (độ lệch) và Kurtosis (độ gù).

- So sánh các tỉ lệ bằng phép kiểm χ2 (chi-square test).

- So sánh các giá trị trung bình giữa hai nhóm độc lập bằng phép kiểm t

(student T test).

- Tính yếu tố nguy cơ của hội chứng chuyển hóa bằng chỉ số OR (Odds

Ratio), khoảng tin cậy 95% (95% CI).

+ Có liên quan khi:

 OR > 1

57

 Giá trị p < 0,05

+ Không liên quan khi:

 OR < 1

 Giá trị p > 0,05

- So sánh các tỷ lệ giữa hai nhóm trước và sau điều trị bằng phép kiểm

McNemar.

- Giá trị p < 0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê.

2.4. Sơ đồ nghiên cứu

- Sơ đồ quy trình thực hiện sàng tuyển, lựa chọn BN đủ tiêu chuẩn đưa

vào nghiên cứu và theo dõi hiệu quả can thiệp:

58

Bệnh nhân đến khám bệnh

Khám lâm sàng, xét nghiệm máu theo mẫu thống nhất tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum

Mô tả thực trạng HCCH và một số yếu tố liê quan (n=1.039)

Bệnh nhân đủ tiêu chuẩn HCCH theo đồng thuận 2009 (n=226) Bệnh nhân không đủ tiêu chuẩn HCCH theo đồng thuận 2009 (n=813)

Điều trị theo phác đồ quy định của Bộ Y tế và can thiệp thay đổi lối sống dựa trên thành phần ảnh hưởng

Đánh giá hiệu quả can thiệp sau 6 tháng

Thay đổi, giảm tỷ lệ HCCH

Hình 2.1. Sơ đồ nghiên cứu

59

2.5. Phương pháp kiểm soát nhiễu và hạn chế sai số

- Trước khi tiến hành nghiên cứu, nghiên cứu viên phải nắm vững lại trình

tự các quy trình tiến hành nghiên cứu;

- Đảm bảo cỡ mẫu tối thiểu đủ lớn theo đúng với tính toán cỡ mẫu;

- Tuân thủ các nguyên tắc sàng tuyển lựa chọn người đủ tiêu chuẩn vào

mẫu nghiên cứu;

- Các số liệu được xử lý và phân tích bằng các test thống kê phù hợp;

- Làm sạch số liệu trước khi phân tích.

2.6. Đạo đức trong nghiên cứu

- Nghiên cứu thực hiện nghiêm túc các quy định về đạo đức.

- Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng y đức của Viện Sốt rét - Ký

sinh trùng - Côn trùng Trung ương theo Quyết định số 2156/QĐ-VSR ngày 20

tháng 10 năm 2017 của Viện trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng

Trung ương và sự chấp thuận của Ban Giám đốc Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon

Tum theo Quyết định số 488/QĐ-BVT ngày 01 tháng 11 năm 2017 của Giám

đốc Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum.

- BN tự nguyện tham gia nghiên cứu.

- BN có quyền từ chối tham gia nghiên cứu bất kỳ lúc nào và vẫn được

đối xử công bằng trong chẩn đoán, điều trị như những BN khác.

- Các thông tin được giữ bí mật, chỉ dùng cho nghiên cứu:

+ Tên BN sẽ không ghi trên bệnh án nghiên cứu và chỉ đánh theo mã số

nhằm bảo mật thông tin, chỉ ghi đầy đủ ở bệnh án điều trị tại phòng khám;

+ Kết quả của phác đồ điều trị được tiến hành dưới sự giám sát trực tiếp

của các cán bộ chuyên môn. Tất cả thời điểm, tính an toàn và sự bồi hoàn phải

luôn đảm bảo cho BN tối đa, quản lý thích hợp mỗi BN;

+ Kết quả nghiên cứu được công bố, nhưng cũng bảo mật theo quy định

và chỉ có tên địa điểm nghiên cứu trên các báo cáo khoa học.

60

2.6.1. Thành viên tham gia nghiên cứu

- Cung cấp bản chấp thuận tham gia nghiên cứu, nêu đầy đủ thông tin cần

thiết về nghiên cứu một cách rõ ràng, dễ hiểu và phù hợp với trình độ của người

tham gia nghiên cứu (kể cả quyền lợi và trách nhiệm của BN);

- Cam kết thực hiện nghiên cứu đúng như đề cương nghiên cứu được Hội

đồng Khoa học và Đạo đức Y sinh học của cơ sở đào tạo có thẩm quyền phê

duyệt;

- Không lôi kéo, không đưa các lợi ích để thuyết phục BN tham gia vào

nghiên cứu.

2.6.2. Đối tượng tham gia nghiên cứu

- Được cung cấp đầy đủ các thông tin về mục đích, ý nghĩa, quy trình, lợi

ích và cả các rủi ro tối thiểu có thể xảy ra khi nghiên cứu;

- Khi đồng ý tham gia nghiên cứu, đối tượng hoặc người giám hộ phải ký/

lấy dấu lăn tay vào phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu;

- Các đối tượng có thể thông báo thôi tham gia nghiên cứu bất kỳ lúc nào

mà không ảnh hưởng đến quá trình và quy trình chẩn đoán, điều trị của họ.

2.6.3. Hội đồng Khoa học và Đạo đức Y sinh học

- Đề cương luận án đã được thông qua Hội đồng Khoa học và Đạo đức Y

sinh học của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương theo Quyết

định số 2156/QĐ-VSR ngày 20 tháng 10 năm 2017 của Viện trưởng Viện Sốt

rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.

- Tất cả các vấn đề liên quan đến đề cương, y đức trong nghiên cứu nếu

có chỉnh sửa, bổ sung cần phải được sự phê duyệt của Hội đồng Đạo đức của

Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương đồng ý;

2.6.4. Quản lý dữ liệu

Nghiên cứu viên phải đảm bảo toàn bộ dữ liệu và bệnh án đúng theo báo

cáo ca bệnh;

- Hồ sơ bệnh án được mang ra kiểm tra, bổ sung thông tin về lâm sàng và

61

cận lâm sàng cũng như các thay đổi (nếu có) để đảm bảo dữ liệu luôn đủ;

- Dữ liệu lâm sàng và xét nghiệm phải được ghi lại vào hồ sơ bệnh án. Tất

cả dữ liệu nguồn phải giữ nguyên vẹn nếu có sao chép để đối chiếu;

- Tất cả mọi thay đổi hoặc sửa chữa trong hồ sơ bệnh án đều phải giải

thích, ghi lại thời gian và ký tên (không được dùng bút xóa, ghi đè lên);

- Sau khi hoàn tất dữ liệu của hồ sơ bệnh án, nhập vào máy tính.

2.6.5. Dịch vụ chăm sóc y tế

- Chăm sóc y tế theo quy định chẩn đoán và điều trị ca bệnh thường quy

trong suốt quá trình nghiên cứu và theo dõi BN, nhất là theo dõi tác dụng không

mong muốn để xử trí kịp thời;

- Mọi sự bồi hoàn phải thực hiện trong khả năng của nhóm nghiên cứu.

Nếu có vấn đề y tế khác không liên quan bệnh được nghiên cứu, nghiên cứu

viên có trách nhiệm chuyển cho BN điều trị trong khả năng tốt nhất;

- Nếu vì một lý do nào đó, BN rút khỏi nghiên cứu hoặc vi phạm đề cương

trước khi kết thúc nghiên cứu thì nghiên cứu viên cần phải cho đủ liệu trình

thuốc điều trị theo hướng dẫn của Bộ Y tế.

62

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Mô tả thực trạng hội chứng chuyển hóa và một số yếu tố lên quan ở

người bệnh đến khám và điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum

(2018 - 2019)

3.1.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 4/2018 đến tháng 9/2018, chúng tôi

tiến hành khám 1.039 người tại khoa Khám Bệnh, Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon

Tum. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu như sau:

Bảng 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới tính và nhóm tuổi

(n=1.039)

Đặc điểm tuổi và giới Số lượng Tỷ lệ (%)

18 - 29 115 11,07

30 - 39 119 11,45

40 - 49 166 15,98 Nhóm tuổi 50 - 59 235 22,62

60 - 69 222 21,37

≥ 70 182 17,52

Nam 716 68,91 Giới Nữ 323 31,09

Tuổi trung bình ( ± SD) 53  16

Nhận xét:

Trong số 1.039 người đến khám, tỷ lệ nam giới chiếm 68,91%, tỷ lệ nữ

đến khám là 31,09%. Nhóm tuổi từ 50 - 59 chiếm tỷ lệ cao nhất (22,62%), tiếp

theo là các nhóm tuổi 60 - 69 (21,37%), nhóm tuổi ≥ 70 (17,52%), nhóm tuổi

40 - 49 (15,98%), nhóm tuổi 30 - 39 (11,45%), nhóm tuổi từ 18 - 29 chiếm tỷ

lệ thấp nhất (11,07%). Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 53  16

tuổi, tuổi thấp nhất là 18 và cao nhất là 90.

63

Bảng 3.2. Đặc điểm trình độ học vấn, nơi cư trú, nghề nghiệp và tình

trạng hôn nhân của đối tượng nghiên cứu (n=1.039)

Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%)

Tiểu học, trung học cơ sở 100 9,62

Trung học phổ thông 373 35,9 Trình độ học vấn Trung cấp, Cao đẳng 365 35,13

Đại học, sau đại học 201 19,35

Thành thị 663 63,81 Nơi cư trú Nông thôn 376 36,19

Lao động trí óc 314 30,22 Nghề nghiệp Lao động chân tay 725 69,78

Độc thân 235 22,62 Tình trạng hôn nhân Có gia đình 804 77,38

Nhận xét:

Đối tượng nghiên cứu có trình độ học vấn là tiểu học, trung học cơ sở

chiếm tỷ lệ thấp nhất (9,62%), tỷ lệ trình độ trung cấp và cao đẳng chiếm tỷ lệ

cao nhất (35,13%), tỷ lệ đại học và sau đại học chiếm tỷ lệ 19,35% thấp hơn tỷ

lệ trình độ học vấn ở mức phổ thông là 35,9%; Nơi cư trú chủ yếu ở thành thị

với tỷ lệ 63,81%, nông thôn chiếm 36,19%; Lao động chân tay là 69,78%, lao

động trí óc là 30,22%; tỷ lệ người đã lập gia đình là 77,38%.

64

60

)

%

50

( c ộ t

n â d

40

n ầ h p

30

20

h n à h t ệ l ỷ T

10

0

Kinh

Ba na

Xơ đăng

Giẻ triêng Dân tộc khác

(Gia Rai, Brâu, Rơ măm…)

Hình 3.1. Thành phần dân tộc của đối tượng nghiên cứu (n=1.039)

Nhận xét:

Dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ cao nhất với 53,99%, đồng bào dân tộc thiểu

số chiếm tỷ lệ thấp hơn, trong đó người Xơ đăng là 25,13% chiếm tỷ lệ cao

nhất, đến người Bana (12,22%), người Giẻ triêng (7,31%), các dân tộc thiểu số

khác (Gia Rai, Brâu, Rơ măm…) chiếm tỷ lệ rất thấp (1,35%).

65

Bảng 3.3. Đặc điểm thói quen ăn uống và vận động của đối tượng nghiên

cứu (n=1.039)

Số lượng Tỷ lệ (%) Thói quen

631 60,73 Ăn mặn

615 59,19 Ăn ít chất xơ

578 55,63 Ít hoạt động thể lực

554 53,32 Sử dụng rượu bia

542 52,17 Ăn nhiều dầu mỡ

496 47,74 Hút thuốc lá

Nhận xét:

Các thói quen liên quan đến HCCH chiếm tỷ lệ > 50% trong nhóm nghiên

cứu gồm: ăn mặn 60,73%, ăn ít chất xơ 59,19%, ít hoạt động thể lực 55,63%,

sử dụng rượu bia 53,32%, ăn nhiều dầu mỡ 52,17%; tỷ lệ hút thuốc lá chiếm

5 thành phần

4 thành phần

3 thành phần

2 thành phần

1 thành phần

0 thành phần

0

10

20

30

40

Tỷ lệ các thành phần của hội chứng chuyển hóa (%)

47,74%.

Hình 3.2. Tỷ lệ các thành phần của hội chứng chuyển hóa (n=1.039)

66

Nhận xét:

Hội chứng chuyển hóa có 5 thành phần, được xác định mắc HCCH khi

có mặt 3/5 thành phần. Trong nghiên cứu, tỉ lệ gặp 2 thành phần của HCCH là

37,54% chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp đến là 1 thành phần (33,4%), 4 thành phần

(9,91%), 0 thành phần (7,31%), 5 thành phần (6,35%), tỷ lệ mắc 3 thành phần

là 5,59%, chiếm tỷ lệ thấp nhất.

3.1.2. Tỷ lệ mắc và đặc điểm dịch tễ, lâm sàng hội chứng chuyển hóa

Hình 3.3. Tỷ lệ BN mắc hội chứng chuyển hóa (n=1.039)

Nhận xét:

Tỷ lệ mắc HCCH ở 1.039 BN đến khám tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon

Tum là 21,75% (226 BN), tuổi nhỏ nhất mắc HCCH là 19 tuổi, tuổi cao nhất

mắc HCCH là 90 tuổi, tỷ lệ không mắc HCCH là 78,25% (813 BN).

67

Bảng 3.4. Tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa theo địa dư (n=1.039)

Số mắc HCCH Số BN khám Tỷ lệ Địa dư (n=226) (1.039) (%)

Thành phố Kon Tum 64 306 20,92

27 133 20,3 Đak Hà

23 100 23,0 Đak Tô

37 137 27,01 Ngọc Hồi

17 82 20,73 ĐakGlei

11 68 16,18 Kon Plông

11 60 18,33 Tu Mơ Rông

11 54 20,37 Kon Rẫy

3 32 9,38 Ia Hdrai

22 67 32,84 Sa Thầy

21,75 226 1.039 Tổng

Nhận xét:

Tỷ lệ mắc HCCH ở 1039 BN đến khám tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon

Tum là 21,75% (226 BN mắc HCCH), trong đó tỷ lệ mắc HCCH cao nhất là ở

huyện Sa Thầy (32,84%), tiếp đến là huyện Ngọc Hồi (27,01%), Đak Tô

(23,0%), thành phố Kon Tum (20,92%), Đak Glei (20,73%), Kon Rẫy

(20,37%), Đak Hà (20,3%), Tu Mở Rông (18,33%), Kon Plông (16,18%), tỷ lệ

mắc HCCH ở huyện Ia Hdrai chiếm tỷ lệ thấp nhất (9,38%).

68

Bảng 3.5. Tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa theo nhóm tuổi (n=1.039)

Nhóm Hội chứng chuyển hóa Số BN khám Tỷ lệ mắc p tuổi (n=1.039) (%) Có Không

18 - 29 17 98 115 14,78

30 - 39 20 99 119 16,81

40 - 49 42 124 166 25,30 >0,05 50 - 59 51 184 235 21,70

60 - 69 50 172 222 22,52

≥ 70 46 136 182 25,27

Tổng 226 813 21,75 1.039

Nhận xét:

Tỷ lệ mắc HCCH cao nhất ở nhóm người 40 - 49 tuổi (25,3%), các nhóm

tuổi còn lại có xu hướng giảm dần tỷ lệ mắc HCCH, nhóm tuổi ≥ 70 (25,27%),

nhóm tuổi từ 60 - 69 (22,52%), nhóm tuổi từ 50 - 59 (21,7%), nhóm tuổi 30 -

39 (16,81 %), tỷ lệ HCCH thấp nhất ở nhóm tuổi 18 - 29 tuổi (14,78%). Không

có sự khác nhau về tỷ lệ mắc HCCH giữa các nhóm tuổi (p > 0,05).

Bảng 3.6. Tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa theo nhóm dân tộc (n=1.039)

Số mắc Số BN Dân tộc Tỷ lệ (%) p HCCH khám

Kinh 110 561 19,61

Xơ đăng 72 261 27,59

Ba na 26 127 0,119 20,47

Giẻ triêng 16 76 21,05

Khác 2 14 14,29

Tổng 21,75 226 1.039

Nhận xét:

Tỷ lệ mắc HCCH ở người dân tộc Kinh trong nhóm nghiên cứu là

19,61%, thấp hơn tỷ lệ mắc HCCH ở nhóm người dân tộc Xơ đăng là 27,61%,

69

người dân tộc Ba na là 20,47%, người dân tộc Giẻ triêng là 21,05%; các dân

tộc thiểu số khác mắc HCCH với tỷ lệ thấp nhất 14,29%.

Không khác biệt về tỷ lệ mắc HCCH giữa các dân tộc (p > 0,05).

Hình 3.4. Phân bố nơi cư trú của BN mắc hội chứng chuyển hóa (n=226)

Nhận xét:

Tỷ lệ BN mắc HCCH có nơi cư trú ở thành thị (64,2%) cao hơn nơi cư

trú ở nông thôn (35,8%).

Bảng 3.7. Phân bố BN mắc HCCH theo trình độ học vấn (n=226)

Trình độ học vấn Số lượng Tỷ lệ (%)

Tiểu học, Trung học cơ sở 20 8,85

Trung học phổ thông 76 33,63

Trung cấp, Cao đẳng 85 37,61

Đại học, sau đại học 45 19,91

Tổng 226 100

Nhận xét:

Nhóm BN mắc HCCH có trình độ học vấn là trung cấp hoặc cao đẳng

chiếm tỷ lệ cao nhất là 37,61%, nhóm tiểu học hoặc trung học cơ sở có tỷ lệ

thấp nhất chiếm 8,85%, tiếp theo là nhóm BN mắc HCCH có trình độ trung học

phổ thông (33,63%), đại học và sau đại học (19,91%).

70

Tỷ lệ (%) 60

50

40

30

20

10

0

Kinh

Xê Đăng

Ba Na

Dân tộc khác (Gia Rai, Brâu, Rơ măm…)

Hình 3.5. Tỷ lệ BN mắc HCCH theo dân tộc (n=226)

Nhận xét:

Tỷ lệ mắc HCCH ở người dân tộc Kinh cao nhất (48,67%).

Ở nhóm người dân tộc thiểu số thì người Xê Đăng chiếm tỷ lệ cao nhất

(31,85%), tiếp theo là người Ba Na (11,5%), nhóm người dân tộc thiểu số khác

ít gặp như: Giẻ Triêng, Gia Rai, Brâu, Rơ Măm…chiếm tỷ lệ thấp (7,96%).

Bảng 3.8. Tỷ lệ các thành phần của hội chứng chuyển hóa theo giới

Nam Nữ Tổng

(n=132) (n=94) (n=226) p Thành phần Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

lượng (%) lượng (%) lượng (%)

126 95,82 88 93,62 > 0,05 214 94,69 Tăng VB

128 96,97 81 86,17 < 0,05 209 92,48 Tăng triglyceride

118 89,39 79 84,04 > 0,05 197 87,17 Tăng glucose máu

111 84,09 66 70,21 < 0,05 177 78,32 THA

44 33,33 72 76,59 < 0,05 116 51,33 Giảm HDL-C

Nhận xét:

Tỷ lệ các thành phần của HCCH theo thứ tự giảm dần là tăng VB

71

(94,69%), tăng triglyceride (92,48%), tăng glucose máu (87,17%), THA

(78,32%) và giảm HDL-C (51,33%). Nam giới có tỷ lệ tăng triglyceride, THA

cao hơn và giảm HDL-C thấp hơn so với nữ. Tỷ lệ tăng VB, tăng glucose máu

giữa nam và nữ trong nhóm nghiên cứu không có sự khác biệt.

Bảng 3.9. Số lượng các thành phần và điểm trung bình các thành phần

của hội chứng chuyển hóa

Nam Nữ Tổng

(n=94) (n=226) (n =132) Thành phần Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ

lượng (%) lượng (%) lượng (%)

33 25,00 24 25,53 57 25,22 3 thành phần

67 50,76 36 38,30 103 45,58 4 thành phần

32 24,24 34 36,17 66 29,20 5 thành phần

Điểm trung bình 3,99  0,70 4,11  0,78 4,04  0,74 ± SD

Nhận xét:

Tỷ lệ HCCH với 4 thành phần cao nhất (45,58%), tỷ lệ HCCH với 5

thành phần có tỷ lệ 29,2%, tỷ lệ HCCH với 3 thành phần thấp nhất, chiếm

25,22%.

Điểm trung bình số thành phần của HCCH là 4,04.

72

Bảng 3.10. Giá trị trung bình của các thành phần hội chứng chuyển hóa

theo giới

Nam Nữ Tổng Các thành phần

(n1=132) (n2=94) (n=226) hội chứng chuyển p

hóa ± SD ± SD ± SD

Vòng bụng 93,35 ± 2,88 82,70 ± 3,07 <0,05 88,92 ± 6,03 (cm)

HATT 136,55 ± 14,18 130,31 ± 14,09 <0,05 133,96 ± 14,45 (mmHg)

HATTr 84,58 ± 8,49 82,55 ± 7,75 >0,05 83,74 ± 8,24 (mmHg)

Triglyceride 3,54 ± 2,21 2,79 ± 1,57 <0,05 3,23 ± 2,00 (mmol/L)

HDL-C 1,18 ± 0,41 1,20 ± 0,34 >0,05 1,19 ± 0,38 (mmol/L)

Glucose 6,79 ± 1,04 6,59 ± 0,98 >0,05 6,71 ± 1,02 (mmol/L)

Nhận xét:

Giá trị trung bình VB, HATT, nồng độ triglyceride ở nam cao hơn ở nữ.

Không có sự khác biệt giữa HATTr, nồng độ HDL-C, và nồng độ glucose giữa

nam và nữ.

73

Bảng 3.11. Giá trị trung bình các thành phần hội chứng chuyển hóa ở các

nhóm dân tộc

Các thành phần của hội chứng chuyển hóa

VB HATT HATTr Glucose Triglycerid HDL -C Dân tộc (cm) (mmHg) (mmHg) (mmol/L) e (mmol/L) (mmol/L)

± SD ± SD ± SD ± SD ± SD ± SD

84,12  124,49  80,05  5,76  2,53  1,35  Kinh

(n=561) 8,52 11,99 6,93 1,15 1,70 0,41

84,90  125,07  79,28  5,93  2,47  1,34  Xơ đăng

(n=261) 7,97 11,47 7,36 1,27 1,43 0,46

84,91  124,89  80,15  5,84  2,84  1,33  Ba na

(n=127) 7,82 13,47 8,36 1,11 2,19 0,38

83,82  124,97  79,71  5,76  2,58  1,41  Giẻ triêng

(n=76) 8,08 11,91 7,18 0,98 1,41 0,45

83,0  128,57  82,14  5,52  2,55  1,25  Dân tộc khác

(n=14) 9,54 14,06 5,78 0,82 1,8 0,38

p > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05

Nhận xét:

Giá trị trung bình của các thành phần của HCCH không khác biệt giữa

các nhóm dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số (người Xơ đăng, người Ba na,

người Giẻ triêng, và các dân tộc khác).

74

Bảng 3.12. Tỷ lệ tăng các thành phần hội chứng chuyển hóa ở các nhóm

dân tộc trong nghiên cứu

Các thành phần của HCCH

Tăng Tăng Giảm Tăng THA Glucose Triglyceride HDL -C VB

124 153 Số lượng 198 205 373 Kinh

22,1 (n=561) Tỷ lệ (%) 27,27 35,29 36,54 66,49

70 Số lượng 94 100 111 186 Xơ đăng

(n=261) Tỷ lệ (%) 36,02 38,31 42,53 71,26 26,82

30 Số lượng 37 42 52 85 Ba na

23,6 (n=127) Tỷ lệ (%) 29,1 33,1 40,9 66,9

19 Số lượng 22 30 30 55 Giẻ triêng

25,0 (n=76) Tỷ lệ (%) 28,9 39,5 39,5 72,4

4 Số lượng 2 6 4 8 Dân tộc khác

28,6 (n=14) Tỷ lệ (%) 14,3 42,9 28,6 57,1

Nhận xét:

Tỷ lệ gia tăng nồng độ trigliceride máu chiếm tỷ lệ cao trong các nhóm

dân tộc Kinh và DTTS (> 50%), tỷ lệ tăng các thành phần khác của HCCH ở

người dân tộc Kinh và DTTS còn lại đều thấp (< 50%).

3.1.3. Yếu tố liên quan với hội chứng chuyển hóa

Bảng 3.13. Liên quan giữa nhóm tuổi với hội chứng chuyển hóa

Hội chứng

chuyển hóa Cộng OR (95% CI)

Có Không

> 45 tuổi 172 533 Nhóm 705 1,67

tuổi (1,193 - 2,347) ≤ 45 tuổi 54 280 334

Cộng 226 813 1.039

75

Nhận xét:

Người trên 45 tuổi có nguy cơ mắc HCCH cao hơn 1,67 lần so với người

≤ 45 tuổi.

Bảng 3.14. Liên quan giữa giới với hội chứng chuyển hóa

Hội chứng chuyển hóa Cộng OR (95% CI) Có Không

Nữ 94 229 1,82 323 Giới (1,338 - 2,465) Nam 132 584 716

Cộng 226 813 1.039

Nhận xét:

Nữ có nguy cơ mắc HCCH cao hơn 1,82 lần so với nam.

Bảng 3.15. Liên quan giữa dân tộc với hội chứng chuyển hóa

Hội chứng chuyển hóa Cộng OR (95% CI) Có Không

110 451 Kinh 561 0,76 Dân

(0,567 - 1,023) tộc 116 362 DTTS Khác 478

226 813 1.039 Cộng

Nhận xét:

Nguy cơ mắc HCCH ở dân tộc Kinh thấp hơn ở người DTTS không

không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.16. Liên quan giữa trình độ học vấn với hội chứng chuyển hóa

Hội chứng

chuyển hóa Cộng OR (95% CI)

Có Không

Phổ thông 96 377 Trình độ 0,85 473

học vấn (0,634 - 1,150) Cao đẳng, đại học 130 436 566

226 813 1.039 Cộng

76

Nhận xét:

Nguy cơ mắc HCCH ở người có trình độ phổ thông thấp hợn ở người có

trình độ cao đẳng, đại học nhưng không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.17. Liên quan giữa nghề nghiệp với hội chứng chuyển hóa

Hội chứng

chuyển hóa Cộng OR (95% CI)

Có Không

59 255 Lao động trí óc 314 0,77 Nghề

(0,555 - 1,077) nghiệp 167 558 Lao động chân tay 725

226 813 1.039 Cộng

Nhận xét:

Nguy cơ mắc HCCH ở người lao động trí óc thấp hơn ở người lao động

chân tay nhưng không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.18. Liên quan giữa nơi cư trú với hội chứng chuyển hóa

Hội chứng

chuyển hóa Cộng OR (95% CI)

Có Không

145 518 Thành thị 663 1,02 Nơi cư trú (0,750 - 1,386) 81 295 Nông thôn 376

226 813 1.039 Cộng

Nhận xét:

Nguy cơ mắc HCCH ở người sống ở khu vực thành thị cao hơn ở người

sống ở khu vực nông thôn nhưng không có ý nghĩa thống kê.

77

Bảng 3.19. Liên quan giữa tình trạng hôn nhân với hội chứng chuyển hóa

Hội chứng

chuyển hóa Cộng OR (95% CI)

Có Không

50 185 Độc thân 235 0,96 Tình trạng

(0,677 - 1,374) hôn nhân 176 628 Có gia đình 804

226 813 1.039 Cộng

Nhận xét:

Nguy cơ mắc HCCH ở người độc thân thấp hơn ở người có gia đình

nhưng không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.20. Liên quan giữa thói quen ăn mặn với hội chứng chuyển hóa

Hội chứng chuyển hóa Cộng OR (95% CI) Có Không

129 502 Có 631 0,82 Ăn mặn (0,611 - 1,111) 97 311 Không 408

226 813 1.039 Cộng

Nhận xét:

Nguy cơ mắc HCCH ở người hay ăn mặn thấp hơn ở người không hay

ăn mặn nhưng không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.21. Liên quan giữa thói quen ăn nhiều mỡ với hội chứng chuyển hóa

Hội chứng chuyển hóa Cộng OR (95% CI) Có Không

148 394 Có 542 2,02 Ăn nhiều

(1,485 - 2,742) mỡ 78 419 Không 497

226 813 1.039 Cộng

Nhận xét:

Nguy cơ mắc HCCH ở người hay ăn nhiều mỡ cao gấp 2,02 lần so với ở

người không hay ăn nhiều mỡ.

78

Bảng 3.22. Liên quan giữa thói quen ăn ít xơ với hội chứng chuyển hóa

Hội chứng chuyển hóa Cộng OR (95% CI) Có Không

150 465 Có 615 1,48 Ăn ít xơ (1,084 - 2,012) 76 348 Không 424

226 813 1.039 Cộng

Nhận xét:

Nguy cơ mắc HCCH ở người hay ăn ít chất xơ cao hơn 1,48 lần so với

người có thói quan ít ăn chất xơ.

Bảng 3.23. Liên quan giữa thói quen uống rượu với hội chứng chuyển hóa

Hội chứng chuyển hóa Cộng OR (95% CI) Có Không

164 390 Có Uống 554 2,87

rượu (2,077 - 3,963) 62 423 Không 485

Cộng 226 813 1.039

Nhận xét:

Nguy cơ mắc HCCH ở người hay uống rượu cao hơn 2,87 lần so với

người ít hay không uống rượu.

Bảng 3.24. Liên quan giữa hút thuốc lá với hội chứng chuyển hóa

Hội chứng

chuyển hóa Cộng OR (95% CI)

Có Không

142 354 Có 496 2,19 Hút thuốc lá (1,618 - 2,969) 84 459 Không 543

226 813 1.039 Cộng

Nhận xét:

Nguy cơ mắc HCCH ở người hút thuốc lá cao hơn 2,19 lần so với người

không hút thuốc lá.

79

Bảng 3.25. Liên quan giữa ít vận động với hội chứng chuyển hóa

Hội chứng chuyển hóa Cộng OR (95% CI) Có Không

Có 126 452 Ít vận 578 1,01

động (0,748 - 1,354) Không 100 361 461

Cộng 226 813 1.039

Nhận xét:

Nguy cơ mắc HCCH ở người ít vận động thể lực cao hơn ở người hay

vận động thể lực nhưng không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.26. Phân tích đa biến các yếu tố liên quan với hội chứng chuyển hóa

Kết quả phân Kết quả phân tích

Yếu tố tích đơn biến đa biến

OR ( 95% CI) OR ( 95% CI)

1,67 1,32 Nhóm tuổi > 45 (1,193 - 2,347) (0,916 - 1,897)

1,82 11,99 Giới (Nữ) (1,338 - 2,465) (6,806 - 21,145)

2,02 1,22 Ăn nhiều mỡ (1,485 - 2,742) (0,848 - 1,754)

1,48 0,80 Ăn ít xơ (1,084 - 2,012) (0,555 - 1,175)

2,19 6,49 Hút thuốc lá (1,618 - 2,969) (3,826 - 11,019)

2,87 4,20 Uống rượu (2,077 - 3,963) (2,732 - 6,472)

Nhận xét:

Kết quả phân tích đa biến cho thấy các yếu tố nguy cơ đối với HCCH

bao gồm: Nữ giới, hút thuốc và uống rượu.

80

3.2. Đánh giá hiệu quả biện pháp can thiệp điều trị kết hợp với

truyền thông, giáo dục thay đổi hành vi, lối sống cho bệnh nhân có hội

chứng chuyển hóa

Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 4/2018 đến tháng 4/2019, chúng tôi

tiến hành khám 1.039 người tại khoa Khám Bệnh, Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon

Tum, phát hiện được 226 bệnh mắc HCCH, tiến hành can thiệp điều trị kết hợp

với truyền thông, giáo dục thay đổi hành vi, lối sống cho BN trong 6 tháng,

không có BN nào gặp tác dụng không mong muốn trong quá trình nghiên cứu.

Hiệu quả các biện pháp can thiệp như sau:

Bảng 3.27. Hiệu quả can thiệp giảm thói quen ăn mặn (n=129)

Thói quen ăn mặn

Số lượng Tỷ lệ (%)

Trước can thiệp 129 57,08

Sau can thiệp 78 34,51

Chỉ số giảm 51 22,57

Chỉ số hiệu quả (%) 39,53

p < 0,05

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ thói quen ăn mặn ở nhóm BN HCCH là

22,57% tương ứng với 51 BN.

Chỉ số hiệu quả của can thiệp giảm tỷ lệ ăn mặn là 39,53%, mức độ giảm

có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

81

Bảng 3.28. Hiệu quả can thiệp giảm thói quen ăn nhiều dầu mỡ (n=148)

Thói quen ăn nhiều

dầu mỡ

Số lượng Tỷ lệ (%)

Trước can thiệp 148 65,49

Sau can thiệp 96 42,48

Chỉ số giảm 52 23,01

Chỉ số hiệu quả (%) 35,14

p < 0,05

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ thói quen ăn nhiều dầu mỡ ở nhóm BN

HCCH là 23,01% tương ứng với 52 BN.

Chỉ số hiệu quả của can thiệp giảm tỷ lệ thói quen ăn nhiều dầu mỡ là

35,14%, mức độ giảm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Bảng 3.29. Hiệu quả can thiệp giảm thói quen ăn ít xơ (n=150)

Thói quen ăn ít xơ

Số lượng Tỷ lệ (%)

Trước can thiệp 150 66,37

Sau can thiệp 98 43,36

Chỉ số giảm 52 23,01

Chỉ số hiệu quả (%) 34,67

p < 0,05

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ thói quen ăn ít chất xơ ở nhóm BN HCCH

là 52 BN, tương ứng với 23,01%.

Chỉ số hiệu quả của can thiệp giảm tỷ lệ ăn ít chất xơ là 34,67%, mức độ

giảm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

82

Bảng 3.30. Hiệu quả can thiệp giảm thói quen hút thuốc lá (n=142)

Thói quen hút thuốc lá

Số lượng Tỷ lệ (%)

142 62,83 Trước can thiệp

107 47,35 Sau can thiệp

35 15,48 Chỉ số giảm

24,65 Chỉ số hiệu quả (%)

< 0,05 p

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ hút thuốc lá ở nhóm BN HCCH là 15,48%,

tương ứng với 35 BN.

Chỉ số hiệu quả của can thiệp giảm hút thuốc lá là 24,65%, mức độ giảm

có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Bảng 3.31. Hiệu quả can thiệp giảm thói quen uống rượu (n=165)

Thói quen uống rượu

Số lượng Tỷ lệ (%)

165 73,01 Trước can thiệp

142 62,83 Sau can thiệp

23 10,18 Chỉ số giảm

13,94 Chỉ số hiệu quả (%)

< 0,05 p

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ thói quen uống rượu ở nhóm BN HCCH là

10,18%, tương ứng với 23 BN.

Chỉ số hiệu quả của can thiệp giảm tỷ lệ uống rượu là 13,94%, mức độ

giảm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

83

Bảng 3.32. Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ thói quen ít vận động (n=126)

Thói quen ít vận động

Số lượng Tỷ lệ (%)

126 55,75 Trước can thiệp

45 19,91 Sau can thiệp

81 35,84 Chỉ số giảm

64,29 Chỉ số hiệu quả (%)

<0,05 P

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ thói quen ít vận động ở nhóm BN HCCH

là 35,84%, tương ứng với 81 BN.

Chỉ số hiệu quả của can thiệp giảm thói quen ít vận động là 64,29%, mức

độ giảm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Bảng 3.33. Hiệu quả can thiệp giảm VB (n=214)

Người tăng VB VB

Số lượng Tỷ lệ (%) Trung bình (cm) SD (cm)

Trước can thiệp 214 94,69 89,45 5,48

Sau can thiệp 208 92,04 88,79 7,44

Chỉ số giảm 6 2,65 0,66

Chỉ số hiệu quả (%) 2,80 0,74

p 0,35 <0,05

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ người tăng VB ở nhóm BN HCCH là

2,65%, tương ứng với 6 BN. Chỉ số hiệu quả của can thiệp giảm VB là 2,8%,

mức độ giảm không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

Sau can thiệp, kích thước VB trung bình của nhóm nghiên cứu giảm 0,66

cm, chỉ số hiệu quả đạt 0,74%, mức độ giảm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

84

Bảng 3.34. Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ người mắc THA (n=117)

Tăng huyết áp

Số lượng Tỷ lệ (%)

177 78,32 Trước can thiệp

88 38,94 Sau can thiệp

79 39,38 Chỉ số giảm

50,28 Chỉ số hiệu quả (%)

<0,05 p

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ THA ở nhóm BN HCCH là 39,38%, tương

ứng với 79 BN.

Chỉ số hiệu quả của can thiệp giảm THA là 50,28%, mức độ giảm có ý

nghĩa thống kê với p < 0,05.

Bảng 3.35. Hiệu quả can thiệp giảm số đo huyết áp (n=117)

Trung bình SD

(mm Hg) (mm Hg)

Trước can thiệp 133,96 14,45

Sau can thiệp 124,38 10,10

Huyết áp tối đa Chỉ số giảm 9,58

CSHQ (%) 7,15

p <0,001

Trước can thiệp 8,24 83,74

Sau can thiệp 9,07 78,93

Huyết áp tối thiểu Chỉ số giảm 4,81

CSHQ (%) 5,74

p 0,148

Nhận xét:

Huyết áp tối đa trung bình sau can thiệp giảm 9,58 mmHg, sự thay đổi

85

có ý nghĩa thống kê. CSHQ can thiệp là 7,15%. Huyết áp tối thiểu giảm 4,81

mmHg, tuy nhiên mức giảm không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.36. Hiệu quả can thiệp giảm glucose máu (n=197)

Số Tỷ lệ Trung bình SD

lượng (%) (mmol/L) (mmol/L)

197 87,17 6,71 1,02 Trước can thiệp

180 79,65 6,16 0,63 Sau can thiệp

17 7,52 0,55 Chỉ số giảm

8,63 8,20 Chỉ số hiệu quả (%)

0,043 <0,001 P

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ BN tăng glucose máu là 7,52%, tương ứng

với 17 BN.

Chỉ số hiệu quả của can thiệp là 8,63%, mức độ giảm có ý nghĩa thống

kê với p < 0,05.

Sau can thiệp, lượng glucose máu trung bình giảm 0,55mmol/L. Chỉ số

hiệu quả của can thiệp là 8,20%, mức độ giảm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Bảng 3.37. Hiệu quả can thiệp giảm triglyceride máu (n=209)

Tỷ lệ Trung bình SD Số lượng (%) (mmol/L) (mmol/L)

209 92,48 3,21 1,95 Trước can thiệp

168 74,34 3,00 1,98 Sau can thiệp

41 18,14 0,21 Chỉ số giảm

19,62 6,54 Chỉ số hiệu quả (%)

<0,001 0,823 P

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ BN tăng trigliceride máu là 18,14%, tương

ứng với 41 BN.

86

Chỉ số hiệu quả của can thiệp là 19,62%, mức độ giảm có ý nghĩa thống

kê với p < 0,05.

Sau can thiệp, lượng trigliceride máu trung bình giảm 0,21mmol/L, tuy

nhiên mức độ giảm không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.38. Hiệu quả can thiệp lên nồng độ HDL-C (n=116)

Tỷ lệ Trung bình SD Số lượng (%) (mmol/L) (mmol/L)

Trước can thiệp 116 51,33 1,19 0,38

Sau can thiệp 75 33,19 1,31 0,31

Chỉ số giảm 41 18,14 -0,12

Chỉ số hiệu quả (%) 35,34 -10,08

P <0,001 <0,001

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ BN giảm HDL-C máu là 18,14%, tương

ứng với 41 BN. Chỉ số hiệu quả của can thiệp là 35,34%, mức độ giảm có ý

nghĩa thống kê với p < 0,05.

Sau can thiệp, lượng HDL-C máu trung bình tăng 0,12 mmol/L. Chỉ số

hiệu quả của can thiệp là 10,08%, mức độ giảm có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Bảng 3.39. Hiệu quả can thiệp giảm cân nặng (n=226)

Trung bình (kg) SD (kg)

Trước can thiệp 65,63 7,83

Sau can thiệp 64,16 7,67

Chỉ số giảm 1,47

Chỉ số hiệu quả (%) 2,24

p <0,001

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm cân nặng trung bình 1,47 kg. Chỉ số hiệu quả

can thiệp là 2,24%, mức độ giảm có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

87

Bảng 3.40. Tỷ lệ can thiệp giảm cân nặng (n=226)

Giảm trọng lượng Số lượng Tỷ lệ (%)

≥ 5% 45 19,91

< 5% 109 48,23

Không giảm hoặc tăng cân 72 31,86

Cộng 226 100

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp số lượng BN đạt chỉ tiêu giảm trọng lượng ≥ 5% là

19,91%, tương ứng với 45 BN.

Tỷ lệ số lượng BN giảm < 5% trọng lượng ban đầu là 48,23%, tương ứng

với 109 BN.

Tỷ lệ số lượng BN không giảm cân hoặc tăng cân là 31,86%, tương ứng

với 72 BN.

Bảng 3.41. Hiệu quả can thiệp thay đổi chỉ số khối cơ thể BMI (n=216)

Số thừa Tỷ lệ Trung bình SD

cân (%) (kg/m2) (kg/m2)

216 95,58 25,66 1,88 Trước can thiệp

205 90,71 25,09 1,81 Sau can thiệp

11 4,87 0,57 Chỉ số giảm

5,09 2,26 Chỉ số hiệu quả (%)

0,063 <0,001 p

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ BN tăng BMI là 4,87%, tương ứng với 11

BN.

Chỉ số hiệu quả của can thiệp giảm tỷ lệ thừa cân là 5,09%; tuy nhiên

không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

Can thiệp giảm chỉ số BMI trung bình là 0,57kg/m2. Chỉ số hiệu quả can

thiệp đạt 2,26%; mức độ giảm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

88

Bảng 3.42. Hiệu quả can thiệp thay đổi HbA1C (n=50)

Số tăng Tỷ lệ Trung bình SD

HbA1C (%) (%) (%)

50 22,12 6,11 0,70 Trước can thiệp

28 12,39 5,90 0,57 Sau can thiệp

22 9,73 0,21 Chỉ số giảm

43,99 3,41 Chỉ số hiệu quả (%)

<0,01 <0,001 P

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ BN tăng chỉ số HbA1C là 9,73%, tương

ứng với 22 BN. Chỉ số hiệu quả của can thiệp giảm tỷ lệ BN tăng HbA1c là

43,99%; mức độ giảm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Can thiệp giảm giá trị trung bình HbA1C là 0,21%. Chỉ số hiệu quả đạt

3,41%, mức độ giảm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Bảng 3.43. Hiệu quả can thiệp thay đổi cholesterol toàn phần (n=49)

Số tăng Tỷ lệ Trung bình SD

cholesterol (%) (mmol/L) (mmol/L)

Trước can thiệp 49 21,68 4,90 0,81

Sau can thiệp 4 1,77 4,56 0,49

Chỉ số giảm 45 19,91 0,34

Chỉ số hiệu quả (%) 91,84 6,83

P <0,001 <0,001

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ giảm số BN tăng cholesterol toàn phần là

19,91%, tương ứng với 45 BN. Chỉ số hiệu quả của can thiệp giảm tỷ lệ số BN

có tăng cholesterol là 91,84%; mức độ giảm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Can thiệp giảm nồng độ cholesterol trung bình là 0,34 mmol/L. Chỉ số

hiệu quả đạt 6,83%, mức độ giảm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

89

Bảng 3.44. Hiệu quả can thiệp thay đổi LDL-C (n=44)

Số tăng Tỷ lệ Trung bình SD

LDL-C (%) (mmol/L) (mmol/L)

44 19,47 2,47 0,85 Trước can thiệp

20 8,85 2,31 0,52 Sau can thiệp

24 10,62 0,34 Chỉ số giảm

54,55 6,51 Chỉ số hiệu quả (%)

<0,001 <0,01 P

Nhận xét:

Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ BN có tăng LDL-C máu giảm 10,62%,

tương ứng với 24 BN. Chỉ số hiệu quả của can thiệp là 54,55; mức độ giảm có

ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Sau can thiệp, nồng độ LDL-C máu trung bình giảm 0,34 mmol/L. Chỉ

số hiệu quả của can thiệp là 6,51%, giảm có ý nghĩa thống kê với p <0,05.

90

Bảng 3.45. Hiệu quả can thiệp giảm 3 thành phần hội chứng chuyển hóa

(n=57)

Hội chứng chuyển hóa

(3 thành phần)

Số lượng Tỷ lệ (%)

57 25,22 Trước can thiệp

22 9,73 Không thay đổi

5 2,21 Tăng 1 thành phần

0 0,00 Tăng 2 thành phần Sau can thiệp 25 11,06 Giảm 1 thành phần

4 1,77 Giảm 2 thành phần

1 0,44 Giảm 3 thành phần

30 13,27 Hiệu quả can thiệp

27 11,95 Chỉ số giảm

< 0,05 P

47,37 Chỉ số hiệu quả (%)

Nhận xét:

Sau can thiệp không hiệu quả có 22 BN (9,73%) không thay đổi thành

phần HCCH, có 5 BN (2,21) tăng thêm 1 thành phần, không có BN tăng 2 thành

phần.

Số BN mắc HCCH còn lại do can thiệp là 30 BN (13,27%), trong đó

giảm 1 thành phần HCCH có 25 BN (11,06%), giảm 2 thành phần có 4 BN

(1,77%), giảm 3 thành phần có 1 BN (0,44%).

Chỉ số giảm sau can thiệp là 27 BN (11,95%), Chỉ số hiệu quả giảm tỷ

lệ 3 thành phần của HCCH là 47,37%.

91

Bảng 3.46. Hiệu quả can thiệp giảm 4 thành phần hội chứng chuyển hóa

(n=103)

Hội chứng chuyển hóa

(4 thành phần)

Số lượng Tỷ lệ (%)

Trước can thiệp 103 45,58

Không thay đổi 26 11,50

Tăng 1 thành phần 10 4,42

Giảm 1 thành phần 42 18,58 Sau can thiệp Giảm 2 thành phần 21 9,29

Giảm 3 thành phần 4 1,77

Giảm 4 thành phần 0 0,00

Hiệu quả can thiệp 67 29,65

Chỉ số giảm 36 15,93

p <0,05

Chỉ số hiệu quả (%) 34,95

Nhận xét:

Sau can thiệp không hiệu quả có 26 BN (11,5%) không thay đổi thành

phần HCCH, có 10 BN (4,42) tăng thêm 1 thành phần.

Số BN mắc HCCH còn lại do can thiệp là 67 (29,65%), trong đó giảm 1

thành phần HCCH có 42 BN (18,58%), giảm 2 thành phần có 21 BN (9,29%),

giảm 3 thành phần có 4 BN (1,77%), không có BN nào giảm 4 thành phần

HCCH.

Chỉ số giảm sau can thiệp là 36 BN (15,93%), Chỉ số hiệu quả giảm tỷ

lệ 4 thành phần của HCCH là 34,95%.

92

Bảng 3.47. Hiệu quả can thiệp giảm 5 thành phần hội chứng chuyển hóa

(n=66)

Hội chứng chuyển hóa

(5 thành phần)

Số lượng Tỷ lệ (%)

Trước can thiệp 66 29,2

Không thay đổi 19 8,41

Giảm 1 thành phần 21 9,29

Giảm 2 thành phần 23 10,18 Sau can thiệp Giảm 3 thành phần 2 0,88

Giảm 4 thành phần 1 0,44

Giảm 5 thành phần 0 0,00

Hiệu quả can thiệp 47 20,8

Chỉ số giảm 19 8,41

p >0,05

Chỉ số hiệu quả (%) 28,79

Nhận xét:

Sau can thiệp có 19 BN (8,41%) không thay đổi thành phần HCCH.

Số BN mắc HCCH còn lại do can thiệp là 47 BN (20,8%), trong đó giảm

1 thành phần có 21 BN (9,29%), giảm 2 thành phần có 23 BN (10,18%), giảm

3 thành phần có 2 BN (0,88%), giảm 4 thành phần có 1 BN (0,44%), không có

BN nào giảm 5 thành phần.

Chỉ số giảm sau can thiệp là 19 BN (8,41%), không có ý nghĩa thống kê

(p>0,05), Chỉ số hiệu quả giảm tỷ lệ 5 thành phần của HCCH là 28,79%.

93

Bảng 3.48. Hiệu quả can thiệp giảm hội chứng chuyển hóa (n=226)

Hội chứng chuyển hóa

Số lượng Tỷ lệ (%)

Trước can thiệp 226 100%

Sau can thiệp 144 63,72

Chỉ số giảm 82 36,28

p < 0,001

Chỉ số hiệu quả (%) 36,28

Nhận xét:

Sau can thiệp giảm HCCH là 82 BN, Chỉ số giảm sau can thiệp là 82

(36,28%), Chỉ số hiệu quả giảm tỷ lệ HCCH là 36,28%, có ý nghĩa thống kê

với p < 0,05.

94

Bảng 3.49. Kết quả can thiệp giảm tỷ lệ hội chứng chuyển hóa và các

thành phần hội chứng chuyển hóa (n=226)

Số thành phần HCCH HCCH

3 thành 4 thành 5 thành Tổng phần phần phần

n n n n

(%) (%) (%) (%)

103 66 226 57 Trước can thiệp 226

(25,22) (5,58) (29,2) (100) (100)

Kết quả sau can thiệp

29 168 87 52 168 Tỷ lệ HCCH (38,5) (23,01) (12,83) (74,34) (74,34)

19 67 22 26 67 Không thay đổi (9,73) (11,5) (8,41) (29,65) (29,65)

Tăng thành phần HCCH

15 5 10 Tăng 1 thành phần 15 (2,21) (4,42) (6,64) (6,64) Tăng 2 thành phần 0 0

Giảm thành phần HCCH

25 21 88 42 Giảm 1 thành phần (11,06) (18,58) (9,29) (38,94)

23 48 4 21 Giảm 2 thành phần (1,77) (9,29) (10,18) (21,24) 144 7 2 1 4 Giảm 3 thành phần (63,72) (0,44) (1,77) (0,88) (3,1)

1 1 Giảm 4 thành phần 0 (0,44) (0,44)

Giảm 5 thành phần 0 0

95

Nhận xét:

Số BN mắc HCCH sau can thiệp giảm còn 168 BN (74,34%), trong đó

BN mắc HCCH với 3 thành phần là 87 BN (38,5%), 4 thành phần là 52 BN

(23,01%), 5 thành phần là 29 BN (12,83%).

Số BN can thiệp không hiệu quả, không thay đổi thành phần HCCH là

67 BN (29,65%), trong đó HCCH với 3 thành phần là 22 BN (9,73%), 4 thành

phần là 26 BN (11,5%), 5 thành phần là 19 BN (8,41%).

Số BN can thiệp không hiệu quả, thay đổi làm tăng thành phần HCCH là

15 BN (6,64%), trong đó HCCH với 3 thành phần tăng lên 1 thành phần (thành

HCCH với 4 thành phần) là 5 BN (2,21%), 4 thành phần tăng lên 1 thành phần

(thành HCCH với 5 thành phần) là 10 BN (4,42%), không có BN mắc HCCH

tăng lên 2 thành phần 5 thành phần là 19 BN (8,41%).

Số BN can thiệp hiệu quả, giảm 1 thành phần HCCH là 88 BN (38,94%),

trong đó HCCH 3 thành phần giảm 1 thành phần HCCH là 25 BN (11,06%), 4

thành phần giảm 1 thành phần là 42 BN (18,58%), 5 thành phần giảm 1 thành

phần là 21 BN (9,29%).

Số BN can thiệp hiệu quả, giảm 2 thành phần HCCH là 48 BN (21,24%),

trong đó HCCH 3 thành phần giảm 2 thành phần HCCH là 4 BN (1,77%), 4

thành phần giảm 2 thành phần là 21 BN (9,29%), 5 thành phần giảm 2 thành

phần là 23 BN (10,18%).

Số BN can thiệp hiệu quả, giảm 3 thành phần HCCH là 7 BN (3,1%),

trong đó HCCH 3 thành phần giảm 3 thành phần HCCH là 1 BN (0,44%), 4

thành phần giảm 3 thành phần là 4 BN (1,77%), 5 thành phần giảm 3 thành

phần là 2 BN (0,88%).

Số BN can thiệp hiệu quả, giảm 4 thành phần HCCH là 1 BN (0,44%)

trong nhóm BN mắc HCCH với 5 thành phần. Không có BN nào giảm được 5

thành phần của HCCH sau can thiệp.

96

Chương 4

BÀN LUẬN

4.1. Mô tả thực trạng hội chứng chuyển hóa và một số yếu tố lên quan ở

người bệnh đến khám và điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum

(2018 - 2019)

4.1.1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu

Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 4/2018 đến tháng 9/2018, chúng tôi

tiến hành khám cho 1.039 người tại khoa Khám Bệnh, Bệnh viện đa khoa tỉnh

Kon Tum.

Kết quả điều tra cho thấy đối tượng nghiên cứu tại Kon Tum có khá nhiều

thói quen được cho là có ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe. Chế độ dinh dưỡng

không hợp lý với tỷ lệ cao người ăn mặn, ít chất xơ, uống rượu bia và nhiều

mỡ, cao hơn với một số kết quả công bố trên toàn quốc. So với kết quả điều tra

STEPS 2015 trên những đối tượng 18 - 69 tuổi, đối tượng nghiên cứu tại Kon

Tum có tỷ lệ hút thuốc lá cao hơn (47,74% so với 22,5% trên toàn quốc), uống

rượu bia nhiều hơn (53,32% so với 43,8%), ăn mặn nhiều hơn (60,73% so với

10%), tỷ lệ ít hoạt động thể lực cao hơn (55,63% so với 28,1%), chỉ có ăn ít

rau, quả là tương đương với điều tra toàn quốc (59,19% so với 57,2%) [85].

Nghiên cứu của tác giả Trần Thị Phượng và cs thấy những đối tượng có chế độ

ăn không hợp lý (Ăn nhiều đạm, mỡ, chất ngọt, uống bia, rượu, hút thuốc lá),

không luyện tập thể lực hoặc luyện tập mức độ ít đều có tỷ lệ HCCH cao hơn

[116], những khác biệt này có thể ảnh hưởng đến nhiều bệnh lý mãn tính, trong

đó có HCCH.

4.1.2. Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng hội chứng chuyển hóa

Qua thăm khám 1.039 người, có 226 BN mắc HCCH, chiếm tỷ lệ

21,75%. Tỷ lệ HCCH ở các đối tượng khác nhau có khác nhau, qua các nghiên

cứu, tỷ lệ HCCH ở nhóm người khỏe mạnh cũng mắc với tỷ lệ nhất định như

97

đối tượng là Phi công có tỷ lệ HCCH là 27,21% [117]. Tỷ lệ mắc HCCH trong

nghiên cứu của chúng tôi tương tự như một số nghiên cứu khác trên các đối

tượng có tuổi tương tự. Điều tra năm 2005 trên 1955 người từ 25-64 tuổi thông

báo tỷ lệ HCCH là 17%, hơi thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi, tuy nhiên

nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh áp dụng tiêu chuẩn IDF, có tăng VB là

tiêu chuẩn bắt buộc, do đó tỷ lệ HCCH nếu áp dụng theo NCEP sẽ cao hơn

[47]. Một điều tra khác trên 611 người trên 20 tuổi cũng tại thành phố Hồ Chí

Minh thông báo tỷ lệ 18,5% [59]. Tại Long An điều tra 1408 người trên 20 tuổi

năm 2010 thấy tỷ lệ 17,2% [118]. Tại Bạc Liêu tỷ lệ HCCH ở 683 người tuổi

trung bình 65 tuổi là 24,01% [119]. Tại miền Bắc có một số điều tra cộng đồng

thông báo tỷ lệ HCCH hơi thấp hơn trong nghiên cứu này. Nghiên cứu của tác

giả Trần Thị Phượng và cs ở 501 nam, 202 nữ tuổi từ 40 trở lên đang công tác

tại các cơ quan thuộc tỉnh Hà Nam thấy tỷ lệ HCCH chung là 28,3% ở nam là

31,7%, nữ là 19,8% [116]. Nghiên cứu ở Hà Nội thấy tỷ lệ mắc HCCH là

28,9%, tỷ lệ mắc HCCH ở nữ là 76,1% cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nam

23,9% (p<0,01), tuổi trên 50 mắc HCCH chiếm 66%, cao hơn nhóm tuổi <50

có tỷ lệ là 34% (p<0,01), các yếu tố liên quan đến tỷ lệ mắc HCCH là trình độ

học vấn, nghề nghiệp, thừa cân béo phì [120]. Điều tra 1016 người tuổi 30 - 80

ở Thái Bình thấy tỷ lệ HCCH 19,6% [39], nghiên cứu trên 1854 người 30-75

tuổi tại Vũ Thư, Thái Bình tỷ lệ HCCH 12,6% [121]. Tại Hà Nam tỷ lệ HCCH

là 16,3% [80]. Nghiên cứu tỷ lệ HCCH tại Hải Dương có tỷ lệ HCCH ở người

cao tuổi là 38,1% [84]. Tại miền Trung có một số thông báo tỷ lệ HCCH tương

tự như nghiên cứu của chúng tôi: Thừa Thiên Huế có tỷ lệ mắc HCCH là 19,2%

(386 người tuổi trung bình 56) [40]; 25% (360 người trên 25 tuổi) [42]. So với

các nghiên cứu ngoài nước, tại Ethiopia ở 1476 người trưởng thành thấy tỷ lệ

HCCH là 33,79% [35], tỷ lệ này cao hơn các nghiên cứu trong nước và nghiên

cứu của chúng tôi, điều này cho thấy tỷ lệ HCCH khác nhau ở từng khu vực

trên thế giới, tùy theo các đặc điểm kinh tế, xã hội từng vùng với chế độ sinh

98

hoạt khác nhau như: ăn uống khác nhau, mức độ sử dụng rượu, bia, thuốc lá,

thực phẩm…dẫn đến gia tăng các thành phần của HCCH.

Kết quả nghiên cứu thấy tuổi thấp nhất được chẩn đoán HCCH là 19 tuổi.

Tại thành phố Hồ Chí Minh thấy tỷ lệ HCCH ở người 13 - 16 tuổi là 4,6% [49].

Tại Hà Nội nghiên cứu trên những trẻ thừa cân, béo phì, Đỗ Thị Phương Hà và

cộng sự thấy 84,6% trẻ 10 tuổi thừa cân, béo phì mắc HCCH [51]. Ngược lại,

trong nhóm BN HCCH có mắc kèm ĐTĐ typ 2, theo nghiên cứu của Nghiên

cứu của Đỗ Văn Lương và cộng sự tại Thái Bình tỷ lệ mắc hội chứng chuyển

hoá ở nhóm tuổi <40 là 30,3%, tăng dần theo nhóm tuổi cao nhất ở nhóm tuổi

65-74 là 72,5% và nhóm tuổi 55-64 là 72,3% [121].

Nghiên cứu của Dung Thi Pham, thấy tỷ lệ HCCH tăng dần theo nhóm

tuổi: 30-39 (10,5%), 40-49 (10,8%), 50-59 (20,2%), 60-69 (24,2%), 70-79

(27,5%), từ ≥80 tuổi (26,29%) tỷ lệ HCCH giảm thấp nhưng vẫn cao hơn so

với các nhóm tuổi <70 tuổi [39]. Nghiên cứu cùa Hồ Thị Kim Thanh thấy ở

nam giới tỉ lệ mắc tăng dần theo tuổi [84]. Sự khác biệt tỷ lệ HCCH ở các nhóm

tuổi có sự chênh lệch, có thể giải thích ở Tây Nguyên độ tuổi này có thể ít được

quan tâm trong vấn đề ăn uống giữ gìn sức khỏe, các thói quen sinh hoạt như

ăn uống, hút thuốc lá, uống rượu bia nhiều hơn so với các tỉnh đồng bằng.

Những kết quả này cho thấy sự cần thiết phải tiến hành truyền thông và sàng

lọc sớm HCCH, kể cả ở những người tuổi trẻ, được coi là ít bị HCCH.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Trung Thu và cộng sự thấy nhóm tuổi 50-

59 có nguy cơ mắc HCCH (OR=2,18; p = 0,003) [122]. Nghiên cứu của Hồ Thị

Kim Thanh thấy ở nam giới tỉ lệ mắc tăng dần theo tuổi, ở nữ tỉ lệ tăng dần theo

tuổi và đạt đỉnh ở nhóm tuổi 70-79, sau đó giảm xuống [84]. Nghiên cứu của

Trần Thị Phượng và cs thấy tỷ lệ HCCH gặp cao nhất ở nhóm tuổi ≥ 50 [116].

Nghiên cứu ở Hà Nội thấy tỷ lệ mắc HCCH ở nữ là 76,1% cao hơn có ý

nghĩa thống kê so với nam 23,9% (p<0,01) [120]. Nghiên cứu của tác giả Trần

Thị Phượng và cs thấy tỷ lệ HCCH ở nam là 31,7%, cao hơn nữ là 19,8% [116].

99

Tỷ lệ mắc HCCH khác nhau giữa 2 giới có thể được giải thích do sự tích lũy

lipid khác nhau giữa phụ nữ và nam giới. Phụ nữ tiền mãn kinh thường phát

triển béo phì ngoại vi với sự tích tụ mỡ dưới da, trong khi nam giới và phụ nữ

sau mãn kinh dễ bị béo phì trung tâm hoặc béo phì. Mỡ nội tạng là một nguồn

chính của các acid béo tự do trong tuần hoàn và các cytokine, gây ra sự đề

kháng insulin và một dạng lipid gây xơ vữa. Viêm làm tăng nguy cơ tim mạch,

đặc biệt là ở phụ nữ. Sinh lý bệnh của HCCH và sự đóng góp của nó vào nguy

cơ tương đối của các biến cố tim mạch và suy tim cho thấy sự khác biệt về giới

tính có thể có liên quan đến phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị HCCH [123].

Nghiên cứu của Angela Cozma và cs nghiên cứu các đặc điểm của

HCCH thấy tỷ lệ người trình độ học vấn thấp mắc HCCH là 4%, học vấn mức

trung bình mắc HCCH là 72,4%, học vấn cao mắc HCCH là 23,6% [124], so

với nghiên cứu của chúng tôi cũng có điểm chung đó là người mắc HCCH đa

số ở nhóm có học vấn mức trung học phổ thông đến trung cấp và cao đẳng

chiếm tỷ lệ nhiều nhất. Sự khác biệt về học vấn ở BN mắc HCCH có thể liên

quan giữa nghề nghiệp, điều kiện kinh tế khác nhau và mức sống khác nhau,

cũng như ý thức giữ gìn sức khỏe giữa các nhóm đối tượng mắc HCCH.

Một số nghiên cứu đã cho thấy sự khác biệt về tỷ lệ HCCH giữa các dân

tộc. Tại Trung Quốc người Tây Tạng có tỷ lệ HCCH thấp nhất (6,17%), người

Trung Quốc gốc Hàn Quốc có nguy cơ cao nhất (OR = 5,989), sau đó là người

Hui (OR=4,020), người Hán (OR =2,975), người Miao, Tujia, Li, Mông Cổ

[24]. Nghiên cứu của Jason L. Vassy và cộng sự thấy có 8 alen đặc hiệu liên

quan đến HCCH, sự liên quan giữa yếu tố dân tộc và các thành phần của HCCH

thông qua các đa hình đơn nucleotide (single-nucleotide polymorphisms,

SNPs): rs1260326 liên quan đến alen C (trigliceride, kháng insulin, glucose đói,

ĐTĐ typ 2), rs7578326 liên quan đến alen A (bệnh động mạch vành, ĐTĐ typ

2), rs4675095 liên quan đến alen T (insulin đói), rs35767 liên quan đến alen G

(kháng insulin), rs9939609 liên quan đến alen A (thừa cân béo phì, VB, kháng

100

insulin, trigliceride, HDL-C, insulin đói, glucose đói, ĐTĐ typ 2), rs6926728

liên quan đến alen G (thừa cân, béo phì, kháng insulin, glucose đói, ĐTĐ typ

2), rs174550 liên quan đến alen T (trigliceride, glucose đói, HDL-C),

rs11152213 liên quan đến alen C (thừa cân, béo phì, kháng insulin, HCCH,

trigliceride, HDL-C, VB) [125]. Do đó, tỷ lệ mắc HCCH trong nghiên cứu của

chúng tôi khác nhau giữa các nhóm dân tộc có thể liên quan đến vấn đề alen

đặc hiệu trong các đoạn gen tùy thuộc vào nhóm dân tộc.

Đến thời điểm nghiên cứu hoàn thành, chúng tôi chưa thấy công bố tỷ lệ

HCCH ở người DTTS nào, tuy nhiên tỷ lệ THA (một thành phần của HCCH)

ở người DTTS tại khu vực Nam Trung bộ ở người Chăm là 31,5% (nam 34,4%

và nữ 30,3%), tỷ lệ đồng bào Chăm mắc THA mới phát hiện là 20,8% (nam

22,7% và nữ 20,1%) [29] tỷ lệ THA ở người Mông tại Đăk Nông là 19,2%;

trong đó tỷ lệ THA ở nhóm nam giới (20,2%) cao hơn nữ giới (18,1%) [30].

Các nghiên cứu trên thế giới cũng ghi nhận có sự khác biệt về tỷ lệ HCCH giữa

các nhóm dân tộc. Tại Trung Quốc thấy tỷ lệ HCCH ở các nhóm dân tộc là

35,42% (Hàn), 22,82% (Hui), 19,8% (Hán), 13,72% (Miao), 12,9% (Tujia),

12,04% (Li), 11,61% (Mông Cổ), 6,17% (Tây Tạng). Dân tộc Hàn Quốc có tỷ

lệ lưu hành cao hơn trong năm thành phần của HCCH, trong khi dân tộc Tây

Tạng có tỷ lệ lưu hành thấp hơn ngoại trừ giảm HDL-C. Phân tích hồi quy

logistic cho thấy tuổi tác, uống rượu và không phải người Tây Tạng có liên

quan đến nguy cơ mắc HCCH cao hơn [24], nghiên cứu khác tại Trung Quốc

thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ lưu hành giữa các dân tộc, thể

hiện cao nhất ở Hui (28,19%), tiếp theo là Hán (27,3%), các dân tộc khác

(18,61%), Uyghur (18,56%), Mông Cổ (17,98%), Kazak (17,87%) và Kyrgyz

(14,44%), các tác giả cũng giải thích ngoài yếu tố về các thói quen sinh hoạt

của nhóm dân tộc khác nhau thì yếu tố gen cũng đóng vai trò quan trọng [25].

Nơi cư trú ở thành thị (64,2%) cao hơn ở nông thôn (35,8%), phù hợp

với nghiên cứu của Nguyễn Thị Trung Thu và cs thấy vùng thành thị có nguy

101

cơ mắc HCCH cao hơn (OR=2,05; 95% CI: 1,01 - 4,18; p<0,05) [122].

Một nghiên cứu ở Hoa Kỳ thấy tỷ lệ mắc HCCH ở nông thôn cao hơn

thành thị (39,9% so với 32,8%), ở cả nam giới (39,7% so với 33,3%) và phụ nữ

(lần lượt là 40,2% so với 32,3%). Sự khác biệt dựa trên nơi cư trú trong HCCH

có liên quan vai trò về thói quen sinh hoạt đưa ra những giải thích khả thi về

HCCH theo khu vực cư trú. Trong số các yếu tố nguy cơ hành vi có khả năng

liên quan đến HCCH, nghiên cứu của Tushar Trivedi và cộng sự thấy cư dân

nông thôn ít hoạt động thể chất hơn, ít có chế độ ăn kiêng và có nhiều thói quen

sử dụng thuốc lá. Đó là lý do tại sao các yếu tố liên quan đến béo phì như mức

độ hoạt động thể chất, hành vi ăn kiêng và các hành vi liên quan đến sức khỏe

khác như hút thuốc và uống rượu có thể giải thích sự khác biệt giữa thành thị

và nông thôn trong HCCH, sự khác biệt về tỷ lệ nông thôn cao hơn thành thị có

thể là do sự khác biệt về thành phần nhân khẩu học và các yếu tố hành vi liên

quan đến béo phì giữa cư dân thành thị và nông thôn [26].

Nghiên cứu của chúng tôi thấy phụ nữ có nguy cơ mắc HCCH gấp 1,82

(1,338 - 2,465) lần so với nam giới, nghiên cứu của Dung Thi Pham thấy tỷ lệ

HCCH ở nữ (24,2%) cao hơn so với nam (14,8%) [39]. Nghiên cứu của Nguyễn

Thị Trung Thu và cộng sự thấy nguy cơ mắc HCCH ở nữ giới (OR=1,73; p =

0,041) [122]. Nghiên cứu của Kiros Fenta Ajemu ở Ehiopia cũng ghi nhận tỷ

lệ nữ có nguy cơ mắc HCCH cao hơn so với nam (OR = 1,14; 95% CI: 0,91 -

1,43) [35]. Nghiên cứu tại Colombia thấy tỷ lệ HCCH là 7,7%, tỷ lệ nam

(11,1%) cao hơn nữ (5,3%) (p<0,001) [28]. HCCH phổ biến hơn ở phụ nữ so

với nam giới, phù hợp với nghiên cứu hiện tại. Một nghiên cứu của Zhou B et

al. (2017) đánh giá các yếu tố gây ĐTĐ ở nam và nữ; kết quả cho thấy rằng tỷ

lệ ĐTĐ ở phụ nữ cao hơn ở nam giới. Nhìn chung, sinh lý phụ nữ có khối lượng

chất béo cao hơn, và khối lượng chất béo trong cơ thể phụ nữ nhiều hơn ở vùng

sườn và vùng bụng. Trong các mô mỡ, các cytokine do các tế bào mỡ tạo ra sẽ

gây ra tình trạng viêm và kháng insulin, do đó tỷ lệ ĐTĐ cao hơn. Sự khác biệt

102

về nội tiết tố trong cơ thể phụ nữ cũng gây ra sự khác biệt về tỷ lệ mắc HCCH

giữa các giới. Các bằng chứng cho thấy estradiol, hormone giới tính nữ chính,

có tác dụng bảo vệ hệ tim mạch [39].

Vòng bụng được xem như là thành phần chính của HCCH, là nguyên

nhân gây ra các rối loạn về nội tiết, nghiên cứu của Trần Quang Bình và cộng

sự ở những những người mắc HCCH có BMI bình thường tại Hà Nam thấy tỷ

lệ các thành phần của hội chứng chuyển hoá thường gặp nhất là các chỉ số rối

loạn lipid máu (47,2% giảm HDL-C và 39,9% tăng triglyceride), tiếp đến là

tăng huyết áp (26,7%), tăng glucose máu (13,2%) và béo bụng (4,2%) [80].

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Trung Thu và cộng sự nghiên cứu tại Hà

Nam thấy thứ tự thường gặp các thành phần của HCCH là: tăng glucose, tăng

triglyceride, giảm HDL-C, THA và tăng VB [122]. Nghiên cứu của Trần Thừa

Nguyên và cộng sự nghiên cứu đặc điểm HCCH ở BN đến khám tại Bệnh viện

Trung ương Huế thấy thứ tự thường gặp các thành phần của HCCH là: THA,

tăng triglyceride, tăng glucose, tăng VB và giảm HDL-C [126].

Nghiên cứu của Đỗ Văn Lương và cộng sự tại Thái Bình đặc điểm HCCH

ở BN ĐTĐ typ 2 thấy trong số các yếu tố thành phần của hội chứng chuyển

hoá, tỷ lệ mắc cao nhất là tăng triglyceride 62,3%, tiếp theo là tăng huyết áp

57,3%, giảm HDL-C 38,9%, vòng eo cao 36,3% [127].

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương và cộng sự thấy người mắc HCCH

với tỷ lệ các thành phần như sau: tỷ lệ tăng triglyceride cao nhất với 67,8%, tỷ

lệ tăng VB 27,8%; tỷ lệ giảm HDL-C 21,6%; tỷ lệ THA 16,7% và thấp nhất ở

đối tượng nghiên cứu là thành tố tăng glucose máu lúc đói với 15,9% [128].

Một nghiên cứu phân tích tổng hợp trong cộng đồng tại Indonesia thấy

tỷ lệ các thành phần thường gặp ở HCCH là: giảm HDL-C (66,41%), THA

(64,45%), và béo bụng (43,21%) [129].

Đa số các nghiên cứu chúng tôi tham khảo thấy tỷ lệ VB không chiếm tỷ

lệ cao nhất, tỷ lệ có tăng VB hoặc giảm HDL-C trong nghiên cứu của chúng tôi

103

tương đối cao so với các rối loạn khác. Tỷ lệ gặp tăng glucose máu cũng rất

cao, phù hợp với tình trạng ĐTĐ có xu hướng tăng nhanh ở Việt Nam [72].

Nghiên cứu của Hồ Thị Kim Thanh thấy tỷ lệ các thành phần HCCH ở người

cao tuổi là: THA (49,1%), tăng trigliceride (48,8%), giảm HDL-C (32,7%),

tăng glucose máu (28,2%), béo bụng (18,1%) [84]. Các nghiên cứu khác nhau

ở các địa điểm khác nhau, nhóm đối tượng nghiên cứu khác nhau cũng có kết

quả tỷ lệ các thành phần của HCCH khác nhau, kết quả nghiên cứu của chúng

tôi có sự khác biệt có thể do yếu tố vùng, miền, các tập quán sinh hoạt khác

nhau giữa người Tây Nguyên và người đồng bằng nên có sự khác nhau về tỷ lệ

thường gặp các thành phần của HCCH.

Tỷ lệ gặp 4 tiêu chuẩn HCCH là cao nhất (45,58%). Tỷ lệ số lượng các

tiêu chuẩn ở nam và nữ khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu tại

đồng bằng châu thổ sông Hồng thấy chủ yếu người có HCCH có 3 thành phần,

tỷ lệ có 4 hoặc 5 thành phần thấp hơn. Sự khác biệt về số lượng thành phần

cũng không khác biệt giữa nam và nữ [4]. Một số nghiên cứu khác ở Việt Nam

thấy chủ yếu là 3 thành phần. Trần Kim Trang, Trương Phan Thu Loan nghiên

cứu HCCH ở người cao tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh thấy tỷ lệ 3 thành phần

là 53,9%; 4 thành phần 34,5%; 5 thành phần là 11,6%; tác giả cũng thấy số

lượng thành phần ở nữ nhiều hơn nam [130]. Nghiên cứu của Võ Thị Dễ, Lê

Thanh Liêm ở Long An thấy 3 thành phần chiếm tỷ lệ cao nhất (71,9%) [118].

Nghiên cứu của Hồ Thị Kim Thanh về HCCH ở người cao tuổi chủ yếu 3 thành

phần chiếm tỷ lệ cao nhất (23%), 4 thành phần (13%) và 5 thành phần chiếm tỷ

lệ thấp nhất (2,1%) [84]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương và cs thấy tỷ lệ

HCCH với 3 thành phần chiếm tỉ lệ cao nhất 72,7%; 4 thành phần 20,5% và 5

thành phần 6,8% [128]. Nghiên cứu của Dung Thi Pham thấy tỷ lệ HCCH với

3 thành tố chiếm tỉ lệ cao nhất 15,9%; 4 thành phần 3,2% và 5 thành phần 0,4%

[39]. Tỷ lệ các thành phần HCCH ở đối tượng là Phi công quân sự có tỷ lệ các

thành phần của HCCH 3 thành phần chiếm tỷ lệ cao nhất là 21,32%, tỷ lệ 4

104

thành phần là 5,88% [117]. Nghiên cứu của Suresh Mehata và cs nghiên cứu

đặc điểm HCCH ở người trưởng thành tại Nepal, thấy tỷ lệ các thành phần của

HCCH có 3 thành phần (12,11%) chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp đến là 4 thành phần

(5,51), và 5 thành phần (1,16%) chiếm tỷ lệ thấp [131]. Nghiên cứu của Abla

Sibai và cs tại Lebanon ở người ≥ 18 tuổi, thấy tỷ lệ các thành phần của HCCH

có 4 thành phần (17,3%) chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp đến là 3 thành phần, và 5

thành phần (2,7%) chiếm tỷ lệ thấp nhất [131]. Nghiên cứu của Robinson

Ramírez-Vélez và cs tại Colombia ở người ≥ 18 tuổi, thấy tỷ lệ các thành phần

của HCCH có 3 thành phần (7,7%), và 4 và 5 thành phần (2,7%) [28], thấp hơn

so với nghiên cứu của chúng tôi, có thể do nghiên cứu của chúng tôi tiến hành

tại cơ sở y tế, nơi người dân ít nhất cảm thấy có vấn đề về sức khỏe mới đến

khám, nên tỷ lệ các thành phần cũng cao hơn. Tuy nhiên, một nghiên cứu của

Kiros Fenta Ajemu tại Ethiopia thấy tỷ lệ HCCH với 3 thành phần chiếm tỷ lệ

cao nhất (69,51%) đến 4 thành phần (26,01%), 5 thành phần (4,48%) [35], tỷ

lệ này khác so với nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ 4 thành phần cao nhất, các

kết quả nghiên cứu có sự khác nhau về tỷ lệ thành phần của HCCH thường ở 3

thành phần hoặc 4 thành phần, tỷ lệ 5 thành phần luôn ở mức thấp so với tỷ lệ

thành phần thấp hơn, điều này cũng có thể lý giải đa số người mắc HCCH khi

có vấn đề sức khỏe có thể đã có tự điều chỉnh lối sống trước khi cần thiết can

thiệp của y tế, những trường hợp phát hiện HCCH có 5 thành phần có thể đã

thất bại trước đó với mức tự điều chỉnh lối sống không dùng thuốc ở nhà.

Nghiên cứu của Dung Thi Pham, thấy giá trị trung bình: VB, HATT,

HATTr, triglyceride, HDL-C, glucose đều thấp hơn so với kết quả của chúng

tôi [39], có thể do nghiên cứu của Dung Thi Pham nghiên cứu tại cộng đồng,

nghiên cứu của chúng tôi thực hiện tại cơ sở y tế là Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon

Tum nên khi người bệnh đến khám có thể có sức khỏe nghiêm trọng hơn. Nam

giới có xu hướng mắc HCCH sớm hơn so với nữ giới trong nghiên cứu này phù

hợp với nghiên cứu tại Na uy, tuổi trung bình BN HCCH của nam là 55,0; nữ

105

là 60,2 [133]. Nam giới cũng có huyết áp tối đa cao hơn so với nữ giới. Theo

số liệu của WHO, HATT nam giới luôn cao hơn khoảng 16 mm Hg so với nữ

giới [75]. Giá trị glucose máu trung bình không khác biệt giữa nam và nữ. Theo

WHO, những năm 1980 tại Việt Nam nam có chỉ số glucose máu thấp hơn so

với nữ, từ năm 1980 - 2008 glucose trung bình của nam có xu hướng tăng lên,

ở nữ có xu hướng giảm xuống, và đến năm 2008 thì giá trị glucose trung bình

của hai giới tương đương nhau [75].

Sự khác biệt về giá trị trigliceride giữa nam và nữ được giải thích do có

sự khác biệt về nội tiết tố giữa nam và nữ. Estrogen có tác dụng trong nhiều hệ

thống cơ quan góp phần bảo vệ và bảo vệ nguy cơ tim mạch, bao gồm điều hòa

chuyển hóa lipid gan và mức lipoprotein huyết thanh. Nhiều khía cạnh của sinh

học acid béo gan, trigliceride và cholesterol được điều chỉnh bởi các estrogen

nội sinh và nội tiết tố androgen. Ở trạng thái nhịn ăn, hầu hết trigliceride lưu

hành dưới dạng VLDL chứa apoB100 do gan tạo ra. Ở phụ nữ tiết ra nhiều hạt

VLDL giàu trigliceride hơn, tương ứng với tỷ lệ thanh thải VLDL- trigliceride

qua trung gian LPL cao hơn, góp phần làm giảm nồng độ trigliceride trong máu

nói chung ở phụ nữ béo phì. Ở trạng thái no, trigliceride lưu hành dưới dạng

các chylomicron chứa apoB48. Để đáp ứng với việc ăn nhiều chất béo trong

thời gian ngắn và dài hạn, phụ nữ có khả năng thanh thải tốt hơn các trigliceride

liên quan đến bữa ăn và tăng khả năng lưu trữ các chất dinh dưỡng đó trong mỡ

dưới da mông, thay vì mỡ bụng, trong khi lượng dự trữ tương tự ở mỡ bụng so

với mỡ dưới da ở nam giới. Một số khác biệt về giới tính trong sinh học VLDL-

TG và gan nhiễm mỡ là do sự truyền tín hiệu của estrogen ở gan, giúp hạn chế

bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu với bệnh béo phì. Sụt giảm estrogen sau khi

mãn kinh, trong các mô hình thực nghiệm, và do các chất đối kháng estrogen

dẫn đến tích tụ mỡ gan. Mất nội tiết tố buồng trứng cũng dẫn đến tăng cân do

mất tín hiệu estrogen [134].

Chỉ số huyết áp của người Kinh và người DTTS trong nghiên cứu của

106

chúng tôi tương đương với nghiên cứu trước đây tại Kon Tum (huyết áp tối đa

124  19,7 mmHg, huyết áp tối thiểu 78  9,2), so sánh giữa các dân tộc tại

Kon Tum Đào Duy An (2003) thấy huyết áp của người Xơ đăng tương đương

người Ba Na, Jơ Rai nhưng cao hơn của người Rơ Ngao, tuy nhiên tác giả chưa

so sánh với người Kinh [45]. Tại một số quốc gia khác có những nghiên cứu

cho thấy giá trị trung bình của các thành phần HCCH khác biệt giữa các nhóm

dân tộc khác nhau [25], [135].

Tỷ lệ tăng triglyceride cao nhất, cả ở người DTTS và người Kinh, phù

hợp với một nghiên cứu cộng đồng tại thành phố Hồ Chí Minh thấy tỷ lệ bất

thường gặp nhiều nhất là tăng triglyceride [59]. Trong nghiên cứu này tỷ lệ tăng

glucose máu cũng rất cao. Người dân sống ở khu vực Tây Nguyên là nơi có tỷ

lệ ĐTĐ thấp, tuy nhiên theo xu hướng chung của Việt Nam là tỷ lệ ĐTĐ có xu

hướng tăng nhanh [72]. Tỷ lệ các rối loạn thành phần có thể khác nhau tùy theo

khu vực. Kết quả nghiên cứu tại miền Bắc và miền Nam Việt Nam đều thấy các

rối loạn thành phần hay gặp nhất là tăng triglyceride, giảm HDL-C, tăng huyết

áp và tăng glucose [59], [84]. Khác với nghiên cứu tại miền Bắc và miền Nam

Việt Nam, rối loạn cholesterol cả ở người DTTS và người Kinh ít gặp hơn so

với các rối loạn khác. Chưa có nhiều thông tin lý giải cho hiện tượng này nhưng

một nghiên cứu tại Ecuador cho thấy những người sống ở vùng núi cao ít bị rối

loạn cholesterol hơn so với người sống ở những vùng thấp [90]. Tỷ lệ người có

glucose máu cao khác biệt giữa các nhóm dân tộc. Tại Bắc Kạn, Lê Quang

Minh và cs thấy người Kinh có tỷ lệ mắc ĐTĐ cao hơn người dân tộc ít người

khác (Tày, Nùng, Dao) [136]. Những kết quả này cho thấy thông tin về các rối

loạn chuyển hóa ở từng quần thể người khác nhau có ý nghĩa rất quan trọng.

Nghiên cứu của chúng tôi thấy tỷ lệ người DTTS Xơ đăng, Ba na, Giẻ

triêng (được xem như là người DTTS bản địa) mắc HCCH cao hơn so với người

Kinh (khu vực Tây Nguyên người dân tộc Kinh di cư từ nơi khác đến). Kết quả

này hơi khác so với nghiên cứu tại Canada thấy tỷ lệ mắc HCCH ở người bản

107

địa thấp hơn những người dân tộc khác (13,5% ở người Inuit (người thổ dân

bản địa), và 30% trong số các đối tượng không phải là thổ dân (OR = 1,489)

[61]. Sự khác biệt về tỷ lệ HCCH giữa các dân tộc cũng được ghi nhận tại một

số nghiên cứu khác. Tại Trung Quốc người Tây Tạng có tỷ lệ HCCH thấp nhất

(6,17%), người Trung Quốc gốc Hàn Quốc có nguy cơ cao nhất (OR = 5,989),

sau đó là người Hui (OR=4,020), người Hán (OR =2,975), người Miao, Tujia,

Li, Mông Cổ [24]. Tỷ lệ HCCH cao hơn ở người Xơ đăng có thể liên quan tới

tỷ lệ VB cao hơn, phù hợp với nghiên cứu tại Trung Quốc. Xuzhen Qin và cs

nghiên cứu thấy người gốc Hàn, người Hui là những dân tộc có tỷ lệ tăng VB

cao nhất cũng có tỷ lệ mắc HCCH cao nhất, ngược lại người Tây Tạng có tỷ lệ

tăng VB và HCCH rất thấp [24].

4.1.3. Yếu tố liên quan hội chứng chuyển hóa

Sự liên quan giữa tuổi và HCCH đã được ghi nhận trong nhiều nghiên

cứu. Nghiên cứu của Đoàn Phước Thuộc và cs tại Thừa Thiên Huế thấy nhóm

tuổi ≥ 45 mắc HCCH cao hơn [42]. Nghiên cứu ở Hà Nội thấy nhóm tuổi ≥50

mắc HCCH là 66%, cao hơn nhóm tuổi <50 có tỷ lệ là 34% (p<0,01) [120].

HCCH ảnh hưởng đến gần 50% người Hoa Kỳ >50 tuổi [8]. Nghiên cứu

tại Ấn Độ thấy tỷ lệ mắc HCCH cao nhất ở người 50 - 59 tuổi (31,9%), sau đó

là nhóm 40 - 49 tuổi (29%), >60 tuổi (20,3%), 30 - 39 tuổi (17,4%), thấp nhất

ở nhóm <30 tuổi (1,1%) [46]. Tại Malaysia, thấy tỷ lệ mắc HCCH cao nhất ở

người ≥55 tuổi (31,5%), sau đó là nhóm 45 - 54 tuổi (26,6%), 35 - 44 tuổi

(16,5%), <35tuổi (10,7%) [38]. Tại Ethiopia, tỷ lệ mắc HCCH tăng từ 1,6% ở

nhóm tuổi 15 ± 24 đến 10,8% ở nhóm >65 tuổi [47]. Nghiên cứu tại Trung

Quốc thấy tỷ lệ HCCH ở nam và nữ là 0,4% và 0,2% người tuổi 18 - 29, 4,3%

và 0,4% ở nhóm 30 - 39 tuổi, 8,2% và 1,6% nhóm 40 - 49 tuổi, 10,8% và 4,7%

ở nhóm 50 - 59 tuổi, 7,4% và 4,8% người 60 - 69 tuổi, 6,3% và 4,5% người

≥70 tuổi [36]. Nghiên cứu của Min-Seok Shin thấy độ tuổi từ 35 - 64 tăng nguy

cơ mắc HCCH so với nhóm tuổi ≥65 và <35 [137]. Nghiên cứu của Heng Guo

108

và cs thấy tỷ lệ mắc HCCH ở độ tuổi ≥ 45 chủ yếu ở các nhóm tuổi 45 - 54

(26,27%), 55 - 64 (23,02%), ≥ 65 (13,87%), tỷ lệ mắc HCCH ở các nhóm tuổi

<45 thấp hơn: 18 - 24 (3,48%), 24-34 (10,87%), 35 - 44 (22,49%) [138].

Tỷ lệ HCCH cao hơn ở nữ so với nam trong nghiên cứu của chúng tôi

phù hợp với một số nghiên cứu ở miền Bắc Việt Nam [4], [39] và nghiên cứu

của Đoàn Phước Thuộc và cộng sự tại Thừa Thiên Huế thấy tỷ lệ mắc HCCH

ở nữ (25,9%) cao hơn nam (23,9%) [42]. Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí

Minh, thấy nam giới xuất hiện HCCH sớm hơn so với nữ, nhưng ở phụ nữ tuổi

cao, tỷ lệ mắc HCCH ở nữ lại cao hơn so với nam [47].

Nghiên cứu của Dung Thi Pham, thấy YTNC nam mắc tỷ lệ HCCH cao

hơn nữ (OR = 1,8; 95% CI: 1,5 - 2,3) [39]. Yếu tố giới trong HCCH tùy thuộc

vào từng nghiên cứu có những kết quả khác nhau. Trong nghiên cứu của chúng

tôi ghi nhận tỷ lệ nữ cao hơn nam. Về lý thuyết, trên thế giới, ở những người bị

rối loạn dung nạp glucose, tình trạng rối loạn glucose máu lúc đói được quan

sát thấy thường xuyên hơn ở nam, trong khi tình trạng rối loạn dung nạp glucose

xảy ra tương đối thường xuyên hơn ở nữ. Các mô hình tích lũy lipid khác nhau

giữa nữ và nam. Phụ nữ tiền mãn kinh thường phát triển béo phì ngoại vi với

sự tích tụ mỡ dưới da, trong khi nam giới và phụ nữ sau mãn kinh dễ bị béo phì

trung tâm hoặc béo phì. Đặc biệt, béo phì “dạng táo-android” có liên quan đến

tăng tỷ lệ tử vong do tim mạch và sự phát triển của ĐTĐ typ 2. Tế bào mỡ nội

tạng khác với tế bào mỡ ngoại vi ở hoạt động phân giải mỡ và phản ứng của

chúng với kích thích insulin, adrenergic và angiotensin và hormone sinh dục.

Mỡ nội tạng là một nguồn chính của các acid béo tự do trong tuần hoàn và các

cytokine, được phân phối trực tiếp qua tĩnh mạch cửa đến gan gây ra sự đề

kháng insulin và một dạng lipid gây xơ vữa [123].

Một số nghiên cứu ngoài nước cho thấy tỷ lệ HCCH có thể khác nhau

giữa các dân tộc. Tại Bắc Kạn, Lê Quang Minh và cộng sự thấy người Kinh có

tỷ lệ mắc ĐTĐ cao hơn người DTTS khác (Tày, Nùng, Dao) [136]. Có thể trong

109

so sánh này chúng tôi gộp tất cả những người DTTS so sánh với người Kinh.

Cần mở rộng nghiên cứu để phân tích sâu hơn về các rối loạn chuyển hóa ở

từng quần thể người khác nhau. Nghiên cứu của Heng Guo và cs cũng ghi nhận

có sự khác biệt về chủng tộc người Han (OR = 1,53; 95% CI: 1,37 - 1,7) và

người Kazak (OR = 1,42; 95% CI: 1,29 - 1,56) đối với HCCH [138].

Đa số nghiên cứu ở Việt Nam đều cho thấy trình độ học vấn khác nhau

không ảnh hưởng tới nguy cơ mắc HCCH như nghiên cứu của Đoàn Phước

Thuộc và cộng sự ở Thừa Thiên Huế [42], của Trần Quang Bình ở miền Bắc

Việt Nam [80], Le Nguyen Trung Duc Son ở miền Nam Việt Nam [59]. Nghiên

cứu tại thành phố Hồ Chí Minh thấy học vấn cao hơn là yếu tố bảo vệ chống

HCCH ở nữ tuy nhiên không ảnh hưởng tới nam giới [47]. Nghiên cứu ở Hà

Nội thấy trình độ học vấn có liên quan đến tỷ lệ mắc HCCH [120].

Các nghiên cứu trên thế giới về ảnh hưởng của trình độ học vấn cũng cho

những kết quả khác nhau. Nguy cơ mắc HCCH giảm 40% đối với dân số có

trình độ trung học cơ sở trở lên so với mức độ mù chữ [138], tại Đài Loan thấy

học vấn có liên quan HCCH ở mức trung học phổ thông (OR = 0,5; 95% CI:

0,28 - 0,88) và đại học, sau đại học (OR = 0,45; 95% CI: 0,25 - 0,85) [139].

Ingrid S K Krishnadath và cộng sự (2016) nghiên cứu ở Suriname thấy

người có trình độ cao nguy cơ HCCH thấp hơn, tuy nhiên người trình độ vừa

nguy cơ mắc HCCH tương đương người có trình độ học vấn thấp [135]. Janusz

Bolanowski và cộng sự (2010) nghiên cứu tại Ba Lan thấy nữ có trình độ học

vấn thấp có nguy cơ mắc HCCH, tăng VB, THA, tăng glucose máu cao hơn;

tuy nhiên trình độ học vấn khác nhau ở nam giới không làm thay đổi nguy cơ

mắc các thành phần của HCCH [49]. Yinxia Su (2020) phân tích số liệu trên

gần 10 triệu người Trung Quốc thấy người có ≥ 7 năm đi học có nguy cơ mắc

HCCH thấp hơn người đi học ≤ 6 năm [82]. Nghiên cứu tại Mỹ thấy trình độ

học vấn không liên quan tới nguy cơ mắc HCCH [25]. Kết quả mâu thuẫn này

có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau. Người có trình độ học vấn cao hơn

110

thường có hiểu biết, quan tâm đến sức khỏe hơn nhưng cũng thường có điều

kiện kinh tế tốt hơn, làm việc tĩnh tại, do đó nguy cơ mắc HCCH cũng cao.

Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quốc Việt và cs thấy nghề nghiệp có liên

quan đến tỷ lệ mắc HCCH [120]. Có một số nghiên cứu cho thấy nghề nghiệp

có thể liên quan tới nguy cơ mắc HCCH. Le Nguyen Trung Duc Son nghiên

cứu thấy người làm nghề nội trợ, nghỉ hưu có nguy cơ mắc cao hơn [59]. Tuy

nhiên phần lớn nghiên cứu cho thấy nghề nghiệp không liên quan tới nguy cơ

mắc HCCH. Nghiên cứu Suriname Health Study cho thấy tình trạng thất nghiệp

làm giảm nguy cơ mắc HCCH ở người Creole (OR = 0,4; 95% CI: 0,2 - 1,0)

tuy nhiên không ảnh hưởng tới các dân tộc khác (người Mỹ da đỏ, Hindu…)

[135]. Ở Việt Nam nghiên cứu của Trần Quang Bình tại khu vực nông thôn

miền Bắc cũng không thấy ảnh hưởng của nghề nghiệp [4]. Do đó kết quả của

chúng tôi về ảnh hưởng của nghề nghiệp cũng phù hợp với các nghiên cứu trên.

Nơi sinh sống khác nhau có thể ảnh hưởng tới nguy cơ mắc HCCH.

Nguyễn Cảnh Phú nghiên cứu tại Nghệ An thấy tỷ lệ mắc HCCH người sống ở

khu vực thành thị là 40,8%, đồng bằng 36,9%, trung du 28,7%, miền núi 18,2%;

sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0.05) [140]. Nghiên cứu tại Hà Nam cho

thấy người sống ở thành thị có nguy cơ mắc HCCH cao hơn 2,46 lần so với

người sống ở nông thôn [4], tuy nhiên tại thành phố Hồ Chí Minh thấy tỷ lệ

mắc HCCH ở người sống ở các khu vực khác nhau không khác biệt [47].

Tại Brazil tỷ lệ HCCH ở nữ sống ở thành thị và nông thôn khác nhau

không có ý nghĩa thống kê, thậm chí nam giới ở thành thị có tỷ lệ mắc HCCH

thấp hơn nam giới sống ở nông thôn (13% so với 22%) [141]. Nghiên cứu

Suriname thấy so với người sống ở thành thị, ven biển, người sống ở nông thôn,

ven biển có nguy cơ mắc cao hơn (OR=1,2; 95% CI: 1,0 - 1,5) nhưng người

sống ở nông thôn, sâu trong nội địa lại có nguy cơ mắc HCCH thấp hơn

(OR=0,6; 95% CI: 0,5 - 0,8) [135]. Các nghiên cứu khác nhau có những kết

quả khác nhau về sự khác biệt giữa nguy cơ mắc HCCH tại khu vực thành thị

111

và nông thôn. Trong nghiên cứu của chúng tôi không thấy có sự khác biệt về

nguy có mắc HCCH giữa 2 khu vực, điều này có thể giải thích việc nơi sinh

sống không quan trọng trong nguy cơ mắc HCCH mà chính là các thói quen

sinh hoạt có đóng góp nhiều nguy cơ hơn trong việc mắc HCCH.

Nghiên cứu tại Hà Nam cho thấy người chưa lập gia đình có nguy cơ

mắc HCCH cao hơn so với người đã lập gia đình, tuy nhiên ở những người góa,

ly dị thì tỷ lệ mắc HCCH khác biệt chưa có ý nghĩa so với người đang có gia

đình [4]. Tình trạng hôn nhân không liên quan tới nguy cơ mắc HCCH trong

nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của Leila Jahangiry tại Iran cho thấy

tỷ lệ mắc HCCH chưa khác biệt giữa người chưa xây dựng gia đình, đã xây

dựng gia đình, góa vợ/chồng hay ly dị [55].

Nghiên cứu Suriname lại cho kết quả ngược lại, người đã lập gia đình có

nguy cơ mắc HCCH cao hơn (OR = 1,3; 95% CI: 1,2 -1,6) lần so với người

chưa lập gia đình [135]. Nghiên cứu của Young-Ah Jung và cs thấy tỷ lệ mắc

HCCH là 30% ở nhóm đã kết hôn, 34,2% ở nhóm chưa kết hôn, 33,5% ở nhóm

ly thân, 58,2% ở nhóm góa và 35,8% ở nhóm ly hôn, tỷ lệ này có sự khác biệt

có ý nghĩa (p <0,001) [142]. Hôn nhân được cho là YTNC mắc HCCH ở

Ethiopia (OR = 2,63; 95% CI: 1,99 - 3,49) [35]. Với kết quả mâu thuẫn như

vậy thì yếu tố hôn nhân tác động không đáng kể tới nguy cơ mắc HCCH của

chúng tôi cũng phù hợp.

Một nghiên cứu quan sát trên 18.146 người trưởng thành của Cuộc khảo

sát Sức khỏe và Dinh dưỡng Quốc gia Hàn Quốc (2008-2011) cho thấy có mối

tương quan thuận giữa lượng natri bài tiết (phản ánh lượng muối tiêu thụ) và

huyết áp. Nồng độ triglyceride và glucose có mối quan hệ tuyến tính (p <0,005)

với lượng natri bài tiết. Ở cả nam giới và phụ nữ, mối quan hệ thuận giữa bài

tiết natri và vòng bùng, mối quan hệ nghịch với HDL-C (p ≤ 0,001). Nguy cơ

HCCH tăng 1,279 lần ở tứ phân thứ hai; 1,479 lần ở tứ phân thứ ba, và 1,929

lần ở tứ phân cao nhất so với tứ phân thấp nhất [77]. Một số nghiên cứu ở Việt

112

Nam cho kết quả trái ngược nhau về ảnh hưởng của ăn mặn tới nguy cơ mắc

HCCH. Hồ Thị Kim Thanh nghiên cứu tại cộng đồng tỉnh Hải Dương thấy ăn

mặn làm tăng nguy cơ HCCH 1,7 lần [84] nhưng Nguyễn Cảnh Phú nghiên cứu

tại Nghệ An thấy ăn mặn không làm tăng nguy cơ mắc HCCH [139]. Ăn mặn

có nguy cơ gây THA tuy nhiên đối với HCCH có thể có nguy cơ hoặc không

tùy thuộc vào thói quen sinh hoạt có thể gây tăng glucose, tăng VB, tăng

trigliceride và giảm HDL-C, do đó sự khác biệt trong đối tượng nghiên cứu đã

ảnh hưởng tới nguy cơ mắc HCCH. Tại Hàn Quốc Oh SW và cs (2017) thấy ăn

mặn liên quan tới THA ở người mọi lứa tuổi, tuy nhiên ăn mặn ít liên quan tới

béo phì, tăng triglyceride, tăng glucose máu hay mức độ kháng insuline ở người

cao tuổi mặc dù có mối liên quan rõ ràng ở người trẻ tuổi [76].

Nghiên cứu của Se Won Oh và cs thấy ăn nhiều muối có liên quan đáng

kể đến tất cả các thành phần của HCCH, kháng insulin, và chất béo trong cơ

thể, và nó là một YTNC độc lập đối với HCCH [77].

Ăn thực phẩm có nhiều chất béo no (có nhiều trong mỡ động vật) và chất

béo chuyển hóa (trong thực phẩm chế biến sẵn) làm tăng nguy cơ mắc các bệnh

tim mạch và bệnh ĐTĐ [72]. Kết quả của chúng tôi cho thấy cần thiết phải điều

chỉnh chế độ ăn các chất béo.

Ăn ít chất xơ (rau và trái cây) được quy cho là nguyên nhân của 1,7 triệu

trường hợp tử vong, chiếm 2,8% tổng số tử vong trên thế giới, 31% các bệnh

thiếu máu tim cục bộ [72]. Nghiên cứu của Đoàn Phước Thuộc và cs tại Thừa

Thiên Huế thấy tỷ lệ HCCH ở nhóm người ăn ít trái cây, rau quả là 27,5%,

nhóm ăn đủ trái cây rau quả mắc HCCH chỉ 16,2% (p < 0,05) [42]. Một nghiên

cứu hậu phân tích 11 nghiên cứu, với tổng số 28.241 người tham gia và 9140

trường hợp có HCCH. Nhóm ăn chất xơ nhiều nhất giảm nguy cơ HCCH so

với nhóm ăn chất xơ thấp nhất (OR = 0,85; 95% CI: 0,79 - 0,92). Có mối quan

hệ giữa lượng tiêu thụ chất xơ và tỷ lệ mắc HCCH. So với nhóm không tiêu thụ

chất xơ, (OR, 95% CI) của HCCH trên các mức tiêu thụ 10; 20; 30 và 40 g/chất

113

xơ/ngày là (0,85; 0,79 - 0,91), (0,76; 0,67 - 0,85), (0,73; 0,65 - 0,83) và (0,73;

0,65 - 0,82) [78]. Do vậy kết quả của chúng tôi tỷ lệ mắc HCCH ở người hay

ăn ít chất xơ cao hơn so với người hay ăn chất xơ là phù hợp. Nghiên cứu của

Heng Guo và cs chất xơ có liên quan với HCCH, phân tích đa biến thấy rằng

tiêu thụ <1 đĩa rau mỗi tuần có liên quan đến nguy cơ mắc HCCH cao hơn (OR

= 1,31, 95% CI: 1,12 - 1,54) [138].

Rượu là một trong những YTNC ảnh hưởng đến sự phát triển của HCCH.

Rượu có thể ảnh hưởng đến tổng hợp lipoprotein, chủ yếu thông qua việc giảm

mức HDL và sản xuất apolipoprotein loại A ở gan. Ngoài ra, rượu có thể gây

rối loạn quá trình tạo glucone ở gan, ngăn cản quá trình oxy hóa lactate thành

pyruvate trong quá trình chuyển hóa carbohydrate. Những tác động của việc

uống rượu có thể dẫn đến sự phát triển của HCCH. Theo khuyến cáo của WHO

thì nam uống ≤ 2 ly rượu chát (300 ml rượu)/ngày hoặc 2 ≤ lon bia (≤ 14

lon/tuần); nữ uống ≤ 1 ly rượu chát (150 ml rượu)/ngày hoặc ≤ 1 lon [49. Theo

khuyến cáo của Bộ Y tế Việt Nam thì cũng cần hạn chế rượu bia [72]. Mức độ

tiêu thụ rượu trên toàn thế giới năm 2016 ước đạt 6,4 lít cồn nguyên chất/ người

từ 15 tuổi trở lên [75]. Điều tra STEPS (2015) tại Việt Nam tỷ lệ uống rượu bia

là 43,8% (nam 77,3% và nữ 11,1%); uống quá độ (trong 30 ngày có ít nhất một

lần uống từ 6 đơn vị cồn trở lên) là 22,4% (nam 44,2% và nữ 1,2%) [85]. Nghiên

cứu của Đoàn Phước Thuộc và cộng sự tại Thừa Thiên Huế thấy nguy cơ của

việc uống rượu bia ở mức nguy cơ cao và có hại là tăng nguy cơ mắc HCCH

(OR = 1,8; 95% CI: 1,0 - 3,8) [42]. Nghiên cứu của Dung Thi Pham, thấy uống

rượu có nguy cơ mắc HCCH [39], tương tự là nghiên cứu của Heng Guo và

cộng sự thấy có sự liên quan giữa uống rượu bia và HCCH [138]. So với những

người ít hoặc không uống rượu, những người uống rượu thường xuyên có tỷ lệ

mắc HCCH cao hơn có ý nghĩa thống kê. Ngược lại, các cá nhân ít hoặc không

uống rượu thì tỷ lệ mắc các thành phần HCCH ít hơn. Những người uống rượu

thường xuyên có giá trị trung bình của các thành phần HCCH đều cao hơn đáng

114

kể, ngoại trừ HDL-cholesterol so với những người khác [143]. Min-Kyung Lee

và cs nghiên cứu thấy uống quá nhiều rượu là YTNC quan trọng đối với sự phát

triển của HCCH và các thành phần của nó [144].

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng hút thuốc làm giảm độ nhạy

insulin, gây ra kháng insulin, và tăng các YTNC tim mạch như tăng nồng độ

chất béo trung tính trong huyết tương, giảm HDL-C và tăng đường huyết, hút

thuốc có liên quan với các bất thường về trao đổi chất [67]. Nghiên cứu của

Dung Thi Pham, thấy hút thuốc lá có nguy cơ mắc HCCH (OR = 0,6; 95% CI:

0,5 - 0,8) [39]. Hồ Thị Kim Thanh cũng ghi nhận hút thuốc lá làm tăng nguy

cơ mắc HCCH 3,1 lần [84], tuy nhiên nghiên cứu của Đoàn Phước Thuộc và

cộng sự chưa thấy thuốc lá là YTNC của HCCH (p > 0,05) [42]. Nghiên cứu

của Heng Guo và cộng sự thấy thuốc lá có ảnh hưởng tới tỷ lệ mắc HCCH (OR

= 29; 95% CI: 1,29 - 1,39) [138]. Hút thuốc ảnh hưởng đến tỷ lệ trao đổi chất,

trong đó tỷ lệ trao đổi chất giảm thường cao hơn ở những người hút thuốc do

ức chế nicotin, do đó làm giảm giải phóng các hormone serotonin và cũng như

adrenaline, tạo ra khái niệm rằng những người hút thuốc có chỉ số nhân trắc

học thấp hơn những người không hút thuốc. Một nghiên cứu ở Irag chứng minh

hút thuốc lá làm tăng 1,22 lần mắc HCCH [145]. Kết quả nghiên cứu của Min-

Kyung Lee và cộng sự thấy hút thuốc là YTNC quan trọng đối với sự phát triển

của HCCH và các thành phần của nó [144], người hút thuốc lá có nguy cơ mắc

HCCH cao hơn 2,4 lần (95% CI: 1,43 - 3,96) so với người không hút thuốc;

đặc biệt, họ có nguy cơ tăng triglyceride máu cao hơn 2,6 lần (95% CI: 1,44 -

4,55) và nguy cơ giảm HDL-C cao hơn gấp 3 lần (95% CI: 1,45 - 6,35) [146].

Nghiên cứu của Hồ Thị Kim Thanh cũng chưa ghi nhận sự liên quan giữa

hoạt động thể lực và HCCH [84]. Nghiên cứu của Đoàn Phước Thuộc và cs tại

Thừa Thiên Huế thấy hoạt động thể lực đóng vai trò quan trọng trong HCCH,

ít hoạt động thể lực gây tăng nguy cơ mắc HCCH (OR = 1,7; 95% CI: 1,0 - 2,8)

[42]. Một số nghiên cứu thấy hoạt động thể lực được coi là làm giảm nguy cơ

115

mắc các bệnh mãn tính, rối loạn chuyển hóa. Nghiên cứu của Susan B Sisson

và cs thấy nguy cơ mắc HCCH giảm 10% với mỗi 1000 bước thêm/ngày [83].

Nữ giới, hút thuốc và uống rượu liên quan tới nguy cơ HCCH. Nhóm

tuổi, ăn nhiều mỡ, ăn ít xơ chưa ảnh hưởng tới nguy cơ mắc HCCH. Tuổi là

yếu tố liên quan độc lập với nguy cơ HCCH trên khắp thế giới, tuổi càng cao

thì nguy cơ mắc HCCH càng cao. HCCH ảnh hưởng đến gần 50% người Hoa

Kỳ trên 50 tuổi [8]. Một số nghiên cứu cộng đồng tại Việt Nam cũng cho thấy

sự liên quan giữa tuổi và nguy cơ mắc HCCH [82], [84]. Tuy nhiên nghiên cứu

tại Indonesia cho thấy người già có nguy cơ mắc HCCH không cao hơn so với

những người trẻ tuổi hơn (OR = 1,081; 95% CI: 0,978 - 1,196) [128]. Có thể

tác động của lứa tuổi phụ thuộc nhiều yếu tố khác như giới tính. Nghiên cứu tại

thành phố Hồ Chí Minh, phía nam Việt Nam thấy nam giới xuất hiện HCCH

sớm hơn nhưng ở người cao tuổi hơn, tỷ lệ mắc HCCH ở nữ lại cao hơn so với

nam [47]. Trong nghiên cứu này ảnh hưởng của giới tính mạnh hơn nên yếu tố

tuổi tác động không rõ ràng tới nguy cơ mắc HCCH.

Ăn thực phẩm có nhiều chất béo no (có nhiều trong mỡ động vật) và chất

béo chuyển hóa (trong thực phẩm chế biến sẵn) làm tăng nguy cơ mắc các bệnh

tim mạch và bệnh ĐTĐ [72]. Tuy nhiên ăn thực phẩm có nhiều chất béo chủ

yếu làm tăng nồng độ LDL-C, một thành phần không phải là một tiêu chuẩn

chẩn đoán HCCH [73].

Ăn ít chất xơ (rau và trái cây) được quy cho là nguyên nhân của 1,7 triệu

trường hợp tử vong, chiếm 2,8% tổng số tử vong trên thế giới, 31% các bệnh

thiếu máu tim cục bộ [72]. Tuy nhiên ảnh hưởng của ăn nhiều rau và trái cây

với HCCH khá hạn chế. Trong một nghiên cứu hậu phân tích thấy tăng tiêu thụ

trái cây < 100 g/ngày tương ứng nguy cơ mắc HCCH là 0,97 (95% CI: 0,95 -

0,99), trong khi tăng tiêu thụ rau 100 g/ngày không liên quan đến giảm HCCH

(OR = 0,98; 95% CI: 0,96 - 1,01) [147]. Do đó kết quả ăn ít chất xơ trong phân

tích đa biến không liên quan HCCH của chúng tôi cũng phù hợp, tuy nhiên Bộ

116

Y tế vẫn có khuyến cáo ăn nhiều trái cây, rau quả vẫn có nhiều lợi ích [72].

Kết quả phân tích đa biến giới tính là yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất tới

nguy cơ mắc HCCH. Nữ giới có nguy cơ mắc HCCH cao gần 12 lần so với

nam. Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một số nghiên cứu ở

miền Bắc Việt Nam [39], [80]. Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh, phía

nam Việt Nam thấy ảnh hưởng của giới tính phụ thuộc tuổi, nam giới xuất hiện

HCCH sớm hơn nhưng ở phụ nữ tuổi cao, tỷ lệ mắc HCCH ở nữ lại cao hơn so

với nam [47]. Trên phạm vi toàn thế giới thì xu hướng chung là nữ mắc HCCH

cao hơn so với nam [148].

Hút thuốc lá được coi là một YTNC mắc HCCH và được ghi nhận trong

nhiều nghiên cứu [47]. Một nghiên cứu hậu phân tích, sử dụng dữ liệu từ 13

nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu kết luận rằng hút thuốc chủ động liên quan đáng

kể đến việc tăng nguy cơ HCCH (nguy cơ tương đối RR = 1,26; 95% CI: 1,10

- 1,44) [69]. Nguy cơ tồn tại ngay cả ở những người hút thuốc thông qua ống

nước [149]. Nguy cơ này có thể kéo dài 20 năm sau khi đã ngừng thuốc [150].

Một khó khăn trong việc đánh giá tác động của thuốc lá với HCCH là dựa chủ

yếu vào phỏng vấn, kết quả nhiều khi không thực sự khách quan [151]. Một số

nghiên cứu thấy hút thuốc lá chưa ảnh hưởng tới nguy cơ mắc HCCH [24].

Có sự khác biệt về tác động của hút thuốc với HCCH giữa hai giới. Ở

nam giới, hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy có một mối liên hệ thuận giữa

hút thuốc [70]. Tuy nhiên ở nữ nghiên cứu thấy thuốc lá không liên quan tới

nguy cơ mắc HCCH (RR = 0,85; 95% CI: 0,60 - 1,21) [69]. Yinxia Su và cộng

sự (2020) nghiên cứu trên 9.745.640 người Trung Quốc trưởng thành thấy tỷ lệ

mắc HCCH thấp nhất ở người Kyrgyzstan, Kazak và người Mông Cổ là những

dân tộc có tỷ lệ thói quen xấu (hút thuốc, uống rượu, ít hoạt động thể chất) cao

nhất. Các tác giả cho rằng nền tảng di truyền của một số nhóm dân tộc có thể

đóng một vai trò quan trọng trong nguy cơ mắc HCCH mặc dù họ có nhiều thói

quen được coi là nguy cơ mắc HCCH [25]. Cũng có thể ảnh hưởng của từng

117

yếu tố khác nhau trên các quần thể người khác nhau. Nghiên cứu tại Mỹ thấy

hút thuốc ảnh hưởng tới nồng độ HDL-C giảm ở những người Mỹ gốc Phi nhiều

hơn so với những người Mỹ da trắng [71]. Ngừng hút thuốc cũng liên quan với

một số hậu quả bất lợi cho sức khỏe, người ngừng thuốc thường có tăng cân do

tăng năng lượng ăn vào và giảm tiêu hao năng lượng, do loại bỏ các tác động

của nicotine lên hệ thần kinh trung ương Sự khác biệt về mức tăng cân giữa

những người bỏ thuốc và những người tiếp tục hút thuốc dao động từ 2,6 đến

5,3 kg [152]. Bỏ thuốc lá cũng có thể ảnh hưởng việc kiểm soát đường huyết

và làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường typ 2. Một nghiên cứu cho thấy nguy

cơ tương đối (RR) phát triển bệnh tiểu đường typ 2 so với những người không

bao giờ hút thuốc là 1,54 (95% CI: 1,36 - 1,74) đối với những người bỏ thuốc

trong 5 năm qua; 1,18 (95% CI: 1,07 - 1,29), những người kiêng thuốc lá 5 - 9

năm và 1,11 (95% CI: 1,02 - 1,20) cho những người bỏ thuốc lâu dài (≥ 10

năm) [153]. Cơ chế cai thuốc lá dẫn đến bệnh tiểu đường khởi phát hoặc kiểm

soát bệnh ĐTĐ kém hơn chưa rõ ràng, nguy cơ gia tăng có thể do tăng tích tụ

mỡ nội tạng hoặc tăng vòng eo, viêm mãn tính hoặc tăng cân quá mức sau khi

bỏ thuốc. Một nghiên cứu ở nam giới Nhật Bản mắc bệnh ĐTĐ thấy việc bỏ

hút thuốc trong ít nhất 6 tháng có liên quan đến việc tăng cân cùng với giảm

đáng kể của huyết áp, cholesterol toàn phần, triglyceride và glucose máu lúc

đói [154]. Tuy nhiên các tác động bất lợi của bỏ thuốc lá không kéo dài, theo

nghiên cứu của Lycett, việc kiểm soát glucose máu ở BN ĐTĐ xấu đi trong

khoảng 3 năm sau khi bỏ hút thuốc, sau đó mức HbA1C tương đương với người

hút thuốc và mối liên quan này độc lập với tăng cân sau cai thuốc [155].

Người uống ít rượu có liên quan đến giảm nguy cơ HCCH trong khi

người nghiện rượu nặng tăng nguy cơ HCCH. Alkerwi Ala’a và cộng sự (2009)

thấy nam giới tiêu thụ ít hơn 40 g/ngày và nữ giới ít hơn 20 g/ngày đã làm giảm

đáng kể tỷ lệ mắc HCCH [156]. Tại Hàn Quốc Hye Soon Park (2004) thấy phụ

nữ uống ít rượu (<15 g/ngày) có nguy cơ HCCH thấp hơn tuy nhiên tác dụng

118

này không ghi nhận ở nam giới [58]. Trong một nghiên cứu cộng đồng ở Hàn

Quốc, tiêu thụ ít rượu (0,1 - 5,0 g/ngày) có liên quan đáng kể đến tỷ lệ mắc

HCCH thấp hơn nhưng lượng tiêu thụ rượu cao hơn (> 30,0 g/ngày) không liên

quan đáng kể đến tỷ lệ mắc HCCH cao hơn (người uống rượu mức độ nhẹ, vừa

và nặng), ngoại trừ nam giới nghiện rượu nặng [57], tác hại của tiêu thụ rượu

nhiều là do sự gia tăng trong huyết tương triglyceride và THA [64].

Khuyến cáo của Bộ Y tế trong chiến lược quốc gia phòng chống bệnh

không lây nhiễm, nên thực hiện thay đổi những hành vi như hút thuốc lá, sử

dụng rượu bia ở mức có hại, dinh dưỡng không hợp lý (ăn ít trái cây, ăn mỡ, ăn

mặn), ít hoạt động thể lực [77]. Theo nghiên cứu của chúng tôi thì tại địa bàn

tỉnh Kon Tum, cần chú ý thay đổi hành vi hút thuốc lá, uống rượu ở người dân

để phòng chống HCCH.

4.3. Đánh giá hiệu quả biện pháp can thiệp điều trị kết hợp với truyền

thông, giáo dục thay đổi hành vi, lối sống cho bệnh nhân có hội

chứng chuyển hóa

Trọng tâm hàng đầu trong quản lý HCCH là giảm thiểu các YTNC có

thể điều chỉnh được thông qua thay đổi lối sống (tăng hoạt động thể lực và điều

chỉnh chế độ ăn uống) [72]. Kết quả tuyên truyền, hướng dẫn tỷ lệ thói quen

ăn mặn giảm 23,57%; chỉ số hiệu quả 39,53% (p < 0,001). Ăn mặn có ảnh

hưởng đến nhiều thành phần của HCCH. Nghiên cứu quan sát trên 18.146

người trưởng thành ở Hàn Quốc (2008 - 2011) cho thấy có mối tương quan

thuận giữa lượng natri bài tiết (phản ánh lượng muối tiêu thụ) và huyết áp, tỷ

lệ phần trăm chất béo trong cơ thể, khối lượng chất béo cơ thể, mức insulin và

chỉ tiêu đánh giá mức độ kháng insulin, nguy cơ HCCH [77]. CSHQ giảm ăn

mặn trong nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Xuân Thủy

tại Phú Thọ, CHSH đạt tới 100% đánh giá sau 6 tháng can thiệp [103]. Có thể

do Nguyễn Xuân Thủy nghiên cứu trên đối tượng cán bộ công chức đang làm

việc, trình độ học vấn đồng đều hơn và tuổi thấp hơn, dễ thay đổi thói quen hơn

119

những đối tượng nghiên cứu của chúng tôi. Nghiên cứu tại cộng đồng tỉnh Hải

Dương, Hồ Thị Kim Thanh thấy CSHQ giảm ăn mặn là 43,6% [84].

Ăn thực phẩm có nhiều chất béo no (có nhiều trong mỡ động vật) và chất

béo chuyển hóa (trong thực phẩm chế biến sẵn) làm tăng nguy cơ mắc các bệnh

tim mạch và bệnh ĐTĐ và cũng được khuyến cáo ăn hạn chế [72]. Kết quả sau

6 tháng can thiệp CSHQ giảm ăn nhiều mỡ đạt 35,14%. CSHQ giảm ăn nhiều

mỡ trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn kết quả của Nguyễn Xuân Thủy

tại Phú Thọ, CSHQ 100% đánh giá sau 6 tháng can thiệp [103], nhưng cao hơn

so với kết quả của Hồ Thị Kinh Thanh tại Hải Dương (19,8%) [84]. Có thể do

Nguyễn Xuân Thủy nghiên cứu trên đối tượng cán bộ công chức đang làm việc,

trình độ học vấn đồng đều hơn và tuổi thấp hơn, dễ thay đổi thói quen hơn

những đối tượng của chúng tôi.

Ăn nhiều rau quả, chất xơ cũng có thể làm giảm nguy cơ mắc HCCH.

Nghiên cứu hậu phân tích 11 nghiên cứu, với tổng số 28.241 người tham gia và

9.140 trường hợp có HCCH. Nhóm ăn chất xơ nhiều nhất giảm nguy cơ HCCH

so với nhóm ăn lượng chất xơ thấp nhất (OR = 0,85; 95% CI: 0,79 - 0,92; p =

0,005). Có mối quan hệ giữa lượng tiêu thụ chất xơ và tỷ lệ mắc HCCH. So với

nhóm không tiêu thụ chất xơ, OR (95% CI) của HCCH trên các mức tiêu thụ

10; 20; 30 và 40 g/chất xơ/ngày là 0,85 (0,79 - 0,91); 0,76 (0,67 - 0,85); 0,73

(0,65 - 0,83) và 0,73 (0,65 - 0,82) [78]. Sau can thiệp, có 23,01% BN đã tăng

chất xơ trong khẩu phần ăn, CSHQ đạt 34,67. Chỉ số này cao hơn so với nghiên

cứu của Hồ Thị Kim Thanh (22,9%) [84], nhưng thấp hơn so với nghiên cứu

của Nguyễn Xuân Thủy (89,2%) [103].

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng hút thuốc làm giảm độ nhạy

insulin, gây ra kháng insulin, và tăng các YTNC tim mạch như tăng nồng độ

triglyceride, giảm HDL-C và tăng glucose máu, hút thuốc có liên quan với các

bất thường về trao đổi chất [67]. Một nghiên cứu hậu phân tích, sử dụng dữ liệu

từ 13 nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu (56.691 người tham gia và 8.688 trường hợp

120

HCCH) từ Châu Á (Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản và Thổ Nhĩ

Kỳ), Châu Âu (Na Uy, Anh và Phần Lan) và Bắc Mỹ, kết luận rằng hút thuốc

chủ động liên quan đáng kể đến việc tăng nguy cơ HCCH (nguy cơ tương đối

(RR) 1,26; 95% CI: 1,10 - 1,44) [15]. Nguy cơ này có thể kéo dài 20 năm sau

khi đã ngừng thuốc [150]. Do đó nhiều biện pháp khác nhau được áp dụng để

khuyến khích người dân ngừng hút thuốc, đặc biệt là người có HCCH, có nguy

cơ cao mắc các bệnh lý mãn tính khác. Kết quả can thiệp đã làm giảm được

15,48% so với trước can thiệp, CSHQ là 24,65%. Nhìn chung giảm thói quen

hút thuốc lá tương đối khó khăn, những BN mắc HCCH có nhiều khả năng bỏ

thuốc lá hơn những người không mắc HCCH, tuy nhiên, vẫn cần can thiệp vì

nhiều BN mắc HCCH vẫn tiếp tục hút thuốc. Các can thiệp có sự tham gia tích

cực của các tổ chức hoặc cơ sở y tế là một trong những cách tiếp cận hiệu quả

nhất để thúc đẩy việc cai thuốc lá ở BN HCCH [157].

CSHQ trong nghiên cứu của Hồ Thị Kim Thanh là 17,1% [84]. Nghiên

cứu của Nguyễn Xuân Thủy thậm chí có CSHQ = 0 [103]. Nghiên cứu tại

Malaysia cho thấy tỷ lệ hút thuốc lá giảm từ 16,7% xuống còn 4,2% sau 3 tháng

(CSHQ 74,85%), tuy nhiên sau đó tỷ lệ hút thuốc lá không giảm tiếp, chứng tỏ

với một số người rất khó bỏ được hút thuốc lá [158].

Kết quả sau can thiệp tỷ lệ uống rượu giảm có ý nghĩa thống kê so với

trước can thiệp, CSHQ là 13,94, thấp hơn CSHQ với các thói quen khác. Trong

nghiên cứu này chúng tôi áp dụng khuyến cáo của WHO phân biệt giữa người

có uống rượu và không uống rượu [159]. Việc tư vấn và can thiệp giảm hút

thuốc lá, uống rượu luôn gặp khó khăn, đặc biệt là người cao tuổi, nhóm người

khó thay đổi được các thói quen đã hình thành từ lâu. Nghiên cứu tại Phú Thọ

của Nguyễn Xuân Thủy thấy tỷ lệ uống rượu không giảm ở những đối tượng

được can thiệp [103].

Lối sống ít vận động là một yếu tố dự báo các biến cố bệnh tim, mạch

vành và nguy cơ tử vong liên quan đến các bệnh này. Nhiều thành phần quá

121

trình trao đổi chất của HCCH liên quan đến lối sống ít vận động, bao gồm tăng

mô mỡ (chủ yếu ở trung tâm), giảm HDL cholesterol, tăng triglyceride, huyết

áp và glucose [8]. Có nhiều nghiên cứu áp dụng các biện pháp khác nhau để

khuyến khích đối tượng tăng hoạt động thể chất. Nói chung, các nghiên cứu

thuần tập, cắt ngang đều chứng minh là hoạt động thể chất nhiều hơn có tác

động quan trọng đến nguy cơ HCCH. Tập thể dục thường xuyên giúp giảm cân,

giảm huyết áp và cải thiện rối loạn lipid, bao gồm tăng HDL-C và giảm chất

béo trung tính. Những tác động này có thể do việc tập thể dục thường xuyên

làm giảm đề kháng insulin [81]. Kết quả can thiệp của chúng tôi đạt CSHQ cao,

64,29, cao nhất trong số các thói quen được tập trung can thiệp. Một số nghiên

cứu trong nước cũng cho thấy CSHQ giảm tỷ lệ ít vận động khá cao. Nguyễn

Xuân Thủy nghiên cứu tại Phú Thọ đạt CSHQ 98,08% [103], của Hồ Thị Kim

Thanh đạt thấp hơn (32,06) [84]. Tại Đông Nam Á CSHQ thay đổi vận động

trong các nghiên cứu đạt 8,9 - 80,3% [91]. Theo chúng tôi việc thiết kế các bài

tập với lượng vận động phù hợp thể lực đối tượng, tăng dần mức độ vận động

đã đạt hiệu quả cao, làm tăng tỷ lệ người đạt mức vận động của WHO.

Tăng VB là YTNC hàng đầu và là tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH, người

mắc HCCH thường có sự phân bố chất béo bất thường, đặc trưng bởi tích tụ

chất béo chủ yếu ở phần trên cơ thể, trong màng bụng (mỡ nội tạng) hoặc dưới

da và giảm VB là mục tiêu đầu tiên của quản lý HCCH [160]. Tuy nhiên khác

với các chỉ tiêu khác của HCCH có thể điều chỉnh nhanh chóng bằng thuốc,

VB là chỉ tiêu rất khó đạt được. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, VB trung

bình giảm có ý nghĩa tuy nhiên tỷ lệ tăng VB trong nghiên cứu này giảm không

có ý nghĩa so với trước can thiệp, CSHQ chỉ đạt 2,80%. Kết quả VB trung bình

giảm 0,83% của chúng tôi phù hợp với tổng kết các kết quả nghiên cứu tại Đông

Nam Á, CSHQ (từ 0,71 - 4,71%) [91]. Một số nghiên cứu hiệu quả can thiệp

giảm VB tại Việt Nam cũng cho CSHQ tương đối thấp. Nghiên cứu cộng đồng

của Hồ Thị Kim Thanh tại Hải Dương giảm VB là 1,84 cm [84]. Nghiên cứu

122

của Nguyễn Đức Công tại thành phố Hồ Chí Minh, VB trung bình trước can

thiệp là 82,8 cm, sau can thiệp là 81,8 cm, giảm được 1 cm, CSHQ 1,21% [104].

Nghiên cứu tại cộng đồng tỉnh Hà Nam, VB trung bình trước can thiệp là 87,12

cm, sau can thiệp là 85,49 cm, giảm được 1,63 cm, CSHQ = 1,9% [101]. Theo

Maria Van Namen, các can thiệp nhắm mục tiêu giảm VB đạt hiệu quả cao nhất

(giảm được 7,4 cm), sau đó là can thiệp với mục tiêu giảm cân (4,6 cm), cuối

cùng là các can thiệp thay đổi hành vi chung (giảm được 2,8 cm) [96]. Nghiên

cứu tại Malaysia hiệu quả can thiệp giảm VB 0,71 cm, thấp nhất so với các chỉ

số khác của HCCH [158]. Nghiên cứu của Min-Kyung Lee và cs thấy hiệu quả

can thiệp sau 2 năm giảm bằng can thiệp chế độ ăn và hoạt động thể lực giảm

VB được 8% [142]. Tỷ lệ VB giảm thấp nhất so với các thành phần khác của

HCCH chứng tỏ VB là một trong những thành phần rất khó giảm, đòi hỏi sự

kiên trì và thời gian kéo dài để đạt được hiệu quả. Điều này cho thấy sự cần

thiết có những bài tập chuyên biệt để giảm VB.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy CSHQ giảm tỷ lệ người THA đạt

khá cao (50,28%). Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Đức

Công tại thành phố Hồ Chí Minh, CSHQ giảm tăng huyết áp là 32,31% [104]

và tương đương với nghiên cứu của Hồ Thị Kim Thanh tại Hải Dương (49,6%)

[84]. Min-Kyung Lee và cs nghiên cứu sau 2 năm can thiệp bằng chế độ ăn và

hoạt động thể lực, thấy hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ THA là 25,4% [143], thấp

hơn so với nghiên cứu của chúng tôi có thể do nghiên cứu của chúng tôi áp

dụng cả điều trị thuốc khi điều chỉnh không thuốc chưa đạt được hiệu quả.

Kết quả cho thấy mức giảm huyết áp trong nghiên cứu này chủ yếu là

giảm HATT còn HATTr giảm không đáng kể. Kết quả của chúng tôi phù hợp

với một số nghiên cứu tại Malaysia và Việt Nam. Tại Malaysia, nghiên cứu của

Mahadzirvà cộng sự (2020) kết quả HATT trung bình giảm từ 135,29 mmHg

sau 6 tháng xuống còn 130,42 mmHg; giảm 4,87 mmHg; CSHQ 3,59%, p

=0,001; HATTr trước can thiệp là 82,58 mmHg, sau can thiệp là 81,75 mmHg,

123

giảm 0,83 mmHg; p = 0,566 [158]. Nghiên cứu tại Hà Nam, HATT trước can

thiệp là 137,37 mmHg, sau can thiệp là 133,29 mmHg, giảm 4,08 mmHg, p =

0,002; HATTr là 84,49 mmHg, sau can thiệp 83,69 mmHg, giảm 0,80 mmHg,

p = 0,360 [101]. Cũng có nghiên cứu thấy cả HATT và HATTr đều giảm có ý

nghĩa thống kê, tuy nhiên HATTr giảm ít hơn so với HATT. Tại Hải Dương,

CSHQ giảm HATT là 14,09%, cao hơn so với CSHQ giảm HATTr 9,94% [84].

Chỉ số hiệu quả giảm glucose rất thấp (8,63%), phù hợp với nghiên cứu

tại Phú Thọ (13,2%) [103]. Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh của Nguyễn

Đức Công và cộng sự tỷ lệ tăng glucose máu thay đổi không ý nghĩa thống kê

[104]. Mức giảm glucose máu trong nghiên cứu này là 0,55 mmol/L, tương

đương với mức giảm khi phân tích kết quả 10 nghiên cứu khác nhau, mức

glucose giảm trung bình 0,68 mmol/L [96]. Tại Hải Dương, mức hạ glucose

sau 12 tháng can thiệp là 0,86 mmHg [84]. Kết quả những nghiên cứu này cho

thấy, trong số các chỉ tiêu sinh hóa của HCCH, giảm glucose máu vẫn là chỉ

tiêu đạt thấp nhất. Nghiên cứu tại Hàn Quốc của Min-Kyung Lee và cs thấy

hiệu quả can thiệp bằng chế độ ăn và hoạt động thể lực giảm được 46% tỷ lệ

tăng glucose [144], cao hơn so với tỷ lệ nghiên cứu của chúng tôi, điều này giải

thích do nhóm đối tượng nghiên cứu tại Hàn Quốc có chế độ ăn dư thừa năng

lượng ở mức độ cao, nên khi can thiệp thì nhanh chóng giảm tỷ lệ glucose.

Kết quả nghiên cứu cho thấy can thiệp đã làm giảm tỷ lệ tăng triglyceride

máu, CSHQ 19,62%. Kết quả này hơi thấp hơn so với một số nghiên cứu khác

tại Việt Nam. Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh thấy CSHQ giảm tỷ lệ

tăng triglyceride (40,22%) [104]. Nghiên cứu tại Phú Thọ thấy giảm tỷ lệ tăng

triglyceride 26,82% [103].

Tại Hải Dương mức giảm triglyceride là 0,72 mmol/L (p <0,05) [84] so

với mức giảm nồng độ triglyceride trung bình trong nghiên cứu này là 0,21

mmol/L, tương đương với phân tích kết quả của Maria Van Namen và cộng sự

(2019) trên 9 nghiên cứu khác nhau (mức giảm triglyceride là 0,2 mmol/L)

124

[96]. Nghiên cứu của Patrícia Pozas Saboya và cs (2017) thấy mức giảm

triglyceride không khác biệt giữa nhóm chăm sóc tiêu chuẩn, can thiệp theo

nhóm hay can thiệp cá nhân [98]. Nghiên cứu tại Hàn Quốc của Min-Kyung

Lee và cs thấy hiệu quả can thiệp bằng chế độ ăn và hoạt động thể lực giảm

được 26,5% tỷ lệ tăng trigliceride, cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi,

trong nghiên cứu của chúng tôi có kết dùng thuốc điều chỉnh trigliceride, tuy

nhiên tỷ lệ hiệu quả vẫn thấp hơn, điều này có thể do chế độ ăn tại Hàn Quốc

có thể quá dư thừa năng lượng [144]. Can thiệp cộng đồng tại Hà Nam cho thấy

thay đổi triglyceride sau can thiệp không có ý nghĩa thống kê (trước can thiệp

2,34 mmol/L, sau can thiệp 2,32 mmol/L, giảm 0,02 mml, p = 0,950) [101].

Một số nghiên cứu tại Việt Nam thấy tỷ lệ tăng HDL-C đạt khá cao và

thường là cao nhất trong số các chỉ tiêu của HCCH. Nghiên cứu tại thành phố

Hồ Chí Minh thấy CSHQ giảm HDL-C thấp cao nhất (52,71%) [104]. Nghiên

cứu tại Phú Thọ thấy giảm HDL-C thấp cao nhất (30,66%), triglyceride

(26,82%) [103]. Chỉ số HDL-C trung bình tăng 0,12 mmol/L, hơn cao hơn so

với kết quả nghiên cứu tại Hải Dương (0,09 mmol/L) [84], nhưng thấp hơn so

với một nghiên cứu tại Hà Nam (0,42 mmol/L) [101].

Một số nghiên cứu trên thế giới thấy hiệu quả thấp trong thay đổi nồng

độ HDL-C. Nghiên cứu của Suzana Shahar tại Malaysia, nhóm can thiệp dinh

dưỡng tích cực, chỉ số HDL-C trước can thiệp là 1,2 ± 0,3 mmol/L, sau 6 tháng

là 1,1 ± 0,2 mmol/L, khác biệt chưa có ý nghĩa thống [161]. Nghiên cứu tại Hàn

Quốc của Min-Kyung Lee và cs thấy hiệu quả can thiệp bằng chế độ ăn và hoạt

động thể lực giảm được 23,7% tỷ lệ giảm HDL-C, thấp hơn so với nghiên cứu

của chúng tôi, trong nghiên cứu của chúng tôi có kết dùng thuốc điều chỉnh nên

có thể hiệu quả cao hơn [144].

Tại Đông Nam Á, các nghiên cứu báo cáo về hiệu quả can thiệp HCCH

cho thấy tỷ lệ thành công trong cải thiện thông số rối loạn lipid thấp hơn so với

tăng VB hay các rối loạn khác [91].

125

R Mora-Rodriguez và cs (2018) cho thấy giảm cân nặng chứ không phải

các chỉ tiêu tim mạch, hô hấp ảnh hưởng tới HCCH [162]. Theo hướng dẫn của

WHO [163], cũng như hiệp hội Tim mạch Mỹ [164], châu Âu [165], mục tiêu

điều trị giảm cân nặng là giảm tối thiểu 5% trọng lượng cơ thể trong 6 tháng.

Theo phân tích của Marion J Franz và cs (2015) với người béo phì, ĐTĐ typ 2

thì giảm <5% không cải thiện các rối loạn chuyển hóa [166].

Trong nghiên cứu này những người giảm ≥ 5% trọng lượng ban đầu được

coi là đạt mục tiêu, có khoảng 1/5 người tham gia nghiên cứu đạt mục tiêu. Kết

quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Yi-Lien Liu, sau 6 tháng có 31,58%

giảm cân nặng > 5% trọng lượng ban đầu [167]. Mức giảm cân nặng trung bình

(1,47 kg) của chúng tôi cũng thấp hơn kết quả của nghiên cứu trên (2,95 kg)

[167]. Suzana Shahar và cs (2012) nghiên cứu tại Malaysia sau 6 tháng can

thiệp cân nặng trung bình giảm 0,8 kg (từ 83,2kg xuống 82,4 kg, p = 0,043) và

hiệu quả khác biệt giữa nam và nữ: nam giảm 1,0% so với nữ giảm 2,6% [161].

Bên cạnh nghiên cứu về giảm chỉ tiêu của HCCH, nhiều nghiên cứu cũng

đánh giá hiệu quả trên một số chỉ tiêu liên quan. CSHQ can thiệp giảm tỷ lệ

thừa cân không có ý nghĩa thống kê phù hợp với kết quả giảm cân nặng đạt mục

tiêu thấp (19,91%). Kết quả nghiên cứu tại cộng đồng tỉnh Hải Dương của Hồ

Thị Kim Thanh [84] cũng thấy nhóm can thiệp giảm tỷ lệ thừa cân, béo phì

khoảng 10%, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Chỉ số BMI

sau can thiệp giảm 0,57 kg/m2, tương đương với kết quả can thiệp tại Hà Nam

(0,57 kg/m2) [101]. Một nghiên cứu can thiệp thay đổi lối sống dựa trên tương

tác web tại Iran thấy sau 6 tháng BMI trung bình giảm 0,5 kg/m2, tuy nhiên sự

khác biệt có ý nghĩa so với nhóm can thiệp truyền thông những thông tin cơ

bản về HCCH [99]. Kết quả chỉ số khối cơ thể giảm ít trong nghiên cứu của

chúng tôi phù hợp với một số nghiên cứu tại Đông Nam Á. Trong số 5 nghiên

cứu có so sánh BMI, 4/5 nghiên cứu cho thấy giảm BMI, mức giảm 1% - 7,36%

[91]. Nghiên cứu tại Đài Loan ở thay đổi lối sống cường độ thấp chỉ số BMI

126

giảm nhiều hơn (1,03 kg/m2 ) [167].

Cùng với glucose máu, HbA1c là một chỉ tiêu đánh giá việc kiểm soát

đường huyết. Sang Hyun Park và cộng sự (2012) nghiên cứu phát hiện thấy

HbA1c có thể được sử dụng làm tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH và tác giả đề xuất

giá trị ngưỡng của HbA1c là 5,65% ở người dân Hàn Quốc [168]. Theo Iván

Cavero-Redondo (2019) HbA1C có giá trị hơn glucose trong dự đoán tổn

thương mạch máu ở BN HCCH [169].

HbA1C trung bình trong nhóm nhiên cứu đã giảm 3,41% chứng tỏ các

liệu pháp thay đổi hành vi kết hợp thuốc đã có tác dụng. Kết quả nghiên cứu

của chúng tôi tỷ lệ và giá trị HbA1c đều giảm có ý nghĩa sau can thiệp phù hợp

với một số nghiên cứu khác. Kusuma Chaiyasoot và cộng sự (2018) nghiên cứu

tại Thái Lan thấy HbA1c cải thiện đáng kể ở nhóm thay đổi lối sống + chế độ

ăn so với nhóm thay đổi lối sống đơn thuần [170].

Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ cholesterol trung bình giảm ít

nhưng tỷ lệ tăng cholesterol đã giảm nhiều. CSHQ giảm HDL-C trung bình

trong nghiên cứu của chúng tôi là 6,83%, cao hơn so với kết quả của Hồ Thị

Kim Thanh tại Hải Dương (4,94%) [84]. CSHQ giảm tỷ lệ tăng cholesterol

trong nghiên cứu của chúng tôi (91,845) cũng cao hơn so với nghiên cứu tại

Phú Thọ (sau 6 tháng CSHQ với cholesterol là 31,5% [102]. Tại Đông Nam Á,

4/7 nghiên cứu thông báo HDL-C giảm sau can thiệp [91].

Kết quả nghiên cứu cho thấy CSHQ giảm LDL-C trung bình là 6,51%,

cao hơn so với kết quả của Hồ Thị Kim Thanh tại Hải Dương (3,18%) [84].

CSHQ giảm tỷ lệ tăng LDL-C là 54,55%; cao hơn so với kết quả can thiệp của

Nguyễn Xuân Thủy tại Phú Thọ (36%) [102]. Kết quả của những nghiên cứu

này cho thấy sau can thiệp thay đổi lối sống, thuốc LDL-C đã giảm, cả nồng độ

trung bình và tỷ lệ người có LDL-C. Ở Việt Nam cũng có nghiên cứu cho thấy

nồng độ LDL-C giảm không có ý nghĩa sau can thiệp. Nồng độ LDL-C tại Hà

Nam trước can thiệp là 2,78 mmol/L, sau can thiệp là 2,76 mmol/L, p = 0,876

127

[101]. Kết quả một số nghiên cứu tại Đông Nam Á thấy LDL-C giảm trong 3/6

nghiên cứu với mức giảm tối đa 20% [91].

Hiệu quả chung giảm HCCH trong nghiên cứu này đạt 36,28%, thấp hơn

so với nghiên cứu tại Phú Thọ (39,3%) [102]. Có thể do đối tượng nghiên cứu

tại Phú Thọ là cán bộ công chức, viên chức đang làm việc tại trường phổ thông,

bệnh viện và các cơ quan chức năng khác khác trên địa bàn thị xã Phú Thọ, tỉnh

Phú Thọ nên có tuổi đời thấp hơn, trình độ học vấn đồng đều hơn so với những

người dân tại Kon Tum trong nghiên cứu này. CSHQ của chúng tôi cao hơn so

với nghiên cứu của Hồ Thị Kim Thanh (17,5%) [84]. Nghiên cứu tại Hà Nam

của Van Dinh Tran và cộng sự (2016) thấy CSHQ giảm HCCH là 44%; CSHQ

đạt 14,79% [101]. Nghiên cứu hậu phân tích của Maria van Namen cho thấy

CSHQ giảm HCCH là 39% [96]. Nghiên cứu của Yi-Lien Liu tại Đài Loan,

nhóm can thiệp thay đổi lối sống cường độ thấp (LILM) trong 6 tháng, kết quả

CSHQ giảm HCCH là 43,32%; điểm trung bình HCCH giảm từ 3,5 xuống 2,61

(p<0,001) [167]. Min-Kyung Lee và cs nghiên cứu thấy yếu tố lối sống như chế

độ ăn uống và hoạt động thể chất có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến thành phần

của HCCH như glucose, triglyceride, HDL-C, THA và VB. Hút thuốc và uống

quá nhiều rượu là những YTNC quan trọng đối với sự phát triển của HCCH và

các thành phần của nó, trong nghiên cứu, bằng sự can thiệp chế độ ăn và hoạt

động thể lực, tỷ lệ HCCH đã giảm được 35,5% sau 2 năm can thiệp [144] Mặc

dù có sự khác biệt về đối tượng nghiên cứu nhưng các công bố đều cho thấy

các can thiệp thay đổi lối sống kết hợp điều trị thuốc đã có hiệu quả giảm

HCCH.

128

KẾT LUẬN

1. Thực trạng hội chứng chuyển hóa và một số yếu tố lên quan ở 1.039

người bệnh đến khám và điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum

(2018 - 2019)

- Tỷ lệ hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện đa

khoa tỉnh Kon Tum là 21,75%.

Tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa theo nhóm tuổi: nhóm tuổi 18 - 29 tuổi

(14,78%), nhóm tuổi 30 - 39 (16,81 %), nhóm tuổi 40 - 49 tuổi (25,3%), nhóm

tuổi 50 - 59 (21,7%), nhóm tuổi 60 - 69 (22,52%), nhóm tuổi ≥ 70 (25,27%).

- Tỷ lệ mắc HCCH theo nhóm dân tộc: dân tộc Kinh là 19,61%; dân tộc

Xơ đăng là 27,61%; dân tộc Ba na là 20,47%; dân tộc Giẻ triêng là 21,05%;

các dân tộc thiểu số khác là 14,29%. Không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc hội

chứng chuyển hóa giữa các nhóm dân tộc.

- Người trên 45 tuổi có nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa cao hơn 1,67

lần so với người ≤ 45 tuổi.

- Nữ giới có nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa cao hơn 1,82 lần so với

nam giới.

- Tỷ lệ về số lượng các thành phần của hội chứng chuyển hóa: 3 thành

phần (25,22%), 4 thành phần (45,58%), 5 thành phần (29,2%).

- Các yếu tố nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa trong nghiên cứu này

gồm: là giới nữ (OR = 11,99; 95% CI: 6,806 - 21,145), hút thuốc lá (OR = 6,49;

95% CI: 3,826 - 11,019), uống rượu (OR = 4,2; 95% CI: 2,732 - 6,472).

2. Đánh giá hiệu quả biện pháp can thiệp điều trị kết hợp với truyền thông,

giáo dục thay đổi hành vi, lối sống cho 226 bệnh nhân có hội chứng chuyển

hóa

- Chỉ số hiệu quả của can thiệp giảm tỷ lệ các thói quen: Ăn mặn

(39,53%), Ăn nhiều dầu mỡ (35,14%), Ăn ít chất xơ (34,67%), Hút thuốc lá

(24,65%), Uống rượu (13,94%), Ít vận động (64,29%).

129

- Chỉ số hiệu quả của can thiệp giảm các thành phần của hội chứng

chuyển hóa:

+ Tỷ lệ bệnh nhân có tăng vòng bụng giảm 2,8%, không có ý nghĩa thống

kê (p>0,05), số đo trung bình vòng bụng giảm 0,66 cm, chỉ số hiệu quả đạt

0,74% (p < 0,05).

+ Tỷ lệ bệnh nhân có tăng huyết áp giảm 39,38%, chỉ số hiệu quả sau

can thiệp là 50,28% (p<0,05), trị số huyết áp tối đa trung bình giảm 9,58

mmgHg (p<0,05), trị số huyết áp tối thiểu trung bình giảm 4,81 mmHg, không

có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

+ Tỷ lệ bệnh nhân có tăng glucose máu giảm 7,52%, chỉ số hiệu quả sau

can thiệp là 8,63%, (p<0,05), giá trị trung bình glucose máu giảm 0,55 mmol/L,

chỉ số hiệu quả sau can thiệp là 8,2% (p < 0,05).

+ Tỷ lệ bệnh nhân có tăng triglyceride máu giảm 18,14%, chỉ số hiệu quả

sau can thiệp là 19,62%, (p<0,05), giá trị trung bình triglyceride máu giảm

không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

+ Tỷ lệ bệnh nhân có tăng HDL-C là 18,14%, chỉ số hiệu quả sau can

hiệu quả là 35,34% (p<0,05).

thiệp là 35,34% (p<0,05), nồng độ HDL-C trung bình tăng 0,12 mmol/L, chỉ số

- Hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa là 36,28%

(p<0,05), chỉ số hiệu quả can thiệp giảm tỷ lệ các thành phần của hội chứng

chuyển hóa: giảm 3 thành phần là 47,37% (p<0,05), giảm 4 thành phần là

34,95% (p<0,05), giảm 5 thành phần là 28,79% (p>0,05).

130

KIẾN NGHỊ

1. Cần chú ý tập trung vào các yếu tố nguy cơ về thói quen làm gia tăng

tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa trong thực hành lâm sàng: uống rượu, hút thuốc

lá. Đặc biệt chú ý đối tượng là giới nữ, người có hút thuốc lá, người có sử dụng

rượu bia.

2. Chú ý can thiệp vào các yếu tố: Vòng bụng, huyết áp tối thiểu, hạ

trigliceride trong quá trình điều trị.

TÍNH KHOA HỌC, TÍNH MỚI, TÍNH THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN

1. Đề tài nghiên cứu lần đầu tiên được thực hiện công phu và chuyên sâu

tại tỉnh Kon Tum về hội chứng chuyển hóa, có cơ sở lý luận khoa học và kiểm

chứng bằng thực tiễn trên bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon

Tum, đề tài đã làm rõ bệnh lý hội chứng chuyển hóa tại Bệnh viện tỉnh và nêu

hiệu quả can thiệp các thành phần của hội chứng chuyển hóa, những thành phần

của hội chứng chuyển hóa can thiệp điều trị khó cải thiện.

2. Nghiên cứu thực trạng hội chứng chuyển hóa tại Bệnh viện đa khoa

tỉnh Kon Tum, kết quả điều trị can thiệp trong điều trị bệnh nhân mắc hội chứng

chuyển hóa, đánh giá các chỉ số hiệu quả các thành phần. Điểm mới của đề tài

là lần đầu tiên áp dụng nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học lâm sàng ở người có

bệnh lý hội chứng chuyển hóa tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum, có theo dõi

đánh giá hiệu quả can thiệp thay đổi hành vi lối sống kết hợp can thiệp điều trị,

là cơ sở để Bệnh viện có sự chuẩn bị về nhân lực, cơ sở vật chất để có thể điều

trị tốt và sớm cho bệnh nhân mắc hội chứng chuyển hóa trong giai đoạn gia

tăng bệnh không lây nhiễm.

3. Đề tài góp phần công bố số liệu về dịch tễ hội chứng chuyển hóa tại

Bệnh viện tỉnh Kon Tum, làm cơ sở để mở rộng nghiên cứu thêm về đặc điểm

dịch tễ hội chứng chuyển hóa trong khu vực Tây Nguyên, trong nước cũng như

thế giới.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN

QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN

1. Le Huu Loi, Dinh Thị Van Anh, Nguyen Quang Thieu, Cao Ba Loi, Nguyen

Trong Hung, Phan Huong Duong (2021), Prevalence and Factors Related to

Metabolic Syndrome in Xo Dang Patients at Kon Tum General Hospital,

Vietnam, Journal of Pharmaceutical Research International, Vol.33(60B),

pp.2258-2266.

2. Le Huu Loi, Nguyen Quang Thieu, Cao Ba Loi, Nguyen Trong Hung, Dinh

Thi Van Anh, Phan Huong Duong (2022), Effect of Nutrition Intervention on

the Prevalence of Metabolic Syndrome at Kon Tum General Hospital, Vietnam,

Journal of Complementary Medicine Research, Vol.13(2), pp.2-5.

3. Lê Hữu Lợi, Nguyễn Quang Thiều, Phan Hướng Dương (2022), “Đặc điểm

hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon

Tum (4/2018-4/2019)”, Tạp Chí Y Học Lâm Sàng, Số 76, tr.78-84.

4. Lê Hữu Lợi, Nguyễn Quang Thiều, Cao Bá Lợi, Phan Hướng Dương (2022)

“Tỷ lệ và các đặc điểm của hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân đồng bào dân

tộc thiểu số người Xơ Đăng đến khám tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kon Tum”,

Tạp Chí Y Dược Học Quân Sự, Số 47(2), tr. 47-54.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Y tế (2016), Quyết định số 346/QĐ-BYT ngày 30/01/2015 về việc Ban

hành Kế hoạch Phòng chống bệnh không lây nhiễm giai đoạn 2015-2020.

2. Bộ Y tế (2015), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh nội tiết chuyển hóa,

Nhà xuất bản Y học.

3. Alberti, George, Paul Zimmet, Johnathan Shaw (2012), “The IDF Consensus

Worldwide definition of the metabolic syndrome”, International Diabetes

Federation.

4. Binh Tran Quang, Pham Tran Phuong, Bui Thi Nhung, Do Dinh Tung

(2014), “Metabolic Syndrome among a middle-aged population in the Red

River Delta region of Viet Nam”, BioMed Central, tr.1-9.

5. P. Ranasinghe, Y. Mathangasinghe, R. Jayawardena, et al (2017),

“Prevalence and trend of metabolic syndrome among adults in asia-pacific

region: a systematic review”, BMC Public Health, 17(101), pp.1-9.

6. Aram V Chobanian, George L Bakris, Henry R Black et al (2003), “Seventh

Report of The Joint National Committee on Prevention, Detection,

Evaluation, and Treatment of High Blood Pressure”, Hypertension, 42(6),

pp.1206-1252.

7. Lê Hữu Lợi, Nguyễn Văn Sang, Võ Thị Ngọc Thúy, Lê Đình Vĩnh Phúc,

Huỳnh Hồng Quang (2017), “Nghiên cứu đặc điểm hội chứng chuyển hóa

và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân trung cao tại tỉnh Kon Tum”, Tạp chí

Y học dự phòng, 27(3), tr.104-112.

8. Robert H. Eckel (2018), “The Metabolic Syndrome”, Harrison ’s Principles

of Internal Medicine, 20, McGraw-Hill Education, pp.2903-2909.

9. Lonardo, A., Leoni, S., Alswat, K.A., and Fouad, Y. (2020), “History of

Nonalcoholic Fatty Liver Disease”, International Journal of Molecular

Sciences, 21(16),pp1-38.

10. Sarafidis, P.A., and Nilsson, P.M. (2006), “The metabolic syndrome : a

glance at its history”, Journal of Hypertension, 24(4), pp. 621-626.

11. Reaven, G. (1988), “Role of insulin resistance in human disease”, Diabetes,

37, pp.1595-1607.

12. DeFronzo, R., and Ferrannini, E. (1991), “Insulin resistance: a multifaceted

syndrome responsible for NIDDM, obesity, hypertension, dyslipidemia and

atherosclerotic cardiovascular disease”, Diabetes Care, 14, pp.173-194.

13. World Health Organization (1999), Definition, diagnosis, and classification

of diabetes mellitus and its complications: report of a WHO Consultation.

14. Alberti, K., Zimmet, P., and Shaw, J. (2006), “Metabolic syndrome - a new

world-wide definition. A Consensus Statement from the International

Diabetes Federation”, Diabet. Med., 23(5), pp.469-489.

15. Alberti, K.G.M.M., Eckel, R.H., Grundy, S.M., Zimmet, P.Z., Cleeman, J.I.,

Donato, K.A., Fruchart, J.-C., James, W.P.T., Loria, C.M., and Smith, S.C.

(2009), “Harmonizing the Metabolic Syndrome: a joint interim statement of

the International Diabetes Federation Task Force on Epidemiology and

Prevention; National Heart, Lung, and Blood Institute; American Heart

Association; World Heart Federation; International”, Circulation, 120(16),

pp.1640-1645.

16. Mccracken, E., Uk, M., Monaghan, M., Uk, M. (2017), “Pathophysiology of

the metabolic syndrome”, Clin. Dermatol., 36(1), pp.14-20.

17. Julian Halcox, Arshed A. Quyyumi (2006), “Metabolic Syndrome:

Overview and Current Guideline”, Hospitan Physician, pp.1-12.

18. Jaspinder Kaur (2014), “A comprehensive review on metabolic syndrome”,

Cardiology Research and Pratice, 2014(943162), pp.1-63.

19. Pengli Bao, Geli Liu, Ying Wei (2015), “Association between IL-6 and

related risk factors of metabolic syndrome and cardiovascular disease in

young rat”, Int J Clin Exp Med., 8(8), pp. 13491-13499.

20. Marie-Christine Alessi, Irène Juhan-Vague (2006), “PAI-1 and the

Metabolic Syndrome: links, causes, and consequences”, Arteriosclerosis,

Thrombosis, and Vascular Biology, 26(10), pp.2200-2207.

21. Krithika Srikanthan, Andrew Feyh, Haresh Visweshwar, Joseph I. Shapiro,

Komal Sodhi (2016), “Systematic review of meta- bolic syndrome

biomarkers: A panel for early detection, management, and risk stratification

in the West Virginian population”, International Journal of Medical

Sciences, 13(1), pp.25-38.

22. Myron I. Cybulsky, Kaeko Iiyama, Hongmei Li, Suning Zhu, Mian Chen,

Motoi Iiyama, Vannessa Davis, Jose-Carlos Gutierrez-Ramos, Philip W.

Connelly, David S. Milstone (2001), “A major role for VCAM-1, but not

ICAM-1, in early atherosclerosis”, JCI The journal of Clinical Investigation,

107(10), pp.1255-1262.

23. Carlos Lorenzo, Mayor Okoloise, Ken Williams, Michael P Stern, Steven M

Haffner, San Antonio Heart Study (2003), “The metabolic syndrome as

predictor of type 2 diabetes: the San Antonio heart study”, Diabetes Care,

26, pp.3153-3159.

24. Xuzhen Qin, Ling Qiu, Guodong Tang, Man-Fung Tsoi, Tao Xu, Lin Zhang,

Zhihong Qi, Guangjin Zhu, Bernard M. Y. Cheung (2020), “Prevalence of

metabolic syndrome among ethnic groups in China”, BMC Public Health,

20(1), pp.1-8.

25. Yinxia Su, Yaoqin Lu, Wenli Li, Mingyue Xue, Chen Chen, Muyaseer

Haireti, Yuanyuan Li, Zhenhui Liu, Yanshi Liu, Shuxia Wang, Hua Yao

(2020), “Prevalence and Correlation of Metabolic Syndrome: A Cross-

Sectional Study of Nearly 10 Million Multi-Ethnic Chinese Adults,

Diabetes”, Metabolic Syndrome and Obesity: Targets and Therapy, 13,

pp.4869-4883.

26. Tushar Trivedi , Jihong Liu, Janice C Probst, Amy Brock Martin (2013),

“The metabolic syndrome: are rural residents at increased risk?”, The

Journal of Rural Health, 29(2), pp.188-197.

27. Kiros Fenta Ajemu, Abraham Aregay Desta, Asfawosen Aregay Berhe,

Ataklti Gebretsadik Woldegebriel, Nega Mamo Bezabih, Degnesh Negash,

Alem Desta Wuneh, Tewolde Wubayehu Woldearegay (2021), “Magnitude,

components and predictors of metabolic syndrome in Northern Ethiopia:

Evidences from regional NCDs STEPS survey”, Plos One, 2016, pp.1-11.

28. Robinson Ramírez-Vélez, Jorge Enrique Correa-Bautista, Alejandra

Sanders-Tordecilla, Mónica Liliana Ojeda-Pardo, Elisa Andrea Cobo-Mejía,

Rocío del Pilar Castellanos-Vega, Antonio García-Hermoso, Emilio

González-Jiménez, Jacqueline Schmidt-RioValle, Katherine González-Ruíz

(2017), “Percentage of Body Fat and Fat Mass Index as a Screening Tool for

Metabolic Syndrome Prediction in Colombian University Students”,

Nutrients, 9(1009), pp. 1-13.

29. Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Văn Tập, Trần Phúc Hậu, Nguyễn Thanh Bình

(2021), “Thực trạng tăng huyết áp và một số yếu tố liên quan ở đồng bào dân

tộc Chăm từ 18 tuổi trở lên tại khu vực nam trung bộ năm 2017”, 31(6), tr.96

-104.

30. Ngô Thị Hải Vân, Hoàng Xuân Hạnh, Trần Thị Đức Hạnh, Nguyễn Văn

Vinh (2021), “Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tăng huyết áp ở

người Mông từ 30 đến 69 tuổi tại xã Đắk Drông, huyện Cưjut, tỉnh Đắk Nông

2020”, Tạp chí Y học dự phòng, 31(9), tr.108-114.

31. Matthew J. Gurka, Stephanie L., Filipp, Mark D. Deboer (2018),

“Geographical variation in the prevalence of obesity, metabolic syndrome,

and diabetes among US adults”, Nutrition & Diabetes, 8(14), pp.1-8.

32. Mohammad G. Saklayen (2018), “The Global Epidemic of the Metabolic

Syndrome, Hypertension and Obesity”, Current Hypertension Reports,

20(12), pp.1-8.

33. Christian I. Okafor (2012), “The metabolic syndrome in Africa: Current

trends”, Indian Journal of Endocrinology and Metabolism, 16(1), pp.56-66.

34. Maritza J. Kruger, Theo A. Nell (2017), “The prevalence of the metabolic

syndrome in a farm worker community in the Boland district, South Africa”,

BMC Public Health, pp.1-10.

35. Anas Ahmad Sabir, Abdulgafar Jimoh, Sandra Omozehio Iwuala, Simeon

Alabi Isezuo, Lawal Suleiman Bilbis, Kaoje Umar Aminu, Sani Atta

Abubakar, Yusuf Saidu (2016), “Metabolic syndrome in urban city of North-

Western Nigeria: prevalence and determinants”, Pan African Medical

Journal, pp.1-7.

36. Xiaofei Huang, Yongbo Hu, Longqi Du, Xiaolong Lin, Wenli Wu, Lijun

Fan, Libo Li, Xiaowei Zhong, Qiyong Gong, Li Gao, Weihong Kuang

(2020), “Metabolic syndrome in native populations living at high altitude: a

cross-sectional survey in Derong, China”, BMJ Open, 10(1), pp.1-8.

37. Aijuan Ma, Kai Fang, Jing Dong, Zhong Dong (2020), “Prevalence and

Related Factors of Metabolic Syndrome in Beijing, China (Year 2017)”,

Obesity Facts, 13(6), pp.538-547.

38. Mohd Rizal Abdul Manaf, Azmawati Mohammed Nawi, Noorlaili Mohd

Tauhid, Hanita Othman, Mohd Rizam Abdul Rahman, Hanizah Mohd

Yusof, Nazaruddin Safan, Pei Yuen Ng, Zahara Abdul Manaf, Nor Ba’yah

Abdul Kadir, KevinaYanasegaran, Siti Munirah Abdul Basir, Sowmya

Ramakrishnappa, KurubaranGanasegeran (2021), “Prevalence of metabolic

syndrome and its associated risk factors among staffs in a Malaysian public

university”, Scientific Reports, 11(1), pp.1-11.

39. Dung Thi Pham, Hung Trong Nguyen, Anh Thi Van Tran, Thu Khanh Tran,

Duong Huong Phan, Nhung Thi Ninh (2019), “Prevalence of Metabolic

Syndrome in Rural Areas of Vietnam: A Selected-Randomized Study”,

Archives of Pharmacy Practice, 10(2), pp.43-50.

40. Nguyễn Thị Hường, Đoàn Phước Thuộc, Lê Văn Chi (2019), “So sánh một

số chỉ số béo phì trong tiên đoán hội chứng chuyển hóa ở người dân huyện

Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, 2019”, Y học thành phố Hồ Chí Minh,

23(5), tr.154-160.

41. Nguyễn, T.N., Trần, T.P.N. (2017), “Tình trạng mắc hội chứng chuyển hóa

và một số yếu tố liên quan của cán bộ viên chức tại trường Đại học Y Hà

Nội”, Dinh dưỡng và thực phẩm, 13(2), tr.49-53.

42. Đoàn Phước Thuộc, NguyễnThị Hường, TrươngThị Oanh (2019), “Tỷ lệ hội

chứng chuyển hóa và một số yếu tố liên quan ở người dân tại hai xã của

huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế”, Y học thành phố Hồ Chí Minh,

23(5), tr.169-176.

43. Phùng Đức Tùng, Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị

Nhung, Tạ Thị Khánh Vân (2017), “Tổng quan thực trạng kinh tế-xã hội của

53 dân tộc thiểu số”, Ủy ban dân tộc, tr.19-33.

44. Cục Thống kê tỉnh Kon Tum (2017), Niên giám thống kê tỉnh Kon Tum.

45. Đào Duy An (2003), “Điều tra ban đầu chỉ số huyết áp và tỷ lệ tăng huyết áp

ở người dân tộc thiểu số thị xã Kon Tum”, Tạp chí Tim mạch học Việt Nam,

35, Tr.47-50.

46. Yasmee Khan, Arati Lalchandani, Ajesh Chandra Gupta, Sagar Khadanga,

Sanjeev Kumar (2018), “Prevalence of metabolic syndrome crossing 40% in

Northern India: Time to act fast before it runs out of proportions, Journal of

Family Medicine and Primary Care, 7(1), pp.118-123.

47. Trinh, O.T.H., Nguyen, N.D., Phongsavon, P., Dibley, M.J., and Bauman,

A.E. (2010), “Metabolic Risk Profiles and Associated Risk Factors Among

Vietnamese Adults in Ho Chi Minh City”, Metab. Syndr. Relat. Disord.,

8(1), pp.69-78.

48. Gebreyes, Y.F., Goshu, D.Y., Geletew, T.K., Argefa, T.G., et al (2018),

“Prevalence of high bloodpressure, hyperglycemia, dyslipidemia, metabolic

syndrome and their determinants in Ethiopia: Evidences from the National

NCDs STEPS Survey”, PLoS One, 13(5), pp.1-18.

49. Janusz Bolanowski, Jadwiga Bronowicz, Barbara Bolanowska, Alicja

Szklarska, Anna Lipowicz, Robert Skalik (2010), “Impact of education and

place of residence on the risk of metabolic syndrome in Polish men and

women”, International Journal of Cardiololy, 145(3), pp.542-544.

50. Tang Kim Hong, Nguyen Hoang Hanh DoanTrang, Michael J.Dibley (2012),

“Prevalence of metabolic syndrome and factor analysis of cardiovascular risk

clustering among adolescents in Ho Chi Minh City, Vietnam”, Preventive

Medicine, 55(5), pp.409-411.

51. Đỗ Thị Phương Hà, Nguyễn Thị Lâm, Lê Bạch Mai (2009), “Mối liên quan

giữa chỉ tiêu nhân trắc với tình trạng tăng huyết áp và hội chứng chuyển hóa

ở trẻ 10 tuổi tại Hà Nội”, Dinh dưỡng và thực phẩm, 5(3+4), tr.12-16.

52. Marion C Devers, Stewart Campbell, David Simmons (2016), “Influence of

age on the prevalence and components of the metabolic syndrome and the

association with cardiovascular disease”, BMJ Open Diabetes Research &

Care, 4(1), pp.1-7.

53. Jui-Hua Huang, Ren-Hau Li, Shu-Ling Huang, Hon-Ke Sia, Su-Shiang Lee,

Wei-Hsun Wang, Feng-Cheng Tang, (2017), “Relationships between

different types of physical activity and metabolic syndrome among

Taiwanese workers”, Scientific Reports, 7(1), pp.1-8.

54. Fathimah S. Sigit, Dicky L. Tahapary, Stella Trompet, Erliyani Sartono, Ko

Willems van Dijk, Frits R. Rosendaal, Renée de Mutsert (2020), “The

prevalence of metabolic syndrome and its association with body fat

distribution in middle-aged individuals from Indonesia and the Netherlands:

a cross-sectional analysis of two population-based studies”, Diabetology and

Metabolic Syndrome, 12(2), pp.1-11.

55. Leila Jahangiry, Leila Khosravi-far, Parvin Sarbakhsh, Ahmad Kousha,

Rasool Entezar Mahdi, Koen Ponnet (2019), “Prevalence of metabolic

syndrome and its determinants among Iranian adults: evidence of IraPEN

survey on a bi-ethnic population”, Scientific Reports, 9(1), pp.1-7.

56. Valerie F Williams, Gi-Taik Oh, Shauna Stahlman (2018), “Incidence and

prevalence of the metabolic syndrome using ICD-9 and ICD-10 diagnostic

codes, active component, U.S. Armed Forces, 2002-2017”, MSMR, 25(12),

pp.20-25.

57. Su Kang Kim, Seung-Hee Hong, Joo-Ho Chung, Kyu Bong Cho (2017),

“Association Between Alcohol Consumption and Metabolic Syndrome in a

Community-Based Cohort of Korean Adults”, Medical Science Monitor, 23,

pp.2104-2110.

58. Hye Soon Park, Sang Woo Oh, Sung-Il Cho, Woong Hwan Choi, Young

Soel Kim (2004), “The metabolic syndrome and associated lifestyle factors

among South Korean adults”, Int. J. Epidemiol., 33(2), pp.328-336.

59. Le Nguyen Trung Duc Son, Daisuke Kunii, Nguyen Thi Kim Hung, Tohru

Sakai, Shigeru Yamamoto (2005), “The metabolic syndrome: prevalence

and risk factors in the urban population of Ho Chi Minh City”, Diabetes

Research and Clinical Practice, 67(3), pp.243-250.

60. Masami Miyakawa, Takayuki Shimizu, Nguyen Van Dat, Phung

Thanh, Pham Thi Phuong Thuy, Nguyen Thi Hoang Anh, Nguyen Huu

Chau, Yumi Matsushita, Hiroshi Kajio, Vien Quang Mai, Masahiko Hachiya

(2017), “Prevalence, perception and factors associated with diabetes

mellitus among the adult population in central Vietnam: a population-based,

cross-sectional seroepidemiological survey”, BMC Public Health, 17(1),

pp.1-8.

61. J Liu, A J G Hanley, T K Young, S B Harris, B Zinman (2006),

“Characteristics and prevalence of the metabolic syndrome among three

ethnic groups in Canada, Intẻnational Journal of Obesity, 30(4), pp.669-676.

62. Susan J. Bondy, Jürgen Rehm, Mary Jane Ashley, Gordon Walsh, Eric

Single, Robin Room (1999), “Low-risk Drinking Guidelines: The Scientific

Evidence”, Canadian Journal of Public Health, 90(4), pp.264-270.

63. Valmore Bermúdez, María Sofía Martínez, Mervin Chávez-Castillo, Luis

Carlos Olivar, Jessenia Morillo, José Carlos Mejías, Milagros Rojas, Juan

Salazar, Joselyn Rojas, Roberto Añez, and Mayela Cabrera (2015),

“Relationship between Alcohol Consumption and Components of the

Metabolic Syndrome in Adult Population from Maracaibo City, Venezuela”,

Advances in Preventive Medicine, 2015, pp.1-13.

64. Naoki Fujita,Yoshiyuki Takei (2011), “Alcohol consumption and metabolic

syndrome”, Hepatology Research, 41(4), pp.287-295.

65. Buja, A., Scafato, E., Sergi, G., Maggi, S., Suhad, M., Rausa, G., Coin, A.,

Baldi, I., Manzato, E., Galluzzo, L., Enzi, G., Perissinotto, E., and Group.,

I.W. (2010), “Alcohol consumption and metabolic syndrome in the elderly:

results from the Italian longitudinal study on aging”, Eur J Clin Nutr., 64(3),

pp.297-307.

66. Hirakawa Miharu, Arase Yasuji, Amakawa Kazuhisa, Ohmoto-Sekine

Yuki, Ishihara Makiko, Shiba Masato, Ogawa Kyoko, Okuda Chikao, Jinno

Toyohisa, Kato Hisahito, Tsuji Hiroyuki, Hashimoto Mits (2015),

“Relationship between Alcohol Intake and Risk Factors for Metabolic

Syndrome in Men”, International Medicine, 54(17), pp.2139-2145.

67. Hellas Cena, Maria Luisa Fonte, Giovanna Turconi (2011), “Relationship

between smoking and metabolic syndrome”, Nutrition in Clinical Care,

9(12), pp.745-753.

68. Jia Wei Ping (2013), “The Impact of Cigarette Smoking on Metabolic

Syndrome”, Biomed. Environ. Sci., 26(12), pp.947-952.

69. Kan Sun, Jianmin Liu, Guang Ning (2012), “Active smoking and risk of

metabolic syndrome: a meta-analysis of prospective studies”, PLoS One,

7(10), pp.1-9.

70. William A. Calo, Ana P. Ortiz, Erick Suárez, Manuel Guzmán, Carmen M.

Pérez, Cynthia M. Pérez (2013), “Association of Cigarette Smoking and

Metabolic Syndrome in a Puerto Rican Adult Population”, J Immigr Minor

Heal., 15(4), pp.810-816.

71. Ivan Berlin, Susan Lin, Joao A C Lima, Alain Gerald Bertoni (2012),

“Smoking Status and Metabolic Syndrome in the Multi-Ethnic Study of

Atherosclerosis. A cross-sectional study”, Tobacco Induced Diseases, 10(1),

pp.1-8.

72. Bộ Y tế (2015), Chiến lược quốc gia phòng chống bệnh không lây nhiễm giai

đoạn 2015 - 2025.

73. Stéphanie Harrison, Patrick Couture, Benoît Lamarche (2020), Diet Quality,

Saturated Fat and Metabolic Syndrome”, Nutrients, 12(11), pp.1-10.

74. Allison L. Unger, Moises Torres-Gonzalez, Jana Kraft (2019), “Dairy Fat

Consumption and the Risk of Metabolic Syndrome: An Examination of the

Saturated Fatty Acids in Dairy”, Nutrients, 11, pp.1-21.

75. World Health Organization (2018), Noncommunicable Diseases Country

Profiles 2018,pp.2-24.

76. Se Won Oh, Ho Seok Koo, Kum Hyun Han, Sang Youb Han, Ho Jun Chin

(2017), “Associations of sodium intake with obesity, metabolic disorder, and

albuminuria according to age”, Plos One, 15, pp.1-17.

77. Se Won Oh, Kum Hyun Han, Sang Youb Han, Ho Seok Koo, Suhnggwon

Kim, Ho Jun Chin (2015), “Association of Sodium Excretion With

Metabolic Syndrome, Insulin Resistance, and Body Fat”, Medicine,

94(39),pp.1-7.

78. Kyuwoong Kim, Yoonjung Chang (2021), “Association of dietary fiber

intake with metabolic syndrome among adult cancer survivors: a population-

based cross-sectional study”, Scientific Reports, 11(1), pp.1-8.

79. Jia-Ping Chen, Guo-Chong Chen, Xiao-Ping Wang, Liqiang Qin, Yanjie Bai

(2018), “Dietary Fiber and Metabolic Syndrome: A Meta-Analysis and

Review of Related Mechanisms”, Nutrients, 10(1), pp.1-17.

80. Trần Quang Bình, Phạm Trần Phương (2015), “Hội chứng chuyển hóa ở

người có chỉ số khối cơ thể bình thường tại cộng đồng tỉnh Hà Nam”, Y học

dự phòng, 168(8), tr.363-370.

81. Jonathan Myers, Peter Kokkinos, Eric Nyelin (2019), “Physical Activity,

Cardiorespiratory Fitness, and the Metabolic Syndrome”, Nutrients, 11(7),

pp.1-17.

82. Trang HHD Nguyen, Hong K Tang, Patrick Kelly, Hidde P van der Ploeg,

Michael J Dibley (2010), “Association between physical activity and

metabolic syndrome: a cross sectional survey in adolescents in Ho Chi Minh

City, Vietnam”, BMC Public Health, 10(141), pp.1-9.

83. Susan B Sisson, Sarah M Camhi, Timothy S Church, Catrine Tudor-

Locke, William D Johnson, Peter T Katzmarzyk (2010), “Accelerometer-

determined steps/day and metabolic syndrome”, Am J Prev Med., 38(6),

pp.575-582.

84. Hồ Thị Kim Thanh (2013), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ, tình trạng

kháng insulin và hiệu quả can thiệp ở người cao tuổi mắc hội chứng chuyển

hóa, Luận án tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

85. GSO, V.N., WHO, and University, H.M. (2016), National survey on the risk

factors of non-communicable diseases (STEPS) Viet Nam, 2015,

International Household Survey Network.

86. Healy, G., Wijndaele, K., Dunstan, D., Shaw, J., Salmon, J., Zimmet, P., and

Owen, N. (2008), “Objectively measured sedentary time, physical activity,

and metabolic risk: the Australian Diabetes, Obesity and Lifestyle Study

(AusDiab)”, Diabetes Care., 31(2),pp.369-371.

87. Wang, Y., Mi, J., Shan, X.-Y., Wang, Q.J., and Ge, K.-Y. (2007), “Is China

facing an obesity epidemic and the consequences? The trends in obesity and

chronic disease in China”, Int J Obesity., 31(1), pp.1770-188.

88. Aekplakorn, W., Kessomboon, P., Sangthong, R., Chariyalertsak, S.,

Putwatana, P., Inthawong, R., and Nitiyanant, W.T.S.N.I. study group

(2011), “Urban and rural variation in clustering of metabolic syndrome

components in the Thai population: results from the fourth National Health

Examination Survey 2009”, BMC Public Heal., 11(854), pp.1-9.

89. Amaya Lopez-Pascual, Maira Bes-Rastrollo, Carmen Sayón-Orea, Aurora

Perez-Cornago, Jesús Díaz-Gutiérrez, Juan J. Pons, Miguel A. Martínez-

González, Pedro González-Muniesa, J. Alfredo Martínez (2017), “Living at

a Geographically Higher Elevation Is Associated with Lower Risk of

Metabolic Syndrome: Prospective Analysis of the SUN Cohort”, Frontiers

in Physiololy, 7(658), pp.1-9.

90. Amaya Lopez-Pascual, Jéssica Arévalo, J. Alfredo Martínez, Pedro

González-Muniesa, (2018), “Inverse Association Between Metabolic

Syndrome and Altitude: A Cross-Sectional Study in an Adult Population of

Ecuador”, Frontiers in Endocrinololy, 9(658), pp.1-8.

91. Sze Mun Thor, Jun Wern Yau, Amutha Ramadas (2021), “Nutritional and

lifestyle intervention strategies for metabolic syndrome in Southeast Asia: A

scoping review of recent evidence”, PLoS One, 16(9), pp. 1-16.

92. Azizi, F., Mirmiran, P., Momenan, A.A., Hadaegh, F., Habibi Moeini, A.,

Hosseini, F., Zahediasl, S., Ghanbarian, A., Hosseinpanah, F., and Group,

M. of T.L. and G.S. (2013), “The effect of community-based education for

lifestyle intervention on the prevalence of metabolic syndrome and its

components: tehran lipid and glucose study”, International Journal of

Endocrinology and Metabolic, 11(3), pp.145-153.

93. Chee, H., Abu Saad, H., Mohd Yusof, B., and Mohd, M. (2014), “A

randomised controlled trial of a Facebook-based physical activity

intervention for government employees with metabolic syndrome”,

Malaysian Journal of Nutrition, 20, pp.165-181.

94. Chee, H., Abu Saad, H., Mohd Yusof, B., and Mohd, M. (2017),

“Effectiveness of physical activity intervention among government

employees with metabolic syndrome”, Journal of Exercise Science and

Fitnes, 15(2017), pp.55-62.

95. Bộ Y tế (2010), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị tăng huyết áp (Ban hành

kèm theo Quyết định số 3192/QĐ-BYT ngày 31/8/2010 của Bộ trưởng Bộ Y

tế).

96. Maria van Namen, Luke Prendergast, Casey Peiris (2019), “Supervised

lifestyle intervention for people with metabolic syndrome improves

outcomes and reduces individual risk factors of metabolic syndrome: A

systematic review and meta-analysis”, Metabolism, 101, pp.1-13.

97. Orchard, T.J., Temprosa, M., Goldberg, R., Haffner, S., Ratner, R.,

Marcovina, S., Fowler, S., and Group, D.P.P.R. (2005), “The effect of

metformin and intensive lifestyle intervention on the metabolic syndrome:

the Diabetes Prevention Program randomized trial”, Annals of Internal

Medicine, 142(8), pp.611-619.

98. Saboya, P.P., Bodanese, L.C., Zimmermann, P.R., Gustavo, A. da S.,

Macagnan, F.E., Feoli, A.P., and Oliveira, M. da S. (2017), “Lifestyle

Intervention on Metabolic Syndrome and its Impact on Quality of Life: A

Randomized Controlled Trial”, Arq. Bras. Cardiol., 108(1), pp.60-69.

99. Leila Jahangiry, Davoud Shojaeizadeh, Mahdieh Abbasalizad Farhangiet al

(2015), “Interactive web-based lifestyle intervention and metabolic

syndrome: Findings from the Red Ruby (a randomized controlled trial)”,

Trials, 16(1), pp.1-10.

100. Fujii, H., Haruyama, Y., Muto, T., Kobayashi, E., Ishisaki, K., and

Yamasaki, A. (2009), “High Attendance at a Lifestyle Intervention Program

Is Important to Reduce Risks Related to Metabolic Syndrome in Middle-

Aged Japanese”, Tohoku J. Exp. Med., 219(2), pp.155-164.

101. Van Dinh Tran, Anthony P James, Andy H Lee, Jonine Jancey, Peter A

Howat, Le Thi Phuong Mai (2017), “Effectiveness of a Community-Based

Physical Activity and Nutrition Behavior Intervention on Features of the

Metabolic Syndrome: A Cluster-Randomized Controlled Trial”, Metab.

Syndr. Relat. Disord., 15(2), pp.63-71.

102. Nguyễn Xuân Thủy, Nghiêm Hữu Thành, Đỗ Trung Quân (2016), “Đánh giá

sự thay đổi một số chỉ số sinh hóa ở người mắc hội chứng chuyển hóa sau

tác động can thiệp”, Y học Việt Nam, 2, tr.29-32.

103. Nguyễn Xuân Thủy, Nghiêm Hữu Thành, Cấn Văn Mão, Đỗ Trung Quân

(2016), “Hiệu quả can thiệp thói quen ăn uống, rèn luyện thể lực của người

mắc hội chứng chuyển hóa tại thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ”, Y dược học

quân sự, 9, tr.64-69.

104. Nguyễn Đức Công, Trương Thiện Niềm, Lê Sỹ Sâm, Lê Đình Thanh, Hoàng

Mạnh (2013), “Hiệu quả của sự can thiệp vào các yếu tố nguy cơ của hội

chứng chuyển hóa ở đối tượng cán bộ”, Y học thành phố Hồ Chí Minh, 17(3),

tr.16-23.

105. Lưu Ngọc Hoạt (2012), “Nghiên cứu khoa học trong y học, Quần thể và mẫu

nghiên cứu”, Trường Đại học Y Hà Nội, tr.60-88.

106. Viện Sốt Rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương (2017), Thống kê y

sinh học ứng dụng, Các khái niệm cơ bản về thống kê y sinh học, Giáo trình

giảng dạy sau đại học, Nhà xuất bản Y học, tr.5-42.

107. Alberti K.G.M.M., Immet P., Shaw I. (2007), “International Diabetes

Federation: a consensus on Type 2 diabetes prevention”, Diabetic Medicine,

24,pp.451-463.

108. World Health Organization (2012), Guideline: Sodium intake for adults and

children, pp.1-18.

109. World Health Organzation (2019), Healty Diet, pp.7-18.

110. Julier Miller Jones (2014), “CODEX-aligned dietary fiber definition help to

bridge the “fiber gap”, Jones Nutrition Journal, pp.13-34.

111. Ryan Ng, Rindu Sutradhar, Zhan Yao, Walter P Wodchis, Laura C Rosella

(2020), “Smoking, drinking, diet and physical activity-modifiable lifestyle

risk factors and their associations with age to first chronic disease”,

International Journal of Epidemiology, 49(1), pp.113-130.

112. Firstbeat Technologies (2018), Analysis of Health and Fitness Benefits of

Physical Activity Based on Heart Rate Measurements, 3,pp.1-8.

113. Liên đoàn đái tháo đường quốc tế khu vực Tây Thái Bình Dương (2005), Đái

tháo đường typ 2: Mục tiêu thực hành và điều trị bệnh Đái tháo đường typ

2, 4,tr.20-23.

114. Nguyễn Thị Lâm, Phạm Thị Thu Hương (2008), “Hướng dẫn chế độ ăn cho

người bệnh đái tháo đường theo đơn vị chuyển đổi thực phẩm”, Nhà xuất

bản Y học, Hà Nội.

115. Internationnal Diabetes Federation (2012), Global Guideline for Type 2

Diabetes.

116. Trần Thị Phượng, Hoàng Trung Vinh (2007), “Nghiên cứu một số yếu tố liên

quan đến Hội chứng chuyển hóa”, Tạp chí Y học Quân sự, 32(4), tr.59-64.

117. Lưu Cảnh Toàn, Nguyễn Tùng Linh, Nguyễn Minh Phương (2013), “Nghiên

cứu hội chứng chuyển hóa ở phi công quân sự trên 35 tuổi”, Tạp chí Y - Dược

học quân sự, 3,tr.1-5.

118. Võ Thị Dễ, Lê Thanh Liêm (2013), “Tần suất và đặc điểm hội chứng chuyển

hóa trong cộng đồng tỉnh Long An năm 2010”, Y học thực hành, 856(1),

tr.13-16.

119. Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đức Công, Trương Thiện Niềm (2013), “Đặc

điểm hội chứng chuyển hóa ở đối tượng cán bộ thuộc diện quản lý của Ban

BVCSSKCB tỉnh Bạc Liêu”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 17(3), tr.104-

107.

120. Nguyễn Quốc Việt, Tạ Văn Bình, Đoàn Thái Hưng, Nguyễn Thu Hiền

(2012), “Nghiên cứu hộ chứng chuyển hóa tại một số khu vực nội thành Hà

Nội theo tiêu chuẩn IDF-2005”, Y học thực hành, 6(825), tr.129-132.

121. Đỗ Văn Lương, Trần Đình Thoan, Lương, V.M., Lê, T.T., Hà, T.S., Nguyễn,

Đ.H. (2015), “Thực trạng mắc hội chứng chuyển hóa và một số yếu tố liên

quan ở người trưởng thành tại huyện Vũ Thư, Thái Bình năm 2013”, Dinh

dưỡng và thực phẩm, 8(168), tr.363-369.

122. Nguyễn Thị Trung Thu, Trần Quang Bình (2017), “Hội chứng chuyển hóa

và yếu tố nguy cơ ở người trung niên bị tiền đái tháo đường”, Tạp chí Khoa

học ĐHQGHN: Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, 33(1), tr.67-73.

123. Vera Regitz-Zagrosek, Elke Lehmkuhl, Martin O. Weickert (2006), “Gender

differences in the metabolic syndrome and their role for cardiovascular

disease”, Clinical Research in Cardiology, 95, pp.136-147.

124. Angela Cozma, Adela Sitar-Taut, Laura Urian, Adriana Fodor, Ramona

Suharoschi, Crina Muresan, Vasile Negrean, Dorel Sampelean, Dumitru

Zdrenghea, Dana Pop, Leucuta Daniel, Olga Hilda Orasan (2018),

“Unhealthy lifestyle and the risk of metabolic syndrome- the Romanian

experience”, Journal of Mind and Medical Science, 5(2), pp.218-229.

125. Jason L. Vassy, Peter Shrader, Quanhe Yang, Tiebin Liu, Ajay Yesupriya,

Man-huei Chang, Nicole F. Dowling, Rene´ e M. Ned, Jose´ e Dupuis, Jose

C. Florez, Muin J. Khoury, James B. Meigs (2011), “Genetic Associations

with Metabolic Syndrome and Its Quantitative Traits by Race/Ethnicity in

the United States, Metabolic syndrome and related Disorders”, 9(6), pp.475-

482.

126. Trần Thừa Nguyên, Trần Hữu Dàng, Trần Đức Minh, Trần Quang Nhật

(2020), “Khảo sát các thành tố của hội chứng chuyển hóa và xác định nồng

độ Ferritin huyết thanh ở bệnh nhân hội chứng chuyển hóa”, Nội tiết và đái

tháo đường, 38, tr.60-66.

127. Đỗ Văn Lương, Nguyễn Đỗ Huy, Lê Danh Tuyên, Trần Quang Bình, Bùi

Thị Nhung, Trần Ngọc Lương (2018), “Hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân

đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa huyện Vũ Thư

tỉnh Thái Bình năm 2016”, Tạp chí Y học dự phòng, 28(1), tr.146-152.

128. Nguyễn Văn Chương, Lê Việt Thắng, Nguyễn Hữu Việt (2021), “Đặc điểm

hội chứng chuyển hóa ở cán bộ công nhân viên tổng công ty xây dựng số 1”,

Tạp chí Y dược thực hành, 26, tr.13-20.

129. Elizabeth Henny Herningtyas, Tian Sheng Ng (2019), “Prevalence and

distribution of metabolic syndrome and its components among provinces and

ethnic groups in Indonesia”, BMC Public Health, 2019, pp.1-12.

130. Trần Kim Trang, Trương Phan Thu Loan (2012), “Hội chứng chuyển hóa ở

người cao tuổi”, Y học thành phố Hồ Chí Minh, 16(1), tr.82-86.

131. Suresh Mehata, Nipun Shrestha, Ranju Kumari Mehta, Bihungum Bista,

Achyut Raj Pandey, Shiva Raj Mishra (2018), “Prevalence of the Metabolic

Syndrome and its determinants among Nepalese adults: Findings from a

nationally representative cross-sectional study”, Scientific Report, 2018,

pp.1-10.

132. Abla Sibai, Rania A. Tohme, Ziyad Mahfoud, Monique Chaaya (2009),

“Non-communicable Diseases and Behavioral Risk Factor Survey

Comparison of estimates based on cell phone interviews with face to face

interviews”, World Health Organization-Lebanon office, 2009, pp.1-33.

133. Bjørn Hildrum, Arnstein Mykletun, Torstein Hole, Kristian Midthjell, Alv A

Dahl (2007), “Age-specific prevalence of the metabolic syndrome defined

by the International Diabetes Federation and the National Cholesterol

Education Program: the Norwegian HUNT 2 study”, BMC Public Health,

7(1), pp.1-9.

134. Brian T. Palmisano, Lin Zhu, Robert H. Eckel, John M. Stafford (2018),

“Sex differences in lipid and lipoprotein metabolism”, Molecular

Metabolism, 15(2018), pp.45-55.

135. Ingrid S. K. Krishnadath, Vincent W. V. Jaddoe, Lenny M. Nahar-van

Venrooij, Jerry R. Toelsie (2016), “Ethnic differences in prevalence and risk

factors for hypertension in the Suriname Health Study: a cross sectional

population study”, Population Health Metric, 14(33), pp.1-11.

136. Lê Quang Minh, Nguyễn Minh Tuấn, Phạm Thị Hồng Vân (2009), “Phát

hiện rối loạn glucose máu và đái tháo đường typ 2 tại tỉnh Bắc Kạn”, Y học

thực hành, 675(9), pp.2-5.

137. Min-Seok Shin, Jea-Young Lee (2022), “Building a Nomogram for

Metabolic Syndrome Using Logistic Regression with a Complex Sample-A

Study with 39,991,680 Cases”, Healthare, 10(372), pp.1-11.

138. Heng Guo, Xiang Gao, Rulin Ma, Jiaming Liu, Yusong Ding, Mei Zhang,

Jingyu Zhang, Lati Mu, Jia He, Yizhong Yan, Jiaolong Ma, Shuxia Guo,

Sheng Wei (2017), “Prevalence of Metabolic Syndrome and its Associated

Factors among Multi-ethnic Adults in Rural Areas in Xinjiang, China”,

Scientific Reports, pp.1-9.

139. Meng-Ting Tsou (2017), “Association of Education, Health Behaviors,

Concerns, and Knowledge with Metabolic Syndrome among Urban Elderly

in One Medical Center in Taiwan. International Journal of Gerontology”,

2017; 11(3), pp.138-143.

140. Nguyễn Cảnh Phú (2013), “Nghiên cứu tình trạng mắc hội chứng chuyển

hóa ở cán bộ hưu trí tỉnh Nghệ An năm 2012”, Y học thực hành, 873 (6), tr.7-

10.

141. Teixeira de Paula, J.A., Costa Moreira, O., Diniz da Silva, C., Santos Silva,

D., and Dos Santos Amorim, P.R. (2015), “Metabolic syndrome prevalence

in elderly of urban and rural communities participants in the HIPERDIA in

the city of Coimbra/MG, Brazil”, Invest Educ Enferm, 33(2), pp.325-333.

142. Young-Ah Jung, Li-Ly Kang, Ha-Nui Kim, Hoon-Ki Park, Hwan-Sik

Hwang, Kye-Yeung Park (2018), “Relationship between Marital Status and

Metabolic Syndrome in Korean MiddleAged Women: The Sixth Korea

National Health and Nutrition Examination Survey (2013 - 2014)”, Korean

Journal of Family Medicine, pp.307-312.

143. Yi Lin , Yan-Yan Ying, Si-Xuan Li, Si-Jia Wang, Qing-Hai Gong, Hui Li

(2017), “Association between alcohol consumption and metabolic syndrome

among Chinese adults”, Public Health Nutrition, 24(14), pp.4582-4590.

144. Min-Kyung Lee, Kyungdo Han, Mee Kyoung Kim, Eun Sil Koh, Eun Sook

Kim, Ga Eun Nam, Hyuk-Sang Kwon (2020), ”Changes in metabolic

syndrome and its components and the risk of type 2 diabetes: a nationwide

cohort study”, Scientific Reports, pp.1-8.

145. Ihab I. Al-khalifa, Shaimaa M. Mohammed, Zahraa M. Ali (2016),

“Cigarette Smoking as a Relative Risk Factor for Metabolic Syndrome”,

Journal of Endocrinology & Metabolism, 6(6), pp.178-182.

146. Mijin Lee, Miso Lim, Jihye Kim (2019), “Fruit and vegetable consumption

and the metabolic syndrome: a systematic review and dose–response meta-

analysis”, Bristish Journal of Nutrition, 122(7), pp.723-733.

147. Adrian J Cameron, Jonathan E Shaw, Paul Z Zimmet (2004), “The metabolic

syndrome: prevalence in worldwide populations”, Endocrinology and

Metabolism Clinics of North America, 33(2), pp.351-375.

148. Kashif Shafique, Saira Saeed Mirza, Muhammad Kashif Mughal , Zain Islam

Arain, Naveed Ahmed Khan, Muhammad Farooq Tareen, Ishtiaque Ahmad

(2012), “Water-pipe smoking and metabolic syndrome: a population-based

study”, PLoS One, 7(7), pp.1-6.

149. Takashi Wada, Mitsuyoshi Urashima, Tsutomu Fukumoto (2007), “Risk of

metabolic syndrome persists twenty years after the cessation of smoking”,

Internal Medicine, 46(14), pp.1079-1082.

150. Gorber, S.C., Schofield-Hurwitz, S., Hardt, J., Levasseur, G., and Tremblay,

M. (2009), “The accuracy of self-reported smoking: a systematic review of

the relationship between self-reported and cotinine-assessed smoking

status”, Nicotine and Tobacco Research, 11(1), pp.12-24.

151. Terry Bush, Jennifer C. Lovejoy, Mona Deprey, Kelly M. Carpenter (2016),

“The effect of tobacco cessation on weight gain, obesity, and diabetes risk”,

Obesity (Silver Spring)., 24(9), pp.1834-1841.

152. An Pan, Yeli Wang, Mohammad Talaei, Frank B Hu, Tangchun Wu (2015),

“Relation of active, passive, and quitting smoking with incident type 2

diabetes: a systematic review and meta-analysis”, The Lancet. Diabetes

Endocrinology, 3(12), pp.958-967.

153. Unai Tamura, Taichiro Tanaka, Tomonori Okamura, Takashi Kadowaki,

Hiroshi Yamato, Hideo Tanaka, Masakazu Nakamura, Akira Okayama,

Hirotsugu Ueshima, Zentaro Yamagata (2010), “Changes in Weight,

cardiovascular risk factors and estimated risk of coronary heart disease

following smoking cessation in Japanese male workers: HIPOP-OHP study”,

Journal of Atherosclerosis and Thrombosis, 17(1), pp.12-20.

154. Deborah Lycett, Linda Nichols, Ronan Ryan, Amanda Farley, Andrea

Roalfe, Mohammed A Mohammed, Lisa Szatkowski, Tim Coleman, Richard

Morris, Andrew Farmer, Paul Aveyard (2015), “The association between

smoking cessation and glycaemic control in patients with type 2 diabetes: a

THIN database cohort study”, The Lancet. Diabetes Endocrinology, 3(6),

pp.423-430.

155. Sun Woo Kim, Ho Jun Kim, Kyungha Min et al. (2021), “The relationship

between smoking cigarettes and metabolic syndrome: A cross-sectional

study with non-single residents of Seoul under 40 years old”, PLoS One,

pp.1-10.

156. Alkerwi Ala’a, Boutsen Michel, Vaillant Michel, Albert Adelin, Guillaume

Michèle, Dramaix Michèle (2009), “Alcohol consumption and the

prevalence of metabolic syndrome: a meta-analysis of observational

studies”, Atherosclerosis, 204(2), pp.624-635.

157. Myung-Bae Park, Cheon-Kook Kang, Jung-Kyu Choi (2020), “Smoking

cessation is related to change in metabolic syndrome onset: A rural cohort

study”, Research Paper: Tobacco Induced Diseases, pp.1-8.

158. Muhammad Daniel Azlan Mahadzir, Kia Fatt Quek, Amutha Ramadas

(2020), “Nutrition and Lifestyle Behavior Peer Support Program for Adults

with Metabolic Syndrome: Outcomes and Lessons Learned from a

Feasibility Trial”, Nutrients, 12(4), pp.1-13.

159. World Health Organization (2011), Noncommunicable Diseases Country

Profiles.

160. Criqui, M.H. (1987), “Alcohol and hypertension: new insights from

population studies”, European Heart Journal, 8 (B), pp.19-26.

161. Suzana Shahar, Siti Nur'Asyura Adznam, Lai Kuan Lee, Noor Aini Mohd

Yusof, Noor Ibrahim Mohamed Sakian (2013), “A nutrition education

intervention for anthropometric and biochemical profiles of rural older

Malays with metabolic syndrome”, Public Health Nursing, 30(2), pp.140-

149.

162. Mora-Rodriguez, R., Ortega, J.F., Morales-Palomo, F., and Ramirez-

Jimenez, M. (2018), “Weight loss but not gains in cardiorespiratory fitness

after exercise- training predicts improved health risk factors in metabolic

syndrome”, Nutrition, Metabolism and Cardiovascular Diseases, 28(12),

pp.1267-1274.

163. World Health Organization (2000), Obesity : preventing and managing the

global epidemic : report of a WHO consultation.

164. Jensen, M.D., Ryan, D.H., Apovian, C.M., Ard, J.D., et al (2014), “2013

AHA/ACC/TOS guideline for the management of overweight and obesity in

adults: a report of the American College of Cardiology/American Heart

Association Task Force on Practice Guidelines and The Obesity Society”,

Circulation, 129(25 Suppl 2), pp.102-138.

165. Yumuk, V., Tsigos, C., Fried, M., Schindler, K., Busetto, L., Micic, D.,

Toplak, H., and Obesity, O.M.T.F. of the E.A. for the S. of (2015),

“European Guidelines for Obesity Management in Adults”, Obesity Facts,

8(6), pp.402-424.

166. Franz, M., Boucher, J., Rutten-Ramos, S., and VanWormer, J. (2015),

“Lifestyle weight-loss intervention outcomes in overweight and obese adults

with type 2 diabetes: a systematic review and meta-analysis of randomized

clinical trials”, Journal of The Academy of Nutrition and Dietetics, 115(9),

pp.1447-1463.

167. Yi-Lien Liu, Chia-Wen Lu, Leiyu Shi, Yiing-Mei Liou, Long-Teng Lee,

Kuo-Chin Huang (2015), “Low intensive lifestyle modification in young

adults with metabolic syndrome a community-based interventional study in

Taiwan”, Medicine (Baltimore), 94(22), pp.1-8.

168. Sang Hyun Park, Ji Sung Yoon, Kyu Chang Won, and Hyoung Woo Lee

(2012), “Usefulness of Glycated Hemoglobin as Diagnostic Criteria for

Metabolic Syndrome”, J Korean Med Sci, 27(9), pp.1057-1061.

169. Iván Cavero-Redondo, Vicente Martínez-Vizcaíno, Celia Álvarez-Bueno,

Cristina Agudo-Conde, Cristina Lugones-Sánchez, Luis García-Ortiz

(2019), “Metabolic Syndrome Including Glycated Hemoglobin A1c in

Adults: Is It Time to Change?”, Journal of Clinical Medicine, 8(12), pp.1-

11.

170. Chaiyasoot Kusuma, Rungnapha Sarasak, Banchamaphon Pheungruang,

Suwitcha Dawilai, Pornpoj Pramyothin, Adhiratha Boonyasiri, Orawan

Supapueng, Friedrich C. Jassil, Preyanuj Yamwong, Rachel L. Batterham

(2018), “Evaluation of a 12-week lifestyle education intervention with or

without partial meal replacement in Thai adults with obesity and metabolic

syndrome: a randomised trial”, Nutrition and Diabetes, 8(1), pp.1-11.

PHỤ LỤC 1

PHIẾU CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU

Đây là mẫu thông báo đồng ý tham gia nghiên cứu dành cho người lớn

trên 18 tuổi hoặc người bảo trợ (trong trường hợp không biết chữ hoặc bệnh)

được mời tham gia vào “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ lâm sàng ở bệnh

nhân có hội chứng chuyển hóa điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum và

hiệu quả một số biện pháp can thiệp” để xác định một số đặc điểm dịch tễ lâm

sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố nguy cơ hội chứng chuyển hóa ở bệnh

nhân tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum, đánh giá một số biện pháp can thiệp

điều trị kết hợp với truyền thông điều chỉnh hành vi lối sống ở bệnh nhân có

hội chứng chuyển hóa tại điểm nghiên cứu (2018-2019) nhằm đóng góp thông

tin cho nghiên cứu và hiệu quả điều trị hội chứng chuyển hóa tại Bệnh viện đa

khoa tỉnh Kon Tum từ đó để xuất các biện pháp can thiệp cũng như cung cấp

thông tin khoa học cho y văn trong nước và trên thế giới..

Người chủ trì nghiên cứu: ThS.BS. Lê Hữu Lợi.

Tên cơ quan: Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum.

Phiếu đồng ý này có hai phần:

I. Thông tin chung (chia sẻ thông tin về nghiên cứu giám sát cùng với bạn);

II. Phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu (để ký nếu bạn đồng ý tham gia).

Phần I: Thông tin chung

Tên tôi là Lê Hữu Lợi, đang làm việc tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum.

Hiện tôi đang nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ lâm sàng ở bệnh nhân có hội

chứng chuyển hóa điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum và hiệu quả một

số biện pháp can thiệp. Đây là bệnh không lây nhiễm rất phổ biến, tuy nhiên ít

được quan tâm so với tầm quan trọng của bệnh trong thực tế, có khuynh hướng

gia tăng nhanh, để lại nhiều gánh nặng bệnh tật nếu không được sớm chẩn đoán

và điều trị trong cộng đồng, bệnh có thể phát hiện sớm và can thiệp điều trị

khỏi bằng kết hợp truyền thông điều chỉnh hành vi lối sống và điều trị theo phác

đồ khuyến cáo. Mục đích của nghiên cứu là xác định một số đặc điểm dịch tễ

lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố nguy cơ hội chứng chuyển hóa ở bệnh

nhân tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum, đánh giá một số biện pháp can thiệp

điều trị kết hợp với truyền thông điều chỉnh hành vi lối sống.

Chúng tôi mời tất cả người được bác sĩ khám chẩn đoán mắc hội chứng

chuyển hóa đến khám tại Khoa Khám bệnh, Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum

trong thời gian 2018 - 2019 tham gia vào nghiên cứu để giúp đánh giá đặc điểm

lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả phác đồ điều trị. Tôi sẽ cung cấp thêm thông

tin cho bạn và mời bạn tham gia nghiên cứu này. Trước khi quyết định xem bạn

có tham gia hay không, bạn có thể trao đổi thêm với bất kỳ ai nếu bạn thấy phù

hợp (đặc biệt là nhân viên y tế). Nếu không hiểu thì nhắc tôi dừng lại và tôi sẽ

giải thích cho bạn hiểu. Nếu sau này bạn có vấn đề gì thì có thể hỏi tôi hoặc cán

bộ trong nhóm nghiên cứu.

Bạn tham gia nghiên cứu này là hoàn toàn tự nguyện. Nếu bạn không đồng

ý, bạn vẫn tiếp tục được điều trị bệnh từ bác sĩ chuyên khoa. Thậm chí, nếu bạn

đồng ý bây giờ nhưng sau này thay đổi ý định không tiếp tục nữa, bạn vẫn tiếp

tục được chữa bệnh.

Phần II: Chấp thuận tham gia nghiên cứu

Tôi đã được mời tham gia “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ lâm sàng

ở bệnh nhân có hội chứng chuyển hóa điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon

Tum và hiệu quả một số biện pháp can thiệp”. Tôi hiểu rằng tôi sẽ được khám,

xét nghiệm bệnh phẩm máu và nếu mắc hội chứng chuyển hóa, tôi sẽ được tư

vấn, điều trị bằng thuốc theo hướng dẫn.

Tôi cũng đã được thông báo là những nguy cơ chỉ ở mức tối thiểu là các

tác dụng ngoại ý hay các vết lấy máu bằng kim tiêm. Tôi đã nghe các quyền lợi

và trách nhiệm khi tham gia nghiên cứu. Người ta đã cho tôi tên của chủ trì

nghiên cứu - người mà tôi có thể dễ dàng liên hệ tại số điện thoại họ đã cho.

Chữ ký của người tham gia:

Tôi đã đọc hoặc nghe đọc các thông tin trên, tôi đã có dịp để hỏi và được

trả lời thoả đáng. Tôi đồng ý tự nguyện tham gia vào nghiên cứu này và hiểu

rằng tôi có quyền rút khỏi nghiên cứu vào bất kỳ lúc nào mà không ảnh hưởng

đến quá trình điều trị bệnh cho tôi.

Họ tên người tham gia:………..................................……Chữ ký:……………

Ngày…….tháng…………năm 201.........................

Chữ ký của người làm chứng:

Nếu bệnh nhân không tự đọc, người làm chứng đọc được phải ký. Nếu có

thể thì người này phải do bệnh nhân chọn và phải không liên quan gì tới nhóm

nghiên cứu. Tôi đã chứng kiến đọc đúng bản đồng ý tự nguyện tham gia. Tất

cả câu hỏi đã được trả lời. Tôi khẳng định đồng ý tự nguyện tham gia vào nghiên

cứu này.

Tên người làm chứng: _______________________________

Chữ ký người làm chứng: ___________________

Ngày: _____________________

Chữ ký của người nghiên cứu: Tôi đã đọc hoặc chứng kíến đọc đúng mẫu đồng

ý tham gia cho bệnh nhân và có cơ hội để hỏi tất cả câu hỏi. Tôi khẳng định

bệnh nhân đồng ý tự nguyện tham gia vào nghiên cứu này.

Tên người nghiên cứu: ______________________________

Chữ ký người nghiên cứu: _____________________

Ngày: ____________________

PHỤ LỤC 2

BẢN MÔ TẢ QUYỀN LỢI VÀ TRÁCH NHIỆM

ĐỐI VỚI ĐỐI TƯỢNG THAM GIA

Khi tiến hành nghiên cứu, những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn sẽ được nhóm

nghiên cứu giải thích kỹ về quyền lợi và nghĩa vụ của bệnh nhân mắc hội chứng

chuyển hóa tham gia vào nghiên cứu. Bệnh nhân chỉ được đưa vào nghiên cứu

nếu họ tình nguyện và cam kết tham gia thông qua bản cam kết chấp thuận. Họ

sẽ được khám bệnh, lập phiếu theo dõi và hồ sơ theo dõi, lấy mẫu bệnh phẩm

làm xét nghiệm cận lâm sàng theo quy trình khám chữa bệnh theo đúng quy

trình trong đề cương nghiên cứu.

Không được phát sinh chi phí hay lạm dụng xét nghiệm cận lâm sàng

nào thêm ngoài bệnh trái với quy trình khám chữa của ca bệnh và tuân thủ y

đức, dược đức.

Tất cả bệnh nhân được khám bệnh, xét nghiệm cận lâm sàng và tư vấn

kỹ đầy đủ, được bác sĩ trực tiếp hướng dẫn cho bệnh nhân điều chỉnh hành vi

lối sống, cách uống thuốc, theo dõi các tác dụng ngoại ý của thuốc, chế độ ăn

uống trong thời gian điều trị và theo dõi nghiên cứu, được giải thích chu đáo,

được quyền rút khỏi nghiên cứu bất cứ lúc nào nếu họ (bệnh nhân và người

thân và người giám hộ) không muốn hợp tác.

Về nghĩa vụ, bệnh nhân sẽ phải đến khám bệnh lại, làm xét nghiệm bệnh

phẩm mà cán bộ nghiên cứu đã hướng dẫn theo lịch hẹn, cũng như trả lời trung

thực các câu hỏi mà thầy thuốc hoặc cán bộ nghiên cứu hỏi và tư vấn khi theo

dõi.

Kon Tum, ngày …. tháng .... năm 20....

Nghiên cứu viên

Lê Hữu Lợi

PHỤ LỤC 3

BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ LÂM SÀNG

Ở BỆNH NHÂN CÓ HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA ĐIỀU

TRỊ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KON TUM VÀ HIỆU

QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP (2018 – 2019)

I.PHẦN HÀNH CHÍNH

Tuổi: Giới: - Họ và tên bệnh nhân:

- Tình trạng hôn nhân:

Nghề nghiệp: - Trình độ học vấn:

- Địa chỉ cư trú:

Thành thị □ Nông thôn □

- Dân tộc: Xê đăng □ Ba na □ Giẻ triêng □

Gia rai □ Brâu □ Rơ Măm □ Khác □

- Ngày nhập viện: Lý do nhập viện:

- Điện thoại:

- Số ID hồ sơ:

- Lần khám:

II. THĂM KHÁM VÀ HỎI BỆNH

2.1. Khám lâm sàng

- Cân nặng (kg): Chiều cao (cm): BMI:

- Vòng bụng (cm): Có tăng vòng bụng □

- Mạch (lần/phút):

- Huyết áp tâm thu/huyết áp tâm trương (mmHg): Có tăng huyết áp □

2.2. Một số yếu tố liên quan

Trước Sau

Yếu tố liên quan điều trị 6 tháng

Có Không Có Không

1 Ăn mặn

2 Ăn nhiều dầu, mỡ

3 Ăn ít rau, củ, quả…

4 Hút thuốc

5 Uống rượu, bia

6 Thói quen tập thể dục

7 Khác:

……………………

III. THÔNG SỐ CẬN LÂM SÀNG

Trước Sau

Xét nghiệm cận lâm sàng điều trị 6 tháng

Công thức máu

Hồng cầu (tế bào/mm3)

Hemoglobin (g/dL)

Hematocrite (%)

Bạch cầu (tế bào/mm3)

Sinh hóa máu

Glucose

HbA1c

Acid Uric

U rê

Creatinin

SGPT

SGOT

GGT

Cholesterol

Trigliceride

HDL-C

LDL-C

IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ

Các thành Sau 6 tháng

phần của hội Bắt đầu Không khỏi chứng chuyển điều trị Khỏi bệnh bệnh hóa

3 thành phần

4 thành phần

5 thành phần

Ngày ..... tháng .... năm 20...

Bác sĩ điều trị

BS Lê Hữu Lợi

CÁC BIẾN SỐ TRONG NGHIÊN CỨU VÀ ĐỊNH NGHĨA

TT Tên biến số Định nghĩa và cách tính

- Tuổi: đơn vị tính bằng năm, xác định bằng năm

nghiên cứu trừ đi năm sinh, độ tuổi nghiên cứu từ 18

tuổi trở lên. Khi phân tích các YTNC, các đặc điểm

dịch tễ học của HCCH, chúng tôi phân loại 2 nhóm

tuổi: > 45 tuổi và ≤ 45 tuổi. Do tuổi từ 45 tuổi trở lên 1 Tuổi là YTNC cao của bệnh ĐTĐ, tiền ĐTĐ, một trong

những thành phần của HCCH nên IDF và ADA

khuyến cáo sàng lọc người từ 45 tuổi trở lên [107].

- Phân tích dịch tễ học theo nhóm tuổi cách nhau 10

tuổi để tìm hiểu nhóm tuổi có tỷ lệ HCCH cao nhất.

2 Giới Nam hoặc nữ

Dân tộc Kinh, Xê đăng, Ba na, Giẻ triêng, Khác (Gia 3 Dân tộc rai, Brâu, Rơ măm...).

Phân làm 2 nhóm: Nhóm lao động trí óc và nhóm lao

động chân tay:

+ Nhóm lao động trí óc gồm những người có hoạt

động thể lực nhẹ gồm những người lao động trí óc 4 Nghề nghiệp hoặc làm công việc hành chính, ít vận động các nghề

nghiệp: Sinh viên, Cán bộ, Hưu trí....

+ Nhóm lao động tay chân gồm: lao động tay chân,

buôn bán, ...

Trong phân tích ảnh hưởng chúng tôi chia làm 4

Trình độ học nhóm tốt nghiệp: Tiểu học và trung học cơ sở; Trung 5 vấn học phổ thông; Trung cấp và cao đẳng; Đại học, sau

đại học.

6 Tình trạng Phân loại theo các tình trạng: Độc thân, lập gia

TT Tên biến số Định nghĩa và cách tính

hôn nhân đình, ly hôn, góa bụa.

Phân loại theo thành thị và nông thôn. Thành thị gồm

7 Nơi cư trú các phường trong thành phố, thị trấn tại các huyện;

Nông thôn: gồm các xã tại thành phố và huyện.

Thói quen ăn mặn (có/ không): là ước tính chế độ ăn Thói quen ăn 8 hàng ngày có lượng natri ≥ 2 g/ngày (tương đương mặn ≥ 5 g muối/ngày) ở người lớn [108].

Thói quen ăn ít dầu mỡ (có/ không): Là chế độ ăn có

hạn chế tổng năng lượng ăn vào từ chất béo dưới

30%. Chất béo không bão hòa (ví dụ có trong cá, bơ,

quả hạch, hướng dương, hạt cải và dầu ô liu) được

ưu tiên hơn chất béo bão hòa (ví dụ có trong thịt mỡ, Thói quen ăn 9 bơ, cọ và dầu dừa, kem, pho mát, bơ sữa trâu và mỡ ít dầu mỡ lợn). Chất béo chuyển hóa được sản xuất công

nghiệp (được tìm thấy trong thực phẩm chế biến,

thức ăn nhanh, thức ăn chiên, pizza đông lạnh, bánh

nướng, bánh quy, bơ thực vật và phết) không phải là

một phần của chế độ ăn uống lành mạnh [109].

Thói quen ăn ít chất xơ (có/ không): được tính bằng

Thói quen ăn tổng lượng xơ đưa vào cơ thể bao gồm: ≤ 5 gam rau 10 ít chất xơ sống/ngày kèm ≤ 3gam nước ép trái cây/ngày kèm 3

hạt ngũ cốc nguyên hạt kèm 3 hạt tinh chế [110].

Sử dụng + Có uống rượu, bia khi: Nam uống > 14 đơn vị

rượu bia, cồn/tuần; Nữ uống > 7 đơn vị cồn/tuần).

11 thức uống có + Không uống rượu bia khi: Nam uống ≤ 14 đơn vị

cồn cồn/tuần; Nữ uống ≤ 7 đơn vị cồn/tuần hoặc không

uống quá 2 đơn vị cồn trong bất kể ngày nào. (C2H5OH)

TT Tên biến số Định nghĩa và cách tính

+ Một đơn vị cồn được tính là một chai bia 341 mL

(5% cồn); một ly 142 mL rượu vang (12% cồn); một

khẩu phần 43 mL rượu mạnh (40% cồn); hoặc một

khẩu phần 85 mL rượu mạnh (18% cồn) [62].

+ Không hút thuốc lá: Là những người chưa bao giờ

hút thuốc lá hoặc đã từng hút ít hơn 100 điếu thuốc,

hiện tại không hút thuốc lá.

+ Hút thuốc lá:

 Đang hút thuốc lá: Là người đã từng hút thuốc, đã 12 Hút thuốc lá hút hơn 100 điếu thuốc lá trước đó và hiện tại trong

vòng 28 ngày vẫn đang hút thuốc lá.

 Đã từng hút thuốc lá: Là người đã từng hút thuốc,

đã hút hơn 100 điếu thuốc lá trước đó và hiện tại

trong vòng 28 ngày không còn hút thuốc lá [111].

+ Có hoạt động thể lực khi: Hoạt động thể chất ít

nhất 150 phút/tuần cường độ vừa phải hoặc 75 phút

hoạt động thể chất cường độ cao / tuần. Các hoạt

động bao gồm: Hoạt động sức bền: chạy, đi bộ

đường dài, đi xe đạp, bơi lội, chơi bóng; các bài tập Hoạt động sức mạnh và tính linh hoạt bao gồm ví dụ: tập thể 13 thể lực hình, tập thể dục nhóm (khiêu vũ, aerobics), tập thể

dục nặng, yoga, Pilates, kéo căng và các bài tập phối

hợp.

+ Không hoạt động thể lực: khi không đảm bảo tiêu

chuẩn trên [112].

Xác định tăng vòng bụng bằng vòng bụng theo phân 14 Vòng Bụng loại của Tổ chức Y tế thế giới cho người trưởng

TT Tên biến số Định nghĩa và cách tính

thành Châu Á năm 1998 khi vòng bụng ≥ 90 cm đối

với nam và ≥ 80 cm đối với nữ [2]. Đo bằng thước

dây không co dãn, kết quả được ghi theo cm với một

số lẻ. Vòng bụng đo tương ứng với điểm giữa của bờ

dưới xương sườn cuối với bờ trên mào chậu theo

đường nách giữa. Đối tượng đứng ở tư thế thoải mái,

hai tay buông thõng, vòng đo ở mặt phẳng nằm

ngang.

Chiều cao: được tính theo cm. Đo chiều cao đứng,

độ chia chính xác tới milimet. Đối tượng bỏ guốc

dép, đi chân không, đứng quay lưng vào thước đo.

Gót chân, mông, vai, chẩm theo một đường thẳng áp 15 Chiều cao sát vào thước đo, mắt nhìn thẳng, lưng thẳng, tay

buông thõng theo hai bên mình. Kéo chặn đầu của

thước từ trên xuống dưới đến khi áp sát đỉnh đầu,

nhìn vào thước đọc kết quả.

Cân nặng: được tính bằng đơn vị kg. Sử dụng cân

điện tử đã được kiểm định (độ chính xác 0,1 kg).

Trọng lượng cơ thể được ghi theo kg với một số lẻ.

Cân đối tượng thực hiện ngay khi bệnh nhân đang

còn nhịn đói, trước khi lấy máu. Khi cân chỉ mặc 16 Cân nặng quần áo gọn nhất, trừ bớt cân nặng trung bình của

quần áo khi tính kết quả. Đối tượng đứng thẳng giữa

bàn cân, không cử động, mắt nhìn thẳng, tay buông

2 bên thân, trọng lượng phân bố đều cả 2 chân, cân

được đặt ở vị trí ổn định và bằng phẳng, đủ ánh sáng.

17 Chỉ số khối Chỉ số khối cơ thể BMI (Body Mass Index) được

TT Tên biến số Định nghĩa và cách tính

cơ thể BMI tính [2]:

- Khai thác tiền sử về THA, cách thức điều trị hiện

18 Huyết áp tại của đối tượng nghiên cứu nếu bị THA.

- Phân loại THA theo Bộ Y tế [95].

Glucose máu tĩnh mạch lúc đói, đơn vị tính mg/dL

19 Glucose máu hoặc mmol/L. Giá trị bình thường < 100mg/dL (5,6

mmol/L) [2].

20 HbA1c HbA1c: bình thường 4,8-6,5% mmol/dL [2].

Trigliceride: bình thường < 150 mg/dL (1,7mmol/L) 21 Trigliceride [2].

HDL-C: nồng độ HDL-C bình thường ≥ 40 mg/dL

22 HDL-C (1,0 mmol/L) (đối với nam) hay ≥ 50 mg/dL (1,3

mmol/L) (đối với nữ) [2].

Cholesterol: nồng độ Cholesterol bình thường < 5,2 23 Cholesterol mmol/L [2].

LDL-C: nồng độ LDL-C bình thường ≤3,4 mmol/L 24 LDL-C [2].

PHỤ LỤC 4: MỘT SỐ HÌNH ẢNH NGHIÊN CỨU

Khám, tư vấn, đo vòng vụng, chiều cao, cân nặng

Các quy trình thực hành chuẩn (SOPs) tại

Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum

Các quy trình thực hành chuẩn (SOPs) tại

Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum

PHỤ LỤC 4: DANH SÁCH CHỈ SỐ TĂNG ĐƯỜNG HUYẾT CỦA

MỘT SỐ LOẠI THỰC PHẨM

1. Một số thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp, trung bình, cao:

2. Cơ cấu 1 thực đơn mẫu:

3. Tờ rơi hướng dẫn chế độ tập luyện sinh hoạt, sử dụng Tài liệu tuyên

truyền của Hội Nội tiết & Đái tháo đường Việt Nam, Hội Tim mạch học

Việt Nam để hướng dẫn cho bệnh nhân:

PHỤ LỤC 4: QUY TRÌNH KHÁM BỆNH TẠI KHOA KHÁM

1. Mục đích

- Thống nhất quy trình khám bệnh tại Khoa Khám bệnh của bệnh viện.

- Nhân viên khoa khám bệnh nắm được và thực hành thành thạo các quy

trình tiếp đón hướng dẫn vận chuyển người bệnh khám chữa bệnh tại khu khám

bệnh ngoại trú.

- Người bệnh biết rõ quy trình để cùng phối hợp với bệnh viện trong quá

trình thực hiện.

2. Phạm vi áp dụng

Quy trình này được áp dụng tại Khoa Khám bệnh viện đa khoa tỉnh

KonTum khi bệnh nhân đến khám và điều trị.

3. Trách nhiệm

3.1 Khoa Khám: phối hợp với nhân viên Tổ Công tác xã hội tổ chức đón

tiếp, hướng dẫn người bệnh và người nhà người bệnh đến khám đúng quy trình.

3.2 Các khoa lâm sàng: có trách nhiệm phân công bác sỹ ra khoa Khám

khám chữa bệnh ngoại trú.

3.3 Phòng tài chính kế toán: có trách nhiệm thanh quyết toán bệnh nhân

ngoại trú tại quầy thu viện phí, phối hợp với khoa kiểm tra số liệu thất thu hàng

ngày.

3.4 Khoa Dược: có trách nhiệm cấp phát thuốc cho bệnh nhân có đơn thuốc

ngoại trú, hướng dẫn cho người bệnh cách sử dụng thuốc an toàn, hợp lý.

4. Nguyên tắc chung, thuật ngữ và chữ viết tắt

4.1. Nguyên tắc chung:

- Người bệnh đến khám được tiếp cận thăm khám lâm sàng, cận lâm sàng

và dịch vụ kỹ thuật theo đúng chuyên môn yêu cầu.

- Bảo đảm tính hợp lý và công bằng giữa người bệnh có bảo hiểm và không

có bảo hiểm.

4.2. Chữ viết tắt:

- BHYT: Bảo hiểm y tế

- BN: bệnh nhân

- BSĐT: Bác sĩ điều trị

- CLS: Cận lâm sàng

- CMND: Chứng minh nhân dân

- ĐD: Điều dưỡng

- ĐD/HS: Điều dưỡng/ hộ sinh

- ĐDPK: Điều dưỡng phòng khám

- KTV: kỹ thuật viên

- LS: lâm sàng

- PHCN: Phục hồi chức năng

- TCTXH: Tổ công tác xã hội

5. Nội dung quy trình

QUY TRÌNH KHÁM BỆNH

Trách

Các bước thực hiện

Mô tả/ các bước liên quan

nhiệm

1. Tại bộ phận lấy số thứ tự chờ đăng ký khám

- Chủ động tiếp đón BN, ứng xử đúng mực và trả lời đầy đủ các câu hỏi của BN với thái độ ân cần lịch sự.

Nhân viên

- Kiểm tra, hướng dẫn các thủ tục

Tổ CTXH,

cần thiết khi vào khám bệnh:

ĐD/HS

+ Sổ khám chữa bệnh

Lấy số thứ tự , kiểm tra CMND và thẻ BHYT(Tầng 1)

+ Giấy chuyển tuyến hoặc giấy hẹn tái khám, CMND hoặc giấy tờ tùy thân có ảnh.

- Phân loại đối tượng ưu tiên theo

quy định

- Phát số thứ tự, kiểm tra thông tin

trên CMND và thẻ BHYT .

- Xác minh thông tin thẻ BHYT trên

cổng BHYT .

- Hướng dẫn BN lên Khoa Khám (Tầng 2), chờ gọi đăng ký khám theo số thứ tự.

2. Tại quầy đăng ký khám

- Tiếp nhận BN theo số thứ tự

Đăng ký khám bệnh

- Nhập thông tin BN vào máy tính, xác định phòng khám phù hợp, in và phát số thứ tự vào phòng khám

ĐD/HS

- Giữ thẻ BHYT đối với BN khám

BHYT

- Hướng dẫn BN mua phiếu khám tại Buồng thu viện phí đối với BN không có thẻ BHYT

- Hướng dẫn BN đến phòng khám

chuyên khoa chờ khám theo số thứ tự hiển thị trên màn hình tivi của phòng khám chuyên khoa đó.

3. Tại buồng khám bệnh

- ĐDPK mời BN vào khám theo số

thứ tự.

- Chào hỏi, giới thiệu tên, chức danh

ĐD/HS

Tiếp nhận người bệnh tại phòng khám chuyên khoa

với BN

- Tiếp nhận BN, nhận định tình trạng BN, đo dấu hiệu sinh tồn, thông báo và mời BS khám.

- Chào hỏi, giới thiệu tên chức danh

với BN.

- Hỏi bệnh, khám lâm sàng

Khám và điều trị

- Chẩn đoán bệnh, kê đơn hoặc chỉ

Bác sỹ

định các CLS

- Giải thích tình trạng BN, hướng dẫn uống thuốc theo đơn, chế dộ ăn uống, nghỉ ngơi, chăm sóc hợp lý (đối với BN cấp toa ngoại trú).

- Thông báo BN có chỉ định làm

CLS

ĐD/HS

Thực hiện y lệnh

- Hướng dẫn BN đi làm các CLS (đóng tiền viện phí trước đối với BN không thẻ BHYT) .

4. Tại/bộ phận khoa/buồng CLS

- Nhận chỉ định CLS từ BN/NVYT

- Hướng dẫn BN chuẩn bị làm các

Thực hiện CLS

CLS theo chỉ định

KTV/ ĐD

- Thực hiện CLS và hẹn BN theo

phiếu hẹn (Khoa xét nghiệm).

- Trả kết quả trực tiếp cho BN đối với các phòng khám: Sản, Đông Y, PHCN, Lao

- Hướng dẫn bệnh nhân nhận kết

quả tại pk nơi chỉ định cận lâm sàng.

5. Kết thúc quá trình khám bệnh

- ĐDPK tiếp nhận kết quả và mời

BN vào khám theo số thứ tự

- BSPK xem kết quả CLS, chẩn đoán bệnh và chỉ định nhập viện hoặc kê đơn.

* Trường hợp kê đơn:

Tiếp nhận kết quả

CLS

BS/ĐD/HS

+ BS nhập thuốc, in đơn thuốc và hướng dẫn BN uống thuốc theo đơn, chế dộ ăn uống, nghỉ ngơi, chăm sóc hợp lý.

+ ĐDPK hướng dẫn người bệnh

đến quầy thanh toán viện phí.

* Trường hợp nhập viện:

+ BS giải thích cho người bệnh,

làm hồ sơ nhập viện.

+ ĐDPK hoàn tất các thủ tục nhập

viện.

+ Bàn giao BN và HSBA hồ sơ bệnh án cho Điều dưỡng quầy tiếp đón.

- Tiếp nhận BN và hồ sơ, chuyển

bệnh nhân vào khoa điều trị

Tiếp nhận hồ sơ và

- Bàn giao BN cho điều dưỡng

ĐD/HS

khoa lâm sàng.

chuyển BN vào khoa điều trị

- Ký nhận sổ giao nhận người

bệnh.

6. Tại/bộ phận quầy thu viện phí

Thanh toán và nộp %

Nhân viên

- BN đến quầy thu viện phí nộp gồm: bảng kê thanh toán, giấy chuyển tuyến hoặc giấy hẹn tái khám, các cận lâm sàng, tất cả đơn thuốc.)

cùng chi trả

kế toán

- Kế toán hướng dẫn người bệnh ký ghi rõ họ và tên, mối quan hệ với

người bệnh vào bảng kê thanh toán.

- Trường hợp người bệnh không kê

đơn thuốc:

Trả thẻ BHYT

ĐD/HS

+ NVKT: sau khi thanh toán cho BN, chuyển phiếu khám cho ĐDKK và trả thẻ BHYT cho BN tại quầy viện phí.

- Trường hợp BN có kê đơn thuốc,

+ NVKT: Sau khi thanh toán, hướng

dẫn BN ngồi chờ nhận thuốc.

+ ĐDKK kẹp thẻ BHYT vào sổ khám bệnh cùng với đơn thuốc, chuyển sang quầy cấp thuốc.

7. Tại Quầy cấp phát thuốc

- Tiếp nhận sổ khám bệnh có kẹp thẻ BHYT và đơn thuốc có dấu viện phí .

- Nhập đơn thuốc trên máy vi tính và

tiến hành cấp phát thuốc.

Dược sỹ

Cấp phát thuốc BHYT

- Gọi tên người bệnh, giao thuốc và các giấy tờ của người bệnh bao gồm: (sổ khám bệnh, thẻ BHYT, đơn thuốc).

- Hướng dẫn BN kiểm tra thuốc, đơn

thuốc và thẻ BHYT trước khi ra về.

6. Lưu trữ hồ sơ

- Khoa khám

- Các phòng khám

- Phòng Quản lý chất lượng

7. Tài liệu liên quan

Tên tài liệu

Mã tài liệu

1.Quy trình khám bệnh tại Khoa khám

KB - QTQL-01

8. Tài liệu tham khảo

- Quyết định số 59/QĐ-BVT ngày 06/8/2015 về việc ban hành quy trình

chuyên môn kỹ thuật bệnh viện của Giám đốc bệnh viện đa khoa tỉnh KonTum.

- Quyết định số: 1313/QĐ-BYT ngày 22/04/2013 của Bộ y tế về việc ban

hành hướng dẫn quy trình khám bệnh tại khoa Khám bệnh của Bệnh viện.

4.2. QUY TRÌNH KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN TĂNG HUYẾT

ÁP

4.3. QUY TRÌNH KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN RỐI LOẠN LIPID

MÁU

4.4. QUY TRÌNH KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN TĂNG GLUCOSE

MÁU

PHỤ LỤC 5

PHỤ LỤC 6

MẪU BÁO CÁO TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA THUỐC

Mã số bệnh nhân

Ngày tháng năm đến khám

Nghiên cứu số:

Ngày

Điểm nghiên cứu: Khoa Khám bệnh, Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum.

Số 224, Đường Bà Triệu, Phường Quang Trung, Thành phố Kon Tum, Tỉnh Kon Tum.

Người báo cáo:

Hoặc tuổi ước đoán:

Ngày sinh

Ngày tháng năm Giới tính (đánh ☑):  Nam  Nữ

Chiều cao: cm Cân nặng: kg

. .

. .

MÔ TẢ ĐẶC ĐIỂM TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA THUỐC

Thời gian xảy ra:

Tử vong  Đe doạ sự sống  Nhập viện  Tàn tật lâu dài  Dị tật bẩm sinh

Hoặc nằm viện kéo dài  Hoặc khuyết tật khi sinh 

Mô tả tác dụng không mong muốn (bao gồm tất cả kết quả xét nghiệm phù hợp):

Mô tả phản ứng đã được xử lý như thế nào:

Tiền sử dùng thuốc liên quan trước đó:

Kết quả sau xử lý:

Khỏi hoàn toàn  Chưa khỏi  Khỏi nhưng để lại hậu quả lâu dài 

Ngày khỏi:

THUỐC (Danh sách thuốc nghi là gây ADR và các thuốc có cùng tác dụng)

Tên thương mại và số lô

Liều trong

Cách

Ngày bắt

Ngày

Lý do

ngày

dùng

đầu

ngừng

sử dụng

(nêu tên thuốc nghi ngờ trước)

thuốc