Ngũ vị tử

Lịch sử: Ngũ vị tử (Schizandra chinensis) nguồn gốc ở miền đông bắc

và trung bắc Trung Quốc. Cây này cũng mọc ở miền bắc Việt Nam như Lào

Cai, Lai Châu. Tử là hột và tên Ngũ vị do hột có 5 vị mặn, ngọt, đắng, cay,

chua. Vị chính là mặn và chua. Ngũ vị tử có trong nhiều sách thuốc Trung

Quốc dùng để chữa ho và những bệnh liên quan đến đường hô hấp, bào chế

dưới dạng cồn thuốc.

Thành phần hóa học

Có nhiều nghiên cứu về thành phần hóa học của Ngũ vị tử. Trái chứa

đường khử và khoảng 10% acid hữu cơ (carboxylic, malic, citric, tartaric). Hột

chứa đường khử, alkaloid và ester acid béo. Không có flavon, glycosid hay tanin

trong hột hay trái. Khoảng 2% trọng lượng hột gồm lignin với sườn dibenzo-

cyclooctan (schizandrin, deoxyschizandrin và những hợp chất liên hệ như

schizandrol và schizanderer). Ở một số mẫu, lượng lignin trong trái có thể lên đến

19% trong hột và 10% trong cành. Hơn 30 lignin được nhận diện, gồm gomsisin

A, B, C, D, F và G, tigloylglomisin P và angeloylgomisin. Những thành phần khác

của cây gồm phytosterol, tinh dầu, sinh tố C và E. Đã có những phương pháp định

chuẩn và bào chế dược liệu này.

Dược tính

Bên cạnh tính bồi dưỡng và tái tạo, Ngũ vị tử (Fructus Schisandrae) còn

được dùng trong những lĩnh vực khác như bảo vệ gan, tác dụng lên hệ thần kinh,

chữa bệnh đường hô hấp, đường tiêu hóa, tính thích ứng (adaptogen)…

Đối với gan:

Thành phần lignin trong Ngũ vị tử có tính bảo vệ gan rõ rệt. Hoạt chất

chính như Ngũ vị tử C, schisantherin D, deoxygomisin A, gomisin N và gomisin

C. Sự hiện diện của một hay 2 nhóm methylen dioxy có vẻ giữ vai trò quan trọng

để bảo vệ gan, hay những phân tử lignan chứa 2 đơn vị phenylpropanoid. Nghiên

cứu trên động vật về gomisin A cho bằng cớ thuyết phục tính bảo vệ gan, gồm tính

bảo vệ chống viêm gan do halothan, độc tính của carbon tetrachlorur, d-

galactosamin và dl-ethionin, suy gan do siêu vi và thương tổn tiền ung thư gan. Cơ

chế chống ung thư gan của gomisin A có thể do khả năng giúp chuyển hóa acid

mật. Gomisin A tăng sinh tế bào gan, tái tạo gan, tăng lưu thông máu huyết và hồi

phục chức năng gan ở chuột lớn. Những hiệu quả này do bảo vệ màng huyết tương

tế bào gan. Cao cồn Ngũ vị tử làm tăng trọng lượng gan ở chuột lớn và chuột nhắt.

Tác dụng này của schizandrin B. Trong một nghiên cứu ở chuột nhắt, thêm Ngũ vị

tử vào thức ăn căn bản hàng ngày trong 14 ngày tăng chuyển hóa enzym mutagen

benzo(a)pyren (BaP) và aflatoxin B (AFB) và tăng hoạt động của cytochrome

P450. Mặc dầu tăng chuyển hóa, cao Ngũ vị tử tăng đột biến của AFB trong ống

nghiệm. Tuy nhiên, hóa chất tạo đột biến tương tự ở sinh vật lại giảm độ bám AFB

vào DNA. Người ta nhận thấy schizandrin và khoảng nửa tá hợp chất liên hệ có

thể ức chế tạm thời hay làm giảm hoạt động ALT gan. Điều này được quan sát ở

thú vật trước đó có dùng hepatotoxin.

Theo nghiên cứu của Hikino, Ngũ vị tử chống lại tính làm hại tế bào của

tetrachlorocarbon và galactosamin. Tuy nhiên khi dùng galactosamin làm chất độc

hại tế bào, tính bảo vệ gan của Ngũ vị tử giảm ở liều cao. Hikino kết luận lignan

của Ngũ vị tử cũng độc hại cho gan khi dùng liều cao trong một khoảng thời gian

dài nào đó.

Theo Kee Chang Huang trong “The Pharmacology of Chinese Herbs”, hoạt

chất gamma-schizandrin có tính bảo vệ gan và giảm hoạt động của gamma-

glutamyltransferase. Tổng hợp protein và lượng cytochrom P450 tăng đáng kể.

Ngũ vị tử cũng tăng đáng kể mức glutathione gan và hoạt động của glucose-6-

phosphat và glutathione reductase ở gan, cũng như giảm phản ứng của mô gan làm

giảm GSH do peroxid.

Đối với hệ thần kinh:

Ngũ vị tử là chất kích thích thần kinh, tăng phản xạ đáp ứng và cải thiện

mức tỉnh táo. Tại Trung Quốc, Ngũ vị tử được dùng để chữa bệnh tâm thần như

trầm cảm, bứt rứt hay mất trí nhớ. Ngũ vị tử kết hợp với những dược thảo khác cải

thiện trí nhớ khi thử nghiệm trên động vật. Từ đó có thể ứng dụng để chữa chứng

sa sút trí tuệ ở người. Ngũ vị tử kết hợp với Táo gai (Ziziphus spinosa) và Đương

quy (Angelica sinensis) tăng sinh tế bào thần kinh và có thể ngăn ngừa tế bào thần

kinh suy thoái. Ngũ vị tử chống tính co giật do cafein và tăng tác dụng của

strychnin.

Ngũ vị tử làm sáng mắt, giúp nhìn rõ và tăng giác quan xúc giác.

Ngũ vị tử cũng đã được đánh giá ức chế hệ thần kinh trung ương. Trong y

học Trung Quốc, Ngũ vị tử dùng làm thuốc an thần để trị mất ngủ. Cơ chế ức chế

có thể liên hệ đến thụ thể dopamin. Gomisin A ức chế tác dụng kích thích thần

kinh vận động của methamphetamin trên động vật.

Đối với hệ hô hấp:

Ngũ vị tử được dùng để chữa bệnh đường hô hấp như thở hổn hển, khò khè

và ho. Gomisin A được chứng minh có tính giảm ho khi thử trên chuột lang.

Đối với hệ tiêu hóa:

Trong ruột non chuột lớn, cao Ngũ vị tử giảm chuyển hóa BaP

(benzoapyrene), điều này trái ngược với tác dụng ở gan. Thí nghiệm cho thấy Ngũ

vị tử tăng hoạt động của glutathion s-transferase. Trong ruột non, Ngũ vị tử

chuyển hóa BaP về phía diols và 3-hydroxybenzo(a)pyrene tách xa BaP-4,5-

epoxid và đột biến quinon của BaP. Ngũ vị tử không tăng hoạt động cytochrom

P450 trong ruột non. Ngũ vị tử được dùng để chữa tiêu chảy và kiết lỵ. Một báo

cáo cho biết không có tác dụng đáng kể về dịch vị dạ dày, pH dạ dày và lượng acid

tiết ra, trong khi nghiên cứu khác cho thấy Ngũ vị tử có tính ức chế co thắt dạ dày

và loét dạ dày do stress khi tiêm mạch hay cho chuột lớn uống. Chuyển hóa Ngũ

vị tử đã được báo cáo. Cây này cũng giúp cơ thể thích nghi với hoàn cảnh như

stress. Ngũ vị tử được dùng để cân bằng mức tân dịch, cải thiện khả năng tình dục,

chữa ngứa, kích thích co bóp tử cung. Một báo cáo cho thấy tính kháng khuẩn của

cao cồn và aceton của trái Ngũ vị tử.

Phần lớn báo cáo cho biết thuốc Ngũ vị tử tăng tồn trữ glycogen và sử dụng

glucose, cũng như mức acid lactic. Một số báo cáo cho thấy Ngũ vị tử không có

tác dụng lên glucose trong huyết thanh. Ngũ vị tử tăng hấp thu P32 từ ống tiêu

hóa, tăng nồng độ P trong cơ quan và củng cố hoạt động của phosphatase.

Đối với hệ tim mạch:

Cao nước và cao cồn Ngũ vị tử có thể tăng sức co bóp cơ tim nhưng ít có

tác dụng lên huyết áp.

Tính đối kháng kích hoạt tiểu cầu của 6,7-dehydroschisandrol A (IC50= 2 x

10-6 M). Hoạt động liên hệ lignan không có ester ở C-6, nhóm hydroxy ở C-7 hay

nhóm methylen-dioxy và gốc thay thế R-biphenyl (Lee 1999).

Hư hại cơ tim khi cho tái lưu thông chỗ thiếu máu cục bộ được giảm thiểu

bằng cách cho dùng trước schisandrin B (0,6/1,2 mmol/kg/ngày x 3) theo liều

lượng và kết hợp với ức chế se-glutathion peroxidase và glutathion reductase (Yim

1999).

Độc tính

Ngũ vị tử có khả năng đàn áp hệ thần kinh trung ương. Vì dược liệu này có

tác dụng hoạt động enzym gan và dạ dày, Ngũ vị tử có thể can thiệp vào chuyển

hóa các chất thuốc khác khi uống chung. Toàn bộ phổ tác dụng trên gan chưa được

nghiên cứu sâu rộng và an toàn chưa được nêu rõ. Tuy nhiên, các nghiên cứu

không báo cáo phản ứng phụ.

Tóm lại, Ngũ vị tử là thuốc y học cổ truyền. Thành phần lignin trong cây,

chịu trách nhiệm bảo vệ gan chưa được báo cáo rõ. Dược liệu có vẻ sẽ cải thiện

tình trạng sa sút trí tuệ, cải thiện tỉnh táo, chữa bệnh đường tiêu hóa và ruột và

giúp cơ thể thích nghi với stress. Rất ít thông tin về phản ứng phụ.

DS. LÊ VĂN NHÂN

DS. TRẦN VIỆT HƯNG