BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Khoa học Cây trồng
Mã số: 62620110
NGUYỄN VĂN BO
NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP TƯỚI NƯỚC MẶN
KẾT HỢP BÓN ĐẠM VÀ HỖ TRỢ DINH DƯỠNG
ĐỂ CẢI THIỆN SINH TRƯỞNG CÂY LÚA
TRÊN ĐẤT NHIỄM MẶN
Cần Thơ - 2018
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI
HỌC CẦN THƠ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS LÊ VĂN BÉ
Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến cấp
trường
Họp tại:……………………………………, Trường Đại học Cần
Thơ
Vào lúc ….. giờ ….. ngày ….. tháng ….. năm …..
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
1. Trung tâm Học liệu, Trường Đại học Cần Thơ
2. Thư viện Quốc gia Việt Nam
DANH MỤC LIỆT KÊ CÁC BÀI BÁO ĐÃ CÔNG BỐ
Các bài báo đăng trên tạp chí:
1. Nguyễn Văn Bo, Cao Nguyễn Nguyên Khanh, Văn Bé, Nguyễn
Quốc Khương và Ngô Ngọc Hưng (2014), Ảnh hưởng của KNO
3
,
brassinosteroid và CaO lên sinh trưởng của cây lúa dưới điều kiện
tưới mặn, Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Nhà xuất
bản Đại học Cần Thơ. Số chuyên đề: Nông nghiệp, tập 3/2014,
trang 15 - 22.
2. Nguyễn Văn Bo, Kiều Tn Nhựt, n Bé và Ngô Ngọc Hưng
(2016), nh hưởng của c giai đoạn tưới mặn đến sinh trưởng
năng suất của 4 giống lúa trong điều kiện nhà lưới, Tạp chí
khoa học Trường Đại học Cần Thơ. N xuất bn Đại hc Cần
Thơ. Số chun đề: Nông nghiệp, tập 4/2016, trang 54 - 60.
1
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Xâm nhập mặn diễn biến ngày càng phức tạp tại các tỉnh ven biển Đồng
bằng sông Cửu Long bao gồm: Trà Vinh, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Mau,... Tnăm 2013 - 2017, độ mặn trên các cửa sông
xu hướng gia tăng và xâm nhập ngày càng sâu vào nội đồng. Cụ thể, năm
2013-2016 độ mặn trung bình dao động từ 14,4 - 20,5‰ trên các cửa
sông, năm 2017 độ mặn 16,2‰ (Trung tâm Ktương Thủy văn Trung
ương, 2016).
Diện tích lúa bị thiệt hại do xâm nhập mặn cũng tăng lên qua các năm.
Vụ Mùa và Thu Đông năm 2015, có 90.000 ha lúa bị ảnh hưởng đến năng
suất, trong đó thiệt hại nặng khoảng 50.000 ha (Kiên Giang 34.000 ha, Sóc
Trăng 6.300 ha, Bạc Liêu 5.800 ha,…). Vụ Đông Xuân 2015 - 2016, có
139.000 ha lúa bị ảnh hưởng nặng đến năng suất (Ban chỉ đạo Trung ương
về Phòng chống thiên tai, 2016).
Các tỉnh ven biển diện tích lúa vụ Hè Thu thường phụ thuộc nước trời
vào đầu vụ. Gieo sạ vào khoảng cuối tháng 4 đến đầu tháng 5 dương lịch
thời điểm lượng mưa còn thấp. Cây lúa thường thiếu nước vào giai đoạn mạ
đẻ nhánh. Để cứu lúa, nông dân phải sử dụng nước lợ trong các kênh để
tưới. những năm độ mặn trong nước kênh không cao (< 2‰) thì ít ảnh
hưởng đến sinh trưởng phát triển cây lúa. Ngược lại, năm 2016 do xâm
nhập mặn nặng và sâu nên độ mặn trong nước kênh cao thì cây lúa bị chết.
Theo Tanwar (2003), cây lúa khả ng chịu được độ mặn với EC bằng
3,0 mS/cm trong đất 2,0 mS/cm của nước tưới. n nữa, cây lúa khả
năng chịu mặn phụ thuộc vào giai đoạn sinh trưởng. Giai đoạn mạ, đẻ nhánh
ợng khối sơ khởi thì rất mn cảm (Lauchli and Grattan, 2007). Ngược lại,
giai đoạn trng và chín thì cây lúa ít mn cảm n (Khan et al., 1997).
Một số nghiên cứu chứng tỏ sử dụng các chất như: CaO, KNO
3
,
brassinolide, n-triacontanol,… giúp tăng cường nh chịu mặn, cải thiện tốt
sinh trưởng cây lúa trong điều kiện bất lợi. Bón vôi chứa lượng Ca
2+
cao
giúp cải thiện hàm ợng Na
+
trao đổi trên đất nhiễm mặn, Ca
2+
thể
thay thế Na
+
trao đổi trên phức hệ hấp thu (Makoi and Verplancke, 2010).
Mặt khác, cung cấp Ca
2+
giúp giảm nhẹ ảnh hưởng bất lợi của Na
+
trên cây
trồng (Aslam et al., 2000).
Theo Herman Lips et al. (1990), sử dụng KNO
3
nồng độ 600 ppm đã
ngăn cản sự tích lũy Cl
-
trong thân. Cây lúa được cung cấp KNO
3
tích lũy Cl
-
ít hơn so với cây không xử KNO
3
trong điều kiện mặn cao. Sự hiện diện
của KNO
3
ngăn cản hiệu quả sự hấp thu Na
+
vào trong cây. Bên cạnh KNO
3
2
thì brassinolide cũng vai trò quan trọng đối với khả năng chịu mặn.
Anuradha and Rao (2003), cho rằng brassinolide loại bỏ ảnh hưởng của mặn
lên các sắc tố kích thích sinh trưởng, thúc đẩy tích lũy proline trong cây
(Tania Das and Shukla, 2011). Ngoài ra, phun n-Triacontanol lúc tượng khối
khởi cải thiện hiệu quả chiều cao cây, nồng độ đạm (N) trong cờ ở giai
đoạn trổ vào chắc dẫn đến ng năng suất hạt (Pandey et al., 2001). Sử
dụng n-triacontanol ở các liều lượng khác nhau đều làm tăng chiều dài bông,
số hạt chắc trên bông và năng suất hạt (Pal et al., 2009).
Đất nhiễm mặn ức chế sự phát triển của cây lúa do Na
+
Cl
-
cao m
giảm sự hấp thu NO
3-
(Greenway and Munns, 1980). Do đó, bón đạm N với
liều lượng hợp ý nghĩa quan trọng đối với cây lúa điều kiện mặn.
Theo Awan et al. (2003), năng suất của giống lúa PB-95 đạt tối đa khi sử
dụng 120 kg N/ha trên đất mặn ECe 4,72 mS/cm, sử dụng phân N liều
lượng 137,5 kg/ha đạt được năng suất tối đa trên đất mặn ECe 11,4
mS/cm (Mehdi et al., 2008). Để giúp cho cây lúa giảm thiệt hại do tưới nước
mặn, đề tài “Nghiên cứu biện pháp tưới nước mặn kết hợp bón đạm
hỗ trợ dinh dưỡng để cải thiện sinh trưởng cây lúa trên đất nhiễm mặn”
được thực hiện.
1.2 Mục tiêu của luận án
(i) Xác định giai đoạn cây lúa mẫn cảm nhất khi bị nhiễm mặn;
(ii) Khảo sát ảnh hưởng của dinh dưỡng bổ sung cải thiện sinh trưởng cây
lúa khi tưới mặn.
1.3 Những đóng góp mới của luận án
Tưới nước nhiễm mặn cho cây lúa trong thực tế sản xuất lúa hiện nay
việc làm bắt buộc nhưng không mong muốn.
Giai đoạn 10-20 NSKS là giai đoạn cây lúa mẫn cảm với mặn nhiều nhất.
Đây giai đoạn lúa đẻ nhánh do đó mặn làm giảm số chồi, khả năng phục
hồi của cây lúa chậm dẫn đến năng suất thấp.
Trước khi tưới mặn cung cấp các chất CaO, KNO
3
, n-Triacontanol,
Brassinolide và Kumate kali để năng suất lúa không giảm hoặc giảm ít. Đây
là tính mới và sáng tạo của đề tài.
1.4 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa khoa học:
Khi tưới nước mặn vào mà không can thiệp dinh dưỡng thì sinh trưởng và
năng suất lúa giảm. Sử dụng các chất dinh dưỡng thì năng suất lúa cao hơn
từ 43,7-62,2% trong điều kiện nhà lưới, đối với điều kiện ngoài đồng năng
suất lúa cao hơn từ 17,8-26,1% so với đối chứng. Bổ sung các chất CaO,