
3
cộm vướng, viêm mạn tính và giảm thị lực do mộng xâm lấn vào giác mạc
gây loạn thị hoặc khi mộng bò qua lỗ đồng tử che trục thị giác.
1.1.2. Dịch tễ học, cơ chế sinh bệnh
Tỷ lệ mắc mộng mắt trong quần thể khác nhau theo từng vùng địa lý,
tập trung nhiều ở vùng có khí hậu nóng, khô và có nhiều tia UV. Tỉ lệ mắc
mộng chung trong quần thể từ 10,2% đến 12%. Tại Việt Nam (1996) mộng
mắt chiếm tỉ lệ 5,24%, trong đó tập trung nhiều ở vùng biển miền Trung.
Mộng mắt là bệnh tăng sinh tổ chức hơn là bệnh thoái hóa. Bức xạ tia
UVB là tác nhân cơ bản nhất gây tổn thương tế bào gốc vùng rìa và nguyên
bào sợi làm tăng sinh tế bào, xơ mạch và thoái hóa giãn lỏng tổ chức hình
thành mộng. Tia UVB cũng gây suy yếu tế bào Langerhans ở vùng rìa làm
cho tế bào kết mạc xâm lấn vào giác mạc sinh ra mộng.
Mộng tái phát thường xuất hiện sau phẫu thuật 1 đến 2 tháng. Bệnh
khô mắt, bệnh nhân trẻ là yếu tố nguy cơ chính của mộng tái phát. Hình thái
mộng máu và kích thước mộng là yếu tố đang còn tranh cãi. Tình trạng
viêm của bề mặt nhãn cầu đóng vai trò quan trọng trong hình thành mộng
tái phát. Thêm nữa cắt hạn chế tổ chức mộng, kích thước mảnh ghép thiếu,
mảnh ghép còn tổ chức tenon, khâu chỉ nhiều và mảnh ghép xê dịch cũng là
các yếu tố gây mộng tái phát.
1.1.3. Cấu tạo và phân loại mộng mắt
Mộng mắt thường ở góc trong (93%), có hình nón, đỉnh hướng về
trung tâm giác mạc và thân mộng tỏa ra ở kết mạc vùng rìa. Biến đổi vi thể
của mộng là thoái hóa giãn lỏng lớp biểu mô và nhu mô, đứt đoạn màng
Bowman, tăng sinh tế bào và xâm lấn tế bào mộng ở bề mặt giác mạc.
Phân loại theo độ dài đầu mộng bò vào giác mạc
Độ 1: đầu mộng xâm lấn vào giác mạc dưới < 2mm.
Độ 2: đầu mộng xâm lấn vào giác mạc từ 2 - 4mmm.
Độ 3: đầu mộng xâm lấn vào giác mạc trên > 4mm (qua bờ đồng tử).
1.1.4. Phương pháp điều trị
Mục đích chính của phẫu thuật là làm sạch tổ chức mộng ở bề mặt
nhãn cầu, hạn chế tái phát và mang lại thẩm mĩ cho người bệnh.
Cắt mộng ghép kết mạc tự thân
Năm 1985, tác giả Kenyon đánh dấu mốc quan trọng bằng công bố
phương pháp phẫu thuật cắt mộng ghép kết mạc tự thân. Nghiên cứu thực
hiện trên 57 mắt trong đó 80% là mộng tái phát. Tỷ lệ tái phát sau 2 năm là
5,3%. Phương pháp này lúc đầu không áp dụng nhiều cho mộng nguyên
phát vì phẫu thuật lâu và phức tạp nhưng sau đó trở thành phương pháp tối
ưu do tỷ lệ tái phát thấp và không có biến chứng nguy hiểm. Cơ sở lý luận
của phương pháp phẫu thuật cắt mộng ghép kết mạc tự thân là: lấy mảnh
kết mạc lành thay thế kết mạc vùng mộng thoái hóa, làm hàng rào chặn ở