NGŨ SẮC – TRIẾT HỌC NGHỆ THUẬT

Từ tác phẩm của các họa sĩ, ta

như nghe thấy tiếng vọng của

lịch sử và thời gian, trong đó

thân phận con người luôn phải

sống trong sự chìm nổi giữa

niềm vui, nỗi buồn, hạnh

phúc, và cả những khổ đau bất

tận.

Hồng Lĩnh với 5 bức màu dầu

khổ lớn, chỉ với hai màu đen,

trắng. Mỗi bức là một chân

dung bóng người hiện lên

trong không gian tĩnh lặng.

Trên nền bóng đen chân dung

là những lời được tác giả

thuyết minh, lý giải - cũng là những câu hỏi và trả lời của chính mình, nói về thân

phận con người trên “cõi tạm”: “... Khoảng trống của nghệ thuật là sự tìm kiếm

không mệt mỏi để vươn tới. Khoảng trống của cuộc sống là khi con người ngồi yên

lặng để thở sau khi đã la hét kiệt sức. Nhưng khoảng trống của tâm hồn là sự vỡ

tan, đánh mất, không thể nào bù đắp...” Làm nền cho bức tranh chân dung con

người là những dấu hỏi, dấu chấm... ở một bức khác đề từ: “...Những mùa vui,

những cuộc đời vẫn trôi lềnh bềnh theo con nước... Những bước chân nhọc nhằn

trên lớp bùn nhão nhoẹt lại bắt đầu gieo hạt đợi mùa sau”. Nền tranh là những dấu

lặng, dấu trừ, những chiếc chìa khóa ngả nghiêng... Phải chăng để mở hay khóa

mỗi cuộc đời, mỗi số phận đã quá mệt mỏi của kiếp người sau mỗi nạn hồng thủy

mất mùa, đói kém? Một bức nữa đề từ: “Những câu thơ bỏ quên trong tâm tưởng.

Những cảm xúc lẫn lộn trong ký ức. Những nỗi nhớ vụn rời... Những đau khổ buồn

vui như vệt sáng, như bóng đen lúc nhòa lúc hiện... Khi ngồi yên, ta lắng nghe hơi

thở giữa ban mai trong trẻo của đất trời.” Nền tranh đầy ắp những ký hiệu của toán

học, vật lý. Phải chăng đều là tâm trạng con người, kiếp người muôn thuở, chưa

giải mã, chưa có lời giải đáp?

Huỳnh Thị Nhung với 4 tác phẩm màu dầu, 5 tác phẩm sơn mài cỡ trung. Đề tài là

những hình người và cảnh vật, rất gần với lối tạo hình nguyên thủy - dân gian -

biểu hiện - trừu tượng. Vẫn là mạch ngầm của triết lý nhân sinh đượm màu huyền

thoại, tâm linh của đôi bờ nhân thế: Sự sống và cái chết; con người và cuộc đời; thế

giới hiện tồn và vĩnh hằng ở bên kia cuộc sống rồi sẽ ra sao, hỡi con người?

Triết luận nhiều, hàm súc, đầy tính tượng hình hơn nữa phải kể đến một loạt tác

phẩm màu dầu đen trắng (ngoại trừ hai bức màu) của Lê Triều Điển. Hầu hết tranh

của ông là những ký hiệu tượng hình - trừu tượng, hoặc gợi tả nhằm lý giải về con

người và cuộc sống - chân dung con người - những cặp kính nhìn đời khác nhau.

Trong im lặng, tác giả đã dẫn người xem đi vào thế giới nhiều chiều của thân phận

con người. Ông muốn “đồ thị hóa”, “phức hợp hóa” cuộc đời qua ký hiệu - hình

tượng nghệ thuật.

Khác với các bạn đồng nghiệp của phòng trưng bày, Ki-em (họa sĩ Pháp), khiêm

nhường và giản dị với chùm tranh tiểu họa màu nước vẽ phong cảnh theo xu hướng

ấn tượng - tả thực - gợi tả. Tranh của tác giả mang vẻ đẹp rất riêng: Sâu lắng, tinh

tế, nhẹ nhàng, giàu tính nội tâm, gợi tả, tưởng như vô cực. Tác phẩm bộc lộ khá rõ

nét trong sự hòa hợp tinh tế giữa hai nền tư tưởng triết học Đông - Tây. Vẻ đẹp

tranh Ki-em giống như sắc hương của một loài hoa quý, nhẹ nhàng thoang thoảng

bay xa, nhưng không kém phần ngân nga, đầy dư vị trong không gian thanh khiết

của nghệ thuật.

Xuân Cường với năm bức màu dầu cỡ trung, cùng một đề tài Tre làng quê Việt gây

cho ta một cảm nhận mới về phong cách của tác giả. Thực mà hư ảo, huyền nhiệm.

Nhát cọ, mảng màu của ông rất gần với xu hướng biểu hiện - trừu tượng. Sắc màu

trong tranh tạo được tiếng nói tâm tình đầy triết lí sống của người nghệ sĩ - thi sĩ

làng quê, đậm đà tình người, tính lãng mạn đầy mộng mơ của vẻ đẹp nghệ thuật.

Màu tranh chói chang, nét vẽ khỏe, linh hoạt, phóng túng, chính là vẻ đẹp tròn đầy

của ngôn ngữ biểu đạt trong tranh Nguyễn Xuân Cường.

Cảm ơn năm họa sĩ đã cho tôi được thưởng ngoạn đầy suy tư và lý thú về triết học

nghệ thuật qua tác phẩm của phòng tranh. Một cuộc kết nối đầy ấn tượng mà dư

vang, dư vị của nó đã ghi đậm dấu ấn trong lòng người xem yêu cái đẹp.