NGỘ ĐỘC THUỐC TRỪ SÂU
(INSECTICIDES ORGANOPHOSPHORES
ET CARBAMATES)
Những thuốc trừ sâu này rất được sử dụng. Vài chất cùng loại đã được phát
triển như khí chiến đấu độc thần kinh (gaz de combat neurotoxique) (Vx, Sarin,
Tabun…) và là một bộ phận của đe dọa khủng bố sinh học(menaces
bioterroristes). Đó là những chất ức chế của acétylcholinestérase (AchE) của
mô và những cholinestérase khác (trong đó có pseudocholinestérase huyết
thanh), enzyme xúc tác sự thủy phân của acétylcholine thành choline và acétyl-
CoA. Chúng được hấp thụ bằng mọi đường. Các triệu chứng là đa dạng và
phản ảnh nhiều chức năng của acétylcholine, chất dẫn truyền thần kinh quan
trọng của hệ thần kinh tự trị, của chỗ nối thần kinh cơ (jonction
neuromusculaire) và của hệ thần kinh trung ương. Được phóng thích ở tiền
khớp thần kinh (présynapse), sự hiện diện của acétylcholine trong khớp thần
kinh thường ngắn ngủi, nhờ hoạt tính của AChE.
NHỮNG TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG CỦA NGỘ ĐỘC.
Những biểu hiện độc tính được liên kết với sự tích tụ acétylcholine trong những
khớp thần kinh.
Những triệu chứng đầu tiên nói chung là muscarinique : đau quặn bụng,
nôn, mửa, tiêu chảy, tăng tiết nước bọt, chảy nước mắt, ra nhiều mồ hôi,
co thắt phế quản và tăng tiết phế quản, chịu trách nhiệm suy hô hấp. Co
đồng tử, kèm theo rối loạn điều tiết và những dấu hiệu tim mạch (tim
nhịp chậm và hạ huyết áp hay choáng trong trường hợp ngộ độc nghiêm
trọng) hoàn chỉnh bệnh cảnh lâm sàng.
Những dấu hiệu này một phần có thể bị chống lại bởi sự tăng hoạt tính
của hệ giao cảm (hyperactivié orthosympathique) (tác dụng nicotinique)
: tăng huyết áp, loạn nhịp nhanh.
Sự tác động lên chỗ nối thần kinh-cơ (jonction neuromusculaire) được
thực hiện qua hai thì : giai đoạn đầu kích thích (phase d’excitation),
được liên kết với các giật rung cơ (myoclonies), trong vài giờ nhường
chỗ cho giảm trương lực (hypotonie) và bại liệt, nhất là ở các cơ hô hấp.
Sự tác động lên hệ thần kinh trung ương với thất điều (ataxie), co giật và
hôn mê. Sự thương tổn trung ương làm gia trọng suy hô hấp, thứ phát co
thắt phế quản và ứ tiết phế quản và là một nguyên nhân thường xảy ra
của tử vong.
Một số tác dụng trì hoãn có thể xuất hiện :
“ Hội chứng trung gian ” (syndrome intermédiaire) xuất hiện khá thường
sau vài ngày nơi những bệnh nhân đã có một ngộ độc cấp tính nghiêm
trọng. Đó là một bại liệt gần (paralysie proximale), không bị ảnh hưởng
bởi atropine và các oximes. Có thể cần thông khí hỗ trợ (assistance
ventilatoire) trong vài tuần, nhưng sự hồi phục thường hoàn toàn. Sinh
lý bệnh lý không được hiểu rõ : đó không phải là một bệnh thần kinh
(neuropathie) nhưng là một thương tổn trước
và sau khớp thần kinh của dẫn truyền thần kinh-cơ.
một bệnh cơ tim (cardiomyopathie), được kèm theo loạn nhịp tim. Điều
trị triệu chứng.
một bệnh thần kinh cảm giác vận động (neuropathie sensitivomotrice)
(OPIDN : organophosphate-induced delayed neuropathy), do thương tổn
sơi trục (atteinte axonale). Bệnh có thể được liên kết với những thương
tổn của tủy sống và hành tủy.
ĐIỀU TRỊ
Trước hết, phải đảm bảo cung cấp oxy và một thông khí đúng đắn. Sự đa tiết
phế quản (bronchorrhée) đôi khi rất dồi dào đòi hỏi cho nhanh atropine 2mg
tĩnh mạch và oxy bổ sung. Trong trường hợp thất bại điều trị, nội thông khí
quản và hỗ trợ hô hấp phải được thực hiện nhanh chóng.
Sau đó, sự khử nhiễm (décontamination) được thực hiện càng nhanh càng tốt.
Trong trường hợp tiếp xúc da, người ta sẽ tiến hành rửa dồi dào với nước xà
phòng hay nước máy, sau khi đã lấy đi các quần áo (chú ý nhân viên điều trị!).
Trong trường hợp uống vào lượng quan trọng, việc thực hiện rửa dạ dày là hợp
lý nếu bệnh nhân đến viện trong thời hạn từ 1 đến 2 giờ sau khi uống và nếu
bệnh nhân đã không mửa nhiều lần một cách ngẫu nhiên. Rửa dạ dày phải luôn
luôn được thực hiện một cách hết sức thận trọng bởi vì thuốc trừ sâu thường
dưới dạng dung dịch trong một hydrocarbure. Tốt hơn là nên đặt ống thông khí
quản trước.
Có hai chất giải độc :
Atropine đối kháng các tác dụng mucarinique : sau một liều tiêm trực
tiếp tĩnh mạch ban đầu 2 đến 4 mg, tiêm nhắc lại (thí dụ từ 10 đến 15
phút) cho đến khi gây nên những triệu chứng của nhiễm độc atropine
(atropinisation). Hơn là giãn đồng tử và tim nhịp nhanh, sự khô của tăng
tiết phế quản và sự biến mất của co thắt phế quản là những dấu hiệu
đáng tin cậy. Những liều lượng lớn (100mg và hơn) đôi khi cần thiết, vì
vậy tiêm truyền tĩnh mạch có thể được ưa thích hơn.
các oxime tái hoạt hóa AchE : pralidoxime (Contrathion), cần cho chừng
nào việc cho atropine là cần thiết.
Nói chung diazépam được liên kết để kiểm soát những biểu hiện cơ và các co
giật.