VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH THỊ CHUYÊN

NGÔN NGỮ BÌNH LUẬN

TRONG BÁO IN TIẾNG VIỆT HIỆN NAY

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số : 62220240

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2014

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH THỊ CHUYÊN

NGÔN NGỮ BÌNH LUẬN

TRONG BÁO IN TIẾNG VIỆT HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. Hoàng Anh

HÀ NỘI – 2014

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................... 1 ........................................................................... 3 2. Tổ ....................................................................... 7 ........................................................................ 8 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 8 6. Đóng góp của luận án ........................................................................................... 9 7. Kết cấu của luận án ............................................................................................... 9

1.1.4.

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................................. 11 1.1. Một số quan điểm cơ bản của ngữ pháp chức năng – hệ thống ...................... 11 .................................................................................................. 11 .................................................................................................. 12 .................................................................................................... 13 ............................................................. 13 ...................................... 14 1.2. Phân tích diễn ngôn và phân tích diễn ngôn phê phán .................................... 16 ...................................................................................... 16 (Critical Discourse Analysis - CDA) .......... 22 1.3. Diễn ngôn báo chí, ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ bình luận......................... 33 1.3.1. Giao tiếp trong báo chí và diễn ngôn báo chí .............................................. 33 1.3.2. Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí ................................................................... 35 1.3.3. Bình luận và ngôn ngữ bình luận trên báo chí ............................................. 36 1.4. Tiểu kết ............................................................................................................ 39

-

nghiệ

CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG CÁC ........ 41 VĂN BẢN BÌNH LUẬN ĐỂ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG TƢ TƢỞNG 2.1. Các phƣơng thức thể hiện chức năng tƣ tƣởng kinh nghiệm trong văn bản bình luận ......................................................................................................................... 41 ................................ 41 ...................... 43 ........................................ 43 2.1.3. Danh hoá trong văn bản bình luận .............................................................. 54 ............................................................................ 58

2.1.5. Chu cảnh và chuyển tác chu cảnh trong văn bản bình luận báo in tiếng Việt ................................................................................................................. 61 2.2. Các phƣơng thức thể hiện chức năng tƣ tƣởng lôgíc trong văn bản bình luận báo in tiếng Việt ..................................................................................................... 65

2.2.1. Các quan hệ đẳng kết ................................................................................... 65 2.2.2. Các quan hệ phụ thuộc ................................................................................. 72 2.2.3. Lập luận trong bài bình luận báo in tiếng Việt ............................................ 77 2.3. Tiểu kết ............................................................................................................ 86

CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG CÁC ........ 88 VĂN BẢN BÌNH LUẬN ĐỂ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG LIÊN NHÂN 3.1. Dẫn nhập .......................................................................................................... 88 3.2. Tình thái trong văn bản bình luận ................................................................... 89 .............................................................................. 89 3.2.2. Tình thái trong tiếng Việt ............................................................................. 92 3.2.3. Tình thái trong văn bản bình luận báo in tiếng Việt .................................... 95 3.2.4. Yếu tố bình luận trong văn bản bình luận báo in tiếng Việt ...................... 104 3.2.5. Các biểu thức quy chiếu biểu hiện nghĩa liên nhân ................................... 108 3.3. Tiểu kết .......................................................................................................... 114

CHƢƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG CÁC ...... 115 VĂN BẢN BÌNH LUẬN ĐỂ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG VĂN BẢN 4.1. Về cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô.............................................................. 115 4.2. Cấu trúc vĩ mô của văn bản bình luận ........................................................... 116 ........................................................................................ 116 ....................................................... 117 ............................................................. 128 4.3. Cấu trúc vi mô của văn bản bình luận ........................................................... 132 ......................................................... 132 4.3.2. Các phương tiện liên kết trong văn bản bình luận ..................................... 136 4.4. Tiểu kết .......................................................................................................... 143

.......................................................................................................... 144 .......................................................................................................... 144 ....................................................................................................... 146 ................................................... 146

LIÊN QUAN ĐẾN .... 148

.................................................................................... 149 PHỤ LỤC ............................................................................................................. 158

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Từ khi ra đời, các phƣơng tiện truyền thông, mà đặc biệt là báo chí, đã có vai

trò hết sức to lớn trong đời sống xã hội. Nhờ khả năng tạo dƣ luận xã hội sâu rộng,

chúng có ảnh hƣởng lan tỏa tới mọi lĩnh vực, tác động mạnh mẽ đến nhận thức của

con ngƣời, trên cơ sở đó, thay đổi hành vi và tƣ tƣởng của họ. Ở mỗi quốc gia, báo

chí – truyền thông không chỉ là kênh giao tiếp quan trọng hàng đầu, là nhân tố kích

thích sự phát triển, mà còn là phƣơng tiện quản lí, giám sát, là công cụ thực hiện

các dịch vụ xã hội.

Hiện nay, do sự phát triển nhƣ vũ bão của khoa học – công nghệ, đặc biệt là

công nghệ thông tin, báo chí – truyền thông đã có những bƣớc tiến vƣợt bậc, đạt

tới mức bùng nổ về mọi phƣơng diện: các loại hình truyền thông đƣợc đa dạng

hóa, báo mạng điện tử tuy mới xuất hiện nhƣng với các tiện ích đặc biệt của mình,

có sức lan tỏa mạnh mẽ và ngày càng khẳng định vị thế vững chắc trong môi

trƣờng truyền thông; số lƣợng các cơ quan báo chí – truyền thông, số đầu báo, tạp

chí, đài phát thanh, truyền hình, nhà xuất bản, nhà in sách báo, ấn phẩm, chƣơng

trình và cùng với đó là đội ngũ các nhà truyền thông tăng nhanh; chất lƣợng nội

dung, hình thức, công nghệ in ấn, truyền tải thông tin không ngừng đƣợc cải thiện.

Chính nhờ sự bùng nổ ấy, báo chí – truyền thông đang góp phần xóa đi các

rào cản về địa lí giữa các quốc gia, mang đến cho thế giới một diện mạo mới. Giờ

đây, với các phƣơng tiện truyền thông hiện đại, ngƣời ta có thể theo dõi các sự

kiện, cập nhật thông tin, thƣởng thức và tiếp thu các thành tựu văn hoá ở mọi nơi

trên thế giới một cách nhanh chóng và thuận tiện. Điều này sẽ thúc đẩy sự phát

triển nhanh chóng của mọi lĩnh vực, nhất là kinh tế, khoa học – kĩ thuật và văn hoá

của mỗi quốc gia. Và đây cũng chính là điều kiện hết sức thuận lợi thúc đẩy chính

báo chí – truyền thông phát triển lên tầm cao mới trên cơ sở học hỏi, giao lƣu, mở

rộng hợp tác quốc tế.

Trong sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của các thể loại báo chí, bình luận là

một trong những thể loại quan trọng và tiêu biểu. Nếu nhƣ các thể loại: tin tức,

2

phóng sự, bút kí, ghi chép, v.v. chủ yếu là nêu sự kiện, phản ánh thông tin từ thực

tế hiện trƣờng của vụ việc thì bình luận báo chí lại thể hiện thái độ rõ ràng trong

nội dung thông tin, bày tỏ chính kiến, quan điểm tƣ tƣởng chính trị của ngƣời viết

đối với những vấn đề thời sự thiết yếu. Từ đó, bình luận báo chí góp phần giải

thích, phân tích, tổng hợp để đem đến cho ngƣời đọc, ngƣời nghe, ngƣời xem một

nhận thức đúng đắn về vấn đề họ đang quan tâm. Bình luận, xét về số lƣợng, chỉ

chiếm một tỉ lệ nhỏ trong một tờ báo nhƣng lại đƣợc coi là “linh hồn” của tờ báo,

và ở một mức độ nào đó có thể tạo nên bản sắc của cả một tờ báo, ví dụ chuyên

mục “Bình luận”, “Câu chuyện quốc tế” của báo Quân đội nhân dân; “Sự kiện và

Bình luận” của báo Lao Động; “Cùng suy ngẫm”, “Bình luận” của báo Nhân dân;

” báo , “Thời sự và suy nghĩ” của báo “

Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh v.v..

Văn bản bình luận xuất hiện khá nhiều, có mặt ở tất cả loại hình báo chí: phát

thanh, truyền hình, báo mạng điện tử và báo in. Tuy nhiên, do đặc điểm của báo in

là ngƣời đọc có thể chủ động về thời gian cũng nhƣ phƣơng pháp đọc, nên độc giả

có thể vừa đọc, vừa nghiền ngẫm về những vấn đề đƣợc nêu ra, cũng nhƣ những

suy nghĩ, thái độ, lập trƣờng, quan điểm của tác giả; từ đó có thể tìm đƣợc tiếng

nói chung, dễ dàng tiếp nhận những thông điệp mà tác giả muốn chuyển tải. Thông

tin trên báo in có chiều sâu, tính phổ cập cao, đảm bảo tính chính xác mà các loại

hình khác khó có thể thay thế đƣợc. Báo in giúp ngƣời đọc biết và hiểu rất rõ sự

kiện. Báo in có thể làm tăng khả năng ghi nhớ, thấu hiểu vấn đề một cách sâu sắc

thông qua các phân tích, lập luận trên nhiều bình diện. Vì vậy, có thể nói bình luận

thực sự phát huy đƣợc hiệu quả trên báo in.

Từ góc nhìn của ngôn ngữ học thì bình luận là thể loại diễn ngôn có những

đặc thù riêng, cần nghiên cứu một cách thấu đáo. Tuy nhiên, cho đến nay chƣa có

công trình chuyên sâu nào nghiên cứu diễn ngôn bình luậ

học. Vì vậy, nghiên cứu ngôn ngữ bình luận, theo chúng tôi, là việc làm cần thiết

có ý nghĩa đáng kể về cả mặt lí luận và thực tiễn.

Vì những lí do nêu trên, chúng tôi mạnh dạn chọn Ngôn ngữ bình luận trong

báo in tiếng Việt hiện nay làm đề tài nghiên cứu cho luận án này.

3

,

.

2. Tổng quan tình hình

2.1. Trên thế giới

50 và 60 ở

(textual

(nhƣ văn bản luật, báo chí,...)

: Bhata, V.K [101], [102]; Gustaffsson, M [111];

Hager J.W [112]; Swales.J.M & Bhatia [124]; Wright, P. [127].

.

c [107], [108], Wodak & Mayer [126], Peter Teo [125

.

.

2.2. Ở Việt Nam

Ở Việ ệt

:

li [90

[82], và các công

trình: (1998); Giao tiếp, văn bản, mạch lạc,

liên kết, đoạn văn (2002); Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn bản (2009)

4

[4], [5], [10]. Trên cơ sở của ngôn ngữ học chức năng, tác giả

Diệp Quang Ban đã coi mạch lạc là một vấn đề cốt yếu của lí luận phân tích diễn

ngôn.

. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp, trong

, đã dành một chƣơng để

ngôn” [37, tr. - ều :

hoá

[51

p [55].

p

và chức năng.

u về trong công trình

Phân tích diễn ngôn một số vấn đề lí luận và phương pháp [52].

[39]. Tiếp đến, Nguyễn Hoà nghiên cứu về phân

tích diễn ngôn phê phán. Theo ông, trên , p

[8, tr.45- ,

55], [53, tr.13-26)], v 2006

[54]

5

… Nguyễn Hoà

.

phân tích ,

.

Để thấy rõ những nội dung cần tiếp tục nghiên cứu về ngôn ngữ bình luận,

chúng tôi sẽ trình bày một cách tổng quát về việc nghiên cứu ngôn ngữ báo chí nói

chung ở Việt Nam.

Ở Việt Nam đã có nhiều các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí. Các

công trình này đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau, theo các hƣớng khác nhau,

song, có thể tóm lại thành 2 nhóm nghiên cứu sau:

Thứ nhất là nhóm tác giả đề cập tới báo chí một cách chung chung, khái quát

trên diện rộng, lƣớt qua các vấn đề nhƣng không đi sâu vào một vấn đề nào cụ thể

(ngôn ngữ trên một dạng báo cụ thể: báo in, báo điện tử, …), nhƣ: Một số vấn đề

về sử dụng ngôn từ trên báo chí [1], Ngôn ngữ báo chí [44],… Chẳng hạn, trong

giáo trình Ngôn ngữ báo chí, tác giả Vũ Quang Hào nêu những vấn đề cơ bản nhất

của ngôn ngữ báo chí gồm các nội dung nhƣ: ngôn ngữ chuẩn mực của báo chí,

ngôn ngữ các phong cách báo chí, ngôn ngữ của tên riêng trên báo chí, ngôn ngữ

của thuật ngữ khoa học, danh pháp khoa học, kí hiệu khoa học, … đƣợc tác giả

trình bày và lí giải một cách cô đọng, khoa học.

Thứ hai là nhóm tập trung nghiên cứu ngôn ngữ theo hƣớng chuyên sâu vào

một nội dung, một khía cạnh cụ thể (ngôn ngữ tít báo, ngôn ngữ của ngƣời dẫn

chƣơng trình, thuật ngữ trên báo chí, …).

Ngoài ra, cũng có thể xem xét ngôn ngữ báo chí trên các bình diện khác nhƣ:

các bình diện ngôn ngữ, phong cách ngôn ngữ, cấp độ ngôn ngữ, …

6

Xét trên bình diện ngôn ngữ, báo chí đƣợc quan tâm trên mọi phƣơng diện:

ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng với mức độ nhiều - ít, nông - sâu

khác nhau. Tuỳ đặc trƣng của mỗi thể loại báo mà ngƣời ta xem xét báo chí ở bình

diện ngôn ngữ này nổi trội hơn bình diện ngôn ngữ khác. Chẳng hạn, đối với thể

loại báo hình, báo nói, do âm thanh (tiếng nói) quan trọng nên nó đƣợc chú ý nhiều

hơn về mặt ngữ âm.

Thể loại báo viết thì đã đƣợc nhiều tác giả tập trung nghiên cứu ở các bình

diện ngôn ngữ. Đứng trên bình diện này để nhìn lại những nghiên cứu về ngôn ngữ

báo chí thì thấy:

Về mặt từ vựng, các nghiên cứu báo chí tập trung vào việc sử dụng từ ngữ

trên báo chí sao cho chuẩn, cho hay. Những vấn đề đã đƣợc nghiên cứu có thể kể

đến: chơi chữ, vấn đề sử dụng từ ngữ địa phƣơng, sử dụng thành ngữ - tục ngữ -

danh ngôn, từ vựng nƣớc ngoài - gốc nƣớc ngoài, viết tên riêng (Việt, Anh), viết

tắt, tiếng lóng, thuật ngữ khoa học, danh pháp, … trên báo chí: Xung quanh vấn đề

cách viết các từ nước ngoài trên sách báo tiếng Việt hiện nay (Nguyễn Văn

Khang) [57], Vận dụng tục ngữ, thành ngữ và danh ngôn trên báo chí (Nguyễn

Đức Dân) [24], Chơi chữ trên báo chí (Hoàng Anh) [1], Viết tắt trên báo chí hiện

nay (Nguyễn Bảo) [11], ...

Về mặt ngữ pháp, có một vài công trình đi vào miêu tả cấu trúc ngôn ngữ thể

hiện trên một số kênh tin tức, sự phân bố từ loại trên báo chí …

Về mặt ngữ nghĩa, nội dung ngữ nghĩa thƣờng đƣợc xen vào trong các nghiên

cứu về từ vựng: chữ và nghĩa trên báo chí, ngữ nghĩa của lớp từ mới, chất liệu văn

học trên báo chí: Việc sử dụng chất liệu văn học trong tác phẩm báo chí (Hoàng

Anh) [1], Bước đầu xem xét đặc điểm ngữ nghĩa của lớp từ mới tiếng Việt trên báo

chí (Huỳnh Văn Tài) [81], Đôi nét về chữ và nghĩa trên báo "Giáo dục và thời đại

chủ nhật" (Ngô Gia Thi) [93], ...

Về mặt ngữ dụng, xem xét ngôn ngữ báo chí trên bình diện dụng học là một

hƣớng nghiên cứu rất thú vị và hấp dẫn, thƣờng hƣớng đến các thao tác nghề

nghiệp: viết làm sao cho hấp dẫn, sâu sắc, hiệu quả cao. Các nội dung nghiên cứu

liên quan tới ngữ dụng có thể kể đến là: chất hài trên báo chí, cách giật tít, hiện

7

tƣợng bất thƣờng trên báo, xảo thuật ngôn từ và đánh tráo khái niệm: Hiện tượng

bất thường được xem như biện pháp hấp dẫn ngôn ngữ báo chí (Hoàng Trọng

Phiến) [75].

Các nghiên cứu ngôn ngữ báo chí đã đề cập đến: từ, ngữ, cú, câu, văn bản

(diễn ngôn). Cách trích dẫn, tít báo (tiêu đề báo), chapeau (lời dẫn), cách kết thúc,

cấu trúc tin, … đều đã đƣợc quan tâm nghiên cứu: Nghiên cứu diễn ngôn về chính

trị - xã hội trên tư liệu báo chí tiếng Anh và tiếng Việt hiện đại (Nguyễn Hòa) [51],

Đầu đề tác phẩm báo chí trên báo in Việt Nam (Trần Thu Nga) [66] ,...

Ngoài ra, ngôn ngữ báo chí còn đƣợc quan tâm dƣới góc độ của khoa học liên

ngành nhƣ: tâm lí, xã hội, truyền thông ... Chẳng hạn nhƣ nghiên cứu Hoạt động

ngôn ngữ phát thanh và truyền hình từ cách nhìn của tâm lí ngôn ngữ học của

Nguyễn Đức Tồn [95], Kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trên truyền thông đại chúng

(Hoàng Anh) [2], Đặc điểm ngôn ngữ báo chí nhìn từ hoạt động báo chí ở thành

phố Hồ Chí Minh [81] …

Nhƣ vậy, bức tranh tổng thể nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí rất phong phú,

đa dạng. Tuy nhiên, những nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ của một thể loại cụ

thể vẫn còn rất ít, đặc biệt là hƣớng nghiên cứu theo lí luận phân tích diễn ngôn và

phân tích diễn ngôn phê phán. Với ngôn ngữ bình luận trên báo in, cho đến nay

chƣa có một công trình nghiên cứu riêng biệt, chuyên sâu nào theo đƣờng hƣớng

này. Đây là lần đầu tiên, vấn đề này đƣợc nghiên cứu ở phạm vi một luận án tiến

sĩ.

3.

của luận án

Mục đích củ :

.

3.2. Nhiệm vụ

Mục đích nêu trên của luận án đƣợc qua các cụ thể sau

đây:

8

- .

ặc điểm - K , nghĩa

liên nghĩa v .

ặc điểm -

.

của luận án là ngôn ngữ đƣợc dùng trong văn bản (diễn

ngôn) bình luận.

Bình luận là thể loại có phạm vi các vấn đề đƣợc đề cập rất rộng ở tất cả mọi

lĩnh vực trong đời sống xã hội nhƣ: chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, thể thao, y

tế, văn học v.v.. Trong luận án này, chúng tôi tập trung khảo sát các văn bản

thuộc lĩnh vực chính trị – xã hội, còn bình luận ở lĩnh vực thể thao, y tế và văn

học chúng tôi không đề cập.

Nguồn tƣ liệu đƣợc sử dụng chủ yếu là các bài bình luận đƣợc lựa chọn từ các

báo có uy tín nhƣ: Lao động, , Quân đội nhân dân,

và Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh (gọi là Tuổi trẻ) và một số bài bình luận đƣợc lựa

chọn in thành tuyển tập. Chúng tôi khảo sát các bài bình luận đƣợc in trên báo

trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến năm 2011.

Các số liệu khảo sát đƣợc lấy từ 200 văn bản bình luận (bao gồm 4996 câu)

trên các báo in đã nêu ở trên.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

:

-

đặc điểm của diễ ể thực hiện

,

.

9

- , luậ

, .

6. Đóng góp của luận án

6.1. Về phương diện lí luận

Luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề thuộc lí luận phân tích diễn

ngôn trong tiếng Việt: phân tích ngôn bản phải thông qua phân tích ngữ pháp;

nghiên cứu ngôn ngữ không chỉ trên phƣơng diện cấu trúc mà cả trên phƣơng diện

chức năng trong các tình huống giao tiếp, cụ thể là không chỉ đơn thuần quan tâm

đến cơ chế hình hình thức của hệ thống ngôn ngữ, mà tìm hiểu về vai trò của nó

trong phát ngôn nhằm đạt đƣợc một mục đích cụ thể nào đó trong giao tiếp. Hơn

thế nữa, ngôn ngữ còn đƣợc nghiên cứu trên phƣơng diện giao tiếp văn hoá, tức là

cố gắng lí giải về tác động của các yếu tố văn hoá đối với quá trình sử dụng ngôn

ngữ trong giao tiếp.

Luận án góp phần vào việc hình thành một phƣơng pháp phân tích toàn bộ

một đơn vị giao tiếp hoàn chỉnh, thống nhất và có mục đích là diễn ngôn.

6.2. Về phương diện thực tiễn

Luận án góp phần làm phong phú thêm phần thực hành cho chuyên ngành

Ngôn ngữ báo chí, một phạm vi còn ít có sự nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ

cũng nhƣ các nhà báo.

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần nâng cao khả năng sử dụng ngôn

ngữ báo chí tiếng Việt, bao gồm việc hiểu thông tin, cảm nhận cái hay, cái chƣa

đạt của văn bản và nâng cao kĩ năng cho ngƣời viết báo.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của

luận án gồm 4 chƣơng:

10

Chƣơng 1. Cơ sở lí luận

Chƣơng 2. Đặc điểm ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong các văn bản bình

luận để thực hiện chức năng tƣ tƣởng

Chƣơng 3. Đặc điểm ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong các văn bản bình

luận để thực hiện chức năng liên nhân

Chƣơng 4. Đặc điểm ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong các văn bản bình

luận để thực hiện chức năng văn bản.

11

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN

Nhiệm vụ nghiên cứu ngôn ngữ

, bình luận, ngôn ngữ

.

1.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NGỮ PHÁP CHỨC NĂNG –

HỆ THỐNG

1.1

.

Lí thuyết chức năng hệ thống của Halliday khác với các trƣờng phái khác ở

những điểm sau:

1. Nó nhằm vào vai trò quan trọng của các bình diện xã hội của ngôn ngữ.

2. Nó coi ngôn ngữ là hình thức của hành động hơn là hình thức của hiểu biết.

Nó phân biệt hành vi ngôn ngữ tiềm tàng với hành vi ngôn ngữ thực tại.

3. Nó giải thích một số bình diện của ngôn ngữ bằng những thuật ngữ về

chuỗi những khác biệt của những hiện tƣợng cùng loại.

4. Nó coi hệ thống là phạm trù trung tâm của lí thuyết.

Khái niệm hệ thống về cơ bản đƣợc sử dụng theo nghĩa hệ đối vị chức năng

(functional paradigm) của Firth đƣợc phát triển thành cấu trúc hình thức của của

một mạng lƣới hệ thống (system network). Trong ngữ pháp chức năng của

Halliday, “ngôn ngữ đƣợc giải thích nhƣ là một hệ thống các ý nghĩa, đƣợc kèm

theo bởi các hình thức mà qua đó các ý nghĩa đƣợc hiện thực hoá” [42]. Lí thuyết

12

chức năng hệ thống giải thích ngôn ngữ nhƣ là một mạng lƣới của những sự lựa

chọn đƣợc móc nối với nhau: hoặc sự lựa chọn này, hoặc sự lựa chọn kia hoặc sự

lựa chọn khác. hoá

(language in social – semiotic perspective).

Halliday cho rằng, những đòi hỏi của xã hội đã giúp ngôn ngữ hình thành nên

cấu trúc của nó. Ông đã làm làm sáng tỏ sự phát triển của ngôn ngữ từ quan điểm

chức năng: “Ngôn ngữ đã tiến hoá để thoả mãn các nhu cầu của con ngƣời, và liên

quan đến các nhu cầu này, cái phƣơng thức mà nó đƣợc tổ chức là chức năng – nó

không phải là võ đoán” [42, tr.16].

1.1

ngôn ngữ theo trƣờng

phái này cho rằng:

.

[114, tr.20].

(context of

hoá

. Văn hoá

a n” [114, tr.162].

13

1.1

.

Halliday cho rằng:

hệ

[42

.

1.1

ối

[114,

:

- (field of discou

, nh

.

14

-

q .

-

.

càng

ệm

:

Bảng 1.1 (Halliday 1985)

c năng

Kinh nghiệm

Liên nhân

1.1

[116, tr.26]

(textual).

-

: tin

15

-

k

:

certainly, perhaps, probably, it is posible …

-

.

1.2 [115, tr.29]

LIÊN NHÂN

(Experiential)

Lôgíc (Logical)

(structural)

(Non-

văn structural)

:

:

:

:

: đ

thông tin:

: ngôi

:

)

thông tin

c

16

.

(g

(new).

– (given – new).

đ .

1.2. PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN VÀ PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN

PHÊ PHÁN

1.2

:

(institutinalised) –

(communication as

social action).

17

– – …

.

Analysing Genre Language use in

professional settings (Tạm dịch: Phân tích thể loại diễn ngôn)

:

.

(a language variety). Halliday

(situations

c

– –

), m

.

18

.

.

ản

.

, hay phâ

Cou

19

.

[101]. T

.

d. P

,

.

, khi

-

20

.

:

? C Genre Analysis: English in academic and research settings

(applied genre analysis).

e

Analysing Genre, Bhatia

[102]

21

– –

:

Bƣớc 1

– –

.

Bƣớc 2

.

Bƣớc 3 :

-

.

- , văn

. hoá –

-

.

Bƣớc 4.

.

Bƣớc 5 (context/settings)

, văn hoá

.

Bƣớc 6

:

1 –

2.

22

3 .

(cognitive structuring) (

),

,

.

Bƣớc 7

g .

1.2 (Critical Discourse Analysis - CDA)

Theo [54

(1979) [109], Van Dijk [105], Fairclough

[107], [108]; Wodak [126 [104]

.

). Tr

.

23

. Fairclough

.

, có thể thấy , k

.

1.2

:

a. The , “Critical discourse analysis”

[54]

;

b. [10],

(Critical language studies).

,

(CDA) t .

[54] CDA

24

hoá trong v [54, tr.23].

Van Dijk

[54, tr.19].

: (i (discursive)

(ii

[54, tr.20]).

. Hơn

.

CDA

.

Trong CDA

(Social practice – Fairclough, 1989, 2001; Wodak & Mayer, 1999).

?” (What is

?” (How does

[8, tr.46].

25

hoá

,

,

n xa thê

.

1.2.2.2

” [64 -

, CDA

a: (i ; (ii

:

.

, với

i

26

.

.

1.2.2.3

-

.

-

.

-

.

-

.

- – , di

l [105

27

,

.

- ,

,

ngôn (

: (i) P

[126].

;

.

- ,

(medialt –

.

- ,

.

ố tác giả

. Theo

28

, Fairclough

, :

 .

 –

.

 :

(description)

.

:

: ?

- ?

- ?

- ?

-

)

?

- ?

- ?

?

?

, :

?

- ?

- ?

- hoá

?

29

?

, m ) -

? -

– – -

?

?

? -

?

? -

? -

? -

, :

?

?

.

(interpetation):

.

(explanation):

.

(l

30

.

-

CDA [54 -

5 :

,

.

(b) H nh văn hoá –

.

.

,

31

– Thuyết

.

trong “Language and Power”

(Ngôn ngữ và Quyền lực)

– ngôn

.

1.2.2.4 đặc điểm

“Theo quan niệm phổ biến ở các nƣớc châu Âu và Bắc Mỹ, báo chí là cơ

quan quyền lực thứ

). Đây là kiểu quyền lực không quy định thành văn bản mà đƣợc tạo ra từ công

luận xã hội… Quyền lực của báo chí và ảnh hƣởng của nó vô cùng to lớn…” [25].

, báo chí cũng có vai trò đặc biệt quan trọng. Hiến pháp Việt Nam

không xây dựng trên nền tảng “tam quyền phân lập”. Vì vậy chúng ta không coi

báo chí là cơ quan quyền lực thứ tƣ. Báo chí của chúng ta đặt dƣới sự lãnh đạo của

Đảng. Báo chí của chúng ta vì nhân dân, của nhân dân.

Tuy nhiên, b đ

. Đỗ Chí Nghĩa

cho rằng: “có tới hơn 70% quyết định quản lí của các cơ quan chức năng nhà nƣớc

đến đƣợc với ngƣời dân thông qua báo chí ...”[67]. Và báo chí cũng là diễn đàn để

ngƣời dân bày tỏ nguyện vọng của mình. Những điều này đã thể hiện tính quyền

lực của báo chí.

X CD

. , t ,

32

. Trong ngôn ngữ

( ) –

q

, .

, trên c hoá

ặc điểm bình luận để thực hiện

:

, ph -

,

, “

-

: “

-

- - - -

” (NDCT,16/2/2011).

-

hoá không

thƣơng

l .

-

,

33

ặc điểm v

: ,

… .

ện

,

, – T .

1.3. DIỄN NGÔN BÁO CHÍ, NGÔN NGỮ BÁO CHÍ VÀ NGÔN NGỮ

BÌNH LUẬN

1.3.1. Giao tiếp trong báo chí và diễn ngôn báo chí

1.3.1.1. Giao tiếp trong báo chí

Jackoobson (1969) (dẫn theo [78, tr.44]) quan niệm có hai loại hình giao tiếp:

giao tiếp trực tiếp (giao tiếp hai chiều) và giao tiếp gián tiếp (giao tiếp một chiều).

Giao tiếp giữa ngƣời viết và độc giả thuộc loại thứ hai. “Ngƣời nhận thông điệp

không cùng chung ngữ cảnh với ngƣời viết, do đó ngƣời viết chỉ có thể sử dụng

ngôn ngữ để truyền đạt, phải dự đoán trƣớc thái độ và phản ứng của ngƣời nhận,

loại bỏ đƣợc mọi mập mờ có thể đồng thời có trong quá trình nhận thông điệp và

hạn chế tới mức tối đa những sai lệch trong quá trình suy giải thông điệp”. Điều đó

quyết định phƣơng pháp nghiên cứu ngôn ngữ báo chí.

Giroud (1979) (theo [78, tr.45]) quan niệm rằng: “Báo chí luôn luôn chứa

đựng tính chủ quan và các chính kiến khác nhau. Vấn đề là phải thông báo cho

ngƣời đọc biết đâu là chủ quan, đâu là khách quan hay cụ thể hơn đâu là chất xác

thực của sự kiện mà ngƣời viết có thể tiếp cận đƣợc”. Còn Voyenne (theo [78,

tr.45]) cho rằng trong mọi giao tiếp, ngƣời nhận không chỉ nhận thông điệp mà chủ

yếu là suy giải thông điệp. Đọc báo là một quá trình suy giải chủ quan của ngƣời

34

đọc để dựng lại sự kiện đƣợc nói tới trong bài báo và phỏng đoán ý đồ của nhà

báo.

1.3.1.2. Quan niệm về diễn ngôn báo chí

Dƣơng Văn Quảng [78, tr.45] quan niệm rằng ngôn ngữ báo chí đƣợc nhìn

nhận ở hai cấp độ: tƣ tƣởng (theo nghĩa rộng của từ) và ngôn ngữ học:

“Trong lĩnh vực phân tích hành ngôn, câu không còn là giới hạn cuối cùng mà

trở thành đơn vị nhỏ nhất. Nhƣ vậy, ngƣời ta không thể nhìn nhận bình diện ngữ

dụng nhƣ là một trong ba cấp độ tách rời nhau trong phân tích hoạt động ngôn ngữ

mà phải gắn nó vào hai cấp độ kia: cú pháp, ngữ nghĩa. Vì vậy, tất cả các hiện

tƣợng ngôn ngữ liên quan đến các hoạt động giao tiếp đều phải đƣợc tính đến trong

quá trình phân tích ngôn bản: chỉ từ (deixis), chủ tố (thématisation), láy từ

(anaphone), tự quy chiếu (autoreference), dạng thức (modilites), tiền giả định

(presupposition)… Chính những hiện tƣợng ngôn ngữ này sẽ cho ta xác định đƣợc

đâu là nguồn thông tin, biết đƣợc ai nói với ai, bài báo viết trong điều kiện nào và

hiểu đƣợc ẩn ý trong ngôn ngữ báo chí”.

Và sự giao tiếp trong báo chí là quy trình khép kín giữa 4 yếu tố: nhà báo, sự

kiện, phƣơng tiện ngôn ngữ và ngƣời đọc (Sơ đồ dƣới). Dƣơng Văn Quảng [78,

tr.47] nhấn mạnh rằng, diễn ngôn báo chí là yếu tố thứ tƣ không thể thiếu trong quá

trình khép kín của giao tiếp báo chí. Diễn ngôn báo chí không phải là bản sao chụp

thế giới bên ngoài, mà thực tế nó là hình ảnh của thế giới đó thông qua lăng kính

của ngƣời viết. Một trong những đặc trƣng của giao tiếp báo chí là nhà báo phải

biết kiến tạo ngôn ngữ của mình sao cho để vừa truyền tin, vừa thuyết phục đƣợc

ngƣời nhận tin để họ suy diễn, hiểu đúng đƣợc ý đồ của mình. Chúng tôi sẽ sử

dụng tƣ tƣởng nêu trên trong khi triển khai luận án này.

THẾ GIỚI BÊN NGOÀI (Sự kiện)

Chứng kiến suy xét Các phƣơng tiện thông tin khác

HÌNH ẢNH CỦA THẾ GIỚI BÊN NGOÀI

NGƢỜI NHẬN TIN

Kiến tạo Thông tin NHÀ (Sự kiện) BÁO HÀNH NGÔN (DIỄN NGÔN) Phản hồi thuyết phục

Phản hồi

35

Sơ đồ 1.1 Quá trình giao tiếp trong báo chí (Nguồn [78, tr.46])

1.3.2. Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí

Ngôn ngữ báo chí đƣợc xem là một trong các phong cách chức năng hoạt

động của lời nói. Nó có những đặc thù riêng cho phép nó có vị thế ngang hàng với

các phong cách chức năng khác, nhƣ: phong cách khoa học, phong cách hành

chính – công vụ, phong cách chính luận, phong cách nghệ thuật, phong cách sinh

hoạt hàng ngày (khẩu ngữ).

Phong cách ngôn ngữ báo chí đƣợc hiểu là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng

lớp văn bản thể hiện vai của nhà báo, ngƣời đƣa tin, ngƣời cổ động, ngƣời quảng

cáo… nghĩa là tất cả những ai tham gia vào hoạt động thông tin của xã hội về các

vấn đề thời sự [63, tr.97]. Xuất phát từ góc độ chức năng của báo chí để chỉ ra các

đặc trƣng của ngôn ngữ báo chí, tác giả Hoàng Anh cho rằng ngôn ngữ báo chí có

các tính chất nhƣ: tính chính xác, tính cụ thể, tính thời sự, tính ngắn gọn, tính đại

chúng, tính định lượng, tính bình giá, tính khuôn mẫu. [1]

Tạ Ngọc Tấn [88, tr.174] nêu ba đặc trƣng của ngôn ngữ báo chí, “một yếu tố

sống còn của tác phẩm báo chí” là: tính chính xác, khách quan; tính tiết kiệm, ngắn

gọn, để biểu đạt các thông điệp một cách chính xác nhất, dễ hiểu nhất trong khuôn

khổ văn bản giới hạn của mặt báo; và tính phổ cập xã hội. Những đặc trƣng này đặt

ra yêu cầu đối với việc chọn lọc sử dụng từ, kết cấu câu, ngữ đoạn và toàn văn bản,

đảm bảo mối quan hệ hợp lí giữa các bộ phận, chi tiết trong tác phẩm và cách diễn

đạt đơn giản, dễ hiểu.

Randall [123] quan niệm rằng “Tất cả những bài báo hay đều có cái gì đó

chung. Chúng đều rõ ràng, dễ đọc, sử dụng ngôn ngữ sinh động, gây phấn khích và

tạo sự giải trí. Những điều đó đúng với bất kì ngôn ngữ nào bạn dùng để viết báo”.

Dƣơng Văn Quảng cho rằng “ngôn ngữ báo chí là một hiện tƣợng xã hội và

đối tƣợng của nó (ngƣời đọc) đôi khi đƣợc nhìn nhận nhƣ là một “mục tiêu” cần

đạt tới. Ngƣời làm báo luôn tìm cách thuyết phục và lôi cuốn ngƣời đọc bằng cách

lồng vào ngôn bản một ý thức hệ tƣ tƣởng, định hƣớng dƣ luận, đƣa ra những cách

xử thế khác nhau và cuối cùng là tạo ra ở ngƣời đọc một thái độ mà ngƣời làm báo

mong muốn” [78, tr.42-47].

36

1.3.3. Bình luận và ngôn ngữ bình luận trên báo chí

1.3.3.1. Một số quan niệm về bình luận

Trong cuốn Lí thuyết và thực hành báo chí Xô viết, giáo sƣ E. P. Prokharop

cho rằng: “Giúp bạn đọc hình thành bức tranh tổng thể của đời sống xã hội từ

những tƣ liệu riêng lẻ trên báo chí là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện

thể loại bình luận” [77].

Trong cu

,

, ”

[19, tr.199].

Ở Việt Nam, các tác giả cuốn “Nghề nghiệp và công việc của nhà báo” quan

niệm: “Thể loại bình luận là một bộ phận của công tác báo chí dùng để hƣớng dẫn

cách nhận định các nguồn tin tức,… Để đạt đƣợc mục đích trên, nghĩa là làm cho

quần chúng hiểu và nhận thức đƣợc các điều kiện và sự phát triển về đời sống

chính trị xã hội hiện thời, bài bình luận có nhiệm vụ tạo điều kiện cho độc giả đánh

giá đúng đắn sự kiện nhất định đƣơng thời. Do đó bài bình luận phải dẫn dắt độc

giả rút ra đƣợc kết luận từ những sự kiện đã xảy ra trong thực tế để họ quyết định

vận mệnh chính trị của họ một cách đúng đắn và hành động theo sự quyết định đó”

[56].

Tác giả Trần Thế Phiệt quan niệm: Bình luận với ý nghĩa là một phƣơng

pháp, là cách “đánh giá và bàn luận về một sự kiện, một hiện tƣợng, một vấn đề

nào đó và những điều do vấn đề đó gợi ra” [76, tr.95].

Từ những quan niệm trên của các tác giả ệt Nam, chúng tôi

quan niệm: Bình luận là thể loại của nhóm chính luận báo chí để đánh giá, bàn

37

luận về một sự kiện, một hiện tượng, một vấn đề có ý nghĩa chính trị - xã hội quan

trọng mà bạn đọc đã biết. Qua đó làm nổi bật lên thái độ đối với đối tượng được

phản ánh.

1.3.3.2. Những đặc điểm nổi bật của bình luận

Trong loại thể chính luận báo chí (bao gồm xã luận, bình luận, chuyên luận,

phiếm luận và một biến thể giao thoa là kí chính luận) thì bình luận là thể loại quan

trọng, giữ vai trò then chốt. Cùng là mục đích thông tin lí lẽ nhƣng bình luận có

những nét riêng so với xã luận, chuyên luận và phiếm luận. Nếu xã luận thiên về

tính chỉ đạo thực tiễn và bày tỏ quan điểm của một cơ quan báo chí thì bình luận đi

sâu phân tích, lí giải, đem đến cho ngƣời đọc nhận thức sâu hơn một sự kiện, một

vấn đề. Nếu chuyên luận có dịp bàn luận những vấn đề có chiều sâu, tính lí luận và

thực tiễn cao hơn thì bình luận lại soi rọi một sự kiện, một vấn đề trong quá trình

của hiện thực xã hội. Và nếu phiếm luận quan tâm tới mọi khía cạnh của đời sống,

đem đến cho độc giả sự sinh động, đa dạng của việc bàn luận chuyện đời sống thì

bình luận quan tâm chủ yếu đến những sự kiện nổi bật, những vấn đề đƣợc nhiều

ngƣời quan tâm.

Về mặt ngôn ngữ, bình luận có những đặc điểm khái quát nhƣ sau:

Sử dụng nhiều lớp từ ngữ chính trị: Nội dung của lớp từ ngữ này luôn thể hiện

lập trƣờng và quan điểm cách mạng về từng vấn đề cụ thể của đời sống xã hội

nhằm tuyên truyền, giải thích chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách, … Ví dụ: Một

văn bản quy phạm pháp luật chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó đi vào đời sống xã

hội. Muốn các quy định của pháp luật đi vào đời sống thì chính nó phải phù hợp

với thực tiễn, không phải là bằng ý chí của người soạn thảo. Trên thực tế, có

nhiều nghị định , thông tư, thậm chí là luật đã bị phá sản ngay sau khi ban hành

(…) (LĐ, 09/6/2009).

Là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “bình” và “luận”: “Bình” có nghĩa là xem

xét, phân tích các khía cạnh của vấn đề, đánh giá khai thác nó ở mặt nội dung, ý

nghĩa. “Luận” có nghĩa là bàn bạc, mở rộng vấn đề, đặt nó vào trong quá trình

diễn biến, phát triển, nhận định khả năng, triển vọng của vấn đề mà ngƣời bình

luận quan tâm, rồi nêu những tác dụng của nó trong đời sống xã hội, trong thực tế

38

và trong lí luận. Chính vì thế, bình luận có rất nhiều ƣu thế trong việc thực hiện

sứ mệnh định hƣớng của hoạt động báo chí. Hơn bất cứ thể loại báo chí nào khác,

bình luận là loại tác phẩm đứng ở hàng tiên phong trong việc hƣớng dẫn dƣ luận

cho công chúng. Lúc này, ngôn ngữ của thể loại bình luận thể hiện rõ nhất đặc

trƣng của ngôn ngữ chính luận: phản ánh hiện thực bằng phƣơng pháp bàn luận,

phân tích, lí giải thông qua hệ thống quan điểm, lí lẽ để giải quyết vấn đề. Ngôn

ngữ của chính luận là ngôn ngữ logíc, chú trọng đặc biệt đến tính chính xác và

chặt chẽ để phục vụ cho mục đích diễn đạt. Đó là thứ ngôn ngữ phản ánh rõ ràng,

chính xác quá trình tƣ duy nhằm đạt đến sự nhận thức chân lí cụ thể. Ví dụ: Bình

luận về sự kiện phiên tranh tụng đầu tiên của vụ án các nạn nhân chất độc da cam

Việt Nam kiện 37 công ty hóa chất Mỹ ngày 28/02/2005, tác giả Lƣu Quang viết

bài bình luận “Chúng ta không đơn độc” (LĐ, 02/3/2005). Nội dung bài viết nói

về luận điệu bác bỏ đơn kiện của chúng ta với lí do là “kì dị” và “hết thời hiệu”,

rằng “nếu đƣợc chấp nhận sẽ là mở đƣờng cho những kẻ thù cũ của nƣớc Mỹ

kiện lại quân đội Mỹ”. Tác giả đã bình luận một cách thẳng thắn: Chính những

phát ngôn của Bộ Tư pháp Mỹ - nơi vốn tự hào có hệ thống pháp luật phát triển

nhất thế giới - mới là kì dị. Kì dị ở chỗ, trong khi cho rằng vụ kiện đã “hết thời

hiệu”, họ cố tình quên nỗi đau vẫn đang hiện hữu của 4,8 triệu người Việt Nam

phơi nhiễm dioxin, những gia đình Việt Nam vẫn đau khổ tột cùng, những người

phụ nữ đánh mất khả năng làm mẹ, những đứa trẻ không bao giờ được đến

trường… Và nữa, những hậu quả do chất độc này mà những người lính Mỹ và

con cái, cháu chắt họ đang phải chịu đựng. Nỗi đau vẫn đang hàng ngày diễn ra,

và chắc chắn sẽ còn kéo dài nhiều thập kỉ nữa. Vậy tại sao có thể gọi là “hết thời

hiệu” ?

Đoạn văn trên là ví dụ điển hình của bút pháp bình luận. Những dòng phân

tích kết hợp với lí lẽ xác đáng đầy thuyết phục, khiến ngƣời đọc không thể không

đồng tình với tác giả. Không chỉ đứng trên quan điểm của dân tộc mình (những

ngƣời bị hại), mà tác giả còn đứng cả trên quan điểm của những kẻ đi xâm lăng –

kiểu dùng “gậy ông đập lƣng ông”. Chắn chắn, thời điểm đó, bài báo này đã góp

một tiếng nói có trọng lƣợng, có ích cho vụ kiện chính đáng này của Việt Nam.

39

Ngôn ngữ bình luận giàu tính biểu cảm: Tính biểu cảm trong ngôn ngữ bình

luận gắn liền với việc sử dụng chất liệu văn học, từ ngữ hội thoại (khẩu ngữ), sử

dụng thành ngữ, tục ngữ và các biến thể của chúng, lối nói ẩn dụ giàu hình ảnh,

in đậm dấu ấn cá nhân, giàu tính hài hƣớc, hóm hỉnh (thể loại xã luận rất hiếm

khi sử dụng những kiểu loại này) vì thế sinh động, hấp dẫn gây đƣợc ấn tƣợng

đối với ngƣời đọc, ngƣời nghe. Ví dụ: Chặt vòi tham nhũng! (QĐND,

03/3/2007); 22 nhà máy đường bị thua lỗ. Thông tin này được công bố chính thức

từ Bộ NN&PTNN hôm 17/4. Trên thực tế, các nhà máy đường này đã “chết” từ

lâu rồi nhưng chưa kịp “chôn” mà thôi. (LĐ, 19/4/2005).

Thực tế báo chí ở nƣớc ta cho thấy bình luận là thể loại trụ cột trong nhóm

báo chí chính luận. Những tờ báo lớn nhƣ Nhân dân, Quân đội nhân dân, Lao

Động, Tuổi trẻ, Thanh niên, … đều có chuyên trang, chuyên mục bình luận (“Thời

luận”, “Theo dòng thời sự”, “Sự kiện và bình luận”, “Thời sự và suy nghĩ”, …).

Đội ngũ các nhà báo viết bình luận tiêu biểu ở nƣớc ta hiện nay có thể kể tên: các

nhà báo lão thành Hữu Thọ, Hoàng Tùng, Phan Quang; Một số cây bút viết bình

luận có phong cách nhƣ: Chu Thƣợng, Quang Lợi, Lê Thanh Phong, Mạnh Tƣờng,

Kim Tôn, Nguyễn Hoà, Bảo Trung, Kim Oanh v.v..

1.4. Tiểu kết

ặc điểm :

ất

. Luận án đƣợc tiến hành theo đƣờng hƣớng phân tích diễn ngôn và phân tích

diễn ngôn phê phán, dựa trên lí thuyết của Halliday về ngữ pháp chức năng.

ết –

để phân tích đặc điểm

ngôn ngữ

(seman – (lexico – grammar).

D (text) nên

. ứu

40

ễ ủ

.

Nghiên cứu lí thuyết ngữ pháp chức năng – hệ thống của Halliday, đƣờng

hƣớng phân tích diễn ngôn phê phán của Kress, Fairclough và Nguyễn Hoà chính

là xác lập cơ sở lí thuyết để ặc điể ận trong báo

in tiếng Việt. Với đòi hỏi này, những khảo sát và nghiên cứu trong luận án sẽ nhằm

trả lời những câu hỏi lớn sau:

(1) Thông tin trong văn bản bình luận đƣợc trình bày theo các phƣơng thức nào?

(để thể hiện chức năng tƣ tƣởng, nhằm đạt mục đích cung cấp thông tin).

(2) Ngƣời viết thể hiện thái độ của của mình nhƣ thế nào để thông qua văn bản

đạt đƣợc mục đích giao tiếp đặt ra? (chức năng liên nhân, nhằm định hƣớng suy

nghĩ).

(3) Ngƣời viết đã sử dụng cách thức nào để tổ chức các yếu tố trong văn bản và

nó có ý nghĩa nhƣ thế nào trong việc cấu trúc hoá thông tin đƣợc chuyền tải?

(chức năng văn bản).

41

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG CÁC

VĂN BẢN BÌNH LUẬN ĐỂ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG TƢ TƢỞNG

Nhiệm vụ nghiên cứu 2 những đặc điểm ngôn ngữ để

ản bình luậ , đó thực hiệ

và chức năng tƣ tƣởng lôgíc tƣ tƣởng

văn

: Việc truyền văn

đạt thông tin trong văn bản bình luận được thực hiện trong những điều kiện và

hoàn cảnh nào?

2.1. CÁC PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN CHỨC NĂNG TƢ TƢỞNG

KINH NGHIỆM TRONG VĂN BẢN BÌNH LUẬN

2.1 –

.

– material process;

(2) – behavioural process; (3) –

mental proces; (4) – verbal process; –

relationl process; - existential process.

Halliday

42

. Tham t hoá

c

[96

.

: a) He drove the car hot

(b) He made the car hot

hoá

.

.

[96, tr.

hoá

hoá

.

.

trung tâm hơn .

43

hoá

:

(process) (participant)

(participant)

(verbal (nominal không?

group)

Group) (i)

th hoá

đƣơng? ?

[120, tr.116])

2.1 quá trình chuyển tác -

kinh nghiệm

Trong phần này, đ

. Mô h

[6], [96], Tôn

trong N [68]

,

[96

.

Quang

không chỉ có còn phức, câu ghép

44

,

,

.

; (iii) Phân

.

:

, , ,

.

Trong ngôn ngữ

:

a.

[96, tr.158] cho rằng:

:

). Liên quan

H –

hoá

]. : + q

45

(xem ([96, tr.160-201]).

,

nhƣ sau:

q -

, nhƣ:

:

- + “

-

”. (QĐND, 4/11/2010)

+ “Thủ tướng M.Xinh đã hội kiến với Nhật hoàng, hội đàm với Thủ tướng

Na-ô-tô Can và gặp Bộ trưởng Ngoại giao X.Ma-ê-ha-ra. Sau cuộc hội đàm với

Thủ tướng M.Xinh, Thủ tướng N.Can cho biết, hai bên đã kí Tuyên bố chung

khẳng định việc hoàn tất đàm phán về Hiệp định Ðối tác kinh tế toàn diện giữa

Nhật Bản và Ấn Ðộ…”. (ND, 3/11/2010)

-

”,

“ ”, “ ”, “ ”, …

(những sự kiện trừu tƣợng) :

1a. “Ngày 13-10-2005, chính quyền Mỹ chính thức bắt ông Gô-va-đi-a”.

(QĐND, 13/8/2010)

chính quyền Mỹ bắt ông Gô-va-đi-a

46

Ví dụ 1b. “Ông Xan-tốt được bầu làm tổng thống Cô-lôm-bi-a vào tháng 6-2010

với tổng số phiếu ủng hộ cao nhất trong lịch sử nước này” (QĐND, 11/8/2010).

ông Xan-tốt đƣợc bầu làm tổng thống Cô-lôm-bi-a

b. Quá trình hành vi là quá trình n :

. V ,

.

Q , [96],

:

hoá

hoá

].

:

Hành vi

Nội tác Tƣơng tác Cận vật chất Cận phát ngôn

Cận tinh thần Tri nhận Tri giác Tình cảm

Quá trình hành vi trong tiếng Việt (Nguồn Hoàng Văn Vân, tr.208)

chính trị - xã hội,

:

47

: , hoà

, bác bỏ

– .

Q [96

) – những

, [96, tr.208]). Ví dụ:

Ví dụ 2a (ND, 24/11/2010)

Ứng thể Quá trình: hành vi Hiện tƣợng

Thủ tƣớng Ai-len bác bỏ ý kiến cho rằng việc đàm phán quốc

B.Cô-oen tế về vấn đề tài chính của Ai-len sẽ

khiến nƣớc này mất chủ quyền

Ví dụ 2b (NDCT, 01/12/2010)

Ứng thể Quá trình: hành vi Hiện tƣợng

Hai bên đã cam kết tăng cƣờng quan hệ song phƣơng và thảo luận

các kế hoạch hợp tác trên nhiều lĩnh vực quan

trọng

c. Q

– –

hoá”.

The

.

48

tinh

), (iiii)

: –

(xem thêm [96]

:

:

:

.

Ví dụ (NDCT, 22/3/1011):

Hiện tƣợng (đại hiện tƣợng) Cảm thể Quá trình: TT

(mong muốn)

Nga hi vọng chuyến thăm Mát-xcơ-va sắp tới của Thủ tƣớng

Ð.Ca-mê-rôn sẽ tạo nên chất lƣợng mới trong

quan hệ hai nƣớc

d.

:

,

49

(

)

, – –

+ ngôn ] (Xem [96,

tr.145-160]).

tổ hợp : , dư luận

t … . :

- “Nhiều nhà phân tích cho rằng, ngay từ những năm 1990 của thế kỉ trước,

Nhật Bản đã là bạn hàng xuất khẩu lớn thứ hai của Ấn Ðộ và là một trong những

nhà đầu tư lớn nhất vào quốc gia Nam Á này…”. (ND, 3/11/2010)

- “Nhiều chuyên gia tài chính quốc tế còn cho rằng, có thể tổn thất của các

ngân hàng Ai-len không đến mức tồi tệ như lo ngại bị thổi phồng hiện nay”. (ND,

24/11/2010)

e. Quá trình quan hệ

Theo Hoàng Văn Vân, quá trình quan hệ thể hiện các ý nghĩa khái quát nhƣ

tồn tại (tĩnh tại), sở hữu và định vị. Mỗi ý nghĩa đƣợc thể hiện bằng một kiểu quá

trình. Do vậy, ta có các kiểu quá trình quan hệ: (i) quá trình quan hệ tồn tại; (ii)

quá trình quan hệ chu cảnh; (iii) quá trình quan hệ sở hữu. Mỗi kiểu quá trình đến

lƣợt nó lại đƣợc thể hiện dƣới 2 hình thức: quy gán và đồng nhất. Quá trình quan

hệ quy gán là quá trình đƣợc khái quát hoá bằng công thức “A mang đặc điểm X”,

trong đó, A là kẻ mang thuộc tính đƣợc gọi là đƣơng thể; còn X là đặc tính của A,

đƣợc gọi là thuộc tính. Quá trính quan hệ tồn tại đồng nhất đƣợc khái quát hoá

bằng công thức “A đƣợc đồng nhất bởi X”. Trong hình thức này, thành phần thứ

nhất đƣợc gọi là “biểu hiện” (bị đồng nhất thể) và thành phần thứ hai đƣợc gọi là

“giá trị” (đồng nhất thể). Ví dụ: Chi là giáo viên. thì ở đây “Chi là biểu hiện”, là

(quá trình quan hệ) và giáo viên (giá trị) (Xem Hoàng Văn Vân, [96]). Quá trình

quan hệ chu cảnh quy gán là quá trình thể hiện mối quan hệ giữa ngƣời hay vật

50

trong một chu cảnh nào đó nhƣ thời gian, không gian, phạm vi; (iv) quá trình quan

hệ quy gán sở hữu; (v) quá trình quan hệ đồng nhất; (vi) quá trình quan hệ đồng

nhất chu cảnh (là quá trình thể hiện sự cân bằng giữa hai thực thể của quá trình.

Hai thực thể này có thể là các thành phần chu cảnh chỉ thời gian, địa điểm) và (vii)

quá trình quan hệ sở hữu đồng nhất. Các loại quá trình quan hệ có thể đƣợc thể

hiện dƣới dạng cấu trúc sau:

Quy gán: đƣơng thể + quá trình: quan hệ + thuộc tính

Đồng nhất: bị đồng nhất thể + quá trình: quan hệ + đồng nhất thể [96, tr.315]

Vận dụng mô hình của Hoàng Văn Vân, khi phân tích các quá trình quan hệ

trong văn bản bình luận báo chí, chúng tôi thấy có các kiểu sau:

(5a. Sở hữu quy gán) (LĐ, 25/11/2010)

Thuộc tính Quá trình Đƣơng thể

Quy định là do con ngƣời làm ra, nếu không phù hợp thì

pháp luật phải chỉnh sửa.

(5b. Sở hữu đồng nhất) (LĐ, 31/5/2009)

Biểu hiện Quá trình Giá trị

Quản trị là một nhân tố hết sức quan trọng đóng góp đáng kể vào

thành tích (hay thất bại) của một tổ chức (cơ quan nhà

nƣớc, doanh nghiệp, tổ chức xã hội dân sự hay cả quốc

gia) bên cạnh các yếu tố vốn, lao động và công nghệ.

(5c. Quan hệ thuộc tính) (NDCT, 14/3/2011)

Đƣơng Quá trình: Thuộc tính

thể quan hệ

Giá lƣơng gia tăng cũng là một trong những nguyên nhân thổi bùng làn

sóng phản đối chính phủ ở Bắc Phi, Trung Đông. thực

51

g. Quá trình hiện hữu/tồn tại

Theo Hoàng Văn Vân, quá trình hiện hữu là quá trình giải thích đặc điểm

chuyển tác của sự hiện hữu hay biến mất. Nó là quá trình thể hiện kinh nghiệm

bằng cách thừa nhận rằng một vật hay một thực thể nào đó tồn tại hay xảy ra đƣợc

thể hiện ở dạng tĩnh. Trong quá trình hiện hữu thƣờng có một tham thể cố hữu

đƣợc gọi là Hiện hữu thể. Nó cũng có thể bao gồm một hay nhiều hơn một chu

cảnh. “Về ngữ nghĩa, quá trình hiện hữu là quá trình thể hiện sự tồn tại của một

thực thể trong thời gian hay không gian. Về ngữ pháp – từ vựng, quá trình hiện

hữu khác với các quá trình khác, đặc biệt là quá trình vật chất ở một số khía cạnh:

Cấu trúc ngữ pháp, khả năng di chuyển của vị trí trong câu về thời gian và địa

điểm và khả năng cho phép sự xuất hiện của các cách diễn đạt tình thái, thể và của

các chu cảnh chỉ phƣơng tiện và phẩm chất” [96, tr.323].

Câu hiện hữu đƣợc hiện thực hoá điển hình bằng cấu trúc:

Quá trình: hiện hữu + hiện hữu thể

Tác giả Hoàng Văn Vân cho rằng: quá trình hiện hữu trong tiếng Việt còn có

thể đƣợc hiện thực hoá bằng các động từ nhƣ: có, treo, an tọa, đứng, nằm, đặt,

bày, đính, nổi lên, tồn tại, xuất hiện, biến mất, biến, xảy ra, nhảy ra… Trong văn

bản bình luận, quá trình này đƣợc thể hiện nhƣ sau:

Ví dụ (LĐ, 30/10/2009 ):

Hành thể/ Hiện hữu Hiện Đích thể

tác nhân hữu thể

(Vì vậy, cần có quy chế về đặt danh hiệu, việc tổ chức phong tặng

đã đến nghiêm danh hiệu và thẩm quyền cơ quan đơn vị

lúc) Nhà ngặt phong tặng từng loại danh hiệu của nƣớc ta,

nƣớc trong đó có danh hiệu cho doanh nghiệp,

doanh nhân.

Một số nhận xét, đánh giá:

Việc dẫn giải, phân tích các kiểu quá trình nêu trên cho thấy tƣ tƣởng của cơ

quan báo chí cũng nhƣ tƣ tƣởng của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân ta đƣợc thể hiện

52

qua báo chí. Qua việc phân tích định lƣợng để rút ra định tính có thể thấy tỉ lệ sử

dụng các kiểu quá trình (bảng 2.2) và sự khác biệt giữa bình luận và các tác phẩm

thông tấn khác.

Phân tích 200 văn bản bình luận, gồm 4996 câu, có thể đƣa ra kết quả tổng

quát về các loại quá trình trong trong khối ngữ liệu nhƣ sau:

Bảng 2.1 Tỉ lệ các kiểu quá trình trong văn bản bình luận

Quá Vật chất Hành vi Tinh Phát Quan hệ Hiện

trình thần ngôn hữu

1250 620 832 664 620 596 Số lƣợng

25,2% 12,4% 16,6% 13,3% 20,6% 11,9% Tỉ lệ %

Căn cứ vào tỉ lệ các kiểu quá trình sử dụng trong văn bản bình luận có thể rút ra

một số nhận xét sau:

- Các câu có cấu trúc chính thể hiện quá trình vật chất chiếm tỉ lệ cao nhất bởi

vì: việc phản ánh kinh nghiệm thực tế, phản ánh thông tin một cách chính xác vẫn

là đặc điểm nổi bật của bình luận.

- Câu với cấu trúc chính thể hiện quá trình quan hệ xuất hiện khá cao (20,6%)

thƣờng đƣợc dùng để đƣa ra những nhận định, đánh giá của ngƣời viết đối với sự

kiện. Đây là mục đích cuối cùng mà cơ quan báo chí muốn đạt tới: thông qua cách

thể hiện quan điểm (trực tiếp hoặc gián tiếp) để định hƣớng suy nghĩ cho độc giả.

Đây cũng chính là một cách thể hiện tính quyền lực của báo chí.

- Tỉ lệ khá cao của các câu thể hiện quá trình phát ngôn (13,3% ) chủ yếu ở

dạng câu trích dẫn cho thấy tầm quan trọng của trích dẫn đối với bình luận nhằm

đạt mục đích miêu tả khách quan sự kiện (cái “tôi” tác giả, dù rất quan trọng,

nhƣng không phải lúc nào cũng khiến ngƣời đọc chấp nhận sự can thiệp của tác

giả).

- Câu có cấu trúc chính là quá trình hiện hữu có tỉ lệ thấp nhất (11,9%). Để

định hƣớng suy nghĩ của ngƣời đọc và với diện tích giới hạn của trang báo, những

câu với thông tin “ở đâu có cái gì” chỉ đƣợc dùng để miêu tả ngữ cảnh, mốc sự

kiện, giúp cho ngƣời đọc hình dung xuất phát điểm hay giới hạn của câu chuyện.

53

- Quá trình tinh thần cũng chiếm tỉ lệ tƣơng đối cao (16,6%) bởi hầu hết

những bài bình luận chính trị - xã hội đều thể hiện sự mong muốn của các nhà

nƣớc, của chính phủ, của các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội … về mọi vấn đề đã

và sẽ xảy ra.

- Quá trình hành vi chiếm tỉ lệ (12,4%) trong văn bản, so với các quá trình

khác thì chiếm tỉ lệ thấp hơn.

Một số nét khái quát: Một trong những điều làm cho bình luận báo chí khác với

các thể loại thông tấn khác, nhất là tin, là sự việc không đơn thuần đƣợc liệt kê,

mà trở thành một tham tố, đối tƣợng đƣợc phản ánh thông qua “thông tin lí lẽ”

của nhà báo. Thông tin thay vì đƣợc đƣợc thể hiện dƣới dạng quá trình vật chất,

hay quá trình hành vi trở thành đối tƣợng nhận thức của quá trình tri nhận. Việc

chọn quá trình nào để thể hiện kinh nghiệm hoàn toàn phụ thuộc vào điểm nhìn

của tác giả. Sự chuyển tác ở ngôn bản bình luận có thể đƣợc cụ thể hoá nhƣ sau:

- Các quá trình vật chất, quan hệ, hành vi … đƣợc phản ánh lại dƣới dạng quá

trình nhận thức:

Trong các câu phức có cấu trúc tầng bậc, sự kiện đƣợc phản ánh nhờ sự nhận

thức của ngƣời viết. Quá trình nhận thức là cách thể hiện quan điểm, suy nghĩ của

nhân vật hay tác giả. Còn thông tin chính thƣờng nằm trong câu phụ với tƣ cách là

đối tƣợng của nhận thức.

Ví dụ: …Ông Trần Đình Du trước khi nhận nhiệm vụ Chi Cục trưởng Chi cục

Kiểm lâm Hà Nam còn là Chánh thanh tra Sở NNPTNT, cũng là người hiểu rất rõ

những quy định của pháp luật và cũng chính tay ông đã kí quyết định xử lí nhiều

vụ việc vi phạm quy định bảo vệ rừng và bảo vệ động vật hoang dã. Người dân

thường vi phạm pháp luật thì bị xử lí, nhưng ông Du là người đứng đầu cơ quan

bảo vệ rừng vi phạm pháp luật về rừng lại không hề hấn gì. Trớ trêu thay! (LĐ,

14/4/2010)

Trong đoạn văn trên, chúng tôi lấy câu "Người dân thường vi phạm pháp luật

thì bị xử lí, nhưng ông Du là người đứng đầu cơ quan bảo vệ rừng vi phạm pháp

luật về rừng lại không hề hấn gì" (quá trình vật chất) để phân tích. Ở câu trên,

54

thông tin cần thể hiện là: ngƣời dân thƣờng vi phạm pháp luật bảo vệ rừng thì bị xử

lí, cán bộ có chức quyền vi phạm pháp luật bảo vệ rừng thì không bị xử lí.

Sự chuyển tác khá độc đáo, với việc dùng hành thể (ngƣời dân – ông Du) thể

hiện thái độ của tác giả lên ngƣời đọc một cách nhẹ nhàng, dễ chấp nhận nhất.

Đồng thời, giao tiếp lẽ ra chỉ một chiều (từ ngƣời viết nếu đƣợc thể hiện bằng quá

trình vật chất) trở thành hai chiều, vì ngƣời đọc có cảm giác nhƣ đang trò chuyện

với chính ngƣời viết nhờ câu có dạng quá trình nhận thức.

- Các quá trình vật chất, hành vi… đƣợc phản ánh lại dƣới dạng quá trình

phát ngôn:

Ví dụ: Nhìn lại chuyến thăm châu Á vừa qua của Tổng thống Mỹ, nhiều nhà

phân tích có chung nhận định, ông Ô-ba-ma dường như đang quyết tâm dàn xếp

lại các mối quan hệ của Mỹ với châu Á, và chuyến thăm này có thể dẫn tới sự

chuyển hướng chiến lược rất lớn trong cán cân quyền lực quốc tế. (NDCT,

18/11/2010) (Quá trình phát ngôn).

Thông tin cần thể hiện: Ông Ô-ba-ma đang quyết tâm dàn xếp lại các mối

quan hệ của Mỹ với châu Á, và chuyến thăm này có thể dẫn tới sự chuyển hƣớng

chiến lƣợc rất lớn trong cán cân quyền lực quốc tế. (Quá trình vật chất).

- Các quá trình vật chất, nhận thức, ứng xử... đƣợc phản ánh lại dƣới dạng quá

trình hành vi:

Ví dụ: Việt Nam tin tưởng rằng, với sự nỗ lực kiên cường, tính kỉ luật và

bình tĩnh, sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, nhân dân Nhật Bản sẽ sớm vượt qua

khó khăn và phát triển mạnh mẽ. (NDCT, 24/3/2011) (Quá trình hành vi).

Câu trên thể hiện thông tin: “với sự nỗ lực kiên cƣờng, tính kỉ luật và bình

tĩnh, sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, nhân dân Nhật Bản sẽ sớm vƣợt qua khó

khăn và phát triển mạnh mẽ” (Quá trình nhận thức).

2.1.3. Danh hoá trong văn bản bình luận

2.1.3.1. Danh hoá hoá

Danh hoá (nominalisation) đƣợc hiểu là quá trình biến các động từ và tính từ

thành các danh từ. Quá trình này đƣợc Halliday gọi là sự “ẩn dụ ngữ pháp”

(grammatical metaphor). Theo ông, danh hoá là “sự chuyển đổi từ của từ loại này

55

thành một từ thuộc từ loại khác trong khi các đơn vị từ vẫn đƣợc giữ nguyên”. Có

thể nói đây là hiện tƣợng khá phổ biến trong việc cấu tạo các thuật ngữ khoa học

nhằm gọi tên các đặc tính của sự vật, hiện tƣợng hay các quá trình một cách chính

xác, rõ ràng. Chính vì vậy, danh hoá có vai trò quan trọng trong việc tạo ra tính

chính xác cho văn bản khoa học kĩ thuật nói riêng và cho nhiều loại văn bản khác

nói chung. Sự danh hoá đã làm tăng tính chính xác trong sự quy chiếu liên kết và

tính mạch lạc của diễn ngôn.

Trong tiếng Việt, danh hoá cũng đã đƣợc các nhà nghiên cứu bàn đến và chỉ

ra cơ chế của nó, nhƣ: Nguyễn Tài Cẩn [12], Đỗ Hữu Châu [13], Đinh Văn Đức

[33], Nguyễn Thiện Giáp [36]…

Đinh Văn Đức [33] khi nghiên cứu từ loại danh từ trong tiếng Việt đã chỉ ra

rằng những danh từ không chỉ sự việc (nhƣ việc làm, đóng góp, thắng lợi,…) thực

chất chỉ là sản phẩm của một cách thức phản ánh của ngƣời bản ngữ, là quá trình

“sự vật hoá” một hành động trong quá trình tri giác của ngƣời bản ngữ, gắn cho nó

mối quan hệ khác nhƣ trừu tƣợng hoá và hình dung nó nhƣ một sự việc. Nhƣ vậy,

ý nghĩa của danh từ là sản phẩm của quá trình danh hoá là ý nghĩa ngữ pháp chứ

không phải là ý nghĩa từ vựng. Loại ý nghĩa này đƣợc gọi là “ý nghĩa phi sự vật”,

cùng với ý nghĩa sự vật làm thành ý nghĩa thực thể của danh từ. Tác giả Đinh Văn

Đức đã kết luận: Ý nghĩa phi sự vật cùng với ý nghĩa sự vật làm thành ý nghĩa thực

thể của danh từ là ý nghĩa thuần túy ngữ pháp, nó xuất hiện do mối quan hệ giữa

các khái niệm trong tƣ duy của ngƣời bản ngữ (nghĩa là thuộc về phạm trù cách

thức phản ánh chứ không phải đối tƣợng phản ánh …) [33, tr.40].

Tác giả Đinh Văn Đức [33, tr.46] cho rằng danh hoá trong tiếng Việt có thể

đƣợc thực hiện theo hai phƣơng thức chính:

(i) Động từ, tính từ kết hợp với một yếu tố ngữ pháp chuyên dùng có thể là

phụ tố cấu tạo từ nhƣ “sự” hoặc trống nghĩa nhƣ “việc”, “nỗi”, “niềm”… Ví dụ:

Vui Niềm vui; Học Việc học

Làm Việc làm; Uống rƣợu Việc uống rƣợu

(ii) Danh hoá các động từ và tính từ trên cách dùng và giữ nguyên vỏ ngữ âm

của từ. Ví dụ “thắng lợi” là động từ và tính từ trong trƣờng hợp:

56

Chúng ta đang thắng lợi; hoặc:

Chúng ta (hoàn toàn) rất thắng lợi (việc này).

Nhƣng trong trƣờng hợp “thắng lợi của chúng ta rất to lớn” thì nó lại trở

thành danh từ, tức là đã đƣợc danh hoá.

2.1.3.2. Danh hoá tr báo in tiếng Việt

Danh hoá là hiện tƣợng phổ biến của mọi ngôn ngữ. Trong tiếng Việt danh

hoá chiếm một tỉ lệ khá lớn trong các văn bản. Theo Halliday, danh hoá là một

nguồn lực đơn lẻ mạnh mẽ nhất để tạo ẩn dụ ngữ pháp. Bằng phƣơng tiện này, các

quá trình (tạo lời tƣơng thích bằng các động từ) và các đặc tính (tạo lời tƣơng thích

bằng các tính từ) đƣợc tạo lời lại thông qua ẩn dụ thành các danh từ. Việc sử dụng

các hiện tƣợng danh hoá sẽ giúp tạo ra những loại tổ hợp danh từ có sắc thái khác

nhau rất tinh tế về ý nghĩa và là một công cụ diễn đạt tƣ tƣởng rất đa dạng và hiệu

quả. Qua khảo sát ngữ liệu của văn bản bình luận, chúng tôi thấy danh hoá cũng

đƣợc sử dụng thƣờng xuyên, điều này góp phần tạo danh tính cao cho văn bản

cũng nhƣ giúp cho các văn bản thể hiện rõ đƣợc tƣ tƣởng của nhà báo (cũng nhƣ

của tòa soạn). Chúng ta xem xét một số ví dụ sau:

1) “Ngoài vấn đề kinh tế, Nhật Bản và Ấn Ðộ cũng nhất trí đẩy mạnh các cuộc

đàm phán liên quan thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự, theo đó cho phép các

công ty Nhật Bản xuất khẩu các thiết bị và công nghệ điện hạt nhân sang Ấn

Ðộ” (NDCT 03/11/2010).

2) “Trong khi đó, Ấn Ðộ có được sự trợ giúp về tài chính và công nghệ của

Nhật Bản để tiếp tục phát triển kinh tế” (NDCT 03/11/2010).

3) “Tuyên bố chung hoan nghênh kết quả tích cực của các cuộc đàm phán song

phương về kí kết Hiệp định tự do thương mại (FTA) cũng như việc khởi động

các cuộc đàm phán về hiệp định hợp tác song phương về hạt nhân dân sự và

tiến tới sớm hoàn tất các cuộc đàm phán” (NDCT 03/11/2010).

4) “Tuyên bố tái khẳng định quyết tâm của cả hai nước trong việc loại bỏ hoàn

toàn các loại vũ khí hạt nhân; khẳng định sự hợp tác trong lĩnh vực biến đổi

khí hậu và cải tổ Hội đồng Bảo an LHQ; nhất trí rằng việc kí kết Bản ghi nhớ

57

về đơn giản hoá các thủ tục về thị thực xuất nhập cảnh sẽ thúc đẩy hơn nữa

việc trao đổi các hoạt động ngoại giao giữa hai nước” (NDCT 03/11/2010).

5) “Những thỏa thuận đạt được trong chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng

M.Xinh cũng cho thấy Niu Ðê-li đang thúc đẩy chính sách hướng Đông”

(NDCT 03/11/2010).

6) “Sáng 18-9, các điểm bỏ phiếu bầu cử Quốc hội Áp-ga-ni-xtan đã bắt đầu

mở cửa trong bối cảnh an ninh được đặt ở mức cao nhất. Đây là cuộc bầu cử

thứ hai tại quốc gia Nam Á này kể từ khi chế độ Ta-li-ban bị lật đổ năm 2001.

Cũng như lần trước, cuộc bầu cử này vẫn tiếp tục diễn ra trong bối cảnh “mây

mù che phủ tương lai” (QĐND, 18/9/2010).

7) “Cuộc bầu cử quốc hội trên cũng được xem là phép thử quan trọng về sự

ổn định tại Áp-ga-ni-xtan, khi Ta-li-ban vẫn tiếp tục lớn mạnh bất chấp sự hiện

diện của gần 150.000 binh lính nước ngoài. Đây cũng sẽ là một cuộc thử

nghiệm đối với Tổng thống Áp-ga-ni-xtan H. Ca-dai (H.Karzai), người đã cố

gắng chứng minh không phụ thuộc vào những người ủng hộ phương Tây bằng

một loạt biện pháp dân túy” (QĐND, 18/9/2010).

8) “Để bảo đảm an ninh cho hơn 17 triệu cử tri đủ tư cách tham gia bầu cử, hơn

115.000 binh sĩ và nhân viên cảnh sát, với sự hỗ trợ của 144.000 binh sĩ thuộc

NATO, đã được triển khai”. (QĐND 18/9/2010).

9) “Tình hình nghiêm trọng tới mức, trong ngày 17 - 9, chính Tổng thống Ca-dai

đã thừa nhận: “Cuộc bầu cử quốc hội sẽ có những bất thường. Có khả năng sẽ

xảy ra những bê bối và cả những cáo buộc”.(QĐND 18/9/1010)

10) “Thực tế cho thấy, trên thế giới, tệ tham nhũng, hối lộ đã từng làm suy yếu,

rệu rã nhiều bộ máy chính quyền” (LĐ, 4/8/2010).

Trong các ví dụ nêu trên, ví dụ (1) đến ví dụ (5) dẫn trong một bài bình luận,

từ ví dụ (6) đến ví dụ (9) cũng trong một bài bình luận, điều này cho thấy hiện

tƣợng danh hoá xuất hiện tƣơng đối nhiều trong các bài bình luận.

Qua các ví dụ trên, chúng ta thấy, danh hoá trong văn bản bình luận chủ yếu

là danh hoá động từ và danh hoá mệnh đề. Yếu tố danh hoá động từ và mệnh đề

trong văn bản bình luận có những đặc điểm chủ yếu sau:

58

a. Danh hoá động từ với: việc, sự, cuộc, nỗi, niềm… Đây là trƣờng hợp khá

phổ biến trong văn bản bình luận. Điều này phù hợp với đặc điểm của văn bản bình

luận vì bình luận là thể loại báo chí hội tụ nhiều loại phong cách nhƣ: chính luận,

báo chí, văn học, sinh hoạt hằng ngày, v.v.. Danh hoá động từ chiếm tỉ lệ lớn trong

các bài bình luận trên báo in tiếng Việt.

b. Các động từ đƣợc danh hoá trong văn bản đều là các động từ chỉ quá trình /

hành động và thƣờng là các động từ đa tiết. Ở ví dụ 4, tổ hợp danh từ “việc kí kết”

đƣợc dùng nhƣ một danh từ ở vị trí bổ ngữ, nó có tổ chức cố định. Việc mang lại

tƣ cách danh từ cho cả tổ hợp, cùng với động từ kí kết tạo thành một tổ hợp định

danh cho một loại thực thể. Sở biểu của loại thực thể này là quá trình “kí kết” nói

chung, kết quả của sự trừu tƣợng hoá các quá trình cùng loại “kí kết”. Có thể nói

rằng “nghĩa” cơ bản của tổ hợp danh từ “việc kí kết” là sự định rõ loại quá trình

nên nó biểu thị khái niệm về một kiểu loại thực thể hơn là khái niệm về bản thân

một loại thực thể. Việc kí kết Bản ghi nhớ là một ví dụ về sự tồn tại cụ thể của loại

thực thể “việc kí kết”.

c. Danh hoá mệnh đề. Danh hoá mệnh đề là danh hoá ở cấp độ cú pháp, kết

quả của hiện tƣợng này là tạo ra một tổ hợp có thể làm chức năng của danh từ, có

thể dùng ở vị trí của danh từ. Ở các ví dụ 3 và 4, các vấn đề đƣợc biểu thị bằng

mệnh đề danh hoá với “việc” là những sự kiện thực hữu. Nội dung của sự kiện này

thƣờng biểu thị một sự tình thực hữu, một thông tin cơ sở.

2.1.4

Trong các câu phức của bài bình luận, một thành tố có thể đóng vai trò Động

thể trong mối quan hệ với thành tố này, nhƣng đồng thời lại là Đích thể hay Hiện

tƣợng, Thuộc tính hay Chu cảnh, tác nhân phụ... đối với những thành tố khác. Điều

đó có nghĩa là nhu cầu mở rộng nghĩa cho thành phần chính của câu trong bình

luận là cấp thiết và quan trọng. Vì nếu tất cả những mối quan hệ phức tạp đó đƣợc

thể hiện bằng các câu đơn thì không những các câu đơn không biểu đạt hết nội

dung thông tin trong một ngôn bản giới hạn, mà còn tạo nên nhịp điệu buồn tẻ, đơn

59

điệu. Thành phần đƣợc mở rộng nghĩa là phần đầu và cuối trong danh ngữ tiếng

Việt.

2.2.3.1. Phần đầu danh ngữ

Việc danh ngữ hoá là hiện tƣợng thuộc ẩn dụ ngữ pháp. Nhƣng việc danh ngữ

hoá thông qua sử dụng danh từ ghép có thể coi là quá trình chuyển loại: Nghĩa của

một ngữ hay một câu đƣợc chuyển vào một từ, đƣa những từ có vị thế là thành

phần phụ của danh ngữ lên vị trí ngang bằng với danh từ trung tâm. Đó là cách mà

tác giả Hoàng Văn Vân [96, tr.16 ] gọi là “gói thông tin lại” và biến chúng từ một

câu trở thành một danh ngữ để chúng có chức năng nhƣ một thành phần ngữ pháp

trong câu khác.

Theo Nguyễn Tài Cẩn [12], dạng đầy đủ nhất của phần đầu danh ngữ tiếng

Việt là 3 đơn vị và chúng đều do các hƣ từ đảm nhiệm.

Định tố chỉ

Định tố chỉ

Cái

(Phần cuối

T1

T2

toàn bộ

số lƣợng

của danh ngữ)

-3

-2

-1

-0

+0

cả

sáu

cái

con

(ấy)

Trên phƣơng diện cấu tạo từ trong tiếng Việt, những từ ghép theo quan hệ

đẳng lập để chỉ một khái niệm liên quan đến hai hay nhiều địa điểm, lĩnh vực. Ví

dụ:

- Thời kì “trăng mật” trong quan hệ Mỹ - Trung kể từ khi Tổng thống Ô-ba-

ma lên nhậm chức... (QĐND, 8/2/2010).

- Chính phủ Nhật Bản sẽ phối hợp với chính phủ Mỹ làm sâu sắc hơn quan hệ

đồng minh Nhật - Mỹ phù hợp với thế kỉ 21. Mối quan hệ này sẽ là trọng tâm của

các thoả thuận an ninh Nhật - Mỹ. (QĐND, 21/1/2010)

Những từ ghép liên danh xuất hiện tƣơng đối nhiều trong các bài bình luận về

mối quan hệ ngoại giao giữa các nƣớc trên thế giới.

2.2.3.2. Phần cuối danh ngữ

Theo Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp [91, tr.328], thành phần nòng

cốt của câu tiếng Việt gồm chủ ngữ, vị ngữ và bổ ngữ; và danh từ có thể xuất hiện

60

với chức năng chủ ngữ và bổ ngữ. Phƣơng thức mở rộng phần cuối danh ngữ trong

bài bình luận tiếng Việt có một vai trò vô cùng quan trọng vì khả năng mở rộng

nghĩa ở phần đầu danh ngữ là rất hạn chế (do số lƣợng và sự kết hợp của các hƣ từ

có hạn).

Ví dụ: Những anh “Bộ đội Cụ Hồ” vững vàng nơi đầu sóng ngọn gió, kịp

thời có mặt ở những nơi gian khó và hiểm nguy nhất, băng mình trong lửa cháy và

mưa lũ... mãi mãi là niềm tin yêu của nhân dân, là lực lượng trụ cột giữ vững sự

ổn định về chính trị của đất nước. [130]

Theo cách phân loại định tố của Nguyễn Tài Cẩn [12], chúng ta có sơ đồ

danh ngữ phức của ví dụ trên, theo trật tự của định tố phía sau danh từ trung tâm

nhƣ sau: (kí hiệu T = trung tâm; đt = định tố)

T đt1 đt2 anh" Bộ đội Cụ Hồ"/ vững vàng nơi đầu sóng ngọn gió, / kịp thời có mặt ở đt3 những nơi gian khó và hiểm nguy nhất, / băng mình trong lửa cháy và mƣa đt4 đt5 lũ.../ mãi mãi là niềm tin yêu của nhân dân,/ là lực lƣợng trụ cột giữ vững sự ổn định về chính trị của đất nƣớc.

Nhận thấy trong cấu trúc của danh ngữ trên có 1 danh từ trung tâm (anh bộ

đội Cụ Hồ) (T) và 5 định tố tiếp theo cho danh từ trung tâm là tƣơng đối nhiều. Số

lƣợng các định tố (các ngữ) nhiều làm cho danh ngữ trên có kích thƣớc lớn, đậm

đặc về từ vựng. Tuy nhiên, các định tố đƣợc sắp xếp rõ ràng và lôgíc nên nó không

gây khó hiểu cho ngƣời đọc.

Ví dụ: 25-7, website Wikileaks

- - - -

- - -

. (QĐND, 29/7/2010)

61

Ví dụ này cho thấy sự mở rộng phía sau danh từ cho phép câu đƣa một lƣợng

thông tin rất lớn vào ngôn bản, tuy nhiên ngƣời đọc vẫn thấy rõ ràng, dễ hiểu.

Tiêu đề có cấu trúc là danh ngữ khá phổ biến trong các bài bình luận và vai

trò của định ngữ cho danh từ rất quan trọng đặc biệt là định ngữ sau. Ví dụ:

- Một nghị quyết lạc hậu và sai lệch (QĐND, 24/10/2009)

- Cuộc chiến gián điệp (QĐND, 24/7/20010)

- Đích vẫn còn cách xa (LĐ, 28/8/2010)

Nhƣ vậy, việc sử dụng danh hoá và mở rộng nghĩa cho danh từ trong văn bản

bình luận báo in tiếng Việt là phƣơng thức rất hiệu quả, vừa tiết kiệm đƣợc ngôn

từ, vừa đảm bảo nguyên tắc đơn giản và dễ hiểu vốn là nguyên tắc của ngôn ngữ

báo chí nói chung.

Thế mạnh của định ngữ trong danh ngữ dùng trong ngôn ngữ bình luận báo in

tiếng Việt, ngoài việc mở rộng nghĩa của danh từ (chức năng tƣ tƣởng), còn có

thêm chức năng cấu tạo các biểu thức quy chiếu với mục đích thể hiện thái độ của

ngƣời viết (chức năng liên nhân) (sẽ đƣợc trình bày ở chƣơng 3).

2.1.5. Chu cảnh và chuyển tác chu cảnh trong văn bản bình luận báo in

tiếng Việt

2.1.5.1.

Trong ngữ pháp chức năng hệ thống, các thành phần diễn đạt các khía cạnh

khung cảnh nhƣ thời gian, địa điểm, phƣơng thức, đồng hành … đƣợc gọi chung

bằng một cái tên là chu cảnh. Nó là một trong những thành phần kinh nghiệm đƣợc

xác định trong ngữ pháp của câu. Chúng không nhất thiết là một thành phần cố hữu

trong một sự tình mà chỉ là những thành phần phụ kèm vào “cốt lõi” hay “chuyển

tác hạt nhân” của cú. Chức năng chính của chúng là tạo ra “hậu cảnh” hay “tình

huống” cho quá trình [96, tr.337] tức là chúng giải thích một cách khái quát quá

trình xảy ra ở đâu, nhƣ thế nào, khi nào, tại sao … Khu vực chuyển tác trong tiếng

Việt bao gồm một số sự lựa chọn đồng thời. Những sự lựa chọn này nhìn chung có

thể xuất hiện tự do trong tất cả các kiểu quá trình với ý nghĩa tƣơng tự ở bất cứ nơi

nào chúng xuất hiện [96, tr.149-150].

62

Chu cảnh chủ yếu là một trong ba thành phần kinh nghiệm trong cú và do đó

nó đƣợc phân loại theo tiêu chí ngữ nghĩa và ngữ pháp, tức là theo tiêu chí định

nghĩa và nhận diện (Halliday 1994, Bell 1991, Eggins 1994). Tác giả Hoàng Văn

Vân [96] đã vận dụng quan điểm này để nghiên cứu chuyển tác chu cảnh trong

tiếng Việt. Ông đã đƣa ra mô hình những sự lựa chọn chu cảnh ban đầu trong khu

vực chuyển tác chu cảnh trong tiếng Việt nhƣ sau:

Chu cảnh

Phạm vi Định vị Phong cách Nguyên nhân Đồng hành Vai diễn Vấn đề Quan điểm

(Mô hình Chuyển tác chu cảnh trong tiếng Việt: những sự lựa chọn ban đầu.

Nguồn Hoàng Văn Vân [96, tr.340])

Mạng lƣới hệ thống chỉ ra một tập hợp gồm 8 sự lựa chọn cho chu cảnh.

Trong phần này của luận án, chúng tôi kế thừa những thành quả nghiên cứu của

các tác giả đi trƣớc vào khảo sát hệ thống chuyển tác chu cảnh trong văn bản bình

luận.

2.1.5

báo in tiếng Việt

Một trong những biểu hiện của quá trình chuyển tác là chuyển tác chu cảnh.

Do đặc điểm của câu trong văn bản bình luận là câu có nhiều tầng bậc và ở dạng

câu phức, để có thể diễn đạt đƣợc những ý tƣởng khách quan về thông tin, nhiều

trƣờng hợp trong văn bản đã sử dụng một cách tối đa khả năng có thể thay đổi vị

trí của trạng ngữ trong câu. Cách thông thƣờng nhất là đƣa trạng ngữ lên vị trí đầu

câu và đƣợc ngăn cách bằng dấu phẩy. Ví dụ:

63

- Sáng 18-9, các điểm bỏ phiếu bầu cử Quốc hội Áp-ga-ni-xtan đã bắt đầu

mở cửa trong bối cảnh an ninh được đặt ở mức cao nhất (QĐND, 18/9/2010).

(trạng ngữ thời gian).

- Trong chuyến thăm Nhật Bản lần này, Thủ tướng M.Xinh đã cam kết với

Thủ tướng N.Can rằng, Niu Ðê-li sẽ cung cấp đều đặn nguồn đất hiếm cho Tô-ki-

ô.

( Thủ tƣớng M.Xinh đã cam kết với Thủ tƣớng N.Can rằng, Niu Ðê-li sẽ

cung cấp đều đặn nguồn đất hiếm cho Tô-ki-ô, trong chuyến thăm Nhật Bản lần

này) (trạng ngữ thời gian).

- Nhật Bản sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi hơn để phục hồi kinh tế, lấy lại vị thế

về kinh tế của mình khi bị đẩy xuống vị trí thứ ba trên thế giới, sau Trung Quốc.

Trong khi đó, Ấn Ðộ có được sự trợ giúp về tài chính và công nghệ của Nhật Bản

để tiếp tục phát triển kinh tế. (ND, 3/11/2010) (trạng ngữ thời gian).

- Ngoài vấn đề kinh tế, Nhật Bản và Ấn Ðộ cũng nhất trí đẩy mạnh các cuộc

đàm phán liên quan thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự, theo đó cho phép các

công ty Nhật Bản xuất khẩu các thiết bị và công nghệ điện hạt nhân sang Ấn Ðộ.

(ND, 3/11/2010) (trạng ngữ hạn định).

- Trong bối cảnh chịu áp lực nặng nề phải giải toả những căng thẳng

chung quanh chính sách tỉ giá hối đoái, thậm chí có ý kiến ngay trước thềm hội

nghị cho rằng một cuộc chiến tiền tệ đã xuất hiện, giữa đồng USD với nhân dân

tệ và các đồng nội tệ châu Á khác, các Bộ trưởng G20 đã thảo luận quyết liệt về

mối đe dọa các bên sử dụng đơn vị tiền tệ để áp dụng chính sách bảo hộ trá hình.

(ND, 27/10/2010) (trạng ngữ nguyên nhân).

Theo Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp: “việc sử dụng trạng ngữ

không chịu bất kì một sự hạn chế nào từ phía ngữ cảnh. Là thành phần phụ của câu

những có không ít trƣờng hợp lƣợng thông tin chủ yếu lại tập trung ở trạng ngữ”

[91].

Việc đƣa các trạng ngữ lên vị trí đầu câu đem lại rất nhiều lợi ích:

Trong nhiều trƣờng hợp, ngƣời đọc không quan tâm nhiều đến hành động

chính (vì đó là điều đƣơng nhiên hoặc dự đoán đƣợc) mà quan tâm đến việc hành

64

động đó diễn ra khi nào, ở đâu, nhƣ thế nào … Chính vì vậy, thông tin đƣợc đƣa

lên đầu câu có thể làm cho ngƣời đọc quan tâm hơn.

Trạng ngữ, theo trật tự thông thƣờng đứng sau bổ ngữ. Các câu phụ với chức

năng mở rộng nghĩa cho danh từ, có xu thế đứng càng gần danh từ thì nó bổ

nghĩa càng tốt. Vị trí sau danh từ có chức năng chủ ngữ, bổ ngữ trong câu là vị trí

không thể thay đổi đƣợc của các cú bị bao hay các cú chêm, xen … là phƣơng án

tối ƣu để mở rộng nghĩa của câu phức.

Một lí do khác là có thể tạo nên sự hồi hộp, thắc mắc … từ phía ngƣời đọc,

sau đó mới đƣa ra sự kiện chính nhƣ một lời lí giải cho những thắc mắc vừa nêu

ra trƣớc đó.

Việc đƣa trạng ngữ liên kết lên đầu câu là sự lựa chọn duy nhất, đặc biệt là

đối với các câu có cấu trúc phức tạp, để tránh nhầm lẫn hoặc hiểu sai từ phía độc

giả.

Ví dụ: Với vai trò nòng cốt trong giải quyết các vấn đề kinh tế lớn của thế

giới, G20 đang được kì vọng phối hợp được các nỗ lực chung của các quốc gia,

nhằm hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của vấn đề leo thang giá lương thực

đối với người dân, cũng như tăng trưởng kinh tế toàn cầu. (NDCT, 12/01/2011).

Trong ví dụ trên, trạng ngữ bắt buộc phải ở vị trí đầu câu vì nếu ở vị trí cuối

thì câu sẽ không có sự mạch lạc, do đó ngƣời đọc sẽ không hiểu đúng nghĩa mà tác

giả chuyển tải.

Theo chúng tôi, liên kết văn bản đƣợc coi là một mục tiêu quan trọng khi sử

dụng trạng ngữ ở đầu câu. Đó không chỉ là dấu hiệu liên kết về mặt hình thức mà

còn có sự liên kết về nội dung ý nghĩa tạo ra sự thống nhất về đề tài – chủ đề và

mạch lạc trong văn bản. Đứng ở đầu câu trạng ngữ dễ dàng là phần mang thông tin

đã đƣợc nói tới trong những câu đi trƣớc, do đó nó sẽ góp phần gắn kết câu chứa

nó với những câu đi trƣớc thành một ngôn bản thống nhất, mạch lạc.

Xét ví dụ sau:

Trong khi đó, khu vực châu Á - Thái Bình Dương với nhiều nền kinh tế phát

triển năng động có vai trò ngày càng quan trọng đối với an ninh và thịnh vượng

65

của Mỹ. Ðặc biệt, tại khu vực này, Trung Quốc đang trỗi dậy, ngày càng nắm vai

trò không thể thiếu trong nhiều vấn đề khu vực và toàn cầu. (ND, 18/11/2010)

Ví dụ trên cho thấy trạng ngữ “tại khu vực này” đƣợc đặt ở vị trí đầu câu là

hoàn toàn chính xác vì nó là thông tin đã biết (thông tin cũ chỉ khu vực châu Á –

Thái Bình Dương) từ câu đi trƣớc. Thông tin mới chính là: “Trung Quốc đang trỗi

dậy, ngày càng nắm vai trò không thể thiếu trong nhiều vấn đề khu vực và toàn

cầu”.

2.2. CÁC PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN CHỨC NĂNG TƢ TƢỞNG

LÔGÍC TRONG VĂN BẢN BÌNH LUẬN BÁO IN TIẾNG VIỆT

2.2.1. Các quan hệ đẳng kết

Các quan hệ đẳng kết trong ngôn ngữ bình luận báo in tiếng Việt bao gồm:

các thành phần đồng chức năng và trích dẫn trực tiếp.

2.2.1.1. Thành phần đồng chức năng

Với vai trò mở rộng nghĩa cho danh từ, các thành phần đồng chức năng

đƣợc sử dụng khá phổ biến trong ngôn ngữ bình luận. Và có các dạng sau:

a. Thành phần đồng chức năng là vị ngữ

Ví dụ: Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, mau lẹ, Trung

Quốc sẽ phối hợp với Nga đối phó với các thách thức; tăng cường toàn diện sự

hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hoá; đẩy mạnh hợp tác trong các vấn đề quốc

tế, đưa hợp tác đối tác chiến lược Trung - Nga lên một tầm cao mới, bảo vệ

quyền lợi chung của hai nước, góp phần củng cố hoà bình, ổn định tại khu vực

cũng như toàn thế giới. (NDCT, 01/12/2010)

b. Thành phần đồng chức năng là định ngữ cho danh từ

Theo tác giả Hoàng Trọng Phiến, định ngữ cho danh từ về thực chất là định tố

của nhóm danh từ làm chức năng chủ ngữ, bổ ngữ cho câu. Loại này, đa dạng về ý

nghĩa và phong phú về các phƣơng tiện biểu hiện.

Ví dụ: Trước đó, ông Pi-tra-ớt, người thay thế tướng Mắc Crai-xtan

(McChrystal) bị cách chức vì đã chỉ trích các thành viên chính quyền Ô-ba-ma,

66

đã nói rằng cuộc chiến kéo dài gần 9 năm qua ở Áp-ga-ni-xtan có thể sẽ trở nên

khó khăn hơn trước khi đạt được những tiến bộ quan trọng (QĐND, 3/7/2010).

c. Thành phần đồng chức năng bổ ngữ cho động từ

Ví dụ: Các quyền lợi chính đáng của người lao động Pháp đã được chính

quyền của Ðảng Xã hội ủng hộ và cải thiện, trong đó có quyết định giảm ngày

làm việc trong tháng và giảm giờ làm việc trong tuần mà người lao động

vẫn được nhận đủ lương và các quyền phúc lợi xã hội khác. (NDCT,

20/10/2010)

d. Thành phần đồng chức năng là trạng ngữ

Ví dụ: Trong vòng một năm qua, trong quan hệ Mỹ - Trung, căng thẳng

cũng gia tăng do va chạm lợi ích trên nhiều phương diện và vấn đề. (QĐND,

3/7/2010)

Ngoài mục đích tiết kiệm ngôn từ (kết quả của phép giản lƣợc), việc dùng

thành phần đồng chức năng còn góp phần tạo cảm giác thông tin đƣợc cung cấp

cho ngƣời đọc một cách dồn dập, với số lƣợng đủ để họ cảm thấy tin cậy, có sức

thuyết phục, đồng thời tạo nên nhịp điệu nhanh, hấp dẫn, lôi cuốn ngƣời đọc (đặc

tính của ngôn ngữ báo chí).

2.2.1.2. Trích dẫn trực tiếp

Trích dẫn là một phƣơng thức diễn đạt phổ biến trong mọi ngôn ngữ. Trong

ngôn ngữ báo chí, phƣơng thức này càng chứng tỏ tầm quan trọng của nó. Theo

Dƣơng Văn Quảng [78, tr.15], một bài báo thƣờng bao gồm cả hai thể loại phát

ngôn: phát ngôn do tác giả tự mình viết ra và lời nói hay bài viết của ngƣời khác

đƣợc trích dẫn nhằm phục vụ cho những mục đích, ý định riêng của ngƣời viết bài;

nhƣng “dù là thể loại bài báo nào, trích dẫn vẫn là loại hình đặc thù của hành văn

báo chí, có vai trò không nhỏ trong việc chuyển tải thông tin cũng nhƣ thuyết phục

ngƣời đọc”. “Trích dẫn là dùng những sản phẩm ngôn ngữ do sự sáng tạo của

ngƣời khác để góp phần tạo ra sản phẩm của mình, vì vậy, phần “vay mƣợn” chỉ có

chức năng “trang điểm” hay phụ họa cho những lí lẽ của tác giả. Trích dẫn phải là

kết quả của quá trình lựa chọn có chủ kiến (vì số lƣợng rất hạn chế) và đƣợc cân

67

nhắc một cách kĩ lƣỡng của ngƣời làm báo trong số rất nhiều hành văn có sẵn. Nói

cách khác, trích dẫn là một yếu tố thông tin vì khi đƣợc đặt vào một chu cảnh khác

thì đƣơng nhiên nó mang một ý nghĩa khác” và ý nghĩa đó phục vụ cho một mục

đích khác của ngƣời trích dẫn. Giống nhƣ các ngôn bản báo chí khác, trong bình

luận cũng có hai loại trích dẫn: trích dẫn trực tiếp (TDTT) và trích dẫn gián tiếp

(TDGT).

Halliday [114] khi nói về mối quan hệ giữa các câu trong một câu phức đã

đƣa ra khái niệm “phóng chiếu” (projection – mối quan hệ logic – ngữ nghĩa qua

đó một câu có chức năng nhƣ một sự thể hiện mang tính ngôn ngữ). TDTT và

TDGT là hai trong ba thể loại phóng chiếu. Trích nguyên và thông báo lại không

chỉ đơn thuần là các biến thể hình thức khác nhau, mà khác nhau về nghĩa. Sự khác

nhau giữa chúng phát sinh từ sự phân chia về mặt ngữ nghĩa nói chung giữa đẳng

kết và phụ thuộc, bởi nó đƣợc áp dụng vào một ngữ cảnh phóng chiếu cụ thể. Giữa

câu đƣợc TDTT (đƣợc phóng chiếu – projected) và nguồn trích dẫn (câu phóng

chiếu – projected clause) có mối quan hệ đẳng kết, còn đối với TDGT là quan hệ

phụ thuộc.

Việc TDTT là một quá trình phát ngôn và đặc biệt liên quan đến những ngữ

vực tƣờng thuật cụ thể. Hai phần trong một câu TDTT: câu phóng chiếu và câu

đƣợc phóng chiếu có vị thế nhƣ nhau. Về bản chất, nếu câu phóng chiếu là một quá

trình phát ngôn, thì câu bị phóng chiếu có ý nghĩa về mặt ngôn từ, có nghĩa là hiện

tƣợng mà nó giới thiệu là một hiện tƣợng từ vựng - ngữ pháp. Cấu trúc tổng thể là

một tập hợp đẳng kết, trong đó quan hệ logic – ngữ nghĩa là một trong những loại

phóng chiếu. Trong trích nguyên, yếu tố đƣợc phóng chiếu có vị thế độc lập, mang

tính cập nhật và phản ánh hiện thực khách quan hơn.

Trong khi đó, lời nói đƣợc thông báo lại (lời nói gián tiếp) là quá trình tinh

thần và có quan hệ phụ thuộc. Halliday [114, tr.256] cho rằng: trong câu TDTT

quan điểm trong câu bị phóng chiếu là quan điểm của ngƣời nói; còn quan điểm

trong câu bị phóng chiếu của câu gián tiếp đơn thuần là của ngƣời phát ngôn ra câu

phóng chiếu. TDTT đƣa ra một số biểu hiện về thức, nhƣng ở dạng mở đầu câu với

68

chức năng chuyển dịch trong sự trao đổi. Và ngƣời phát ngôn không đòi hỏi là phải

thƣờng xuyên xuất hiện bằng sự thể hiện của ngôn từ.

Harkider [117, tr.28] quan niệm rằng: Ngƣời đọc thà nghe những điều một ai

đó nói còn hơn là đọc những điều nhà báo kể lại về nội dung lời nói của nhân vật.

Điều này lí giải tại sao trong báo chí, TDTT đƣợc dùng phổ biến hơn. Ngƣời viết

chỉ thể hiện quan điểm của mình khi cần thiết do muốn ngƣời đọc tiếp xúc với

quan điểm của nhân vật nhằm đảm bảo nguyên tắc khách quan và thƣờng dùng lời

TDTT cho những mục đích sau:

Thêm độ minh xác cho các sự kiện của câu chuyện

Thêm độ hấp dẫn và quan trọng cho câu chuyện bằng lời nói chính xác của

nhân vật

Gây cho ngƣời đọc cảm giác về phong cách phát biểu của từng cá nhân.

Quá trình khảo sát ngôn ngữ bình luận cho thấy TDTT có thể thực hiện đƣợc

một số vấn đề nhƣ sau:

- Trên góc độ cú pháp, TDTT đƣợc coi nhƣ việc dùng những ý tƣởng của

ngƣời đi trƣớc, đồng hay trái quan điểm, để thể hiện những gì nhà báo muốn trình

bày (kinh nghiệm). Nhƣng từ góc độ ngữ nghĩa, bản thân những từ hoặc ngữ đƣợc

lựa chọn là một phần thông điệp của ngƣời viết gửi đến ngƣời đọc và có thể đƣợc

coi là sự thể hiện quan điểm, thái độ của ngƣời viết (chức năng liên nhân).

Ví dụ: ... Ông Rô-bớt Bu-sơ ở Bang Ô-hai-ô, trong thư gửi Quốc hội Mỹ ngày

17-7, viết rằng: “Thật là đạo đức giả khi chúng ta phán quyết Việt Nam, trong

khi chúng ta đang có hàng loạt vấn đề về nhân quyền, như người da đỏ, người

Mỹ gốc Phi... Chúng ta cần dọn dẹp ngôi nhà của mình trước đã” [128, tr.748].

Ở ví dụ trên, tác giả bài báo trích bức thƣ của một công dân Mỹ phản đối Hạ

viện Mỹ về cái gọi là “Luật nhân quyền Việt Nam năm 2004” (mang số hiệu

HR.1587) đầy tính chất phi đạo lí. Việc trích dẫn trực tiếp này thể hiện thái độ,

quan điểm của ngƣời viết đối với thông tin đƣợc cung cấp nhằm mục đích định

hƣớng suy nghĩ đối với ngƣời đọc (chức năng liên nhân).

- TDTT bổ sung những yếu tố chứa đựng thông tin và tạo ra màu sắc đặc

trƣng, tính cập nhật, xác thực, vì thế tạo nên điểm nhấn và sự nổi bật của nó.

69

Ví dụ: Trước đó, trong một bài viết đăng trên tờ Sueddeutsche Zeitung, ông

Pu-tin đưa ra ý tưởng thành lập khu vực mậu dịch chung Nga-EU, nhằm tạo ra

một thị trường châu lục thống nhất có khả năng thu về hàng nghìn tỉ ơ-rô. Ý tưởng

này của ông Pu-tin đã được một số chính khách Đức chào đón. Phó thủ tướng

kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Đức G.Ve-xtơ-ve-lơ (G.Westerwelle) hoan nghênh ý

tưởng này của ông Pu-tin. “Đề xuất của Thủ tướng Nga cho thấy về các mục tiêu

chiến lược chúng ta gần gũi nhau. Chúng tôi muốn mở rộng quan hệ đối tác

chiến lược với Nga ra nhiều lĩnh vực, kể cả các vấn đề kinh tế”, ông G.Ve-xtơ-

ve-lơ nói. (QĐND, 27/11/2010)

- TDTT giúp tạo nên phong cách riêng cho ngôn bản. Bình luận với sự thể

hiện quan điểm theo phong cách riêng biệt bao giờ cũng lôi cuốn hơn một giọng

văn chung chung. Cùng viết về một sự kiện nhƣng mỗi nhà báo lựa chọn các trích

dẫn khác nhau.

Trong ngôn ngữ bình luận, có 2 dạng TDTT: trích dẫn toàn bộ và trích dẫn bộ

phận:

a. Trích dẫn trực tiếp toàn bộ

Qua khảo sát, chúng tôi thấy về cơ bản, TDTT toàn bộ trong ngôn ngữ bình

luận báo in tiếng Việt thƣờng áp dụng cho những trƣờng hợp sau:

Trích nguyên một câu viết hay khẩu hiệu, ví dụ:

- Liên hợp quốc đã thừa nhận: “Các dân tộc có quyền tự do định đoạt thể chế

chính trị mà không bị can thiệp từ bên ngoài và theo đuổi sự phát triển kinh tế,

văn hoá phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc”. (ND, 8/2004)

- Cái hội tụ của Hà Nội đã được Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị nêu

lên cô đọng trong bài diễn văn khai mạc 10 ngày đại lễ: “Thăng Long - Hà Nội

là nơi hội tụ, chung đúc và lắng đọng các giá trị văn hoá cộng đồng các dân

tộc Việt Nam kết hợp với tiếp thu chọn lọc các giá trị văn hoá, văn minh nhân

loại”. (LĐ 6/10/2010)

Một phần cuộc phỏng vấn, một đoạn thoại ngắn hay những phát ngôn mang

phong cách khẩu ngữ cũng có thể đƣợc trích nguyên, vì nếu dùng TDGT không

70

tiết kiệm đƣợc ngôn từ, vừa không truyền đạt đƣợc nội dung chính thì TDTT là

cách duy nhất hợp lí; ví dụ:

- ... Bác sĩ Trần Văn Thành nói: “Tôi đã đến dự lễ khánh thành Trường tư thục

Trưng Vương cùng nhiều lãnh đạo cao nhất của địa phương. Nói xã hội hoá

giáo dục, y tế đã từ lâu rồi, nhưng biến nó thành hiện thực thì không dễ. Tôi

nghĩ, ngành y tế cũng phải mau chóng có một bệnh viện tư quy mô lớn thế

này; bằng cách đó sẽ tạo ra sự cạnh tranh trong dịch vụ, phục vụ con người,

khi đó những nhân viên y tế công không trau dồi y đức, tay nghề thì sớm muộn

cũng tự đào thải...”. (LĐ, 19/7/2010)

- ... Cách đây không lâu, trả lời phỏng vấn báo chí, một quan chức của Bộ Giáo

dục – Đào tạo lí giải việc năm nay học sinh đỗ tốt nghiệp THPT tăng đột biến,

trong đó có nguyên nhân (nguyên nhân thứ tư): “Sở dĩ năm nay đỗ cao, một

phần là do các em lập thành tích chào mừng đại lễ một ngàn năm Thăng Long

– Hà Nội”. (LĐ, 6/7/2010)

b. Trích dẫn bộ phận

Để tạo nên những tiêu điểm thông tin một cách tiết kiệm và có chủ ý, trong

một số trƣờng hợp tác giả không có sự lựa chọn nào khác ngoài trích dẫn bộ phận,

nhƣ:

Những thuật ngữ chuyên ngành chỉ có thể đƣợc hiểu khi dùng chính xác trong các

trƣờng hợp cụ thể và thƣờng đƣợc trích nguyên nhằm đem đến cho ngƣời đọc

một khái niệm chính xác, đáng tin cậy dù ngƣời đọc có biết rõ chủ đề của văn bản

hay không. Những giải thích cho từ ngữ đƣợc trích dẫn, nếu có, chỉ có vai trò bổ

sung, chứ không thể thay thế đƣợc thao tác trích dẫn.

Ví dụ: Thành công lớn nhất của Gô-va-đi-a là một trong những người “quan

trọng” trong quá trình chế tạo ra loại máy bay ném bom B-2 Spirit có khả năng

bay dưới tầm kiểm soát của sóng ra-đa. Gô-va-đi-a cũng được coi là “cha đẻ của

công nghệ bảo vệ B-2 Spirit khỏi các tên lửa tìm kiếm nhờ vào nhiệt tỏa ra từ

bức xạ điện từ” (QĐND 13/8/2010).

Những từ ngữ nhƣ tên riêng, tiếng lóng, phƣơng ngữ, tiếng bồi, tiếng pha trộn, tên

gọi của những nhân vật chỉ có ở một địa phƣơng nhất định, tiếng nƣớc ngoài

71

không có trong từ tƣơng đƣơng hoặc từ đƣợc dịch không truyền đạt đúng đƣợc ý

của ngƣời nói… cũng là những mục tiêu của sự trích dẫn (thƣờng kèm với sự giải

thích). Đó là cách làm vừa tiết kiệm ngôn từ vừa đem lại hiệu quả mà không có

cách miêu tả nào thay thế đƣợc.

Ví dụ: Khi nhiều bộ trưởng châu Âu chỉ trích bài diễn văn của Busơ về “trục

ma quỷ” bao gồm Iran, Irắc, CHDCND Triều Tiên, các nước châu Âu liền bị

Oasinhtơn tuyên bố: “Điều châu Âu suy nghĩ không làm ai phải bận tâm” [130].

Các từ hoặc ngữ thƣờng dùng bởi những ngƣời nổi tiếng có thể đƣợc trích dẫn để

thể hiện thái độ của tác giả đối với nhân vật đƣợc nhắc đến.

Ví dụ: Khi Mỹ xé bỏ Hiệp ước ABM để thiết lập hệ thống phòng thủ tên lửa

quốc gia (MND), cố vấn của Lầu Năm Góc R.Pilơ đã từng nói toạc ra rằng: “Nếu

có một hiệp ước, hay có một hiệp định quốc tế nào đó gây vướng víu hay ngăn

trở nước Mỹ thực hiện những ý định của mình thì chúng tôi không cần biết tới

nó” [130].

Trích dẫn bộ phận là một cách thức rất có hiệu quả nếu các từ và ngữ đƣợc

trích dẫn đáp ứng đƣợc những điều kiện sau:

Đủ ngắn để chúng có thể đƣợc nhận biết chỉ với tƣ cách nhƣ một thành phần câu.

Phải ăn khớp, “chắp dính” một cách phù hợp, lôgic với các thành phần khác của

câu xuất hiện trƣớc và sau chúng ở mọi bình diện: từ vựng, ngữ pháp và ngữ

nghĩa.

Ví dụ: Và trong vòng hai thế kỉ qua, đế quốc Anh với lãnh thổ rộng lớn đến

nỗi “không bao giờ thấy Mặt Trời lặn” cũng không hành xử khác thế [130].

Phải đƣợc chọn lọc kĩ để có thể làm vừa lòng ngƣời đọc, bởi vì ngƣời đọc chỉ

chấp nhận giải pháp này nếu phần đƣợc trích dẫn không thể thay thế bằng một

cách giải thích khác. Nói cách khác, chúng phải nổi bật và giúp làm cho câu văn

trở nên ấn tƣợng hơn.

Khi chọn một từ hay ngữ đƣợc dùng ở một ngữ cảnh này để đƣa vào một ngữ

cảnh khác, các trích dẫn bộ phận trong cùng một câu có thể xuất phát từ nhiều

nguồn khác nhau. Do đó, từ và ngữ đƣợc trích dẫn phải đơn giản, không quá lạ

hoặc quá mới để ngƣời đọc có thể suy đoán đƣợc thông qua kiến thức nền và

72

những trải nghiệm của bản thân một cách không khó khăn lắm. Điều đó đòi hỏi

cả ngƣời viết và ngƣời đọc phải có kiến thức nền tƣơng đối tốt, đủ để hiểu những

hiển ngôn và hàm ngôn ngƣời viết tạo ra. Chính những hàm ngôn đó là nhân tố

tạo nên phong cách riêng cho từng tác giả và quyết định việc câu văn có gây ấn

tƣợng tốt đối với ngƣời đọc hay không.

Ví dụ: Ông Uy-liêm Ke-li, một cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam, người cùng

bang Niu Giơ-xi, đã viết thư trực tiếp phê phán Hạ nghị sĩ C. Xmít và kể lại

những điều mắt thấy tai nghe ở Việt Nam: “Bảy năm qua, năm nào tôi cũng trở

lại sống ở Việt Nam vài tháng. Tôi vô cùng bối rối và khó xử khi hằng năm người

ta lại mưu toan “trừng phạt” Việt Nam về cái gọi là “đàn áp nhân quyền”. Đi

khắp Việt Nam, tôi có thể nói rằng, Chính phủ Việt Nam không hề ngăn cản niềm

tin tôn giáo... Chưa bao giờ tôi nghe thấy người dân Việt Nam phàn nàn về vấn

đề tôn giáo. Mọi cá nhân có quyền theo tôn giáo mà họ mộ, và họ có thể thực

hiện lễ nghi tôn giáo ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào” [128, tr.747-748].

TDTT bộ phận, nếu đƣợc sử dụng một cách lôgíc, có tính nghệ thuật sẽ đem

lại hiệu quả vƣợt xa bất kì sự miêu tả hay tƣờng thuật nào, bởi lẽ nó đáp ứng

đƣợc đặc điểm của ngôn ngữ bình luận. Đây không chỉ là đặc trƣng mang tính

luận chứng của ngôn bản bình luận mà còn liên quan đến chiến lƣợc giao tiếp.

Ngoài những lợi ích trên, còn thấy việc sử dụng trích dẫn trực tiếp còn tránh

cho câu văn dài, rƣờm rà đồng thời tạo tính chính xác cao cho văn bản. Đây cũng

là điều kiện để thực hiện nội dung một cách chính xác hơn.

2.2.2. Các quan hệ phụ thuộc

Trong ngôn bản bình luận tiếng Việt, các quan hệ phụ thuộc biểu thị chức

năng tƣ tƣởng lôgíc bao gồm các cú bị bao trong vai trò phần cuối danh ngữ và lời

trích dẫn gián tiếp.

2.2.2.1. Cú bị bao

Cú bị bao có vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng nghĩa cho danh từ. Nếu

cùng xuất hiện với phần cuối của danh ngữ, cú bị bao thƣờng có vị trí sau cùng so

với động ngữ, danh ngữ và trạng ngữ. Bản thân cú bị bao cũng có thể có những

thành tố đƣợc mở rộng nghĩa theo các phƣơng thức khác nhau. Ví dụ:

73

Một vấn đề rất đáng lưu tâm tại buổi thảo luận về báo cáo quyết toán ngân

sách của Chính phủ năm 2007 của Quốc hội, đó là ngân sách dành cho khoa học,

giáo dục không được quan tâm. (LĐ, 29/5/2009)

2.2.2.2. Lời trích dẫn gián tiếp

TDGT thƣờng đƣợc dùng để tóm tắt những lời phát biểu dài và đƣợc dùng

nhƣ một sự chuyển tiếp từ chuỗi sự kiện này sang những sự kiện tiếp theo hoặc nối

hai phần TDTT. Đây cũng là phƣơng pháp hợp lí hơn để truyền đạt lại ý nghĩ.

Có thể nhận thấy một đặc điểm tƣơng đối nổi bật trong văn bản các bài bình

luận chính trị là sự hiện diện của lời TDGT. Lời TDGT đƣợc sử dụng tƣơng đối

nhiều so với các văn bản tin. Lí do là ngƣời viết muốn làm cho lời bình luận của

mình có thêm tính khách quan; trong khi ở các bản tin, ngƣời viết muốn tƣờng

thuật lại tin hơn là làm sống lại tin đó. Sau đây là những ví dụ về lời TDGT trong

bình luận.

Ví dụ: Theo các nhà phân tích, những làn sóng biểu tình dâng cao kéo theo

bạo loạn ở các nước Trung Ðông và Bắc Phi, lại càng có nguy cơ đẩy giá lương

thực tăng cao. (NDCT, 16/3/2011)

Ví dụ: Nhiều nhà phân tích cho rằng, ngay từ những năm 1990 của thế kỉ

trước, Nhật Bản đã là bạn hàng xuất khẩu lớn thứ hai của Ấn Ðộ và là một trong

những nhà đầu tư lớn nhất vào quốc gia Nam Á này. (ND 3/10/2010).

Ví dụ: Oa-sinh-tơn dường như coi nhẹ lời cảnh báo mới nhất của phía triều

Tiên và tuyên bố không dính vào một cuộc khẩu chiến... (QĐND, 25/7/2010).

Có thể nhận ra tính chất gián tiếp hay “báo cáo lại” qua các động từ: tuyên bố,

theo, cho ...

Một phƣơng pháp rất hiệu quả trong TDGT là dùng giới ngữ “theo…” để thể

hiện hiện chu cảnh (quan điểm) theo lí luận của chuyển tác. Khi áp dụng phƣơng

pháp này, ngƣời viết không cần phải lo cho việc chọn động từ dẫn, nhƣng đồng

thời cũng không có cơ hội thể hiện quan điểm của mình.

Ví dụ: Theo tạp chí Nhà kinh tế (Anh), Nga hiện mong muốn giảm thêm nữa

số vũ khí hạt nhân do tình trạng xuống cấp của nhiều đầu đạn. (ND, 28/5/2009)

74

Ví dụ: Theo Thứ trưởng Ngoại giao Nga Yakovenko, những nước này chưa

sẵn sàng có câu trả lời chính xác cho những thách thức của thời đại, như là yêu

cầu bảo đảm quyền lợi và quyền của hàng triệu công dân nguồn gốc xuất thân từ

châu Phi và châu Á, nhưng đã tạo thành những cộng đồng bền vững tại châu Âu.

(ND, 29/4/2009)

a. Các tiêu đề bài báo có phần trích dẫn

Về cấu trúc hình thức, tiêu đề bài báo, với tƣ cách là một phần tồn tại tƣơng

đối độc lập ngoài tác phẩm, có những quy tắc cú pháp riêng của nó. Các tiêu đề có

dạng câu trích dẫn thƣờng chủ yếu là ở dạng TDGT tóm tắt ý chính của một phát

ngôn dài.

Theo kết quả khảo sát, khoảng 55% tiêu đề bình luận báo in tiếng Việt là ở

dạng câu hoàn chỉnh và chỉ khoảng 2,5% trong số đó chứa lời TDTT. Những

TDTT xuất hiện trong tiêu đề thƣờng tƣơng đối ngắn (không quá 10 âm tiết).

Những câu này thƣờng có ý nghĩa trọn vẹn, đầy đủ và quan trọng nhất là phải ngắn

gọn, súc tích, giúp ngƣời đọc hiểu chính xác nghĩa của câu hay đúng hơn là thông

điệp của ngôn bản đƣợc thể hiện thông qua tiêu đề. Việc TDTT các phát ngôn quan

trọng đem đến cho ngƣời đọc cảm giác tin cậy và thƣờng chỉ đƣợc dùng khi đó là

phƣơng án tối ƣu; ví dụ:

- Tội ác ở “địa ngục trần gian” S21 (QĐND, 29/7/2010)

- “Cuộc khủng hoảng con kênh” (QĐND, 20/11/2010)

Các tiêu đề có sức hấp dẫn đối với ngƣời đọc này sẽ trở nên buồn tẻ, dài dòng

và có vẻ ngớ ngẩn nếu nhƣ bị thay bằng một câu gián tiếp có nội dung tƣơng

đƣơng:

- Tội ác ở Tuôn Xleng (S21), nơi Cang Kếch Yêu (tức Duch), trùm cai ngục

của chế độ Khơ-me Đỏ, cùng các thuộc hạ của hắn gây biết bao tội ác man rợ ...

- Quan hệ giữa Cô-xta Ri-ca và Ni-ca-ra-goa đang rơi vào một cuộc khủng

hoảng nghiêm trọng khi Cô-xta Ri-ca xây dựng một con kênh trên đường biên giới

tự nhiên giữa hai quốc gia.

b. Động từ dẫn

75

Cả TDTT và TDGT, cũng nhƣ các dữ kiện trong ngôn bản đều cần phải chỉ ra

nguồn gốc xuất xứ ngoại trừ các sự kiện đã rõ ràng, hay đƣợc nhắc đến trƣớc đó.

Thƣờng xuất xứ đƣợc đặt ở vị trí sau lời trích hay sự kiện, nhƣng ở những chuỗi

câu trích dài có 3 vị trí dành cho từ chỉ xuất xứ: sau câu trích dẫn đầy đủ, sau sự

kiện đầu tiên hoặc đƣợc lồng vào giữa câu. Dựa trên cấu trúc, nhóm từ dẫn (từ

thông báo) có thể đƣợc chia thành: từ dẫn là một động từ, từ dẫn là một ngữ (động

ngữ, hoặc giới ngữ) hoặc từ dẫn là một câu.

(i) Các động từ dẫn có cấu trúc đơn

Dựa vào thể loại thông tin đƣợc truyền đạt có thể chia các động từ dẫn (ĐTD)

trong bình luận báo in tiếng Việt thành 3 nhóm: các động từ đặc thù cho tuyên bố

(câu trần thuật): nói, nhận xét, nhận thức, chỉ ra, báo cáo, tuyên bố; nhóm đặc thù

cho câu hỏi: hỏi, tự hỏi, muốn biết; và nhóm đặc thù cho câu đề nghị: đề nghị, mời,

ra lệnh, thỉnh cầu, bảo, đề xuất, ...

Nhóm ĐTD xuất xứ câu trần thuật là đa dạng nhất, tiêu biểu là các động từ:

bình luận, phản đối, cảnh báo, giải thích, tiết lộ, tuyên bố v.v.. Các động từ mà

nghĩa của chúng là sự kết hợp động từ “nói” với yếu tố mang tính chất chu cảnh

gồm: tiếp tục, trịnh trọng tuyên bố, đồng ý, tranh luận, trong bình luận tiếng Việt

khá phong phú, bao gồm: dự đoán, phân tích, bày tỏ, bình luận, tuyên bố ...

Ví dụ: Ngay sau khi thắng cử, ông Y-a-nu-cô-vích tuyên bố muốn hợp tác lại

với Nga vì lợi ích dài lâu. (QĐND, 25/2/2010)

ĐTD thể hiện ý nghĩ trong TDGT trong bình luận đƣợc sử dụng với tần suất

lớn đó là các động từ: nghĩ, cho (rằng), cho biết, cho thấy, được biết ...

Ví dụ: ... Các nghị sĩ Cộng hoà lí sự, rằng khoản ngân sách khổng lồ dành

cho y tế sẽ mang lại những khoản nợ “từ trên trời rơi xuống” đi kèm với mức thuế

cao và những trọng trách mới. (QĐND, 11/11/2009)

Đặc biệt, trong bình luận báo in tiếng Việt có những câu đƣợc trích dẫn mà

không hề có ĐTD. Có thể coi đây là trƣờng hợp ĐTD dẫn bị giản lƣợc. Ví dụ:

“Các ông hứa sẽ có đường sá, trường học, bưu điện. Nhưng khi các ông tới

chỉ có súng và bom”. Lời nói này của một người dân tỉnh Hen-man có lẽ đúng với

phần lớn người dân ở Áp-ga-ni-tan ...(QĐND, 24/1/2010).

76

(ii) Các ngữ (tiểu cú) có chức năng của động từ dẫn

- Động ngữ có chức năng của động từ dẫn:

Ví dụ: Trong một báo cáo khẩn gửi Lầu Năm Góc mới đây, tướng Xtan-li

Mắc Crai-xtan, Tư lệnh lực lượng Mỹ và NATO tại Áp-ga-ni-xtan, đã cảnh báo

rằng Oa-sinh-tơn có thể thua tại Áp-ga-ni-xtan nếu không thay đổi chiến lược và

không có thêm sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn trong vòng 12 tháng tới. (QĐND,

8/10/2009)

Lời TDGT trên là sự thể hiện ý nghĩ của ông Xtan-li Mắc Crai-xtan (Tƣ lệnh

lực lƣợng Mỹ và NATO tại Áp-ga-ni-xtan), nó đƣợc xuất hiện bắt đầu bằng ngữ

động từ: cảnh báo rằng.

Ví dụ: Dù sắc màu da cam đã nhạt phai, nhưng không thể không nhận thấy

rằng, những ám ảnh của cách mạng cam vẫn lởn vởn trên chính trường đầy phức

tạp của đất nước này. (QĐND, 7/2/2010)

Trong ví dụ này, lời TDGT đƣợc bắt đầu bằng ngữ động từ có hình thức phủ

định của phủ định (khẳng định): nhưng không thể không nhận thấy rằng.

- Giới ngữ có chức năng của động từ dẫn:

Ví dụ: Theo Tổng thống Nga Đmi-tơ-ri Mét-vê-đép, Nga và NATO nhất trí

khởi sự nghiên cứu khả năng phối hợp các hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia

của nhau. (QĐND, 22/11/2010)

(iii) Câu có chức năng của động từ dẫn:

Ví dụ: ... Song không chỉ người dân Áp-ga-ni-xtan chịu đựng mất mát. Nhiều

bà mẹ Anh cũng đang ngày đêm bị giày vò bởi nỗi đau mất con. “Đêm đêm tôi tỉnh

giấc, dường như có một bức tường ngay trước mắt tôi. Cả cuộc đời này tôi không

thể vượt qua bức tường đó”, mẹ của Chrít, một quân nhân Anh 18 tuổi tử trận ở

Áp-ga-ni-xtan nhỏ lệ. (QĐND, 23/1/2010)

Xét về vị trí, các từ và ngữ dẫn có thể đứng trƣớc hoặc sau câu trích. Ví dụ:

- ... Chính cựu Tổng thống V. Y-u-sen-cô đã phải thừa nhận: “Không một

quốc gia châu Âu nào lại suy thoái dữ dội như U-crai-na”. (QĐND, 25/2/2010)

- ... Ông Xan-tốt cũng cho biết cuộc gặp giữa hai tổng thống diễn ra thân

mật, chân thành và thẳng thắn. “Bất kì cáo buộc nào trong quá khứ không ảnh

77

hưởng tới quan hệ giữa Vê-nê-xu-ê-la và Cô-lôm-bi-a khi Cô-lôm-bi-a có tổng

thống mới”, Tổng thống Xan-tốt nói. (QĐND, 12/8/2010)

Đôi khi có trƣờng hợp một câu lại là động từ dẫn đồng thời cho cả câu trích

đứng trƣớc và cả câu trích đứng sau, ví dụ:

“Các anh đang chiến đấu cho ai? Chính phủ? Hay đất nước?” Đan, trung sĩ

Quân đội Hoàng gia Anh trả lời câu hỏi phỏng vấn trong thước phim được quay

tại thị trấn Nao Dát, tỉnh He-man, Áp-ga-ni-xtan: “Cho sinh tồn của chúng tôi!”.

(QĐND, 24/1/2010)

Trên thực tế, các động từ dẫn đƣợc dùng kết hợp với nhau, nhằm giải thích,

bổ sung cho nhau hoặc làm tăng độ chính xác trong biểu cảm, đồng thời hƣớng

ngƣời đọc đến một ý tƣởng mà ngƣời viết muốn đạt đƣợc. Nội dung của bình luận

không chỉ đơn thuần là đƣa tin, do vậy, việc dùng động từ và ngữ dẫn trong văn

bản cũng nằm trong phạm vi của chiến lƣợc giao tiếp.

Ví dụ: ... Nói đến hệ thống y tế của Mỹ, không ít người phải lắc đầu. Ông Ô-

ba-ma đã từng “chua xót” khi nói rằng, Mỹ là quốc gia phát triển duy nhất để

cho hàng triệu công dân của mình lâm vào tình trạng không được chăm sóc y tế.

(QĐND, 11/11/2009).

Ngƣời đọc sẽ cảm nhận đƣợc tâm trạng của nhân vật và thái độ của ngƣời

viết qua từ “chua xót”. Nếu từ “chua xót” đƣợc bỏ đi hoặc thay bằng một từ khác

(buồn bã chẳng hạn) thì nghĩa của câu sẽ thay đổi.

2.2.3. Lập luận trong bài bình luận báo in tiếng Việt

2.2.3.1. Sơ bộ về lập luận

Tác giả Nguyễn Đức Dân cho rằng: “Lập là một hoạt động ngôn từ. Bằng

công cụ ngôn ngữ, ngƣời nói đƣa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt ngƣời nghe đến một

hệ thống xác tín nào đó: rút ra một (/ một số) kết luận hay chấp nhận một (/ một số)

kết luận nào đó” [22, tr.165].

Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Lập luận là đƣa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt

ngƣời nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà ngƣời nói

muốn đạt tới” [17, tr.155].

78

Nhƣ vậy, hầu hết các nhà ngôn ngữ đều thống nhất rằng: Lập luận là đưa ra

những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận nào đấy mà người nói muốn

đạt tới.

Có thể biểu diễn quan hệ lập luận giữa nội dung các phát ngôn nhƣ sau:

p r

p là lí lẽ, r là kết luận (p, r có thể đƣợc diễn đạt bằng các phát ngôn u1, u2

v.v…)

Trong quan hệ lập luận, lí lẽ đƣợc gọi là luận cứ. Vậy có thể nói quan hệ lập

luận là quan hệ giữa luận cứ (một hoặc một số) với kết luận.

Luận cứ có thể là thông tin miêu tả hay một định luật, một nguyên lí xử thế

nào đấy.

Luận cứ và kết luận là những thành phần trong lập luận. Thuật ngữ lập luận

đƣợc hiểu theo 2 nghĩa: Thứ nhất, nó chỉ sự lập luận, tức hành vi lập luận. Thứ hai,

nó chỉ sản phẩm của hành vi lập luận, tức toàn bộ cấu trúc của lập luận, cả về nội

dung, cả về hình thức. Thuật ngữ quan hệ lập luận dùng để chỉ quan hệ giữa các

thành phần của một lập luận với nhau. Có quan hệ lập luận giữa luận cứ với luận

cứ và có quan hệ lập luận giữa luận cứ và kết luận. Lại có quan hệ lập luận giữa

hai hay nhiều lập luận với nhau trong một phát ngôn, hay trong một diễn ngôn.

2.2.3.2. Các dạng lập luận trong văn bản bình luận báo in tiếng Việt

Do

việc đƣa ra một kết luận nào đó

và dùng lí lẽ (luận cứ) để chứng minh cho kết luận đƣa ra là việc làm vô cùng quan

trọng.

Khảo sát các văn bản bình luận, chúng tôi thấy có các dạng lập luận sau:

đơn giản

Lập luận đơn giản là lập luận chỉ có một kết luận, các thành phần còn lại đều

là luận cứ. Lập luận đơn giản thƣờng xuất hiện giữa các câu đứng gần nhau trong

một đoạn văn, hoặc giữa các đoạn văn đứng gần nhau. Sau đây là các ví dụ.

Ví dụ a1: “… Nhưng chắc chắn rằng, không ai có thể giải quyết vấn đề nhân

quyền ở Mỹ tốt hơn chính phủ và nhân dân Mỹ (1); Không ai có thể giải quyết vấn

79

đề nhân quyền ở Việt Nam tốt hơn chính phủ và nhân dân Việt Nam (2). Vậy thì,

nếu như ông C. Xmít có nhiệt huyết quan tâm đến vấn đề nhân quyền, thì trước hết

hãy góp sức cùng Chính phủ và nhân dân Mỹ lo liệu vấn đề nhân quyền ở Mỹ; hãy

để cho Chính phủ và nhân dân Việt Nam được yên ổn mà lo liệu vấn đề nhân

quyền ở Việt Nam”(3).

(Trích bài bình luận “Một đạo luật phi lí” [128, tr.749])

Trong ví dụ a1, mối quan hệ giữa (1), (2) và (3) là mối quan hệ lập luận. Theo

đó, (1) và (2) là các luận cứ, còn (3) là kết luận. Có thể trình bày mô hình lập luận

này nhƣ sau:

Kết luận: Chính phủ và nhân dân Mỹ lo liệu vấn đề nhân quyền ở Mỹ; Chính phủ và nhân dân Việt Nam lo liệu vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.

Luận cứ 1: (Chắc chắn rằng) Không ai có thể giải quyết vấn đề nhân quyền ở Mỹ tốt hơn chính phủ và nhân dân Mỹ. Luận cứ 2: (Chắc chắn rằng) Không ai có thể giải quyết vấn đề nhân quyền ở Việt Nam tốt hơn chính phủ và nhân dân Việt Nam.

Ví dụ a2: Chính những phát ngôn của Bộ Tư pháp Mỹ - nơi vốn tự hào có hệ

thống pháp luật phát triển nhất thế giới - mới là kì dị (1). Kì dị ở chỗ, trong khi

cho rằng vụ kiện đã “hết thời hiệu”, họ cố tình quên nỗi đau vẫn đang hiện hữu

của 4,8 triệu người Việt Nam phơi nhiễm dioxin, những gia đình Việt Nam vẫn đau

khổ tột cùng, những người phụ nữ đánh mất khả năng làm mẹ, những đứa trẻ

không bao giờ được đến trường (2)… Và nữa, những hậu quả do chất độc này mà

những người lính Mỹ và con cái, cháu chắt họ đang phải chịu đựng (3). Nỗi đau

vẫn đang hàng ngày diễn ra, và chắc chắn sẽ còn kéo dài nhiều thập kỉ nữa (4).

Vậy tại sao có thể gọi là “hết thời hiệu” ? (5) (LĐ, 28/02/2005).

Đoạn văn trên làm thành một lập luận đơn giản. Câu (1) của đoạn chính là cái

kết luận mà tác giả đƣa ra, nhằm khẳng định: Những phát ngôn của Bộ Tư pháp

Mỹ là kì dị. Và tác giả dùng những lí lẽ (chính là các luận cứ {từ câu (2) đến câu

(5)} để chứng minh cho sự kì dị của Bộ Tƣ pháp Mỹ. Lập luận này có hình thức

nhƣ sau:

80

Kết luận Những phát ngôn của Bộ Tƣ pháp Mỹ là kì dị

Luận cứ 1: Kì dị ở chỗ, trong khi cho rằng vụ kiện đã “hết thời hiệu”, họ cố tình quên nỗi đau vẫn đang hiện hữu của 4,8 triệu ngƣời Việt Nam phơi nhiễm dioxin, những gia đình Việt Nam vẫn đau khổ tột cùng, những ngƣời phụ nữ đánh mất khả năng làm mẹ, những đứa trẻ không bao giờ đƣợc đến trƣờng … Luận cứ 2: Và nữa, những hậu quả do chất độc này mà những ngƣời lính Mỹ và con cái, cháu chắt họ đang phải chịu đựng. Luận cứ 3: Nỗi đau vẫn đang hàng ngày diễn ra, và chắc chắn sẽ còn kéo dài nhiều thập kỉ nữa. Luận cứ 4: Vậy tại sao có thể gọi là “hết thời hiệu” ?

Giữa các luận cứ của lập luận trên còn tạo ra một lập luận mới, trong đó luận

cứ 4 chuyển thành kết luận của lập luận (mới), đây là một kết luận ngầm ẩn: vụ

kiện vẫn còn “thời hiệu”. Lập luận mới có dạng sau nhƣ sau:

Kết luận

Vụ kiện

vẫn còn

thời hiệu

Luận cứ 1: Nỗi đau vẫn đang hiện hữu của 4,8 triệu ngƣời Việt Nam phơi nhiễm dioxin, những gia đình Việt Nam vẫn đau khổ tột cùng, những ngƣời phụ nữ đánh mất khả năng làm mẹ, những đứa trẻ không bao giờ đƣợc đến trƣờng … Luận cứ 2: Những ngƣời lính Mỹ và con cái, cháu chắt họ đang phải chịu đựng những hậu quả do chất độc (dioxin) gây ra. Luận cứ 3: Nỗi đau vẫn đang hàng ngày diễn ra, và chắc chắn sẽ còn kéo dài nhiều thập kỉ nữa.

b. Lập luận phức hợp

Lập luận phức hợp là lập luận có nhiều kết luận bộ phận dẫn đến một kết luận

chung, tổng thể. Tƣ tƣởng chủ đề của toàn bộ diễn ngôn có thể xem là R và tƣ

tƣởng chủ đề của từng đoạn hợp thành diễn ngôn là những r. Mỗi đoạn là một lập

luận bộ phận, tất cả hợp lại lập luận lớn chung cho toàn bộ diễn ngôn. Có thể xem

các câu chủ đề (tƣờng minh hay hàm ẩn) của từng đoạn của diễn ngôn là những r

mà các ý trình bày trong đoạn phải dẫn tới. Trong một diễn ngôn, không phải tất cả

các kết luận bộ phận r (tức lập luận bộ phận) đều đồng hƣớng dẫn tới R. Để cho

diễn ngôn có sức thuyết phục, đôi khi ngƣời nói, ngƣời viết phải đƣa ra các phản

lập luận để rồi bác bỏ phản lập luận đó. Sau đây một là ví dụ về lập luận phức hợp

trong văn bản bình luận báo in tiếng Việt.

81

Tháng 5 năm 2009, Uỷ ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ có một quyết định thông

qua điều luật bổ sung của Dự luật H.R. 2410, khuyến cáo Bộ Ngoại giao Mỹ đƣa

Việt Nam trở lại danh sách các nƣớc đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo (CPC).

Điều luật này do Hạ nghị sĩ Ét Roi-xơ khởi xƣớng và Hạ nghị sĩ Giô-xép Cao

Quang Ánh đồng bảo trợ. Với động cơ xấu, họ cố tình dựng lên những điều bịa đặt

về thực tế ở Việt Nam. Trƣớc tình hình đó, tác giả Bảo Trung đã viết bài bình luận

Quyết định sai lầm từ động cơ xấu đăng trên báo QĐND ngày 1/6/2009. Tác giả đã

dùng những lí lẽ xác đáng để chứng minh rằng Nhà nƣớc Việt Nam luôn bảo đảm

đời sống tín ngƣỡng, tôn giáo cho ngƣời dân trong các văn bản pháp lí cũng nhƣ

trên thực tế. Rằng, Điều luật bổ sung này là sai trái và thiếu khách quan, nó đi

ngƣợc lại xu thế phát triển của quan hệ Việt – Mỹ. Dƣới đây là toàn bộ nội dung

bài bình luận:

Quyết định sai lầm từ động cơ xấu

Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ vừa có quyết định thiếu khách quan khi thông qua điều luật bổ sung của Dự luật H.R. 2410, khuyến cáo Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách các nước đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo (CPC) (1).

Điều luật bổ sung của Dự luật H.R. 2410 do Hạ nghị sĩ Ét Roi-xơ khởi xướng và Hạ nghị sĩ Giô-xép Cao Quang Ánh đồng bảo trợ. Với lời quảng cáo “giúp Việt Nam cải thiện tự do tôn giáo”, hai nghị sĩ trên khẳng định “tự do tôn giáo tại Việt Nam đang bị quấy nhiễu, nhiều người bị cầm tù vì niềm tin tôn giáo”. Nhưng chỉ cần xem kĩ vài lập luận của các nghị sĩ này là có thể thấy rằng, họ cố tình dựng lên những điều bịa đặt về thực tế ở Việt Nam (2).

Người dân Việt Nam tự do, thoải mái đi lễ chùa. Ảnh minh họa Cũng như nhiều nước trên thế giới, mỗi dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam có những tín ngưỡng, tôn giáo gắn liền với đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội. Nhiều tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, trong quá trình du nhập vào Việt Nam, đã hòa nhập với các tín ngưỡng bản địa để cùng phát triển hoặc tạo nên những tôn giáo nội sinh mang đậm sắc thái Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa... Ngay từ Hiến pháp đầu

82

tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam ngày nay đều luôn khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong các quyền cơ bản của con người (3).

Không chỉ có trong văn bản pháp lí, Nhà nước Việt Nam không ngừng phấn đấu bảo đảm đời sống tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân trên thực tế. Hiện Việt Nam có khoảng 20 triệu người theo 12 tôn giáo khác nhau và 80% người dân có đời sống tín ngưỡng. Trong những năm qua, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành được duy trì và mở rộng. Nhiều chức sắc và nhà tu hành Việt Nam được cử đi đào tạo tại các nước như Mỹ, Pháp, I-ta-li-a, Ấn Độ ...(4)

Việc nâng cấp, cải tạo, xây dựng mới cơ sở thờ tự của các tôn giáo được chính quyền các cấp tạo điều kiện và giải quyết nhanh theo quy định của pháp luật. Nhiều chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường của các tôn giáo được nâng cấp, xây dựng mới. Đặc biệt một số chi hội Tin lành ở các tỉnh Tây Nguyên đã và đang được xem xét cấp đất xây dựng nhà thờ. Kinh thánh được in bằng các tiếng Ba Na, Ê Đê, Gia Rai nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo của tín đồ ở vùng dân tộc thiểu số. Những sinh hoạt tôn giáo tập trung, các nghi lễ tập thể về tôn giáo được tôn trọng. Những lễ hội của các tôn giáo như Nô-en, Lễ Phật đản, Lễ hội La Vang… được tổ chức trọng thể, trở thành sự kiện không chỉ của riêng đồng bào tôn giáo mà còn là ngày hội chung lôi cuốn hàng trăm nghìn người tham gia (5).

Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử với công dân vì lí do tín ngưỡng, tôn giáo và cũng quy định người không theo tôn giáo và người có tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Chính vì lẽ đó, đương nhiên ở Việt Nam không có chuyện bắt bớ hay quản chế vì lí do tôn giáo mà chỉ có người vi phạm pháp luật và bị xử lí đúng theo pháp luật Việt Nam (6). Thật là lạ khi một người tự coi mình là quan tâm đến vấn đề tôn giáo Việt Nam như Hạ nghị sĩ Ét Roi-xơ lại hoàn toàn không nắm được thực tế trên. Tất cả những điều đó đều được nêu rõ trong sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” mà Việt Nam đã công bố rộng rãi, và đặc biệt là trong Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kì việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam vừa được Liên hợp quốc thông qua hồi trung tuần tháng 5. Hơn nữa, chẳng nhẽ những hoạt động tôn giáo quốc tế rầm rộ như Đại lễ Phật đản LHQ (Vesak) năm 2008 được tổ chức tại Hà Nội với sự tham dự của hơn 4.000 tăng ni, phật tử, trong đó có khoảng 2.000 chức sắc, tín đồ đến từ 74 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới lại chẳng phải là điều đáng để ngài Hạ nghị sĩ Ét Roi-xơ quan tâm? Mới vào đầu tháng 5 này, trong một động thái chưa từng có tiền lệ, Vesak 2009 ở Thái Lan đã ra Tuyên bố chung ghi nhận sự thành công của Vesak 2008 tại Việt Nam (7). Nếu nghiên cứu kĩ nhân thân của ông Ét Roi-xơ, sẽ dễ dàng nhận thấy vì sao vị Hạ nghị sĩ này lại cố tình bẻ cong sự thật. Ông Ét Roi-xơ là Hạ nghị sĩ đảng Cộng hòa ở khu vực bầu cử số 40 của bang Ca-li-pho-ni-a. Khu vực bầu cử này bao gồm cả quận Cam, nơi có rất đông cử tri Mỹ gốc Việt sinh sống. Bên cạnh những bà con Việt kiều chí thú làm ăn, luôn hướng về Tổ quốc, sẵn lòng góp công, góp của xây dựng quê hương thì cũng có những phần tử chưa rũ bỏ được quá khứ hận thù, luôn mưu toan chống phá Nhà nước Việt Nam. Xuyên tạc sự thật về tình hình tôn giáo Việt Nam, Hạ nghị sĩ Ét Roi-xơ muốn “lấy điểm” trước những phần

83

tử chống phá này. Vì thế, những tuyên bố kiểu đăng kí lập trường như “Ai đó có thể nhìn thấy sự tiến bộ (về tự do tôn giáo ở Việt Nam), chứ tôi thì không” có thể dễ dàng tìm thấy trên trang web của ông Ét Roi-xơ. Ông Giô-xép Cao Quang Ánh, Hạ nghị sĩ đảng Cộng hòa ở khu vực bầu cử số 2 bang Lu-di-an-na, cũng không phải là nhân vật xa lạ. Là người gốc Việt mang tâm lí thù hận nên việc ông Ánh hùa theo ông Roi-xơ âu cũng là điều dễ hiểu (8).

Quan hệ Việt – Mỹ trong những năm gần đây liên tục phát triển về cả chiều rộng và chiều sâu. Việt Nam và Mỹ thường xuyên có những cuộc trao đổi, thảo luận trên nhiều vấn đề, kể cả về nhân quyền, tự do tôn giáo. Việt Nam cũng luôn hoan nghênh các nghị sĩ, các quan chức chính phủ Mỹ tới thăm Việt Nam để tăng cường sự hiểu biết. Trong bối cảnh đó, việc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ thông qua điều luật bổ sung của Dự luật H.R. 2410, không những thiếu khách quan mà còn không phù hợp với hướng phát triển của quan hệ Việt – Mỹ (9).

Điều luật bổ sung của Dự luật H.R. 2410 sẽ còn được thảo luận tại cuộc họp chung của Hạ viện và Thượng viện Mỹ. Chúng ta kêu gọi các nghị sĩ Mỹ bác bỏ Điều luật bổ sung sai trái này vì sự thiếu khách quan và đi ngược lại xu thế phát triển của quan hệ Việt - Mỹ (10).

Bảo Trung

Toàn bộ bài bình luận là một lập luận phức hợp. Tƣ tƣởng chủ đề của bài báo

chính là cái tiêu đề đƣợc viết khá ngắn gọn: Quyết định sai lầm từ động cơ xấu

(Quyết định thiếu khách quan của Hạ viện Mỹ đƣợc bắt đầu từ động cơ xấu của

một số Hạ nghị sĩ). Đây là cái kết luận tổng thể của lập luận. Có thể phân tích và

biểu diễn toàn bộ lập luận của bài báo nhƣ sau:

Đoạn (1) là đoạn mở đầu bài viết, tác giả giới thiệu Hạ viện Mỹ vừa có quyết

định thiếu khách quan khi thông qua điều luật bổ sung của Dự luật H.R. 2410,

khuyến cáo Bộ Ngoại giao Mỹ đƣa Việt Nam trở lại danh sách các nƣớc đặc biệt

quan tâm về tự do tôn giáo (CPC).

Đoạn (2), tiếp tục giới thiệu một cách cụ thể hơn tác giả của điều luật bổ sung

là 2 nghị sĩ: Ét Roi-xơ và Giô-xép Cao Quang Ánh và một vài trích dẫn điều luật

bổ sung của Dự luật H.R.2410 nhƣ: “tự do tôn giáo tại Việt Nam đang bị quấy

nhiễu, nhiều ngƣời bị cầm tù vì niềm tin tôn giáo”. Đồng thời tác giả bài báo cũng

khẳng định bằng một kết luận: “chỉ cần xem kĩ vài lập luận của các nghị sĩ này là

có thể thấy rằng, họ cố tình dựng lên những điều bịa đặt về thực tế ở Việt Nam”.

Cái kết luận này sẽ đƣợc chứng minh bằng các luận cứ (lí lẽ) ở những đoạn văn

tiếp theo.

Đoạn (3) có sự xuất hiện của lập luận. Lập luận này có thể biểu diễn nhƣ sau:

84

Kết luận: Hiến pháp đầu tiên của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Hiến pháp của nƣớc CHXHCN Việt Nam ngày nay đều luôn khẳng định quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo là một trong các quyền cơ bản của con ngƣời.

Luận cứ 1: Cũng nhƣ nhiều nƣớc trên thế giới, mỗi dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam có những tín ngƣỡng, tôn giáo gắn liền với đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội Luận cứ 2: Nhiều tôn giáo nhƣ Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, trong quá trình du nhập vào Việt Nam, đã hòa nhập với các tín ngƣỡng bản địa để cùng phát triển hoặc tạo nên những tôn giáo nội sinh mang đậm sắc thái Việt Nam nhƣ Cao Đài, Phật giáo, Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa ...

Đoạn (4) và đoạn (5) cũng tạo thành một lập luận:

Kết luận Không chỉ có trong văn bản pháp lí, Nhà nƣớc Việt Nam không ngừng phấn đấu bảo đảm đời sống tín ngƣỡng, tôn giáo cho ngƣời dân trên thực tế.

Luận cứ 1: Hiện Việt Nam có khoảng 20 triệu ngƣời theo 12 tôn giáo khác nhau và 80% ngƣời dân có đời sống tín ngƣỡng. Luận cứ 2: Trong những năm qua, hoạt động đào tạo, bồi dƣỡng chức sắc, nhà tu hành đƣợc duy trì và mở rộng. Luận cứ 3: Nhiều chức sắc và nhà tu hành Việt Nam đƣợc cử đi đào tạo tại các nƣớc nhƣ Mỹ, Pháp, I-ta-li-a, Ấn Độ ... Luận cứ 4: Việc nâng cấp, cải tạo, xây dựng mới cơ sở thờ tự của các tôn giáo đƣợc chính quyền các cấp tạo điều kiện và giải quyết nhanh theo quy định của pháp luật. Luận cứ 5: Nhiều chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đƣờng của các tôn giáo đƣợc nâng cấp, xây dựng mới. Luận cứ 6: Đặc biệt một số chi hội Tin lành ở các tỉnh Tây Nguyên đã và đang đƣợc xem xét cấp đất xây dựng nhà thờ. Luận cứ 7: Kinh thánh đƣợc in bằng các tiếng Ba Na, Ê Đê, Gia Rai nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo của tín đồ ở vùng dân tộc thiểu số. Luận cứ 8: Những sinh hoạt tôn giáo tập trung, các nghi lễ tập thể về tôn giáo đƣợc tôn trọng. Luận cứ 9: Những lễ hội của các tôn giáo nhƣ Nô-en, Lễ Phật đản, Lễ hội La Vang… đƣợc tổ chức trọng thể, trở thành sự kiện không chỉ của riêng đồng bào tôn giáo mà còn là ngày hội chung lôi cuốn hàng trăm nghìn ngƣời tham gia.

Đoạn (6) cũng là một lập luận bộ phận, lập luận này hƣớng tới đoạn (2) nhƣ

một sự phản bác lại những nhận xét sai lệch của 2 vị Nghị sĩ Mỹ. Trong đoạn (6),

tác giả lập luận:

85

Luận cứ 1: Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử với công dân vì lí do tín ngƣỡng, tôn giáo Luận cứ 2: Pháp luật Việt Nam quy định ngƣời không theo tôn giáo và ngƣời có tôn giáo đều bình đẳng trƣớc pháp luật. Kết luận: (Chính vì lẽ đó, đƣơng nhiên) ở Việt Nam không có chuyện bắt bớ hay quản chế vì lí do tôn giáo mà chỉ có ngƣời vi phạm pháp luật và bị xử lí đúng theo pháp luật Việt Nam.

Đoạn (7) có lập luận nhƣ sau:

Kết luận (Thật là lạ) Hạ nghị sĩ Ét Roi-xơ (lại hoàn toàn) không nắm đƣợc thực tế về tôn giáo ở Việt Nam.

Luận cứ 1: Tất cả những điều đó đều đƣợc nêu rõ trong sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” mà Việt Nam đã công bố rộng rãi, và đặc biệt là trong Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kì việc thực hiện quyền con ngƣời ở Việt Nam vừa đƣợc Liên hợp quốc thông qua hồi trung tuần tháng 5. Luận cứ 2: (Hơn nữa, chẳng nhẽ) những hoạt động tôn giáo quốc tế rầm rộ nhƣ Đại lễ Phật đản LHQ (Vesak) năm 2008 đƣợc tổ chức tại Hà Nội với sự tham dự của hơn 4.000 tăng ni, phật tử, trong đó có khoảng 2.000 chức sắc, tín đồ đến từ 74 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới lại chẳng phải là điều đáng để ngài Hạ nghị sĩ Ét Roi-xơ quan tâm? Luận cứ 3: (Mới vào đầu tháng 5 này, trong một động thái chƣa từng có tiền lệ,) Vesak 2009 ở Thái Lan đã ra Tuyên bố chung ghi nhận sự thành công của Vesak 2008 tại Việt Nam.

Đoạn (8) cũng là một lập luận. Ở lập luận này, tác giả dùng những lí lẽ để

chứng minh rằng vì sao ông Ét Roi-xơ lại “cố tình bẻ cong sự thật” về tự do tôn

giáo ở Việt Nam và vì sao ông Cao Quang Ánh lại hùa theo ông Roi-xơ:

Kết luận Ông Ét Roi-xơ cố tình bẻ cong sự thật

Luận cứ 1: Ông Ét Roi-xơ muốn “lấy điểm” trƣớc những phần tử chống phá. Luận cứ 2: Ông Giô-xép Cao Quang Ánh là ngƣời gốc Việt mang tâm lí thù hận nên hùa theo ông Roi-xơ (âu cũng là điều dễ hiểu).

Đoạn (9) cũng là một lập luận bộ phận. Có thể diễn đạt lập luận này nhƣ sau:

86

Luận cứ 1: Quan hệ Việt – Mỹ trong những năm gần đây liên tục phát triển về cả chiều rộng và chiều sâu. Luận cứ 2: Việt Nam và Mỹ thƣờng xuyên có những cuộc trao đổi, thảo luận trên nhiều vấn đề, kể cả về nhân quyền, tự do tôn giáo. Luận cứ 3: Việt Nam cũng luôn hoan nghênh các nghị sĩ, các quan chức chính phủ Mỹ tới thăm Việt Nam để tăng cƣờng sự hiểu biết.

Kết luận: (Trong bối cảnh đó), việc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ thông qua điều luật bổ sung của Dự luật H.R. 2410, không những thiếu khách quan mà còn không phù hợp với hƣớng phát triển của quan hệ Việt – Mỹ.

Đoạn (10) là phần kết của bài báo. Lúc này cái “tôi” của tác giả bài báo đã

chuyển thành cái “ta” chung của cả cộng đồng ngƣời Việt Nam: Chúng ta kêu gọi

các nghị sĩ Mỹ bác bỏ Điều luật bổ sung sai trái này vì sự thiếu khách quan và đi

ngược lại xu thế phát triển của quan hệ Việt – Mỹ.

Qua sự phân tích lập luận của toàn bộ bài bình luận trên, có thể thấy rằng tất

cả các đoạn văn trong bài đều nhằm hƣớng tới tƣ tƣởng chủ đề của bài báo: phê

phán sự sai trái của điều luật bổ sung Dự luật H.R.2410 về tự do tôn giáo ở Việt

Nam, điều luật này đi ngƣợc lại sự phát triển của quan hệ Việt – Mỹ. Tính lập luận

là sợi chỉ đỏ đảm bảo tính mạch lạc về nội dung bên cạnh tính liên kết về hình thức

của diễn ngôn bình luận.

Qua các ví dụ về lập luận trong các bài bình luận trong báo in tiếng Việt, có

thể nhận thấy: lập luận luôn có mặt trong bất cứ một đoạn văn hay văn bản bình

luận nào. Tuy nhiên, do ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ của truyền thông đại chúng,

phục vụ cho đông đảo bạn đọc ở mọi tầng lớp, mọi trình độ nên sự lập luận phải

mang tính đơn giản và dễ hiểu. Vì vậy, chọn cách lập luận đơn giản để cho ngƣời

đọc dễ tiếp nhận là xu thế chung của báo chí hiện nay.

2.3. Tiểu kết

Trong văn bản bình luận, chức năng tƣ tƣởng kinh nghiệm đƣợc thể hiện

thông qua quá trình chuyển tác và chức năng tƣ tƣởng lôgíc đƣợc thể hiện bằng các

phƣơng thức tạo mối quan hệ đẳng kết và phụ thuộc với các thành tố trong câu.

Có thể nói, tƣ tƣởng kinh nghiệm của cơ quan báo chí đƣợc xem xét trƣớc hết

bằng hệ thống quá trình trong văn bản. Qua việc miêu tả, phân tích các kiểu quá

87

trình trong văn bản bình luận chúng tôi thấy: 6 kiểu quá trình có trong tiếng Việt

đều có trong văn bản bình luận. Tuy nhiên, số lần xuất hiện và tỉ lệ các kiểu quá

trình không nhƣ nhau. Đồng thời, chúng tôi cũng liệt kê các nhóm động từ chỉ quá

trình trong văn bản bình luận.

Cũng giống nhƣ các thể loại báo chí khác, chức năng quan trọng thứ nhất,

cung cấp thông tin trong bình luận đạt đƣợc thông qua các câu có cấu trúc chính

thể hiện quá trình vật chất và mở rộng nghĩa cho danh từ. Chức năng quan trọng

thứ hai, định hướng suy nghĩ cho độc giả đạt đƣợc nhờ quá trình chuyển tác (việc

lựa chọn nhân tố nào tham gia quá trình làm hành thể hay đích thể ...), chuyển loại

của từ, trích dẫn ... trong văn bản bình luận, việc chuyển tác bao gồm chuyển tác

quá trình và chuyển tác chu cảnh.

Để phục vụ cho mục đích của mình trong thể hiện kinh nghiệm, các tác giả

bình luận hay dùng các quá trình nhận thức, phát ngôn, ứng xử và quan hệ nhƣ

điểm dừng cuối cùng để thông qua đó phản ánh lại các quá trình khác vì những câu

có cấu trúc thể hiện các quá trình này có thể cùng một lúc giúp ngƣời viết đạt đƣợc

hai mục đích: cung cấp thông tin đồng thời thể hiện thái độ, sự khách quan, phản

ứng và sự bình giá của ngƣời viết hoặc của một ai đó đối với thông tin vừa nêu ra.

Việc sử dụng danh hoá và mở rộng nghĩa cho danh từ trong văn bản bình luận

là phƣơng thức rất hiệu quả: đƣa một lƣợng thông tin lớn vào thành phần tham tố

của quá trình, trên cơ sở đó giữ đƣợc cấu trúc chính của câu. Việc đó không những

có tác dụng tiết kiệm ngôn từ do giảm đáng kể số lƣợng các liên từ, mạo từ ... mà

còn đảm bảo đƣợc nguyên tắc đơn giản và dễ hiểu vốn là tiêu chí của ngôn ngữ

báo chí nói chung. Đó cũng chính là lí do để giải thích tại sao trong bình luận có

những câu có cấu trúc tầng bậc, phức tạp nhƣng không làm cho ngƣời đọc nản chí

khi tiếp nhận văn bản.

Để tạo lập luận, các tác giả thƣờng đƣa ra một kết luận rồi dùng lí lẽ (luận cứ)

để dẫn dắt ngƣời đọc đến một kết luận nào đấy. Việc sử dụng lập luận trong các

văn bản bình luận cho thấy lập luận là yếu tố quan trọng góp phần tạo sự mạch lạc

cho toàn bộ ngôn bản cũng nhƣ giá trị thuyết phục ngƣời đọc.

88

Chương 3

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG CÁC

VĂN BẢN BÌNH LUẬN ĐỂ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG LIÊN NHÂN

Nhiệm vụ nghiên cứu của chƣơng 3 là tập trung khảo sát chức năng liên nhân

ng tin) thông qua văn

bản

.

3.1. DẪN NHẬP

Halliday cho rằng, siêu chức năng liên nhân thể hiện việc sử dụng ngôn ngữ

để diễn đạt các mối quan hệ xã hội và quan hệ cá nhân. Siêu chức năng này đƣợc

hiện thực hoá qua hệ thống Thức (Mood system) và hệ thống Tình thái (Modality

system). Thức chỉ rõ vai trò của ngƣời nói (bên phát) lựa chọn tình huống nói và

vai trò mà ngƣời nói ấn định cho ngƣời nghe. Nếu ngƣời nói chọn thức cầu khiến

thì anh ta cho mình vai trò ra lệnh và sắp đặt ngƣời nghe vào vị trí tuân lệnh. Tình

thái đƣợc định rõ khi ngƣời nói thể hiện sự đánh giá hoặc dự đoán của mình. Chức

năng liên nhân thể hiện không khí chung của diễn ngôn (tenor of discourse), một

trong ba khái niệm về môi trƣờng xã hội của văn bản. Báo chí (cụ thể là các bài

bình luận) có khả năng tạo dƣ luận xã hội, tác động mạnh mẽ đến nhận thức của

con ngƣời và là phƣơng tiện quản lí, giám sát xã hội xét theo quan điểm của phân

tích diễn ngôn phê phán. Thực chất, văn bản bình luận trong báo in tiếng Việt

chính là một cách thể hiện tính quyền lực của báo chí. Tính quyền lực quy định

cách sử dụng các phƣơng tiện ngôn ngữ trong văn bản. Bản chất này quy định chức

năng liên nhân của ngôn ngữ bình luận và nó đƣợc hiện thực hoá qua các nguồn

lực ngôn ngữ nhƣ: từ tình thái, ẩn dụ thức, ẩn dụ tình thái, trạng ngữ tình thái bình

luận …

89

3.2. TÌNH THÁI TRONG VĂN BẢN BÌNH LUẬN

3.2

Tình thái giúp chúng ta hiểu đƣợc bản chất của ngôn ngữ với tƣ cách là công

cụ mà con ngƣời dùng để phản ánh thế giới trong hoạt động nhận thức và tƣơng tác

xã hội.

Bally cho rằng tình thái là linh hồn của câu, của văn bản và suy rộng ra là của

cả ngôn ngữ trong hoạt động nói chung. Ông đã phân biệt trong cấu trúc nghĩa của

phát ngôn gồm một phần cơ bản là ngôn liệu (dictum) và tình thái (modus). Trong

đó, dictum là bộ phận biểu hiện nội dung sự tình ở dạng tiềm năng. Nó gắn với

nghĩa miêu tả. Còn modus gắn với bình diện chủ quan, thể hiện những nhân tố nhƣ

ý chí, thái độ, sự đánh giá của ngƣời nói đối với điều đƣợc nói ra, xét trong quan

hệ với thực tế, quan hệ với ngƣời đối thoại và với hoàn cảnh giao tiếp.

Hiện nay, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về tình thái: Vinogradov

xem tình thái nhƣ một phạm trù ngữ pháp độc lập tồn tại song song với phạm trù vị

tính, biểu thị những mối quan hệ khác nhau của thông báo với thực tế. Ông cho

rằng “Mỗi câu đều mang một ý nghĩa tình thái nhƣ dấu hiệu cấu trúc cơ bản, tức

chỉ ra quan hệ đối với hiện thực” (dẫn theo [50, tr.84]).

Tình thái là thông tin ngữ nghĩa của câu thể hiện thái độ hoặc ý kiến của

ngƣời nói đối với điều đƣợc nói đến trong câu (Palmer 1986, 14).

Nhƣ vậy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhiều quan điểm khác nhau về

tình thái, nhƣng tựu trung các tác giả đều cho rằng “Tình thái là thái độ của ngƣời

nói đối với điều đƣợc nói ra, đối với hoàn cảnh phát ngôn và đối với thực tế”.

Do bản chất phức tạp và chƣa rõ ràng của vấn đề nên các nhà nghiên cứu vẫn

chƣa có sự thống nhất về một số mặt quan trọng liên quan đến tình thái nhƣ: bản

thân khái niệm tình thái, các kiểu loại ý nghĩa tình thái, cách phân chia các phạm

trù tình thái …

Tác giả Nguyễn Văn Hiệp [50, tr.96], khi nghiên cứu về tình thái đã chỉ ra

những đối lập rất căn bản, mà qua những đối lập này bức tranh về tình thái mới

hiện ra một cách rõ ràng và đúng bản chất. Đó là: tình thái trong lôgíc (tình thái

khách quan) và tình thái trong ngôn ngữ (tình thái chủ quan).

90

Khái niệm tình thái khách quan phản ánh cái nhìn của lôgíc học về nội dung

của câu. Theo đó, các phán đoán mà câu biểu thị đƣợc phân nhóm dựa theo ba tiêu

chí là: tính khả năng, tính tất yếu và tính hiện thực. Đi vào chi tiết hơn, ta thấy tính

khả năng, tính tất yếu hay tính hiện thực đƣợc nêu ra ở khía cạnh nhận thức, dựa

trên bằng chứng suy luận, hoặc ở khía cạnh đạo nghĩa, dựa trên những ràng buộc

về quyền và nghĩa vụ [50, tr. 97].

Nhƣ vậy, tình thái khách quan chỉ nhằm vào một số kiểu quan hệ chung nhất

giữa phán đoán với hiện thực, mang tính khách quan, bản thể và đƣợc coi nhƣ là

một đặc trƣng nội tại của cấu trúc chủ từ - vị từ lôgíc, gạt bỏ mọi nhân tố chủ quan

nhƣ ý chí, sự đánh giá, mức độ cam kết, thái độ hay lập trƣờng của ngƣời nói.

Đối lập với tình thái khách quan trong lôgíc là tình thái chủ quan trong ngôn

ngữ, loại tình thái thể hiện vai trò của ngƣời nói đối với điều đƣợc nói ra trong câu.

Nếu tình thái khách quan loại trừ vai trò của ngƣời nói thì trong hệ thống tình thái

chủ quan, vai trò của ngƣời nói đƣợc đặc biệt nhấn mạnh.

Với sự ra đời của lí thuyết hành động ngôn từ của Austin, tình thái đƣợc hiểu

rộng hơn, tức là ngoài tình thái của lời phát ngôn là thái độ đánh giá của ngƣời nói

về nội dung phát ngôn còn phải xét đến tình thái của hoạt động phát ngôn về mục

tiêu phát ngôn và tác dụng trong giao tiếp (nhƣ trần thuật, nghi vấn, cầu khiến…).

Tác giả Palmer đã đƣa ra cách phân loại tình thái (dựa trên sự phân loại thái

(modes) của Von Wright (1981) trong nghiên cứu lôgic tình thái) nhƣ sau:

(1) Thái Suy định (Alethic) hay còn gọi là thái Chân lí

(2) Thái Nhận thức (Epistemic) hay còn gọi là thái Hiểu biết

(3) Thái Chức phận (Deontic) hay còn gọi là thái Đạo nghĩa

(4) Thái Tồn tại (Existential) hay còn gọi là thái Hiện tồn.

Các khả năng trên đƣợc chi tiết hóa nhƣ sau:

91

Bảng 3.1 Phân loại tình thái của Von Wright (nguồn: Palmer 1990)

Nhận thức (Epistemic) Minh xác (Verified) -

Tồn tại (Existential) Phổ quát (Universal) Hiện tồn (Existing)

-

Suy định (Alethic) Cần yếu (Necessary) Khả năng (Possible) Không chắc (Contingent) Không thể (impossible) Không rõ (Undecided) Ngụy tạo (Falsfied) Chức phận (Deontic) Bắt buộc (Obligatory) Đƣợc phép (Permitted) Bàng quan (indifferent) Cấm đoán (Prohibition) Trống không (Empty)

Palmer [122] cho rằng thái Suy định đƣợc xét đến thƣờng xuyên trong lôgíc

học nhƣng trong ngôn ngữ học nó lại không có ý nghĩa lớn, còn thái Tồn tại lại

không thuộc phạm vi của ngôn ngữ học mà thuộc lí thuyết định lƣợng. Vì vậy, ông

đề nghị chỉ nên xét đến hai loại thái có ý nghĩa lớn nhất trong ngôn ngữ học, đó là

thái Nhận thức (Epistemic) và thái Chức phận (Deontic). Palmer còn đề nghị thay

Không rõ (Undecided) thuộc thái Nhận thức bằng Khả năng (Possible) cho phù

hợp hơn với cách dùng trong ngôn ngữ bình thƣờng. Vậy, theo cách phân loại này

thì Khả năng thuộc về thái Nhận thức chứ không thuộc thái Suy định nhƣ cách

phân loại của Von Wright [127] đề xuất thái năng động là tình thái hƣớng tới chủ

ngữ, loại tình thái nêu ý nguyện và hƣớng tới chủ ngữ của câu.

Theo Palmer [121], [122], trong ngôn ngữ học tự nhiên cần xem xét ba loại

tình thái đó là: tình thái Nhận thức, tình thái Chức phận (hay còn gọi là tình thái

Đạo nghĩa) và tình thái Năng động. Trong đó, tình thái nhận thức là quan điểm của

ngƣời nói về nội dung câu xét đến trên khía cạnh đúng sai (hƣớng tới thế giới hiểu

biết, tri thức, luân lí). Tình thái chức phận là thái độ của ngƣời nói về nội dung nói

xét theo khía cạnh đạo lí, nghĩa vụ, đạo nghĩa hƣớng tới thế giới thực, sự cần thiết,

khả năng thực hiện các hành vi theo đạo lí, bổn phận) và tình thái năng động là ý

nghĩa của chủ ngữ câu).

Các phƣơng tiện biểu hiện tình thái rất đa dạng, có thể hiển minh hoặc có thể

hàm ẩn. Về phƣơng diện từ vựng – ngữ pháp, các phƣơng tiện biểu hiện tình thái

cơ bản nhất là vị từ tình thái (modals), thức (moods) và thời (tense), các tiểu từ tình

92

thái (particles), các tổ hợp tình thái tính, trạng ngữ tình thái bình luận và thành

phần xen.

3.2.2. Tình thái trong tiếng Việt

3.2.2.1. Quan niệm về tình thái trong tiếng Việt

Trong tiếng Việt, quan niệm về tình thái cũng rất đa dạng và phức tạp.

Cao Xuân Hạo [48], khi nói về tiền giả định và hàm ý trong một số vị từ tình

thái tiếng Việt, nêu rõ rằng “tình thái có lẽ là tất cả những gì đƣợc truyền đạt trong

câu mà không thuộc về ngôn liệu”, trong đó đáng chú ý nhất là những ý nghĩa có

liên quan đến:

a. Tính hiện thực hay không hiện thực của sự tình (tình thái [± hiện thực];

b. Tính tất yếu hay không tất yếu của sự tình (tình thái [± tất yếu]); tính [± tất

yếu] có thể đƣợc nhận định trên bình diện tri thức hay đạo lí;

c. Tính khả năng hay bất khả năng của tình thái (tình thái [± khả năng]) cũng

có thể đƣợc nhận định trên bình diện tri thức hay đạo lí;

d. Những ý nghĩa có liên quan đến thái độ của ngƣời nói đối với nội dung của

điều đƣợc nói ra, trong đó có cách đánh giá chủ quan về sự tình đƣợc biểu hiện.

Tác giả Bùi Minh Toán khi bàn về bình diện nghĩa của câu cũng đã nêu ra

một số phƣơng diện của tình thái nhƣ sau: “Tình thái cho biết sự tình đƣợc đề cập

đến trong phát ngôn chỉ là khả năng, là giả thiết hay đã là hiện thực, là đƣợc khẳng

định hay phủ định…; Tình thái cho biết mục đích giao tiếp và hành động ngôn ngữ

mà ngƣời nói hƣớng tới khi đề cập đến sự tình: trình bày về sự tình hay là đặt ra

điều nghi vấn, nêu yêu cầu hay cam kết hoặc tuyên bố điều gì đó về sự tình…;

Tình thái còn cho biết quan điểm lập trƣờng, sự đánh giá của ngƣời nói đối với sự

tình đƣợc đề cập tới về các phƣơng diện độ xác thực, độ tin cậy, tính tích cực hay

tiêu cực đối với những ngƣời tham gia hoạt động giao tiếp…; Tình thái cho biết

thái độ, quan hệ, tình cảm của những ngƣời tham gia giao tiếp đối với nhau khi đề

cập đến sự tình…” [93, tr.65].

93

3.2.2.2. ện ị

Nguyễn Văn Hiệp [50, tr.140], cho rằng trong tiếng Việt, ngoài ngữ điệu thì

các phƣơng tiện từ vựng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc biểu thị tình

thái, có thể kể ra các nhóm chính:

1. Các phó từ làm thành phần phụ của ngữ vị từ: đã, sẽ, đang, từng, vừa,

mới…

2. Các vị từ tình thái tính làm chính tố trong ngữ đoạn vị từ: toan, định, cố,

muốn, đành, được, bị, bỏ, hãy, đừng, chớ,…

3. Các vị từ chỉ thái độ mệnh đề trong cấu trúc chỉ thái độ mệnh đề: tôi e

rằng, tôi sợ rằng, tôi nghĩ rằng,…

4. Các quán ngữ tình thái: ai bảo, nói gì thì nói, ngó bộ, thảo nào, tội gì, đằng

thằng ra, kể ra, làm như thể,…

5. Các vị từ ngôn hành trong kiểu câu ngôn hành (với những điều kiện về

ngôi, về chỉ tố thời,…) nhƣ: ra lệnh, van, xin, đề nghị, yêu cầu,…

6. Các thán từ: ôi, eo ôi, chao ôi, ồ,…

7. Các tiểu từ tình thái cuối câu và tổ hợp đặc ngữ (idom) tƣơng đƣơng: à, ư,

nhỉ, nhé, thôi, chứ, đi, mất, thật, cũng nên, lại còn, thì chết,…

8. Các vị từ đánh giá và tổ hợp có tính đánh giá: may (là), may một cái (là),

đáng buồn (là), đáng mừng (là), đáng tiếc (là),…

9. Các trợ từ: đến, những, mỗi, nào, ngay, cả, chính, đích thị, đã, mới, chỉ,…

10. Những đại từ nghi vấn đƣợc dùng trong những câu phủ định – bác bỏ (P

làm gì? P thế nào được?), các liên từ dùng trong các câu hỏi (Hay P? Hay là P?).

11. Các từ ngữ chêm xen biểu thị tình thái: nó biết cóc gì, mua cha nó cho

rồi, hỏi cái đếch gì …

12. Kiểu câu điều kiện, giả định: nếu … thì, giá… thì, cứ… thì,…

Một cách biểu thị khác về tình thái dựa trên quan điểm Đề - Thuyết [47, tr.58]

là: “Trong lôgíc học, nội dung của một mệnh đề đƣợc chia làm hai phần: ngôn liệu

và tình thái. Ngôn liệu gồm Sở thuyết với các yếu tố hữu quan đƣợc xét trong một

mối liên hệ tiềm năng. Tình thái là cách thực hiện mối liên hệ ấy, cho biết mối liên

hệ ấy có thật hay không có thật, có thể hay không thể có, là tất yếu hay không tất

94

yếu… Ngoài ra câu nói lại có thể chứa đựng những thành phần biểu đạt thái độ của

ngƣời nói đối với sự tình đƣợc phản ánh và biểu đạt tính chất của phát ngôn: trần

thuật, hỏi hay yêu cầu, những mặt này cũng đƣợc xem là thuộc lĩnh vực tình thái”.

Các ý nghĩa tình thái chính (dựa trên vai trò trong câu) bao gồm:

i. Nghĩa tình thái trong Đề hoặc tiểu Đề của Thuyết đƣợc thể hiện bằng các

quán ngữ: cứ như tôi nghĩ, nếu tôi không nhầm, thật ra, lẽ ra, cùng lắm, xét cho

cùng, hay quả (là), có thể, dường như, nghe đâu, không khéo, khốn nỗi, đáng tiếc,

tất nhiên, hẳn, chắc chắn, không nhất thiết, may mà, không ngờ, ai ngờ, rốt cuộc,

tôi nghĩ, tôi e, tôi lấy làm tiếc,…

ii. Những quán ngữ mang nghĩa tình thái trên đều không thuộc thành phần Sở đề

trong nhận định mà chỉ phản ánh thái độ, đánh giá của ngƣời nói đối với sự tình

đƣợc nói sau đó.

iii. Nghĩa tình thái làm thành phần Thuyết đƣợc thể hiện bằng quán ngữ: thì phải,

thì chết, thì khốn, là đằng khác, là cái chắc, mới tuyệt, chưa biết chừng… Phần

Thuyết tình thái này thƣờng rất ngắn, cùng Siêu Đề gói câu vào Khung tình thái

(sơ đồ 3.)

iv. Nghĩa tình thái đƣợc biểu thị trong một bộ phận Đề hay một phần Thuyết, với

tƣ cách trung tâm hoặc định ngữ của từ trung tâm. (Ví dụ: Có những mƣời ngƣời

vắng mặt.)

v. Nghĩa tình thái ngoài cấu trúc Đề - Thuyết của câu: là cấu trúc Đề - Thuyết

khác ghép vào câu (để thành câu ghép). (Ví dụ: Nam sẽ trúng cử và đó là một điều

chắc chắn.)

KHUNG TÌNH THÁI

C

Đ T

Hình như anh sốt ruột lắm thì phải

(Đề tình thái) (Thuyết tình thái)

Sơ đồ 3.1 Khung tình thái trong tiếng Việt (nguồn [47])

95

vi. Các cấu trúc ghép vào câu để biểu thị tình thái có thể là một cấu trúc câu

đặc biệt, một phụ chú ngữ. (Ví dụ: Luật này, như ai nấy đều biết, có một phạm vi

hiệu lực rất hẹp. Hay: Thế mà quả thị, lạ thay, vẫn không rơi xuống). Đây không

phải là thành phần tỉnh lƣợc, Siêu Đề, hay trạng ngữ vì nó không bổ sung ý cho sự

tình trong câu mà là lời bình về điều đƣợc nói tới. Ở phƣơng diện ngữ pháp, có thể

gọi chúng là vế câu phụ chú.

Từ những lí luận trên, có thể khái quát về vị trí của các yếu tố tình thái trong

cấu trúc câu tiếng Việt nhƣ sau:

Bảng 3.2 Cấu trúc câu tiếng Việt (Cao Xuân Hạo [47, tr.71])

Vế câu ngoại đề Ông Năm ấy mà, ông ấy tốt lắm.

u â c

h n

í

Mẹ đi Hà Nội rồi. Theo tôi thì nên làm ngay. Tôi nghĩ là việc này thế nào cũng xong.

U Â C A Ủ C

h c n ầ h p c á C

Chủ đề Khung đề ĐỀ (tình thái) thì/ là/ mà THUYẾT (tình thái)

Thì giờ là vàng bạc. Hình nhƣ anh ấy sốt ruột lắm thì phải. Cái này chỉ năm ngàn đồng là cùng.

N Ả B Ơ C C Ú R T U Ấ C

Phần phụ Trạng ngữ Vào một buổi chiều mùa hè, Ánh ra sông.

a ủ c n ả b ơ c c ú r t u ấ c i à o g N

Vế câu than gọi Vế câu phụ chú (tình thái)

Vâng, tôi biết, chẳng nên buồn anh ạ. Luật này- nhƣ ai nấy đều biết, rất nghiệt ngã. Của đáng tội, nó có biết gì đâu. Cô bé nhà bên - có ai ngờ - cũng vào du kích.

3.2.3. Tình thái trong văn bản bình luận báo in tiếng Việt

Trong luận án này, chúng tôi dựa trên những lí thuyết về tình thái đã đƣợc

tổng kết trên đây để tiến hành khảo sát. Các phƣơng thức thể hiện nghĩa tình thái

96

trong ngôn ngữ bình luận đƣợc nhìn nhận dựa trên tiêu chí: yếu tố thể hiện tình

thái có thuộc thành phần câu chứa thông tin hay không.

Thông tin và tình thái cùng đƣợc thể hiện trong câu chứa thông tin:

(Tình thái)

, (Tình thái) Chủ ngữ

(Tình thái)

(Tình thái) Vị ngữ,

(Tình thái)

CÂU CHỨA THÔNG TIN

Sơ đồ 3.2 Vị trí của yếu tố tình thái trong thành phần của câu chứa thông tin

Thông tin và tình thái đƣợc thể hiện không cùng trong một câu:

Câu phóng chiếu

Câu bị phóng chiếu

Chủ ngữ Vị ngữ Chủ ngữ (Tình thái) Vị ngữ

(Tình thái) CÂU CHỨA THÔNG TIN

Sơ đồ 3.3 Vị trí của yếu tố tình thái trong thành phần của câu phóng chiếu

3.2.3.1. Ẩn dụ thức trong văn bản bình luận

Việc sử dụng câu nghi vấn dƣới dạng HĐLN gián tiếp trong bình luận có thể

đƣợc coi là một dạng của ẩn dụ thức. Điều quan trọng nhất khi nói đến chức năng

liên nhân là bình luận không phải là một cuộc thoại bình thƣờng với các lƣợt lời

của ngƣời nói và ngƣời đáp. Tác giả của ngôn bản bình luận muốn gửi thông điệp

đến độc giả và cũng mong nhận một phản ứng từ phía ngƣời nhận thông điệp,

nhƣng lại không thể tiếp cận trực tiếp và cùng thời điểm với ngƣời đọc. Ngƣời viết

phải vừa tự đƣa ra thông điệp, vừa tƣởng tƣợng về thái độ và phản ứng có thể nảy

sinh ở ngƣời đọc; và các thông tin của cuộc thoại “một phía” đó đƣợc thể hiện dƣới

một hình thức khác: Có thể thấy rõ rằng trong văn bản bình luận, trừ những đoạn

trích dẫn trực tiếp, hầu hết là câu trần thuật, câu nghi vấn chiếm một tỉ lệ rất nhỏ.

Lí do của sự phân bố này là: mục đích chủ yếu của báo chí là truyền đạt thông tin.

Dù cái đích cuối cùng vẫn là định hƣớng suy nghĩ, nhƣng nó phải đạt đƣợc một

cách không quá lộ liễu. Vì vậy, vai trò của ẩn dụ liên nhân là vô cùng quan trọng.

Ngƣời viết chỉ đặt ra câu hỏi để định hƣớng suy nghĩ cho ngƣời đọc, hoặc câu hỏi

97

không chính danh nhằm đƣa quan điểm một cách gián tiếp. Hơn nữa, giao tiếp

thông qua báo in hoàn toàn khác với giao tiếp hội thoại. Về bản chất, gánh nặng

của giao tiếp dạng này dồn về phía ngƣời viết bởi các lí do sau:

Ngƣời viết không xác định rõ đƣợc đối tƣợng sẽ tham gia giao tiếp và nhận

thông điệp, mà chỉ hình dung ra thành phần của nhóm độc giả mà mình

hƣớng tới.

Trong hội thoại thông thƣờng, các vai thoại thay đổi nội dung, cách thức thể

hiện thông điệp dựa trên phản ứng của ngƣời đối thoại trực tiếp. Nhƣng

ngƣời viết bình luận phải tự tƣởng tƣợng ra những phản ứng có thể nhận

đƣợc từ ngƣời đọc để quyết định nội dung và phƣơng thức thể hiện phán

đoán tiếp theo. Cụ thể là ngƣời viết nhiều khi phải đóng cả hai vai, vừa đặt

câu hỏi vừa tự trả lời dựa trên kiến thức chung, quy luật của cuộc sống hay

xét đoán dựa trên kinh nghiệm của bản thân.

Do yêu cầu của phép lịch sự và tế nhị trong hình thức giao tiếp đặc biệt này,

các câu hỏi trong bình luận thƣờng là câu hỏi ẩn dụ liên nhân (ẩn dụ thức)

và câu trả lời hay phản ứng của ngƣời đọc chính là thông điệp không thành

văn mà ngƣời viết để ngỏ và muốn ngƣời đọc tự rút ra sau những chứng

minh, lí giải của ngƣời viết.

Ví dụ:

... Còn phá rừng có phải là sản phẩm của nền kinh tế thị trường không hay

đó chính là hậu quả của sự nghèo nàn, lạc hậu và phép nước không

nghiêm? Ở đâu phá rừng nhiều nhất trên hành tinh này nếu không phải là

châu Mỹ La tinh, châu Phi và một số nước châu Á, trong đó có chúng ta?

Gán ghép như vậy là tội nghiệp cho kinh tế thị trường. [77, tr.131]

( Thông điệp của những câu hỏi này lại chính là câu kết mang sắc thái của

câu trả lời để khẳng định lập luận: nạn phá rừng không phải là sản phẩm của kinh

tế thị trƣờng mà do sự nghèo nàn, lạc hậu và phép nƣớc không nghiêm).

Việc sử dụng câu hỏi trong bình luận không chỉ thuộc phạm trù ẩn dụ thức

mà còn là phƣơng thức liên kết văn bản (sẽ đƣợc khảo sát thêm ở chƣơng 4).

98

3.2.3.2. Ẩn dụ tình thái trong văn bản bình luận

a. Hiện thực hoá tình thái có tính tƣơng thích trong văn bản bình luận

Bất kì hình thể ngữ nghĩa nào cũng đều có một hình thức hiện thực hoá ở bình

diện ngữ pháp – từ vựng – một cách tạo lời hay chua lời nào đó – có thể gọi là

tƣơng thích. Nếu nhìn từ góc độ cấu trúc có thể coi dạng này là các phƣơng thức

thể hiện tình thái thuộc thành phần chính của câu. Trong bình luận báo in tiếng

Việt, nghĩa tình thái có thể đƣợc tạo nên từ các cách sau:

Các vị từ tình thái tính làm chính tố trong ngữ đoạn vị từ: toan, định, cố,

muốn, đành, được, bị, bỏ, hãy, đừng, chớ ...

Ví dụ: ... Ngoài ra, Gô-va-đi-a còn bị buộc tội âm mưu bán công nghệ tàng

hình cho Chính phủ Thụy Sĩ và các doanh nghiệp ở I-xra-en và Đức. (QĐND,

14/8/2010).

Ví dụ: ... Từ thời cổ xưa, người Hi Lạp muốn bảo đảm sự ổn định của đế

quốc họ trong thời kì hoàng kim ... [130]

Các trạng từ chỉ tình thái tƣơng đƣơng với nhóm các tổ hợp đứng đầu câu

hay sau chủ ngữ trong bình luận tiếng Việt: dĩ nhiên, đáng lẽ, cũng, phải

chăng, hẳn là, thật ra, lẽ ra, may mà, thế nào ...

Ví dụ: Quả thực, khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng đang là mối

quan tâm của nhiều chính trị gia thế giới và cả nước Đức (QĐND,27/9/2009).

b. Hiện thực hoá tình thái nhờ ẩn dụ trong văn bản bình luận

Ẩn dụ tình thái là kiểu ẩn dụ liên nhân rất phổ biến, dựa trên mối quan hệ ngữ

nghĩa của sự phóng chiếu. Trong kiểu ẩn dụ này, quan điểm của ngƣời nói liên

quan đến khả năng mà quan sát của họ đƣợc mã hoá nhờ một câu phóng chiếu

riêng biệt trong câu phức có quan hệ phụ thuộc. Trong bình luận, tác giả không

phải lúc nào cũng thể hiện thái độ của mình một cách trực tiếp, nên phƣơng pháp

hợp lí nhất là sử dụng ẩn dụ tình thái. Và có 2 cách thức thể hiện đó là: Cách thể

hiện Khách thể tường minh (KTTM) và Cách thể hiện Chủ thể tường minh

(CTTM).

99

Cách thể hiện Khách thể tường minh

Trong ngôn ngữ bình luận, cách ngƣời viết thể hiện thái độ của mình với

thông tin đƣa ra đòi hỏi ngƣời viết phải tế nhị và xử trí khéo léo tuỳ thuộc vào nội

dung thông tin và kiến thức văn hoá của đối tƣợng tiếp nhận thông tin. Điều luận

án quan tâm là cách thức thể hiện thái độ về thông tin theo kiểu KTTM hay

CTTM, nói cách khác là: thể hiện một cách công khai hay ẩn ý, bằng HĐLN nói

trực tiếp hay HĐLN gián tiếp. Nhƣng điều quan trọng là dù thái độ đƣợc thể hiện

dƣới hình thức nào thì trên phƣơng diện cú pháp đây cũng là cách ngƣời viết đƣa

một câu có chức năng cung cấp thông tin (đơn và phức) vào trong thành phần của

một câu khác, biến nó trở thành câu phụ của một câu phức. Về mặt cấu trúc, thông

tin thƣờng đƣợc giới thiệu ở câu phụ (câu bị phóng chiếu), còn câu thể hiện thái độ

là câu chính (câu phóng chiếu). Nhƣng dƣới góc độ chiến lƣợc giao tiếp, thông tin

ở câu phụ là điều tác giả muốn ngƣời đọc chú ý, còn thái độ đƣợc thể hiện bằng

câu chính chỉ đóng vai trò thứ yếu, hay nói đúng hơn là tác giả muốn đảm bảo tính

khách quan, nên làm cho có vẻ kém quan trọng hơn phần còn lại của câu phức.

Ở đây có một quá trình ẩn dụ khác: biến đặc điểm phân cực thành câu chính.

Tình thái đƣợc nguỵ trang nhƣ một phán đoán nên việc nó thay thế gánh nặng ngữ

nghĩa của từ đúng hay không là lẽ đƣơng nhiên. Ngƣời viết có nhiều cách để không

công khai bày tỏ quan điểm, nhƣ:

rõ ràng rằng...

mọi người đều công nhận rằng...

điều ai cũng biết là...

kết luận khó có thể tránh được là...

mọi người đều khẳng định rằng...

Trong bình luận, việc thể hiện nghĩa tình thái bằng KTTM cũng đƣợc dùng để

đƣa ra các phán đoán, nhận xét về một vấn đề khi tác giả muốn tạo cảm giác là vấn

đề đƣơng nhiên đƣợc công nhận bởi một số lớn ngƣời đọc hoặc số đông trong xã

hội khi mà tác giả phản ánh lại những điều đó một cách khách quan.

100

Ví dụ: Dễ dàng nhận thấy, trong năm qua, vực dậy được nền kinh tế là thành

công nổi bật nhất của ông Ô-ba-ma trong chính sách đối nội khi đưa nước Mỹ

thoát khỏi đáy khủng hoảng. (QĐND, 29/1/2010)

Ví dụ: Giới truyền thông Trung Quốc cho rằng, để vụ việc bị đẩy căng đến

mức này phần lớn do lỗi của Oa-sinh-tơn. (QĐND, 8/2/2010).

Trong bình luận, các cách thể hiện KTTM nhƣ sau:

- Cấu trúc cố định có chủ ngữ hình thức chỉ thuộc tính:

Trong bình luận, cấu trúc cố định có chủ ngữ hình thức chỉ thuộc tính đó là

các quán ngữ đứng đầu câu thể hiện phán đoán hay thái độ và ngƣời đọc không thể

khôi phục hay suy luận ra chủ thể của hành động đƣợc biểu hiện bởi động từ đi

cùng với nó. Đó là các quán ngữ: đúng là, chẳng nhẽ, rõ ràng, phải chăng, thực

sự, công bằng mà nói, thực ra, tất nhiên, quả thật, quả tình ... , ví dụ:

Quả thực, khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng đang là mối quan tâm

của nhiều chính trị gia thế giới và cả nước Đức ... (QĐND, 27/9/2009).

- Ngữ:

Một số ngữ đƣợc coi là dạng tỉnh lƣợc của câu và thƣờng xuất hiện ở vị trí

đầu câu: không thắc mắc/nghi ngờ, hiện thực, một sự băn khoăn nhỏ rằng, một

thắc mắc nhỏ ...

Ví dụ: ... Một thực tế đã rõ ràng là không tăng quân, Mỹ sẽ khó lòng tránh

được thất bại ... (QĐND, 8/10/2009)

Dạng động ngữ và giới ngữ cũng thƣờng xuất hiện trong các bài bình luận,

đặc biệt là giới ngữ:

Ví dụ: Theo một học giả nổi tiếng ở Mỹ, bà P.Benixơ, tác giả cuốn sách

“Oasinhtơn đã thống trị Liên Hợp Quốc như thế nào?”, cần ngược trở lại lịch sử,

nhất là lịch sử của những đế quốc đang ở đỉnh cao quyền lực và ảnh hưởng ...

[130].

Ví dụ: Theo Tổng thống Nga Đmi-tơ-ri Mét-vê-đép, Nga và NATO nhất trí

khởi sự nghiên cứu khả năng phối hợp các hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia

của nhau. (QĐND, 22/11/2010)

- Câu phóng chiếu:

101

Trong tiếng Việt, Cao Xuân Hạo [47, tr.67] quan niệm rằng một số “thành

phần chuyển tiếp” đƣợc coi là những Siêu Đề (Khung Đề tình thái). “Vì đứng ở

đầu câu, nó chuẩn bị cho ngƣời nghe một tâm thế tiếp nhận điều đƣợc nói bằng

cách đƣa ra một khung tình thái. Nhƣ vậy, các Siêu Đề làm nhiệm vụ chuyển tiếp

không phải chỉ là trên hình thức mạch lạc ý tứ mà còn trong nội dung tâm lí hai

bên hội thoại nữa”. Tuy không phải là hội thoại, bình luận cũng dùng ngôn ngữ đặc

trƣng của riêng mình để giao tiếp và khi gặp những Siêu Đề ngƣời đọc sẽ đƣợc

chuẩn bị tâm thế, tinh thần để đón nhận thông tin chính sẽ đƣợc trình bày tiếp sau

đó. Trong bình luận, các cấu trúc này, ngoài chức năng liên kết văn bản, thƣờng

đƣợc dùng để nói lên thái độ của ngƣời viết đối với sự kiện đƣợc miêu tả trƣớc đó.

Có thể gặp chúng sau các đoạn miêu tả diễn biến của sự kiện. Đối với các câu trần

thuật, Siêu Đề thƣờng thể hiện thái độ: khẳng định về tính hiện thực hay không

hiện thực của thông tin đƣợc đƣa ra sau đó. Hầu hết các thông tin này thuộc dạng

các nhận xét chung, ý kiến tổng kết ... có tác dụng nhƣ một lời bình hay một tiểu

kết đối với những yếu tố đƣợc đƣa ra để chứng minh hoặc lí giải trƣớc đó.

Ví dụ: ... Các đạo luật “đánh vào lòng dân” mà Tổng thống Ô-ba-ma từng

hi vọng nhanh chóng được thông qua như mở rộng việc chăm sóc sức khoẻ, gia

tăng phúc lợi giáo dục, hay dự án cải cách sâu rộng các ngân hàng... Thậm chí, về

mặt đối ngoại, tương lai của Hiệp ước mới về cắt giảm vũ khí tấn công chiến lược

(START) cũng trở nên khó đoán định khi được trình Quốc hội Mỹ phê chuẩn.

Rõ ràng, trong tình thế như vậy, tranh thủ sự ủng hộ của Đảng Cộng hoà là

sự lựa chọn tối ưu của ông Ô-ba-ma để có thể vận hành trơn tru guồng máy lãnh

đạo. (QĐND, 4/11/2010)

Ví dụ trên đƣợc trích trong bài bình luận “Ông Ô-ba-ma bƣớc vào thời gian

khó” nói về những khó khăn mà Tổng thống Mỹ gặp phải trong cuộc bầu cử Quốc

hội giữa nhiệm kì. Sau khi nêu những yếu tố mà Ông Ô-ba-ma phải thực hiện để

giữ ƣu thế tại Thƣợng viện Mỹ, tác giả bài báo dùng thành phần chuyển tiếp (“rõ

ràng”), về hình thức nó là từ nối, nhƣng về nội dung, thành phần này đã thể hiện

thái độ của ngƣời viết đối với những sự kiện đƣợc miêu tả trƣớc đó. Nó giống nhƣ

một lời nhận xét, một lời bình về cách vận hành guồng máy lãnh đạo của ông Ô-

102

ba-ma. Đồng thời từ “rõ ràng” cũng thể hiện đƣợc sự tƣơng tác giữa tác giả và độc

giả.

Trong bình luận, chủ thể của câu phóng chiếu thƣờng đƣợc thể hiện bằng một

ngữ chỉ một tập thể, hay các danh từ tập hợp chỉ những đối tƣợng khó xác định

đƣợc rõ ràng.

Ví dụ: Cộng đồng quốc tế có chung đánh giá, Nhật Bản là quốc gia có sự

chuẩn bị tốt nhất để đối phó thảm họa thiên tai. (ND, 25/3/2011).

Ví dụ: Giới phân tích cho rằng, vấn đề khó khăn ở chỗ khu vực này chỉ có

một đồng tiền chung và một ngân hàng trung ương, nhưng lại có tới 16 chính phủ.

(QĐND, 26/1/2010).

Trong bình luận, chủ thể có thể là những quán ngữ có đại từ không xác định

hoặc từ để hỏi. Chúng không phải là ẩn dụ thông thƣờng mà là ẩn dụ ngữ pháp.

Chúng đƣợc dùng để thể hiện nghĩa tình thái nhận thức thực hữu hay phản thực

hữu và thƣờng ở mức độ của các thái cực trái ngƣợc. Xuất hiện trong câu trình bày

về vấn đề mang tính khái quát hay quy luật, chúng đồng thời giúp ngƣời viết tạo

hàm ngôn nhằm né tránh nói thẳng những điều e ngại. Đó là những quán ngữ (các

tập hợp từ cố định) nhƣ: không ai, không có người dân nào, hình như chưa có ai,

ai dám chắc rằng, sẽ không thể nói được rằng, điều đó cũng không xa sự thật, điều

đó không có vẻ là như vậy ...

Ví dụ: ... Đến khi ốc bươu vàng tràn ngập các cánh đồng miền Nam, miền

Trung rồi lan ra cả miền Bắc thì mọi chuyện đã rồi. Nông dân, mùa màng lãnh đủ

nạn cắn phá cây trái, huỷ diệt thiên địch ...

Lúa thất bát, dịch bệnh tràn lan ... Hai mươi năm rồi, chưa ai thống kê được

những thiệt hại do ốc bươu vàng gây ra, nhưng chắc hắn rằng con số ấy cực kì

lớn, dịch ốc bươu vàng trở thành nỗi kinh hoàng của nông dân và chính quyền địa

phương ... (LĐ, 27/9/2010)

Một câu thể hiện thái độ có thể đứng riêng rẽ và đƣợc dùng để thể hiện thái

độ của tác giả đối với toàn bộ phần lập luận đƣợc nêu ra trƣớc đó, ví dụ:

103

Người dân thường vi phạm pháp luật thì bị xử lí, nhưng ông Du là người

đứng đầu cơ quan bảo vệ rừng vi phạm pháp luật về rừng lại không hề hấn gì. Trớ

trêu thay! (LĐ, 14/4/2010)

Cách thể hiện Chủ thể tường minh

Trong bình luận báo in tiếng Việt, việc đặt ra mục tiêu định hƣớng suy nghĩ

cho độc giả rất rõ ràng. Tuy nhiên, nhân vật trần thuật ít công khai xuất hiện nên

cách sử dụng KTTM phổ biến hơn cách dùng CTTM. Dù vậy, vẫn có thể kể đến

các cách sử dụng CTTM nhƣ sau:

- Chủ thể của câu chính là danh ngữ do đại từ nhân xƣng ngôi thứ nhất đảm

nhiệm kết hợp với vị ngữ là động từ chỉ nhận thức. Tuy nhiên, đại từ nhân xƣng

ngôi thứ nhất số ít (tôi) hiếm khi xuất hiện. Thƣờng gặp nhất là đại từ nhân xƣng

số nhiều (chúng ta, chúng tôi).

Ví dụ: ... Chúng ta cũng hiểu rằng, hiện nay, ở bất kì nước nào trên thế giới,

dù là nước phát triển cao độ, giàu có như Mỹ, vấn đề nhân quyền vẫn tồn tại, vẫn

cần tiếp tục giải quyết. Việt Nam đã từng trải qua mấy cuộc chiến tranh xâm lược,

phá hoại của nước ngoài, nay vẫn là nước nghèo, đang phát triển, vấn đề nhân

quyền đương nhiên vẫn còn, đang gắng sức giải quyết, đó là những thực tế khách

quan ... [128, tr.749].

“Đọc bất kì bài bình luận nào, chúng ta thấy các tác giả khi viết đều không

xƣng “tôi”, không nhắc tới mình. Phong cách ngôn ngữ này khiến những cảm xúc,

những suy nghĩ trở nên khách quan hơn, lại cho độc giả thấy rằng đây là quan điểm

của xã hội, của cả cộng đồng chứ không phải là quan điểm của riêng một cá nhân

nào” (theo [25]).

- Chủ thể ẩn (chủ ngữ bị tỉnh lƣợc): Nhóm các động từ chỉ thái độ mệnh đề

với chủ ngữ ẩn là một hiện tƣợng khá thú vị và phổ biến trong bình luận báo in

tiếng Việt. Tuy không có sự hiển hiện thành văn của chủ thể là ngôi thứ nhất,

ngƣời đọc vẫn dễ dàng nhận thấy đƣợc điều đó, do chủ thể đƣợc khôi phục lại

không mấy khó khăn dựa trên những mối liên hệ bị thiếu để có đƣợc sự liên kết

tƣờng minh với các câu khác trong ngôn bản.

104

Ví dụ: Chắc chắn rằng, những người Mỹ đã từng đến Việt Nam nhiều lần,

hay đã từng sống ở Việt Nam nhiều năm ấy phải hiểu thực tế Việt Nam hơn, lời nói

của họ phải sát thực, đúng đắn hơn những kẻ chỉ “bắc chõ nghe hơi”, “nhắm mắt

nói mò” về nhân quyền ở Việt Nam. (ND, 8/2004)

Có nhiều trƣờng hợp, chủ thể có thể đƣợc suy ra hay hiểu theo nhiều cách

khác nhau. Các ngữ thƣờng xuất hiện xen vào phần miêu tả, câu cuối mỗi đoạn

hoặc phần kết của ngôn bản gồm: có thể nói, thiết nghĩ, chỉ mong sao, rất tiếc

rằng, ấy là còn chưa nói đến, đó là chưa kể tới, vẫn biết ...

- Câu cầu khiến, với ý tƣởng: chủ thể là ngƣời đối thoại trực tiếp, thƣờng xuất

hiện ở cuối đoạn hoặc cuối ngôn bản nhằm công khai định hƣớng suy nghĩ và hành

động của ngƣời đọc.

Ví dụ: “Hãy dọn dẹp ngôi nhà của mình trước đã”! “Hãy chấm dứt phán

quyết quá nghiêm khắc người Việt Nam trong vấn đề nhân quyền mà lẽ ra hãy để

họ phán quyết chúng ta một cách nghiêm khắc”! (ND, 8/2004)

3.2.4. Yếu tố bình luận trong văn bản bình luận báo in tiếng Việt

Luận án đề cập đến các phƣơng thức thể hiện tình thái bởi các thành tố không

thuộc cấu trúc của câu chính nhƣ yếu tố bình luận trong văn bản bình luận gồm:

trạng ngữ tình thái bình luận và thành phần xen.

3.2.4.1. Trạng ngữ tình thái bình luận

Một cách thể hiện bình luận có thể gặp trong các bài bình luận là việc dùng

các trạng ngữ tình thái bình luận, với 2 vị trí phổ biến là: đầu câu hoặc giữa câu,

trong đó vị trí đầu câu vẫn là dạng phổ biến nhất. Trong bình luận, thành phần phụ

chú tình thái (quán ngữ cố định và thành phần chú thích) có thể đƣợc coi là yếu tố

bình luận. Với chức năng chính là biểu thị thái độ của tác giả đối với thông tin nêu

ra trong câu, trạng ngữ tình thái bình luận đƣợc chia thành 2 nhóm chính nhƣ sau:

Trạng ngữ tình thái bình luận chỉ xét đoán về khả năng, xác suất:

Ví dụ: Rõ ràng, Mỹ khó có thể điều chỉnh quan hệ với Nga mà không gây ảnh

hưởng tới “lợi ích” của các nước khác như Oa-sinh-tơn từng tuyên bố. (QĐND,

24/7/2009)

105

Các trạng ngữ chỉ phán đoán khác nhƣ: quả thực là, có thể, có lẽ, một cách

định kì, gần như, trên thực tế, rõ ràng là, phải thừa nhận là ...

Các quán ngữ cố định thể hiện phán đoán có chức năng tƣơng đƣơng: thực

sự, tất nhiên, quả thực vậy, tuy nhiên, quả thật, thật ra ...

Ví dụ: Cũng đáng lưu ý là bất cứ chính sách nào, quyết định nào cũng có

những hệ quả không lường trước. (LĐ, 18/7/2010)

Trạng ngữ tình thái bình luận chỉ thiên hƣớng, sở thích, thái độ:

Các trạng ngữ có vai trò này gồm: dễ hiểu là, chẳng ngạc nhiên, một cách

tượng trưng, không may thay, chân thành mà nói, buồn thay, quả là quan trọng, kì

diệu thay, thật nghiêm trọng, lập tức, không nghi ngờ gì ...

Ví dụ: Ngay lập tức các khổ chủ kêu cứu, lái xe thì than “sắp treo niêu”, chủ

doanh nghiệp doạ phá sản. (LĐ, 9/7/2010)

Ví dụ: Có thể những ngư dân ở Sa Huỳnh bị chết nói trên đã dùng “quá liều”

urê, những mong cá được tươi lâu chăng? Nếu thế thì, chỉ vì tham một chút “giá”

mà phải trả giá như thế, xót thay! (LĐ, 12/7/2010)

3.2.4.2. Cú và ngữ xen

Khi nói về đƣờng biên sắp xếp thứ bậc trong một cú phức, Martin [120,

tr.177] chỉ ra ba khả năng trong việc xác định điểm bắt đầu và kết thúc của một cú.

Cú bị bao (cú xuống bậc): cú không tham gia vào các mối quan hệ phụ thuộc

hay đẳng lập với các cú khác.

Cú xen: cú xen vào giữa một cú khác mà không bị bao (là thành phần) trong

nó.

Tập hợp ngữ động từ hoặc tập hợp cú.

Theo Cao Xuân Hạo [47, tr.68], phụ chú ngữ (hay thành phần chú thích,

thành phần chêm, xen, giải thích ...) gồm 2 loại: phụ chú cho một từ và phụ chú

cho cả câu. Chúng không tham gia vào cấu trúc đề thuyết của câu, mà đƣợc dùng

để chêm, xen vào một câu đã toàn vẹn ý nghĩa.

Trong bình luận, thành phần xen rất phổ biến và có thể coi là phƣơng thức thể

hiện thái độ của ngƣời viết, đồng thời là một trong các cách không những đƣa

106

thông tin bổ sung, mà còn tạo nên đối thoại giữa ngƣời viết và ngƣời đọc. Có thể

phân chia chúng dựa trên cấu trúc và khả năng thể hiện nghĩa nhƣ sau:

Ngữ xen: Theo các tiêu chí xác định các cú xen, có những ngữ xuất hiện ở vị

trí và đảm nhiệm chức năng của cú xen. Một trong số các ngữ đó có thể đƣợc quy

về dạng cấu trúc của một cú tỉnh lƣợc, các cấu trúc khác chỉ đơn thuần là ngữ xen.

Ví dụ: Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Mỹ đã bắt đầu thẩm định xem

những tài liệu mật vừa bị lộ sẽ gây trở ngại như thế nào cho cuộc chiến, và ảnh

hưởng ra sao cho quan hệ giữa Mỹ với Pa-ki-xtan, cũng như giữa Pa-ki-xtan và

Áp-ga-ni-xtan. Nhưng theo nhận định của các chuyên gia an ninh, việc tiết lộ các

tài liệu mật về cuộc chiến Áp-ga-ni-xtan đe dọa khoét sâu thêm những nghi ngờ về

cuộc chiến này trong người dân Mỹ, châm ngòi những xích mích mới với Pa-ki-

xtan (vì cơ quan tình báo của nước này được nhắc nhiều trong tài liệu) và khiến

cả thế giới đặt dấu hỏi lớn về khả năng của Oa-sinh-tơn bảo vệ những bí mật quân

sự kiểu này. (QĐND, 29/7/2010)

Cú xen: Có thể nêu ra các đặc điểm chính của các ngữ và cú xen nhƣ sau:

Về dấu hiệu hình thức: thành phần xen đƣợc phân cách với các thành tố trong

câu bởi dấu phẩy (,), dấu gạch ngang (-) hoặc ngoặc đơn ( ).

Về vị trí: các ngữ, cú xen không có vị trí cố định, tức là chúng có thể xen vào

bất kì một vị trí nào trong cấu trúc câu: trƣớc, sau hoặc giữa một thành tố trong

câu.

- Xen vào giữa các cấu trúc cố định:

Ví dụ: Những tin xấu dồn dập (mới đây nhất, 6/7 là việc uỷ ban 11-9 thông

báo rằng Phó Tổng thống Dick Cheney không có thêm thông tin gì mới về mối

liên hệ giữa chế độ Hunssen và tổ chức khủng bố Al Qaeda), hiển nhiên không

có lợi cho chính quyền Bush trước bầu cử tổng thống. (TT, 9/7/2004)

- Xen vào giữa một danh ngữ (giữa danh từ trung tâm và định ngữ sau):

Ví dụ: Điểm nổi bật là chương trình sản phẩm chủ lực “2 cây – 2 con” và

chương trình “hoa cảnh – cá cảnh” (rất đặc trưng của nông nghiệp đô thị) ngày

càng phát triển, có hiệu quả. [77, tr.125]

- Xen vào giữa chủ ngữ và vị ngữ:

107

Ví dụ: Trong tường trình của mình về tình hình Việt Nam dài tám trang rưỡi,

ông C. Xmít, với con mắt thiển cận, phiến diện, đã làm ngơ trước sự phát triển

kinh tế, xã hội quan trọng của Việt Nam được cả thế giới biết đến và đánh giá cao.

(ND, 8/2004)

- Ở vị trí cuối câu:

Ví dụ: Ai cũng biết, cả các cơ quan quản lí nhà nước chắc cũng biết, số

người muốn đi lại (cầu) tăng, song số xe lưu thông (cung) tăng không nhanh bằng

mức tăng của cầu, thì sẽ xảy ra trục trặc (giá tăng, nhồi thêm người, tìm cách

lách quy định) (LĐ, 7/3/2010).

Về chức năng cú pháp: các ngữ, cú xen là thành phần phụ chú trong câu. Xét

trên phạm vi toàn câu, thành phần xen có thể bổ sung thông tin cho một từ, một

ngữ, một câu hay cung cấp tình huống về ngữ cảnh ngôn bản. Khả năng mở rộng

nghĩa của cú xen rất phù hợp với nhu cầu mở rộng nghĩa của câu trong bình luận.

Ví dụ: Sau khi chuyển từ cấp phó lên làm chỉ huy nhà tù S21, Duch chia S21

thành những khu riêng biệt với chức năng khác nhau, đó là khu bảo vệ, khu thẩm

vấn (Duch trực tiếp giám sát khu này), khu tài liệu, khu đặc biệt.

(QĐND, 29/7/2010)

Cú chính không có phần xen là cú trọn vẹn về cả ngữ pháp và ngữ nghĩa: Sau

khi chuyển từ cấp phó lên làm chỉ huy nhà tù S21, Duch chia S21 thành những khu

riêng biệt với chức năng khác nhau, đó là khu bảo vệ, khu thẩm vấn, khu tài liệu,

khu đặc biệt. Tuy nhiên, thành phần xen là thành phần phụ chú bổ sung nghĩa cho

cụm từ đứng ngay trƣớc nó: khu thẩm vấn – khu mà Duch trực tiếp giám sát.

Về đặc điểm phong cách: Ngôn ngữ của ngữ và cú xen thiên về văn phong

hội thoại, mang tính chất khẩu ngữ. Những ví dụ sau có thành phần xen đƣợc sử

dụng ở mức độ đậm đặc và mang tính khẩu ngữ:

- Nếu Bộ Giao thông có một văn bản cho phép và tạo thuận tiện cho các nhà

kinh doanh vận tải hành khách để có thể huy động thêm xe (kể cả xe nước ngoài)

với các thủ tục đơn giản để họ tăng cung (huy động thêm xe, nới quy định về tốc

độ, số chuyến, số tuyến, …) hay giảm cầu (thí dụ để họ được phép đăng kí tăng

108

giá) trong thời gian trước và sau Tết một thời gian nào đó (thí dụ 3 tuần), thì tình

hình sẽ được cải thiện đáng kể … (LĐ, 7/3/2010).

- Nông dân ta làm ăn đâu thua kém ai. Biết “Trông trời, trông đất, trông

mây” – xưa như thế là ổn. Nay, thời buổi hội nhập, muốn sống được, sống khoẻ,

còn phải biết cả “Trông người, trông trước, trông sau”, có thế may chăng mới ổn.

(LĐ, 9/3/2010).

Về vai trò trong giao tiếp: Thành phần xen tuy làm gián đoạn việc theo dõi

diễn biến sự kiện, nhƣng lại có nhiều tác dụng trong giao tiếp nhƣ:

- Cung cấp, bổ sung những chi tiết cần thiết giúp cho việc hiểu đúng thông tin

đƣợc trình bày trong cấu trúc chính của cú, giải đáp tức thời thắc mắc có thể xuất

hiện trong quá trình nhận thức về sự kiện, tăng sức thuyết phục cho thông báo.

- Luận bình và thể hiện thái độ một cách tế nhị của ngƣời viết về thông tin

chính của cú. Điều này tạo nên sự phong phú, đa dạng cho giao tiếp. Bởi lẽ, vì nằm

ngoài cấu trúc chính của câu nên thành phần xen không bị chi phối một cách chặt

chẽ bởi các quy tắc áp dụng cho các thành phần nòng cốt câu.

- Giúp ngƣời viết giao tiếp với ngƣời đọc và định hƣớng suy nghĩ cho ngƣời

đọc.

3.2.5. Các biểu thức quy chiếu biểu hiện nghĩa liên nhân

Quy chiếu với tƣ cách là một trong những phƣơng thức tạo liên kết văn bản sẽ

đƣợc trình bày ở chƣơng 4. Ở chƣơng 3 này, chúng tôi khảo sát biểu thức quy

chiếu nhƣ một phƣơng thức thể hiện nghĩa liên nhân vì lí do: Trong bình luận báo

in tiếng Việt, biểu thức quy chiếu là một trong những phƣơng thức đƣợc dùng khá

hữu hiệu để thể hiện quan hệ tƣơng tác giữa ngƣời nói (ngƣời viết) với ngƣời nghe

(ngƣời đọc). Bằng những biểu thức này, tác giả “buộc” ngƣời đọc tƣởng tƣợng ra

nhân vật mà ngƣời đọc chƣa một lần đƣợc tiếp xúc, nhƣng lại đƣợc mô tả trong

văn bản thông qua lăng kính chủ quan của ngƣời viết, nhằm gieo vào lòng ngƣời

đọc một ấn tƣợng nhất định về nhân vật trƣớc khi ngƣời đọc tự rút ra kết luận và

xác định thái độ riêng của mình. Ấn tƣợng ban đầu đó rất quan trọng vì chỉ bằng

một từ hay một ngữ tác giả có thể tạo ra hoặc hƣớng tình cảm của ngƣời đọc theo

109

hƣớng định sẵn. Và điều này, đƣơng nhiên sẽ làm giảm bớt tính khách quan của

ngôn bản bình luận.

Halliday [114, tr.340] cho rằng có 3 khái niệm liên quan đến việc chuyển

nghĩa ngôn từ (cách sử dụng “không theo nghĩa đen” của từ) là: ẩn dụ, hoán dụ và

cải dung.

- Ẩn dụ: một từ thƣờng dùng để chỉ một cái gì đó giống với cái mà nó thƣờng

ám chỉ; ví dụ: từ flood có nghĩa đen là “trận lụt” và động từ đi kèm với nó là

poured in (tràn vào) đƣợc dùng trong câu sau để thể hiện một hành động đƣợc mô

phỏng tƣơng tự:

A flood of protests poured in following the announcement [a large quantity ...

came in] (Một làn sóng phản đối đã tràn vào tiếp theo lời thông báo).

Halliday chỉ rõ rằng: phần lớn các trƣờng hợp chuyển từ nét nghĩa cụ thể sang

trừu tƣợng là chuyển nghĩa từ việc biểu hiện quá trình vật chất sang biểu hiện quá

trình tinh thần.

Ví dụ: I haven ,t grasped it (tôi chƣa bắt đƣợc nó (quá trình vật chất)

tôi chưa hiểu được nó (quá trình tinh thần).

- Hoán dụ: từ đƣợc dùng để chỉ một cái gì đó có liên hệ với từ nó thƣờng ám

chỉ; ví dụ: Hắn ta luôn săn lùng váy [con gái].

- Phép cải dung: từ đƣợc dùng để chỉ một tổng thể lớn hơn mà nó chỉ là bộ

phận; ví dụ: Tất cả họ sống dưới một mái nhà [trong một nhà].

Ẩn dụ, là sự thay đổi trong cách sử dụng từ, đƣợc xem xét dƣới góc độ „ý

nghĩa này đƣợc thể hiện nhƣ thế nào?‟, cụ thể hơn là sự thay đổi cách diễn đạt ý

nghĩa một cách tinh tế.

Ẩn dụ ngữ pháp đƣợc Halliday [42] lí giải nhƣ sau: “Nếu có một cái gì đó

đƣợc cho là ẩn dụ ngữ pháp thì nó phải có tính ẩn dụ trong mối liên hệ với một cái

gì khác. Điều này thƣờng đƣợc thể hiện nhƣ là mối quan hệ một chiều: một ý nghĩa

ẩn dụ nào đó của một từ có sự tƣơng ứng của một ý nghĩa phi ẩn dụ của một từ

khác không đƣợc cho là có „nghĩa đen‟, nhƣ là một sự thay đổi về ý nghĩa của một

cách diễn đạt nhất định, mà lại xem nó „từ trên xuống‟, nhƣ là một sự thay đổi về

cách diễn đạt của một ý nghĩa nhất định. Do đó, khái niệm „nghĩa đen‟ không phù

110

hợp lắm. Vì vậy biến thể có ít tính ẩn dụ là biến thể có tính „tƣơng thích‟

(conguent). Nói theo cách khác, bất kì một hình thể ngữ nghĩa nào cũng đều có

một hình thức hiện thực hoá ở bình diện ngữ pháp – từ vựng – một cách tạo lời hay

chua lời (wording) nào đó – có thể đƣợc xem là tƣơng thích. Cũng có thể có nhiều

cách tạo lời khác mà ở khía cạnh nào đó đƣợc „chuyển nghĩa‟ hay có tính ẩn dụ

(metaphorical)”. Hai bình diện này đƣợc đối chiếu trong hình sau:

nhìn „từ dƣới lên‟ nhìn „từ trên xuống‟

nghĩa đen nghĩa ẩn dụ „many people [protested]‟ a moving mass „a moving mass of (nhiều ngƣời phản đối)

of water feeling or rhetoric‟ a large number a flood [of protets] [of protets] flood tương thích ẩn dụ

Sơ đồ 3.4 Hai bình diện của ẩn dụ (Nguồn Halliday [42, tr.542])

Nhƣ vậy, bản chất của ẩn dụ ngữ pháp là những biến thể trình bày khác nhau

có thể đƣợc lựa chọn để biểu đạt cùng một ý nghĩa, nó thể hiện cách nhìn từ trên

xuống. Trong khi đó, ẩn dụ từ vựng (theo truyền thống) nhấn mạnh những biến

thể ngữ nghĩa khác nhau của cùng một cách biểu đạt, thể hiện cách nhìn từ dƣới

lên.

Việc dùng các biểu thức quy chiếu liên nhân (chuyển nghĩa) để thể hiện thái

độ trong bình luận báo in tiếng Việt rất phổ biến.

3.2.5.1. Phân loại theo cấu trúc

Biểu thức quy chiếu liên nhân là đại từ nhân xưng

Ngƣời viết bình luận dùng các đại từ nhân xƣng vào các ngữ cảnh khác để tạo

ẩn dụ ngữ pháp; ví dụ:

Trong tường trình của mình về tình hình Việt Nam dài tám trang rưỡi, ông C.

Xmít với con mắt thiển cận, phiến diện, đã làm ngơ trước những sự phát triển kinh

tế, xã hội quan trọng của Việt Nam được cả thế giới biết đến và đánh giá cao. Trái

lại, ông ta chỉ tập trung vào vấn đề thứ yếu, nhai lại luận điệu cũ rích, vu cáo Việt

Nam “vi phạm nghiêm trọng” về dân chủ, nhân quyền ...

111

(Trích bài Một đạo luật phi lí [128, tr.476])

Những từ, ngữ khác hay đƣợc dùng để tạo ẩn dụ ngữ pháp nhƣ: hắn, người ta,

ngài, ông con ... Ví dụ, cũng trong bài bình luận Một đạo luật phi lí, một đoạn khác

tác giả lại viết:

… Vậy thì, nếu như ông C. Xmít có nhiệt huyết quan tâm đến vấn đề nhân

quyền, thì trước hết hãy góp sức cùng chính phủ và nhân dân Mỹ lo liệu vấn đề

nhân quyền ở Mỹ; hãy để cho Chính phủ và nhân dân Việt Nam được yên ổn mà lo

liệu vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Xin ngài C. Xmít hãy đừng quá lo lắng cho

vấn đề nhân quyền ở Việt Nam …

(Trích bài Một đạo luật phi lí [128, tr.749])

Viết về ông C. Xmít (tác giả của điều luật), tác giả bài báo dùng đại từ nhân

xƣng “ông” “ngài”. Đặt trong ngữ cảnh của bài báo là phê phán điều luật sai

trái, phi lí của ông C. Xmít, thì đại từ “ngài” này rõ ràng là mang một ý nghĩa mỉa

mai, châm biếm.

Ví dụ sau đây là một cách tạo ẩn dụ ngữ pháp từ đại từ nhân xƣng để chỉ tên

trùm cai ngục Khơ-me Đỏ khét tiếng man rợ trong lịch sử:

Cùng với nhân dân Cam-pu-chia, nhân dân Việt Nam hay bất cứ ai trên thế

giới biết rõ tội ác diệt chủng của chế độ Khơ-me Đỏ trước đây đều vui mừng trước

tin Tòa án xét xử tội ác Khơ-me Đỏ (ECCC) ở Cam-pu-chia, do Liên hợp quốc bảo

trợ, đưa ra xét xử và tuyên án 35 năm tù giam đối với Cang Kếch Yêu (Kaing Guek

Eav), người có biệt danh là “Duch”, cai ngục nhà tù Tuôn Xleng S-21 (Toul Sleng)

khét tiếng dưới chế độ Khơ-me Đỏ. Hắn là một trong những thủ lĩnh Khơ-me đỏ

cấp cao bị đưa ra xét xử đầu tiên và bị buộc tội phạm tội ác chiến tranh cùng các

tội ác chống lại loài người. (QĐND, 27/7/2010)

Ví dụ trên là đoạn trích trong bài bình luận “Ngày phán xét lịch sử”. Câu đầu

tiên của đoạn, tác giả giới thiệu tên nhân vật bị Toà án xét xử tội ác Khơ-me Đỏ ở

Cam-pu-chia là: “Cang Kếch Yêu”. Nhƣng ở câu thứ hai, tác giả dùng từ “hắn”.

Cách dùng đại từ nhân xƣng này cho thấy thái độ coi thƣờng của tác giả (cũng nhƣ

của độc giả) đối với tên Khơ-me Đỏ (vì hắn đã gây tội ác diệt chủng).

Biểu thức quy chiếu liên nhân là danh ngữ

112

Về lí thuyết, các biểu thức quy chiếu thƣờng có cấu trúc là danh ngữ hoặc

danh ngữ kết hợp với thành phần đồng chức năng; ví dụ:

. (TT, 19/8/2010)

Biểu thức quy chiếu liên nhân là trích dẫn trực tiếp bộ phận

TDTT bộ phận là một trong những phƣơng thức đem lại hiệu quả cao trong

việc thể hiện chức năng tƣ tƣởng. Với chức năng liên nhân, trích dẫn góp một phần

không nhỏ không những ở việc tiết kiệm từ ngữ mà còn thể hiện thái độ và tình

cảm của tác giả. Các TDTT bộ phận có thể đóng vai trò của một biểu thức quy

chiếu hoặc bổ ngữ sau cho danh từ trung tâm của biểu thức quy chiếu. Phƣơng

thức TDTT bộ phận đem lại cho ngƣời đọc cảm giác ngƣời viết rất khách quan

trong miêu tả, nhƣng thực chất ngƣời đọc bị tác động bởi thái độ của tác giả qua

việc chọn lựa hoàn toàn có dụng ý một từ, ngữ cụ thể.

- Biểu thức quy chiếu là TDTT bộ phận có cấu trúc danh ngữ; ví dụ:

Vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, đang phải đối mặt với

muôn vàn khó khăn nhưng nhân dân Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn

hành động một cách hào hiệp và vô tư, sẵn sàng chấp nhận hi sinh xương máu, tổn

thất lớn để cứu nhân dân Cam-pu-chia khỏi thảm họa diệt chủng, hồi sinh dân tộc

này từ “cánh đồng chết”. (27/7/2010)

“cánh đồng chết”: chỉ đất nƣớc Cam-pu-chia bị thảm hoạ diệt chủng của

Khơ-me Đỏ thái độ lên án, căm phẫn.

Ví dụ: Ngày 15-8-1975, Bộ trưởng Quốc phòng Son Sen của chế độ Khơ-me

Đỏ gọi Duch tới một cuộc họp tổ chức ở nhà ga Phnôm Pênh để lên kế hoạch

thành lập nhà tù S21 tại Phnôm Pênh. Sau cuộc họp, S21 được thành lập và trở

thành nơi giam giữ, hành hình các cán bộ của Đảng Cộng sản Cam-pu-chia. “Địa

ngục trần gian” này chính thức đi vào hoạt động từ tháng 10-1975. (QĐND,

29/7/2010)

113

“Địa ngục trần gian”: chỉ nhà tù Tuôn Xleng (S21), nơi Cang Kếch Yêu (tức

Duch), trùm cai ngục của chế độ Khơ-me Đỏ, cùng các thuộc hạ của hắn gây biết

bao tội ác man rợ, là nơi giam giữ khoảng 15 nghìn ngƣời nhƣng chỉ có 7 ngƣời

sống sót thái độ lên án, căm phẫn.

- TDTT bộ phận là thành phần của biểu thức quy chiếu có cấu trúc danh

ngữ; ví dụ:

Hành động “kiến ngãi bất vi ...” của hai công dân Mai Văn Chiêm và

Nguyễn Thanh Hải cho thấy khát vọng bình yên và năng lực tự vệ của người dân,

(…). (TT, 21/8/2010) (Trích một câu thơ trong “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình

Chiểu, thể hiện sự đánh giá hành động nghĩa hiệp, nhân nghĩa).

Biểu thức quy chiếu liên nhân là cách nói thường dùng trong dân gian

Ví dụ: Tuy nhiên, không ít người cho rằng, Mỹ bác bỏ việc tra tấn ông Sa-ra-

phi là lẽ hiển nhiên, bởi “nói có sách, mách có chứng”. (QĐND, 14/4/2007)

Ví dụ: Năm 2003, Trung Quốc quyết tâm mạnh tay với nạn tham nhũng, kéo

theo hàng nghìn vụ bắt giữ những “con sâu làm rầu nồi canh”. (QĐND,

27/1/2007)

Chúng ta dễ dàng nhận thấy “nói có sách, mách có chứng và “con sâu làm

rầu nồi canh” là những cách nói thƣờng sử dụng trong phong cách sinh hoạt hằng

ngày. Đây cũng chính là cách các nhà báo sử dụng thành ngữ, tục ngữ và các biến

thể của chúng để tăng cƣờng sự bình giá trong tác phẩm bình luận.

3.2.5.2. Phân loại theo mục đích giao tiếp

Biểu thức quy chiếu liên nhân nhằm mục đích liên tưởng

Ví dụ: Các cai ngục dưới quyền Duch đều do chính “trùm đồ tể” này chọn

lựa với ưu tiên hàng đầu là những cộng sự thân tín nhất của hắn tại M-13, bí số

của nhà tù đầu tiên của Khơ-me Đỏ mà hắn là trại trưởng. (QĐND, 29/7/2010)

“trùm đồ tể”: liên tƣởng tới những kẻ độc ác vô nhân đạo, chuyên giết hại

ngƣời.

Biểu thức quy chiếu liên nhân có chức năng so sánh, tương phản

Ví dụ: Khi chiến tranh nổ ra, đối với nhiều nước, dầu lửa là quỷ dữ, làm cho

114

họ điêu đứng, thì đối với một số nước khác, dầu lửa lại là thiên thần. [129, tr.18]

Biểu thức quy chiếu liên nhân thể hiện đánh giá, cảnh báo

Ví dụ: Nếu vùng Vịnh bốc cháy, các nhà khoa học dự tính sẽ có một “mùa

đông hạt nhân” trên bầu trời vùng Vịnh. Lúc đó, ánh nắng mặt trời sẽ không

chiếu xuống được mặt đất, nhiệt độ sẽ giảm xuống 20 độ C. Hàng trăm triệu

người có thể bị chết đói hoặc bị nhiễm độc. Vì vậy con quỷ lửa hiện nay đang là

nỗi ám ảnh khủng khiếp đối với các nước vùng Vịnh và thế giới. [129, tr.18]

3.3. Tiểu kết

Ở chƣơng 3, chúng tôi đã trình bày chức năng liên nhân của văn bản bình

luận. Qua việc định hƣớng suy nghĩ, cụ thể là các phƣơng thức thể hiện thái độ của

ngƣời viết đối với thông tin nêu ra, có thể khẳng định rằng: bình luận, tuy là ngôn

bản mang đặc trƣng độc thoại nhƣng trên thực tế đã tham gia vào giao tiếp. Tính

tình thái trong bình luận đƣợc thể hiện bằng các phƣơng thức ngôn ngữ nằm trong

nội bộ câu cung cấp thông tin (hiện thực hoá tình thái có tính tƣơng thích) hoặc

bên ngoài câu chứa thông tin (câu phóng chiếu, trạng ngữ bình luận và câu xen).

Điều làm cho bình luận khác với tin và một số thể loại báo chí khác là ở dạng thứ

hai: tính tình thái đƣợc thể hiện thông qua ẩn dụ tình thái liên nhân với hai hình

thức chính là khách thể tƣờng minh và chủ thể tƣờng minh.

Dù thể hiện tình thái dƣới dạng chủ thể tƣờng minh hay khách thể tƣờng

minh thì cái “tôi” tác giả trong bình luận báo in tiếng Việt vẫn biểu lộ đƣợc thái độ

và vai trò của mình một cách rõ nét nhất, khẳng định tính chủ động trong định

hƣớng suy nghĩ của tác giả cũng nhƣ định hƣớng suy nghĩ cho độc giả (tính quyền

lực của báo chí theo quan điểm của phân tích diễn ngôn phê phán).

115

Chương 4

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG CÁC

VĂN BẢN BÌNH LUẬN ĐỂ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG VĂN BẢN

Nhiệm vụ nghiên cứu ngôn

bản c

– T hoá

/

hoá ể ?

4.1. VỀ CẤU TRÚC VĨ MÔ VÀ CẤU TRÚC VI MÔ

, vi mô

. V

,

Hassan: (macro – struct

(rhetorical patterns) [43]).

Trong chƣơng

.

[43]) Ted Honderics

.

116

[116 (tex

vận dụng cách tiếp cận của tác giả

Nguyễn Thị Hà [43],

ngôn .

4.2. CẤU TRÚC VĨ MÔ CỦA VĂN BẢN BÌNH LUẬN

[6], [15].

[116

(once

– .

, quy hoá

[116

117

hoá

hoá hoá

.

[116

(O

(Optinal elemen

.

,

,

.

4

a. Tiêu đề (nhan đề, đầu đề)

.

118

, …” [55].

, câu a1.

.

4.1

Màn hai Vedan (LĐ 13/8/2010) Xây dựng lòng tin (QĐND 06/06/2009)

(70%)

Câu (25%) 48% 15% 2,5% Khi nào làm xong? (LĐ 09/12/2010) 4,5% Màu cam phai nhạt (QĐND 06/02/2020) Lô cốt bị lôi ra tòa (LĐ 30/8/2010) 16% 5% Bác sĩ ngồi ở đâu? (TT 20/9/2010) 3% Đừng để chết non! (LĐ 17/8/2010) 1% Bữa ăn 5000 đồng! (LĐ 15/03/2010)

(4%) 4% Chiến trường Áp-ga-ni-xtan: Một góc nhìn cận

cảnh (QĐND 23/01/2010)

1% Nỗi lo “hậu di sản” (TT 19/8/2010)

Trích dẫn (1%)

(48%). Câu

trong câu (16%).

:

(i)

bình luận phải phản ánh sự kiện hoặc là tình huống,

quá trình, xu thế, nhiệm vụ, cách giải quyết, cách đánh giá liên quan đến sự kiện

đó. Nó có thể xác định hoặc phản ánh hƣớng tranh luận của bài bình luận.

thu :

. :

119

- Màn hai Vedan (LĐ 13/8/2010)

- Từ ốc bươu vàng đến hải li và rùa tai đỏ (LĐ 18/7/2010)

: .

? – - )

(LĐ 8/12/2010) - “ ”

:

- – –

)

- – ) –

.

(ii) Đặt nêu vấn đề. Ví dụ:

- Khi nào làm xong? (LĐ 9/12/2010)

- Mỹ điều chỉnh chiến lược quân sự theo hướng nào? (QĐND 19/8/2010)

Kiểu tiêu đề này thƣờng phản ánh hƣớng tranh luận của bài báo và hẳn điều

này không chỉ có một nhà báo hay một tờ báo đề cập.

(iii) :

- Phi lí, vô nhân đạo và lỗi thời (QĐND 29/10/2009)

- Màu cam phai nhạt (QĐND 06/02/2020)

- Khổ quá Bộ trưởng ơi! (LĐ 13/7/2010)

Dù kết hợp trong mình nhiều đặc tính, một tiêu đề bình luận không phải lúc

nào cũng đủ sức kéo ngƣời đọc chú ý tới bài báo, do nó không đủ sức khái quát,

quá trừu tƣợng hay ở dạng hàm ngôn khó suy luận. Chính vì một trong những lí do

đó mà phần mở đầu không những chỉ là sự tiếp nối mà còn là sự bổ sung, chi tiết

hoá cho tiêu đề.

b.

Phần mở đầu trong bài bình luận báo in tiếng Việt thƣờng từ 2 đến 5 câu, với

chức năng nhƣ chiếc cầu nối giữa tiêu đề và phần phát triển. Phần mở đầu trong

bài bình luận thƣờng có những dạng chính nhƣ sau:

120

(i) Là sự cụ thể hoá cho chi tiết chính đƣợc nêu ra ở tiêu đề (31,5%); ví dụ:

Tiêu đề: Khôi phục niềm tin bị đánh mất

Phần mở đầu: Sáng 28-1, nhà lãnh đạo Mỹ B.Ô-ba-ma (B.Obama) đã đọc thông

điệp liên bang đầu tiên của nhiệm kì tổng thống. Dành phần lớn thời gian đề cập

đến “bánh mì và bơ”, cụ thể là tập trung vào mặt trận thất nghiệp và giảm thâm

hụt ngân sách, Tổng thống thứ 44 của nước Mỹ đang nỗ lực lấy lại hình ảnh sau

một năm mà những cam kết đổi thay khi tranh cử vẫn chưa thành hiện thực.

(QĐND 29/1/2010)

Đây là dạng tiêu đề và phần mở đầu cung cấp đƣợc nhiểu thông tin nhất.

(ii) Có câu hỏi định hƣớng suy nghĩ cho toàn ngôn bản (14%); ví dụ:

Tiêu đề: Xây dựng lòng tin

Phần mở đầu: Tổng thống B.Ô-ba-ma đã chính thức gửi tới thế giới Hồi giáo bức

thông điệp mang tính “tích cực và xây dựng” với mong muốn cải thiện mối quan

hệ giữa Mỹ và thế giới Hồi giáo. Phát biểu tại trường đại học Cai-rô của Ai Cập,

ông Ô-ba-ma kêu gọi: “Mọi bất hòa, mọi sự hoài nghi cần phải chấm dứt… vì một

sự khởi đầu mới cho người Mỹ và cộng đồng người Hồi giáo trên khắp thế giới, vì

một tương lai cùng có lợi và tôn trọng lẫn nhau”. Liệu thông điệp cởi mở này có

giúp ông hoàn thành sứ mệnh khó khăn hàn gắn quan hệ và khôi phục hình

ảnh nước Mỹ trong thế giới Hồi giáo? (QĐND, 06/6/2009)

Ở ví dụ này tiêu đề tạo hàm ngôn nhờ ẩn dụ và mang tính nghệ thuật cao. Nếu

chỉ đọc tiêu đề này ngƣời đọc không phải lúc nào cũng hiểu hết ý định của tác giả

và có thể liên tƣởng đến rất nhiều sự việc xảy ra ở các địa điểm, với các mức độ

khác nhau (kể cả với sự giúp đỡ của những bức ảnh). Chính vì vậy, phần mở đầu

này vừa có tác dụng giới hạn phạm vi đề cập của ngôn bản, vừa định hƣớng suy

nghĩ. Câu cuối của phần mở đầu dƣới dạng câu hỏi ẩn dụ thức, biểu hiện chức

năng liên nhân, đồng thời đƣa ngƣời đọc vào vị trí của đồng nhân chứng.

Phần phát triển cung cấp các dữ kiện để trả lời cho câu hỏi và đƣợc trình bày

lần lƣợt theo thứ tự thời gian hoặc từ đơn giản đến phức tạp. Phần kết tổng kết lại

những luận chứng và trực tiếp hoặc gián tiếp trả lời câu hỏi đã nêu.

121

(iii) Mở đầu nêu nhận xét của ngƣời viết và cung cấp thông tin nền (36,5%?)

Tiêu đề: Cùng chuyện khác mục đích

Phần mở đầu: Chuyện như thế rất hiếm khi thấy xảy ra ở khu vực kể từ nhiều

năm trở lại đây: Cả Mỹ lẫn Trung Quốc đều tiến hành tập trận quy mô lớn trên

biển Đông Bắc Á. Mỹ và Hàn Quốc tiến hành cuộc tập trận chung trên biển lớn

nhất kể từ sau cuộc chiến tranh ở Triều Tiên đến nay. (LĐ, 31/7/2010)

Kiểu mở đầu này xuất hiện tƣơng đối nhiều trong các bài bình luận, vì tên gọi

của thể loại báo chí này đã cho thấy yếu tố “nhận xét”, “bình luận” sẽ xuất hiện

nhiều.

(iv) Mở đầu trực tiếp (13%)

Kiểu mở đầu trực tiếp (mở đầu thẳng) là kiểu mở đầu khẳng định luôn nội

dung của đầu đề - chủ đề. Ví dụ:

Tiêu đề: Nền tảng vững chắc của độc lập dân tộc

Phần mở đầu: Các nhân tố cơ bản và chủ yếu tạo nên nền tảng vững chắc của

độc lập dân tộc là: Đường lối xây dựng và phát triển đất nước phù hợp với quy

luật phát triển khách quan của xã hội và thời đại; có nền kinh tế độc lập tự chủ;

chế độ chính trị phù hợp ý chí, nguyện vọng của nhân dân và an ninh quốc phòng

được đảm bảo. (LĐ, 1/9/2010)

(v) Mở đầu bằng cách dẫn điển tích, điển cố (2%)

Ở cách mở đầu này, ngƣời viết thƣờng dẫn một chuyện chép trong văn học cũ

(có thể là toàn bộ cốt truyện hoặc chỉ là một chi tiết), để tạo cơ sở liên hệ, so sánh.

Rồi từ đó, nói về một vấn đề, một sự kiện hiện tại có những nét tƣơng tự. Ví dụ:

Tiêu đề: Buôn … công nhân

Mở đầu: Xưa, trong Đông Chu Liệt Quốc, có chuyện Lã Bất Vi buôn vua. Nay là

thời mới, ngôi vị đã thay đổi, thế là lại nảy sinh những toan tính buôn … công

nhân. Chuyện vừa xảy ra rất đáng kể lại. [131, tr.66]

Cách mở đầu nhƣ trên có sự chuyển đổi bất ngờ từ quá khứ sang hiện tại và

màu sắc tƣơng phản giữa cổ và kim đã tạo nên sự thú vị cho độc giả. Họ vừa đƣợc

gợi nhắc về tích cũ, vừa đƣợc tiếp nhận thông tin mới liên quan tới một vấn đề bức

xúc trong xã hội.

122

(vi) Mở đầu bằng một câu chuyện thời hiện đại (1%)

Là kiểu mở đầu mà ngƣời viết dẫn một chuyện qua phim ảnh hoặc một

chuyện ngoài đời để làm cách đặt vấn đề. Với kiểu mở đầu này, ngƣời đọc cũng dễ

bị cuốn hút vào câu chuyện riêng của một ai đó. Sau đây là một ví dụ:

Tiêu đề: Đừng để lòng tốt cô đơn!

Phần mở đầu: Kênh HBO chiếu đi chiếu lại bộ phim The brave (tựa tiếng Việt:

Người dũng cảm). Phim kể về nữ phát thanh viên Erica Bain của chương trình

Street Talk – Đài New York (Mỹ) đang sống bình yên và hạnh phúc cùng chồng

sắp cưới thì ngày nọ, bọn du đãng giết chết hôn phu của cô và đánh cô trọng

thương. Sau ba tuần hôn mê, Êrica tỉnh lại, mua súng và trả thù. Êrica không biến

mình thành kẻ sát nhân hàng loạt mà chỉ ra tay trong những lúc bị bọn du côn dồn

cô hoặc những người lương thiện nào đó vào chân tường. (TT, 21/8/2010)

Từ việc mở đầu bằng câu chuyện đƣợc dẫn trong một bộ phim, phần phát

triển của bài báo, tác giả đã dẫn dắt ngƣời đọc vào câu chuyện “ngƣời dũng cảm” ở

ngoài đời để bình luận. Đó là việc anh Mai Văn Chiêm tay không lao vào trấn áp

bọn móc túi và đâm ngƣời trên xe buýt ở quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh hôm

17/8/2010. Và anh bị chúng đâm hai nhát vào lƣng. Rồi tiếp đến trƣờng hợp anh

Nguyễn Thanh Hải phục bắt “đinh tặc” ở Bình Dƣơng vào rạng sáng ngày 16/8…

(vii) Mở đầu tiếp nối tiêu đề (2%)

Mở đầu tiếp nối tiêu đề là kiểu mở đầu triển khai trực tiếp tiêu đề, cả hình

thức và nội dung đều phụ thuộc vào tiêu đề. Ví dụ:

Tiêu đề: Ngô Bảo Châu

Phần mở đầu: Tên gọi đó không chỉ là tên riêng của một con người, từ ngày hôm

qua, thế giới biết đến Ngô Bảo Châu gắn liền với hai tiếng Việt Nam. Người Việt

Nam trên khắp thế giới đều nhắc đến tên ông, và chắc chắn trong lòng mỗi người

dân đều bày tỏ niềm kính trọng, sự biết ơn, bởi vì ông đã mang lại vinh quang cho

nòi giống của mình. (LĐ, 20/8/2010)

Mở đầu tiếp nối tiêu đề thƣờng đƣợc dùng trong các tiêu đề nêu những tình

huống giả định hoặc những sự việc bất thƣờng, hoặc là sự kiện “hiếm thấy” (chẳng

123

hạn nhƣ Ngô Bảo Châu) và có nhiệm vụ làm rõ hơn thông tin liên quan tới chúng.

Ngƣời viết khá kiệm lời, khiến độc giả phải đọc tiếp ngay nội dung phía dƣới để

biết thêm thông tin chi tiết. Cách viết mở đầu này cũng gây đƣợc sự hấp hẫn.

c.

Theo [55, tr.157], Mencher đã đƣa ra mô hình của chuyện một chi tiết trong

các bài báo nhƣ sau:

Chủ đề chính (Major theme)

Giải thích cho phần dẫn (Explaination of lead)

Tƣ liệu bối cảnh (Backgrround material) Trích dẫn hoặc biến cố có giá trị nhất (Best quote or incident)

Giải thích bổ xung cho phần dẫn (Additional explaination of lead) Các dữ kiện, trích dẫn, biến cố, minh hoạ và giai thoại hỗ trợ (Suppoting facts, quotes, incidents, illustrations, and anecdotes)

Chủ đề thứ yếu (Secondary themes)

Các dữ kiện hỗ trợ (Suppoting facts)

Sơ đồ 4.1 Cấu trúc của chuyện một chi tiết (Nguồn [55, tr.157])

Từ sơ đồ 4.1 có thể thấy phần phát triển chính là sự chi tiết hoá và bổ sung

cho lời dẫn. Lời dẫn tƣơng ứng với phần mở đầu trong bài bình luận.

Phần phát triển là phần chứa đựng nhiều mối quan hệ đan xen, tầng bậc giữa

các từ, ngữ, câu, đoạn, mà mỗi thành tố trong đó có thể cùng một lúc thuộc nhiều

mối quan hệ đơn chiều, từng cặp qua lại hay đa chiều cùng với các thành tố khác

nhau.

Một chỉnh thể ngôn bản bình luận có một thông điệp chung và những thông

tin lí lẽ, lí giải đƣa ra nhằm chứng minh cho thông điệp đó có thể đƣợc trình bày

theo thứ tự, đan xen, bổ sung và làm cơ sở cho nhau. Dựa trên mô hình câu chuyện

một chi tiết (sơ đồ 4.1) có thể mô hình hoá cấu trúc phổ biến của bài bình luận báo

tiếng Việt nhƣ sau:

124

a b (c)

a b c

( ) a b c ( )

( ) b c ( )

( ) a b ( )

( ) a b c ( )

( ) a c ( )

( ) a b c ( )

a b c (d)

( ): biểu thị những phƣơng thức liên kết có thể đƣợc sử dụng để liên kết các đoạn

của ngôn bản; : biểu thị sự liên kết giữa các chi tiết có liên quan đến cùng một

nội dung thông tin; a, b, c: các mục đích tác giả đặt ra; (d): kết luận, thông điệp có

thể suy ra từ ngôn bản).

Sơ đồ 4.2 Dạng cấu trúc điển hình của bài bình luận báo in tiếng Việt

d.

Trong mối tƣơng quan với các thành phần cấu trúc khác của ngôn bản, phần

kết trong bài bình luận gồm các loại sau:

(i) Lời kết tiếp cận (30%): Là lời kết mà tác giả dùng thông tin ở đoạn trƣớc nhƣ

một khía cạnh để kết thúc. Ví dụ:

Tiêu đề: Xoa dịu những bất đồng

Đoạn ngay trƣớc phần kết: Trước cuộc gặp thượng đỉnh này, NATO đã nhận

được những tín hiệu từ phía Nga mong muốn khôi phục quan hệ với NATO. Tuy

vậy, một khi các cuộc đối thoại và hợp tác được nối lại thì những bất đồng gay gắt

giữa hai bên cũng khó có thể khỏa lấp bởi NATO vẫn không ngừng chương trình

mở rộng lãnh địa về phía Đông như tạo thế bao vây Nga. Trong tuyên bố mới nhất

của mình, NATO tiếp tục khẳng định sẽ kết nạp U-crai-na và Gru-di-a một khi hai

nước này đáp ứng quy chế thành viên.

125

Phần kết: Về hình thức, tuyên bố được NATO đưa ra sau hội nghị, trong đó bao

gồm cả việc khối quân sự này đã vượt qua những khác biệt để bầu Thủ tướng Đan

Mạch An-đớt Phốc Rát-mút-xen làm Tổng Thư ký mới của tổ chức này, chứng tỏ

các bất đồng nội khối đang dần được xoa dịu dù chưa chấm dứt. NATO cũng bắt

đầu soạn thảo khái niệm “chiến lược mới” cho tương lai của mình. (QĐND,

5/4/2009)

(ii) Lời kết để tái khẳng định (40%): khẳng định lại ý kiến, nhận định ban đầu của

tác giả. Ví dụ:

Tiêu đề: Chặn nguy cơ vô hình

Mở đầu: Hội nghị thượng đỉnh an toàn hạt nhân ở Oa-sinh-tơn đã khép lại với sự

đồng thuận giữa các nhà lãnh đạo của 49 tổ chức quốc tế và quốc gia về hiểm họa

từ vũ khí hạt nhân cũng như những bước đi nhằm không để vũ khí và nguyên liệu

hạt nhân rơi vào tay bọn khủng bố. Đây có thể được coi là bước tiến lớn trong việc

giải quyết những thách thức cấp bách hiện nay để hướng tới một thế giới không có

vũ khí hạt nhân.

Phần kết: Hai ngày hội nghị ở Oa-sinh-tơn chắc chắn chưa thể giải quyết được

những mâu thuẫn gay gắt cũng như những vấn đề phức tạp liên quan đến an toàn

hạt nhân. Thế giới ghi nhận nỗ lực của Tổng thống Ô-ba-ma trong việc ký START2

và tổ chức Hội nghị này, nhưng để có thể tiến tới một thế giới phi hạt nhân, sẽ

không chỉ có những cam kết, mà đến lúc cần những hành động thực tế. Loại bỏ

hoàn toàn hiểm họa hạt nhân là yêu cầu cấp thiết và nguyện vọng chính đáng của

nhân loại. (QĐND, 15/4/2010)

(iii) Lời kết đƣa ra (nhận xét) và câu hỏi hoặc vấn đề gợi suy nghĩ (30%):

Tiêu đề: Giải pháp nửa vời

Mở đầu: Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma đang đứng trước sự lựa chọn khó khăn

trong việc điều chỉnh chiến lược của Mỹ tại Áp-ga-ni-xtan. Đặt cược tương lai cả

nhiệm kì tổng thống của mình vào cuộc chiến được coi là “tuyến đầu” chống chủ

nghĩa khủng bố, ông Ô-ba-ma giờ đây “đau đầu” trước câu hỏi làm thế nào giành

chiến thắng trên chiến trường đẫm máu này?

126

Phần kết: Giờ đây, yêu cầu tăng quân, giải pháp thường thấy khi một cuộc chiến

lâm vào bế tắc, lại được Lầu Năm Góc đưa ra để giải “bài toán” hóc búa Áp-ga-

ni-xtan. Giải pháp nửa vời này đang đặt tổng thống Ô-ma-ba vào thế bí bởi nó

không trả lời được câu hỏi “Đâu là đích cuối cùng của cuộc chiến?”. Một điều

chắc chắn là Mỹ sẽ không từ bỏ Áp-ga-ni-xtan, bởi điều đó đồng nghĩa với chấp

nhận thua trên mặt trận chống khủng bố. Và như thế người dân Mỹ sẽ vẫn tiếp tục

phải đóng thuế để rót vào chiếc “thùng không đáy” Áp-ga-ni-xtan, trong khi chiến

thắng thực chất vẫn không thể quyết. (QĐND, 8/10/2009)

Trên thực tế, một lời kết trong bài bình luận thƣờng chứa nhiều tiêu chí định

dạng nhƣ sau:

- Lời kết có thể ở dạng đóng hoặc mở. Lời kết đóng nhằm mục đích “gói”

thông tin lại, đƣa ra thông điệp của toàn ngôn bản, góp phần làm cho nội dung của

ngôn bản trở nên trọn vẹn. Ngoài thông điệp hay quan điểm của ngƣời viết, lời kết

mở còn gợi ra những vấn đề liên quan để ngƣời đọc suy nghĩ. Phƣơng tiện liên kết

đƣợc sử dụng chủ yếu ở dạng này là phép đối, lặp và liên tƣởng.

- Lời kết tái khẳng định thƣờng gặp trong các bài bình luận có mục đích chứng

minh hay đƣa giải pháp giải quyết vấn đề. Chúng giúp tổng kết lại những lí lẽ tác

giả đƣa ra để minh hoạ cho suy luận của mình, vì vậy phép thế đồng nghĩa, liên tố

thể hiện nghĩa tóm tắt hay bổ sung là giải pháp hợp lí nhất.

- Trong lời kết tiếp cận, tác giả thƣờng sử dụng phép lặp, liên tƣởng, đối hay

liên từ để nối những thông tin ở đoạn trƣớc với lời bình hay thông điệp ở cuối ngôn

bản.

4.2.2 )

Đây là những thành phần không bắt buộc trong bình luận mà chỉ có chức

năng minh hoạ nhằm tăng độ tin cậy cho thông tin và làm cho thông điệp của toàn

ngôn bản thêm phần thú vị. Yếu tố này là Ảnh và L .

Tuy nhiên, không phải bài bình luận nào cũng có ảnh minh hoạ, và nếu có thì

không phải bức ảnh nào cũng có lời bình chú. Trên thực tế, lời bình chú là phần

không thể tách rời của ngôn bản. Một bức ảnh đẹp hàm chứa “thông tin” không thể

127

diễn tả hết bằng ngôn từ và một lời bình chú sắc sảo, hợp lí có thể có giá trị tác

động đến ngƣời đọc nhiều hơn cả một ngôn bản. Sau đây là những ví dụ:

Tiêu đề:

Sau 20 ngày băng giá

Cô-lôm-bi-a và Vê-nê-xu-ê-la tái lập quan hệ ngoại giao

(QĐND, 12/8/2010)

Tổng thống Cha-vết (trái) bắt tay người đồng cấp

Xan-tốt trong cuộc họp báo chung tại Bô-gô-ta. Ảnh:

AP.

Tiêu đề:

Cuộc chiến ở Áp-ga-ni-xtan

Tháng chết chóc nhất với quân Mỹ

(QĐND, 1/8/2010)

128

Lính Mỹ tại Áp-ga-ni-xtan bị thương sau khi xe thiết giáp dính bom của Ta-li-ban cài ven đường. Ảnh: Roi-tơ

4.2.3

4.2.3.1. Quan niệm về đoạn văn

Diệp Quang Ban cho rằng, tên gọi đoạn văn trong tiếng Việt đƣợc dùng để

chỉ nhiều khúc đoạn khác nhau, chủ yếu là của văn bản viết. Ông định nghĩa đoạn

văn nhƣ sau: “Đoạn văn thƣờng đƣợc hiểu là một phần của văn bản tính từ chỗ viết

hoa, thƣờng lùi vào ở đầu dòng cho đến chỗ dấu chấm xuống dòng” [7, tr.289].

Theo cách hiểu này thì đoạn văn thuộc về phƣơng diện kết cấu – phong cách học

(cả về phong cách chức năng của văn bản và cả về phong cách cá nhân của ngƣời

tạo ra văn bản).

Theo quan niệm của chúng tôi: Đoạn văn là đơn vị cấu thành văn bản, bao

gồm một câu hoặc nhiều câu, diễn đạt một nội dung nhất định, được bắt đầu bằng

chữ viết hoa lùi đầu dòng và kết thúc bằng dấu chấm ngắt đoạn.

Theo định nghĩa này, một đoạn văn thông thƣờng hàm chứa một số đặc điểm

sau: Đoạn văn là một bộ phận của văn bản, có thể chỉ có một câu nhƣng thƣờng

bao gồm một số câu; Các câu trong đoạn luôn tập trung thể hiện cùng một ý, một

129

chủ đề và luôn luôn phục vụ một luận điểm. Nghĩa là đoạn văn phải đảm bảo sự

thống nhất nội tại giữa các câu trong đoạn, mặt khác nó phải thể hiện đƣợc những

mối quan hệ giữa nó với đoạn khác trong văn bản.

4.2.3.2. Kiểu cấu trúc đoạn văn trong văn bản bình luận

a. Phân biệt cấu trúc với liên kết

Liên kết (cả trong đoạn văn) đƣợc xác lập trên cơ sở nghĩa. Nói cách khác là

yếu tố chƣa rõ nghĩa ở câu này đƣợc làm rõ nghĩa bằng câu khác, có liên quan ở

câu khác. Liên kết còn biểu hiện ở việc dùng các từ ngữ chỉ quan hệ làm cho các

câu nối kết đƣợc với nhau, nhƣ ở phƣơng thức nối, tức là cũng đánh dấu ghi nhận

bằng hình thức nội dung của mối quan hệ đó [6, tr.312] (chúng tôi sẽ đề cập đến

liên kết ở phần sau). Còn cấu trúc là những quan hệ hình thức giữa các yếu tố, cụ

thể là giữa các câu trong đoạn văn có quan hệ với nhau; nó chỉ làm nhiệm vụ giải

thích nội dung các mối quan hệ mà không giải thích nội dung nghĩa của đoạn văn.

Diệp Quang Ban cho rằng, việc giải thích các nội dung quan hệ này cũng không

lấy mặt nghĩa của các mệnh đề (của các câu) làm mục đích, mà chỉ dùng nó nhƣ

phƣơng tiện. Tác giả đã nêu ra hai ví dụ để giải thích cho vấn đề này nhƣ sau:

Ví dụ: Nó thèm. Vì nó đói. (Nguyễn Công Hoan)

Giữa hai câu này có mối quan hệ nguyên nhân. Từ vì là yếu tố hình thức của

ngôn ngữ đƣợc dùng để đánh dấu mối quan hệ đó. Nó là phƣơng tiện thuộc phép

nối.

Giả sử ta có: Nó thèm. Nó đói thực.

Giữa hai câu này vẫn có quan hệ nguyên nhân, nhƣng quan hệ đó không đƣợc

đánh dấu bằng từ ngữ (vì) của phép nối.

Nhƣ vậy, cả hai trƣờng hợp trên đều có cấu trúc nguyên nhân, nhƣng chỉ ở

trƣờng hợp đầu là có phƣơng thức liên kết. Vậy, khi bàn đến cấu trúc trong đoạn

văn chúng ta không đặt liên kết bằng yếu tố hình thức của ngôn ngữ ra làm đối

tƣợng xem xét mà chỉ xem xét cấu trúc chứa kiểu quan hệ nào đó mà thôi. Chẳng

hạn, quan hệ nguyên nhân.

Diệp Quang Ban cho rằng, cấu trúc hình thức luôn luôn có mặt trong đoạn

văn, tuy nhiên ta chỉ quan tâm đến nó khi ta cần phân tích một ý nghĩa quan hệ nào

130

đó; nói cách khác, ta làm việc này với mục đích phân tích. Ông cũng chỉ ra một số

kiểu cấu trúc thƣờng gặp trong đoạn văn, đó là: cấu trúc ngữ âm, cấu trúc cú pháp,

cấu trúc tuyến tính, cấu trúc diễn dịch và cấu trúc quy nạp. [6, tr.314-319]

Trong phần này của luận án, chúng tôi vận dụng lí thuyết về cấu trúc trong

đoạn văn của Diệp Quang Ban để khảo sát một số kiểu cấu trúc đoạn văn của văn

bản bình luận.

b. Một số kiểu cấu trúc đoạn văn trong văn bản bình luận

Xét về phƣơng diện cấu trúc, đoạn văn trong văn bản bình luận thƣờng theo

cấu trúc diễn dịch và cấu trúc quy nạp. Diễn dịch (suy diễn) là cách thức, phƣơng

pháp suy lí đi từ nguyên lí chung đến kết luận riêng. Quy nạp là cách thức suy lí đi

từ những hiện tƣợng, sự kiện riêng đến kết luận chung. Đó là những thao tác tìm

kiếm chân lí (cái đúng, cái không đúng) từ cái đã biết. Trong khuôn khổ phần này,

chúng tôi chỉ bàn đến cách trình bày các ý theo lối quy nạp hay diễn dịch, không

bàn về các phép suy lí đó theo tinh thần của lôgíc học.

Trình bày theo lối diễn dịch là trình bày ý chỉ cái chung trƣớc, ý chỉ cái riêng

sau, thƣờng nói là đi từ cái chung đến cái riêng. Trình bày theo lối quy nạp là trình

bày những ý chỉ cái riêng trƣớc, ý chỉ cái chung sau, đi từ những cái riêng đến cái

chung.

- Ví dụ về đoạn văn trình bày theo lối diễn dịch:

+ Nhìn lại, nước Mỹ đâu có tiếc tiền của và binh lực cho sự đối đầu với

Ta-li-ban. Tính tới nay, Oa-sinh-tơn đã đổ vào Áp-ga-ni-xtan hơn 200 tỉ USD, đó

là chưa kể Thượng viện Mỹ vừa mới chuẩn y chi thêm 128 tỉ USD cho các chiến

dịch quân sự tại I-rắc và Áp-ga-ni-xtan. Hiện Mỹ có 62 nghìn quân tại Áp-ga-ni-

xtan và quân số này sẽ tăng lên 68 nghìn vào cuối năm nay. Cộng với số quân của

NATO, lực lượng nước ngoài có mặt trên chiến trường này sẽ là 100 nghìn binh sĩ.

(QĐND, 8/10/2009)

Đoạn văn trên đƣợc trình bày theo lối diễn dịch: câu nêu ý chung là câu ở đầu

đoạn (in đậm), các câu còn lại là những cái riêng, là sự cụ thể hoá cho ý ở cái

chung.

131

+ Thỉnh thoảng trên một số diễn đàn và trên công luận, nhiều người đã

nêu ra không ít điều gọi là khuyết tật khi nhìn lại quá trình chuyển đổi từ kinh

tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Tựu trung những khuyết tật đó

là:

Tính tự phát của thị trường đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế.

Kinh tế thị trường do chạy theo lợi nhuận nên chà đạp lên công lí, lẽ phải.

Sự phân hoá giàu nghèo sinh ra bất công xã hội.

Tàn phá môi trường và sinh thái như phá rừng, thả khí độc vào môi trường

sống.

Chà đạp lên nhân phẩm và mọi thứ đều có thể mua bán.

Sinh ra buôn lậu, trốn thuế, hối lộ, tham ô.

Tạo ra nhân tố phủ định thể chế chính trị.

Dễ dàng nhận thấy đoạn văn trên đƣợc trình bày theo lối diễn dịch: với ý khái

quát ở câu đầu đoạn, những câu tiếp theo là những cái riêng: chỉ ý cụ thể về những

cái khuyết tật của kinh tế thị trƣờng.

- Ví dụ về đoạn văn trình bày theo lối quy nạp:

+ Số lính Mỹ thiệt mạng tại Áp-ga-ni-xtan trong tháng 7 leo cao kỉ lục với 63

người. Tuy nhiên, các tư lệnh Mỹ và NATO cảnh báo rằng, số thương vong còn

tăng hơn nữa khi quân đội Mỹ tiến hành các chiến dịch kéo dài tấn công vào hang

ổ của Ta-li-ban ở hai tỉnh Hen-man và Can-đa-ha. Như vậy, xem ra việc Mỹ tăng

viện 30 nghìn quân tại chiến trường này cũng đồng nghĩa với việc tăng thương

vong chứ không phải là sẽ tạo được những “cú đấm thép” để vãn hồi an ninh

như kì vọng của ông Ô-ba-ma. (QĐND, 1/8/2010)

+ Bộ trưởng Ghết khẳng định, Lầu Năm Góc sẽ tích cực điều tra và đã đề

nghị Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) hợp tác để sớm tìm ra những kẻ đứng đằng

sau. Bộ trưởng Ghết cho biết, Lầu Năm Góc sẽ tiếp tục siết chặt công tác bảo mật

thông tin cũng như bảo đảm an toàn cho quân nhân Mỹ và nhân viên địa phương

tại Áp-ga-ni-xtan, những người tính mạng có thể bị đe dọa vì vụ rò rỉ tài liệu mật

trên. Ông khẳng định sự việc này sẽ buộc quân đội Mỹ phải xem xét lại việc chia

sẻ thông tin tình báo. (QĐND, 1/8/2010)

132

Dễ dàng nhận thấy 2 ví dụ trên là những đoạn văn đƣợc trình bày theo lối quy

nạp vì nó trình bày ý chỉ cái riêng trƣớc, ý chỉ cái chung sau.

4.3. CẤU TRÚC VI MÔ CỦA VĂN BẢN BÌNH LUẬN

– T

4.3.1.1. Cấu trúc Đề - Thuyết

Về mặt lôgíc, theo cách cấu trúc hóa hiện thực của tƣ duy, ngƣời ta nhận thấy

câu có đặc điểm của một thông điệp (message) gồm hai phần chính là phần đề và

phần thuyết. Hai thuật ngữ đƣợc dùng khá phổ biến, “Theme” có nghĩa là “chủ

đề”, “đề tài” và “Rheme” là “cái đƣợc nói ra” để chỉ cấu trúc đề thuyết ở phần

ngôn ngữ (nhƣ Theme – Rheme trong tiếng Anh). Hiện tƣợng này đƣợc gọi là “sự

phân đoạn thực tại của câu” (Mathesius) hay “phối cảnh chức năng của câu”

(functional sentence perspective – Halliday). Halliday cho rằng chức năng của phối

cảnh chức năng của câu chính là chức năng tạo văn bản” là một trong những chức

năng của một ngôn ngữ đích thực.

Trƣớc đây, giới nghiên cứu thƣờng có hai cách nhìn nhận về bản chất của

phần đề và phần thuyết. Phần đề của câu theo cách hiểu thứ nhất đƣợc gọi là phần

thông báo cũ, là cái đã biết và phần thuyết là phần thông báo mới, là cái chƣa biết.

Halliday (1985) và Cao Xuân Hạo (1991) cho rằng sự phân chia nhƣ vậy khi

xét trong ngữ cảnh cụ thể đôi khi khó, do việc hiểu thế nào về “cũ” và “mới” còn

khó khăn trong nhiều trƣờng hợp. Hơn nữa, thuật ngữ “thông báo cũ” gây mâu

thuẫn nội tại là để “thông báo một cái gì hoàn toàn vô bổ”. Tác giả Cao Xuân Hạo

còn chỉ rõ “xét về nội dung của ta duy, giữa sở đề và sở thuyết” không có phần nào

quan trọng hơn phần nào. Cái quan trọng nhất ở đây là mối liên hệ đƣợc tƣ duy xác

lập giữa hai phần. Mối liên hệ đó là cốt lõi của sự nhận định đƣợc truyền đạt trong

câu của cái hành động đƣợc gọi là pracdicatio hay logos. Thứ đến là cái hƣớng đi

của tƣ duy trong khi thực hiện cái hành động đó, hay nói một cách khác là chọn cái

gì” [47].

Hallday [123] quan niệm cấu trúc Đề - Thuyết (Theme – Rheme) là một trong

những cấu trúc tạo nên câu trong mô hình tam phân của ngữ pháp chức năng hệ

thống. Cấu trúc này đem lại cho câu các đặc điểm của một thông điệp. Tác giả cho

133

rằng: “cấu trúc Đề - Thuyết là hình thức cơ bản của việc tổ chức câu nhƣ một

thông điệp. Trong cấu trúc này, đề tài là cái mà ngƣời nói chọn làm điểm xuất

phát, là phƣơng tiện triển khai câu …” [123, tr.53]. Và nhƣ vậy, vị trí đầu câu (xuất

phát điểm của câu) có ý nghĩa rất lớn trong cấu trúc Đề - Thuyết. Nó tham gia

quyết định sự khác nhau về mặt thông báo của câu, quyết định kiểu loại thông

điệp. Tác giả chỉ ra rằng: “Trong cấu trúc này, “đề” là xuất phát điểm của thông

điệp, đó là những gì mà câu sẽ nói về. Do vậy, một phần ý nghĩa của bất kì câu nào

cũng đều phụ thuộc vào việc chọn lựa yếu tố nào làm đề. Có sự khác nhau về ý

nghĩa giữa đồng nửa xu là đồng tiền Anh nhỏ nhất, trong đó đồng nửa xu là đề

(“tôi sẽ nói với anh về nửa đồng xu”) và đồng tiền Anh nhỏ nhất là đồng nửa xu,

trong đó đồng tiền Anh là đề (“tôi sẽ nói với anh về đồng tiền Anh nhỏ nhất”). Sự

khác biệt này có thể đƣợc đặc định là “khác biệt sở đề”; hai câu này khác nhau ở

sự lựa chọn đề. Bằng cách thử “Tôi sẽ nói với anh về …”, ta có thể cảm thấy

chúng là hai thông điệp khác nhau [123, tr.39].

Lí thuyết phân đoạn thực tại câu cũng đã đƣợc bàn đến trong tiếng Việt (Lý

Toàn Thắng 1981, Cao Xuân Hạo 1991, Diệp Quang Ban 1998 …). Nhìn chung,

các nhà nghiên cứu đều cho rằng sự phân chia câu theo cấu trúc đề - thuyết là xu

thế phổ quát trong ngôn ngữ học và phù hợp với tiếng Việt. Và nhƣ vậy, xuất phát

điểm của câu (vị trí đầu câu) có ý nghĩa rất lớn trong cấu trúc Đề - Thuyết. Nó

quyết định sự khác nhau về mặt thông báo của câu, quyết định kiểu loại thông

điệp. Nhƣ Cao Xuân Hạo đã nhận định: “Cái cấu trúc lƣỡng phân này không phải

là bức tranh tĩnh tại về hiện thực. Nó là động tác của tƣ duy có định hƣớng, nghĩa

là có một điểm xuất phát nhất định để từ đó tự khai triển ra. Khi tổ chức lại cái

mảng của hiện thực (cái sự tình) đƣợc phản ánh, tƣ duy phân chia cái mảng ấy

thành hai phần và chọn điểm xuất phát cho cái động tác xác lập mối liên hệ giữa

hai phần ấy …” [7, tr.33].

Quan niệm về phần đề nhƣ một xuất phát điểm để khai triển thông điệp nhƣ

Halliday và Cao Xuân Hạo đã đƣa phần đề lên vị trí đúng hơn với vai trò của nó.

Lý Toàn Thắng (1981, 93) chỉ ra: “xu thế chung của các nhà nghiên cứu là đi theo

cách hiểu thứ hai (đề là cái đƣợc nói đến, đƣợc nêu làm đề mục của câu, bởi lẽ ngữ

134

liệu của các ngôn ngữ cho thấy: tuy thƣờng thì chủ đề trùng với cái đã biết, nhƣng

có khi nó lại là cái chƣa biết, là thông tin mới …” [86].

Tƣ duy đƣợc hiện thực hóa bằng ngôn ngữ âm thanh mà ngôn ngữ âm thanh

mang tính tuyến tính và nó quy định sự tuyến tính hóa của tƣ duy và đấy chính là lí

do của vị trí đầu câu của đề. Do đó, tuyến tính là một thuộc tính tất yếu của ngôn

ngữ. Thuộc tính này quy định trật tự của các khái niệm phản ánh thành dãy liên tục

có trƣớc, có sau theo một hƣớng nhất định và phải có một điểm xuất phát và một

điểm kết thúc. Trật tự này đƣợc lựa chọn “thích hợp với những yêu cầu của giao

tiếp, với tình huống đối thoại, với mạch lạc của ngôn từ hay văn bản” [9].

Tóm lại, nếu nhìn nhận câu nhƣ một cấu trúc chức năng hay một thông điệp

thì vị trí đầu câu, vị trí xuất phát điểm của câu đƣợc coi là của phần đề. Vị trí này

là phƣơng tiện hiện thực hóa chức năng của đề và nó góp phần quyết định kiểu loại

thông điệp. Trong cấu trúc Đề - Thuyết, đề đƣợc sử dụng để quy định phạm vi hiệu

lực của thông báo ở phần thuyết. Những phần của câu đƣợc lựa chọn và đặt vị trí

này gọi là đề và việc sắp xếp nhƣ vậy gọi là sự đề hóa (Thematisation).

Cách hiểu về Đề - Thuyết ở Việt ngữ có hai hƣớng chính: (i) coi cấu trúc Đề -

Thuyết thuộc bình diện thông báo, dụng học, văn bản. Hƣớng này phân biệt cấu

trúc Đề - Thuyết với cấu trúc chủ - vị. (ii) coi cấu trúc Đề - Thuyết là cấu trúc cơ

bản của câu, phản ánh cấu trúc logíc của mệnh đề, của sự phân định trong tƣ duy.

Hƣớng này chủ trƣơng gạt bỏ khái niệm chủ - vị theo cách hiểu hình thức của ngôn

ngữ học Âu – Mỹ. Tác giả Đào Thanh Lan cho rằng cách hiểu thứ hai mới là tiền

đề của ngữ pháp chức năng trên cứ liệu ngôn ngữ đơn lập thiên về chủ đề nhƣ

tiếng Việt [65, tr.50].

Nhƣ vậy, nếu nhìn câu nhƣ một thông điệp hay một cấu trúc chức năng, thì vị

trí đầu câu, vị trí xuất phát điểm của câu đƣợc gọi là phần đề. Nó là phƣơng tiện

hiện thực hóa chức năng của đề và góp phần quyết định kiểu loại thông điệp.

Trong cấu trúc Đề - Thuyết, đề đƣợc sử dụng để quy định phạm vi hiệu lực của

thông báo ở phần thuyết.

135

Theo Cao Xuân Hạo, Đề là thành phần trực tiếp của câu nêu rõ cái phạm vi

ứng dụng của điều đƣợc nói bằng thành phần trực tiếp thứ hai: phần Thuyết. Ông

phân loại đề thành: ngoại đề, nội đề, khung đề và chủ đề [45, tr.41].

Ngoại đề là những đề ngữ đứng ngoài cấu trúc cú pháp của câu, không có

chức năng cú pháp bình thƣờng nào trong câu. Ví dụ: “Chị Lan ấy à? Tôi vừa gặp

chị ấy ở thƣ viện xong” thì “chị Lan ấy à?” là ngoại đề. Đây là trƣờng hợp không

thông dụng trong tiếng Việt, chỉ bắt gặp trong các trƣờng hợp đối thoại nên chúng

tôi sẽ không bàn tiếp ở phần này.

Nội đề gồm hai loại: khung đề và chủ đề. Khung đề là phần nêu rõ những

điều kiện làm thành cái khung về cảnh huống, thời gian, trong đó điều đƣợc nói ở

phần thuyết có hiệu lực. Chủ đề là phần câu chỉ đối tƣợng đƣợc nói đến trong phần

thuyết, cái chủ đề của sự nhận định.

Trong tiếng Việt, làm chủ đề thƣờng là những danh ngữ, đại từ nhân xƣng và

hồi chỉ, những tiểu cú không có chuyển tố đi trƣớc.

Halliday chia đề thành ba loại là: đề đề tài (topical), đề liên nhân

(interpersonal theme) và đề văn bản (textual theme). Trong đó, đề đề tài tƣơng tự

nhƣ chủ đề và những đề còn lại, thực chất cũng là các dạng khác nhau của khung

đề theo cách của Cao Xuân Hạo đã đề cập đến ở trên. Chính vì vậy, trong khuôn

khổ phần này của luận án, chúng tôi áp dụng cách phân loại đề của Cao Xuân Hạo

để xem xét các phát ngôn trong văn bản bình luận.

4.3.1.2. Đề hoá trong văn bản bình luận

Nhƣ đã đề cập ở phần trên, để tạo lập các đặc tính cơ bản phục vụ cho các

mục đích giao tiếp đặc thù, văn bản bình luận đã sử dụng nhiều phƣơng tiện ngôn

ngữ “đặc thù” khác nhau. Qua khảo sát chúng tôi thấy, đề hoá là phƣơng tiện đƣợc

sử dụng khá phổ biến trong văn bản bình luận, đặc biệt là trong phần kết.

Đề hoá là phƣơng tiện ngôn ngữ, qua đó một phần nào đó trong câu (hoặc

một câu) đƣợc đặt vào vị trí đầu câu tức là xuất phát điểm của thông điệp. Nói cách

khác, vị trí của sở đề đƣợc trao cho phần đó. Đề nêu ra phạm vi ứng dụng, là tâm

136

điểm của sự chú ý hoặc là đối tƣợng của tƣ duy. Và với phƣơng thức đề hoá, nội

dung của câu đƣợc thể hiện một cách rõ ràng, chặt chẽ hơn.

Phần kết của văn bản bài bình luận có một số cách diễn đạt có vai trò thể hiện

phần đề, nhƣ: dư luận cho rằng, có thể nói, các nhà quan sát cho rằng, rõ ràng là,

v.v. (chiếm 34,4% ngữ liệu khảo sát). Các cách diễn đạt này tuy có chủ ngữ, nhƣng

thực tế chủ ngữ lại là các đối tƣợng chung chung nhƣ: dư luận, hay các nhà quan

sát. Sau đây là một số ví dụ:

- Dư luận thế giới đang lo ngại những tranh cãi đang leo thang giữa Mỹ và

Trung Quốc sẽ ảnh hưởng tới sự phục hồi của nền kinh tế thế giới cũng như tình

trạng cân bằng chính trị toàn cầu (…) (QĐND, 7/02/2010).

- Ngoài ra, nhiều nhà quan sát cũng nhận định chính quyền mới ở Ba Lan sẽ

ưu tiên một chính sách ngoại giao cân bằng hơn giữa Nga và phương Tây.

(QĐND, 05/07/2010).

Ngoài các cấu trúc trên, chủ ngữ cũng hay đƣợc sử dụng với vai trò phần đề

chiếm tỉ lệ 46,2%, tiếp sau là các trạng ngữ (19,4%) (chủ yếu là các trạng ngữ

mệnh đề chỉ hoàn cảnh kèm theo hay trạng ngữ chỉ điều kiện nhƣ: Trước đòi hỏi

chính đáng của dư luận, cũng như sự vào cuộc kịp thời với các hình thức kỉ luật

mang tính răn đe cao của các cơ quan chức năng, những ngƣời có vi phạm sẽ khó

ngồi yên trên chiếc ghế mà họ không xứng đáng (TT, 6/6/2010). Sự xuất hiện của

chủ ngữ trong vai trò phần đề có nghĩa là số lƣợng câu bắt đầu bằng chủ ngữ sẽ

lớn, vì đó là cách diễn đạt thông thƣờng theo trật tự thuận.

4.3.2. Các phƣơng tiện liên kết trong văn bản bình luận

4.3.2.1. Phương tiện liên kết

Trên thế giới, khi bàn đến liên kết văn bản ngƣời ta không thể không nhắc

đến Halliday và Hassan [116]. Hai tác giả đã đƣa ra những kiến giải về các phƣơng

tiện liên kết trong văn bản. Khảo sát các phƣơng tiện hình thức của văn bản, các

tác giả cho rằng có 5 loại liên kết là: quy chiếu, phép thế, tỉnh lược, phép nối và

liên kết từ vựng. Sau này Halliday tóm tắt thành 4 phép nhƣ sau:

137

Bảng 4.2 Liên kết trong tiếng Anh; nguồn Halliday (1985)

Phép quy chiếu

Phép thế và tỉnh lƣợc

Phép nối

Chỉ ngôi Chỉ định So sánh Thế cho danh từ Thế cho vị từ Thế cho mệnh đề Chỉ ngôi Chỉ định So sánh Lặp từ Phép liên kết từ vựng Phối hợp từ vựng

Ở Việt Nam, ngƣời có công đầu trong nghiên cứu về liên kết văn bản là Trần

Ngọc Thêm (1985). Trong công trình “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt” [90] ,

tác giả có sự phân biệt giữa liên kết hình thức và liên kết nội dung. Liên kết hình

thức bao gồm các phƣơng tiện từ ngữ thực hiện sự liên kết. Liên kết nội dung bao

gồm liên kết chủ đề và liên kết lôgic. Diệp Quang Ban [4, tr.112] thì cho rằng,

cách giải thuyết liên kết của Halliday và Hassan là xếp loại hình thức liên kết trên

cơ sở các phƣơng tiện liên kết hình thức mang tính phi cấu trúc. Còn cách giải

quyết của Trần Ngọc Thêm là liên kết văn bản có tính đến cấu trúc.

Quan niệm và cách phân loại liên kết văn bản của Halliday và Hassan đã

đƣợc Diệp Quang Ban [5] áp dụng để xem xét các phƣơng tiện liên kết trong tiếng

Việt. Theo ông, tiếng Việt có 5 phép liên kết đó là: phép quy chiếu, phép thế, phép

tỉnh lược, phép nối, phép liên kết từ vựng (bao gồm lặp từ ngữ, dùng từ đồng

nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa và phối hợp từ ngữ).

a. Phép quy chiếu

Quy chiếu là việc liên kết câu với câu, trƣờng hợp này thuộc về cấp độ nghĩa.

Phép quy chiếu xuất phát từ yếu tố ngôn ngữ có nghĩa chƣa cụ thể ở một câu nào

đó cần đƣợc giải thích bằng yếu tố ngôn ngữ có nghĩa cụ thể ở câu khác, trên cơ sở

đó hai câu liên kết với nhau. Trong thực tế, căn cứ vào các phƣơng tiện ngôn ngữ

dùng ở vị trí có nghĩa chƣa cụ thể, phép quy chiếu đƣợc chia thành 3 trƣờng hợp

nhƣ sau:

138

- Quy chiếu chỉ ngôi

Yếu tố đƣợc giải thích, đƣợc diễn đạt bằng các từ thuộc phạm trù ngôi nhân

xƣng (đại từ nhân xƣng, tính từ sở hữu, đại từ sở hữu), ví dụ:

“Sau khi hai nhà báo Nga bị đánh đập dã man trong tuần qua, Tổng thống

Nga Đ.Mét-vê-đép (D.Medvedev) đã tuyên bố: “Bất cứ ai dính líu đến tội ác này

sẽ bị trừng trị bất kể người đó là ai, giữ vị trí nào trong xã hội”. Ông yêu cầu các

cơ quan điều tra nhanh chóng đưa những kẻ thủ ác ra ánh sáng,…” (QĐND,

12/11/2010).

- Quy chiếu chỉ định

Yếu tố đƣợc giải thích, đƣợc diễn đạt bằng các từ chỉ định nhƣ: đó, này, kia,

đây, bây giờ…, ví dụ:

25-7, website Wikileaks

- - - -

-ga-ni-xtan

Các tài liệu này cũng cho thấy Cơ quan an ninh Pa-ki-xtan từng

hoạch định kế hoạch ám sát Tổng thống Áp-ga-ni-xtan là ông H. Ca-dai (H.

Karzai), và ngay cả kế hoạch bỏ thuốc độc vào những thùng bia cung cấp cho binh

sĩ Mỹ và NATO cũng được tính tới.

này , Wikileaks

cho 3 tờ báo lớn “Thời báo Niu Y-oóc” của Mỹ, “Người Bảo vệ”

của Anh và “Der Spiegel” của Đức. Wikileaks

... (QĐND, 28/7/2010).

- Quy chiếu so sánh

Là trƣờng hợp sử dụng trong câu những tổ hợp có nghĩa không cụ thể và có

chứa các từ mang ý nghĩa so sánh nhƣ: cái tƣơng tự, cái bàn lớn hơn, tốt hơn, đẹp

hơn … Ví dụ:

Chúng ta mong muốn xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn.

- Hồi chiếu và khứ chiếu

139

Là hai cách khác nhau để các yếu tố quy chiếu có thể thực hiện chức năng của

mình trong văn bản. Nó có thể thực hiện chức năng theo kiểu tham chiếu ngƣợc lại

phần đã nêu ở trƣớc (hồi chiếu), hoặc cũng có thể thực hiện chức năng theo kiểu

định hƣớng tới phía trƣớc, phía sẽ đến (khứ chiếu).

b. Phép thế và phép tỉnh lƣợc

Phép thế là thay những danh từ, động từ, mệnh đề rõ nghĩa bằng các từ ngữ

không rõ nghĩa có tƣ cách tƣơng đƣơng. Còn tỉnh lƣợc đƣợc coi là thế bằng zêrô

(Ø). Ví dụ:

- Thế cho danh từ: thƣờng dùng các từ nhƣ: cái đó, cái này, những cái ấy …

Phép thế

- Thế cho động từ: thƣờng dùng các từ: thế, vậy, làm thế …

Ví dụ: Chị đi cái ô tô này. Cái ô tô kia đang bị hỏng.

Ví dụ: Buổi tối tôi thường đi bộ quanh sân trường. Ngày nào tôi cũng làm

- Thế cho mệnh đề:

thế.

Ví dụ: Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng. Ai cũng bảo thế.

- Tỉnh lƣợc động từ:

Phép tỉnh lƣợc

Ví dụ: Cô giáo chuyện trò giảng giải, khuyên Hà đừng bỏ học. Cuối cùng

- Tỉnh lƣợc mệnh đề:

Hà bằng lòng (Ø).

Ví dụ: “… ngay hôm mới thi xong, còn phải chờ kết quả, tôi nằm mơ thấy

tôi đã được vào trường sư phạm; tôi thấy rõ rệt cả cái trường thế nào, lớp

học thế nào, bà giáo là người thế nào… Về sau Ø đúng hết…” (Nam Cao,

Sống mòn).

c. Phép liên kết từ vựng

Là sự sử dụng các yếu tố từ vựng tính có quan hệ nghĩa với nhau bằng cách

nào đó làm cho những câu khác nhau có chứa chúng có quan hệ liên kết với nhau.

Diệp Quang Ban cho rằng có hai phạm trù chính là lặp từ ngữ và phối hợp từ ngữ.

Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến phép nối (nối bằng quan hệ từ, trong đó có 4 kiểu

140

loại nối là: nối theo quan hệ thời gian, nhân quả, bổ sung, nghịch đối). Ông cho

rằng, liên kết đặt trên cơ sở nghĩa và các yếu tố ngôn ngữ thƣờng dùng làm phƣơng

tiện liên kết có vai trò giải thích cho các yếu tố kia, làm cho các yếu tố kia trở

thành cụ thể hoặc xác định, theo một cách nào đó. Điều đó có nghĩa là các phƣơng

tiện liên kết không chỉ có tác dụng nối kết một cách máy móc hai câu lại với nhau

mà mỗi phép liên kết nó có vai trò giải thích nhất định một vai nghĩa nào đó trong

văn bản.

4.3.2.2. Một số phương tiện liên kết trong văn bản bình luận

Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy văn bản bình luận cũng sử dụng

nhiều kiểu liên kết khác nhau. Nhƣng do bình luận vừa mang đặc điểm của ngôn

ngữ báo chí, vừa mang đặc điểm của ngôn ngữ chính luận nên các phƣơng tiện liên

kết không sử dụng một cách dàn trải nhƣ nhau mà tập trung vào một số phƣơng

tiện liên kết chủ yếu, đó là phép quy chiếu và phép lặp từ vựng.

a. Phép quy chiếu trong văn bản bình luận

Văn bản bình luận sử dụng cả 3 dạng trong phép quy chiếu đó là: chỉ ngôi,

- Quy chiếu chỉ ngôi, ví dụ:

chỉ định và so sánh.

Trên kênh truyền hình TF1, Tổng thống Xác-cô-di thừa nhận, việc ông tái

tranh cử tổng thống là một “quyết định nặng nề” vì nó được đưa ra trong bối cảnh

nước Pháp, EU đã và đang trải qua một loạt cuộc khủng hoảng chưa từng có tiền

lệ. Ông ví mình như là “thuyền trưởng của một con tàu đang trong tâm bão”, và

quả quyết rằng ông là người có thể bảo vệ “một nước Pháp mạnh”, đồng thời kêu

gọi lòng tin của toàn dân Pháp. Ông đặt mục tiêu tạo việc làm là tâm điểm của

chương trình tranh cử, coi đây là vấn đề hết sức “nóng bỏng” đối với người dân

Pháp, vì trong năm 2011 tỉ lệ thất nghiệp đã tăng lên mức kỉ lục: 9,5%. Ông cũng

cam kết sẽ xây dựng Pháp trở thành một đất nước hùng mạnh, mà ở đó xã hội

được tổ chức theo nguyên tắc tất cả mọi người khỏe mạnh, đủ sức lao động, đều có

việc làm, trong trường hợp không có việc làm sẽ được đào tạo nghề, những ai

không thể làm việc được nữa sẽ nhận được trợ cấp xã hội… (NDCT, 02/3/2012).

141

Những từ “ông” đƣợc in đậm trong ví dụ trên là những từ thuộc phạm trù

ngôi nhân xƣng, nó thay thế cho cụm từ “Tổng thống Xác-cô-di”, chính vì thế nó

- Quy chiếu chỉ định, ví dụ:

có chức năng liên kết văn bản.

Sau khi đình chỉ tư cách thành viên của Xy-ri, Liên đoàn A-rập (AL) lại gây

thêm sức ép đối với nước này khi thông qua các biện pháp trừng phạt kinh tế Xy-ri

bởi Ða-mát đã phớt lờ “tối hậu thư” yêu cầu cho phép AL triển khai các quan sát

viên quốc tế tại Xy-ri. 19 trong số 22 thành viên AL ( trừ I-rắc và Li-băng) ủng hộ

trừng phạt kinh tế Xy-ri.

Theo đó, AL sẽ áp dụng ngay lập tức việc cắt giao dịch với Ngân hàng Trung

ương Xy-ri, đình chỉ trao đổi kinh tế với Chính phủ Xy-ri, cấm các quan chức cấp

cao nước này nhập cảnh các nước A-rập và phong tỏa các tài sản liên quan chính

phủ của Tổng thống B.Át-xát. AL cũng quyết định ngừng đầu tư vào Xy-ri và dừng

các chuyến bay nối các nước A-rập với nước này. (NDCT, 02/12/2011)

Ở ví dụ này, những từ đƣợc in đậm cũng chính là những từ làm nhiệm vụ liên

- Quy chiếu so sánh, ví dụ:

kết, vì nó đƣợc đi với yếu tố chỉ định “này”.

Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO), chỉ giá

nông sản, lương thực và nhu yếu phẩm hiện tăng cao chưa từng thấy kể từ năm

1990. Trong tháng 1 vừa qua, giá lương thực tăng 3,4% so với tháng 12-2010. Chỉ

số giá của 55 mặt hàng thiết yếu đã lên gần 231 điểm, cao hơn mức tại thời điểm

được coi là 'nóng' nhất hồi tháng 6-2008 trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng lương

thực thế giới. Viện Trái đất thuộc Ðại học Columbia của Mỹ cho rằng, nhiều loại

hàng hóa đã tăng giá tới gần hoặc vượt mức đỉnh của năm 2008, đe dọa nền kinh

tế thế giới. (NDCT, 18/3/2011)

Những từ đƣợc in đậm trong ví dụ nêu trên là những từ mang nghĩa không cụ

thể, nhƣng có ý nghĩa so sánh. Vì vậy nó cũng làm nhiệm vụ liên kết văn bản.

142

b. Phép lặp từ vựng trong văn bản bình luận

Phép lặp từ vựng là việc sử dụng từ, cụm từ ở câu trƣớc đƣợc lặp lại ở câu

sau. Đây cũng là phƣơng tiện liên kết khá phổ biến trong văn bản. Phép lặp từ

vựng có khả năng đem lại cho văn bản tính chính xác, rõ ràng, chặt chẽ. Ví dụ:

Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo vừa thăm chính thức LB Nga và tiến

hành cuộc gặp thường niên lần thứ 15 giữa Thủ tướng hai nước, đã có cuộc hội

đàm với Thủ tướng V.Pu-tin và trao đổi ý kiến với Tổng thống nước chủ nhà

Ð.Mét-vê-đép về những biện pháp ưu tiên nhằm đạt được những mục tiêu của

quan hệ hợp tác đối tác toàn diện theo định hướng nêu ra trong tuyên bố chung

giữa Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Ðào và Tổng thống Nga Ð.Mét-vê-đép hồi

tháng 9-2010.

Hai bên đã cam kết tăng cường quan hệ song phương và thảo luận các kế

hoạch hợp tác trên nhiều lĩnh vực quan trọng. Hai bên khẳng định, quan hệ Trung-

Nga mang tính chất chiến lược bền vững, ổn định và đang phát triển tốt đẹp. Hai

nước đang tiếp tục mở rộng hợp tác kinh tế - thương mại và nhiều lĩnh vực khác.

Lãnh đạo cấp cao hai nước tiến hành các cuộc gặp và tham vấn, tạo dựng sự tin

cậy chính trị và chiến lược giữa hai nước. Hai bên cho rằng, nền kinh tế hai nước

đang đứng trước những cơ hội phát triển mới, nên sự hợp tác song phương sẽ góp

phần tích cực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của nền kinh tế.

Nhân dịp này, hai bên đã kí kết 19 hiệp định hợp tác và văn kiện nhằm mở rộng cơ

sở pháp lí của quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, góp phần phát triển hạ tầng

cơ sở cho các mối quan hệ thiết thực. Các thỏa thuận hợp tác mới về các lĩnh vực:

công nghệ cao, khí đốt, thương mại, nông nghiệp, tài chính, văn hóa...; xúc tiến

thành lập các Khu kinh tế tại vùng biên giới chung. Các hợp đồng kinh tế mới trị

giá tổng cộng 8,5 tỉ USD. Ðáng chú ý là một hợp đồng về năng lượng, theo đó

công ty Atomstroyexport của Nga sẽ xây dựng thêm hai lò phản ứng hạt nhân tại

Nhà máy điện hạt nhân Ðiền Loan hiện đại nhất của Trung Quốc. Lò phản ứng hạt

nhân công suất 1.000 MW đầu tiên do Nga xây dựng tại Ðiền Loan ở miền đông

Trung Quốc, đã đi vào hoạt động từ tháng 6-2007 và lò phản ứng hạt nhân thứ hai

đi vào vận hành ba tháng sau đó. Hai bên quyết định sẽ trao đổi thanh toán

143

thương mại bằng đồng rúp và nhân dân tệ, thay vì đồng USD như trước đây. Hai

bên cũng nhất trí về một kế hoạch hợp tác đầu tư Nga-Trung cũng như chương

trình phối hợp hoạt động giữa các khu vực Viễn Ðông và đông Xi-bi-ri của Nga

với vùng đông-bắc Trung Quốc … (NDCT, 3/12/2010).

Đoạn văn trên đƣợc trích trong bài bình luận “Quan hệ hợp tác chiến lƣợc

giữa Nga và Trung Quốc”. Sự hợp tác về kinh tế - thƣơng mại giữa hai nƣớc đƣợc

thể hiện khá chi tiết, rõ ràng nhờ các phƣơng thức liên kết, đặc biệt là phép lặp từ

vựng (những từ đƣợc gạch chân). Rất nhiều từ đƣợc lặp trong đoạn, điều này cho

thấy phƣơng thức lặp từ vựng là một trong những phƣơng thức liên kết khá phổ

biến trong văn bản, đặc biệt là các bài bình luận về sự hợp tác về kinh tế - thƣơng

mại giữa các nƣớc trên thế giới.

4.4. TIỂU KẾT

Ở chƣơng 4, chúng tôi nghiên cứ

ấn đề đƣợc nghiên cứ

– hoá

. Chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

Tất cả các yếu tố cấu tạo văn bản, từ cấu trúc vĩ mô đến cấu trúc vi mô đều

đƣợc sử dụng để phục vụ cho việc giao tiếp của văn bản. Cấu trúc vĩ mô đóng vai

trò quan trọng, chi phối cấu trúc vi mô của văn bản. Cấu trúc vĩ mô cho thấy khuôn

hình của bài bình luận. Còn cấu trúc vi mô cho thấy mức độ cố kết các yếu tố trong

nội bộ của văn bản. Hai phƣơng tiện liên kết chủ yếu mà văn bản bình luận sử

dụng đó là phép quy chiếu và phép lặp từ vựng. Phép quy chiếu tránh cho văn bản

không phải nhắc lại những điều đã nói ở trƣớc, nó tạo tính thống nhất và các vấn

đề đƣợc định vị rõ ràng, chặt chẽ. Phép lặp từ vựng có một vai trò đặc biệt quan

trọng trong việc duy trì và phát triển chủ đề. Nó cũng mang lại tính chính xác, rõ

ràng và chặt chẽ cho văn bản.

144

Luận án đi sâu nghiên cứu ngôn ngữ bình luận trên báo in tiếng Việt qua

đƣờng hƣớng phân tích diễn ngôn, đặc biệt là đƣờng hƣớng phân tích diễn ngôn

phê phán, luận án đã đạt đƣợc một số kết quả sau:

n

1.1. Luận án là công trình nghiên cứu phân tích diễn ngôn phê phán đầu tiên

trên thể loại văn bản báo chí. Đây là cách phân tích diễn ngôn theo hƣớng giải

thích chức năng ngữ nghĩa của hình thức biểu hiện của diễn ngôn, để tìm ra cơ chế

quy định sự sắp xếp, bố trí các đơn vị ngôn ngữ trong văn bản. Dựa trên kiến thức

và sự phân tích về thực tiễn xã hội, trật tự xã hội và quan hệ quyền – thế để tìm ra

các mục đích giao tiếp mà văn bản muốn đạt tới và cách thức để đạt tới mục đích

giao tiếp trên văn bản. Cách phân tích diễn ngôn theo hƣớng này chú trọng nhiều

vào các nguồn lực ngôn ngữ đã đƣợc quy ƣớc hoá nhằm phục vụ cho mục đích

giao tiếp đặc thù của báo chí. Nó phù hợp với việc nghiên cứu phân tích sự hiện

thực hoá quyền lực của diễn ngôn văn bản bình luận trên báo chí.

1.2. Kết quả phân tích của luận án cho thấy phƣơng pháp phân tích diễn ngôn

phê phán áp dụng cho văn bản bình luận là phù hợp và có hiệu quả. Những kết quả

thu đƣợc của phân tích diễn ngôn văn bản bình luận đã cho thấy mô hình phân tích

và các thao tác phân tích mà Fairclough, Kress, Peter Teo và Nguyễn Hoà nêu ra

đƣợc áp dụng một cách có hiệu quả cho thể loại diễn ngôn văn bản bình luận trên

báo in tiếng Việt. Và khi áp dụng vào phân tích cụ thể trong văn bản bình luận báo

chí, mô hình này cũng đƣợc vận dụng cụ thể và định hình rõ nét hơn.

1.3. Các kết quả phân tích diễn ngôn văn bản bình luận là những thông tin

hữu ích góp phần khẳng định rằng ngôn ngữ bình luận có những đặc trƣng thể hiện

riêng và nó góp phần rất quan trọng vào thực tiễn đời sống xã hội của báo chí. Dựa

trên quan điểm của Halliday về các siêu chức năng thể hiện tƣ tƣởng, chức năng

liên nhân và chức năng văn bản để phân tích, chúng tôi có các kết quả sau:

145

- Chức năng tƣ tƣởng đƣợc dùng để thể hiện kinh nghiệm, những điều ngƣời

viết (cơ quan báo chí) chứng kiến thông qua hệ thống chuyển tác gồm 6 kiểu quá

trình: vật chất, tinh thần, quan hệ, hành vi, phát ngôn và hiện hữu. Để thể hiện

đƣợc tƣ tƣởng của cơ quan báo chí và tăng cƣờng tính chính xác cho văn bản, hiện

tƣợng danh hoá, mở rộng danh từ của văn bản cũng đƣợc các nhà báo chú trọng.

Cũng nhƣ vậy, việc sử dụng các kiểu quan hệ đẳng kết, quan hệ phụ thuộc, lời trích

dẫn trực tiếp, lời trích dẫn gián tiếp, các phƣơng thức lập luận cũng đƣợc các nhà

báo sử dụng phổ biến trong văn bản bình luận.

- Chức năng liên nhân với mục đích trao đổi thông tin, thể hiện thái độ của

ngƣời viết với thông tin, và đặc biệt thể hiện sự tƣơng tác giữa ngƣời viết và ngƣời

đọc, cho thấy: Tính tình thái trong bình luận đƣợc thể hiện bằng các phƣơng thức

ngôn ngữ nằm trong nội bộ câu cung cấp thông tin (hiện thực hoá tình thái có tính

tƣơng thích) hoặc bên ngoài câu chứa thông tin (câu phóng chiếu, trạng ngữ bình

luận và câu xen). Điều làm cho bình luận khác với tin và một số thể loại báo chí

khác là ở dạng thứ hai: tính tình thái đƣợc thể hiện thông qua ẩn dụ tình thái liên

nhân với hai hình thức chính là khách thể tƣờng minh và chủ thể tƣờng minh.

Dù thể hiện tình thái dƣới dạng chủ thể tƣờng minh hay khách thể tƣờng

minh thì cái “tôi” tác giả trong bình luận báo in tiếng Việt vẫn biểu lộ đƣợc thái độ

và vai trò của mình một cách rõ nét nhất, khẳng định tính chủ động trong định

hƣớng suy nghĩ của tác giả cũng nhƣ định hƣớng suy nghĩ cho độc giả (tính quyền

lực của báo chí theo quan điểm của phân tích diễn ngôn phê phán).

- Chức năng văn bản đƣợc thể hiện thông qua hai bình diện chính: cấu trúc vĩ

mô và cấu trúc vi mô. Cấu trúc vĩ mô là cấu trúc của các yếu tố bắt buộc phải có và

các yếu tố có thể có, đây là những yếu tố quy định tính chặt chẽ và tính chỉnh thể

thống nhất cho văn bản. Cấu trúc đoạn văn cũng là một phƣơng tiện giúp các nhà

báo thể hiện rõ ràng, mạch lạc ý tƣởng. Cấu trúc vĩ mô, yếu tố “đề hoá”, các

phƣơng thức liên kết ... đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập văn bản.

1.4. Kết quả phân tích các đặc điểm ngôn ngữ trong văn bản bình luận cho

thấy, ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong văn bản đã phát huy đƣợc tính tƣ tƣởng, tính

146

liên nhân và tính văn bản của văn bản bình luận. Nó thể hiện đƣợc tƣ tƣởng của cơ

quan báo chí, cũng nhƣ thể hiện đƣợc tƣ tƣởng và quyền lực của nhà nƣớc.

2.1. Những thông tin từ kết quả nghiên cứu của luận án nhằm phục vụ một số

mục đích ứng dụng khác nhau. Trong việc “sáng tạo” tác phẩm bình luận, các nhà

báo rất cần đến thông tin hỗ trợ về các quy tắc hoạt động của các yếu tố ngôn ngữ

trong văn bản, những nguồn lực cần tác động để nâng cao chất lƣợng và hiệu quả

của văn bản từ bố cục của văn bản đến các đơn vị nhỏ nhất trong văn bản là các

đơn vị từ vựng. Kết quả phân tích cho thấy việc sử dụng các từ tình thái, trạng ngữ

tình thái bình luận, thành phần xen, … trong văn bản bình luận có một vai trò vô

cùng quan trọng trong mục đích „định hƣớng suy nghĩ‟ cho ngƣời đọc.

2.2. Đối với công tác giảng dạy ngôn ngữ báo chí nói chung và ngôn ngữ bình

luận nói riêng: cần tận dụng kết quả này để xây dựng chƣơng trình, giáo trình và

phƣơng pháp giảng dạy có hiệu quả hơn. Cần quan tâm đến các đặc điểm riêng,

các chức năng cơ bản của diễn ngôn văn bản bình luận. Và ngƣời học cũng cần

phải đƣợc học về những đặc điểm của diễn ngôn văn bản bình luận theo đƣờng

hƣớng phân tích diễn ngôn phê phán.

3.1. Cách phân tích diễn ngôn phê phán đƣợc áp dụng trong văn bản bình

luận nếu xét một cách triệt để vẫn chƣa tạo ra đƣợc một bức tranh đầy đủ nhất về

các đặc điểm của ngôn ngữ bình luận. Nó mới chỉ góp phần tìm ra đƣợc một số

chức năng, một số đặc điểm nòng cốt nhất để mô tả diện mạo cơ bản của ngôn ngữ

bình luận mà thôi. Một sự phân tích sâu sắc hơn, với sự tác động mang tính hai

chiều (giữa cơ quan báo chí với độc giả và ngƣợc lại) sẽ cho chúng ta một cái nhìn

toàn diện hơn sẽ là rất cần thiết ở các công trình tiếp theo ở lĩnh vực này.

3.2. Do khuôn khổ có hạn nên luận án cũng chƣa đặt ra vấn đề đánh giá phân

tích cho đƣợc sự ảnh hƣởng của các nguồn lực ngôn ngữ, đặc biệt là sự tác động

147

trở lại của ngôn ngữ đối với văn bản bình luận và đối với thực tiễn khách quan của

đời sống xã hội.

Tuy vậy, kết quả nghiên cứu của luận án cũng cho thấy việc áp dụng phân

tích diễn ngôn ứng dụng và phân tích diễn ngôn phê phán vào phân tích ngôn ngữ

bình luận có nhiều đóng góp bổ ích, thiết thực về cả lí luận và thực tiễn. Báo chí là

“một phƣơng tiện có sức mạnh đặc biệt to lớn trong việc hƣớng dẫn nhận thức,

hình thành dƣ luận xã hội tích cực” và “nâng cao dân trí” (Tạ Ngọc Tấn [88, tr.9-

10]). Ngoài mục đích thu thập thông tin, ngƣời Việt Nam đọc báo để tìm hƣớng

giải quyết cho những vấn đề đang đƣợc dƣ luận quan tâm. Nhƣ vậy, nghiên cứu

ngôn ngữ ứng dụng, ngôn ngữ có tính chất phê phán đứng trên quan điểm quyền

lực của nhà nƣớc ở nƣớc ta hiện nay đang rất cần đƣợc phát triển và hoàn thiện.

148

1. Huỳnh Thị Chuyên (2003), Vị trí của trạng ngữ với vai trò thông báo và

liên kết văn bản tiếng Việt, Tạp chí khoa học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm

Hà Nội, số 5-2003.

2. Huỳnh Thị Chuyên (2009), Đặc điểm ngôn ngữ thể loại bình luận trên

báo chí, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số tháng 7-2009.

3. Huỳnh Thị Chuyên (2011), Một số kiểu mở đầu cơ bản trong bài bình

luận báo in tiếng Việt, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số

tháng 3-2011.

4. Huỳnh Thị Chuyên (2014), Trích dẫn trong bài bình luận báo in tiếng

Việt, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 1-2014.

149

Tiếng Việt

1. Hoàng Anh (2003), Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí, Nxb Lao

Động, Hà Nội.

2. Hoàng Anh (2008), Những kĩ năng về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đại

chúng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

3. Diệp Quang Ban (1998), “Về mạch lạc trong văn bản”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 1)

tr. 47-55.

4. Diệp Quang Ban (1998), Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

5. Diệp Quang Ban (2002), Giao tiếp – Văn bản – Mạch lạc – Liên kết – Đoạn

văn, Nxb KHXH, Hà Nội.

6. Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7. Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp tiếng Việt - phần câu, Nxb Đại học Sƣ phạm

Hà Nội.

8.

8), tr. 45-55.

(2008), Mạng mạch, mạch lạc, liên kết với việc dạy ngôn ngữ, 9.

8), tr.1-13.

(2009), , 10.

.

11. Nguyễn Bảo (1999), “Viết tắt trên báo chí hiện nay”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời

sống, số 4.

12. Nguyễn Tài Cẩn (2004), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng – Từ ghép – Đoản ngữ),

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

13. Đỗ Hữu Châu (1986), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

14. Đỗ Hữu Châu (1992), “Ngữ pháp chức năng dƣới ánh sáng của dụng học hiện

nay”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 2), tr.6-13.

150

15. Đỗ Hữu Châu (2003), Cơ sở ngữ dụng học, Tập I, Nxb Đại học Sƣ phạm Hà

Nội, Hà Nội.

16. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2002), Đại cương ngôn ngữ học, tập I, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

17. Đỗ Hữu Châu (2004), Đại cương ngôn ngữ học, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

18. Đỗ Hữu Châu (2005), Tuyển tập từ vựng, ngữ nghĩa, tập I, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

19. A.A.Chertƣchơnƣi (2004), , Nxb Thông t .

20. Nguyễn Đức Dân (1997), Logic – ngữ pháp – cú pháp, Nxb Đại học và Trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội.

21. Nguyễn Đức Dân (1998), Logic và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Nguyễn Đức Dân (2001), Ngữ dụng học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Nguyễn Đức Dân (2005), Nhập môn Logic hình thức và logic phi hình thức,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

24. Nguyễn Đức Dân (2004), “Vận dụng tục ngữ, thành ngữ và danh ngôn trên báo

chí”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 10.

25. Nguyễn Đức Dân (2007), Ngôn ngữ báo chí – Những vấn đề cơ bản, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

26. Đức Dũng (2000), Viết báo như thế nào? – .

27. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao Động, Hà Nội.

28. Hữu Đạt (2011), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục Việt Nam,

Hà Nội.

29. Lê Đông – Nguyễn Văn Hiệp (2003), “Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ

học”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 7), tr.17-26 và (số 8), tr.56-65).

30. Lê Đông (1991), “Ngữ nghĩa – ngữ dụng của hƣ từ tiếng Việt: ý nghĩa đánh giá

của các hƣ từ”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 2), tr.15-23.

31. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb Đại học và Trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội.

32. Đinh Văn Đức (1996), “Một vài cảm nhận về ngữ pháp chức năng và cách nhìn

về ngữ pháp tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 3), tr.40-43.

151

33. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt – Từ loại (in lại và có bổ sung),

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

34. Đinh Văn Đức (1997), Báo chí – Những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội.

35. Đinh Văn Đức (2001), “Ngôn ngữ báo chí tiếng Việt đầu thế kỉ XX: một quan

sát về ngôn ngữ của báo chí cách mạng Việt Nam (giai đoạn 1925-1945)”, Tạp

chí Ngôn ngữ 2000 (3).

36. Nguyễn Thiện Giáp 1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

(2004), , 37.

tr.198-199.

38. (2006), Những ứng dụng củ ọc

.

39. Nguyễn Thiện Giáp (2007), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Đề tài

nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, mã số QX.2007.07, Hà Nội.

40. Gillian Brown – George Yulle (2002), Phân tích diễn ngôn (Trần Thuần dị

.

41. Halliday.M.A.K. (1991), “Khái niệm ngữ cảnh trong giáo dục ngôn ngữ”

(Nguyễn Thƣợng Hùng dịch), Tạp chí Ngôn ngữ, (số 4), tr.17-33.

42. Halliday.M.A.K. (2004), Dẫn luận ngữ pháp chức năng, (Hoàng Văn Vân

dị .

43. Nguyễ (2010),

TS, Đại học

.

44. Vũ Quang Hào (2010), Ngôn ngữ báo chí, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

45. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt: Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb KHXH.

46. Cao Xuân Hạo (2001), Câu trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

47. Cao Xuân Hạo (chủ biên), Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tâm, Bùi Tất

Tƣơm (1992), Câu trong tiếng Việt (Cấu trúc – Nghĩa – Công dụng), Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

152

48. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt: Mấy vấn đề ngữ âm – ngữ pháp – ngữ

nghĩa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

49. Lô-íc Éc-vu-ê / Loic Hervouet, (1999), Viết cho cho độc giả, Hội nhà báo

Việt Nam, Hà Nội (Lê Hồng Quang dịch).

50. Nguyễn Văn Hiệp (2012), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb Giáo dục

Việt Nam, Hà Nội.

51. (1999), –

, , Đại học KHXH&

.

52. (2003; 2008),

, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

?” 53. (2005), “

– 2), tr.13-26.

54. (2006), ,

.

55. Nguyễn Thị Thanh Hƣơng (2003),

, Luận án TS Ngữ văn – Đại học KHXH&NV.

56. Hội nhà báo Việt Nam (1992), Nghề nghiệp và công việc của nhà báo, Hà Nội.

57. Nguyễn Văn Khang (1997), “Xung quanh vấn đề cách viết các từ nƣớc ngoài trên sách báo tiếng Việt hiện nay”, Hội thảo khoa học Việt – Nga. Nghiên cứu các ngôn ngữ ở Việt Nam, Hà Nội, 20 – 21/2/1997.

58. Nguyễn Văn Khang (1998), “Vấn đề chính tả tiếng Việt cho các đơn vị từ vựng nƣớc ngoài và gốc nƣớc ngoài trên sách báo tiếng Việt và ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, Viện Ngôn ngữ học, (204 – 215).

59. Nguyễn Văn Khang (2008), “Những vấn đề chuẩn hoá ngôn ngữ và chuẩn hoá tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 12), tr.8-19.

60. Nguyễn Văn Khang (2009), “Những vấn đề chuẩn hoá ngôn ngữ và chuẩn hoá tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 1), tr.24-35.

61. Nguyễn Văn Khang (2009), “Một số vấn đề về lập pháp ngôn ngữ”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 9), tr.20-31.

153

62. Nguyễn Văn Khang (2012), Ngôn ngữ học xã hội, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

63. Đinh Trọng Lạc (1997), Phong cách học tiếng Việt , Hà Nội.

64. (1998), .

65. Đào Thanh Lan (2002), Phân tích câu đơn tiếng Việt theo cấu trúc Đề - thuyết, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

66. Trần Thu Nga (2007), TS , Hà Nội.

67. Đỗ Chí Nghĩa (2012), Vai trò của báo chí trong định hướng dư luận xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

68. Tôn Nữ Mỹ Nhật (2006), “Cấu trúc đề thuyết với thực tiễn phân tích diễn ngôn”, Tạp chí ngôn ngữ (số 8), tr. 38-45.

69. Tôn Nữ Mỹ Nhật (2006), “Cấu trúc và cấu trúc chức năng của diễn ngôn”, Tạp chí ngôn ngữ (số 8), tr. 45-54.

70. Nguyễn Tri Niên (2003), Ngôn ngữ báo chí, Nxb Đồng Nai.

71. Nunan D (1998), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn, (Trúc Thanh, Hồ Mỹ Huyền dịch), Nxb Giáo dục Hà Nội.

72. Hoàng Phê (1989), Logic – ngôn ngữ học, Nxb KHXH, Hà Nội.

73. Hoàng Phê (2008), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.

74. Hoàng Trọng Phiến (2008), Ngữ pháp tiếng Việt – Câu , Hà Nội.

75. Hoàng Trọng Phiến (1998), “Về hiện tƣợng bất thƣờng đƣợc xem nhƣ biện pháp hấp dẫn của ngôn ngữ báo chí”, Tạp chí Khoa học ĐHQG HN, số 1.

76. Trần Thế Phiệt (1995), Tác phẩm báo chí tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

77. Trần Quang (2007), Các thể loại báo chí chính luận, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

78. Dƣơng Văn Quảng (1998), “Phƣơng pháp nghiên cứu ngôn ngữ báo chí”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, Viện thông tin KHXH, 98(6), Hà Nội.

79. Nguyễn Hữu Quỳnh (2001), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

154

80. Saussure.F.D. (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb KHXH, Hà Nội.

81. Trịnh Sâm (2008), “Đặc điểm ngôn ngữ báo chí nhìn từ hoạt động báo chí ở

thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Ngôn ngữ số 5/2008 (tr. 38-44).

82. Trịnh Sâm (1998), Tiêu đề văn bản tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

83. Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.

84. Lê Xuân Thại (1977), “Một số vấn đề về mối quan hệ chủ vị trong tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 4), tr.23-33.

85. Lê Xuân Thại (1988), “Các kiểu loại cấu trúc chủ vị trong tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 2), tr.23-30

86. Lý Toàn Thắng (1981), “Giới thiệu lí thuyết phân đoạn thực tại câu”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 1) tr.46-54.

87. Lý Toàn Thắng (2004), Lí thuyết trật tự từ trong cú pháp, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

88. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lí luận đến thực tiễn báo chí, Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội.

89. Tạ Ngọc Tấn, Nguyễn Tiến Hài (1997), Tác phẩm báo chí, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 43-44.

90. Trần Ngọc Thêm (1999), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.

91. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (2004), Thành phần câu tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

92. Bùi Minh Toán (2012), Câu trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

93. Ngô Gia Thi (2002), “Đôi nét về chữ và nghĩa trên báo „Giáo dục và thời đại chủ nhật”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 8, (tr. 47 – 48).

94. Thông tấn xã Việt Nam (1987), Cách viết một bài báo, Hà Nội.

95. Nguyễn Đức Tồn (1999). “Ngôn ngữ phát thanh và truyền hình từ cách nhìn của tâm lí ngôn ngữ học”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 9 (tr.8 – 17).

155

96. Hoàng Văn Vân (2002), Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống, Nxb KHXH, Hà Nội.

97. Phạm Hùng Việt (1994), “Vấn đề tình thái với việc xem xét chức năng ngữ nghĩa của trợ từ tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 2), tr. 48-53.

98. Phạm Hùng Việt (1996), Một số đặc điểm chức năng của trợ từ tiếng Việt hiện đại, Luận án TS Ngữ văn, Hà Nội.

99. Nguyễn Nhƣ Ý (Chủ biên) (2003), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

100. Jonh Lyons (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận, (ngƣời dịch: Nguyễn Văn Hiệp),

Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

Tiếng Anh

101. Bhatia, V.K (1987), “Language of the Law”, In Language teaching, 20: 227 – 234.

102. Bhatia, V.K (1993), Analysing Genre: Language use in professional settings. New York: Longman Pulishing.

103. Brown. G. & Yule G. (1983), Discourse Analysis, Cambridge, CUP.

104. Chouliaraki, L & Fairclough, N. (1999), Discourse in Late Modernity: Rethinking Critical Discourse Analysis, Edinburgh: Edinburgh University Press.

105. Teun A. van Dijk (1997), Tex and context, Longman.

106. Teun A. van Dijk (2004), From Text Grammar to Critical Discourse Analysis, A brief acadmic autobiography, Universitat Pompeu Fabra Barcelona.

107. Fairclough N (1995), Critical Discourse Analysis: The Critical Study of language and Power. Edinburgh: Pearson Education Limited.

108. Fairclough N (2001), Language and Power, Longman Group Limited.

109. Fowler, R., Hodge, G., Kress, G and Trew, T. (eds) (1979), Language and Control, London: Routledge and Kegan Paul.

110. Gibbons. J (eds) (1994), Language and law, Longman.

111. Gustaffsson, M. (1975), Some Syntactic Properties of Englis Law Language, Turku Universty of Turku, finland.

156

112. Hager J.W. (1960), “Let, s Simplify Legal language”, In rocky moutain Review. (No 32), 74-86.

113. M.A.K. Halliday (1985), written, Language, Oxford OUP.

114. M.A.K. Halliday (1998), An Introduction to Functional Grammar, 2nd Edition, ARNOLD, London, NewYork, Sydney, Auckland.

115. M.A.K. Halliday (2002), Linguistic studies of text and discourse, Continuum – London.

116. M.A.K. Halliday & R. Hassan (1976), Cohesion in English, Longman.

117. Harkrider, J. (1997), Getting started in Journalism, National Textbook company.

118. Kress, G and Hodge B., (1979), Language and ideology, London: Longman

119. Maley, Y. (1994), “The languae of the law” in Gibbons, language and the law, London, Longman.

120. Martin, J.R. Mattthiessen, C.M.I.M, Painter c. (1997), Working with fuctional Grammar, Arnold, London, New York sedney, Auckland.

121. Palmer, F.R. (1986), Mood and Modality, Cambridge: CUP.

122. Palmer, F.R. (1990), Mood and the English Moodls, London: Longman.

123. Randall, D. (1996), The Universal Journalist, Pluto Press. tr.96

124. Swales, J.M & Bhatia, V.K (1983), An approach to the linguistic stady of legal documents, Longman.

125. Peter Teo (2000), Racism in the News: a Critical Discourse Analysis of New Reporting in two Australian Newspapers in Discourse and Society, Vol 11 (1): (pp. 7-49).

126. Wodak R & Mayer, M. (2001), Methods of Critical Discourse Analysis, London: SAGE Publication, Ltd.

127. Wright P. (1981), “Is Legal Jargon a restrictive practice” in Psychology in

Legal Contexts Appliccations and Limitations, London: Macmillan.

157

Các tác phẩm sử dụng làm tƣ liệu

128. Hội Nhà báo Việt Nam (2005), Tuyển tập tác phẩm báo chí Việt Nam thời kì

đổi mới (1985-2004), tập III (2000-2004), Hà Nội.

129. Hội Nhà báo Việt Nam (2005), Các tác phẩm đạt giải báo chí toàn quốc năm

1991-1995, Hà Nội.

130. Hồ Quang Lợi (2004), Ẩn số thời cuộc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

131. Chu Thƣợng (2002), Chiếc roi trong tâm tưởng, Nxb Hộ .

Và các bài bình luận trên báo Nhân dân, Nhân dân cuối tuần, Quân đội nhân dân,

Lao Động, Tuổi trẻ.

158

PHỤ LỤC

MỘT SỐ NGÔN BẢN BÌNH LUẬN MINH HOẠ

Bình luận

Tội ác ở “địa ngục trần gian” S21 QĐND - 29/07/2010

“Địa ngục trần gian” Tuôn Xleng (S21), nơi Cang Kếch Yêu (tức Duch), trùm cai ngục của chế độ Khơ-me Đỏ, cùng các thuộc hạ của hắn gây biết bao tội ác man rợ, là nơi giam giữ khoảng 15 nghìn người nhưng chỉ có 7 người sống sót.

Tuyển trẻ em làm cai ngục

Ngày 15-8-1975, Bộ trƣởng Quốc phòng Son Sen của chế độ Khơ-me Đỏ gọi Duch tới một cuộc họp tổ chức ở nhà ga Phnôm Pênh để lên kế hoạch thành lập nhà tù S21 tại Phnôm Pênh. Sau cuộc họp, S21 đƣợc thành lập và trở thành nơi giam giữ, hành hình các cán bộ của Đảng Cộng sản Cam-pu-chia. “Địa ngục trần gian” này chính thức đi vào hoạt động từ tháng 10-1975.

Sau khi chuyển từ cấp phó lên làm chỉ huy nhà tù S21, Duch chia S21 thành những khu riêng biệt với chức năng khác nhau, đó là khu bảo vệ, khu thẩm vấn (Duch trực tiếp giám sát khu này), khu tài liệu, khu đặc biệt. Ngoài ra còn có các khu chụp ảnh, khu y tế, nhà bếp và khu hậu cần. S21 là một tổ hợp với trung tâm là một ngôi trƣờng cũ và trại giam đặc biệt đƣợc coi là khu vực bí mật và đƣợc canh phòng nghiêm ngặt nhất. Khu trung tâm đƣợc bao quanh bởi các hàng rào, cả trong và ngoài đều có lính vũ trang bảo vệ. Dƣới sự chỉ huy của Duch, S21 đƣợc quản lý theo kiểu phân tầng, có cơ chế báo cáo ở tất cả các cấp nhằm bảo đảm những mệnh lệnh của Duch đƣợc thực hiện ngay và chính xác. Ngoài áp dụng các luật lệ chung của Khơ-me Đỏ, S21 còn thực thi những quy định khắc nghiệt do chính Duch đề ra.

Các cai ngục dƣới quyền Duch đều do chính “trùm đồ tể” này chọn lựa với ƣu tiên hàng đầu là những cộng sự thân tín nhất của hắn tại M-13, bí số của nhà tù đầu tiên của Khơ-me Đỏ mà hắn là trại trƣởng. Sau hắn mới chọn tới các em nhỏ và thanh, thiếu niên để làm bảo vệ cho S21 vì dễ dàng sai khiến.

159

Bức ảnh các tù nhân bị giam tại S21 hiện được treo ở Bảo tàng tội ác diệt chủng Tuôn Xleng của Cam-pu- chia. Ảnh: Bbase.com

Tiêu diệt tận gốc

Vai trò chính của S21 là thực thi đƣờng lối chính trị của Khơ-me Đỏ đối với kẻ thù với phƣơng châm các tù nhân “phải bị tiêu diệt hoàn toàn”, đồng nghĩa với “giết chết”. Tất cả tù nhân tới S21 là để tử hình. Chính sách của S21 là không một tù nhân nào đƣợc thả tự do. Chính tên Duch khai nhận một số tù nhân đã cầu xin Duch tha mạng cho họ hoặc viết thƣ qua hắn để chuyển tới các lãnh đạo cấp cao hơn của Khơ-me Đỏ nhƣng đều vô ích. Chính sách “tiêu diệt kẻ thù” cũng đƣợc áp dụng đối với cả gia đình các tù nhân, bao gồm cả trẻ em.

Hầu nhƣ ngày nào cũng có tù nhân đƣợc chuyển tới S21. Họ đều bị bịt mắt và còng tay khi đƣợc đƣa vào nhà tù. Tất cả đều đƣợc lên danh sách, nếu là ngƣời mới sẽ đƣợc chụp ảnh và lƣu lại nhằm hỗ trợ cho việc bắt lại các tù nhân trốn trại. Các tù nhân bị giam giữ gần nhƣ 24/24 giờ. S21 có cả các xà lim chật hẹp cho một tù nhân và những xà lim tập thể lớn hơn, nơi họ bị xích cạnh nhau với chân bị cùm khiến họ không thể đứng đƣợc lên.

Các quy định hà khắc trong trại khiến cuộc sống của các tù nhân bị kìm kẹp và tƣớc đi của họ những điều kiện sống tối thiểu nhất của con ngƣời. Họ không đƣợc phép trò chuyện với nhau, thậm chí với các cai ngục. Các tù nhân lần đầu tiên tới trại thƣờng bị lột quần áo, chỉ còn đồ lót trên ngƣời. Không có nhà tắm và họ vẫn bị xiềng xích ngay cả khi đƣợc làm cái việc không biết có đƣợc gọi là “tắm” hay không. Vì chỉ có một chiếc vòi xịt ở ô cửa dùng để dọn sạch xà lim chứ không phải để cho các tù nhân tắm rửa. Vì họ không đƣợc phép rời khỏi xà lim nên ngay cả vệ sinh cá nhân cũng tại chỗ luôn. Không có giƣờng, các tù nhân phải ngủ trên nền xi măng và bị muỗi chích đầy ngƣời. Họ chỉ đƣợc ăn hai bữa một ngày vào buổi sáng và tối, với thứ đồ ăn không thể tồi tệ hơn và món chính là cháo suông.

160

Hậu quả là các tù nhân bị đói, mắc bệnh và chết vì không đƣợc chăm sóc y tế. Chỉ có một nhóm gồm 3 đến 5 ngƣời làm công việc của nhân viên y tế, nhƣng không hề đƣợc qua đào tạo và phải chịu trách nhiệm cho toàn bộ trại S21. Thậm chỉ cả trẻ em cũng đƣợc sử dụng để làm công việc này. Nhiệm vụ của họ chỉ là giữ đƣợc mạng sống cho các tù nhân tới khi hoàn thành công việc thẩm vấn. Tháng nào cũng có từ 8 đến 9 tù nhân chết ngay trong xà lim và một số tù nhân đã tự tìm tới cái chết để đƣợc giải thoát khỏi địa ngục trần gian.

Ban đầu, các tù nhân bị tử hình và đƣợc chôn quanh tổ hợp nhà tù S21. Sau đó, từ 1976 đến giữa 1977, một phần để tránh nguy cơ bệnh dịch, Duch quyết định đƣa các tù nhân tới hành hình tại cánh đồng Choeng Ek. Choeng Ek trở thành nơi giết chóc chính nhƣng các vụ hành hình cũng nhƣ chôn các tử tù vẫn đƣợc thực hiện ngay tại hoặc gần S21.

Ngay cả quy định tƣởng chừng giúp các tù nhân dễ thở hơn đó là không cho phép cai ngục đánh đập tù nhân cũng thƣờng xuyên bị vi phạm. Có những cai ngục trừng phạt tù nhân bằng cách vụt tới tấp 200 gậy lên ngƣời.

Ở S21 áp dụng đủ các hình thức để thẩm vấn tù nhân, bao gồm cả tra tấn. Việc tra tấn ở S21 đã trở thành hệ thống và hầu nhƣ ai bị thẩm vấn cũng không tránh khỏi bị tra tấn. Các tù nhân sau mỗi cuộc thẩm vấn bị rách da, chảy máu, thâm tím, bất tỉnh, mất ngón tay hay móng chân là chuyện bình thƣờng ở S21. Các tù nhân bị giam giữ tại đây phần lớn đều bị thƣơng, có khuôn mặt sƣng phồng và có vết cháy xém quanh tai- hậu quả sau những vụ tra tấn bằng sốc điện. Cứ nhƣ vậy, khoảng 15 nghìn ngƣời đã bị hành quyết hoặc chết bất đắc kỳ tử ở địa ngục khủng khiếp này.

Mỹ Hạnh

Bình luận

Ngày phán xét lịch sử QĐND - 27/07/2010

Cùng với nhân dân Cam-pu-chia, nhân dân Việt Nam hay bất cứ ai trên thế giới biết rõ tội ác diệt chủng của chế độ Khơ-me Đỏ trƣớc đây đều vui mừng trƣớc tin Tòa án xét xử tội ác Khơ-me Đỏ (ECCC) ở Cam-pu-chia, do Liên hợp quốc bảo trợ, đƣa ra xét xử và tuyên án 35 năm tù giam đối với Cang Kếch Yêu (Kaing Guek Eav), ngƣời có biệt danh là "Duch", cai ngục nhà tù Tuôn Xleng S- 21 (Toul Sleng) khét tiếng dƣới chế độ Khơ-me Đỏ. Hắn là một trong những thủ lĩnh Khơ-me đỏ cấp cao bị đƣa ra xét xử đầu tiên và bị buộc tội phạm tội ác chiến tranh cùng các tội ác chống lại loài ngƣời. Công lý đang đƣợc thực thi cho những nạn nhân của một chế độ tàn bạo khét tiếng nhất trong thế kỷ 20. Ngày 26-7-2010 - tòa tuyên án đối với Cang Kếch Yêu - trở thành ngày lịch sử đối với nhân dân Cam-pu-chia - phán xét đối với chế độ Khơ-me Đỏ.

161

Phiên tòa kéo dài từ tháng 9-2007. Cang Kếch Yêu đã thừa nhận chỉ huy diệt chủng theo lệnh của cấp trên và xin nhân dân Cam-pu-chia tha thứ. Án 35 năm tù đã đƣợc tuyên đối với bị cáo Cang Kếch Yêu hay bất cứ án hình nào khác sẽ đƣợc tuyên sau này đối với các thủ lĩnh của Khơ-me Đỏ, đều không thể cứu hàng triệu nạn nhân, trong đó có cả những ngƣời Việt Nam bị chúng tàn sát. Tuy nhiên, việc vạch mặt, chỉ tên những tội ác của chúng cũng là góp phần mang lại công lý cho hàng triệu nạn nhân của chế độ Khơ-me Đỏ. Bản cáo trạng của tòa và sự thừa nhận tội ác của bị cáo cũng nhƣ bản án đƣợc tuyên đối với một cựu thủ lĩnh cấp cao của chế độ Khơ-me Đỏ, chế độ cầm quyền tại Cam-pu-chia trong giai đoạn 1975-1979 đã gây ra cái chết của khoảng 1,7 triệu ngƣời, là sự thừa nhận quốc tế về tội ác không thể dung thứ của Khơ-me Đỏ; thêm một lần nữa khẳng định sự cần thiết phải lật đổ chế độ tàn bạo này. Đây cũng là bản án mà ngƣời dân Cam-pu-chia và cộng đồng quốc tế chờ đợi từ lâu.

Nhà tù Toul Sleng. Ảnh: Internet

Bản án không chỉ lời nhắc nhở đối với tất cả những ai còn mơ hồ về chế độ Khơ-me Đỏ tàn bạo trƣớc đây, mà còn là sự vạch tội đối với các thế lực dung túng chế độ tàn bạo này. Đây cũng là lời cảnh tỉnh đối với những ngƣời cố tình xuyên tạc về sự trợ giúp vô tƣ của Quân đội nhân dân Việt Nam dành cho nhân dân Cam-pu-chia. Vừa bƣớc ra khỏi cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, đang phải đối mặt với muôn vàn khó khăn nhƣng nhân dân Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn hành động một cách hào hiệp và vô tƣ, sẵn sàng chấp nhận hy sinh xƣơng máu, tổn thất lớn để cứu nhân dân Cam-pu-chia khỏi thảm họa diệt chủng, hồi sinh dân tộc này từ “cánh đồng chết”. Vậy mà sự hy sinh to lớn của quân tình nguyện Việt Nam trong thực thi trách nhiệm bảo vệ biên giới quốc gia và nghĩa vụ quốc tế cao cả ấy đã từng và thậm chí đang bị cố tình xuyên tạc, bị phán xét một cách cơ hội vì lợi ích chính trị cục bộ.

Sự hy sinh cao đẹp của nhân dân Việt Nam luôn đƣợc các nhà lãnh đạo và nhân dân Cam-pu-chia ghi nhớ và nhắc tới với sự biết ơn sâu sắc. Về pháp lý, bản án dành cho Cang Kếch Yêu, một trong 5 thủ lĩnh Khơ-me Đỏ còn sống, là sự

162

phán quyết của công lý đối với tội ác mà chế độ này gây ra. Phiên tòa một lần nữa khẳng định và giúp ngƣời ta hiểu rõ thêm giá trị lịch sử và cái giá phải trả bằng xƣơng máu để có ngày lịch sử 7-1-1979, khi quân tình nguyện Việt Nam theo tiếng gọi của Mặt trận yêu nƣớc Cam-pu-chia tiến vào giải phóng Phnôm Pênh, lật đổ chế độ Khơ-me Đỏ do Pôn Pốt và Yêng Xa-ri đứng đầu. Đó là ngày bắt đầu hồi sinh của một dân tộc, xây dựng lại đất nƣớc từ cảnh hoang tàn để có một Cam-pu-chia đang trên đà phát triển mạnh mẽ nhƣ hôm nay.

Kim Tôn

Bình luận

Khép lại "nghịch lý thế kỷ" QĐND - Thứ Năm, 9/4/2010

Cuối cùng thì sau cuộc tranh cãi gay go, Nga và Mỹ cũng đã ký đƣợc Hiệp ƣớc mới về cắt giảm vũ khí tiến công chiến lƣợc (START), mở ra triển vọng lớn đi tới một thế giới không có vũ khí hạt nhân.

Đây có thể coi là bƣớc đột phá trên con đƣờng khép lại điều đƣợc coi là “nghịch lý thế kỷ”-sự tồn tại của kho vũ khí hạt nhân khổng lồ trên thế giới. Thế kỷ 20 đã phải chứng kiến sự tàn phá khủng khiếp và cuộc chạy đua hạt nhân chóng mặt, đặt thế giới trƣớc hiểm họa hủy diệt chƣa từng có. Nhớ lại thời đỉnh cao đối đầu “chiến tranh Lạnh”, Lầu Năm góc từng xác định tới 16 nghìn mục tiêu trên lãnh thổ Liên Xô cần tấn công bằng vũ khí hạt nhân. Riêng thủ đô Mát- xcơ-va đƣợc đặt trong tầm ngắm của 500 đầu đạn hạt nhân, trong số đó 69 đầu đạn chỉ có mỗi nhiệm vụ là nhằm trúng trạm ra-đa chống tên lửa ở Pu-skin-nô, phía đông bắc Mát-xcơ-va.

Nghịch lý đó làm các tổng thống Mỹ cũng phải kinh hoàng khi nghĩ đến chuyện một ngày kia phải phát “trái bóng hạt nhân”. Năm 2001, khi mới bƣớc vào Nhà Trắng, lần đầu tiên đƣợc nghe báo cáo về kho vũ khí hạt nhân, Tổng thống Mỹ lúc đó Bu-sơ đã thốt lên đầy kinh ngạc: “Tại sao chúng ta lại có nhiều vũ khí hạt nhân đến thế? Chúng ta cần chúng để làm gì?”. Còn R. Pơn, một chuyên gia về an ninh dƣới thời cựu Tổng thống R. Ri-gân, thì nhận xét: “Tôi không thấy có lý do gì để chúng ta không giảm số đầu đạn hạt nhân xuống dƣới mức 1.000. Sự thật là chúng ta sẽ không bao giờ sử dụng chúng. Và ngƣời Nga cũng vậy”.

163

Nga và Mỹ đã ký được Hiệp ước mới về cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược (START). Ảnh minh hoạ: Internet

Cắt giảm và tiến tới thủ tiêu kho vũ khí hạt nhân khổng lồ đã trở thành đòi hỏi có tính sống còn. Nhƣng sự đối đầu, tâm lý nghi kỵ và tham vọng siêu cƣờng đã ngăn cản những tƣ duy lành mạnh đến với nhaụ Thậm chí ngay cả khi “Chiến tranh Lạnh” đã lùi vào quá khứ, thì vẫn có những toan tính muốn giành ƣu thế bằng vũ khí hạt nhân. Việc Mỹ đơn phƣơng rút khỏi Hiệp ƣớc chống tên lửa đạn đạo, tái khởi động chƣơng trình “Chiến tranh giữa các vì sao”, rồi mở rộng “chiếc ô” hạt nhân đến sát biên giới Nga đã làm quan hệ Nga-Mỹ băng giá, đẩy tiến trình cắt giảm vũ khí hạt nhân rơi vào bế tắc.

Với việc Nga và Mỹ, hai nƣớc sở hữu tới 95% kho vũ khí hạt nhân của thế giới, ký đƣợc hiệp ƣớc mới thay thế START-1, tƣ duy lành mạnh đã thắng thế. Những cam kết nêu trong hiệp ƣớc cho thấy đây là thỏa thuận cắt giảm vũ khí hạt nhân toàn diện nhất trong vòng gần 2 thập kỷ trở lại đâỵ Nó không chỉ tạo bƣớc đột phá giảm số vũ khí hạt nhân và phƣơng tiện chuyên chở so với START-1, xóa bỏ đáng kể nguy cơ đối đầu giữa hai bên mà còn tạo cơ chế kiểm soát nhằm tăng cƣờng sự tin tƣởng chiến lƣợc-điều có ý nghĩa quyết định đến việc đƣa các thỏa thuận đi vào thực hiện.

Là những nƣớc đóng vai trò chủ đạo trong quá trình chống phổ biến vũ khí hạt nhân trên thế giới, việc Nga và Mỹ vƣợt qua đƣợc những bất đồng để đi tới thỏa hiệp cắt giảm vũ khí hạt nhân đã góp phần “cài đặt lại” quan hệ Nga-Mỹ vốn bị thụt lùi nghiêm trọng dƣới thời chính quyền của Tổng thống Bu-sợ Giải tỏa đƣợc căng thẳng và đối đầu sẽ giúp Mát-xcơ-va và Oa-sinh-tơn bắt tay nhau trong việc tổ chức các cuộc hội đàm đa phƣơng về cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lƣợc với sự tham gia của tất cả các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân, chứ không chỉ riêng Nga và Mỹ. Triển vọng duy trì đà cắt giảm liên tục, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn kho vũ khí hạt nhân trên thế giới, để thảm họa Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki không bao giờ tái hiện đã hiện rõ.

164

Nhƣng “cú đột phá” này của Nga và Mỹ, nhƣ nhận xét của dƣ luận thế giới, vẫn chƣa loại bỏ hoàn toàn đƣợc hiểm họa hạt nhân. Dù đƣợc cắt giảm tới 30% so với mức hiện tại nhƣng số vũ khí hạt nhân còn lại của Nga và Mỹ vẫn lên tới hàng nghìn đơn vị, đủ sức hủy diệt thế giới nhiều lần. Đó là chƣa kể ngoài Nga và Mỹ, trên thế giới còn có 8 quốc gia sở hữu vũ khí và công nghệ hạt nhân gồm Anh, Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, Pa-ki-xtan, CHDCND Triều Tiên, Nam Phi (nƣớc này đã từ bỏ vũ khí hạt nhân) và I-xra-en.

Nguy hiểm hơn, vẫn còn những ảo tƣởng coi vũ khí hạt nhân nhƣ công cụ trong cuộc đua giành ƣu thế, vẫn còn những mƣu toan, những tham vọng lợi dụng ranh giới nhạy cảm giữa hạt nhân dân sự và quân sự để ngấm ngầm phát triển vũ khí hạt nhân, đặt thế giới trƣớc sự việc đã rồị. Hệ thống phòng thủ chống tên lửa mà Mỹ muốn mở rộng cũng có thể đặt dấu chấm hết cho Hiệp ƣớc START mới bất cứ lúc nào bởi nó sẽ phá vỡ thế cân bằng chiến lƣợc Nga-Mỹ, làm bùng lên những cuộc chạy đua hạt nhân mới không thể kiểm soát.

Chính vì thế, cuộc đấu tranh vì thế giới phi hạt nhân không chỉ phụ thuộc vào riêng việc thực thi Hiệp ƣớc START mới giữa Nga và Mỹ, mà phải là nỗ lực bền bỉ của cả thế giới nhằm ngăn chặn tƣ duy coi vũ khí hạt nhân nhƣ công cụ khẳng định sức mạnh. Là nƣớc không có vũ khí hạt nhân nhƣng Việt Nam đang thể hiện vai trò ngày càng tích cực trong cuộc đấu tranh nàỵ Việt Nam hiện là thành viên của tất cả các điều ƣớc quốc tế về cấm vũ khí hủy diệt hàng loạt và đƣợc cộng đồng quốc tế đánh giá cao về việc nghiêm túc thực hiện các cam kết của mình. Cùng với các nƣớc ASEAN, Việt Nam đã ký Hiệp ƣớc về Khu vực phi vũ khí hạt nhân Đông Nam Á và đang nỗ lực đƣa nó vào thực hiện. Việc Thủ tƣớng Nguyễn Tấn Dũng tham dự Hội nghị thƣợng đỉnh về an ninh hạt nhân tổ chức tại Mỹ từ ngày 12 đến 14-4 là bằng chứng khẳng định cam kết của Việt Nam đóng góp hết sức mình vào những nỗ lực chung vì mục tiêu cao cả đó.

Con ngƣời đã tạo ra nghịch lý “vũ khí hạt nhân” có khả năng hủy diệt chính mình thì phải có trách nhiệm loại trừ nó để đƣợc sống trong một thế giới yên bình. Khép lại “nghịch lý thế kỷ”, tiến tới loại bỏ hoàn toàn vũ khí hạt nhân là yêu cầu cấp thiết, là nguyện vọng chính đáng của cả nhân loại.

Mạnh Tƣờng

WikiLeaks bị “phản pháo” QĐND - Thứ Sáu, 4/12/2010

trang mạng WikiLeaks đang bị của Mỹ, tấn

Sau đòn “tấn công” gây choáng váng với vụ tiết lộ 250 nghìn văn công thƣ ngoại giao ngƣợc. WikiLeaks đang phải đối mặt với nguy cơ bị “sập” do dồn dập bị tin tặc tấn công trong bối cảnh ông chủ của trang mạng đang bị truy lùng gắt gao.

Trong nỗ lực ngăn chặn các tiết lộ tai hại của WikiLeaks, các nghị sĩ Mỹ đã thông qua một dự luật nhằm trừng phạt nhà sáng lập WikiLeaks Giu-li-an A-xan- giơ (Jullian Assange) và trang mạng này. Theo dự luật, việc công bố danh tính nguồn tin của quân đội và tình báo Mỹ là phạm luật. Trong khi đó, Thụy Điển

165

cho biết, sẽ công bố lệnh bắt giữ mới đối với A-xan-giơ vì lệnh bắt giữ trƣớc đó có sai sót về mặt thủ tục.

Tên miền của WikiLeaks đã bị từ chối do nhà cung cấp hệ thống tên miền cho trang mạng này là EveryDNS.net của Mỹ vừa thu hồi dịch vụ tên miền wikileaks.org sau khi WikiLeaks liên tiếp trở thành mục tiêu của các cuộc tấn công của tin tặc. Các cuộc tấn công vào WikiLeaks đe dọa sự ổn định về cơ sở hạ tầng của nhà cung cấp tên miền nên họ không thể tiếp tục cung cấp dịch vụ cho trang mạng này. Vì vậy, WikiLeaks đã phải ngừng hoạt động trong 6 giờ đồng hồ và chỉ hoạt động đƣợc trở lại sau khi thay tên miền mới của Thụy Sĩ là wikileaks.ch. Trong thời gian bị gián đoạn, trang mạng đóng tại Thụy Điển này đã không thể truy cập đƣợc ở châu Âu, Mỹ và nhiều nƣớc khác trên thế giới. Tuy vậy, khả năng tồn tại của WikiLeaks đang bị đặt dấu hỏi vì dƣờng nhƣ các bên liên quan và cộng đồng quốc tế đang đồng lòng chống lại trang mạng này.

Ông J.A-xan-giơ giờ đây bị coi như một tội đồ và đang bị truy nã toàn cầu. Trong ảnh là hình ảnh ông A-xan-giơ tại một cuộc họp báo ở Thụy Sĩ đầu tháng 11-1010. Ảnh: Roi-tơ

Hiện báo chí vẫn tiếp tục khai thác và đăng tải các nội dung nhạy cảm trong số 250 nghìn điện tín ngoại giao của Mỹ mà WikiLeaks công bố. Trong đó đáng chú ý là, tờ “Ngƣời bảo vệ” (Anh) cho biết, Cục Tình báo trung ƣơng Mỹ (CIA) đã lập một danh sách thƣờng niên các thông tin cần biết về Tổng thƣ ký LHQ Ban Ki Mun (Ban Ki-moon ) và các quan chức khác trong cơ quan này, sau đó chuyển tới Bộ Ngoại giao Mỹ. Trong số này có tài liệu đề ngày 31-7-2009, đề nghị lấy thông tin về quan điểm của nhà lãnh đạo LHQ về vấn đề I-ran và Trung Đông, đồng thời nghiên cứu "phong cách điều hành và sự quyết đoán" của ông Ban Ki Mun. Tại hội nghị thƣợng đỉnh Tổ chức An ninh và hợp tác châu Âu vừa diễn ra ở Ca-dắc-xtan, Ngoại trƣởng Mỹ Hi-la-ri Clin-tơn cũng đã phải gặp để xoa dịu Tổng thƣ ký LHQ Ban Ki Mun vì những tiết lộ này.

166

Những thông tin “động chạm” mà WikiLeaks công bố đã khiến một số lãnh đạo các nƣớc khác “nóng mặt”. Thủ tƣớng Nga V.Pu-tin ngày 2-12 đã kịch liệt phản đối chỉ trích của Bộ trƣởng Quốc phòng Mỹ Rô-bớt Ghết mà WikiLeaks tiết lộ về tình hình dân chủ tại Nga. Trong một bức điện, ông Ghết nói rằng, nền dân chủ của Nga “đã biến mất”. Trên CNN, ông Pu-tin đã rất gay gắt khi mô tả những nhận định của Mỹ về nƣớc Nga nhƣ một “nhà nƣớc ma-phi-a”... Còn Thủ tƣớng Thổ Nhĩ Kỳ Ét-đô-găng (Erdogan) thì tỏ ra rất giận dữ khi đƣợc biết ông bị tố cáo có những tài khoản bí mật ở Thụy Sĩ. Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la U-gô Cha-vết đã lên án Mỹ vì trong một bức điện bị tiết lộ, Ngoại trƣởng Mỹ yêu cầu các nhà ngoại giao Mỹ tìm hiểu về sức khỏe tâm thần của nữ Tổng thống Ác-hen-ti-na Cri-xti-na Ki-snê. Một bộ trƣởng của Ác-hen-ti-na cũng chỉ trích nặng nề nội dung văn thƣ này.

Một số nƣớc đồng minh thân cận của Mỹ nhƣ Anh cũng đã phải “bối rối” vì những tiết lộ củaWikiLeaks. Theo đó, Luân Đôn bị “bóc mẽ” vì mặc dù đã ký Hiệp định cấm bom chùm, nhƣng Luân Đôn lại cho phép Mỹ tàng trữ loại bom này trên lãnh thổ Anh. Các nƣớc A-rập cũng rơi vào tình thế tƣơng tự khi các tài liệu WikiLeaks công bố cho thấy, mặc dù ngoài mặt họ kêu gọi giải pháp hòa bình trong vấn đề hạt nhân I-ran, nhƣng thực chất các nƣớc này đã ủng hộ giải pháp quân sự chống I-ran.

Mai Nguyên

Nga thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực với Ấn Ðộ ND, 30/12/2010

Tổng thống Nga Ð.Mét-vê-đép vừa kết thúc chuyến thăm chính thức Ấn Ðộ hai ngày (21 và 22-12). Ðây là chuyến thăm chính thức Ấn Ðộ lần thứ hai của Tổng thống Ð.Mét-vê-đép sau chuyến thăm đầu tiên của ông hồi tháng 12-2008. Tổng thống Ð.Mét-vê-đép đã gặp Tổng thống Ấn Ðộ P.Pa-tin và nhiều quan chức cấp cao nƣớc này.

Sau cuộc hội đàm kéo dài hai giờ với Thủ tƣớng nƣớc chủ nhà M.Xinh, Tổng thống Ð.Mét-vê-đép và Thủ tƣớng M.Xinh đã chứng kiến lễ ký 30 thỏa thuận hợp tác sâu rộng trên các lĩnh vực vũ trụ, năng lƣợng hạt nhân, quân sự và thƣơng mại... Hai nƣớc đã ra tuyên bố chung mang tên 'Tuyên bố chung: Kỷ niệm một thập kỷ đối tác chiến lƣợc Ấn Ðộ-LB Nga và hƣớng tới tƣơng lai'. Tuyên bố chung cho biết, Nga và Ấn Ðộ nhất trí về việc cùng tiến hành nghiên cứu và phát triển loại máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm đƣợc trang bị ra-đa (FGFA) và loại máy bay này sẽ đƣợc chế tạo trƣớc năm 2020. Với mục tiêu hiện đại hóa quân đội, Niu Ðê-li đang có nhu cầu trang bị thêm từ 250 đến 300 máy bay chiến đấu trong vòng hơn mƣời năm, với tổng giá trị đầu tƣ khỏang 35 tỷ USD. Thỏa thuận này đã chuyển quan hệ hai nƣớc trong lĩnh vực quân sự từ quan hệ nƣớc bán- nƣớc mua vũ khí sang quan hệ mới là cùng nghiên cứu-phát triển-sản xuất và bán sản phẩm. Dự kiến chiếc máy bay thế hệ thứ năm đầu tiên ra đời vào năm 2017. Hai nƣớc cũng đạt đƣợc thỏa thuận trong lĩnh vực năng lƣợng nhƣ phát triển các

167

dự án dầu mỏ và khí đốt tại Ấn Ðộ. Trong khuôn khổ các thỏa thuận về năng lƣợng nguyên tử, Ấn Ðộ dành cho Nga xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân tại khu vực miền nam Ta-min Na-du. Ðây sẽ là lĩnh vực mang lại nhiều lợi ích cho Nga vì Ấn Ðộ đƣợc coi là thị trƣờng năng lƣợng hạt nhân lớn nhất thế giới, với kế hoạch nâng công suất hiện nay từ 4.560 mê-ga-oát (MW) lên 63.000 MW vào năm 2032 nhằm cung cấp năng lƣợng cho nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ của nƣớc này. So với tiềm năng kinh tế của Ấn Ðộ, kim ngạch thƣơng mại hai chiều Nga-Ấn Ðộ là quá ít. Mát-xcơ-va cho biết, kim ngạch thƣơng mại với Niu Ðê-li năm nay chỉ đạt mƣời tỷ USD. Trong khi đó, kim ngạch thƣơng mại của Nga với Liên hiệp châu Âu (EU) sáu tháng đầu năm là 246 tỷ USD, và với Trung Quốc là 47,5 tỷ USD trong cùng thời kỳ. Vì vậy, Nga thúc đẩy quan hệ thƣơng mại với Ấn Ðộ và sử dụng thế mạnh trong ngành công nghiệp năng lƣợng và vũ khí để thu hút nguồn vốn từ nền kinh tế lớn thứ ba châu Á này. Ngoài ra, Nga và Ấn Ðộ đã ký các thỏa thuận hợp tác về vũ trụ, kể cả nghiên cứu mặt trăng và khả năng Ấn Ðộ sử dụng Hệ thống định vị toàn cầu GLONASS của Nga. Mát-xcơ-va và Niu Ðê-li cũng thỏa thuận thành lập Trung tâm công nghệ Nga-Ấn Ðộ.

Ðáng chú ý, trong chuyến thăm chính thức Ấn Ðộ lần này, Tổng thống Ð.Mét-vê-đép đã ủng hộ Niu Ðê-li trở thành Ủy viên không thƣờng trực Hội đồng Bảo an (HÐBA) LHQ khi ông nói rằng: 'Nga coi Ấn Ðộ là một ứng cử viên mạnh và xứng đáng cho chiếc ghế ở HÐBA LHQ nếu quyết định mở rộng tổ chức này đƣợc đƣa ra'. Nga cũng ủng hộ Ấn Ðộ gia nhập Nhóm các nhà cung cấp hạt nhân (NSG), mặc dù nƣớc này chƣa tham gia Hiệp ƣớc không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT). Mát-xcơ-va còn đồng ý cùng với các nƣớc liên quan thực hiện các biện pháp để Niu Ðê-li sớm gia nhập Tổ chức hợp tác Thƣợng Hải (SCO).

Không phải ngẫu nhiên trong thời gian gần đây Ấn Ðộ trở thành 'điểm đến' của nhiều nhà lãnh đạo các nƣớc có nền kinh tế phát triển. Nền kinh tế Ấn Ðộ đã tăng trƣởng nhanh, từ 6,7% trong năm tài chính 2008-2009 lên 7,4% năm 2009- 2010 nhờ tiêu dùng trong nƣớc tăng và chính sách kích thích kinh tế. Báo cáo kinh tế của Bộ Tài chính Ấn Ðộ dự báo, kinh tế nƣớc này có thể tăng trƣởng 9% trong tài khóa 2010-2011, bắt đầu từ 1-4-2010. Thủ tƣớng M.Xinh hy vọng kinh tế Ấn Ðộ tăng trƣởng từ 9 đến 10 % trong 25 năm tới. Nhờ tốc độ tăng trƣởng 9 % trong năm 2010, Ấn Ðộ đã có vị thế trong Nhóm G-20. Tính đến ngày 14-12 năm nay, những thành tựu kinh tế ấn tƣợng của Ấn Ðộ đã góp phần thu hút mức đầu tƣ kỷ lục 38,27 tỷ USD của các nhà đầu tƣ và tổ chức tài chính quốc tế. Sáu tháng qua, các nhà lãnh đạo của Anh, Mỹ, Pháp, Trung Quốc và Nga, các nƣớc Ủy viên thƣờng trực HÐBA LHQ, cùng với hàng trăm nhà doanh nghiệp hàng đầu của mỗi nƣớc đã lần lƣợt đến Ấn Ðộ. Trong chuyến thăm Ấn Ðộ cuối năm nay của Tổng thống Mỹ B.Ô-ba-ma và Tổng thống Pháp N.Xác-cô-di, Niu Ðê-li đã tranh thủ đƣợc sự ủng hộ của hai nƣớc này đối với chiếc ghế Ủy viên không thƣờng trực trong HÐBA LHQ mở rộng. Trong chuyến thăm Ấn Ðộ mới đây, Thủ tƣớng Trung Quốc Ôn Gia Bảo cho rằng Ấn Ðộ, một nƣớc lớn đang phát triển nhanh, có thể và cần đóng vai trò lớn hơn trong các vấn đề quốc tế. Việc hai nhà lãnh đạo trong bốn nƣớc thành viên của Nhóm BRIC (Bra-xin, Nga, Ấn Ðộ và Trung Quốc) đã đến thăm Ấn Ðộ cho thấy các nƣớc trong nhóm này đang thúc

168

đẩy sự hợp tác. Trong chuyến thăm của Tổng thống Ð.Mét-vê-đép, Nga và Ấn Ðộ đã ủng hộ ý tƣởng để Nam Phi, nƣớc đứng đầu về phát triển kinh tế ở châu Phi, tham gia hoạt động của BRIC vào năm 2011.

Trong bối cảnh các nƣớc lớn trên thế giới đang tăng cƣờng quan hệ với Ấn Ðộ bằng các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo cấp cao, Nga cũng không nằm ngoài xu thế này. Mục đích chuyến thăm chính thức Ấn Ðộ của Tổng thống Ð.Mét-vê-đép lần này là nhằm giữ vững và mở rộng các mối quan hệ trên các lĩnh vực của Mát-xcơ-va tại thị trƣờng đang có tốc độ phát triển kinh tế rất nhanh này.

Văn lục

Mỹ muốn khẳng định vai trò ở châu Á NDCT, Thứ sáu, 19/11/2010

Chuyến thăm bốn nƣớc châu Á gồm Ấn Ðộ, In-đô-nê-xi-a, Hàn Quốc và Nhật Bản kéo dài chín ngày, từ 6-11, là chuyến thăm nƣớc ngoài dài ngày nhất và cũng đƣợc coi là quan trọng nhất của Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma kể từ khi trở thành ông chủ Nhà trắng hai năm qua. Chuyến đi đã củng cố quan hệ của Mỹ với hai đồng minh chủ chốt tại châu Á là Nhật Bản và Hàn Quốc, nhƣng quan trọng hơn là đã nâng cấp quan hệ với hai nƣớc lớn trong khu vực là Ấn Ðộ và In- đô-nê-xi-a, và có thể giúp mang lại hàng trăm nghìn việc làm cho ngƣời dân Mỹ. Còn nhớ, cách đây một năm, cũng vào khoảng thời gian này, ông Ô-ba-ma đã có chuyến thăm châu Á lần đầu trên cƣơng vị Tổng thống Mỹ, tới bốn nƣớc là Nhật Bản, Xin-ga-po, Trung Quốc và Hàn Quốc. Khi đó, ông Ô-ba-ma đang trên đỉnh cao quyền lực ở trong nƣớc, giữa lúc đảng Cộng hòa ở thế đối lập còn yếu và bối rối. Trên thế giới, vị thế siêu cƣờng của Mỹ sa sút sau gần một thập kỷ sa lầy trong hai cuộc chiến ở I-rắc và Áp-ga-ni-xtan. Trong khi đó, khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng với nhiều nền kinh tế phát triển năng động có vai trò ngày càng quan trọng đối với an ninh và thịnh vƣợng của Mỹ. Ðặc biệt, tại khu vực này Trung Quốc đang trỗi dậy, ngày càng nắm vai trò không thể thiếu trong nhiều vấn đề khu vực và toàn cầu. Vì thế chuyến đi của ông Ô-ba-ma đƣợc coi là 'sự trở lại châu Á của Mỹ', và Trung Quốc trở thành trọng tâm, chiếm gần nửa thời lƣợng chuyến thăm. Ông Ô-ba-ma nhấn mạnh thông điệp chính, đó là Mỹ cũng là một 'quốc gia Thái Bình Dƣơng', và Mỹ tìm kiếm ở Trung Quốc nhƣ là một 'đối tác' để san sẻ gánh nặng ở khu vực và toàn cầu với Mỹ. Mặc dù gặp nhiều thách thức trong việc duy trì địa vị siêu cƣờng toàn cầu, đặc biệt là về kinh tế, và thừa nhận vai trọng quan trọng hơn của châu Á, nhƣng Tổng thống Ô-ba-ma vẫn khẳng định mục tiêu chiến lƣợc của Mỹ đối với châu Á - Thái Bình Dƣơng là 'tăng cƣờng và duy trì vai trò lãnh đạo của Mỹ' ở khu vực này.

169

Ông Ô-ba-ma trở lại châu Á lần này với một tâm thế đã khác nhiều so với một năm trƣớc. Về đối nội, kinh tế Mỹ đã thoát khỏi suy thoái nhƣng vẫn còn mong manh, với các tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp cao, khiến ông Ô-ba-ma và đảng Dân chủ phải trả giá với sự thất bại trong cuộc bầu cử QH giữa nhiệm kỳ vừa qua. Ðảng Cộng hòa trở lại nắm Hạ viện, khiến ông Ô-ba-ma sẽ gặp khó khăn hơn về chính sách đối nội trong nửa nhiệm kỳ còn lại. Về đối ngoại, ông Ô- ba-ma đã rút dần quân Mỹ khỏi I-rắc để tập trung hơn cho chiến trƣờng Áp-ga-ni- xtan, nhƣng tình hình tại cả hai nơi này, đặc biệt là Áp-ga-ni-xtan, tiến triển rất chậm. Trong vòng một năm qua, trong quan hệ Mỹ - Trung căng thẳng cũng gia tăng do va chạm lợi ích trên nhiều phƣơng diện và vấn đề. Với không gian đối nội đã bị hạn chế nhiều, ông Ô-ba-ma chỉ còn lĩnh vực đối ngoại để thể hiện và khôi phục uy tín. Vì thế ông chủ Nhà trắng xác định rõ hai mục tiêu chủ yếu của chuyến thăm châu Á lần này: khẳng định châu Á có tầm quan trọng sống còn đối với an ninh và thịnh vƣợng của Mỹ, nhƣng Mỹ cũng giữ vai trò then chốt đối với sự ổn định và phát triển của châu Á; tận dụng vai trò chiến lƣợc đó để thúc đẩy khu vực này mở rộng cửa thị trƣờng cho hàng xuất khẩu của Mỹ, mang lại nhiều việc làm hơn cho ngƣời Mỹ.

Nhìn tổng thể chuyến đi, ông Ô-ba-ma đã cơ bản đạt đƣợc những mục tiêu đề ra. Sự lựa chọn Ấn Ðộ là quốc gia đầu tiên trong chuyến thăm châu Á của ông Ô-ba-ma mang đầy ý nghĩa. Tại đây, Tổng thống Mỹ nhấn mạnh, quan hệ Mỹ - Ấn là một trong những quan hệ đối tác lớn nhất của thế kỷ 21, và lần đầu công khai ủng hộ Ấn Ðộ có ghế thƣờng trực tại Hội đồng Bảo an LHQ, một trong những chủ đề Niu Ðê-li rất mong đợi. Tuyên bố chung hai nƣớc khẳng định tăng cƣờng hợp tác trong nhiều lĩnh vực, trong đó có chống khủng bố.

Sau Ấn Ðộ, Tổng thống Mỹ đến In-đô-nê-xi-a. Ngoài tình cảm gắn bó lúc tuổi thơ của ông Ô-ba-ma, quốc gia vạn đảo là một chặng dừng chân quan trọng chiến lƣợc với vị thế là nƣớc có số ngƣời theo đạo Hồi đông nhất thế giới, án ngữ tuyến giao thông biển huyết mạch từ Ấn Ðộ Dƣơng sang Thái Bình Dƣơng, nền kinh tế lớn nhất Ðông - Nam Á và sẽ giữ cƣơng vị Chủ tịch ASEAN năm 2011. Hai bên đã ký Hiệp định Ðối tác toàn diện, cam kết hợp tác chặt chẽ trong cuộc chiến chống khủng bố và nỗ lực nhằm cải thiện quan hệ giữa phƣơng Tây với các quốc gia Hồi giáo.

Sau khi dự Hội nghị cấp cao (HNCC) Nhóm các nƣớc phát triển và mới nổi G-20 tại Xơ-un (Hàn Quốc), ông Ô-ba-ma tới điểm dừng chân cuối cùng tại Y-ô-cô-ha-ma (Nhật Bản) để dự HNCC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dƣơng (APEC) lần thứ 18. Tổng thống Mỹ đã nhắc lại cam kết của Oa- sinh-tơn về việc bảo đảm quốc phòng cho Tô-ki-ô là không thể thay đổi và Thủ

170

tƣớng Nhật Bản đã cảm ơn Mỹ vì ủng hộ Tô-ki-ô trong hai cuộc tranh cãi về lãnh thổ với Nga và Trung Quốc.

Tại Ấn Ðộ, phái đoàn Mỹ đã ký các hợp đồng xuất khẩu trị giá tới mƣời tỷ USD. Ông Ô-ba-ma cũng nhận đƣợc các cam kết mở cửa hơn nữa thị trƣờng của In-đô-nê-xi-a và Nhật Bản. Thị trƣờng châu Á - Thái Bình Dƣơng đƣợc xem là quan trọng trong nỗ lực hƣớng tới mục tiêu tăng gấp đôi xuất khẩu của Mỹ vào năm 2015. Ông Ô-ba-ma nhấn mạnh, cứ mỗi tỷ USD kim ngạch xuất khẩu sẽ tạo ra đƣợc 5.000 việc làm tại nƣớc Mỹ. Nâng cấp quan hệ với Ấn Ðộ và In-đô-nê- xi-a, củng cố quan hệ với Nhật Bản, Mỹ đứng trƣớc các cơ hội lớn mở rộng hơn cửa các thị trƣờng tiềm năng khổng lồ, với số dân đông thứ hai, thứ tƣ và thứ chín trên thế giới.

Trong bối cảnh quan hệ Mỹ - Trung diễn biến phức tạp, Bắc Kinh đã theo dõi sát sao chuyến thăm châu Á của ông Ô-ba-ma. Tuy nhiên, lãnh đạo hai nƣớc vẫn cố gắng để bảo đảm những căng thẳng hiện tại không làm hỏng chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Trung Quốc vào tháng 1-2011. Phát biểu ý kiến tại Nhật Bản, ông Ô-ba-ma nhấn mạnh 'Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc đại diện cho ba nền kinh tế lớn nhất thế giới, vì thế, chúng ta có cùng một mối quan tâm trong việc thúc đẩy an ninh và thịnh vƣợng của mỗi nƣớc và của khu vực'.

Nhìn lại chuyến thăm châu Á vừa qua của Tổng thống Mỹ, nhiều nhà phân tích có chung nhận định, ông Ô-ba-ma dƣờng nhƣ đang quyết tâm dàn xếp lại các mối quan hệ của Mỹ với châu Á, và chuyến thăm này có thể dẫn tới sự chuyển hƣớng chiến lƣợc rất lớn trong cán cân quyền lực quốc tế.

Tô Minh

Bình luận Câu chuyện quốc tế

Tội đồ QĐND - 14/8/2010

Một cựu kỹ sƣ hàng đầu của Tập đoàn Northrop Grumman - "cha đẻ" của hệ thống đẩy trên máy bay ném bom tàng hình chiến lƣợc B-2 Spirit - đã trở thành “tội đồ”. Đó là ông N.Gô- va-đi-a (Noshir Gowadia), 66 tuổi, một ngƣời Mỹ gốc Ấn Độ, vừa bị Hội đồng xét xử liên bang ở thành phố Hô-nô-lu-lu (Honolulu), thuộc bang Ha-oai (Mỹ) buộc 14 tội, trong đó có tội danh bán bí mật quân sự cho nƣớc ngoài, vi phạm đạo luật hạn chế xuất khẩu vũ khí và rửa tiền.

Ông Gô-va-đi-a. Ảnh: komonews.com Ngƣời “quan trọng” của Northrop Grumman

171

Bản cáo trạng đƣợc các công tố viên đƣa ra còn buộc tội cựu kỹ sƣ trong lĩnh vực máy bay ném bom tàng hình này đã bán và âm mƣu cung cấp các thông tin nhạy cảm liên quan tới các mẫu thiết kế vũ khí cũng nhƣ công nghệ bí mật về tàng hình cho một số nƣớc, trong đó có Thụy Sĩ, Đức, I-xra-en và Trung Quốc. Tội nặng nhất là trao phần thiết kế ống xả nằm trong thiết kế tên lửa hành trình tàng hình cho nƣớc ngoài. Với loại ống xả đƣợc thiết kế đặc biệt này, tên lửa có thể tránh đƣợc thiết bị cảm biến hồng ngoại và vô hiệu hóa tên lửa tầm nhiệt. Theo đánh giá của các chuyên gia quân sự Mỹ, hệ thống ống xả trong loại tên lửa hành trình mới sau khi đƣợc chế tạo hoàn chỉnh sẽ thải ít nhiệt hơn, giúp tên lửa này tránh bị hệ thống ra-đa hồng ngoại và tên lửa tầm nhiệt phát hiện. Bí mật công nghệ này khi đƣợc bán cho đối phƣơng có thể khiến một số loại tên lửa tìm diệt của Mỹ bị vô hiệu hóa. Phi vụ hoàn thành, Go-va-đi-a bỏ túi 110.000 USD.

Ngoài ra, Gô-va-đi-a còn bị buộc tội âm mƣu bán công nghệ tàng hình cho Chính phủ Thụy Sĩ và các doanh nghiệp ở I-xra-en và Đức. Cơ quan công tố có bằng chứng Gô-va-đi-a đã sử dụng 3 tổ chức ở nƣớc ngoài, bao gồm một tổ chức từ thiện cho trẻ em, để che giấu thu nhập bất chính.

Việc bán bí mật quân sự bất hợp pháp không phải là chuyện quá mới, nƣớc Mỹ đã chứng kiến nhiều vụ gián điệp mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế, nhƣng nguyên nhân thúc đẩy Gô-va-đi-a phạm tội trong một vụ gián điệp thuộc loại lớn trong lịch sử Mỹ lại vì 15.000 USD hằng tháng khiến ngƣời dân và chính quyền không khỏi giật mình.

Sinh ra ở Ấn Độ, Gô-va-đi-a đến Mỹ, lấy đƣợc tấm bằng tiến sĩ và làm việc từ những năm 1960, sau đó trở thành công dân Mỹ. Ngay từ khi còn trẻ Gô-va-đi-a đã bộc lộ tài năng và trở thành nhân vật quan trọng của tập đoàn sản xuất vũ khí Northrop Grumman. Từ năm 1968 đến 1986, Gô-va-đi-a làm việc cho Northrop Grumman, nhà thầu sản xuất máy bay B-2 trong khuôn khổ một chƣơng trình bí mật. Sau đó, Gô-va-đi-a đại diện Northrop Grumman tham gia nghiên cứu tên lửa và máy bay cho Lầu Năm Góc. Gô-va-đi-a cũng từng làm việc tại Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos vào thập niên 90 của thế kỷ trƣớc. Thành công lớn nhất của Gô-va-đi-a là một trong những ngƣời “quan trọng” trong quá trình chế tạo ra loại máy bay ném bom B-2 Spirit có khả năng bay dƣới tầm kiểm soát của sóng ra-đa. Gô-va-đi-a cũng đƣợc coi là “cha đẻ của công nghệ bảo vệ B-2 Spirit khỏi các tên lửa tìm kiếm nhờ vào nhiệt tỏa ra từ bức xạ điện từ”.

Vết trƣợt… từ 15 nghìn USD

Theo mô tả của báo chí Mỹ, mọi “chuyện” với Gô-va-đi-a bắt đầu xảy ra từ năm 1999. Gô-va-đi-a chuyển từ đất liền Mỹ tới đảo Maui, nơi ông này làm nghề cố vấn sau khi nghỉ hƣu tại Northrop Grumman. Trong năm 1999, Gô-va-đi-a mua đƣợc một khu đất tại thị trấn Haiku, giáp biển, trên một vách đá nhìn ra Thái Bình Dƣơng, có diện tích 8.000 mét vuông. Với địa thế tuyệt đẹp trên, Gô-va-đi-a quyết định xây một biệt thự có 5 phòng ngủ, 1 thƣ viện, cầu thang làm bằng gỗ xoài và các bồn tắm đƣợc làm bằng đá và cẩm thạch; tính tổng trị giá khoảng 5 triệu USD. Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu công việc làm ăn hợp pháp của ông này

172

suôn sẻ. Song, sau khi hợp đồng với Lực lƣợng Quốc phòng Ô-xtrây-li-a bị đổ bể, kế hoạch tài chính chi trả cho “ngôi nhà ƣớc mơ” cũng tan theo mây khói. Lúc đó, khoản thế chấp nhà đất ông này phải gánh hằng tháng là 15.000 USD. Trong cơn quẫn bách, Gô-va-đi-a đã tìm mọi cách để có tiền. Trong khoảng 3 năm từ 2003 đến 2005, theo kết luận trong các tài liệu của công tố viên Mỹ, Gô- va-đi-a đã 6 lần tới Trung Quốc gặp gỡ “đối tác”.

Ngày 13-10-2005, chính quyền Mỹ chính thức bắt ông Gô-va-đi-a. Các công tố viên liên bang cho biết, đây là một trong những vụ án kéo dài và phức tạp nhất mà họ từng xử lý. Phải mất 4 năm chỉ để đi đến việc xét xử và trong phiên xử kéo dài 4 tháng, các công tố viên đã phải hết sức cẩn trọng khi trƣng ra nhiều thông tin quân sự tuyệt mật tại phòng xử công khai. Với các tội danh này, mức án cuối cùng Gô-va-đi-a có thể phải nhận vào tháng 11 tới đây sẽ là tù chung thân. Tuy nhiên, trong suốt quá trình xét xử từ đó đến nay Gô-va-đi-a luôn không thừa nhận các tội danh bị cáo buộc. B.Béc-va (Birney Bervar), luật sƣ của Gô-va-đi-a, thừa nhận thân chủ của ông đã thiết kế một ống xả cho “đối tác” nhƣng khẳng định thiết kế của Gô-va-đi-a là "loại cơ bản" dựa trên các thông tin thông thƣờng đƣợc công khai.

Chỉ trong gang tấc, một công thần đã thành kẻ tội đồ trắng tay cùng viễn cảnh nếm cơm tù đến chết.

Nguyễn Hòa

Nền tảng vững chắc của độc lập dân tộc

LĐ, , 1/9/2010

Các nhân tố cơ bản và chủ yếu tạo nên nền tảng vững chắc của độc lập dân tộc là: Đƣờng lối xây dựng và phát triển đất nƣớc phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội và thời đại; có nền kinh tế độc lập tự chủ; chế độ chính trị phù hợp ý chí, nguyện vọng của nhân dân và an ninh quốc phòng đƣợc bảo đảm. Nhờ có đƣợc các nhân tố cơ bản đó, nên trải qua nhiều năm chiến tranh ác liệt, gian khổ, hy sinh vô bờ bến, trƣớc nhiều tác động nặng nề của các cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế - xã hội quốc tế và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế, dƣới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên cƣờng của Đảng Cộng sản Việt Nam, độc lập dân tộc nƣớc ta vẫn đƣợc giữ vững, ngày đêm thơm đơm hoa sai quả, chế độ chính trị - xã hội theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển phù hợp yêu cầu đổi mới và đi lên của đất nƣớc…

Tuy vậy, trƣớc yêu cầu đổi mới và đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện và ngày càng sâu với thời cơ và thách thức đan xen, đòi hỏi phải có sự nhất quán về nhận thức, kiên định độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, mà cụ thể hoá hơn nữa các nhân tố cơ bản trên vào hiện tình đất nƣớc phù hợp điều kiện cụ thể của từng ngành,

173

từng địa phƣơng, quyết tâm tổ chức thực hiện, là quyết định nhất cho việc tăng cƣờng nền tảng vững chắc của độc lập dân tộc.

Về con đƣờng phát triển đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa đƣợc khẳng định tại Đại hội VII (1991) là sự kế tục các cƣơng lĩnh trƣớc đó do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, đƣợc thực tiễn 25 năm đổi mới đất nƣớc minh chứng là đúng đắn và sáng tạo, cần đƣợc tiếp tục làm rõ hơn tính chất và tính giai đoạn của định hƣớng phát triển, làm cơ sở vững chắc cho việc quyết định các chủ trƣơng, các chính sách và cơ chế cụ thể nhằm tạo sự đồng thuận cao hơn nữa của xã hội, động viên đƣợc tối đa mọi nguồn lực nhân dân trong nƣớc, ngoài nƣớc và quốc tế cho sự phát triển đi lên bền vững của đất nƣớc. Kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện thế giới là một thị trƣờng, đã và đang là thách thức rất lớn về nhận thức, quan điểm cũng nhƣ trong chế định chính sách, giải pháp kinh tế và điều hành nền kinh tế; không chỉ ở tầm chiến lƣợc vĩ mô, mà cả ở tầm vi mô và tổ chức thực hiện. Trong đó nổi lên là mối tƣơng quan, thứ tự ƣu tiên và tỉ trọng phát triển giữa kinh tế trong nƣớc với kinh tế đầu tƣ của nƣớc ngoài, giữa các thành phần kinh tế trong nƣớc, giữa trƣớc mắt và lâu dài, hiện đại hoá kinh tế công nghiệp với công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nƣớc mà lực lƣợng xung kích và quyết định là giai cấp công nhân, cần đƣợc tiếp tục khẳng định và tăng cƣờng. Không nên vì những yếu kém của khu vực kinh tế này ở một số DN mà phủ nhận vai trò to lớn của kinh tế nhà nƣớc. Sẽ là không tƣởng, nếu cho rằng Nhà nƣớc không cần có công cụ kinh tế để quản lý điều hành nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế phát triển theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa mà lại không có thành phần kinh tế nhà nƣớc, tức thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa làm nòng cốt và chủ đạo.

Sự đồng thuận xã hội chỉ có đƣợc khi lòng dân với ý Đảng là một, khi mà lợi ích ngƣời dân hài hoà và nằm trong lợi ích đất nƣớc, lợi ích dân tộc. Đó là động lực to lớn của công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác nƣớc ta đã và đang đem hết sức mình làm giàu cho mình, cho đất nƣớc. Và khi mà chế độ chính trị - xã hội phản ánh đƣợc ý chí, nguyện vọng của nhân dân, sự phát triển nền kinh tế là nhằm đem lại lợi ích cho nhân dân, trong đó có cá nhân từng ngƣời dân, thì không một ai lại phủ nhận và chống lại chế độ chính trị - xã hội đó, tức là không có chuyện tự mình chống lại mình, trừ phi kẻ rắp tâm chống lại chế độ xã hội, phản bội lợi ích nhân dân.

Chăm lo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, cho độc lập tự chủ về kinh tế và sự đoàn kết nhất trí toàn xã hội trên nền tảng liên minh công - nông - trí dƣới sự lãnh đạo của Đảng là quyết định nhất cho độc lập dân tộc. Đan Tâm

Đại lễ làm gƣơng

LĐ, , 12/8/2010

Phó Thủ tƣớng thƣờng trực Nguyễn Sinh Hùng, Trƣởng ban chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long hôm 10.8 đã chỉ đạo dừng 2 việc dự kiến sẽ diễn ra trong lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long- Hà Nội.

174

Đó là dừng tổ chức dàn kèn đồng 1.000 ngƣời, dàn hợp xƣớng 1.000 ngƣời biểu diễn và phƣơng án bắn mƣa. Nguyên nhân rất đơn giản nhƣng đầy thuyết phục: Kinh phí quá lớn (10 tỉ đồng và hàng chục triệu USD) mà lại không hiệu quả.

Trƣớc đó, lãnh đạo Hà Nội cũng đã rút lại phƣơng án làm 5 cổng chào - một việc cũng thiên về phô trƣơng hình thức và chƣa cần thiết. Những động thái này đã nhận đƣợc sự hoan nghênh của ngƣời dân.

Đại lễ 1.000 năm Thăng Long là lễ trọng không chỉ của Hà Nội, mà còn của cả quốc gia. Bởi thế, không ít ngƣời cho rằng dù có nghèo đến mấy thì cũng không nên quá tằn tiện trong ngày đại lễ. Nhận thức này hoàn toàn xác đáng. Và thực tế, Hà Nội và cả nƣớc cũng đã dồn không ít tâm sức, tiền bạc cho ngày kỷ niệm thật trang trọng, chu đáo và ấn tƣợng. Song, trong số hàng trăm việc lớn nhỏ cho ngày đại lễ ấy, cần phải rà soát thật cặn kẽ, chi tiết. Việc nào cần, thiết thực thì tốn kém cũng phải làm, việc nào phô trƣơng, hình thức, vô bổ thì dù một đồng cũng quyết loại bỏ.

Tiết kiệm không đồng nghĩa với keo kiệt, bủn xỉn và nó không chỉ là câu chuyện của các nƣớc nghèo. Ngay cả những nƣớc giàu họ cũng tính toán hết sức khôn ngoan từng đồng tiền bỏ ra. Rất tiếc, căn bệnh phô trƣơng, hình thức hiện đang đƣợc không ít địa phƣơng (dù rất nghèo) đua nhau... lập kỷ lục. Câu chuyện “Rồng hoá thân thành sắt vụn” tại Festival trái cây VN lần đầu tiên vừa diễn ra tại Mỹ Tho- Tiền Giang là ví dụ.

Ngƣời ta đã phải bỏ ra 12 tấn thép, 350 thùng sơn, 2.000m2 vải, huy động 40 hoạ sĩ, tiêu tốn hơn tỉ bạc để làm ra con rồng dài những 400 mét, cốt đƣợc ghi vào cái gọi là kỷ lục guinness VN! Nhƣng chỉ sau vài ngày khi lễ lạt kết thúc, các nhà tổ chức rao bán nó với giá 6 chục triệu đồng cũng không đắt! Chƣa hết, nhiều sản phẩm ra đời từ cái hội chứng “kỷ lục guinness VN” không biết đã tiêu tốn bao nhiêu tiền bạc, công sức của dân, của nƣớc.

Sinh thời, Bác Hồ coi thói hình thức, phô trƣơng, lãng phí là thói xấu và Bác thƣờng nghiêm khắc phê phán. Có một câu chuyện thật thấm thía: Lần về thăm quê Nghệ An năm 1960, khi ngồi trong nhà khách tỉnh uỷ nhìn ra con đƣờng đi vào, thấy có nhiều bông hoa rực rỡ đƣợc trồng ngay ngắn hai bên, Bác bèn ra nhổ nhẹ một cành hoa layơn. Lạ thay, cành hoa nhẹ bỗng, ở dƣới không có một chiếc rễ nào. Bác nói với đồng chí Bí thƣ Tỉnh uỷ, đại ý: Bác tƣởng các chú trồng đƣợc hoa thì hay, có cây cảnh đẹp, tốt cho môi trƣờng, nhƣng vì Bác vô các chú phải mua hoa này trồng. “Trồng” hình thức nó không sống đƣợc, đây là một thứ phô trƣơng hình thức giả dối!

Học và làm theo Bác, các nhà tổ chức đại lễ ngàn năm Thăng Long đang mạnh tay cắt giảm những việc mang nặng tính phô trƣơng, hình thức để dành tiền của làm những việc khác có ích cho dân hơn. Các địa phƣơng khác còn nghèo, tiềm lực mỏng nên lấy đó làm gƣơng. Đình Chúc

175

Sai lầm đáng tiếc Lao Động, 7/12/2010

WWF đƣa cá tra Việt Nam vào sách đỏ là thông tin thực sự gây sốc, vì nó gây ảnh hƣởng nghiêm trọng số phận hàng vạn ngƣời lao động VN đang làm việc trong ngành chăn nuôi, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản.

Từ chỗ không ai biết đến, cá tra đã đƣợc những ngƣời nông dân ĐBSCL cùng với các DN VN đƣa lên thành một sản phẩm nổi tiếng, đƣợc ngƣời tiêu dùng trên cả thế giới ƣa chuộng. Từ năm 2003, các vùng nuôi cá tra của VN đã triển khai Tiêu chuẩn thực phẩm an toàn chất lƣợng của tổ chức SQS Institute có trụ sở tại Mỹ cấp. Những năm gần đây, các DN VN còn áp dụng cả tiêu chuẩn quốc tế mới nhƣ Global GAP. Vì vậy, nếu WWF lấy lý do môi trƣờng nuôi, thức ăn, hoá chất “có vấn đề” để đƣa cá tra vào danh sách đỏ là hoàn toàn thiếu cơ sở.

Quyết định đƣa cá tra vào danh sách đỏ của WWF còn ảnh hƣởng tới rất nhiều ngƣời tiêu dùng ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Cá tra đã trở thành một sản phẩm đƣợc ƣa chuộng tại nhiều thị trƣờng khó tính nhƣ Nhật, Mỹ, Châu Âu và nhiều nƣớc khác. Quyết định của WWF đồng nghĩa với việc khuyên ngƣời tiêu dùng nên từ chối sử dụng cá tra và nên chọn sản phẩm khác chƣa chắc đã an toàn hơn, chất lƣợng cao hơn, giá cả tốt hơn và thân thiện với môi trƣờng hơn.

Một quyết định quan trọng đến thế lẽ ra phải đƣợc WWF cân nhắc, đánh giá cẩn thận, nhƣng trên thực tế dƣờng nhƣ không phải nhƣ vậy. Theo thông tin đã đăng tải trên báo Lao Động và các báo thì cho đến nay, đại diện WWF tại VN chƣa hề hay biết WWF quốc tế căn cứ vào đâu, dựa vào những bằng chứng nào để đƣa cá tra VN vào danh sách đỏ. WWF đã tiến hành đánh giá tác động môi trƣờng tại VN chƣa, hay dựa vào đánh giá của tổ chức nào khác? Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN (VASEP) trong mấy tuần qua đã đã liên tục hỏi WWF VN, nhƣng vẫn chƣa có đƣợc câu trả lời. Một quyết định do WWF công bố gây ảnh hƣởng xấu đến cả một ngành kinh tế, đến số phận hàng vạn ngƣời lao động của VN mà đại diện của chính WWF ở tại đây không hay biết thì cũng thật lạ!

Vài năm gần đây, khi sản phẩm cá tra tạo đƣợc sức mạnh cạnh tranh trên thƣơng trƣờng quốc tế, không ít chiến dịch bôi bẩn đã diễn ra nhằm phục vụ lợi ích không chính đáng của một vài nhóm ngƣời. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi và chế biến, xuất khẩu cá tra VN vẫn không ngừng phát triển. Điều này khẳng định VN đã xây dựng đƣợc một thƣơng hiệu có uy tín, không dễ gì bị lung lay bởi những thông tin áp đặt, vô căn cứ . Hy vọng việc làm của WWF không phải là ý đồ nằm trong một chiến dịch bôi bẩn nào cả mà chỉ là một sai lầm đáng tiếc, có thể điều chỉnh đƣợc. Bộ NNPTNT đã cho biết sẵn sàng đƣa WWF đến vùng nuôi cá tra để chứng kiến. Vấn đề là WWF cần có thiện chí cùng VN bàn bạc, trao đổi và đƣa ra những đánh giá khách quan. Trung Phƣơng

176

Khi lợi thế cạnh tranh là cơ bắp Tuổi trẻ, 24/7/2010 Sau chuối, tăm tre, nấm... đƣợc nhập khẩu ồ ạt vào VN, giờ đây ngƣời tiêu dùng trong nƣớc lại nhận đƣợc một thông tin gây sốc: cám và gạo cũng đang đƣợc nhập với số lƣợng lớn vào VN.

Sốc bởi VN là xứ gạo, chuyện nhập khẩu cám và gạo cũng ví nhƣ việc “chở củi về rừng” bởi mỗi năm cả nƣớc sản xuất 35-36 triệu tấn lúa, ngoài phục vụ nhu cầu trong nƣớc thì vẫn còn dƣ để xuất khẩu 5-6 triệu tấn gạo.

Đặc biệt, trong tình hình tiêu thụ lúa gạo đang gặp khó khăn tại nhiều nơi ở

khu vực đồng bằng sông Cửu Long, thông tin trên lại càng gây sốc.

Cũng nhƣ chuối, tăm tre, nấm... việc mở cửa thị trƣờng cho mặt hàng cám, gạo nhập khẩu là bƣớc đi tất yếu trong sân chơi hội nhập. Và luật chơi hội nhập cũng cho phép chúng ta có thể dùng các biện pháp tự vệ để ngăn chặn làn sóng nhập khẩu trên nhƣ xây dựng hàng rào kỹ thuật, điều tra áp thuế chống bán phá giá... Tuy nhiên, đó mới chỉ là những giải pháp mang tính chống đỡ trƣớc mắt, hay nói khác đi mới chỉ giải quyết phần ngọn của vấn đề.

Giải thích lý do nhập khẩu đối với mặt hàng cám gạo, nhiều doanh nghiệp đã thẳng thắn nhìn nhận: do giá rẻ và chất lƣợng tốt hơn trong nƣớc. Mới nghe qua có vẻ nhƣ vô lý đối với một cƣờng quốc về lúa gạo nhƣ VN, nhƣng đó lại là sự thật.

Theo các chuyên gia trong lĩnh vực thức ăn chăn nuôi, cám gạo của Ấn Độ trƣớc khi xuất vào VN đã đƣợc trích ly lấy dầu (chất béo) dùng trong sản xuất ngành thực phẩm, dƣợc liệu... Do đó phần cám còn lại xem nhƣ phụ phẩm nên giá rẻ hơn. Chƣa kể về mặt chất lƣợng, loại cám này do đã đƣợc lấy dầu nên bảo quản lâu và độ đạm cũng cao hơn. Bên cạnh đó, ngoài vấn đề hệ thống kho tàng, xay xát... ở khâu đầu vào nhƣ giống, vật tƣ... cũng đƣợc đầu tƣ tối đa về mặt khoa học kỹ thuật nên đã góp phần làm giảm giá thành.

Trong khi đó, ở trong nƣớc từ nhiều năm qua, ngành nông nghiệp dù đƣợc đầu tƣ rất lớn, đặc biệt là các chƣơng trình khuyến nông cho các địa phƣơng, cơ quan chuyên môn... nhƣng thử hỏi số tiền đầu tƣ này có thật sự đi vào chiều sâu giúp nông dân hạ giá thành trong sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm?

Nhiều ngƣời đều biết ở lĩnh vực con giống, nhiều nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long hiện vẫn đau đầu trong việc tìm giống lúa thay thế loại lúa IR 50404 (một loại giống cho ra gạo có chất lƣợng rất kém). Đến khi thu hoạch, thay vì đƣợc sự hỗ trợ của các máy móc thiết bị hiện đại, ngƣời ta vẫn thấy các “kỹ sƣ hai lúa” phải “tự bơi” với máy gặt đập liên hợp. Và ở khâu hậu thu hoạch, với hệ thống hạ tầng về kho tàng, máy móc manh mún, lạc hậu nhƣ hiện nay cũng chỉ đủ sức xay xát đơn thuần.

177

Chính vì vậy khi sản phẩm cám, gạo, chuối, nấm... ra thị trƣờng, lợi thế cạnh tranh lúc này chỉ còn là sức lao động “một nắng hai sƣơng” của nông dân nên dù ngay trên sân nhà cũng khó lòng cạnh tranh với hàng ngoại.

Nâng cao sức cạnh tranh cho hàng nông sản trong nƣớc thông qua giải pháp hạ giá thành và đầu tƣ cho chất lƣợng sản phẩm chính là hƣớng đi bền vững nhất trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, để làm đƣợc điều này rất cần sự hỗ trợ từ các cơ quan chức năng đối với nông nghiệp, nông dân.

Ông Lƣơng Văn Tự - nguyên thứ trƣởng Bộ Thƣơng mại, nguyên trƣởng đoàn đàm phán VN gia nhập WTO - tỏ ra khá bức xúc cho biết hiện VN mới sử dụng khoảng 3% giá trị ngành nông nghiệp để hỗ trợ ngành này. Trong khi đó theo cam kết WTO, VN đƣợc phép sử dụng đến 10% để hỗ trợ ngƣợc lại cho nông nghiệp, nông thôn. Ngoài các hỗ trợ về con giống, phân bón, thuốc trừ sâu, máy móc, thủy lợi, đào tạo... chúng ta có thể hỗ trợ cả cƣớc vận chuyển cho hàng nông sản mà không vi phạm các quy định của WTO.

Sẽ còn nhiều mặt hàng nông sản khác tiếp tục tràn vào thị trƣờng VN, và số tiền VN bỏ ra nhập khẩu các mặt hàng này sẽ không dừng ở mức vài chục triệu USD nhƣ hiện nay nếu chúng ta không gấp rút giải quyết nhanh những bất cập trên.

Xuân Toàn