
vietnam medical journal n01 - APRIL - 2020
192
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CHỈ SỐ TUMOR MARKER
VÀ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI 3D UNG THƯ ĐẠI TRÀNG TRÁI
TẠI BỆNH VIỆN K
Phạm Văn Bình*, Nguyễn Hoàng Hà**
TÓM TẮT50
Mục tiêu:
Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng,
chỉ số tumor marker của ung thư đại tràng trái được
PTNS 3D. Đánh giá kết quả sớm của PTNS 3D điều trị
ung thư đại tràng trái.
Phương pháp:
nghiên cứu mô
tả cắt ngang.
Kết quả:
33 bệnh nhân ung thư đại
tràng trái được PTNS 3DTuổi 58.51±8.89. Triệu chứng
đại tiện phân nhày máu chiếm 75.8%. Thời gian có
biểu hiện trung bình là 2.7 tháng, Chỉ số Marker: CEA,
CA 19 – 9, CA 72 – 4 trong giới hạn bình thường là
71.9%, 70.6% và 92.9%. Thời gian mổ 115 ±
25.1phút. Không có tai biến trong mổ. Thời gian có
nhu động ruột 3.24±1.13 ngày. Thời gian dùng thuốc
giảm đau sau mổ: 1.6±0.8 ngày. Tỉ lệ chuyển mổ mở
6.1%, biến chứng sau mổ 3.1%. Số lượng hạch nạo
vét được 12.9±6.2 hạch. Thời gian nằm viện sau mổ
là 11.93±5.06 ngày; ung thư giai đoạn II và III chiếm
tỉ lệ 78.8%.
Kết luận:
Phẫu thuật nội soi 3D ung thư
đại tràng trái tại bệnh viện K an toàn và khả thi đảm
bảo nguyên tắc ung thư học.
Từ khóa
: Phẫu thuật nội soi 3D, Ung thư đại tràng trái.
SUMMARY
EVALUATING THE CLINICAL FEATURES,
TUMOR MARKERS AND THE INITIAL
OUTCOME OF 3D LAPAROSCOPIC SURGERY
FOR LEFT COLON CANCER AT K HOSPITAL
Purpose
: The study aimed to evaluate the clinical
features, tumor markers and the initial results of 3D
laparoscopic surgery for left colon cancer at K hospital.
Methods:
cross section study.
Result:
There were
33 left colon cancer patients who underwent radical
surgery, the mean age was 58.51±8.89. 78.5% of
patients had the symptom of blood in stool in average
2.7 months before attending hospital. The percentage
of the patient had normal limits with the result of CEA,
CA19-9, CA 72-4 were 71.9%, 70.6%, and 92.9%
respectively. The average operative time was
115±25.1 minutes. No intraoperative complication was
recorded. The recovery of bowel functions post-
surgery 3.24±1.13 days. The length of using pain
medicines was 1.6±0.8 days. There were 6.1% of
cases need to be changed to conventional surgery.
Only 3.1% of postoperative complications. The mean
harvested lymph nodes were 12.9±6.2. Postoperative
pathology staging: stage II and stage III were 78.8%.
*Trung tâm phẫu thuật Rô bốt, Trưởng khoa ngoại
Bụng I- Bệnh viện K
**Học viện Quân Y
Chịu trách nhiệm chính: Phạm văn Bình
Email: binhva@yahoo.fr
Ngày nhận bài: 3.2.2020
Ngày phản biện khoa học: 24.3.2020
Ngày duyệt bài: 30.3.2020
The average length of stay was 11.93±5.06 days.
Conclusion:
3D laparoscopic surgery is a safety and
feasibility approach for left colon cancer treatment,
satisfy the oncologic principles.
Key word:
3D laparoscopic surgery, Left colon
cancer
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư đại trực tràng là một bệnh lý khá phổ
biến. Trên thế giới ước tính có khoảng 1.8 triệu
trường hợp mới mắc và 861.000 ca tử vong do
ung thư đại trực tràng. Theo dự kiến đến năm
2030, mỗi năm sẽ có khoảng 2.2 triệu ca mới
mắc và 1.1 triệu ca ung thư đại trực tràng tử
vong trên toàn cầu. Tại bệnh viện K thống kê
cho thấy, ung thư đại tràng đứng hàng thứ 5 sau
ung thư dạ dày, phổi, vú và vòm họng với tuần
suất mắc bệnh là 7.5/100.000 dân [1];[7]. Lịch
sử ghi nhận năm 1990, phẫu thuật nội soi
(PTNS) cắt đại tràng được thực hiện đầu tiên bởi
Jacobs.M (Cailifornia, Mỹ). Tại Việt Nam PTNS
điều trị ung thư đại tràng ngày nay hầu hết đã
được thực hiện tại tất cả các bệnh viên, các
trung tâm ung thư. Cơ sở để phát triển rộng rãi
PTNS là thời gian hồi phục của bệnh nhân nhanh
hơn, thời gian nằm viện ngắn hơn. Tuy nhiên
PTNS thông thường cũng có những hạn chế như:
phẫu thuật viên phải thao tác, quan sát trên một
màn hình 2D, sự thiếu tầm nhìn lập thể của 2D
là một trong những khó khăn cho các bác sĩ
PTNS. Phẫu thuật viên PTNS phải dựa vào
chuyển động tương đối của các dụng cụ nội soi,
những mốc giải phẫu quen thuộc và kích thước
tương đối của các cấu trúc giải phẫu để bù đắp
cho sự thiếu hụt về chiều sâu của hình ảnh. Đây
chính là động lực và lý do để PTNS 3D ra đời
khắc phục những hạn chế của PTNS 2D.
[2];[4];[5];[6];[8] Nguyên mẫu hệ thống PTNS
3D đã được phát triển nghiên cứu từ những năm
90 nhưng chất lượng hình ảnh kém và thể tích
máy cồng kềnh đã ảnh hưởng lớn tới khả năng
áp dụng trong thực hành lâm sàng. Gần đây
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ
hình ảnh 3D, các nhà khoa học đã chế tạo ra
một hệ thống hiển thị không gian 3 chiều áp
dụng vào PTNS với những ưu điểm hình ảnh sắc
nét, cảm giác không gian 3 chiều tốt, hạn chế
tác dụng phụ cho phẫu thuật viên khi mổ 3D như
đau đầu, mỏi mắt và giá thành sản phẩm cũng
phù hợp nên PTNS 3D được phát triển và áp