VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
HÀ QUANG ÁNH
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP VÀ ĐẶC TRƯNG VẬT LIỆU MỚI
CẤU TRÚC NANO TRÊN CƠ SỞ GRAPHEN ỨNG DỤNG
TRONG XỬ LÍ MÔI TRƯỜNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
Hà Nội, 2016
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
HÀ QUANG ÁNH
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP VÀ ĐẶC TRƯNG VẬT LIỆU MỚI
CẤU TRÚC NANO TRÊN CƠ SỞ GRAPHEN ỨNG DỤNG
TRONG XỬ LÍ MÔI TRƯỜNG
Chuyên ngành: Hóa lý thuyết và Hóa lý
Mã số: 62.44.01.19
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Vũ Anh Tuấn
2. TS. Vũ Đình Ngọ
Hà Nội, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi và không trùng lặp
với bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các số liệu kết quả là trung thực, một số
kết quả trong luận án là kết quả chung của nhóm nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Vũ Anh Tuấn – Viện Hóa học – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam.
Hà Nội, ngày 01 tháng 4 năm 2016
Tác giả luận án
Hà Quang Ánh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, sự cảm phục và kính trọng tới PGS. TS.
Vũ Anh Tuấn và TS. Vũ Đình Ngọ – những người Thầy đã tận tâm hướng dẫn khoa
học, định hướng nghiên cứu để luận án được hoàn thành, đã động viên khích lệ và
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Viện Hóa học, Học viện Khoa học
và Công nghệ – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cùng các cán bộ
trong Viện, Học viện đã quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
quá trình học tập và nghiên cứu thực hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ, nhân viên phòng Hóa học Bề mặt - Viện Hóa học đã luôn giúp đỡ, ủng hộ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cũng như những đóng góp về chuyên môn cho tôi trong suốt quá trình thực hiện và bảo vệ
luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường Đại học Công
nghiệp Việt Trì, lãnh đạo Khoa Công nghệ Hóa học và các đồng nghiệp trong Khoa
Công nghệ Hóa học đã tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất đến gia đình, người thân và
bạn bè đã luôn quan tâm, khích lệ, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian thực hiện luận án này.
Tác giả luận án
Hà Quang Ánh
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, KÝ HIỆU DANH MỤC HÌNH VẼ DANH MỤC BẢNG MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ................................................................................ 4
1.1. Giới thiệu chung về vật liệu trên cơ sở cacbon ............................................. 4 1.1.1. Kim cương và graphit ............................................................................................................... 4
1.1.2. Vật liệu cacbon cấu trúc nano ................................................................................................ 5
1.2. Vật liệu graphen và graphen oxit ................................................................. 10 1.2.1. Cấu trúc của graphen [18] ................................................................................................... 10
1.2.2. Cấu trúc graphen oxit (GO) ................................................................................................. 10
1.2.3. Tâm hoạt động của graphen và graphen oxit ................................................................. 12
1.2.4. Các phương pháp tổng hợp GO ......................................................................................... 13
1.2.5. Các phương pháp tổng hợp graphen ................................................................................. 15
1.2.6. Các vật liệu nano composit có từ tính trên cơ sở GO, rGO ....................................... 26
1.3. Ứng dụng và triển vọng của các vật liệu nghiên cứu trong hấp phụ chất màu hữu cơ và các ion kim loại nặng ......................................................................... 33 1.3.1. Ứng dụng của các vật liệu GO, rGO trong hấp phụ chất màu và các ion kim loại nặng . 33
1.3.2. Ứng dụng của vật liệu composit trên cơ sở GO, rGO trong hấp phụ .................... 36
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ THỰC NGHIỆM ........ 39
2.1. Thực nghiệm ................................................................................................ 39 2.1.1. Hóa chất ..................................................................................................................................... 39
2.1.2. Tổng hợp vật liệu graphit oxit ............................................................................................. 39
2.1.3. Tổng hợp vật liệu GOSA, GOVS và rGO ...................................................................... 40
2.1.4. Tổng hợp vật liệu nano composit Fe3O4-GOVS ........................................................... 42
2.1.5. Xác định điểm đẳng điện của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS [70] ................. 45
2.1.6. Đánh giá khả năng hấp phụ thuốc nhuộm hoạt tính RR195...................................... 45
2.1.7. Đánh giá khả năng hấp phụ As (V) ................................................................................... 46
2.1.8. Đánh giá khả năng hấp phụ Cu(II), Cd(II) ...................................................................... 47
2.1.9. Đánh giá khả năng tái sinh của vật liệu từ tính Fe-Fe3O4-GOVS ............................ 47
2.2. Tính toán quá trình hấp phụ ......................................................................... 47
2.2.1. Tính toán hiệu suất quá trình hấp phụ ............................................................................... 47
2.2.2. Một số mô hình đẳng nhiệt hấp phụ [71, 72] ................................................................. 48
2.2.3. Động học quá trình hấp phụ [71, 72] ................................................................................ 49
2.3. Phương pháp nghiên cứu đặc trưng vật liệu ................................................ 50 2.3.1. Phương pháp nhiễu xạ Rơnghen (X-ray diffraction, XRD) [72, 73] ...................... 50
2.3.2. Phương pháp phổ hồng ngoại biến đổi Fourier-FTIR [75] ........................................ 52
2.3.3. Phương pháp phổ điện tử quang tia X (XPS) ................................................................. 52
2.3.4. Phương pháp phổ tán sắc năng lượng tia X (EDX) ..................................................... 53
2.3.5. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (TEM) và kính hiển vi điện tử truyền
qua phân giải cao (HR-TEM) ......................................................................................................... 55
2.3.6. Phương pháp hiển vi điện tử quét phân giải cao (FE-SEM) ...................................... 56
2.3.7. Phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ- khử hấp phụ N2 (BET) [72] ............................... 56
2.3.8. Phương pháp phổ hấp thụ tử ngoại và khả kiến UV - Vis [73] ................................ 58
2.3.9. Phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS) [76]............................................ 59
2.3.10. Phương pháp xác định từ tính vật liệu bằng thiết bị từ kế mẫu rung .................... 60
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .................................................... 61
3.1. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp GO và rGO ........... 61 3.1.1. Giản đồ XRD của graphit ban đầu và sau quá trình oxy hóa .................................... 61
3.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình bóc lớp graphit oxit sử dụng kỹ thuật vi
sóng và kỹ thuật siêu âm ................................................................................................................... 62
3.1.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình khử GOVS về rGO ...................................... 69
3.2. Đặc trưng vật liệu GO và rGO tổng hợp được ............................................ 70 3.2.1. Phương pháp nhiễu xạ tia (XRD) ...................................................................................... 70
3.2.2. Phổ hồng ngoại chuyển dịch Fourier (FTIR) ................................................................. 71
3.2.3. Kính hiển vi điện tử truyền qua độ phân giải cao (HR –TEM) ................................ 72
3.2.4. Hấp phụ và khử hấp phụ Nitơ (BET) ............................................................................... 74
3.2.5. Phổ điện tử quang tia X (XPS) ........................................................................................... 75
3.3. Khảo sát một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp Fe3O4-GOVS . 78 3.3.1. Khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng đồng kết tủa ........................................... 79
3.3.2. Ảnh hưởng nồng độ đầu ....................................................................................................... 83
3.3.3. Ảnh hưởng pH ......................................................................................................................... 87
3.3.4. Ảnh hưởng của tốc độ khuấy .............................................................................................. 88
3.4. Tổng hợp vật liệu Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS ................................ 90
3.5. Đặc trưng vật liệu Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS................................. 91 3.5.1. Nghiên cứu nhiễu xạ tia X (XRD) ..................................................................................... 91
3.5.2. Kính hiển vi điện tử truyền qua TEM và kính hiển vi điện tử truyền qua độ phân
giải cao HR-TEM ............................................................................................................................... 92
3.5.3. Phổ hồng ngoại chuyển dịch Fourier (FTIR) ................................................................. 93
3.5.4. Phổ tán sắc năng lượng tia X (EDX) của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS .... 94
3.5.5. Hấp phụ và khử hấp phụ Nitơ (BET) của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS ... 95
3.5.6. Phổ quang điện tử tia X (XPS) của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS ............... 96
3.5.7. Từ tính của vật liệu Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS ............................................. 98
3.6. Đánh giá khả năng hấp phụ của GOSA, GOVS và rGO ............................. 99 3.6.2. Động học quá trình hấp phụ RR195 trên GOVS và rGO ........................................ 106
3.7. Đánh giá khả năng hấp phụ của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS ......... 110 3.7.1. Đánh giá khả năng hấp phụ RR195 của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS .... 110
3.7.2. Hấp phụ ion kim loại nặng Cu(II) và Cd(II) ................................................................. 111
3.7.3. Hấp phụ As(V) trên vật liệu GOVS, Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS ........... 121
3.8. Đánh giá khả năng tái sử dụng của vật liệu ............................................... 128
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 132
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ……………………….. 134
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN ........................................................... 135
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 136
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 150
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, KÝ HIỆU
Atomic Absorption Spectroscopy (Phổ hấp thụ nguyên tử) AAS
Atomic (Nguyên tử) At
Brunauer-Emmett-Teller BET
Carbon nanotubes (Ống nano cacbon) CNTs
Chemical Vapor Deposition (Lắng đọng pha hơi hóa học) CVD
Energy-dispersive X-ray spectroscopy (Phổ tán xạ năng lượng tia X) EDX
FE-SEM Field emission - Scanning electron microscopy (Kính hiển vi
điện tử quét phát xạ trường)
Fe3O4-GOVS Fe3O4 trên GOVS
Fe-Fe3O4-GOVS Fe, Fe3O4 trên GOVS
FTIR Fourier transform infrared spectroscopy (Phổ hồng ngoại
biến đổi Fourie)
Graphene oxit (Graphen oxit) GO
Graphen oxit bóc lớp bằng vi sóng GOVS
Graphen oxit bóc lớp bằng siêu âm GOSA
HR-TEM High Resolution -Transmission Electron Microscopy (Kính
hiển vi điện tử truyền qua độ phân giải cao)
Vật liệu composit có từ tính trên rGO M-rGO
Vật liệu composit có từ tính trên GO M-GO
Reduced graphene oxide (Graphen oxit khử) rGO
Reactive Red 195 (Thuốc nhuộm đỏ hoạt tính RR195) RR195
Scanning Electron Microscopy (Kính hiển vi điện tử quét) SEM
Ultraviolet - Visible (Phổ tử ngoại khả kiến) UV-vis
Transmission Electron Microscopy (Hiển vi điện tử truyền qua) TEM
Vibrating sample magnetometry (Từ kế mẫu rung) VSM
Vòng/phút v/p
X-Ray Diffraction (Nhiễu xạ tia X) XRD
X-ray Photoelectron Spectroscopy (Quang điện tử tia X) XPS
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1 Cấu trúc tinh thể của kim cương và graphit (3D) 4
Hình 1.2 5
Hình 1.3 Graphen cấu trúc cơ bản (2D) và các vật liệu cacbon khác (0D, 1D và 3D) Graphen hiện hữu với mặt lồi lõm của không gian 3 chiều 8
Hình 1.4 Số lượng các công trình công bố về graphen trong 10 năm gần 9
đây (tổng hợp từ các công trình đăng trên các tạp chí liên quan
đến khoa học)
Hình 1.5 Sự phân bố của các công trình công bố liên quan đến ba vật liệu 9
fullerene, CNTs và graphen trên thế giới
Hình 1.6 Các liên kết của nguyên tử cacbon trong mạng graphen 10
Hình 1.7 Cấu trúc đề xuất của GO bởi các nhà nghiên cứu khác nhau 11
Hình 1.8 Liên kết hydro giữa các lớp graphit oxit 11
Hình 1.9 Các phương pháp tổng hợp GO 13
Hình 1.10 Cơ chế hình thành GO từ graphit 15
Hình 1.11 Sơ đồ chuyển hóa từ graphit thành rGO 16
Hình 1.12 Cơ chế khử nhóm epoxy của hydrazine 16
Hình 1.13 Sơ đồ mô tả cơ chế khử nhiệt cho GO chỉ ra sự phân hủy của 18
các dạng ôxy qua sự khơi mào phản gốc
Hình 1.14 Sơ đồ biểu diễn phương pháp LPE 19
Hình 1.15 Tổng hợp graphen từ graphit bằng phương pháp LPE sử dụng 20
các dung môi khác nhau
Hình 1.16 Sơ đồ và hình ảnh của sự giãn nở của điện cực graphit sử dụng 21
quá trình hai giai đoạn
Hình 1.17 Giản đồ minh họa bóc lớp điện hóa graphit 22
Hình 1.18 Phương pháp tách lớp graphit bằng băng dính 23
Hình 1.19 Cơ chế tạo màng graphen bằng phương pháp nung nhiệt đế SiC 24
Hình 1.20 Cấu trúc của GO, rGO và GP 25
Hình 1.21 Ảnh dung dịch fucsin (20 mg/L, bên phải) và dung dịch sau khi 27
được hấp phụ bởi Fe3O4-rGO trong 1 h và được tách bởi một
nam châm (trái)
28 Hình 1.22 Cơ chế hình thành và phát triển hạt nano trong dung dịch
30 Hình 1.23 Quá trình hình thành Fe3O4-GO bằng phương pháp đồng kết tủa
31 Hình 1.24 Sơ đồ tổng hợp Fe3O4-rGO bằng phương pháp tổng hợp thủy
nhiệt dung môi
32 Hình 1.25 Quá trình tổng hợp Fe3O4-GO và Fe-Fe3O4-GO bằng phương
pháp kết tinh tại chỗ
40 Hình 2.1 Sơ đồ tổng hợp graphit oxit từ graphit
41 Hình 2.2 Sơ đồ tổng hợp GOSA, GOVS và rGO
42 Hình 2.3 Thiết bị phản ứng nhiệt tổng hợp rGO từ GO
43 Hình 2.4 Sơ đồ tổng hợp Fe3O4-GOVS
44 Hình 2.5 Sơ đồ tổng hợp Fe-Fe3O4-GOVS
46 Hình 2.6 Đường chuẩn, cấu trúc hóa học và phổ UV-Vis của thuốc
nhuộm RR195
51 Hình 2.7 Sơ đồ chùm tia tới và chùm tia nhiễu xạ trên tinh thể
51 Hình 2.8 Độ tù của pic phản xạ gây ra do kích thước hạt
53 Hình 2.9 Quá trình phát quang điện tử
55 Hình 2.10 Sơ đồ nguyên lý sự tạo ảnh độ phân giải cao trong HR-TEM
57 Hình 2.11 Các dạng đường đẳng nhiệt hấp phụ-khử hấp phụ theo phân loại
IUPAC
58 Hình 2.12 Bước chuyển của các electron trong phân tử
59 Hình 2.13 Mối quan hệ giữa cường độ vạch phổ Aλ và nồng độ chất Cx
61 Hình 3.1 Giản đồ XRD của graphit trước và sau quá trình oxy hóa
62 Hình 3.2 Sản phẩm GOVS bóc lớp bằng kỹ thuật vi sóng tại các thời
điểm khác nhau
Hình 3.3 Giản đồ XRD của các mẫu GOVS có thời gian vi sóng khác 63
nhau GVS1, GVS2 và GVS3
Hình 3.4 Giản đồ XRD (a) và phổ FTIR (b) của các mẫu GOVS ở các 65
công suất vi sóng khác nhau GVS1, GVS4, GVS5 và GVS6
Hình 3.5 Sản phẩm GOSA bóc lớp bằng kỹ thuật siêu âm với các thời 67
gian khác nhau
Hình 3.6 Giản đồ XRD (d) và ảnh HR-TEM của các mẫu GOSA với thời 68
gian siêu âm khác nhau: graphit oxit (a), GSA2 (b), GSA3 (c)
Hình 3.7 Giản đồ XRD (A) và FTIR (B) của rGO ở các điều kiện nhiệt độ 69
khác nhau G1, G2, G3 và G4
Hình 3.8 Giản đồ XRD của GOSA, GOVS và rGO sau tổng hợp 70
Hình 3.9 Phổ FTIR của GOSA, GOVS và rGO sau tổng hợp 71
Hình 3.10 Ảnh HR-TEM của GOSA (a), GOVS (b) và rGO (c) 73
74 Hình 3.11 Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 ở 77 K (a) và đường
phân bố kích thước mao quản rGO (b), GOSA (c) và GOVS (d)
Hình 3.12 Phổ XPS của GOSA (a, b), GOVS (c, d) và rGO (e, f) 76
Hình 3.13 Phổ XPS của rGO khử nhiệt từ GOSA 77
Hình 3.14 Sơ đồ quá trình khử nhiệt từ GOVS về rGO 77
79 Hình 3.15 Giản đồ XRD của các mẫu Fe3O4-GOVS tổng hợp trong điều
kiện nhiệt độ khác nhau GF1, GF2 và GF3
80 Hình 3.16 Phổ XPS (a,b) của các mẫu GF1, GF2 và GF3 tổng hợp trong
điều kiện nhiệt độ khác nhau
82 Hình 3.17 Ảnh TEM với độ phân giải khác nhau của các mẫu Fe3O4-GOVS
tổng hợp ở điều kiện nhiệt độ khác nhau: GF1 (a), GF2 (b) và
GF3 (c)
84 Hình 3.18 Giản đồ XRD của Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện nồng độ
khác nhau
85 Hình 3.19 Ảnh TEM của Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện nồng độ khác
nhau: N (a), GF3 (b), N1 (c) và N2 (d)
86 Hình 3.20 Đường cong từ hóa của Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện nồng
độ khác nhau
87 Hình 3.21 Ảnh FE-SEM của Fe3O4-GOVS tổng hợp ở trong các điều kiện
pH khác nhau GF3 (a), GF4 (b) và GF5 (c)
88 Hình 3.22 Giản đồ XRD của Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện tốc độ
khuấy khác nhau
89 Hình 3.23 Ảnh TEM của Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện tốc độ khuấy
khác nhau V1 (a), V2 (b), GF3 (c) và V4 (d)
90 Hình 3.24 Sơ đồ tổng hợp Fe3O4 - GOVS ở điều kiện thích hợp
92 Hình 3.25 Giản đồ XRD của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
93 Hình 3.26 Ảnh TEM của Fe3O4-GOVS(a) và Fe-Fe3O4-GOVS(b,c)
94 Hình 3.27 Phổ FTIR của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS
95 Hình 3.28 Phổ EDX của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
95 Hình 3.29 Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 (a) và phân bố mao
quản (b) của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS
97 Hình 3.30 Phổ XPS của Fe-Fe3O4-GOVS (a-d) và Fe3O4-GOVS (a)
98 Hình 3.31 Đường cong từ hóa của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS
Hình 3.32 Ảnh hưởng pH đến quá trình hấp phụ RR195 trên GO và rGO 100
Hình 3.33 Sự phụ thuộc dung lượng hấp phụ RR195 (200 mg/L) theo thời 101
gian (a) và đường đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir của RR195 trên
GO và rGO (b)
Hình 3.34 Đường hấp phụ đẳng nhiệt Langmuir của RR195 trên GO và rGO 103
104 Hình 3.35 Giá trị RL phụ thuộc vào nồng độ RR195 ban đầu
Hình 3.36 Đường hấp phụ đẳng nhiệt Freundlich của RR195 trên GO và rGO 105
106 Hình 3.37 Cơ chế hấp phụ RR195 lên trên vật liệu hấp phụ rGO
107 Hình 3.38 Mối quan hệ Ln(Qe-Qt) theo thời gian (động học biểu kiến bậc1)
của quá trình hấp phụ RR195 trên GOVS và rGO
108 Hình 3.39 Mối quan hệ t/Qt theo thời gian (động học biểu kiến bậc 2) của
quá trình hấp phụ RR195 trên GOVS và rGO
Hình 3.40 Hiệu suất hấp phụ RR195 trên các vật liệu hấp phụ khác nhau 110
111 Hình 3.41 Điểm đẳng điện (pHpzc) của Fe3O4-GOVS (a) và Fe-Fe3O4-
GOVS (b)
Hình 3.42 Đường đẳng nhiệt hấp phụ Cu(II), Cd(II) (a), đẳng nhiệt 112
Langmuir của Fe3O4-GOVS và GOVS (b, c)
Hình 3.43 Đường hấp phụ đẳng nhiệt Freundlich của Cd(II) và Cu(II) trên 113
GOVS và Fe3O4-GOVS
Hình 3.44 Đường đẳng nhiệt hấp phụ Cu(II), Cd(II) (a), đẳng nhiệt 115
Langmuir của Fe-Fe3O4-GOVS (b)
Hình 3.45 Đường hấp phụ đẳng nhiệt Freundlich của Cd(II) và Cu(II) trên 116
Fe-Fe3O4-GOVS
119 Hình 3.46 Sự phụ thuộc dung lượng hấp phụ Cd(II) trên Fe-Fe3O4-GOVS
theo thời gian tại nồng độ 50 mg/L và 100 mg/L
119 Hình 3.47 Mối quan hệ Ln(Qe-Qt) theo thời gian (động học biểu kiến bậc 1)
120 Hình 3.48 Mối quan hệ t/Qt theo thời gian (động học biểu kiến bậc 2)
Hình 3.49 Ảnh hưởng pH đến quá trình loại bỏ As(V) trên vật liệu GOVS, 121
Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS, (nồng độ As(V) 7 mg/L,
m/V= 0,4 g/L, T=30 oC)
Hình 3.50 Sự phụ thuộc dung lượng hấp phụ As(V) theo thời gian ở nồng 122
độ 10 mg/L (a) và đường đẳng nhiệt hấp phụ (b) trên vật liệu Fe-
Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS, m/V= 0,4 g/L, T=30 oC
Hình 3.51 Các loại tương tác khác nhau tham gia vào sự hấp thụ các chất ô 125
nhiễm trên Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS [38]
126 Hình 3.52 Mối quan hệ Ln(Qe-Qt) theo thời gian (động học biểu kiến bậc1)
của quá trình hấp phụ As(V) trên của Fe-Fe3O4-GOVS và
Fe3O4-GOVS
127 Hình 3.53 Mối quan hệ t/Qt theo thời gian (động học biểu kiến bậc 2) của quá
trình hấp phụ của As(V) trên Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS
Hình 3.54 Khả năng hấp phụ RR195 (a) và phổ UV-Vis sau hấp phụ 129
RR195 trên Fe-Fe3O4-GOVS qua ba lần tái sinh (b) (pH = 5,5,
m/V = 1 g/L)
129 Hình 3.55 Hiệu suất hấp phụ Cd(II) trên vật liệu Fe-Fe3O4-GOVS sau ba
lần tái sinh (pH = 6, m/V = 0,1 g/L)
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1 Tính chất của SWCNTs và MWCNTs 6
Bảng 1.2 Tính chất vật lý của đơn lớp graphen ở nhiệt độ phòng 8
Bảng 1.3 Một số tính chất cơ bản của các vật liệu GP, GO và rGO 26
Bảng 2.1 Danh mục hóa chất chính dùng trong luận án 39
Bảng 2.2 Ký hiệu các mẫu GOSA tổng hợp ở các thời gian siêu âm khác nhau 41
Bảng 2.3 Ký hiệu các mẫu GOVS tổng hợp ở các thời gian và công suất 41
khác nhau
Bảng 2.4 Ký hiệu các mẫu rGO được tổng hợp từ khử GOVS ở các nhiệt 42
độ khác nhau
Bảng 2.5 43 Ký hiệu tên các mẫu Fe3O4-GOVS tổng hợp ở các điều kiện
nhiệt độ và pH khác nhau
Bảng 2.6 44 Ký hiệu tên các mẫu Fe3O4-GOVS tổng hợp ở các điều kiện
nồng độ muối sắt ban đầu khác nhau
Bảng 2.7 44 Ký hiệu tên các mẫu Fe3O4-GOVS tổng hợp ở các điều kiện
tốc độ khuấy khác nhau
Bảng 3.1 Khảo sát ảnh hưởng của thời gian vi sóng đến hiệu suất thu hồi 64
Bảng 3.2 Khảo sát ảnh hưởng của công suất vi sóng đến hiệu suất thu hồi 65
Bảng 3.3 Các thông số đặc trưng của GOSA, GOVS và rGO theo 74
phương pháp BET
Bảng 3.4 Thành phần các nguyên tố trong phổ XPS của GOVS, GOSA 77
và rGO (%At)
Bảng 3.5 81 Thành phần các nguyên tố trong phổ XPS của Fe3O4-GOVS (%At)
Bảng 3.6 81 Kích thước hạt mẫu Fe3O4-GO tổng hợp ở điều kiện nhiệt độ
khác nhau
Bảng 3.7 85 Kích thước hạt mẫu Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện nồng
độ khác nhau
Bảng 3.8 94 Thành phần các nguyên tố trong Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-
GOVS (%At)
Bảng 3.9 96 Các thông số đặc trưng của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
Bảng 3.10 Sự phụ thuộc dung lượng hấp phụ RR195 trên vật liệu rGO và 100
GO vào pH (nồng độ 100 mg/L, thời gian hấp phụ 10h)
Bảng 3.11 Sự phụ thuộc dung lượng hấp phụ vào nồng độ đối với RR195 102
Bảng 3.12 Các thông số đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir và Freundlich của 103
GO và rGO của RR195
104 Bảng 3.13 Phân loại sự phù hợp của mô hình đẳng nhiệt bằng tham số RL
104 Bảng 3.14 Giá trị tham số cân bằng RL của quá trình hấp phụ RR195 bằng
rGO và GO
105 Bảng 3.15 Sự phụ thuộc LnQe vào LnCe đối với mô hình Freundlich của
RR195
105 Bảng 3.16 Giá trị Ln(Qe-Qt) theo thời gian đối với RR195
108 Bảng 3.17 Giá trị t/Qt theo thời gian đối với RR195
Bảng 3.18 Một số tham số của phương trình động học biểu kiến bậc nhất 108
(RR195)
Bảng 3.19 Một số tham số của phương trình động học biểu kiến bậc hai 108
(RR195)
Bảng 3.20 Tổng kết các thông số đặc trưng của GO và rGO 109
Bảng 3.21 Tổng kết đẳng nhiệt Langmuir và Fredulich của quá trình hấp 109
phụ RR195 trên GO và rGO
Bảng 3.22 Các tham số của phương trình động học biểu kiến bậc hai quá 109
trình hấp phụ RR195 trên GOVS, GOSA và rGO
Bảng 3.23 Khả năng hấp phụ của các mẫu khảo sát ở nồng độ khác nhau 112
113 Bảng 3.24 Sự phụ thuộc LnQe vào LnCe đối với mô hình Freundlich
Bảng 3.25 Các thông số đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir và Freundlich của 114
GOVS và Fe3O4-GOVS
115 Bảng 3.26 Dung lượng hấp phụ Cd(II) và Cu(II) bằng Fe- Fe3O4-GOVS ở
các nồng độ ban đầu khác nhau
116 Bảng 3.27 Sự phụ thuộc LnQe vào LnCe đối với mô hình Freundlich
Bảng 3.28 Các thông số đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir và Freundlich của 117
Cu(II) và Cd(II) trên Fe-Fe3O4-GOVS
Bảng 3.29 Dung lượng hấp phụ của một Cu(II) và Cd(II) của một số vật liệu 118
Bảng 3.30 Một số tham số của phương trình động học biểu kiến bậc 1 và bậc 2 120
Bảng 3.31 Nồng độ hấp phụ của các mẫu khảo sát 122
Bảng 3.32 Các thông số đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir và Freundlich của 123
As(V) trên Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
Bảng 3.33 Dung lượng hấp phụ As(V) của một số vật liệu chứa sắt 124
126 Bảng 3.34 Giá trị Ln(Qe-Qt) theo thời gian của quá trình hấp phụ As(V)
127 Bảng 3.35 Giá trị t/Qt theo thời gian của quá trình hấp phụ As(V)
Bảng 3.36 Một số tham số của phương trình động học biểu kiến bậc nhất As(V) 128
Bảng 3.37 Một số tham số của phương trình động học biểu kiến bậc hai As(V) 128
130 Bảng 3.38 Tổng kết các thông số đặc trưng của Fe3O4-GOVS và Fe-
Fe3O4-GOVS
Bảng 3.39 Tổng kết dung lượng hấp phụ cực đại RR195, Cu(II), Cd(II) và 130
As(V) trên GOVS, Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
Bảng 3.40 Các tham số của phương trình động học biểu kiến bậc hai quá trình 131
hấp phụ Cd(II), As(V) trên Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
MỞ ĐẦU
Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động công nghiệp,
nông nghiệp đã có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội, tuy nhiên bên
cạnh đó nó cũng dẫn đến tăng vòng luân chuyển của các chất ô nhiễm độc hại trong
các nguồn nước. Nước ngọt có thể bị ô nhiễm bởi vô số các chất gây ô nhiễm khác
nhau như: thuốc nhuộm, các hợp chất phenon, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, dược
phẩm, các ion kim loại nặng…. Những chất gây ô nhiễm đó có thể có tích tụ sinh
học, tác động bất lợi đến sự tồn tại của sinh vật dưới nước, hệ động thực vật cũng
như ảnh hưởng to lớn tới sức khỏe con người. Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao ý
thức bảo vệ môi trường của con người, siết chặt công tác quản lí môi trường thì việc
tìm ra phương pháp nhằm loại bỏ các ion kim loại nặng, thuốc nhuộm hoạt tính độc
hại,... ra khỏi môi trường nước có ý nghĩa hết sức to lớn.
Hấp phụ là một trong những biện pháp hiệu quả nhất trong xử lý nước. So
sánh với các phương pháp xử lý nước khác nó cung cấp một lợi thế như dễ thực
hiện, không phát sinh chất độc hại trong suốt quá trình xử lý và hơn tất cả là nó loại
bỏ gần như tất cả các chất ô nhiễm trong nước [1]. Trong những năm qua, vật liệu
cacbon và vật liệu trên cơ sở cacbon vẫn là những vật liệu được sử dụng nhiều nhất
để làm vật liệu hấp phụ [1, 2], do chúng có bề mặt riêng lớn, ổn định và bền hóa
học, bền nhiệt. Vật liệu dễ biến tính nhằm thay đổi tính chất hóa học và vật lý để
hấp phụ chọn lọc đồng thời cả hợp chất hữu cơ độc hại như các chất màu và cả ion
kim loại nặng, ngoài ra việc biến tính còn làm tăng dung lượng hấp phụ, tăng hiệu
quả xử lý các chất thải độc hại.
Trong thập kỷ qua, vật liệu cấu trúc nano cacbon, chẳng hạn như ống nano
cacbon (CNTs) đã được phổ biến đáng kể. Mặc dù có nhiều tiến bộ đã được thực
hiện trong những năm gần đây về khả năng ứng dụng hấp phụ của CNTs, nhưng do
chi phí chế tạo cao đã hạn chế các ứng dụng thực tế của chúng [3]. Vì vậy, việc
thăm dò các chất hấp phụ mới đầy hứa hẹn vẫn là mong muốn lớn.
Gần đây, graphen và vật liệu trên cơ sở graphen là loại vật liệu nhận được sự
quan tâm đặc biệt. Kể từ khi lần đầu tiên graphen được giới thiệu về các tính chất
1
điện tử năm 2004 và giải thưởng Nobel Vật lý về vật liệu này năm 2010, ngày nay
graphen đã trở thành đối tượng được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu rộng
rãi từ tính chất điện, điện hóa, quang học, cơ học và khả năng hấp phụ độc đáo của
nó [3, 4, 5, 6]. Graphen là một vật liệu cacbon mới, nó được định nghĩa là một lớp
hoặc vài lớp mỏng các nguyên tử cacbon với liên kết sp2 tạo thành dàn tinh thể hình
tổ ong [3]. Có nhiều phương pháp tổng hợp graphen được đề xuất nhưng phổ biến
nhất vẫn là phương pháp CVD và phương pháp hóa học (dựa trên quá trình oxi hóa
graphit, bóc tách lớp để tạo thành graphen oxit (GO) và quá trình khử hóa học GO
thành graphen (rGO) [7, 8]. Tuy nhiên, phương pháp CVD đòi hỏi thực hiện trong
điều kiện khắc nghiệt, sử dụng thiết bị chuyên dụng, năng lượng lớn, giá thành cao
và chỉ điều chế được lượng nhỏ [7, 9]. Với diện tích bề mặt lớn (giá trị lý thuyết
2630 m2/g) và tính chất vật lý, hóa học đặc biệt, graphen và GO thực sự đã thu hút
nhiều sự quan tâm trong nhiều lĩnh vực bao gồm cả trong đánh giá hấp phụ [5, 10].
Mặc dù vậy, các nghiên cứu trước đây tập trung nhiều vào nghiên cứu tổng
hợp và đánh giá khả năng ứng dụng của vật liệu graphen, vật liệu trên cơ sở graphen
chủ yếu trong lĩnh vực điện hóa, số lượng các công bố khoa học về ứng dụng trong
lĩnh vực hấp phụ còn chưa nhiều và rời rạc. Hơn nữa quá trình tổng hợp GO và rGO
từ graphit chủ yếu sử dụng kỹ thuật bóc tách lớp trong pha lỏng [8], quá trình bóc
tách lớp graphit oxit thành GO sử dụng kỹ thuật vi sóng và quá trình khử GO về
rGO bằng tác nhân nhiệt còn ít được đề cập.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu vật liệu graphen và vật liệu trên cơ sở graphen
còn rất mới mẻ, chỉ có một số cơ sở nghiên cứu khoa học như: Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh [11], Viện Hóa học,
Viện Khoa học Vật liệu thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
[12], Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc Gia Hà Nội [13]. Viện
Hóa học công nghiệp [14, 15], Trường Đại học Quy Nhơn [16, 17]. Do vậy để
nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình tổng hợp và khả năng hấp phụ đặc biệt
của vật liệu graphen và vật liệu trên cơ sở graphen, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu
sinh của mình là: “Nghiên cứu tổng hợp và đặc trưng vật liệu mới cấu trúc nano trên
cơ sở graphen ứng dụng trong xử lí môi trường”
2
Mục tiêu của luận án:
Tổng hợp được GO (GOVS, GOSA), rGO, Fe3O4-GO và Fe-Fe3O4-GO. Đặc
trưng các vật liệu tổng hợp được và đánh giá khả năng hấp phụ thuốc nhuộm hoạt
tính, asen và các ion kim loại nặng của vật liệu tổng hợp được.
Luận án được trình bày theo các mục chính sau:
Phần mở đầu
Chương 1. Tổng quan
Chương 2. Phương pháp nghiên cứu và thực nghiệm
Chương 3. Kết quả và thảo luận các vấn đề sau:
- Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp vật liệu GO và rGO:
Nghiên cứu một số điều kiện ảnh hưởng đến quá trình bóc tách lớp graphit
oxit thành GO và quá trình khử GO về rGO.
Đặc trưng vật liệu graphit oxit, GO và rGO tổng hợp được.
- Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp vật liệu Fe3O4-
GOVS như: pH, nồng độ muối Fe3+/Fe2+, nhiệt độ và tốc độ khuấy.
- Tổng hợp vật liệu Fe-Fe3O4-GOVS.
- Sử dụng các phương pháp phân tích hóa lý hiện đại như: XRD, XPS, FTIR,
HR-TEM... để đặc trưng sản phẩm liệu Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
tổng hợp được.
- Nghiên cứu đẳng nhiệt hấp phụ, động học hấp phụ thuốc nhuộm hoạt tính và
các ion kim loại nặng trên các vật liệu: GOVS, rGO, Fe3O4-GOVS và Fe-
Fe3O4-GOVS tổng hợp được.
Kết luận
Danh mục các bài báo liên quan đến luận án
Những điểm mới của luận án
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu chung về vật liệu trên cơ sở cacbon
Cacbon là nguyên tố đóng vai trò quan trọng cho sự sống và là nguyên tố cơ
bản của hàng triệu hợp chất hóa học hữu cơ. Trong một nguyên tử cacbon, các
electron lớp ngoài cùng có thể hình thành nên nhiều kiểu lai hóa khác nhau. Do đó
khi các nguyên tử này liên kết lại với nhau chúng cũng có khả năng tạo nên nhiều
dạng cấu trúc tinh thể như: Cấu trúc tinh thể ba chiều (3D), hai chiều (2D), một
chiều (1D) và không chiều (0D). Điều này được thể hiện thông qua sự phong phú về
các dạng thù hình của vật liệu cacbon là: Kim cương, graphit, graphen, ống nano
cacbon và fullerens [4].
1.1.1. Kim cương và graphit
Kim cương và graphit là hai dạng thù hình có cấu trúc tinh thể 3 chiều của
cacbon được biết đến nhiều. Mỗi nguyên tử cacbon trong kim cương liên kết cộng
hóa trị với 4 nguyên tử cacbon khác bằng 4 liên kết ở trạng thái lai hóa sp3 trong
một mạng tứ diện với độ dài liên kết C-C khoảng 0,1544 nm. Cấu trúc tinh thể kim
cương dạng này là cấu trúc lập phương tâm mặt (FCC) (Hình 1.1). với hằng số mạng
a= 3.567Å. Ngoài ra còn có kim cương có cấu trúc tinh thể lục giác hay được gọi với
tên khác là kim cương sáu phương (lonsdaleite), chỉ được tìm thấy ở một số thiên
thạch chứa cacbon rơi xuống trái đất, độ dài liên kết C-C khoảng 0,152 nm[18].
Hình 1.1. Cấu trúc tinh thể của kim cương và graphit (3D)
Với cấu trúc bền vững, kim cương có những tính chất vật lí hoàn hảo, nó có độ
cứng rất cao (độ cứng Mohs là 10), độ bền nhiệt (nhiệt độ nóng chảy cao khoảng
4500 K trong chân không) và độ tán sắc cực tốt, vì thế chúng có rất nhiều ứng dụng
trong cả công nghiệp và ngành kim hoàn.
4
Khác với kim cương, graphit có khả năng dẫn điện tử tốt vì trong cấu trúc
graphit, mỗi nguyên tử cacbon liên kết cộng hóa trị với 3 nguyên tử cacbon khác
hình thành nên mạng phẳng với các ô hình lục giác, do đó mỗi nguyên tử cacbon
trong mạng còn dư 1 electron. Các electron còn lại này có thể chuyển động tự do
bên trên và bên dưới mặt mạng, góp phần vào tính dẫn điện của graphit. Các nguyên
tử cacbon trong graphit liên kết với nhau bằng hai liên kết đơn () và một liên kết
đôi (π). Khoảng cách gần nhất của hai nguyên tử cacbon là 0,142 nm. Các đơn lớp
graphit liên kết với nhau bằng lực Van der Waals hình thành nên cấu trúc tinh thể 3
chiều (Hình 1.1). Khoảng cách giữa các lớp graphit vào khoảng 0,334 nm. Do đặc
điểm cấu trúc có sự liên kết lỏng lẻo giữa các tấm (lớp) trong graphit nên các lớp
graphit dễ trượt lên nhau, ngược lại do liên kết giữa các nguyên tử cacbon trong
cùng một đơn lớp rất mạnh nên mặt graphit rất bền vững về mặt cơ học. Do vậy nó
thường được dùng trong công nghiệp với vai trò là chất bôi trơn dạng rắn, chổi
than,... Cũng vì đặc điểm này nên graphit thường dễ vỡ, dễ tách lớp [18].
1.1.2. Vật liệu cacbon cấu trúc nano
1.1.2.1. Fullerene
Fullerene (C60) là một dạng thù hình của cacbon với cấu trúc tinh thể 0 chiều
(0D), thường có dạng hình
cầu, (còn được gọi là
buckyball) và được chế tạo
đầu tiên vào năm 1985 bởi
Kroto và cộng sự [3], sau
đó nhóm nghiên cứu này đã
đạt giải Nobel hóa học năm
1996. Cấu trúc của
fullerene được xem như tạo
thành từ việc quấn lại của
một lớp đơn trong cấu trúc
Hình 1.2. Graphen cấu trúc cơ bản (2D) và các vật liệu cacbon khác (0D, 1D và 3D)[19] của graphit (Hình 1.2)
(được gọi là graphen trong các phần trình bày sau), và khi quấn lại như vậy thì một
5
số liên kết sp2 trong graphit sẽ biến đổi thành liên kết sp3 trong kim cương, điều này
làm cho các nguyên tử trong fullerene trở nên ổn định hơn [20]. Trong vài thập niên
qua, fullerene đã được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như: dùng làm lớp bọc bên
ngoài của áo giáp, thuốc kháng sinh để kháng khuẩn và đặc biệt là phá hủy một số
tế bào ung thư như U melanin, ngoài ra nó cũng được dùng để chế tạo các chất
kháng vi sinh vật nhạy sáng [1].
1.1.2.2. Ống nano cacbon (Cacbon Nanotube – CNTs)
CNTs là một dạng thù hình của cacbon với cấu trúc tinh thể 1 chiều (1D) (hình
1.1), được chế tạo đầu tiên vào năm 1991 bởi Lijima và các cộng sự [3]. Cấu trúc
của nó xem như một tấm graphen được cuộn tròn lại thành hình trụ với đường kính
cỡ nanomet. CNTs có những đặc điểm ưu việt về tình chất vật lý, hóa học và điện tử
nên chúng được nghiên cứu ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật khác
nhau như xử lý nước thải, khí thải, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo, siêu tụ
điện và nano composit thân thiện với môi trường. Các ống nano cacbon được chia
làm 2 loại chính: đơn vách (SWCNTs) và đa vách (MWCNTs). Tính chất của chúng
được thống kê bởi Xie cùng các cộng sự năm 2005 [21] như Bảng 1.1.
Bảng 1.1. Tính chất của SWCNTs và MWCNTs
SWCNTs MWCNTs
0,8 1,8
Tính chất Khối lượng riêng (g/cm3) Mô đun đàn hồi (TPa) ~ 1 ~ 0,3 - 1
Độ bền (GPa) 50 – 500 10 – 60
5 – 50 3000 5 – 50 3000
>700 >700
Điện trở suất (μΩcm) Độ dẫn điện (W m-1 K-1) Tính ổn định nhiệt, °C (trong không khí) Diện tích bề mặt (m2/g) ~ 400-900 ~ 200 - 400
Tâm hoạt động của CNTs
CNTs với số lượng tâm hoạt động lớn trên bề mặt và có thể điều chỉnh kích
thước mao quản nên có khả năng hấp phụ đặc biệt cao, hiệu quả hơn so với than
hoạt tính thông thường. CNTs hoạt động hóa học mạnh hơn so với graphen. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy CNTs vẫn tương đối trơ về mặt hóa học, do đó để tăng hoạt
6
tính hóa học của CNTs ta phải tạo ra các khuyết tật (defect) trên bề mặt của ống,
gắn kết với các phân tử hoạt động khác. Các nghiên cứu được Li và Gao cùng cộng
sự tổng hợp và đưa ra trong bài tổng quan [3] chỉ ra rằng, CNTs có đường kính càng
nhỏ thì hoạt động hóa học càng mạnh, song hiện tượng tụ đám xảy ra nhiều. Đó là
do ảnh hưởng của hiệu ứng kích thước và hiệu ứng bề mặt xảy ra với các vật liệu
nano. Sự tụ đám này làm giảm khả năng hoạt động hóa học của các ống CNTs. Vì
vậy, vấn đề quan trọng là tách bó CNTs thành các ống riêng rẽ bằng các phương
pháp lý, hóa phù hợp. Nhiều nghiên cứu rộng rãi phát hiện khả năng hấp phụ của
CNTs phụ thuộc vào những nhóm chức trên bề mặt và bản chất của chất bị hấp phụ.
Đối với CNTs có bề mặt axit (chứa các nhóm chức cacboxylic, lactonic và
phenolic) có lợi cho sự hấp phụ các hợp chất có tính phân cực [22]. Mặt khác với
CNTs có bề mặt không chứa nhóm chức được chứng minh có khả năng hấp phụ tốt
hơn với các chất đa vòng thơm không phân cực như hydrocacbon [22]. Khả năng
hấp phụ của CNTs chủ yếu liên quan đến tương tác hóa học của các hợp chất phân
cực và tương tác vật lý của các hợp chất không phân cực. Sự hấp phụ của cả 2 chất
không phân cực và phân cực gắn với đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir và Freundlich
[22]. Mặc dù CNTs có giá thành cao hơn so với than hoạt tính nhưng sự hấp phụ và
giải hấp của chúng tốt hơn than hoạt tính thông thường [1].
Các phương pháp tổng hợp CNTs
Hiện nay, bốn phương pháp chính đã và đang được nghiên cứu sử dụng để tổng
hợp CNTs bao gồm: Phương pháp hồ quang (Arc Electrique), phương pháp cắt gọt
Laser (Ablation Laser), phương pháp nghiền bi và ủ nhiệt, phương pháp lắng đọng
pha hơi hóa học (CVD), trong đó phương pháp CVD có nhiều ưu điểm hơn cả [3].
Một thử thách rất lớn đối với việc sản xuất CNTs là các nhà khoa học vẫn
chưa thể cuộn tròn ống nano theo cách họ muốn. Ngoài ra chi phí cho việc sản xuất
CNTs còn rất cao [3].
1.1.2.3. Vật liệu Graphen
Graphen là một mặt phẳng đơn lớp của những nguyên tử cacbon được sắp xếp
chặt chẽ trong mạng tinh thể hình tổ ong 2 chiều (2D). Graphen được cuộn lại sẽ tạo
nên dạng thù hình fullerene 0D, được quấn lại sẽ tạo nên dạng thù hình cacbon
nanotube 1D, hoặc được xếp chồng lên nhau sẽ tạo nên dạng thù hình graphit 3D
7
(Hình 1.2) [19]. Nét điển hình của cấu trúc là sắp xếp các nguyên tử cacbon trên
đỉnh các lục giác đều, nằm cách nhau những
khoảng nhất định là 1,42 Å và liên kết với
nhau bởi những liên kết sp2.
Graphen được hai nhà khoa học người Anh
gốc Nga là Andre Geim và Konstantin
Novoselov (Đại học Manchester, Anh) khám
phá ra vào năm 2004, năm 2010 giải Nobel Vật
lý đã được trao cho hai nhà khoa học này. Dưới
Hình 1.3. Graphen hiện hữu với mặt lồi lõm của không gian 3 chiều
kính hiển vi họ đã quan sát được những mảng
graphen lơ lửng trong trạng thái tự do không phẳng mà lồi lõm như mặt sóng vi mô
trong không gian 3 chiều (Hình 1.3). Tính chất vật lý của đơn lớp graphen ở nhiệt độ
phòng được Rajasekhar Balasubramanian [23] thống kê lại ở Bảng 1.2 như sau:
Bảng 1.2. Tính chất vật lý của đơn lớp graphen ở nhiệt độ phòng [23]
Tính chất Giá trị
Chiều dài liên kết C-C
Mật độ
Diện tích bề mặt lý thuyết
Mô đun đàn hồi 0,142 nm 0,77 mg.m-2 2630 m2 g-1 1100 GPA
Độ cứng
Độ linh động của hạt tải điện
Độ dẫn nhiệt
Độ truyền quang 125 GPA 200 000 cm2 V-1 s-1 5000 W m-1 K-1 97,7%
Chính nhờ những đặc điểm ưu việt trên mà graphen đang là mối quan tâm
hàng đầu của những nhà nghiên cứu trong mọi lĩnh vực. Hình 1.4 chỉ ra số lượng
bài báo nghiên cứu về graphen trong mười năm qua. Từ Hình 1.4 cho thấy các vật
liệu cấu trúc nano trên cơ sở cacbon như fullerene, CNTs và graphen đang rất được
quan tâm, năm 2005 số lượng công trình công bố liên quan đến ba vật liệu trên chỉ
đạt khoảng 5000 công trình, đến năm 2014 đã tăng lên 30000 công trình gấp 6 lần
so với năm 2005. Trong đó xu hướng nghiên cứu về graphen đã tăng mạnh từ khi
giải Nobel về graphen được công bố năm 2010.
8
Hình 1.4. Số lượng các công trình công bố về graphen trong 10 năm gần đây
(tổng hợp từ các công trình đăng trên các tạp chí liên quan đến khoa học) [3]
Số lượng các công trình công bố về graphen tăng gấp 8 lần trong vòng 5 năm
qua, năm 2010 chỉ với 2000 công trình công bố trong khi năm 2014 đã lên đến
16000 công bố cho thấy graphen đang là mối quan tâm hàng đầu trong các vật liệu
cacbon. Các nước tập trung nghiên cứu về fullerene và CNTs nhiều nhất là Trung
Quốc, Mỹ và Nhật, trong khi đó Hàn Quốc, Mỹ và Trung Quốc lại tập trung nhiều
về nghiên cứu graphen. Hình 1.5 mô tả sự phân bố của các công trình công bố liên
quan đến ba vật liệu: Fullerene, CNTs và graphen.
Hình 1.5. Sự phân bố của các công trình công bố liên quan đến ba vật liệu
fullerene, CNTs và graphen trên thế giới [3]
Trên thế giới, trong số các công trình công bố liên quan đến các lĩnh vực ứng
dụng vật liệu trên graphen, trong năm 2014 đã có 16000 công trình công bố và
khoảng 4000 sáng chế liên quan đến vật liệu graphen [24]. Các sáng chế về graphen
được phân bố nhiều quốc gia và tập trung chủ yếu từ các nhà khoa học của Sam
Sung (700), Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (400), IBM –Mỹ (300)… [24].
9
Mặc dù vậy, các sáng chế này tập trung chủ yếu vào lĩnh vực điện tử và công nghệ
vật liệu mới, đối với lĩnh vực hấp phụ còn rất hạn chế. Do đó tiềm năng nghiên cứu
ứng dụng vật liệu graphen và vật liệu trên cơ sở graphen ứng dụng trong lĩnh vực
hấp phụ còn mới và tính ứng dụng cao.
1.2. Vật liệu graphen và graphen oxit
1.2.1. Cấu trúc của graphen [18]
Về mặt cấu trúc, màng graphen được tạo thành từ các nguyên tử cacbon sắp
xếp theo cấu trúc lục giác trên cùng một mặt phẳng, hay còn được gọi là cấu trúc tổ
ong. Do chỉ có 6 điện tử tạo thành lớp
vỏ của nguyên tử cacbon nên chỉ có
bốn điện tử phân bố ở trạng thái 2s và
2p đóng vai trò quan trọng trong việc
liên kết hóa học giữa các nguyên tử
với nhau. Các trạng thái 2s và 2p của
Hình 1.6. Các liên kết của nguyên tử nguyên tử cacbon lai hóa với nhau tạo cacbon trong mạng graphen thành 3 trạng thái sp, các trạng thái
này định hướng theo ba phương tạo với nhau một góc 120o. Mỗi trạng thái sp của
nguyên tử cacbon này xen phủ với một trạng thái sp của nguyên tử cacbon khác
hình thành nên liên kết cộng hóa trị sigma () bền vững. Chính các liên kết này
quy định cấu trúc mạng tinh thể graphen ở hình dạng tổ ong và lý giải tại sao
graphen rất bền vững về mặt cơ học và trơ về mặt hóa học trong mặt phẳng mạng.
Ngoài các liên kết sigma, giữa hai nguyên tử cacbon lân cận còn tồn tại một liên kết
pi (π) khác kém bền vững hơn hình thành do sự xen phủ của các orbitan pz không bị
lai hóa với các orbitan s. Do liên kết π này yếu và có định hướng không gian vuông
góc với các orbitan sp nên các điện tử tham gia liên kết này rất linh động và quy
định tính chất điện và quang của graphen. Hình 1.6 mô hình hóa các liên kết của
một nguyên tử cacbon trong mạng graphen.
1.2.2. Cấu trúc graphen oxit (GO)
Mặc dù GO đã được nghiên cứu trong hơn một thế kỷ, các cấu trúc hóa học
chính xác của GO vần còn chưa rõ ràng. Bản chất của các nhóm chức oxy và cách
10
gắn kết trên mạng lưới cacbon là rất quan trọng để có được một cấu trúc GO chính
xác [25]. Cấu trúc của GO phụ thuộc nhiều vào phương pháp tổng hợp và được đưa
ra bởi nhiều nhà nghiên cứu khác nhau thể hiện trong Hình 1.7.
Hình 1.7. Cấu trúc đề xuất của GO bởi các nhà nghiên cứu khác nhau [26]
Nhưng trong đó mô hình của Lerf – Klinowski phổ biến hơn cả [26]. Theo đó,
graphit sau khi oxi hóa, trên mặt phẳng nằm ngang của các lớp có các nhóm
hydroxyl, epoxy và trên các góc của mặt
phẳng nằm ngang có thể hình thành các
nhóm chức carbonyl hoặc carboxylic.
Gần đây (2013) nhóm tác giả Ayrat
M và cộng sự [27] đã đề xuất một mô
hình GO mới, tên gọi là DSM (Dynamic
Structural Model). Ngược lại với tất cả
các mô hình đề xuất trước đây, nhóm tác
Hình 1.8. Liên kết hydro giữa các giả không xem xét các GO như một cấu lớp graphit oxit [26] trúc tĩnh với một tập hợp các nhóm chức.
Thay vào đó, họ cho rằng các nhóm chức mới liên tục phát triển và biến đổi. Vai trò
quan trọng trong tất cả những biến đổi thuộc về nước kết hợp vào GO đã chuyển đổi
cơ cấu của nó, và sau đó rời khỏi cấu trúc thông qua các phản ứng khác nhau. Động
lực của sự biến đổi là tích tụ của điện tích âm trên lớp GO, được ổn định bằng sự
cộng hưởng và hình thành của một lớp điện tích kép.
11
Các vòng thơm, các nối đôi, các nhóm epoxy được cho là nằm trên mạng lưới
cacbon gần như phẳng, trong khi cacbon nối với nhóm –OH hơi lệch so với cấu trúc
tứ diện dẫn đến cấu trúc lớp hơi cong. Các nhóm chức được cho là nằm cả trên lẫn
dưới các lớp GO. Vì mỗi lớp đều chứa các nhóm chức có oxi mang điện tính âm, do
đó có lực đẩy xuất hiện giữa các lớp, đồng thời làm cho GO thể hiện tính ưa nước
và trương được trong nước. Hơn nữa, việc tạo liên kết hydro giữa các lớp graphit
oxit thông qua các nhóm hydroxyl, epoxi và nước khiến các khoảng cách giữa các
tấm GO được nới rộng đáng kể hơn so với graphit (0,65 - 0,75 nm so với 0,34 nm,
được xác định thông qua giản đồ XRD) [25].
Độ dày của đơn lớp tấm GO đã được báo cáo xấp xỉ 1- 2 nm [26], xấp xỉ 4 lần
độ dày của một lớp graphen 0,34 nm [3]. Điểm đẳng điện pHpzc = 3,9, điện tích bề
mặt GO trong nước mang điện tích âm và GO là chất ưa nước kỵ dầu [5].
1.2.3. Tâm hoạt động của graphen và graphen oxit
Các hợp chất hữu cơ có thể được hấp phụ trên các hạt nano hay vật liệu cấu
trúc nano thông qua những tương tác sau: tương tác điện tử, liên kết hydro, sự xếp
chồng liên kết π- π, lực phân tán, liên kết cho - nhận và hiệu ứng kị nước [10].
Trong trường hợp của graphen, hệ thống điện tử π bất đối xứng đóng vai trò chủ đạo
trong việc hình thành mạnh mẽ của liên kết tương tác π- π của sự chồng xếp với một
số chất hữu cơ có chứa vòng thơm. Tương tác cation - π cũng đóng góp vào quá
trình hấp phụ [10]. Tương tác này bị chi phối bởi sự phân cực cation, lực tĩnh điện
giữa các cation và cấu trúc điện tử aromatic giàu electron π [28].
GO mang nhiều nhóm chức phong phú do vậy hình thành từ các liên kết hydro
hay sự tương tác điện tử với các hợp chất hữu cơ có chứa oxi và nitơ. Các nhóm
chức chứa oxy phân cực của GO làm cho vật liệu này có xu hướng ưa nước. GO
phân tán tốt trong nước và có thể bị tách lớp trong nhiều loại dung môi [26]. Sự
hiện diện của các nhóm chức hoạt động như cacbonyl, epoxy, hydroxyl trên bề mặt
của GO cho phép nó tương tác với rất nhiều các phân tử trải dài trên bề mặt biến
tính. Hơn nữa, những nhóm hoạt động này của GO cũng có thể liên kết với các ion
kim loại nặng có mặt trong dung dịch thông qua phức bề mặt, hoặc tương tác tĩnh
điện giữa bề mặt âm GO và các cation kim loại, chất mầu… do đó nó cũng có thể sử
dụng để tách các ion từ dung dịch [10].
12
Quá trình hấp phụ các ion kim loại và hợp chất hữu cơ trên graphen và GO
thường phụ thuộc nhiều vào pH và bản chất của các chất hữu cơ (số vòng thơm
trong cấu trúc) [27, 29]. Khi giá trị pH thấp có lợi cho việc ion hóa của các nhóm
chức chứa oxi trên bề mặt GO. Do điện tử trên bề mặt GO là âm nên sự tương tác
tĩnh điện giữa các ion kim loại và GO trở nên mạnh hơn. Khi giá trị pH cao, các
hydroxit kim loại có thể hình thành kết tủa hay nhóm anion sẽ chiếm ưu thế vì vậy
xảy ra hiệu ứng đẩy giữa anion và bề mặt GO. Do đó, cần tìm ra giá trị pH tối ưu để
nâng cao hiệu quả của quá trình hấp phụ.
1.2.4. Các phương pháp tổng hợp GO
Graphit oxit là sản phẩm của quá trình trình oxy hóa graphit. Nghiên cứu đầu tiên
về graphit oxit được thực hiện cách đây hơn 150 năm [30], cho thấy có thể sản xuất vật
liệu này trên cơ sở graphit với giá thành tương đối thấp. Vào năm 2004, khi xuất hiện
graphen thì vật liệu này bắt đầu được gọi là GO. Theo quan điểm hóa học thì dường
như không có nhiều sự phân biệt giữa hai khái niệm này, tuy nhiên, hiểu chính xác hơn
thì GO chính là một đơn lớp của graphit oxit (cũng tương tự như graphen là đơn lớp
của graphit). GO với tính chất cơ bản giống như graphen nên đã được nhiều nhóm
nghiên cứu làm chất hấp phụ để loại bỏ các chất ô nhiễm trong nước.
GO được tổng hợp bằng ba phương pháp chính đó là Brodie (1859) [30],
Staudenmaier (1899) [31] và Hummers
và Offeman (1958) [32]. Trong đó
phương pháp Brodie và Staudenmaier
sử dụng kết hợp cả KClO3 và HNO3 để
oxy hóa graphit. Trong khi đó, phương
pháp Hummers sử dụng cách xử lý
graphit với KMnO4 và H2SO4 (Hình
1.9). Với phương pháp Brodie bằng
cách sử dụng phương pháp phân tích
nguyên tố, phân tử của sản phẩm cuối Hình 1.9. Các phương pháp tổng hợp GO có công thức C11H4O5. Sản phẩm này có
tính axit nhẹ và có khả năng phân tán trong môi trường kiềm, song lại có cấu trúc
13
không hoàn hảo. Với phương pháp Staudenmaier đã có sự thay đổi so với phương
pháp Brodie khi sử dụng tác nhân oxy hóa KClO3 để tăng mức độ oxy hóa của GO.
Tuy nhiên phương pháp này rất nguy hiểm vì KClO3 là chất dễ gây kích nổ và sản
phẩm khí ClO2 được tạo thành có nguy cơ cháy nổ cao.
Phương pháp Hummers sử dụng hỗn hợp H2SO4, NaNO3 và KMnO4 giúp cho
sản phẩm GO có mức độ oxy hóa cao hơn các sản phẩm được tổng hợp bằng các
phương pháp trước đó [32]. Mặc dù KMnO4 là một chất oxy hóa được sử dụng,
nhưng thực tế thì tác nhân Mn2O7 mới là tác nhân chính tham gia quá trình oxy hóa
-
graphit thành GO theo phản ứng sau [26]:
+ + H3O+ + 3HSO4
KMnO4 + 3H2SO4 → K+ + MnO3
+ + MnO4
- → Mn2O7
MnO3
Mn2O7 là chất oxy hóa hoạt động, tuy nhiên Mn2O7 bị kích nổ khi đun nóng
đến nhiệt độ trên 55 oC hoặc khi tiếp xúc với hợp chất hữu cơ. Do đó, việc kiểm soát
nhiệt độ trong phản ứng là rất quan trọng, đặc biệt là ở quy mô công nghiệp [26].
Trong ba phương pháp trên thì phương pháp Hummers là phương pháp phổ
biến hơn cả. Trong những năm qua phương pháp Hummers đã được cải tiến nhiều
nhằm loại bỏ việc sử dụng NaNO3 do đó ngăn ngừa tạo ra khí độc hại trong quá
trình tổng hợp [26], các phương pháp này được gọi là phương pháp Hummers biến
tính (Modified Hummers).
Cơ chế hình thành GO đã được xác định bởi ba bước riêng biệt độc lập đưa
ra ở Hình 1.10. Bước 1: Graphit tiếp xúc với axit H2SO4 thì axit này đan xen vào
các lớp của graphit hình thành nên hợp chất trung gian thứ nhất (gọi là GIC). Bước
2: GIC tác dụng với chất oxi hóa KMnO4 tạo thành hợp chất trung gian thứ 2 (gọi là
PGO). Bước 3: PGO tác dụng với H2O tạo thành GO [8]. Ở Hình 1.10 cho thấy sự
hình thành của hai sản phẩm trung gian (GIC và PGO) cùng với sản phẩm GO. Các
- xen kẽ;
đường màu đen liền đại diện cho lớp graphen; đường màu đen chấm đại diện cho
- xen kẽ với dạng thu
lớp duy nhất của GO; đường màu xanh rộng đại diện cho H2SO4/HSO4
đường màu tím rộng đại diện cho lớp hỗn hợp H2SO4/HSO4
gọn của tác nhân oxi hóa.
14
Các sản phẩm oxy hóa với tỉ lệ C:O trong khoảng từ 2,1 đến 2,9. GO chứa các
nhóm chức có chứa oxi, trong đó có 4 nhóm chức chủ yếu là: Hydroxyl (OH),
epoxy (-O-) đính ở trên bề mặt, và cacboxyl (-COOH), cacbonyl (-CO-) đính ở mép
của các đơn lớp, nhưng GO vẫn giữ nguyên dạng cấu trúc lớp ban đầu của graphit
[32]. Phụ thuộc vào phương pháp tiến hành oxi hóa mà tỉ lệ cũng như số lượng
nhóm chức có khác nhau, ví dụ Graphit oxit được tổng hợp bằng phương pháp
Hummers có nhiều nhóm epoxy hơn nhóm hydroxyl [25].
Hình 1.10. Cơ chế hình thành GO từ graphit [8]
Tách lớp graphit oxit bởi kỹ thuật vi sóng [33] hoặc kỹ thuật siêu âm trong các
dung môi thích hợp [8, 26] thì thu được GO.
1.2.5. Các phương pháp tổng hợp graphen
1.2.5.1. Graphen (rGO) tổng hợp từ graphit oxit
Sơ đồ chuyển hóa graphit thành rGO được thể hiện ở Hình 1.11.
Quá trình khử các nhóm chức chứa oxy trên bề mặt GO sẽ chuyển các C-sp3→
C-sp2, sản phẩm của phản ứng khử này được đưa ra bằng một loạt các tên, ví như:
Graphen oxit bị khử, graphen oxit bị khử về mặt hóa học hay rGO.
15
Vi sóng
Hình 1.11. Sơ đồ chuyển hóa từ graphit thành rGO [34]
Các phương pháp khử GO về rGO đã được nghiên cứu rộng rãi trong thập kỷ
qua [6, 8]. Quá trình khử hóa học GO đã được thực hiện với các tác nhân khử như:
hydrazin monohydrat (N2H4.H2O), natri Bohidrua (NaBH4), dimethyl hydrazin, axit
hydriodic (HI), khí hidro ở nhiệt độ cao, ancol,… [8]. Mỗi tác nhân khử có hoạt tính
với một nhóm chức nhất định và hiệu quả khử của các tác nhân là khác nhau, ví dụ
với Na-NH3 khử trong 30 phút thu được rGO có tỷ lệ C:O ~ 16,61:1 [35], trong khi
đó với hydrazin có hoạt tính khử mạnh với nhóm epoxy và cacboxylic trong điều
kiện khử 80 → 100 oC, tỉ lệ C: O ~ 10,3 : 1 [8], cơ chế khử của hydrazin được minh
họa bởi Hình 1.12.
Hình 1.12. Cơ chế khử nhóm epoxy của hydrazin [26]
Theo Hình 1.12 cho thấy hydrazin dễ dàng phản ứng với các nhóm chức
epoxy trên bề mặt mạng của GO hình thành nên hydrazin alcohol, các nhóm này
không bền sẽ chuyển hóa nhanh thành aminoaziridine, sau đó các nhóm
aminoaziridine này được loại bỏ ở nhiệt độ khoảng 80 - 100 oC để hình thành nên
liên kết đôi, khôi phục lại mạng lưới của rGO tại vị trí đó.
Tác nhân khử NaBH4 cho thấy hiệu quả hơn so với hydrazin, nó hiệu quả cao
với nhóm C=O, hiệu quả thấp với nhóm epoxy và cacboxylic, nhiệt độ khử khoảng
80 oC, tỉ lệ C:O ~ 13,4 : 1 cao hơn so với hydrazin C:O ~ 6,2 : 1 [26]. Axit HI được
sử dụng như một chất khử mạnh trong môi trường axit [8], ion I- có hoạt tính mạnh
với nhóm epoxy và hydroxyl trên GO, đây là hai nhóm chức chiếm tỷ lệ lớn trong
16
GO, sử dụng khoảng 55% axit HI khử GO về rGO cho hiệu quả cao, phân tích phổ
XPS cho tỉ lệ C:O ~ 12,0 : 1. Trong nước, nhóm tác giả Hà Thúc Huy – Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã khử GO bằng tác nhân khử NaBH4, N2H4 và
HI + CH3COOH kết quả thu được đã chứng minh hiệu suất khử tốt nhất với tác
nhân khử là HI + CH3COOH rồi đến NaBH4 và cuối cùng là N2H4 (thông qua đánh
giá độ dẫn điện) [11].
Tuy nhiên, các phương pháp khử hóa học trên cho thấy một số nhược điểm như:
tạo ra chất thải độc hại và có hại cho môi trường (hơi hydrazin là chất rất độc). Do đó,
việc tìm ra các chất khử hiệu quả cao và thân thiện môi trường là cần thiết để thay thế
các phương pháp khử GO truyền thống. Gần đây tác nhân khử thân thiện môi trường,
chẳng hạn như vitamin C, bột nhôm, khử đường, axit amin, Na2CO3,… đã được
nghiên cứu sử dụng để khử GO về rGO [36]. Ở trong nước, nhóm tác giả Vũ Thị Thu
Hà - Viện Hóa học công nghiệp tổng hợp GO bằng phương pháp Hummers rồi khử
GO về rGO bằng tác nhân khử xanh “caffeine”, rGO thu được khoảng 6 lớp [14].
Ngoài phương pháp sử dụng các chất hóa học để khử các nhóm chức chứa oxi
trên GO còn có phương pháp khử nhiệt.
* Sự khử nhiệt
Khử hóa học là phương pháp phổ biến nhất để khử GO, thay vì sử dụng một
chất khử hóa học để loại các nhóm chức chứa oxi từ bề mặt ở đây sử dụng nhiệt để
khử graphít oxit hoặc GO trong lò nung (môi trường chân không cao hoặc trong môi
trường khí Ar, H2, N2,…). Bên cạnh quá trình khử còn có quá trình bóc lớp, quá trình
bóc lớp xảy ra là vì các khí CO, CO2, hơi H2O và các phân tử hydro nhỏ được tạo ra
bằng cách nung nóng graphit oxit, GO lên nhiệt độ cao, tạo ra áp lực rất lớn trong các
oC) khi áp suất đủ lớn sẽ tách các lớp GO ra xa [26]. Đánh giá của hằng số Hamaker
lớp xếp chồng lên nhau (40 MPa tại nhiệt độ 300 oC, 130 MPa khi nhiệt độ đạt 1000
dự đoán rằng áp suất chỉ 2,5 MPa là cần thiết để tách hai tấm GO xếp chồng lên nhau
[26]. Ngoài ra, CO cũng đóng vai trò là các tác nhân khử đi các nhóm chức trên bề
mặt GO [37].
Một vài lớp rGO đã thu được bằng việc khử nhiệt GO trong môi trường nitơ
trong khoảng nhiệt độ từ 200-1000 oC [38]. rGO được tổng hợp ở 800 oC (6 lớp) có
17
một chất lượng cao hơn so với ở nhiệt độ khác, rGO này có diện tích bề mặt riêng
lớn (560,6 m2/g) và cấu trúc nano-xốp. Loại bỏ oxy trong quá trình khử GO cũng
phụ thuộc vào môi trường khí sử dụng (chân không, Ar, N2 hoặc H2), tốc độ gia
nhiệt và động học như đã trình bày trong tài liệu [38]. Cơ chế của quá trình khử
nhiệt được chỉ ra ở Hình 1.13.
Hình 1.13. Sơ đồ mô tả cơ chế khử nhiệt cho GO chỉ ra sự phân hủy của các dạng ôxy qua sự khơi mào phản gốc với: (I) sự hình thành các gốc thông qua các phản ứng đốt cháy (hình thành các gốc hydroxyl, hydro, và hydroperoxy (HO2), (II) Sự lan truyền thông qua phản ứng khử carboxyl hoặc tấn công vào các nhóm hydroxyl cũng như mở các vòng epoxy, (III) chấm dứt vào các gốc benzyl/phenyl với sản phẩm CO/CO2 [38]
18
1.2.5.2. Graphen tổng hợp bằng phương pháp hóa học ướt
*Bóc tách lớp trong pha lỏng (Liquid-phase exfoliation - LPE)
Bóc tách lớp trong pha lỏng (LPE) thường liên quan đến sự phân tán của
graphit trong một dung môi. Qui trình này dựa trên quá trình sonvat hóa, nghĩa là
tạo ra sự ổn định enthalpy của những mảng graphen phân tán bởi sự hấp phụ dung
môi [8]. Sơ đồ biểu diễn phương pháp LPE cho ở Hình 1.14.
Hình 1.14. Sơ đồ biểu diễn phương pháp LPE [8]
Phương pháp này được thể hiện qua ba giai đoạn: phân tán graphit trong dung
môi, bóc lớp graphit thành graphen và cuối cùng là làm sạch sản phẩm graphen [8].
Việc bóc các lớp graphit thành công đòi hỏi phải thắng được lực liên kết Van der
Waals giữa các lớp liền kề. Một trong những phương pháp hiệu quả nhất và đơn
giản để làm giảm lực liên kết Van der Waals là cho graphit vào một môi trường
lỏng, trong môi trường lỏng diện tích bề mặt của các phân tử sẽ giảm đi dẫn đến sự
suy giảm của lực phân tán London và dẫn đến sự yếu đi của lực liên kết Van der
Waals. Năng lượng bề mặt của graphen đã được ước tính là 46,7 mJ/m2 [8]. Vì vậy,
các dung môi với một sức căng bề mặt nằm trong khoảng ~40 mJ/m2, chẳng hạn
như N-methylpyrrolidone (40 mJ/m2), N, N'-dimetylformamide (DMF) (37,1
mJ/m2) và -butyrolactone (35,4 mJ/m2) là các dung môi tốt nhất cho bóc lớp
graphit [8]. Trong công bố của nhóm tác giả Paolo Samorı [39] bằng việc sử dụng
19
một loạt các dung môi từ dẫn xuất benzene, toluene, nitrobenzene và pyridine với
nồng độ khác nhau 0,05 - 0,1 mg/mL để bóc tách thành công graphen từ graphit
(Hình 1.15). Kết quả thu được rất khả quan, tuy nhiên hiệu suất lại rất thấp (1-2%),
hiệu suất cao nhất (2%) khi tác giả sử dụng dung môi pentafluorobenzonitrile với
nồng độ 0,1 mg/mL.
Hình 1.15. Tổng hợp graphen từ graphit bằng phương pháp LPE sử dụng các
dung môi khác nhau [39]
Cách này có ưu điểm là được tiến hành đơn giản, graphen LPE có chất lượng
cao và có khả năng mở rộng sản xuất [8, 35]. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế
như: Năng suất thấp, tấm có kích thước nhỏ (< 5 m), độ phân tán hạn chế, tính độc
hại của các dung môi sử dụng ảnh hưởng nhiều đến môi trường, giá thành của dung
môi cao và việc loại bỏ những lượng dung môi dư thừa trong sản phẩm là không
hoàn toàn.
* Bóc lớp điện hóa graphit
Nói chung, phương pháp điện hóa sử dụng một chất điện phân lỏng dẫn điện
và dòng điện một chiều để làm dãn nở cấu trúc graphit. Có hai loại bóc lớp điện hóa
đó là:
Điện phân sử dụng dung môi không chứa nước
Trong công trình Wang và cộng sự [40] vài lớp graphen đã được phân lập
thành công qua đan xen điện hóa ion liti (Li) trong một chất điện phân propylene
carbonate (PC) bằng cách áp dụng một điện thế âm cao (-15 V) kết hợp siêu âm kéo
dài trong dung môi DMF. Kết quả, hơn 70% các tấm graphen thu được có độ dày ít
hơn năm lớp. Tuy nhiên, hơn 80% graphen lại có kích thước nhỏ hơn 2 m do thời
20
gian siêu âm dài. Để cải tiến chất lượng graphen tác giả Zhong đã sử dụng một quá
trình tổng hợp hai giai đoạn, giai đoạn 1 giãn nở các lớp graphit ban đầu bằng dung
môi propylen carbonat chứa LiClO4, giai đoạn thứ 2 là bóc lớp graphit trong chất
điện phân tetra-n-butylammonium (TBA) với điện thế là -5 V đã được áp dụng cho
cả hai giai đoạn (Hình 1.16). Cuối cùng là siêu âm nhẹ (khoảng 15 phút) được thực
hiện để thu được các lớp graphen.
Hình 1.16. Sơ đồ và hình ảnh của sự giãn nở của điện cực graphit sử dụng quá
trình hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, các điện cực than chì giãn nở do sự đan
xen của các ion liti. Giai đoạn thứ 2 là giãn nở bởi các ion tetra-n-butylammonium
tiếp tục xen vào graphit [8]
Điện phân sử dụng dung môi chứa nước:
Trong phương pháp này, các điện cực than chì thường hoạt động như một cực
dương; nước cung cấp không chỉ như là một dung môi mà còn có thể tạo thành liên
kết C-O ở phía rìa ngoài graphit ở giai đoạn ban đầu. Sau đó, các anion âm được
xen vào và bắt đầu việc giãn nở và bóc lớp. Một điện áp dương tương đối cao (10
V) đã được sử dụng cho các điện cực graphit trong axit sulfuric loãng, sự bóc lớp
2-) [8]. Trong một thí nghiệm điển hình, một dây
của graphit được thực hiện bằng sự giải phóng mạnh mẽ các khí thông qua việc khử
điện hóa của các ion sunfat (SO4
bạch kim được sử dụng như một điện cực đối, graphit được sử dụng như một điện
cực làm việc, và dung dịch H2SO4 được sử dụng như một dung dịch điện phân
(Hình 1.17). Các cơ chế cho quá trình bóc lớp điện hóa graphit được thể hiện như
sau: (i) quá trình điện phân nước tại điện cực tạo ra hydroxyl và gốc oxi tự do; (ii)
các gốc tự do ôxy hóa cạnh và/hoặc trong các ranh giới hạt của than chì; (iii) quá
trình oxy hóa ở mép và ranh giới hạt dẫn đến sự khử phân cực và sự mở rộng của
21
2- theo cùng với nước đan xen vào
2- xen vào giữa và sự tự oxy
các lớp graphit, tạo điều kiện cho các anion SO4
bên trong các lớp graphit; và (iv) sự khử các anion SO4
hóa nước tạo ra các loại khí như SO2 và O2, chúng tác dụng một lực lớn trên lớp
graphit do đó làm yếu liên kết giữa các lớp graphit với nhau (Hình 1.17e). Bằng cách
thay đổi nồng độ của H2SO4 và/hoặc điện thế, nhóm tác giả Khaled Parvez [8] đã đạt
được hiệu suất bóc lớp graphit (với độ dầy của tấm bóc là nhỏ hơn 2 nm) ~60% khối
lượng với nồng độ lên tới 1 mg/ml trong dung môi DMF (Hình 1.17d). Với nồng độ
H2SO4 0,1 M thu được 80% graphen với số lớp từ 1-3 lớp, tỷ lệ C/O là 12,3.
Hình 1.17. (a) Giản đồ minh họa bóc lớp điện hóa graphit, (b) hình ảnh của
mảnh graphit trước và sau khi bóc lớp, (c) graphen bóc lớp nổi trên dung dịch điện
phân, (d) được phân tán những tấm graphen (nồng độ 1 mg/ml) trong DMF và (e)
sơ đồ minh họa cơ chế của việc bóc lớp điện hóa graphit thành rGO [8].
Bóc lớp điện hóa có ưu điểm: Hiệu suất cao, sản xuất nhanh, hiệu quả chi phí,
tính gia công cao và môi trường lành tính. Nhược điểm: Sự oxy hóa thấp, độ dày
tấm không đồng nhất.
22
1.2.5.3. Graphen tổng hợp từ phương pháp vật lý
Graphen được tổng hợp bằng phương pháp vật lý trong cấu trúc sẽ không có
nhóm chức oxy, loại graphen này được gọi là graphen nguyên bản (pristine
graphen), ký hiệu: GP.
a, Bóc lớp cơ học
Bóc lớp cơ học, là kỹ thuật đầu tiên được sử dụng để tổng hợp graphen
Phương pháp này sử dụng các lực cơ học tác động từ bên ngoài để tách vật liệu
graphit dạng khối ban đầu thành các lớp graphen. Với năng lượng tương tác Van
der Waals giữa các lớp khoảng 2 eV/nm2, lực cần thiết để tách lớp graphit là khoảng
300 nN/µm2 [41] đây là lực khá yếu và dễ dàng đạt được bằng cách cọ xát một mẫu
graphit trên bề mặt của đế SiO2 hoặc Si, hoặc dùng băng keo dính.
Năm 2004, Geim và Novoselov tìm ra cách chế tạo graphen thông qua dán
những mảnh vụn graphit trên một miếng băng keo, gập dính nó lại, rồi kéo giật ra,
tách miếng graphit làm đôi. Họ cứ làm như vậy nhiều lần cho đến khi miếng graphit
trở nên thật mỏng, sau đó dán miếng băng keo lên silicon xốp và ma sát nó, khi đó
có vài mảnh graphit dính trên miếng silicon xốp, và những mảnh đó có thể có bề
dày là 1 nguyên tử, chính là GP (Hình 1.18).
Hình 1.18. Phương pháp tách lớp graphit bằng băng dính
Ưu điểm: Dễ thực hiện và không cần những thiết bị đặc biệt, chi phí thấp.
Khuyết điểm: Phương pháp đòi hỏi tính tỉ mỉ, kết quả của phương pháp không
nhất định mà chỉ mang tích chất cầu may, không phù hợp cho việc chế tạo GP với
số lượng lớn để ứng dụng cho sản xuất công nghiệp.
b, Phương pháp epitaxy và CVD [7]
23
* Phương pháp epitaxy thường được tiến hành với đế silic cacbua (SiC) ở
1300 oC trong môi trường chân không cao hoặc ở 1650 oC trong môi trường khí
Argon, do sự thăng hoa của Si xảy ra ở 1150 oC trong môi trường chân không và ở
1500 oC trong môi trường khí Argon. Khi được nâng nhiệt đến nhiệt độ đủ cao các
nguyên tử Si sẽ thăng hoa, các nguyên tử cacbon còn lại trên bề mặt sẽ được sắp
xếp và liên kết lại trong quá trình graphit hóa ở nhiệt độ cao, nếu việc kiểm soát quá
trình thăng hoa của Si phù hợp thì sẽ hình thành nên màng graphen rất mỏng phủ
toàn bộ bề mặt của đế SiC (Hình 1.19). Phương pháp này đã tạo nên các màng
graphen đơn lớp với độ linh động của hạt tải lên đến 2000 cm2/Vs ở 27 K, mật độ
hạt tải tương ứng là ~1013 cm-2 [41].
Hình 1.19. Cơ chế tạo màng graphen bằng phương pháp nung nhiệt đế SiC
*Phương pháp CVD: Phương pháp CVD dùng lò nhiệt độ cao giống như
phương pháp tổng hợp ống than nano. Niken (Ni), platin (Pt), coban (Co), đồng
(Cu) là các chất nền (substrate) phổ biến, các chất nền được đun nóng ở nhiệt độ
khoảng 1000 °C và nguồn cacbon (thông dụng nhất là khí mêtan (CH4)) được thổi
qua chất nền, graphen sẽ được hình thành trên bề mặt chất nền [7]. Sau đó đế được
khử đi để lộ ra mảng graphen tự do. Trong phương pháp CVD thì chất nền được sử
dụng nhiều nhất là Cu [7, 9]. Trong nước có nhóm tác giả Nguyễn Văn Chúc - Viện
Khoa học Vật liệu - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam tổng hợp
graphen bằng phương pháp CVD, các màng graphen với chiều dày 4 nm đã được
tổng hợp trên lá Cu [12]. Độ dày của màng graphen và chiều rộng của dải graphen
được kiểm soát chính xác bằng cách điều chỉnh nhiệt độ ủ, thời gian tiếp xúc của
các chất khí và lựa chọn các chất nền lắng đọng.
24
Ưu điểm: Ưu điểm nổi bật của những phương pháp này là chế tạo được các
màng graphen diện tích lớn (~1 cm2) và có độ đồng đều cao hơn so với các phương
pháp khác. Từ các màng graphen chất lượng tốt này có thể pha tạp hoặc chức hóa
bề mặt.
Khuyết điểm: Khả năng kiểm soát hình thái học và năng lượng bám dính ở
điều kiện nhiệt độ cao vẫn là thử thách của phương pháp này. Tần số plasma
(plasma-enhanced CVD), sự nhiệt phân của khí và sự đồng đều của màng là các yếu
tố rất khó kiểm soát. Bên cạnh đó, phương pháp này cần có những thiết bị và đế
chất lượng cao, do đó sản phẩm tạo thành sẽ có giá thành cao và chỉ có thể đáp ứng
cho một số ứng dụng tiêu biểu, không thích hợp cho việc sản xuất với số lượng lớn
để phục vụ cho những ứng dụng công nghiệp.
1.2.5.4. So sánh GO, graphen tổng hợp từ các phương pháp khác nhau
Trong phương pháp tổng hợp graphen (rGO) đi từ GO, mặc dù quá trình khử
GO về rGO có thể khử phần lớn nhóm chức chứa oxy trên bề mặt, tuy nhiên để làm
tăng tỷ lệ C/O = 2:1 lên đến C/O = 246:1 (Bảng 1.3) đang là một thách thức không
nhỏ [42]. Quan trọng hơn đó là quá trình khử GO sử dụng tác nhân hóa học, tác
nhân nhiệt tạo thành rGO có thể làm thay đổi cấu trúc của cacbon [42] và làm rGO
tổng hợp được có những khuyết tật trong nó. Sự thay đổi về mặt cấu trúc cho thấy
sự khác nhau giữa rGO khử bằng tác nhân hóa học cũng khác so với graphen
nguyên bản. Cấu trúc của graphen nguyên bản (GP), GO và rGO được thể hiện trên
Hình 1.20.
Hình 1.20. Cấu trúc của GO, rGO và GP [42]
25
Từ Hình 1.20 cho thấy so với GP thì rGO có cấu trúc gần giống nhau, tuy nhiên
trên bề mặt vẫn tồn tại số ít các nhóm chứa oxy và đặc biệt là nó có những khuyết tật
so với GP. Một số tính chất của GP, GO và rGO được thể hiện trên Bảng 1.3.
Bảng 1.3. Một số tính chất cơ bản của các vật liệu GP, GO và rGO [42]
Tính chất vật liệu sau tổng hợp Tổng hợp GP bằng các phương pháp: CVD, Epitaxy trên đế SiC và tách lớp graphit Tổng hợp GO bằng phương pháp: Oxy hóa bóc tách lớp graphit Tổng hợp rGO bằng phương pháp: Khử GO về rGO
C : O Không có oxy 2 - 4 8 - 246
Độ dẫn điện (S/m) 10000 - 50000 Cách điện 0,05 - 200
Chất lượng Cao Thấp Thấp
Mô đun biến dạng 1 0,2 0,25
Mặc dù rGO tổng hợp từ GO có chứa khuyết tật và vẫn còn tồn tại nhiều nhóm
oxy. Tuy nhiên, có thể nhận thấy ưu điểm của phương pháp tổng hợp rGO đi từ GO
đó là: hiệu suất cao, độ phân tán cao, có thể gia công cao, phương pháp có thể mở
rộng đưa vào sản xuất. Trong cấu trúc của rGO tổng hợp theo phương pháp hóa học
thường có nhiều khuyết tật tuy vậy những khuyết tật này làm cho rGO dễ dàng liên
kết với các ion kim loại hoặc kim loại thông qua liên kết tĩnh điện [42]. Sự kết hợp
giữa oxit kim loại, kim loại trên vật liệu nền GO và rGO đã làm cải thiện rõ tính
chất trong các ứng dụng như: quang xúc tác, y sinh, điện tử và trong lĩnh vực xúc
tác - hấp phụ [6].
Từ những phân tích trên, trong luận án này graphen (rGO) được tổng hợp bằng
phương pháp hóa học oxy hóa graphit thành GO, sau đó sử dụng tác nhân nhiệt khử
GO về rGO.
1.2.6. Các vật liệu nano composit có từ tính trên cơ sở GO, rGO
Ngoài các vật liệu nano composit trên cơ sở rGO với kim loại và oxit kim loại
như: Ag, Au, Pt, TiO2, ZnO, SnO2, Cu2O, MnO2, NiO…[6, 42, 43] thì một trong
những vật liệu nano composit kim loại, đa kim loại có từ tính trên nền rGO (M-
rGO), và GO (M-GO) cũng đang được quan tâm nghiên cứu do các vật liệu này dễ
dàng thu hồi và tái sinh lại sau phản ứng nhờ sự trợ giúp của từ trường bên ngoài do
từ tính của loại vật liệu này [44]. Trong bài tổng quan của mình Virender K. Sharma
26
[45] đã cho thấy rất nhiều vật liệu M-rGO và M-GO như: Fe2O3/rGO, Fe3O4/rGO,
MnO2/Fe3O4/GO, Fe/GO… đã được tổng hợp bằng nhiều phương pháp khác nhau
như đồng kết tủa, thủy nhiệt, sự chiếu xạ vi sóng… Các vật liệu này đều cho thấy
dung lượng hấp phụ cao đối với chất mầu và các ion kim loại nặng, ví dụ như
Fe3O4/GO có bề mặt 94 m2/g cho dung lượng hấp phụ cực đại Qmax = 73,3 mg/g đối
với chất màu MB [45], hoặc Fe3O4/rGO với diện tích bề mặt 165 m2/g cho dung
lượng hấp phụ cực đại Cr(IV) đạt 160 mg/g, MnO2/Fe3O4/GO với bề mặt riêng 165
m2/g cho dung lượng hấp phụ cực đại Cr(IV) đạt 174,5 mg/g [45].
Trong các vật liệu nano composit có từ tính trên cơ sở rGO thì vật liệu lai của
rGO, GO với vật liệu nano từ tính Fe3O4, Fe-Fe3O4 đang được nghiên cứu nhiều và
ứng dụng rộng rãi cho việc loại bỏ các chất gây ô nhiễm trong nước [46]. Liên kết
của của M với rGO và GO là do liên kết cộng hóa trị [46]. Sự kết hợp giữa hai vật
liệu này đã khắc phục được một số nhược điểm của Fe3O4 và GO, rGO khi sử dụng
chúng làm chất hấp phụ riêng biệt: Fe3O4, Fe khó sử dụng trong các dòng chảy liên
tục do chúng có kích thước hạt nhỏ, dễ bị oxy hóa và không ổn định dễ co cụm [47].
GO, rGO có khả năng hấp phụ cao cho thuốc nhuộm cation khác nhau. Tuy nhiên
do sự phân tán trong nước cao, để phân tách nó sau hấp phụ cần kỹ thuật ly tâm tốc
độ cao do vậy hạn chế ứng dụng thực tế của nó [8].
Sự kết hợp của các hạt nano oxit kim
loại trên rGO và GO hạn chế việc sắp xếp
và tụ hợp của chúng, qua đó tăng cường
diện tích bề mặt của composit [46]. Sự
tăng trưởng tại chỗ của các hạt nano oxit
kim loại trên tấm rGO dẫn đến giảm sự kết
tụ giữa các hạt, làm tấm nền cho các hạt
nano tăng trưởng và giữ chúng lại ở dạng
phân tán. Ngoài ra, sự hình thành composit
không chỉ giúp tăng cường tuổi thọ của hạt
nano Fe3O4 mà còn cho phép thu hồi dễ
Hình 1.21. Ảnh dung dịch fucsin (20
mg/L, bên phải) và dung dịch sau khi được hấp phụ bởi Fe3O4-rGO trong 1 h và được tách bởi một nam châm (trái) [46]
dàng sau khi hoàn thành hấp phụ. Sau khi
hấp phụ, các composit Fe3O4- rGO có thể
27
dễ dàng tách ra khỏi dung dịch qua sử dụng của một nam châm (Hình 1.21) [46].
1.2.6.1. Các phương pháp tổng hợp Fe3O4 -GO
a, Phương pháp đồng kết tủa
Phương pháp đồng kết tủa là phương pháp chế tạo Fe3O4-GO đơn giản, hiệu
quả và được sử dụng rộng rãi [46]. Có hai cách thức đồng kết tủa để tạo Fe3O4-GO:
Cách thứ nhất sử dụng Fe3O4 đã được chế tạo sẵn rồi đưa lên GO [16, 17, 48]. Cách
thứ hai sử dụng các muối sắt (Fe3+, Fe2+) và GO là chất ban đầu [49-51]. Bản chất
của phương pháp là kết tủa đồng thời tất cả các ion có trong thành phần của oxit
phức hợp từ dung dịch mà thường dưới dạng hydroxit, cacbonat, oxalate, citrate
bằng cách trộn các muối Fe3+ và Fe2+ đã được hoà tan theo một tỷ lệ xác định với
một dung môi. Sau đó, hỗn hợp được để lắng, lọc tách thu được hạt có kích cỡ nhỏ.
Trong phương pháp kết tủa từ dung dịch, khi nồng độ của chất đạt đến một
trạng thái bão hòa tới hạn, trong dung dịch sẽ xuất hiện đột ngột những mầm kết tụ.
Các mầm kết tụ đó sẽ phát triển thông qua quá trình khuếch tán của vật chất từ dung
dịch lên bề mặt của các mầm cho đến khi mầm trở thành hạt nano (Hình 1.22) [52].
Hình 1.22. Cơ chế hình thành và phát triển hạt nano trong dung dịch [52]
Kích thước của các hạt nano Fe3O4 trên GO phụ thuộc vào thời gian phát triển
mầm. Nếu thời gian phát triển mầm nhanh (xảy ra ngay sau giai đoạn dung dịch đạt
trạng thái bão hòa) thì kích thước hạt nano nhỏ, phân bố đều. Ngược lại, nếu thời
gian phát triển mầm kéo dài thì các hạt nano Fe3O4 thu được có sự phân bố kích
thước rộng. Khống chế tốt các điều kiện tổng hợp như: pH và nồng độ ion trong
dung dịch có thể thu được hạt có kích thước như mong muốn đồng thời làm thay đổi
28
diện tích bề mặt của các hạt đã được hình thành [52]. Ưu điểm của phương pháp
đồng kết tủa là có thể tổng hợp được một lượng mẫu lớn, tuy nhiên hạt được chế tạo
theo phương pháp này thường có phân bố kích thước rộng bởi sự phát triển hạt phụ
thuộc vào động năng khuếch tán của các ion.
* Cơ chế của phương pháp đồng kết tủa
Phương pháp đồng kết tủa chế tạo hạt Fe3O4 dựa trên phản ứng hoá học:
Fe2+ + 2Fe3+ + 8OH- = Fe3O4 + 4H2O (1)
Phản ứng này đạt kết tủa hoàn toàn ở pH 8 -14 với tỷ lệ Fe2+ và Fe3+ = 1/2
không đổi. Tuy nhiên do Fe2+ dễ dàng bị oxi hoá vì vậy mà sản phẩm tạo ra có thể
làm thay đổi tỷ lệ mong muốn giữa Fe2+ và Fe3+. Do đó, khi làm thí nghiệm nên làm
trong môi trường khí trơ (thường là N2) để tránh sản phẩm phụ ảnh hưởng tới độ
tinh khiết của sản phẩm.
Một số những phản ứng phụ và sản phẩm của chúng:
(2) 4Fe(OH)2 + O2 + 2H2O = 4Fe(OH)3
Fe3O4 + 0,5O2 = 3Fe2O4 (3)
Trong dung dịch muối Fe2+ và Fe3+ bị thuỷ phân và cung cấp những phân tử sắt
3+ + 3Cl- (4)
có cấu trúc đơn đômen. Muối Fe2+ và Fe3+ bị phân li và tạo ra ion hexa-aq như sau:
2+ + 2Cl- (5)
FeCl3 + 6H2O = Fe(H2O)6
FeCl2 + 6H2O = Fe(H2O)6
Trong điều kiện thuận lợi: pH cao và nhiệt độ phù hợp, ion hexa-aq thuỷ phân
và tạo thành chuỗi mầm tinh thể liên kết với nhau. Phản ứng thuỷ phân đơn giản
được mô tả theo phương trình (6), với z là hoá trị của ion kim loại, n là số bậc của
phản ứng thuỷ phân [52].
Z+ + H2O = Fe(H2O)6-n(OH)n(z-n) + 3H3O+ (6)
Fe(H2O)6
2m+ và được mô tả bằng phản ứng (7):
Khi bazơ được thêm vào dung dịch phức đa nhân màu đỏ đậm được tạo ra có
công thức: [Fe(II)Fe(III)2Ox(OH)2(3-x)]m
2m+ + mxH2O (7)
mFe2+ + 2mFe3+ + 6mOH- = [Fe(II)Fe(III)2Ox(OH)2(3-x)]m
Phức này có tỷ lệ Fe(III)/Fe(II) giống với tỷ lệ của Fe3O4. Sau đó phức có màu
đỏ đậm sẽ bắt đầu kết tủa tạo ra những hạt màu đen Fe3O4. Để kết tủa hoàn toàn thì
pH của dung dịch đạt được ít nhất là 9 - 10 [50, 51]. Khi Fe3O4 được hình thành,
29
trên bề mặt GO có chứa các nhóm chức chứa oxy do đó sẽ hình thành liên kết Fe-O-
C giữa Fe3O4 với GO tạo thành vật liệu composit [50]. Quá trình hình thành Fe3O4-
GO được mô tả thông qua Hình 1.23.
Hình 1.23. Quá trình hình thành Fe3O4-GO bằng phương pháp đồng kết tủa
Đây là phương pháp phổ biến nhất hiện nay để điều chế M-rGO và M-GO.
Với cách thứ nhất có thể kiểm soát được kích thước hạt Fe3O4 trước khi tạo thành
vật liệu composit, cách này thường được sử dụng để nghiên cứu sự liên kết giữa
nhóm chức của GO và Fe3O4 ứng dụng trong xử lý các chất màu và ion kim loại
nặng [17, 46]. Với cách thứ hai kích thước hạt Fe3O4 khó được kiểm soát, cách này
thường được dùng để nghiên cứu các tính chất của Fe3O4 - GO và khả năng xử lý
As(III), As(V), Cr(VI), xử lý màu [51].
b, Phương pháp thủy nhiệt
Phương pháp thủy nhiệt là phương pháp sử dụng nhiệt độ cao và áp suất cao để
tổng hợp vật liệu. Hỗn hợp dung dịch được chuẩn bị giống như phương pháp đồng
kết tủa. Hỗn hợp sau đó được thủy nhiệt trong bình thủy nhiệt (bình Teflon) [53].
Trong quá trình chế tạo Fe3O4 bằng phương pháp thủy nhiệt tác nhân kết tủa sử dụng
là NaOH. Phương pháp thủy nhiệt khác với phương pháp đồng kết tủa ở cơ chế kết
2m+ và được mô tả bằng phản ứng (7).
tủa tạo thành Fe3O4. Cả hai phương pháp lúc đầu đều tạo ra phức đa nhân màu đỏ
đậm có công thức [Fe(II)Fe(III)2Ox(OH)2(3-x)]m
Phương pháp thủy nhiệt dùng điều kiện nhiệt độ cao để bẻ gãy các phức đa
nhân màu đỏ tạo thành Fe3O4. Trong khi đó, phương pháp đồng kết tủa sử dụng yếu
tố pH. Ưu điểm của phương pháp thủy nhiệt chế tạo hạt Fe3O4 có kích thước nhỏ,
chống oxi hóa. Tuy nhiên thời gian tổng hợp mẫu dài và bị giới hạn về khối lượng
do phụ thuộc vào thiết bị tổng hợp.
30
Thủy nhiệt tổng hợp Fe3O4-GO được chia thành hai loại phụ thuộc vào thành
phần dung dịch: loại thứ nhất là Hydrothermal, loại thứ hai là Solvothermal. Sự
khác nhau của hai loại này là thành phần dung môi để phân tán các chất tham gia
phản ứng. Hydrothermal sử dụng dung môi là nước, Solvothermal sử dụng dung
môi hữu cơ như ethylene glycol (EG), diethylenen glycol (DEG). Chengzhong Yu
và cộng sự [54] đã sử dụng phương pháp này để tổng hợp Fe3O4-GO với kích thước
< 20 nm, sơ đồ tổng hợp được thể hiện trong Hình 1.24.
Hình 1.24. Sơ đồ tổng hợp Fe3O4-rGO bằng phương pháp thủy nhiệt dung môi [54]
Hiện nay, phương pháp thủy nhiệt còn được kết hợp với các phương pháp
khác như, thủy nhiệt với vi sóng (microwave hydrothermal processing), với điện
hóa (hydrothermal electrochemical synthesis), với siêu âm (hydrothermal
sonochemical synthesis), … Với các phương pháp này ta có thể tạo ra vật liệu có
kích thước và hình dạng như mong muốn [53].
c, Một số phương pháp khác
Ngoài hai phương pháp chính là: đồng kết tủa và thủy nhiệt được trình bày ở trên,
tổng hợp Fe3O4-GO còn được thực hiện bởi một số phương pháp khác như: phương
pháp lắng đọng điện hóa, xử lý nhiệt, sol - gel [55].
Đặc biệt gần đây một số nhà nghiên cứu đã kết hợp đưa đồng thời kim loại, oxit
kim loại lên nền vật liệu graphen để làm tăng tính chất của chúng. Xinhua Xu [56] đã
sử dụng đồng thời phương pháp đồng kết tủa để tổng hợp Fe3O4/GO sau đó tiến hành
đưa kim loại Feo lên trên vật liệu Fe3O4-GO bằng tác nhân khử NaBH4 tạo thành vật
liệu Fe-Fe3O4-GO cho dung lượng hấp phụ Cr(IV) cao Qmax = 100 mg/g và cao hơn so
với nano Fe3O4 Qmax = 19,2 mg/g. Ngoài ra nhóm tác giả Bo Yang [57] cũng sử dụng
31
phương pháp như nhóm tác giả Xinhua Xu tổng hợp Fe-Fe3O4-GO cho hoạt tính quang
hóa cao phân hủy 98% thuốc nhuộm xanh methylen nồng độ 50 mg/L sau thời gian 60
phút chiếu đèn với nồng độ xúc tác chỉ cần 0,1 g/L. Sơ đồ mô phỏng quá trình tổng hợp
Fe/Fe3O4/GO được chúng tôi mô phỏng lại theo Xinhua Xu [56] và Bo Yang [57].
Hình 1.25. Quá trình tổng hợp Fe3O4-GO và Fe-Fe3O4-GO bằng phương pháp
kết tinh tại chỗ
1.2.6.2. Tâm hoạt động của vật liệu nano composit có từ tính trên cơ sở GO, rGO
Tâm hoạt động của vật liệu composit M-rGO và M-GO đóng vai trò quyết
định đến tính chất hấp phụ của vật liệu. Sự hấp phụ các chất hấp phụ trên M-GO,
M-rGO chủ yếu là do tạo phức bề mặt, trao đổi ion, hút tĩnh điện và tương tác π-π
đối với nhân thơm trong cấu trúc của chất bị hấp phụ [45, 46].
Zhi Wang và cộng sự [58] báo cáo về sự hấp phụ nhanh chóng thuốc nhuộm
hữu cơ, fucsin (C20H19N3) trên nano composit Fe3O4-rGO, trong đó, gần 96% thuốc
nhuộm bị hấp phụ trong vòng 10 phút. Sự hấp phụ nhanh chóng fuchsin là do hai
loại tương tác khác nhau giữa graphen và phân tử thuốc nhuộm, bao gồm: (i) Tương
tác giữa các nhóm chức bề mặt với các phân tử thuốc nhuộm và các nguyên tử
cacbon trong cấu trúc lục giác, (ii) tương tác π- π của sự chồng xếp với một số vòng
thơm của chất hữu cơ.
Quá trình hấp phụ phụ thuộc nhiều vào pH dung dịch. Chandra và cộng sự
[59] sử dụng composit M-rGO (Fe3O4-rGO) cho việc loại bỏ các ion Asen và cũng
nghiên cứu ảnh hưởng của pH đến hiệu quả hấp phụ của vật liệu lai này. Thấy rằng
32
hiệu quả hấp phụ phụ thuộc nhiều vào các giá trị pH. Cơ chế hấp phụ là lực hút tĩnh
điện giữa các điện tích dương M-rGO và điện tích âm asen/axit asen (H3AsO4). Khi
pH của dung dịch nhỏ hơn điểm đẳng điện (pHpzc), M-rGO tích điện dương do đó
khả năng hấp phụ các anion As(V) cao. Khi pH của dung dịch được tăng cao hơn
pHpzc điện tích dương trên bề mặt M-rGO giảm, nhưng sự phân ly anion As(III)
cũng tăng lên kéo theo sự gia tăng hấp phụ. Do đó tác giả đã đưa ra nhận định, sự
hấp phụ As(V) khác với sự hấp phụ As(III). Quá trình hấp phụ As(III) trên M-rGO
là do phức bề mặt thay vì tương tác tĩnh điện.
1.3. Ứng dụng và triển vọng của các vật liệu nghiên cứu trong hấp phụ chất
màu hữu cơ và các ion kim loại nặng
1.3.1. Ứng dụng của các vật liệu GO, rGO trong hấp phụ chất màu và các ion kim
loại nặng
1.3.1.1. Hấp phụ chất màu, chất hữu cơ
Các vật liệu GO và rGO cũng được sử dụng làm chất hấp phụ hiệu quả cho
quá trình loại bỏ các chất ô nhiễm hữu cơ: thuốc nhuộm, thuốc kháng sinh, thuốc
trừ sâu, nước nhiễm dầu, và các chất hữu cơ tự nhiên [10, 42]. Cơ chế hấp phụ của
vật liệu hấp phụ và các chất hữu cơ phụ thuộc vào tính chất và cấu trúc của chúng
(cấu tạo phân tử, momen lưỡng cực, sự hiện diện của các nhóm chức trên bề mặt).
Do vậy khả năng và hiệu suất hấp phụ của các vật liệu sẽ khác nhau cho dù chúng
đều được cấu tạo từ GO, rGO hoặc graphen nguyên bản. Tương tự như vậy, sự có
mặt hay vắng mặt của các nhóm chức như: NH2, OH, COOH trong chất hấp phụ
cũng sẽ xác định cơ chế và hiệu quả của quá trình hấp phụ [42]. Các cơ chế hấp phụ
trên vật liệu cơ sở graphen nguyên bản, rGO, GO chủ yếu đó là: lực hút tĩnh điện,
hiệu ứng kỵ nước, tương tác π-π, liên kết hydro, liên kết cộng hóa trị [10, 22].
Liu và cộng sự [60] đã báo cáo việc sử dụng rGO là một vật liệu hấp phụ loại
bỏ methylene xanh từ dung dịch nước. Dung lượng hấp phụ thuốc nhuộm tăng từ
153,85 mg/g - 204,08 mg/g ứng với tăng nhiệt độ từ 293 K đến 333 K, trong khi
việc loại bỏ thuốc nhuộm tối đa (~ 99,68%) đã được quan sát thấy ở pH 10,0. Động
học hấp phụ tuân theo mô hình động học biểu kiến bậc hai. Đẳng nhiệt hấp phụ tuân
theo mô hình đường đẳng nhiệt Langmuir hơn so với mô hình Freundlich. Tính toán
33
các thông số nhiệt động lực học chỉ ra rằng hấp phụ xanh methylene trên rGO là
một quá trình tự diễn biến và thu nhiệt.
Zhang và cộng sự [61] đã báo cáo khả năng hấp phụ xanh methylene của GO
đạt tối đa là 1939 mg/g ở pH = 7. Ngoài ra Sampath và cộng sự [62] cho thấy rGO
có khả năng hấp phụ thuốc nhuộm hoạt tính O range với Qmax = 5,96 mg/g, cơ chế
hấp phụ thông qua tương tác xếp chồng π-π.
Trong bài tổng quan về ứng dụng của GO và rGO của Rajasekhar
Balasubramanian [22] đã đề cập đến khá chi tiết trong công trình của mình, có thể
thể đến như: Nghiên cứu bởi Li và cộng sự về quá trình hấp phụ cation đỏ X-GRL
trên graphen, dung lượng hấp phụ cực đại là 238,10 mg/g tại 333 K, sự hấp phụ là
quá trình tự diễn biến và thu nhiệt, động học hấp phụ tuân theo mô hình động học
biểu kiến bậc 2. Nghiên cứu của Wu và cộng sự trong việc sử dụng graphen để loại
bỏ xanh metylen, lượng thuốc nhuộm hấp thụ được xác định là phụ thuộc mạnh mẽ
vào nồng độ ban đầu của xanh methylen, quá trình hấp phụ đạt được trạng thái cân
bằng sau 1 h. Phân tích nhiệt động lực học cho thấy quá trình hấp phụ là tự diễn
biến và thu nhiệt. Graphen cho thấy một khả năng hấp phụ thuốc nhuộm rất cao với
dung lượng hấp phụ cực đại là 1,52 g/g, nguyên nhân chủ yếu là do tương tác xếp
chồng π-π được suy ra thông qua các nghiên cứu quang phổ huỳnh quang. Các nhà
nghiên cứu cũng điều tra khả năng tái sinh và tái sử dụng graphen và thấy rằng
không có thay đổi đáng kể hiệu quả hấp phụ của graphen ít nhất là trong năm chu
kỳ đầu tiên của quá trình hấp phụ-giải hấp.
1.3.1.2. Hấp phụ các ion kim loại nặng
Đối với rGO trong cấu trúc vẫn còn tồn tại số ít các nhóm carboxyl (- COOH)
và cacbonyl (- C=O) nằm ở các cạnh tấm, các nhóm epoxy (C - O - C) và nhóm
hydroxyl (- OH) nằm trên mặt phẳng [22]. Trong khi đó, GO có tính axit rất cao do
đó nó có thể dễ dàng hấp phụ các phân tử bazơ và các cation [10]. Sự hiện diện của
các nhóm chức hoạt động như cacbonyl, epoxy, hydroxyl trên bề mặt của GO và
rGO cho phép nó tương tác với rất nhiều các phân tử trải dài trên bề mặt biến tính.
Hơn nữa, những nhóm hoạt động này của GO cũng có thể liên kết với các ion kim
loại nặng có mặt trong dung dịch thông qua phức bề mặt, do đó nó cũng có thể sử
34
dụng để tách các ion từ dung dịch [5]. Khả năng hấp phụ các ion kim loại nặng như:
As, Fe, Cu, Co, Cd... cũng được Rajasekhar Balasubramanian [22] đề cập đến
nhiều. Trong đó các công trình tiêu biểu của các nhà nghiên cứu đã được đưa ra.
Khả năng hấp phụ Fe(II) và Co(II) trong dung dịch nước bởi rGO đã được Chang và
cộng sự đề cập. rGO được tổng hợp bằng phương pháp điện hóa, dung lượng hấp
phụ cực đại 299,3 mg/g và 370 mg/g tương ứng cho Fe(II) và Co(II).
Wu và cộng sự [63] đã thử nghiệm khả năng hấp phụ của GO để loại bỏ Cu(II)
từ dung dịch nước. Các điều kiện tối ưu cho loại bỏ Cu(II) bởi GO: pH 5,3, nồng độ
Cu(II) 1 mg/mL và thời gian tiếp xúc cân bằng là 150 phút. Quá trình hấp phụ
Cu(II) phù hợp hơn với mô hình đẳng nhiệt Freundlich, dung lượng hấp phụ cực đại
Cu(II) là 117,5 mg/g. Sự hấp phụ Cu(II) trên GO là do tạo phức bề mặt, lực hút tĩnh
điện theo phương trình thực nghiệm sau đây:
GO – COOH + Cu2+ → GO – COO- - Cu2+ + H+
(GO – COOH)2 + Cu2+ → (GO – COOH)2 – Cu2+ + 2H+
GO – OH + Cu2+ → GO – O- – Cu2+ + 2H+
(GO – OH)2 + Cu2+ → (GO – O –)2 –Cu2+ + 2H+
Cơ chế hấp phụ được đề xuất đã được hỗ trợ bởi thực tế là pH dung dịch cân
bằng thấp hơn pH dung dịch ban đầu, điều này chủ yếu là do sự giải phóng các
proton từ các nhóm -COOH và -OH của GO. Thí nghiệm sử dụng HCl là chất giải
hấp đã chứng minh rằng hơn 74% Cu(II) hấp phụ có thể được giải hấp ở pH < 1.
Sitko và cộng sự [64] đã nghiên cứu sự hấp phụ các ion Cu (II), Zn(II), Cd(II)
và Pb(II) trên GO. Ái lực hấp phụ được phát hiện theo thứ tự Pb(II) > Cd(II) >
Zn(II) > Cu(II) trong hệ đơn kim loại, nhưng theo thứ tự Pb(II) > Cu(II) > Cd(II) >
Zn(II) trong các hệ hai kim loại. Nghiên cứu sự hấp phụ đẳng nhiệt và động học cho
thấy sự hấp phụ ion kim loại trên GO là đơn lớp và kiểm soát bởi sự hấp phụ hóa
học liên quan mạnh mẽ tới sự tạo phức bề mặt của các ion kim loại với các nhóm
chứa oxy trên bề mặt của GO.
Qua các ví dụ trên cho thấy GO và rGO với những tính chất đặt biệt vượt trội
với diện tích bề mặt riêng cao, tính ổn định hóa học tốt, cộng với tương tác π-π mạnh
của vòng thơm hứa hẹn cho hiệu quả hấp phụ tốt đối với các chất nhuộm màu, các
35
ion kim loại nặng. Tuy nhiên, khả năng thu hồi GO và rGO sau khi sử dụng thấp, mặt
khác nhằm cải thiện hơn nữa khả năng hấp phụ của chúng hiện nay tổng hợp và ứng
dụng vật liệu nano composit trên cơ sở GO và rGO trong hấp phụ xử lý môi trường
đang là một trong những hướng đi được các nhà nghiên cứu quan tâm.
1.3.2. Ứng dụng của vật liệu composit trên cơ sở GO, rGO trong hấp phụ
1.3.2.1. Hấp phụ chất màu
Gần đây, nhiều nghiên cứu sử dụng vật liệu nano oxit kim loại trên rGO, GO
để loại bỏ các chất ô nhiễm trong nước đã được báo cáo.
Susanta Sinha Roy [46] trong bài tổng quan của mình đã nêu ra rất nhiều công
trình của các tác giả khác nhau trong việc ứng dụng vật liệu composit M-rGO và M-
GO xử lý chất màu hữu cơ độc hại. Trong đó có thể kể đến các tác giả như:
Chunjiao Zhou sử dụng phương pháp đồng kết tủa tổng hợp Fe3O4-GO tại pH = 10
với tác nhân điều chỉnh pH là NaOH. Kích thước hạt nano Fe3O4 ~ 20 nm. Hiệu
suất hấp phụ xanh methylen đạt 75 %, tốc độ hấp phụ nhanh. Quá trình hấp phụ trên
vật liệu tuân theo mô hình đẳng nhiệt Langmuir. Li và cộng sự đã thành công tổng
hợp composit CoFe2O4 – rGO, khả năng hấp phụ metyl da cam đạt 71,54 mg/g.
Mingce Long [49] đã tổng hợp Fe3O4- GO từ nguồn FeCl2 và FeCl3 bằng
phương pháp đồng kết tủa sử dụng tác nhân kết tủa là NH4OH. Kích thước hạt nano
Fe3O4 vào khoảng 10- 20 nm, diện tích bề mặt BET 296,2 m2/g, sử dụng cho hấp
phụ Rhodamin B, kết quả thu được mô hình hấp phụ phù hợp với Langmuir, dung
lượng hấp phụ cực đại đạt 432,91 mg/g, so với than hoạt tính thì cao hơn 3,7 lần.
Với các hạt nano Fe3O4 là chất xúc tác tại chỗ (in situ), hiệu suất hấp phụ của vật
liệu tổng hợp có thể được phục hồi bằng cách thực hiện một phản ứng kiểu Fenton
(Fenton-like reaction), đây có thể là một cách tái tạo đầy hứa hẹn cho các chất hấp
phụ trong việc loại bỏ chất ô nhiễm hữu cơ trong nước thải.
Jintu Fan và cộng sự [65] đã chuẩn bị composit Fe3O4- GO có liên kết cộng
hóa trị ràng buộc giữa Fe3O4 và GO. Bề mặt của Fe3O4 được biến tính với tetraethyl
orthosilicate và (3-aminopropyl) triethoxysilane, để đính kèm các nhóm amino hoạt
động vào bề mặt của Fe3O4. Hơn nữa, các nhóm amino hoạt động trên bề mặt của
Fe3O4 khi tiếp xúc với nhóm carboxylic trên bề mặt của GO dẫn đến sự hình thành
36
liên kết cộng hóa trị. Fe3O4-GO có dung lượng hấp phụ lớn gần 190,14 và 140,79
mg/g tương ứng cho xanh methylene và màu đỏ trung tính.
1.3.2.2. Hấp phụ các ion kim loại nặng
Khả năng hấp phụ các ion kim loại nặng của các vật liệu trên cơ sở GO và
rGO cũng được nhiều tác giả đề cập:
Liu và các đồng nghiệp [66] nghiên cứu ảnh hưởng của pH đến sự hấp phụ
Co(II) trên Fe3O4- rGO. Một sự gia tăng ổn định trong hấp phụ được quan sát với
mức tăng pH 3-6, nhưng tốc độ hấp phụ tăng đột ngột trong phạm vi pH 6-8,5.
Những ảnh hưởng của sự có mặt cation và anion ngoài đến khả năng hấp phụ của ion
- > Cl-.
Co(II) trên Fe3O4- rGO đã được nghiên cứu. Tác giả đã chỉ ra, đối với cation khả
- > NO3
năng hấp phụ giảm dần theo chiều K+ > Na+ > Mg2+, đối với anion ClO4
Một nghiên cứu của Zhu và cộng sự [67] cho thấy rằng việc loại bỏ các ion
- cao hơn vì thế hấp phụ trên
crom bởi composit Fe3O4 - rGO phụ thuộc nhiều vào pH, ở pH = 1-3 thì loại bỏ hoàn
2-. Sự hấp phụ Cr(VI) giảm khi pH được nâng từ axit
toàn Cr(VI). Tại pH có tính axit, nồng độ các ion HCrO4
composit chiếm ưu thế hơn CrO4
tới bazơ, nguyên nhân là do sự tập trung cao của các ion OH- trên bề mặt của
composit, cạnh tranh với các ion crôm cho các vị trí hấp phụ có sẵn trên bề mặt
composit. Tương tự như vậy, dung dịch có tính axit cao cũng có thể cản trở khả năng
hấp phụ của composit vì ở pH có tính axit cao, nồng độ của các ion H+ lớn có thể
cạnh tranh với các ion kim loại và có thể hạn chế sự hấp phụ các ion kim loại [46].
Xinhua Xu và cộng sự [56] tổng hợp nano sắt hóa trị không (nZVI) trên vật
liệu từ Fe3O4/Graphen (nZVI@MG) và sử dụng nó để loại bỏ Cr(VI) trong dung
dịch nước. Hiệu quả loại bỏ 83,8%, cao hơn nhiều so với các chất riêng biệt (18,0%
cho nZVI, 21,6% cho Fe3O4 và 23,7% đối với graphen). Quá trình hấp phụ tuân
theo mô hình động học biểu kiến bậc hai. Dung lượng hấp phụ cực đại Cr(VI) đạt
66,2-101,0 mg/g tương ứng với sự giảm pH 8,0 - 3,0 ở 30 oC. Nhóm tác giả cũng
chỉ ra rằng khi đưa các hạt Fe/Fe3O4 lên bề mặt GO thì quá trình hấp phụ xảy ra
theo mô hình Langmuir do bề mặt có tính đồng nhất hơn.
Bhunia và cộng sự [68] đã tổng hợp thành công Fe-Fe3O4-rGO và sử dụng nó
như là chất hấp phụ để loại bỏ As(III) trong môi trường nước. Quá trình hấp phụ
tuân theo mô hình Langmuir và động học biểu kiến bậc hai. Dung lượng hấp phụ
37
cực đại As(III) đạt 44,4 mg/g. Họ cũng so sánh khả năng hấp phụ As(III) của Fe-
Fe3O4-rGO với Fe-rGO và Fe3O4-rGO thấy rằng Fe-Fe3O4-rGO hấp phụ As(III)
hiệu quả nhất. Do khả năng hấp phụ tuyệt vời của nó mà việc loại bỏ một số ion kim
loại khác bởi Fe-Fe3O4-rGO cũng được nghiên cứu. Dung lượng hấp phụ tối đa của
Fe-Fe3O4-rGO để loại bỏ Cr(VI), Hg(II), Pb(II) và Cd(II) đã được tìm thấy tương
ứng là 31,1, 22,0, 19,7 và 1,91 mg/g.
Ngoài Fe3O4, nhiều oxit kim loại khác như SiO2, ZnO, MnO2, CoFe2O4, Cu2O,
NiO và ZrO2 cũng được đưa lên bề mặt rGO, GO để làm các chất xúc tác và hấp
phụ [43, 46]. Đã có một vài báo cáo về tính chọn lọc cao của nanocomposit rGO
cho các ion kim loại nhất định cũng được Susanta Sinha Roy [46] nêu ra. Lee và
Yang [69] đã nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian xử lý thủy nhiệt tới hiệu quả hấp
phụ của composit TiO2-GO cho việc loại bỏ các ion Zn2+, Cd2+ và Pb2+. Thời gian
xử lý thủy nhiệt từ 6 giờ đến 12 giờ, diện tích bề mặt của các vật liệu tổng hợp được
cũng tăng tương ứng từ 88,97 - 132,74 m2/g và hiệu quả hấp phụ từ 44,8 ± 3,4 mg/g
đến 88,9 ± 3,3 mg/g cho Zn2+, 65,1 ± 4,4 mg/g đến 72,8 ± 1 mg/g cho Cd2+, và 45,0
± 3,8 mg/g đến 65,6 ± 2,7 mg/g cho Pb2+.
38
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ THỰC NGHIỆM
2.1. Thực nghiệm
2.1.1. Hóa chất
Các hóa chất sử dụng trong luận án được liệt kê ở Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Danh mục hóa chất chính dùng trong luận án
STT Hóa chất Nguồn gốc
1 Graphit loại tinh khiết > 99%, cỡ hạt < 45 m, Sigma- Aldrich loại bột (powder).
Merck 2 H2SO4 (98%)
Merck 3 KMnO4 (loại tinh thể, 99%)
4 Merck C2H5OH (99,5%)
Sigma- Aldrich 5 H2O2 (30%)
6 Merck FeCl3.6H2O (99%)
7 Merck FeCl2.4H2O (99%)
Trung Quốc 8 NaBH4 (98%)
Trung Quốc 9 NH4OH (25%)
Merck 10 NaH2AsO4.7H2O (99%)
11 HCl (36%) Trung Quốc
12 Dung dịch NaOH (0,1M) Trung Quốc
13 Dung dịch NaCl (0,1 M) Trung Quốc
14 Trung Quốc Thuốc nhuộm hoạt tính RR195 (C31H19ClN7Na5O19S6)
Merck 15 Dung dịch Cu(NO₃)₂ tiêu chuẩn 1000 ppm
Merck 16 Dung dịch Cd(NO₃)₂ tiêu chuẩn 1000 ppm
Việt Nam 17 Khí N2 loại tinh khiết 99,99%
2.1.2. Tổng hợp vật liệu graphit oxit
Quá trình tổng hợp graphit oxit được tiến hành theo Hình 2.1.
B1: Cho 3 g bột graphit vào 42 ml dung dịch H2SO4 98% trong một cốc 1000
ml được ngâm sẵn trong chậu đá muối lạnh (0 oC), khuấy cơ liên tục trong 30 phút
với tốc độ khuấy 350 vòng/phút.
39
Hình 2.1. Sơ đồ tổng hợp graphit oxit từ graphit
B2: Thêm từ từ 0,45 g KMnO4 vào hỗn hợp đang được khuấy trên. Tốc độ cho
KMnO4 phải đảm bảo sao cho nhiệt độ hỗn hợp không vượt quá 0±5 oC.
B3: Thêm 9 g KMnO4 vào hỗn hợp đang được khuấy trên, tốc độ cho KMnO4 phải
đảm bảo sao cho nhiệt độ hỗn hợp không vượt quá 35±3 oC. Khuấy tiếp trong 30 phút.
B4: 120 mL nước cất được thêm vào hỗn hợp rất từ từ để tránh hiện tượng quá
nhiệt cục bộ, nhiệt độ của hệ được giữ ở 90 oC, tiếp tục khuấy trong 30 phút.
B5: Thêm tiếp 80 mL H2O để dừng phản ứng, nhiệt độ ~ 50 oC, khuấy tiếp 20 phút.
B6: 10,5 mL dung dịch H2O2 30% được cho vào hỗn hợp, khuấy khoảng 20 phút.
B7: Sản phẩm được lọc rửa với dung dịch HCl 0,1 M, sau đó rửa nhiều lần với
nước cất và ly tâm đến pH = 7, sấy khô ở nhiệt độ 60 oC trong chân không, sản
phẩm thu được graphit oxit.
B8: Hỗn hợp sấy khô được nghiền mịn bằng cối đá mã não và bảo quản trong
bình kín.
2.1.3. Tổng hợp vật liệu GOSA, GOVS và rGO
a/ Tổng hợp vật liệu GOSA, GOVS
Quá trình tổng hợp GOSA, GOVS được tiến hành theo Hình 2.2:
40
Hình 2.2. Sơ đồ tổng hợp GOSA, GOVS và Graphene (rGO)
Đối với graphit oxit được bóc lớp bằng kỹ thuật siêu âm, ảnh hưởng của thời gian siêu âm đến quá trình tổng hợp GOSA được khảo sát. Ký hiệu các mẫu được trình bày trong Bảng 2.2.
Bảng 2.2. Ký hiệu các mẫu GOSA tổng hợp ở các thời gian siêu âm khác nhau
Ký hiệu mẫu Thời gian siêu âm (phút)
GSA0 GSA1 GSA2 GSA3 0 30 60 120 Tỷ lệ graphit oxit/H2O (g/L) 2 2 2 2
Đối với graphit oxit được bóc lớp bằng kỹ thuật vi sóng, ảnh hưởng của thời gian vi sóng và công suất vi sóng đến quá trình tổng hợp GOVS được khảo sát. Ký hiệu các mẫu được trình bày trong Bảng 2.3.
Bảng 2.3. Ký hiệu các mẫu GOVS tổng hợp ở các thời gian và công suất khác nhau
Ký hiệu mẫu GVS1 GVS2 GVS3 GVS4 GVS5 GVS6 GVS7 Thời gian vi sóng (phút) 1 2 3 4 2 2 2 Lượng graphit oxit sử dụng (g) 1 1 1 1 1 1 1 Công suất vi sóng (W) 700 700 700 700 216 1000 1200
41
b/ Tổng hợp rGO từ GO
Cho 0,5 g GO vào và cố định vị trí giữa ống phản ứng sau đó đưa vào thiết bị
phản ứng. Thiết bị phản ứng được gia nhiệt với tốc độ 20 oC/phút và nhiệt độ nâng
lên đến nhiệt độ khảo sát, lưu lượng dòng khí Nitơ là 10-15 mL/phút, thời gian phản
ứng là 1 giờ tính từ lúc thiết bị phản ứng đạt nhiệt độ yêu cầu. Sau khi hết thời gian
phản ứng ngừng gia nhiệt và để nguội tự nhiên xuống nhiệt độ phòng rồi lấy sản
phẩm ra khỏi thiết bị phản ứng thu được rGO. Ký hiệu các mẫu tổng hợp rGO ở các
nhiệt độ khử khác nhau được trình bày ở Bảng 2.4.
Bảng 2.4. Ký hiệu các mẫu rGO được tổng hợp từ khử GOVS ở các
nhiệt độ khác nhau
Tốc độ gia nhiệt Ký hiệu mẫu (độ/phút) Lưu lượng khí N2 (ml/phút)
G1 Nhiệt độ (oC) 400 20 15-20
G2 600 20 15-20
G3 800 20 15-20
G4 1000 20 15-20
Hình 2.3. Hệ thiết bị phản ứng nhiệt tổng hợp rGO từ GO
2.1.4. Tổng hợp vật liệu nano composit Fe3O4-GOVS
Quá trình tổng hợp Fe3O4-GOVS với tỷ lệ 1:1 về khối lượng được tiến hành
theo Hình 2.4.
B1: Cân một lượng GOVS theo tính toán phân tán với 110 mL nước cất sau đó
cho vào trong thiết bị phản ứng bình 3 cổ dung tích 1L với thiết bị sục khí N2.
B2: Nhỏ dung dịch hỗn hợp hai muối Fe3+ và Fe2+ (tỷ lệ mol Fe3+/Fe2+ = 2:1) vào hệ
phản ứng chứa GOVS sao cho nồng độ Fe3+/Fe2+ theo tỷ lệ aM/bM khác nhau
42
(0,01M/0,005M; 0,1M/0,05M; 1M/0,5M và 2M/1M), tốc độ khuấy được duy trì ở các
giá trị X vòng/phút (X = 200 v/p; 350 v/p; 500 v/p và 1000 v/p) và khuấy 15 phút.
Hình 2.4. Sơ đồ tổng hợp Fe3O4-GOVS
B3: Nâng nhiệt độ lên Y oC (Y= 30, 50 và 80 oC) rồi thêm NH4OH vào hệ phản
ứng sao cho pH = Z (với Z= 8, 10 và 12), khuấy đều trong 45 phút.
B4: Sản phẩm được lọc rửa bằng H2O và C2H5OH đến pH = 7 và sấy chân không
ở 60 oC trong 6 giờ.
Ký hiệu các mẫu khảo sát ở các nhiệt độ, pH, nồng độ muối sắt ban đầu, tốc
độ khuấy được trình bày trong Bảng 2.5, Bảng 2.6 và Bảng 2.7.
Bảng 2.5. Ký hiệu tên các mẫu Fe3O4-GOVS tổng hợp ở các điều kiện nhiệt độ và pH khác nhau
Tốc độ khuấy Ký hiệu mẫu Nhiệt độ (oC) Nồng độ Fe3+/Fe2+ pH (v/p)
GF1 30 0,1M/0,05M 500 10
GF2 50 0,1M/0,05M 500 10
GF3 80 0,1M/0,05M 500 10
GF4 80 0,1M/0,05M 500 8
GF5 80 0,1M/0,05M 500 12
43
Bảng 2.6. Ký hiệu tên các mẫu Fe3O4-GOVS tổng hợp ở các điều kiện nồng độ muối sắt ban đầu khác nhau
Ký hiệu mẫu pH
Nồng độ Fe3+/Fe2+ (aM/bM) 0,01M/0,005M 0,1M/0,05M 10 10 Nhiệt độ (oC) 80 80 Tốc độ khuấy (v/p) 500 500 N GF3
1M/0,5M 10 80 500 N1
2M/1M 10 80 500 N2
Bảng 2.7. Ký hiệu tên các mẫu Fe3O4-GOVS tổng hợp ở các điều kiện tốc độ khuấy khác nhau
Nồng độ Fe3+/Fe2+ pH Tốc độ khuấy (v/p) Ký hiệu mẫu
Nhiệt độ (oC) 80 0,1M/0,05M 10 200 V1
0,1M/0,05M 10 350 80 V2
0,1M/0,05M 10 500 80 GF3
0,1M/0,05M 10 1000 80 V4
Quá trình tổng hợp Fe-Fe3O4-GOVS với hàm lượng 10% Feo về khối lượng
được tiến hành theo sơ đồ Hình 2.5.
Hình 2.5. Sơ đồ tổng hợp Fe-Fe3O4-GOVS
B1: 1 g Fe3O4-GOVS được phân tán trong 100 mL nước cất có thiết bị sục khí N2
và hỗn hợp được khuấy mạnh (500 v/p) trong 30 phút.
B2: FeCl3.6H2O (Fe theo tính toán ~10% khối lượng) vào hệ phân tán Fe3O4-
GOVS đã chuẩn bị trên, khuấy trong 1 giờ để trao đổi ion.
B3: Nhỏ từ từ 100 mL dung dịch NaBH4 0,15 M vào hệ phân tán B2, và khuấy
tiếp trong 2 giờ.
44
B4: Lọc rửa sản phẩm và sấy chân không ở 60 oC trong 6 h thu được Fe-Fe3O4-
GOVS và bảo quản trong bình kín.
2.1.5. Xác định điểm đẳng điện của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS [70]
Phương pháp xác định điểm đẳng điện của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
(điện tích không, pHpzc): cho vào 6 bình tam giác dung tích 100 mL, mỗi bình 25
mL dung dịch NaCl 0,1M. Giá trị pH của dung dịch trước hấp phụ (pHi) được điều
chỉnh từ 2 đến 12 bằng dung dịch HCl 0,1M hay NaOH 0,1M. Sau đó, cho khoảng
0,05 g vật liệu Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS vào mỗi bình tam giác trên, đậy
kín và khuấy bằng máy khuấy với tốc độ 500 v/p trong 48 giờ. Dung dịch thu được
đem ly tâm lấy phần dung dịch rồi đo lại các giá trị pH gọi là pHf. Đồ thị biểu diễn
sự phụ thuộc độ chênh lệch giữa các giá trị pH ban đầu và sau cùng (pH = pHf –
pHi) vào pHi là một đường cong. Giao của đường cong và trục hoành cho ta giá trị
pHpzc cần xác định.
2.1.6. Đánh giá khả năng hấp phụ thuốc nhuộm hoạt tính RR195
Tính toán khả năng hấp phụ RR195 của GOSA, GOVS và rGO
Thực nghiệm: Pha thuốc nhuộm RR195 có nồng độ 1g/L vào trong bình định
mức 1000 mL, dung dịch thuốc nhuộm hoạt tính này được điều chỉnh pH từ 4-10
bằng các dung dịch NaOH 0,1 M và HCl 0,1 M. Tiến hành phân tán lần luợt 0,08 g
chất hấp phụ vào trong 100 mL dung dịch thuốc nhuộm có nồng độ từ 100 - 500
mg/L, khuấy cơ Yellow-line-ost20 digital với tốc độ khuấy 150 v/p và giữ nhiệt độ ở
(30 1) oC, sau từng khoảng thời gian cố định lấy mẫu đem ly tâm lọc tách chất rắn,
dung dịch thu được phân tích xác định nồng độ trên máy quang phổ UV-Vis.
Đánh giá khả năng hấp phụ RR195 của GOSA, GOVS, rGO, Fe3O4-GOVS và
Fe-Fe3O4-GOVS
Thực nghiệm: Dung dịch thuốc nhuộm hoạt tính RR195 được điều chỉnh pH =
5,5 bởi các dung dịch NaOH 0,1 M và HCl 0,1 M. Tiến hành phân tán lần luợt 0,1 g
chất hấp phụ vào trong 100 mL dung dịch thuốc nhuộm RR195 nồng độ 100 mg/L,
sử dụng khuấy cơ Yellow-line-ost20 digital với cánh khuấy bằng inox để tránh hiện
tượng vật liệu từ bám lên cánh khuấy gây ảnh hưởng đến quá trình hấp phụ, tốc độ
khuấy 150 v/p và giữ nhiệt độ ở (30 1) oC, sau từng khoảng thời gian cố định lấy
45
mẫu đem ly tâm lọc tách chất rắn, dung dịch thu được phân tích trên máy quang phổ
UV-Vis.
Để tính nồng độ còn lại sau các khoảng thời gian nhất định ta xây dựng đường
chuẩn của thuốc nhuộm rồi áp dụng công thức 2.1.
(2.1) Trong đó:
Ct: nồng độ còn lại sau khoảng thời gian t
Co: nồng độ dung dịch chuẩn
Ao, At: mật độ quang (Abs) của dung dịch chuẩn và tại thời điểm t
Đường chuẩn của thuốc nhuộm RR195 dùng trong quá trình hấp phụ và cấu
trúc hóa học của thuốc nhuộm RR195 được mô tả trên Hình 2.6.
Hình 2.6. Đường chuẩn, cấu trúc hóa học và phổ UV-Vis của thuốc nhuộm RR195
2.1.7. Đánh giá khả năng hấp phụ As (V)
Thực nghiệm: Pha dung dịch As(V) có nồng độ 0,1 g/L từ muối
NaH2AsO4.7H2O. Quá trình pha As(V) được chuẩn lại trên thiết bị đo AAS dựa trên
phương pháp đường chuẩn, nồng độ As(V) được chuẩn độ lại có giá trị = 0,1001
g/L do đó chúng tôi tiến hành sử dụng dung dịch trên làm dung dịch chuẩn cho
những nghiên cứu tiếp theo. Sử dụng dung dịch chuẩn 0,1 g/L đã pha ở trên pha
loãng thành các dung dịch tương ứng: 3, 5, 7, 10, 15… 40 mg/L, điều chỉnh pH của
dung dịch bằng HCl 0,01 M và NaOH 0,01 M. Quá trình hấp phụ As(V) trên Fe3O4-
GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS được tiến hành đồng thời trên các bình nón dung tích
100 mL, T = 30 oC, tốc độ khuấy 150 v/p (sử dụng khuấy cơ Yellow-line-ost20
digital với cánh khuấy bằng inox để tránh hiện tượng vật liệu từ bám lên cánh
46
khuấy gây ảnh hưởng đến quá trình hấp phụ). Sau từng khoảng thời gian (t, phút)
lấy mẫu lọc tách chất rắn bằng ly tâm và đầu lọc mẫu (Syringe Filter) Bule 0,45 µm
rồi đem dung dịch thu được phân tích bằng phương pháp AAS.
2.1.8. Đánh giá khả năng hấp phụ Cu(II), Cd(II)
Thực nghiệm: Dung dịch Cu(II), Cd(II) có nồng độ: 10, 20, 30… 100 mg/L
được pha từ dung dịch chuẩn 1 g/L, pH của dung dịch được điều chỉnh bằng HCl
0,01 M và NaOH 0,01 M. Quá trình hấp phụ Cu(II), Cd(II) trên Fe3O4-GOVS và
Fe-Fe3O4-GOVS được tiến hành đồng thời trên các bình nón 100 mL, sử dụng
khuấy cơ tốc độ khuấy 150 v/p, T=30 oC, m/V= 1 g/L. Sau từng khoảng thời gian (t,
phút) lấy mẫu lọc tách chất rắn bằng ly tâm và đầu lọc mẫu Blue 0,45 µm rồi đem
dung dịch thu được phân tích xác định nồng độ bằng phương pháp AAS.
2.1.9. Đánh giá khả năng tái sinh của vật liệu từ tính Fe-Fe3O4-GOVS
Để đánh giá khả năng tái sinh của vật liệu trong quá trình hấp phụ chúng tôi
tiến hành thu hồi vật liệu sau quá trình hấp phụ bằng từ tính và tiến hành rửa bằng
nước và ethanol + methanol đối với hấp phụ xử lý thuốc nhuộm hoạt tính và rửa
bằng axit HCl 0,1M, pH = 2 đối với quá trình hấp phụ kim loại nặng. Tiếp theo tất
cả các mẫu vật liệu đều được rửa bằng nước cất tới pH = 7. Vật liệu sau thu hồi
được sấy chân không ở 60 oC, trong 24 giờ.
Sau đó tiến hành đánh giá khả năng hấp phụ RR195 tại nồng độ 100 mg/L,
m/V = 1 g/L, pH = 5,5. Đánh giá khả năng hấp phụ Cd(II) tại nồng độ 10 mg/L,
m/V = 0,1 g/L, pH = 6.
Sản phẩm sau phản ứng (thuốc nhuộm còn lại) được xác định bằng máy UV-
Vis LAMBDA 35UV/Vis, nồng độ Cd(II) còn lại được xác định bằng máy AAS
630 Shimadzu – tại Viện Hóa học.
2.2. Tính toán quá trình hấp phụ
2.2.1. Tính toán hiệu suất quá trình hấp phụ
Hiệu suất quá trình hấp phụ (H %) được tính theo công thức 2.2:
(2.2)
Trong đó: Cdau: nồng độ ban đầu khi chưa hấp phụ (mg/L)
Ccuoi: nồng độ sau quá trình hấp phụ (mg/L)
47
2.2.2. Một số mô hình đẳng nhiệt hấp phụ [71, 72]
Để đánh giá khả năng hấp phụ của một hệ hấp phụ, đặc biệt là hấp phụ trong
môi trường nước, có nhiều phương trình được đưa ra như: phương trình Toth,
Redlich-Peterson, Langmuir, Freundlich, Temkin, Polanyi-Dulinin,… Trong đó
phương trình Langmuir và Freundlich được sử dụng phổ biến hơn cả, phương trình
Langmuir thường được áp dụng cho các vật liệu có bề mặt đồng nhất, phương trình
Freundlich thường được áp dụng cho hấp phụ chất tan trong pha lỏng trên các vật có
bề mặt không đồng nhất.
Để xây dựng phương trình đẳng nhiệt hấp phụ, trước hết cần phải xác định
các thông số đặc trưng cho quan hệ giữa độ hấp phụ và áp suất (nồng độ) của chất
bị hấp phụ tại nhiệt độ không đổi (T = const). Trong nghiên cứu hấp phụ người ta
thường quan tâm đến thể tích (V) chất bị hấp phụ với áp suất cân bằng (P) của khí
(hơi) trên bề mặt chất rắn (chất hấp phụ) ở tại một nhiệt độ không đổi (T = const).
Mối quan hệ V = f(P) ở T = const được gọi là đường đẳng nhiệt hấp phụ (phương
trình hấp phụ đẳng nhiệt).
Tùy thuộc vào bản chất lực hấp phụ, bản chất và đặc điểm của chất hấp phụ
và bị hấp phụ mà có những đường đẳng nhiệt hấp phụ khác nhau.
Đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir
Phương trình đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir cho sự hấp phụ chất tan trong
dung dịch trên chất hấp phụ rắn có dạng sau:
(2.3)
Trong đó:
Qmax: lượng chất bị hấp phụ cực đại đơn lớp trên một đơn vị khối lượng
chất hấp phụ (mg/g)
KL: hằng số hấp phụ Langmuir (L/mg)
Ce: nồng độ cân bằng của dung dịch (mg/L)
Qe: dung lượng cân bằng hấp phụ của chất bị hấp phụ (mg/g)
Dạng phương trình (2.3) có thể viết lại như sau:
(2.4)
48
Các tham số Qmax và KL có thể xác định bằng phương pháp hồi quy tuyến
tính các số liệu thực nghiệm dựa vào đồ thị tương quan giữa C/Qe và Ce.
Dung lượng hấp phụ tại thời điểm t được xác định theo phương trình 2.5:
(2.5)
Trong đó:
Qt: lượng chất đã bị hấp phụ ở thời điểm t (mg/g)
Co: nồng độ chất bị hấp phụ ban đầu (mg/L)
Ct: nồng độ chất bị hấp phụ ở thời điểm t (mg/L)
V: thể tích dung dịch chất bị hấp phụ (L)
W: khối lượng chất hấp phụ (g)
Đẳng nhiệt hấp phụ Freundlich
Mô hình Freundlich là một phương trình kinh nghiệm áp dụng cho sự hấp
phụ trên bề mặt không đồng nhất:
(2.6)
Trong đó:
x: khối lượng chất bị hấp phụ (mg)
m: khối lượng chất hấp phụ (g)
Ce: nồng độ cân bằng của dung dịch (mg/L)
Qe: dung lượng cân bằng hấp phụ của chất bị hấp phụ (mg/g)
KF: hằng số Freundlich [(mg/g)(L/mg)1/n]
n: hệ số dị thể
Đường đẳng nhiệt hấp phụ Freundlich có thể được viết lại như sau:
hoặc LogQe= LogKF +1/n LogCe (2.7)
Giá trị KF và n có thể được tính theo giản đồ sự phụ thuộc giữa LnQe và LnCe hoặc
LogQe và LogCe bằng phương pháp hồi quy tuyến tính từ các số liệu thực nghiệm.
2.2.3. Động học quá trình hấp phụ [71, 72]
Các tham số động học hấp phụ rất quan trọng trong nghiên cứu ứng dụng các
chất hấp phụ. Tuy nhiên, các tham số động học thực rất khó xác định, vì quá trình
49
hấp phụ khá phức tạp, bị ảnh hưởng nhiều yếu tố: khuếch tán, bản chất cấu trúc xốp,
thành phần hóa học của chất hấp phụ,… Do đó, hiện nay người ta thường ứng dụng
các phương trình động học hình thức để xác định các hằng số tốc độ biểu kiến.
- Phương trình động học hấp phụ biểu kiến bậc nhất Lagergren: Theo đó, tốc
độ của quá trình hấp phụ phụ thuộc bậc nhất vào dung lượng chất hấp phụ theo
phương trình:
(2.8)
Dạng tích phân của phương trình trên là Ln(Qe – Qt) = LnQe – k1t (2.9)
- Phương trình động học hấp phụ biểu kiến bậc hai: Theo đó, tốc độ của quá
trình hấp phụ phụ thuộc bậc hai vào dung lượng của chất hấp phụ theo phương
trình: (2.10)
Dạng tích phân của phương trình trên là: (2.11)
Trong đó:
Qe: dung lượng hấp phụ ở thời điểm cân bằng (mg/g)
Qt: dung lượng hấp phụ ở thời điểm t (mg/g)
k1: hằng số tốc độ hấp phụ bậc nhất biểu kiến (h-1)
k2: hằng số tốc độ hấp phụ bậc hai biểu kiến (g/mg.h)
Dựa vào các phương trình đó, xác định thực nghiệm Qt theo t, chúng ta có thể
xác định được k1 và k2.
2.3. Phương pháp nghiên cứu đặc trưng vật liệu
2.3.1. Phương pháp nhiễu xạ Rơnghen (X-ray diffraction, XRD) [72, 73]
Cơ sở của phương pháp nhiễu xạ tia X là dựa vào hiện tượng nhiễu xạ của
chùm tia X trên mạng lưới tinh thể. Khi bức xạ tia X tương tác với vật chất sẽ tạo
hiệu ứng tán xạ đàn hồi với các điện tử của các nguyên tử trong vật liệu có cấu trúc
tinh thể, sẽ dẫn đến hiện tượng nhiễu xạ tia X.
Theo lý thuyết cấu tạo tinh thể, mạng tinh thể được xây dựng từ các nguyên
tử hay ion phân bố đều đặn trong không gian theo một trật tự nhất định. Khi chùm
tia X tới bề mặt tinh thể và đi sâu vào bên trong mạng lưới tinh thể thì mạng lưới
50
này đóng vai trò như một cách tử nhiễu xạ đặc biệt. Các nguyên tử hoặc ion bị kích
thích bởi chùm tia X sẽ thành các tâm phát ra các tia phản xạ. Mặt khác, các nguyên
tử hoặc ion này được phân bố trên các mặt phẳng song song.
Mối liên hệ giữa khoảng cách hai mặt nhiễu xạ (hkl), góc giữa chùm tia X và
mặt phẳng phản xạ () với bước sóng () được biểu thị bằng hệ phương trình Vulf –
(2.12) Bragg: 2 dhkl sin = n
Hình 2.7. Sơ đồ chùm tia tới và chùm tia nhiễu xạ trên tinh thể
Đây là phương trình cơ bản để nghiên cứu cấu trúc tinh thể. Căn cứ vào cực đại
nhiễu xạ trên giản đồ (giá trị 2θ) có thể suy ra d theo công thức trên. So sánh giá trị d tìm
được với giá trị d chuẩn sẽ xác định được cấu trúc mạng tinh thể chất cần nghiên cứu.
Kích thước hạt tinh thể có thể tính theo phương trình Scherrer [74] như sau:
(2.13) dnm = 0,9.λ/[β1.Cosθ]
Trong đó độ dài bước sóng của bức xạ Cu Kα, λ=1,5406 Å, β1 là độ bán rộng
vạch nhiễu xạ, θ là góc Bragg.
Hình 2.8. Độ tù của pic phản xạ gây ra do kích thước hạt
Thực nghiệm: Trong luận án này, các mẫu được đo XRD trên máy D8
Advance (Bruker- Đức) tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia
Hà Nội. Dùng bức xạ của Cu Kα, λ =1.5406 Å, khoảng quét 2 = 1 - 70o.
51
2.3.2. Phương pháp phổ hồng ngoại biến đổi Fourier-FTIR [75]
Trong FTIR, ta có thể đo sự hấp thụ ánh sáng hồng ngoại như là một hàm của
số sóng. Phân tử hấp thụ năng lượng ∆E = h từ nguồn hồng ngoại tại mỗi dịch
chuyển dao động. Cường độ hấp thụ hồng ngoại được xác định từ định luật
Lambert-Beer:
(2.14)
Trong đó: I và Io lần lượt là cường độ của chùm ánh sáng tới và chùm ánh
sáng truyền qua, ε là hệ số hấp thụ phân tử, còn c và d lần lượt là nồng độ của mẫu
và bề rộng của cuvet.
Trong phổ IR, người ta thường biểu diễn độ truyền qua (T) theo số sóng:
(2.15)
T(%) không tỉ lệ với c. Đối với việc phân tích định lượng, người ta thường sử
dụng đại lượng cường độ hấp thụ A, được định nghĩa như sau:
Phổ hồng ngoại là đường cong biểu diễn sự phụ thuộc cường độ hấp thụ bức
xạ hồng ngoại của một chất vào số sóng hoặc bước sóng. Trên phổ hồng ngoại, trục
ngang biểu diễn bước sóng (tính theo μm) hoặc số sóng (tính theo cm-1), trục thẳng
đứng biểu diễn cường độ hấp thụ (độ truyền qua T(%)).
Sự dao động của các nguyên tử trong phân tử tạo ra phổ dao động. Trong phân
tử có hai dạng dao động: dao động hóa trị (hay dao động kéo căng, stretching) và
dao động biến dạng (bending).
Thực nghiệm: Trong luận án này các mẫu được đo phổ FTIR kỹ thuật ép
viên với KBr trên máy FTIR-4100, JASCO (USA) tại Hàn Quốc và FTIR 6700 –
Thermo Nicolet –ThermoElectro tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
2.3.3. Phương pháp phổ điện tử quang tia X (XPS)
Kỹ thuật phổ điện tử quang tia X (XPS) sử dụng các photon để ion hóa các
nguyên tử bề mặt, đồng thời thu nhận và đo năng lượng các điện tử quang phát bật
52
ra. Trong kỹ thuật này bề mặt mẫu được bắn phá bởi tia X năng lượng thấp từ
nguồn nhôm hoặc magiê trong đó sử dụng pic Kα. Đôi khi các photon năng lượng
thấp hơn hoặc cao hơn được sử dụng như photon phát ra từ bia silic và các nguồn
cực tím trong phổ điện tử quang cực tím (Ultraviolet Photonelectron Spectroscopy-
UPS). Hình 2.9 minh họa quá trình phát xạ điện tử quang XPS và UPS khi bề mặt
mẫu được bắn phá bởi các photon năng lượng Ex = h và điện tử bật ra từ lớp điện
tử hóa trị hoặc từ lớp điện tử trong cùng. Năng lượng E của lớp này được cho bởi
biểu thức 2.17.
(2.17) E = h - Eb - θ
Trong đó:
h: Hằng số Planck
: tần số của photon
Eb: năng lượng liên kết điện tử
θ: công thoát của điện tử
Mỗi nguyên tố sẽ có một tập pic đặc
trưng trong phổ điện tử quang tại các động
năng được xác định bởi năng lượng photon Hình 2.9. Quá trình phát quang điện tử và các năng lượng liên kết tương ứng. Bằng
cách đo động năng điện tử quang và biết năng lượng photon tới thì năng lượng liên
kết điện tử có thể xác định được. Năng lượng liên kết chính là đại lượng đặc trưng
cho nguyên tử mà từ đó có thể nhận được một số thông tin quang trọng về mẫu
nghiên cứu như các nguyên tố có mặt trong mẫu; hàm lượng phần trăm của mỗi
nguyên tố và trạng thái hóa học của các nguyên tố có mặt.
Thực nghiệm: Trong luận án này, các mẫu được đo phổ XPS trên máy
THERMO VG SCIENTIFIC(U,K), MultiLab2000 tại Hàn Quốc, sử dụng tia phát
xạ Mg Kα.
2.3.4. Phương pháp phổ tán sắc năng lượng tia X (EDX)
Phổ tán xạ sắc năng lượng tia X (thường được gọi là EDS, EDX hay XEDS)
(từ đây gọi là phổ EDX) là một kỹ thuật phân tích dùng để phân tích nguyên tố của
53
mẫu rắn. Nguyên tắc dựa trên sự tương tác của nguồn tia X kích thích vào mẫu cần
phân tích. Mỗi nguyên tố hoá học có một cấu trúc nguyên tử xác định tạo ra các phổ
tia X đặc trưng riêng biệt cho nguyên tố đó. Để kích thích bức xạ đặc trưng tia X từ
mẫu, một dòng năng lượng cao của các hạt tích điện như điện tử hay photon, hay
chùm tia X được chiếu vào mẫu cần phân tích. Các nguyên tử trong mẫu này ở các
trạng thái cơ bản (chưa bị kích thích), các điện tử ở các mức năng lượng riêng biệt
xoay quanh hạt nhân. Khi dòng tia tới kích thích các điện tử ở lớp bên trong, đánh
bật nó ra khỏi vỏ điện tử tạo thành lỗ trống điện tử, một điện tử từ lớp bên ngoài có
năng lượng cao hơn nhảy vào điền vào lỗ trống đó. Sự khác nhau năng lượng giữa
lớp vỏ năng lượng cao và lớp vỏ năng lượng thấp hơn tạo ra tia X. Cường độ của tia
X phát ra từ mẫu có thể được đo bằng phổ kế tán xạ năng lượng (energy-dispersive
spectrometer). Từ chỗ năng lượng tia X là đặc trưng cho hiệu số năng lượng của hai
lớp vỏ điện tử và đặc trưng cho cấu tạo của nguyên tố phát xạ ra tia X đó, nên
cường độ của tia X này có thể dùng để đặc trưng định tính cũng như định lượng các
nguyên tố có trong mẫu. Tần số (f) của tia X được xác định qua định luật Mosley
như sau:
(2.18)
Trong đó:
me: khối lượng của điện tử
qe: điện tích của điện tử
h: hằng số Planck
Theo định luật này, tần số tia X phát ra là đặc trưng đối với nguyên tử của mỗi
chất có mặt trong chất rắn. Việc ghi nhận phổ tia X phát ra từ vật rắn sẽ cho thông
tin về các nguyên tố hóa học có mặt trong mẫu đồng thời cho các thông tin về tỉ
phần các nguyên tố này.
Có nhiều thiết bị phân tích EDX nhưng chủ yếu EDX được đo bằng kính hiển
vi điện tử quét.
Thực nghiệm: Trong luận án này, các mẫu được đo EDX trên máy JEOL JSM
6500F ở Viện Khoa học Vật liệu – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
54
2.3.5. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (TEM) và kính hiển vi điện tử truyền
qua phân giải cao (HR-TEM)
Hiển vi điện tử truyền qua (thường
viết tắt là TEM) là một kỹ thuật hiển vi
trong đó dòng điện tử đi xuyên qua một
màng mỏng của mẫu đo và tương tác với
nó. Một hình ảnh được tạo thành từ sự
tương tác của điện tử đi xuyên qua mẫu
đo, hình ảnh này được phóng đại và tập
trung lên một thiết bị nhận ảnh như là
màn hình huỳnh quang (fluorescent
screen) hay lớp phim.
Các điện tử được tạo ra từ sự phát
Hình 2.10. Sơ đồ nguyên lý sự tạo ảnh độ phân giải cao trong HR-TEM xạ ion nhiệt từ một dây tóc làm bằng
tungsten. Các điện tử này được tăng tốc
bằng một điện trường (được tính bằng volts). Các điện tử khi đi qua mẫu chứa đựng
những thông tin về mật độ điện tử, pha cấu trúc tinh thể, dòng điện tử này dùng để
tạo hình ảnh.
Hiển vi điện tử truyền qua độ phân giải cao (HR–TEM) là một chế độ ghi ảnh
của kính hiển vi điện tử truyền qua cho phép quan sát ảnh vi cấu trúc của vật rắn với
độ phân giải rất cao, đủ quan sát được sự tương phản của các lớp nguyên tử trong vật
rắn có cấu trúc tinh thể. Ngày nay HR-TEM là một trong những công cụ để quan sát
vi cấu trúc tới cấp độ nguyên tử. Khác với các ảnh TEM thông thường có độ tương
phản chủ yếu là tương phản biên độ do hiệu ứng hấp thụ thì HR-TEM hoạt động dựa
trên nguyên lý tương phản pha, tức là ảnh tạo ra nhờ sự giao thoa giữa chùm tia thẳng
góc và chùm tia tán xạ. Khi chùm điện tử chiếu qua mẫu (có chiều dày, độ sạch và sự
định hướng thích hợp) sẽ bị tán xạ theo nhiều hướng khác nhau và sóng tán xạ sẽ ghi
lại thông tin về cấu trúc, vị trí các nguyên tử... Vật kính phải có độ quang sai đủ nhỏ
và có độ phân giải điểm đủ lớn để hội tụ các chùm tán xạ này, thực hiện việc giao
thoa với chùm chiếu thẳng góc để tạo ra ảnh có độ phân giải cao.
55
Thực nghiệm: Trong luận án này, ảnh HR-TEM được ghi trên máy HR-TEM
JEM-2100F tại Hàn Quốc và ảnh TEM được ghi trên máy - JEM1010 tại Viện Vệ sinh
Dịch tễ Trung ương.
2.3.6. Phương pháp hiển vi điện tử quét phân giải cao (FE-SEM)
Kính hiển vi điện tử quét phân giải cao (FE-SEM) là một loại kính hiển vi điện
tử, nó tạo ra hình ảnh của mẫu bằng cách quét qua mẫu một dòng điện tử. Các điện
tử tương tác với các nguyên tử trong mẫu, tạo ra những tín hiệu khác nhau chứa
đựng những thông tin về hình thái cũng như thành phần của mẫu. Dòng điện tử
thường được quét trong máy raster và vị trí của dòng điện tử kết hợp với các tín
hiệu tạo ra hình ảnh. FE-SEM có thể đạt đến độ phân giải 1 nm.
Các loại tín hiệu sinh ra do dòng điện tử quét là điện tử thứ cấp (secondary
electrons (SE)), điện tử tán xạ ngược (back-scattered electrons (BSE), tia X đặc
trưng (characteristic X ray) v.v... Detector điện tử thứ cấp là phổ biến cho tất cả các
loại máy FE-SEM. Rất ít máy có detetor dùng cho tất cả các tín hiệu. Trong đa số
các trường hợp, tín hiệu từ điện tử thứ cấp (secondary electron image) hay FE-SEM
cho hình ảnh với độ phân giải cao và bộc lộ ra những chi tiết trên bề mặt có thể lên
đến 1 nm. Do dòng điện tử hẹp, ảnh FE-SEM có độ sâu của trường (depth of field)
lớn tạo ra bề mặt ba chiều rõ ràng rất hữu ích cho việc nghiên cứu bề mặt vật liệu.
Điện tử tán xạ ngược (BSE) là dòng điện tử phản xạ từ mẫu bởi tán xạ đàn hồi.
BSE thường dùng để phân tích FE-SEM cùng với phổ từ tia X đặc trưng bởi vì
cường độ tín hiệu của tín hiệu BSE phụ thuộc vào phân tử khối (Z) của mẫu. Ảnh
BSE cung cấp thông tin về sự phân bố các nguyên tố khác nhau trong mẫu.
Thực nghiệm: Trong luận án này, ảnh hiển vi điện tử FE-SEM được ghi trên
máy S-4800 (FE-SEM, Hitachi) tại Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương.
2.3.7. Phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ- khử hấp phụ N2 (BET) [72]
Bề mặt riêng xác định theo phương pháp BET (từ đây gọi là BET) là tích số của
số phân tử bị hấp phụ với tiết diện ngang của một phân tử chiếm chỗ trên bề mặt vật
rắn. Diện tích bề mặt riêng được tính theo công thức:
(2.19) S= nm.Am.N (m2/g)
Trong đó:
S: diện tích bề mặt (m2/g)
56
nm: dung lượng hấp phụ (mol/g)
Am: diện tích bị chiếm bởi một phân tử (m2/phân tử)
N: số Avogadro (số phân tử/mol)
Trường hợp hay gặp nhất là hấp phụ
vật lý của Nitơ (N2) ở 77 K có tiết diện
ngang của bằng 0,162 nm2. Nếu Vm được
biểu diễn qua đơn vị cm3/g và SBET là
m2/g thì ta có biểu thức:
(2.20) SBET = 4,35.Vm
Với Vm là thể tích của lớp hấp phụ
đơn phân tử tính cho một gam chất hấp
phụ trong điều kiện tiêu chuẩn.
Lượng khí bị hấp phụ V được biểu
diễn thông qua thể tích chất bị hấp phụ là
đại lượng đặc trưng cho số phân tử bị hấp
Hình 2.11. Các dạng đường đẳng nhiệt hấp phụ-khử hấp phụ theo phân loại IUPAC
phụ, phụ thuộc vào áp suất cân bằng P,
nhiệt độ T, bản chất của khí và bản chất của vật liệu rắn. Thể tích khí bị hấp phụ V
là một hàm đồng biến với áp suất cân bằng. Khi áp suất tăng đến áp suất hơi bão
hòa Po, người ta đo các giá trị thể tích khí hấp phụ ở các áp suất tương đối (P/Po) thì
thu được đường “đẳng nhiệt hấp phụ”, còn khi đo V với P/Po giảm dần thì nhận
được đường “đẳng nhiệt khử hấp phụ”. Theo phân loại của Hiệp hội quốc tế hóa
học cơ bản và ứng dụng (IUPAC), có các loại đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp
phụ biểu diễn trên Hình 2.11.
Đường đẳng nhiệt kiểu I trong Hình 2.11 tương ứng với vật liệu vi mao quản
hoặc không có mao quản. Kiểu II và III là của vật liệu có mao quản lớn (d > 50
nm). Đường đẳng nhiệt kiểu IV và V tương ứng vật liệu mao quản trung bình. Kiểu
bậc thang VI ít gặp. Dựa vào dữ kiện BET để xây dựng đường phân bố mao quản,
từ đó tìm kích thước trung bình của mao quản theo phương pháp BJH (Barrett,
Joyner và Halenda).
57
Thực nghiệm: Trong luận án này, phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ-khử hấp
phụ N2 được thực hiện ở nhiệt độ 77 K, trên máy TriStar-3000 của Mỹ tại Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội.
2.3.8. Phương pháp phổ hấp thụ tử ngoại và khả kiến UV - Vis [73]
Sự hấp thụ của phân tử trong vùng quang phổ tử ngoại và khả kiến (UV-Vis)
phụ thuộc vào cấu trúc electron của phân tử.
Sự hấp thụ năng lượng được lượng tử hóa và do các electron bị kích thích
nhảy từ obitan có mức năng lượng thấp lên các obitan có mức năng lượng cao gây
ra. Bước chuyển năng lượng này tương ứng với sự hấp thụ các tia sáng có bước
sóng λ khác nhau. Khi phân tử bị kích thích, các electron của các nguyên tử trong
phân tử thực hiện các bước nhảy như trên Hình 2.12.
Hình 2.12. Bước chuyển của các electron trong phân tử
Trong đó:
n: obitan phân tử không kiên kết
π: obitan phân tử liên kết π
π *: obitan phân tử π phản liên kết
σ: obitan phân tử liên kết σ
σ *: obitan phân tử σ phản liên kết
Các electron khi bị kích thích bởi các bức xạ điện từ sẽ nhảy lên các obitan có
mức năng lượng cao hơn, các bước nhảy có thể là: σ → σ *, π → π*, n → π*, n →
σ*, tùy vào năng lượng kích mà các electron thực hiện các bước chuyển năng lượng
khác nhau. Cơ sở của phương pháp này là dựa vào định luật Lambert-Beer.
Phương trình:
58
(2.21) Trong đó:
A: độ hấp thụ ánh sáng (tỉ lệ thuận với nồng độ C)
I, I0: cường độ bức xạ điện từ trước và sau khi qua chất phân tích
: hệ số hấp thụ
l: độ dày cuvet
C: nồng độ chất phân tích
Phương pháp phổ hấp thụ tử ngoại và khả kiến UV-Vis được sử dụng rất thuận
lợi và phổ biến để phân tích các chất.
Thực nghiệm: Trong luận án này, xác định nồng độ thuốc nhuộm RR195 trên
máy UV–Vis LAMBDA 35UV/Vis tại Viện Hóa học - Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam.
2.3.9. Phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS) [76]
Trong điều kiện bình thường nguyên
tử không thu và cũng không phát ra năng
lượng dưới dạng các bức xạ. Đó là trạng
thái bền vững và nghèo năng lượng nhất
của nguyên tử. Nhưng khi nguyên tử ở
trạng thái hơi tự do, nếu ta chiếu một chùm
tia sáng có những bước sóng (tần số) xác
định vào đám hơi nguyên tử đó, thì các
nguyên tử tự do đó sẽ hấp thụ các bức xạ
có bước sóng nhất định ứng đúng với
những tia bức xạ mà nó có thể phát ra
Hình 2.13. Mối quan hệ giữa cường độ vạch phổ Aλ và nồng độ chất Cx
được trong quá trình phát xạ của nó. Lúc
này nguyên tử đã nhận năng lượng của các tia bức xạ chiếu vào nó và chuyển lên
trạng thái kích thích có năng lượng cao hơn trạng thái cơ bản. Đó là tính chất đặc
trưng của nguyên tử ở trạng thái hơi. Quá trình đó được gọi là quá trình hấp thụ năng
lượng của nguyên tử tự do ở trạng thái hơi và tạo ra phổ nguyên tử của nguyên tố đó.
Phổ sinh ra trong quá trình này được gọi là phổ hấp thụ nguyên tử.
59
Phương trình cơ sở của phép đo định lượng các nguyên tố theo phổ hấp thụ
nguyên tử:
(2.22) Aλ = a.C.b
Trong đó:
a = K.Ka: hằng số thực nghiệm, phụ thuộc vào tất cả các điều kiện
thực nghiệm để hóa hơi và nguyên tử hóa mẫu
C: nồng độ chất phân tích
b = 1 (vùng tuyến tính AB); b < 1 (vùng không tuyến tính BC) -
Hình 2.13
Thực nghiệm: Trong luận án này, các mẫu được đo trên máy quang phổ AAS
630 Shimadzu - Nhật Bản, Viện Hóa học - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam.
2.3.10. Phương pháp xác định từ tính vật liệu bằng thiết bị từ kế mẫu rung
Thiết bị từ kế mẫu rung (VSM) là một thiết bị dùng để xác định tính chất từ
của mẫu. Nguyên lý hoạt động của thiết bị này dựa trên cơ sở hiện tượng cảm ứng
điện từ. Bằng cách thay đổi vị trí tương đối của mẫu có mô men từ M với cuộn dây
thu, từ thông qua tiết diện ngang của cuộn dây sẽ thay đổi theo thời gian làm xuất
hiện trong nó một suất điện động cảm ứng. Các tín hiệu đo được (tỷ lệ với M) sẽ
được chuyển sang giá trị của đại lượng từ cần đo bằng một hệ số chuẩn của hệ đo.
Để thực hiện phép đo này, mẫu đượng rung với tần số xác định trong vùng từ
trường đồng nhất của một nam châm điện. Từ trường này sẽ từ hóa mẫu và mẫu
rung sẽ tạo ra hiệu điện thế cảm ứng trên cuộn dây thu tín hiệu. Tín hiệu được thu
nhận, khuếch đại rồi được xử lý trên máy tính và cho ta biết giá trị từ độ của mẫu.
Thực nghiệm: Trong luận án này, các mẫu được đo trên hệ đo VSM tại Viện
Khoa học Vật liệu - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Hệ đo này có
các tính năng như sau:
+ Hệ có khả năng đo từ độ phụ thuộc nhiệt độ và phụ thuộc từ trường ngoài
với độ nhạy 10-4 emu.
+ Từ trường cực đại là 13 kOe.
+ Dải nhiệt độ đo từ 77 1000 K.
+ Cường độ từ trường 1 T.
60
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp GO và rGO
3.1.1. Giản đồ XRD của graphit ban đầu và sau quá trình oxy hóa
Cấu trúc tinh thể của vật liệu graphit ban đầu và graphit oxit sau quá trình oxy
hóa được xác định qua giản đồ nhiễu xạ tia X trên Hình 3.1.
Hình 3.1. Giản đồ XRD của graphit trước và sau quá trình oxy hóa
Hình 3.1 cho thấy pic có cường độ cao tại 2θ = 26,5o (002) đặc trưng cho cấu
trúc graphit của vật liệu [77]. Cũng từ giản đồ XRD cho thấy đường nền của nguyên
liệu ít nhiễu và sát gần trục tọa độ chứng tỏ độ tinh khiết lớn, nếu nguồn nguyên
liệu càng có nhiều tạp chất thì lượng H2SO4 và KMnO4 càng cần nhiều cho quá
trình oxy hóa để loại bỏ các tạp chất trong nguyên liệu đầu do vậy làm giảm quá
trình oxy hóa graphit. Vì vậy, trong luận án này chúng tôi tiến hành tổng hợp vật
liệu graphit oxit đi từ graphit Sigma-Aldrich có độ tinh khiết (99%).
Sau quá trình oxy hóa bằng tác nhân KMnO4 và H2SO4 cho thấy pic 26,5o của
graphit không còn quan sát thấy, thay vào đó là sự hình thành một pic với cường độ
cao tại 2θ = 11o. Sự thay đổi này cũng phù hợp với kết quả thực nghiệm trong
nghiên cứu của Jeong HK và cộng sự [78]. Sự hình thành pic 2θ = 11o cho thấy có
sự chèn các nhóm oxy trong các lớp graphit và hình thành lên cấu trúc GO [79-81].
Như vậy có thể thấy rằng graphit oxit tổng hợp được theo tỷ lệ KMnO4/graphit =
61
3:1 oxy hóa hoàn toàn graphit thành graphit oxit. Điều này được giải thích là do khi
tổng hợp graphit theo phương pháp Hummers thì bước đầu tiên H2SO4 đan xen vào
giữa các lớp graphit tạo thành hỗn hợp H2SO4 – Graphit hình thành nên hợp chất
+.3HSO4
-.2,5H2SO4. Bước thứ 2 sử dụng chất oxy
trung gian có công thức C(21-28)
hóa mạnh KMnO4 là chất oxi hóa có tác dụng oxi hóa mép ngoài và mở mép các
lớp graphit ra tạo thành hợp chất trung gian thứ 2. Cuối cùng H2O tác dụng với hợp
chất trung gian thứ 2 và tạo thành graphit oxit [32, 81]. Sự đan xen các nhóm chức
chứa oxy trong cấu trúc graphit oxit làm gia tăng khoảng cách giữa các lớp do vậy
pic 26,5 oC mất đi và thay vào đó là sự hình thành pic 11 oC tương ứng với khoảng
các lớp d = 0,81 nm [80, 81].
3.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình bóc lớp graphit oxit sử dụng kỹ thuật
vi sóng và kỹ thuật siêu âm
Mục tiêu nghiên cứu trong phần này là tổng hợp được GOVS và GOSA với
các tính chất đặc trưng cho GO với pic đặc trưng 2θ = 10-12o và trên bề mặt tồn tại
các nhóm chức chứa oxy [77, 80-82].
* Nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian vi sóng
Điều kiện khảo sát: Công suất 700 W, khối lượng graphit oxit 1 g, khảo sát ở
các thời gian vi sóng khác nhau: 1 phút, 2 phút, 3 phút và 4 phút. Kết quả thí
nghiệm trên các mẫu được đưa ra trong Hình 3.2 và Bảng 3.1.
Hình 3.2. Sản phẩm GOVS bóc lớp bằng kỹ thuật vi sóng tại các thời điểm khác nhau
62
Từ Hình 3.2 cho thấy graphit oxit ban đầu sử dụng kỹ thuật vi sóng trong thời
gian 1 phút thì một phần khối lượng sản phẩm đã được bóc tách lớp thành công tạo
thành GOVS, tuy nhiên trong sản phẩm sau cùng vẫn quan sát thấy graphit oxit ban
đầu chưa bóc lớp hết. Đối với GOVS - 2 phút và GOVS – 4 phút không quan sát
thấy graphit dư còn lại sau khi sử dụng kỹ thuật vi sóng. Điều này có thể là do với
thời gian ngắn (1 phút) với lượng mẫu 1 g thì năng lượng vi sóng chưa đủ thời gian
để làm bay hơi hết các phần tử H2O có trong mẫu do đó chỉ một phần bề mặt của
graphit được bóc lớp thành công. Như vậy có thể thấy, lượng mẫu quyết định đến
thời gian phản ứng. Thật vậy, trong luận văn của tác giả Nguyễn Kế Quang [83] sử
dụng 0,15 g graphit oxit thì sau 1 phút phản ứng, sản phẩm không còn thấy sự xuất
hiện của graphit dư. Sau quá trình vi sóng thể tích của GOVS tăng lên so với graphit
oxit ban đầu chứng tỏ đã diễn ra quá trình kéo dãn các tấm graphit oxit ra xa.
Cấu trúc của graphit oxit, GOVS – 2 phút, GOVS – 3 phút và GOVS – 4 phút
được chụp XRD để quan sát rõ hơn sự thay đổi của vật liệu GOVS so với graphit
ban đầu và được thể hiện trên Hình 3.3.
Hình 3.3. Giản đồ XRD của các mẫu GOVS có thời gian vi sóng khác nhau
GVS2, GVS3 và GVS4
Từ Hình 3.3 cho thấy graphit oxit với pic đặc trưng 2θ = 11o tương ứng với
khoảng cách các lớp d = 0,81 nm [84]. Sau các khoảng thời gian vi sóng khác nhau
giảm so với cường độ pic của graphit oxit ban đầu. Đối
cường độ pic 2θ = 10 - 13o
với mẫu GOVS (2 phút), pic 2θ có sự dịch chuyển nhẹ từ 11 về 11,5o tương ứng với
63
khoảng cách các lớp d = 0,71 nm. Khi thời gian vi sóng tăng lên 3 - 4 phút quan sát
Hình 3.3 cho thấy các pic 2θ có sự dịch chuyển mạnh từ 11 về 130 chân pic mở rộng
chứng tỏ khoảng cách các lớp giảm hơn nhiều so với GOVS (2 phút), khi thời gian
vi sóng tăng lên trên giản đồ XRD của các mẫu 3 phút và 4 phút còn có sự xuất hiện
đặc trưng cho vật liệu rGO [85, 86]. Thật vậy, trong nghiên cứu của
của pic 2θ 26o
mình Rodney S. Ruoff và công sự [33] cho rằng với GO sử dụng kỹ thuật vi sóng
trong thời gian 1 phút đã có sự dịch chuyển của pic 2θ = 10o (d = 0,88 nm) về pic 2θ
= 25o (d = 0,36 nm) và không còn giữ được hình dáng phổ đặc trưng của GO ban đầu.
Nghiên cứu của Rodney S. Ruoff cũng đưa ra khuyến cáo phương pháp sử dụng kỹ
thuật vi sóng rất khó điều khiển và đối với mỗi loại GO tổng hợp theo phương pháp
khác nhau thì cần phải có những nghiên cứu thời gian vi sóng phù hợp.
Bảng 3.1. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian vi sóng đến hiệu suất thu hồi
Mẫu (thời gian)
Khối lượng sau vi sóng (g) Lần 1 Lần 2 Lần 3
Kết quả trung bình (g) Hiệu suất (%) GVS2 2 phút 0,6267 0,6238 0,6227 0,6249 62,490 GVS3 3 phút 0,4047 0,4034 0,4048 0,4043 40,430 GVS4 4 phút 0,1250 0,1288 0,1284 0,1274 12,740
Quan sát kết quả trong Bảng 3.1 cho thấy có sự chênh lệch nhiều về hiệu suất
thu hồi, khi thời gian tăng lên hiệu suất thu hồi giảm, đặc biệt khi thời gian tăng lên
4 phút hiệu suất chỉ đạt 12,74%, quan sát trong khi tiến hành thí nghiệm cũng cho
thấy khi thời gian tăng lên 3 phút kéo theo khói đen và sự bùng cháy dữ dội của
GOVS trong lò vi sóng, chính sự bắt cháy này đã kéo theo sự mất khối lượng lớn
của GOVS tổng hợp được. Dựa vào những phân tích trên chúng tôi chọn thời gian
vi sóng thích hợp là 2 phút.
* Nghiên cứu ảnh hưởng của công suất vi sóng
Điều kiện khảo sát: khối lượng graphit oxit ban đầu 1 g, thời gian 2 phút, các
chế độ vi sóng khác nhau: 216 W, 700 W, 1000 W và 1200 W. Giản đồ XRD và
phổ FTIR của các mẫu GOVS ở các công suất vi sóng khác nhau được đưa ra trên
Hình 3.4. Đối với GVS5 với công suất 216 W quan sát thí nghiệm thấy rằng không
có hiện tượng xảy ra. Đối với các mẫu có công suất 700 W, 1000 W và 1200 W đều
64
có sự thay đổi của vật liệu tạo thành, tuy nhiên từ 1000 W trở lên quan sát thực
nghiệm cho thấy có khói đen dữ dội kéo theo sự bắt cháy nhanh của vật liệu và hoàn
toàn trùng với những mô tả trong thí nghiệm của Rodney S. Ruoff [33].
a b
Hình 3.4. Giản đồ XRD (a) và phổ FTIR (b) của các mẫu GOVS ở các công suất
vi sóng khác nhau GVS2, GVS4, GVS5 và GVS6
Bảng 3.2. Khảo sát ảnh hưởng của công suất vi sóng đến hiệu suất thu hồi
Công suất vi sóng
Khối lượng sau vi sóng (g) Lần 1 Lần 2 Lần 3
Kết quả trung bình (g) Hiệu suất (%) GVS2 (700 W) 0,6267 0,6238 0,6227 0,6249 62,490 GVS7 (1200 W) 0,1501 0,1460 0,1560 0,1507 15,070
Tác giả Rodney S. Ruoff và cộng sự [33] cho thấy với công suất < 280 W sự
bóc tách lớp graphit oxit hoàn toàn không xảy ra. Giải thích cho điều này theo
chúng tôi, khi công suất tăng lên tương ứng với thời gian đánh sóng của nguồn phát
sóng (Magnetron) [87, 88] sẽ kéo dài hơn do đó năng lượng sẽ lớn hơn so với công
suất nhỏ. Trong cấu trúc của graphit oxit trên bề mặt có chứa nhiều nhóm chức do
đó chúng rất dễ hấp phụ các phân tử H2O [26, 32]. Phân tử nước được cấu tạo bởi
một nguyên tử oxy (O) và hai nguyên tử hydro (H) và chúng không mang điện. Tuy
nhiên oxy có tầng ngoài cùng chứa 6 điện tử nên có khuynh hướng thu thêm 2 điện
tử để bão hoà, bền hơn do đó có tính âm vì vậy những electron có khuynh hướng
kéo về nguyên tử oxy kết quả nguyên tử hydro bị mất bớt tính âm điện nên có
khuynh hướng mang điện tích dương. Nghĩa là trong phân tử nước có đầu dương
của hydro và một đầu âm của oxy. Sự mất thăng bằng tạo một điện trường nhỏ
65
trong mỗi phân tử nước. Ðiều này gây cho phân tử nước trở nên rất nhạy cảm đối
với tia điện từ, đặc biệt là tia sóng vi-ba [87,88].
Trong quá trình bóc lớp graphit oxit về GOVS, sự gia nhiệt của vi sóng xảy ra
do thiết bị vi sóng tạo ra trường điện từ tương tác với các phân tử phân cực hoặc các
ion của nguyên liệu phản ứng. Khi các phân tử hoặc ion này tìm cách sắp xếp các
lưỡng cực của chúng cho phù hợp với trường điện từ đang dao động, chúng sẽ quay,
di chuyển và cọ xát vào nhau, do đó bị nóng lên và phát sinh nhiệt. Ở đây các sóng
dao động sẽ được phát ra ở một tần số nhất định, thường là khoảng 2,45 GHz, như
vậy trong 1 giây phân tử nước sẽ có 2,45 tỷ dao động và phát sinh ra nhiệt, khi công
suất tăng lên có nghĩa thời gian đánh sóng sẽ dài thêm và năng lượng nhiệt sinh ra
thắng được lực liên kết Van der Waals do đó đẩy các tấm graphit oxit ra xa tạo
thành GOVS. Tuy nhiên khi công suất tăng lên nhiều, lượng nhiệt sinh ra quá lớn
kéo theo sự bùng cháy dữ dội của graphit oxit do đó dẫn đến hiệu suất giảm cỡ 5 lần
(Bảng 3.2). Khi lượng nhiệt tăng cùng với sự bốc cháy graphit oxit ở nhiệt độ cao
sinh ra các tác nhân khử CO [37] làm khử đi các nhóm chức trên bề mặt GOVS do
vậy quan sát trên phổ XRD Hình 3.4a cho thấy xuất hiện pic 2θ = 26o đặc trưng cho
vật liệu rGO [85] khi công suất tăng lên 1000 – 1200 W. Phổ FTIR Hình 3.4b cho
thấy đối với GOVS 700 W cho thấy các pic 3460 – 3500 cm-1 đặc trưng cho nhóm
hydroxyl (-OH), pic 1633 cm-1 đặc trưng cho nhóm C=C, pic nằm trong khoảng
1168 cm-1 đặc trưng cho nhóm – C-O, pic nằm trong khoảng 1728 cm-1 đặc trưng
cho nhóm cacbonyl – C=O [79, 89]. GOVS 1000 W chỉ xuất hiện pic 1110 cm-1 và
1700 cm-1 tương ứng với nhóm chức C-O và C=O [79] còn với GOVS 1200 W trên
phổ FTIR gần như không thấy xuất hiện các pic đặc trưng chứng tỏ có sự mất số
lượng lớn nhóm chức trên bề mặt GOVS 1200 W.
Như vậy với yêu cầu đặt ra đó là bóc lớp graphit oxit sử dụng kỹ thuật vi sóng
thành GOVS. GOVS tổng hợp được phải tồn tại pic đặc trưng cho GO (11 - 14o),
không có sự hình thành pic mới (20 - 30o) đặc trưng cho vật liệu rGO và duy trì
được số lượng lớn nhóm chức trên bề mặt. Do đó, trong luận án này điều kiện thích
hợp: công suất vi sóng 700 W và thời gian 2 phút với lượng mẫu cố định 1 g graphit
oxit ban đầu được chọn.
66
*Nghiên cứu ảnh hưởng thời gian siêu âm đến quá trình điều chế GOSA từ
graphit oxit
Rodney S. Ruoff [26] đã tổng hợp các nghiên cứu và đưa ra tỷ lệ siêu âm tách
lớp với dung môi H2O từ graphit oxit thành GO tương ứng 1 mg/mL - 4 mg/mL.
Ngoài ra một số nhà nghiên cứu khác [82, 90, 91] cũng đưa ra tỷ lệ siêu âm tách lớp
với dung môi H2O là 0,1 mg/mL- 1 mg/mL. Trong luận án này chúng tôi cố định tỷ
lệ graphit oxit/ H2O = 2 mg/mL. Lượng graphit oxit siêu âm mỗi mẫu 0,1 g. Công
suất máy 40 W. Thời gian siêu âm 0 phút (GOSA0), 30 phút (GOSA1) 60 phút
(GOSA2) và 120 phút (GOSA3).
Hình 3.5. Sản phẩm GOSA bóc lớp bằng kỹ thuật siêu âm với các thời gian
khác nhau
Từ Hình 3.5 cho thấy khi thời gian siêu âm < 60 phút lượng graphit oxit trong
mẫu sau quá trình tách lớp vẫn chưa phân tán đều trong nước. Khi thời gian siêu âm
60 phút graphit oxit phân tán đều trong dung môi nước. Để giải thích cho điều
này, thấy rằng sóng siêu âm chính là sóng âm với tần số từ 15 - 10000 kHz. Sóng
siêu âm có tần suất rất cao và bước sóng ngắn. Trong môi trường chất lỏng sóng
siêu âm làm cho dung dịch lúc thì bị nén lại lúc lại dãn ra nhanh chóng tạo ra những
bọt bong bóng chân không siêu nhỏ, với kích thước siêu nhỏ này nó có thể xâm
nhập vào các lớp của graphit oxit. Năng lượng nhiệt được tạo ra trong suốt quá trình
cùng với sóng ép và sóng giảm ép khiến cho các bọt khí vì cộng hưởng vỡ ra dẫn
đến sự tăng áp suất làm đẩy các tấm graphit oxit ra xa [92]. Do vậy, nếu công suất
67
máy cố định 40 W trong thời gian ngắn áp suất chưa đủ để bóc tách hết các lớp
graphit oxit. Thật vây, trong nghiên cứu của tác giả [90] cho thấy với tỷ lệ 1 mg/1
mL thời gian siêu âm là 2 giờ để dung dịch đồng nhất, còn đối với tác giả [91] cũng
với tỷ lệ 1 mg/mL thời gian cần thiết là 3 giờ, trong khi đó với tác giả Won-Chun
Oh [82] sử dụng lượng 20 mg/200 mL chỉ cần 30 phút ở công suất 1,3x105 J, sản
phẩm GO đã phân tán đồng nhất trong nước. Theo chúng tôi có sự khác nhau như
vậy là do khối lượng graphit oxit sử dụng, thời gian và công suất của mỗi hệ máy
siêu âm của các tác giả trên là khác nhau. Như vậy định tính có thể thấy rằng mẫu
GOSA2 và GOSA3 là tốt hơn so với GOSA1. Để làm rõ hơn tính chất của các mẫu,
graphit oxit ban đầu, GOSA2 và GOSA3 được chụp HR- TEM và XRD.
(a) (b)
(d) (c)
Hình 3.6. Giản đồ XRD (d) và ảnh HR-TEM của các mẫu GOSA với thời gian
siêu âm khác nhau: graphit oxit (a), GSA2 (b), GSA3 (c)
Từ giản đồ XRD hình 3.6 (d) cho thấy sau khi siêu âm, các mẫu GOSA đều
tồn tại pic đặc trưng 2θ = 11o, 11,5o và 12o đặc trưng cho vật liệu graphen oxit [79,
93]. Tuy nhiên khi thời gian siêu âm kéo dài thì còn thấy sự xuất hiện của pic 2θ =
26o đặc trưng cho vật liệu rGO [85, 86] trên vật liệu GOSA3. Như vậy khi tăng thời
gian siêu âm lên thì một phần GO bị khử về thành rGO. Quan sát Hình 3.6 cũng cho
68
thấy đối với graphit oxit ban đầu không siêu âm thì có sự phân pha giữa chất rắn và
lỏng, khi tăng thời gian siêu âm lên thì GOSA phân tán đều trong dung dịch nước.
Ảnh HR-TEM (Hình 3.6a-c) cho thấy đối với GOSA2 các lớp được bóc tách ra so
với GOSA0, khi tăng thời gian lên thì năng lượng siêu âm làm phá vỡ các liên kết
C-C làm chúng phân thành những mảnh nhỏ kích thước < 0,1 µm (Hình 3.6c) và
một phần bị khử về rGO [94]. Trong nghiên cứu của Won-Chun Oh và cộng sự [82]
cho thấy siêu âm trong thời gian ngắn thì GO tổng hợp được có các cấu trúc XRD
và FTIR hoàn toàn giống nhau, chỉ khác là so với graphit oxit ban đầu có khoảng
cách lớp d = 0,85 nm, sau siêu âm 60 phút khoảng cách lớp của GO có giảm đi với
d = 0,798 nm. Do vậy, thời gian siêu âm là 60 phút được chọn để bóc tách lớp
graphit oxit về GOSA.
3.1.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình khử GOVS về rGO
Trong công bố của Won-Chun Oh cùng cộng sự [82] tác nhân nhiệt ở 1000 oC
được lựa chọn để khử GO về rGO, ngoài ra Seung Hun Huh [85] cũng nghiên cứu
quá trình khử GO về rGO với các điều kiện nhiệt độ từ 200 - 800 oC, kết quả chỉ ra
rằng tại nhiệt độ 600 oC rGO tạo thành với 8 lớp. Do vậy, trong phần này chúng tôi
chỉ nghiên cứu quá trình khử GOVS về rGO tại các nhiệt độ từ 400 - 1000 oC, với
tốc độ gia nhiệt 20 oC/phút và lưu lượng khí N2 15-20 mL/phút. Kết quả XRD và
phổ FTIR của các mẫu rGO khử nhiệt với nhiệt độ khác nhau được thể hiện trong
Hình 3.7.
a b
Hình 3.7. Giản đồ XRD (a) và FT-IR (b) của rGO ở các điều kiện nhiệt độ
khác nhau G1, G2, G3 và G4
GO ở nhiệt độ cao trong dòng N2 tạo ra CO là tác nhân khử đi các nhóm chức
bề mặt trên GO tạo thành rGO [37]. Vật liệu graphit dạng hạt (powder) ban đầu cho
69
đỉnh phổ đặc trưng của mặt mạng (002) ở 26,5o (Hình 3.1). Sau quá trình xử lý nhiệt
ở 400 oC đỉnh phổ này dịch chuyển dần về 24,5o, chứng tỏ cấu trúc lớp của tinh thể
graphit đã được hồi phục [85]. Khi nhiệt độ đạt > 600 oC trở lên thì hình thành rõ pic
trong khoảng 25,8o đặc trưng cho vật liệu rGO [85, 86]. Tuy nhiên độ rộng pic 25,8o
tại 800 oC và 1000 oC lớn hơn so với pic 25,8 tại nhiệt độ 600 oC. Tính toán theo công
oC > 800 oC >1000 oC. Quan sát trên phổ FTIR Hình 3.7b cho thấy rõ điều này, khi
thức Bragg [95], độ dày mỗi lớp giảm dần theo chiều tương ứng với nhiệt độ khử 600
nhiệt độ 400 oC thì quá trình khử vẫn chưa hoàn toàn, trên phổ FTIR vẫn còn quan sát
thấy các nhóm chức C=O, COOH, C-O-C [79, 89] mặc dù cường độ đã giảm đi rất
nhiều so với GOVS ban đầu (Hình 3.9), khi nhiệt độ > 600 oC quá trình đã khử phần
lớn các nhóm chức trên bề mặt (FTIR của rGO có dạng gần như đường thẳng). Do
vậy để quá trình khử diễn ra được hoàn toàn, cũng như tiết kiệm nguồn năng lượng,
chúng tôi chọn nhiệt độ cho quá trình khử GOVS về rGO là 600 oC. Hiệu suất quá
Các mẫu GOSA, GOVS và rGO tổng hợp được theo sơ đồ Hình 2.8 với các
trình tổng hợp rGO từ GOVS nằm trong khoảng 50 - 60%.
thông số đã khảo sát được và sản phẩm được đặc trưng bằng các phương pháp hóa
lý hiện đại sẽ được phân tích ở phần tiếp theo của luận án này.
3.2. Đặc trưng vật liệu GO và rGO tổng hợp được
3.2.1. Phương pháp nhiễu xạ tia (XRD)
Giản đồ các mẫu GOSA, GOVS và rGO được thể hiện trên Hình 3.8.
Hình 3.8. Giản đồ XRD của GOSA, GOVS và rGO sau khi tổng hợp
70
Giản đồ XRD của graphit nguyên liệu (Hình 3.1) với pic đặc trưng cường độ
cao và sắc nét với góc 2θ tại 26,5o (JCPDS card no. 8-415), tương ứng với khoảng
cách các lớp là 0,335 nm [80, 86]. Từ Hình 3.8 cho thấy, sau quá trình oxi hóa và
bóc tách lớp bằng kỹ thuật siêu âm pic đặc trưng của graphit ở 2θ tại 26,5o (002)
hầu như không còn và thay vào đó là sự xuất hiện của pic ở 2θ bằng 11,2o (002) đặc
trưng cho vật liệu GO [82, 85].
Điều này chứng tỏ các nhóm chức có chứa oxi đã được hình thành chèn vào
khoảng không gian giữa các lớp graphit, làm cho khoảng cách giữa các lớp tăng lên
khoảng 0,78 nm [82] và 1,2 nm cho mẫu ngậm nước [96] dẫn tới sự chuyển dịch về
giá trị 2θ (002) nhỏ hơn (từ 26,5o xuống 11,2o) [85]. Đối với GOVS quá trình sử dụng
tác nhân nhiệt cao trong thời gian ngắn làm các gốc OH- và H2O sẽ bị khử và bay hơi
nhanh chóng tạo ra lượng khí lớn đẩy các lớp GO ra xa, làm cho lực liên kết của
chúng yếu đi qua đó làm số lượng các tấm và khoảng cách giữa các tấm GO tăng lên
tương ứng với khoảng cách lớp
[33], do vậy pic đặc trưng 2θ vẫn nằm ở khoảng 11,5o
d = 0,71 nm tuy nhiên cường độ pic đã giảm cũng như độ rộng chân pic đã tăng hơn
nhiều so với graphit oxit trước vi sóng. Sau quá trình khử GOVS bằng nhiệt ở 600 oC
để loại bỏ các nhóm chức trên bề mặt cho thấy đỉnh phổ đặc trưng của GO ở 11,5o có
sự giảm dần và thay vào đó là sự chuyển dịch đỉnh phổ ở 2θ về 25,8o đặc trưng cho
vật liệu rGO [85, 86]. Quan sát pic đặc trưng trên rGO cho thấy có sự giảm về độ cao
cũng như không được sắc nét so với vật liệu graphit ban đầu điều này là do rGO tổng
hợp được có những khuyết tật so với graphit ban đầu [42, 97].
3.2.2. Phổ hồng ngoại chuyển dịch Fourier (FTIR)
Phổ FTIR của các mẫu GOVS, GOSA và rGO được thể hiện trên hình 3.10.
b a
Hình 3.9. Phổ FTIR của GOSA, GOVS và rGO sau tổng hợp
71
Hình 3.10 (a) mô tả phổ FTIR của GOSA, GOVS và rGO. Quan sát phổ FTIR
của GOSA cho thấy có sự tồn tại của nhóm cacbonyl – C=O (trong khoảng 1700 -
1730 cm-1) [79]. Các pic nằm trong khoảng 1200-1250 cm-1 đặc trưng cho sự tồn tại
của liên kết C–O [80]. Các pic nằm trong khoảng 1500-1600 cm-1 đặc trưng cho sự
tồn tại của liên kết C=C trong các hợp chất aromatic [79, 89], pic nằm trong khoảng
đặc trưng cho liên kết C-O-C [80]. Ngoài ra các pic nằm trong khoảng từ
1060 cm-1
đặc trưng cho sự có mặt của các nhóm -OH [79, 89]. Sau quá
3400 – 3850 cm-1
trình vi sóng, các pic có sự dịch chuyển nhẹ 3460 – 3500 cm-1 vẫn đặc trưng cho
nhóm hydroxyl (-OH), pic 1633 cm-1 đặc trưng cho nhóm C=C, pic nằm trong
khoảng 1168 cm-1 đặc trưng cho nhóm – C-O, pic nằm trong khoảng 1728 cm-1 đặc
trưng cho nhóm cacbonyl– C=O [79, 89]. Cường độ các pic này đều giảm đi so với
GOSA có thể là do tác nhân nhiệt trong khi vi sóng kéo theo sự giảm đi số lượng
nhóm chức trên bề măt GOVS. Sau quá trình khử nhiệt đường FTIR của rGO hầu
như không còn quan sát thấy các pic đặc trưng cho các nhóm chức như trong phổ
FTIR của GO (Hình 3.9a) cho thấy quá trình khử làm mất đi một lượng lớn các
nhóm chức trên bề mặt GO. Một điều đặc biệt có thể nhận thấy khi quan sát FTIR
của cả 03 vật liệu GOVS, GOSA và rGO đều nhận thấy sự xuất hiện của một pic rất
lớn tại khoảng 2342 cm-1, pic này đặc trưng cho liên kết giữa GO và CO2 [89]. Giải
thích cho điều này là do trong khoảng nhiệt độ từ 50-120 oC, GO dễ dàng hình
thành liên kết với CO2 [89, 98] liên kết này bị phá vỡ khi nhiệt độ >210 oC [98] quá
trình sấy loại nước trên GO diễn ra ở chân không 60 oC do vậy CO2 vẫn còn hình
thành liên kết với GO. Khi đo FTIR nếu quá trình xử lý mẫu không có quá trình loại
bỏ CO2 (degas) thì liên kết này vẫn hình thành và xuất hiện trên phổ FTIR, điều này
đã được chứng minh khi tiến hành xử lý mẫu loại bỏ CO2, phổ FTIR của GOSA
(Hình 3.9b) trước và sau khi loại bỏ CO2 trùng nhau, chỉ khác là sự giảm mạnh của
pic nằm trong khoảng 2342 cm-1 đặc trưng cho liên kết CO2 và GO.
3.2.3. Kính hiển vi điện tử truyền qua độ phân giải cao (HR –TEM)
Để đánh giá về hình thái học, các mẫu GO và rGO được đo HR-TEM. Ảnh
HR-TEM của GO và rGO được minh hoạ ở Hình 3.10.
72
(a)
(a)
0,6nm
(b)
(b)
(c)
(c)
0,4nm
Hình 3.10. Ảnh HR-TEM của GOSA (a), GOVS (b) và rGO (c)
Từ ảnh HR-TEM của GOSA (Hình 3.10a) cho thấy sự xuất hiện những nếp
gãy trên bề mặt của vật liệu GOSA có thể do bề mặt bị rạn nứt trong quá trình xử lý
siêu âm. Đối với vật liệu GOVS cho thấy sự chồng xếp các lớp giảm so với GOSA,
số lớp cũng giảm từ khoảng từ khoảng 10 lớp (GOSA) xuống 7 - 8 lớp (GOVS).
Hình ảnh HR-TEM của rGO khi so sánh với ảnh HR-TEM của GOVS nhận thấy
rGO tổng hợp được có cấu trúc vài lớp như trong tài liệu đã công bố [85]. Từ Hình
3.11c cho thấy rGO có cấu trúc khoảng 5-6 lớp, khoảng cách mỗi lớp khoảng 0,4
nm, đối với GOSA khoảng cách mỗi lớp khoảng ước tính khoảng 0,6 nm. Nhận
thấy có sự khác biệt nhỏ khi so sánh khoảng cách giữa các lớp của GO bằng hai
phương pháp XRD (0,78 nm) và HR-TEM (0,6 nm). Điều này là do quá trình xử lý
73
mẫu của hai phương pháp là khác nhau, đối với phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD)
các mẫu được đo trong môi trường không khí, trong khi đó đối với phương pháp
HR-TEM các mẫu được xử lý trong môi trường chân không.
3.2.4. Hấp phụ và khử hấp phụ Nitơ (BET)
Bề mặt riêng, kích thước lỗ xốp, thể tích và sự phân bố lỗ xốp được xác định
bằng phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 theo phương pháp BET.
Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 đối với GO và rGO được trình bày ở
Hình 3.11. Các thông số đặc trưng của vật liệu (diện tích bề mặt, tổng thể tích mao
quản, đường kính mao quản) được trình bày ở Bảng 3.3.
Bảng 3.3. Các thông số đặc trưng của GOSA, GOVS và rGO theo phương pháp BET
GOSA 56 0,0004 0,283 rGO 300 0,018 1,596
Thông số Diện tích bề mặt (m2/g) Thể tích vi mao quản (cm3/g) Tổng thể tích mao quản (cm3/g) Đường kính mao quản trung bình (nm) GOVS 331 0,0015 1,719 9,6 - 21,4 7,8 - 21,2 8,8 - 22,5
a
b
c
d
Hình 3.11. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 ở 77 K (a) và đường phân bố kích thước mao quản rGO(b), GOSA(c) và GOVS(d)
74
Từ Hình 3.11 a và b cho thấy đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của
GO và rGO có dạng tip IV, đặc trưng cho vật liệu có cấu trúc lớp. Sự xuất hiện đường
trễ chứng tỏ có sự ngưng tụ mao quản. Từ Bảng 3.3 cho thấy so với GOSA thì GOVS
và rGO có diện tích bề mặt riêng và tổng thể tích lỗ xốp lớn hơn cỡ 6 lần. Dễ dàng
nhận thấy đối với cả 2 mẫu GO và rGO hệ mao quản chủ yếu là mao quản trung bình
99% còn vi mao quản là không đáng kể (khoảng 1%). Đường kính mao quản nằm
trong khoảng 8 - 22 nm. Diện tích bề mặt lớn cùng với đường kính mao quản rộng là
điều kiện thích hợp cho sự khuếch tán nhanh các chất bị hấp phụ tới các tâm hấp phụ
trong vật liệu hấp phụ, qua đó làm tăng dung lượng hấp phụ [71, 72].
3.2.5. Phổ điện tử quang tia X (XPS)
Để hiểu rõ hơn thành phần cơ bản, trạng thái hóa học, trạng thái điện tử của
các nguyên tố trên bề mặt vật liệu GO và rGO, các mẫu được tiến hành đo phổ điện
tử quang tia X (XPS) và được trình bày trên Hình 3.12.
Qua ảnh phổ XPS của GO, cho thấy đều xuất hiện những liên kết O1s với pic
đặc trưng ở mức năng lượng 500 eV có trong ảnh phổ đồng thời cường độ pic của
O1s với mức năng lượng liên kết lên đến xấp xỉ 4,5x105 hạt/s cho thấy có khá nhiều
oxi trong vật liệu chứng tỏ đã có những nhóm chức chứa oxi hình thành trong vật
liệu [79]. Đối với phổ XPS của rGO năng lượng liên kết của O1s ở mức xấp xỉ 500
eV đỉnh pic đã giảm xuống còn xấp xỉ 2,5.105 hạt/s (Hình 3.12e) và 3.105 hạt/s
(Hình 3.13) cho thấy lượng oxi trong vật liệu đã giảm xuống từ đó chứng tỏ quá
trình khử nhiệt đã loại bỏ phần lớn các nhóm chức chứa oxy trên bề mặt GO. So
sánh từ cường độ của pic O1s (Hình 3.12c) cho thấy sau khi khử GO thành rGO về
lý thuyết rGO không chứa oxi nhưng trong thực tiễn cũng như các công trình công
bố [26, 82, 85, 86] quá trình khử chỉ được khoảng 80%.
Tuy vậy quan sát Bảng 3.4 thấy rằng sau quá trình khử nhiệt hàm lượng oxy
giảm < 10%, tỷ lệ C/O tăng lên từ 2,98 (GOVS) lên 10,89 (rGO) trong khi cùng
điều kiện quá trình khử GOSA về rGO chỉ làm tăng tỷ lệ C/O lên 6,15, điều này có
thể là do quá trình vi sóng đã kéo dãn các lớp của GOVS và làm mất đi một phần
lượng oxy so với GOSA do đó khi khử GOVS về rGO quá trình khử diễn ra tốt hơn
và cao hơn so với kết quả của nhóm tác giả Abhijit Ganguly [97] khi khử GO về
rGO tại nhiệt độ 600 oC (C/O ~ 6,57).
75
a b
d c
e f
Hình 3.12. Phổ XPS của GOSA (a,b), GOVS (c, d) và rGO (e, f)
Phân tích phổ XPS C1s (Hình 3.12b -f) cho thấy xuất hiện các pic tương ứng
với mức năng lượng 284,8 eV (C1s) là của liên kết sp2 C-C (liên kết không chứa
oxi), tương tự với pic tương ứng ở mức năng lượng 286,8 eV là của liên kết C–O
76
[79, 99], pic tương ứng với mức năng
lượng 289 - 290 eV là của liên kết O–C=
O [97, 99] và pic với mức năng lượng
287,9 eV đặc trưng cho liên kết C = O
[97]. Cường độ của các pic này trong GO
cao hơn so với cường độ của các pic trong
rGO chứng tỏ lượng oxi liên kết với
cacbon trên bề mặt rGO đã mất đi một
lượng lớn, quá trình khử nhiệt GO về rGO
còn được thể hiện rõ trên pic 291,5 eV đặc
Hình 3.13. Phổ XPS của rGO trưng cho các liên kết π→π* của cacbon khử nhiệt từ GOSA trong vòng thơm [97].
Bảng 3.4. Thành phần các nguyên tố trong phổ XPS của GOVS, GOSA và rGO (%At)
Mẫu/nguyên tố rGO GOVS GOSA rGO khử nhiệt từ GOSA Graphen, 600 oC [Tài liệu 97] C 91,59 73,92 69,88 86,02 86,80 O 7,41 25,08 30,12 13,98 13,20 C/O 10,89 2,98 2,32 6,15 6,57
Cơ chế khử GOVS về rGO sử dụng tác nhân nhiệt trong dòng N2 sinh ra CO
[31] là tác nhân khử theo một số tài liệu [26, 38, 85, 97] như sau:
Hình 3.14. Sơ đồ quá trình khử nhiệt từ GOVS về rGO
77
3.3. Khảo sát một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp Fe3O4-GOVS
Trong phần đầu chúng tôi đã nghiên cứu và đưa ra quy trình tổng hợp được
vật liệu GOVS, GOSA và rGO. Tuy nhiên, để vật liệu này được áp dụng rộng rãi thì
việc thu hồi lại chất xúc tác sau quá trình hấp phụ vẫn khó tiến hành. Đã có nhiều
nhà nghiên cứu [6, 42, 46] đã gắn kết các chất có từ tính lên bề mặt vật liệu nhằm dễ
dàng thu hồi xúc tác sau phản ứng bằng từ trường ngoài [44]. Một trong những xu
hướng thế giới đang quan tâm và trùng với hướng nghiên cứu của luận án (2012-
2015) đó là việc gắn kết các hạt nano Fe3O4 lên bề mặt vật liệu rGO và GO [46, 47
58]. Đến nay theo hiểu biết của chúng tôi, quá trình gắn các hạt nano Fe3O4 lên bề
mặt GOVS vẫn chưa được nhóm tác giả nào công bố. Trong nước có nhóm tác giả
Nguyễn Thị Vương Hoàn [16, 17] đang nghiên cứu về vật liệu Fe3O4 trên GO. Tuy
nhiên phương pháp tổng hợp của tác giả dùng là phương pháp gián tiếp (tổng hợp
Fe3O4 riêng biệt trong môi trường kiềm sử dụng NaOH và sau đó mới phân tán các
hạt nano này lên bề mặt GO). Tác giả Ninh Thị Huyền [13] trong luận văn thạc sỹ
của mình đã sử dụng NaOH là tác nhân điều chỉnh môi trường pH và ứng dụng
Fe3O4 trên GO để hấp phụ xanh methylen. Nhóm tác giả Hồ Thị Tuyết Trinh [100]
chế tạo Fe3O4/graphen sử dụng hấp phụ chất màu Rhodmin B. Ngoài ra, chất lượng
và kích thước của hạt nano Fe3O4 tạo ra phụ thuộc nhiều vào các yếu tố thực nghiệm
như: độ pH, nhiệt độ, nồng độ, tốc độ khuấy và tỷ lệ các chất tham gia phản ứng [6,
43, 101]. Nếu không khống chế tốt các điều kiện thực nghiệm hạt nano thu được
thường có phân bố kích thước rộng, không đồng đều dễ bị co cụm, đồng thời ngoài pha
Fe3O4 có thể tồn tại các pha khác như -Fe2O3, γ-Fe2O3 hay các hydroxit vô định hình [45,
102]. Do đó, với mỗi hệ khác nhau đòi hỏi phải có những nghiên cứu cụ thể.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp tuy nhiên như đã phân
tích trong phổ XPS của cả hai GOSA và GOVS cho thấy tỷ lệ C/O= 2,32 - 2,98, sự
liên kết giữa Fe3O4 với GOVS được tạo thành bằng các liên kết cộng hóa trị Fe-O-C
[50] như vậy theo tính toán phần trăm nguyên tử (%At) của nguyên tố Fe có trong
vật liệu composit Fe3O4-GOVS chiếm ~20% tương đương tỷ lệ Fe3O4 so với GOVS
là 1:1 (50% về khối lượng), ngoài ra tốc độ nhỏ dung dịch Fe3+/Fe2+ vào dung dịch
GOVS trong luận án này đều được cố định. Do đó, trong phần này chúng tôi chỉ tập
78
trung nghiên cứu tổng hợp và khảo sát tính chất của Fe3O4-GOVS theo phương pháp đồng kết tủa có kích thước hạt nhỏ, phân bố đều và dễ dàng thu hồi bằng từ
trường ngoài.
3.3.1. Khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng đồng kết tủa
Để khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng đồng kết tủa lên sự hình thành
pha, kích thước và hình thái học của vật liệu nano Fe3O4-GOVS, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu các mẫu vật liệu được chế tạo ở các nhiệt độ khác nhau. Các mẫu được ký
hiệu GF1, GF2 và GF3, tương ứng với nhiệt độ phản ứng là 30 oC, 50 oC và 80 oC.
Chi tiết thực nghiệm của hệ mẫu được trình bày trong chương 2. Kết quả nghiên cứu
được thực hiện thông qua các phương pháp: nhiễu xạ tia X (XRD), quang phổ XPS
và hiển vi điện tử truyền qua TEM.
3.3.1.1. Pha cấu trúc và kích thước tinh thể
Hình 3.15 trình bày giản đồ XRD của các vật liệu composit Fe3O4 –GOVS tổng
hợp bằng phương pháp đồng kết tủa ở các nhiệt độ phản ứng khác nhau. Kết quả
phân tích cho thấy giản đồ XRD của các mẫu GF2 và GF3 đều chứa các đỉnh nhiễu
xạ đặc trưng cho vật liệu có cấu trúc ferrit spinel: (111), (220), (311), (222), (440),
(442), (511) và (440) [50, 51].
Đối với mẫu tổng hợp ở
nhiệt độ 30 oC các đỉnh nhiễu
xạ không được rõ ràng, tuy vậy
quan sát giản đồ XRD của cả
03 mẫu đều thấy pic 2θ = 11,5o
không còn. Lý giải về sự biến
mất của đỉnh phổ 2θ = 11,5o có
hai nguyên nhân, một là do các
hạt nano Fe3O4 được phân tán
trên tấm GOVS nhiều hơn làm
Hình 3.15. Giản đồ XRD của các mẫu Fe3O4-GOVS tổng hợp trong điều kiện nhiệt độ khác nhau GF1, GF2 và GF3
cho cường độ các đỉnh tương
ứng với cacbon giảm đi [103]. Nguyên nhân thứ hai là do tín hiệu của hạt Fe3O4
mạnh hơn có xu hướng lấn át tín hiệu của các đỉnh cacbon [103]. Các đỉnh nhiễu xạ
79
có độ mở rộng vạch phổ (β1) của mẫu lớn chứng tỏ mẫu có kích thước nhỏ [74]. Trên
thực tế, khi xét giản đồ XRD của các hợp chất chứa oxit sắt, thường khó phân biệt
giữa pha Fe3O4 và pha γ- Fe2O3, bởi hai pha vật liệu này có cấu trúc tinh thể tương
tự và vị trí vạch nhiễu xạ gần tương đồng với nhau. Do vậy, để xác định chính xác
Fe3O4 tồn tại sạch pha trên GOVS hay không, 03 mẫu tổng hợp ở nhiệt độ khác
nhau được đặc trưng bằng phép đo phổ XPS và được thể hiện trên Hình 3.16. Quan
sát phổ XPS của 03 vật liệu tổng hợp ở các nhiệt độ khác nhau cho thấy chỉ tồn tại
các pic với mức năng lượng 711 eV và 725 eV tương ứng với Fe2p3/2 và Fe2p1/2
trong cấu trúc Fe3O4 mà không thấy sự xuất hiện của các pic 710,35 eV, 719 eV và
724 eV chứng tỏ không tồn tại sự có mặt của γ-Fe2O3 [104]. Ngoài ra sự xuất hiện
của một dải dài pic 715,5 eV (Hình 3.16b) cho thấy sự hình thành của oxit Fe3O4
trong vật liệu nano composit Fe3O4-GOVS tổng hợp được [57].
a b
Hình 3.16. Phổ XPS (a,b) của các mẫu GF1, GF2 và GF3 tổng hợp trong
điều kiện nhiệt độ khác nhau
Như vậy, các kết quả nghiên cứu về cấu trúc (XRD) và quang phổ XPS trên các
mẫu đã chứng minh có thể tổng hợp được vật liệu nano Fe3O4 trên GOVS sạch pha với
các nhiệt độ phản ứng từ nhiệt độ 30 oC đến 80 oC. Mặc dù ở nhiệt độ 30 oC Fe3O4 vẫn
tồn tại sạch pha trên GOVS nhưng giản đồ XRD lại không thấy rõ các đỉnh nhiễu xạ
đặc trưng cho vật liệu này, điều này là do hàm lượng sắt tồn tại khác nhau trong các
mẫu GOVS. Thật vậy, quan sát Bảng 3.5 cho thấy hàm lượng Fe (% nguyên tố) phân
tích theo phổ XPS của 3 mẫu lần lượt là 1,51%; 9,13% và 17,23%, với giới hạn phát
hiện của phép đo XRD > 5% thì mẫu ở nhiệt độ 30 oC có hàm lượng Fe cỡ 1,51% nên
không thể quan sát các đỉnh phổ đặc trưng của Fe3O4 là hợp lý.
80
Bảng 3.5. Thành phần các nguyên tố trong phổ XPS của Fe3O4-GOVS (%At)
C O Fe
Mẫu/ nguyên tố GF1, T=30 oC 68,6 30,43 1,51
GF2, T=50 oC 60,13 30,74 9,13
Một số nghiên cứu cho rằng hạt nano Fe3O4 chỉ tạo thành đơn pha khi nhiệt
GF3, T=80 oC 39,96 44,81 17,23
độ trên 60 oC, vì ở nhiệt độ phản ứng thấp hơn, sự oxi hóa của các hydoxit diễn ra
không hoàn toàn. Sản phẩm kết tủa của muối Fe2+ và Fe3+ trong môi trường kiềm
ngoài Fe3O4, -Fe2O3 còn có FeOOH và -Fe2O3, khó tạo thành hạt Fe3O4 đơn pha
[102, 105]. Theo chúng tôi, trong phản ứng đồng kết tủa, yếu tố nhiệt độ chỉ có tác
dụng thúc đẩy quá trình phản ứng xảy ra nhanh hơn. Quá trình oxi hóa các hydroxit
có thể diễn ra hoàn toàn ở nhiệt độ phòng (30 oC) nếu điều chỉnh độ pH của dung
dịch phù hợp với tỷ lệ ion Fe2+/Fe3+ không đổi là 1:2.
Nhận định này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Gnanaprakash và cộng sự
[106]. Nhóm tác giả này đã tổng hợp hạt nano Fe3O4 và khảo sát sự hình thành của
hạt nano Fe3O4 theo pH của dung dịch muối ban đầu ở 25 oC và 60 oC. Kết quả cho
thấy hạt nano Fe3O4 tạo ra sạch pha ở nhiệt độ 25 oC và 60 oC. Tuy nhiên, yếu tố
nhiệt độ lại ảnh hưởng tới kích thước hạt, mẫu tạo ra ở 25 oC có kích thước tinh thể
là 6,47 nm và mẫu tạo ra ở 60 oC có kích thước tinh thể là 8,2 nm. Như vậy, có thể
cho rằng nhiệt độ ảnh hưởng tới kích thước hạt Fe3O4. Để đánh giá chính xác hơn
ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng lên kích thước tinh thể của vật liệu, tiến hành xác
định kích thước tinh thể của các mẫu dựa trên công thức Scherrer [74]. Công thức
Scherrer thường được áp dụng tính cho đỉnh nhiễu xạ có cường độ mạnh nhất là
đỉnh (311). Các kết quả tính toán được đưa ra trong Bảng 3.6.
Bảng 3.6. Kích thước hạt mẫu Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện
nhiệt độ khác nhau
Mẫu GF1 GF2 GF3
- 11,8 13,4 dXRD (nm)
Như vậy có thể thấy nhiệt độ phản ứng tăng dẫn đến kích thước hạt nano
Fe3O4 trên GOVS tăng lên. Tuy nhiên, kích thước hạt tính bằng phương pháp XRD
81
có độ chính xác cao khi thỏa mãn điều kiện cần thiết đó là sự phân bố các hạt Fe3O4
phải rất đồng đều trên GOVS [107]. Do vậy để xác định chính xác hình dạng kích
thước hạt của Fe3O4 trên GOVS chúng tôi tiến hành đo TEM của 03 mẫu.
3.3.1.2. Ảnh TEM
Hình 3.17 trình bày ảnh TEM của 03 mẫu vật liệu Fe3O4-GOVS tổng hợp ở
trong các điều kiện nhiệt độ khác nhau.
(a)
(a)
(b)
(b)
(c)
(c)
Hình 3.17. Ảnh TEM với độ phân giải khác nhau của các mẫu Fe3O4-GOVS
tổng hợp ở điều kiện nhiệt độ khác nhau GF1 (a), GF2 (b) và GF3 (c)
82
Khi so sánh giá trị kích thước tinh thể và kích thước hạt thực, thấy có sự
chênh lệch giữa hai giá trị này. Kích thước hạt thực của các mẫu được xác định từ
ảnh TEM lớn hơn kích thước tinh thể xác định từ nhiễu xạ tia X. Sự sai khác giữa
hai phương pháp là do việc xác định kích thước tinh thể bằng XRD là phương pháp
gián tiếp và phương pháp TEM là trực tiếp. Hai phương pháp này có tính thống kê
khác nhau: phương pháp nhiễu xạ tia X ghi nhận kết quả trên tập hợp có số lượng
hạt lớn hơn rất nhiều so với các phương pháp hiển vi điện tử truyền qua [107, 108].
Phương pháp XRD và TEM xác định kích thước hạt tinh thể của mẫu không
có sự khác biệt quá nhiều (13,4 nm và 15 nm) có thể là do sự phân bố kích thước
hạt Fe3O4 khá đồng đều trên GOVS [107].
Trong luận án này với nhiệt độ cao hơn 80 oC chúng tôi không nghiên cứu vì
tác nhân kiềm sử dụng cho phương pháp này là NH4OH 25%, do vậy khi nhiệt độ
>100 oC sự bay hơi nước cùng với NH4OH tăng mạnh rất khó điều chỉnh pH và
nồng độ muối trong dung dịch, những tác nhân này ảnh hưởng lớn đến quá trình
khống chế kích thước hạt [43, 101]. Hơn nữa, trong báo cáo của nhóm tác giả
oC. Như vậy từ phương pháp phân tích XRD, XPS và TEM cho thấy nhiệt độ ảnh
Nguyễn Thị Vương Hoàn [48] cho thấy rằng Fe3O4 tổng hợp được sạch pha đến 100
oC cho kích thước hạt nhỏ hơn so với 80 oC tuy nhiên quan sát ảnh TEM chúng ta
hưởng đến kích thước của hạt Fe3O4 trên GOVS. Tại nhiệt độ tổng hợp 30 oC và 50
thấy sự phân bố Fe3O4 lại không đồng đều bằng mẫu ở nhiệt độ 80 oC, quan sát
bảng phân tích nguyên tố theo XPS cũng cho thấy hàm lượng nguyên tử Fe (%
nguyên tố) tại mẫu 80 oC là cao nhất (17,23%), ngoài ra tham khảo một số tài liệu
[51, 59] cũng cho thấy rằng tổng hợp Fe3O4 sử dụng tác nhân kiềm NH4OH ở điều
kiện 80 oC cho kết quả hấp phụ tốt. Do đó trong luận án này, nhiệt độ thích hợp cho
quá trình tổng hợp Fe3O4-GOVS là 80 oC được lựa chọn làm nhiệt độ thích hợp cho
các nghiên cứu tiếp theo.
3.3.2. Ảnh hưởng nồng độ đầu
Trong phản ứng đồng kết tủa, bên cạnh yếu tố nhiệt độ và pH của dung dịch phản
ứng, nồng độ các chất đầu vào cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến kích thước hạt và
từ tính của hạt nano [101]. Theo kết quả nghiên cứu của tác giả ZHAO Yuanbi
83
[109], khi thay đổi nồng độ dung dịch muối FeCl2 từ 0,01 M đến 0,03 M thu được
hạt nano Fe3O4 có độ tinh thể cao với kích thước thay đổi từ 10,4 nm đến 17,7 nm.
Dựa trên các nghiên cứu đã được thực hiện, chúng tôi tiến hành nghiên cứu chế tạo
hạt nano Fe3O4 ở các nồng độ dung dịch muối ban đầu khác nhau với điều kiện
nhiệt độ thích hợp T= 80 oC.
3.3.2.1. Giản đồ XRD
Để xét ảnh hưởng của nồng độ muối ban đầu lên kích thước tinh thể của vật liệu
nano Fe3O4, chúng tôi so sánh giản đồ nhiễu xạ của các mẫu được chế tạo ở các nồng độ
muối Fe3+/Fe2+ khác nhau N (0,01M/0,005M), GF3 (0,1M/0,05M), N1 (1M/0,5M) và
N2 (2M/1M). Kết quả chụp XRD thể hiện trên Hình 3.18.
Hình 3.18. Giản đồ XRD của Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện nồng độ khác nhau
Từ Hình 3.18 cho thấy cường độ XRD các đỉnh tăng dần và độ mở rộng vạch
hẹp dần khi tăng nồng độ muối. Trên giản đồ nhiễu xạ của mẫu N2 và N1 xuất hiện
đỉnh (311) thể hiện rõ nét với cường độ cao, ngược lại trên giản đồ của mẫu N và
GF3 đỉnh (311) thấp và có độ rộng chân pic lớn hơn so với các mẫu N2 và N1. Điều
này cho thấy kích thước tinh thể của các mẫu tăng dần khi tăng nồng độ muối. Kết
quả tính toán kích thước tinh thể của các mẫu theo công thức Scherrer tại đỉnh nhiễu
xạ (311) (Bảng 3.7) phù hợp với nhận định trên.
84
Bảng 3.7. Kích thước hạt mẫu Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện nồng độ khác nhau
Mẫu N GF3 N1 N2
7,3 13,4 18,2 36,1 dXRD (nm)
Các mẫu lần lượt có kích thước tinh thể tương ứng là là 7,3 nm, 13,4 nm, 18,2 nm
và 36,1 nm. Theo lý thuyết cổ điển về sự hình thành và phát triển mầm hạt trong dung
dịch, nồng độ của chất đầu vào là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới tốc độ phát
triển của mầm hạt trong quá trình khuếch tán [103]. Khi nồng độ tăng quãng đường
khuếch tán của các mầm hạt ngắn hơn và tốc độ phát triển của hạt nhanh hơn, do đó hạt
thu được có kích thước lớn hơn. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Vương Hoàn [48]
đã chứng minh tính đúng đắn của lý thuyết trên. Để xác định chính xác hình dạng kích
thước hạt của Fe3O4 trên GOVS 04 mẫu được tiến hành đo TEM và HR-TEM.
3.3.2.2. Ảnh TEM, HR-TEM và từ tính của Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện nồng
độ khác nhau
Hình 3.19 trình bày ảnh TEM và HR-TEM của 04 mẫu (N, GF3, N1 và N2)
tổng hợp ở các nồng độ khác nhau, trong đó mẫu N có kích thước rất nhỏ nên được
gửi sang Hàn Quốc để đo HR-TEM.
(a)
(b)
(c)
(d)
Hình 3.19. Ảnh TEM của Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện nồng độ khác nhau: N (a), GF3 (b), N1 (c) và N2 (d)
85
Khi so sánh ảnh TEM của các mẫu tổng hợp ở trong các điều kiện khác nhau
cho thấy rõ sự thay đổi của kích thước hạt. Đặc điểm các hạt Fe3O4 có dạng tựa cầu,
phân tán khá đồng đều và nằm xen kẽ trên các lớp GOVS. Giá trị kích thước trung
bình của các mẫu N, GF3, N1 và N2 lần lượt là 8 nm, 15 nm, 25 nm và 40 nm. Các
hạt nano Fe3O4 phân tán khá đồng đều trên bề mặt của GOVS. Tuy nhiên mẫu N2
có kích thước hạt phân bố trong giải rộng 15 - 40 nm. Điều này có thể giải thích là
do khi nồng độ muối thấp chúng chỉ tham gia vào quá trình tạo mầm và lúc đó quá
trình tạo mầm và phát triển tinh thể được tách rời nhau, các hạt Fe3O4 tạo thành
tương đối đồng nhất. Còn khi tổng hợp ở nồng độ muối cao, sau khi quá trình phát
triển mầm tới trạng thái siêu bão hòa thì xảy ra tiếp quá trình phát triển tinh thể
[52], lúc này quá trình tạo mầm và phát triển tinh thể cùng xảy ra đồng thời nên các
hạt tạo thành có kích thước không đồng nhất, phân bố trong khoảng rộng. Kết quả
này hoàn toàn phù hợp với giả thiết của LaMer và Dinegar [52], kết quả nghiên cứu
của Nguyễn Thị Vương Hoàn [48] và ZHAO Yuanbi [109] cũng đã chứng minh
tính đúng đắn của giả thiết trên. Như vậy từ XRD và TEM cho thấy mẫu tổng hợp trong điều kiện 80 oC, nồng độ muối ban đầu Fe3+/Fe2+ = 0,01M/0,005M cho hạt có
kích thước nhỏ nhất (~ 8 nm). Tuy nhiên với mục đích chế tạo được vật liệu Fe3O4-
GOVS ngoài kích thước hạt nhỏ thì chúng còn phải được thu hồi dễ dàng bằng từ
trường ngoài, do vậy 03 vật liệu, N, GF3 và N1 là những vật liệu có kích thước hạt
nằm trong vùng siêu thuận từ (6-30 nm, theo tính toán lý thuyết) [110] được tiến
hành đo từ tính được thể hiện trên Hình 3.20.
Hình 3.20. Đường cong từ hóa của Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện nồng độ khác nhau
86
Từ Hình 3.20 cho thấy tại 3 nồng độ khác nhau, lực kháng từ của mẫu Fe3O4-
GOVS gần như bằng không. Điều này cho thấy các mẫu nano composit đều mang
tính siêu thuận từ. Từ độ bão hòa của mẫu GN3 và N1 có giá trị tương ứng bằng 35
emu/g và 40 emu/g phù hợp với các kết quả khác đã được công bố [49, 51, 91].
Thực nghiệm cho thấy, đối với mẫu N từ độ bão hòa thấp ~5 emu/g khó thu hồi
bằng từ trường ngoài. Trong khi đó, với các mẫu GF3, N1 có từ độ bão hòa cao nên
dễ dàng tách chất hấp phụ sau phản ứng bằng từ trường ngoài. Ngoài ra kích thước
hạt của mẫu GF3 ~ 15 nm nên chúng tôi chọn nồng độ thích hợp cho các nghiên
cứu tiếp theo là 0,1M/0,05M.
3.3.3. Ảnh hưởng pH
Ngoài các yếu tố về nhiệt độ, nồng độ muối Fe3+/Fe2+ thì pH của dung dịch
cũng được xem là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kích thước hạt. Một số tài
liệu [45, 51] và tác giả Jing Sun cùng cộng sự [101] đã cho thấy rằng quá trình tổng
hợp Fe3O4 thuận lợi ở pH trong khoảng 8 -13 do vậy trong luận án này, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của pH đến kích thước hạt với các giá trị pH = 8
(GF4), pH =10 (GF3), pH = 12 (GF5). Hình dạng, kích thước hạt được quan sát
bằng ảnh FE-SEM. Hình 3.21 trình bày ảnh FE-SEM của 03 mẫu vật liệu Fe3O4-
GOVS tổng hợp ở trong các điều kiện pH khác nhau.
(b)
(a)
(c)
Hình 3.21. Ảnh FE-SEM của Fe3O4-GOVS tổng hợp ở trong các điều kiện pH khác nhau GF3(a), GF4(b) và GF5(c)
87
Hình 3.21 cho thấy mẫu tổng hợp ở pH = 8 (GF4) có kích thước cỡ 20 nm,
pH = 10 (GF3) có kích thước cỡ 15 nm và mẫu tổng hợp ở pH = 12 (GF5) có kích
thước cỡ 18 nm. Như vậy, pH ảnh hưởng đến kích thước của Fe3O4 trên GOVS.
Quá trình hình thành Fe3O4 có thể xảy ra theo quá trình sau [101].
Fe3+ + 3OH- = Fe(OH)3 → FeOOH + H2O
Fe2+ + 2OH- = Fe(OH)2
2FeOOH + Fe(OH)2 = Fe3O4 + 2H2O
Do đó, khi pH tăng cao tạo thuận lợi cho quá trình thuận xảy ra làm tăng sự
kết dính các hạt lại với nhau, do đó có thể làm tăng kích thước hạt. Từ các kết quả
phân tích trên kết hợp với tham khảo các tài liệu [51, 58], trong luận án này pH
=10 được lựa chọn để tổng hợp Fe3O4-GOVS. pH này được áp dụng cho các
nghiên cứu tiếp theo.
3.3.4. Ảnh hưởng của tốc độ khuấy
Trong phản ứng đồng kết tủa, bên cạnh yếu tố nhiệt độ, pH của dung dịch phản
ứng và nồng độ các chất đầu vào thì tốc độ khuấy cũng là yếu tố ảnh hưởng đến kích
thước hạt và từ tính của hạt [101]. Nghiên cứu của Jing Sun và cộng sự [101] cho
thấy có thể điều khiển kích thước và hình dạng hạt nano bằng cách thay đổi tốc độ
khuấy từ với kích thước hạt thay đổi từ 5-25 nm tương ứng 1200 v/p xuống 600 v/p.
Do vậy chúng tôi tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của tốc độ khuấy đến kích thước
hạt với tốc độ: 200 v/p (V1), 350 v/p (V2), 500 v/p (GF3) và 1000 v/p (V4)
3.3.4.1. Giản đồ XRD
Giản đồ XRD của các mẫu V1, V2, GF3 và V4 được trình bày ở Hình 3.22.
Hình 3.22. Giản đồ XRD của Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện tốc độ khuấy
khác nhau
88
Hình 3.22 cho thấy các mẫu (V1, V2, GF3 và V4) đều có các pic với 2θ tương
ứng là: 18,27° (111), 30,1° (220), 35,4° (311), 43,05° (400), 57,2° (511) và 62,5°
(440) phù hợp với các dữ liệu nhiễu xạ tia X tiêu chuẩn cho cấu trúc spinel Fe3O4 [49,
51]. Kết quả này chứng minh sự bọc phủ của các hạt nano Fe3O4 lên GOVS. Quan sát
Hình 3.22 cho thấy độ rộng phổ (311) ở các mẫu V1 và V2 hẹp hơn so với các mẫu
GF3 và V4 chứng tỏ kích thước tinh thể giảm dần khi tăng tốc độ khuấy. Kết quả tính
toán kích thước tinh thể của các mẫu theo công thức Scherrer [74] tại đỉnh nhiễu xạ
(311) phù hợp với nhận định trên. Các mẫu V1, V2, GF3 và V4 có kích thước tương
ứng 24,1 nm; 14,08 nm; 13,4 nm và 12,7 nm. Giải thích điều này, theo chúng tôi khi
tốc độ khuấy cơ tăng lên thì làm cho động năng của các hạt mầm Fe3O4 tăng lên dẫn
đến thời gian phát triển mầm nhanh, làm chúng phân tán thành các hạt nhỏ trong
dung dịch [52]. Như vậy, vận tốc khuấy lớn sẽ làm giảm kích thước trung bình của
hạt và các hạt ít bị co cụm hơn hơn. Để xác định chính xác hình dạng kích thước hạt
của Fe3O4 trên GOVS 04 mẫu V1, V2, V4 và GF3 đã được tiến hành đo TEM.
3.3.4.2. Ảnh TEM
Hình 3.23 trình bày ảnh TEM của 4 mẫu tổng hợp ở các điều kiện tốc độ
khuấy cơ khác nhau.
(a)
(b)
(d)
(c)
Hình 3.23. Ảnh TEM của Fe3O4-GOVS tổng hợp ở điều kiện tốc độ khuấy khác
nhau V1 (a), V2 (b), GF3 (c) và V4 (d)
89
Khi so sánh ảnh TEM các mẫu trên cùng một thang đo 100 nm cho thấy kích
thước hạt của các mẫu có sự thay đổi, mẫu V4 có kích thước nhỏ nhất (14 nm) và
mẫu V1 có kích thước lớn nhất (30 nm). Giá trị kích thước hạt trung bình của các
mẫu V1, V2, GF3 và V4 tương ứng là 30 nm, 20 nm, 15 nm và 14 nm. Kết quả
nhận được từ ảnh TEM cho thấy xu hướng ảnh hưởng tốc độ khuấy vào kích thước
hạt phù hợp với kết quả nghiên cứu nhiễu xạ tia X. Kích thước hạt thực giảm khi
tăng tốc độ khuấy. Tuy nhiên, khi tăng tốc độ khuấy từ 500 v/p lên 1000 v/p thì kích
thước hạt giảm đi không đáng kể, hơn nữa khi tăng tốc độ lên 1000 v/p với quan sát từ
thực nghiệm cho thấy có nhiều bong bóng và dung dịch phản ứng bị bắn lên thành bình rất
nhiều. Do vậy tốc độ thích hợp trong nghiên cứu này để tổng hợp vật liệu Fe3O4-GOVS
được lựa chọn là 500 v/p.
3.4. Tổng hợp vật liệu Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
Như vậy từ những kết quả nghiên cứu ảnh hưởng các điều kiện đến quá trình
tổng hợp Fe3O4-GOVS bằng phương pháp đồng kết tủa chúng tôi đã đưa ra được
quy trình thích hợp để tổng hợp Fe3O4-GOVS trong nghiên cứu của luận án này.
Quy trình tổng hợp được thể hiện bằng sơ đồ Hình 3.24.
Hình 3.24. Sơ đồ tổng hợp Fe3O4 - GOVS ở điều kiện thích hợp
90
Dựa vào sơ đồ Hình 3.24 chúng tôi tiến hành tổng hợp mẫu Fe3O4- GOVS ở
điều kiện thích hợp. Sản phẩm được tiến hành đặc trưng mẫu bằng các phương pháp
hóa lý hiện đại để xác định đặc trưng cấu trúc và hình thái học của vật liệu.
Tuy nhiên, thời gian mới đây nhiều kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các
hạt nano sắt hóa trị không (Feo) có khả năng loại bỏ tốt các chất gây ô nhiễm môi
trường như các dung môi clo, thuốc trừ sâu clo hữu cơ, thuốc nhuộm hữu cơ, các
chất ô nhiễm vô cơ và các ion kim loại nặng [56]. Mặc dù vậy, vật liệu Feo không
thể được áp dụng trong các hệ thống dòng chảy liên tục do các hạt có kích thước
nhỏ, dễ bị oxy hóa khi tiếp xúc với không khí và hiệu suất tổng hợp thấp [111]. Do
đó, việc kết hợp quá trình gắn kết các hạt Feo và Fe3O4 lên bề mặt GO không những
làm các hạt Feo ổn định hơn mà còn dễ dàng tách chúng ra khỏi nước xử lý nhờ sự
trợ giúp của từ trường bên ngoài [44, 57]. Thừa hưởng những kết quả nghiên cứu ở
trên để tổng hợp mẫu Fe3O4-GOVS trong điều kiện thích hợp nhất sau đó tiến hành
đưa các hạt nano Feo lên bề mặt vật liệu Fe3O4-GOVS bằng cách sử dụng tác nhân
khử NaBH4 và nguồn Fe3+ trong điều kiện có mặt của khí trơ N2, chi tiết thực
nghiệm được trình bày ở chương 2. Trong luận án này, lượng Feo được đưa lên
Fe3O4-GOVS khoảng 10% về khối lượng theo tính toán. Sự hình thành Feo và Fe3O4
cùng tồn tại trên GOVS được chúng tôi phân tích và chứng minh bằng các phương
pháp hóa lý hiện đại được đưa ra ở phần tiếp theo của luận án.
3.5. Đặc trưng vật liệu Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
3.5.1. Nghiên cứu nhiễu xạ tia X (XRD)
Giản đồ XRD của các mẫu Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS được trình bày
trên Hình 3.25.
Như đã thấy trong Hình 3.25, quá trình đưa Fe3O4 lên GOVS đã làm cho pic ở
2θ = 11,5o không còn và thay vào đó là sự xuất hiện của các pic có cường độ cao
với giá trị 2θ tương ứng là: 18,27° (111), 30,1° (220), 35,4° (311), 43,05° (400),
52,7° (511) và 62,5° (440) phù hợp với các dữ liệu nhiễu xạ tia X tiêu chuẩn cho
cấu trúc spinel Fe3O4 [51, 57]. Kết quả này chứng minh sự bọc phủ thành công của
các hạt nano Fe3O4 lên GOVS và khá tương đồng với nghiên cứu của Hongkun He
[112]. Theo tác giả pic đặc trưng của GOVS không còn quan sát thấy là do ảnh
hưởng của các hạt Fe3O4 khi mang lên GO thì mật độ che phủ của các hạt trên bề
91
mặt các tấm GOVS là đủ lớn lúc đó không xuất hiện các đỉnh pic của cacbon trong
mẫu [112].
Sau quá trình khử
bằng NaBH4 các đỉnh pic
đặc trưng cho Fe3O4 vẫn
còn, tuy nhiên cường độ pic
đã giảm nhiều so với trước
khi khử. Quan sát trên giản
đồ XRD của Fe-Fe3O4-
GOVS cho thấy có sự xuất
Hình 3.25. Giản đồ XRD của Fe3O4-GOVS và hiện các pic ở 2θ tương ứng Fe-Fe3O4-GOVS là 45° và 68° đặc trưng cho
sự hình thành của Feo trên vật liệu [111].
3.5.2. Kính hiển vi điện tử truyền qua TEM và kính hiển vi điện tử truyền qua độ
phân giải cao HR-TEM
Để đánh giá hình thái và kích thước hạt thật của mẫu chúng tôi tiến hành đo
TEM và HR-TEM đối với mẫu Fe3O4-GOVS, đối với mẫu Fe-Fe3O4-GOVS với giả
thiết của chúng tôi là kích thước hạt Fe nhỏ hơn Fe3O4 do vậy phép đo HR-TEM
được sử dụng để nghiên cứu. Kết quả được đưa ra trên Hình 3.26. Từ ảnh TEM và
HR-TEM (Hình 3.26) cho thấy kích thước hạt nano Fe3O4 nằm trong khoảng từ 12 -
17 nm. Một số ít các hạt nano Fe3O4 bị kết tập lại có kích thước nằm trong khoảng
20 nm. Kết quả xác định kích thước từ ảnh TEM và phương pháp XRD có độ tương
đồng chứng tỏ Fe3O4 và Fe-Fe3O4 phân tán khá đồng đều trên các lớp của GOVS.
Đối với mẫu Fe-Fe3O4 kích thước hạt của các hạt nano Feo nằm trong khoảng 5 - 10
nm. Điều này có thể giải thích là do các hạt nano Feo được tổng hợp trực tiếp sẽ có
kích thước nằm trong khoảng 50 - 100 nm do chúng bị kết tập lại [113]. Khi đưa
chúng lên GOVS thì kích thước hạt nano Feo <10 nm (Hình 3.26c) do các hạt này
phân tán đều, ổn định và ít co cụm hơn [111, 114]. Theo hai tác giả Xinhu Xu [56]
và Bo Yang [57] đều sử dụng nguồn Fe2+ và tác nhân khử NaBH4 thì kích thước của
Feo trên vật liệu Fe-Fe3O4-GO tổng hợp nằm trong khoảng 100 nm. Trong khi đó
92
kích thước Feo theo phương pháp chúng tôi tổng hợp chỉ nằm trong khoảng 5 - 10
nm. Giải thích điều này theo chúng tôi là do hàm lượng Feo tồn tại trong vật liệu.
(a)
(b)
(c)
Hình 3.26. Ảnh TEM của Fe3O4-GOVS (a) và Fe-Fe3O4-GOVS (b,c)
Theo tác giả Tianxi Liu [111] thì kích thước hạt Feo < 10 nm khi lượng Feo <
20%, khi tăng nồng độ Feo lên > 20% thì kích thước Feo tăng mạnh, còn theo
Fenglin Liu [114] với hàm lượng Feo chiếm 20% trong vật liệu thì kích thước Feo ~
lên 40% thì kích thước Feo tăng lên ~ 80 nm, vì vậy
15 nm, nếu tăng hàm lượng Feo
với lượng Feo đưa vào được tính toán cỡ 10% khối lượng do vậy kích thước hạt Feo
nằm trong khoảng 5 - 10 nm là hợp lý.
3.5.3. Phổ hồng ngoại chuyển dịch Fourier (FTIR)
Kết quả đo phổ FTIR của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS được thể hiện trên
Hình 3.27.
Như đã phân tích ở phần trên phổ FTIR của GOVS tồn tại các pic nằm trong
khoảng 3460 – 3500 cm-1 đặc trưng cho nhóm hydroxyl (-OH), pic 1633 cm-1 đặc
93
trưng cho nhóm C=C, pic nằm trong khoảng 1168 cm-1 đặc trưng cho nhóm – C-O,
pic nằm trong khoảng 1728 cm-1 đặc trưng cho nhóm cacbonyl – C=O [79, 89].
Hình 3.27. Phổ FTIR của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS
Khi đưa các hạt nano Fe3O4 lên GOVS, xuất hiện pic 578,2 cm-1 đặc trưng
cho liên kết Fe-O trong Fe3O4, Fe-Fe3O4 với GOVS [57, 115]. Các pic trong khoảng
1230 cm-1 và 1576 cm-1 đặc trưng cho liên kết C=O và C-O [79, 116]. Pic nằm
trong khoảng 2342 cm-1 đặc trưng cho các liên kết CO2 với Fe3O4-GOVS và Fe-
Fe3O4-GOVS [116]. Phổ FTIR Hình 3.27 còn cho thấy sự hình thành của Feo lên
trên vật liệu Fe3O4-GOVS với pic đặc trưng 1048,5 cm-1 [114].
3.5.4. Phổ tán sắc năng lượng tia X (EDX) của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS
Phổ EDX của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS được trình bày trên Hình 3.28
và Bảng 3.8.
Bảng 3.8. Thành phần các nguyên tố trong Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS (%At)
Nguyên Fe3O4-GOVS Fe-Fe3O4-GOVS
tố % Khối lượng % Nguyên tử % Khối lượng % Nguyên tử
C 35,97 74,46 29,96 57,98
O 15,44 19,98 12,36 17,97
Fe 48,59 17,96 57,68 24,05
Tổng 100 100 100 100
94
Hình 3.28. Phổ EDX của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
Từ Hình 3.28 và Bảng 3.8 cho thấy hàm lượng sắt (Fe) trong Fe3O4-GOVS chiếm
48,59% về khối lượng và ~ 18% về nguyên tử khá gần với tính toán ban đầu (Fe chiếm
50% về khối lượng và 20% về nguyên tử). Sau quá trình đưa thêm 10% Feo về khối
lượng vào trong Fe3O4-GOVS nhận thấy khối lượng Fe tăng lên 57,68% (tăng tương
ứng ~9,1% về khối lượng) khá sát với tính toán. Hàm lượng Feo thêm vào > 5% do đó
trên giản đồ XRD xuất hiện các pic đặc trưng với giá trị 2θ = 45o và 68o là hợp lý.
3.5.5. Hấp phụ và khử hấp phụ Nitơ (BET) của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS
a b
Hình 3.29. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 (a) và phân bố mao
quản (b) của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS
95
Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-
GOVS Hình 3.29 (a) có dạng tip IV, đặc trưng cho vật liệu có cấu trúc lớp. Sự xuất
hiện đường trễ chứng tỏ có sự ngưng tụ mao quản. Từ Bảng 3.9 cho thấy Fe-Fe3O4-
GO có diện tích bề mặt riêng và thể tích xốp lớn, so với Fe3O4-GOVS thì Fe-Fe3O4-
GOVS có diện tích bề mặt riêng và thể tích xốp lớn hơn. Tuy nhiên, sự chênh lệch là
không đáng kể (8 m2/g). Hệ mao quản của cả hai vật liệu chủ yếu là mao quản trung
bình (99%) còn vi mao quản là không đáng kể chỉ chiếm khoảng 1%. Đường kính
mao quản của cả vật liệu nằm trong khoảng 8-13 nm. Kết quả này cũng phù hợp với
một số công trình công bố gần đây [49, 50, 56]. Diện tích bề mặt tương đối lớn và
đường kính mao quản rộng làm tăng hiệu quả hấp phụ của chất xúc tác [71, 72].
Bảng 3.9. Các thông số đặc trưng của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
Thông số Fe3O4-GOVS Fe-Fe3O4-GOVS
169 177
0,0033 0,0043
0,499 0,523
Diện tích bề mặt (m2/g) Thể tích vi mao quản (cm3/g) Tổng thể tích mao quản (cm3/g) Đường kính mao quản trung bình (nm) 8,8 - 12,1 8,9 - 12,3
3.5.6. Phổ quang điện tử tia X (XPS) của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS
Quang phổ XPS của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS được thể hiện trên
Hình 3.30.
Quan sát phổ XPS tổng (Hình 3.30a) của hai vật liệu Fe3O4- GOVS và Fe-
Fe3O4-GOVS đều thấy xuất hiện các pic với mức năng lượng 285 eV, 530 eV và
711 eV tương ứng với C1s, O1s và Fe2p tồn tại trong cấu trúc vật liệu. Đối với phổ
XPS C1 (Hình 3.30d) cho thấy tồn tại các pic với mức năng lượng tương ứng 284,8
eV; 285,5 eV; 288,3 eV đặc trưng cho các liên kết C-C, C-O, O-C=O [59, 91].
Ngoài ra quan sát phổ XPS C1 có sự xuất hiện của pic có cường độ thấp với mức
năng lượng tại 291,5 eV. Theo chúng tôi có hai giả thuyết của sự tồn tại pic này: giả
thuyết 1 pic 291,5 eV đặc trưng liên kết π-π* của vật liệu rGO, GO điều này là do
NaBH4 ngoài nhiệm vụ khử Fe3+ về Feo thì NaBH4 còn là tác nhân khử GO về rGO
[3, 8] do vậy trong quá trình tổng hợp Fe-Fe3O4-GOVS có thể một phần nhỏ GOVS
bị khử về rGO, vì vậy tồn tại pic 291,5 eV đặc trưng cho liên kết π-π* [7, 117].
96
(a) (b)
(d) (c)
Hình 3.30. Phổ XPS của Fe-Fe3O4-GOVS (a-d) và Fe3O4-GOVS (a)
Giả thuyết 2, pic 291,5 eV đặc trưng cho trạng thái liên kết giữa cặp electron
và lỗ trống tồn tại trong cấu trúc GO và rGO [118].
Phổ XPS O1s (Hình 3.31c) cũng cho thấy sự xuất hiện của các liên kết Fe-O,
C=O, C-O với mức năng lượng tương ứng là 529,9 eV, 531 eV và 534 eV [59]. Từ
Hình 3.30b cho thấy với Fe3O4-GOVS chỉ tồn tại các pic với mức năng lượng 711
eV và 725 eV tương ứng với Fe2p3/2 và Fe2p1/2 mà không thấy xuất hiện các pic với
mức năng lượng 710 eV, 719 eV và 724 eV đặc trưng cho cấu trúc của -Fe2O3 [91,
104]. Đối với mẫu Fe-Fe3O4-GOVS ngoài pic 711 eV và 725 eV đặc trưng cho
Fe3O4-GOVS còn xuất hiện một pic cường độ nhỏ ở 719 eV và 733 eV, đây có thể
là do có sự tương tác giữa Feo và Fe3O4-GOVS tạo thành pha Fe2O3, FeOOH [119,
120]. Ngoài ra, Hình 3.30b cũng nhận thấy sự tồn tại pic với mức năng lượng 706
eV đặc trưng cho sự có mặt của các hạt nano Feo với kích thước nhỏ < 10 nm [111]
lên trên bề mặt vật liệu tổng hợp được và không có sự kết tập lại thành dải dài giống
như trong quá trình tổng hợp Feo trong điều kiện vắng mặt Fe3O4 [114]. Kết quả này
97
khẳng định sự tương tác điện tử giữa Feo, Fe3O4 và GOVS làm thay đổi cấu trúc
điện tử của cấu tử hợp phần vật liệu composit.
3.5.7. Từ tính của vật liệu Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS
Tiến hành khảo sát từ tính của các mẫu bằng phương pháp VSM, ta được các
đường cong từ hóa như Hình 3.31.
Hình 3.31. Đường cong từ hóa của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS
Theo đồ thị Hình 3.31 cho thấy lực kháng từ của cả hai mẫu gần như bằng
không. Từ độ bão hòa của mẫu Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS có giá trị tương
ứng bằng 35 emu/g và 29 emu/g. Điều này cho thấy các mẫu nano composit đều
mang tính siêu thuận từ (kích thước hạt nhỏ < 30 nm), với lực kháng từ gần như
bằng không và giá trị từ độ bão hòa cao, do vậy có thể dễ dàng tách chúng ra khỏi
nước xử lý nhờ sự trợ giúp của từ trường bên ngoài [44]. Theo một số tài liệu [121,
122] cho thấy kích thước hạt nano Fe3O4 dạng khối từ 10 - 18 nm thì từ độ bão hòa
của mẫu thay đổi từ 46,7 - 82,5 emu/g. Thấy rằng kích thước hạt nano Fe3O4 trên
GOVS nằm trong khoảng 15 nm tuy nhiên từ độ bão hòa chỉ đạt 35 emu/g nhỏ hơn
so với Fe3O4 dạng khối. Nguyên nhân của sự giảm từ tính và thay đổi kích thước hạt
có thể được lý giải theo mô hình lõi vỏ trong hạt nano từ do Kodama và Berkowitz
đề xuất [123]. Các spin sắp xếp hỗn loạn trên bề mặt hạt nano từ, gây nên tương tác
trao đổi giữa bề mặt và lõi làm cho phân bố spin bên trong hạt có kích thước đơn
đômen trở nên phức tạp. Mômen từ nguyên tử bề mặt có đóng góp không đáng kể
vào mômen từ chung của hạt. Gọi lớp bề mặt lộn xộn này là lớp vỏ có bề dày là d.
Do có ảnh hưởng của lớp vỏ này nên mômen từ của hạt nano thấp hơn mômen từ
98
của vật liệu khối. Sự phụ thuộc của mômen từ bão hòa Ms vào giá trị của lớp vỏ
được tác giả A. Millan và cộng sự thể hiện bằng công thức số 2 trong nghiên cứu
của mình [124]:
(3.1)
Trong đó:
D: đường kính của hạt nano
MS0: mômen từ bão hòa của vật liệu khối
d: độ dày của lớp vỏ
Nếu kích thước hạt D lớn hơn rất nhiều so với d thì mômen từ sẽ không bị ảnh
hưởng. Ngược lại, nếu kích thước hạt D nhỏ (cỡ nm), mặc dù d nhỏ nhưng có thể
được so sánh với D do đó mômen từ sẽ bị ảnh hưởng. Theo mô hình lõi - vỏ trong
trường hợp của hai vật liệu Fe3O4-GOVS và Fe- Fe3O4-GOVS đều hình thành lớp
vỏ GO dày hơn lớp vỏ trong hạt Fe3O4 (dGOVS > dFe3O4) vì vậy từ độ bão hòa của
Fe3O4 lớn hơn nhiều giá trị của mẫu Fe3O4-GOVS. Tuy nhiên quá trình đưa thêm
Feo lên bề mặt Fe3O4-GOVS đã làm độ bão hòa từ giảm đi, điều này có thể là do
NaBH4 là chất khử mạnh đã tạo ra một số lượng pha tạp không mong muốn, những
lượng pha tạp này nhỏ và không phát hiện được trên giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD).
3.6. Đánh giá khả năng hấp phụ của GOSA, GOVS và rGO
Trong phần tiếp theo của luận án chúng tôi đánh giá khả năng hấp phụ thuốc
nhuộm hoạt tính RR195 đối với GOSA, GOVS và rGO, còn đối với Fe3O4-GOVS
và Fe-Fe3O4-GOVS chúng tôi đánh giá sơ bộ khả năng hấp phụ RR195 và tập trung
nghiên cứu, đánh giá khả năng hấp phụ của chúng đối với một số ion kim loại nặng
điển hình như Cu(II), Cd(II) và As(V).
3.6.1. Khả năng hấp phụ thuốc nhuộm hoạt tính RR195 của GOVS, GOSA và rGO
3.6.1.1. Ảnh hưởng của pH
Ảnh hưởng pH đến dung lượng hấp phụ RR195 của các vật liệu được thể hiện
qua Bảng 3.10 và Hình 3.32. Từ kết quả trong Bảng 3.10 và đồ thị Hình 3.32 cho
thấy pH có ảnh hưởng đến khả năng hấp phụ RR195 của rGO và GO. Tuy nhiên ảnh
99
hưởng của pH đối với rGO không quá nhiều, điều này là do bề mặt của rGO bị khử
lượng lớn các nhóm chức chứa oxy do vậy sự hấp phụ RR195 chủ yếu xảy ra do các
liên kết mạnh của nhân thơm trong cấu trúc RR195 với liên kết π-π của rGO [10, 62].
Bảng 3.10. Sự phụ thuộc dung lượng hấp phụ RR195 trên vật liệu rGO và GO
vào pH (nồng độ 100 mg/L, thời gian hấp phụ 10 h)
pH rGO GOVS GOSA
4 85,68 70,12 45,30
5,5 84,67 68,71 32,65
6,5 78,71 64,71 25,10
8 78,35 58,71 22,22
10 81,35 53,35 15,11
Hình 3.32. Ảnh hưởng pH đến quá trình hấp phụ RR195 trên GO và rGO
Cụ thể, trong khoảng pH từ 4 đến 10 hiệu suất hấp phụ của rGO giảm khoảng
7% tại nồng độ 100 mg/L. Đối với GOVS và GOSA pH ảnh hưởng lớn đến khả
năng hấp phụ RR195, pH càng cao dung lượng hấp phụ càng giảm, điều này là do
pH càng lớn thì bề mặt GOSA và GOVS càng âm [5], do vậy làm tăng lực đẩy đối
với các anion âm RR195 vì vậy hiệu suất hấp phụ giảm mạnh. Thấy rằng dung
lượng hấp phụ RR195 ở pH = 4 là cao nhất điều này là do pHpzc của GO có giá trị
3,9 [5], tuy vậy chúng tôi vẫn tiến hành chọn pH = 5,5 là vì khi pH quá thấp (pH <
5) thì sẽ làm giảm khả năng ứng dụng vào thực tiễn vì các máy móc thiết bị sẽ dễ
dàng bị ăn mòn trong điều kiện pH quá thấp, hơn nữa sự giảm hiệu suất hấp phụ
RR195 của các vật liệu GOVS và rGO tại pH = 5,5 so với pH = 4 là chỉ ~ 1 - 2%.
100
3.6.1.2. Đánh giá khả năng hấp phụ RR195 trên GOVS, GOSA và rGO
Để nghiên cứu động học quá trình hấp phụ RR195 trên GO và rGO. Điều kiện
thực nghiệm được áp dụng ở nhiệt độ (30 oC) với các nồng độ RR195 khác nhau:
100 mg/L đến 500 mg/L, tại pH = 5,5; tốc độ khuấy 150 v/p.
b a
Hình 3.33. Sự phụ thuộc dung lượng hấp phụ RR195 (200 mg/L) theo thời gian (a)
và đường đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir của RR195 trên GO và rGO (b)
Quan sát Hình 3.33a cho thấy khả năng hấp phụ các anion RR195 trên ba
vật liệu hấp phụ có chiều hướng giảm dần từ rGO > GOVS > GOSA. Đối với
rGO quá trình hấp phụ diễn ra nhanh trong khoảng thời gian đầu (từ 0 – 2 giờ),
với GOVS quá trình hấp phụ diễn ra chậm hơn rGO. Đối với GOSA khả năng
hấp phụ thấp hơn nhiều so với rGO và GOVS ở cùng nồng độ (200 mg/L), quá
trình hấp phụ diễn ra chậm. Giải thích cho điều này là do đối với rGO, bề mặt
tồn tại ít nhóm chức tích điện âm nên hiệu ứng đẩy với anion RR195 giảm, ngoài
ra quá trình khử nhiệt làm tăng các liên kết π-π của sp2C và sp3C [85, 97] các
liên kết này có ái lực lớn đối với các nhân thơm trong thuốc nhuộm hoạt tính
RR195 [10, 28] do vậy tốc độ hấp phụ diễn ra nhanh và dung lượng hấp phụ
cũng cao nhất. Với GOVS mặc dù quá trình vi sóng đã khử nhanh một số nhóm
chức trên bề mặt tuy nhiên bề mặt của GOVS vẫn tích điện âm (thế zeta phần
phụ lục) do vậy xảy ra hiệu ứng đẩy đối với các anion âm RR195, làm giảm tốc
độ khuếch tán của anion RR195 đến các tâm hấp phụ trên bề mặt GOVS. Quan
sát Hình 3.33a thấy rằng dung lượng hấp phụ của GOVS thấp hơn không nhiều
so với rGO (thấp hơn 20 mg/g tại thời điểm cân bằng), điều này có thể là do quá
trình bóc tách lớp graphit oxit bằng kỹ thuật vi sóng làm gia tăng các tấm GO và
101
làm tăng diện tích bề mặt do vậy các anion RR195 vẫn có thể xâm nhập dễ dàng
vào khoảng cách giữa các tấm cũng như làm tăng sự tiếp xúc các tâm hấp phụ
trên GOVS với anion RR195 hơn so với GOSA. Đối với GOSA bề mặt âm hơn
so với GOVS, diện tích bề mặt cũng thấp hơn nhiều (56 m2/g) so với GOVS và
rGO (300 m2/g; 331 m2/g) do vậy ngăn cản sự tiếp xúc các tâm hấp phụ đối với
RR195 do vậy dung lượng hấp phụ của GOSA thấp hơn nhiều so với rGO và
GOVS tại cùng nồng độ 200 mg/L. Tại thời điểm cân bằng dung lượng hấp phụ
thấp hơn 110 mg/g so với rGO và 90 mg/g so với GOVS.
Dựa vào đường hấp phụ trên, có thể kết luận khoảng thời gian tối ưu của quá
trình hấp phụ bằng rGO và GOVS là từ 0 - 6 giờ với GOSA là từ 0 - 8 giờ, thời
gian để quá trình hấp phụ đạt cân bằng là khoảng 8 giờ. Phân tích các dữ liệu thu
được từ đường đẳng nhiệt hấp phụ (Hình 3.33b) rồi thay vào các mô hình đường
đẳng nhiệt khác nhau để tìm ra mô hình hấp phụ phù hợp cho vật liệu rGO và GO
tổng hợp được.
3.6.1.3. Nghiên cứu đẳng nhiệt hấp phụ
Quá trình hấp phụ tiến hành ở pH = 5,5 với các nồng độ RR195 ban đầu khác
nhau, phân tích hồi quy Ce/Qe và Ce đối với mô hình Langmuir và hồi quy LnQe và
LnCe đối với mô hình Freundlich. Nồng độ chất hấp phụ ở trạng thái cân bằng được
tính toán dựa trên các đường đẳng nhiệt hấp phụ ở các nồng độ khác nhau.
Mô hình Langmuir
Bảng 3.11. Sự phụ thuộc dung lượng hấp phụ vào nồng độ đối với RR195
M (g) V (L) Co (mg/L) Ce – GOVS (mg/L) Ce - GOSA (mg/L) Ce – rGO (mg/L)
100 31,29 15,32 0,80 1,0 69,35
200 88,66 71,87 0,80 1,0 159,55
300 166,89 138,31 0,80 1,0 257,34
400 253,77 215,69 0,80 1,0 350,82
500 340,98 311,30 0,80 1,0 451,68
102
Hình 3.34. Đường hấp phụ đẳng nhiệt Langmuir của RR195 trên GO và rGO
Qua đồ thị Hình 3.34 cho thấy mô hình hấp phụ đẳng nhiệt Langmuir mô tả
tương đối chính xác sự hấp phụ RR195 trên vật liệu hấp phụ GOVS, GOSA và rGO, thông qua hệ số tương quan của hai đại lượng Ce/Qe và Ce là R2 = 0,999; 0,997 và
0,994. Từ phân tích hồi quy ta tính được các hệ số của phương trình Langmuir như sau:
(GOVS) (3.2)
(GOSA) (3.3)
(rGO) (3.4)
Từ các phương trình trên ta tính được dung lượng hấp phụ cực đại Qmax lần
lượt của các vật liệu GOVS, GOSA và rGO, tính toán được hằng số của mô hình
Langmuir là KL = 0,017 - 0,031 (L/mg) (Bảng 3.12), ngoài ra ta thấy dung lượng
hấp phụ RR195 của vật liệu GOVS, GOSA và rGO tương đối cao.
Bảng 3.12. Các thông số đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir và Freundlich của GO và rGO của RR195
Đẳng nhiệt Langmuir Qmax (mg/g) KL (L/mg) R2 RL Freundlich 1/n KF [(mg/g)(L/mg)1/n] R2 GOVS 212,7 0,019 0,999 0,095 0,346 27,29 0,976 rGO 250 0,031 0,997 0,061 0,279 49,48 0,989 GOSA 66,67 0,017 0,994 0,105 0,251 14,39 0,856
103
Để xác định quá trình hấp phụ RR195 bằng GO và rGO có phù hợp với dạng
hấp phụ đơn lớp theo mô tả của mô hình Langmuir hay không, chúng tôi đánh giá
mức độ phù hợp thông qua tham số cân bằng RL. Tham số RL được tính theo nồng
độ đầu (Co) như sau [125]:
(3.5)
Dựa vào tham số RL theo Bảng 3.13 để đánh giá mức độ phù hợp của mô hình
hấp phụ Langmuir đối với GO và rGO.
Bảng 3.13. Phân loại sự phù hợp của mô hình đẳng nhiệt bằng tham số RL [125]
Dạng mô hình đẳng nhiệt Giá trị RL
Không phù hợp RL > 1
Tuyến tính RL = 1
Phù hợp 0 < RL < 1
Không thuận nghịch RL= 0
Bảng 3.14. Giá trị tham số cân bằng RL của quá trình hấp phụ RR195
bằng rGO và GO
100 200 300 400 500 Co (mg/L)
0,344 0,208 0,149 0,116 0,095 RL - GOVS
0,370 0,227 0,164 0,128 0,105 RL - GOSA
0,244 0,139 0,097 0,074 0,061 RL - rGO
Hình 3.35. Giá trị RL phụ thuộc vào nồng độ RR195 ban đầu
104
Từ giá trị tham số RL tính toán được trình bày trong Bảng 3.14 và đồ thị Hình
3.35, cho thấy giá trị này trong khoảng từ 0,074 – 0,344 đều nhỏ hơn 1 nên có thể
xác định được mô hình hấp phụ đẳng nhiệt Langmuir là phù hợp với quá trình hấp
phụ RR195 bằng GO và rGO.
Mô hình Freundlich
Bảng 3.15. Sự phụ thuộc LnQe vào LnCe đối với mô hình Freundlich của RR195
GOSA rGO GOVS
LnQe LnCe LnCe LnQe LnCe LnQe
3,645 3,923 3,976 4,118 4,239 5,072 5,550 5,860 4,453 4,935 5,114 5,208 3,443 4,484 5,117 5,536 4,661 5,076 5,308 5,439 2,729 4,274 4,929 5,373
Co (mg/L) 100 200 300 400 500 4,121 6,112 5,292 5,832 5,462 5,741
Hình 3.36. Đường hấp phụ đẳng nhiệt Freundlich của RR195 trên GO và rGO
Bảng 3.15 và đồ thị Hình 3.36 mô tả quá trình hấp phụ RR195 trên vật liệu
hấp phụ theo mô hình đẳng nhiệt Freundlich. Các hệ số của phương trình
Freundlich thu được từ quá trình hồi quy LnQe theo LnCe như sau:
(GOVS) (3.6) LnQe = 0,346 LnCe + 3,307
(GOSA) (3.7) LnQe = 0,237 LnCe + 2,667
(rGO) (3.8) LnQe = 0,279 LnCe + 3,902
Từ các phương trình trên ta tính được hằng số hấp phụ Freundlich KF = 14,39
– 49,48 [(mg/g)(L/mg)1/n] và giá trị hằng số 1/n = 0,251 - 0,346. Hệ số tương quan
của LnQe và LnCe là R2 ~ 0,86 - 0,98.
105
Từ kết quả trong Bảng 3.12 cho thấy hệ số xác định R2 của mô hình Langmuir
tiến gần đến 1 hơn so với mô hình Freundlich. Như vậy, có thể xác định quá trình
hấp phụ RR195 bằng vật liệu hấp phụ rGO và GO tuân theo mô hình đẳng nhiệt
Langmuir. Dung lượng hấp phụ Qmax RR195 đối với rGO cao nhất (250 mg/g) do
quá trình khử làm mất đi các nhóm chức tích điện âm trên bề mặt vì vậy giảm hiệu
ứng đẩy và tăng ái lực giữa các liên kết π-π đối với các nhân thơm trong cấu trúc
RR195 [10, 62]. Dung lượng hấp phụ Qmax RR195 của GOVS > GOSA. Giải thích
điều này theo chúng tôi là do GOVS tách bóc bằng vi sóng tạo sung nổ hiệu quả
hơn nhiều so với phương pháp siêu âm, điều này được minh chứng qua kết quả đo
BET của vật liệu (bề mặt của GOVS là 331 m2/g lớn gấp 6 lần so với GOSA là 56
m2/g). Từ những phân tích trên cơ chế hấp phụ dựa trên tương tác π-π theo một số
tác giả [10, 45, 62, 126] được trình bày ở Hình 3.37.
Hình 3.37. Cơ chế hấp phụ RR195 lên trên vật liệu hấp phụ rGO
3.6.2. Động học quá trình hấp phụ RR195 trên GOVS và rGO
Từ Bảng 3.12 cho thấy dung lượng hấp phụ Qmax anion âm RR195 của GOVS
và rGO đều cao gấp 3,3 – 3,7 lần so với GOSA. Vì vậy, trong luận án này chỉ
nghiên cứu động học của quá trình hấp phụ RR195 trên 02 loại vật liệu là GOVS và
rGO nhằm xác định quá trình hấp phụ này tuân theo dạng phương trình động học
biểu kiến bậc 1 hay bậc 2.
Phương trình động học bậc 1
Các giá trị Ln(Qe-Qt) của các mẫu theo thời gian được trình bày trong Bảng 3.16.
106
Bảng 3.16. Giá trị Ln(Qe-Qt) theo thời gian của quá trình hấp phụ RR195
Ln(Qe-Qt)
Chất hấp phụ
GOVS rGO t (giờ) (tại nồng độ RR195= 200 mg/L) 0,5 4,48 - 1 4,24 3,43 6 2,79 1,15 2 3,99 2,84 4 3,55 2,29 8 2,71 0,93 0 5,29 5,29
Hình 3.38. Mối quan hệ Ln(Qe-Qt) theo thời gian (động học biểu kiến bậc1) của
quá trình hấp phụ RR195 trên GOVS và rGO
Từ giá trị các tham số của phương trình động học bậc 1 trong Bảng 3.16 và đồ thị Hình 3.38 cho thấy hệ số xác định R2 trong khoảng 0,96. Bên cạnh đó, giá trị
dung lượng hấp phụ cân bằng tính toán được từ các phương trình động học đều
khác biệt so với giá trị thực nghiệm (Bảng 3.18). Vậy phương trình động học bậc 1
không phù hợp với quá trình hấp RR195 trên GOVS và rGO.
Phương trình động học bậc 2
Từ các giá trị thực nghiệm, tiến hành hồi quy tuyến tính các giá trị t/Qt với t
theo phương trình (chương 2) thu được giá trị các tham số của phương trình động
học bậc 2 như trong Bảng 3.17.
Từ giá trị các tham số của phương trình động học bậc 2 trong Bảng 3.17 và đồ thị Hình 3.39 cho thấy hệ số xác định R2 đều đạt 0,99. Bên cạnh đó, giá trị dung
lượng hấp phụ cân bằng tính toán được từ các phương trình động học đều rất gần so
với giá trị thực nghiệm đồng thời giá trị k2 cũng thay đổi ít hơn (Bảng 3.19). Vì vậy
có thể kết luận phương trình động học biểu kiến bậc 2 phù hợp với quá trình hấp
phụ RR195 bằng rGO và GOVS.
107
Bảng 3.17. Giá trị t/Qt theo thời gian của quá trình hấp phụ RR195
t/Qt x 10-3
Chất hấp t (giờ) (tại nồng độ RR195 = 200 mg/L)
phụ 0 1 2 4 6 8 10
GOVS 0 9,78 14,17 23,29 38,05 48,54 63,98
rGO 0 - 7,74 13,98 26,62 38,21 50,75
Hình 3.39. Mối quan hệ t/Qt theo thời gian (động học biểu kiến bậc 2) của quá
trình hấp phụ RR195 trên GOVS và rGO
Một số thông số của phương trình động học biểu kiến bậc 1 và bậc 2 được cho
ở Bảng 3.18 và 3.19.
Bảng 3.18. Một số tham số của phương trình động học biểu kiến bậc nhất (RR195)
2
Vật liệu R1 Dạng phương trình động học k1 (h-1) Qe, exp (mg/g) Qe, cal (mg/g)
0,966 0,247 140,01 90,03 GOVS Ln(Qe-Qt) = 4,514 - 0,247.t
rGO 0,962 0,368 160,16 39,12 Ln(Qe-Qt) = 3,678 - 0,368.t
Bảng 3.19. Một số tham số của phương trình động học biểu kiến bậc hai (RR195)
2
Vật liệu R2 k2(g/mg.h) Dạng phương trình động học Qe, exp (mg/g) Qe, cal (mg/g)
= 0,0077 + 0,0071.t GOVS 0,999 0,0065 140,01 140,84
Qe, cal: giá trị dung lượng hấp phụ cân bằng tính toán theo phương trình động học Qe, exp: giá trị dung lượng hấp phụ cân bằng theo thực nghiệm
= 0,0018 + 0,0061.t rGO 0,994 0,0206 160,16 163,93
108
Quan sát Bảng 3.19 cho thấy tốc độ hấp phụ RR195 ở nồng độ 200 mg/L trên
rGO (0,0206 g/mg.h) cao gấp 3 lần so với trên GOVS (0,0065 g/mg.h). Điều này
phù hợp với những phân tích ở trên, bề mặt rGO đã bị khử lượng lớn các nhóm
chức tích điện âm, nên giảm hẳn hiệu ứng đẩy giữa bề mặt âm và các anion âm
RR195, các nhân thơm dễ dàng tạo thành các ái lực mạnh đối với các liên kết π-π của sp2C và sp3C do đó tốc độ hấp phụ cao hơn nhiều so với GOVS [10, 62].
Dưới đây là Bảng 3.20, 3.21 và 3.22 tổng hợp các kết quả đặc trưng của GO
và rGO cũng như đánh giá khả năng hấp phụ, động học quá trình hấp phụ bậc 2 của
thuốc nhuộm hoạt tính RR195 trên vật liệu GOVS, GOSA và rGO tổng hợp được.
Bảng 3.20. Tổng kết các thông số đặc trưng của GO và rGO
Mẫu XRD 2θ BET (m2/g) Vmao quản (cm3/g) HR-TEM (số lớp ) FTIR (các nhóm chức) XPS (tỷ lệ C/O)
GOSA 11,2 56 0,283 >10 lớp 2,32 – C=O, C-O, C=C, - OH (cường độ cao)
GOVS 11,5 331 1,719 7-8 lớp 2,98
rGO 25,8 300 1,596 5-6 lớp 10,89 – C=O, C-O, C=C, - OH (cường độ thấp hơn) Hầu như không tồn tại các nhóm chức
Bảng 3.21. Tổng kết đẳng nhiệt Langmuir và Freundlich của quá trình hấp phụ
RR195 trên GO và rGO
Langmuir Freundlich Chất hấp
phụ R2 1/n R2 Qmax KL KF
GOVS 212,7 0,019 0,999 27,29 0,346 0,976
GOSA 66,67 0,017 0,994 14,39 0,251 0,856
rGO 250 0,031 0,997 49,48 0,279 0,989
Bảng 3.22. Các tham số của phương trình động học biểu kiến bậc hai quá trình hấp phụ RR195 trên GOVS, GOSA và rGO
Thông số GOVS GOSA rGO Phương trình động học
- 163,93 140,84 Qe, cal
Bậc 2 - RR195 (200 mg/L) - - 0,0206 0,994 k2 (mg/g. h) R2 0,0065 0,999
109
3.7. Đánh giá khả năng hấp phụ của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
3.7.1. Đánh giá khả năng hấp phụ RR195 của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
Để đánh giá khả năng hấp phụ RR195 của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
chúng tôi tiến hành so sánh khả năng hấp phụ của chúng đối với GOVS, GOSA, rGO trong cùng điều kiện pH, nhiệt độ 30 oC, m/V = 1 g/L, nồng độ đầu RR195 =
100 mg/L kết quả đưa ra trên Hình 3.40.
Hình 3.40. Hiệu suất hấp phụ RR195 trên các vật liệu hấp phụ khác nhau
Từ Hình 3.40 cho thấy khả năng hấp phụ giảm dần theo chiều rGO > GOVS >
Fe-Fe3O4-GOVS > Fe3O4-GOVS > GOSA. Đối với Fe-Fe3O4-GOVS, Fe3O4-GOVS
khả năng hấp phụ RR195 thấp hơn so với rGO và GOVS điều này có thể là do khả
năng hấp phụ thuốc nhuộm cao trên GO chủ yếu là do diện tích bề mặt lớn và tương tác
π-π với nhân thơm trong cấu trúc RR195. Khi đưa Fe-Fe3O4 và Fe3O4 lên GOVS, diện
tích bề mặt giảm cùng với đó các hạt nano này chiếm giữ tại các vị trí có tâm hấp phụ
chất màu, thuốc nhuộm hoạt tính [58, 115] do đó làm giảm khả năng hấp phụ RR195
của hai vật liệu này. Đối với GOSA dung lượng hấp phụ thấp nhất là do diện tích bề
mặt thấp và bề mặt chứa nhiều nhóm chức mang điện âm xảy ra hiệu ứng đẩy đối với
anion RR195. Ngoài ra, Mingce Long [49] và cộng sự cho thấy khả năng hấp phụ
Rodamin B (RhB) thấp đối với vật liệu Fe3O4/rGO dung lượng hấp phụ đạt 66,67
mg/g. Tác giả Hồ Thị Tuyết Trinh [100] với vật liệu rGO/Fe3O4 dung lượng hấp phụ
cực đại RhB chỉ đạt 38,8 mg/g. Tác giả Chun Wang [58] với vật liệu Fe3O4 trên rGO
dung lượng hấp phụ cực đại xanh methylen đạt 84,9 mg/g. Như vậy có thể nhận thấy
ứng dụng hấp phụ màu của các vật liệu Fe3O4 trên chất mang GO và rGO là chưa cao.
Do vậy phần tiếp theo của luận án tập trung sử dụng vật liệu Fe-Fe3O4-GOVS, Fe3O4-
GOVS ứng dụng hấp phụ các ion kim loại nặng Cu(II), Cd(II) và As(V).
110
3.7.2. Hấp phụ ion kim loại nặng Cu(II) và Cd(II)
3.7.2.1. Điểm đẳng điện của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
Trong phần này luận án không nghiên cứu ảnh hưởng pH của từng quá trình
hấp phụ mà dựa vào phân tích điểm đẳng điện (pHpzc) của hai vật liệu để tìm ra pH
thuận lợi cho quá trình hấp phụ xảy ra.
a b
Hình 3.41. Điểm đẳng điện (pHpzc) của Fe3O4-GOVS (a) và Fe-Fe3O4-GOVS (b)
-
Hình 3.41a cho thấy điểm đẳng điện (pHpzc) Fe3O4-GOVS có giá trị ~ 5,2. Quá trình đưa thêm Feo với hàm lượng theo tính toán 10% làm tăng giá trị pHpzc lên ~
,... tùy thuộc vào
o, –M(OH)3
5,4 (Hình 3.41b). Chúng ta biết rằng các ion kim loại nặng (M) như Cu(II) và Cd(II) tồn tại trong nước dưới dạng M2+, -M(OH)+, -M(OH)2
pH của dung dịch [5]. Đối với Cd(II) logK1 = 3,9; logK2= 7,7; logK3= 8,7 [5], do
2+, Cu3(OH)4
vậy khi pH < 8 chủ yếu xảy ra quá trình hấp phụ các ion kim loại lên bề mặt chất hấp phụ. Đối với Cu(II) thì khi pH > 6,1 ngoài các ion Cu2+, còn xuất hiện thêm 2+ [127]. Quá trình hấp phụ Cu(II) và Cd(II) bị chi Cu(OH)+, Cu2(OH)2
phối bởi lực hút tĩnh điện và tương tác của cation kim loại với các nhóm chức trên
bề mặt Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS khi pH < pHpzc bề mặt của hai vật liệu
mang tích điện dương do vậy khả năng hấp phụ Cu(II) và Cd(II) giảm, khi pH >
pHpzc thì bề mặt Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS mang điện tích âm do vậy làm
cho quá trình hấp phụ tăng lên. Ngoài ra nếu pH quá thấp (môi trường axit mạnh)
hoặc cao (môi trường kiềm cao) thì cation bị đẩy ra do ái lực của nó yếu hơn so với proton (H+) hay hydroxyl (OH-) [128]. Đối với Cu2+, khi pH = 8 bắt đầu xuất hiện
kết tủa Cu(OH)2 khi pH tăng lên 10 chủ yếu xảy ra quá trình kết tủa Cu(OH)2 và -. Mặt khác, trong luận án của tác giả Bùi Minh Quý [128] cho thấy rằng Cu(OH)3
khả năng hấp phụ Cd(II) trên các compozit (polyme dẫn PANi và phế thải) tốt nhất
trong môi trường axit yếu (pH = 6). Từ những phân tích trên, pH = 6 được lựa chọn
áp dụng trong thực nghiệm.
111
3.7.2.2. Nghiên cứu đẳng nhiệt hấp phụ Cu(II), Cd(II) trên GOVS và Fe3O4-GOVS
Quá trình hấp phụ tiến hành ở pH = 6 với các nồng độ Cu(II), Cd(II) ban đầu
khác nhau, phân tích hồi quy Ce/Qe và Ce đối với mô hình Langmuir và hồi quy
LnQe và LnCe đối với mô hình Freundlich.
Mô hình hấp phụ Langmuir
Bảng 3.23. Khả năng hấp phụ của các mẫu khảo sát ở nồng độ khác nhau
Co (mg/L) M (g) V (L)
Ce- GOVS/Cd (mg/L) 1,080 Ce- GOVS/Cu (mg/L) 3,379 Ce-Fe3O4- GOVS /Cd (mg/L) 0,201 Ce-Fe3O4- GOVS/Cu (mg/L) 0,069 0,1 0,1 10
4,364 8,103 0,503 2,983 0,1 0,1 20
9,351 15,230 0,8091 6,207 0,1 0,1 30
15,973 22,870 2,364 12,586 0,1 0,1 40
Phân tích các số liệu trong Bảng 3.23 chúng ta thu được đường đẳng nhiệt
25,046 32,014 5,509 21,724 0,1 0,1 50
hấp phụ và đường đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir được trình bày trên Hình 3.42.
(b) (a)
(c)
Hình 3.42. Đường đẳng nhiệt hấp phụ Cu(II), Cd(II) (a), đẳng nhiệt Langmuir
của Fe3O4-GOVS và GOVS (b, c)
112
Qua đồ thị Hình 3.42a,b cho thấy mô hình hấp phụ đẳng nhiệt Langmuir mô tả
tương đối chính xác sự hấp phụ Cd(II), Cu(II) trên vật liệu hấp phụ GOVS, Fe3O4- GOVS thông qua hệ số tương quan của hai đại lượng Ce/Qe và Ce là R2 = 0,997;
0,998; 0,998 và 0,992. Từ phân tích hồi quy Hình 3.42c ta tính được các hệ số của
phương trình Langmuir như sau:
(GOVS – Cd(II)) (3.9)
(GOVS-Cu(II)) (3.10)
(Fe3O4-GOVS-Cd(II)) (3.11)
(Fe3O4-GOVS -Cu (II)) (3.12)
Mô hình Freundlich
Bảng 3.24 và đồ thị Hình 3.43 mô tả quá trình hấp phụ Cd(II) và Cu(II) trên
vật liệu GOVS và Fe3O4-GOVS theo mô hình đẳng nhiệt Freundlich.
Bảng 3.24. Sự phụ thuộc LnQe vào LnCe đối với mô hình Freundlich
GOVS/Cd(II) GOVS/Cu(II)
Co (mg/L) LnCe LnQe LnCe LnQe Fe3O4- GOVS/Cd(II) LnQe LnCe Fe3O4- GOVS/Cu(II) LnQe LnCe
10 20 30 40 50 0,076 1,473 2,235 2,770 3,221 2,188 2,749 3,027 3,179 3,216 1,217 2,092 2,723 3,129 3,466 1,890 2,476 2,692 2,840 2,889 -1,609 -0,693 -0,211 0,860 1,706 2,282 2,970 3,373 3,627 3,795 -2,673 1,092 1,825 2,532 3,078 2,295 2,834 3,169 3,311 3,342
Hình 3.43. Đường hấp phụ đẳng nhiệt Freundlich của Cd(II) và Cu(II) trên
GOVS và Fe3O4-GOVS
113
Các hệ số của phương trình Freundlich thu được từ quá trình hồi quy LnQe
theo LnCe như sau:
(GOVS/Cd(II)) (3.13) LnQe = 0,339 LnCe + 2,208
(GOVS/Cu(II)) (3.14) LnQe = 0,444 LnCe + 1,434
LnQe = 0,440 LnCe + 3,205 (Fe3O4-GOVS/Cd(II)) (3.15)
LnQe = 0,188 LnCe + 2,769 (Fe-Fe3O4-GOVS/Cu(II)) (3.16)
Từ các phương trình trên ta tính toán được các tham số trong phương trình
Langmuir và Frenudlich, các tham số được trình bày trong Bảng 3.25.
Bảng 3.25. Các thông số đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir và Freundlich của
GOVS và Fe3O4-GOVS
Vật liệu, pH=6 Đẳng nhiệt
Langmuir
Fe3O4-GOVS Hấp phụ Cd(II) 52,63 1,27 0,998 0,15 GOVS Hấp phụ Cd(II) 29,41 0,28 0,998 0,067 Qmax (mg/g) KL (l/mg) R2 RL
Freundlich
1/n KF[(mg/g)(L/mg)1/n] R2 0,440 21,33 0,899 0,339 9,09 0,978 Fe3O4-GOVS Hấp phụ Cu(II) 30,3 0,83 0,992 0,24 0,188 15,92 0,963 GOVS Hấp phụ Cu(II) 22,73 0,13 0,998 0,13 0,444 4,12 0,955
Các thông số ghi trong Bảng 3.25 cho thấy quá trình hấp phụ các ion kim loại
Cu(II) và Cd(II) trên Fe3O4-GOVS và GOVS phù hợp hơn với mô hình đẳng nhiệt
Langmuir (giá trị hằng số tương quan R2 ~ 0,99 lớn hơn nhiều so với hằng số tương
quan Freundlich). Dung lượng hấp phụ Cu(II) và Cd(II) tại pH = 6 của Fe3O4-GOVS
tương ứng Qmax = 30,3 mg/g và 52,63 mg/g cao hơn so với GOVS. Như vậy có thể
thấy việc đưa các hạt nano Fe3O4 lên bề mặt của GOVS không những làm cho khả
năng tách các ion kim loại ra khỏi dung dịch sau xử lý dễ dàng hơn mà còn làm tăng
dung lượng hấp phụ của chúng. Đối với ion kim loại nặng Cd(II) (độc hại nhất trong
các kim loại nặng), dung lượng hấp phụ cực đại trên Fe3O4-GOVS cao hơn so với kết
quả của Jin Hur và cộng sự [129] mới được công bố. Dung lượng hấp phụ của Fe3O4-
GOVS cũng cao hơn hẳn của Fe3O4 và GOVS. Kết quả này có thể lý giải là đối với
114
GOVS quá trình hấp phụ Cu(II) và Cd(II) phụ thuộc vào tương tác tĩnh điện giữa bề
mặt âm của GOVS với cation Cu(II) và Cd(II). Trong khi đó đối với Fe3O4-GOVS
ngoài tương tác tĩnh điện còn có sự tương tác tạo phức giữa các cation kim loại với
các nhóm chức hydroxyl (C – OH, Fe – OH) trên bề mặt Fe3O4-GOVS [130, 131].
3.7.2.3. Nghiên cứu đẳng nhiệt hấp phụ Cu(II), Cd(II) trên Fe-Fe3O4-GOVS
Quá trình hấp phụ tiến hành ở pH = 6 với các nồng độ Cu(II) và Cd(II) ban
đầu khác nhau, phân tích hồi quy Ce/Qe và Ce đối với mô hình Langmuir và hồi quy
LnQe và LnCe đối với mô hình Freundlich.
Mô hình hấp phụ Langmuir
Kết quả xác định nồng độ cân bằng (Ce) của quá trình hấp phụ Cu(II) và Cd(II)
trên Fe-Fe3O4-GOVS được trình bày ở Bảng 3.26.
Bảng 3.26. Dung lượng hấp phụ Cd(II) và Cu(II) bằng Fe- Fe3O4-GOVS ở các nồng độ ban đầu khác nhau
M (g) V (L)
Ce /Cu(II) (mg/L) 0,800 1,461 2,960 4,262 23,053
Co (mg/L) 20 30 40 50 100 Ce /Cd(II) (mg/L) 0,521 0,890 1,550 2,561 11,021 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1 0,1
Từ kết quả thu được tiến hành xây dựng mối quan hệ giữa Qe và Ce theo các
mô hình đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir và Freundlich. Các thông số đẳng nhiệt hấp
phụ Langmuir, Freundlich của Fe-Fe3O4-GOVS được trình bày trong Bảng 3.26.
b a
Hình 3.44. Đường đẳng nhiệt hấp phụ Cu(II), Cd(II) (a), đẳng nhiệt Langmuir
của Fe-Fe3O4-GOVS (b)
115
Qua đồ thị Hình 3.44 cho thấy mô hình hấp phụ đẳng nhiệt Langmuir mô tả
tương đối chính xác sự hấp phụ Cd(II), Cu(II) trên vật liệu hấp phụ Fe-Fe3O4-
GOVS thông qua hệ số tương quan R2 = 0,992 và 0,998. Từ phân tích hồi quy ta
tính được các hệ số của phương trình Langmuir như sau:
(Fe-Fe3O4-GOVS/Cd(II)) (3.17)
(Fe-Fe3O4-GOVS/Cu(II)) (3.18)
Mô hình hấp phụ Freundlich
Bảng 3.27. Sự phụ thuộc LnQe vào LnCe đối với mô hình Freundlich
Fe-Fe3O4-GOVS/Cd(II) Fe-Fe3O4-GOVS/Cu(II)
Co (mg/L) LnCe LnQe LnCe LnQe
20 -0,652 2,969 -0,223 2,954
30 -0,116 3,371 0,378 3,351
40 0,262 3,655 1,085 3,612
50 0,994 3,856 1,449 3,823
100 2,399 4,488 3,137 4,343
Từ kết quả thu được chúng tôi xây dựng mối quan hệ giữa LnQe và LnCe theo
Freundlich.
Hình 3.45. Đường hấp phụ đẳng nhiệt Freundlich của Cd(II) và Cu(II) trên
Fe-Fe3O4-GOVS
Bảng 3.27 và đồ thị Hình 3.45 mô tả quá trình hấp phụ Cd(II) và Cu(II) trên
vật liệu Fe-Fe3O4-GOVS theo mô hình đẳng nhiệt Freundlich.
116
Các hệ số của phương trình Freundlich thu được từ quá trình hồi quy LnQe
theo LnCe như sau:
LnQe = 0,473 LnCe + 3,395 (Fe-Fe3O4-GOVS/Cd(II)) (3.19)
LnQe = 0,401 LnCe + 3,148 (Fe-Fe3O4-GOVS/Cu(II)) (3.20)
Từ các phương trình trên ta tính toán được các tham số trong phương trình
Langmuir và Frendulich, các tham số được trình bày trong Bảng 3.28.
Bảng 3.28. Các thông số đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir và Freundlich của
Cu(II) và Cd(II) trên Fe-Fe3O4-GOVS
Đẳng nhiệt Fe-Fe3O4-GOVS, pH = 6, Cd(II)
Fe-Fe3O4-GOVS, pH = 6, Cu(II)
90,9 108,6
0,282 0,375
0,996 0,987
0,034 0,026
Langmuir Qmax (mg/g) KL (L/mg) R2 RL Freundlich
0,401 0,473
23,068 29,507
1/n KF [(mg/g)(L/mg)1/n] R2 0,975 0,972
Các thông số trong Bảng 3.28 cho thấy dung lượng hấp phụ cực đại Cd(II) và
Cu(II) của Fe-Fe3O4-GOVS với Qmax= 108,6 mg/g và 90,9 mg/g cao hơn so với
Fe3O4-GOVS (52 mg/g và 30,3 mg/g, xem Bảng 3.25) tại pH = 6. Điều này là do sự
hình thành các tâm hấp phụ mới, Feo, Fe2O3, FeOOH trên bề mặt vật liệu Fe-Fe3O4-
GOVS làm tăng dung lượng hấp phụ [57, 132, 133]. Kết quả trong Bảng 3.28 cũng
cho thấy hệ số tương quan của phương trình đẳng nhiệt hấp phụ theo mô hình
Freundlich (R2 = 0,972 - 0,975) thấp hơn so với mô hình đẳng nhiệt Langmuir (R2=
0,987 – 0,998). Do đó, quá trình hấp phụ Cd(II), Cu(II) trên Fe-Fe3O4-GOVS tuân
theo mô hình đằng nhiệt Langmuir. So sánh với một số kết quả hấp phụ Cu(II) và
Cd(II) dựa trên các vật liệu cacbon đã được công bố (Bảng 3.29) đều cho thấy vật
liệu trong luận án có dung lượng hấp phụ cao hơn.
117
Bảng 3.29. Dung lượng hấp phụ Cu(II) và Cd(II) của một số vật liệu
Chất hấp phụ Điều kiện thực nghiệm Qmax (mg/g) Tài liệu tham khảo
GO Cd(II), pH = 5,6 14,9 ± 1,5 [22]
Graphen/Ống nano cacbon Cu(II), pH = 6 9,8 [22]
Cd(II), pH = 7 1,91 [133] rGO-Fe/Fe3O4
GO aerogel Cu(II), pH = 6,3 17,73 [133]
Cu(II), pH = 5,3 18,26 [134] GO/Fe3O4
Polyanilin – vỏ lạc Cd(II), pH = 6 [135] 21
90,9 Cu(II), pH = 6
Fe-Fe3O4-GOVS Cd(II), pH = 6 108,6
Cu(II), pH = 6 30,3 Fe3O4-GOVS Luận án Cd(II), pH = 6 52,63
Cu(II), pH = 6 22,7 GOVS Cd(II), pH = 6 29,41
Từ những kết quả trên cho thấy, cả ba vật liệu GOVS, Fe3O4-GOVS và Fe-
Fe3O4-GOVS đều có khả năng hấp phụ các kim loại Cu(II), Cd(II) tại pH = 6. Trong
đó Fe-Fe3O4-GOVS cho thấy tiềm năng là vật liệu có tính hấp phụ ưu việt, khi đưa
thêm 10% Feo vào trong Fe3O4-GOVS ta nhận thấy khả năng hấp phụ Cu(II) và
Cd(II) cao gấp 2 - 3 lần so với Fe3O4-GOVS. Trong đó Cd(II) là kim loại nặng độc
hàng đầu, dung lượng hấp phụ cực đại (Qmax) cao nhất (108,6 mg/g). Do đó chúng
tôi đi sâu nghiên cứu động học của quá trình hấp Cd(II) trên Fe-Fe3O4-GOVS để
làm rõ hơn bản chất của quá trình hấp phụ Cd(II) trên hệ vật liệu này tuân theo
phương trình động học bậc 1 hay bậc 2.
3.7.2.4. Động học quá trình hấp phụ Cd(II) trên Fe-Fe3O4-GOVS
Hình 3.46 thể hiện sự phụ thuộc dung lượng hấp phụ Cd(II) trên Fe-Fe3O4-
GOVS theo thời gian tại nồng độ 50 mg/L và 100 mg/L.
118
Hình 3.46. Sự phụ thuộc dung lượng hấp phụ Cd(II) trên Fe-Fe3O4-GOVS theo
thời gian tại nồng độ 50 mg/L và 100 mg/L
Kết quả ở Hình 3.46 cho thấy tốc độ và dung lượng hấp phụ Cd(II) trên vật
liệu Fe-Fe3O4-GOVS xảy ra nhanh trong khoảng thời gian ngắn. Điều này là do có
sang Fe3O4 làm hình thành nên các oxit Fe2O3,
sự chuyển dịch điện tử từ Feo
FeOOH trên bề mặt vật liệu đóng vai trò là các tâm hấp phụ [57, 120, 132] do vậy
làm tăng dung lượng cũng như tốc độ hấp phụ các ion Cd(II). Phương trình động
học bậc 1 và bậc 2 được đưa ra trong các công thức ở chương 2. Dựa trên số liệu
thực nghiệm trên Hình 3.46, biểu thị mối quan hệ Ln(Qe-Qt) theo thời gian (động
học biểu kiến bậc 1) và t/Qt theo thời gian (động học biểu kiến bậc 2) được thể hiện
ở Hình 3.47 và Hình 3.48.
Phương trình động học bậc 1
Hình 3.47. Mối quan hệ Ln(Qe-Qt) theo thời gian (động học biểu kiến bậc 1)
Hình 3.47 cho thấy giá trị hệ số tương quan R2 của 2 đường biểu diễn sự phụ
thuộc của Ln(Qe-Qt) vào thời gian nhỏ hơn 1.
119
Phương trình động học bậc 2
Hình 3.48. Mối quan hệ t/Qt theo thời gian (động học biểu kiến bậc 2)
Hình 3.48 cho thấy với phương trình động học biểu kiến bậc 2 cả 2 giá trị R2
ứng với 2 đường biểu diễn của Fe-Fe3O4-GOVS đều xấp xỉ gần bằng 1. Từ các số
liệu động học hấp phụ biểu kiến bậc 1 và bậc 2 khẳng định rằng động học hấp phụ
Cd(II) trên Fe-Fe3O4-GOVS tuân theo động học biểu kiến bậc 2. Để khẳng định
thêm chúng tôi so sánh thêm các thông số tính toán lý thuyết và thông số thu được
từ thực nghiệm. Kết quả được trình bày ở Bảng 3.30.
2
Bảng 3.30. Một số tham số của phương trình động học biểu kiến bậc 1 và bậc 2
R1 Fe-Fe3O4- GOVS Dạng phương trình động học biểu kiến bậc 1 k1 (phút-1) Qe, exp (mg/g) Qe, cal (mg/g)
50 mg/L 0,094 47,296 11,107 Ln(Qe-Qt) = 2,647 - 0,094.t 0,935
2
0,057 88,980 13,663 100 mg/L Ln(Qe-Qt) = 2,615 - 0,057.t 0,705
R2 k2(g/mg.phút) Fe-Fe3O4- GOVS Dạng phương trình động học biểu kiến bậc 2 Qe, exp (mg/g) Qe, cal (mg/g)
50 mg/L 0,999 0,019 47,296 47,619 t/Qt = 0,021.t + 0,023
Qe, cal: giá trị dung lượng hấp phụ cân bằng tính toán theo phương trình động học Qe, exp: giá trị dung lượng hấp phụ cân bằng theo thực nghiệm
100 mg/L 0,999 0,015 88,980 90,909 t/Qt = 0,011.t + 0,008
Các kết quả trong Bảng 3.30 cho thấy dung lượng hấp phụ tính toán theo lý
thuyết và thực nghiệm bậc 1 có sự chênh lệch rất lớn trong khi đó sự chênh lệch
dung lượng hấp phụ tính toán theo lý thuyết và thực nghiệm bậc 2 là không đáng kể,
120
điều này khẳng định một lần nữa quá trình hấp phụ Cd(II) trên Fe-Fe3O4-GOVS
tuân theo động học biểu kiến bậc 2.
3.7.3. Hấp phụ As(V) trên vật liệu GOVS, Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
3.7.3.1. Ảnh hưởng của pH
Hình 3.49. Ảnh hưởng pH đến quá trình loại bỏ As(V) trên vật liệu GOVS,
Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS, (nồng độ As(V) 7 ppm, m/V= 0,4 g/L, T=30 oC)
Hình 3.49 cho thấy pH ảnh hưởng đến quá trình hấp phụ As(V) trên vật liệu
- ở pH thấp (pH = 2,2 - 6,9 [51]). Quá trình hấp phụ
Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS. Muối NaH2AsO4 trong dung dịch nước phân ly
tạo thành các anion H2AsO4
As(V) bị chi phối bởi lực hút tĩnh điện và lực đẩy, điện tích bề mặt và khả năng tạo
phức của asen với bề mặt vật liệu. Khi pH < pHpzc (pHpzc ~ 5,2) bề mặt của Fe3O4-
GOVS tích điện dương do vậy khả năng hấp phụ As(V) cao do lực hút tĩnh điện và
khả năng tạo phức. Khi pH > pHpzc thì bề mặt Fe3O4-GOVS mang điện tích âm, quá
trình hấp phụ As(V) giảm mạnh bởi lực đẩy tĩnh điện [51]. Đối với Fe-Fe3O4-GO
pHpzc ~ 5,4 do vậy khi pH > 5,4 thì bề mặt của Fe-Fe3O4-GOVS mang điện âm nên
quá trình hấp phụ As(V) cũng giảm mạnh và tương tự như vật liệu Fe3O4-GOVS. Vì
vậy, pH = 5 được lựa chọn cho quá trình hấp phụ As(V). Đối với GOVS với pH = 5
bề mặt mang điện âm nên khả năng hấp phụ As(V) thấp với hiệu suất đạt 10% tại
nồng độ 7 mg/L (Qmax = 1,75 mg/g).
121
3.7.3.2. Nghiên cứu đẳng nhiệt hấp phụ
Quá trình hấp phụ tiến hành ở pH = 5 với các nồng độ As(V) ban đầu khác
nhau, phân tích hồi quy Ce/Qe và Ce đối với mô hình Langmuir và hồi quy LnQe và
LnCe đối với mô hình Freundlich:
Mô hình hấp phụ Langmuir
Co (mg/L)
M (g)
V (L)
Ce-Fe3O4- GOVS/ As(V) (mg/L)
Qe-Fe3O4- GOVS/ As(V) (mg/g)
Bảng 3.31. Nồng độ hấp phụ của các mẫu khảo sát
Ce- Fe-Fe3O4- GOVS/ As(V) (mg/L) 0,480
Qe- Fe-Fe3O4- GOVS/ As(V) (mg/g) 6,300
3 0,541 6,147 0,04 0,1
7 1,081 14,797 1,302 14,245 0,04 0,1
10 3,378 16,550 2,037 19,907 0,04 0,1
15 7,973 17,567 3,833 27,917 0,04 0,1
20 11,703 20,743 6,838 32,905 0,04 0,1
25 16,486 21,285 10,170 37,075 0,04 0,1
40 29,643 25,892 24,575 38,563 0,04 0,1
(b) (a)
Hình 3.50. Sự phụ thuộc dung lượng hấp phụ As(V) theo thời gian ở nồng độ
20 mg/L (a) và đường đẳng nhiệt hấp phụ (b) trên vật liệu Fe-Fe3O4-GOVS và
Fe3O4-GOVS, m/V= 0,4 g/L, T=30 oC
Quan sát Hình 3.50a cho thấy từ khoảng thời gian từ 0 – 2 giờ khả năng hấp
phụ tăng nhanh do quá trình khuếch tán tới bề mặt lớn, không có sự cản trở cùng
với đó là trong khoảng thời gian đầu số lượng tâm hấp phụ trống còn nhiều, và hàm
lượng As(V) trên Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS nhỏ hơn nhiều so với hàm
lượng As(V) trong dung dịch. Khi thời gian tăng lên, sự khuếch tán của As(V) giảm
122
do số tâm còn trống giảm trong khi đó quá trình giải hấp phụ tăng lên do hàm lượng
As(V) trên Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS lớn hơn hàm lượng As(V) trong dung
dịch [71]. Do vậy khi đạt đến trạng thái cân bằng, tốc độ hấp phụ As(V) giảm. Đối
với Fe-Fe3O4-GOVS quá trình hấp phụ xảy ra nhanh trong khoảng thời gian đầu so
với Fe3O4-GOVS là do sự hình thành thêm các tâm hấp phụ mới FeOOH, Fe2O3...
(như đã phân tích trong phổ XRD và XPS) là những tâm hấp phụ kim loại mạnh
trên bề mặt Fe-Fe3O4-GOVS [136, 137]. Thời gian đạt trạng thái cân bằng của Fe-
Fe3O4-GOVS là khoảng 3 giờ và đối với Fe3O4-GOVS là 4 giờ. Cân bằng hấp phụ
của As(V) trên Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS được tính toán theo Bảng 3.31 và
mô phỏng theo hai mô hình Langmuir và Freundlich ở dạng tuyến tính. Phân tích
các dữ liệu thu được từ đường đẳng nhiệt hấp phụ (Hình 3.50b) rồi thay vào các mô
hình đường đẳng nhiệt khác nhau để tìm ra mô hình hấp phụ phù hợp cho vật liệu
Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS tổng hợp được. Kết quả phân tích các hằng số
của phương trình Langmuir và Freundlich được đưa ra trong Bảng 3.32.
Bảng 3.32. Các thông số đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir và Freundlich của As(V) trên Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
Vật liệu
Đẳng nhiệt
Fe3O4-GOVS, pH = 5 Fe-Fe3O4-GOVS, pH = 5
43,47 25
0,451 0,406
0,996 0,981
0,053 0,058
Langmuir Qmax (mg/g) KL (l/mg) R2 RL Freundlich 1/n KF [(mg/g)(L/mg)1/n] R2 0,421 6,410 0,940 0,284 2,737 0,802
Từ Bảng 3.32 cho thấy quá trình hấp phụ As(V) trên Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4- GOVS phù hợp với mô hình đẳng nhiệt Langmuir (giá trị hằng số tương quan R2 lần lượt là 0,981và 0,996 lớn hơn nhiều so với hằng số tương quan Freundlich R2 = 0,94
và 0,802. Theo kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Thị Vương Hoàn [16,
123
48] thì quá trình hấp phụ As(V) xảy ra trên bề mặt Fe3O4-GO tuân theo mô hình
Freundlich, điều này có thể là do hai phương pháp tổng hợp Fe3O4-GO khác nhau
về cơ bản, trong luận án này sử dụng phương pháp đồng kết tủa trực tiếp nên bề mặt
bằng phẳng hơn còn nhóm tác giả Nguyễn Thị Vương Hoàn lại tổng hợp bằng
phương pháp gián tiếp (tổng hợp Fe3O4 và GO riêng biệt), với phương pháp gián
tiếp khi đưa Fe3O4 lên GO tạo bề mặt không bằng phẳng do đó mô hình Freundlich
phù hợp hơn. Thật vậy, theo Xinhua Xu và cộng sự [136] cho thấy quá trình hấp
phụ kim loại xảy ra trên bề mặt nano Fe-Fe3O4 tổng hợp trong điều kiện vắng mặt GO đều phù hợp với cả hai mô hình hấp phụ Langmuir và Freundlich (R2 = 0,999
và 0,984). Tuy nhiên khi đưa các hạt nano Fe-Fe3O4 lên bề mặt của GO thì quá trình
hấp phụ xảy ra theo mô hình Langmuir do bề mặt có tính đồng nhất hơn [50]. Dung
lượng hấp phụ As(V) tại pH = 5 đối với Fe3O4-GOVS là Qmax = 25 mg/g và với Fe-
Fe3O4-GOVS có giá trị Qmax = 43,47 mg/g và cao hơn so với các kết quả đã công bố
trước đây (Bảng 3.33).
Bảng 3.33. Dung lượng hấp phụ As(V) của một số vật liệu chứa sắt
Tài liệu STT Vật liệu hấp phụ Điều kiện thực nghiệm Qmax (mg/g) tham khảo
5,83 [59] 1 Fe3O4-rGO pH = 7, T = 298K, m/V = 0,2 g/L
pH = 4-9 23,78 [134] 2 GO/FeOOH
FeOOH (dạng hạt) pH = 6,5, T = 293 K 3,1 [138] 3
Sắt/than hoạt tính (hạt) 6,6 [138] 4 pH = 4,7, T = 298 K, m/V = 3,0 g/L
10,4 [138] 5 Oxit Fe3+/Ethylendiami/ Ống nano cacbon pH = 4,0, T = 298 K, m/V = 0,1 g/L
14,0 [138] 6 Feo/tinh bột/Carboxymethyl cellulose pH = 5,0, T = 298 K, m/V = 0,3 g/L
12,87 [138] 7 pH = 4, m /V = 5,0 g/L, T = 298 K Sắt và 1,3,5- benzenetricarboxylic (Fe–BTC)/MOFs
1,89 [139] 8 Cát thạch anh phủ γ-Fe2O3
9 25 Fe3O4-GOVS
Luận án 43,47 10 Fe-Fe3O4-GOVS pH = 6, T = 303K m/V = 1 g/L pH = 5, m /V = 0,4 g/L, T = 303 K pH = 5, m /V = 0,4 g/L, T = 303 K
124
Dung lượng hấp phụ As(V) của Fe-Fe3O4-GOVS lớn hơn gần 2 lần so với
Fe3O4-GOVS. Điều này có thể lý giải là do sự tương tác giữa các hạt nano Feo và
Fe3O4 với GOVS tạo tâm hấp phụ mới (Fe2O3, FeOOH), có ái lực tương tác mạnh
với As(V). So sánh với vật liệu nano Fe3O4 công bố bởi nhóm tác giả Bang-Jing
Zhu [140], I. Zouboulis và cộng sự [141], dung lượng hấp phụ As(V) chỉ đạt Qmax=
6,356 mg/g và 3,7 mg/g. Đặc biệt so sánh với vật liệu Fe3O4-GO của nhóm tác giả
Kwang S. Kim [59] trong báo cáo, tác giả tổng hợp Fe3O4-GO (tỷ lệ Fe3O4 30%)
cho khả năng hấp phụ As(V) chỉ đạt 5,27 mg/g với As(V) và 10,2 mg/g với As(III),
khi tăng hàm lượng Fe3O4 lên 70% thì dung lượng hấp phụ cực đại As(V) đạt 5,83
mg/g và 13,10 mg/g với As(III). Như vậy, vật liệu mới nanocompozit Fe3O4-GOVS
và Fe-Fe3O4-GOVS được tổng hợp trong luận án này có dung lượng hấp phụ As(V)
vượt trội (4 - 8 lần) so với khả năng hấp phụ As(V) của vật liệu nano Fe3O4.
Phương thức tương tác của các ion kim loại nặng, asen và thuốc nhuộm hoạt
tính trên các vật liệu composit Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS được mô tả thông
qua Hình 3.51 [46].
Hình 3.51. Các tương tác khác nhau tham gia vào sự hấp thụ các chất ô nhiễm
trên Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS [46]
Trong đó quá trình tạo phức giữa As(V) và Fe3+ trong vật liệu Fe3O4-GOVS và
Fe-Fe3O4-GOVS được mô tả thông qua phương trình:
125
− + 3H+ = Fe(H2AsO4)3 + 2H2O
FeOOH + 3H2AsO4
3.7.3.3. Nghiên cứu động học quá trình hấp phụ As(V) trên Fe3O4-GOVS và Fe-
Fe3O4-GOVS
Phương trình động học bậc 1
Các giá trị Ln(Qe-Qt) của các mẫu theo thời gian được trình bày trong Bảng 3.34.
Bảng 3.34. Giá trị Ln(Qe-Qt) theo thời gian của quá trình hấp phụ As(V)
Ln(Qe-Qt)
t (giờ) (tại nồng độ As(V) = 20 mg/L) Chất hấp phụ 0,5 1 2 4 6 8 10
-0,21 -0,98 -1,93 -3,1 Fe-Fe3O4-GOVS 2,03 1,46 0,65
2,05 1,37 0,98 -0,02 -0,54 -0,99 -3,0 Fe3O4-GOVS
Hình 3.52. Mối quan hệ Ln(Qe-Qt) theo thời gian (động học biểu kiến bậc1) của
quá trình hấp phụ As(V) trên của Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS
Từ giá trị các tham số của phương trình động học bậc 1 trong Bảng 3.34 và đồ
thị Hình 3.52 cho thấy hệ số xác định R2 trong khoảng 0,988. Bên cạnh đó, giá trị
dung lượng hấp phụ cân bằng tính toán được từ các phương trình động học đều
khác biệt so với giá trị thực nghiệm (Bảng 3.36). Vậy phương trình động học bậc 1
không phù hợp với của quá trình hấp phụ của As(V) trên Fe-Fe3O4-GOVS và
Fe3O4-GOVS.
126
Phương trình động học bậc 2
Từ các giá trị thực nghiệm, tiến hành hồi quy tuyến tính các giá trị t/Qt với t
theo phương trình động học bậc 2 (chương 2) thu được giá trị các tham số của
phương trình động học bậc 2 như trong Bảng 3.35.
Bảng 3.35. Giá trị t/Qt theo thời gian của quá trình hấp phụ As(V)
t/Qt x 10-2
t (giờ) (tại nồng độ As(V) = 20 mg/L) Chất hấp phụ 0,5 1 2 4 6 8 10
1,97 3,49 6,45 12,46 18,44 24,42 30,43 Fe-Fe3O4-GOVS
3,85 5,95 11,07 20,24 29,76 39,27 48,33 Fe3O4-GOVS
Hình 3.53. Mối quan hệ t/Qt theo thời gian (động học biểu kiến bậc 2) của quá
trình hấp phụ của As(V) trên Fe-Fe3O4-GOVS và Fe3O4-GOVS
Từ giá trị các tham số của phương trình động học bậc 2 trong Bảng 3.35 và đồ
thị Hình 3.53 cho thấy hệ số xác định R2 đều đạt 0,999. Bên cạnh đó, giá trị dung
lượng hấp phụ cân bằng tính toán được từ các phương trình động học đều rất gần so
với giá trị thực nghiệm (Bảng 3.37). Vì vậy có thể kết luận phương trình động học
biểu kiến bậc 2 phù hợp với quá trình hấp phụ của As(V) trên Fe-Fe3O4-GOVS và
Fe3O4-GOVS.
127
Bảng 3.36. Một số tham số của phương trình động học biểu kiến bậc nhất As(V)
2
Chất hấp phụ R1 Dạng phương trình động học k1 (h-1) Qe, exp (mg/g) Qe, cal (mg/g)
Fe-Fe3O4-GOVS Ln(Qe-Qt) = 1,968 - 0,503.t 0,988 0,503 32,905 7,151
Fe3O4-GOVS Ln(Qe-Qt) = 2,304 - 0,457.t 0,953 0,457 20,743 10,011
Bảng 3.37. Một số tham số của phương trình động học bậc hai biểu kiến As(V)
2
Chất hấp phụ R2 Dạng phương trình động học k2 (g/mg.h) Qe, exp (mg/g) Qe, cal (mg/g)
= 0,004 + 0,030.t 0,999 0,220 32,905 33,333 Fe-Fe3O4-GOVS
Qe, cal: giá trị dung lượng hấp phụ cân bằng tính toán theo phương trình động học Qe, exp: giá trị dung lượng hấp phụ cân bằng theo thực nghiệm
= 0,014 + 0,047.t 0,999 0,150 20,743 21,276 Fe3O4-GOVS
Quan sát Bảng 3.37 nhận thấy rằng tốc độ hấp phụ As(V) ở nồng độ 20 mg/L
trên Fe-Fe3O4-GOVS (0,22 g/mg.h) cao gấp 1,5 lần so với trên Fe3O4-GOVS (0,15
g/mg.h). Điều này cho thấy tốc độ hấp phụ As(V) của Fe-Fe3O4-GOVS cao hơn so
với Fe3O4-GOVS và phù hợp với những phân tích ở trên.
3.8. Đánh giá khả năng tái sử dụng của vật liệu
Từ các kết quả thu được cho thấy vật liệu Fe-Fe3O4-GOVS có dung lượng hấp
phụ thuốc nhuộm, ion kim loại nặng Cu(II), Cd(II) và As(V) đều cao hơn so với vật
liệu Fe3O4-GOVS. Do vậy, vật liệu Fe-Fe3O4-GOVS được chúng tôi sử dụng để đánh
giá khả năng tái sử dụng sau 3 lần sử dụng. Để đánh khả năng tái sử dụng của vật liệu
trong quá trình hấp phụ xử lý thuốc nhuộm chúng tôi tiến hành thu hồi vật liệu sau
hấp phụ bằng từ tính và tiến hành rửa bằng nước và ethanol + methanol [49, 57].
Đối với quá trình hấp phụ ion kim loại nặng, vật liệu hấp phụ thường được tái
sinh trong môi trường axit như axit acetic [142], axit HCl tại pH ~2 [143] hoặc HNO3
tại pH ~ 2 [133]. Do vậy, trong luận án lựa chọn HCl 0,1M tại pH ~ 2 để loại bỏ ion
kim loại nặng đã hấp phụ. Sản phẩm sau đó được sấy chân không 60 oC, tiếp đó vật
liệu được đánh giá khả năng tái sử dụng cho các lần thử nghiệm tiếp theo, độ hao hụt
khối lượng của vật liệu gần như không đáng kể. Kết quả được thể hiện trên Hình 3.54.
128
b a
Hình 3.54. Khả năng hấp phụ RR195 (a) và phổ UV-Vis sau hấp phụ RR195 trên Fe-Fe3O4-GOVS qua ba lần tái sinh (b) (pH = 5,5; m/V = 1 g/L)
Từ Hình 3.54 có thể thấy rằng độ bền của Fe-Fe3O4-GOVS tương đối tốt, điều
này được chứng minh qua ba lần tái sử dụng, hiệu suất hấp phụ lần lượt là 50%,
48,9% và 45,5% tại nồng độ 100 mg/L. Điều này khá tương đồng với kết quả của
Chun Wang [58] khi sử dụng Fe3O4/graphen cho quá trình hấp phụ thuốc nhuộm đỏ
Fuchsine sau 5 lần tái sử dụng khả năng hấp phụ hầu như không đổi. Đối với Yalin
Qin [49] khi sử dụng methanol để tái sinh vật liệu sau quá trình hấp phụ RhB. Sau 1
lần tái sinh độ giảm hiệu suất hấp phụ là không đáng kể. Sự giảm hiệu suất hấp phụ
có thể là do sau các lần thử nghiệm thì sự che phủ các tâm xúc tác bởi RR195 [57].
Đối với quá trình hấp phụ Cd(II) trên Fe-Fe3O4-GOVS qua ba lần kiểm tra khả
năng tái sử dụng của vật liệu, hiệu suất hấp phụ lần lượt là 98,6%, 95,7% và 93,1%
tại nồng độ Cd(II) = 10 mg/L (Hình 3.55).
Hình 3.55. Hiệu suất hấp phụ Cd(II) trên vật liệu Fe-Fe3O4-GOVS sau ba lần tái sinh (pH = 6; m/V = 0,1 g/L)
129
Như vậy có thể thấy vật liệu Fe-Fe3O4-GOVS có hoạt tính cao và độ bền của vật
liệu tốt. Thật vậy, theo nghiên cứu của Jie Li [133], HNO3 tại pH ~ 2 được dùng để tái
sinh vật liệu GO/Fe3O4, vật liệu có hoạt tính tốt sau 5 lần tái sử dụng cho quá trình hấp
phụ Cu(II). Hiệu suất của quá trình giảm không quá 5% khi so sánh sau 5 lần tái sinh.
Tác giả Lulu Fan [143] sử dụng HCl tại pH ~ 2 để tái sinh Fe3O4/chitosan/GO cho quá
trình hấp phụ Pb(II). Sau 4 lần tái sinh đầu tiên hiệu suất hấp phụ đều đạt khoảng 90%
và hiệu suất hấp phụ chỉ giảm xuống (75%) sau 6 lần tái sinh. Ngoài ra, Lulu Fan [143]
cũng cho thấy việc sử dụng HCl với pH = 1 để tái sinh vật liệu Fe3O4/chitosan/GO sau 48 giờ không thấy sự xuất hiện của Fe3+, Fe2+ trong dung dịch chứng tỏ độ bền cao của
loại vật liệu này.
Dưới đây là Bảng 3.38, 3.39 và 3.40 tổng hợp các kết quả đặc trưng của
Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS cũng như đánh giá khả năng hấp phụ, động học
quá trình hấp phụ bậc 2 của Cd(II), As(V) trên vật liệu Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-
GOVS, GOVS tổng hợp được.
Mẫu
XRD 2θ
BET (m2/g)
VSM Hc (Oe)
XPS Fe2p
HR- TEM d(nm)
EDX %Fe (wt)
FTIR (các nhóm chức)
Đường kính mao quản (nm)
166
8,8-12,1
48,59
35 emu/g
dFe3O4= 15 nm
Fe3O4- GOVS
– C=O, C-O, Fe-O
Pic đặc trưng 35,4°
Pic 711eV, 725eV (Fe3O4)
177
8,9-12,3
57,68
29 emu/g
Fe- Fe3O4- GOVS
dFe3O4= 15 nm o=5- dFe 10 nm
Pic 711eV, 725eV Pic 706 eV (Fe0)
Pic đặc trưng 45o, 68o
– C=O, C-O, Fe-O, Fe0- Fe3O4- GOVS
Bảng 3.38. Tổng kết các thông số đặc trưng của Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
Bảng 3.39. Tổng kết dung lượng hấp phụ cực đại RR195, Cu(II), Cd(II) và As(V) trên GOVS, Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
GOVS Qmax (mg/g) Fe3O4-GOVS Qmax (mg/g) Fe-Fe3O4-GOVS Qmax (mg/g) Chất hấp phụ Chất bị hấp phụ
RR195 212,7 47- -
Cu(II) 22,73 30,3 90,9
Cd(II) 29,41 52,63 108,6
As(V) 7,0 25,0 43,47
130
Bảng 3.40. Các tham số của phương trình động học biểu kiến bậc hai quá trình
2
hấp phụ Cd(II), As(V) trên Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
R2 k22(g/mg.h) Dạng phương trình động học bậc 2 Qe, exp (mg/g) Qe, cal (mg/g)
= 0,014 + 0,047.t 0,999 0,150 20,743 21,276 Fe3O4-GOVS (As(V) 20 mg/L)
= 0,004 + 0,030.t 0,999 0,220 32,905 33,333 Fe-Fe3O4-GOVS (As(V) 20 mg/L)
= 0,023 + 0,021.t 0,999 0,019 47,296 47,619 Fe-Fe3O4-GOVS (Cd(II) 50 mg/L)
= 0,008 + 0,011.t 0,999 0,015 88,980 90,909 Fe-Fe3O4-GOVS (Cd(II) 100 mg/L)
131
KẾT LUẬN
- Đã tổng hợp thành công GO, rGO từ graphit bằng phương pháp Hummers cải
tiến sử dụng tác nhân oxy hóa H2SO4 và KMnO4. Tách lớp GO sử dụng kỹ thuật siêu
âm, vi sóng và khử GO về rGO bằng tác nhân nhiệt ở nhiệt độ 600 oC trong dòng N2.
GO và rGO tổng hợp được có dạng lớp với khoảng cách lớp thay đổi từ 0,4 nm – 0,6
nm. Tỷ lệ C/O thay đổi từ 2,32 – 10,89 tương ứng với GO và rGO. Trên bề mặt GO
và rGO tồn tại các nhóm chức: -OH, C=O, C-O, COO-, cường độ nhóm chức trên bề
mặt của GO và rGO tăng dần theo chiều hướng rGO < GOVS < GOSA. rGO và
GOVS đều có bề mặt riêng lớn, và cao hơn nhiều với GOSA (5 lần).
- Đã tổng hợp thành công vật liệu composit Fe3O4-GOVS bằng phương pháp
đồng kết tủa trong môi trường bazơ của dung dịch NH3 và vật liệu composit Fe-
Fe3O4-GOVS bằng phương pháp khử hóa học sử dụng NaBH4 làm tác nhân khử.
Bằng các phương pháp phân tích hóa lý hiện đại đã chứng minh sự tồn tại đồng thời
của Fe3O4 và Feo trên bề mặt GOVS. Fe3O4 và Feo liên kết với GOVS thông qua
liên kết Fe-O. Quá trình hình thành Fe3O4 lên bề mặt GOVS hoàn toàn sạch pha
trong điều kiện nhiệt độ phòng, kích thước hạt phụ thuộc vào các điều kiện nhiệt độ,
pH, nồng độ muối và tốc độ khuấy. Từ XRD và TEM cho thấy kích thước hạt Fe3O4
tồn tại trên GOVS khoảng 15 nm, Feo có kích thước < 10 nm. Cả hai vật liệu Fe3O4-
GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS đều có từ tính và từ độ bão hòa cao (35 emu/g và 29
emu/g) dễ dàng thu hồi bằng từ trường ngoài.
- Cả 5 vật liệu: GOVS, GOSA, rGO, Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS đều có
khả năng hấp phụ thuốc nhuộm hoạt tính RR195. Dung lượng hấp phụ tối đa đạt từ
(66,67 - 300 mg/g). Khả năng hấp phụ thuốc nhuộm hoạt tính trên 05 vật liệu tăng
dần theo thứ tự: GOSA < Fe3O4-GOVS < Fe-Fe3O4-GOVS < GOVS < rGO.
- Ba vật liệu: GOVS, Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS đều có khả năng hấp
phụ các ion kim loại nặng: Cu(II), Cd(II) và As(V); khả năng hấp phụ trên ba vật liệu
tăng dần theo chiều hướng GOVS < Fe3O4-GOVS < Fe-Fe3O4-GOVS. Đặc biệt với
sự tồn tại 10% Feo về khối lượng trong Fe3O4-GOVS đã làm tăng mạnh dung lượng
hấp phụ các ion kim loại nặng Cu(II), Cd(II) và As(V) so với Fe3O4-GOVS ban đầu.
Với Fe3O4-GOVS thì Qmax của Cu(II), Cd(II) và As(V) lần lượt 30,3 mg/g; 52,63 mg/g
132
và 25 mg/g, còn với Fe-Fe3O4-GOVS giá trị Qmax lần lượt 90,9 mg/g; 108,6 mg/g và
43,47 mg/g.
- Nghiên cứu mô hình hấp phụ đẳng nhiệt và động học hấp phụ cho thấy: quá
trình hấp phụ RR195 trên GOVS, GOSA, rGO và quá trình hấp phụ Cd(II), Cu(II),
As(V) trên Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS phù hợp với mô hình hấp phụ đẳng
nhiệt Langmuir và theo phương trình động học hấp phụ biểu kiến bậc 2. Hằng số
tốc độ và dung lượng hấp phụ Cd(II), Cu(II) và As(V) của Fe-Fe3O4-GOVS cao hơn
1,5 lần so với Fe3O4-GOVS.
133
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Lê Hà Giang, Hà Quang Ánh, Nguyễn Kế Quang, Ngô Tiến Quyết, Ngô Quang Binh, Đào Đức Cảnh, Nguyễn Trung Kiên, Đặng Tuyết Phương, Trần T. Kim Hoa, Vũ Đình Ngọ và Vũ Anh Tuấn, Tổng hợp, đặc trưng và khả năng loại bỏ asen trong nước của graphen oxit và nano composit Fe3O4/GO, Tạp chí Hóa học, 2014, 6A-52, 143-148
2. Hà Quang Ánh, Lê Hà Giang, Nguyễn Kế Quang, Quản T. Thu Trang, Vũ Đình Ngọ và Vũ Anh Tuấn, Nghiên cứu khả năng loại bỏ asen trong nước của nano compozit Fe3O4/GO và Fe/Fe3O4/GO, Tạp chí hóa học, 2015, T.53 (3E12), 285-291 3. Hà Quang Ánh, Lê Hà Giang, Nguyễn Kế Quang, Vũ Đình Ngọ và Vũ Anh Tuấn, Tổng hợp và đánh giá khả năng loại bỏ Cu(II), Cd(II) trong nước của graphen oxit (GO) và nano compozit Fe3O4/GO, Tạp chí hóa học, 2015, T.53 (3E12), 279-285
4. Hà Quang Ánh, Lê Hà Giang, Nguyễn Kế Quang, Quản T. Thu Trang, Vũ Đình Ngọ và Vũ Anh Tuấn, Nghiên cứu khả năng hấp phụ Cd(II) trong nước của nano compozit Fe/Fe3O4/GO, Tạp chí Xúc tác hấp phụ 2015, T.4, N02, 132-138,
5. Hà Quang Ánh, Lê Thị Mai Hoa, Lê Hà Giang, Nguyễn Kế Quang, Đào Đức Cảnh, Nguyễn Trung Kiên, Trần Thị Kim Hoa, Đặng Tuyết Phương và Vũ Anh Tuấn, Nghiên cứu sự hấp phụ RodaminB trong dung dịch nước trên vật liệu graphen oxit và graphen, Tạp chí Xúc tác hấp phụ, 2015, T.4, N02, 160-168 6. Hà Quang Ánh, Lê Thị Mai Hoa, Lê Hà Giang, Nguyễn Kế Quang, Ngô Tiến Quyết, Đào Đức Cảnh, Nguyễn Trung Kiên, Đặng Tuyết phương, Trần Thị Kim Hoa và Vũ Anh Tuấn, Nghiên cứu tổng hợp, đặc trưng và khả năng hấp phụ chất màu của graphen oxit và graphen từ graphit tự nhiên, Tạp chí Xúc tác hấp phụ, 2015, T.4, N04B,
7. Hà Quang Ánh, Lê Thị Mai Hoa, Lê Hà Giang, Nguyễn Kế Quang,Vũ Đình Ngọ và Vũ Anh Tuấn, Nghiên cứu khả năng hấp phụ thuốc nhuộm RR195 trong dung dịch nước trên vật liệu graphen oxit và graphen, Tạp chí Phân tích Hóa, Lý và Sinh học; 2015, T20-4, 20-27.
8. Le Ha Giang, Le Thi Mai Hoa, Ha Quang Anh, Nguyen Ke Quang, Dao Duc Canh, Nguyen Thi Phuong, Tran Thi Kim Hoa, Dang Tuyet Phuong and Vu Anh Tuan, Fe-Fe3O4/GO COMPOSITE AS NOVEL AND HIGHLY EFFICIENT PHOTOCATALYST IN REACTIVE DYE DEGRADATION, Proceeding of
IWNA 2015, 11-14 November 2015, Vung Tau, Viet Nam pp.638-642.
134
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN
1. Đã tổng hợp thành công GO và rGO với chiều dày vài lớp nguyên tử cacbon (< 8
lớp) bằng phương pháp oxy hóa ướt graphit tự nhiên, bóc tách lớp bằng kỹ thuật
vi sóng tạo GO và phương pháp khử nhiệt tạo rGO. Các vật liệu này có diện tích
bề mặt lớn, có khả năng hấp phụ cao đối với chất màu và các ion kim loại nặng.
2. Đã tổng hợp thành công vật liệu composit mới Fe3O4-GOVS và Fe-Fe3O4-GOVS
bằng phương pháp kết tủa tại chỗ “In situ” và khử bằng phương pháp hóa học sử
dụng NaBH4 làm tác nhân khử. Vật liệu composit mới có kích thước hạt nano 10-
20 nm phân tán đều trên bề mặt GO và rGO.
3. Vật liệu mới Fe-Fe3O4-GOVS có khả năng hấp phụ chọn lọc và dung lượng hấp
phụ các ion kim loại nặng Cd(II), Cu(II) và As(V) cao hơn nhiều so với các vật
liệu hấp phụ đã được công bố. Kết quả này mở ra triển vọng ứng dụng của vật
liệu mới composit Fe-FeOx/GO, rGO trong xử lý asen và các ion kim loại nặng
4. Mô hình hấp phụ đẳng nhiệt và động học hấp phụ của vật liệu mới Fe-Fe3O4-GOVS
trong dung dịch nước.
đối với ion kim loại nặng Cd(II) và As(V) đã được nghiên cứu. Kết quả thu được chỉ
ra rằng mô hình đẳng nhiệt tuân theo mô hình Langmuir và động học hấp phụ phù
hợp với phương trình động học biểu kiến bậc 2. Đây là những kết quả mới hầu như
chưa được công bố trên tạp chí quốc tế cũng như trong nước.
135
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.R. Khataee, S. Aber, M. Zarei, M. Sheydaei, Environmental applications of activated carbon and carbon nanotubes, NOVA Science Publisher, Inc. USA,
2011, 1-97.
2. Meagan S. Mauter and Menachem Elimelech, Environmental Applications of Carbon-Based Nanomaterials: Critical Review, Environ. Sci. Technol., 2008,
42 (16), 5843–5859
3. Zheng Li, Zheng Liu, Haiyan Sun, and Chao Gao, Superstructured Assembly of Nanocarbons: Fullerenes, Nanotubes, and Graphene, Chemical Reviews,
2015, 115, 7046−71172.
4. Rajni Garg, Naba K. Dutta and Namita Roy Choudhury, Work Function
Engineering of Graphene, Nanomaterials, 2014, 4(2), 267-300.
5. Guixia Zhao, Jiaxing Li, Xuemei Ren, Changlun Chen, and Xiangke Wang, Few-Layered Graphene Oxide Nanosheets As Superior Sorbentsfor Heavy
Metal Ion Pollution Management, Environ. Sci. Technol., 2011, 45, 10454–
10462.
6. Mujeeb Khan, Muhammed Nawaz Tahir, Syed Farooq Adil, Hadayat Ullah Khan, M. Rafiq H. Siddiqui, Abdulrahman A. Al-warthan, Wolfgang
Tremel Graphene based metal and metal oxide nanocomposites: synthesis,
properties and their applications, J. Mater. Chem. A, 2015, 3, 18753-18808. 7. Phaedon Avouris and Christos Dimitrakopoulos, Graphene: synthesis and
applications, Material today, 2012, 15(3), 86-97.
8. Khaled Parvez, Sheng Yang, Xinliang Fen, Klaus Müllen, Exfoliation of graphene via wet chemical routes, Synthetic Metals, 2015 , xxx, xxx–xxx 9. Cecilia Mattevi, Hokwon Kim and Manish Chhowalla, A review of chemical vapour deposition of graphene on copper, J. Mater. Chem., 2011, 21, 3324–
3334.
10. Jin-Gang Yu, Lin-Yan Yu, Hua Yang, Qi Liu, Xiao-Hong Chen, Xin-Yu Jiang, Xiao-Qing Chen, Fei-Peng Jiao, Graphene nanosheets as novel adsorbents in
adsorption, preconcentration and removal of gases, organic compounds and
metal ions, Science of the Total Environment, 2015, 502, 70–79.
11. Mai Thanh Tâm, Hà Thúc Huy, Tách bóc và khử hóa học graphit oxit trên các tác nhân khử khác nhau, Báo cáo toàn văn Kỷ yếu hội nghị khoa học lần IX Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHCM, 2014, 155 -165.
136
12. Nguyễn Văn Chúc, Nguyễn Tuấn Dung, Cao Thị Thanh, Đặng Thị Thu Hiền, Trần Đại Lâm, Phan Ngọc Minh, Tổng hợp và khảo sát tính nhạy chì (II) của màng tổ hợp graphene/poly (1,5-diaminonaphtalen, Tạp chí hóa học,
2015, T.53(3E12), 427-432.
13. Ninh Thị Huyền, Chế tạo và nghiên cứu tính chất từ của vật liệu nano tổ hợp Fe3O4– GO, Luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, Hà Nội. 14. Thu Ha Thi Vu, Thanh Thuy Thi Tran, Hong Ngan Thi Le, Phuong Hoa Thi Nguyen, Ngoc Quynh Bui and Nadine Essayem, A new green approach for the reduction of graphene oxide nanosheets using caffeine, Bull. Mater. Sci.,
2015, 38(3), 1–5.
15. Thu Ha Thi Vu, Thanh Thuy Thi Tran, Hong Ngan Thi Le, Lien Thi Tran, Phuong Hoa Thi Nguyen, Minh Dang Nguyen, Bui Ngoc Quynh, Sythesis of
Pt/rGO catalysts with various reducing agent and their methanol
electrooxidation activity, Materials Research Bulletin, 2016, 73, 197-203. 16. Nguyễn Thị Vương Hoàn, Nguyễn Ngọc Minh, Cao Văn Hoàng, Võ Viễn, Cải thiện khả năng phân tán sắt trên vật liệu graphen oxit, Tạp chí hóa học,
2015, 3e12(53), 360-364.
17. Nguyễn Thị Vương Hoàn, Nguyễn Ngọc Minh, Lê Thị Thanh Thúy, Khả năng hấp phụ chì trong dung dịch nước của vật liệu nano compozit Fe3O4/Graphene oxit tổng hợp theo phương pháp gián tiếp, Phần 2: Nghiên cứu động học hấp phụ, Tạp chí xúc tác hấp phụ, 2015, T4 (N0.3), 91-96. 18. Phan Ngọc Minh, Vật liệu cacbon cấu trúc nano và các ứng dụng tiềm năng,
NXB Khoa học tự nhiên và công nghệ, 2014, Hà Nội.
19. A. K. Geim & K. S. Novoselov, The rise of graphene, Nature Materials,
2007, 6, 183 – 191.
20. Roger Taylor & David R. M. Walton, The chemistry of fullerenes, Nature,
1993, 363, 685 – 693.
21. Xiao-Lin Xie, Yiu-Wing Mai, Xing-Ping Zhou, Dispersion and alignment of carbon nanotubes in polymer matrix: A review, Materials Science and Engineering R: Reports, 2005, 49(4), 89-112.
22. Xuemei Ren, Changlun Chen, Masaaki Nagatsu, Xiangke Wang, Carbon nanotubes as adsorbents in environmental pollution management: A review,
Chemical Engineering Journal, 2011, 170, 395-410.
23. Shamik Chowdhury, Rajasekhar Balasubramanian, Recent advances in the use of graphene-family nano adsorbents for removal of toxic pollutants from
wastewater, Advances in Colloid and Interface Science, 2014, 204, 35–56.
137
24. Andrea C. Ferrari, Francesco Bonaccorso, Vladimir Falko, Konstantin S. Novoselov, Stephan Roche, Peter Boggild, Stefano Borini, Frank Koppens, Vincenzo Palermo, Nicola Pugno, José A. Garrido, Roman Sordan, Alberto
Bianco, Laura Ballerini, Maurizio Prato, Elefteris Lidorikis, Jani Kivioja,
Claudio Marinelli, Tapani Ryhänen, Alberto Morpurgo, Jonathan N.
Coleman, Valeria Nicolosi, Luigi Colombo, Albert Fert, Mar Garcia- Hernandez, Adrian Bachtold, Gregory F. Schneider, Francisco Guinea, Cees Dekker, Matteo Barbone1, Costas Galiotis, Alexander Grigorenko, Gerasimos Konstantatos, Andras Kis, Mikhail Katsnelson, Carlo W. J.
Beenakker, Lieven Vandersypen, Annick Loiseau, Vittorio Morandi, Daniel
Neumaier, Emanuele Treossi, Vittorio Pellegrini, Marco Polini, Alessandro
Tredicucci, Gareth M. Williams, Byung Hee Hong, Jong Hyun Ahn, Jong
Min Kim, Herbert Zirath, Bart J. van Wees, Herre van der Zant, Luigi
Occhipinti, Andrea Di Matteo, Ian A. Kinloch, Thomas Seyller, Etienne
Quesnel, Xinliang Feng, Ken Teo, Nalin Rupesinghe, Pertti Hakonen, Simon
R. T. Neil, Quentin Tannock, Tomas Löfwander, Jari Kinaret, Science and
technology roadmap for graphene, related two-dimensional crystals, and
hybrid systems, Nanoscale, 2015, 7, 4598-4810.
25. Danil W Boukhvalov, Oxidation of a Graphite Surface: The Role of Water, J.
Phys. Chem. C, 2014, 118 (47), 27594–27598.
26. Daniel R. Dreyer, Sungjin Park, Christopher W. Bielawski and Rodney S. Ruoff, The chemistry of graphene oxide, Chem. Soc. Rev., 2010, 39, 228–240 27. Ayrat M, Dimiev, Lawrence B. Alemany, and James M. Tour, Graphene Oxide. Origin of Acidity, Its Instability in Water, and a New Dynamic
Structural Model, ACS Nano, 2013, 7(1), 576–588.
28. Jennifer C. Ma and Dennis A. Dougherty, The cation- π interaction, Chem.
Rev., 1997, 97, 1303– 1324.
29. Wang, H Sun, HM Ang, MO Tadé, Adsorptive remediation of environmental pollutants using novel graphene-based nanomaterials, Chemical Engineering Journal, 2013, 226, 336-347.
30. B.C.Brodie. Surl le poids atomique du graphite. Annales de chimie et de
Physique, 1860, 59, 466-477.
31. L.Staidenmaier. Verfahere zur darstellung der graphitsaure, Berichte der
deutschen chemischen Geselllschaft, 1898, 31(2), 1481-1487.
32. William S.Hummers, Jr, Richard E.Offeman. Preparation of graphitic oxide,
Journal of American Chemical Society, 1958, 80(6), 1339-1339.
138
33. Yanwu Zhu, Shanthi Murali, Meryl D. Stoller, Aruna Velamakanni, Richard D. Piner, Rodney S. Ruoff, Microwave assisted exfoliation and reduction of graphite oxide for ultracapacitors, Carbon, 2010, 48(7), 2118-2122.
34. Suman Thakur, Niranjan Karak, Review article Alternative methods and nature-based reagents for the reduction of graphene oxide: A review,
Carbon, 2015, 94, 224-242.
35. Hongbin Feng, Rui Cheng, Xin Zhao, Xiangfeng Duan & Jinghong Li, A Low-temperature method to produce highly reduced graphene oxide, Nature Communications, 2013, 4, 1539.
36. Suman Thakur, Niranjan Karak, Alternative methods and nature-based reagents for the reduction of graphene oxide: A review, Carbon, 2015, 94,
224–242.
37. Xing Gao, Joonkyung Jang and Shigeru Nagase, Hydrazine and Thermal Reduction of Graphene Oxide: Reaction Mechanisms, Product Structures,
and Reaction Design, J. Phys. Chem. C, 2010, 114(2), 832–842.
38. Muge Acik, Geunsik Lee, Cecilia Mattevi, Adam Pirkle, Robert M. Wallace, Manish Chhowalla, Kyeongjae Cho, and Yves Chabal, The Role of
Oxygen during Thermal Reduction of Graphene Oxide Studied by Infrared
Absorption Spectroscopy, J. Phys. Chem. C., 2011, 115(40), 19761-19781. 39. Artur Ciesielski and Paolo Samori, Graphene via sonication assisted liquid-
phase exfoliation, Chem Soc Rev., 2014, 43, 381–398.
40. Junzhong Wang, Kiran Kumar Manga, Qiaoliang Bao, and Kian Ping Loh, through of Few-Layer Graphene Flakes High-Yield Synthesis
Electrochemical Expansion of Graphite in Propylene Carbonate Electrolyte,
J. Am. Chem. Soc., 2011, 133, 8888–8891.
41. Caterina Soldano, Ather Mahmood, Erik Dujardin, Production, properties
and potential of graphene, Carbon, 2010, 48, 2127–2150.
42. François Perreault, Andreia Fonseca de Faria and Menachem Elimelech, Environmental applications of graphene-based nanomaterials, Chem. Soc. Rev., 2015, 44, 5861-5896.
43. Perry T. Yin, Shreyas Shah, Manish Chhowalla, and Ki-Bum Lee, Design, Synthesis, and Characterization of Graphene−Nanoparticle Hybrid Materials
for Bioapplications, Chem. Rev., 2015, 115, 2483−2531.
44. Shengtao Xing, Zicheng Zhou, Zichuan Ma, Yinsu Wu, Characterization and reactivity of Fe3O4/FeMnOx core/shell nanoparticles for methylene blue
discoloration with H2O2, Appl. Catal. B: Environ., 2011, 107, 386–392.
139
45. Virender K. Sharma, Thomas J. McDonald, Hyunook Kim, and Vijayendra K. Garg, Magnetic graphene–carbon nanotube iron nanocomposites as adsorbents and antibacterial agents for water purification, Advances in
Colloid and Interface Science, 2015, 225, 229–240.
46. Ravi Kant Upadhyay, Navneet Soin, and Susanta Sinha Roy, Role of graphene/metal oxide composites as photocatalysts, adsorbents and
disinfectants in water treatment: a review, RSC Adv., 2014, 4, 3823-3851.
47. Saidur Rahman Chowdhury & Ernest K. Yanful, Arsenic removal from aqueous solutions by adsorption on magnetite nanoparticles, Water Environ. J., 2011, 25, 429–437.
48. Nguyễn Thị Vương Hoàn, Võ Viễn, Nguyễn Thị Anh Thư, Đinh Quang Khiếu, Vũ Anh Tuấn, Các điều kiện ảnh hưởng tổng hợp Fe3O4/GO theo phương pháp gián tiếp, Tạp chí xúc tác hấp phụ, 2015, T4 (N0.3), 126-130. 49. Yalin Qin, Mingce Long, Beihui Tan, Baoxue Zhou, RhB Adsorption performance of magnetic adsorbent Fe3O4/RGO composite and its regeneration through a fenton-like reaction, Nano-Micro Letters, 2014, 6(2),
125-135.
50. Nor Aida Zubir, Christelle Yacou, Julius Motuzas, Xiwang Zhang & João C. Diniz da Costa, Structural and functional investigation of graphene oxide– Fe3O4 nanocomposites for the heterogeneous Fenton-like reaction, Scientific
Reports, 2014, 4, 4594.
51. Xiangke Wang, Efficient removal of arsenate by versatile magnetic
graphene oxide composites, RSC Advances, 2012, 2, 12400–12407.
52. Victor K. LaMer, Robert H. Dinegar, Theory, Production and mechanism of formation of monodispersed hydrosols, J. Am. Chem. Soc, 1950, 72(11),
4847 - 4854.
53. Boris I. Kharisov, Oxana V. Kharissova and Ubaldo Ortiz Méndez, Microwave hydrothermal and solvothermal processing of materials and
compounds, The Development and Application of Microwave Heating, 2012, chapter 5, 107.
54. Xiaodan Huang, Xufeng Zhou, Kun Qian, Dongyuan Zhao, Zhaoping Liu, Chengzhong Yu, A magnetite nanocrystal/graphene composite as high performance anode for lithium-ion batteries, Journal of Alloys and Compounds, 2012, 514, 76- 80.
140
55. Jianfeng Shen, Yizhe Hu, Min Shi, Na Li, Hongwei Ma, and Mingxin Ye, One step synthesis of Graphene oxide-magnetic nanoparticle composite, The
Journal of Physical Chemistry C, 2010, 114(3), 1498–1503.
56. Xiaoshu Lv, Xiaoqin Xue, Guangming Jiang, Donglei Wu, Tiantian Sheng, Hongyi Zhou, Xinhua Xu, Nanoscale Zero-valent iron (nZVI) assembled on magnetic Fe3O4/graphene for Chromium (VI) removal from aqueous solution,
Journal of Colloid and Interface Science, 2014, 417, 51–59.
57. Bo Yang, Zhang Tian, Li Zhang, Yaopeng Guo, Shiqiang Yan, Enhanced heterogeneous fenton degradation of methylene blue by nanoscale zero valent iron (nZVI) assembled on magnetic Fe3O4/reduced graphene oxide, Journal
of Water Process Engineering, 2015, 5, 101–111.
58. Chun Wang, Cheng Feng, Yongjun Gao, Xiaoxing Ma, Qiuhua Wu, Zhi Wang, Preparation of a graphene-based magnetic nanocomposite for the
removal of an organic dye from aqueous solution, Chemical Engineering
Journal, 2011, 173(1), 92-97.
59. Vimlesh Chandra, Jaesung Park, Young Chun, Jung Woo Lee, In-Chul Hwang, and Kwang S. Kim, Water-dispersible magnetite-reduced graphene
oxide composites for arsenic removal, ACS Nano, 2010, 4, 3979–3986.
60. Tonghao Liu, Yanhui Li, Qiuju Du, Jiankun Sun, Yuqin Jiao, Guangming Yang, Zonghua Wang, Yanzhi Xi, Wei Zhang, Kunlin Wang, Hongwei Zhu,
Dehai Wu, Adsorption of methylene blue from aqueous solution by
graphene, Colloids Surf B Biointerfaces., 2012, 90, 197-203.
61. Wenjie Zhang, Chunjiao Zhou, Weichang Zhou, Aihua Lei, Qinglin Zhang, Qiang Wan, Bingsuo Zou, Fast and considerable adsorption of methylene blue
dye onto Graphene oxide, Bull Environ Contam Toxicol, 2011, 87, 86-90. 62. G.K. Ramesha, A. Vijaya Kumara, H.B. Muralidhara, S., Sampath, Graphene and graphene oxide as effective adsorbents toward anionicand cationic dyes,
Journal of Colloid and Interface Science, 2011, 361, 270–277.
63. Wenqin Wu, Yan Yang, Haihui Zhou, Tingting Ye, Zhongyuan Huang, Rui Liu, Yafei Kuang, Highly efficient removal of Cu(II) from aqueous solution
by using graphene oxide, Water Air Soil Pollut., 2013, 224, 1372
64. Rafal Sitko, Edyta Turek, Beata Zawisza, Ewa Malicka, Ewa Talik, Jan Heimann, Anna Gagor, Barbara Feist and Roman Wrzalik, Adsorption of
divalent metal ions from aqueous solutions using graphene oxide, Dalton Trans., 2013, 42, 5682-5689.
141
65. Fuan He, Jintu Fan, Dong Ma, Liming Zhang, Chiwah Leung, Helen Laiwa Chan, The attachment of Fe3O4 nanoparticles to graphene oxide by covalent bonding, Carbon, 2010, 48, 3139–3144.
66. Mancheng Liu, Changlun Chen, Jun Hu, Xilin Wu, and Xiangke Wang, Synthesis of Magnetite/Graphene oxide composite and application for
Cobalt(II) removal, J. Phys. Chem. C, 2011, 115(51), 25234–25240.
67. Jiahua Zhu, Suying Wei, Hongbo Gu, Sowjanya B. Rapole, Qiang Wang, Zhiping Luo, Neel Haldolaarachchige, David P. Young, and Zhanhu Guo, One-pot synthesis of magnetic Graphene nanocomposites decorated with
Core@Double-shell nanoparticles for fast chromium removal, Environ. Sci.
Technol., 2012, 46(2), 977–985.
68. Prasenjit Bhunia, Giyoun Kim, Chul Baik and Hyoyoung Lee, A strategically designed porous iron–iron oxide matrix on graphene for heavy metal
adsorption, Chem Commun., 2012, 48, 9888-9890.
69. Young-Chul Lee, Ji-Won Yang, Self-assembled flower-like TiO2 on exfoliated graphite oxide for heavy metal removal, J. Ind. Eng. Chem.,
2012,18, 1178–1185.
70. Xiaoming Peng, Dengpo Huang, Tareque Odoom-Wubah, Dafang Fu, Jiale Huang, Qingdong Qin, Adsorption of anionic and cationic dyes on
ferromagnetic ordered mesoporous carbon from aqueous solution:
Equilibrium, thermodynamic and kinetics, Journal of Colloid and Interface Science, 2014, 430, 272–282.
71. Nguyễn Hữu Phú, Hoá lý và hoá keo, NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, 2003,
Hà Nội.
72. Hồ Văn Thành, Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng vật liệu rây phân tử để hấp phụ chất hữu cơ độc hại, Luận án Tiến Sĩ Hóa học, Viện Hóa học-Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2009, Hà Nội.
73. Phạm Ngọc Nguyên, Giáo trình Kỹ thuật Phân tích Vật lý, NXB Khoa Học
và Kỹ Thuật, 2004, Hà Nội.
74. A. L. PATTERSON, The Scherrer formula for X-Ray particle size
determination, Physical. Review, 1939, 56, 978 – 982.
75. Nguyễn Đình Triệu, Các phương pháp vật lý ứng dụng trong hoá học, Nhà
xuất bản Đại học Quốc Gia, 1999, Hà Nội.
142
76. Đặng Thị Quỳnh Lan, Nghiên cứu tổng hợp và ứng dụng của một số vật liệu khung kim loại - hữu cơ, Luận án tiến sĩ, Đại học sư phạm - Đại Học Huế, 2015, Huế.
77. V S Reddy Channu1, B. Rambabu, R. Holze, Graphite and Graphen oxide ion batteries, Colloids and Surfaces A: electrodes lithium for
Physicochemical and Engineering Aspects, 2013, 436, 245– 251.
78. H K Jeong, M H Jin, K P So, S C Lim and Y H Lee, Tailoring the characteristics of graphite oxides by different oxidation times. J Phys D Appl Phys., 2009, 42(065418), 1–6.
79. Karthikeyan Krishnamoorthy, Murugan Veerapandian, Kyusik Yun, S.-J. Kim, The chemical and structural analysis of graphene oxide with different
degrees of oxidation, Carbon, 2013, 53, 38–49.
80. MU Shi-Jia, SU Yu-Chang, XIAO Li-Hua, LIU Si-Dong, HU Te, TANG Hong-Bo, X-Ray Diffraction pattern of Graphite oxide, CHIN. PHYS. LETT.,
2013, 30(9), 096101.
81. Ayrat M. Dimiev and James M. Tour, Mechanism of graphene oxide
formation, ACS nano, 2014, 8(3), 3050-3069.
82. Won-Chun Oh, Ming-Liang Chen, Kan Zhang and Feng-Jun Zhang, The effect of thermal and ultrasonic treatment on the formation of Graphene-
oxide nanosheets, Journal of the Korean Physical Society, 2010, 56(4),
1097-1102.
83. Nguyễn Kế Quang, Nghiên cứu tổng hợp graphen oxit, graphen và ứng dụng làm chất hấp phụ màu, Luận văn thạc sỹ, Đại học Bách khoa Hà Nội, 2014,
Hà Nội.
84. Guilin Shao, Yonggen Lu, Fangfang Wu, Changling Yang, Fanlong Zeng, Qilin Wu, Graphen oxide: the mechanisms of oxidation and exfoliation,
Journal of Materials Science, 2012, 47(10), 4400-4409.
85. Hae-MiJu, Sung-Ho Choi, Seung Hun Huh, X-ray Diffraction patterns of thermally-reduced Graphenes, Journal of the Korean Physical Society, 2010, 57(6), 1649-1652.
86. Michael J. McAllister, Je-Luen Li, Douglas H. Adamson, Hannes C. Schniepp, Ahmed A. Abdala, Jun Liu, Margarita Herrera-Alonso, David L. Milius, Roberto Car, Robert K. Prud’homme, and Ilhan A. Aksay, Single sheet functionalized graphene by oxidation and thermal expansion of graphite, Chem Mater, 2007, 19, 4396-4404.
143
87. Han Hu, Zongbin Zhao, Quan Zhou, Yury Gogotsi, Jieshan Qiu, The role of microwave absorption on formation of graphene from graphite oxide, Carbon, 2012, 50, 3267–3273.
88. Juan Vivas-Castro, Gabriela Rueda-Morales, Gerardo Ortega-Cervantez, Jaime Ortiz-Lopez, Luis Moreno-Ruiz, Mayahuel Ortega-Aviles, Synthesis
of carbon nanostructures by microwave irradiation, INTECH Open Access Publisher, 2011, USA.
89. Viet Hung Pham, Tran Viet Cuong, Seung Hyun Hur, Eunsuok Oh, Eui Jung Kim, Eun Woo Shin and Jin Suk Chung, Chemical functionalization of
graphene sheets by solvothermal reduction of a graphene oxide suspension in
N-methyl-2-pyrrolidone, J Mater Chem., 2011, 21, 3371–3377.
90. Sireesh Babu Maddinedi, Badal Kumar Mandal, Raviraj Vankayala, Poliraju Kalluru, Sai Kumar Tammina, H.A. Kiran Kumar, Casein mediated green synthesis and decoration of reduced graphene oxide, Spectrochimica Acta
Part A: Molecular and Biomolecular Spectroscopy, 2014, 126, 227–231.
91. Jieping Sun, Qionglin Liang, Qiang Han, Xiaoqiong Zhang, Mingyu Ding, One-step synthesis of magnetic graphene oxide nanocomposite and its
application in magnetic solid phase extraction of heavy metal ions from
biological samples, Talanta, 2015, 132, 557–563.
92. L.H. Thompson and L.K. Doraiswamy, Sonochemistry: Science and
engineering, Ind. Eng. Chem. Res., 1999, 38, 1215–1249.
93. LEILA SHAHRIARY, ANJALI A. ATHAWALE, Graphene oxide Synthesized by using modified Hummers approach, International Journal of
Renewable Energy and Environmental Engineering, 2014, 2(1), 58-63. 94. WANG Jiande, PENG Tongjiang, XIAN Haiyang, SUN Hongjuan, HOU Yundan, Effect of ultrasonic time for Graphite oxide on the structure and
super capacitor performance of three-dimensional reduced Graphene oxide, Chemical Journal of Chinese Universities, 2015, 36(2), 221-228.
95. Christopher G. Pope, X-Ray Diffraction and the Bragg Equation, J. Chem.
Educ., 1997, 74 (1), 129-131.
96. Sasha Stankovich, Dmitriy A. Dikin, Richard D. Piner, Kevin A. Kohlhaas, Alfred Kleinhammes, Yuanyuan Jia, Yue Wu, SonBinh T. Nguyen, Rodney S. Ruof, Synthesis of graphene-based nanosheets via chemical reduction of exfoliated graphite oxide. Carbon, 2007, 45, 1558-1565.
144
97. Abhijit Ganguly, Surbhi Sharma, Pagona Papakonstantinou, Jeremy Hamilton, Probing the thermal deoxygenation of Graphene oxide using high- resolution in situ X-ray-based spectroscopies, J. Phys. Chem. C, 2011,
115 (34), 17009–17019.
98. Siegfried Eigler, Christoph Dotzer, Andreas Hirsch, Michael Enzelberger, Paul Müller, Formation and decomposition of CO2 intercalated Graphene oxide, Chem. Mater, 2012, 24 (7), 1276–1282.
99. C. Hontoria-Lucas, A. J. Lopez-Peinado, J De D. López-González, M. L. Rojas-Cervantes, R. M. Martin-Aranda, Study of oxygen-containing groups
in a series of graphite oxides: Physical and chemical characterization,
Carbon, 1995, 33(11), 1585-1592.
100. Hồ Thị Tuyết Trinh, Tổng hợp vật liệu hạt nano oxit sắt từ trên nền graphen, Báo cáo toàn văn Kỷ yếu hội nghị khoa học lần IX- Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2015, ISBN: 978-604-82-1375-6, 165-173.
101.
Jing Sun, Shaobing Zhou, Peng Hou, Yuan Yang, Jie Weng, Xiaohong Li and Mingyuan Li, Synthesis and characterization of biocompatible Fe3O4 nanoparticles, Journal of Biomedical Materials Research Part A, 2007,
80(2), 333-341.
102. Tao Ke, Hongjing Dou, Kang Sun, Interfacial coprecipitation to prepare magnetite nanoparticles: Concentration and temperature dependence, Colloids
and Surfaces A: Physicochem. Eng., 2008, 320, 115–122.
103. Mancheng Liu, Tao Wen, Xilin Wu, Changlun Chen, Jun Hu, Jie Lia and Xiangke Wang, Synthesis of porous Fe3O4 hollow microspheres/graphene oxide composite for Cr(VI) removal, Dalton Transactions, 2013, 42(41),
14710-14717.
104.
Jian Lu, Xiuling Jiao, Dairong Chen, and Wei Li, Solvothermal Synthesis and Characterization of Fe3O4 and Fe2O3 nanoplates, J. Phys. Chem. C, 2009, 113, 4012–4017.
105. K. T. Wu, P. C. Kuo, Y. D. Yao, E. H. Tsai, Magnetic and optical properties of Fe3O4 nanoparticle ferrofluids prepared by coprecipitation
technique, IEEE Transactions on Magnetics, 2001, 37, 2651-2653.
106. G. Gnanaprakash, S. Mahadevan, T. Jayakumar, P. Kalyanasundaram, John Philip, Baldev Raj, Effect of initial pH and temperature of iron salt solutions on formation of magnetite nanoparticles, Materials Chemistry and Physics, 2007, 103, 168–175.
145
107. Holger Borchert, Elena V. Shevchenko, Aymeric Robert, Ivo Mekis, Andreas Kornowski, Gerhard Grubel and Horst Weller, Determination of nanocrystal sizes: A Comparison of TEM, SAXS, and XRD studies of highly monodisperse CoPt3 particles, Langmuir, 2005, 21, 1931-1936.
108. Yvonne Dieckmann, Helmut Colfen, Heinrich Hofmann, and Alke Petri- Fink, Particle size distribution measurements of manganese-doped ZnS nanoparticles, Anal. Chem., 2009, 81, 3889–3895.
109. ZHAO Yuanbi, QIU Zumin and HUANG Jiaying, Preparation and Analysis of Fe3O4 magnetic nanoparticles used as targeted-drug carriers, Chinese Journal of Chemical Engineering, 2008, 16(3), 451-455.
110. B.D. Cullity, C. D. Graham, Introduction to magnetic materials, John
Wiley, 2008, New Jersey.
111. Juan Guoa, Ruiyu Wang, Weng Weei Tjiu, Jisheng Pan, Tianxi Liu,
Synthesis of Fe nanoparticles@graphene composites for environmental
applications, Journal of Hazardous Materials, 2012, 225– 226, 63– 73. 112. Hongkun He and Chao Gao, Supraparamagnetic, conductive, and processable multifunctional Graphene nanosheets coated with high density
Fe3O4 nanoparticles, American Chemical Society, 2010, 2(11), 3201–3210.
113. Sushil Raj Kanel, Bruce Manning, Laurent Charlet and HeeChul Choi, Removal of arsenic(III) from groundwater by nanoscale zero-valent iron,
Environmental Science and Technology, 2005, 39 (5), 1291–1298.
114. Fenglin Liu, JingHe Yang, Jiane Zuo, Ding Ma, Lili Gan, Bangmi Xie, Pei Wang, Bo Yang, Graphene-supported nanoscale zero-valent iron:
removal of phosphorus from aqueous solution and mechanistic study,
Journal of Environmental Sciences, 2014, 26(8), 1751-1762.
115. Chunjiao Zhou, Wenjie Zhang, Huixian Wang, Huiyong Li, Jun Zhou, Shaohua Wang, Jinyan Liu, Jing Luo, Bingsuo Zou, Jianda Zhou, Preparation of Fe3O4 - embedded Graphene oxide for removal of methylene blue, Arabian Journal for Science and Engineering, 2014, 39(9), 6679-6685. 116. Rajasekhar Balasubramanian and Shamik Chowdhury, Recent advances and progress in the development of graphene-based adsorbents for CO2 capture, J. Mater. Chem. A, 2015, 3, 21968-21989.
117.
Jeongho Park, Tyson Back, William C. Mitchel, Steve S. Kim, Said Elhamri, John Boeckl, Steven B. Fairchild, Rajesh Naik, and Andrey A.
146
Voevodin, Approach to multifunctional device platform with epitaxial
graphene on transition metal oxide, Sci Rep., 2015, 5, 14374.
118. Carla Bittencourt, Adam P Hitchock, Xiaoxing Ke, Gustaaf Van Tendeloo, Chris P Ewels, and Peter Guttmann, X-ray absorption
spectroscopy by full-field X-ray microscopy of a thin graphite flake: Imaging
and electronic structure via the carbon K-edge, Beilstein J Nanotechnol., 2012, 3, 345–350.
119. Conglai Long, Lili Jiang, Tong Wei, Jun Yan and Zhuangjun Fan, High- performance asymmetric supercapacitors with lithium intercalation reaction
using metal oxide-based composites as electrode materials, J. Mater. Chem.
A, 2014, 2, 16678-16686.
120. Sheng Guo, Gaoke Zhang, Yadan Guo, Jimmy C. Yu, Graphene oxide– Fe2O3 hybrid material as highly efficient heterogeneous catalyst for degradation of organic contaminants, Carbon, 2013, 60, 437-444.
121.
characterization of synthesis and situ Jie Feng, Jian Mao, Xiaogang Wen, Mingjing Tu, Ultrasonic assisted in superparamagnetic Fe3O4
nanoparticles, Journal of Alloys and Compounds, 2011, 509, 9093–9097. 122. H.El Ghandoor, H. M. Zidan, Mostafa M.H. Khalil and M. I. M. Ismail, Synthesis and some physical properties of magnetite (Fe3O4) nanoparticles, Int. J. Electrochem. Sci., 2012, 7, 5734 – 5745.
123. R. H. Kodama and A. E. Berkowitz, Atomic-scale magnetic modeling of
oxide nanoparticles, Physical Review B, 1999, 59, 6321-6356.
124. A. Millan, A. Urtizberea, F. Palacio, N.J.O. Silva, V.S. Amaral, E. Snoeck, and V. Serin, Surface effects in maghemite nanoparticles, Journal of
Magnetism and Magnetic Materials, 2007, 312, L5-L9.
125. Tuba Sismanoglu, Yasemin Kismir, Selcan Karakus, Single and binary adsorption of reactive dyes from aqueous solutions onto clinoptilolite,
Journal of Hazardous Materials, 2010, 184, 164–169.
126. Yanhui Li, Qiuju Du, Tonghao Liu, Xianjia Peng, Junjie Wang, Jiankun Sun, Yonghao Wang, Shaoling Wu, Zonghua Wang, Yanzhi Xia, Linhua Xi,
Comparative study of methylene blue dye adsorption onto activated carbon, graphene oxide, and carbon nanotubes, Chem. Eng. Res. Des., 2013, 91,
361–368.
127. Xin-jiang Hu, Yun-guo Liu, Guang-ming Zeng, Hui Wang, Shao-hong You, Xi Hu, Xiao-fei Tan, An-wei Chen, Fang-ying Guo, Effects of
inorganic electrolyte anions on enrichment of Cu(II) ions with aminated
147
Fe3O4/graphene oxide: Cu(II) speciation prediction and surface charge
measurement, Chemosphere, 2015, 127, 35-41.
128. Bùi Minh Quý, Nghiên cứu tổng hợp compozit PANi và các phụ phẩm nông nghiệp để xử lý các kim loại nặng Pb(II), Cr(VI) và Cd(II), Luận án
tiến sĩ, Viện Hóa học, 2015, Hà Nội.
129.
Jin Hur, Jaewon Shin, Jeseung Yoo, and Young-Soo Seo, Competitive adsorption of metals onto magnetic Graphene oxide: Comparison with other carbonaceous adsorbents, The Scientific World Journal, 2015, 2015, 1-11. 130. Yueming Ren, Ni Yan, Jing Feng, Jun Ma, Qing Wen, Nan Li, Qing Dong, Adsorption mechanism of copper and lead ions onto graphene nanosheet/δ-
MnO2, Materials Chemistry and Physics, 2012, 136(2-3), 538–544.
131. Yilong Wang, Song Liang, Bingdi Chen, Fangfang Guo, Shuili Yu, Yulin Tang, Synergistic removal of Pb(II), Cd(II) and humic acid by Fe3O4@mesoporous silica-graphene oxide composites, PLoS One, 2013,
8(6), e65634.
132. Tingshun Jiang, Lu Yan, Lei Zhang, Yingying Li, Qian Zhao and Hengbo Yin. Fabrication of a novel graphene oxide/β-FeOOH composite and
its adsorption behavior for copper ions from aqueous solution, Dalton
Transactions, 2015, 44, 10448-10456.
133. Jie Li, Shouwei Zhang, Changlun Chen, Guixia Zhao, Xin Yang, Jiaxing
Li, and Xiangke Wang, Removal of Cu(II) and Fulvic acid by Graphene oxide nanosheets decorated with Fe3O4 nanoparticles, ACS Appl. Mater. Interfaces, 2012, 4, 4991−5000.
134. Mohammed Yusuf, F. M. Elfghi, Shabi Abbas Zaidi, E. C. Abdullah, Moonis Ali Khan, Applications of graphene and its derivatives as an
adsorbent for heavy metals and dyes removal: A systematic and
comprehensive overview, RSC Advances, 2015, 5, 50392-50420.
135. Bùi Minh Quý, Vũ Thị Thái Hà, Vũ Quang Tùng, Nguyễn Như Lâm, Đào Việt Hùng, Nghiên cứu khả năng hấp phụ Cd(II) của compozit polyanilin – vỏ lạc, Tạp chí KH&CN – Đại học Thái Nguyên, 2012, 96(8),
85-89.
136. Xiaoshu Lv, Jiang Xu, Guangming Jiang, Jie Tang, Xinhua Xu, Highly active nanoscale zero-valent iron (nZVI)–Fe3O4 nanocomposites for the removal of chromium(VI) from aqueous solutions, Journal of Colloid and Interface Science, 2012, 369, 460–469.
148
137. Kai Zhang, Vineet Dwivedi, Chunyan Chi, Jishan Wu, Graphene oxide/ferric hydroxide composites for efficient arsenate removal from drinking water, J. Hazard. Mater., 2010, 182, 162–168.
138. Tuan. A. Vu, Giang. H. Le, Canh. D. Dao, Lan. Q. Dang, Kien. T. Nguyen, Quang. K. Nguyen, Phuong. T. Dang, Hoa. T. K. Tran, Quang. T.
Duong, Tuyen. V. Nguyen and Gun. D. Lee, Arsenic removal from aqueous solutions by adsorption using novel MIL-53(Fe) as a highly efficient adsorbent, RSC Adv., 2015, 5, 5261-5268.
139. Lưu Minh Đại, Nguyễn Thị Tố Loan, Võ Quang Mai, Chế tạo vật liệu các thạch anh phủ nano oxit β-MnO2 và γ-Fe2O3 để hấp phụ asen, Tạp chí hóa học, 2011, T49(3A), 6-10.
140. Bang-Jing Zhu, Xin-Yao Yu, Yong Jia, Fu-Min Peng, Bai Sun, Mei-Yun Zhang, Tao Luo, Jin-Huai Liu, and Xing-Jiu Huang, Iron and 1,3,5-
Benzenetricarboxylic metal−organic coordination polymers prepared by
solvothermal method and their application in efficient As(V) removal from
aqueous solutions, J. Phys. Chem. C, 2012, 116, 8601−8607.
141. Anastasios I. Zouboulis, Ioannis A. Katsoyiannis, Recent advances in the bioremediation of arsenic contaminated ground waters, Environment
International, 2005, 31, 213-219.
142. Wenjing Zhang, Xinhao Shi, Yixuan Zhang, Wei Gu, Bingyu Li and Yuezhong Xian, Synthesis of water-soluble magnetic graphene
nanocomposites for recyclable removal of heavy metalion, J. Mater. Chem.
A, 2013, 1,1745-1753.
143. Lulu Fan, Chuannan Luo, Min Sun, Xiangjun Li, Huamin Qiu, Highly ions by water-dispersible magnetic Surfaces B: selective adsorption of oxide chitosan/graphene lead composites, Colloids and
Biointerfaces, 2013, 103, 523-529.
149
PHỤ LỤC
Phổ XRD của mẫu GOVS
Phổ XRD của mẫu graphit oxit
150
Phổ XRD của mẫu GOSA
Phổ XRD của mẫu rGO
151
Điện thế bề mặt GOSA
Điện thế bề mặt của GOVS
152
Kết quả chụp BET của mẫu GOVS
153
Kết quả chụp BET của mẫu GOSA
154
Kết quả chụp BET mẫu rGO
155
Kết quả chụp BET mẫu Fe -Fe3O4-GOVS
156
Kết quả chụp BET mẫu Fe3O4-GOVS
157
Phổ XPS của mẫu Fe3O4- GOVS
Phổ FTIR của mẫu Fe-Fe3O4-GOVS
158
Phổ FTIR của mẫu Fe3O4-GOVS
159