1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoát vị bẹn (TVB) là hiện tượng các tạng trong ổ bụng chui qua ống bẹn
hoặc một điểm yếu của thành bụng vùng bẹn, trên dây chằng bẹn ra dưới da hay
xuống bìu. Đây là tình trạng bệnh lý phổ biến xảy ra ở khoảng 1 - 5% dân số nói
chung, trong đó 15 - 20% là thoát vị bẹn hai bên [1], [2]. Hàng năm tại Mỹ có hơn
800.000 ca phẫu thuật TVB được thực hiện, khoảng 15% trường hợp trong đó là
TVB hai bên [2]. Tại Việt Nam, các nghiên cứu gần đây ghi nhận tỷ lệ TVB hai bên
từ 4,4% - 17,9% [3], [4]
Phẫu thuật nội soi (PTNS) điều trị thoát vị bẹn lần đầu được báo cáo bởi Ger
năm 1982 [5]. Từ đó, điều trị TVB đã trải qua những tiến bộ mang tính cách mạng
về kỹ thuật. Trong số các phương pháp phẫu thuật thoát vị bẹn nội soi, phương pháp
tiếp cận hoàn toàn ngoài phúc mạc (TEP) và xuyên thành bụng ngoài phúc mạc
(TAPP) là những lựa chọn thay thế được chấp nhận rộng rãi với những điểm vượt
trội hơn mổ mở như giảm đau, giảm tai biến, biến chứng sau mổ, thời gian nằm viện
ngắn, sớm trở lại sinh hoạt bình thường [6], [7].
Bên cạnh những cải tiến về kỹ thuật, sự ra đời và phát triển của lưới nhân tạo
cũng tạo ra những thay đổi mang tính cách mạng trong điều trị thoát vị bẹn. Năm
1955, Francis Usher lần đầu dùng tấm lưới nhân tạo phẳng bằng polypropylene để
điều trị thoát vị bẹn và thoát vị vết mổ. Kể từ đó tấm lưới nhân tạo được ứng dụng
rộng rãi giúp làm giảm tỷ lệ thoát vị bẹn tái phát [8]. Tuy nhiên, một trong những
nhược điểm của tấm lưới nhân tạo phẳng là dễ bị cuộn, di chuyển khỏi vị trí đặt
hoặc tăng tình trạng đau kéo dài sau mổ từ 4 - 6% do phải sử dụng dụng cụ cố định
hoặc khâu [9]. Để hạn chế một cách tối đa tình trạng trên, năm 1999, tác giả W. Bell
(Mỹ) [10] là một trong những người đầu tiên sử dụng tấm lưới nhân tạo 3D với hình
dáng uốn đồng nhất theo cấu trúc giải phẫu của vùng bẹn trong phẫu thuật nội soi
điều trị thoát vị bẹn. Kể từ đó nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy việc sử dụng
tấm lưới nhân tạo 3D trong điều trị bệnh lý TVB là an toàn, hiệu quả cũng như tỷ lệ
đau sau mổ thấp và tỉ lệ tái phát thấp từ 0 – 0,45% [10], [11].
2
Đối với các trường hợp thoát vị bẹn hai bên, cho đến nay vẫn còn nhiều tranh
luận trong vấn đề lựa chọn chiến thuật điều trị (sửa chữa đồng thời hay từng bên
một), phương pháp tiếp cận (mổ mở, phẫu thuật nội soi TEP hay TAPP), lựa chọn
và cố định lưới nhân tạo,… [2], [11], [12], [13]. Nghiên cứu của Markus Gass và
cộng sự [2] trên 6.505 bệnh nhân thoát vị bẹn một bên và 3.048 trường hợp thoát vị
bẹn hai bên được điều trị bằng phẫu thuật nội soi TEP cho thấy không có sự khác
biệt đáng kể nào về thời gian nằm viện sau mổ và tỷ lệ chuyển mổ, nhưng giảm chi
phí và số ngày điều trị hơn so với thực hiện phẫu thuật hai lần [2]. Vì vậy, đối với
thoát vị bẹn hai bên, phẫu thuật nội soi đặt lưới hoàn toàn ngoài phúc mạc (TEP) là
lựa chọn điều trị an toàn, khả thi, có thể được thực hiện với kết quả tương tự phẫu
thuật thoát vị một bên [2], [14].
Tại Việt Nam, phẫu thuật nội soi đặt lưới nhân tạo hoàn toàn ngoài phúc mạc
điều trị thoát vị bẹn đã được triển khai ở hầu hết các trung tâm phẫu thuật cho kết
quả tốt. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu nào phân tích sâu về đặc điểm kỹ thuật
cũng như kết quả điều trị thoát vị bẹn hai bên ở người lớn bằng phẫu thuật nội soi
sử dụng tấm lưới nhân tạo 3D ngoài phúc mạc. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi sử dụng tấm lưới nhân tạo 3D ngoài
phúc mạc điều trị thoát vị bẹn hai bên người lớn” với hai mục tiêu:
1. Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý của nhóm bệnh nhân thoát vị bên ở người
lớn được điều trị bằng phẫu thuật nội soi ngoài phúc mạc có sử dụng tấm lưới nhân
tạo 3D tại Bệnh viện Thanh Nhàn từ tháng 1/2017 đến tháng 2020.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi đặt tấm lưới nhân tạo 3D điều trị
thoát vị bẹn 2 bên ở người lớn.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu, cơ chế bệnh sinh ứng dụng trong phẫu thuật TVB
Bẹn là một vùng được giới hạn bởi xương mu và dây chằng lược ở phía trong,
bó mạch thượng vị dưới và phần dày lên của mạc ngang tại lỗ bẹn sâu ở phía ngoài.
Phía trước là bao đùi, dải chậu mu và dây chằng bẹn ở phía dưới. Cung của cơ
ngang bụng (cung Douglas) ở phía trên. Mạc ngang ở phía sau là thành phần chủ
yếu tạo nên thành sau ống bẹn [15], [16]
1.1.1. Giải phẫu ống bẹn
Ống bẹn là một khe nằm giữa các lớp cân cơ của thành bụng vùng bẹn theo
hướng chếch từ trên xuống dưới, vào trong và ra trước, đi từ lỗ bẹn sâu tới lỗ bẹn
nông, dài khoảng 4 – 6 cm. Ở nam, ống bẹn là đường đi của tinh hoàn từ ổ bụng
xuống bìu trong thời kỳ phôi thai. Ở nữ, trong ống bẹn có dây chằng tròn. Ống bẹn
được cấu tạo bởi 4 thành: thành trước, thành sau, thành trên, thành dưới và hai đầu
là lỗ bẹn sâu và lỗ bẹn nông [16]
Hình 1.1. Ống bẹn cắt dọc
(Nguồn: Jones D.B. và cs. (2013) [17])
4
Hình 1.2. Thiết đồ cắt ngang ống bẹn và các thành phần liên quan
(Nguồn: Drake R.L. và cs. (2015) [16])
- Thành trước: Phần lớn thành trước ống bẹn ở phía trong được tạo nên bởi cân
cơ chéo bụng ngoài và một phần nhỏ phía ngoài là cân cơ chéo bụng trong ở chỗ cơ
này bám vào dây chằng bẹn [15].
- Thành sau: Được tạo nên chủ yếu bởi mạc ngang, một ít thớ của cân cơ ngang
bụng, mô ngoài phúc mạc và phúc mạc [15], vì thế thành sau ống bẹn rất yếu, do đó
các thoát vị thường xảy ra ở vùng này, trong đó chủ yếu là TVB trực tiếp.
+ Mạc ngang: phía trên trải rộng phủ thành sau ống bẹn đến phía sau cung
của cơ ngang bụng. Phía trong mạc ngang lại hòa lẫn với bao cơ thẳng bụng và bao
cơ ngang bụng hoặc với gân cơ kết hợp. Như vậy, mạc ngang tạo nên thành sau ống
bẹn, sự chống đỡ của thành sau ống bẹn tùy thuộc vào sự trải rộng khác nhau của
mạc ngang khi cung của cơ ngang bụng chạy xuống thấp bám vào xương mu và
đường chậu lược. Mạc ngang thường có độ dày thay đổi, phủ kín vùng trống tạo bởi
cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng, ngang mức thành sau ống bẹn, kéo căng giữa
bờ dưới cơ ngang bụng phía trên, dây chằng Cooper và bao mạch đùi phía dưới và
5
bao cơ thẳng bụng ở phía trong. Mạc ngang kéo dài mặt sau cơ thẳng bụng phía
dưới đường cung dưới dạng lá mô tế bào lỏng lẻo. Bó mạch thượng vị dưới chạy
giữa hai lá của mạc ngang. Do vậy khi phẫu tích thành ống bẹn trong phẫu thuật sửa
chữa TVB, đặc biệt là phẫu thuật TEP cần chú ý tránh làm tổn thương ĐM này. Có
nhiều quan điểm khác nhau trong việc mô tả các cấu trúc trợ lực cho mạc ngang đó
là các dây chằng hoặc nằm cùng lớp với mạc ngang hoặc ở các lớp kế cận dính vào
mạc ngang để làm phần mạc ngang ở thành sau ống bẹn thêm vững chắc. Tuy vậy,
tác dụng của các dây chằng này không đáng kể chỉ đề cập đến một số cấu trúc được
nhiều người chấp nhận, các cấu trúc tăng cường của mạc ngang gồm có hai cấu trúc
dọc và một cấu trúc ngang, đó là các cấu trúc dọc là dây chằng gian hố ở bên ngoài
và dây chằng Henlé bên trong.
+ Dây chằng gian hố là chỗ dày lên của mạc ngang ở bờ trong lỗ bẹn sâu, phía trên
dính vào mặt sau cơ ngang bụng, phía dưới dính vào dây chằng bẹn.
+ Dây chằng Henlé là sự mở rộng của cân cơ thẳng bụng để bám lên xương mu.
+ Dải chậu mu là một dải cân từ cung chậu lược đến ngành trên xương mu. Phía
ngoài bám vào xương chậu, mạc cơ thắt lưng chậu và liên tiếp ra ngoài gai chậu
trước trên, từ ngoài đi vào trong tạo nên bờ dưới của lỗ bẹn sâu, đi qua mạch đùi tạo
nên bờ trước của bao mạch đùi, tận cùng ở trong hòa lẫn vào bao cơ thẳng bụng và
dây chằng lược
+ Tam giác bẹn hay tam giác Hesselbach: ở thành sau ống bẹn và coi đó là chỗ yếu
nhất của thành bụng bẹn. Tam giác này được giới hạn bởi phía trên ngoài là bó
mạch thượng vị dưới, phía dưới là dây chằng bẹn và phía trong là bờ ngoài bao cơ
thẳng bụng. Còn dây chằng bẹn đã chia đôi khoảng trống này, khoảng yếu này đã
được Fruchaud mô tả gọi tên là lỗ cơ lược. Đây là vùng yếu của thành ống bẹn vì
chỉ có mạc ngang, cũng là nơi xảy ra TVB trực tiếp.
Như vậy với quan niệm này, TVB trực tiếp và thoát vị đùi có cùng một cơ
chế, đó là do sự phá vỡ của mạc ngang của hố bẹn trong mà chỉ khác nhau là túi
thoát vị nằm ở trên hay dưới dây chằng bẹn. Sau mạc ngang là lớp mô mỡ ngoài
phúc mạc, trong lớp này ở vùng bẹn có một ĐM và hai thừng sợi đi qua từ ngoài
6
vào trong là: ĐM thượng vị dưới, dây chằng rốn trong và dây chằng rốn giữa.
Điểm yếu trung tâm của mạc ngang: ở trung tâm của thành sau ống bẹn, giữa
dây chằng gian hố bên ngoài và dây chằng Henlé bên trong, dải chậu mu bên dưới,
là điểm yếu cổ điển của thành sau ống bẹn. Điểm yếu này chỉ được đóng kín bởi lớp
mạc ngang. Thật ra chỗ yếu của vùng bẹn và đùi được giới hạn ở trên là bờ dưới
của cơ ngang bụng (cung cơ ngang bụng), ở trong là bờ ngoài bao cơ thẳng bụng và
ở dưới là dây chằng bẹn và dây chằng bẹn đã chia đôi khoảng trống này. Khoảng
yếu này được Fruchaud mô tả và được gọi là lỗ cân cơ lược, chỉ được bịt bởi mạc
ngang. Thoát vị có thể xảy ra trên dây chằng bẹn gọi là TVB hoặc dưới dây chằng
bẹn gọi là thoát vị đùi
+ Lỗ cân cơ lược: được giới hạn bởi bên ngoài cơ thắt lưng chậu, bên trong phần
cuối của cơ thẳng bụng, bên trên là bờ dưới của cơ chéo bụng trong và cơ ngang
bụng, cấu tạo liềm bẹn, bên dưới là diện lược của ngành trên xương mu. Lỗ cân cơ
lược được phân chia thành hai phần bởi dây chằng bẹn: phần trên là vị trí yếu của
vùng bẹn, là nơi xảy ra TVB và phần dưới là nơi đi qua của cơ thắt lưng chậu, thần
kinh đùi ở bên ngoài và bó mạch đùi ở bên trong, đây là vị trí xảy ra thoát vị đùi
- Thành trên: được tạo nên bởi bờ dưới của cân cơ chéo bụng trong và cơ ngang
bụng. Tại vùng bẹn, cân cơ chéo bụng trong có cấu tạo phần lớn là mô cơ, mô cân
rất ít. Ở đây, cơ chéo trong dính khá chặt với cơ ngang bụng bên dưới, trong trường
hợp phần trong cùng của cơ ngang bụng là mô cơ thì các thớ của hai cơ này đan xen
vào nhau gần như tạo nên một lớp cơ hoạt động như nhau gọi là gân kết hợp [15].
- Thành dưới:
Thành dưới ống bẹn được tạo nên bởi dây chằng bẹn, còn gọi là cung đùi hay
dây chằng Poupart, không phải là cấu trúc biệt lập mà chính là phần dày lên của bờ
dưới cân cơ chéo bụng ngoài. Dây chằng bẹn đi từ gai chậu trước trên đến củ mu,
dài từ 12 đến 14cm và tạo một góc 30-40° so với mặt phẳng nằm ngang, gắn với
dây chằng khuyết và mạc ngang từ thành sau ống bẹn, quặt ngược về phía sau cho
đến cân cơ lược 1-1,5cm dưới dây chằng Cooper tạo nên một màng đóng lại ổ bụng
cho đến đùi.
7
Ở đoạn trong của dây chằng bẹn, ngoài những sợi bám vào củ mu còn có
những sợi chạy vòng ra phía sau đến bám vào đường lược xương mu gọi là dây
chằng khuyết. Dây chằng khuyết tiếp tục đi ra phía ngoài tới lồi chậu mu, ở đây nó
hoà lẫn với cân cơ lược và lớp chu cốt mạc của xương mu tạo nên một dây chằng
rất chắc gọi là dây chằng lược hay còn gọi là dây chằng Cooper.
- Lỗ bẹn nông: là lỗ nằm ở giữa hai cột trụ ngoài và cột trụ trong của cân cơ
chéo bụng ngoài. Lỗ bẹn nông nằm ngay dưới da, sát phía trên củ mu, qua lỗ bẹn
nông có thừng tinh đi từ ống bẹn xuống bìu. Qua ngón tay đội da bìu lên ta có thể
khám được lỗ bẹn nông [15].
- Lỗ bẹn sâu: đối chiếu lên thành bụng trước, lỗ bẹn sâu nằm ở trên trung điểm
của nếp bẹn khoảng 1,5-2 cm. Lỗ bẹn sâu là chỗ lõm của mạc ngang, nơi các thành
phần của thừng tinh quy tụ lại để chui vào ống bẹn
Lỗ bẹn sâu có cơ ngang bụng và cơ chéo bụng trong bao vòng phía trên và
phía ngoài, phía dưới có dải chậu mu, phía trong là bó mạch thượng vị dưới và dây
chằng gian hố. Ở lỗ bẹn sâu, các thành phần của thừng tinh sẽ hội tụ lại để đi vào ống
bẹn. Qua lỗ bẹn sâu tương ứng với hố bẹn ngoài, là trường hợp TVB gián tiếp đi qua,
khối thoát vị sa ra ngoài từ hố bẹn ngoài, qua lỗ bẹn sâu và nằm trong ống bẹn, trong
thừng tinh, về bản chất là tồn tại ống phúc tinh mạc gọi là TVB gián tiếp.
1.1.2. Giải phẫu thành bụng vùng bẹn và ứng dụng trong phẫu thuật TEP
1.1.2.1. Cấu tạo
Thành bụng vùng bẹn gồm các lớp: Da, lớp mỡ dưới da, lớp mạc nông, mạc
của cân cơ chéo bụng ngoài, cân và cơ chéo bụng trong, cân và cơ ngang bụng, mạc
ngang, lớp mỡ trước PM và cuối cùng là PM thành [15], [16]
Cơ chéo bụng ngoài: Bờ dưới của cơ tạo nên dây chằng bẹn, phía trên –
ngoài bám vào gai chậu trước trên và bên dưới – trong bám vào củ mu [18].
Cơ chéo bụng trong: Ở vùng bẹn, các thớ cơ chéo bụng trong và cơ ngang
bụng phối hợp tạo nên liềm bẹn (gân kết hợp), bám vào mào lược xương mu [18],
[16]. Trong PT điều trị TVB, Bassini khâu gân kết hợp với cung đùi để phục hồi
thành bụng, Shouldice khâu gân kết hợp với cân cơ chéo ngoài [19], [20].
8
Cơ ngang bụng: Hầu hết các sợi cơ chạy ngang, hướng xuống dưới và uốn cong
vào phía trong tạo thành một cung bao lấy ống bẹn [21]. Cơ ngang bụng có cấu tạo đặc
biệt là nhiều cân và ít sợi cơ hơn cơ chéo bụng trong và cơ chéo bụng ngoài [16]
1.1.2.2. Các cấu trúc trong khoang trước phúc mạc
Khoang ngoài phúc mạc chứa tổ chức mỡ, hạch lympho, nhiều mạch máu,
thần kinh, ống dẫn tinh và một số cấu trúc cơ mạc [16], [18]
Để thực hiện PTNS điều trị TVB, đặc biệt là TEP với đường tiếp cận hoàn
toàn ngoài phúc mạc, tránh các tai biến, biến chứng do tổn thương các cấu trúc vùng
này, đặc biệt là thần kinh và mạch máu, đòi hỏi phẫu thuật viên phải có sự hiểu biết
về giải phẫu khoang trước phúc mạc [16], [18]
- Các mạch máu vùng bẹn và trong khoang trước phúc mạc
+ Động mạch, tĩnh mạch chậu ngoài: ĐM chậu ngoài tách ra từ ĐM chậu
chung, nằm trên rãnh giữa chậu hông lớn và chậu hông bé, đi dọc theo bờ trong của
các cơ thắt lưng xuống dưới dây chằng bẹn đổi tên thành ĐM đùi. Tĩnh mạch chậu
ngoài tiếp theo tĩnh mạch đùi ở dưới dây chằng bẹn, thu nhận máu từ chi dưới, rồi
hợp lưu với tĩnh mạch chậu trong ở ngang mức khớp cùng chậu tạo thành tĩnh mạch
chậu chung [18], [21].
+ Động mạch, tĩnh mạch thượng vị dưới: xuất phát từ bó mạch chậu ngoài
gần với bao đùi và đi theo hướng lên trên giữa mạc ngang và phúc mạc ở bờ trong
của lỗ bẹn sâu. Đây là mốc giải phẫu quan trọng bắt buộc phải xác định trong phẫu
thuật TVB [18], [21].
+ Động mạch, tĩnh mạch mũ chậu sâu: ĐM mũ chậu sâu tách ra từ ĐM chậu
ngoài đi ra phía ngoài, lúc đầu đi ở dưới mạc lược và dải chậu mu. Nhánh xuống
của ĐM này đi theo hướng thẳng đứng, ngay trong gai chậu trước trên giữa cơ
ngang bụng và cơ chéo trong; có hai tĩnh mạch cùng tên đi kèm ĐM và đổ vào tĩnh
mạch chậu ngoài [18], [21].
+ Bó mạch thừng tinh: có hai ĐM tinh hoàn xuất phát từ ĐM chủ bụng ở
ngang mức đốt sống thắt lưng 2. Từ nguyên ủy, ĐM chạy chếch xuống dưới, ra sau
phúc mạc thành, trên cơ thắt lưng và bắt chéo phía trước thần kinh sinh dục đùi,
9
niệu quản và phần dưới ĐM chậu ngoài. Tới lỗ bẹn sâu, ĐM chui vào thừng tinh
cùng các thành phần khác của thừng tinh qua ống bẹn xuống bìu. Tĩnh mạch tinh
hoàn đi kèm với ĐM. Ở trong thừng tinh, tĩnh mạch tạo thành đám rối hình dây
cuốn. Tĩnh mạch tinh hoàn phải đổ vào tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh mạch tinh hoàn trái
đổ vào tĩnh mạch thận trái [18], [21].
+ Động mạch bịt: tách ra từ ĐM chậu trong đi theo lỗ bịt và cấp máu cho cơ
khép đùi và khớp chậu – đùi
+ Vòng nối tĩnh mạch sâu vùng bẹn: gồm tĩnh mạch thượng vị dưới, tĩnh
mạch chậu mu, tĩnh mạch thẳng, tĩnh mạch sau mu và nhánh nối giữa tĩnh mạch
thẳng với tĩnh mạch thượng vị dưới.
+ Ống dẫn tinh: dài khoảng 30 cm, đường kính 2 – 3mm, liên tiếp với ống
mào tinh ở đuôi mào tinh rồi quặt ngược lên trên ra trước, chạy vào thừng tinh ở lỗ
bẹn sâu. Ở đây, các thành phần của thừng tinh phân tán: ống dẫn tinh chạy cong lên
trên mặt ngoài ĐM thượng vị dưới, rồi chạy lên trên ở phía trước ĐM chậu ngoài
khoảng 2,5cm và bắt chéo bó mạch chậu ngoài vào trong chậu hông bé nằm giữa
thành chậu hông và phúc mạc thành [18], [21].
- Các nhánh thần kinh trong khoang trước phúc mạc
+ Thần kinh bì đùi ngoài: bắt nguồn từ rễ thần kinh thắt lưng 2 và thắt lưng 3,
nó đi ngang qua cơ chậu theo hướng chếch lên gai chậu trước trên, sau đó đi dưới
dây chằng bẹn và chi phối da mặt ngoài của đùi [18], [16].
+ Thần kinh sinh dục đùi: bắt nguồn từ rễ thần kinh thắt lưng 1 và 2, đi ở sau
phúc mạc ở mặt trước cơ thắt lưng và chia hai nhánh [18], [16].
Nhánh sinh dục: đi theo hướng của của các mạch máu chậu và dải
chậu mu, sau đó đi vào ống bẹn ở phía ngoài của mạch máu thượng vị dưới.
Ở nam giới, nhánh thần kinh này đi qua ống bẹn đến lỗ bẹn nông và chi
phối cho bìu và cơ bìu.
Nhánh đùi: đi dọc theo cơ thắt lưng chậu vào vùng đùi, những sợi tận
cùng của nó xuyên qua cân đùi đến vùng da trước trên của đùi, có thể bị tổn
thương khi mổ nội soi [15], [16].
10
+ Thần kinh đùi: hợp bởi nhánh sau của ngành trước các dây thần kinh thắt
lưng II, III và IV. Thần kinh này đi từ trên xuống dưới, lúc đầu đi giữa 2 bó của cơ
thắt lưng to, rồi dọc theo bờ ngoài cơ này chui dưới dây chằng bẹn trong bao cơ thắt
lưng chậu xuống đùi, chi phối vận động cho các cơ mặt trước đùi và cảm giác cho
da mặt trước trong của đùi [18], [16].
- Dây chằng Cooper (dây chằng lược): do sự hòa lẫn lớp chu cốt mạc của mào
lược từ các thớ tụ lại của mạc ngang và dải chậu mu, là một cấu trúc giải phẫu rất
chắc, quan trọng để ứng dụng điều trị TVB. Khi khâu cân cơ ngang bụng vào dây
chằng Cooper sẽ đóng kín được cả tam giác bẹn và ống đùi, điều trị được cả TVB
và TV đùi [11], [59].
- Dải chậu mu, cơ ngang bụng (Đã trình bày ở trên)
1.1.2.3. Các tam giác vùng bẹn
Đây là các vùng có nhiều cấu trúc thần kinh và mạch máu đi qua, nếu không xác
định rõ có thể bị tổn thương trong lúc phẫu thuật dẫn đến tai biến (tổn thương mạch,
thần kinh) hoặc cố định lưới vào thần kinh gây đau mạn tính sau mổ
- Tam giác tử (Doom Triangle): cạnh ngoài là mạch máu tinh hoàn, cạnh trong là
ống dẫn tinh, cạnh dưới là nếp phúc mạc. Hai cạnh trong và ngoài gặp nhau ở lỗ bẹn
sâu. Bên trong tam giác này là bó mạch chậu ngoài, tĩnh mạch mũ chậu sâu, nhánh
sinh dục của thần kinh sinh dục đùi và thần kinh đùi (nằm ở sâu)
- Tam giác đau (Pain Triangle): Nằm kề phía ngoài tam giác tử, được giới hạn
cạnh ngoài là dải chậu mu, cạnh trong là mạch máu tinh hoàn. Trong tam giác đau
có nhiều thần kinh như: thần kinh bì đùi ngoài, thần kinh bì đùi trước, nhánh đùi của
thần kinh sinh dục đùi và thần kinh đùi. Vì vậy tránh đốt điện, khâu hoặc dùng
protack bắn vào vùng này
1.2. Tình hình nghiên cứu về đặc điểm bệnh lý TVB hai bên
1.2.1. Dịch tễ học
Tỷ lệ mắc thực sự mà TVB bên được phát hiện có sự khác biệt rất lớn giữa
các nghiên cứu, điều này được giải thích bởi thực tế lâm sàng thấy có những BN
được phẫu thuật TVB 1 bên, sau đó nhiều năm lại quay lại bệnh viện với TVB bên
11
đối diện, tổn thương này có thể là nguyên phát hoặc do bỏ sót không được phát hiện
tại thời điểm phẫu thuật lần đầu. Vấn đề này đã được xem xét kỹ lưỡng trong phẫu
thuật nhi khoa trong hơn nửa thế kỷ, và mặc dù sinh lý bệnh có vẻ khác nhau, nó có
thể giống với những gì xảy ra ở người lớn. Tỷ lệ TVB hai bên ở trẻ sơ sinh là
khoảng 15% và có thể tăng lên đến 40% ở trẻ sinh non. Tỷ lệ trẻ em được phẫu
thuật TVB bên trong lần phẫu thuật thứ hai có thể lên đến 34% [22], [23]
Các báo cáo về TVB hai bên ở người lớn chủ yếu là nam giới rất khác nhau.
Akin báo cáo chỉ có 5% và el-Quaderi là 6,2% tỷ lệ TVB hai bên ở nhóm dân số
khỏe mạnh. Tại Bệnh viện General de Mexico từ 259 hồ sơ lâm sàng về phẫu thuật
TVB, 57 BN (22%) bị thoát vị hai bên. Chụp cắt lớp phát hiện từ 20 đến 30%
trường hợp TVB hai bên, và loạt phẫu thuật mở báo cáo TVB hai bên với tần suất
thay đổi từ 12 đến 25% (Trích dẫn theo [22]). Như được trình bày trong bảng 1.1, tỷ
lệ TVB hai bên được trong phẫu thuật nội soi được báo cáo thường xuyên hơn nhiều
so với phẫu thuật mở và có thể lên đến 60% [22]
Bảng 1. 1. Tỷ lệ TVB hai bên theo các nghiên cứu (Trích dẫn theo [22])
Cỡ mẫu Phương pháp Tỷ lệ Tác giả nghiên cứu phát hiện TVB hai bên
el-Qaderi 1722 Dịch tễ học 5%
Akin 27408 Dịch tễ học 6,2%
Weber 259 Dịch tễ học 22%
Ekberg 313 Mổ mở 20 – 29%
Abramson 459 Mổ mở 39%
Rutkow 696000 Mổ mở 25,2%
Weber 300 PTNS 36%
Phillips 379 PTNS 64%
McKernan 269 PTNS 36%
Sayad 724 PTNS 32,2%
1.2.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
12
Đến nay, hầu hết các tác giả đều cho rằng có nhiều nguyên nhân và cơ chế
độc lập hay phối hợp với nhau gây ra tình trạng TVB một bên hoặc hai bên ở người
lớn. Một số nhóm nguyên nhân và cơ chế chính thường được đề cập bao gồm:
- Còn ống phúc tinh mạc ở người lớn:
Còn ống phúc tinh mạc cũng là nguyên nhân quan trọng của TVB gián tiếp,
tuy nhiên nếu chỉ điều trị bằng cách buộc cao cổ túi thoát vị như ở trẻ em thì sẽ dẫn
đến một tỉ lệ tái phát thoát vị cao ở người trung niên cao tuổi. Điều này chứng tỏ
ngoài việc còn ống phúc tinh mạc bẩm sinh, còn có thêm một số yếu tố khác nữa để
tạo ra TVB ở người trưởng thành [24]
Theo Stranne, TVB gián tiếp là kiểu thoát vị thường gặp nhất, bao thoát vị đi
cùng với thừng tinh ở phía ngoài của bó mạch thượng vị dưới. Giả thuyết túi của
Rusell cho rằng nguyên nhân là do còn tồn tại ống phúc tinh mạc, nghĩa là ống phúc
tinh mạc không đóng kín trong thời kỳ bào thai sau khi tinh hoàn di chuyển xuống
bìu. Sau đó, sự tăng áp lực ổ bụng kéo dài liên tục tác động thêm vào chỗ yếu của lỗ
bẹn sâu, cuối cùng các tạng trong ổ bụng bị đẩy lồi qua lỗ bẹn sâu vào ống phúc
tinh mạc không được đóng kín gây ra TVB gián tiếp [25]
Hình 1.3. TVB gián tiếp
(Nguồn: Drake R.L. và cs. (2015) [16])
Tuy nhiên, quan niệm bắt buộc phải có sự tồn tại ống phúc tinh mạc bẩm
13
sinh dẫn đến sự phát triển TVB trên lâm sàng sau đó không được thừa nhận và rất
có khả năng nguyên nhân gây ra TVB gián tiếp là do nhiều yếu tố bao gồm: Sự suy
yếu của cơ chế màng trập, do tổn thương cơ chéo bụng ngoài hoặc do khiếm khuyết
của tổ chức liên kết vùng bẹn [24]
- Sự suy yếu của lớp cân cơ – mạc ngang của thành bụng vùng bẹn
Các nghiên cứu thấy rằng TVB trực tiếp là do mắc phải và tỷ lệ mắc bệnh
tăng theo lứa tuổi. Thoát vị này đẩy lồi trực tiếp qua mạc ngang, phía trong mạch
máu thượng vị dưới. Nguyên nhân gây TVB trực tiếp, về kinh điển, được cho là có
sự kết hợp của tăng áp lực ổ bụng và sự suy yếu tương đối của mạc ngang ở thành
sau ống bẹn [24], [25]
Các yếu tố làm yếu cơ thành bụng: Suy dinh dưỡng, sinh đẻ nhiều, chấn
thương thành bụng, mô thành bụng lão hoá ở người cao tuổi [24], [25]
Hình 1.4. TVB trực tiếp
(Nguồn: Drake R.L. và cs. (2015) [16])
- Theo cơ chế màng trập của cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng
Cơ chế màng trập của cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng ở người bình
thường khi hoạt động sẽ như một bức rèm che phủ phần sau ống bẹn và lỗ bẹn sâu
14
giúp chống lại sự tăng áp lực trong ổ bụng, do đó ngăn ngừa thoát vị. Do sự phát
triển không đầy đủ ở phần thấp của cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng, nên khi
hai cơ này cùng co, cung cơ ngang bụng không xuống sát dây chằng bẹn và dải
chậu mu (cung cơ ngang bụng đóng cao hơn bình thường), để trống một vùng yếu ở
thành sau ống bẹn, thêm vào đó sự tăng góc giữa bao cơ thẳng bụng và đai chậu gây
ra TVB [24], [25]
- Sự tăng áp lực ổ bụng
Ở người, sự lặp đi lặp lại, ngày này qua ngày khác các hoạt động gắng sức
như: đại tiện, động tác cúi, mang vác, ho và các hoạt động khác... làm cho các tạng
trong ổ bụng tác động vào thành bụng vùng bẹn với một lực nhỏ, lặp đi lặp lại.
Chính sự tác động này làm yếu dần các thành phần tại vùng bẹn và sàn chậu, có thể
gây ra TVB [24], [25]
Các nguyên nhân làm tăng áp lực ổ bụng khác như: Cổ trướng, mang thai,
khối u lớn trong bụng, ho mãn tính (viêm phế quản mãn tính), rặn tiểu (do phì đại
tiền liệt tuyến), táo bón, … [24], [25]
1.2.3. Chẩn đoán
Lâm sàng
Hầu hết BN TVB không có triệu chứng gì cho đến khi phát hiện ra một khối
phồng ở vùng bẹn xuất hiện tự nhiên hoặc khi nâng vật nặng, khi rặn,... Một số BN
mô tả là có cảm giác co kéo hoặc bị đau lan xuống bìu, nhất là đối với TVB gián
tiếp. Nhìn chung TVB trực tiếp ít gây nên triệu chứng hơn TVB gián tiếp và cũng ít
bị kẹt hay nghẹt hơn. Theo Phan Đình Tuấn Dũng [4] có 91% BN vào viện vì xuất
hiện khối phồng vùng bẹn còn 9% có khối phồng kèm theo cảm giác đau vùng bẹn.
Triệu chứng đặc hiệu của TVB là nhìn hay sờ thấy khối phồng vùng bẹn 2
bên khi BN đứng hoặc ho, rặn. Ngược lại khi nằm hoặc khi dùng tay đẩy vào thì
khối phồng này lại biến mất [26]. Mặc dù vậy khi thăm khám cần đánh giá cả 2 bên
lỗ bẹn do 15 - 20% BN có TVB hai bên [1], [2].
Trong trường hợp TV nhỏ có thể khó nhận thấy. Khi đó có thể dùng ngón tay
đội da bìu để sờ lỗ bẹn nông, nếu lỗ bẹn nông quá nhỏ không thể đưa ngón tay vào
15
ống bẹn thì rất khó xác định khối trồi ra cảm nhận khi ho hay rặn có thực sự là khối
TV hay không. Ngược lại, nếu lỗ bẹn nông quá rộng cũng không tự nó khẳng định
là có TV, cần phải sờ thấy một khối đang chạy xuống lòng ống bẹn khi ho hoặc rặn
thì mới chắc chắn là có TVB [26]
Sự phân biệt TVB trực tiếp và gián tiếp có thể dễ dàng nhưng đôi khi rất khó.
Tuy nhiên mỗi loại TV cũng có biểu hiện đặc trưng. Sau khi đẩy khối TVB lên hết,
có thể phân biệt TVB trực tiếp và TVB gián tiếp bằng 3 nghiệm pháp sau [26]
+ Nghiệm pháp nhìn hướng phát triển: bảo BN ho, rặn. TVB gián tiếp xuất
hiện theo hướng chếch từ trên xuống và từ ngoài vào trong. TVB trực tiếp xuất hiện
theo hướng từ trong bụng thẳng về phía trước.
+ Nghiệm pháp chạm ngón (Thủ thuật Zeiman): dùng ngón trỏ cho vào lỗ bẹn
nông và đi vào một phần ống bẹn (mặt lòng ngón hướng về phía bụng) bảo BN ho,
rặn: TVB trực tiếp cho cảm giác chạm ở lòng ngón, còn TVB gián tiếp sẽ chạm ở
đầu ngón.
+ Nghiệm pháp chặn lỗ bẹn sâu: dùng ngón cái chặn ở vị trí ước lượng của lỗ bẹn
sâu (trên trung điểm của nếp bẹn khoảng 1,5 – 2 cm) sau đó bảo BN ho, rặn. TVB gián
tiếp có thể không xuất hiện lại, còn TVB trực tiếp vẫn xuất hiện lại như trước.
Tuy nhiên, nghiên cứu của O’Rourke A. và cs cho thấy nếu chỉ dựa trên khám
lâm sàng, chỉ 49% bệnh nhân có biểu hiện thoát vị bẹn hai bên. Trong khi đó, kiểm
tra bằng nội soi (tại thời điểm phẫu thuật), 71% BN được phát hiện thoát vị bẹn hai
bên. Sự khác biệt giữa hai phương pháp chẩn đoán là 22% (P < 0.001), đại diện cho
tỷ lệ bệnh nhân bị thoát vị hai bên (được xác định bằng nội soi) mà không được phát
hiện chỉ bằng khám lâm sàng [27]. Như vậy việc thăm khám lâm sàng ở các BN
TVB cần phải tỉ mỉ, tránh bỏ sót tổn thương dẫn đến sai chiến thuật điều trị
Cận lâm sàng
- Siêu âm: Khối TV nằm trong ống bẹn, trường hợp TVB có thể xác định
được các thành phần trong túi thoát vị như ruột, mạc nối,…
- Chụp CLVT ổ bụng: Cho thấy hình ảnh TV rõ hơn, ngoài ra phương pháp
này còn giúp chẩn đoán trong những trường hợp vùng bẹn có các tổn thương khác.
16
1.2.4. Phân loại TVB
Có nhiều cách phân loại TVB:
- Theo nguyên nhân: TVB bẩm sinh/ TVB mắc phải
- Theo bên thoát vị: Bên phải/ bên trái/ hai bên
- Theo vị trí giải phẫu [28], [29]
+ TVB trực tiếp: Thoát vị hình thành từ thành sau của ống bẹn, tạng chui qua
vùng ở giữa lỗ bẹn sâu và bó mạch thượng vị dưới (tam giác Hesselbach).
+ TVB gián tiếp: Thoái vị chui vào lỗ bẹn sâu, đi cùng thừng tinh qua lỗ bẹn
nông xuống bìu.
+ TVB hỗn hợp: Thoát vị chiếm hết cả hai hố bẹn.
- Theo Nyhus [30], [31]:
+ Loại I: TVB gián tiếp, lỗ bẹn sâu bình thường, sàn bẹn bình thường.
+ Loại II: TVB gián tiếp, lỗ bẹn sâu rộng và biến dạng, sàn bẹn bình thường.
+ Loại III chia làm 3 loại:
IIIA: Mọi TVB trực tiếp.
IIIB: TVB gián tiếp, lỗ bẹn sâu giãn rộng và biến dạng, sàn bẹn bị phá
hủy hoặc TV hỗn hợp.
IIIC: Thoát vị đùi.
+ Loại IV: Mọi TVB tái phát.
Phân loại TVB hai bên được điều trị bằng PTNS TEP, nghiên cứu của Masato
Ota (2021) ghi nhận 52,8% lỗ TV gián tiếp, 32,8% TV trực tiếp, 14% TV hỗn hợp
và 8,8% TVB tái phát sau PT TAPP lần trước [32]
1.3. Phẫu thuật điều trị TVB hai bên
1.3.1. Lịch sử
Một trong những báo cáo đầu tiên về điều trị thoát vị hai bên được thực hiện
bởi Cheatle năm 1962, ông đã thực hiện phẫu thuật thông qua một đường rạch theo
đường trắng dưới rốn mà không vào khoang phúc mạc, vén cân cơ thành bụng sang
để bộc lộ vùng bẹn hai bên [22]. Sau đó, ông mô tả kỹ thuật với đường mổ ngang
Pfannenstiel, để kiểm tra cả hai bên ngay cả ở những bệnh nhân được chẩn đoán
17
thoát vị một bên và để xử lý cả hai bên nếu phát hiện thoát vị bên đối diện trong mổ
[22]. Tuy nhiên, rất ít phẫu thuật viên áp dụng kỹ thuật này vì họ coi nó là quá phức
tạp tại thời điểm đó [22].
Đến năm 1965, nhóm tác giả Rives ở Reims và Stoppa ở Amiens nhận thức
được tầm quan trọng của việc tăng cường thành sau của vùng bẹn, vì họ cho rằng sự
suy yếu của thành sau ống bẹn là nguyên nhân chính dẫn đến sự phát triển của thoát
vị. Do đó, họ bắt đầu sử dụng một vật liệu nhân tạo Dacron đặt giữa mạc ngang và
phúc mạc, sử dụng cả hai phương pháp tiếp cận trước phúc mạc và vùng trước lỗ
bẹn. Lưới được đặt sao cho nó vượt quá lỗ bẹn sâu theo mọi hướng để phân phối áp
lực và ngăn ngừa tái phát [22]. Trong bài báo của mình, tác giả này đặc biệt đề cập
đến những bệnh nhân có nhiều dị tật thoát vị và sự thuận tiện để đánh giá tất cả các
vị trí có thể thoát vị thông qua phương pháp tiếp cận của họ. Cần lưu ý rằng họ đặc
biệt quan tâm đến khả năng thoát vị hai bên [22].
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu lập luận rằng việc phẫu thuật TVB hai bên
nên được thực hiện theo trình tự từng bên. Lý giải cho điều này các tác giả cho rằng
sức căng đáng kể của cân cơ khi phục hồi thành bụng bằng mô tự thân trong phẫu
thuật thoát vị hai bên đồng thời là yếu tố chính dẫn tới sự tái phát cao khi phẫu thuật
2 bên cùng lúc, do vậy họ muốn trì hoãn việc xử lý túi thoát vị thứ hai [22], [33].
Thời gian giữa hai lần phẫu thuật có thể thay đổi từ vài ngày đến vài tháng, tùy
thuộc vào các yếu tố như cân nặng, tuổi, kích thước của khối thoát vị thứ hai và các
yếu tố khác [34].
Đến năm 1984, Lichtenstein lần đầu tiên được thực hiện kỹ thuật phục hồi
thành bụng bằng lưới nhân tạo [35]. Kể từ đó, kỹ thuật này được áp dụng rộng rãi
trong phẫu thuật điều trị TVB hai bên do khi sử dụng lưới nhân tạo không tạo ra lực
căng tại đường khâu như sử dụng mô tự thân, qua đó giảm tỷ lệ tái phát [35].
Năm 1987 đánh dấu kỷ nguyên ra đời của phẫu thuật nội soi (PTNS), đặt nền
móng cho phẫu thuật ít xâm lấn. Kể từ đó, cùng với sự phát triển của các loại lưới
nhân tạo, nhiều kỹ thuật phẫu thuật nội soi điều trị TVB cũng dần được áp dụng với
kết quả khả quan kể cả với các trường hợp TVB hai bên hoặc tái phát [36]. Hai
18
phương pháp tiếp cận nội soi để đặt lưới được ứng dụng rộng rãi cho đến ngày nay là
qua xuyên thành bụng ngoài phúc mạc (Trans-abdominal preperitoneal - TAPP) và
hoàn toàn ngoài phúc mạc (Total extraperitoneal - TEP). Bên cạnh tính thẩm mỹ, một
ưu điểm nổi bật trong cách tiếp cận nội soi là có thể phát hiện và xử lý đồng thời túi
thoát vị bên đối diện (bao gồm những trường hợp khám lâm sàng trước mổ không
phát hiện được) [22]. Tác giả Sayad P. [37] và Koehler R.H. [38] báo cáo về tỷ lệ
phát hiện và xử lý thêm lỗ bên đối diện trong PTNS TVB lần lượt là 11% và 13%.
Từ đó đến nay, nhiều nghiên cứu cho rằng phẫu thuật nội soi (TEP hoặc TAPP)
đặt lưới nhân tạo là phương pháp lý tưởng để điều trị TVB hai bên. Các ưu điểm được
nhấn mạnh bao gồm việc xử lý túi thoát vị 2 bên trong cùng 1 phẫu thuật với một thời
gian gây mê duy nhất, tránh nguy cơ khối thoát vị để lâu dẫn tới biến chứng nghẹt và
tắc ruột có thể xảy ra khi phẫu thuật từng bên một [14], [22], [33], [39]
1.3.2. Các phương pháp phẫu thuật
1.3.1.1. Phục hồi thành bụng bằng mô tự thân
- Chỉ định [40]
+ Tất cả các loại TVB một bên hoặc hai bên, ở mọi lứa tuổi
+ Nyhus I/ II/ III/ IV. TVB nghẹt, PTNS thất bại
- Chống chỉ định [40]
+ BN có khiếm khuyết cơ hoặc cân cơ thành bụng vùng bẹn bên thoát vị do
chấn thương hoặc bẩm sinh (chống chỉ định tương đối)
+ BN có rối loạn đông máu, phân độ ASA > IV.
+ BN đang bị nhiễm khuẩn tại chỗ hoặc toàn thân
- Các phương pháp phẫu thuật
Phương pháp Bassini [29]:
+ Được Edoardo Bassini thực hiện lần đầu vào năm 1884
+ Nguyên tắc: Khâu phục hồi lỗ bẹn sâu (cơ chéo trong, cơ ngang bụng, lá
trên của mạc ngang được khâu đồng thời vào lá dưới của mạc ngang và dây chằng
bẹn bằng chỉ không tiêu, các mối chỉ khâu rời), chuyển vị thừng tinh (khi đóng lại
thừng tinh đường khâu bắt đầu từ củ mu đi lên đến quá vị trí ĐM thượng vị dưới
19
thì phải chừa chỗ cho thừng tinh đi ra), đóng lại ống bẹn (thành bẹn phía trước
được đóng bằng cách khâu hai mép trên và dưới của cân cơ chéo lớn lại với
nhau). Từ đó phương pháp Bassini được áp dụng rộng rãi. Đến nay phương pháp
này vẫn là một lựa chọn đối với các trường hợp mổ mở điều trị TVB.
Phương pháp McVay – Lotheissen [29]
Năm 1898, Lotheissen lần đầu tiên dùng kỹ thuật khâu dây chằng Cooper với
gân kết hợp để điều trị một trường hợp TV đùi tái phát.
Năm 1942, McVay dựa trên khảo sát về giải phẫu vùng bẹn đã kết luận rằng:
cân cơ ngang bụng phải được khâu vào dây chằng Cooper, vốn là vị trí bám bình
thường của mạc ngang, chứ không phải khâu vào dây chằng bẹn. Các bước tiến
hành PT còn lại cũng giống như phương pháp Bassini. Sau khi tái tạo thành sau ống
bẹn, thừng tinh được đặt nằm giữa cân cơ chéo bụng ngoài và gân kết hợp
Phương pháp Shouldice [29]
Năm 1945, Shouldice mô tả kỹ thuật phục hồi sàn bẹn bốn lớp bằng các mũi
khâu liên tục: lớp trong cùng khâu dải chậu mu với mặt sau của bao cơ thẳng bụng
và mặt dưới của mạc ngang; lớp thứ hai, khâu dây chằng bẹn với bờ dưới của cân
cơ ngang bụng; lớp thứ ba và tư: khâu cân cơ ngang bụng với mặt trong của cân cơ
chéo ngoài, song song và ngay trên dây chằng bẹn
- Ưu, nhược điểm của phương pháp sử dụng mô tự thân
+ Ưu điểm: Chỉ định rộng rãi, dễ thực hiện, không có các biến chứng do lưới
nhân tạo gây ra (nhiễm khuẩn, đào thải lưới, …), chi phí thấp.
+ Nhược điểm: Hai cân từ vị trí xa nhau được khâu vào nhau, gây căng
đường khâu làm BN đau nhiều, hậu phẫu kéo dài, và chậm phục hồi sinh hoạt cá
nhân sau mổ. Hơn nữa, các lớp khâu tạo hình bị căng, dẫn đến thiếu máu nuôi
dưỡng, sẹo lành không tốt, nguy cơ tái phát cao (Shouldice 6,1%, Bassini 8,6%,
McVay 11,2%). Các kỹ thuật này thường gặp khó khăn trong trường hợp TVB hai
bên có cấu trúc tại chỗ bị suy yếu, khiếm khuyết và mô bị lão hóa biến đổi [41]
1.3.1.2. Phục hồi thành bụng bằng vật liệu nhân tạo
a. Mổ mở đặt lưới nhân tạo theo Lichtenstein [40]
20
- Năm 1984, Lichtenstein lần đầu tiên được thực hiện kỹ thuật phục hồi
thành bụng bằng lưới nhân tạo. Theo quan điểm của tác giả, các phương pháp dùng
mô tự thân do phải kéo hai mô, cân từ hai vị trí vốn xa nhau lại gần để khâu vào với
nhau nên tất yếu dẫn đến việc gây căng đường khâu, đặc biệt đối với thoát vị bẹn
hai bên. Sự căng giãn đường khâu tạo hình sẽ gây nên tình trạng: BN đau nhiều sau
mổ, chậm hồi phục sinh hoạt cá nhân sau mổ, nằm viện lâu, chậm trở lại lao động
bình thường, thiếu máu nuôi ở lớp khâu tạo hình khiến sẹo lành không tốt có thể
dẫn đến thoát vị tái phát.
- Chỉ định [35]
+ Tất cả các loại TVB một bên hoặc hai bên, ở mọi lứa tuổi
+ Nyhus I/ II/ III/ IV. TVB nghẹt, PTNS thất bại
- Chống chỉ định [35]
+ Bệnh nhân có dị ứng với vật liệu nhân tạo (lưới nhân tạo)
+ Bệnh nhân có rối loạn đông máu, phân độ ASA > IV.
+ Bệnh nhân đang bị nhiễm khuẩn tại chỗ hoặc toàn thân
- Nguyên tắc phẫu thuật: thành sau ống bẹn được che phủ bằng tấm lưới nhân
tạo polypropylene đặt dọc theo chiều ống bẹn từ ngoài vào trong. Khâu lưới vào
những cân chắc xung quanh. Khâu góc dưới trong của lưới vào củ mu, khâu dây
chằng bẹn với bờ dưới của lưới, khâu gân cơ kết hợp và bao cơ thẳng bụng hoặc cân
cơ chéo bụng trong với bờ trên của lưới bằng chỉ prolene 2/0. Đầu ngoài của tấm
lưới được xẻ dọc thành hai vạt tạo nên một rãnh để thừng tinh đi qua và khâu lại 2 –
3 mũi để ôm sát thừng tinh tại lỗ bẹn sâu [40]
b. PTNS đặt lưới nhân tạo: PTNS điều trị TVB nói chung, trong đó có TVB hai
bên bắt đầu từ việc sử dụng stapler đóng kín lỗ bẹn sâu, cho đến phương pháp dùng
nút chặn, rồi đặt lưới nhân tạo trong ổ bụng (Intraperitoneal onlay mesh – IPOM) và
hiện nay còn hai phương pháp đang được ứng dụng phổ biến là [42], [43]:
- PTNS xuyên thành bụng ngoài phúc mạc (TAPP)
Chỉ định [44]
21
+ TVB ở người lớn, một bên hoặc hai bên
+ Nyhus I/ II/ III/ IV. Thoát vị trực tiếp, gián tiếp hay hỗn hợp
+ TVB tái phát. Phẫu thuật nội soi TEP thất bại
Chống chỉ định [44]
+ TVB nghẹt có hoại tử ruột, mạc nối
+ Bệnh nhân không có khả năng chịu được gây mê toàn thân hoặc bơm khí
CO2 vào khoang phúc mạc.
+ Bệnh nhân có rối loạn đông máu, phân độ ASA > III.
+ Bệnh nhân đang bị nhiễm khuẩn tại chỗ hoặc toàn thân
+ Bệnh nhân có nguy cơ dị ứng, nhiễm khuẩn lưới nhân tạo
Các bước kỹ thuật [45], [36]:
+ Đặt trocar: trocar 10 mm đặt tại rốn xuyên vào ổ bụng, 2 trocar 5 mm đặt
2 bên bờ ngoài cơ thẳng bụng, cách đường ngang rốn từ 4 – 5 cm về phía xương mu.
Optic nội soi: sử dụng loại kính 00 hoặc nghiêng 300.
+ Bộc lộ phúc mạc xung quanh túi thoát vị bằng móc điện hoặc kéo
+ Bộc lộ thừng tinh và túi TV: Bóc tách túi TV ra khỏi ống dẫn tinh và tĩnh
mạch thừng tinh, kéo túi TV vào trong ổ bụng (đối với TV trực tiếp) hoặc thắt - cắt
túi TV (đối với TV gián tiếp hay hỗn hợp).
+ Đặt và cố định lưới: Lưới nhân tạo được đưa qua trocar 10 mm vào
khoang PM, được trải phẳng, che phủ toàn bộ sàn bẹn và cố định vào các vị trí: dây
chằng Cooper, dải chậu mu, cơ thẳng bụng bằng protack, khâu cố định hoặc sử
dụng keo fibrin.
+ Đóng phúc mạc: Bằng chỉ không tiêu 3/0 hoặc protack.
+ Đóng lại vết mổ chân trocar.
Ưu, nhược điểm
+ Ưu điểm: trường mổ rộng, nhận định mốc giải phẫu rõ ràng, chỉ định mổ
rộng rãi ngay cả thoát vị nghẹt, TVB bìu lớn.
+ Nhược điểm: nguy cơ dính sau mổ, tổn thương tạng và TV qua lỗ trocar.
- PTNS hoàn toàn ngoài phúc mạc (TEP)
22
Chỉ định [46]
+ TVB ở người lớn, một bên hoặc hai bên
+ Nyhus I/ II/ III/ IV. Thoát vị trực tiếp, gián tiếp hay hỗn hợp. TVB tái phát
Chống chỉ định [46]
+ TVB nghẹt có hoại tử ruột, mạc nối
+ Bệnh nhân không có khả năng chịu được gây mê toàn thân hoặc bơm khí
CO2 vào khoang ngoài phúc mạc
+ Bệnh nhân có rối loạn đông máu, phân độ ASA > III.
+ Bệnh nhân đang bị nhiễm khuẩn tại chỗ hoặc toàn thân
+ Bệnh nhân có nguy cơ dị ứng, nhiễm khuẩn lưới nhân tạo
Các bước kỹ thuật [45], [36]:
+ Tạo khoang trống trước phúc mạc: Rạch da theo chiều ngang, từ bên cạnh
đường trắng giữa dưới rốn 1 cm lệch về bên TV, chiều dài vết mổ khoảng 1,5 cm.
Đặt trocar 10 mm vào khoảng trống giữa cơ và lá sau cân cơ thẳng bụng bằng tay,
bóc tách bằng khí hoặc sử dụng bóng chuyên dụng.
Đặt chế độ bơm CO2 với áp lực từ 10 - 12 mmHg và tốc độ bơm khoảng 3
lít/phút để khí bóc tách khoang ngoài PM một cách từ từ, đưa optic nội soi qua
trocar để quan sát phẫu trường. Đặt 2 trocar 5 mm tại vùng hạ vị và hố chậu cùng
bên thoát vị.
+ Nhận định và xử lý túi thoát vị:
+ Đặt lưới nhân tạo chất liệu polypropylene được cuộn lại đưa qua trocar 10
mm vào trong ổ bụng, che phủ toàn bộ lỗ cơ lược chồng lên thừng tinh. Lưới được cố
định bằng protack vào dây chằng lược, cơ ngang bụng, dải chậu mu.
+ Đóng vết mổ: Rút các trocar và đóng vết mổ bằng chỉ nylon 3-0.
Ưu, nhược điểm
+ Ưu điểm: không đi vào ổ bụng nên tránh được các nguy cơ như: dính ruột,
tổn thương tạng và thoát vị qua lỗ trocar.
+ Nhược điểm: trường mổ nhỏ hẹp, khó thao tác. Một số trường hợp phải
chuyển đổi sang phương pháp TAPP hoặc mổ mở do thủng phúc mạc làm khí CO 2
23
tràn vào ổ bụng quá nhiều, gây xẹp trường mổ. Đường cong huấn luyện của phương
pháp TEP tương đối dài [36].
1.3.3. Các vật liệu nhân tạo ứng dụng trong phẫu thuật TVB
Lịch sử phát triển
Năm 1890, Theodor Billroth gợi ý rằng cách lý tưởng để sửa chữa thoát vị
bẹn là sử dụng vật liệu nhân tạo để đóng lỗ thoát vị. Trong thời gian đó, một số vật
liệu nhân tạo đan bằng nhiều sợi vải cotton và lụa đã được sử dụng, nhưng tất cả
đều thất bại do nhiễm khuẩn, thải loại mảnh ghép và tái phát (trích dẫn theo [47]).
Các phẫu thuật viên cảm thấy chán nản do gần như các loại chỉ khâu bằng vải
cotton và lụa đều bị thải loại sau mổ, dẫn đến tình trạng nhiễm trùng tái đi tái lại.
Đến năm 1955, Tiến sĩ Francis Usher tập trung sự chú ý của mình vào các
vật liệu có thể giải quyết các vấn đề hiện có. Các loại vật chỉ nhân tạo Nylon, Orlon,
Dacron và Teflon đã được nghiên cứu và quan sát thấy có nhiều khuyết điểm như:
phản ứng dị vật, nhiễm khuẩn, độ cứng, phân mảnh, giảm độ bền khi co kéo [48],
[49]. Tất cả những điều này đã ngăn cản việc chấp nhận các vật liệu cao phân tử.
Sau khi đọc một bài báo về vật liệu polyolefin mới (Marlex), cho thấy những đặc
tính đáng chú ý, Usher bắt đầu phát triển lưới nhân tạo Marlex [48], [49]. Chúng
được tạo ra với các mắt lưới lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp với mô
xung quanh và giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn. Sự phát triển của mô qua các mắt lưới của
nó là điểm khác biệt chính khi so sánh với các vật liệu trước đây. Sau một vài ngày
phẫu thuật đặt lưới, hoạt động của nguyên bào sợi được nhận thấy là tăng lên, nhiều
collagen được tạo ra mà không có tế bào khổng lồ, và toàn bộ thành bụng vùng bẹn
đã trở nên chắc chắn hơn [50]. Mặc dù có nhiều ưu điểm của lưới polyethylene dệt,
Usher vẫn tiếp tục tìm kiếm các vật liệu tốt hơn. Ông sớm nhận ra rằng
polypropylene dệt kim có nhiều ưu điểm hơn: nó có thể được hấp vô trùng, có
đường viền chắc chắn cùng với khả năng kéo giãn hai chiều và có thể được kết hợp
nhanh chóng. Cuối cùng, vào năm 1958, Usher công bố kỹ thuật phẫu thuật của
mình bằng cách sử dụng lưới polypropylene, và 30 năm sau, kỹ thuật Lichtenstein
(ngày nay được gọi là kỹ thuật đặt lưới "không căng - tension-free") đã được phổ
24
biến để sửa chữa thoát vị bẹn [50]. Các tác giả cho rằng lưới nhân tạo lý tưởng phải
có thể được giữ tại chỗ bằng chỉ khâu ngoại vi, chống sự co kéo do tăng áp lực ổ
bụng (ho hoặc vận động mạnh) mà không bị trượt khỏi vị trí đặt, đặc biệt là trong
giai đoạn đầu sau phẫu thuật, và phải thúc đẩy phản ứng liên kết với mô xung quanh
với phản ứng viêm tối thiểu [47].
Năm 1998, Pajotin P. cho rằng một tấm lưới phẳng có thể không phải là cấu
hình lý tưởng để điều trị TVB nội soi [51]. Để hạn chế một cách tối đa nhất tình
trạng di chuyển của tấm lưới nhân tạo phẳng, một tấm lưới nhân tạo 3D với hình
dáng uốn cong đồng nhất theo cấu trúc giải phẫu của vùng bẹn ra đời.
Năm 1999, tác giả W. Bell (Mỹ) [10] là một trong những người đầu tiên sử
dụng lưới nhân tạo 3D (3D Max, Davol) trong điều trị bệnh lý TVB bằng PTNS, kết
quả nghiên cứu trên 186 BN cho thấy với việc không sử dụng dụng cụ cố định tấm
lưới nhân tạo đã làm giảm tỷ lệ đau sau mổ xuống mức thấp nhất, BN có thời gian
hồi phục sau mổ sớm và không có trường hợp nào tái phát được ghi nhận. Một số
nghiên cứu tiếp theo của các tác giả Alberto Meyer, Iqbal Saleem với việc sử dụng
tấm lưới nhân tạo 3D trong điều trị bệnh lý TVB bằng PTNS cho thấy tính an toàn,
hiệu quả cũng như tỷ lệ đau sau mổ thấp và tỉ lệ tái phát thấp [52], [53]
1.4. Ứng dụng PTNS hoàn toàn ngoài phúc mạc (TEP) đặt tấm lưới nhân tạo
3D điều trị TVB hai bên
1.4.1. Vai trò của lưới nhân tạo 3D
Sự ra đời và phát triển của các loại vật liệu lưới nhân tạo sinh học đã trở
thành một thành phần không thể thiếu góp phần nâng cao hiệu quả của phẫu thuật
điều trị thoát vị bẹn, giúp giảm tỷ lệ tái phát [54]. Việc lựa chọn loại lưới nhân tạo
thường phụ thuộc vào sở thích của phẫu thuật viên và yếu tố chi phí. Tuy nhiên các
tác giả cho rằng việc lựa chọn vật liệu nhân tạo để phục hồi thành bụng và kỹ thuật
phù hợp là những yếu tố đóng vai trò quan trọng quyết định kết quả phẫu thuật [48]
Ngoài ra, các tác giả cho rằng lưới polypropylene phẳng có thể bị co lại,
cuộn lại tùy mức độ và hình thành sẹo xơ cứng trong quá trình theo dõi lâu dài, có
thể dẫn đến tái phát [55]. Trong một đánh giá có hệ thống về những bệnh nhân đã
25
được điều trị thoát vị bẹn bằng nội soi, kết quả cho thấy việc sử dụng lưới nhẹ
(lightweight mesh) giúp làm giảm tỷ lệ đau mạn tính vùng bẹn bìu, xơ cứng vùng
bẹn và cảm giác dị vật mà không làm tăng nguy cơ thoát vị tái phát so với khi sử
dụng lưới nặng (heavyweight mesh) [56].
Nghiên cứu của tác giả Bell năm 2003 cho thấy lưới 3D có đường viền phù
hợp với cấu trúc giải phẫu vùng bẹn nên thường không cần cố định qua đó làm giảm
tối đa tình trạng đau sau mổ và giảm tỷ lệ tái phát (ít hơn 0,5%), kết quả phục hồi
của bệnh nhân là tuyệt với ngày cả đối với các trường hợp thoát vị bẹn hai bên [10]
Nghiên cứu của Meyer A. và cộng sự [57] năm 2013 với 39 BN được phẫu
thuật TEP đặt tấm lưới nhân tạo 3D cho thấy hiệu quả ứng dụng cao của PTNS với
tấm lưới nhân tạo 3D trong điều trị bệnh lý TVB. Theo quan điểm của tác giả, tấm
lưới nhân tạo 3D với cấu trúc giải phẫu phù hợp với giải phẫu vùng bẹn của BN sẽ
tự động bao kín lấy toàn bộ lỗ cơ lược khi đặt vào khoang trước phúc mạc, hạn chế
một cách tối đa nhất sự di chuyển của tấm nhân tạo, là nguyên nhân gây nên tình
trạng thoát vị tái phát sau phẫu thuật.
Một nghiên cứu khác của tác giả Mir I.S và cộng sự năm 2015 [53] với việc
sử dụng tấm lưới nhân tạo 3D cho 53 trường hợp TVB, kết quả nghiên cứu cho thấy
tấm lưới nhân tạo 3D có tính an toàn và hiệu quả cao, với việc tấm nhân tạo tự cố
định theo với cấu trúc giải phẫu vùng bẹn, sự cố định tấm nhân tạo trong trường hợp
này không cần thiết, do đó giảm thiểu nguy cơ đau sau mổ do tổn thương thần kinh
do việc cố định tấm nhân tạo gây ra. Tuy nhiên, một trong những hạn chế của tấm
lưới nhân tạo 3D là có giá thành cao hơn so với tấm lưới nhân tạo phẳng [53].
Đến nay, nhiều tác giả cho rằng lưới nhân tạo 3D là vật liệu lý tưởng trong
điều trị TVB nội soi [51]. Lưới được làm bằng polypropylene có thiết kế 3D với độ
cong phù hợp với với giải phẫu vùng bẹn, nên việc đặt lưới đều và nhanh chóng
trong khoang trước phúc mạc, các cạnh lưới được đánh dấu cho phép phẫu thuật
viên định hướng chính xác lưới bao phủ toàn bộ lỗ cơ lược mà không phải cố định
và giảm đau sau mổ [58], [53]
26
Nghiên cứu của Tajamul Rashid (2018) [48] và Abhijit Bagul (2019) đều
nhận định việc sử dụng lưới nhân tạo 3D trong PTNS điều trị TVB là một lựa chọn
an toàn và khả thi, mang lại nhiều lợi thế về thời gian đặt lưới ít hơn, thời gian nằm
viện ngắn hơn, giảm tỷ lệ đau mãn tính vùng bẹn bìu và giảm tỷ lệ tái phát sau mổ.
Hơn nữa, việc loại bỏ dụng cụ cố định (chỉ khâu, protack) và thời gian nằm viện
ngắn hơn có thể làm giảm chi phí phẫu thuật của nhóm sử dụng lưới 3D [48]
Bảng 1. 2. Kết quả phẫu thuật điều trị TVB bằng lưới nhân tạo 3D
Số Cố định Đau sau Tái Thời gian Tác giả Phẫu thuật BN lưới mổ phát theo dõi
Cố định với Bell và cs TAPP 146 0 – 1% 0,42% 23 tháng 3 tacks (2003) [10]
Không cố Không Meyer A. và cs TEP 157 0% 26 tháng định ghi nhận (2013) [52]
Không cố 3,7% Mir và cs TEP/TAPP 53 0% 12 tháng định đau vừa (2015) [53]
Không cố Dario và cs Lichtenstein 44 0% 0% 24 tháng định (2015) [59]
Các tác giả cho rằng lưới 3D được thiết kế để phù hợp với giải phẫu vùng
bẹn, đường viền giảm thiểu sự xô lệch và di chuyển lưới mà không cần cố định tăng
cường, qua đó giảm tối thiểu nguy cơ tổn thương thần kinh và giảm đau sau mổ,
giảm thời gian nằm việm sau mổ mà không làm tăng tỷ lệ tái phát [10], [58].
1.4.2. Các bước kỹ thuật
Phương pháp vô cảm và tư thế BN
- Trong hầu hết các nghiên cứu, BN được vô cảm dưới gây mê nội khí quản,
tư thế Trendelenburg (nằm ngửa, đầu thấp), hai tay khép [60], [7], [48]
Tư thế BN: Nằm ngửa đầu thấp - tư thế Trendelenburg
Vị trí kíp mổ: màn hình đặt phía dưới chân BN để thuận tiện cho việc thay
đổi vị trí khi xử lý TVB hai bên, PTV đứng đối diện với từng bên thoát vị, mặt
hướng về phía monitor, người phụ đứng đối diện hoặc cùng bên với PTV [7], [61]
27
Đặt trocar và phẫu tích tạo khoang trước phúc mạc
- Rạch da theo đường ngang tại nếp lằn rốn bên dưới, phẫu tích vào lá trước
cân cơ thẳng bụng.
Hình 1.5. Rạch da và phẫu tích vào lá trước cân cơ thẳng bụng
(Nguồn: Jones D.B. và cs. (2013) [17])
Phẫu tích khoang trước phúc mạc bằng CO2 (Đặt chế độ bơm CO2 với áp lực
từ 10 - 12 mmHg và tốc độ bơm khoảng 3 lít/phút để khí bóc tách khoang ngoài PM
một cách từ từ, đưa optic nội soi qua trocar để quan sát phẫu trường), bằng tay, bằng
bóng chuyên dụng hoặc phối hợp nhiều phương pháp trong những trường hợp khó
khăn do thành bụng dày hoặc dính do sẹo mổ cũ [7], [48].
Hình 1. 6. Trocar kèm bóng chuyên dụng để tạo khoang trước phúc mạc
(Nguồn: Kingsnorth A.N và cs. [62])
28
Hình 1. 7. Phẫu tích tạo khoang trước phúc mạc bằng bóng
(Nguồn: Jones D.B. và cs. (2013) [17])
Tác giả Krishna A. và cs: Tạo khoang trước phúc mạc cả hai bên bằng khí
CO2 kết hợp bóc tách bằng tay, bóng chuyên dụng hoặc optic đến khi quan sát được
xương mu và dây chằng Cooper hai bên. Tiếp theo xác định ĐM thượng vị dưới
(mốc quan trọng trong quá trình phẫu tích và đánh giá tổn thương) [7].
- Trocar dùng cho Optic thường dùng là loại trocar 10 mm được đặt dưới rốn 1
cm, phía sau cơ và trước lá cân sau của cơ thẳng bụng cùng bên thoát vị.
- Hai trocars 5 mm dùng để thao tác, có thể được đặt theo 3 cách:
+ Cách 1: trocar thao tác thứ nhất đặt giữa bờ trên xương mu và rốn, trocar
thứ 2 được đặt bờ trên xương mu (3 trocar nằm trên một đường thẳng). Đây là cách
đặt được nhiều tác giả sử dụng nhất do tạo phẫu trường rộng hơn và dễ dàng thao
tác để điều trị TVB hai bên đồng thời mà không phải thêm trocar [7], [48].
29
Hình 1. 8. Vị trí đặt các trocar trong phẫu thuật TEP sử dụng lưới 3D
(Nguồn: Tajamul Rashid, 2018 [48])
+ Cách 2: một trocar thao tác được đặt giữa xương mu và rốn, trocar thứ 2
đặt tại hố chậu đối diện với bên thoát vị.
+ Cách 3: 2 trocar thao tác hợp với trocar optic thành tam giác đều.
Đánh giá tổn thương
- Sau khi khoang trước phúc mạc hai bên được tạo thành, tiến hành phẫu tích
và đánh giá, phân loại TVB theo từng bên [63]
Hình 1. 9. Đánh giá tổn thương
(Nguồn: Bard Vavol Inc, 2012 [63])
30
Phẫu tích và xử lý túi thoát vị
Hình 1. 10. Phẫu tích và xử lý túi thoát vị
(Nguồn: Bard Vavol Inc, 2012 [63])
- Đối với TVB trực tiếp: xử lý bằng cách kéo thoát vị ra khỏi lỗ thoát vị tại vị
trí tam giác Hesselbach và đẩy trở lại ổ bụng [60], [7], [48].
- Đối với TVB gián tiếp: Nếu túi TV nhỏ thì phẫu tích, cắt bỏ rồi hạ nếp phúc
mạc ra khỏi bó mạch tinh, bó mạch chậu ngoài, thành bụng sau. Túi TV lớn phải
phẫu tích túi thoát vị ra khỏi thừng tinh, khâu treo túi lên cao bằng chỉ không tiêu và
cắt túi ngay tại vị trí lỗ bẹn sâu, để hở đầu xa[7], [48], [60].
- Phẫu tích lấy bỏ tổ chức mỡ ngoài phúc mạc, quanh lỗ bẹn sâu
Bóc tách khoang trước phúc mạc đủ rộng để đặt lưới
- Hạ nếp phúc mạc ra khỏi bó mạch thừng tinh, ống dẫn tinh, bó mạch chậu
ngoài và thành bụng sau. Bộc lộ khoang trước phúc mạc đủ rộng để đặt tấm lưới sao
cho tấm lưới che phủ hoàn toàn lỗ cơ lược, không bị co gấp.
Theo Krishna A., khi bóc tách khoang trước phúc mạc hai bên, cần xác định rõ
các thành phần của tam giác Doom và tam giác đau. Giới hạn bên của diện bóc tách
là gai chậu trước trên. Phía dưới, phúc mạc được bóc tách xuống cho đến khi thấy
cân chậu (iliac fascia). Thực hiện thao tác tương tự với bên thoát vị còn lại [7]
31
Hình 1. 11. Bóc tách khoang trước phúc mạc đủ rộng để đặt lưới
(Nguồn: Bard Vavol Inc, 2012 [63])
Đặt và cố định lưới
Sau khi khoang trước phúc mạc vùng bẹn hai bên được phẫu tích đủ rộng, tiến
hành đưa hai tấm lưới nhân tạo 3D vào:
- Cuộn nhỏ tấm lưới 3D xung quanh dụng cụ nội soi, đưa qua trocar 10mm
vào khoang trước phúc mạc [7].
Hình 1. 12. Cuộn lưới vào dụng cụ nội soi để đưa qua trocar 10mm
(Nguồn: Bard Vavol Inc, 2012 [63])
32
- Đặt tấm lưới che phủ toàn bộ lỗ cơ lược hai bên (thường sử dụng 2 tấm lưới
riêng biệt) và đặt chồng lên thừng tinh [7]:
+ Đặt lưới 3D sao cho rãnh góc bên ngoài tấm lưới được đặt trên các mạch
chậu bên ngoài. Đỉnh của lưới sẽ tương ứng với dây chằng bẹn.
+ Điểm đánh dấu định hướng (màu xanh) đặt ở củ xương mu giúp căn chỉnh
tấm lưới đúng vị trí
+ Bờ trên của lưới được đặt đủ xa về phía trước để che phủ toàn bộ lỗ cơ
lược (khoảng cách từ các bờ của tấm lưới tới lỗ cơ lược ít nhất 2,5 – 3 cm).
+ Hầu hết các trường hợp không cần phải cố định lưới.
+ Trong các trường hợp phẫu tích khoang trước phúc mạc không đủ rộng, do
thành bụng dày dính, tấm lưới không được trải phẳng và che phủ toàn bộ vùng bẹn
(theo cấu trúc giải phẫu), cố định tăng cường lưới bằng khâu hoặc Protack vào các
vị trí dây chằng Cooper, dải chậu mu hoặc cơ ngang bụng. Điều quan trọng là tránh
các khu vực có thể xảy ra tổn thương mạch máu (tam giác Doom) hoặc thần kinh
(tam giác đau)
Hình 1. 13. Đặt lưới 3D che phủ toàn bộ lỗ cơ lược
(Nguồn: Bard Vavol Inc, 2012 [63])
Xả khí CO2 từ từ để phúc mạc ép lên tấm lưới
Đóng các lỗ trocar
33
1.5. Tình hình nghiên cứu về kết quả PTNS TEP điều trị TVB hai bên
Năm 2003, Lau H. và cộng sự [64] báo cáo 103 BN được PTNS TEP điều trị
TVB hai bên, thời gian theo dõi xa và so sánh với nhóm BN cùng độ tuổi đã trải qua
PTNS TEP một bên cùng thời gian. Thời gian phẫu thuật trong nghiên cứu là 97
phút (nhóm TVB 2 bên) và 64 phút (nhóm TVB 1 bên). Thời gian hồi phục, nằm
viện sau mổ trung bình là 1,7 ngày (nhóm TVB 2 bên) so với 1,5 ngày (nhóm TVB
1 bên), tỷ lệ tai biến, biến chứng chung sau phẫu thuật [64]
Năm 2011, Yoon Young Choi và cộng sự nghiên cứu 112 trường hợp TVB
được điều trị bằng PTNS TEP: Tuổi trung bình của BN là 55,98 ± 12,71, nam giới
chiếm 96,4%, 42,9% TV trực tiếp, 43,7% TV gián tiếp và 12,9% TV hỗn hợp, thời
gian phẫu thuật trung bình là 33,0 ± 12,48 phút, nằm viện sau mổ trung bình 0,89 ±
0,43 ngày. Biến chứng sớm 5,8% tụ dịch vùng bẹn bìu. Chi phí điều trị trung bình ở
BN TVB hai bên được điều trị bằng PTNS TEP đặt lưới nhân tạo là 938 đô la Mỹ
[65]. Với thời gian theo dõi trung bình 38 tháng (3 - 63 tháng), có 12 trường hợp
(19,7%) đau mạn tính vùng bẹn bìu, 1 BN tái phát (0,89%). Tác giả khẳng định
PTNS TEP đặt lưới nhân tạo điều trị TVB là an toàn và khả thi. Tỷ lệ tái phát và
biến chứng sau phẫu thuật tương đương với phẫu thuật từng bên. Điều trị đồng thời
thoát vị hai bên có ưu điểm không phải nhập viện thêm, giảm thời gian quay trở lại
sinh hoạt và hiệu quả về chi phí [65]
Năm 2012, nghiên cứu của Markus Gass và cộng sự [2] trên 6.505 BN TVB
một bên và 3.048 trường hợp TVB hai bên được điều trị bằng PTNS TEP đặt lưới
nhân tạo cho thấy tỷ lệ tai biến ở BN được điều trị TEP hai bên cao hơn (3,1% so
với 1,9%) và biến chứng sau phẫu thuật (3,2% so với 2,3%), thời gian phẫu thuật
lâu hơn đối với TEP hai bên (86 so với 67 phút). Không có sự khác biệt đáng kể nào
về thời gian nằm viện sau mổ và tỷ lệ chuyển mổ. Tuy nhiên các tác giả nhận định,
sự tăng nhẹ của các tai biến, biến chứng là chấp nhận được bởi việc sửa chữa 2 bên
cùng lúc sẽ tránh được tất cả các vấn đề tiềm ẩn, sự bất tiện và chi phí của hai lần
nằm viện và hai cuộc phẫu thuật, mỗi lần BN được gây mê toàn thân [2], [66]. Vì
vậy, đối với những BN bị TVB hai bên, phương pháp nội soi sử dụng kỹ thuật TEP
34
là một lựa chọn điều trị phù hợp, có thể được thực hiện với kết quả tương tự như
phương pháp sửa chữa thoát vị một bên [2], [66], [14]
Năm 2015, Kockerling F. [67] công bố nghiên cứu phân tích tổng hợp so
sánh PTNS đặt lưới nhân tạo hoàn toàn ngoài phúc mạc điều trị TVB hai bên và
một bên với cỡ mẫu 9395 BN, trong đó có 2695 BN (28,69%) thoát bị bẹn hai bên.
Kết quả nghiên cứu ở nhóm TVB hai bên cho thấy: tuổi trung bình của BN là 56,1 ±
14,4, nam giới chiếm 94,58%. Phân loại sức khỏe đa số là ASA II 58,37%, ASA I
29,65%, ASA III 11,8% và 0,19% ASA IV. Đường kính lỗ thoát vị từ 1,5 – 3 cm
chiếm 60,85%, nhóm < 1,5 cm là 11,84% và nhóm > 3 cm là 27,31%. Tai biến
trong mổ có 39 trường hợp (1,45%). Thời gian phẫu thuật trung bình 60,3 phút, nằm
viện sau mổ trung bình 1,8 ngày, biến chứng sớm 1,82% [67]
Năm 2016, Juan M.S.G PTNS TEP đặt lưới nhân tạo 3D điều trị TVB hai
bên cho 20 trường hợp. Tất cả BN là nam giới, tuổi trung bình 43 (28 – 77 tuổi),
thời gian phẫu thuật trung bình là 35 phút (20 - 45 phút); thời gian đặt lưới là 3 phút
(1 - 8 phút), không trường hợp nào phải chuyển phương pháp. Biến chứng sớm có
9% tụ dịch vùng bẹn bìu, không có các biến chứng khác được ghi nhận. Bệnh nhân
xuất viện sau 24 giờ phẫu thuật. Trong thời gian theo dõi xa 6 tháng không ghi nhận
biến chứng xa hay tái phát [68]
Năm 2017, nghiên cứu của Tolga A. và cs [69] được thực hiện trên số 300
bệnh nhân TVB, trong đó 137 trường hợp TVB hai bên được điều trị bằng PTNS
TEP sử dụng lưới nhân tạo 3D. Tuổi trung bình của BN là 55,5. ASA I 33,3%, ASA
II 50% và ASA III 16,7%. Phân loại sức khỏe theo BMI 1,6% BN gầy, 42% BN thể
trạng trung bình, 46,7% BN thừa cân và 9,7% BN béo phì. 100% lưới 3D không cần
cố định tăng cường bằng protak hay keo fibrin. Thời gian phẫu thuật trung bình là
55 phút. Không trường hợp nào phải thêm trocar hay chuyển mổ mở. Tỷ lệ tái phát
sau mổ là 0,3%. Tác giả cho rằng việc PTNS TEP sử dụng lưới 3D có đường viền
theo cấu trúc giải phẫu vùng bẹn giải phẫu mà không cần phải cố định, qua đó làm
giảm tối đa nguy cơ tổn thương thần kinh gây đau mãn tính sau mổ.
Cùng năm đó, nghiên cứu của Kalpesh H. Patel và cs thực hiện trên 60 BN
35
TVB hai bên, kết quả cho thấy PTNS điều trị TVB hai bên đồng thời không làm
tăng nguy cơ cho BN và có tỷ lệ tai biến, biến chứng tương đương so với phẫu thuật
từng bên, thời gian nằm viện, trở lại làm việc bình thường và hồi phục sau PTNS
đồng thời hai bên nhanh hơn so với mổ mở. PTNS nên được khuyến cáo là tiêu
chuẩn vàng trong điều trị thoát vị hai bên [14]
Năm 2018, Előd E. và cộng sự so sánh PTNS và mổ mở điều trị thoát vị bẹn
hai bên. Kết quả thấy ở nhóm PTNS, thời gian nằm viện ngắn hơn đáng kể (p =
0,026), ít đau sau mổ hơn (p = 0,03) và trở lại sinh hoạt bình thường nhanh hơn (p =
0,043) so với mổ mở. Mặt khác, những bệnh nhân được phẫu thuật thoát vị bằng
lưới 3D không cần cố định có điểm số đau thấp hơn, trở lại làm việc sớm hơn và bắt
đầu nhanh các hoạt động thể chất bình thường so với các loại lưới khác được sử
dụng để điều trị thoát vị bẹn hai bên. Đối với những bệnh nhân trải qua phẫu thuật
mở thông thường, có thời gian mổ ngắn hơn đáng kể (p = 0,042) [70]
Elmessiry M.M. (2020) và Leibl B.J. (2005) lựa chọn PTNS TAPP để điều
trị TVB hai bên do TAPP có ưu điểm là dễ thực hiện hơn, khả năng tiêu chuẩn hóa,
đường cong học tập ngắn hơn và khả năng thực hiện nội soi ổ bụng chẩn đoán [12],
[71], [72]. Mặc dù vậy, Takayama Y. cho rằng phẫu thuật TAPP có tỷ lệ đau sớm
sau phẫu thuật cao hơn đáng kể, thời gian phẫu thuật lâu hơn, và tỷ lệ biến chứng
cao hơn so với TEP [73]
Năm 2021, nghiên cứu của Masato Ota và cộng sự trên 259 bệnh nhân được
bao gồm, 134 (51,7%) TVB một bên và 125 (48,3%) TVB hai bên được điều trị
bằng PTNS TEP: Thời gian phẫu thuật trung bình của nhóm TVB hai bên là 167 ±
55 phút, dài hơn đáng kể so với nhóm TVB một bên 129 ± 48 phút (p < 0,05), tuy
nhiên tỷ lệ tái phát ở nhóm TVB 2 bên lại thấp hơn so với nhóm TVB một bên
(0,4% so với 1,5%, p < 0,05). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ tai
biến, biến chứng. Ở nhóm TVB hai bên, có 22 trường hợp (17,4%) tụ dịch vùng bẹn
bìu, 1 nhiễm khuẩn vết mổ (0,8%), 2 tụ máu vùng bẹn bìu (1,6%), không trường
hợp nào đau mạn tính [32].
Cũng trong năm 2021, Gundogdu E. và cộng sự thực hiện 49 trường hợp
36
PTNS Robot điều trị thoát vị bẹn hai bên (33 TEP /16 TAPP), kết quả: Đặc điểm
bệnh lý tương đương ở cả hai nhóm. Không có sự khác biệt giữa các nhóm về điểm
ASA (P = 0,09), thời gian phẫu thuật lâu hơn ở nhóm RTAPP (P = 0,001), thời gian
nằm viện tương tự nhau ở cả hai nhóm (P = 0,11), không có trường hợp nào tái phát
nào được ghi nhận ở cả hai nhóm. Khi so sánh các biến chứng chung, người ta thấy
rằng nhóm RTAPP có tỷ lệ biến chứng thấp hơn có ý nghĩa thống kê (P = 0,02).
Thời gian theo dõi trung bình lâu hơn ở nhóm LTEP (P = 0,04). Tổng chi phí bệnh
viện cho RTAPP và LTEP lần lượt là 3968 đô la và 2506 đô la [74]
Năm 2022, Nils J.H. và cộng sự công bố kết quả phẫu thuật 132 trường hợp
TVB hai bên, trong đó 55 (41,7%) mổ mở và 77 (58,3%) PTNS TEP, kết quả thấy
rằng có sự khác biệt về thời gian phẫu thuật trung bình ở nhóm mổ mở ngắn hơn so
với nhóm PTNS (56 phút so với 108 phút, p <0,001). Tuy nhiên, không có sự khác
biệt đáng kể nào về tỷ lệ biến chứng hoặc tái phát. PTNS giúp giảm đau sau mổ
(trung bình 2,2 so với 3,1 điểm, p = 0,021) và giảm tình trạng đau mạn tính vùng
bẹn bìu (1,3% so với mổ mở 12,7%, p = 0,009) [75]
Tại Việt Nam, năm 2017, Phan Đình Tuấn Dũng nghiên cứu trên 67 BN
TVB được PTNS TEP đặt tấm lưới nhân tạo 3D ngoài phúc mạc, trong đó có 12 BN
TVB hai bên. Thời gian phẫu thuật trung bình ở nhóm BN này là 88,3 ± 24,6 (65-
120 phút), kết quả sớm 83,3% tốt, 16,7% khá [4]
37
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 60 BN trên 18 tuổi được chẩn đoán trong mổ là TVB hai bên và được
điều trị bằng PTNS hoàn toàn ngoài phúc mạc đặt tấm lưới nhân tạo 3D tại Bệnh
viện Thanh Nhàn, thời gian từ tháng 01/2017 đến hết tháng 11/2020.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- BN trên 18 tuổi;
- Được chẩn đoán là TVB hai bên dựa vào đánh giá trong mổ và được điều trị
bằng PTNS hoàn toàn ngoài phúc mạc (TEP) đặt tấm lưới nhân tạo 3D.
- Hồ sơ bệnh án đầy đủ theo chỉ tiêu nghiên cứu.
- BN đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- BN được chẩn đoán thoát vị bẹn hai bên trước mổ nhưng trong mổ chỉ ghi
nhận thoát vị bẹn 1 bên.
- Các trường hợp TVB một bên, TVB nghẹt, tái phát.
- BN có chống chỉ định với PTNS TEP điều trị thoát vị bẹn (đã trình bày ở
phần tổng quan tài liệu)
- BN đang có nhiễm khuẩn toàn thân hoặc tại vùng bẹn hai bên.
- Điểm phân loại sức khỏe trước gây mê hồi sức ASA > III
- BN có rối loạn đông máu
- BN không đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Hồ sơ không đủ thông tin theo chỉ tiêu nghiên cứu hoặc thất lạc dữ liệu
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu kết hợp tiến cứu, theo dõi dọc, không đối chứng
2.2.1. Cỡ mẫu nghiên cứu
Cỡ mẫu được tính theo công thức:
2 n=z1−α /2
(1− p) p ε2
38
Trong đó:
n là cỡ mẫu tối thiểu
z1-α/2= 1,96 (chọn α = 0,05; độ tin cậy 95%);
ε = 0,05 (ε là độ sai lệch mong muốn 5%).
p: tỷ lệ mong muốn PTNS điều trị TVB 2 bên thành công là 96%
Thay vào công thức ta có, số lượng BN nghiên cứu tối thiểu là 56 BN
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu
Nhóm hồi cứu: từ tháng 01/2017 đến hết tháng 12/2017 có 10 BN
- BN được phẫu thuật nội soi điều trị TVB hai bên theo đúng quy trình kỹ
thuật như nhóm tiến cứu.
- Lấy bệnh án tại phòng lưu trữ hồ sơ của bệnh viện.
- Tổng hợp và nhập thông tin BN theo mẫu bệnh án nghiên cứu đã thiết kế sẵn.
Nhóm tiến cứu: từ tháng 01/2018 đến hết tháng 11/2020 có 50 BN
- Lựa chọn các BN phù hợp với tiêu chuẩn của đối tượng nghiên cứu.
- BN được phẫu thuật theo đúng quy trình đã thông qua đề cương nghiên cứu
và giống với quy trình kỹ thuật trong nhóm hồi cứu.
- Các thông tin được thu thập qua mẫu bệnh án nghiên cứu, mẫu theo dõi BN
được thiết kế sẵn. Phương pháp thu thập thông tin:
+ Thăm khám lâm sàng, cận lâm sàng BN trước khi phẫu thuật.
+ Tham gia trực tiếp các ca phẫu thuật. Đối với các trường hợp không thể
tham gia được, chúng tôi ghi lại hình ảnh các kỹ thuật trong mổ.
+ Theo dõi điều trị BN khi nằm viện và đánh giá tại thời điểm ra viện.
+ Ghi nhận các thông tin theo chỉ tiêu nghiên cứu.
2.2.4. Quy trình PTNS đặt tấm lưới nhân tạo 3D ngoài phúc mạc điều trị TVB
hai bên được thực hiện trong nghiên cứu
2.2.4.1. Chuẩn bị BN
- Tất cả BN vào viện đều được thăm khám lâm sàng, làm các xét nghiệm
thăm dò cận lâm sàng: Siêu âm ổ bụng, sinh hóa máu, huyết học cơ bản. Các xét
39
nghiệm khác: Siêu âm tim (đối với BN trên 60 tuổi), điện tâm đồ, XQ ngực, …
- Giải thích cho BN và gia đình về kỹ thuật mổ (bao gồm kỹ thuật PTNS đặt
tấm lưới nhân tạo 3D ngoài phúc mạc và các phương pháp chuyển đổi trong trường
hợp không thực hiện được kỹ thuật PTNS), những tai biến trong mổ và biến chứng
sau mổ có thể xảy ra.
- BN nhịn ăn uống hoàn toàn trước phẫu thuật tối thiểu 6 giờ.
- Thụt tháo đại tràng sạch phân 2 lần trước phẫu thuật bằng Fleet 133ml:
- Vệ sinh sạch sẽ vùng mổ, đánh dấu vết mổ
- Cho BN đi tiểu 30 phút trước phẫu thuật, đảm bảo bàng quang xẹp. Không
đặt sonde tiểu trước và trong quá trình phẫu thuật.
- Kháng sinh dự phòng trước mổ: sử dụng nhóm Cephalosporin thế hệ II hoặc
thế hệ III 1gram x 01 lọ tiêm tĩnh mạch trước khi tiến hành phẫu thuật 30 phút và nhắc
lại 1gram đường tĩnh mạch sau mổ 6 giờ.
2.2.4.2. Chuẩn bị dụng cụ và phương tiện phẫu thuật
- Dàn máy PTNS có đầy đủ các thiết bị như: Màn hình, đầu thu phát hình ảnh
từ camera, máy bơm khí CO2, nguồn sáng lạnh
- Bộ dụng cụ PTNS thông thường
Hình 2.1. Bộ dụng cụ phẫu thuật nội soi
(Nguồn: Bệnh viện Thanh Nhàn)
+ Các trocar gồm: 01 trocar 10 mm và 02 trocar 5 mm.
40
+ Optic nội soi đường kính 10 mm và 5 mm, góc nhìn 30o hoặc 0o
+ Các dụng cụ phẫu tích nội soi: Panh mềm nội soi 5 mm (grasper), panh
phẫu tích nội soi 5 mm (dissector)
+ Móc điện (L-hook), kìm mang kim, kéo nội soi, ống hút,
+ Clip Hemolock 5 mm, 10 mm
- Bộ dụng cụ mổ mở thông thường: Dao, panh, kéo cắt chỉ, kìm kẹp kim, phẫu
tích có mấu và không mấu, các loại chỉ khâu (Ethilon 3/0, Vicryl 2/0, 3/0)
- Tấm lưới nhân tạo 3D: Chúng tôi sử dụng loại tấm lưới nhân tạo 3D của
hãng Bard – Davol (Pháp) có tên thương mại là 3DMax TM Mesh với cấu tạo bằng
polypropylene, kích thước 8,5 x 13,7 cm hoặc 10,8 x 16 cm
Hình 2. 2. Tấm lưới nhân tạo 3D MaxTM Mesh của hãng Bard – Davol [63]
Bảng 2. 1. Các thông số của tấm lưới nhân tạo polypropylene
(Nguồn: Công ty B/Braun và Công ty Bard-Davol [63])
Đặc tính 3D MAXTM Mesh
Chất liệu Polypropylen đơn sợi
Cấu trúc Dạng lưới
Trọng lượng 80-85g/m2
Kích thước lỗ 1mm
Hình dạng Uốn lượn 3 chiều
Bờ viền Có
2.2.4.3. Trình độ, năng lực của người thực hiện
41
- Bác sĩ chẩn đoán hình ảnh: Trình độ bác sĩ, thạc sĩ trở lên, có chứng chỉ
chuyên ngành chẩn đoán hình ảnh.
- Bác sĩ gây mê: Trình độ bác sĩ, thạc sĩ trở lên, có chứng chỉ chuyên ngành gây
mê hồi sức.
- Bác sĩ phẫu thuật: Tất cả BN được thực hiện phẫu thuật bởi một kíp PTV
thống nhất. Trong đó PTV chính trình độ thạc sĩ chuyên ngành ngoại tiêu hóa, đã được
đào tạo chuyên sâu về phẫu thuật nội soi TEP điều trị thoát vị bẹn tại Singapore
2.2.4.4. Phương pháp vô cảm, tư thế BN và vị trí kíp phẫu thuật
- Phương pháp vô cảm: Gây mê nội khí quản
- Tư thế BN: BN nằm ngửa tư thế Trendelenburg (đầu thấp 10 – 15o), hai tay
khép dọc thân mình, hai chân khép và được cố định vào bàn mổ bằng đai cố định ở
chân ngang mức 2 đầu gối.
- Vị trí kíp phẫu thuật:
Hình 2. 3. Vị trí kíp phẫu thuật
(Nguồn: Bệnh viện Thanh Nhàn)
+ PTV đứng đối diện với bên thoát vị đang phẫu thuật, mặt hướng về phía màn
hình. Người phụ cầm optic đứng phía trên của phẫu thuật viên. Sau đó PTV sẽ đổi bên
để xử lý túi thoát vị bên đối diện. Dụng cụ viên đứng đối diện phẫu thuật viên, phía
dưới màn hình.
+ Sử dụng một hoặc hai màn hình nội soi đặt ở hai bên ngang hông bệnh nhân.
42
Trong trường hợp sử dụng một màn hình, đặt màn hình phía dưới chân bệnh nhân, kéo
hơi chếch đối diện phẫu thuật viên và cùng bên thoát vị đang thao tác sao cho thẳng
trục phẫu thuật viên – bên thoát vị – màn hình. Do thiết bị cần giữ màn hình trên dàn
nội soi dài và linh hoạt nên việc chuyển đổi vị trí màn hình chếch sang phải hoặc trái
khi thao tác từng bên thoát vị khá dễ dàng.
+ Bàn dụng cụ được đặt cạnh dàn nội soi phía dưới chân BN.
2.2.4.5. Kỹ thuật mổ được thực hiện trong nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành phẫu thuật nội soi đặt tấm lưới 3D hoàn toàn ngoài phúc
mạc (TEP) điều trị thoát vị bẹn hai bên cùng một lúc. Theo thứ tự:
+ Phẫu tích khoang trước phúc mạc và xử lý túi thoát vị bên phải
+ Đổi vị trí màn hình và phẫu thuật viên, phẫu tích khoang trước phúc mạc và xử lý
túi thoát vị bên trái, đặt lưới nhân tạo 3D che phủ lỗ cơ lược bên trái
+ Đổi vị trí, đặt lưới 3D che phủ lỗ cơ lược bên phải
+ Xả khí CO2, đóng bụng
Các bước kỹ thuật cụ thể được mô tả như sau:
Bước 1: Rạch da và đặt trocar
- Rạch da theo đường ngang ngay dưới vòng cân rốn dài khoảng 15 – 20 mm,
mở lá trước bao cơ thẳng bụng, phẫu tích tách lớp cân cơ cho đến lá sau của cân cơ
ngang bụng, hướng về phía bên thoát vị, dùng panh vén và nâng lớp cơ lên để bộc lộ
khoang trước phúc mạc
- Trocar đầu tiên với đường kính 10mm được đặt vào khoang trước phúc mạc
qua chỗ bộc lộ trực tiếp, sau đó tiến hành nâng nhẹ và đưa đầu trocar vào sâu theo
hướng tạo thành một góc 60o về phía xương cùng.
Bước 2: Tạo khoang trước phúc mạc và đặt các trocar thao tác
- Phẫu tích trên đường giữa: Kính soi phẫu thuật (optic) 0o được đưa qua
trocar 10 để quan sát trực tiếp khoang trước phúc mạc. Tiến hành bơm CO 2 đến
áp lực không quá 12 mmHg với tốc độ bơm 3 lít/phút. Phẫu tích tạo phẫu trường
mổ bằng ngón tay hoặc bằng đầu của kính soi phẫu thuật. Trong các trường hợp
43
thành bụng dày hoặc dính gây khó khăn, có thể sử dụng trocar kèm bóng chuyên
dụng đưa vào sau đó bơm bóng căng lên để bóc tách tạo khoang trước phúc mạc
Phẫu trường đủ rộng khi bộc lộ rõ ràng các mốc giải phẫu: xương mu, thừng
tinh và bó mạch thượng vị dưới.
- Tiếp tục phẫu tích bộc lộ xuống phía dưới xương mu, chếch ra phía ngoài
cho đến khi thấy dây chằng Cooper thì dừng lại và phẫu tích rộng ra hai bên để
tạo phẫu trường, lưu ý tránh làm tổn thương động mạch thượng vị dưới trong giai
đoạn này. Trocar thứ 2 với đường kính 5mm được đặt ở vị trí trung điểm đường nối
giữa rốn và xương mu trên đường trắng giữa dưới rốn. Trocar thứ 3 được đặt ngay
phía trên xương mu 2cm trên đường trắng giữa dưới rốn. Trocar thứ hai và thứ ba
được đặt dưới sự quan sát trực tiếp của kính soi phẫu thuật để tránh gây tổn thương
mạch máu, các tạng bên trong ổ bụng hay thủng phúc mạc.
- Trong các trường hợp khó khăn khi phẫu tích hoặc xảy ra tai biến gây khó
khăn cho phẫu thuật (tổn thương mạch máu, thủng phúc mạc,…) có thể thêm 1
trocar 10mm ở hố chậu phải hoặc trái để hỗ trợ (tùy theo tổn thương và đánh giá của
phẫu thuật viên)
Hình 2. 4. Vị trí đặt trocar
Trong trường hợp thoát vị trực tiếp, túi thoát vị sẽ được quan sát thấy trước
khi nhìn thấy bó mạch thượng vị dưới trong quá trình phẫu tích.
44
Hình 2. 5. Tạo khoang trước phúc mạc bằng tay và khí CO2
(Nguồn: BN Vũ Công Ph., mã bệnh án 020328)
Phẫu tích thành bên khoang trước phúc mạc hai bên
- Giới hạn để phẫu tích tạo khoang trước phúc mạc ra thành bên là bộc lộ
được đường cung bên của nếp phúc mạc, bó mạch thượng vị dưới hai bên
và thành bụng bên. Trong trường hợp đường cung mở rộng xuống về phía dưới,
chúng tôi dùng kéo cắt một phần chỗ tiếp giáp về phía dưới của cung bên (không
cần đốt điện) rồi sau đó tiến hành phẫu tích ra ngoài thành bên khoang ngoài
phúc mạc một cách an toàn, tránh chảy máu và tạo được phẫu trường rộng rãi, tuy
nhiên quá trình này cần cẩn thận vì dễ có nguy cơ gây thủng phúc mạc. Phẫu tích
ra thành bên được thực hiện cho đến khi bộc lộ được phần bên dưới của cơ thắt
lưng chậu.
- Khoang ngoài phúc mạc thành bên bao gồm những tổ chức mô lỏng lẻo nên
thường có thể thực hiện phẫu tích một cách dễ dàng bằng kẹp phẫu tích mà không
gây ra tổn thương gì.
45
Hình 2. 6. Phẫu tích thành bên khoang trước phúc mạc
(Nguồn: BN Vũ Công Ph., mã bệnh án 020328)
Bước 3: Phẫu tích, phân loại, xử lý túi thoát vị
- Xác định TVB thể trực tiếp ở vị trí phía trong động mạch thượng vị dưới, sau
đó tiến hành phẫu tích lấy toàn bộ túi, ở phía dưới cần phẫu tích túi đến vị trí vượt
quá bờ dưới của túi thoát vị khoảng 3cm và đẩy lại vào trong khoang phúc mạc.
Phẫu tích phúc mạc ra khỏi bó mạch tinh hoàn, ống dẫn tinh, bó mạch chậu -
ngoài và thành bụng sau.
- Phẫu tích và lấy đi các búi mỡ tiền phúc mạc ở vùng lỗ cơ lược hai bên.
Đánh giá thành bẹn sau, ghi nhận kích thước túi thoát vị.
Hình 2. 7. Phẫu tích và xử lý túi thoát vị bên phải
(Nguồn: BN Vũ Công Ph., mã bệnh án 020328)
46
- Trong quá trình phẫu tích nếu có thủng phúc mạc, phẫu trường bị thu hẹp,
chúng tôi dùng kim Verres hoặc catheter chọc vào ổ phúc mạc vị trí ngang rốn phía
ngoài cơ thẳng bụng khoảng 1cm, đồng thời hạ áp lực ổ phúc mạc xuống còn 8-10
mmHg để làm giảm áp lực CO2 trong ổ bụng, tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật
viên, tránh làm thu hẹp phẫu trường. Sau đó tiền hành khâu buộc lại lỗ thủng phúc
mạc bằng chỉ Vicryl 3.0 hoặc kẹp bằng Clip Hemolock. Nếu lỗ thủng nhỏ, chúng
tôi tiến hành tăng tốc độ bơm CO2 và tiếp tục phẫu thuật như bình thường, đến khi
kết thúc phẫu thuật thì mở vào khoang bụng qua trocar rốn để xả khí CO2 sau đó
khâu phục hồi lại cân rốn
Tiến hành tạo khoang phúc mạc và xử lý túi thoát vị lần lượt từng bên
Bước 4: Đặt tấm lưới nhân tạo
Sau khi khoang trước phúc mạc vùng bẹn hai bên được phẫu tích đủ rộng, tiến
hành đưa hai tấm lưới nhân tạo 3D vào
- Tấm lưới nhân tạo được cuộn lại theo đầu của kẹp phẫu tích và được đưa
vào khoang trước phúc mạc qua trocar 10 ở rốn.
Hình 2. 8. Đặt lưới nhân tạo ngoài phúc mạc bên trái
(Nguồn: BN Vũ Công Ph., mã bệnh án 020328)
- Đặt tấm lưới che phủ toàn bộ lỗ cơ lược hai bên (thường sử dụng 2 tấm lưới
47
3D-Max Mesh riêng biệt cho từng bên thoát vị, kích thước 8,5 x 13,7 cm hoặc 10,8
x 16 cm) và đặt chồng lên thừng tinh [7]:
+ Đặt lưới 3DMax mesh sao cho rãnh góc bên ngoài tấm lưới được đặt trên
các mạch chậu bên ngoài.
+ Đỉnh của lưới sẽ tương ứng với dây chằng bẹn.
+ Điểm đánh dấu định hướng (màu xanh) đặt ở củ xương mu giúp căn chỉnh
tấm lưới đúng vị trí
+ Bờ trên của lưới được đặt đủ xa về phía trước để che phủ toàn bộ lỗ cơ
lược (khoảng cách từ các bờ của tấm lưới tới lỗ cơ lược ít nhất 2,5 – 3 cm).
+ Hầu hết các trường hợp không cần phải cố định lưới. Trong các trường hợp
phẫu tích khoang trước phúc mạc không đủ rộng, do thành bụng dày dính, tấm lưới
không được trải phẳng và che phủ toàn bộ vùng bẹn (theo cấu trúc giải phẫu), cố
định tăng cường lưới bằng khâu hoặc Protack vào các vị trí dây chằng Cooper, dải
chậu mu hoặc cơ ngang bụng. Điều quan trọng là tránh các khu vực có thể xảy ra
tổn thương mạch máu (tam giác Doom) hoặc thần kinh (tam giác đau)
Tiến hành tương tự đối với túi TVB bên đối diện
Bước 5: Xả khí CO2, đóng bụng
- Tiêu chuẩn đánh giá trước khi đóng bụng: Tấm lưới nhân tạo 3D được đặt
vào đúng vị trí, che phủ hoàn toàn vùng bẹn hai bên mà không bị co kéo hay gập
góc; phẫu trường khô, sạch, không có chảy máu.
- Sau khi kiểm tra đủ tiêu chuẩn, khí CO2 ở trong khoang trước phúc mạc
được xả hoàn toàn bằng cách xả van ở trocar rốn dưới sự quan sát trực tiếp bằng
camera qua màn hình, túi thoát vị được đặt ở phía sau của tấm lưới nhân tạo.
Trong quá trình xả khí CO2 cũng như đặt túi thoát vị sau tấm nhân tạo, chú ý đến
các góc nhằm tránh sự di chuyển cũng như sự gấp lại của lưới.
48
Hình 2. 9. Xả khí CO2 dưới quan sát của camera
(Nguồn: BN Vũ Công Ph., mã bệnh án 020328)
- Sau đó trocar 10mm ở rốn được lấy ra, lá trước bao cân cơ thẳng bụng được
khâu lại bằng chỉ Vicryl 2/0. Nếu trong quá trình phẫu thuật có làm thủng phúc mạc
thì dùng 1 dụng cụ phẫu tích đầu nhọn để mở phúc mạc ở rốn cho khí CO2 thoát ra,
sau đó tiến hành khâu phúc mạc lại bằng chỉ Vicryl 3/0.
- Khâu da ở các lỗ trocar bằng chỉ Ethilon 3/0.
- Băng vết thương. Kết thúc phẫu thuật.
2.2.5. Các chỉ tiêu nghiên cứu
2.2.5.1. Đặc điểm bệnh lý TVB hai bên ở người lớn được PTNS đặt lưới 3D
ngoài phúc mạc.
- Tuổi: Chia thành các nhóm:
Từ 18 – < 40 tuổi
Từ 40 – < 60 tuổi
≥ 60 tuổi
Tuổi trung bình, lớn nhất, nhỏ nhất
- Giới tính: Nam/ nữ
- Nghề nghiệp:
+ Nông dân.
49
+ Công nhân.
+ Giáo viên, nhân viên văn phòng.
+ Cán bộ hưu trí, hết tuổi lao động.
+ Lao động tự do
- Bệnh nội khoa kết hợp
+ Các bệnh có liên quan tới bệnh nguyên và bệnh sinh của TVB: Phì đại
lành tính tiền liệt tuyến, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính,…
+ Bệnh nội khoa kèm theo có thể ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật: Đái
tháo đường type II, tăng huyết áp,…
- Tiền sử phẫu thuật vùng bụng
+ PTNS cắt ruột thừa
+ PTNS cắt túi mật
+ Mổ mở tầng trên ổ bụng
+ Mổ mở tầng dưới ổ bụng
+ Tiền sử phẫu thuật khác (ghi cụ thể)
- Phân loại sức khỏe theo bảng điểm ASA của hiệp hội gây mê Hoa Kỳ
(American Society of Anaesthesiologists) [76]:
+ Loại I: Tình trạng sức khỏe tốt.
+ Loại II: Có một bệnh nhưng không ảnh hưởng đến sinh hoạt
+ Loại III: Có một bệnh ảnh hưởng đến sinh hoạt của BN (đái tháo đường,
loét hành tá tràng, sỏi đường mật, sỏi thận….).
+ Loại IV: BN có bệnh nặng đe dọa đến tính mạng của BN (Phình ĐM,
bệnh van tim, nhồi máu cơ tim…).
+ Loại V: Tình trạng BN quá nặng, hấp hối không còn khả năng sống được
24 giờ dù có phẫu thuật hay không phẫu thuật.
BMI =
Cân nặng( Kg) [Chiều cao( m)]2
- Chỉ số khối cơ thể BMI (Body Mass Index) tính theo công thức [77]:
+ BMI < 18,5: Gầy
50
+ BMI = 18,5 – < 25,0: Bình thường
+ BMI = 25,0 – < 30: Thừa cân
+ BMI ≥ 30: Béo phì
Lâm sàng
- Lý do vào viện
+ Khối phồng vùng bẹn.
+ Khối phồng và đau vùng bẹn.
Thời gian phát hiện bệnh (tháng): Tính từ khi BN phát hiện triệu chứng lần -
đầu tiên đến thời điểm vào viện để phẫu thuật.
Triệu chứng cơ năng -
+ Khối phồng vùng bẹn phải
+ Khối phồng vùng bẹn trái
+ Khối phồng vùng bẹn hai bên
+ Đau tức vùng bẹn phải
+ Đau tức vùng bẹn trái
+ Đau tức vùng bẹn hai bên
+ Triệu chứng khác (ghi cụ thể)
Cận lâm sàng
Chúng tôi sử dụng máy siêu âm khảo sát với đầu dò 7,5MHz (5 - 12 MHz) để đánh
giá tổn thương và phân loại TVB trước mổ
- Có phát hiện được túi thoát vị bên phải/ trái hoặc cả hai bên?
- Phân loại TVB theo vị trí giải phẫu đã nêu ở phần tổng quan [78], [20]:
- Nội dung túi thoát vị
+ Không thấy
+ Ruột non
+ Mạc nối
+ Bàng quang
+ Tạng khác (ghi cụ thể)
51
Đặc điểm tổn thương trong mổ
+ Phát hiện túi thoát vị bên phải/ trái/ hai bên
+ Phân loại TVB theo vị trí giải phẫu (đã nêu ở trên)
+ Phân loại TVB theo Nyhus đã nêu ở phần tổng quan (trang 16) [30], [31]:
+ Đánh giá nội dung túi thoát vị (từng bên)
Không có Ruột non
Mạc nối Bàng quang
Tạng khác (ghi cụ thể)
+ Đường kính túi thoát vị (cm): Khi bộc lộ rõ túi TV, dùng một thước vải vô
trùng đưa vào khoang trước phúc mạc để đo đường kính túi thoát vị. Kẹp chỉ bằng
dissector và đưa qua trocar 10 mm vào để đo kích thước ở chỗ rộng nhất của túi TV
(phải, trái), ghi nhận kết quả và chia thành các nhóm theo tác giả Kockerling F. [67]:
< 1,5 cm 1,5 - < 3 cm ≥ 3cm
Hình 2. 10. Đo đường kính túi thoát vị
(Nguồn: BN Cao Việt H., mã bệnh án 36578)
2.2.5.2. Các chỉ tiêu phục vụ mục tiêu 2: Đánh giá kết quả PTNS đặt tấm lưới
nhân tạo 3D điều trị TVB 2 bên ở người lớn.
a. Kết quả trong mổ
Chúng tôi thực hiện quy trình phẫu thuật như đã nêu ở mục 2.2.4.4 và ghi nhận
52
các chỉ tiêu liên quan đến đặc điểm kỹ thuật cũng như kết quả khó khăn, thuận lợi theo
từng bước.
Các khó khăn trong mổ là những yếu tố gây cản trở quá trình phẫu thuật bao
gồm các yếu tố khách quan liên quan đến đặc điểm người bệnh như thành bụng dày,
dính do mổ cũ,… do thao tác kỹ thuật (lưới bị mắc lại, lưới không tự bung, lưới bị trôi
khỏi vị trí đặt, phẫu tích khoang trước phúc mạc không đủ rộng,…) hoặc những tai
biến không mong muốn do phẫu thuật viên gây ra như thủng phúc mạc, tổn thương
mạch máu, thần kinh, tổn thương các tạng lân cận,…
Bước phẫu thuật được đánh giá là thuận lợi khi được thực hiện đúng theo quy
trình mà không gặp khó khăn hay tai biến gì.
- Kết quả bước 1: Đặt trocar và phẫu tích khoang trước phúc mạc:
+ Số lượng trocar: 3 trocar/ 4 trocar
+ Phương pháp phẫu tích khoang trước phúc mạc
Bằng Optic Bằng CO2
Lóc tách bằng ngón tay Bằng bóng chuyên dụng
Phương pháp khác (ghi cụ thể)
+ Áp lực CO2 duy trì (tính theo mmHg)
+ Xác định các mốc giải phẫu khoang trước phúc mạc hai bên
Xương mu Thừng tinh
Bó mạch thượng vị dưới Dây chằng Cooper
Khoang phúc mạc thành bên
+ Kết quả: Khó khăn/ Thuận lợi
+ Cách xử trí khó khăn (nếu có)
- Kết quả bước 2: Phẫu tích bộc lộ túi thoát vị
+ Kết quả: Khó khăn/ Thuận lợi
+ Cách xử trí khó khăn (nếu có)
- Kết quả bước 3: Phẫu tích và xử lý túi thoát vị
Ghi nhận chỉ tiêu đặc điểm kỹ thuật theo từng bên phải/ trái
+ Lấy bỏ tổ chức mỡ tiền phúc mạc và lỗ cơ lược: Có/ không
53
+ Cách xử lý túi thoát vị:
Thắt và cắt ngang túi thoát vị
Đẩy túi thoát vị vào trong ổ bụng
+ Kết quả: Khó khăn/ Thuận lợi
+ Cách xử trí khó khăn (nếu có)
- Kết quả bước 4: Đặt và cố định tấm lưới nhân tạo
Ghi nhận chỉ tiêu đặc điểm kỹ thuật theo từng bên phải/ trái
+ Kích thước lưới: Chúng tôi sử dụng 2 loại lưới 3D với kích thước
Lưới nhỏ: 8,5 x 13,7 cm
Lưới to: 10,8 x 16 cm
+ Lưới che phủ được toàn bộ lỗ cơ lược: có/ không
+ Khoảng cách bờ dưới tấm lưới và lỗ thoát vị (cm)
+ Cố định lưới tăng cường: có/ không
+ Dung cụ cố định tăng cường (nếu có): Khâu/ protack/ keo sinh học
+ Kết quả: Khó khăn/ Thuận lợi
+ Cách xử trí khó khăn (nếu có)
- Kết quả bước 5: Xả khí CO2, đóng bụng
+ Kết quả: Khó khăn/ Thuận lợi
+ Cách xử trí khó khăn (nếu có)
- Tổng số tai biến trong mổ: Là những sai sót về thao tác phẫu thuật ở các
bước gây ra những tổn thương không mong muốn ở tạng hoặc các tổ chức
lân cận. Cụ thể:
+ Tổn thương mạch máu (ĐM chậu ngoài, bó mạch thượng vị dưới,
ĐM bịt, nhánh mạch máu xương mu, bó mạch tinh): Khi đang phẫu tích thấy
máu chảy ra từ các nhánh mạch máu.
+ Tổn thương thần kinh (Các nhánh của thần kinh chậu bẹn, chậu hạ vị
và nhánh sinh dục của thần kinh sinh dục đùi)
+ Tổn thương ống dẫn tinh
54
+ Tổn thương tạng: Thủng bàng quang (khi phẫu tích thấy nước tiểu
chảy ra trường mổ), tổn thương ruột, tổn thương mạc nối.
+ Thủng phúc mạc
- Thêm trocar: Có/ không. Lý do, vị trí vàloại trocar thêm.
- Chuyển phương pháp phẫu thuật:
Chuyển mổ mở hoặc phẫu thuật TAPP
Lý do chuyển phương pháp (nếu có)
- Thời gian đặt và cố định lưới (phút): Tính từ lúc đưa tấm lưới nhân tạo
vào trocar 10 ở rốn cho đến lúc xả hết khí CO2 ở khoang trước phúc mạc và
rút hết các trocar
- Tổng thời gian phẫu thuật (phút): Tính từ lúc bắt đầu rạch da đến khi hoàn
tất khâu da
b. Kết quả sớm: Được tính từ lúc phẫu thuật xong tới khi bệnh nhân ra viện
- Thời gian đau sau mổ: Được đánh giá dựa trên cảm giác đau (nhận xét của
bác sĩ điều trị) và nhu cầu sử dụng thuốc giảm đau của BN. Đánh giá mức độ đau
sau mổ theo thang điểm VAS tại các thời điểm ngày thứ nhất, thứ hai và thứ ba sau
mổ: Dựa vào cảm giác đau và mô tả đau của BN
Bảng 2. 2. Mức độ đau theo thang điểm VAS [79]
Mô tả Điểm Mức độ đau bằng lời
Đau rất nhẹ 1 – 2 Không đáng kể, không cần dùng thuốc giảm đau
Đau nhẹ 3 – 4 Chịu được, chỉ cần dùng thuốc giảm đau dạng uống
Khó chịu, cần dùng thuốc giảm đau dạng tiêm không Đau vừa 5 – 6 gây nghiện
Khó chịu, cần dùng thuốc giảm đau dạng tiêm gây Đau nhiều 7 – 8 nghiện
Không chịu nổi, dù đã dùng thuốc giảm đau dạng tiêm Đau rất nhiều 9 – 10 gây nghiện
55
- Thời gian trung tiện: Được tính từ khi kết thúc cuộc mổ cho tới khi BN có
trung tiện (tính bằng giờ).
- Thời gian trở lại sinh hoạt bình thường sau mổ (tính bằng ngày)
- Biến chứng sớm là biến chứng xảy ra trong thời gian BN nằm viện.
+ Bí tiểu: Là hiện tượng có nước tiểu trong bàng quang nhưng BN không
thể nào đái ra được, khám có cầu bàng quang; phải thông tiểu [80].
+ Nhiễm khuẩn vết mổ: Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm khuẩn vết mổ theo
CDC (Center for Disease Control and Prevention) năm 1999 [81], chia làm 3 mức
độ nông, sâu và cơ quan:
Nhiễm khuẩn vết mổ nông: Chỉ xuất hiện ở vùng da hay vùng dưới da tại
đường mổ và có ít nhất một trong những triệu chứng sau:
Chảy mủ từ vết mổ nông
Phân lập vi khuẩn từ cấy dịch được lấy vô trùng từ vết mổ;
Có ít nhất một trong những dấu hiệu hay triệu chứng: đau, sưng,
nóng đỏ và cần tách vết mổ.
Bác sĩ chẩn đoán nhiễm khuẩn vết mổ nông.
Nhiễm khuẩn vết mổ sâu: Xảy ra ở mô mềm sâu (cân/cơ) của đường mổ.
Nhiễm khuẩn vết mổ tại cơ quan hoặc khoang phẫu thuật: Xảy ra ở bất
kỳ nội tạng nào (ngoại trừ da, cân, cơ) đã được xử lý trong phẫu thuật.
+ Tụ máu vùng bìu: Vùng bìu bầm tím, sưng nề, mất nếp nhăn
+ Tụ dịch vùng bìu: Vùng bìu sưng nề, mất nếp nhăn nhưng không có
bầm tím.
+ Tê bì vùng đùi ngoài: Đánh giá theo cảm giác chủ quan của BN mô tả
và vẽ lại giới hạn vùng tê bì.
- Thời gian nằm viện sau mổ (ngày): Là thời gian từ khi BN kết thúc phẫu
thuật cho tới khi xuất viện.
- Đánh giá kết quả sớm: Dựa theo tiêu chuẩn của Sinha R. [82] gồm 4 mức:
+ Tốt: Không xuất hiện biến chứng sớm sau mổ.
56
+ Khá: Có biến chứng nhưng không cần phải can thiệp như: tê bì vùng đùi, tụ
máu, tụ dịch bìu tự hấp thu, điều trị nội khoa có hiệu quả.
+ Trung bình: Có biến chứng phải can thiệp nhưng không phải phẫu thuật lại
như: Bí tiểu phải đặt thông tiểu, tụ máu hoặc tụ thanh dịch vùng bìu phải chọc hút,
nhiễm khuẩn vết mổ nông phải tách vết mổ.
+ Kém: Phải can thiệp phẫu thuật lại* hoặc tử vong trong quá trình nằm viện.
*Các biến chứng cần phải can thiệp phẫu thuật lại như: Chảy máu trong ổ
bụng hoặc khoang trước phúc mạc (Phải mổ lại cầm máu), áp xe dư (Mổ lại làm
sạch, dẫn lưu ổ áp xe),…
c. Kết quả xa: Được tính từ khi BN ra viện tới thời điểm kết thúc nghiên cứu
Để đánh giá kết quả xa của PTNS hoàn toàn ngoài phúc mạc đặt tấm lưới
nhân tạo 3D điều trị TVB hai bên trong nghiên cứu, chúng tôi lập kế hoạch theo dõi,
tái khám BN vào các thời điểm sau mổ 1 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm và thời điểm
kết thúc nghiên cứu (tháng 12/2020).
+ Đối những BN đến viện khám lại: Chúng tôi tiến hành đánh giá các triệu
chứng lâm sàng (tình trạng vết mổ, tình trạng đau, khám lâm sàng vùng bẹn bìu,
khác triệu chứng lâm sàng khác nếu có), siêu âm vùng bẹn bìu hai bên đánh giá vị
trí lưới, có tái phát hay không,…
+ Đối với những BN không có điều kiện tái khám: Chúng tôi gọi điện thoại
(phỏng vấn theo bộ câu hỏi ở phiếu theo dõi được thiết kế sẵn) hoặc liên hệ theo địa
chỉ đã ghi lại để thu thập thông tin, yêu cầu BN chụp ảnh vết mổ, kết quả siêu âm
(nếu có làm tại cơ sở y tế địa phương) gửi qua email Khi khám trực tiếp hoặc phỏng
vấn BN qua điện thoại, chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi được xây dựng dựa trên các
chỉ tiêu của nghiên cứu này (phụ lục)
Các chỉ tiêu nghiên cứu được ghi nhận
- Tỷ lệ BN theo dõi xa
- Tỷ lệ BN mất liên lạc (Không liên lạc được với số điện thoại của BN và gia
đình ghi trong bệnh án gốc)
- Thời gian theo dõi trung bình: Tính từ lúc BN ra viện tới thời điểm khám
57
kết thúc nghiên cứu (tháng 12/2020)
- Biến chứng xa:
+ Đau vùng bẹn: BN có cảm giác khó chịu, đau rát vùng bẹn dưới 3
tháng sau mổ.
+ Đau mạn tính vùng bẹn bìu: BN có cảm giác khó chịu hoặc đau rát
vùng bẹn bìu kéo dài trên 3 tháng sau mổ [83], [84].
+ Đau thừng tinh và tinh hoàn: BN thấy đau dọc từ bẹn xuống tinh hoàn
theo đường đi của thừng tinh.
+ Tấm lưới di chuyển khỏi vị trí đặt: Đánh giá dựa vào kết quả siêu âm
tại các thời điểm tái khám với hình ảnh tấm lưới bị cuộn lại hoặc di chuyển khỏi vị
trí ban đầu, không che phủ hoàn toàn lỗ cơ lược.
+ Nhiễm khuẩn mảnh ghép là nhiễm khuẩn sâu, hiếm gặp, thường xảy ra
muộn nhiều tháng hoặc một năm sau phẫu thuật [42].
+ Thoát vị vết mổ: Xảy ra do lớp cân cơ thành bụng tại vết mổ cũ bị hở,
khi đó tạng trong ổ bụng chui qua hoặc nằm ngay dưới lớp da.
+ Tràn dịch màng tinh hoàn: là hiện tượng ứ nước trong bao tinh hoàn
bên trong bìu. Biểu hiện: bìu to dần lên, da căng bóng nhưng hai tinh hoàn không sa
xuống; nghiệm pháp kẹp da bìu âm tính; soi đèn pin vào bìu ánh sáng có thể xuyên
qua dễ dàng [80].
+ Teo tinh hoàn: Tinh hoàn teo nhỏ hơn bên đối diện.
- Tái phát: Sau mổ lần này BN xuất hiện TVB tái phát cùng bên, cần xác định
thời gian tái phát (tháng), đã mổ lại ở cơ sở nào chưa?
- Đánh giá kết quả xa: Dựa theo tiêu chuẩn của Sinha R. [82] gồm 4 mức:
+ Tốt: Không có biến chứng, không tái phát.
+ Khá: Tràn dịch màng tinh hoàn tự hấp thu hoặc chọc hút không thấy dịch
tái lập.
+ Trung bình: Đau mạn tính vùng bẹn bìu, đau thừng tinh và tinh hoàn đáp
ứng tốt với điều trị nội khoa (cường độ đau giảm dần và hết) trong vòng 1 năm.
58
+ Kém: Tái phát; đau mạn tính vùng bẹn bìu, đau thừng tinh và tinh hoàn
kéo dài trên 1 năm, không đáp ứng với điều trị nội khoa hoặc cần phải can thiệp
phẫu thuật; teo tinh hoàn.
2.2.6. Xử lý số liệu
- Các số liệu được xử lí bằng phần mềm thống kê y học SPSS 20.0.
- Sử dụng các thuật toán:
+ Các biến liên tục được biểu diễn dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch
chuẩn (X ± SD). So sánh kết quả giữa các biến liên tục bằng test t-student.
+ Các biến định tính thứ tự và rời rạc trình bày dưới dạng tỷ lệ %. So sánh
kết quả các biến định tính bằng kiểm định khi bình phương (χ2).
+ So sánh giữa hai nhóm biến số định lượng phân bố chuẩn bằng phép kiểm
Independent Samples T-test.
+ Sự khác biệt giữa các so sánh được coi là có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
- Loại trừ các sai số do chủ quan: hai người thu thập thông tin một cách độc
lập, nhập số liệu độc lập. Sau đó đối chiếu lại thông tin.
2.2.7. Đạo đức nghiên cứu của đề tài
- PTNS đặt tấm lưới nhân tạo 3D ngoài phúc mạc điều trị TVB hai bên đã
được Hội đồng khoa học và Hội đồng đạo đức Bệnh viện Thanh Nhàn thông qua và
triển khai từ năm 2016, đảm bảo tính an toàn, khả thi của phương pháp.
- Nghiên cứu được Hội đồng chấm đề cương luận án tiến sĩ – Trường Đại
học Y Dược Hải Phòng thông qua, đảm bảo tính khoa học và khả thi.
- Những can thiệp được thông báo rõ cho BN để họ tự nguyện tham gia
nghiên cứu. Những BN không đồng ý tham gia không bị phân biệt đối xử.
- Số liệu thu thập có tính chính xác, khách quan, trung thực.
- Mọi thông tin của BN đều được bảo mật và chỉ phục vụ cho mục đích
nghiên cứu.
59
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua nghiên cứu 60 bệnh nhân (10 hồi cứu, 50 tiến cứu) thoát vị bẹn hai bên
(tổng số 120 túi thoát vị) được điều trị bằng PTNS hoàn toàn ngoài phúc mạc đặt tấm
lưới nhân tạo 3D tại Bệnh viện Thanh Nhàn, thời gian từ tháng 01/2017 đến hết
tháng 11/2020, chúng tôi rút ra một số kết quả sau:
3.1. Đặc điểm bệnh lý TVB hai bên ở người lớn được PTNS đặt lưới 3D
ngoài phúc mạc
3.1.1. Đặc điểm chung
3.1.1.1. Tuổi
Bảng 3.1. Tuổi
Số bệnh nhân Nhóm tuổi Tỷ lệ % (n = 60)
21 35,0 18 - < 40
56,7
13 21,7 40 - < 60
26 43,3 ≥ 60
51,0 ± 19,0 Tuổi trung bình,
(18 - 84 tuổi) (Nhỏ nhất, lớn nhất)
Nhận xét:
- Tuổi trung bình của BN là 51,0 ± 19,0 tuổi. Đa số trong nhóm dưới 60 tuổi
chiếm 56,7%.
3.1.1.2. Giới tính
100% bệnh nhân là nam.
60
3.1.1.3. Nghề nghiệp
Bảng 3.2. Nghề nghiệp
Số bệnh nhân Tỷ lệ % Nghề nghiệp (n = 60)
Hưu trí 22 36,7
Lao động tự do 22 36,7
Công nhân 6 10,0
Nông dân 1 1,7
Sinh viên 5 8,3
Nhân viên văn phòng 4 6,7
Tổng 60 100
Nhận xét: Nhóm BN hưu trí và lao động tự do chiếm tỷ lệ cao 36,7% và 36,7%
3.1.1.4. Bệnh nội khoa kết hợp
Bảng 3.3. Bệnh nội khoa kết hợp
Số bệnh nhân Bệnh nội khoa kết hợp Tỷ lệ % (n = 60)
Tăng huyết áp 7 11,7
Đái tháo đường 2 3,3
Phì đại tiền liệt tuyến 8 13,3
Tổng 17 28,3
Nhận xét: 17/60 bệnh nhân (28,3%) có bệnh nội khoa kết hợp. Trong đó phì đại
tiền liệt tuyến chiếm đa số với 13,3%.
61
3.1.1.5. Tiền sử phẫu thuật vùng bụng
Bảng 3.4. Tiền sử phẫu thuật vùng bụng
Số bệnh nhân Tiền sử phẫu thuật vùng bụng Tỷ lệ % (n = 60)
PTNS cắt ruột thừa 3,3 2
PTNS cắt túi mật 1,7 1
Mổ mở cắt ruột thừa 1,7 1
Tổng 6,7 4
Nhận xét:
- 4/60 bệnh nhân (6,7%) có tiền sử phẫu thuật vùng bụng, trong đó PTNS cắt
ruột thừa chiếm 3,3%
3.1.1.6. Phân loại sức khỏe theo ASA
Biểu đồ 3.1. Phân loại sức khỏe theo ASA
Nhận xét:
- Số BN có phân loại sức khỏe theo ASA loại II chiếm đa số với 53,3%
62
3.1.1.7. Phân loại theo chỉ số khối cơ thể (BMI)
Bảng 3.5. Phân loại theo chỉ số khối cơ thể (BMI)
Số bệnh nhân Phân loại theo chỉ số khối cơ thể (BMI) Tỷ lệ % (n = 60)
Gầy 6 10,0
Bình thường 47 78,3
Thừa cân 7 11,7
BMI trung bình, 21,6 ± 2,4
(Nhỏ nhất, lớn nhất) (17,0 – 27,6 kg/m2)
Nhận xét:
- Chỉ số BMI trung bình của nhóm BN nghiên cứu là 21,6 ± 2,4 kg/m2. Đa số
BN thuộc nhóm phân loại BMI bình thường, chiếm 78,3%
3.1.2. Đặc điểm bệnh lý
3.1.2.1. Thời gian phát hiện bệnh
Bảng 3.6. Thời gian phát hiện bệnh
Số bệnh nhân Thời gian phát hiện bệnh (tháng) Tỷ lệ % (n = 60)
< 12 44 73,3
12 – < 36 5 8,3
≥ 36 11 18,4
Thời gian phát hiện bệnh trung bình, 11,02 ± 6,28
(Nhỏ nhất, lớn nhất) (1 – 84 tháng)
Nhận xét:
- Thời gian phát hiện bệnh trung bình là 11,02 ± 6,28 tháng. 73,3% BN có thời
gian phát hiện bệnh < 12 tháng.
63
3.1.2.2. Triệu chứng lâm sàng
Bảng 3.7. Triệu chứng lâm sàng
Số bệnh nhân Triệu chứng lâm sàng Tỷ lệ % (n = 60)
Khối phồng vùng bẹn 2 bên 36 60,0
Đau tức vùng bẹn 2 bên 18 30,0
Khối phồng kèm đau tức vùng bẹn 2 bên 6 10,0
Nhận xét:
- Đa số bệnh nhân khám thấy khối phồng vùng bẹn 2 bên, chiếm 60,0%
- 6 bệnh nhân (10,0%) xuất hiện khối phồng kèm đau tức vùng bẹn 2 bên
3.1.2.3. Siêu âm vùng bẹn trước mổ
Bảng 3.8. Phân loại thoát vị bẹn từng bên theo siêu âm trước mổ
Túi thoát vị bên phải Túi thoát vị bên trái
Phân loại thoát vị bẹn (n = 60) (n = 60)
theo siêu âm n Tỷ lệ n Tỷ lệ %
40 66,7 36 60,0 Trực tiếp
20 33,3 24 40,0 Gián tiếp
60 100 60 100 Tổng
Nhận xét:
- Tất cả các BN đều phát hiện được túi thoát vị bẹn hai bên qua siêu âm
- Phân loại theo siêu âm trước mổ: Ở cả bên phải và bên trái, thoát vị trực tiếp
điều chiếm đa số với lần lượt 66,7% và 60%
64
Bảng 3.9. Phân loại thoát vị bẹn cả hai bên theo siêu âm trước mổ
Phân loại thoát vị bẹn cả hai bên Tổng số túi thoát vị Tỷ lệ % theo siêu âm trước mổ (n = 120)
Trực tiếp 63,3 76
Gián tiếp 36,7 44
Tổng 100 120
Nhận xét: Tính trên tổng số túi thoát vị, kết quả siêu âm trước mổ thoát vị bẹn trực
tiếp chiếm đa số với 63,3%
Bảng 3.10. Đánh giá tạng thoát vị từng bên theo siêu âm trước mổ
Túi thoát vị bên phải Túi thoát vị bên trái
Tạng thoát vị theo (n = 60) (n = 60)
siêu âm trước mổ Tỷ lệ % Tỷ lệ % n n
1 1,7 0 0 Không có
40 66,7 47 78,3 Ruột non
10 16,7 6 10,6 Mạc nối
9 15,0 7 11,7 Ruột non và mạc nối
60 100 60 100 Tổng
Nhận xét:
- Siêu âm túi thoát vị ở bên phải và bên trái, tạng thoát vị là ruột non chiếm đa
số với lần lượt 66,7% và 78,3%
65
Bảng 3.11. Phân loại thoát vị bẹn cả hai bên theo siêu âm trước mổ
Tạng thoát vị theo Tổng số túi thoát vị Tỷ lệ % siêu âm trước mổ (n = 120)
Không thấy 1 0,8
Ruột non 87 72,5
Mạc nối 16 13,3
Ruột non và mạc nối 16 13,3
Tổng 120 100
Nhận xét: Tính trên tổng số túi thoát vị, kết quả siêu âm trước mổ: tạng thoát vị đa
phần là ruột non, chiếm 72,5%. 1 trường hợp (0,8%) không thấy tạng thoát vị.
3.1.2.4. Đặc điểm tổn thương trong mổ
Bảng 3.12. Phân loại thoát vị bẹn theo vị trí giải phẫu trong mổ
Túi thoát vị bên phải Túi thoát vị bên trái
Phân loại TVB theo vị trí (n = 60) (n = 60)
giải phẫu trong mổ n Tỷ lệ n Tỷ lệ %
40 66,7 36 60,0 Trực tiếp
20 33,3 24 40,0 Gián tiếp
60 100 60 100 Tổng
Nhận xét:
- Phân loại thoát vị bẹn theo vị trí giải phẫu trong mổ
+ Bên phải: Thoát vị trực tiếp chiếm 66,7%, thoái vị gián tiếp 33,3%
+ Bên trái: Thoát vị trực tiếp chiếm 60,0%, thoái vị gián tiếp 40,0 %
Bảng 3.13. Phân loại thoát vị bẹn cả hai bên trong mổ
66
Phân loại thoát vị bẹn cả hai bên Tổng số túi thoát vị Tỷ lệ % (n = 120) trong mổ
Trực tiếp 76 63,3
Gián tiếp 44 36,7
Tổng 120 100
Nhận xét: Tính trên tổng 120 túi thoát vị, nhận định trong mổ thấy thoát vị trực tiếp
chiếm đa số với 63,3%
- Trong mổ không ghi nhận túi thoát vị nào có tạng chui vào.
Bảng 3.14. Tương quan thoát vị bẹn hai bên trên một bệnh nhân
Tương quan TVB hai bên Số bệnh nhân Tỷ lệ % trên một bệnh nhân (n = 60)
36 60,0 Cả 2 bên cùng TV trực tiếp
20 33,3 Cả 2 bên cùng TV gián tiếp
4 6,7 1 bên trực tiếp, 1 bên gián tiếp
60 100 Tổng
Nhận xét: Đa số bệnh nhân có thoát vị bẹn 2 bên cùng là trực tiếp, chiếm 60%
4 bệnh nhân (6,7%) có phân loại TVB 2 bên khác nhau
Bảng 3.15. Phân loại thoát vị bẹn theo Nyhus trong mổ
67
Túi thoát vị bên phải Túi thoát vị bên trái
Phân loại TVB theo (n = 60) (n = 60)
Nyhus trong mổ n Tỷ lệ n Tỷ lệ %
I 3 5,0 1 1,7
II 13 21,7 19 31,7
IIIA 40 66,7 36 60,0
IIIB 4 6,7 4 6,7
Tổng 60 100 60 100
Nhận xét:
- Phân loại thoát vị bẹn theo Nyhus trong mổ: Ở cả bên phải và bên trái, thoát
vị bẹn Nyhus IIIA chiếm đa số với lần lượt 66,7% và 60,0%
Bảng 3.16. Phân loại thoát vị bẹn theo Nyhus cả hai bên trong mổ
Phân loại thoát vị bẹn theo Nyhus Tổng số túi thoát vị Tỷ lệ % cả hai bên trong mổ (n = 120)
I 4 3,3
II 32 26,7
IIIA 76 63,3
IIIB 8 6,7
Tổng 120 100
Nhận xét: Tính trên tổng 120 túi thoát vị, nhận định trong mổ thấy thoát vị Nyhus
IIIA chiếm đa số với 63,3%
Bảng 3.17. Đường kính túi thoát vị trong mổ
68
Túi thoát vị bên phải Túi thoát vị bên trái
(n = 60) (n = 60) Đường kính túi thoát vị
n Tỷ lệ n Tỷ lệ %
< 1,5 cm 10 16,7 6 10,0
1,5 - < 3 cm 45 75,0 47 78,3
≥ 3 cm 5 8,3 7 11,7
Đường kính trung bình 2,08 ± 0,56 cm 2,24 ± 0,52 cm
(Nhỏ nhất – lớn nhất) (1,1 – 3,2 cm) (1,2 – 3,5 cm)
p > 0,05
Nhận xét: Đường kính trung bình túi TV bên phải là 2,08 ± 0,56 cm, bên trái là
2,24 ± 0,52 cm. Không có sự khác biệt về đường kính của túi TV 2 bên (p > 0,05)
Đường kính túi TV từ 1,5 - < 3cm chiếm đa số với tỷ lê 75% (bên phải) và
78,3% (bên trái).
Bảng 3.18. Phân loại đường kính túi thoát vị cả hai bên trong mổ
Tổng số túi thoát vị Đường kính túi thoát vị Tỷ lệ % (n = 120)
< 1,5 cm 16 13,3
1,5 - < 3 cm 92 76,7
≥ 3 cm 12 10
Tổng 120 100
Nhận xét: 92 túi thoát vị (76,7%) có đường kính từ 1,5 - < 3 cm
Bảng 3.19. Đường kính túi thoát theo phân loại vị trí giải phẫu
69
Đường kính túi thoát vị (cm) Phân loại túi thoát vị Số lượng
theo vị trí giải phẫu túi TV Hẹp nhất Trung bình Rộng nhất
Thoát vị trực tiếp 76 1,1 2,10 ± 0,51 3,3
Thoát vị gián tiếp 44 1,1 2,26 ± 0,59 3,5
p > 0,05
Nhận xét: Đường kính trung bình túi TV trực tiếp là 2,10 ± 0,51 cm, gián tiếp là
2,26 ± 0,59 cm. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05)
Bảng 3.20. Đường kính túi thoát theo phân loại Nyhus
Đường kính túi thoát vị (cm) Phân loại túi thoát vị Số lượng
theo phân loại Nyhus túi TV Hẹp nhất Trung bình Rộng nhất
I 4 1,1 1,23 ± 0,13 1,4
II 32 1,8 2,15 ± 0,31 2,9
IIIA 76 1,1 2,10 ± 0,51 3,3
IIIB 8 3,0 3,20 ± 0,18 3,5
p < 0,01
Nhận xét: Đường kính trung bình túi TV Nyhus I là nhỏ nhất (1,23 ± 0,13 cm),
Nyhus IIIB là lớn nhất (3,20 ± 0,18 cm). Có sự khác biệt về đường kính túi thoát vị
giữa các nhóm TV phân loại Nyhus (p < 0,01)
3.2. Kết quả PTNS đặt tấm lưới nhân tạo 3D điều trị TVB hai bên
70
3.2.1. Kết quả trong mổ
3.2.1.1. Bước 1: Đặt trocar và phẫu tích khoang trước phúc mạc
Bảng 3.21. Phương pháp phẫu tích khoang trước phúc mạc
Phương pháp phẫu tích Số bệnh nhân Tỷ lệ % khoang trước phúc mạc (n = 60)
Lóc tách bằng ngón tay và khí CO2 55 91,7%
Bằng bóng chuyên dụng 2 3,3%
Kết hợp lóc tách bằng ngón tay, 3 5,0% khí CO2 và móc điện
Nhận xét:
- Đa số trường hợp chúng tôi phẫu tích tạo khoang trước phúc mạc bằng ngón
tay và khí CO2, chiếm 91,7%.
Bảng 3.22. Kết quả bước 1
Số BN Xử lý khó khăn Kết quả bước 1 Tỷ lệ % (n = 60) (Nếu có)
Thuận lợi 51 85,0
Thành bụng dính Gỡ dính 1 1,7
Thành bụng dày 2 3,3 Phẫu tích bằng bóng
Khó khăn Thủng phúc mạc 4 6,7 Kẹp Clip lỗ thủng
Dính và thủng Gỡ dính, kẹp clip lỗ 2 3,3 phúc mạc thủng
Nhận xét: 85% BN được thực hiện bước 1 thuận lợi. 15,0% có khó khăn, trong đó
6,7% thủng phúc mạc đơn thuần.
3.2.1.2. Bước 2: Bộc lộ túi thoát vị
71
Bảng 3.23. Kết quả bước 2
Số BN Xử lý khó khăn Kết quả bước 2 Tỷ lệ % (n = 60) (nếu có)
Thuận lợi 56 93,3
Chảy máu nhánh ĐM 2 3,3 Đốt điện cầm máu thượng vị dưới
Khó Gỡ dính 1 Thành bụng dính 1,7 khăn bằng móc điện
Tiến hành phẫu tích
1 Thủng phúc mạc 1,7 bình thường, sau dùng
kim Veress để xả khí
Nhận xét: 93,3% BN được thực hiện bước 2 thuận lợi, 6,7% có khó khăn do chảy
máu nhánh ĐM thượng vị dưới, thành bụng dính hoặc thủng phúc mạc.
3.2.1.3. Bước 3: Phẫu tích và xử lý túi thoát vị
Bảng 3.24. Phẫu tích và xử lý túi thoát vị từng bên
Túi thoát vị bên phải Túi thoát vị bên trái
Phẫu tích và xử lý túi (n = 60) (n = 60)
thoát vị n Tỷ lệ n Tỷ lệ %
Đẩy túi thoát vị vào ổ bụng 40 66,7 36 60,0
Thắt và cắt túi thoát vị 20 33,3 24 40,0
Tổng 60 100 60 100
Nhận xét: Tỷ lệ đẩy túi thoát vị vào ổ bụng chiếm tỷ lệ 66,7% túi TVB phải và 60%
túi TVB trái.
Bảng 3.25. Phẫu tích và xử lý túi thoát vị hai bên
72
Tổng số túi thoát vị Phẫu tích và xử lý túi thoát vị Tỷ lệ % (n = 120)
Đẩy túi thoát vị vào ổ bụng 76 63,3
Thắt và cắt túi thoát vị 44 36,7
Tổng 120 100
Nhận xét:
- 76 túi thoát vị bẹn trực tiếp (63,3%) được đẩy vào trong ổ bụng
- 44 túi thoát vị gián tiếp (36,7%) được thắt và cắt tại cổ túi thoát vị
Bảng 3.26. Kết quả bước 3
Số BN Xử lý khó khăn Kết quả bước 3 Tỷ lệ % (n = 60) (nếu có)
Thuận lợi 58 96,6
Tổn thương đứt ĐM Thêm 1 trocar 10 mm hỗ 1 1,7 thượng vị dưới bên phải trợ kep clip cầm máu Khó
khăn Tổn thương bó mạch 1 1,7 Đốt điện cầm máu thừng tinh phải
Nhận xét: 96,6% BN được thực hiện bước 3 thuận lợi. 3,4% có khó khăn đều nằm
ở bên phải, bao gồm tổn thương ĐM thượng vị dưới và tổn thương bó mạch thừng
tinh phải.
3.2.1.4. Bước 4: Đặt và cố định lưới nhân tạo
73
Bảng 3.27. Loại lưới nhận tạo 3D sử dụng trong mổ
Túi thoát vị bên phải Túi thoát vị bên trái
Loại lưới nhân tạo 3D (n = 60) (n = 60)
sử dụng trong mổ n Tỷ lệ n Tỷ lệ %
Lưới nhỏ 48 80,0 48 80,0 8,5 x 13,7 cm
Lưới to 12 20,0 12 20,0 10,8 x 16 cm
Tổng 60 100 60 100
Nhận xét: Tất cả BN đươc phục hồi thành bẹn mỗi bên bằng một tấm lưới nhân tạo
3D để che phủ hoàn toàn lỗ cơ lược. Đa số trường hợp (80,0%) sử dụng tấm loại
nhỏ 8,5 x 13,7 cm
Bảng 3.28. Loại lưới 3D sử dụng theo đường kính túi thoát vị
Đường kính túi thoát vị (cm) Số lượng Loại lưới 3D sử dụng túi TV Hẹp nhất Trung bình Rộng nhất
Lưới nhỏ 96 1,1 3,0 2,03 ± 0,46
Lưới to 24 1,2 3,5 2,66 ± 0,57
p < 0,01
Nhận xét: Loại lưới to được sử dụng đối với những túi thoát vị có đường kính trung
bình 2,66 ± 0,57 cm, trong khi đó lưới nhỏ được sử dụng với túi thoát vị có đường
kính 2,03 ± 0,46 cm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01)
Bảng 3.29. Loại lưới 3D sử dụng theo phân loại Nyhus
74
Loại lưới 3D Loại lưới 3D sử dụng Tổng Lưới nhỏ Lưới to
4 0 4 I
100% 0% 100% (n = 4)
30 2 32 II
93,75% 6,25% 100% (n = 32)
62 14 76 IIIA
81,58% 18,42% 100% (n = 76)
0 8 8 IIIB
0% 100% 100% (n = 8)
Nhận xét: Đối với phân loại Nyhus I, II, IIIA chủ yếu sử dụng lưới 3D kích
thước nhỏ với tỷ lệ lần lượt 100%, 93,75% và 81,58%
100% túi thoát vị Nyhus IIIB được sử dụng lưới 3D loại to
Bảng 3.30. Cố định tăng cường lưới
Túi thoát vị bên phải Túi thoát vị bên trái
(n = 60) (n = 60) Cố định tăng cường lưới
n Tỷ lệ Tỷ lệ % n
Không cố định tăng cường 59 98,3 60 100
Khâu tăng cường 1 1,7 0 0
Tổng 60 100 60 100
Nhận xét: Hầu hết các trường hợp (98,3%) chúng tôi không cần cố định lưới
1 BN (1,7%) phải khâu căng cường lưới qua nội soi bằng chỉ Vicyl 3/0 sau khi đặt.
Bảng 3.31. Kết quả bước 4
75
Số BN Xử lý khó khăn Kết quả bước 4 Tỷ lệ % (n = 60) (Nếu có)
Thuận lợi 92 86,7
Cuộn chặt lại lưới quấn Lưới bị mắc vào 5 8,3 quanh dissector để đưa trocar 10 mm qua trocar 10 mm Khó khăn Phẫu tích khoang Dùng móc điện gỡ dính
3 trước phúc mạc không 5,0 mở rộng khoang trước
đủ rộng phúc mạc để đặt vừa lưới
Nhận xét: 86,7% BN được thực hiện bước 4 thuận lợi. 13,3% có khó khăn do lưới
bị mắc vào trocar 10mm hoặc phẫu tích khoang trước phúc mạc không đủ rộng.
3.2.1.5. Bước 5: Xả khí CO2, đóng bụng
Kết quả bước 5: 100% thuận lợi, không có khó khăn gì.
3.2.1.6. Tổng số tai biến trong mổ
Bảng 3.32. Tổng số tai biến trong mổ
Số BN Tai biến trong mổ Tỷ lệ % (n = 60)
Thủng phúc mạc 5 8,3
Chảy máu nhánh ĐM thượng vị dưới 1 1,7
Thủng phúc mạc và chảy máu nhánh ĐM thượng vị dưới 1 1,7
Thủng phúc mạc và đứt ĐM thượng vị dưới 1 1,7
Tổn thương bó mạch thừng tinh 1 1,7
Tổng 9 15,0
Nhận xét: Tổng số tai biến theo các bước ghi nhận là 9 trường hợp (15,0%), chủ
yếu là thủng phúc mạc đơn thuần (8,3%)
3.2.1.7. Thêm trocar/ chuyển phương pháp phẫu thuật
76
1 trường hợp (1,7%) thêm trocar 10mm vùng hố chậu trái để xử lý tai biến
Không trường hợp nào phải chuyển phương pháp phẫu thuật
3.2.1.8. Thời gian đặt – cố định lưới và tổng thời gian phẫu thuật
Bảng 3.33. Thời gian cố định lưới và tổng thời gian phẫu thuật (n = 60)
Ngắn nhất Trung bình Dài nhất
Thời gian đặt và cố định lưới (phút) 15 21,1 ± 4,1 40
Tổng thời gian phẫu thuật (phút) 60 74,9 ± 10,4 100
Nhận xét: Thời gian đặt và cố định lưới trung bình là 21,1 ± 4,1 phút
Tổng thời gian phẫu thuật trung bình là 74,9 ± 10,4 phút
3.2.2. Kết quả sớm
3.2.2.1. Thời gian và tình trạng đau sau mổ theo thang điểm VAS
Bảng 3.34. Đánh giá mức độ đau sau mổ theo thang điểm VAS
Mức độ đau Đau rất Đau Đau Đau Điểm VAS
nhẹ nhẹ vừa nhiều trung bình Ngày sau mổ
Số BN 0 7 50 3 Ngày thứ (n = 60) 5,1 ± 0,6 nhất Tỷ lệ % 0% 11,7% 83,3% 5,0%
Số BN 7 50 3 0 Ngày thứ (n = 60) 3,0 ± 0,7 hai Tỷ lệ % 11,7% 83,3% 5,0% 0%
Số BN 1 57 2 0 Ngày thứ (n = 60) 0,9 ± 0,9 ba Tỷ lệ % 95,0% 3,3% 1,7% 0%
Nhận xét: Thời gian đau sau mổ trung bình 2,2 ± 1,7 ngày. Mức độ đau theo thang
điểm VAS giảm dần từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 3
77
3.2.2.2. Thời gian trung tiện và trở lại sinh hoạt bình thường sau mổ
Bảng 3.35. Thời gian trung tiện và trở lại sinh hoạt bình thường sau mổ (n = 60)
Ngắn nhất Trung bình Dài nhất
1 Trung tiện sau mổ (ngày) 1,1 ± 0,2 2
Thời gian trở lại sinh hoạt bình 1 1,8 ± 0,5 4 thường sau mổ (ngày)
Nhận xét:
- Thời gian trung tiện trở lại trung bình là 1,1 ± 0,2 ngày
- Thời gian trở lại sinh hoạt bình thường sau mổ trung bình là 1,8 ± 0,5 ngày.
3.2.2.3. Biến chứng sớm
Bảng 3.36. Biến chứng sớm
Số bệnh nhân Biến chứng sớm Tỷ lệ % (n = 60)
Tụ máu vùng bẹn bìu 3 5,0%
Nhiễm khuẩn vết mổ 1 1,7%
Tê bì vùng đùi ngoài 1 1,7%
Bí tiểu và tê bì vùng đùi ngoài 1 1,7%
Tổng 6 10,0%
Nhận xét:
- Biến chứng sớm gặp ở 6/ 60 bệnh nhân (10,0%)
- Trong đó tụ máu vùng bẹn bìu chiếm đa số với 5,0%
78
3.2.2.4. Thời gian nằm viện sau mổ
Bảng 3.37. Thời gian nằm viện sau mổ
Thời gian nằm viện sau mổ (ngày)
p Biến chứng sớm
Ngắn nhất Trung bình Dài nhất
6 7,33 ± 1,03 9 Có biến chứng
< 0,01
3 3,59 ± 0,63 5 Không biến chứng
3 3,97 ± 1,31 9 Chung cả 2 nhóm
Nhận xét:
- Thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 3,97 ± 1,31 ngày, ngắn nhất là 3,
dài nhất là 9 ngày
- Thời gian nằm viện sau mổ của nhóm có biến chứng (7,33 ± 1,03 ngày) dài
hơn nhóm không biến chứng (3,59 ± 0,63 ngày). Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p < 0,01
3.2.2.5. Đánh giá kết quả sớm
Bảng 3.38. Đánh giá kết quả sớm
Số bệnh nhân Đánh giá kết quả sớm Tỷ lệ % (n = 60)
Tốt 54 90,0
Khá 5 8,3
Trung bình 1 1,7
Kém 0 0
Nhận xét:
- Kết quả sớm của BN đa phần đạt mức tốt, chiếm 90,0%.
79
3.2.3. Kết quả xa
3.2.3.1. Tỷ lệ bệnh nhân theo dõi sau mổ
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ bệnh nhân theo dõi xa
Nhận xét:
- 57/ 60 BN (95,0%) được theo dõi xa và khám lại.
- 3 bệnh nhân (5,0%) mất liên lạc.
3.2.3.2. Kết quả khám lại tại các thời điểm
Bảng 3.39. Kết quả khám lại sau mổ 1 tháng đến 2 năm
Biến chứng (n/ tỷ lệ %) Thời điểm Số BN Tái phát
Đau mạn tính Đau thừng tinh khám lại khám lại (n/ tỷ lệ %)
vùng bẹn và tinh hoàn
1 tháng 57 1 (1,8%) 0 0
6 tháng 49 0 0 0
1 năm 40 0 0 0
2 năm 27 0 0 0
Nhận xét:
- Thời gian theo dõi sau mổ trung bình là 21,8 ± 12,6 tháng. Ngắn nhất là 1
tháng, dài nhất là 47 tháng.
- Tại thời điểm 1 tháng sau mổ, phát hiện 1 BN (1,8%) đau mạn tính vùng bẹn
80
3.2.3.3. Đánh giá kết quả sau 1 tháng
Bảng 3.40. Đánh giá kết quả sau 1 tháng
Số bệnh nhân Đánh giá kết quả sau 1 tháng Tỷ lệ % (n = 57)
Tốt 56 98,2%
Khá 1 1,8%
Trung bình 0 0%
Kém 0 0%
Nhận xét:
Khám lại sau 1 tháng có 57 BN và được đánh giá với kết quả như sau:
- Tốt có 56 BN (98,2%); khá 1 BN (1,8%); trung bình 0%; kém 0%
3.2.3.4. Đánh giá kết quả sau 6 tháng, 1 năm và 2 năm
Khám lại sau 6 tháng có 49 BN, kết quả 100% tốt.
Khám lại sau 1 năm có 40 BN, kết quả 100% tốt.
Khám lại sau 2 năm có 27 BN, kết quả 100% tốt.
3.2.3.5. Đánh giá kết quả xa tại thời điểm kết thúc nghiên cứu
Bảng 3.41. Đánh giá kết quả xa tại thời điểm kết thúc nghiên cứu
Số bệnh nhân Đánh giá kết quả xa Tỷ lệ % (n = 57)
Tốt 56 98,2%
Khá 1 1,8
Trung bình 0 0%
Kém 0 0%
Nhận xét: Tính đến thời điểm kết thúc nghiên cứu (tháng 12/ 2020) có tổng
số 57 BN được khám lại. Ghi nhận 1 trường hợp biến chứng đau mạn tính vùng bẹn
bìu, không có bệnh nhân nào tái phát. Đánh giá kết quả xa: Tốt có 56 BN (98,2%);
khá 1 BN (1,8%); trung bình 0%; kém 0%.
81
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm bệnh lý TVB hai bên ở người lớn được PTNS đặt lưới 3D
ngoài phúc mạc
4.1.1. Đặc điểm chung
4.1.1.1. Tuổi, giới
Kết quả nghiên cứu thấy tuổi trung bình của BN là 51,0 ± 19,0 tuổi, nhỏ nhất
là 18, lớn nhất là 84 tuổi. Tuổi trung bình của BN TVB hai bên trong nghiên cứu
của Aloysius U.S. [85], Juan M.S.G [68], Markus Gass [2] và Lau H. [64] lần lượt
là 56,21 ± 15,26 tuổi, 43 tuổi, 54,6 tuổi và 67 ± 10 tuổi. Đa số BN trong nhóm dưới
60 tuổi chiếm 56,7%. Tác giả Kalpesh H. Patel thấy BN có tuổi dao động từ 21 –
70, trong đó nhóm từ 41 – 50 tuổi chiếm đa số với 31,67%, nhóm 51 – 60 tuổi
chiếm 21,67% [14]. Chúng tôi có cùng nhận định: Phần lớn BN thuộc nhóm tuổi lao
động chính trong xã hội, vì vậy việc thực hiện PTNS sửa chữa TVB hai bên cùng
một thì giúp cho BN tránh được 2 cuộc phẫu thuật, thời gian nằm viện ngắn, quay
trở lại với cuộc sống và lao động sớm hơn được cho là yếu tố quan trọng và được
các BN quan tâm [14]. Ngoài ra nhóm ≥ 60 tuổi chiếm 43,3%.
Đa phần các nghiên cứu đều thấy rằng tỷ lệ mắc TVB hai bên ở nam cao hơn
nữ. Tất cả BN của chúng tôi đều là nam giới. Tương tự các nghiên cứu khác ghi
nhận tỷ lệ nam mắc TVB hai bên từ 96,3 – 100% [2], [64], [14]. Nghiên cứu của
Aloysius U.S. và cs với 308 BN thoát vị bẹn hai bên, trong đó có 302 BN (98,1%)
là nam và 6 BN nữ (1,9%) [85]
Các tác giả giải thích có sự chênh lệch về giới tính do theo cấu trúc giải phẫu,
ở nam giới ống bẹn là đường đi của tinh hoàn từ ổ bụng xuống bìu trong thời kỳ
phôi thai, tinh hoàn xuống bìu kéo theo phúc mạc tạo thành ống phúc tinh mạc. Sau
khi tinh hoàn đã xuống bìu, ống bẹn sẽ chứa thừng tinh, là điểm yếu dễ gây thoát vị.
Mặt khác nam giới thường có nhiều nguy cơ gây tăng áp lực ổ bụng hơn như lao
động nặng, u xơ tiền liệt tuyến và bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính,… [2], [64], [14].
82
4.1.1.2. Nghề nghiệp
Theo kết quả bảng 3.2, đa phần BN thuộc nhóm hưu trí và lao động tự do với
tỷ lệ 36,7% và 36,7%. BN là sinh viên, nhân viên văn phòng mắc bệnh với tỷ lệ
thấp 8,3% và 6,7%. Kết quả tương tự nghiên cứu của Phan Đình Tuấn Dũng với
nhóm BN hưu trí chiếm 47,8%, 38,8% BN là nông dân [4]. Nghiên cứu của
Aloysius và cs [85] thấy trong các trường hợp TVB hai bên, có 138 BN (44,8%) là
nông dân, nghệ nhân 74 BN (24,0%), nghề khác 96 BN (31,2%). Các tác giả cho
rằng những công việc nặng nhọc, gắng sức gây tăng áp lực ổ bụng thường xuyên
làm tăng nguy cơ TVB hai bên [85], [4]. Mặc dù vậy, kết quả của chúng tôi thấy sự
liên quan là không thực sự rõ ràng, có thể do cỡ mẫu nghiên cứu còn nhỏ nên việc
đánh giá chưa đầy đủ.
4.1.1.3. Bệnh nội khoa kết hợp
Theo các nghiên cứu, TVB mắc phải, đặc biệt là TVB hai bên hay gặp ở
những người trưởng thành và người già do tổ chức thành bụng (cân, cơ, PM) bị biến
đổi, suy yếu, mô bị lão hóa, thay đổi tổ chức liên kết trở nên lỏng lẻo, đàn hồi kém
dẫn đến thành bụng ở vùng bẹn bị suy yếu, dễ gây ra TVB. Bên cạnh đó, các bệnh
lý nội khoa kết hợp có thể vừa là yếu tố nguy cơ gây TVB do làm tăng áp lực
thường xuyên trong ổ bụng (xơ gan cổ trướng; ho, khó thở kéo dài trong viêm phế
quản mạn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính; tắc nghẽn đường niệu do phì đại lành tính
tuyến tiền liệt, táo bón,…) cũng có thể gây ảnh hưởng tới lựa chọn điều trị PTNS và
kết quả phẫu thuật (Tăng huyết áp, đái tháo đường,…) [4], [60]
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi: 17/60 BN (28,3%) có bệnh nội khoa kết
hợp. Trong đó phì đại tiền liệt tuyến chiếm đa số với 13,3%; tăng huyết áp 11,7%,
đái tháo đường 3,3%.
Kết quả tương tự tác giả Trịnh Văn Thảo [60] 23,4% có bệnh nội khoa và các
yếu tố nguy cơ kết hợp bao gồm 9,1% phì đại tiền liệt tuyến chưa được điều trị;
5,2% ho do viêm phế quản mạn tính; 3,9% tăng huyết áp; 1,3% táo bón kéo dài;
1,3% béo phì; 2,6% thiếu máu cơ tim. Phan Đình Tuấn Dũng thấy 28,3% có tình
trạng táo bón kéo dài, 4,5% phì đại lành tính tuyến tiền liệt, bệnh lý về hô hấp 3%,
83
tăng huyết áp 4,5% [4]. Al-Shemy và cs thấy rằng phần lớn BN là nông dân và mắc
bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, tăng sản lành tính tuyến tiền liệt và hút thuốc lá lần
lượt là 22,5%, 12,5% và 37,5% bệnh nhân [33].
Nghiên cứu của Aloysius và cs [85] thấy 59 BN (19,2%) thoát vị hai bên liên
quan đến tăng áp lực trong ổ bụng do tắc nghẽn đường tiểu, cổ trướng, béo phì và
các bệnh hô hấp mãn tính. Đáng chú ý, 36 BN (11,7%) tiền sử gia đình có người bị
thoát vị bẹn.
Nhìn chung, các nghiên cứu đều cho thấy sự xuất hiện của nhiều bệnh đi kèm
ở những bệnh nhân lớn tuổi đồng thời làm tăng nguy cơ thoát vị hai bên [85], [33].
Một vấn đề lớn có thể phát sinh ở những bệnh nhân bị thoát vị bẹn lớn, hai bên là
khi nội dung của khối thoát vị đã nằm bên ngoài khoang trong ổ bụng trong một
thời gian dài làm hệ thống cân cơ vùng bẹn giãn kép dài dẫn đến suy yếu, bên cạnh
đó là tình trạng viêm dính hoặc thoát vị kẹt (thoát vị không phục vị) gây khó khăn
trong quá trình phẫu thuật, đặc biệt là phẫu thuật nội soi [85], [33].
Chúng tôi cho rằng việc đánh giá toàn diện và điều trị và kiểm soát các bệnh
lý nội khoa phối hợp trước và sau mổ giúp làm giảm nguy cơ tai biến, biến chứng
và tái phát trong các phẫu thuật điều trị TVB nói chung và PTNS TEP đặt lưới 3D
trong TVB hai bên nói riêng.
4.1.1.4. Tiền sử phẫu thuật vùng bụng
Tiền sử phẫu thuật vùng bụng của bệnh nhân TVB luôn được các PTV quan
tâm, đặc biệt đối với các PT vùng bẹn bụng. Đối với PTNS TEP điều trị thoát vị bẹn
hai bên, các sẹo mổ vùng bẹn bụng ít nhiều sẽ gây ra tình trạng dính giữa phúc mạc
với lớp cân cơ thành bụng trước. Do đó, có thể gây khó khăn trong các bước đặt
trocar, tạo khoang trước phúc mạc, phẫu tích và nhận định các mốc giải phẫu, làm
tăng nguy cơ tai biến (thủng phúc mạc, chảy máu, tổn thương thần kinh,...), biến
chứng sau mổ, đồng thời tăng tỷ lệ chuyển phương pháp từ PTNS TEP thành TAPP
hoặc chuyển mổ mở. Ngoài ra, các sẹo mổ vùng tầng trên ổ bụng thường ít ảnh
hưởng tới phẫu thuật.
Trước đây, nhiều tác giả cho rằng sẹo mổ cũ dưới rốn là một chống chỉ định
84
của PTNS điều trị TVB. Ngày nay, cùng với sự phát triển và thành thục trong kỹ
thuật PTNS, nhiều nghiên cứu đã chứng minh PTNS điều trị TVB, đặc biệt là TVB
hai bên vẫn được thực hiện an toàn và hiệu quả ngay cả khi BN có sẹo mổ cũ vùng
bụng dưới [60], [86], [87]
Từ năm 2001 - 2004, Al-Sahaf O. và cs đã PTNS TEP điều trị TVB cho 108
BN, trong đó 17 trường hợp có sẹo mổ cũ dưới rốn, kết quả cho thấy chỉ có 1 BN
phải chuyển mổ mở, 1 BN chảy máu sau mổ phải mổ dẫn lưu, tất cả các trường hợp
còn lại đều thành công với tỷ lệ biến chứng thấp [86]. Một nghiên cứu khác của
Ramshaw B. trên 192 BN (với 245 túi thoát vị), trong đó 45 trường hợp với 55 sẹo
mổ cũ ở thành bụng dưới được PTNS TEP cho thấy tỷ lệ tai biến ở nhóm có sẹo mổ
là 23,1%, cao hơn nhóm không có sẹo mổ là 11,3% [87]
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Trịnh Văn Thảo (2010) [60] cho thấy: có 8
trường hợp sẹo mổ dưới rốn (10,4%), trong đó 1 sẹo theo đường mổ thoát vị bẹn
bên phải điều trị tinh hoàn ẩn, 4 (5,2%) sẹo do mổ thoát vị bẹn tái phát, và 3 trường
hợp (3,9%) sẹo mổ cắt ruột thừa đường McBurney cùng bên với thoát vị. Trong 8
trường hợp có vết mổ cũ dưới rốn 3 trường hợp không xuất hiện biến chứng trong
phẫu thuật, 4 trường hợp bị thủng phúc mạc trong quá trình phẫu tích bộc lộ khoang
ngoài phúc mạc nhưng không cần xử trí gì, 1 trường hợp rách nhánh nhỏ bó mạch
thượng vị dưới do sẹo làm dính phúc mạc. Không có trường hợp nào phải chuyển
sang mổ mở hoặc phải can thiệp phức tạp [60]
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 4/60 BN (6,7%) có tiền sử phẫu
thuật vùng bụng dưới, trong đó 2 trường hợp PTNS cắt ruột thừa chiếm 3,3%, 1
PTNS cắt túi mật (1,7%) và 1 mổ mở cắt ruột thừa (1,7%). Tất cả những trường hợp
này đều có tình trạng dính tại vết mổ vùng rốn gây khó khăn khi thao tác kỹ thuật
(sẽ phân tích kỹ hơn ở phần dưới). Chúng tôi tiến hành gỡ dính cẩn thận, mặc dù
gặp một số tai biến nhưng đều được xử trí phù hợp mà không phải chuyển đổi
phương pháp mổ.
Chúng tôi có cùng nhận định với các tác giả trong và ngoài nước: PTNS điều
trị thoát vị bẹn theo phương pháp TEP có thể áp dụng trong mọi trường hợp thoát vị
85
bẹn ở người trưởng thành, ngay cả khi có sẹo mổ cũ vùng bụng dưới, đặc biệt là chỉ
định tốt đối với thoát vị bẹn 2 bên, thoát vị bẹn tái phát sau lần mổ mở trước đó
4.1.1.5. Phân loại sức khỏe theo ASA
Chỉ số ASA dùng để đánh giá và phân loại yếu tố nguy cơ gây mê hồi sức
của BN, giúp PTV cân nhắc lựa chọn chỉ định mổ và phương pháp vô cảm phù hợp
với thể trạng sức khỏe của BN. Đặc biệt trong PTNS TEP điều trị TVB hai bên, vì
đa phần các tác giả cho rằng gây mê nội khí quản là an toàn và phù hợp với phẫu
thuật này. Đa số BN của chúng tôi có điểm phân loại ASA I và II chiếm 46,7% và
53,3%. Điều đó cho thấy có thể tiến hành PTNS an toàn khi kéo dài thời gian PT.
Kết quả tương tự nghiên cứu của Kockerling F. [67] đa số là ASA II 58,37%,
ASA I 29,65%, ASA III 11,8% và 0,19% ASA IV. Phan Đình Tuấn Dũng có 68,7%
BN xếp loại ASA I và 31,3% ASA II [4]. Markus Gass thấy điểm ASA trung bình
của nhóm BN TVB hai bên là 1,5 [2]
Các tác giả cho rằng đối với những BN có bệnh kết hợp như tăng huyết áp,
đái tháo đường,…đều được khám và phối hợp điều trị với chuyên khoa, khi bệnh
kết hợp ổn định mới cho phép tiến hành phẫu thuật, qua đó làm giảm tỷ lệ tai biến,
biến chứng [2], [67]
4.1.1.6. Phân loại theo chỉ số khối cơ thể (BMI)
Theo kết quả bảng 3.5, chỉ số BMI trung bình của BN là 21,6 ± 2,4 kg/m 2,
nhỏ nhất là 17,0. Lớn nhất là 27,6 kg/m2. Đa số BN thuộc nhóm phân loại BMI bình
thường (78,3%), 6 BN (10%) xếp loại gầy và 7 BN (11,7%) thừa cân. Kết quả
tương tự nghiên cứu của Phan Đình Tuấn Dũng cho thấy có 88,1% bệnh nhân có
BMI trong giới hạn bình thường, chỉ có 5 BN (7,4%) thừa cân [4].
Trong PTNS TEP điều trị TVB hai bên, chỉ số BMI ngoài phản ánh thể trạng
của BN, các tác giả chú ý để tiên lượng những khó khăn trong quá trình thực hiện
phẫu thuật. Chúng tôi thấy rằng, ở những BN thừa cân, béo phì, lớp mỡ dưới da dày
có thể gây khó khăn khi đặt trocar và phẫu tích khoang trước phúc mạc, ngoài ra
còn khó khăn trong phẫu tích và xác định các mốc giải phẫu. Ngược lại, đối với
86
những BN quá gầy, quá trình phẫu tích bộc lộ khoang trước phúc mạc cũng gặp khó
khăn do thành bụng mỏng, dễ dẫn đến tai biến thủng phúc mạc.
Nghiên cứu của Park B.S và cs [88] thấy rằng ở những bệnh nhân có BMI >
25 gây khó khăn cho phẫu thuật nhiều hơn có ý nghĩa thống kê (p=0,02). Tác giả
nhận định chỉ số BMI là một yếu tố có ý nghĩa ảnh hưởng đến độ khó của PTNS
ngoài phúc mạc đối với những phẫu thuật viên mới thực hiện phẫu thuật, còn đối
với những phẫu thuật viên có kinh nghiệm thì không có sự ảnh hưởng nào. Vì vậy,
chỉ số BMI nên được xem như là một trong những tiêu chuẩn để chọn BN phẫu
thuật, đặc biệt là đối với những phẫu thuật viên chưa có nhiều kinh nghiệm về
PTNS ngoài phúc mạc trong điều trị bệnh lý TVB hai bên [88]
4.1.2. Đặc điểm bệnh lý
4.1.2.1. Thời gian phát hiện bệnh
Kết quả nghiên cứu thấy thời gian phát hiện bệnh trung bình là 11,02 ± 6,28
tháng, nhỏ nhất là 1 tháng, lớn nhất là 84 tháng. 73,3% BN có thời gian phát hiện
bệnh < 12 tháng.
Kết quả tương tự Phan Đình Tuấn Dũng với thời gian mắc bệnh trung bình
của nhóm nghiên cứu là 4,53 tháng, ngắn nhất 1 tháng, dài nhất là 24 tháng [4].
Nghiên cứu của Trịnh Văn Thảo ghi nhận thời gian từ khi phát hiện bệnh cho tới
khi BN được điều trị là khá lâu, số BN có thời gian mắc bệnh trên 5 năm chiếm số
lượng cao nhất là 28 (32,9%), từ 1 năm đến 5 năm có 19 (22,1%), từ 6 đến 12 tháng
có 18 (21,2%), số BN có thời gian mắc bệnh dưới 6 tháng là 23,5% [60]
Nghiên cứu của Aloysius và cs là 16,6% [85] thấy 236 BN (76,6%) phát hiện
sau 2 năm, 28 BN (9,1%) được điều trị trong vòng 1 năm, 112 BN (36,4%) sau 5
năm. Đáng chú ý, có 16 BN (5,2%) cho biết đã một trong hai hoặc cả hai bên thoát
vị từ 25 năm trở lên trước vào viện phẫu thuật [85]. Các tác giả cho rằng thời gian
mắc bệnh càng lâu cũng là một yếu tố tiên lượng khó khăn trong quá trình phẫu
thuật và tỷ lệ xuất hiện các biến chứng như kẹt, nghẹt ruột cao. Đặc biệt ở BN cao
tuổi và những khối TV có kích thước lớn. Do thời gian mắc bệnh kéo dài, các tạng
87
sẽ dính vào nhau hoặc dính vào túi TV, đồng thời khi đó túi TV quá to, cổ TV trở
nên hẹp tương đối nên dễ xảy ra biến chứng nghẹt ruột. Do vậy các trường hợp
thoát vị bẹn khi được phát hiện cần được phẫu thuật càng sớm càng tốt để hạn chế
các biến chứng có thể xảy ra [85], [4].
4.1.2.2. Triệu chứng lâm sàng
Các nghiên cứu cho thấy đa số bệnh nhân đến khám vì phát hiện khối phồng
vùng bẹn 1 hoặc cả 2 bên xuất hiện tăng lên khi đi lại hoặc vận động gắng sức, mất
đi khi nghỉ ngơi hoặc rất. Tuy nhiên một số bệnh nhân không thấy không thấy khối
phồng mà chỉ đến khám vì khó chịu hoặc đau tức vùng bẹn [22], [85].
Aloysius và cs [85] thấy 23,4% bệnh nhân vào viện trong tình trạng cấp cứu,
không có bệnh nhân nào bị biến chứng đồng thời cả hai bên. Trong đó 19,4% bị
thoát vị bẹn kẹt (thoát vị bẹn không phục vị) gây đau dữ dội, 38,9% BN có biểu
hiện tắc ruột và 41,7% thoát vị bẹn nghẹt. 16 trong số 30 bệnh nhân thoát vị bẹn
nghẹt được cắt bỏ ruột [85]
Trong nghiên cứu của chúng tôi, a số BN có triệu chứng xuất hiện khối
phồng vùng bẹn 2 bên, chiếm 60,0%. 6 BN (10,0%) xuất hiện khối phồng kèm đau
tức vùng bẹn 2 bên. 18 BN (30,0%) chỉ có biểu hiện đau tức vùng bẹn hai bên,
không trường hợp nào có biểu hiện của thoát vị nghẹt hay tắc ruột. Sự khác biệt về
triệu chứng lâm sàng so với các nghiên cứu khác có thể do thời gian từ khi BN phát
hiện bệnh tới khi nhập viện phẫu thuật trong nghiên cứu của chúng tôi ngắn hơn, do
đó các lỗ thoát vị còn nhỏ và chưa biểu hiện triệu chứng lâm sàng rầm rộ, đặc biệt là
không có trường hợp nào thoát vị bẹn có biến chứng. Đây cũng là một yếu tố quan
trọng để chúng tôi quyết định tiến chỉ định điều trị bằng PTNS TEP sử dụng lưới
nhân tạo 3D.
4.1.2.3. Siêu âm vùng bẹn trước mổ
Trong hầu hết các trường hợp, việc chẩn đoán xác định TVB dựa vào lâm
sàng là đủ, tuy nhiên siêu âm có thể được sử dụng khi các triệu chứng lâm sàng
không rõ ràng (khối thoát vị quá nhỏ hoác BN béo phì).
Đây là xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh phổ biến, đơn giản và thuật tiện giúp
88
đánh giá, phân loại tổn thương TVB với độ nhạy của siêu 87,3%, độ đặc hiệu là
85,5% và giá trị tiên đoán dương tính là 73,6% [89]
Ngoài ra, siêu âm trước mổ còn giúp chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý
khác ở vùng bẹn như: u mỡ vùng bẹn, dãn tĩnh mạch thừng tinh, tràn dịch màng tinh
hoàn... Đa số các trường hợp siêu âm có thể thấy được khối thoát vị trong ống bẹn,
trường hợp TVB nghẹt có thể thấy hình ảnh gợi ý tắc ruột như: đoạn ruột phía dưới
chỗ nghẹt xẹp, đoạn ruột phía trên dãn to, nhu động ruột ngược chiều,… [89]
Tất cả các BN của chúng tôi đều được siêu âm trước mổ phát hiện được túi
TVB hai bên. Hầu hết các trường hợp có tạng thoát vị chui vào, chủ yếu là ruột non
(72,5%), 1 trường hợp (0,8%) không có tạng nào chui vào túi thoát vị. Phân loại
theo siêu âm trước mổ: Lỗ bẹn phải (TV trực tiếp 66,7%, TV gián tiếp 33,3%), lỗ
bẹn trái (TV trực tiếp 60,0%, TV gián tiếp 40,0%), tổng hai bên (TV trực tiếp
63,3%, gián tiếp 36,7%). Tương tự Phan Đình Tuấn Dũng siêu âm thấy tạng thoát
vị là quai ruột chiếm đa số với tỷ lệ 54,4%, 8 bệnh nhân (10,1%) có nội dung tạng
thoát vị vừa là quai ruột và mạc nối [4]
4.1.2.4. Đặc điểm tổn thương trong mổ
Phân loại thoát vị bẹn theo vị trí giải phẫu
Theo kết quả bảng 3.12 và 3.13, phân loại TVB theo vị trí giải phẫu trong
mổ: Lỗ bẹn phải (thoát vị trực tiếp 66,7%, thoái vị gián tiếp 33,3%), lỗ bẹn trái
(thoát vị trực tiếp 60,0%, thoái vị gián tiếp 40,0%). Tổng hai bên: thoát vị trực tiếp
chiếm đa số với 63,3%, thoát vị gián tiếp 36,7%. Đa số BN có thoát vị bẹn 2 bên
cùng là trực tiếp, chiếm 60,0%. 20 BN (33,3%) có thoát vị 2 bên cùng là gián tiếp
và 4 BN (6,7%) có phân loại TVB hai bên khác nhau.
Kết quả của chúng tôi tương tự Yoon Young Choi và cs [65], tác giả này
nghiên cứu trên 112 trường hợp TVB hai bên cho thấy, tỷ lệ thoát vị trực tiếp ở
nhóm thoát vị hai bên là 42,9% cao hơn ở nhóm một bên (10,4%) (P <0,001), thoát
vị gián tiếp (43,7% ở nhóm hai bên và 81,1% ở nhóm một bên), và thoát vị hỗn hợp
(12,9% ở nhóm hai bên và 8,2% ở nhóm TV một bên) [65]. Nghiên cứu của
Aloysius và cs [85] thấy Thoát vị bẹn trực tiếp 2 bên 232 BN (75,3%), gián tiếp 2
89
bên 48 (15,6%), 1 bên trực tiếp – 1 bên gián tiếp 28 (9,1%) [85]. Trong nghiên cứu
của Al-Shemy và cộng sự, 82,5% bệnh nhân bị thoát vị trực tiếp hai bên [33]
Giải thích tỷ lệ thoát vị trực tiếp hai bên chiếm đa số, các tác giả cho rằng:
Các nguyên nhân mắc phải được cho là có mối liên hệ chặt chẽ với thoát vị bẹn trực
tiếp hai bên, bao gồm sự suy yếu ở thành sau ống bẹn (do lão hóa, tổn thương thần
kinh cơ và cân cơ vùng bẹn) hoặc tăng áp lực trong ổ bụng (ho mãn tính, tiết niệu
mãn tính tắc nghẽn do hẹp niệu đạo hoặc phì đại tuyến tiền liệt, táo bón mãn tính,
làm việc chân tay nặng và nâng tạ) [85], [33]
Hình 4. 1. Bộc lộ túi thoát vị, đánh giá tổn thương trong mổ
(Nguồn: BN Vũ Văn S., mã bệnh án 5152)
Ngoài ra, trong mổ không ghi nhận túi thoát vị nào có tạng chui vào. Sự khác
nhau giữa siêu âm và đánh giá trong mổ về nội dung túi thoát vị có thể do khi siêu
âm chúng tôi yêu cầu bệnh nhân làm nghiệm pháp Valsava để phát hiện và đánh giá
túi thoát vị toàn diện hơn. Mặt khác, trong quá trình phẫu thuật, BN được gây mê và
sử dụng thuốc giãn cơ nên không có tạng nào chui vào túi thoát vị, chúng tôi cũng
không ghi nhận trường hợp nào thoát vị kẹt hay nghẹt.
Phân loại thoát bị bẹn trong mổ theo Nyhus
Phân loại TVB là cơ sở để phẫu thuật quyết định phương pháp PT, cũng như
loại lưới sử dụng, nhằm mang lại hiệu quả điều trị cao nhất cho BN. Do phân loại
theo vị trí giải phẫu khó đánh giá hết được mức độ tổn thương của vùng bẹn, có thể
90
ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Vì vậy, chúng tôi phân loại các lỗ TV chủ yếu theo
tiêu chuẩn của Nyhus dựa vào đặc điểm tổn thương giải phẫu bệnh, vị trí TV và TV
tái phát. Theo tác giả, với loại I và II tỷ lệ tái phát thấp nhưng với loại III và loại IV
thì PT điều trị khó khăn hơn [30].
Theo kết quả bảng 3.15 và 3.16, ở cả bên phải và bên trái, thoát vị bẹn Nyhus
IIIA chiếm đa số với lần lượt 66,7% và 60,0%. Tính trên tổng 120 túi thoát vị, nhận
định trong mổ thấy thoát vị Nyhus IIIA chiếm đa số với 63,3%, loại I chiếm 3,3%,
loại II 26,7% và loại IIIB chiếm 6,7%. Chúng tôi nhận thấy các trường hợp TVB
Nyhus IIIB đều có thời gian mắc bệnh kéo dài dẫn đến các cân cơ vùng sàn bẹn bị
phá hủy (mất độ đàn hồi), do vậy nếu không lựa chọn phương pháp và lưới phù hợp
có thể dẫn đến tái phát sau mổ.
Đo đường kính túi thoát vị
Sau khi bộc lộ rõ và đánh giá nội dung túi thoát vị, chúng tôi tiến hành đo
đường kính túi thoát vị bằng thước vải vô khuẩn để đo kích thước ở chỗ rộng nhất
của túi TV. Theo kết quả bảng 3.17 và 3.18, nghiên cứu thấy đường kính trung bình
túi TV bên phải là 2,08 ± 0,56 cm, bên trái là 2,24 ± 0,52 cm, không có sự khác biệt
về đường kính của túi TV 2 bên (p > 0,05). Đường kính túi TV từ 1,5 - < 3cm
chiếm đa số với tỷ lê 75% (bên phải) và 78,3% (bên trái). Đường kính trung bình túi
TV trực tiếp là 2,10 ± 0,51 cm, gián tiếp là 2,26 ± 0,59 cm, không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05)
Chúng tôi cho rằng việc đánh giá đường kính túi thoát vị trong mổ là một
trong những yếu tố quan trọng quyết định kích thước lưới, loại lưới sử dụng cũng
như có cố định lưới hay không. Xét trên tổng số 120 túi thoát vị, đa số túi TV có
đường kính ở nhóm trung bình từ 1,5 - < 3 cm, chiếm 76,7%. Ở nhóm túi thoát vị
lớn có đường kính ≥ 3 cm chiếm tỷ lệ 10,0%, chúng tôi phải phẫu tích thêm khoang
trước phúc mạc rộng hơn, sau đó đặt mảnh lưới 3D kích thước lớn (10,8 x 16 cm)
để che phủ toàn bộ lỗ cơ lược sao cho bờ dưới và bờ trên tấm lưới cách túi thoát vị
ít nhất 2,5 – 3 cm.
91
Đánh giá đường kính túi thoát vị theo phân loại Nyhus: Đường kính trung
bình túi TV Nyhus I là nhỏ nhất (1,23 ± 0,13 cm), Nyhus IIIB là lớn nhất (3,20 ±
0,18 cm), có sự khác biệt về đường kính túi thoát vị giữa các nhóm TV phân loại
Nyhus (p < 0,01). Giải thích cho điều này, chúng tôi cho rằng đối với túi thoát vị
Nyhus IIIB là những thoát vị gián tiếp với sàn bẹn yếu, lỗ thoát vị lớn, dẫn đến
đường kính túi thoát vị cũng lớn hơn. Do vậy, chúng tôi cho rằng bên cạnh đường
kính túi thoát vị, việc đánh giá tổn thương cân cơ vùng sàn bẹn cũng là một trong
những yếu tố quyết định trong việc lựa chọn loại lưới để đảm bảo phẫu thuật được
hiệu quả, tránh thoát vị tái phát.
4.2. Kết quả PTNS đặt tấm lưới nhân tạo 3D điều trị TVB hai bên
4.2.1. Kết quả trong mổ
Đối với các trường hợp TVB hai bên, cho đến nay vẫn còn nhiều tranh luận
trong vấn đề lựa chọn chiến thuật điều trị (sửa chữa đồng thời hay từng bên một),
phương pháp tiếp cận (mổ mở, PTNS TEP hay TAPP), lựa chọn và cố định lưới
nhân tạo,… [2], [90], [91], [66]. Một số nghiên cứu cho rằng sửa chữa TVB hai bên
cùng lúc có thể làm tăng tỷ lệ tai biến, biến chứng và thời gian phẫu thuật [2]. Tuy
nhiên các tác giả nhận định, sự tăng nhẹ của các tai biến, biến chứng là chấp nhận
được bởi việc sửa chữa 2 bên cùng lúc sẽ tránh được tất cả các vấn đề tiềm ẩn, sự
bất tiện và chi phí của hai lần nằm viện và hai cuộc phẫu thuật, mỗi lần BN được
gây mê toàn thân [2], [66]. Vì vậy, đối với những BN bị TVB hai bên, phương pháp
nội soi sử dụng kỹ thuật TEP là một lựa chọn điều trị phù hợp, có thể được thực
hiện với kết quả tương tự như phương pháp sửa chữa thoát vị một bên [2], [66], [14]
Theo hướng dẫn của Hiệp hội thoát vị Châu Âu (European Hernia Society -
EHS) và Hiệp hội thoát vị Mỹ (Americas Hernia Society - AHS), điều trị bằng
PTNS có thể được coi là tiêu chuẩn vàng ở những trường hợp thoát vị bẹn hai bên,
trừ khi có chống chỉ định cụ thể với PTNS hoặc gây mê toàn thân [68]
Nghiên cứu của Kalpesh H. Patel và cs (2017) cho rằng phẫu thuật điều trị
TVB hai bên đồng thời qua nội soi không làm tăng nguy cơ cho BN và có tỷ lệ tai
biến, biến chứng tương đương so với phẫu thuật từng bên, thời gian nằm viện, trở
92
lại làm việc bình thường và hồi phục sau PTNS đồng thời hai bên nhanh hơn so với
mổ mở. PTNS nên được khuyến cáo là tiêu chuẩn vàng trong điều trị thoát vị hai
bên [14]. Tuy nhiên cần tuân thủ theo quy trình các bước kỹ thuật chính như sau:
4.2.1.1. Bước 1: Đặt trocar và phẫu tích khoang trước phúc mạc
Đa số trường hợp chúng tôi (91,7%) phẫu tích tạo khoang trước phúc mạc
bằng cách rạch da theo đường vòng cung dưới rốn (không nên sát rốn quá vì ở đó
phúc mạc dính rất chặt vào cuống rốn) vào phía sau cơ và trước lá sau của cơ thẳng
bụng, sau đó dùng ngón tay trỏ lóc tách tạo khoang đủ rộng để đặt trocar 10mm, quá
trình tạo khoang trước phúc mạc được tiếp tục bằng việc bơm khí CO2 duy trì với
áp lực 12 mmHg. Tất cả các trường hợp chúng tôi bóc tách khoang phúc mạc thành
bên và xác định các mốc giải phẫu vùng bẹn hai bên như xương mu, thừng tinh, bó
mạch thượng vị dưới, dây chằng Cooper. Tương tự tác giả Tajamul Rashid [48] và
Trịnh Văn Thảo [60]. Tác giả Zulfiqar Hanif và cs (2017) [6] đặt trocar 10mm đầu
tiên qua đường rạch dưới rốn, bóc tách tạo khoang trước phúc mạc bằng optic 0 o
dưới quan sát trực tiếp qua camera, Optic được đẩy qua lại nhẹ nhàng theo đường
giữa để chạm đến xương mu rồi sang hai bên đồng thời bơm khí CO2 để tạo khoang
trước phúc mạc đủ rộng, sau đó đặt 2 trocar 5mm còn lại ở đường giữa (3 trocar trên
cùng 1 đường thẳng từ rốn đến bờ trên xương mu). Sau khi các trocar cổng được đặt
đầy đủ, có thể sử dụng dụng cụ phẫu tích nội soi để bóc tách và thực hiện các thao
tác kỹ thuật một cách dễ dàng [6].
Ở bước này, chúng tôi có 9 trường hợp (15,0%) khó khăn khi đặt trocar và
phẫu tích tạo khoang trước phúc mạc. Trong đó thủng phúc mạc đơn thuần chiếm
6,7% được xử trí kẹp clip lỗ thủng. 2 trường hợp (3,3%) bệnh nhân có tiền sử PTNS
cũ với vết mổ trocar vùng rốn nên khi rạch ra và phẫu tích bộc lộ lá sau cơ thẳng
bụng khó khăn do dính và thủng phúc mạc. Chúng tôi xử lý bằng cách dùng S-
Retractor hoặc Farabeuf nhỏ móc 2 mép cân nâng lên bộ lộ cơ thẳng bụng, vén cơ
thẳng bụng ra xa đường giữa, dùng móc điện để phẫu tích gỡ dính và nâng cơ lên
bộc lộ rõ lá sau của cân cơ thẳng bụng sau đó tạo khoang trước phúc mạc bằng tay
và khí CO2. Lỗ thủng phúc mạc được phục hồi bằng kẹp Clip Hemolock. 1 trường
93
hợp dính đơn thuần (1,7%) do sẹo mổ mở cắt ruột thừa vùng hố chậu phải được
phẫu tích gỡ dính bằng móc điện.
Hình 4. 2. Gỡ dính, bóc tách vào khoang trước phúc mạc
(Nguồn: BN Lê Trường S, mã bệnh án 37451)
Ngoài ra nghiên cứu có 2 trường hợp thành bụng dày (3,3%) ở những BN
thừa cân được chúng tôi phẫu tích tạo khoang trước phúc mạc bằng bóng. Nghiên
cứu của Zulfiqar Hanif cũng thấy rằng việc sử dụng bóng bóc tách tạo khoang trước
phúc mạc có ưu điểm thuận tiện, nhanh chóng và tránh được tai biến thủng phúc
mạc, có thể áp dụng đối với những BN có thành bụng dày, tuy nhiên bóng bóc tách
chỉ sử dụng được 1 lần và có giá thành cao [6]. Do vậy tác giả đưa ra kỹ thuật bóc
tách tạo khoang trước phúc mạc dưới quan sát của ống soi (Optic) 0o mà không cần
dùng bóng chuyên dụng, giúp làm giảm chi phí phẫu thuật [6]. Theo đó, sau khi
rạch da, bộc lộ cân cơ thẳng bụng, một ống soi 0o được sử dụng để bóc tách dưới
quan sát của camera để tạo khoang trước phúc mạc, ống soi được đẩy qua lại nhẹ
nhàng theo đường giữa để bóc tách đến xương mu rồi sang hai bên để tạo khoang
trước phúc mạc đủ rộng. Sau đó đặt 2 trocar 5mm tiếp theo trên đường giữa để phẫu
tích và bóc tách sâu hơn về hai bên và xung quanh túi thoát vị [6]. Tác giả cho rằng
kỹ thuật này an toàn và tiết kiệm chi phí ngay cả ở bệnh viện đa khoa tuyến huyện
và có thể được áp dụng rộng rãi do phẫu thuật nội soi TEP sửa chữa thoát vị bẹn
bằng nội soi được ưa chuộng hơn cả [6].
Sau khi đặt trocar cho Optic và tạo khoang trước phúc mạc, có nhiều cách để
đặt trocar thao tác 5mm còn lại tùy theo thói quen của PTV và vị trí thoát vị, 3 cách
hay được sử dụng nhất là:
94
+ Cách thứ nhất: trocar thao tác thứ nhất đặt giữa bờ trên xương mu và rốn,
trocar thứ 2 được đặt bờ trên xương mu (3 trocar nằm trên một đường thẳng).
+ Cách thứ hai: một trocar thao tác được đặt giữa xương mu và rốn, trocar thứ 2
đặt tại hố chậu đối diện với bên thoát vị.
+ Cách thứ ba: 2 trocar thao tác hợp với trocar optic thành tam giác đều.
Hình 4. 3. Các vị trí lựa chọn đặt trocar trong PTNS TEP
(Nguồn: Kingsnorth A.N và cs. [62])
Trong đó cách thứ nhất (đặt 3 trocar trên một đường thẳng) được nhiều tác
giả sử dụng nhất do tạo phẫu trường rộng hơn và dễ dàng thao tác để sửa chữa TVB
hai bên đồng thời mà không phải thêm trocar [44], [27].
4.2.1.2. Bước 2: Bộc lộ túi TV
Trong bước này, chúng tôi gặp 4 trường hợp (6,7%) có khó khăn khi phẫu
tích bộc lộ túi thoát vị. Trong đó 2 trường hợp (3,3%) chảy máu nhánh ĐM thượng
vị dưới khi bóc tách được xử trí đốt điện cầm máu. 1 trường hợp thành bụng dính
được gỡ dính bằng móc điện, 1 trường hợp (1,7%) thủng phúc mạc khi phẫu tích túi
TVB bên phải, ở trường hợp này, do lỗ thủng nhỏ nên chúng tôi không xử lý lỗ
thủng mà vẫn tiếp tục các bước phẫu thuật như bình thường, sau khi kết thúc phẫu
thuật, chúng tôi xả khí từ từ qua đường mở phúc mạc tại trocar rốn.
4.2.1.3. Bước 3: Phẫu tích và xử lý túi thoát vị
95
Nghiên cứu có 76 túi TVB trực tiếp (63,3%) sau khi bộc lộ rõ túi thoát vị
chúng tôi sử dụng một graspers không sang chấn để kẹp và kéo các cấu trúc xung
quanh khỏi túi thoát vị, sau đó đẩy túi trở lại vào trong ổ bụng.
Đối với 44 túi thoát vị gián tiếp (36,7%), việc phẫu tích túi thoát vị đi chung
với thừng tinh phức tạp hơn, vì tất cả các thành phần như bó mạch thừng tinh, thần
kinh sinh dục và túi thoát vị cùng đi vào lỗ bẹn sâu. Lưu ý tránh làm rách phúc mạc,
các dụng cụ phẫu tích phải là loại không gây sang chấn, khi thực hiện phẫu tích túi
thoát vị phải thực hiện ngay sát lỗ bẹn sâu. Tay trái sử dụng graspers kéo túi thoát vị
lên sát thành bụng, tay phải dùng dissector nhẹ nhàng phẫu tích túi thoát vị ra khỏi
ống dẫn tinh và bó mạch tinh. Sau khi tách được túi thoát vị ra khỏi thừng tinh, túi
thoát vị được kẹp bằng clip và cắt bỏ túi ở vị trí gần sát lỗ bẹn sâu (Hình 4.4).
Hình 4. 4. Phẫu tích thắt và cắt túi thoát vị gián tiếp
(Nguồn: BN Vũ Văn S., mã bệnh án 5152)
Tương tự như các tác giả khác, chúng tôi sử dụng Clip Hemolock để đóng
kín đầu gần của túi thoát vị ở vị trí gần sát lỗ bẹn sâu [65]. Trịnh Văn Thảo sử dụng
chỉ không tiêu để cắt túi thoát vị bằng nơ Roeder, tác giả nhận định việc làm này
vừa khắc phục tình trạng không có dụng cụ để cặp clips trong phẫu thuật nội soi,
vừa giảm giá thành điều trị cho bệnh nhân [60]. Mặc dù vậy chúng tôi cho rằng Clip
Hemolock và 1 sợi chỉ không tiêu có giá tương đương nhau, mặt khác khi kẹp Clip
thuận tiện, nhanh hơn, qua đó rút ngắn được thời gian phẫu thuật.
Ở bước này, chúng tôi có 2 trường hợp (3,4%) khó khăn khi phẫu tích và xử
96
lý túi thoát vị, đều nằm ở bên phải, bao gồm 1 tổn thương đứt ĐM thượng vị dưới
phải (1,7%) do bệnh nhân có sẹo mổ cắt ruột thừa cũ đường McBurney, được thêm
trocar để kẹp clip cầm máu và 1 tổn thương bó mạch thừng tinh phải (1,7%) được
đốt điện cầm máu. Nghiên cứu không ghi nhận trường hợp nào có khó khăn ảnh
hưởng tới kỹ thuật khi phẫu tích và xử lý túi thoát vị bên trái.
4.2.1.4. Bước 4: Đặt và cố định lưới nhân tạo
Tất cả BN đươc phục hồi thành bẹn mỗi bên bằng một tấm lưới nhân tạo 3D
để che phủ hoàn toàn lỗ cơ lược. Đa số trường hợp (80,0%) chúng tôi sử dụng tấm
lưới 3DMax loại nhỏ 8,5 x 13,7 cm, trong khi đó tỷ lệ sử dụng lưới loại to 10,8 x 16
cm là 20% đặt vào từng bên TV. Loại lưới to được sử dụng đối với những túi thoát
vị có đường kính trung bình 2,66 ± 0,57 cm (1,1 – 3,0 cm), trong khi đó lưới nhỏ
được sử dụng với túi thoát vị có đường kính 2,66 ± 0,57 cm (1,2 – 3,5 cm), sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). Đối với phân loại Nyhus I, II, IIIA chủ yếu sử
dụng lưới 3D kích thước nhỏ với tỷ lệ lần lượt 100%, 93,75% và 81,58%, trong khi
đó 100% túi thoát vị Nyhus IIIB được sử dụng lưới 3D loại to để đảm bảo che phủ
hoàn toàn lỗ cơ lược.
Ngoài ra, đối với những BN có túi thoát vị lớn, cơ sàn bẹn yếu hoặc ở BN
cao tuổi có bệnh lý phối hợp làm tăng áp lực ổ bụng thường xuyên như u tiền liệt
tuyến, bệnh phối tắc nghẽn mãn tính, chúng tôi chủ động sử dụng tấm lưới 3DMax
với kích thước lớn sao cho tất cả các trường hợp lưới che phù toàn bộ lỗ cơ lược và
bờ trên và dưới của tấm lưới cách lỗ cơ lược ít nhất 2,5 – 3 cm, tương tự tác giả
Krishna và cs [7]. Tác giả này sử dụng ba loại lưới khác nhau trong nghiên cứu bao
gồm: lưới polypropylene 3DMax định hình sẵn (Bard, kích thước lớn: 10,8×16 cm;
trọng lượng: 80 - 85 g/m2), lưới polypropylene phẳng (kích thước 15×10 cm2; trọng
lượng: 80 - 85 g/m2), và lưới polypropylene nhẹ (Prolene mềm; Ethicon, kích thước:
15 × 10 cm2; trọng lượng: 28 g/m2). Tác giả cho rằng việc lựa chọn sử dụng lưới
phụ thuộc vào tình trạng sẵn có, thói quen của phẫu thuật viên và khả năng chi trả
của BN [7]
97
Hình 4. 5. Đặt lưới 3DMax che phủ từng bên thoát vị
(Nguồn: BN Vũ Văn S., mã bệnh án 5152)
Một trong những ưu điểm của tấm lưới nhân tạo 3D là với cấu trúc và hình
dáng uốn lượn theo với cấu trúc giải phẫu vùng bẹn nên khi tiến hành đặt tấm lưới
nhân tạo 3D vào khoang trước phúc mạc thì tấm lưới sẽ tự ôm sát vào các cấu trúc
thành sau ống bẹn để bao phủ được toàn bộ lỗ cơ lược. Do vậy trong hầu hết các
trường hợp (98,3%) chúng tôi không cần cố định lưới. 1 trường hợp (1,7%) phải
khâu tăng cường lưới qua nội soi bằng chỉ Vicyl 3/0 do khoang trước phúc mạc
không đủ rộng để đặt lưới.
Ngược lại đối với tấm lưới nhân tạo phẳng, khi đặt vào khoang trước phúc
mạc thi cần thiết phải trải tấm lưới ra, đảm bảo không bị gấp hay trượt và phải che
98
phủ được toàn bộ lỗ cơ lược. Ngoài ra có thể phải cố định tăng cường lưới bằng chỉ
khâu, protack hoặc keo fibrin.
Zulfiqar Hanif và cộng sự nghiên cứu trên 144 bệnh nhân thoát vị bẹn, trong
đó 17 BN thoát vị bẹn 2 bên được điều trị bằng PTNS TEP sử dụng lưới 3D, tác giả
cho rằng trong phẫu thuật TEP, lưới 3D sẽ được giữ ở vị trí đặt do cấu trúc ôm sát
giải phẫu vùng bẹn kết hợp với áp lực trong ổ bụng đẩy phúc mạc ép lưới sát vào
mà không cần cố định, do đó giảm tối thiểu các biến chứng do việc cố định lưới gây
ra [6]. Trong khi đó phẫu thuật TAPP thường yêu cầu cố định lưới và đóng phúc
mạc, có thể tăng chi phí phẫu thuật và tăng tỷ lệ tổn thương tạng và viêm dính trong
ổ bụng sau mổ [6].
Trong các nghiên cứu về PTNS TEP điều trị TVB nói chung và TVB hai bên
nói riêng, vấn đề cố định lưới (bằng ghim protack hoặc khâu) còn nhiều tranh luận.
Trong khi một số tác giả cho rằng việc cố định là cần thiết nhằm giảm nguy cơ trượt
lưới và do đó giảm tỷ lệ tái phát. Tuy nhiên, việc cố định lưới được cho là góp phần
làm tăng tình trạng đau kéo dài sau mổ và nguy cơ tổn thương thần kinh với tỉ lệ
khoảng 2% đến 4% các ca phẫu thuật thoát vị bẹn nội soi. Thần kinh bị tổn thương
phổ biến nhất là nhánh đùi của dây thần kinh sinh dục đùi (genitofemoral nerve) và
thần kinh bì đùi ngoài [92]. Những nghiên cứu gần đây của Zulfiqar Hanif và A
Acar cho rằng việc cố định là không cần thiết vì không có sự khác biệt về tỷ lệ tái
phát, mặt khác khi cố định lưới làm tăng nguy cơ tổn thương thần kinh do sử dụng
protack và làm tăng chi phí phẫu thuật [6], [93]
Một nghiên cứu được công bố năm 2020 của tác giả A Acar và cs trên 178
BN (98 TVB phải, 72 TVB trái và 8 TVB hai bên) được điều trị bằng PTNS đặt tấm
lưới 3D (Bard 3D Max) hoàn toàn ngoài phúc mạc, thời gian theo dõi trung bình là
45 tháng. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ tai
biến, biến chứng sớm và muộn giữa hai nhóm có và không cố định lưới. Tác giả
nhận định việc không cố định lưới trong phẫu thuật TEP với lưới 3D không làm
tăng tỷ lệ biến chứng và tái phát so với nhóm có cố định lưới [93]. Theo Krishna,
việc cố định hai điểm của lưới protack có thể được thực hiện ở những BN cao tuổi
99
có túi thoát vị lớn, trương lực cơ thành bụng yếu và trên cơ sở quyết định của phẫu
thuật viên [7]
Tất cả các trường hợp chúng tôi cuộn tấm lưới vào dissector nội soi, sau đó
đưa qua trocar 10mm vào khoang trước phúc mạc, tương tự tác giả Tajamul Rashid
và cs [48]. Ở bước này nghiên cứu có 8 trường hợp (13,3%) khó khăn khi đặt và cố
định tấm lưới nhân tạo. Trong đó 5 trường hợp (8,3%) do tấm lưới bị mắc khi đưa
qua trocar 10mm, đây đều là những BN ở giai đoạn đầu khi kỹ thuật được triển
khai, chúng tôi xử trí bằng cách cuộn chặt tấm lưới lại xung quanh dissector sau đó
đưa qua trocar 10mm. Theo hướng dẫn của nhà sản xuất, trong trường hợp sử dụng
tấm lưới 3D có kích thước lớn, nên cuộn lưới theo cách bước như hình 4.6, sau đó
đưa qua trocar 10mm. Nếu vẫn không thể đưa qua trocar, có thể tháo trocar 10mm
ra và đưa tấm lưới trực tiếp qua vết mổ vào khoang trước phúc mạc (lưu ý hạn chế
tối đa tiếp xúc với da), sau đó đặt lại trocar 10mm [63]
Hình 4. 6. Cách cuộn tấm lưới 3D có kích thước lớn để đưa qua trocar 10mm
(Nguồn: Bard Vavol Inc, 2012 [63])
100
Ngoài ra 3 trường hợp (5,0%) phẫu tích khoang trước phúc mạc không đủ
rộng do BN gầy hoặc có tiền sử phẫu thuật cũ. Khi đưa vào khoang trước phúc mạc,
lưới không bung ra hoàn toàn được, do vậy chúng tôi tiến hành phẫu tích gỡ dính
mở rộng thêm khoang trước phúc mạc để đặt sao cho lưới được mở hoàn toàn theo
cấu trúc giải phẫu vùng bẹn và che phủ toàn bộ lỗ cơ lược.
4.2.1.5. Xả khí CO2 và đóng vết mổ
Sau khi 2 tấm lưới được đặt đúng vị trí che phủ lỗ cơ lược hai bên, chúng tôi
tiến hành kiểm tra, cầm máu, sau đó xả khí CO2 từ từ dưới quan sát của camera để
đảm bảo hai tấm lưới không bị cuộn hoặc trôi khỏi vị trí đặt. 100% BN đều được
thực hiện xả khí CO2 và đóng vết mổ thuận lợi, không có khó khăn hay tai biến gì.
Hình 4. 7. Xả khí CO2 từ từ dưới quan sát của camera
(Nguồn: BN Vũ Văn S., mã bệnh án 5152)
Các lỗ trocar sau đó được khâu đóng lại bằng chỉ Ethilon 3/0
101
Hình 4. 8. Đóng các lỗ trocar
(Nguồn: BN Vũ Văn S., mã bệnh án 5152)
4.2.1.6. Tai biến trong mổ
Tai biến trong mổ là một trong những tiêu chí quan trọng giúp dánh giá tính
an toàn, khả thi và hiệu của của các phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn. Theo Markus
Gass, những BN được thực hiện PTNS TEP hai bên có tỷ lệ tai biến trong mổ là
3,1%, cao hơn so với một bên với 1,9% (p = 0,002). Mặc dù vậy tác giả cho rằng sự
tăng nhẹ tỷ tai biến và biến chứng là chấp nhận được và vẫn ủng hộ sửa chữa TVB
hai bên trong cùng một phẫu thuật do tránh được lần gây mê và nằm viện [2].
Kockerling F. Tai biến trong mổ có 39 trường hợp (1,45%) [67]. Các tai biến được
nhắc đến trong PTNS TEP như thủng phúc mạc, tổn thương mạch máu (động mạch
thượng vị dưới, chảy máu đám rối tĩnh mạch màng xương mu, rách tĩnh mạch bịt,
tổn thương mạch máu ở thừng tinh), tổn thương thần kinh, tổn thương bàng quang,
bó mạch thừng tinh, ống dẫn tinh, tràn khí dưới da toàn thân…. [2], [67], [7]
Kết quả nghiên cứu có 9 trường hợp (15,0%) tai biến trong mổ bao gồm:
Thủng phúc mạc đơn thuần 5 trường hợp (8,3%), 1 chảy máu nhánh động mạch
thượng vị dưới khi phẫu tích (1,7%), 1 tổn thương đụng dập bó mạch thừng tinh
102
(1,7%), 1 thủng phúc mạc và tổn thương đứt động mạch thượng vị dưới (1,7%), 1
thủng phúc mạc và chảy máu.
Thủng phúc mạc
Trong phẫu thuật thoát vị bẹn nội soi theo phương pháp TEP, thủng phúc
mạc được coi là một tai biến thường gặp với tỷ lệ 5 – 44% tùy từng nghiên cứu, có
thể ảnh hưởng đến sự thành công của phẫu thuật. Trong trường hợp phúc mạc bị
thủng, quá trình phẫu thuật sẽ khó khăn hơn vì phẫu trường bị thu hẹp do áp lực
CO2 ở khoang trong phúc mạc và khoang ngoài phúc mạc đều như nhau. Thủng
phúc mạc thường xảy ra khi phẫu thuật viên tiến hành đặt trocar 10mm đầu tiên vào
vị trí ngay dưới rốn hoặc quá trình phẫu tích xử lý túi thoát vị. Đây cũng là một
trong những lý do chính để chuyển đổi phương pháp phẫu thuật từ TEP sang TAPP
hay mổ mở. Tác giả Lau và cs cho rằng phần lớn các trường hợp thủng phúc mạc
xảy ra trong quá trình phẫu tích túi thoát vị gián tiếp và lớp phúc mạc từ thừng tinh
[64]. Những cách xử trí tai biến thủng phúc mạc được các tác giả đề cập đến như:
đóng lại lỗ rách phúc mạc (bằng chỉ khâu hoặc kẹp Clip), hoặc chọc hút và dẫn lưu
khí ra ngoài trong suốt quá trình phẫu thuật.
Nghiên cứu của chúng tôi gặp 8,3% thủng phúc mạc đơn thuần và 2 trường
hợp thủng phúc mạc kèm theo chảy máu, gặp ở những BN gầy hoặc có sẹo mổ cũ
vùng bụng dưới. Chúng tôi xử trí đóng lại lỗ thủng phúc mạc bằng kẹp clip, sau đó
tiếp tục thực hiện các thao tác phẫu thuật như bình thường mà không gặp khó khăn
gì. Còn 1 trường hợp lỗ thủng phúc mạc nhỏ không cần can thiệp gì, sau khi kết
thúc phẫu thuật chúng tôi mở vào phúc mạc tại trocar rốn để xả hết khí CO2 trong
khoang phúc mạc, sau đó đóng lỗ trocar 2 lớp.
103
Hình 4. 9. Tai biến thủng phúc mạc
(Nguồn: BN Ngô Trọng H., mã bệnh án 7359)
Tỷ lệ tai biến thủng phúc mạc của chúng tôi tương đương Phan Đình Tuấn
Dũng với 8,7%. Tác giả xử trí bằng cách dùng catheter đưa vào khoang phúc mạc ở
vị trí điểm giao nhau giữa đường ngang rốn và bờ ngoài cơ thẳng bụng, sau đó hạ
áp lực CO2 xuống 8 - 10mmHg rồi tiếp tục tiến hành phẫu thuật. Tất cả các trường
hợp này đều được thực hiện PTNS ngoài phúc mạc thành công [4]
Krishna ghi nhận tỷ lệ tai biến thủng phúc mạc ở 276 BN (32,8%), làm xẹp
trường mổ khoang trước phúc mạc do khí qua lỗ thủng vào ổ bụng. Tác giả đề xuất
khắc phục bằng cách khâu hoặc kẹp clip đóng lại lỗ thủng hoặc sử dụng kim Veress
đặt vào khoang bụng vùng mạn sườn phải để xả khí CO2, giúp cải thiện không gian
làm việc ngoài phúc mạc [7].
Tổn thương mạch máu
Theo Krishna [7], tổn thương mạch máu gồm có: tổn thương bó mạch thượng
vị dưới, chảy máu đám rối tĩnh mạch màng xương mu, rách tĩnh mạch bịt, tổn
thương các mạch máu ở thừng tinh và đặc biệt nguy hiểm là tổn thương bó mạch
chậu ngoài. Nếu tổn thương các mạch máu nhỏ thì cầm máu bằng cách clip hoặc đốt
điện, trong trường hợp tổn thương bó mạch chậu ngoài phải chuyển mổ mở để khâu
cầm máu.
104
Nghiên cứu có 2 trường hợp chảy máu do tổn thương nhánh động mạch
thượng vị dưới (3,4%) được xử trí bằng đốt điện. Ngoài ra chúng tôi còn 1 trường
hợp (1,7%) tổn thương đứt động mạch thượng vị dưới khi bóc tách tạo khoang trước
phúc mạc và xử lý túi thoát vị bên phải. Đây cũng là BN có tiền sử mổ mở cắt ruột
thừa đường McBurney, sẹo mổ gây dính vùng thành bụng vùng bẹn bên phải. Trong
quá trình phẫu tích gỡ dính bằng móc điện gây thủng phúc mạc và tổn thương đứt
ĐM thượng vị dưới, chúng tôi tiến hành thêm 1 trocar 10mm vùng hố chậu trái để
hỗ trợ kẹp clip cầm máu và đóng lại lỗ thủng phúc mạc, sau đó chủ động đặt dẫn
lưu khoang trước phúc mạc. Bệnh nhân được theo dõi và rút dẫn lưu ngày thứ 4 sau
mổ và ra viện sau 8 ngày. Chúng tôi nhận thấy, ở những BN có tiền sử mổ cũ vùng
bụng dưới, đặc biệt là tiền sử mổ mở đường McBuney ngày nay không phải là
chống chỉ định tuyệt đối với PTNS TEP điều trị thoát vị bẹn, tuy nhiên do tình trạng
dính và biến đổi giải phẫu gây khó khăn khi phẫu tích và tăng tỷ lệ tai biến. Do vậy
những trường hợp này cần được thực hiện bởi phẫu thuật viên nhiều kinh nghiệm,
đồng thời trong quá trình phẫu tích cần đi chậm từng lớp, có thể chủ động thêm 1
trocar vùng hố chậu trái từ đầu để hỗ trợ gỡ dính và xử lý túi thoát vị, đồng thời
tránh tai biến xảy ra.
Tác giả Krishna cũng gặp 4,3% tai biến tổn thương động mạch thượng vị
dưới trong quá trình phẫu tích tạo khoang trước phúc mạc, được xử trí đốt điện hoặc
kẹp clip cầm máu [7]
Nghiên cứu của Ghazzal A. và cs [94] cho thấy tỷ lệ tổn thương động mạch
thượng vị dưới trong quá trình phẫu tích là 3%, trong đó một trường phải chuyển
mổ mở để cầm máu
Phan Đình Tuấn Dũng có 1 trường hợp tổn thương động mạch thượng vị
dưới trong quá trình phẫu tích được xử trí đốt điện cầm máu [4]
Trịnh Văn Thảo có 1 BN chảy máu do tổn thương bó mạch thượng vị dưới
khi phẫu tích tạo khoang trước phúc mạc được khắc phục bằng cách sử dụng đốt
điện đơn cực để cầm máu. Bên cạnh đó, để đề phòng tụ máu vùng mổ, tác giả chủ
105
động đặt dẫn lưu khoang Retzius qua lỗ đặt trocar phẫu thuật để dẫn lưu dịch ứ
đọng, và rút dẫn lưu sau 48 đến 72 giờ [60]
4.2.1.7. Thêm trocar/ chuyển phương pháp phẫu thuật
Tỷ lệ chuyển đổi phương pháp phẫu thuật khi thực hiện PTNS TEP điều trị
TVB hai bên trong nghiên cứu của Markus Gass là 1,1%, không có sự khác biệt với
nhóm TEP một bên (1,0%) [2]. Nghiên cứu của Krishna có tổng cộng 81 BN phải
chuyển phương pháp phẫu thuật (TAPP hoặc mổ mở). Lý do chuyển phương pháp
là mất vùng /không gian trước phúc mạc do lỗ thủng hoặc rách phúc mạc lớn (63
BN) hoặc các tạng chui và dính chặt vào cổ bao thoát vị không thể bóc tách khi thực
hiện TEP (17 BN). Trong số những BN này, 51 (4,1%) chuyển sang phẫu thuật
TAPP, và 30 (2,4%) được chuyển mổ mở. Một BN bị thoát vị lớn có nghẹt và hoại
tử ruột, đã được mở bụng cắt đoạn ruột hoại tử và phục hồi thành bụng [7].
Tất cả BN TVB hai bên trong nghiên cứu của chúng tôi đều được điều trị
bằng PTNS TEP đặt tấm lưới 3D thành công, có 1 trường hợp (1,7%) phải thêm 1
trocar 10mm vùng hố chậu trái để xử lý tai biến đứt ĐM thượng vị dưới bên phải
(đã trình bày ở trên). Không trường hợp nào phải chuyển phương pháp phẫu thuật.
4.2.1.8. Thời gian đặt lưới và tổng thời gian phẫu thuật
Tổng thời gian phẫu thuật trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 74,9
± 10,4 phút, ngắn nhất là 40, dài nhất là 100 phút. Thời gian đặt và cố định lưới
trung bình là 21,1 ± 4,1 phút, ngắn nhất là 15, dài nhất là 40 phút.
Nghiên cứu của Tajamul Rashid thấy thời gian đặt lưới 3D trong mổ ngắn
hơn có ý nghĩa so với đặt và cố định lưới phẳng. Tác giả cho rằng sự khác biệt về
thời gian đặt lưới có thể do lưới 3D dễ dàng đưa qua trocar, dễ dàng mở lưới và
thao tác đặt vào đúng vị trí trong quá trình phẫu thuật [48]. Hơn nữa, việc đặt lưới
3D che phủ lỗ cơ lược bên tổn thương rất dễ dàng do cấu hình lưới được định dạng
sẵn phù hợp với cấu trúc vùng bẹn. Gần như tất cả các trường hợp đặt lưới 3D
không cần phải cố định lưới tăng cường. Tuy nhiên một số trường hợp có thể phải
cố định tăng cường bằng protack hoặc chỉ khâu do tình trạng viêm dính gây thay đổi
giải phẫu vùng bẹn, lưới không ôm sát được theo cấu trúc giải phẫu [48]. Mặt khác,
106
lưới polypropylene có hình dạng phẳng và mềm hơn nên hơi khó đưa qua trocar,
cần phẫu tích cùng bẹn rộng rãu hơn và thường phải cố định bằng protack hoặc
khâu tăng cường [48]
Thời gian phẫu thuật TEP đặt lưới 3D điều trị TVB hai bên trong nghiên cứu
của Krishna là 77,9 ± 26,2 [7], Kockerling F. là 60,3 phút[67]
Pawanindra L. và cộng sự trên 150 bệnh nhân được phẫu thuật nội soi ngoài
phúc mạc cho thấy thời gian mổ trung bình đối với thoát vị bẹn một bên là 66,16 ±
12,44 phút và đối với thoát vị bẹn hai bên là 87,2 ± 11,32 phút [91]
Trong nghiên cứu của Markus Glass, thời gian phẫu thuật trung bình ở những
BN trải qua TEP hai bên là 86 phút dài hơn so với nhóm phẫu thuật TEP một bên
(67 phút) (P < 0,001)
Phan Đình Tuấn Dũng nghiên cứu trên 67 BN TVB được PTNS TEP đặt tấm
lưới nhân tạo 3D ngoài phúc mạc, trong đó có 12 BN TVB hai bên. Thời gian phẫu
thuật trung bình ở nhóm này là 88,3 ± 24,6 (65-120 phút) [4]
Như vậy, kết quả của chúng tôi tương tự các tác giả khác. Thời gian phẫu
thuật trung bình trong nghiên cứu của Juan M.S.G là 35 phút (20 – 45 phút) [68],
thời gian đặt và cố định lưới trung bình 3 phút (1 – 8 phút) [68]
107
4.2.2. Kết quả sớm
4.2.2.1. Tình trạng đau sau mổ
Hầu hết các tác giả nhấn mạnh ưu điểm của việc sử dụng tấm lưới nhân tạo
3D không cần cố định tăng cường trong PTNS TEP điều trị thoát vị bẹn 2 bên, qua
đó làm giảm nguy cơ tổn thương thần kinh và giảm đau sau mổ. Nghiên cứu của
Ayyaz M. và cs [95] cho thấy đối với nhóm có cố định tấm lưới nhân tạo thì mức độ
đau trung bình là 4,7 ± 0,68 cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không có cố định tấm
lưới nhân tạo là 4,1 ± 0,86 với p < 0,001.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, với hầu hết các trường hợp không cần cố
định lưới tăng cường, thời gian đau sau mổ trung bình 2,2 ± 1,7 ngày, ngắn nhất là 1
ngày, dài nhất là 15 ngày. Mức độ đau theo thang điểm VAS giảm dần từ ngày thứ
nhất đến ngày thứ 3. Đến ngày thứ 3 sau mổ, 95% chỉ còn đau rất nhẹ, 1 BN (1,7%)
đau mức độ vừa. Bệnh nhân đau sau mổ dài nhất (15 ngày) chính là BN duy nhất
phải khâu cố định tăng cường lưới bằng chỉ Vicryl 3/0
Nghiên cứu của Tajamul Rashid thấy những bệnh nhân được PTNS đặt lưới
3D điều trị thoát vị bẹn thì ít gặp phải tình trạng đau dữ dội sau mổ, đa số bệnh nhân
đau nhẹ hoặc không đau sau mổ và đáp ứng tốt với thuốc giảm đau đường uống
[48]. Tác giả cho rằng đau là một cảm giác rất chủ quan, mỗi bệnh nhân hay giới
tính khác nhau có ngưỡng đau khác nhau [48].
Chalkoo M và cộng sự, trong nghiên cứu về điều trị TVB bằng phẫu thuật
TEP sử dụng lưới polypropylene phẳng thấy tình trạng đau nhiều sau phẫu thuật là
9,23% [96]. Mir I.S và cộng sự, trong nghiên cứu của họ về lưới 3D trong PTNS
điều trị TVB đã báo cáo tỷ lệ đau mức độ nhiều sau mổ là 1,88% [53].
Các tác giả cho rằng PTNS sử dụng lưới nhân tạo 3D điều trị thoát vị bẹn
giúp giảm tình trạng đau và sử dụng thuốc giảm đau sau mổ do việc sử dụng lưới
3D không cần cố định bằng chỉ khâu hoặc protack như đối với lưới phẳng, do đó
tránh được tình trạng tổn thương hoặc chèn ép thần kinh vùng bẹn [48], [53].
Nghiên cứu của Ka-Wai Tam K.W. [97] về tình trạng đau sau mổ được đánh
giá theo thang điểm của VAS (Visual Analog Scale) với thang điểm được đánh giá
108
từ 0 đến 10, kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tình
trạng đau sau mổ ở cả hai nhóm có cố định và không có cố định bằng lưới nhân tạo
vào các thời điểm ngày thứ nhất, ngày thứ bảy và một tháng sau mổ.
4.2.2.2. Thời gian trung tiện và trở lại sinh hoạt bình thường sau mổ
Như đã trình bày ở trên, PTNS TEP sử dụng lưới nhân tạo 3D điều trị TVB
hai bên không cần phải đi vào ổ bụng, và không cố định lưới, do đó thời gian phục
hồi lưu thông tiêu hóa nhanh hơn, bệnh nhân ít đau và trở lại sinh hoạt bình
thường sau mổ nhanh hơn. Thời gian trung tiện trở lại trung bình là 1,1 ± 0,2 ngày,
ngắn nhất là 1, dài nhất là 2 ngày
Thời gian trở lại sinh hoạt bình thường được tính từ khi BN mổ xong tới khi
BN tự đứng dậy, tự thực hiện được các sinh hoạt thông thường (như ăn, uống, vệ
sinh cá nhân) mà không cần sự trợ giúp của người thân hoặc nhân viên y tế.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian trở lại sinh hoạt bình thường sau
mổ trung bình là 1,8 ± 0,5 ngày, ngắn nhất là 1, dài nhất là 4 ngày
Nghiên cứu của Phan Đình Tuấn Dũng cho thấy đa số bệnh nhân đều phục
hồi sớm trong vòng 24 giờ sau phẫu thuật với tỷ lệ là 94%, không có trường hợp
nào kéo dài thời gian phục hồi đến quá 36 giờ sau phẫu thuật [4]. Thời gian trở về
sinh hoạt bình thường của BN trong nghiên cứu của Trịnh Văn Thảo là 17,23 ± 4,69
giờ, trong đó có 87,02% vận động trở lại trong 24 giờ [60]. Các kết quả góp phần
khẳng định hiệu quả của PTNS TEP điều trị thoát vị bẹn hai bên.
4.2.2.3. Biến chứng sớm
Các biến chứng sớm sau phẫu thuật nội soi TEP có thể bao gồm bí tiểu, viêm
mào tinh hoàn, khuẩn vết mổ, tụ máu, tụ dịch, đau mạn tính vùng bẹn bìu [93], [60].
Theo Markus Gass, những BN được thực hiện PTNS TEP hai bên có tỷ lệ
biến chứng sớm là 3,2% [2]. Tỷ lệ này trong nghiên cứu của Kockerling F. là 1,82%
[67]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, biến chứng sớm gặp ở 6/ 60 BN (10,0%).
Trong đó 3 trường hợp (5,0%) tụ máu vùng bẹn bìu, 1 nhiễm khuẩn vết mổ (1,7%),
1 tê bì vùng đùi ngoài (1,7%) và 1 bí tiểu + tê vì vùng đùi ngoài (1,7%)
109
Tụ máu, tụ dịch vùng bẹn bìu
Theo Yang X.F., tụ máu và tụ thanh dịch vùng bẹn bìu là biến chứng thường
gặp sau PTNS điều trị thoát vị bẹn, tỷ lệ xuất hiện khoảng 5- 25%, hay gặp sau mổ
thoát vị bẹn gián tiếp lớn [98]. Các triệu chứng thường xuất hiện sau mổ từ 3-5
ngày, và gặp trong phương pháp TEP nhiều hơn là trong phương pháp TAPP [98].
Nguyên nhân là do phẫu tích quá thô bạo làm tổn thương các mạch bạch huyết và
các mạch máu. Đối với những trường hợp tụ máu kích thước lớn có thể chẩn đoán
nhầm là TV tái phát, khi đó siêu âm có thể tầm soát và giúp ích cho việc chẩn đoán
xác định [98].
Juan M.S.G gặp biến chứng sớm có 9% tụ dịch vùng bẹn bìu, không có các
biến chứng khác được ghi nhận [68]. Meyer A. [52] nghiên cứu trên 3.100 bệnh
nhân được phẫu thuật TEP trong 15 năm cho thấy tỷ lệ biến chứng tụ dịch là 2,1%.
Nghiên cứu của tác giả Garg P. [99] thấy rằng tỷ lệ tụ thanh dịch cao hơn có ý nghĩa
thống kê ở nhóm có cố định lưới (9,8%) so với không cố định lưới (1,7%) với p =
0,0008. Cũng theo tác giả, nguyên nhân của biến chứng này chưa rõ ràng, tuy nhiên
có thể giải thích là do sự kích thích của phúc mạc do những tacker cố định bằng kim
loại đưa đến tình trạng tăng tiết huyết thanh. Ngoài ra, việc chia khoang trước phúc
mạc ra thành nhiều ngăn do sự cố định tấm lưới nhân tạo có thể đưa đến tình trạng
chậm hấp thu huyết thanh ở khoang phẫu tích, rồi sau đó sẽ dần tạo thành tụ thanh
dịch [99].
Theo Tajamul Rashid, tụ dịch vùng bẹn bìu sau mổ gặp ở 3,3% bệnh nhân
trong nhóm sử dụng lưới 3D và 6,7% ở nhóm sử dụng lưới polypropylene phẳng,
tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê [48]. Mir I.S và cộng sự nghiên
cứu 53 BN thoát vị bẹn được điều trị bằng PTNS TEP đặt lưới 3D thấy tỉ lệ tụ dịch
sau mổ là 3,77% [53].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 3 trường hợp (5,0%) tụ máu vùng bẹn
bìu xuất hiện sau mổ 2 – 3 ngày, đây đều là những trường hợp có khó khăn trong
quá trình phẫu tích khoang trước phúc mạc và xử lý túi TV. Qua siêu âm và khám
lâm sàng xác định ổ tụ máu nhỏ, chúng tôi tiến hành chọc hút bằng kim nhỏ, sau đó
110
băng ép và dùng kháng sinh điều trị kết hợp với thuốc chống viêm. Sau khoảng 5
ngày điều trị, các BN đều ra viện trong tình trạng ổn định mà không cần phải can
thiệp phẫu thuật lại. Tuy nhiên một ý số ý kiến khác cho rằng, với những trường
hợp có biến chứng tụ máu vùng bìu khi được phát hiện sớm, không nên chọc hút vì
làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn, dịch và máu sẽ tự hấp thu trong vòng 4-6 tuần, sau
thời gian này nếu không cải thiện sẽ tiến hành chọc hút bằng kim nhỏ [98].
Theo Yang X.F. [98] lượng máu chảy ra không quá nhiều và máu tụ có thể
mất đi hoặc sau chọc hút 1-2 lần. Hầu hết các tác giả đều cho rằng, tụ máu và thanh
dịch có thể không xảy ra nếu như khi phẫu tích túi thoát vị ra khỏi thừng tinh được
thực hiện một cách nhẹ nhàng. Để tránh biến chứng này, trong mổ nếu thấy còn
chảy máu rỉ rả hoặc khi phẫu tích một túi thoát vị lớn chúng ta nên đặt dẫn lưu
khoang Retzius chủ động
Bí tiểu
Tỷ lệ bí tiểu sau phẫu thuật TVB được báo cáo từ 1,3 - 5,8% và thường xảy
ra ở những BN lớn tuổi có tiền sử tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt [60]. Yang X.F.
[98] đề cập đến một nguyên nhân khác gây bí tiểu sau mổ do BN được dùng nhiều
thuốc giảm đau nhóm gây nghiện và truyền dịch.
Tỷ lệ bí tiểu của chúng tôi là 1,7%, đó là BN nam 71 tuổi có tiền sử u lành
tính tiền liệt tuyến. Sau phẫu thuật 2 ngày, BN xuất hiện bí tiểu kèm theo tê bì vùng
đùi ngoài. BN đã được đặt lại và lưu sonde tiểu, kết hợp với điều trị nội khoa bằng
kháng sinh, giảm đau, chống viêm, BN ổn định và xuất viện sau 9 ngày điều trị.
Đây cũng là trường hợp BN nằm viện lâu nhất trong nghiên cứu.
Chúng tôi cho rằng, khi thực hiện phẫu thuật TEP điều trị TVB hai bên với
lưới tấm lưới 3D không cần cố định giúp giảm đáng kể tình trạng đau sau mổ, bệnh
nhân vận động sớm hơn, qua đó giảm tỷ lệ biến chứng bí tiểu.
Kết quả của chúng tôi tương tự nghiên cứu của Koch C.A. [58], việc không
cố định lưới làm giảm đáng kể tỷ lệ bí tiểu sau mổ (5,0% ở nhóm không cố định so
với 35% ở nhóm cố định lưới). Tác giả cho rằng nếu BN đau nhiều sau phẫu thuật
có thể dẫn đến tăng tỷ lệ bí tiểu do tăng trương lực giao cảm cản trở phản xạ tiểu
111
tiện. Ngoài ra nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ sử dụng thuốc giảm đau gây nghiện
(Morphin) giai đoạn sau mổ ở những bệnh nhân đã được PTNS TEP điều trị thoát vị
bẹn không cố định lưới ít hơn đáng kể so với nhóm phải cố định lưới. Tác giả nhận
định việc sử dụng nhiều thuốc giảm đau gây nghiện sau phẫu thuật là một yếu tố
nguy cơ phát triển bí tiểu sau phẫu thuật [58]. Do đó, trong PTNS TEP điều trị thoát
vị bẹn, việc không cố định lưới giúp giảm mức độ đau cũng như nhu cầu dùng
thuốc giảm đau gây nghiện sau mổ, qua đó giảm tỷ lệ biến chứng bí tiểu.
Tê bì vùng đùi ngoài
Theo Rosenberger R.J. việc phẫu tích, đặt và cố định lưới nhân tạo vùng sàn
bẹn có thể dẫn đến tổn thương TK. Các tổn thương gián tiếp do tác động của dụng
cụ hoặc tổn thương nhiệt có thể gây kích ứng dây TK, nhưng thông thường thì tình
trạng này tự khỏi [100]
Nghiên cứu của chúng tôi gặp 2 trường hợp tê bì vùng đùi ngoài, trong đó 1
BN kèm theo bí tiểu đã trình bày ở trên. Trường hợp còn lại là BN nam 33 tuổi có
sẹo mổ mở cắt ruột thừa đường McBurney, trong quá trình phẫu tích do tình trạng
dính gây tai biến thủng phúc mạc và đứt động mạch thượng vị dưới. Mặt khác quá
trình dính tại vùng bẹn phải làm cho phẫu tích khoang trước phúc mạc không đủ
rộng, do vậy khi đặt lưới 3D chúng tôi phải tiến hành khâu tăng cường lưới bằng chỉ
Vicyl 3/0. Sau mổ BN xuất hiện tình trạng đau và tê bì vùng bẹn bìu kéo dài. Theo
chúng tôi có thể là do trong quá trình gỡ dính và khâu tăng cường lưới vô tình gây
nên tổn thương nhánh TK. Bệnh nhân được hướng dẫn tập vận động và dùng thêm
corticoid chống viêm, các triệu chứng được cải thiện sau 5 ngày. Yang X.F. khuyến
cáo dùng thuốc chống viêm không steroid cho các trường hợp rối loạn cảm giác
vùng bẹn và đùi sau PTNS điều trị TVB đạt kết quả tốt [98]
4.2.2.4. Thời gian nằm viện sau mổ
Hầu hết nghiên cứu của các tác giả trên thế giới cho thấy thời gian nằm viện
sau mổ thoát vị bẹn nội soi từ 1 – 2 ngày. Thời gian nằm viện sau mổ trong nghiên
cứu của Kockerling F. là 1,8 ngày [67], Juan M.S.G Bệnh nhân xuất viện sau 24 giờ
phẫu thuật [68]. Bên cạnh đó, các nghiên cứu đều cho rằng điều trị thoát vị bẹn nội
112
soi có thời gian nằm viện ngắn hơn so với điều trị thoát vị bẹn bằng mổ mở. Điều
này được giải thích bằng cách phẫu thuật nội soi phẫu tích nhẹ nhàng hơn, ít đau
hơn sau mổ cũng như thời gian phục hồi sinh hoạt cá nhân sớm [68], [2]
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 3,97 ± 1,31 ngày, ngắn nhất là 3,
dài nhất là 9 ngày. Thời gian nằm viện sau mổ của nhóm có biến chứng (7,33 ± 1,03
ngày) dài hơn nhóm không biến chứng (3,59 ± 0,63 ngày), sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p < 0,01. Trường hợp nằm viện lâu nhất của chúng tôi (9 ngày) chính
là BN nam 71 tuổi có tiền sử u tiền liệt tuyến, sau mổ xuất hiện biến chứng bí tiểu,
đã được đặt lại và lưu sonde tiểu, kết hợp với điều trị nội khoa bằng kháng sinh,
giảm đau, chống viêm (đã trình bày ở trên).
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình của Markus Gass là 2,5 ngày (không
có sự khác biệt với nhóm TEP một bên 2,3 ngày) [2]. Thời gian nằm viện sau mổ
của chúng tôi dài hơn các tác giả khác trên thế giới có thể thời gian đầu áp dụng
phương pháp mới chúng tôi chưa có nhiều kinh nghiệm, bệnh nhân được nằm viện
sau mổ lâu hơn để theo dõi và điều trị biến chứng (nếu có).
4.2.2.5. Đánh giá kết quả sớm
Kết quả sớm của BN đa phần đạt mức tốt, chiếm 90,0%. Không trường hợp
nào có kết quả trung bình hoặc kém. 5 trường hợp (8,3%) đạt kết quả khá là những
BN có biến chứng sớm sau mổ nhưng đáp ứng tốt với điều trị nội khoa mà không
cần can thiệp phẫu thuật lại. Còn 1 BN (1,7%) kết quả trung bình do có biến chứng
bí tiểu phải đặt lại và lưu sonde tiểu. Kết quả tương tự Phan Đình Tuấn Dũng
nghiên cứu trên 67 BN TVB được PTNS TEP đặt tấm lưới nhân tạo 3D ngoài phúc
mạc, trong đó có 12 BN TVB hai bên, kết quả sớm 83,3% tốt, 16,7% khá [4]
4.2.3. Kết quả xa
4.2.3.1. Theo dõi và tái khám sau mổ
Để đánh giá kết quả xa của phẫu thuật nội soi đặt tấm lưới nhân tạo 3D hoàn
toàn ngoài phúc mạc điều trị TVB hai bên, chúng tôi lập kế hoạch theo dõi, hẹn
bệnh nhân tái khám tại Bệnh viện Thanh Nhàn vào các thời điểm sau mổ 1 tháng, 6
tháng, 1 năm, 2 năm và thời điểm kết thúc nghiên cứu (tháng 12/2020). Đa phần các
113
BN đều được theo dõi sau mổ, chiếm 95,0%, chỉ có 3 BN mất liên lạc (5,0%). Thời
gian theo dõi sau mổ trung bình là 21,8 ± 12,6 tháng. Ngắn nhất là 1 tháng, dài nhất
là 47 tháng.
Hình 4. 10. Siêu âm tại thời điểm khám lại sau mổ 1 tháng
(Nguồn: BN Nguyễn Văn K., mã bệnh án 18557)
Hình 4. 11. Khám lại sau mổ 1 tháng
(Nguồn: BN Hoàng Đức N., mã bệnh án 14244)
4.2.3.2. Biến chứng xa
114
Trong thời gian theo dõi xa, nghiên cứu có duy nhất 1 trường hợp (1,8%) có
biến chứng đau mạn tính vùng bẹn bìu. Đây cũng chính là BN có tình trạng đau kéo
dài sau mổ có thể do quá trình phẫu tích gỡ dính hoặc khâu tăng cường lưới trong
mổ gây tổn thương nhánh thần kinh. Tại thời điểm khám lại sau 1 tháng và 3 tháng
các triệu chứng đau có phần thuyên giảm (VAS 3 – 5 điểm) tuy nhiên vẫn làm BN
có cảm giác khó chịu. Bệnh nhân được điều trị nội khoa bằng thuốc giảm đau,
chống viêm, cảm giác đau giảm dần sau đó 5 tháng không còn đau nữa.
BN được xác định là đau mạn tính, khi đau kéo dài hơn 3 tháng sau mổ
TVB [101]. Mặc dù PT điều trị TVB bằng đặt lưới nhân tạo đã có nhiều tiến bộ về
phương pháp tiếp cận và chất liệu mảnh ghép, tuy nhiên đau mạn tính vùng bẹn bìu
vẫn là một biến chứng thường gặp sau mổ TVB. Điều trị TVB bằng PT nội soi
TAPP hoặc TEP đã được báo cáo là có tỷ lệ đau mạn tính thấp hơn so với phương
pháp mổ mở thông thường. Tỷ lệ đau mạn tính sau mổ TVB nói chung là 1 - 63%
và tỷ lệ đau ảnh hưởng đến hoạt động bình thường hàng ngày hoặc công việc là 5 -
10% [102]. Tuy nhiên, tình trạng đau mãn tính ít phổ biến hơn trong phẫu thuật
TEP với tấm lưới nhân tạo 3D không cần cố định, do đó ít tổn thương thần kinh hơn
[60], [103]. Trong các nghiên cứu phẫu thuật nội soi sử dụng lưới 3D điều trị thoát
vị bẹn với thời gian theo dõi trung bình 1-2 năm cho thấy tỷ lệ đau mãn tính sau mổ
dao động từ 1-3,4% [10], [53]. Trong nghiên cứu của A Acar, tỷ lệ đau mãn tính
vùng bẹn bìu là 2,9%, các trường hợp này đều đáp ứng với điều trị nội khoa bằng
giảm đau, chống viêm mà không phải can thiệp phẫu thuật lại [60].
Theo Pappalardo G. [101], đau dai dẳng sau PT ít gặp, nhưng là một biến
chứng của mảnh ghép nhân tạo trong điều trị TVB. Hiện nay, việc sử dụng mảnh
ghép điều trị TVB làm giảm tỷ lệ tái phát nhưng có thể gây biến chứng đau dây
TK là nguyên nhân làm BN khó chịu.
Đau mạn tính vùng bẹn bìu sau mổ TVB thường do các nguyên nhân [101]
+ Do lỗi kỹ thuật: đặt lưới sai lệch vị trí, chèn ép TK, viêm xương mu,
thương tổn thừng tinh, vị trí cố định lưới không phù hợp trong mổ nội soi hoặc
trong mổ mở và khâu phạm vào các TK cảm giác.
115
+ Tổn thương TK trong quá trình bóc tách, hình thành u TK sau khi cắt
ngang một phần hoặc hoàn toàn, TK bị thắt bởi chỉ khâu hoặc bị chèn ép do dính
sau mổ.
+ Tạo thành sẹo mạn tính vì phản ứng viêm khi đặt lưới nhân tạo.
Điều trị BN đau mạn tính vùng bẹn bìu sau mổ TVB vẫn còn nhiều thách
thức. Trong hội nghị Hợp tác quốc tế năm 2008, các tác giả đề nghị việc điều trị bảo
tồn như là lựa chọn đầu tiên trong điều trị đau mạn tính sau mổ TVB [104]. Các
phương pháp điều trị bảo tồn bao gồm: Gây tê vùng bằng các loại thuốc tê, uống
thuốc giảm đau dòng steroid và chống viêm nhóm corticoid [104]. Tuy nhiên nếu
điều trị bảo tồn thất bại trong hơn 1 năm sau mổ và cường độ đau ảnh hưởng đến
cuộc sống thường ngày thì nên xem xét các phương pháp PT điều trị bao gồm cắt bỏ
dây TK, lấy bỏ lưới hoặc loại bỏ các dụng cụ cố định (protack) [101], [104]
Qua các nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy các nguyên nhân gây đau mạn
tính bao gồm sự tổn thương TK do thao tác của PTV trong mổ; sự chèn ép, dính, co
kéo của lưới nhân tạo và ảnh hưởng của các dụng cụ cố định lưới như protack,
stapler hoặc khâu cố định. Chính vì vậy, kinh nghiệm của PTV trong mổ, lựa chọn
kích thước, chất liệu và phương pháp cố định mảnh ghép sẽ góp phần làm giảm tỷ
lệ biến chứng đau mạn tính sau mổ, do đó nâng cao chất lượng cuộc sống cho BN.
Tái phát
Thoát vị tái phát là vấn đề quan trọng được các tác giả đặc biệt quan tâm sau
phẫu thuật thoát vị bẹn. Các nguyên nhân tái phát là phẫu tích và cắt không hết túi
thoát vị dẫn đến bỏ sót, không lấy tổ chức mỡ tại lỗ bẹn sâu, lưới bị trượt ra khỏi vị
trí đặt hoặc cuộn mép lưới không đúng và không đủ độ chồng khít để che phủ lỗ bẹn
[105]. Lưới nhân tạo 3D có kích thước trung bình hoặc lớn có thể khắc phục được
những nhược điểm này với cấu tạo phù hợp với giải phẫu vùng bẹn và độ cứng, đàn
hồi của nó giúp dễ dàng thao tác trong khoang trước phúc mạc và che phủ đầy đủ
khiếm khuyết thoát vị mà không bị xoắn vặn hoặc gập lại [10]. Nguy cơ tái phát khi
sử dụng lưới 3D được các tác giả báo cáo trong khoảng từ 0,0% - 0,45% khi theo
dõi trung bình 23-26 tháng [10], [53]
116
Nghiên cứu của Krishna A. với thời gian theo dõi xa trung bình 72 tháng (3
tháng – 10 năm), 8% BN mất liên lạc, có 2 BN tái phát (1 BN tái phát 1 bên và 1
BN tái phát cả 2 bên). Các trường hợp này đều được xử lý mổ mở đặt lưới tái tạo
thành bụng [7]. Juan M.S.G với thời gian theo dõi xa trung bình 6 tháng, không ghi
nhận biến chứng xa hay tái phát [68]. Chúng tôi cũng không ghi nhận trường hợp
nào tái phát. Kết quả này có thể do cỡ mẫu nghiên cứu và thời gian theo dõi xa của
chúng tôi còn hạn chế.
4.2.3.3. Đánh giá kết quả xa
Tính đến thời điểm kết thúc nghiên cứu (tháng 12/ 2020) có tổng số 57 BN
được khám lại. Ghi nhận 1 trường hợp biến chứng đau mạn tính vùng bẹn bìu,
không có bệnh nhân nào tái phát. Đánh giá kết quả xa: Tốt có 56 BN (98,2%); khá 1
BN (1,8%); trung bình 0%; kém 0%.
Như vậy, với những kết quả bước đầu đạt được, chúng tôi có cùng nhận định
với các tác giả: Phẫu thuật nội soi đặt tấm lưới nhân tạo 3D hoàn toàn ngoài phúc
mạc là phương pháp an toàn, khả thi và hiệu quả trong điều trị thoát vị bẹn hai bên
ở người lớn, với tỉ lệ tai biến, biến chứng và tái phát thấp. Tuy nhiên với cỡ mẫu và
thời gian theo dõi của nghiên cứu còn hạn chế, vì vậy cần có những đề tài với cỡ
mẫu và thời gian theo dõi xa hơn để đánh giá hiệu quả của phương pháp này.
117
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 60 bệnh nhân thoát vị bẹn hai bên (tổng số 120 túi thoát vị)
được điều trị bằng phẫu thuật nội soi hoàn toàn ngoài phúc mạc đặt tấm lưới nhân tạo
3D, tại Bệnh viện Thanh Nhàn, từ tháng 01/2017 đến hết tháng 11/2020, chúng tôi
rút ra một số kết luận sau:
1. Về đặc điểm bệnh lý thoát vị bẹn hai bên ở người lớn được phẫu thuật nội soi
đặt lưới 3D ngoài phúc mạc
Tất cả bệnh nhân là nam giới, tuổi trung bình 51,0 ± 19,0. Thời gian phát hiện
thoát vị bẹn hai bên trung bình 11,02 tháng với triệu chứng chính là khối phồng
vùng bẹn hai bên (60%). Tất cả bệnh nhân đều phát hiện được túi thoát vị bẹn hai
bên qua siêu âm. Đánh giá tổn thương trong mổ ghi nhận: Phân loại theo Nyhus chủ
yếu loại IIIA (thoát vị bẹn trực tiếp 63,3%); đa số cùng loại thoát vị trên một bệnh
nhân, chỉ có 4 bệnh nhân có 1 bên là thoát vị trực tiếp, bên kia là thoát vị gián tiếp.
76,7% túi thoát vị có đường kính từ 1,5 - < 3 cm. Đường kính trung bình túi thoát vị
Nyhus I là nhỏ nhất (1,23 ± 0,13 cm), Nyhus IIIB là lớn nhất (3,20 ± 0,18 cm).
2. Về kết quả phẫu thuật nội soi đặt lưới 3D ngoài phúc mạc điều trị thoát vị bẹn
hai bên ở người lớn
Kết quả trong mổ: Quy trình được thực hiện theo 5 bước
- Bước 1: Đặt trocar và phẫu tích khoang trước phúc mạc 85% thuận lợi, 15,0% có
khó khăn do thành bụng dày, dính hoặc thủng phúc mạc.
- Bước 2: Bộc lộ túi thoát vị 93,3% thuận lợi. Khó khăn 3,3% do chảy máu nhánh
động mạch thượng vị dưới, thành bụng dính và thủng phúc mạc.
- Bước 3: Xử lý túi thoát vị: 76 túi thoát vị bẹn trực tiếp (63,3%) được đẩy vào
trong ổ bụng. 44 túi thoát vị gián tiếp (36,7%) được thắt và cắt. Khó khăn 3,4%
do tổn thương ĐM thượng vị dưới và tổn thương bó mạch thừng tinh phải.
- Bước 4: 100% bệnh nhân được phục hồi thành bẹn mỗi bên bằng một lưới 3D.
80,0% sử dụng lưới nhỏ. 98,3% không cố định lưới. 1,7% phải khâu căng cường.
Khó khăn 13,3% do lưới bị mắc vào trocar 10mm hoặc phẫu tích khoang trước
phúc mạc không đủ rộng.
118
- Bước 5: Xả khí CO2, đóng bụng: 100% thuận lợi
- Tổng số tai biến 15%. Không trường hợp nào phải chuyển mổ mở. Thời gian đặt
và cố định lưới trung bình 21,1 phút, thời gian phẫu thuật trung bình 74,9 phút.
Kết quả sớm: Thời gian đau sau mổ trung bình 2,2 ngày. Biến chứng sớm 10,0%
gồm tụ máu vùng bìu, tê bì vùng đùi ngoài và bí tiểu. Đánh giá kết quả sớm: Tốt
90%, khá 8,3%, trung bình 1,7% và kém 0%
Kết quả xa: 57 bệnh nhân (95%) được tái khám sau mổ với thời gian theo dõi
trung bình 21,8 tháng ghi nhận 1 trường hợp (1,8%) đau mạn tính vùng bẹn bìu,
không bệnh nhân nào tái phát. Đánh giá kết quả xa: Tốt 98,2%; khá 1,8%; trung
bình 0%; kém 0%.
119
KIẾN NGHỊ
Phẫu thuật nội soi đặt tấm lưới nhân tạo 3D hoàn toàn ngoài phúc mạc là
phương pháp an toàn, khả thi và có kết quả tốt trong điều trị thoát vị bẹn hai bên ở
người lớn, với tỉ lệ tai biến, biến chứng và tái phát thấp. Có thể được áp dụng rộng
rãi tại các Bệnh viện có đội ngũ phẫu thuật viên chuyên ngành tiêu hóa có kinh
nghiệm và thành thạo trong phẫu thuật nội soi, cơ sở vật chất đầy đủ trang thiết bị
phẫu thuật nội soi, tấm lưới 3D, phương tiện cố định,...
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyen Van Phuoc, Dao Quang Minh, Ha Van Quyet, Pham Van
Thuong, Tran Quyet Thang, Tran Thuy Anh, Vu Ngoc Son, Nguyen Van Hien
(2021), “Laparoscopic totally extraperitoneal using three-dimension mesh to treat
bilateral inguinal hernia in adults”, World Journal of Laparoscopic Surgery, 14 (3),
p.195 – 200.
2. Nguyễn Văn Phước, Hà Văn Quyết, Đào Quang Minh, Vũ Ngọc Sơn
(2021), ”Đặc điểm bệnh lý và ứng dụng kỹ thuật phẫu thuật nội soi hoàn toàn ngoài
phúc mạc (TEP) đặt lưới nhân tạo 3D điều trị thoát vị bẹn hai bên ở người lớn”, Tạp
chí Y học Việt Nam, tập 504 – Tháng 7 – Số 2, tr. 53 – 57.
3. Nguyễn Văn Phước, Hà Văn Quyết, Đào Quang Minh, Vũ Ngọc Sơn
(2021), ”Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi hoàn toàn ngoài phúc mạc (TEP) đặt
lưới nhân tạo 3D điều trị thoát vị bẹn hai bên ở người lớn”, Tạp chí Y học Việt Nam,
tập 505 – Tháng 8 – Số 1, tr. 119 – 123.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Talha AR, Shaaban A, Ramadan R. (2015). Preperitoneal versus
Lichtenstein tension-free hernioplasty for the treatment of bilateral inguinal
hernia. Egypt J Surg. 34, 79-84.
2. Markus Gass, Laura Rosella, et al (2012). Bilateral total extraperitoneal
inguinal hernia repair (TEP) has outcomes similar to those for unilateral
TEP: population-based analysis of prospective data of 6,505 patients. Surg
Endosc. 26, 1364–1368.
3. Phạm Văn Thương, (2018). Nghiên cứu đặc điểm kỹ thuật và kết quả phẫu
thuật nội soi một lỗ qua ổ bụng đặt mảnh ghép ngoài phúc mạc điều trị thoát
vị bẹn. Luận án tiến sĩ. Viện nghiên cứu khoa học y dược lâm sàng 108.
4. Phan Đình Tuấn Dũng, (2017). Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi
ngoài phúc mạc với tấm lưới nhân tạo 2D và 3D trong điều trị thoát vị bẹn
trực tiếp. Luận án tiến sĩ. Đại học Y Dược Huế.
5. Ger R. (1982). The Management of certain abdominal hernias by intra-
abdominal closure of the neck. Ann. R. Coll. Surg. Engl. 64, 342-4.
6. Zulfiqar Hanif, Rishi Pandya Mohammad Ahmed Sajid, Kumaran
Shanmugarajah, Sajid Mahmud (2017). Modification of standard
laparoscopic total extra peritoneal hernia repair technique: Methods to
improve feasibility in the UK health service. International Journal of Surgery
Open. 9, 45 - 47.
7. Asuri Krishna, et al (2019). Totally Extraperitoneal Repair in Inguinal
Hernia: More Than a Decade’s Experience at a Tertiary Care Hospital.
Surg Laparosc Endosc Percutan Tech. 29, 247 - 251.
8. Chowbey P. K., Garg N., Khullar R., et al. (2010). Prospective randomized
clinical trial comparing lightweight mesh and heavyweight polypropylene
mesh in endoscopic totally extraperitoneal groin hernia repair. Surg Endosc.
24, 3073 - 3079.
9. Poobalan A., Bruce J., Cairns W (2003). A review of chronic pain after
inguinal herniorrhaphy. The clinical journal of pain. 19, 48 - 54.
10. Bell R. C. W., Price J. G. (2003). Laparoscopic inguinal hernia repair using
an anatomically contoured three-dimensional mesh. Surg Endosc. 17, 1784-
1788.
11. Iqbal Saleem Mir, et al (2018). Laparoscopic totally extraperitoneal repair
of inguinal hernia using three-dimensional mesh: a 5 years experience at a
tertiary care hospital in Kashmir, India. International Surgery Journal. 5(3),
1016-1020.
12. Elmessiry M.M., Gebaly A.A. (2020). Laparoscopic versus open mesh
repair of bilateral primary inguinal hernia: A three-armed Randomized
controlled trial. Ann Med Surg (Lond). 59, 145-150.
13. Doudakmanis C., et al (2022). Laparoscopic bilateral inguinal hernia
repair: Should it be the preferred technique? World J Methodol. 12(4), 193-
199.
14. Kalpesh H. Patel, Jayesh B. Gohel, Bhumika J. Patel (2017). Managing
bilateral inguinal hernia laparoscopically: is it gold standard? International
Surgery Journal. 4(1), 296 - 299.
15. Trịnh Văn Minh Minh, (2007). Ống bẹn, in Giải phẫu người - Tập 2, NXB
Giáo dục - Việt Nam. p. 100-108.
16. D.L. Drake, Vogl A.W., Mitchell A.W.M., (2015). Abdominal wall, in
Gray's Anatomy for students. 3rd edition, Elsevier. p. 280-292.
17. D.B. Jones, Fischer J.E., (2013). Anatomy and pathophysiology of hernias, in
Master Techniques in Surgery: Hernia, Lippincott Williams &Wilkins. p. 1-
16.
18. Trịnh Văn Minh Minh, (2007). Các cơ của bụng, in Giải phẫu người - Tập 2,
NXB Giáo dục - Việt Nam. p. 92-100.
19. R.J. Fitzgibbons, Richards A.T., Quinn T.H., (2006). Open Hernia Repair, in
ACS Surgery: Principles and Practice, WebMD Professional Publicshing. p.
1-22.
20. C.M. Townsend, Beauchamp R.D., et al, (2012). Chapter 46: Hernias, in
Sabiston Textbook of Surgery: The Biological Basis of Modern Surgical
Practice, 19th edition, Elsevier. p. 1114-1128.
21. Standring Susan, (2016). Abdomen and pelvis: overview and surface
anatomy, in Gray's Anatomy The Anatomical Basis of Clinical Practice -
Forty first Edition, Elsevier Limited. p. 1033- 1047.
22. Weber‐Sanchez A, Weber‐Alvarez P, Garteiz‐Martinez D (2016).
Laparoscopy and bilateral inguinal hernia. J Surg Transplant Sci. 4(1).
23. Miller AR, Naessens JM van Heerden JA, O’Brien PC. (1991). Simultaneous
bilateral hernia repair. A case against conventional wisdom. Ann Surg. 213,
272-276.
24. Macho J.R., (2010). Inguinal Hernias, in Schwartz’s Principles of Surgery:
ninth Edition, McGraw-Hill’s Access Medicine, United States of America.
25. Stranne J. (2006). nguinal Hernia after Urologic Surgery in Males with
Special Reference to Radical Retropubic Prostatectomy. Intellecta DocuSys
AB. 1 - 18.
26. Nguyễn Đình Hối, Nguyễn Mậu Anh, (2011). Thoát vị thành bụng, in Bệnh
học ngoại khoa tiêu hóa. Nhà xuất bản y học-Chi nhánh TP.Hồ Chí Minh:
TP Hồ Chí Minh, tr. 313-336.
27. O'Rourke A., et al (2002). Laparoscopic diagnosis and repair of
asymptomatic bilateral inguinal hernias. Am J Surg. 183(1), 15-19.
28. Lumley J.S.P., D'Cruz A.K., (2016). Abdominal hernias, in Hamilton
Bailey's: Demonstrations of Physical Signs in Clinical Surgery, 19th Edition,
Taylor & Francis Group. p.531-546.
29. Townsend C.M., Beauchamp R.D., et al, (2012). Chapter 46: Hernias, in
Sabiston Textbook of Surgery: The Biological Basis of Modern Surgical
Practice, 19th edition, Elsevier. p.1114-1128.
30. Nyhus L.M. (1998). Herniology 1948-1998: Evolution toward excellence.
Hernia. 2(1), 1 - 5.
31. Townsend C.M., Beauchamp R.D., et al, (2012). Chapter 45: Abdominal
wall, umbilicus, peritoneum, mesenteries, omentum, and retroperitoneum, in
Sabiston Textbook of Surgery: The biological basis of modern surgical
practice - 19 Edition, Elsevier. p.1088-1113.
32. Masato Ota, Toshikatsu Nitta, Jun Kataoka, et al (2021). A study of the
effectiveness of the bilateral and contralateral occult inguinal hernia repair
by total extraperitoneal repair with intraperitoneal examination. Asian
Journal of Endoscopic Surgery. 15(1), 1-6.
33. Al-Shemy G., et al (2018). Evaluation of open hernioplasty in bilateral
inguinal hernia repair. Al Azhar Assiut Medical Journal. 16, 66-72.
34. Torralba MJ, Ruiz LR Egea MA, Garví AJ, Cuenca MG, Perelló MJ, et al.
(2003). Hernia inguinal bilateral: cirugía abierta versus reparación
laparoscópica extraperitoneal. Cir Esp. 73, 282-287.
35. Jones D.B., Fischer J.E., (2013). Lichtenstein-based groin hernia repair, in
MasterTechniques in Surgery: Hernia, Lippincott Williams &Wilkins. p. 17 -
23.
36. S. Wu, Ying Fan, Yu Tian, (2013). Hernia surgery, in Atlas of Single-
Incision Laparoscopic Operations in General Surgery, Springer Science &
Business Media Dordrecht. p. 327-353.
37. P. Sayad, Abdo Z., Cacchione R., Ferzli G. (2000). Incidence of incipient
contralateral hernia during laparoscopic hernia repair. Surg Endosc. 14,
543-545.
38. R.H. Koehler (2002). Diagnosing the occult contralateral inguinal hernia:
Combined use of diagnostic laparoscopy and totally extraperitoneal
laparoscopic repair. Surg Endosc. 16(3), 512-520.
39. Benedetto I., et al (2018). Cost-effectiveness of Randomized Study of
Laparoscopic Versus Open Bilateral Inguinal Hernia Repair. Annals of
Surgery. 268(5), 725-730.
40. Fitzgibbons R.J., Richards A.T., Quinn T.H, (2006). Open Hernia Repair, in
ACS Surgery: Principles and Practice, WebMD Professional Publicshing.
p.1-22.
41. Bekker J., Keeman J.N., Simons M.P. (2007). A brief history of the inguinal
hernia operation in adults. Ned. Tijdschr Geneeskd. 151(16), 924 - 931.
42. R. Bittner, Arregui M.E., Bisgaard T., et al (2011). Guidelines for
laparoscopic (TAPP) and endoscopic (TEP) treatment of inguinal hernia
[International Endohernia Society (IEHS)]. Surg Endosc. 25(9), 2773-2843.
43. D.B. Jones, Fischer J.E., (2013). Inguinal anatomy: Laparoscopic view, in
MasterTechniques in Surgery: Hernia, Lippincott Williams &Wilkins. p.
149-159.
44. Jones D.B., Fischer J.E., (2013). Laparoscopic transabdominal preperitoneal
inguinal hernia repair, in MasterTechniques in Surgery: Hernia, Lippincott
Williams &Wilkins. p. 161-172.
45. L.S. Feldman, Wexler M.J., Fraser S.A., (2006). Laparoscopic Hernia
Repair, in ACS Surgery: Principles and Practice WebMD Professional
Publicshing. p. 1-20.
46. Jones D.B., Fischer J.E., (2013). Totally extraperitoneal inguinal hernia
repair, in MasterTechniques in Surgery: Hernia, Lippincott Williams
&Wilkins. p. 173-191.
47. Karen Baylón, Perla Rodríguez-Camarillo (2017). Past, Present and Future
of Surgical Meshes: A Review. Membranes 47(7), 1-23.
48. Tajamul Rashid, et al (2018). A comparative study of three-dimensional
mesh (3D mesh) and polypropylene mesh in laparoscopic inguinal hernia
repairs in adults. International Surgery Journal. 5(1), 174 - 180.
49. Gray S. H, Hawn M. T., Kamal M. (2008). Surgical Progress in Inguinal
and Ventral Incisional Hernia Repair. Surg Clin N Am. 88, 17 - 26.
50. Klinge U., Birkenhauer V Klosterhalfen B, Junge K, Conze J, Schumpelick
V (2002). Impact of polymer pore size on the interface scar formation in a
rat model. J Surg Res. 103(2), 208-14.
51. Pajotin P. (1998). Laparoscopic groin hernia repair using a curved
prosthesis without fixation. Le journal de Coelio-Chirurgie. 28, 64-68.
52. Meyer A., Dulucq J.L., Mahajna A. (2013). Laparoscopic totally
extraperitoneal hernioplasty with nonfixation of three-dimensional mesh–
Dulucq’s technique. Arq Bras Cir Dig. 26(1), 59 - 61.
53. Mir I.S., Nafae A., Malyar A., et al (2015). An experience of short-term
results of laparoscopic inguinal hernioplasty using 3D mesh in a developing
country. International Journal of clinical medicine. 6, 64 - 69.
54. Vrijland WW, van Den Tol MP, Luijendijk RW, et al (2002). Randomized
clinical trial of non‐mesh versus mesh repair of primary inguinal hernia.
British Journal of Surgery. 89(3), 293-7.
55. Shah BC, Goede MR, Bayer R, et al (2009). Does type of mesh used have an
impact on outcomes in laparoscopic inguinal hernia? The American Journal
of Surgery. 198(6), 759 - 764.
56. Sajid MS, Parampalli U Kalra L, Sains PS, Baig MK (2013). A systematic
review and meta-analysis evaluating the effectiveness of lightweight mesh
against heavyweight mesh in influencing the incidence of chronic groin pain
following laparoscopic inguinal hernia repair. The American Journal of
Surgery. 205(6), 726-36.
57. Meyer A., Blanc P., Balique J. G., et al (2013). Laparoscopic totally
extraperitoneal inguinal repair: Twenty-seven serious complications after
4565 consecutive operations. Rev. Col. Bras. 40(1), 32 - 36.
58. Koch C.A., et al (2006). Randomized Prospective Study of Totally
Extraperitoneal Inguinal Hernia Repair: Fixation Versus No Fixation of
Mesh. JSLS. 10(4), 457–460.
59. Dario V, Giorgio L Piero R, Flavio De S, Stefano E, et al (2015). A New
Prosthesis in Inguinal Hernia Repair: Results of Pilot Study. Surgery Res
Open J. 2(2), 66-71.
60. Trịnh Văn Thảo, (2010). Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi đặt mảnh
ghép hoàn toàn ngoài phúc mạc trong điều trị thoát vị bẹn. Luận án tiến sĩ.
Học viện Quân Y.
61. Phillip A.M., Joseph D., Christophe R.B. (2018). Bilateral totally
extraperitoneal (TEP) repair of the ultrasound-diagnosed asymptomatic
contralateral inguinal hernia. Surgical Endoscopy. 32, 955-962.
62. A.N. Kingsnorth, LeBlanc K.A., (2013). Anesthesia, in Management of
Abdominal Hernias, 4th edition, Springer Science & Business Media. p. 159-
170.
63. Bard Vavol Inc (2012). 3DMax mesh technique Guide: Totally
Extraperitoneal Approach and Tranabdominal Preperitoneal Approach.
64. Lau H, Patil NG, Yuen WK (2003). A comparative outcome analysis of
bilateral versus unilateral endoscopic extraperitoneal inguinal
hernioplastics. J Laparoendosc Adv Surg Tech A 13(3), 153 - 157.
65. Yoon Young Choi, Kyung Yul Hur (2010). Simultaneous Laparoscopic
Totally Extraperitoneal Repair of Bilateral Inguinal Hernia: Review of 1
Surgeon Experiences. Surg Laparosc Endosc Percutan Tech. 21(4), 264 -
266.
66. Pfeffer F, Riediger H, Kufner Lein R, Hopt UT (2008). Repair of bilateral
inguinal hernias: Sequential or simultaneous? Zentralbl Chir. 133, 446 -
451.
67. Kockerling F., et al (2015). Bilateral and Unilateral Total Extraperitoneal
Inguinal Hernia Repair (TEP) have Equivalent Early Outcomes: Analysis of
9395 Cases. World J Surg. 39(8), 1887-94.
68. Juan M.S.G, et al (2016). Initial experience in laparoscopic bilateral
inguinal hernia repair (TEP) with new anatomical mesh with large pore and
low weight (Dynamesh Endolap) in short stay (6 months follow-up).
Ambulatory Surgery. 23(3), 89 - 91.
69. Tolga A., Tunc Y., Burcak K. (2017). Laparoscopic Total Extraperitoneal
(TEP) Inguinal Hernia Repair Using 3-dimensional Mesh Without Mesh
Fixation. Surg Laparosc Endosc Percutan Tech. 27(4), 282-284.
70. Előd E., et al (2018). Laparoscopic versus conventional open surgery for the
treatment of bilateral inguinal hernias. Journal of Interdisciplinary
Medicine. 3(3), 181-185.
71. Leibl B.J., et al (2005). Laparoscopic hernia repair-TAPP or/and TEP? .
Langenbeck's Arch. Surg. 390(2), 77-82.
72. Yuichi T., Yuji K., Atsuyuki M., et al (2020). Laparoscopic transabdominal
preperitoneal repair versus open mesh plug repair for bilateral primary
inguinal hernia. A.G.Surg. 4(2), 156-162.
73. Takayama Y., Kaneoka Y., Maeda A., et al (2020). Laparoscopic
transabdominal preperitoneal repair versus open mesh plug repair for
bilateral primary inguinal hernia. Ann. Gastroenterol. Surg. 4, 156-162.
74. Gundogdu E., Guldogan C., et al (2021). Bilateral inguinal hernia repair:
Robotic TAPP Versus Laparoscopic TEP. Surgical Laparoscopy, Endoscopy
& Percutaneous Techniques. 31(4), 439-443.
75. Nils J.H., Irene B., Carlos H., et al (2022). The transition from open to
laparoscopic surgery for bilateral inguinal hernia repair: how we did it.
Langenbeck's Archives of Surgery. 7, 1-10.
76. M. Daabiss (2011). American Society of Anaesthesiologists physical status
classification. Indian J Anaesth. 55(2), 111-115.
77. Expert Consultation WHO (2004). Appropriate body-mass index for Asian
populations and its implications for policy and intervention strategies.
Lancet. 363, 157-163.
78. J.S.P. Lumley, D'Cruz A.K., et al, (2016). Abdominal hernias, in Hamilton
Bailey's: Demonstrations of Physical Signs in Clinical Surgery, 19th Edition,
Taylor & Francis Group. p. 531-546.
79. R.A. Powell, Downing J., Ddungu H., et al, (2010). Pain History and Pain
Assessment, in Guide to Pain management in Low-Resource Settings, IASP
Seatter. p. 67-78.
80. Hà Văn Quyết Quyết, Phạm Đức Huấn, (2013). Khám hệ tiết niệu sinh dục
nam, in Bài giảng triệu chứng học ngoại khoa, Nhà xuất bản Y học: Hà Nội.
p. 141-157.
81. A.J. Mangram, Horan T.C., Pearson M.L., et al (1999). Guideline for
Prevention of Surgical Site Infection, 1999. Centers for Disease Control and
Prevention (CDC) Hospital Infection Control Practices Advisory Committee.
Am J Infect Control. 27(2), 97-132.
82. R. Sinha, Malhotra V., Sikarwar P. (2015). Single incision laparoscopic
TAPP with standard laparoscopic instruments and suturing of flaps: A
continuing study. J Minim Access Surg. 11(2), 134-138.
83. E.K. Aasvang, Kehlet H. (2005). Surgical management of chronic pain after
inguinal hernia. British Journal of Surgery. 92(7), 795-801.
84. S. Alfieri, Amid P.K., Campanelli G., et al (2011). International guidelines
for prevention and management of post-operative chronic pain following
inguinal hernia surgery. Hernia. 15(3), 239-249.
85. Aloysius U.O., Uchenna D. (2020). Bilateral Inguinal Hernia: Epidemiology
and Outcomes of Surgical Treatment in Southeast Nigeria. Nigerian Journal
of Medicine. 29(3), 401-406.
86. Al-Sahaf O., Al-Azawi D., Fauzi M. Z. (2008). Totally Extraperitoneal
Laparoscopic Inguinal Hernia Repair Is a Safe Option in Patients with
Previous Lower Abdominal Surgery. Journal of Laparoendoscopic &
Advanced Surgical Techniques. 18(3), 353-56.
87. Ramshaw B. (2006). Laparoscopic total extraperitoneal inguinal hernia
repair. Operative technique in gerenal surgery. 34-44.
88. Park B.S., Ryu D.Y., Son M., et al (2014). Factors influencing on dificulty
with laparoscopic total extraperitoneal repair according to learning period.
Annals of Surgical Treatment and Research. 87(4), 203 - 208.
89. British Hernia Society (2013). Groin hernia guidelines, Association of
surgeons of Great Britain and Ireland. Issues in professional practice.
90. Wauschkuhn CA, Schwarz J, Boekeler U, Bittner R (2010). Laparoscopic
inguinal hernia repair: gold standard in bilateral hernia repair? Results of
more than 2,800 patients in comparison to literature. Surg Endosc. 24(3026-
3030).
91. Pawanindra L, Philips P, Chander J, Ramteke VK (2010). Is unilateral
laparoscopic TEP inguinal hernia repair a job half done? The case for
bilateral repair. Surg Endosc. 24(1737–1745).
92. Lantis JC, Schwaitzberg SD (1999). Tack entrapment of the ilioinguinal
nerve during laparoscopic hernia repair. J Laparoendosc Adv Surg Tech A.
9(3), 285-289.
93. A Acar, HK Tolan I Kabak, T Canbak (2020). Comparison between Mesh
Fixation and Non‐Fixation in Patients Undergoing Total Extraperitoneal
Inguinal Hernia Repair. Nigerian Journal of Clinical Practice. 23(7), 897 -
899.
94. Ghazzal A., Qatawnech T., Abusiene A. (2012). Total extra peritoneal
laparoscopic inguinal hernioplasty: Early experience at the royal medical
services hospitals of Jorrdan Armed forrces. Journal of the royal medical
services. 18(2), 5 - 10.
95. Ayyaz M., Farooka M., Toor A., et al (2015). Mesh fixation vs. non- fixation
in total extra peritoneal mesh hernioplasty. J Pak Med Assoc. 65(3), 270 -
272.
96. Chalkoo M, Makhdoomi H. Mir MA (2016). Laparoscopic Transabdominal
Preperitoneal Mesh Hernioplasty: A Medical College Experience. Surgical
Science. 7(2), 107-113.
97. Tam K.W., Liang H., Chai C.Y. (2010). Outcomes of Staple Fixation of mesh
versus nonfixation in laparoscopic total extraperitoneal inguinal repair: A
meta-analysis of randomized controlled trials. World J Surg. 34, 3065-3074.
98. Yang X.F., J.L. Liu (2016). Laparoscopic repair of inguinal hernia in adults.
Ann Transl Med. 4(20), 1 - 19.
99. Garg P., Rajagopal M., Varghese V., et al (2009). Laparoscopic total
extraperitoneal inguinal hernia repair with non fixation of mesh for 1.692
hernias. Surg Endocs. 23, 1241 - 1245.
100. Rosenberger R.J., Loeweneck H., Meyer G. (2000). The cutaneous nerves
encountered during laparoscopic repair of inguinal hernia. Surg Endocs.
14(8), 731 - 735.
101. Pappalardo G., Frattaroli F.M., et al (2007). Neurectomy to prevent persistent
pain after inguinal herniorraphy: a prospective study using objective criteria
to assess pain. World J Surg. 3(5), 1081-1086.
102. Hanada K., Narita M., Goto K., et al (2017). Chronic inguinal pain after
laparoscopic intraperitoneal onlay mesh (IPOM) repair for inguinal hernia
treated successfully with laparoscopic selective neurectomy: A case report.
Int J Surg Case Rep. 38, 172-175.
103. Eklund A, Montgomery A, Bergkvist L, Rudberg C. (2010). Chronic pain 5
years after randomized comparison of laparoscopic and Lichtenstein
inguinal hernia repair. Br J Surg. 97, 600 - 608.
104. Alfieri S., Amid P.K., Campanelli G., et al (2011). International guidelines
for prevention and management of post-operative chronic pain following
inguinal hernia surgery. Hernia. 15(3).
105. Reddy P.K. (2016). Contoured 3D Mesh in Laparoscopic Inguinal Hernia
Repair: Does it Reduce Inguinodynia. MOJ Surg. 3(4), 1-7.
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nỗ lực học tập và nghiên cứu, bản thân tôi đã nhận được
rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của quý thầy cô, quý đồng nghiệp, bạn bè và
gia đình để hoàn thành luận án này.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới
thầy PGS.TS. Đào Quang Minh, thầy GS.TS. Hà Văn Quyết - những người Thầy
hướng dẫn khoa học đã dành rất nhiều công sức chỉ dẫn tận tình, giúp đỡ và động
viên tôi trong suốt quá trình học tập, thực hiện đề tài và hoàn thành luận án của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Bộ môn Ngoại và PTTH, phòng Đào
tạo sau đại học - Trường Đại học Y Dược Hải Phòng, đã giúp đỡ và tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Đảng ủy, ban giám đốc, phòng kế hoạch
tổng hợp, khoa ngoại tiêu hóa Bệnh viện Thanh Nhàn đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu và thu thập số liệu để hoàn thành luận án này.
Xin chân thành cảm ơn những bệnh nhân, người nhà đã hợp tác và giúp đỡ
tôi, cung cấp các thông tin trong quá trình nghiên cứu.
Trong quá trình viết luận án, chắc chắn không thể tránh được những thiếu
sót. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy trong Hội đồng đã cho những ý kiến đóng
góp hết sức quý báu để bản luận án được hoàn thiện hơn.
Xin gửi lời cảm ơn đến quý đồng nghiệp, bạn bè, anh chị em đã ủng hộ tôi
trong qúa trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, người thân đã luôn
dành sự ủng hộ, động viên giúp đỡ, để tôi vượt qua mọi khó khăn thử thách trong
những năm học tập, nghiên cứu và hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Văn Phước
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Văn Phước, Nghiên cứu sinh chuyên ngành Ngoại tiêu
hóa khoá 1 – Trường Đại học Y Dược Hải Phòng, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện theo ý tưởng khoa học của
PGS.TS. Đào Quang Minh và GS.TS. Hà Văn Quyết
2. Công trình này không trùng lặp với các nghiên cứu khác đã được công bố.
3. Các số liệu và thông tin nghiên cứu là chính xác, trung thực và khách quan, đã
được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam đoan này.
Tác giả
Nguyễn Văn Phước
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chữ viết tắt Từ gốc
3D : Three dimensional
(Ba chiều)
: American Society of Anaesthesiologists ASA
(Hiệp hội gây mê Hoa Kỳ)
BMI : Body Mass Index
(Chỉ số khối cơ thể)
BN : Bệnh nhân
CLVT : Cắt lớp vi tính
CS : Cộng sự
ĐM : Động mạch
PM : Phúc mạc
PT : Phẫu thuật
PTNS : Phẫu thuật nội soi
PTV : Phẫu thuật viên
TAPP : Transabdominal Preperitoneal
(Xuyên thành bụng ngoài phúc mạc)
TEP : Total Extraperitoneal
(Hoàn toàn ngoài phúc mạc)
TK : Thần kinh
TV : Thoát vị
TVB : Thoát vị bẹn
VAS : Visual Analog Scale
(Thang nhìn hình đồng dạng)
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ...........................................................................................................1
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU........................................................................3
1.1. Giải phẫu, cơ chế bệnh sinh ứng dụng trong phẫu thuật thoát vị bẹn..............3
1.2. Tình hình nghiên cứu về đặc điểm bệnh lý thoát vị bẹn hai bên...................10
1.2.1. Dịch tễ học.............................................................................................10
1.2.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh..........................................................12
1.2.3. Chẩn đoán..............................................................................................14
1.2.4. Phân loại thoát vị bẹn.............................................................................16
1.3. Phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn hai bên.........................................................16
1.3.1. Lịch sử....................................................................................................16
1.3.2. Các phương pháp phẫu thuật..................................................................18
1.3.3. Các vật liệu nhân tạo ứng dụng trong phẫu thuật thoát vị bẹn................23
1.4. Ứng dụng PTNS hoàn toàn ngoài phúc mạc (TEP) đặt tấm lưới nhân tạo 3D
điều trị TVB hai bên......................................................................................24
1.4.1. Vai trò của lưới nhân tạo 3D..................................................................24
1.4.2. Các bước kỹ thuật...................................................................................26
1.5. Tình hình nghiên cứu về kết quả PTNS TEP điều trị TVB hai bên...............33
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................37
2.1. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................37
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn................................................................................37
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ..................................................................................37
2.2. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................37
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu.................................................................................37
2.2.1. Cỡ mẫu nghiên cứu.................................................................................37
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu..................................................................38
2.2.4. Quy trình PTNS đặt tấm lưới nhân tạo 3D ngoài phúc mạc điều trị TVB
hai bên được thực hiện trong nghiên cứu......................................................38
2.2.5. Các chỉ tiêu nghiên cứu...........................................................................48
2.2.6. Xử lý số liệu............................................................................................58
2.2.7. Đạo đức nghiên cứu của đề tài................................................................58
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU....................................................................59
3.1. Đặc điểm bệnh lý TVB hai bên ở người lớn được PTNS đặt lưới 3D ngoài
phúc mạc.......................................................................................................59
3.1.1. Đặc điểm chung......................................................................................59
3.1.2. Đặc điểm bệnh lý...................................................................................62
3.2. Kết quả PTNS đặt tấm lưới nhân tạo 3D điều trị TVB hai bên.....................70
3.2.1. Kết quả trong mổ....................................................................................70
3.2.2. Kết quả sớm...........................................................................................76
3.2.3. Kết quả xa..............................................................................................79
Chương 4. BÀN LUẬN...........................................................................................81
4.1. Đặc điểm bệnh lý TVB hai bên ở người lớn được PTNS đặt lưới 3D ngoài
phúc mạc.......................................................................................................81
4.1.1. Đặc điểm chung......................................................................................81
4.1.2. Đặc điểm bệnh lý...................................................................................86
4.2. Kết quả PTNS đặt tấm lưới nhân tạo 3D điều trị TVB hai bên.....................91
4.2.1. Kết quả trong mổ....................................................................................91
4.2.2. Kết quả sớm.........................................................................................106
4.2.3. Kết quả xa............................................................................................111
KẾT LUẬN...........................................................................................................116
KIẾN NGHỊ..........................................................................................................118
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MẪU BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU
DANH SÁCH BỆNH NHÂN
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1. 1. Tỷ lệ TVB hai bên theo các nghiên cứu.................................................11
Bảng 1. 2. Kết quả phẫu thuật điều trị TVB bằng lưới nhân tạo 3D........................26
Bảng 2. 1. Các thông số của tấm lưới nhân tạo polypropylene................................40
Bảng 2. 2. Mức độ đau theo thang điểm VAS.........................................................54
Bảng 3.1. Tuổi.........................................................................................................59
Bảng 3.2. Nghề nghiệp............................................................................................60
Bảng 3.3. Bệnh nội khoa kết hợp.............................................................................60
Bảng 3.4. Tiền sử phẫu thuật vùng bụng.................................................................61
Bảng 3.5. Phân loại theo chỉ số khối cơ thể (BMI)..................................................62
Bảng 3.6. Thời gian phát hiện bệnh.........................................................................62
Bảng 3.7. Triệu chứng lâm sàng..............................................................................63
Bảng 3.8. Phân loại thoát vị bẹn từng bên theo siêu âm trước mổ...........................63
Bảng 3.9. Phân loại thoát vị bẹn cả hai bên theo siêu âm trước mổ.........................64
Bảng 3.10. Đánh giá tạng thoát vị từng bên theo siêu âm trước mổ........................64
Bảng 3.11. Phân loại thoát vị bẹn cả hai bên theo siêu âm trước mổ.......................65
Bảng 3.12. Phân loại thoát vị bẹn theo vị trí giải phẫu trong mổ.............................65
Bảng 3.13. Phân loại thoát vị bẹn cả hai bên trong mổ............................................66
Bảng 3.14. Tương quan thoát vị bẹn hai bên trên một bệnh nhân............................66
Bảng 3.15. Phân loại thoát vị bẹn theo Nyhus trong mổ..........................................67
Bảng 3.16. Phân loại thoát vị bẹn theo Nyhus cả hai bên trong mổ.........................67
Bảng 3.17. Đường kính túi thoát vị trong mổ..........................................................68
Bảng 3.18. Phân loại đường kính túi thoát vị cả hai bên trong mổ..........................68
Bảng 3.19. Đường kính túi thoát theo phân loại vị trí giải phẫu..............................69
Bảng 3.20. Đường kính túi thoát theo phân loại Nyhus...........................................69
Bảng 3.21. Phương pháp phẫu tích khoang trước phúc mạc....................................70
Bảng 3.22. Kết quả bước 1......................................................................................70
Bảng 3.23. Kết quả bước 2......................................................................................71
Bảng 3.24. Phẫu tích và xử lý túi thoát vị từng bên.................................................71
Bảng 3.25. Phẫu tích và xử lý túi thoát vị hai bên...................................................72
Bảng 3.26. Kết quả bước 3......................................................................................72
Bảng 3.27. Loại lưới nhận tạo 3D sử dụng trong mổ...............................................73
Bảng 3.28. Loại lưới 3D sử dụng theo đường kính túi thoát vị................................73
Bảng 3.29. Loại lưới 3D sử dụng theo phân loại Nyhus..........................................74
Bảng 3.30. Cố định tăng cường lưới........................................................................74
Bảng 3.31. Kết quả bước 4......................................................................................75
Bảng 3.32. Tổng số tai biến trong mổ......................................................................75
Bảng 3.33. Thời gian cố định lưới và tổng thời gian phẫu thuật (n = 60)................76
Bảng 3.34. Đánh giá mức độ đau sau mổ theo thang điểm VAS.............................76
Bảng 3.35. Thời gian trung tiện và trở lại sinh hoạt bình thường sau mổ (n = 60). .77
Bảng 3.36. Biến chứng sớm.....................................................................................77
Bảng 3.37. Thời gian nằm viện sau mổ...................................................................78
Bảng 3.38. Đánh giá kết quả sớm............................................................................78
Bảng 3.39. Kết quả khám lại sau mổ 1 tháng đến 2 năm.........................................79
Bảng 3.40. Đánh giá kết quả sau 1 tháng.................................................................80
Bảng 3.41. Đánh giá kết quả xa tại thời điểm kết thúc nghiên cứu..........................80
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Phân loại sức khỏe theo ASA..............................................................61
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ bệnh nhân theo dõi xa................................................................79
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH MINH HỌA
Hình 1.1. Ống bẹn cắt dọc.........................................................................................3
Hình 1.2. Thiết đồ cắt ngang ống bẹn và các thành phần liên quan...........................4
Hình 1.3. TVB gián tiếp..........................................................................................12
Hình 1.4. TVB trực tiếp...........................................................................................13
Hình 1.5. Rạch da và phẫu tích vào lá trước cân cơ thẳng bụng..............................27
Hình 1. 6. Trocar kèm bóng chuyên dụng để tạo khoang trước phúc mạc...............27
Hình 1. 7. Phẫu tích tạo khoang trước phúc mạc bằng bóng....................................28
Hình 1. 8. Vị trí đặt các trocar trong phẫu thuật TEP sử dụng lưới 3D....................29
Hình 1. 9. Đánh giá tổn thương...............................................................................29
Hình 1. 10. Phẫu tích và xử lý túi thoát vị...............................................................30
Hình 1. 11. Bóc tách khoang trước phúc mạc đủ rộng để đặt lưới...........................31
Hình 1. 12. Cuộn lưới vào dụng cụ nội soi để đưa qua trocar 10mm.......................31
Hình 1. 13. Đặt lưới 3D che phủ toàn bộ lỗ cơ lược................................................32
Hình 2.1. Bộ dụng cụ phẫu thuật nội soi..................................................................39
Hình 2. 2. Tấm lưới nhân tạo 3D MaxTM Mesh của hãng Bard – Davol..................40
Hình 2. 3. Vị trí kíp phẫu thuật................................................................................41
Hình 2. 4. Vị trí đặt trocar.......................................................................................43
Hình 2. 5. Tạo khoang trước phúc mạc bằng tay và khí CO2..................................44
Hình 2. 6. Phẫu tích thành bên khoang trước phúc mạc...........................................45
Hình 2. 7. Phẫu tích và xử lý túi thoát vị bên phải...................................................45
Hình 2. 8. Đặt lưới nhân tạo ngoài phúc mạc bên trái.............................................46
Hình 2. 9. Xả khí CO2 dưới quan sát của camera.....................................................48
Hình 2. 10. Đo đường kính túi thoát vị....................................................................51
Hình 4. 3. Bộc lộ túi thoát vị, đánh giá tổn thương trong mổ..................................89
Hình 4. 1. Gỡ dính, bóc tách vào khoang trước phúc mạc.......................................93
Hình 4. 2. Các vị trí lựa chọn đặt trocar trong PTNS TEP.......................................94
Hình 4. 4. Phẫu tích thắt và cắt túi thoát vị gián tiếp...............................................95
Hình 4. 5. Đặt lưới 3DMax che phủ từng bên thoát vị.............................................97
Hình 4. 6. Cách cuộn tấm lưới 3D có kích thước lớn để đưa qua trocar 10mm.......99
Hình 4. 7. Xả khí CO2 từ từ dưới quan sát của camera.........................................100
Hình 4. 8. Đóng các lỗ trocar.................................................................................100
Hình 4. 9. Tai biến thủng phúc mạc.......................................................................102
Hình 4. 10. Siêu âm tại thời điểm khám lại sau mổ 1 tháng..................................112
Hình 4. 11. Khám lại sau mổ 1 tháng....................................................................112