
4
vi. Bảng giá cố định đƣợc biên soạn cho các sản phẩm theo nhóm
ngành kinh tế, tạo thuận lợi cho việc sử dụng, đối chiếu và so sánh kết quả
sản xuất của ngành theo thời gian.
2. Nhƣợc điểm
Dùng bảng giá cố định đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết trong tính toán
các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nhƣ sau:
i. Trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, đơn vị
sản xuất luôn đổi mới sản phẩm để đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của ngƣời
tiêu dùng. Nhiều sản phẩm mới xuất hiện nhƣng không có tên và giá trong
bảng giá cố định. Ngƣợc lại, nhiều sản phẩm không còn tồn tại trên thị
trƣờng nhƣng vẫn có giá trong bảng giá cố định.
ii. Trong thực tế áp dụng bảng giá cố định, ngành thống kê đã có
điều chỉnh và bổ sung thêm giá của một số loại sản phẩm. Tuy vậy, việc bổ
sung thƣờng không kịp thời nên nhiều Cục Thống kê đã dùng giá hiện hành
cho các sản phẩm mới và dẫn tới sai lệch cơ cấu kinh tế của ngành.
iii. Trong xu thế cạnh tranh, chất lƣợng sản phẩm sản xuất ra ngày
càng tăng nhƣng giá bán sản phẩm ngày càng hạ. Nếu dùng giá trong bảng
giá cố định để tính toán kết quả sản xuất sẽ không phản ánh đúng tình hình
thực tế.
iv. Bảng giá cố định chỉ lập cho các sản phẩm thuộc khu vực “sản
xuất vật chất”, trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
đòi hỏi phải có phƣơng pháp tính toán tăng trƣởng kinh tế của khu vực dịch
vụ theo giá so sánh và đây cũng là nhƣợc điểm của bảng giá cố định.
iv. Trong xu thế đổi mới phƣơng pháp thống kê và tinh giản chế độ
báo cáo đối với đơn vị sản xuất, ngành Thống kê không thể tiếp tục yêu
cầu đơn vị sản xuất tính toán và gửi báo cáo về giá trị sản xuất theo giá cố
định của đơn vị sản xuất cho các Cục Thống kê tỉnh, thành phố.
v. Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, lập bảng
giá cố định theo định kỳ là không khả thi và rất tốn kém.