NGỘ ĐỘC THUỐC TRỪ SÂU

CHOLINERGIC

(CHOLINERGIC INSECTICIDES)

1/ THUỐC TRỪ SÂU CHOLINERGIC LÀ GÌ ?

Là những thuốc trừ sâu thường được sử dụng nhất trên thế giới. Chúng tác

dụng bằng cách ức chế men acetylcholinesterase (AchE). Do được sử dụng

rộng rãi và độc tính cao, các thuốc trừ sâu cholinergic là nguyên nhân của

nhiều các trường hợp ngộ độc nặng nơi người hơn bất cứ thuốc trừ sâu nào

khác. Hai lớp thuốc trừ sâu cholinergic là photpho hữu cơ (organophosphates)

và carbamates. Photpho hữu cơ được chia thành ba nhóm, căn cứ trên độc tính

của chúng. Những hợp chất có độc tính cao gồm có Parathion và Phosdrin và

được sử dụng trong nông nghiệp thương mại. Các tác nhân thần kinh Sarin,

Soma, và Tabun là những dẫn xuất của những hợp chất này. Những hợp chất có

độc tính trung bình được sử dụng như là những thuốc trừ sâu động vật (animal

insecticide). Những tác nhân có độc tính thấp thường được sử dụng trong gia

đình và vườn và gồm có Malathion và Vapona. Carbamate cũng có độc tính

biến thiên, với aldecarb (Temik) là độc nhất và carbaryl (Sevin) là ít độc nhất.

Vài carbamate đã được sử dụng trong y học trong nhiều năm. Physostigmine

được sử dụng cho ngộ độc anticholinergic, và pyridostigmine và edrophonium

(Tensilon) được sử dụng trong myasthenia gravis.

2/ ORGANOPHOSPHATES VA CARBAMATES KHÁC NHAU NHƯ

THẾ NÀO ?

Chúng khác nhau nơi cấu trúc và cơ chế liên kết. Organophosphates có thể liên

kết một cách không đảo ngược với AchE, làm bất hoạt thường trực enzyme.

Những tác dụng độc cấp tính kéo dài cho đến khi nhiều AchE hơn được tổng

hợp, có thể hơn một tuần. Sự nối kết của Carbamate có thể đảo ngược được, vì

vậy độc tính chỉ kéo dài cho đến khi độc chất bị thoái biến, thường trong 6-8

giờ. Carbamates không đi vào tốt hệ thần kinh trung ương và có ít hoặc không

có độc tính hệ thần kinh trung ương.

3/ NHỮNG AI CÓ NGUY CƠ NHẤT BỊ NGỘ ĐỘC THUỐC TRỪ SÂU

CHOLINERGIC ?

Các công nhân nông trường lưu động (migrant farm worker) và những công

nhân nông nghiệp khác (agricultural worker) khác. Các trẻ em có nguy cơ gia

tăng và thường tiếp xúc với độc chất ở garage hay bị vung vải trong nhà nơi

độc chất được tàng trữ.

4/ NẾU TÔI LÀM VIỆC TRONG MỘT VÙNG ĐÔ THỊ, TÔI CÓ CẦN

BIẾT VỀ NGỘ ĐỘC THUỐC TRỪ SÂU CHOLINERGIC KHÔNG ?

Vâng. Mặc dầu ngộ độc thuốc trừ sâu cholinergic thường được thấy nhất trong

khung cảnh nông nghiệp thương mãi, nhưng các sản phẩm này dễ mua được và

thường được sử dụng nơi các nhà tư nhân và vườn. Organophosphates là những

thành phần trong flea collar (collier anti puce), và các bẫy kiến (ant trap), và

giấy bẫy ruồi (flypapaer). Chúng đôi khi được dùng trong các toan tính tự tử.

Có khoảng 16.000 trường hợp ngộ độc organophosphate ở Hoa Kỳ năm 2001.

Ngay cả đối với các bệnh nhận được điều trị, tỷ lệ tử vong là 10% đối với

những người trưởng thành và 50% đối với các trẻ em. Cũng vậy, một sự hiểu

biết về ngộ độc thuốc trừ sâu cholinergic và điều trị có thể áp dụng một cách

trực tiếp vào xử trí ngộ độc tác nhân thần kinh (nerve agent).

5/ MỘT NGƯỜI CÓ THỂ BỊ NGỘ ĐỘC BỞI THUỐC TRỪ SÂU NHƯ

THẾ NÀO ?

Organophosphate rất là tan trong mỡ và được hấp thụ tốt bởi các đường, bao

gồm đường xuyên qua da. Về mặt thương mãi, các thuốc trừ sâu được tích trữ

dưới dạng bột hay chất lỏng và thường được sử dụng dưới dạng khí dung. Hầu

hết các tiếp xúc nghề nghiệp xảy ra qua da hay đường hô hấp. Ngộ độc cố ý

hay ngộ độc nơi các trẻ em thường xảy ra bằng đường miệng. Carbamates

không được hấp thụ tốt qua da, và những ngộ độc này chủ yếu do hít hay bằng

đường miệng.

6/ GIẢI THÍCH THUỐC TRỪ SÂU CHOLINERGIC GÂY NHỮNG TÁC

DỤNG ĐỘC NHƯ THẾ NÀO ?

Ngộ độc thuốc trừ sâu cholinergic dẫn đến một sự quá thừa hoạt tính gây nên

bởi acetylcholine. Acetylcholine là một chất dẫn truyền thần kinh nối kết với

các thụ thể nicotinic ở các khớp giao cảm và phó giao cảm tiền hạch và những

bản vận động tận cùng (motor end plates), các thụ thể muscarinic ở những khớp

thần kinh hậu hạch, và một vài khớp thần kinh trong hệ thần kinh trung ương.

Bình thường, acetylcholine bị thoái hóa bởi các enzyme AchE hay

pseudocholinesterase. Organophosphates và carbamates làm bất hoạt cả hai

enzymes, dẫn đến một sự quá dồi dào acetylcholine. Điều này dẫn đến sự quá

hoạt hóa, sau đó sự bại liệt của các thụ thể cholinergic, với kết quả cuối cùng là

một sự quá kích thích của hệ thần kinh tự trị, hệ cơ thân thể, và hệ thần kinh

trung ương. Ngộ độc organophosphates nguy hiểm hơn ngộ độc carbamates. Cả

hai tác nhân tức thời nối kết với AchE. Trong 24 đến 48 giờ, nối kết

organophosphates trở nên không đảo ngược được và đưa đến sự bất hoạt hóa

thường trực enzyme. Quá trình này được gọi là sự lão hóa (aging). Sự trì hoãn

giữa lúc tiếp xúc và sự bất hoạt thường trực tạo nên một cửa sổ cho liệu pháp

thuốc giải độc.

7/ TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG CỦA NGỘ ĐỘC CHOLINERGIC ?

Các tác dụng lâm sàng là logic nếu ta xét đến các khớp thần kinh bị tác động

bởi acetylcholine thặng dư. Acetylcholine tác dụng lên các thụ thể muscarinic,

nicotinic, và trung ương.

Sự kích thích các thụ thể muscarinic dẫn đến sự gia tăng tiết các tuyến ngoại

tiết và sự co thắt cơ trơn. Điều này dẫn đến đa tiết phế quản (bronchorrhea) và

co thắt phế quản (bronchospasm) trong đường hô hấp, tiết nước bọt, nôn, mửa,

ỉa chảy, đau bụng quặn, và són trong đường tiêu hóa ; ra mồ hôi ở da ; co đồng

tử và chảy nước mắt ở mắt ; và tim nhịp chậm và hạ huyết áp trong hệ tim-

mạch.

Sự kích thích các thụ thể nicotinic gây nên sự tiết epinephrine và

norepinephrine bởi tuyến thượng thận và sự hoạt hóa các bản vận động tận

cùng . Điều này dẫn đến tim nhịp nhanh và cao huyết áp trong hệ tim mạch ; sự

thoái biến glycogen thành glucose gan ; và dẫn đến co cứng cơ cục bộ (muscle

fasciculations), chuột rút (cramps), yếu người, và liệt cơ.

Tác dụng cholinergic lên hệ thần kinh trung ương gồm có sự kích động

(agitation), đau đầu, thất điều, loạn vận ngôn (dysarthria), trạng thái tâm thần bị

biến đổi, suy giảm hô hấp, co giật và hôn mê. Bất cứ triệu chứng nào trong

những triệu chứng này có thể bị trì hoãn 6 giờ sau khi tiếp xúc.

8/ HAI CÁCH ĐỂ NHỚ NHỮNG TÁC DỤNG MUSCARINIC VÀ

NICOTINIC CỦA PHOTPHO HỮU CƠ ?

SLUDGE cho những tác dụng muscarinic và những ngày trong tuần cho những

tác dụng nicotinic.

NICOTINIC MUSCARINIC

 M (Muscle cramps) : chuột rút

 S (Salivation) : chảy nước

 T (Tachycardia) : tim nhịp nhanh

miếng

 L (Lacrimation) : chảy nước

 W (weakness) : yếu

mắt

 H (Hypertension) : huyết áp cao

 U (Urination) : đi tiểu

 F (Fasciculations) : co cứng cơ

 D (Diarrhea) : ỉa chảy

cục bộ

 G (Gastrointestinal upset and

 S (Sugar) : tăng đường huyết

pain)

 E (Emesis) : mửa

9/ LÀM SAO CHẨN ĐOÁN NGỘ ĐỘC THUỐC TRỪ SÂU

CHOLINEGIC ?

Những triệu chứng và dấu hiệu của độc tính cholinergic phải gợi ý ngay ngộ

độc thuốc trừ sâu cholinergic. Về phương diện lâm sàng, tim nhịp nhanh trội

hơn tim nhịp chậm trong ngộ độc cấp tính, và co đồng tử thường nổi trội hơn

giãn đồng tử. Một mùi như tỏi là điển hình của organophosphates và có thể

hiện diện. Việc không có những triệu chứng hệ thần kinh trung ương có thể gợi

ý ngộ độc carbamates. Một bệnh sử tiếp xúc với thuốc trừ sâu và các triệu

chứng nơi một người có nguy cơ tiếp xúc phải nâng cao sự nghi ngờ. Bởi vì tác

dụng độc hại rất cao, nên một sự thiếu đáp ứng kháng cholin (anticholinergic)

đối với những thuốc anticholinergic phải là một bằng cở mạnh của ngộ độc

thuốc trừ sâu cholinergic.

10/ LIỆT KÊ NHỮNG CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT.

NGỘ ĐỘC

 Opiates

 Phenothiazines

 Nicotine

 Nấm chứa muscarine

 Nọc độc rắn chuông (rattlesnake venom)

 Nọc độc bò cạp (scorpion venom)

NHIỄM TRÙNG

 Viêm màng não

 Viêm não

 Botulism

 Viêm dạ dày-ruột

 Sepsis

 Bệnh uốn ván

BỆNH HỆ THẦN KINH TRUNG ƯƠNG.

 Bệnh động kinh

 Xuất huyết dưới màng nhện hay dưới màng cứng

 Hội chứng cai rượu

 Viêm mạch máu não

CÁC RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA

 Hạ đường huyết

 Diabetic ketoacidosis

 Hôn mê phù niêm

 Hội chứng ác tính neuroleptic

 Thyrotoxicosis\

11/ CÓ XÉT NGHIỆM NÀO CẦN ĐƯỢC THỰC HIỆN KHÔNG ?

 Các xét nghiệm nên bao gồm đếm máu toàn thể, các trắc nghiệm chức

năng gan, các chất điện giải, BUN và creatinine, glucose, khí huyết động

mạch, hoạt tính cholinesterase, và xét nghiệm nước tiểu.

 Chụp phim ngực là quan trọng bởi vì phù phổi hay bằng cớ hít dịch là

một dấu hiệu xấu.

 Điện tâm đồ nên được thực hiện bởi vì loạn nhịp tim như bloc dẫn

truyền và xoắn đỉnh có thể xảy ra.

 Những xét nghiệm khác và thăm dò chụp hình ảnh có thể cần thiết để

loại trừ những chẩn đoán khác.

12/ CÓ XÉT NGHIỆM NÀO XÁC NHẬN CHẨN ĐOÁN NGỘ ĐỘC

CHOLINERGIC KHÔNG ?

Mặc dầu chẩn đoán chủ yếu là lâm sàng, nhưng một sự giảm hoạt tính

cholinesterase trong hồng cầu hay huyết thanh được nhận thấy trong hầu hết

các trường hợp ngộ độc thuốc trừ sâu cholinergic ; Tuy nhiên, điều này có thể

đòi hỏi hiểu biết về hoạt tính cholinesterase cơ bản của bệnh nhân, làm cho xét

nghiệm ít hữu ích trong giai đoạn cấp tính. Hoạt tính AchE cũng có thể bị giảm

trong bệnh gan, chứng nghiện rượu, suy dinh dưỡng, và viêm da-cơ

(dermatomyositis).Tuy nhiên, mặc dầu nó không ảnh hưởng lên xử trí ban đầu,

hoạt tính cholinesterase trong hồng cầu và huyết thanh nên được đo bởi vì

chúng có thể hữu ích nếu bệnh nhân được nhập viện hay khi những chẩn đoán

khác đang được xét đến.

13/ NHỮNG CẤP CỨU NÀO TRONG NGỘ ĐỘC CHOLINERGIC ?

Hầu hết các trường hợp tử vong sớm xảy ra khi sự phối hợp của co thắt phế

quản (bronchospasm), đa tiết phế quản (bronchorrhea), yếu cơ hô hấp, và giảm

kích thích hô hấp dẫn đến suy hô hấp. Bloc nhĩ-thất, tim nhịp chậm, hạ huyết

áp, và xoắn đỉnh đôi khi có thể dẫn đến suy tim. Mửa và ỉa chảy có thể dẫn đến

mất nước nặng và các bất thường điện giải. Co giật và hôn mê có thể xảy ra.

14/ LÀM SAO ĐIỀU TRỊ NGỘ ĐỘC PHOTPHO HỮU CƠ CẤP TÍNH ?

Có nhiều trường hợp ngộ độc thứ phát nơi nhân viên y tế điều trị những bệnh

nhân như thế. Nhân viên y tế nên đặc biệt thận trọng tránh tiếp xúc da và đường

hô hấp trong khi điều trị một bệnh nhân với ngộ độc thuốc trừ sâu tăng tiết

choline (cholinergic insecticide poisoning). Sự khử nhiễm nên bắt đầu trong

bối cảnh tiền bệnh viện, và nên sử dụng những thận trọng tiếp xúc và hô hấp.

Bắt đầu điều trị bằng ABCD (airway, breathing, circulation, và

decontamination). Hút tich cực thường xuyên đường hô hấp là cần thiết để loại

bỏ các dịch tiết phế quản. Nên cho oxy. Nội thông khí quản và thông khí cơ

học có thể được đòi hỏi đối với tình trạng giảm oxy mô kéo dài, phù phổi, suy

giảm hô hấp, hay yếu người. Monitoring tim là bắt buộc. Để khử nhiễm, tất cả

quần áo nên được lấy đi, và da và tóc nên được rửa với nước xà phòng ấm để

loại bỏ bất cứ thuốc trừ sâu nào còn lại và để ngăn ngừa sự hấp thụ tiếp tục.

Nếu ngộ độc do nuốt vào bằng đường miệng, rửa dạ dày rồi cho than hoạt hóa

được chỉ định. Nếu bệnh nhân đã bị ỉa chảy, không cần phải cho thuốc tẩy.

Succinylcholine, morphine, phenothiazines, barbiturates, furosemide, và

theophylline bị chống chỉ định trong ngộ độc phopho hữu cơ. Nơi bất cứ bệnh

nhân nào có triệu chứng, việc đưa vào ICU trong ít nhất 24 giờ, được chỉ định.

Việc cho nhanh chóng atropine và pralidoxime là điều chủ yếu.

15/ CÓ MỘT THUỐC GIẢI ĐỘC (ANTIDOTE) HAY KHÔNG ?

Điều trị đặc hiệu của ngộ độc photpho hữu cơ bao gồm cho atropine và

pralidoxime (Protopam, 2-PAM). Atropine trung hòa một cách đặc hiệu những

tác dụng muscarinic của ngộ độc bằng cách phong bế các thụ thể muscarinic.

Tuy nhiên, không nên cho atropine cho đến khi tình trạng giảm oxy mô đã

được giải quyết, bởi vì nó có thể gây nên tim nhịp nhanh thất hay rung thất.

Một liều khởi đầu 2 đến 4mg tiêm tĩnh mạch nên được cho nơi những người

trưởng thành và 0,015 đến 0,05mg/kg nơi những bệnh nhân nhi đồng. Các dịch

tiết khô dần và giãn đồng tử chỉ rõ sự phong bế thích đáng của các thụ thể

muscarinic, và liều lượng của atropine nên được hướng dẫn bởi những dấu hiệu

này. Hãy chuẩn bị cho điều có vẻ dường như là những lượng lớn atropine.

Những liều lượng hơn 1g trong 24 giờ đã được đòi hỏi và tiêm truyền atropine

đã được sử dụng. Hầu hết các thất bại điều trị xảy ra là do cho atropine không

đủ liều. Điều trị với atropine đơn độc cũng đủ để xử trí ngộ độc carbamate.

Pralidoxime có thể tái hoạt hóa AchE, và phục hồi hoạt tính bình thường của

enzyme này. Nó có hiệu quả nhất khi được cho trong vòng 24 đến 48 giờ đầu

sau khi tiếp xúc nhưng nên được tiếp tục chừng nào thấy cần thiết. Pralidoxime

làm giảm bớt những tác dụng nicotinic và thần kinh trung ương của độc tính

organophosphate. Liều lượng là 1 đến 2g trong 30 phút nơi những người trưởng

hành và 20 đến /kg trong 30 phút nơi các trẻ em. Sự cải thiện lâm sàng có thể

xảy ra trong vòng vài phút sau khi cho thuốc. Các liều có thể được lập lại nếu

cần thiết. Pralidoxime không cần thiết đối với ngộ độc carbamate.

16/ CÓ NHỮNG TÁC DỤNG TRÌ HOÃN CỦA NGỘ ĐỘC THUỐC TRỪ

SÂU TIẾT ACETYLCHOLINE KHÔNG ?

 Sự ngừng cho atropine hay pralidoxime sớm có thể gây nên những triệu

chứng dội ngược.

 Một hội chứng trung gian có thể xảy ra 24 đến 96 giờ sau khi hồi phục

những tác dụng cấp tính cholinergic của ngộ độc photpho hữu cơ. Hội

chứng này được biểu hiện bởi sự yếu đặc hiệu của các cơ hô hấp, phần

gần của các chi, và các cơ gấp cổ. Hội chứng trung gian này không đáp

ứng với atropine hay pralidoxime, và hỗ trợ thông khí có thể cần thiết.

 Độc tính thần kinh gây nên bởi organophosphate có thể xảy ra 10 đến 21

ngày sau ngộ độc. Độc tính thần kinh (neurotoxicity) này gồm có bệnh

đa thần kinh (polyneuropathy) của phần xa các chi, bắt đầu với nhũn

(flaccidity) và yếu cơ và tiến triển đến co cứng (spasticity), tăng phản

xạ, và tăng trương lực.

 Những thay đổi bệnh lý tẩm thần kinh, về hành vi (behavior), nhận thức

(cognition), và những chức năng thị giác và vận động đã được mô tả.

Những thay đổi này tồn tại nhiều tháng sau ngộ độc triệu chứng bởi

organophosphate.

Vẫn còn bàn cãi việc ngộ độc không triệu chứng hay mãn tính có gây các hậu

quả hay không.