VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN CHINH
NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN CHINH
NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN
Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM VĂN TỈNH
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN VĂN CHINH
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
thành phố Phan Rang - Tháp Chàm .......................................................................... 10
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ............................ 10
1.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................................................... 10
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .......................................... 11
1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................................................... 12
1.2.1. Nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác nhập tâm .......................... 14
1.2.2. Nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác xuất tâm ........................... 19
1.3. Cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ....................................................... 20
1.4. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tình hình tội phạm, nhân thân người
phạm tội và phòng ngừa loại tội phạm này .................................................................... 22
1.4.1. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tình hình tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................................... 22
1.4.2. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với nhân thân người phạm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ................................... 23
1.4.3. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với phòng ngừa tình hình tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ................................... 24
Chương 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố
Phan Rang – Tháp Chàm giai đoạn 2014 -2018 ........................................................ 26
2.1. Thực trạng nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan
Rang – Tháp Chàm ......................................................................................................... 26
2.1.1. Thực trạng nhận thức thông qua văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và văn
bản triển khai thực hiện của chính quyền thành phố Phan Rang – Tháp Chàm ............ 26
2.1.2. Thực trạng nhận thức nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố
Phan Rang – Tháp Chàm giai đoạn 2014-2018 thông qua các thông số của tình hình
tội phạm .......................................................................................................................... 33
2.2. Thực trạng các nguyên nhân và điều kiện cụ thể của tình hình tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang –
Tháp Chàm giai đoạn 2014 -2018 .................................................................................. 42
2.2.1. Nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác nhập tâm .......................... 42
2.2.2. Nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác xuất tâm ........................... 50
2.3. Trực trạng làm sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện cụ thể của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan
Rang – Tháp Chàm thông qua chủ thể phòng, chống tội phạm ..................................... 52
Chương 3: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang -
Tháp Chàm và những vấn đề đặt ra đối với phòng ngừa hiện tượng tiêu cực này57
3.1. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm và vấn
đề dự báo tình hình tội phạm này ................................................................................... 57
3.1.1. Cơ sở dự báo ........................................................................................................ 57
3.2. Tăng cường nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan
Rang – Tháp Chàm trong phòng ngừa tình hình tội phạm này ...................................... 60
3.2.1. Đối với các cơ quan chuyên trách ....................................................................... 60
3.2.2. Đối với các cơ quan, tổ chức không chuyên trách và Công dân ......................... 61
3.3. Giải quyết nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và phòng ngừa tình tội phạm này ................ 62
3.3.1. Những giải pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác
nhập tâm ......................................................................................................................... 62
3.3.2. Những giải pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác
xuất tâm .......................................................................................................................... 73
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
: An ninh trật tự
ANTT
: Bộ luật hình sự
BLHS
: Công an nhân dân
CAND
: Mặt trận tổ quốc
MTTQ
: Tòa án nhân dân
TAND
: Tình hình tội phạm
THTP
: Tệ nạn xã hội
TNXH
TTATXH
: Trật tự an toàn xã hội
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phan Rang – Tháp Chàm là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Ninh Thuận, diện tích tự
nhiên 79,17 km² [6, tr.19], phía Bắc giáp huyện Bác Ái và huyện Ninh Hải, phía Tây
giáp huyện Ninh Sơn, phía Nam giáp huyện Ninh Phước, phía Đông giáp biển Đông.
Thành phố có 15 phường (Bảo An, Đài Sơn, Đạo Long, Đô Vinh, Đông Hải, Kinh
Dinh, Mỹ Bình, Mỹ Đông, Mỹ Hải, Mỹ Hương, Phủ Hà, Phước Mỹ, Tấn Tài, Thanh
Sơn, Văn Hải) và 01 xã (Thành Hải). Thành phố có lịch sử lâu đời, từng là kinh đô
Panduranga của Vương quốc Champa cổ, sau nhiều lần tách, nhập thì ngày nay Phan
Rang – Tháp Chàm là trung tâm văn hóa, kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Thuận. Về dân
cư, theo Niên giám thống kê của tỉnh Ninh Thuận năm 2018, thành phố có 176.865
người. Trong đó có 89.303 nam và 87.562 nữ; với mật độ dân số 2.233 người/km2, số
dân thành thị là 167.270 nguuời, nông thôn là 9.595 người, số người trong độ tuổi từ 15-
59 tuổi khoảng 107.268 người chiếm 60,65% dân số. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao với 1.371
hộ, chiếm 2,76%, hộ cận nghèo còn 2.401 hộ chiếm 4,84%; Thành phố có nhiều dân tộc
anh em chung sống, trong đó, chiếm tỷ lệ cao nhất là người Kinh và người Chăm. Trình
độ dân trí ở một số địa bàn còn thấp, nhất là các phường ven biển.
Phan Rang -Tháp Chàm nằm ở vị trí đầu mối giao thông quan trọng trong phát
triển, có trục quốc lộ 1A nối quốc lộ 27 đi Đà Lạt; tuyến đường sắt thống nhất Bắc -
Nam đi qua ga Tháp Chàm; cách cảng biển và cảng hàng không Quốc tế Cam Ranh
60km và cách thành phố Nha Trang 110 km về phía Bắc; cách thành phố Hồ Chí Minh
350 km về phía Nam; cách thành phố Đà Lạt 110 km về phía Tây. Với vị trí thuận lợi
về giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không, thành phố đóng vai trò là đầu
mối giao thông liên vùng, trung tâm giao lưu kinh tế kết nối với vùng Tây Nguyên,
vùng duyên hải Nam Trung bộ và khu kinh tế trọng điểm phía Nam. Đây là tiềm năng,
lợi thế so sánh, tạo cơ hội cho sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố nói riêng và
tỉnh Ninh Thuận nói chung. Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên – xã hội nói trên cũng là
1
điều kiện thuận lợi cho các loại tội phạm hoạt động. Qua nghiên cứu cho thấy, không
nằm ngoài xu hướng chung của cả nước, THTP trên địa bàn thành phố có diễn biến phức
tạp với nhiều loại tội khác nhau như giết người, cướp tài sản, cướp giật tài sản, trộm cắp
tài sản, cố ý gây thương tích, mua bán trái phép chất ma túy, gây rối trật tự công cộng...
đặc biệt, thời gian gần đây còn xảy ra một số loại tội phạm phi truyền thống như tội
phạm lợi dụng công nghệ cao. Trong đó, nổi lên là tình hình tội “cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”.
Theo thống kê của TAND thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, từ năm 2014 đến
tháng 2018, TAND thành phố đã xét xử 665 vụ án hình sự, 945 bị cáo; trong đó có 119
vụ án cố ý gây thương tích (chiếm tỷ lệ 17,89% tổng số vụ án khởi tố), với tổng số 178
bị cáo, chiếm tỷ lệ 18,84% tổng số bị cáo.
Thủ đoạn phạm tội của các đối tượng này không còn đơn giản do bồng bột, thiếu
suy nghĩ, mà nhiều vụ cho thấy đã có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng và khá tinh vi,
thậm chí đã hình thành các nhóm tội phạm có tính nguy hiểm cao, chuyên cho vay
nặng lãi, đòi nợ thuê... Việc gia tăng tội phạm “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác” không chỉ tăng về số lượng đối tượng, vụ án, mà số đối
tượng trong cùng một vụ án cũng có xu hướng tăng, tỷ lệ tái phạm tăng, cùng với đó là
tuổi đời phạm tội của các đối tượng ngày càng trẻ hoá. Đây thực sự là một vấn đề rất
đáng báo động.
Trước tình hình nêu trên, Thành ủy, UBND thành phố đã tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo các cấp ủy Đảng triển khai quyết liệt đồng bộ các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng,
Nhà nước, của địa phương về công tác phòng, chống tội phạm nói chung và THTP cố ý
gây thương tích và gây tổn hại sức khỏe cho người khác nói riêng như Nghị quyết
09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998 về “Tăng cường công tác phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới”, Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới”, Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự
2
lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong tình hình mới”…
đồng thời, Thành ủy đã cụ thể hóa bằng các văn bản như Công văn số 557-CV/TU ngày
08/11/2011 của Ban Thường vụ Thành ủy về tăng cường chỉ đạo phòng, chống tội phạm,
lập lại THTP trên địa bàn thành phố; Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 06/01/2012 của Ban
Thường vụ Thành ủy về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ bảo vệ
ANTT đến năm 2015”, Chỉ thị số 27-CT/TU ngày 13/5/2014 của Ban Thường vụ Thành
ủy về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm và
TNXH trên địa bàn thành phố”… Tuy vậy, THTP vẫn diễn ra phức tạp và nghiêm
trọng. Vì thế cần phải được nghiên cứu cơ bản và chuyên sâu, tức là việc nghiên cứu
phải được thực hiện trên cơ sở hướng dẫn của khoa học pháp lý hình sự chuyên ngành -
tội phạm học.
Bên cạnh bề dày lịch sử của các khoa học pháp lý hình sự về Chống tội phạm, Tội
phạm học với tính cách là khoa học pháp lý hình sự về Phòng ngừa tội phạm cũng đã
hiện hữu ở nước ta hàng chục năm nay và đang được áp dụng để nghiên cứu tội phạm
các loại vì mục đích phòng ngừa. Theo đó, việc phòng ngừa tội phạm phải được thiết
lập trên cơ sở xác định được quy luật vận động của tội phạm, trong đó, việc xác định
nguyên nhân và điều kiện của THTP là vấn đề cơ bản. Nói cách khác, phải đặt phòng
ngừa tội phạm trên nền tảng của kết quả nghiên cứu hai vấn đề cơ bản của nó là THTP
và vấn đề nguyên nhân, điều kiện của hiện tượng tiêu cực này, trong đó phải xem
THTP là Quả để xác định Nhân. Đây là hướng nghiên cứu hứa hẹn mang lại hiệu quả
cao cho công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trên phạm vi quốc tế và quốc
gia. Vì thế nó cần được áp dụng cho từng địa phương, trong đó có thành phố Phan
Rang – Tháp Chàm và việc áp dụng này đối với những tội danh vốn đã xảy ra trên thực
tế hàng năm tại địa phương là rất cần thiết và khả thi.
Chính vì các lý do như vậy, đề tài “Nguyên nhân, điều kiện tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố
Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận” đã được lựa chọn để nghiên cứu.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài, các công trình khoa học sau đây đã
được nghiên cứu:
- GS.TS. Đào Trí Úc (chủ biên) (1994), Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật tố
tụng hình sự Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia;
- PGS.TS Phạm Văn Tỉnh, Cơ chế hành vi phạm tội - cơ sở để xác định nguyên
nhân và biện pháp phòng ngừa tội phạm, Tạp chí kiểm sát Số 1 và số 3/1996.
- PGS.TS. Trần Văn Luyện (2000), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự và nhân phẩm của con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
- TS. Phạm Văn Tỉnh (2007), “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt
Nam”, Nxb Tư pháp;
- Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình “Tội phạm học”, Nxb CAND, Hà Nội;
- GS.TS. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình “Tội phạm học”, Nxb CAND, Hà Nội;
- Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh (2013), Một số vấn đề lý luận về tình hình
tội phạm ở Việt Nam, Học viện Cảnh sát nhân dân.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ
bản về nguyên nhân của THTP nói chung gồm khái niệm, nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội phạm, phân biệt khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tội phạm với
một số khái niệm khác có liên quan. Đây là những vấn đề lý luận hết sức cơ bản và
quan trọng, làm nền tảng để tác giả nghiên cứu sâu hơn về nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác.
Ngoài ra, đề cập đến vấn đề nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm cụ thể,
cũng đã có nhiều công trình khoa học được thực hiện trong thời gian qua, trong đó có
những công trình sau đây đã được đề tài tham khảo:
- Nguyễn Hữu Cầu (2002), Đặc điểm tội phạm học của tội phạm cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở Việt Nam hiện nay và các giải
pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa, Luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh sát nhân dân;
4
- Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2002), Đấu tranh phòng, chống tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Thái Hoàng Minh (2013), “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng chống”, Luận văn thạc sĩ, Học
Viện khoa học xã hội;
- Nguyễn Quốc Khánh (2015), “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Tiền Giang: Tình hình, nguyên nhân và giải
pháp phòng ngừa”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội;
- Bùi Như Lạc (2015), “Tội cố ý gây thương tích hoặc gãy tôn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương: Tình hình, nguyên
nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội;
- Tống Bảo Toàn (2018), “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cổ ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Quận 6, Thành phố Hồ
Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
Các công trình khoa học nêu trên đã góp phần làm rõ hơn lý luận nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người
khác, rất thiết thực và giá trị cho việc thực hiện đề tài đang nói ở đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài này là đề xuất được những giải pháp phòng
ngừa một cách có lý luận và thực tế, tức là, phòng ngừa phải trên cơ sở nghiên cứu,
phân tích nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
5
hại sức khỏe cho người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm (2014
đến năm 2018).
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu trên, đề tài cần phải đi sâu giải
quyết các nhiệm vụ cơ bản sau:
Nghiên cứu lý luận tội phạm học về vấn đề nguyên nhân và điều kiện của
THTP, cũng như về vấn đề phòng ngừa tội phạm;
Làm rõ các yếu tố tác động đến tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố;
Đánh giá thực trạng THTP cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác, thực trạng công tác phòng ngừa của các cơ quan chức năng trên địa
bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, có so sánh với địa bàn thành phố Phan Thiết,
tỉnh Bình Thuận để tìm ra tính quy luật riêng;
- Dự báo tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong những năm tới;
- Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm góp phần phòng ngừa tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan
Rang - Tháp Chàm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các mối quan hệ giữa tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang –
Tháp Chàm với các hiện tượng, quá trình, cũng như các yếu tố tâm-sinh lý-xã hội đặc
trưng của thành phố.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học thuộc chuyên
ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm;
6
Về tội danh, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 của BLHS năm 2015
(sửa đổi bổ sung năm 2017);
Về không gian, luận văn được thực hiện trên địa bàn Thành phố Phan Rang- Tháp
Chàm, tỉnh Ninh Thuận và sử dụng 119 bản án, hồ sơ vụ án;
Về thời gian, luận văn nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố
Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận từ năm 2014 - 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận: Cơ sở phương pháp luận xuyên suốt đề tài là dựa trên cơ
sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin;
tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối, của Đảng; chính sách pháp luật của
Nhà nước về các vấn đề cơ bản của tội phạm học, áp dụng đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp phân tích, tổng hợp: nghiên cứu lý luận, nghiên cứu tài liệu, hệ
thống hóa, khái quát hóa và cụ thể hóa được sử dụng để làm rõ những vấn đề lý luận
chung về tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác và thực trạng phòng ngừa của các cơ quan chức năng trên địa bàn thành phố Phan
Rang – Tháp Chàm.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phân tích, suy luận logic, quy nạp, diễn
dịch... được sử dụng nhằm đưa ra kiến nghị việc hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa
tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên
địa bàn thành phố.
Để nghiên cứu sâu các đặc điểm riêng của tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tác giả sử dụng phương pháp nghiên
cứu 119 bản án, hồ sơ vụ án với 178 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
7
hại cho sức khỏe của người khác giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 đã được TAND
thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xét xử cũng như các số liệu thống kê của các cơ
quan tiến hành tố tụng ở thành phố Phan Rang – Tháp Chàm để phân tích.
Phương pháp so sánh: đối chiếu lý luận nhận thức với thực nguyên nhân, điều
kiện tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn thành phố để tìm ra những đặc điểm riêng, những hạn chế, thiếu sót của các
cơ quan chức năng tạo ra nguyên nhân, điều kiện đó, so sánh với tình hình cố ý gây
thương tích ở địa bàn lân cận từ đó đề ra các giải pháp phòng ngừa phù hợp, hiệu quả.
Phương pháp lịch sử: thể hiện sự kế thừa của luận văn, phát huy sáng tạo có
chọn lọc.
Phương pháp tọa đàm, lấy ý kiến chuyên gia: tọa đàm, lấy ý kiến một số
chuyên gia về tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác và giải pháp phòng ngừa.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học và đặc biệt là
phương pháp hệ thống.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận: kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện hơn
nữa lý luận của tội phạm học nói chung và lý luận về phòng, chống tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng;
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được vận dụng vào thực tiễn
công tác phòng, chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nói
riêng. Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng là những tài liệu tham khảo hữu ích cho
các cán bộ, giảng viên, sinh viên trong các cơ sở đào tạo.
7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, kết cấu của Luận văn gồm có 3 chương
8
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố
Phan Rang - Tháp Chàm
Chương 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan
Rang - Tháp Chàm giai đoạn 2014-2018
Chương 3: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm và những vấn đề đặt ra đối với phòng ngừa hiện tượng tiêu cực này
9
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU
KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN
HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
PHAN RANG - THÁP CHÀM
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Với mục đích tổ chức phòng chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng đạt hiệu quả cao cần phải nghiên
cứu và làm rõ nguyên nhân và điều kiện của THTP nói chung và tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng.
“Nguyên nhân của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội tiêu cực ở trong
mối liên hệ tương tác hai mức độ sinh ra và tái sản xuất ra tình hình tội phạm như là hậu
quả tất yếu của mình. Điều kiện của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội tiêu
cực, tự mình không sinh ra tình hình tội phạm và các tội phạm, mà là hỗ trợ, làm dễ
dàng và tăng cường cho sự hình thành và hoạt động của các nguyên nhân” [44, Tr.87].
Quan điểm trên thể hiện bản chất nguyên nhân và điều kiện của THTP nói chung
định hướng cho việc tìm hiểu, làm rõ khái niệm nguyên nhân và điều kiện tình hình tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
“Tội phạm học Việt Nam cũng như các khoa học pháp lý hình sự khác, không có
lý luận riêng về quan hệ nhân - quả, mà chỉ cụ thể hóa nội dung cặp phạm trù nhân -
quả của triết học Mác-xít vào lĩnh vực nghiên cứu của mình” [32]. Như vậy, nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác được xem xét trên cơ sở tiếp cận phương pháp luận về mối quan hệ
biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả trong triết học Mác - Lênin. Theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin thì nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động qua lại giữa
10
các mặt của một sự vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau tạo ra một
sự biến đổi nhất định gọi là kết quả trong khi đó điều kiện, tuy không trực tiếp sinh ra
kết quả, song nó tạo thuận lợi, hỗ trợ, thúc đẩy làm phát sinh kết quả.
Tóm lại, chúng ta có thể đưa ra khái niệm như sau: “ Nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
sự tác động qua lại giữa các yêu tố tiêu cực thuộc môi trường sống và các yếu tố tâm -
sinh lý tiêu cực thuộc cá nhân người phạm tội, trong những hoàn cảnh, tình huống
nhất định dẫn tới việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS của Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác ”.
Trên cơ sở này, học viên đi sâu nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa
bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.1.2.1. Ý nghĩa lý luận của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Thứ nhất: Việc nghiên cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác góp phần nhận thức sâu
sắc và rõ nét hơn về tình hình tội tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác, góp phần hoàn thiện lý luận về nguyên nhân và điều kiện của THTP.
Thông qua việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan
Rang - Tháp Chàm sẽ góp phần làm rõ thực trạng, cơ cấu, diễn biến của tình hình tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và xu hướng THTP
trong thời gian tới, đồng thời hiểu rõ về nhân thân người phạm tội để xem xét, nhìn
11
nhận những yếu tố này trong sự tác động qua lại với các yếu tố khác thuộc môi trường
sống và hoàn cảnh làm phát sinh THTP.
Thứ hai: nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ý nghĩa quan trọng đối với việc
tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật nói chung và chính sách hình sự nói riêng.
Thứ ba: nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác góp phần cung cấp thông tin cho
các ngành khoa học pháp lý khác.
1.1.2.2. Ý nghĩa thực tế của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Thứ nhất: nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hỗ trợ đắc lực trong công tác
điều tra, phát hiện và truy tố loại tội phạm này đồng thời cung cấp cung cấp thông tin
hữu ích cho công tác quản lý, giáo dục người phạm tội nói chung, phạm tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng trở thành người có
ích cho xã hội.
Thứ hai: Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phục vụ cho nghiên cứu đề ra các dự
báo chính xác THTP và là cơ sở để xây dựng các biện pháp phòng ngừa một cách khoa
học đạt hiệu quả cao.
1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
“Trong tội phạm học, tùy thuộc vào nhiệm vụ của việc nghiên cứu người ta sử
dụng việc phân chia các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm theo các
cách khác nhau” [44, tr.93]. Việc phân loại các nguyên nhân và điều kiện của THTP
được tiến hành theo các tiêu chí về cơ chế, mức độ tác động, nội dung tác động và bản
chất của sự tồn tại.
12
Như vậy, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác rất đa dạng, phong phú, luôn biến động theo
sự vận động của thực tiễn và có nhiều cách phân loại khác nhau, để hướng đến mục
đích mà đề tài đề cập cũng như thuận tiện cho việc nghiên cứu thì học viên phân loại
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên cơ sở cơ chế hành vi phạm tội và có thể rút ra các kết
luận sau:
Một là: hệ thống các yếu tố làm phát sinh tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xây dựng theo quy luật cơ bản của sự phạm
tội với cơ chế vận hành S-X-R, trong mối quan hệ nhân - quả (nguyên nhân - điều kiện
- kết quả): thì S là những yếu tố môi trường bên ngoài (Kích thích khách thể); X là
những yếu tố làm phát sinh THTP thuộc chủ thể hành vi phạm tội, xét trên góc độ hẹp
hơn là con người với những đặc điểm nhân thân đặc trưng (Kích thích phương tiện); R
là sự trả lời các kích thích, gồm các quá trình động cơ hoá hành vi phạm tội, kế hoạch
hoá và hiện thực hoá hành vi.
Hai là: Cơ chế hành vi phạm tội gồm có hai quá trình đó là quá tình tương tác
nhập tâm và quá trình tương tác xuất tâm. Hai quá trình này phụ thuộc và tác động qua
lại với nhau.
Ba là: Quá trình tương tác nhập tâm được hiểu là quá trình con người nhận thức
sự vật, hiện tượng từ môi trường sống tiếp nhận vào bản thân mình để tạo thành tâm lý,
ý thức, quan điểm và nhân cách của bản thân, quá trình này diễn ra từ khi con người
nhận thức được thế giới xung quanh cho đến khi bộc lộ ra bên ngoài thông qua quá
trình tương tác xuất tâm.
Quá trình tương tác xuất tâm được hiểu là quá trình bộc lộ tâm lý, ý thức tích tụ
trong quá trình tương tác nhập tâm ra bên ngoài thông qua hoạt động kế hoạch hóa và
thực hiện hóa hành vi phạm tội.
13
Như vậy, trên cơ sở lý luận được trình bày thì nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dựa trên cơ
chế hành vi phạm tội được phân loại như sau:
1.2.1. Nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác nhập tâm
1.2.1.1. Những nguyên nhân và điều kiện khách quan
a. Các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường gia đình
Gia đình có ảnh hưởng rất lớn trong việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân.
Trong gia đình đứa trẻ bắt đầu bắt chước hành vi, ứng xử, biểu cảm của mỗi thành viên
trong gia đình. Càng lớn, hoạt động sống của trẻ mở rộng, đa dạng hơn, phạm vi bắt
chước ngày càng rộng hơn không còn dừng lại ở các thành viên trong gia đình nữa.
Như vậy nếu sống trong môi trường gia đình tốt thì trẻ sẽ phát triển phẩm chất cá nhân
tích cực và ngược lại nếu sống trong môi trường gia đình không tốt (gia đình khuyết
thiếu, gia đình không hạnh phúc, gia đình có người vi phạm pháp luật...) thì trẻ sẽ dần
hình thành nhân cách tiêu cực.
Gia đình không hạnh phúc, có người vi phạm pháp luật: Trong gia đình vẫn tồn
tại bạo lực giữa các thành viên bố mẹ bất hòa hay đánh chửi nhau, những trẻ phải
chứng kiến cảnh bạo hành trong gia đình từ khi còn nhỏ thì khi lớn lên người ấy dễ
mang tính bạo lực và sẽ dẫn đến có những hành vi lệch chuẩn. Trong giao tiếp hàng
ngày việc bố mẹ hay người lớn trong gia đình ứng xử kém văn hóa, dùng từ ngữ tục
tĩu, lối sống vô đạo đức thậm chí có cả những hành vi phạm tội như: đánh bạc, nghiện
rượu, nghiện ma túy, buôn lậu, trộm cắp, tham ô... các em dần dần coi thường pháp
luật, nhiễm các thói hư tật xấu và dễ bị lôi kéo rồi dẫn tới đồng lõa với hành vi phạm
pháp. Cha mẹ bận rộn với công việc kinh doanh buôn bán, mải mê vào công việc kiếm
tiền không có thời gian dành cho con cái, từ đó khoảng các giữa cha mẹ và con cái dần
có khoảng cách, những đứa trẻ ấy không được chăm sóc và dạy dỗ chu đáo sẽ có tâm
lý lệch lạc, tự do ngang bướng, thậm chí bất cần. Chúng dễ dành bị rủ rê, lối kéo...
14
Gia đình khuyết thiếu: những trẻ sinh ra và lớn lên trong những gia đình ba mẹ li
hôn hoặc gia đình không đầy đủ ba mẹ (ba hoặc mẹ mất) cũng là một yếu tố tác động
đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Trẻ thiếu thốn tình cảm của bố hoặc mẹ, ít
được quan tâm chia sẻ cũng dễ dẫn đến thiếu hụt trong đời sống tình cảm, dễ này sinh
những cảm xúc tiêu cực như buồn khổ, tự ti, chán nản chúng sẽ tìm sự cân bằng ở
những người khác có thể họ hàng, láng giềng nhưng cũng có thể là nhóm bạn cùng
cảnh ngộ để quên đi những thiếu hụt đấy dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật.
b. Các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường nhà trường
Trường học chính là nơi rèn luyện tri thức, nền tảng đạo đức, giúp uốn nắn nhân
cách của mỗi con người. Do đó, nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục
trẻ em, tuy nhiên công tác giáo dục đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật và quản lý học
sinh trong nhà trường còn nhiều hạn chế; sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã
hội chưa chặt chẽ, thường xuyên trong việc quản lý, giáo dục, phát hiện, ngăn chặn, xử
lý các em có biểu hiện vị phạm pháp luật…
Thứ nhất: Công tác giảng dạy từ phía giảng viên: ảnh hưởng bởi cơ chế thị trường
nên đã mất dần tình thương yêu giữa thầy cô đối với học trò và sự tôn kính của trò đối
với thầy cô cũng chỉ ở một giới hạn nhất định, tình trạng thầy cô thiếu gương mẫu
trong giảng dạy, trong lối sống, đạo đức trong hành xử với học sinh. Các thầy cô quá
chú trọng vào dạy chữ, chứ chưa chú trọng dạy các em về kỹ năng sống, kỹ năng làm
người. Chất lượng giảng dạy thấp ở nhiều trường, tình trạng chạy đua thành tích, giáo
dục tách rời với giảng dạy, học không đi đôi với hành, thiếu phương pháp giảng dạy
với những học sinh yếu kém, cá biệt dẫn tới các em chán nản không có hứng thú học
hành, bỏ học, chương trình đào tạo còn nặng nề chưa phù hợp với lứa tuổi học sinh và
chưa phân hóa được năng lực học tập của học sinh.
Thứ hai: Công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường được triển khai rộng khắp
nhưng phần lớn mang tính hình thức, nên hiệu quả mang lại không cao, các em học
sinh không nhận thức được nhiều về pháp luật. Việc xử lý học sinh vi phạm nội quy
15
nhà trường, bạo lực học đường cũng như vi phạm pháp luật còn chưa thường xuyên,
kiên quyết và triệt để. Đáng lưu ý là tình trạng học sinh bỏ học có chiều hướng gia tăng
là nguy cơ, điều kiện để tội phạm lợi dụng xâm hại hoặc dụ dỗ lôi kéo các em vào con
đường phạm tội.
Thứ ba: Công tác phối hợp giữa gia đình nhà trường còn chưa cao, công tác phối
hợp đấu tranh, phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật của nhà trường và các cơ quan
chức năng, ban ngành, đoàn thể vẫn chưa chặt chẽ, chưa hiệu quả, mới chỉ chú trọng
xử lý các vụ việc đã xảy ra mà chưa coi trọng công tác phòng ngừa.
c. Các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường bạn bè
Những người bạn luôn có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển tính cách của một
người, đặc biệt là những đứa trẻ chưa trưởng thành. Bạn bè đồng trang lứa sẽ có những
điểm tương đồng nhau về mặt suy nghĩ, quan điểm, thái độ sống vì vậy khi kết bạn với
những bạn tốt thì sẽ hình thành nhận thức tích cực ngược lại nếu kết bạn với những
người nhiều thói hư tật xấu như lười học, nói tục chửi bậy, thiếu lễ phép, thích hưởng
thụ... sẽ khiến trẻ dễ bị nhiễm những thói xấu đó và thực hiện hành vi vi phạm pháp luật,
ví dụ: đám bạn thường xuyên tụ tập ăn chơi, đánh nhau gây thương tích cho người khác.
d. Các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường kinh tế - xã hội
Môi trường kinh tế: Sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, hội nhập
kinh tế quốc tế bên cạnh những yếu tố tích cực còn phát sinh những vấn đề tiêu cực đã
tác động đáng kể đến mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là nguồn gốc phát sinh hoặc
tạo điều kiện cho tội phạm phát triển, trong đó có tội phạm cố ý gây thương tích. Đồng
thời làm phát sinh mâu thuẫn giữa con người và con người trong cạnh tranh làm ăn,
trong sinh hoạt đời thường... dẫn đến xãy ra xung đột, bạo lực.
Môi trường xã hội: Trong những thời kỳ mà xã hội có nhiều thay đổi thì định
hướng giá trị sống của con người cũng có những đổi thay. Từ chỗ thiên về coi trọng giá
trị tinh thần, nay chuyển sang giá trị vật chất; từ chỗ những giá trị xã hội được đề cao,
nay chuyển sang giá trị cá nhân được coi trọng... Với một xã hội còn tồn tại nhiều hiện
16
tượng tiêu cực như nạn tham nhũng, tham ô khi mà ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân
chưa được đề cao cũng như chưa cảm nhận được những triển vọng tích cực trong các
phong trào xã hội đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực... thì những giá trị vật chất, vì
lợi ích cá nhân rất dễ thắng thế những giá trị vì lợi ích xã hội, lợi ích của những người
chung quanh và những giá trị tinh thần như tình người, tình ruột thịt, lòng hiếu thảo....
Trong đó, các mối quan hệ thiếu bền vững do sự liên kết giữa các cá nhân trong xã hội
không được gắn bó nên hành vi của cá nhân không kiểm soát một cách mạnh mẽ, dễ bị
rạn nứt và nảy sinh những hành vi sai lệch. Mặt khác, do ảnh hưởng ngày càng nhiều
tình trạng phim, ảnh có tính chất bạo lực xuất hiện trên những phương tiện thông tin
đại chúng, nhất là game bạo lực đã ảnh hưởng trực tiếp đến thanh thiếu niên, từ đó các
em dễ sử dụng bạo lực, dao kiếm để giải quyết mâu thuẫn cá nhân.
Ngoài ra về quản lý xã hội còn lỏng lẻo, chưa triệt để như: việc tuần tra, kiểm
soát của các lực lượng chức năng chưa được thường xuyên, để ngăn chặn giải quyết
các vụ xung đột, ẩu đả, đánh nhau... bên cạnh đó Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật của các cơ quan Nhà nước chưa thật sự hiệu quả, chưa đi sâu vào từng người dân,
từng bộ phận Nhân dân, từ đó chưa nâng cao được ý thức chấp hành pháp luật của
người dân.
Công tác hòa giải cấp cơ sở chưa thật sự được chú trọng, quan tâm đúng mức, mâu
thuẫn phát sinh trong nội bộ Nhân dân chưa được phát hiện kịp thời, giải quyết một cách
triệt để, dứt điểm, mâu thuẫn kéo dài dẫn đến các hành vi cố ý gây thương tích.
e. Các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường văn hóa, tư tưởng, đạo đức
Giá trị văn hóa là sản phẩm của con người, của sự phát triển xã hội và văn hóa
mỗi thời đại. Khi được hình thành, giá trị ấy định hướng mục tiêu, phương thức, hành
động của con người và tham gia điều tiết sự phát triển xã hội. Giá trị ấy quy định tập
quán, thói quen, dư luận xã hội và tiến tới quy định cả giá trị luật pháp. Từ ngàn xưa,
người Việt Nam luôn đặt các giá trị về văn hóa, tư tưởng, đạo đức lên hàng đầu, mọi
xử sự giữa người với người phải dựa trên quy chuẩn, nguyên tắc đó. Tuy nhiên, hiện
17
nay môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với
thuần phong mỹ tục, TNXH và tội phạm có chiều hướng gia tăng. Các trào lưu văn hóa
nước ngoài du nhập và phát triển nhanh chóng, băng đĩa bạo lực, sách, truyện có nội
dung có nội dung đánh đấm, kiếm hiệp đã tác động mạnh đến tư tưởng bạo lực và mâu
thuẫn xảy ra đều giải quyết bằng bạo lực, đạo đức con người xuống cấp, vì cái lợi trước
mắt mà người ta sẵn sàng gây tội ác, xã hội thiếu đi cái tình, khác hẳn thời bao cấp, tuy
nghèo nhưng mọi người sống với nhau tình cảm, nhân ái, chia sẻ, yêu thương...
1.2.1.2. Những nguyên nhân và điều kiện chủ quan
Nguyên nhân và điều kiện chủ quan từ phía người phạm tội được hiểu là tất cả
những yếu tố thuộc về cá nhân người phạm tội bao gồm những tiêu cực trong suy nghĩ
và những biểu hiện tiêu cực ra bên ngoài lối sống.
Nghiên cứu quá trình này sẽ giúp chúng ta thấy được dấu hiệu nào của người
phạm tội là dấu hiệu đặc trưng có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện tội và làm rõ động
lực thúc đẩy con người thực hiện hành vi phạm tội đồng thời giải thích vì sao trong
cùng một hoàn cảnh, một tình huống giống nhau thì người này lại thực hiện hành vi
phạm tội còn người khác thì không, có sự khác nhau như vậy bởi lẽ các tác động từ
trạng thái tâm lý như: tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội, tâm lý pháp luật.
Quá trình hình thành động cơ hóa hành vi phạm tội diễn ra trong suy nghĩ người
phạm tội, còn những động lực của hành vi như nhu cầu, sở thích, thói quen… là những
yếu tố không phải lúc nào cũng tồn tại trong con người, mà chúng thường do môi
trường sống bên ngoài quy định. Điều đó có nghĩa là, động cơ hóa hành vi đó là một
quá trình tâm - sinh lý - xã hội, quá trình này có cơ sở khách quan do điều kiện xã hội,
hoàn cảnh cảnh sống cụ thể của mỗi ngươi mang lại [40, tr.33].
Các đối tượng phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác thường do bột phát không làm chủ được bản thân, nóng giận không kiềm
chế, bị lệch lạc về nhân cách, khiếm khuyết về gia đình, thiếu hiểu biết, hiếu thắng, uy
hiếp mọi người nên dù mâu thuẫn nhỏ xảy ra cũng xuất hiện tranh chấp xô xát. Ngoài
18
ra còn do nhu cầu của mỗi con người là khác nhau và nhu cầu sẽ trở thành động cơ nếu
nhu cầu bị thôi thúc bức thiết dẫn đến việc con người ta phải hành động để thỏa mãn
nhu cầu, giả sử mâu thuẫn giữa con người và con người trong cạnh tranh làm ăn, trong
sinh hoạt đời thường... dẫn đến xảy ra xung đột, bạo lực và gây thương tích cho người
khác. Ngày càng nhiều đối tượng bị ảnh hưởng tình trạng phim, ảnh có tính chất bạo
lực xuất hiện trên những phương tiện thông tin đại chúng, nhất là game bạo lực đã ảnh
hưởng trực tiếp đến tâm lý dẫn đến sử dụng bạo lực, dao kiếm để giải quyết mâu thuẫn
cá nhân.
1.2.2. Nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác xuất tâm
Quá trình tương tác xuất tâm bao gồm hai bộ phận cấu thành là khâu kế hoạch
hóa hành vi và khâu hiện thực hóa hành vi phạm tội. Trong quá trình này, đầu tiên là kế
hoạch hóa hành vi, để chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm chủ thể xác định mục đích,
đối tượng, phương tiện, địa điểm, thời gian, phương thức khi thực hiện hành vi và xác
định phương thức giải quyết hậu quả sau khi thực hiện hành vi phạm tội, như vậy sau
khi chuẩn bị đủ mọi điều kiện về vật chất và tinh thần, chủ thể tiến hành thực hiện hóa
hành vi bằng hành động cụ thể ra bên ngoài như sau:
1.2.2.1. Những nguyên nhân và điều kiện khách quan
Thứ nhất: việc tuần tra, kiểm soát của lực lượng an ninh, trật tự công cộng trên
địa bàn thành phố hoạt động chưa thực sự hiệu quả, công tác tiếp nhận xử lý chưa
mang tính cấp bách để giải quyết kịp thời các vụ xung đột, đánh nhau xảy ra cũng như
kịp thời ngăn chặn tội phạm.
Thứ hai: sự thờ ơ, vô cảm từ con người trong môi trường xã hội là những người
chứng kiến xung quanh vụ việc, là lối sống ích kỷ, thiếu trách nhiệm với cộng đồng
trước sự nguy kịch về tính mạng của người khác. Có những xử sự như vậy là do hai
nguyên nhân, bên ngoài do lối sống của thời đại số lối sống nhanh - gấp của không ít
người ngày nay, nhiều giá trị ồ ạt du nhập mà chưa được gạn lọc, mạng xã hội tràn lan
những chuyện tiêu cực khiến nhiều người vẫn còn suy nghĩ "sợ vạ lây", nhiều giá trị
19
đạo đức xuống cấp... bên trong do đặc điểm tâm sinh lý, nhân cách của cá nhân chi
phối cách hành xử...
Thứ ba: nguyên nhân khách trong môi trường sống, thời gian và địa điểm là hai
yếu tố rất quan trọng trong nhiều trường hợp xảy ra các vụ cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thường xảy ra ở những nơi công cộng như:
quán xá, trên đường trong những lúc tụ tập chơi bời hoặc sinh hoạt hằng ngày, tham gia
giao thông xảy ra những va chạm từ đó phát sinh mâu thuẫn gây xô xát.
Thứ tư: yếu tố từ phía nạn nhân cũng là một trong những nguyên nhân làm gia
tăng tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
trong nhiều vụ án cố ý gây thương tích mà nguyên nhân chủ yếu là từ phía nạn nhân rất
đa dạng như: đã có thái độ “nhìn đểu”, “thọc gậy bánh xe”, xem thường hay thói quen,
sở thích ích kỷ không thể kiềm chế nhu cầu mà tác động đến người phạm tội gây ra
những vụ án thương tâm.
1.2.2.2. Những nguyên nhân và điều kiện chủ quan
Đó chính là những nguyên xuất phát từ chính bản thân người thực hiện hành vi
phạm tội. Các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống - kích thích khách thể tồn tại
khách quan và thường xuyên tác động đến người sống trong môi trường ấy, làm diễn ra
quá trình tương tác nhập tâm. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác gồm: Suy nghĩ, tư tưởng, sai
lệch về sở thích, sai lệch về nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu, sai lệch trong ý
thức pháp luật, người phạm tội thiếu tri thức cả về pháp luật và đạo đức, thiếu hiểu biết
về pháp luật. Bên cạnh đó sự coi thường pháp luật, thích giải quyết mâu thuẫn bằng
bạo lực để thỏa mãn nhu cầu, tâm lý hiếu thắng cũng là một trong những nguyên nhân
dẫn đến hành vi phạm tội.
1.3. Cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
20
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác là những hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực trong sự
tương tác lẫn nhau làm phát sinh tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác. Những hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực có trong môi
trường sống và nhân thân người phạm tội và tác động qua lại là cơ sở cho việc xác định
hệ thống các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là kết
quả của sự tác động qua lại giữa các yếu tố thuộc môi trường xã hội bên ngoài và các
yếu tố tâm, sinh lý tiêu cực bên trong cá nhân người phạm tội và diễn ra theo một cơ
chế nhất định gọi là cơ chế hình thành hành vi phạm tội. Và cơ chế đó được vận hành
theo công thức S - X - R, trong đó S là các yếu tố thuộc môi trường sống (kích thích
khách thể), X là các yếu tố tâm - sinh lý - xã hội của chủ thể hành vi (kích thích
phương tiện), R là hành động đáp trả các kích thích đó (hành vi phạm tội).
Môi trường sống có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách con người.
Môi trường sống có thể là môi trường gia đình, nhà trường, xã hội ...là bộ phận quan
trọng trong cơ chế tác động nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh THTP. Tuy nhiên,
yếu tố môi trường chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để làm phát sinh hành vi phạm
tội mà cần phải có sự tác động qua lại với các yếu tố tâm, sinh lý tiêu cực của mỗi cá
nhân thông qua những hành động cụ thể từ đó mới hình thành hành vi phạm tội. Như
vậy không có nghĩa là bất cứ ai sống trong môi trường tiêu cực đều phạm tội bởi vì khi
các yếu tố tiêu cực từ môi trường sống tác động đến cá nhân thì bản thân cá nhân cũng
có sự tác động ngược trở lại với môi trường để hình thành đặc điểm nhân cách cá nhân.
Điều này giải thích cho việc có nhiều người cùng sống trong môi trường sống có những
yếu tố tiêu cực như nhau nhưng có người thực hiện hành vi phạm tội, còn người khác
thì không. Như vậy, khi tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm thì phải tìm
21
hiểu cả nguyên nhân từ phía người phạm tội với các yếu tố sinh học và cả những đặc
điểm tâm lý riêng biệt của bản thân họ.
Như vậy, cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là sự tác động qua lại giữa
các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống với các yếu tố tâm - sinh - lý thuộc cá nhân
hình thành nên các đặc điểm nhân thân người phạm tội. Do đó, khi nghiên cứu nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác phải nghiên cứu tất cả các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống và các
yếu tố tiêu cực từ phía người phạm tội, sự tác động qua lại giữa chúng để có cái nhìn
toàn diện, khách quan và khoa học.
1.4. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tình hình tội phạm,
nhân thân người phạm tội và phòng ngừa loại tội phạm này
1.4.1. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Có thể thấy, mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tình hình tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, xét về bản chất là mối
quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả trong đó nguyên nhân và điều kiện
luôn là cái có trước, thúc đẩy quá trình sinh ra kết quả (hành vi hoặc hiện tượng), còn
kết quả có sau và chỉ xuất hiện khi nguyên nhân và điều kiện đã xuất hiện. Được hiểu
là, tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong đơn vị không gian, thời gian nhất định, biểu hiện qua mức độ, diễn biến, cơ cấu
và tính chất của nó còn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là cái sinh ra kết quả (ở đây kết quả là
22
tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác).
Chính vì thế mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau thể hiện ở nội dung sau:
Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
là cơ sở để nhận thức nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Khi phân tích về THTP sẽ làm rõ được
những đặc điểm về lượng (thực trạng và diễn biến của THTP) và đặc điểm về chất (cơ
cấu và tính chât của THTP) từ đó có cơ sở để nhận thức về nguyên nhân và điều kiện
của THTP và ngược lại.
1.4.2. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với nhân thân người phạm
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
“Việc phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm đã chỉ ra
rằng không thể nhận thức, hiểu biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu
việc cân nhắc nhân thân người phạm tội, bản chất, các đặc điểm và quá trình hình
thành nó” [39, tr.126].
Đặc điểm nhân thân của người phạm tội được tội phạm học nghiên cứu là những
đặc điểm mang tính đặc trưng, phổ biến điển hình và có vai trò quan trọng trong cơ chế
tâm lý xã hội của hành vi phạm tội. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội được
tội phạm học nghiên cứu ở một số khía cạnh cụ thể, như: Đặc điểm sinh học tuổi tác,
giới tính, đặc điểm xã hội trình độ học vấn, nơi cư trú, nghề nghiệp, đặc điểm tâm lý
phản ánh nhận thức xã hội tiêu cực của người phạm tội, đặc điểm nhân thân mang tính
pháp lý hình sự. Nhân thân người phạm tội là những đặc điểm dấu hiệu đặc trưng nhất
phản ánh bản chất của người phạm tội, những đặc điểm dấu hiệu này tác động với những
tình huống và hòan cảnh khách quan khác đã tạo ra xử sự phạm tội của người đó.
“Nhân thân người phạm tội là một bộ phận cấu thành tất yếu và rất quan trọng
của cơ chế hành vi phạm tội, còn các hoàn cảnh của sự hình thành các đặc điểm tâm lí
23
- xã hội tiêu cực của cá nhân xuất hiện trước các đặc điểm của cá nhân nằm trong mối
quan hệ nhân quả với THTP” [39, tr.26].
Do đó, khi phân tích nguyên nhân và điều kiện của THTP nói chung và tình hình
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng chỉ ra
rằng không thể nhận thức, hiểu biết toàn diện các nguyên nhân và điều kiện đó nếu
thiếu việc xem xét một cách tổng thể nhân thân người phạm tội. Chính vì thế khi tìm
hiểu, nghiên cứu để biết chính xác nhân thân người phạm tội sẽ là cơ sở để nhận thức
một cách đầy đủ và rõ ràng nhất về nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm,
từ đó biết được động cơ, mục đích cũng như hoàn cảnh bên ngoài tác động để thực hiện
hành vi phạm tội.
1.4.3. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với phòng ngừa tình hình
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Xuất phát từ nhận thức con người sinh ra vốn có bản chất hướng thiện và đều có
khả năng trở thành công dân có ích, việc họ có hành vi vi phạm pháp luật là xuất phát
từ những nguyên nhân và điều kiện xã hội nhất định, vì vậy nếu loại trừ những nguyên
nhân và điều kiện này thì con người sẽ không bị sa đà dẫn tới phạm tội.
“Phòng ngừa tội phạm là việc sử dụng hệ thống các biện pháp mang tính xã hội
và tính nhà nước nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm,
hạn chế và loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội” [9, tr.276].
Như vậy, phòng ngừa THTP nói chung đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ nguyên nhân
và điều kiện THTP để khắc phục, làm giảm bớt hoặc tiến tới loại trừ THTP ra khỏi đời
sống xã hội. Có thể thấy rằng việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là bước đầu và là
cơ sở để đề ra các biện pháp phòng ngừa THTP này có hiệu quả.
24
Từ phân tích trên có thể thấy rằng giữa nguyên nhân và điều kiện THTP nói
chung và tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác nói riêng có mối quan hệ tác động qua lại với phòng ngừa THTP này.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, tác giả đã phân tích, lý giải những vấn đề lý luận chung về
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác, trong mối quan hệ với THTP, nhân thân người phạm tội và
phòng ngừa THTP này. Tác giả đã làm rõ khái niệm, ý nghĩa, phân loại, cơ chế tác
động đến các nguyên nhân và điều kiện và mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện
tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác với
nhân thân người phạm tội và phòng ngừa THTP này. Từ việc phân tích lý luận chung,
chương 1, tác giả rút ra một số kết luận:
Thứ nhất, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là sự tương tác giữa hiện tượng, quá trình xã
hội tiêu cực làm phát sinh THTP này.
Thứ hai, việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác một cách khoa học và hiệu quả nhất
phải dựa trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của THTP này.
Thứ ba, khi tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải nghiên cứu cả nguyên nhân,
điều kiện bắt nguồn từ phía xã hội và nguyên nhân, điều kiện xuất phát từ phía người
phạm tội.
Cơ sở lý luận đã nghiên cứu ở chương 1 chính là tiền đề để tác giả nghiên cứu,
phân tích thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang –
Tháp Chàm trong chương 2 của luận văn.
25
Chương 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH
HÌNH TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC
KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG –
THÁP CHÀM GIAI ĐOẠN 2014 -2018
2.1. Thực trạng nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành
phố Phan Rang – Tháp Chàm
2.1.1. Thực trạng nhận thức thông qua văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và
văn bản triển khai thực hiện của chính quyền thành phố Phan Rang – Tháp Chàm
2.1.1.1. Thực trạng nhận thức thông qua văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Chính phủ, sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân đã được huy động và phát huy
hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh, kiềm chế gia tăng THTP nói chung và THTP Cố
ý gây thương tích nói riêng, góp phần giữ vững an ninh, trật tự xã hội, phục vụ công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to
lớn đã đạt được trong thời gian vừa qua thì THTP nói chung và hình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác vẫn còn diễn biến phức tạp. Do
đó, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định phòng ngừa THTP nói chung và tình hình tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác nói riêng là một công tác
trọng tâm, do đó, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, thường xuyên có những văn
bản chỉ đạo thể hiện qua công tác xây dựng, ban hành các văn bản phòng, chống tội
phạm của Ban chấp hành trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, cụ thể: Nghị quyết
09/1998/NQ-CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ về tăng cường công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Nội dung cơ bản của Nghị quyết nêu ra,
THTP vẫn có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, đối tượng phạm tội chủ yếu là
người lao động, thanh thiếu niên phạm tội chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Đặc biệt THTP
có tổ chức, tham nhũng, buôn lậu, xâm phạm trẻ em... gây ra hậu quả hết sức nghiêm
26
trọng. Nguyên nhân chủ yếu là do tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường cùng với
những yếu kém trong việc quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của cơ quan Nhà nước, hệ
thống pháp luật chưa đồng bộ, sự phối hợp hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật
chưa chặt chẽ, một số cán bộ bị tha hóa, công tác phòng ngừa tội phạm trong gia đình,
nhà trường, cộng đồng dân cư chưa được quan tâm đúng mức. Để tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ trong công tác đấu tranh có hiệu quả với tội phạm, cần phát huy sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị, trách nhiệm của các ngành, các cấp trong hoạt động
phòng, chống tội phạm [7].
Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm. Nội dung
trọng tâm là: phát động quần chúng nhân dân tham gia phát hiện, tố giác tội phạm, cảm
hóa, giáo dục người phạm tội tại cộng đồng dân cư, vận động người phạm tội ra tự thú
và truy bắt tội phạm có lệnh truy nã, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống
tội phạm, tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật và trách nhiệm công dân về bảo
vệ ANTT. Đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm hình sự nguy
hiểm và tội phạm có tính quốc tế, đấu tranh phòng, chống các loại tội xâm hại trẻ em,
tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên [22].
Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010, nhận định, THTP vẫn còn nhiều diễn biến
phức tạp, ngoài các tội phạm truyền thống thì phát sinh nhiều tội mới như khủng bố,
rửa tiền, mua bán người, tội phạm sử dụng công nghệ cao… một trong những nguyên
nhân xảy ra tình hình này là do cấp ủy đảng, chính quyền ở một số nơi chưa thực sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nên chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị trong công tác phòng, chống tội phạm, lực lượng trực tiếp chống tội
phạm ở nhiều nơi còn yếu, công tác quản lý xã hội, công tác tuyên truyền, giáo dục về
pháp luật, về đạo đức, lối sống và vận động nhân dân tham gia phòng, chống tội phạm
còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, Chỉ thị đưa ra yêu cầu trong tình hình hiện nay cần
tiến hành như sau: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống
27
tội phạm, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ giữa
công tác phòng, chống tội phạm với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội khác,
công tác phòng, chống tội phạm phải được thực hiện trong tiến trình cải cách tư pháp,
phải tôn trọng quyền dân chủ, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân và phải lấy
chủ động phòng ngừa là chính, kết hợp chặt chẽ với tích cực tấn công trấn áp tội
phạm”. Trên cơ sở đó, Thủ tướng chính phủ cụ thể hóa bằng Quyết định số 282/QĐ-
TTg ngày 24 tháng 2 năm 2011 về việc ban hành kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 48-
CT/TW ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, tổ chức quán triệt sâu rộng trong các cơ quan, ban, ngành ở Trung
ương và địa phương nội dung Chỉ thị để thống nhất nhận thức và hành động, thực hiện
tốt công tác quản lý nhà nước về ANTT, kịp thời khắc phục những thiếu sót, sơ hở
không để tội phạm lợi dụng hoạt động [23].
Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22/6/2015 của Bộ chính trị về “Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới”; Chỉ thị 21-
CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo công
tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới”; Chỉ thị 09-CT/TU ngày
01/12/2011 của Ban Bí thư về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây
dựng phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ trong tình hình mới”...
Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 của Quốc hội về công
tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của VKSND, của TAND và
công tác thi hành án năm 2013. Tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm vẫn còn diễn
biến phức tạp, trên một số lĩnh vực có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy
mô và tính chất. Quốc hội đề ra yêu cầu đối với Chính phủ, VKSND tối cao, TAND tối
cao cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, chủ động khắc phục những sơ hở, thiếu sót
trong việc hoạch định và thực thi chính sách, phát luật để kiềm chế sự gia tăng vi phạm
phạm pháp luật và tội phạm [13].
28
Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội về
công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của VKSND, của
TAND và công tác thi hành án năm 2016 và các năm tiếp theo. Trong thời gian qua,
hiệu quả một số mặt công tác tư pháp vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu,
tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm vẫn còn diễn biến phức tạp, tội phạm về ma
túy, sử dụng công nghệ cao để phạm tội, trộm cắp, cờ bạc… gây lo lắng cho xã hội.
Quốc hội giao Chính phủ, VKSND tối cao, TAND tối cao xây dựng, hoàn thiện chính
sách, pháp luật, đề ra các giải pháp phòng, chống tội phạm và thực hiện tốt công tác
phòng ngừa xã hội, phát hiện đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật và tội
phạm [19].
Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14 tháng 4 năm 2016 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016-2025
và định hướng đến năm 2030. Xem phòng, chống tội phạm là nhiệm vụ trọng yếu, cấp
bách và xuyên suốt các giai đoạn phát triển của đất nước. Với sự tham gia của cả hệ
thống chính trị và toàn dân kết hợp sử dụng tổng hợp các biện pháp, chủ động phòng
ngừa, tích cực đấu tranh ngăn chặn tội phạm, trong đó lấy phòng ngừa là chính, kết hợp
chặt chẽ giữa phòng ngừa xã hội với phòng ngừa nghiệp vụ, kịp thời khắc phục những
hạn chế, làm rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm [25].
Kết luận số 05-KL/TW ngày 15 tháng 7 năm 2016 của Ban Bí thư về việc tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Bộ
Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống
tội phạm trong tình hình mới. Qua 5 năm thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW đã đạt được
những kết quả quan trọng, nhận thức của mỗi người đối với công tác phòng, chống tội
phạm và các TNXH được nâng lên. Bên cạnh đó, THTP còn diễn biến phức tạp, một số
tội như giết người, ma túy, trộm cắp, cướp giật... có xu thế hướng gia tăng nhất là ở các
thành phố lớn. THTP do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, trong
đó trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan chuyên trách nhiều nơi
29
chưa thật sự quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác phòng chống tội phạm tại
địa phương, cơ quan, đơn vị được giao phụ trách [1].
Quyết định số 199/QĐ-TTg ngày 14 tháng 12 năm 2017 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Chương trình thực hiện Kết luận số 05-KL/TW ngày 15 tháng 7
năm 2016 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW
của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới và Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm đến
năm 2020. Xác định nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cần thực hiện để đạt mục tiêu mà
chương trình đề ra. Một trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đó là phát huy vai trò
lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ đạo, quản lý, điều hành của thủ trưởng các
cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác phòng, chống tội phạm.
Theo dõi sát diễn biến hoạt động của tội phạm, thống kê, dự báo chính xác về THTP
phục vụ công tác phòng, chống tội phạm [26].
Trên đây là những văn bản mang tính chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đối với công
tác phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Từ những quan điểm chỉ đạo này,
tác giả kế thừa để nghiên cứu quan điểm, chỉ đạo của Thành ủy và Ủy ban nhân dân
thành phố Phan Rang – Tháp Chàm.
2.1.1.2. Thực trạng nhận thức thông qua văn bản triển khai thực hiện của chính
quyền thành phố Phan Rang – Tháp Chàm
Xác định tầm quan trọng của công tác đảm bảo an ninh, trật tự đối với nhiệm vụ
phát trển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, trong những năm qua Thành ủy Phan
Rang - Tháp Chàm đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy Đảng triển khai quyết liệt
đồng bộ các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, của địa phương về nhiệm vụ bảo
vệ an ninh, trật tự. Bên cạnh việc tổ chức triển khai, Thành ủy đã xây dựng Chương
trình hành động, kế hoạch để tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, Chính phủ
như: Chương trình hành động số 74-CT/TU ngày 10/3/2000 và kế hoạch số 75-KH/TU
ngày 10/3/2000 để triển khai thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về
30
“Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới”; Kế hoạch số 86-KH/TU
ngày 10/3/2009 về triển khai thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ
Chính trị về “Tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm
soát ma túy trong tình hình mới”; Kế hoạch số 12-KH/TU ngày 24/01/2011 về thực
hiện Chỉ thị số 48 - CT/TW của Bộ Chính trị; Kế hoạch số 24-KH/TU ngày 10/5/2012
về thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01/12/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
về ‘Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc trong tình hình mới”...
Căn cứ vào tình hình đặc điểm, nhiệm vụ chính trị trong từng thời điểm, Thành
ủy đã ban hành các Chỉ thị, Nghị quyết, Kế hoạch theo từng chuyên đề để tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo công tác đảm bảo ANTT như: Công văn số 557-CV/TU ngày
08/11/2011 của Ban thường vụ Thành ủy về tăng cường chỉ đạo phòng, chống tội phạm
lập lại THTP trên địa bàn thành phố; Nghị quyết số 04-NQ/TV ngày 06/01/2012 của
Ban thường vụ Thành ủy về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ bảo
vệ ANTT đến năm 2015”, Chỉ thị số 27-CT/TU ngày 13/5/2014 của Ban thường vụ
Thành ủy về ‘Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội
phạm và TNXH trên địa bàn thành phố”… Mặt khác, hàng năm Thành ủy ban hành các
Nghị quyết chuyên đề về công tác đảm bảo ANTT, chỉ đạo chính quyền, Ủy ban
MTTQ, cấp ủy các Tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc tăng cường sự lãnh đạo đối với công
tác bảo đảm ANTT gắn với việc tập trung phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho nhân dân. Quan tâm chỉ đạo công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em,
nhất là công tác phòng ngừa, hạn chế tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên, đã triển
khai thực hiện Đề án “Tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật, nhằm nâng
cao ý thức pháp luật cho thanh, thiếu niên giai đoạn 2011-2015”; Chỉ thị số 20-CT/TW,
ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về việc “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới”; Chỉ thị 21–CT/TU,
ngày 29/7/2011 của Tỉnh ủy Ninh Thuận về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
31
công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em giai đoạn 2011 – 2015” và gần đây nhất là
tiếp tục triển khai thực hiện kế hoạch số 3182/KH-UBND, ngày 26/7/2018 của UBND
tỉnh Ninh Thuận về triển khai thực hiện Dự án “Đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm
hại trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phòng, chống bạo lực gia
đình, mua bán người”...
Từ những phân tích nêu trên, tác giả nhận thấy các cấp ủy, tổ chức Đảng và chính
quyền thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nhận thức THTP vẫn còn diễn ra phức tạp,
do đó, lãnh đạo Đảng và Chính quyền của thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đã chú
trọng quan tâm đến công tác phòng ngừa THTP nói chung và tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác nói riêng. Điều này được thể
hiện qua việc triển khai, quán triệt và thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của
Đảng, Nhà nước; bên cạnh đó, lãnh đạo Đảng và Chính quyền thành phố còn quan tâm
xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động, các phong trào quần chúng phù hợp
với tình hình thực tế của địa bàn thành phố trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung và tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác nói riêng. Tuy nhiên, cũng thông qua các văn bản chỉ đạo nói trên, có
thể thấy, tinh thần các văn bản chỉ đạo cũng chỉ tập trung vào việc phòng ngừa THTP
nói chung chứ chưa có văn bản nào chỉ đạo chuyên sâu việc phòng ngừa THTP cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác trên địa bàn thành phố. Đặc
biệt là công tác phòng ngừa dựa trên việc loại trừ các nguyên nhân, điều kiện làm phát
sinh THTP đó. Bên cạnh đó, nhận thức của các chủ thể phòng ngừa THTP nói chung
và THTP cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác nói riêng còn
chưa thực sự sâu sắc, chưa có hệ thống, chưa có văn bản chỉ đạo nào thực sự thể hiện
rõ nét nguyên nhân và điều kiện của THTP nói trên, vì vậy, việc phòng ngừa THTP nói
chung và THTP cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác nói
riêng còn nhiều hạn chế.
32
2.1.2. Thực trạng nhận thức nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố
Phan Rang – Tháp Chàm giai đoạn 2014-2018 thông qua các thông số của tình hình
tội phạm
Để nghiên cứu tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm từ năm 2014 -2018,
học viên nghiên cứu toàn bộ 119 bản án về tội cố ý gây thương tích của TAND thành
phố Phan Rang - Tháp Chàm để phản ánh chính xác mức độ, diễn biến, cơ cấu, tính
chất của tình hình tội cố ý gây thương tích.
2.1.2.1. Mức độ của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm
Mức độ của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, giai đoạn từ năm 2014 -
2018 có thể nhận biết được thông qua số liệu thống kê về tổng số tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã xảy ra trên thực tế cùng với số
người đã thực hiện hành vi phạm tội đó trên địa bàn và trong khoản thời gian này.
Đánh giá mức độ của tình hình tội cố ý gây thương tích thông qua số lượng vụ án cố ý
gây thương tích và số bị cáo đã bị kết tội bằng bản án của Tòa án (tội phạm rõ) và số
vụ án cố ý gây thương tích đã xảy ra mà chưa bị phát hiện và xử lý (tội phạm ẩn).
Trong phạm vi nghiên cứu học viên chỉ xem xét, đánh giá số liệu thống kê tội
phạm của TAND thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tập trung làm rõ ở mức độ tổng
quan tương đối và mức độ tổng quan tuyệt đối.
Mức độ tổng quan tuyệt đối
Bảng 2.1 phần Phụ lục Theo số liệu thống kê của TAND thành phố Phan Rang -
Tháp Chàm từ năm 2014- 2018, tổng số vụ án xét xử hình sự là: 665 vụ án với 945 bị
cáo, trong đó có 119 vụ án với 178 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác. Trong đó số vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
33
hại cho sức khỏe của người khác được xét xử nhiều nhất vào năm 2015 với 35 vụ án và
59 bị cáo.
Nhìn vào các thông số có thể nhận định rằng, tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tăng giảm không đều qua từng năm. Tuy
nhiên vẫn chiếm tỉ lệ khá cao (chiếm 17,89% số vụ án và 18,84% số bị cáo) so với
THTP xảy ra trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm.
Nhìn vào Bảng 2.2 phần Phụ lục ta có thể nhận xét, so sánh tương quan với tình
hình các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người
giai đoạn 2014- 2018 thì tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác tăng giảm không đều qua từng năm, nhưng vẫn chiếm tỷ lệ rất
cao (số vụ án chiếm 84,4% và số bị cáo chiếm 84,76%) so với các tội còn lại (số vụ án
chiếm 15,6% và số bị cáo chiếm 15,24%). Tỷ lệ trên cho thấy vấn đề ANTT xảy ra trên
địa bàn thành phố là hết sức nhức nhối, gây ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, tinh
thần của người dân cũng như làm mất an ninh trật tự trên địa bàn.
Nhìn vào Biểu đồ 2.3 phần Phụ lục nhận thấy tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác năm 2015 là cao nhất trong giai đoạn
2014-2018 có tới 35 vụ án và 59 bị cáo (chiếm 24,82% số vụ án và 29,95% số bị cáo bị
đưa ra xét xử). Năm 2017 giảm xuống thấp nhất còn với 14 vụ án và 18 bị cáo, do năm
2017 lực lượng công an thành phố mở đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm nhất là
tội phạm cố ý gây thương tích.
Mức độ tổng quan tương đối:
Phân tích thực trạng của THTP dựa trên cơ số của THTP, có nghĩa là mối tương
quan của số lượng các tội phạm đã thực hiện với số lượng cư dân 100.000 người trong
một khoảng thời gian và không gian xác định.
Nhìn vào Bảng 2.4 phần Phụ lục có thể thấy cơ số phạm tội chung và cơ số phạm
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
thành phố Phan Rang - Tháp Chàm trong giai đoạn 2014-2018, trung bình trong 5 năm
34
cứ 100.000 người dân thì có 109 người phạm tội chung và 21 người phạm tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Có thể dễ dàng nhận thấy
cơ số phạm tội chung có xu hướng giảm dần từ năm 2014-2017, năm 2014 có 126
người phạm tội thì đến năm 2017 còn 94 người phạm tội và tăng nhẹ vào năm 2018 có
97 người phạm tội. Cơ số phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác tăng giảm không đều theo từng năm, cao nhất là năm 2015 có 34 người
phạm tội, thấp nhất là năm 2017 có 10 người phạm tội, tuy nhiên cơ số này vẫn khá cao
so với số người phạm tội chung trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm.
2.1.2.2. Diễn biến của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm
“Diễn biến của THTP là sự vận động và sự thay đổi của thực trạng và cơ cấu của
THTP trong một khoảng thời gian nhất định (một năm, hai năm, ba năm, năm năm, mười
năm...)” [43, tr.64]. Phản ánh thông qua sự thay đổi tăng hoặc giảm của các thông số về
mức độ và cơ cấu THTP so với thời gian được chọn làm mốc để so sánh, đối chiếu.
Phân tích Bảng 2.5 phần Phụ lục có thể nhận thấy rằng, nếu lấy năm 2014 làm
gốc để so sánh (tỷ lệ vụ án, bị cáo đều là 100%) thì tỷ lệ vụ án, bị cáo qua từng năm
tăng giảm không đều, hai năm đầu tăng lần lượt (năm 2015: 145,83% số vụ án và
196,67% số bị cáo; năm 2016: 104,17% số vụ án và 156,67% số bị cáo), hai năm sau
giảm lần lượt (năm 2017: 58,33% số vụ án và 60% số bị cáo; năm 2018: 87,5% số vụ
án và 80% số bị cáo). Nếu so sánh theo giai đoạn 3 năm, lấy giai đoạn 2014-2016 làm
gốc (số vụ án và số bị cáo là 100%), giai đoạn 2016-2018 số vụ án và số bị cáo đều có
xu hướng giảm đáng kể (71,43% số vụ án và 65,44% số bị cáo).
Từ phân tích trên, nhận thấy diễn biến của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo từng năm có xu hướng tăng giảm không
đều, giảm dần từ năm 2014 đến 2017 cho thấy tình hình an ninh chính trị, THTP trên
địa bàn thành phố được giữ vững ổn định, không xảy ra điểm nóng về ANTT. Tuy
nhiên, tội phạm hình sự trên địa bàn thành phố vẫn tiềm ẩn những tính chất phức tạp do
35
đó lực lượng công an thành phố đã phối hợp với các đơn vị khác và tăng cường vai trò
lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền trong công tác đảm bảo tình hình ANTT trên
địa bàn thành phố.
2.1.2.3. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm
a. Cơ cấu theo phương thức thực hiện tội phạm
Mô hình đầy đủ của một hành vi phạm tội cố ý bao gồm có 3 bước: chuẩn bị, thực
hiện và che dấu hành vi phạm tội [31, tr.33].
Cơ cấu theo phương thức thực hiện tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử bởi lẽ thông qua phương thức thực hiện tội phạm có thể
nhận định được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Qua phân tích Bảng 2.6 phần Phụ lục nhận thấy các bước thực hiện hành vi phạm
tội như sau: thực hiện một bước (17 vụ án với 31 bị cáo, chiếm tỷ lệ lần lượt là 14,29%
và 17,42%), thực hiện hai bước (53 vụ án với 82 bị cáo, chiếm tỷ lệ lần lượt là 44,54%
và 46,07%) và thực hiện ba bước (49 vụ án với 65 bị cáo, chiếm tỷ lệ lần lượt là
41,18% và 36,52%). Qua đó cho thấy, số lượng nhỏ đối tượng phạm tội không có sự
chuẩn bị trước là do mâu thuẫn phát sinh nhất thời và họ không tự kiềm chế được bản
thân do đó gây nên hành vi phạm tội và đại đa số các đối tượng còn lại phạm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố
Phan Rang - Tháp Chàm có sự chuẩn bị trước khi thực hiện hành vi phạm tội, do đó
hậu quả để lại cũng nghiêm trọng hơn. Để tìm hiểu rõ hơn, ta phân tích về công cụ gây
án, thời gian gây án và địa điểm gây án.
Theo Bảng 2.7 phần Phụ lục các đối tượng phạm tội cố ý gây thương tích đại đa
số sử dụng hung khí khi gây án (có sử dụng hung khí có tới 91 vụ án với 135 bị cáo,
chiếm tỷ lệ lần lượt là 76,47% và 75,84%), không sử dụng hung khí gây án (28 vụ án
với 43 bị cáo, chiếm tỷ lệ lần lượt là 23,53% và 24,16%). Qua đó cho thấy, các đối
36
tượng phạm tội tội cố ý gây thương tích trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm có sự chuẩn bị về công cụ gây án trước khi thực hiện hành vi phạm tội.
Theo Bảng 2.8 phần Phụ lục nhận thấy thời gian gây án thường tập trung vào các
khung giờ khoảng 18 giờ đến 00 giờ (có 58 vụ án, chiếm tỷ lệ 48,74%) và 00 giờ đến
06 giờ (có 37 vụ án chiếm tỷ lệ 31,09%), các khung giờ sau tỉ lệ gây án tương đối thấp.
Có thể thấy lý do gây án tập trung vào các khung giờ 18 giờ đến 00 giờ và 00 giờ đến
06 giờ sáng là do sau giờ làm việc các đối tượng tụ tập ăn nhậu, uống rượu bia, karaoke
dẫn đến say xỉn không kiềm chế được hành vi, hoặc các băng nhóm tụ tập ăn chơi xích
mích thanh toán lẫn nhau, còn các khung giờ còn lại do mâu thuẫn bất ngờ xảy ra và
các đối tượng không làm chủ được hành vi nên gây án.
Theo Bảng 2.9 phần Phụ lục nhận thấy địa điểm gây án đại đa số là ở những nơi
công cộng (như quán nhậu, nhà hàng, quán karaoke, bar, trên đường...) có tới 79 vụ án
chiếm tỷ lệ tương đương 66,39%, còn những nơi khác tương đối thấp như: tại nhà bị
hại có 13 vụ án, tại nhà bị cáo có 12 vụ án và tại nhà người quen có 15 vụ án, hầu hết các
vụ án xảy ra ở những nơi như này là do được mời tới nhà tham dự ăn uống, tiệc tùng...
b. Cơ cấu theo chế tài đã áp dụng
Cơ cấu theo chế tài đã áp dụng là cơ sở để đánh giá về tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi do tội phạm cố ý gây thương tích gây ra trên địa bàn thành phố Phan
Rang - Tháp Chàm và được xác định trên cơ sở số liệu thống kê của Tòa án.
Theo Bảng 2.10 phần Phụ lục nhận thấy trong 119 vụ án với 178 bị cáo phạm tội
cố ý gây thương tích có tới 84 bị cáo (chiếm tỷ lệ là 47,19 %) bị tuyên phạt từ 03 đến
dưới 7 năm tù và 44 bị cáo (chiếm tỷ lệ là 24,72 %) bị tuyên phạt từ 07 đến dưới 15
năm tù. Qua đó cho thấy hành vi mà các bị cáo gây ra hầu hết là nghiêm trọng và rất
nghiêm trọng gây thiệt hại lớn về tinh thần và sức khỏe cho nạn nhân, do đó cần một
bản án thích hợp đúng người, đúng tội cho các bị cáo.
c. Cơ cấu theo các đặc điểm nhân thân người phạm tội
37
Những yếu tố tiêu cực thuộc về nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích
trên địa bàn thành phố, đóng vai trò là một trong những nguyên nhân và điều kiện gây
ra THTP cố ý gây thương tích xảy ra trên địa bàn. Để lý giải về nguyên nhân và điều
kiện tình hình tội cố ý gây thương tích cần thiết phải tìm hiểu về đặc điểm nhân thân
qua các đặc điểm tự nhiên, đặc điểm xã hội, đặc điểm hành vi, cụ thế:
Đặc điểm tự nhiên
+ Về độ tuổi
Phân tích Bảng 2.11 phần Phụ lục nhận thấy trong 178 bị cáo đã bị TAND thành
phố Phan Rang - Tháp Chàm xét xử về tội cố ý gây thương tích, đại đa số các bị cáo ở độ
tuổi 18 đến 30 tuổi có tới 105 bị cáo chiếm tỷ lệ 58,99%, có thể thấy do ở độ tuổi này các
bị cáo tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm sống chưa nhiều, còn bồng bột thiếu suy nghĩ cho
tương lai, nghe bạn bè rủ rê, lôi kéo, một số hình thành các băng nhóm giành giật nhau
địa bàn xưng oai...Số người phạm tội cao thứ hai thuộc nhóm tuổi từ đủ 30 tuổi đến dưới
45 tuổi (45 bị cáo chiếm 25,28%) ở độ tuổi này hầu hết đã có gia đình nên suy nghĩ chín
chắn hơn, tuy nhiên nhiều trường hợp vẫn không kiềm chế được bản thân lúc nóng giận
mất khôn đã có hành vi vi phạm, độ tuổi từ 45 đến 60 tuổi phạm tội (21 bị cáo chiếm
11,8%), từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi chiếm tỷ lệ không đáng kể (7 bị cáo chiếm 3,93%).
+ Về giới tính
Phân tích Bảng 2.12 phần Phụ lục nhận thấy người phạm tội là nam giới có 141
bị cáo (chiếm 79,21%), là nữ giới có 37 bị cáo (chiếm 20,79%). Có thể thấy các vụ cố
ý gây thương tích xảy ra trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm chủ yếu là do
nam giới thực hiện. Để giải thích điều này có thể lấy dẫn chứng từ nghiên cứu của các
chuyên gia tội phạm học và các nhà nghiên cứu đã chỉ ra một số nguyên nhân như,
hoóc môn testosterone nhen nhóm sự gây hấn, con trai mất nhiều thời gian hơn để trở
nên chín chắn, trưởng thành so với con gái. Thêm vào đó do sở thích nam giới thích tụ
tập ăn nhậu ở các hàng quán, bản tính nam giới nóng nảy ít kiềm chế được cảm xúc
hơn nữ giới. Do đó tỷ lệ tội phạm cố ý gây thương tích phần đa số là nam giới.
38
+ Nơi cư trú
Phân tích Bảng 2.13 phần Phụ lục nhận thấy người phạm tội cố ý gây thương tích
trên địa bàn thành phố phần lớn là ở nơi khác đến có tới 81 bị cáo chiếm 45,51% phần
lớn là những người ở các huyện lân cận, tạm trú có 59 bị cáo chiếm 33,15% và thường
trú có 38 bị cáo chiếm 21,35%. Tỉnh Ninh Thuận là tỉnh nghèo việc làm hạn chế ở các
huyện, do đó họ lên thành phố kiếm việc lao động, mặt khác thành phố Phan Rang -
Tháp Chàm mới có nhiều quán nhậu, nhà hàng, karaoke, bar mà các huyện lân cận
không có, nên tìm chỗ ăn chơi thì các đối tượng lên thành phố tụ tập và gây gổ đánh
nhau gây thương tích. Thường trú có số bị cáo ít hơn, có thể thấy rằng khi người dân an
cư thì phần lớn họ không có tâm lý muốn gây thù chuốc oán với người khác, họ muốn
nơi ở bình yên để sống và làm việc.
Đặc điểm xã hội
+ Về trình độ văn hóa
Phân tích Bảng 2.14 phần Phụ lục hầu hết người phạm tội cố ý gây thương tích
trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm có trình độ học vấn thấp, không biết
chữ (22 bị cáo chiếm 12,36%), tiểu học (73 bị cáo chiếm 42,01%), trung học cơ sở (53
bị cáo chiếm 29,78%) và trung học phổ thông (18 bị cáo chiếm 10,11%) và trình độ
trung cấp, cao đẳng, đại học ít nhất có 12 bị cáo chiếm 6,74%. Vì trình độ học vấn
thấp, hạn chế về khả năng nhận thức pháp luật, dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tiêu cực
trong môi trường sống, việc làm không ổn định, ... thời gian rảnh nhiều nên tụ tập rượu
chè, thiếu tiền tiêu xài nên rủ rê lôi kéo vào các băng nhóm “đâm thuê chém mướn” ...
dẫn đến hành vi cố ý gây thương tích.
+ Về nghề nghiệp
Phân tích Bảng 2.15 phần Phụ lục người phạm tội cố ý gây thương tích trên địa
bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm có nghề nghiệp không ổn định là cao nhất với
118 bị cáo chiếm 66,29%, không có nghề nghiệp có 39 bị cáo chiếm 21,91%, có nghề
nghiệp ổn định có 21 bị cáo chiếm 11,8%). Từ số liệu có thể thấy đa số người phạm tội
39
có nghề nghiệp không ổn định hoặc không nghề nghiệp. Nghiên cứu từ 119 bản án sơ
thẩm về tội cố ý gây thương tích của tòa án thành phố thì có một số trường hợp làm
bốc vác ở các cảng cá hay chạy hàng hải sản công việc thì ít nhân công thì nhiều dẫn
tới cạnh tranh công việc làm ăn gây gổ xô xát.
+ Về hoàn cảnh gia đình
Phân tích Bảng 2.16 phần Phụ lục thì đa số người phạm tội cố ý gây thương tích
trên địa bàn thành phố có gia đình không hoàn thiện (có bố mẹ ly hôn hoặc chết) hoặc
gia đình có người vi phạm pháp luật với 132 bị cáo chiếm 74,16% trong khi đó gia đình
hoàn thiện và không có người vi phạm pháp luật có 46 bị cáo chiếm tỷ lệ 25,84%. Như
vậy có thể thấy gia đình có vai trò hết sức quan trọng, Bác Hồ đã căn dặn “gia đình tốt
thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn. Hạt nhân của xã hội là gia đình”,
yếu tố gia đình khuyết thiếu hoặc có người vi phạm pháp luật đã ảnh hưởng trực tiếp đến
tâm - sinh lý của người phạm tội cố ý gây thương tích trên địa bàn.
+ Về tiền án, tiền sự
Phân tích Bảng 2.17 phần Phụ lục cho thấy các vụ án cố ý gây thương tích xảy ra
trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, phần lớn là phạm tội lần đầu có 117 bị
cáo (chiếm tỷ lệ 65,73%), người phạm tội đã có tiền án, tiền sự có 61 bị cáo (chiếm tỷ
lệ 34,27%). Cho thấy công tác giáo dục, giúp đỡ, ngăn chặn tái phạm tội và phòng
ngừa tội phạm trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm là đã phát huy hiệu quả.
+ Về đặc điểm dân tộc
Phân tích Bảng 2.18 phần Phụ lục cho thấy các vụ án cố ý gây thương tích xảy ra
trên địa bàn thành phố, phần lớn là người kinh có tới 121 bị cáo (chiếm tỷ lệ 67,98%),
còn lại là người dân tộc thiểu số có 57 bị cáo (chiếm tỷ lệ 32,02%). Như vậy, có thể
thấy dân tộc kinh phạm tội nhiều hơn dân tộc thiểu số là do dân tộc kinh chiếm đa số
tại địa bàn, tuy nhiên người dân tộc thiểu số phạm tội với tỷ lệ như trên là tương đối
cao, chủ yếu là người chăm, mà nguyên nhân phần lớn là tranh chấp đất đai giữa người
chặm và dân tộc kinh.
40
d. Cơ cấu theo đơn vị hành chính cấp phường thuộc thành phố
Phân tích Bảng 2.19 phần Phụ lục cho thấy các bị cáo phạm tội cố ý gây thương
tích xảy ra trên địa bàn thành phố chủ yếu nằm ở 02 phường Đông Hải (với 21 bị cáo)
và Mỹ Đông (18 bị cáo), còn lại các bị cáo khác nằm rải rác ở các phường trong thành
phố, hai phường trên là hai phường ven biển hầu hết làm nghề đánh cá, sau những mùa
đánh cá về thường tụ tập rượu chè, gây nên hành vi phạm tội.
e. Cơ cấu theo đặc điểm nạn nhân
+ Về giới tính của nạn nhân: Qua thống kê 119 bản án về tội cố ý gây thương
tích xảy ra trên địa bàn thành phố thì giới tính nạn nhân chủ yếu là nam, tỉ lệ nữ giới
không đáng kể. Nạn nhân là nam giới cũng là đặc trưng riêng của tội cố ý gây thương
tích, bởi nam giới hiếu thắng, nóng nảy và không kiềm chế được cảm xúc và về tương
quan lực lượng muốn ra oai với nhau nên phát sinh mâu thuẫn xô xát, bên cạnh đó thì
nam là phái mạnh có phần nào đó vẫn nhường nữ giới, tuy nhiên nghiên cứu thống kê
119 bản án này cũng không phản ánh hết được tỉ lệ nạn nhân là nữ giới bởi lẽ phần ẩn
của nạn nhân trong tội cố ý gây thương tích khá nhiều là bạo lực gia đình nhưng không
bị xử lý về tội này bởi lẽ trường hợp này thuộc về khởi tố theo yêu cầu bị hại nên dường
như chưa có bản án nào xử có tính chất bạo lực gia đình. Trong số những nạn nhân là nữ
giới trong tội cố ý gây thương tích được TAND thành phố xét xử thì phần đa nữ giới là
nạn nhân do ghen tuông tình ái.
+ Về mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội
Qua thống kê 119 bản án về tội cố ý gây thương tích xảy ra trên địa bàn thành phố
thì nạn nhân có quen biết với người phạm tội, nạn nhân là bạn bè thân thích, nạn nhân có
quan hệ gia đình, anh, em, họ hàng là đa số, còn số nạn nhân không quen biết thì không
đáng kể, có thể nói đây cũng là là đặc trưng riêng của tội cố ý gây thương tích bởi lẽ tỉ lệ
nạn nhân không quen biết rất ít mà nguyên nhân chủ yếu là va quẹt xe trên đường... còn
lại đều có mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội.
41
2.1.2.4. Tính chất của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm
Trong những năm gần đây, tình hình tội cố ý gây thương tích có biến động lúc
tăng lúc giảm, tuy nhiên vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao so với THTP trên địa bàn thành
phố Phan Rang - Tháp Chàm, diễn biến phức tạp với tính chất manh động và mức độ
nghiêm trọng ở những tụ điểm nóng gây mất trật tự công cộng, ảnh hưởng tới ANTT
và an toàn xã hội trên địa bàn. Cụ thể:
Một là, về thủ đoạn hoạt động phạm tội: các đối tượng phạm tội cố ý gây thương
tích đa số thực hiện theo hai bước là chuẩn bị phạm tội và thực hiện hành vi hoặc thực
hiện hành vi và che dấu (Bảng 2.6). Do có sự chuẩn bị trước về công cụ gây án, cách
thức gây án nên các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn hầu hết ở mức nghiêm
trọng và rất nghiêm trọng (Bảng 2.10) không chỉ để lại những hậu quả nặng nề về vật
chất, tình thần, sức khỏe cho bị hại và người thân mà còn tổn hại đối với bản thân và
gia đình của đối tượng phạm tội.
Hai là, về mục đích, động cơ phạm tội: các vụ cố ý gây thương tích thường xuất
phát từ những mâu thuẫn trong sinh hoạt không được giải quyết kịp thời, mâu thuẫn đất
đai trong gia đình, dòng họ; đôi khi chỉ vì một xích mích nhỏ mang tính bộc phát
nhưng thiếu kiềm chế, nóng giận hoặc do các đối tượng sử dụng rượu, bia cũng dẫn
đến những hành động mất tự chủ gây thương tích cho người khác.
2.2. Thực trạng các nguyên nhân và điều kiện cụ thể của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố
Phan Rang – Tháp Chàm giai đoạn 2014 -2018
2.2.1. Nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác nhập tâm
2.2.1.1. Những nguyên nhân và điều kiện khách quan
a. Môi trường gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi hình thành các chuẩn mực đạo đức, là nơi
kiến tạo cho mỗi cá nhân phát triển, ở thế hệ đi trước sống gương mẫu chan hòa, yêu
42
thương lẫn nhau, sống chuẩn mực, con cái sẽ hình thành những nhân cách tích cực.
Tuy nhiên trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm hiện nay một số gia đình có
cha mẹ bất hòa, ly hôn, không quan tâm đến con cái, mà chỉ bận làm ăn kiếm tiền, việc
giáo dục trong gia đình không được chú trọng, mặt khác con cái được nuông chiều và
tiếp xúc với đồng tiền quá sớm đã hình thành những nhân cách xấu… cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến tâm lý của con cái, nảy sinh suy nghĩ tiêu cực, bất cần và có những
hành vi côn đồ, trái pháp luật. Ngoài ra, một số gia đình điều kiện vật chất khá giả
nhưng quản lý lỏng lẻo dẫn tới việc con em mình nhanh chóng sa đà vào những thú vui
hưởng thụ vật chất (games bạo lực, đua xe cảm giác mạnh, ăn nhậu, quậy phá, nghiện
hút…) đến những hành vi phạm pháp. Nhiều học sinh, sinh viên có kết quả học tập sa
sút, bỏ học nhiều ngày, thậm chí cả tháng gia đình mới biết, và thay vì nhận ra thiếu sót
quản lý của mình thì lại quay sang trách phạt, đổ lỗi tại con đã tự làm hư hỏng bản
thân. Qua nghiên cứu 119 bản án với 178 bị cáo bị TAND thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm xét xử về hành vi cố ý gây thương tích thì phần đa số người phạm tội cố ý gây
thương tích trên địa bàn có gia đình không hoàn thiện (có bố mẹ li hôn hoặc chết) hoặc
gia đình có người vi phạm pháp luật (Bảng 2.16).
Điển hình như vụ án: NGUYỄN TẤN V, sinh ngày 23/3/1991 tại Ninh Thuận.
Nơi cư trú: khu phố X, phường M, Tp. Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Con
ông Nguyễn Tấn Ph, sinh năm 1947 (đã chết) và bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1948.
Tiền án; Tiền sự: không. Nội dung: Khoảng 20 giờ, ngày 30/4/2018, Nguyễn Tấn V và
Trịnh Minh V đang ngồi uống bia trước sân nhà anh Minh V, ở khu phố X, phường M,
thành phố Phan Rang- Tháp Chàm thì Lê Văn D (K) điều khiển xe mô tô chở Nguyễn
Văn T chạy đến dừng trước nhà anh Minh V, nẹt bô gây tiếng ồn. Thấy vậy, bà Phạm
Thị D (mẹ ruột của Minh V) đi ra và to tiếng với D. Lúc này, anh Trịnh Minh V lấy 02
vỏ chai bia Miền Trung ném về phía D và T đang đứng nhưng không trúng ai, lập tức
D và T nhặt đá ném vào chỗ Tấn V ngồi nhậu. Tức giận Tấn V cầm 02 vỏ chai bia
Miền Trung bằng thủy tinh đập vào nhau cho bể, rồi lấy phần cổ chai bia cầm bằng tay
43
phải chạy ra ngoài rượt đuổi đánh D và T, trong lúc T quay lưng bỏ chạy thì bị V đâm
một nhát trúng vào cằm bên phải làm chảy máu. Thấy T bị thương nên anh Nguyễn
Trọng Trung D (là bạn của D và T) ở gần đó đến can ngăn đưa D (K) và T đi, còn Tấn
V và Minh V kéo cửa cổng lại vào trong nhà uống nước trà nói chuyện.
Khoảng 30 phút sau, Nguyễn Văn T và Nguyễn Tấn Tr cầm theo mã tấu, rựa
quay lại nhà anh Minh V thì Tấn V và Minh V bỏ chạy ra phía sau nhà bếp trốn, đồng
thời mỗi người lấy một con dao cầm trên tay để phòng thủ. Lúc này, T, Tr chạy vào
nhà tìm không thấy Minh V và Tấn V nên dùng mã tấu, rựa đập vỡ 01 tấm kính bàn gỗ,
02 tấm kính cửa sổ và 01 tấm kính cửa tủ bàn thờ. Sợ bị nhóm T tìm thấy đánh nên anh
Minh V nói với Tấn V chạy ra sau ruộng trốn, nói xong anh Minh V bỏ chạy, do không
còn nghe tiếng kính vỡ, nghĩ rằng nhóm của T đã kéo đi nên Tấn V cầm dao đi lên
phòng khách để quan sát thì thấy T cầm mã tấu vừa đi đến đối diện, Tấn V cầm dao giơ
lên chém một nhát từ trên xuống trúng vào tay phải của anh T gây thương tích cho T là
13% rồi cầm dao bỏ chạy ra phía sau nhà.
(Bản án số 116/2018/HSST của TAND thành phố Phan Rang - Tháp Chàm)
b. Môi trường giáo dục
Môi trường nhà trường là nơi trải nghiệm nhận thức và thái độ giao tiếp với cộng
đồng. Nhà trường là nơi đầu tiên ta được tự do vượt ra sự che chở và điều khiển của
cha mẹ, họ phải học cách tự đưa ra quyết định, suy nghĩ cho bản thân và có trách
nhiệm về các hành động của mình. Tuy nhiên, nhà trường chưa thực sự đưa vào việc
dạy kỹ năng sống cho học sinh là môn học bắt buộc, việc giảng dạy những kiến thức
đạo đức làm người cho các em học sinh về nhân cách còn sơ sài, hình thức, đùn đẩy
trách nhiệm giữa gia đình và nhà trường cũng tạo cho các em tâm lý chán nản, lệch
chuẩn, chán học tụ tập ăn chơi...và có những hành vi vi phạm pháp luật. Ngoài ra trên
thực tế tại địa bàn thành phố còn nhiều người không biết chữ, nguyên nhân chính vẫn
do giáo dục chưa đúng phương pháp, còn mang tính hình thức chỉ mở các lớp xoá mù
chữ với thời gian ngắn từ 2-3 tháng. Trong khi đó, đội ngũ giáo viên dạy xóa mù chữ
44
lại thiếu chuyên nghiệp. Giáo viên nghiệp dư làm công tác xóa mù chữ tuy nhiệt tình,
tận tâm nhưng lại hạn chế về nghiệp vụ sư phạm dẫn đến rất nhiều người không biết
chữ, do đó không tiếp cận được pháp luật và có hành vi vi phạm pháp luật.
Qua nghiên cứu về cơ cấu theo trình độ văn hóa của người phạm tội (Bảng 2.14),
trong số 178 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích thì có 22 bị cáo không biết chữ
chiếm tỉ lệ12,36%.
Điển hình như vụ án: Nguyễn Thanh T, sinh ngày 21/8/1999; trú tại: Khu phố 5,
phường Đ, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn
hóa: Không biết chữ. Do mâu thuẫn từ trước, nên vào khoảng 15 giờ ngày 19/11/2017
khi ông Trần Thanh H1 và ông Võ Văn H nhậu ở nhà ông H và hát karaoke gây ồn ào
thì Nguyễn Văn Th (ở cạnh nhà ông H1) có chửi ông H1. Khi hai bên đang chửi nhau
thì ông H ra can ngăn và có xô xát với ông Th ở trước sân nhà ông Th. Lúc này con
ông Th là Nguyễn Thanh T đang ngồi trên gác thấy cha bị đánh liền chạy vào trong nhà
lấy 01 con dao tự chế (mã tấu) dài khoảng 60cm chạy xuống và chém vào lưng ông H
gây thương tích, do bị chém nên ông H bỏ chạy. Khi ông H bị đánh, ông H1 có chạy
vào phía trong nhà cầm 1 con dao nhọn tự chế dài khoảng 40 cm chạy ra, khi thấy ông
H1 chạy tới T đã dùng mã tấu chém vào chân ông H1 gây thương tích với tỷ lệ là 26%.
(Bản án số 83/2018/HSST ngày 16/10/2018 của TAND thành phố PRTC)
Như vậy, qua vụ án có thể thấy một phần do bị cáo không biết chữ dẫn tới không
thể tiếp cận pháp luật, và không biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đã có
hành vi gây thương tích cho người khác vì cho rằng để bảo vệ bố của mình mà thôi.
d. Môi trường bạn bè
Sự giao tiếp bạn bè cùng lứa chịu ảnh hưởng từ quan hệ bạn bè rất mạnh, thậm chí
là nghe theo lời bạn nhiều hơn nghe lời khuyên can của cha mẹ, gia đình. Kết bạn, giao
du với bạn bè xấu (những đối tường lười học, ham ăn chơi, đua đòi, hay bỏ học, hỗn láo
với thầy cô giáo và bố mẹ, sa đà vào các TNXH…). Do kết bạn, giao tiếp thường xuyên
với đối tượng này, dần dần ảnh hưởng và có thể bị tiêm nhiễm và bắt chước những hành
45
vi xấu của những đối tượng này như thường xuyên bỏ học, tụ tập ăn chơi, về nhà hỗn láo
với bố mẹ, bỏ nhà đi hoang… và dần dần đi vào con đường phạm tội.
Điển hình vụ án: 1. Phan Văn Th, sinh năm 1996; trú tại: Khu phố 4, Phường Đ,
thành phố Phan Rang - Tháp Chàm; 2. Trần Thanh Ph, sinh năm1994, trú tại: Thôn H,
xã Ph, Huyện N; 3. Phạm Tấn T, trú tại: Thôn H, xã Ph, Huyện N, tất cả 03 bị cáo bị
TAND thành phố Phan Rang - Tháp Chàm tuyên phạm tội cố ý gây thương tích.
Khoảng 21 giờ ngày 29/4/2017, Trần Minh Th, Tô Tuấn V, Phạm Đăng H, Nguyễn
Minh T, Nguyễn Hoàng H, Nguyễn Quốc B, cùng một số thanh niên khác tổ chức ăn
nhậu ở khu vực cầu đường sắt thuộc Khu phố 4, phường B. Trong lúc đang uống bia
thì hết đá nên B đi ra quán nhậu của chị Nguyễn Thị H để mua thêm đá. Tại đây, B gặp
Lê Hữu Ng đang mua mồi nhậu và hai bên đã xảy ra mâu thuẫn với nhau, B quay lại
chỗ nhậu kể cho Th và những người đang ngồi nhậu. Sau đó, Th và mọi người đi ra thì
gặp Ng và Trần Thanh Ph tại quán chị T. Tại đây, Th dùng tay đánh Ph, còn H và V
cầm cây tiếp tục đuổi theo rượt đánh Ng và Ph. Ph chạy về quán Karaoke L ở Khu phố
5, phường B cách chỗ đánh nhau khoảng 100m thì gặp Phan Thành Th, đang ngồi chơi
tại quán. Lúc này, Ph nói cho Thiện biết bị rượt chém. Rồi Ph lấy điện thoại gọi cho
Ng, còn Th đi lấy khẩu súng bắn đạn hoa cải chạy về lại quán L nhưng không vào quán
mà đứng phía ngoài cùng Ph đợi Ng đến. Khoảng 05 phút sau, Ng cùng với T và một
số thanh niên khác đến. Khoảng 23 giờ cùng ngày, nhóm của Ph cùng nhau mang theo
hung khí, vũ khí đi bộ từ hẻm bên cạnh quán L hướng về Cầu Móng. Khi nhóm của Ng
đi đến cầu Thang trên đường T, thuộc khu phố 4, phường B thì thấy nhóm của Th chia
ra làm hai: 01 nhóm đứng trên đường ray dùng đá, chai bia ném về phía nhóm của Ng,
còn 01 nhóm cầm mã tấu đứng ở đường T. Thấy vậy, Th cầm súng bắn đạn hoa cải lên
trời 02 viên nhưng nhóm của Th vẫn cầm đá và chai bia ném về phía nhóm của Th nên
Th bắn tiếp 04 viên đạn về hướng đường ray và đường T thì trúng vào Th, V, H, T, H,
M (Không rõ họ tên, địa chỉ) và chị Lương Thị Ph. Ngay sau khi Th bắn xong, Ph, T,
Ng và đồng bọn khác còn lại cầm mã tấu xông vào chém nhóm thanh niên đang đứng
46
trên đường T, Tuy bị nhóm của Th chém trúng vào tay trái nhưng chỉ bị thương nhẹ, Ph
bị chém gãy lưỡi mã tấu. Hai bên xông vào đánh, chém nhau khoảng 05 phút thì nhóm
của Th bỏ chạy về hướng Cầu Móng, nhóm của Ng rượt đuổi theo khoảng 5-7m thì
nghe có người trong nhóm nói rút nên cả nhóm dừng lại đi về hẻm bên hông quán L.
Hậu quả: anh Trần Minh Th bị thương tật với tỷ lệ 14%, Tô Tuấn V bị thương tật với
tỷ lệ 14%, Phạm Đăng H bị thương tật với tỷ lệ 17%.
(Bản án số 97/2017/ HSST của TAND thành phố Phan Rang - Tháp Chàm)
d. Môi trường kinh tế - xã hội
Do nền kinh tế của thành phố phát triển, thu nhập tăng lên, đời sống nhân dân
được cải thiện, do đó cũng kéo theo nhiều hệ lụy, đó là sự thay đổi của cuộc sống với
quan niệm đồng tiền là trên hết cộng thêm sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức làm cho
nhiều người bất chấp thủ đoạn kể cả những hành vi vi phạm pháp luật. Tuy về cơ bản
đời sống nhân dân được tăng lên, nhưng bên cạnh đó thì chênh lệch về mức sống giữa
nhóm giàu với nhóm nghèo có xu hướng dãn ra mà sự phân hóa giàu nghèo là tiền đề
tác động đến THTP, TNXH.
Điển hình như vụ án: Bị cáo Nguyễn Văn Ng sinh ngày 06/8/1995, trú tại: Khu phố
6, Phường Đ, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ 7/12.
Khoảng 19 giờ 30, anh Nguyễn Trường Thông sinh năm 1985 nhờ Trần Văn Hữu sinh
năm 1994 chở đến nhà Nguyễn Văn Ng để đòi nợ tiền sửa xe máy. Do Ng chưa có tiền
trả nên giữa anh Th và Ng xảy ra to tiếng với nhau, Th tát vào Ng 01 cái. Ngay lúc này,
Ng dùng tay phải đang cầm sẵn con dao bấm dài 22,5cm đâm một nhát trúng vào hông
trái của Th với tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 56%.
(Bản án số 19/2018/HSST ngày 5/4/2018 của TAND thành phố Phan Rang –
Tháp Chàm)
2.2.1.2. Những nguyên nhân và điều kiện chủ quan
Một là, nhận thức pháp luật của một số người còn hạn chế, hạn chế khả năng
kiềm chế, kiểm soát hành vi, cụ thể:
47
Trên địa bàn thanh phố các vụ án cố ý gây thương tích chủ yếu do các nguyên
nhân như: không giải quyết được những mâu thuẫn: Trong cuộc sống hàng ngày giữa
hàng xóm và trong gia đình không tránh khỏi những va chạm, mâu thuẫn, nhưng khi
không giải quyết được thông qua việc trao đổi, thông cảm cho nhau mà để sự ích kỷ, sĩ
diện bộc phát sẽ xảy ra xung đột, đâm chém có tính chất côn đồ để giải quyết mâu
thuẫn dẫn đến việc phạm tội. Những người phạm tội thường do bột phát không làm chủ
được bản thân, nóng giận không kiềm chế, bị lệch lạc về nhân cách, khiếm khuyết về
gia đình, thiếu hiểu biết, hiếu thắng, uy hiếp mọi người nên dù mâu thuẫn nhỏ xảy ra
cũng xuất hiện tranh chấp xô xát. Do thói quen sử dụng rượu bia trong hội họp, lễ tết,
tiệc vui, tiệc buồn và sinh hoạt đời thường, phần lớn các vụ cố ý gây thương tích xảy ra
trên địa bàn trong thời gian qua nguyên nhân là do có sử dụng rượu, bia và chất kích
thích khác dẫn tới việc không làm chủ bản thân, tinh thần, ý chí nằm ngoài tầm kiểm
soát, không tỉnh táo, dễ bị kích động dẫn đến việc phạm tội. Do những tranh chấp về tài
sản, vay nợ trong người dân không có khả năng thanh toán dẫn đến đánh nhau hoặc do
quan hệ hôn nhân đổ vỡ, ghen tuông tình ái, tranh giành tài sản giữa những người thân
trong gia đình.
Tất cả những nguyên nhân trên đều do mâu thuẫn bột phát, bản thân người phạm
tội không kiểm soát được hành vi. Nghiên cứu 178 bị cáo phạm tội cố ý gây thương
tích thì có tới 117 bị cáo là phạm tội lần đầu chiếm 65,73% (Bảng 2.17) và lý do đều
do mâu thuẫn bột phát.
Điển hình như vụ án: bị cáo Ngô Thị B, sinh năm 1951; cư trú tại: Khu phố 2,
Phường Đ, thành phố PRTC; nghề nghiệp: giữ xe; tiền án, tiền sự: không. Khoảng 9h
ngày 27/01/2018, tại khu vực cổng số 01 chợ P thuộc khu phố 5, phường K, thành phố
Phan Rang - Tháp Chàm xảy ra vụ xô xát đánh nhau giữa anh Huỳnh Minh H và ông
Võ Văn T. Thấy vậy, bà Hứa Thị X (mẹ ruột của anh H) và Ngô Thị B ( họ hàng ông
T) đi ra căn ngăn thì xảy ra mâu thuẫn, sẵn có ca nước trà nóng đang cầm trên tay nên
Ngô Thị B tạt vào người bà X gây tổn hại sức khỏe với tỷ lệ 12%.
48
Qua bản án cho thấy bị cáo B thực hiện hành vi cố ý gây thương tích là do bột
phát, không có sự chuẩn bị, tính toán trước và không kiềm chế được bản thân lúc nóng
giận nên đã có hành vi gây thương tích cho bà X.
Hai là, một số người phạm tội có thái độ thách thức pháp luật, coi thường tính
mạng, sức khỏe của người khác
Qua nghiên cứu 119 bản án với 178 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích có tới
61 bị cáo đã từng có tiền án, tiền sự ( Bảng 2.17) thể hiện các bị cáo trước đó đã phạm
tội nhưng không sửa đổi bản thân mà tiếp tục tái phạm, thể hiện thái độ coi thường
pháp luật.
Điển hình vụ án: Đào Văn Ch, sinh năm 1984 tại Ninh Thuận; Nơi đăng ký
HKTT: Khu phố 3, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Tiền án: Ngày
27/9/2016, bị TAND thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt 04 tháng 12 ngày tù
giam về tội “Chống người thi hành công vụ”, được thả tự do ngay tại tòa. Tiền sự:
Ngày 13/02/2015, bị Công an phường Đ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản” (chưa chấp hành xong quyết định xử phạt vi phạm
hành chính).
Nội dung vụ án: Cho rằng anh Đào Văn M đánh Lê Văn Th (em vợ Đào Văn Ch)
bị gãy tay nên vào lúc 18 giờ 30 phút ngày 24/11/2016 sau khi nhậu xong, Đào Văn Ch
rủ Nguyễn Văn H và Đỗ V đi đánh M thì được H và V đồng ý. Ch vào nhà mình lấy 03
cây dao mác có đầu nhọn đưa cho H cầm, Ch điều khiển xe mô tô chở H và V đến quán
nước mía của ông Trần Trí D thuộc khu phố 4, phường M, TP. Phan Rang – Tháp
Chàm thì thấy anh M đang ngồi uống nước mía cùng với anh Lê Quang P, anh Đào
Văn H (Thù Lù) và Nguyễn Ngọc L. Ch dừng xe, H đang cầm 03 cây dao mác, H đưa
cho Ch và V mỗi người cầm một cây dao mác, H cầm 01 cây dao mác rồi cả nhóm
cùng lao về hướng của anh M đang ngồi để chém. Thấy vậy, anh P và anh L liền đứng
dậy ôm Ch lại, anh P giật lấy cây dao mác của Ch đang cầm ném đi nơi khác. Lúc này,
M đứng dậy bỏ chạy về hướng cầu An Đông, thì bị H và V cầm dao mác đuổi theo, anh
49
M chạy được khoảng 100 mét thì bị vấp ngã, H và V chạy đến chém M nhưng không
trúng. M đứng dậy bỏ chạy được khoảng 50 mét nữa thì lại bị vấp ngã, nhìn thấy M bị
ngã, H và V chạy đến chém M. H dùng dao mác chém M 03 nhát trúng vào vùng vai và
tay phải của M gây thương tích, còn V có chém về hướng người của M nhưng không
trúng cái nào. Nhìn thấy anh P, anh H và anh L chạy đến nên H và V không chém anh
M nữa. Lúc này, có Đào Văn T (là em ruột của Đào Văn Ch) và Ch cũng chạy đến chỗ
anh M thì thấy M đã bị thương. Anh M được anh P chở đi cấp cứu tại bệnh viện còn
Ch điều khiển xe mô tô chở H và V đi về, T cũng bỏ đi về.
(Bản án số 52/2017/HSST ngày 11/07/2017 của TAND thành phố Phan Rang -
Tháp Chàm)
2.2.2. Nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình tương tác xuất tâm
2.2.2.1. Những nguyên nhân và điều kiện khách quan
Một là, từ phía nạn nhân: Nạn nhân trong vụ án cố ý gây thương tích thường là
nam giới, do nam giới nóng tính, khó kiềm chế được hành vi của bản thân, nhiều
trường hợp nạn nhân có lỗi, thái độ thiếu chuẩn mực hoặc có hành vi gây kích động
người khác.
Điển hình vụ án: Trần T, sinh năm: 1966, trú tại khu phố A, phường B, thành phố
Phan Rang – Tháp Chàm. Vào tối ngày 12/08/2016, giữa Trần T và anh Trần H xảy ra
mâu thuẫn dẫn đến đánh nhau. Trong lúc hai bên xảy ra xô xát thì anh H đã dùng vỏ
chai bia đánh vào đầu bị cáo làm bị cáo bị thương tích vùng đầu. Do bức xúc trước
hành động của anh H nên anh Trần M và anh Trần Ngọc T (là em trai của anh H và bị
cáo) đã đánh anh H bị thương tích ở mặt. Sau khi sự việc xảy ra Công an phường Đ đã
mời những người liên quan về làm việc và không ai có yêu cầu gì.
Khoảng 5 giờ 30 phút ngày 13/08/2016, Trần H và Trần T lại mâu thuẫn với
nhau. Sau khi lời qua tiếng lại giữa hai bên, bị cáo đã nhặt 01 khúc cây (3x5)cm dài
khoảng 2,2m đi lại phía anh H, lúc này anh H cũng nhặt 01 lưỡi hái gần đó tiến về phía
bị cáo. Sau khi hai bên giằng co với nhau, Trần T đã cầm cây gỗ đánh từ trên xuống
50
trúng vào cổ tay trái của anh H. Hậu quả làm anh H bị gãy tay trái phải đi cấp cứu tại
bệnh viện tỉnh Ninh Thuận. Hậu quả, anh H bị tổn hại sức khỏe với tỷ lệ 16 %.
(Bản án số 37/2017/HSST ngày 22/5/2017 của TAND thành phố Phan Rang -
Tháp Chàm)
Hai là, từ phía môi trường sống: Nguyên nhân từ phía nạn nhân kết hợp với tình
huống từ môi trường (thời gian và địa điểm) sẽ thúc đẩy nhanh quá trình thực hiện
hành vi phạm tội. Trong các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn thành phố thường
xảy ra tại những địa điểm như quán karaoke, bar, quán nhậu ... đây là những nơi đông
người tụ tập rượu chè mất kiểm soát bản thân và dễ xẩy ra xô xát. Những hoạt động
này thường xảy ra ở khung giờ sau 18h ngày hôm trước đến trước 6h sáng ngày hôm
sau, là khoảng thời gian tan giờ làm, có thời gian để tụ tập bàn bè. Ngoài ra, từ phía
môi trường còn thể hiện sự thờ ơ, vô cảm của những người xung quanh bởi e ngại sự
trả thù hoặc họ không dám can ngăn vì tâm lý “không phải đầu thì phải tai” nên không
ít vụ án cố ý gây thương tích gây hậu quả thương tâm.
Ba là, từ phía các cơ quan chức năng: đầu tiên là lực lượng công an các phường
trên địa bàn thành phố còn chậm trễ trong việc tiếp cận hiện trường các vụ cố ý gây
thương tích sau khi nhận được tin báo, còn ỷ lại cho lực lượng hình sự công an thành
phố do đó không thể ngăn chặn kịp thời hành vi cố ý gây thương tích. Thứ hai, chưa có
sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng công an trong thành phố dẫn đến việc nắm
bắt thông tin và xử lý tình huống còn chậm, chưa ngăn chặn được các hành vi phạm tội.
2.2.2.2. Những nguyên nhân và điều kiện chủ quan
Quá trình tương tác nhập tâm xảy ra từ khi con người sinh ra và nhận thức được
thế giới xung quanh cho đến khi hình thành động cơ phạm tội, nhưng đây mới chỉ là
những suy nghĩ diễn ra trong đầu óc con người, chưa có biểu hiện ra bên ngoài, thông
qua quá trình xuất tâm gồm khâu kế hoạch hóa và thực hiện hành hiện hóa hành vi
phạm tội. Như đã phân tích ở trên thì khâu kế hoạch hóa, các bị cáo phạm tội cố ý gây
thương tích có sự chuẩn bị và tính toán từ trước thông qua việc chuẩn bị công cụ,
51
phương tiện, cách thức để chuẩn bị phạm tội, đã có sự bộc lộ ra bên ngoài nhưng chưa
đầy đủ cho đến khi đối tượng thực hiện hóa hành vi phạm tội. Như vậy, nguyên nhân
và điều kiện chủ quan trong quá trình tương tác xuất tâm là ý thức chủ quan của chủ
thể mong muốn thực hiện tội phạm đến cùng.
Điển hình bản án: bị cáo Dương Văn P sinh năm 1998; trú tại: Khu phố 3,
phường V, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Nội dung vụ án: Khoảng 17 giờ, ngày
17/01/2018, em Phan Xuân H, sinh ngày 03/05/2002 (là học sinh trường THPT T),
điều khiển xe gắn máy trên đường 21/8, từ trường về nhà. Khi đến trước UBND
phường P, H nhìn thấy có 02 xe mô tô do Dương Văn P và Phan Văn N điều khiển
chạy song song phía trước cùng chiều nên H điều khiển xe chen vào giữa để vượt lên
phía trước. Vừa lúc này, có 01 chiếc xe buýt từ phía sau bóp còi chạy tới, P và N cho
xe áp sát vào lề đường bên phải theo hướng đi thì bị va quẹt vào xe em H làm P và N
cùng xe mô tô ngã xuống đường, xe H không ngã nên H tiếp tục đi. Tức giận vì bị H
làm ngã, P liền điều khiển xe rượt đuổi theo H và chăn xe H lại trước trụ sơ công an
113, P xuống xe lấy mũ bảo hiểm đang đội trên đầu ra đập liên tiếp vào đầu em H
khoảng 07 cái gây tổn hại sức khỏe cho em H với tỷ lệ là 25%, rồi lên xe chạy đi.
(Bản án số 65/2018/HSST ngày 29/8/2018 của TAND thành phố Phan Rang -
Tháp Chàm)
Bản án trên đã cho thấy vì bực tức và muốn phạm tội đến cùng nên P mới rượt
đuổi H bằng được và có hành vi cố ý gây thương tích.
2.3. Thực trạng làm sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện cụ thể của tình hình tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
thành phố Phan Rang – Tháp Chàm thông qua chủ thể phòng, chống tội phạm
Là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của tỉnh Ninh Thuận, trong những năm
qua, bên cạnh sự phát triển vượt bậc về mọi mặt, thì việc triển khai thực hiện đầy đủ và
nghiêm túc các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
phòng chống tội phạm; Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, TNXH và xây dựng
52
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đạt được hiệu quả nhất định. Bên cạnh đó,
thành phố luôn phải đối mặt với nhiều thách thức lớn trong công tác bảo đảm an ninh,
trật tự với sự phát sinh của nhiều loại tội phạm mới, trong đó có tội phạm cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Thời gian qua, trên địa bàn
thành phố liên tiếp xảy ra nhiều vụ án cố ý gây thương tích, để lại hậu quả nặng nề cho
những người liên quan, gây bức xúc trong nhân dân, ảnh hướng xấu đến ANTT ở địa
phương mà nguyên nhân phải kể đến những hạn chế của các chủ thể phòng, chống tội
phạm của thành phố như cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án.
- Cơ quan Công an: Trong những năm qua, lực lượng Cảnh sát hình sự, Công an
thành phố Phan Rang - Tháp Chàm là lực lượng đóng vai trò chủ công, nòng cốt trong
hoạt động phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác này vẫn còn bộc lộ một số
hạn chế, thiếu sót nhất định, như: Công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ an
ninh, trật tự chưa thường xuyên, liên tục; nội dung, hình thức chưa được chú trọng, đổi
mới nên chưa thực sự phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và
tinh thần tự giác của quần chúng nhân dân trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự...
Công tác tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
vẫn trên địa bàn thành phố vẫn còn một số hạn chế. Cụ thể, trong công tác tiếp nhận,
phân loại, xử lý, một số công an cơ sở có vụ việc chưa chính xác dẫn đến có tin có dấu
hiệu tội phạm nhưng công an các xã, phường chuyển chậm đến cơ quan điều tra, gây khó
khăn cho việc điều tra, xác minh tội phạm; trong công tác phối hợp, một số đơn vị chưa
chủ động phối kết hợp; đội ngũ làm công tác tiếp nhận thông tin còn kiêm nhiệm…
Công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ trong hoạt
động tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm chưa kịp thời, đầy đủ,
thường xuyên và liên tục. Bên cạnh đó, lực lượng Công an thành phố còn mỏng, trình
độ, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn của cán bộ, chiến sĩ còn hạn chế, cán bộ trẻ
chiếm tỷ lệ cao, ý thức, tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ, chiến sĩ trong công
53
tác đấu tranh, phòng ngừa với các loại tội phạm chưa được nâng lên ngang tầm với tình
hình mới; trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật chưa được trang cấp đầy đủ, dẫn đến khó
khăn trong việc triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm
và đặc biệt là tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong địa bàn thành phố.
Công tác hòa giải cấp cơ sở chưa thật sự được chú trọng, quan tâm đúng mức, mâu
thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân chưa được phát hiện kịp thời, giải quyết một cách
triệt để, dứt điểm, mâu thuẫn kéo dài dẫn đến các hành vi cố ý gây thương tích.
- Cơ quan Viện kiểm sát: Theo Điều 2 Luật tổ chức VKSND dân năm 2014 thì
VKSND dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong những năm qua, bên cạnh những kết quả
đã đạt được của viện kiểm sát thành phố như: Công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp ngày càng được nâng cao; trách nhiệm của VKS trong các
giai đoạn tố tụng được tăng cường; công tác tổ chức cán bộ luôn được quan tâm; công
tác tham mưu, tổng hợp thực hiện tốt; công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường.
Bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế như:
Ý thức trách nhiệm của một số cán bộ, Kiểm sát viên được phân công thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra chưa cao, còn có biểu hiện thoái thác, trốn tránh
trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ.
Khả năng nghiên cứu hồ sơ, kỹ năng phát hiện vấn đề của một số Kiểm sát viên
còn hạn chế, tính chủ động chưa cao, một số trường hợp còn trông chờ vào kết quả
điều tra, chưa thực sự bám sát quá trình điều tra.
Yêu cầu điều tra có lúc còn sơ sài, chung chung, không đầy đủ, rõ ràng dẫn đến
kết quả điều tra chưa đáp ứng được yêu cầu để truy tố, xét xử.
Thiếu chủ động, chưa phát huy có hiệu quả mối quan hệ phối hợp với Điều tra
viên, Thẩm phán trong việc nghiên cứu hồ sơ, thu thập và đánh giá chứng cứ... để bổ
sung trước khi kết thúc điều tra, truy tố, xét xử.
54
Lãnh đạo một số đơn vị có lúc còn thiếu sự kiểm tra nghiệp vụ nên chưa kịp thời
chỉ đạo dẫn đến thiếu sót phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, đặc biệt là những vụ án khó
cần phát huy trí tuệ tập thể, những vụ án vướng mắc trong đánh giá chứng cứ, xác định
giữa có tội và không có tội.
- Cơ quan Tòa án: Cơ quan Tòa án thành phố đã có nhiều đổi mới, tích cực thực
hiện giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng xét xử và thu được kết quả tích cực, chất
lượng xét xử cao hơn. Việc xét xử các vụ án hình sự đảm bảo đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật. Mặc dù có những chuyển biến tích cực trên tất cả mặt công tác song
vẫn còn tồn tại những hạn chế, thiếu sót của cơ quan Tòa án thành phố như sau:
Một số Thẩm phán của Tòa án thành phố chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm
trong quá trình thụ lý giải quyết án. Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn chưa đáp
ứng được yêu cầu của nhiệm vụ và khối lượng công việc cũng như sự đa dạng, tính
chất phức tạp của các vụ án hình sự. Bên cạnh đó, nhiều Thẩm phán bị áp lực và còn
nặng về tâm lý lo ngại án bị hủy, sửa nên thiếu sự chủ động, chậm đổi mới trong việc
tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng xét xử.
Năng lực, trình độ của Thẩm phán chưa đồng đều; chưa nêu cao tình thần học tập,
rèn luyện kỹ năng chuyên môn, ít nghiên cứu văn bản pháp luật, không nắm bắt kịp
thời hướng dẫn của cấp trên cũng như sự thay đổi trong chính sách pháp luật nên năng
lực và trình độ chuyên môn còn hạn chế. Do vậy, một số Thẩm phán khi gặp các vụ án
phức tạp còn rất nhiều lúng túng, dẫn đến có nhiều sai sót, vi phạm về thủ tục tố tụng
hoặc sai lầm trong áp dụng pháp luật.
Trong giải quyết án, một số Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ không kỹ, khi thu thập,
đánh giá chứng cứ còn chủ quan, chưa đầy đủ, không toàn diện, bỏ sót người tham gia
tố tụng hoặc giải quyết không đúng, không đầy đủ, dẫn đến bị hủy án hoặc sửa án.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, tác giả đã trình bày thực trạng nhận thức nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây cho sức khỏe của người khác: khái
55
quát, mức độ, diễn biến, cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác tại thành phố Phan Rang – Tháp Chàm. Đồng thời làm
sáng tỏ các yếu tố tác động đến sự hình thành nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác tại địa bàn thành phố
Phan Rang – Tháp Chàm. Qua nghiên cứu những nội dung trên cho thấy:
Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm diễn biến khá phức tạp, tăng giảm thất
thường, tuy nhiên, nhìn chung có xu hướng gia tăng cả về số vụ, tính chất và hành vi
phạm tội.
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình trên xuất phát từ yếu tố tiêu cực từ gia đình
nhà trường, xã hội. Bên cạnh đó, các yếu tố tiêu cực trong sự phát triển kinh tế – xã hội
khiến một bộ phận không nhỏ người dân gặp khó khăn, thất nghiệp. Đồng thời, công tác
tuyên truyền pháp luật chưa đạt hiệu quả, công tác quản lý các lĩnh vực có liên quan đến
ANTT còn lỏng lẻo, tạo điều kiện cho loại tội phạm này phát sinh, những hạn chế trong
công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác như trình độ chuyên môn, sự phối hợp giữa các cơ quan tố
tụng vẫn còn một số hạn chế. Ngoài ra, nhiều vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác còn có nguyên nhân từ phía nạn nhân.
Những nội dung đã được nghiên cứu, phân tích và trình bày trong chương này sẽ
là cơ sở để tác giả đưa ra dự báo THTP cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
cho người khác và tìm ra các biện pháp phòng ngừa hiệu quả cho THTP này trong
trong thời gian tới.
56
Chương 3: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI
KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM
VÀ CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
3.1. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang –
Tháp Chàm và vấn đề dự báo tình hình tội phạm này
3.1.1. Cơ sở dự báo
Dự báo tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm là hoạt động dựa trên cơ
sở lý luận và thực tiễn qua phân tích, đánh giá thực trạng tình hình tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khoảng thời gian nghiên cứu
2014-2018 để đưa ra những nhận định mang tính phán đoán khoa học về khả năng tồn
tại, diễn biến của THTP (xu hướng, mức độ, cơ cấu, phương thức, thủ đoạn...) trong
tương lai. Nó chính là cơ sở hình thành nhiệm vụ, phương hướng phòng ngừa tình hình
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, là cơ sở của
việc xây dựng các chương trình và kế hoạch phòng ngừa tội phạm trong phạm vi thành
phố Phan Rang – Tháp Chàm.
Để dự báo tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong thời gian tới trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm có thể
dựa trên cơ sở dự báo:
Thứ nhất: Dựa vào số liệu thống kê về tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác như: thực trạng của tình hình tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thể hiện thông số phản ánh tổng số
tội phạm, tổng số người phạm tội; cơ cấu tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác thể hiện qua thành phần, tỉ trọng và sự tương quan
giữa các loại tội phạm; động thái tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
57
cho sức khỏe của người khác thể hiện bằng tỉ lệ tăng hay giảm trực trạng cơ cấu THTP
so với khoảng thời gian được chọn làm mốc xảy ra trên địa bàn thành phố Phan Rang –
Tháp Chàm trong khoảng thời gian nghiên cứu từ 2014-2018 để xác định quy luật,
khuynh hướng phát triển của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, hạn chế được sai sót trong dự báo.
Thứ hai: Các điều kiện kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp
Chàm. Sự phát triển về kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố là cơ sở cho dự báo tình
hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra
trong thời gian tới.
Về xã hội: tập trung nghiên cứu các tài liệu về các hiện tượng tiêu cực tác động
đến tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
như các tệ nạn đòi nợ, đâm thuê, chém mướn, mâu thuẫn từ những va chạm nhỏ trong
cuộc sống… tất cả các số liệu này đều có liên quan trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
thành phố.
Về mặt kinh tế: Tập trung nghiên cứu, đánh giá tình hình phát triển kinh tế của
thành phố để thấy được những điểm mấu chốt thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến
tình hình phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn thành phố.
Thứ ba: Những tư liệu về kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng của hệ
thống tư pháp hình sự trên địa bàn thành phố.
3.1.2. Nội dung dự báo
Dựa trên kết quả phân tích đánh giá thực trạng tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang –
Tháp Chàm giai đoạn 2014-2018 tại chương 2; các chủ trương của Đảng, UBND và
các cơ quan chức năng liên quan về đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung và tội cố
58
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng trên địa bàn
thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, có thể dự báo tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thời gian tới như sau:
Mức độ về tình hình tội phạm: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác vẫn diễn biến phức tạp về tính chất và mức độ nghiêm
trọng, tuy nhiên có xu hướng giảm nhẹ cả về số vụ án và số bị cáo bởi lẽ có sự hoàn
thiện pháp luật trong thời gian tới vì đã manh nha xử phạt hành chính mạnh đối với các
hành vi uống rượu bia tham gia giao thông kéo theo mọi người hạn chế rượu bia thì
cũng hạn chế được tình trạng say xỉn rỗi phát sinh mâu thuẫn gây xô xát. Tuy nhiên
tình hình tội cố ý gây thương tích vẫn chiếm tỉ lệ cao so với tổng số các tội phạm còn
lại xảy ra trên địa bàn. Thời gian tới tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác có sự đan xen, câu kết với các loại tội phạm khác như
“tín dụng đen”, quản lý vũ khí vật liệu nổ...
Chủ thể thực hiện tội phạm: Đối tượng gây án đa số vẫn là nam giới có độ tuổi từ
18-30, vẫn đa dạng về thành phần, như các đối tượng có tiền án, tiền sự, lưu manh, côn
đồ, có nhân thân xấu, lười lao động, trình độ văn hoá thấp, nghiện ma túy, cờ bạc rượu
chè... các đối tượng vẫn chủ yếu đến từ các địa bàn huyện lân cận hoặc người tạm trú.
Phương thức, thủ đoạn: Phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi cố ý gây thương
tích đa số vẫn là hai bước: Bước chuẩn bị và bước thực hiện hành vi hoặc thực hiện
hành vi và che giấu hành vi phạm tội.
Công cụ gây án: Vẫn chủ yếu là dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích như:
dao, mã tấu, kiếm, chai lọ thủy tinh... và có thể phát sinh những hung khí mới.
Về địa bàn gây án: chủ yếu vẫn là trên địa bàn thuộc hai phường Đông Hải và Mỹ
Đông bởi đây là 2 phường đã có lịch sử nhiều năm liền là nơi tập trung đông các đối
tượng gây án và cộm cán của thành phố.
Những nội dung dự báo này chỉ mang tính chất cơ bản và khái quát nhất có mục
đích tham khảo, nghiên cứu, còn trên thực tế về diễn biến cụ thể còn phụ thuộc rất
59
nhiều yếu tố khác như: tình hình kinh tế, xã hội trên địa bàn thành phố. Hiệu quả của
các cơ quan chức năng trong việc phòng, chống tội phạm, quản lý xã hội và ý thức của
người dân.
3.2. Tăng cường nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn
thành phố Phan Rang – Tháp Chàm trong phòng ngừa tình hình tội phạm này
3.2.1. Đối với các cơ quan chuyên trách
Hiện nay, công tác phòng, chống TNXH đang được toàn xã hội quan tâm và chú
trọng thực hiện. Để đạt được hiệu quả phòng ngừa THTP cần nâng cao trách nhiệm của
các cơ quan đoàn thể, cụ thể:
Các cơ quan chức năng thành phố Phan Rang – Tháp Chàm cần chủ động triển
khai thực hiện hiệu quả các chương trình, đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa
phương, tăng cường phối hợp với phòng Giáo dục đào tạo, phòng Tư pháp, cơ quan
Công an và các tổ chức đoàn thể xã hội thường xuyên tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về
pháp luật, các buổi tọa đàm trao đổi kinh nghiệm về phòng chống tội phạm cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đặc biệt là lực lượng Cảnh
sát hình sự Công an thành phố phát huy hiệu quả tuyên truyền của hệ thống truyền thông
cơ sở, hệ thống loa phóng thanh của UBND xã, phường, phối hợp đài truyền thanh thành
phố, trung tâm văn hóa thông tin xây dựng các phóng sự, phim tài liệu nhằm thông tin
tuyên truyền đến người dân; trực tiếp phát tờ rơi, tờ bướm với nội dung tuyên truyền
phòng chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích nói riêng; tăng cường lắp
đặt các biển cảnh báo tội phạm, băng rôn ,khẩu hiệu, biểu ngữ ở những nơi công cộng;
nâng cao chất lượng của các chương trình tư vấn pháp luật, duy trì hiệu quả hoạt động
các đội tuyên truyền viên, tổ, đội, nhóm phòng chống tội phạm trên địa bàn.
Các đơn vị có liên quan cần thường xuyên rà soát, tham mưu đề xuất bổ sung, sửa
đổi các quy định của pháp luật có bất cập, sơ hở liên quan đến công tác phòng, chống
60
tội phạm, đặc biệt là những lĩnh vực chuyên ngành để hỗ trợ lực lượng chức năng nâng
cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm.
Cần khai thác sử dụng mạng xã hội facebook, zalo, viber ... vào công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang -
Tháp Chàm, phối hợp với các nhà mạng Viettel, Vinaphone, Mobifone, beeline gửi tin
nhắn đến các thuê bao để cảnh báo, tuyên truyền, cũng như chính sách mới của Nhà
nước và Thành phố trong phòng chống tội phạm để người dân nắm bắt kịp thời.
3.2.2. Đối với các cơ quan, tổ chức không chuyên trách và Công dân
Các ban ngành, đoàn thể tại các phường, xã của thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm cần tích cực nâng cao trách nhiệm trong phòng, chống tội phạm. Cụ thể:
Ủy ban MTTQ thành phố nên tổ chức quán triệt nội dung đề án “Vận động toàn
dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm; Cảm hóa, giáo dục, cải tạo người
phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”. Tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và trách nhiệm của mỗi công dân, vận động,
tổ chức phát động quần chúng, chủ động phối hợp các cơ quan, ban, ngành và đoàn thể
chính trị, tổ chức xã hội đặc biệt là Ban Tôn giáo Dân tộc thông qua các vị chức sắc
trong các tôn giáo, các già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng; tổ chức
lồng ghép tuyên truyền phòng, chống tội phạm; TNXH trong rao giảng giáo lý để nâng
cao nhận thức cho đồng bào trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm
hình sự. Tổ chức tuyên truyền, thông tin về THTP, các âm mưu thủ đoạn hoạt động của
tội phạm, các gương điển hình, các mô hình hoạt động hiệu quả trong công tác phòng,
chống tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh phường,
cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố.
Phối hợp với các tổ chức thành viên và các ngành liên quan; thông qua các hội nghị,
hội thảo, các buổi họp tổ dân phố, khu dân cư...
61
Hội Phụ nữ cần làm tốt công tác quản lý, giáo dục định hướng cho con em, xây
dựng gia đình vững chắc trước sự tấn công của các loại TNXH, đẩy mạnh thực hiện
hiệu quả phong trào “Quản lý, giáo dục con em trong gia đình không phạm tội và tệ nạn
xã hội”, thường xuyên tổ chức các hội thảo “Chung tay xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ
và trẻ em gái”, tổ chức các hội thi “Tìm hiểu kiến thức pháp luật, bình đẳng giới, phòng
chống bạo lực gia đình”; giao lưu văn nghệ phụ nữ tự tin, tự trọng, trung hậu đảm đang.
Đoàn Thanh niên cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, duy trì và thành lập mới
các Câu lạc bộ như: Bạn giúp bạn, Tủ sách pháp luật, Tuổi trẻ phòng, chống tội phạm
và TNXH... Duy trì hoạt động “Thanh niên tình nguyện thắp sáng niềm tin” tại các xã,
phường, thị trấn trên địa bàn thành phố. Tiếp tục đổi mới các hoạt động chính, định
hướng tư tưởng, cung cấp kiến thức pháp luật, nơi trao đổi, học hỏi lẫn nhau, các CLB
đã phát huy tính tích cực, tiên phong của tuổi trẻ trong phong trào đấu tranh phòng,
chống tội phạm và TNXH trong đoàn viên thanh niên.
Quần chúng nhân dân cần nâng cao trách nhiệm củ mình của trong việc giúp đỡ
lực lượng công an triển khai, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm tình hình ANTT, đồng
thời là lực lượng trực tiếp tham gia đấu tranh, tố giác tội phạm và TNXH, góp phần giữ
vững an ninh chính trị và THTP tại cơ sở.
3.3. Giải quyết nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và phòng ngừa tình tội phạm này
3.3.1. Những giải pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình
tương tác nhập tâm
3.3.1.1. Những giải pháp về mặt chính trị
UBND thành phố Phan Rang - Tháp Chàm cần cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải
pháp phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố dựa trên cơ sở Quyết định số
199/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/02/2017 về phê duyệt Chương trình
thực hiện Kết luận số 05-KL/TW ngày 15/7/2016 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh
62
đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và Chiến
lược quốc gia phòng, chống tội phạm đến năm 2020. Đồng thời cần quán triệt Chỉ thị
số 32/CT-TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức và hành động của các tổ chức cơ sở
Đảng và đảng viên về công tác giáo dục pháp luật.
Thống nhất quan điểm chỉ đạo, phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm
vụ trọng yếu thường xuyên, lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đặt dưới sự
lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất
của Nhà nước. Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng; tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền, phát huy vai trò nòng cốt
của lực lượng Công an, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, đoàn thể và
các tầng lớp nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn
xã hội trong việc phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các loại tội phạm, TNXH nhằm
góp phần đảm bảo an ninh, trật tự, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội trên địa bàn thành phố. Đồng thời, quán triệt sâu sắc và nâng cao nhận thức trong
nhân dân về nhiệm vụ phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
3.3.1.2. Những giải pháp về mặt kinh tế
Một là: Các cấp chính quyền phát huy thế mạnh của tỉnh Ninh Thuận nói chung
của Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nói riêng để đẩy mạnh kinh tế mũi nhọn là lợi
thế; sửa đổi, bổ sung các chính sách pháp luật tạo hành lang pháp lý khuyến khích, kêu
gọi các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào thành phố; khai thác, vận dụng
tối đa các chính sách ưu đãi của Chính Phủ cho tỉnh Ninh Thuận nói chung và Thành
phố Phan Rang – Tháp Chàm nói riêng.
Hai là: Phát triển kinh tế gắn với giải quyết công ăn việc làm cho người dân đặc
biệt là người dân trong độ tuổi lao động nhưng thất nghiệp, hộ gia đình nghèo khó,
người đã chấp hành án xong…
63
Các Sở, ban, ngành cần chủ động, tích cực nghiên cứu, rà soát, tham mưu cho
Thành ủy và UBND Thành phố sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung các
chính sách giảm nghèo phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Tiếp tục thực
hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo bền vững đã và đang triển khai
thành công, thu hẹp dần sự phân hóa giàu nghèo trên địa bàn thành phố thì nhu cầu về
tiền bạc và tài sản sẽ không còn ưu tiên hàng đầu, điều này sẽ góp phần triệt tiêu một
phần ý định gây thương tích nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc nhu cầu tín
dụng đen sẽ giảm dần kéo theo giảm dần tình trạng gây thương tích do đòi nợ thuê.
Chính quyền thành phố cần tạo cơ chế, chính sách phát triển mạnh kinh tế hộ gia đình;
phát huy các chính sách ưu đãi cho vay vốn; xây dựng cơ chế của riêng của thành phố
cho phù hợp với ngành nghề và trình độ lao động tại chỗ.
Ba là: Đẩy mạnh công tác đào tạo dạy nghề, hướng nghiệp, tạo công ăn việc làm
cho người dân đặc biệt là những người thất nghiệp, lang thang, người đã thi hành án
xong, đảm bảo cung cấp nguồn lao động ổn định về số lượng và chất lượng, tạo cân bằng
về cung và cầu trong thị trường lao động trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp
Chàm; tập trung đào tạo mới, đào tạo lại, dạy nghề cho người lao động theo nhu cầu của
cơ sở sử dụng lao động. Khuyến khích mở rộng liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp
sử dụng lao động với các cơ sở đào tạo. Tạo khung pháp lý ưu tiên phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn để giải quyết việc làm tại chỗ cho người dân. Tăng cường
thêm các cơ sở hoặc khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo về năng lượng tái tạo, du
lịch nghỉ dưỡng, nông nghiệp công nghệ cao... để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
3.3.1.3. Những giải pháp về mặt xã hội
Một là, tăng cường xây dựng các thiết chế văn hóa xã hội, tổ chức các phong trào
văn hóa, văn nghệ, thể thao, vui chơi, giải trí nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho
người dân. Đầu tư xây dựng các công trình công cộng hoặc kêu gọi đầu tư bằng hình
thức BT, các công viên, khu vui chơi giải trí, các trung tâm văn hóa tại các xã/ phường
trong thành phố.
64
Hai là, Tăng cường thực hiện chính sách an sinh, phúc lợi xã hội như: phát triển
thêm các quỹ chính sách thất nghiệp trợ giúp người dân ổn định cuộc sống khi chưa
tìm được việc làm; mở rộng các cơ sở xã hội nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em cơ nhỡ, mồ
côi, người già không nơi nương tựa …
3.3.1.4 Giải pháp khắc phục các hạn chế trong môi trường gia đình
Nuôi dưỡng, giáo dục và chăm sóc, tạo điều kiện cho con em được học tập, rèn
luyện, tham gia các hoạt động của trường; không để con em bỏ học; không phó mặc
con em mình cho nhà trường. Quản lý, giám sát lịch trình học tập, vui chơi, giải trí,
sinh hoạt của con em mình ngoài nhà trường; nắm vững diễn biến tư tưởng, đạo đức,
học lực của con em, chủ động thông báo cho nhà trường và giáo viên chủ nhiệm những
vấn đề không bình thường của con em minh để thống nhất biện pháp phối hợp giáo
dục; chủ động nắm bắt tình hình học tập, rèn luyện của con em mình. Tham gia đầy đủ
các cuộc họp và các hoạt động giáo dục học sinh khi có yêu cầu của nhà trường; hỗ trợ
về tài lực, vật lực cho sự nghiệp phát triển giáo dục theo khả năng của mình.
Quan tâm nâng cao văn hóa gia đình; cha mẹ phải là tấm gương cho con cái noi
theo; người lớn phải là tấm gương trong giao tiếp, ứng xử; loại bỏ bạo lực gia đình.
Cha mẹ phải thường xuyên chú ý quan tâm chia sẻ với con cái, làm bạn với con để
nghe các em tâm sự, thổ lộ những vướng mắc, khó khăn trong cuộc sống để khuyên
giải, kịp thời giúp các em có những hướng giải quyết rắc rối, vướng mắc một cách
đúng đắn và hợp lý. Khi con em mình có những suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực thì cha mẹ
phải có biện pháp nhẹ nhàng khuyên bảo, chấn chỉnh ngay.
3.3.1.5 Giải pháp khắc phục các hạn chế trong môi trường giáo dục
Một là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nội dung trong quy chế phối hợp với
các cơ quan chức năng; đẩy mạnh công tác phối hợp tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh.
Hai là, tăng cường công tác phối hợp giữa nhà trường và các lực lượng, đoàn thể
địa phương đảm bảo ANTT trong và ngoài trường học, quản lý tốt học sinh và các đối
65
tượng bên ngoài nhà trường; củng cố lực lượng làm công tác đảm bảo ANTT trong nhà
trường để kịp thời nắm bắt tình hình, phát hiện, đấu tranh với các loại tội phạm, TNXH
xâm nhập vào trường học.
Ba là, xây dựng tốt mối quan hệ giữa nhà trường - gia đình - xã hội. Nhà trường
phối hợp chặt chẽ với các lực lượng của địa phương và gia đình học sinh trong việc
quản lý, giáo dục các em. Phát huy vai trò, trách nhiệm của gia đình trong việc bảo vệ,
chăm sóc giáo dục học sinh; vai trò của Ban đại diện cha mẹ học sinh trong công tác
phối hợp với nhà trường, đoàn thể, chính quyền để quản lý, giáo dục, rèn luyện giúp
các em học tập tốt, phòng ngừa tội phạm và TNXH.
Bốn là, Nâng cao chất lượng công tác quản trị nhà trường, chất lượng dạy và học;
phát huy vai trò, trách nhiệm người đứng đầu trong công tác quản lý, giáo dục học
sinh, xây dựng khối đoàn kết, chung tay xây dựng "Trường học an toàn về ANTT".
Năm là, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học
sinh bằng nhiều hình thức, nội dung phù hợp với nhận thức, lứa tuổi. Tiếp tục lồng
ghép các nội dung này vào chương trình học một cách hiệu quả. Tổ chức các hoạt động
vui chơi, thể thao, các câu lạc bộ, các hoạt động trãi nghiệm, ngoại khóa hấp dẫn, thu
hút học sinh tham gia. Quan tâm giáo dục, hướng dẫn học sinh sử dụng internet, mạng
xã hội hiệu quả, lành mạnh và đúng quy định pháp luật.
Sáu là, tăng cường xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học nhằm giúp học
sinh hoàn thiện và phát triển nhân cách, có lối sống văn hóa lành mạnh; xây dựng văn
hóa trường học, môi trường giáo dục lành mạnh, thân thiện, phòng chống tốt bạo lực
học đường, giảm thiểu các hành vi vi phạm pháp luật trong học sinh.
3.3.1.6. Những giải pháp về mặt văn hóa, tư tưởng, đạo đức
Xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi
người", có ý thức tự trọng, tự chủ, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, sống
và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, phù hợp thuần phong mỹ tục, truyền thống
của người Việt Nam. Nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết
66
xây dựng đời sống văn hóa", các phong trào thi đua yêu nước; tạo điều kiện thuận lợi
để thanh thiếu nhi tham gia các hoạt động thực tiễn, qua đó rèn luyện, cống hiến,
trưởng thành.
Tăng cường quản lý văn hóa, thông tin, kịp thời ngăn chặn các sản phẩm văn hóa
độc hại, thông tin sai trái tác động đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của thế hệ trẻ,
nhất là qua các trang mạng xã hội, trang web phản động, đồi trụy. Tạo cơ chế khuyến
khích, tạo điều kiện để các cơ quan văn hóa, văn học nghệ thuật, xuất bản, báo chí sáng
tác và phổ biến tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần định hướng,
giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ. Khai thác, phát
huy hiệu quả các thiết chế và sản phẩm văn hóa hiện có; đầu tư xây dựng các thiết chế
văn hóa mới; phát triển các loại hình giải trí lành mạnh cho thanh thiếu nhi. Xây dựng
môi trường văn hóa công sở; khu dân cư tiên tiến; làng, xã, gia đình văn hóa.
3.3.1.7. Những giải pháp của cơ quan tư pháp
- Đối với cơ quan công an
Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với
các loại tội phạm nói chung tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho
người khác nói riêng trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, cần tập trung
thực hiện một số giải pháp cụ thể như sau:
Một là, tham mưu, đề xuất cho cấp ủy Đảng, Chính quyền địa phương ban hành
chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm khắc phục những sơ hở, thiếu sót là nguyên
nhân, điều kiện hoạt động của các loại tội phạm.
Hai là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động
quần chúng nhân dân tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ, phát hiện
và tố giác tội phạm. Không ít vụ án cố ý gây thương tích điều tra gặp vướng mắc do
người bị hại không hợp tác điều tra, từ chối giám định thương tích, bãi nại vì có quan
hệ thân thích với hung thủ, hai bên đã tự thỏa thuận bồi thường hoặc do người bị hại,
người thân của họ bị đe dọa, mua chuộc... nên không có căn cứ để khởi tố vụ án hoặc
67
phải đình chỉ điều tra. Do đó, lực lượng công an cần có mặt ngay tại hiện trường, bắt
giữ đối tượng gây án (đặc biệt là côn đồ hung hãn, đâm thuê, chém mướn), đưa ngay
người bị hại đi giám định để đối tượng không còn cơ hội thỏa thuận, khống chế bị hại
và người thân của bị hại. Cơ quan điều tra cần thuyết phục, động viên người bị hại
nhận ra được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thực hiện các quy định pháp luật,
trách nhiệm với cộng đồng trong phòng, chống tội phạm, để hợp tác điều tra đồng thời
có cơ chế bảo vệ họ khi bị đe dọa, trả thù.
Ba là, tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả các mặt công tác nghiệp vụ, làm
tốt công tác thu thập thông tin, tài liệu, nắm tình hình ở địa bàn thành phố; triển khai
thực hiện có hiệu quả các phương án, kế hoạch công tác công an trong đảm bảo ANTT.
Tiếp tục mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, giải quyết tốt những vấn đề
bức xúc nổi lên. Nhanh chóng điều tra làm rõ, để đưa ra xét xử những vụ có nhiều đối
tượng tham gia, sử dụng hung khí nguy hiểm, gây thương tích nặng cho người bị hại;
xây dựng phương án triệt phá những nhóm đối tượng hoạt động côn đồ, hung hãn, có
biểu hiện hoạt động bảo kê, đòi nợ thuê, sử dụng hung khí cướp tài sản; vận động truy
bắt đối tượng có lệnh truy nã; tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát các địa bàn trọng
điểm, ngăn chặn kịp thời các nhóm thanh-thiếu niên tụ tập, dùng hung khí đánh nhau;
vận động nhân dân giao nộp vật liệu nổ, vũ khí tự tạo và thực hiện nếp sống văn hóa ở
khu dân cư…
Bốn là, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng nghiệp vụ Công an thành phố, ban
Công an các xã/ phường và các lực lượng làm công tác bảo đảm ANTT ở địa bàn cơ
sở, chủ động phát hiện các đối tượng có biểu hiện câu kết, móc nối hình thành đường
dây, ổ nhóm hoạt động phạm tội ở địa bàn để kịp thời có đối sách và biện pháp phòng
ngừa, đấu tranh; tăng cường trao đổi thông tin giữa các Ban ngành, đoàn thể và các cơ
quan chức năng trong đấu tranh với các loại tội phạm ở địa bàn; nâng cao chất lượng
và hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng Công an thành phố với Viện kiểm sát
và Tòa án trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. Đặc biệt là trong việc phối hợp trong
68
việc đưa ra và xét xử công khai những vụ án điển hình nhằm giáo dục, răn đe quần
chúng nhân dân nâng cao ý thức, trách nhiệm của mình trong công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm.
Năm là, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nhận thức cho
cán bộ, chiến sĩ; tăng cường trang thiết bị, phương tiện nghiệp vụ… phục vụ công tác
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm trên
địa bàn. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về ANQP cho
cán bộ và nhân dân nhằm phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả, hạn chế sự gia tăng của
tội phạm và vi phạm pháp luật ở địa bàn. Điều chỉnh, bố trí lực lượng Công an hướng
về cơ sở và tăng cường cho các lực lượng trực tiếp chiến đấu, nhất là thực hiện chủ
trương chính quy Công an xã.
Sáu là, làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở nhằm giải quyết dứt điểm, kịp thời các
mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong nhân dân, không để xảy ra trường hợp mâu thuẫn,
tranh chấp kéo dài dẫn đến phát sinh tội phạm cố ý gây thương tích. Kịp thời phát hiện
mâu thuẫn, tranh chấp trong quần chúng nhân dân để tổ chức ngay việc hòa giải.
- Viện kiểm sát
Một là, tăng cường phối kết hợp giữa ba ngành tố tụng, giữa cấp trên và cấp dưới
để nhanh chóng giải quyết những khó khăn, vướng mắc, hạn chế việc thiếu nhất quán
về quan điểm giữa cấp trên và cấp dưới và giữa các ngành tư pháp trong quá trình giải
quyết vụ án nghiêm trọng, phức tạp.
Hai là, lãnh đạo cần chú trọng hơn nữa trong việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ cho đội ngũ Kiểm sát viên những kiến thức cơ bản trong lĩnh vực hình sự. Thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo chặt chẽ ngay từ khi khởi tố vụ án cho đến suốt quá
trình tố tụng. Chủ động phân công người tiến hành tố tụng có kinh nghiệm, năng lực,
trình độ chuyên môn tốt trực tiếp giải quyết vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp.
- Cơ quan Tòa án:
69
Một là, tăng cường sự phối hợp với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát và các cơ
quan hữu quan khác để thu thập đầy đủ chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ vụ án; thường
xuyên trao đổi, thống nhất nhận thức về các quy định của pháp luật cũng như những
vấn đề còn có ý kiến khác nhau về đánh giá các tình tiết khách quan của vụ án, nhằm
đảm bảo xét xử, giải quyết các vụ án đúng pháp luật.
Hai là, nâng cao trình độ về sử dụng công nghệ thông tin cho các cán bộ, công
chức tòa án để áp dụng kỹ thuật hiện đại, giảm bớt thời gian mà đạt hiệu quả trong
công tác chuyên môn. Đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ như xây dựng trung tâm
cơ sở dữ liệu; phát triển các ứng dụng về hệ thống truyền hình trực tuyến phục vụ các
hội nghị; công khai các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trên Cổng thông tin
điện tử; ứng dụng gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt, thông báo
văn bản tố tụng qua mạng và bằng phương tiện điện tử…
Ba là, hướng dẫn, chỉ đạo thường xuyên tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm trong
việc xét xử và việc chấp hành nghiêm túc theo thẩm quyền được quy định tại Bộ luật tố
tụng hình sự. Triển khai các kế hoạch tập huấn, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật có liên quan tới công tác giải quyết, xét xử.
3.3.1.7. Những giải pháp về pháp luật
Quy định về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 với nhiều nội dung, tình tiết
mới so với BLHS năm 1999; tuy nhiên, có một số điểm mới còn chưa được hướng dẫn
cụ thể, dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Cụ thể:
Một là, về quy định "Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm" tại điểm b
khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015.
Việc quy định a-xít “nguy hiểm” hoặc hóa chất “nguy hiểm” sẽ gây khó khăn
trong việc áp dụng. Thế nào là a-xít nguy hiểm? A-xít với hàm lượng bao nhiêu được
xem là a-xít nguy hiểm hay a-xít làm bỏng da là a-xít nguy hiểm hoặc dùng a-xít, hóa
chất tấn công vào vùng nào được xem là nguy hiểm? Nếu lấy hàm lượng a-xít để xác
70
định tính nguy hiểm thì khi không thu được a-xít để giám định hàm lượng thì xử lý như
thế nào?
Thứ hai, về quy định “…người già yếu…” tại điểm c khoản 1 Điều 134 BLHS
2015. Vậy người như thế nào là người già yếu? Theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.4 Mục 2
Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối
cao thì “Người già” là người tử 70 tuổi trở lên, còn theo hướng dẫn tại điểm a, tiểu mục
4.1 Mục 4 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án tối cao thì “Người quá già yếu” là người từ 70 tuổi trở lên hoặc người từ 60 tuổi trở
lên nhưng thường xuyên đau ốm. Khái niệm “Người già yếu” đến nay vẫn chưa cụ thể.
Thứ ba, về quy định “…đối với người chữa bệnh cho mình…” tại điểm d khoản 1
Điều 134 BLHS năm 2015 sẽ gặp khó khăn trong việc áp dụng như: “Đối với người chữa
bệnh cho mình” nếu được hiểu là Bác sỹ, Ý tá… đang chữa bệnh cho đối tượng thực hiện
hành vi cố ý gây thương tích… Vậy, người “đã chữa bệnh cho mình”, “chuẩn bị chữa
bệnh cho mình” có được xem là “đối với người chữa bệnh cho mình” hay không?
Như vậy, để các quy định của pháp luật có tính khả thi trong thực tiễn, kết cấu
của điều luật được chặt chẽ, không mâu thuẫn với các quy định khác, thì các cơ quan
chức năng cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn, giải thích để thống nhất áp dụng điều
luật cho chính xác.
Thứ tư, cần hoàn thiện quy định về việc áp giải bị hại để thực hiện thủ tục giám
định trong trường hợp bị hại từ chối giám định thương tật, sức khỏe.
3.3.1.8. Những giải pháp về tổ chức - quản lý
Trên cơ sơ các quy định của Nhà nước và của ngành Công an, Công an thành
Phan Rang - Tháp Chàm tiến hành các hoạt động quản lý nhà nước công khai về trật tự
xã hội. Đây là biện pháp công tác có vai trò vô cùng quan trọng trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe
của người khác nói riêng. Để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm nói chung, trong thời gian tới, cần:
71
Các lực lượng của Công an thành phố, nhất là Cảnh sát hình sự, Cảnh sát Quản lý
hành chính, Cảnh sát khu vực, Công an xây dựng phong trào và quản lý bảo vệ dân
phố, phụ trách xã, Công an xã phải tăng cường công tác quản lý hộ khẩu, nhân khẩu,
quản lý tạm trú trên địa bàn thành phố.
Giám sát, quản lý số đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại các xã phường
trên địa bàn; phối hợp cùng gia đình, tổ chức xã hội giáo dục, giúp đỡ số người chưa
thành niên mãn hạn tù, đưa đi trường giáo dưỡng về địa phương, các em có biểu hiện vi
phạm pháp luật, chậm tiến bộ.
Làm tốt công tác quản lý vũ khí, vật liệu nỗ và công cụ hỗ trợ và vận động quần
chúng nhân dân giao nộp vũ khí, vật liệu nỗ; lực lượng công an cần phối hợp với các
lực lượng bán chuyên trách xây dựng kế hoạch thường xuyên tiến hành công tác tuần
tra, kiểm soát tại các địa bàn, tụ điểm phức tạp về an ninh, trật tự có nguy cơ xảy ra các
vụ án cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng như: các điểm sinh hoạt công
cộng, quán nhậu, cơ sở kinh doanh dịch vụ internet, nhà trọ, chợ, khách sạn, nhà nghỉ,
quán karaoke, vũ trường… để kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi côn đồ, càn quấy,
gây rối trật tự ngăn chặn các vụ việc xô xát, mâu thuẫn bột phát dễ dấn đến đâm chém
gây thương tích, không để các băng nhóm tội phạm hình sự có cơ sở để tồn tại.
Do tình hình “tín dụng đen” trên địa bàn đang xảy ra nhức nhối, phức tạp và
không ít các vụ án cố ý gây thương tích liên quan đến “tín dụng đen”. Đo đó cần thiết
phải tiến hành kiểm tra hành chính các cơ sở cầm đồ, cho vay, kinh doanh tài chính,
dịch vụ đòi nợ và các cơ sở kinh doanh khác có biểu hiện hoạt động cho vay lãi nặng,
đòi nợ thuê nhằm phát hiện tội phạm và vi phạm pháp luật để xử lý nghiêm. Siết chặt
việc cấp Giấy chứng nhận và tăng cường quản lý, kiểm tra các cơ sở kinh doanh có
điều kiện về an ninh, trật tự, nhất là các cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ, đòi nợ; kiên
quyết xử lý, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự đối với các cơ sở
vi phạm.
72
Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giáo dục pháp luật trong đó chú trọng
đến các Luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật hôn nhân gia đình.... đến rộng rãi
quần chúng nhân dân, đặc biệt là lứa tuổi thanh thiếu niên. Vận động mọi người dân
khi phát hiện các vụ việc cố ý gây thương tích xảy ra phải kịp thời báo ngay cho cơ
quan Công an nơi gần nhất hoặc gọi điện thoại đến đường dây nóng của cảnh sát khu
vực hoặc công an thành phố; vận động người bị hại, người có trách nhiệm, quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có trách nhiệm cung cấp các thông tin có liên quan đến vụ việc cố ý
gây thương tích cho cơ quan Công an khi được yêu cầu, triệu tập.
3.3.2. Những giải pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện thuộc quá trình
tương tác xuất tâm
3.3.2.1. Những giải pháp ngăn chặn tội phạm tiềm năng
Những biện pháp ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra được hiểu là những biện
pháp kiểm soát xã hội và quản lý xã hội đối với điều kiện tồn tại của hành vi phạm tội
tiềm tàng, người phạm tội tiềm tàng và nạn nhân tiềm tàng của tội phạm nhằm làm tê
liệt quá trình chuẩn bị và thực hiện tội phạm. Những biện pháp ngăn chặn không cho
tội phạm xảy ra được xây dựng trên cơ sở của trạng thái chưa xảy ra của tội phạm cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng nó sắp xảy ra và
đang tiềm tàng. Do đó, cần thiết phải có những biện pháp thích ứng để ngăn chặn,
không để nó xảy ra, các biện pháp này gồm có 3 đối tượng tác động:
a) Tác động vào phương thức thực hiện tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người
Một là: Tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng và thực hiện nghiêm túc, có hiệu
quả Luật quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ và các văn bản hướng
dẫn thi hành cho từng đối tượng cụ thể nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của cán bộ,
chiến sỹ và nhân dân, nhất là đối với người trực tiếp làm công tác quản lý, sử dụng vũ
khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
73
Hai là: Tăng cường công tác đăng ký, quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ,
thường xuyên tổ chức kiểm tra đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị được trang bị, quản
lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những
hành vi vi phạm, hạn chế tình trạng mất, thất lạc; thực hiện tốt công tác tiếp nhận, thu
gom, phân loại, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
b) Tác động vào chủ thể tiềm tàng của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người
Một là, với đối tượng có hành vi côn đồ, biểu hiện sử dụng hung khí, vũ khí lưu
hành trên đường hoặc tụ tập ăn nhậu ở những nơi công cộng, gây rối ANTT thì vận
động, tuyên truyền về tác hại của rượu, bia, pháp luật xử lý hành vi cố ý gây tương
tích; tăng cường tuần tra kiểm soát để nhắc nhở, giáo dục, răn đe, áp dụng các biện
pháp nghiệp vụ ngăn chặn đối tượng chuẩn bị gây án. Phối hợp chính quyền địa
phương quản lý chặt thanh thiếu niên hư, đối tượng cộm cán; nghiện ma túy và có nguy
cơ phạm tội. Tập trung rà soát, triệt phá các băng nhóm lưu manh, côn đồ; cho vay lãi
nặng, bảo kê, xiết nợ, đòi nợ thuê, “tín dụng đen”; chống người thi hành công vụ…
Hai là, lực lượng công an phải làm tốt công tác điều tra cơ bản, nắm chắc THTP,
không để bị động, bất ngờ, tập trung vào các tuyến, địa bàn trọng điểm. Phát huy vai
trò tự quản, chủ động hòa giải ở cơ sở, lập án điểm đấu tranh, nhanh chóng truy bắt, xử
lý nghiêm đối tượng phạm tội, nhất là các vụ thảm án, tụ tập đông người, sử dụng vũ
khí nóng càn quấy, đâm chém, trả thù lẫn nhau. Với các vụ việc mâu thuẫn kéo dài
chưa giải quyết xong ở cơ sở hoặc xô xát đã xảy ra có thể gây hậu quả nghiêm trọng,
lực lượng Cảnh sát Hình sự trực tiếp giải quyết và có phương án ngăn chặn. Thời điểm
tội phạm do nguyên nhân xã hội bùng phát cần có kế hoạch phản ứng nhanh, tăng
cường các biện pháp phòng ngừa kết hợp trấn áp mạnh.
c) Tác động vào nạn nhân tiềm tàng của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người.
74
Nạn nhân của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác rất đa đạng phong phú, nhưng tựu chung lại có thể là những nạn nhân của bạo lực
gia đình, bạo lực học đường, ... do đó, các biện pháp tác động vào nạn nhân cũng khác
nhau, cụ thể:
Đối với nạn nhân của bạo lực gia đình (tội phạm ẩn): Cần tư vấn để họ nhận thức
được rằng họ có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe,
tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình và có thể yêu cầu áp
dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật phòng chống
bạo lực gia đình.
Đối với nạn nhân của bạo lực học đường: Nhà trường cần phổ biến cho học sinh
về việc phải báo ngay cho phụ huynh, nhà trường và người có trách nhiệm để xử lý,
tường trình lại toàn bộ sự việc để cơ quan chức năng đánh giá tính chất vụ việc và có
hình thức xử lý. Cha mẹ cần hướng dẫn con em có kỹ năng tự bảo vệ mình.
Tóm lại: Mọi người cần nâng cao lối sống văn minh, lịch sự giải quyết mọi vấn
đề trên cơ sở ôn hòa, các tình huống phát sinh tranh chấp, mâu thuẫn cá nhân chúng ta
nên cố gắng bình tĩnh, không được có những hành động, thái độ hay lời nói gây kích
động hoặc thách thức người khác, nên đặt mình vào vị trí của nhau để hiểu cách nghĩ
và cảm xúc của nhau trên tinh thần cầu thị, xây dựng với phương châm “Một điều nhịn,
chín điều lành”.
3.3.2.2. Những giải pháp ngăn chặn tội phạm đang xảy ra
Các biện pháp ngăn chặn tội phạm đang xảy ra là những biện pháp ngăn chặn ở
giai đoạn động cơ hoá hành vi phạm tội, ở giai đoạn kế hoạch hoá và cả ở giai đoạn
hiện thực hoá hành vi phạm tội. Biện pháp này được hiểu là:
a) Ngăn chặn tội phạm đang thực hiện
Biện pháp này nhằm chặn đứng hành vi phạm tội cố ý gây thương tích đang diễn
ra, không để cho nó gây thêm thiệt hại về tính mạng, sức khỏe thông qua các chủ thể
75
chức năng hoặc được phát hiện bởi các chủ thể khác như các tổ chức, đoàn thể, cơ quan
quản lý hành chính nhà nước… và nhân dân;
Một là, cơ quan công an cần tăng cường tuần tra, kịp thời xử lý nhanh, nghiêm,
đánh giá, phân tích, làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm để người phạm tội biết, hiểu
được, nhận thức rõ hành vi của mình.
Hai là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện hỗ trợ như lắp đặt camera
tại những nơi có tình hình phức tạp để kịp thời phát hiện và ngăn chặn tội phạm đang
xảy ra.
Ba là, xây dựng, triển khai các mô hình về phòng, chống tội phạm, các tổ tự quản
trong khu phố, cộng đồng dân cư. Đây sẽ là lực lượng đầu tiên tham gia ngăn chặn khi
có hành vi cố ý gây thương tích xảy ra trên địa bàn.
b) Chặn đứng quá trình lặp lại của hành vi phạm tội cố ý gây thương tích, không
để cho tội phạm được thực hiện nhiều lần.
Các biện pháp ngăn chặn đối với trường hợp này phải được phát hiện sớm bởi lực
lượng chức năng hoặc các các chủ thể khác để kịp thời tố giác, tin báo nhằm xác minh,
xử lý kịp thời.
Đối với cơ quan chức năng: Cung cấp đường dây nóng của công an các phường,
công an thành phố để người dân chủ động báo tin. Nhận được tin báo cần phản ứng
nhanh để kịp thời xử lý (không cho người phạm tội có thời gian thỏa thuận hay đe dọa
nạn nhân, đưa ngay người bị hại đi giám định) khởi tố vụ án và truy tố bị can.
Đối với nạn nhân: Vận động, thuyết phục, giáo dục, giải thích cho người bị hại
biết quy định của pháp luật để yêu cầu họ phải đi giám định thương tích để xử lý
nghiêm minh các đối tượng vi phạm pháp luật.
3.3.2.3. Những giải pháp ngăn chặn tái phạm
Trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử:
76
Liên ngành các cơ quan tố tụng cần thiết lập cơ chế phối hợp và thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
các vụ án cố ý gây thương tích.
Cơ quan công an cần tăng cường với phối hợp với các cơ quan, đơn vị, quần
chúng nhân dân để kịp thời thu thập các chứng cứ, nhằm đảm bảo việc xác minh, giải
quyết tin báo, tố giác người có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác được giải quyết kịp thời, chính xác.
Trong giai đoạn xét xử, tòa án cần xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, hình phạt phải tương xứng với tính
chất, mức độ của hành vi người phạm tội.
Trong giai đoạn thi hành án:
Cần nâng cao và tiếp tục đổi mới công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân, hình thức
giáo dục phạm nhân-người phạm tội như: tổ chức dạy văn hóa cho phạm nhân, tổ chức
cho phạm nhân đọc sách, tổ chức cho phạm nhân xem ti vi, nghe đài phát thanh, nhân
các sự kiện lớn, văn hóa của đất nước phải tổ chức pano, áp phích, tranh ảnh trong trại
giam để phạm nhân có thể xem, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ thể dục thể
thao, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục đạo đức, giáo dục biết giá trị lao động như thế nào, tổ
chức sinh hoạt tổ, nhóm để trao đổi thông tin, học hỏi,... và chú ý các chế độ đối với
phạm nhân phải đảm bảo đầy đủ, đúng đối tượng và chế độ khen thưởng hợp lý.
Các trại giam, trại tạm giam cần phải nghiên cứu chọn ngành nghề đào tạo phù
hợp với từng lứa tuổi, có tính khả thi, đáp ứng nhu cầu thực tế của xã hội.
Sau khi chấp hành xong bản án
UBND thành phố và các sở ban ngành cần quan tâm hỗ trợ vốn sản xuất, tạo việc
làm cho người chấp hành xong án phạt tù về cư trú trên địa bàn thành phố. Phòng lao
động thương binh và xã hội cần tổ chức dạy nghề miễn phí cho các đối tượng này và
liên kết với các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp để giải quyết công ăn việc làm cho họ.
77
Công an xã/ phường cần làm tốt công tác nắm tình hình, hỗ trợ các tổ chức đoàn
thể tiếp cận đối tượng được giao. Cần thành lập câu lạc bộ giúp đỡ người lầm lỗi tại cơ
sở để giáo dục, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của họ, sớm phát hiện những biểu hiện
nghi vấn, bất thường nhằm kịp thời có biện pháp phòng ngừa tái phạm.
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3, tác giả đã trình bày việc tăng cường nhận thức về nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác từ những nguyên nhân và điều kiện đã phân tích trước đó. Từ đó, tác giả
đưa ra dự báo tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, qua đó đề ra những giải pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện và giải
pháp khắc phục hậu quả của tình hình tội này trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp
Chàm. Đồng thời, cũng như đưa ra một số giải pháp phòng ngừa THTP này trên địa
bàn thành phố trong những năm tới. Cụ thể là các giải pháp loại trừ những hiện tượng
xã hội tiêu cực thuộc môi trường gia đình, nhà trường, xã hội và trong lĩnh vực quản lý
nhà nước. Đồng thời, phải loại trừ những ảnh hưởng xấu xuất phát từ đặc điểm của địa
lý, dân cư, kinh tế, văn hóa - xã hội, các nguyên nhân, điều kiện thuộc về cá nhân
người phạm tội. Bên cạnh đó, tăng cường công tác tổ chức phòng ngừa để làm hạn chế,
ngăn chặn, tiến tới loại trừ những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác tại địa bàn thành phố Phan
Rang – Tháp Chàm trong thời gian tới.
78
KẾT LUẬN
Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm diễn biến khá phức tạp và nghiêm
trọng, có xu hướng gia tăng, với tính chất, mức độ nguy hiểm, gây thiệt hại lớn cho xã
hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của bản thân người bị hại mà từ việc
bị thương tích, giảm khả năng lao động nên người bị hại trở thành gánh nặng cho gia
đình và xã hội. Do đó, việc nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác để tìm ra giải pháp loại trừ
các nguyên nhân, điều kiện đó là một yêu cầu hết sức cấp thiết.
Từ những phân tích mà tác giả nêu trong luận văn có thể thấy, nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác ở địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, là sự tác động qua lại giữa
yếu tố tiêu cực thuộc về môi trường sống như: Môi trường gia đình, môi trường nhà
trường, môi trường xã hội với yếu tố thuộc tâm sinh lý cá nhân người phạm tội. Bên
cạnh đó, người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác chủ yếu có độ tuổi từ 18 đến 45 tuổi, trình độ văn hóa thấp, nhận thức pháp luật
còn hạn chế, coi thường giá trị đạo đức, không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không
ổn định.
Từ những phân tích về thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn thành phố
Phan Rang – Tháp Chàm thời gian qua, tác giả đã đưa ra dự báo tình hình tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong thời gian tới. Bên cạnh
đó, tác giả còn đưa ra những giải pháp nhằm cách hiệu quả công tác phòng ngừa THTP
này. Để phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác phải loại trừ các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội này ra khỏi
đời sống xã hội. Để làm tốt các giải pháp này, cần phải có sự phối hợp của nhiều lực
lượng, đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án.
79
Đồng thời cần phải phát huy vai trò của chính quyền địa phương, gia đình, nhà trường
và chính mỗi cá nhân.
Có thể thấy, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác từ thực tiễn tại địa bàn thành phố Phan Rang
– Tháp Chàm giai đoạn 2014 – 2018 đã được tác giả nghiên cứu một cách nghiêm túc,
khoa học trên cơ sở lý luận của tội phạm học, kiến thức và kinh nghiệm từ công tác
thực tiễn và quá trình học tập tại học viện. Tuy nhiên, nguyên nhân và điều kiên của
tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là một
đề tài phức tạp, ít được quan tâm tổng kết từ thực tiễn. Mặc dù đã được sự quan tâm tận
tình của giáo viên hướng dẫn và của các thầy, cô học viện, tuy nhiên, tác giả chưa có
nhiều kinh nghiệm nghiên, đồng thời đây là công trình nghiên cứu đầu tiên của địa bàn
thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nói riêng và tỉnh Ninh Thuận nói chung về nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác nên chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy,
tác giả rất mong nhận được sự góp ý của Quý Thầy, Cô giáo, các nhà nghiên cứu, nhà
khoa học để luận văn được hoàn thiện hơn.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Bí thư (2016), Kết luận số 05-KL/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số
48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, ban hành ngày 15/7/2016, Hà Nội.
2. Ban chỉ đạo 138/CP (2012), Kế hoạch số 271/KH-BCĐ138/CP thực hiện chương
trình mục tiêu Quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2012-2015, ban hành ngày
20/11/2012, Hà Nội.
3. Ngô Thị Kim Báu (2017), Nguyên nhân và điều kiện của tội trộm cắp tài sản do
người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Học
viện khoa học xã hội.
4. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, ban hành ngày 22/10/2010, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, ban hành ngày 12/3/2014, Hà Nội.
6. Chi cục thống kê thành phố Phan Rang – Tháp Chàm (2018), Niên giám thống kê
thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Thuận.
7. Chính phủ, Nghị quyết 09/1998/NQ-CP về tăng cường công tác phòng, chống tội
phạm trong tình hình mới, ban hành ngày 31 tháng 7 năm 1998, Hà Nội.
8. Đại học luật Hà Nội (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb CAND, Hà Nội;
9. Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb Hồng
Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
10. Bùi Ngọc Hòa (2017), “Đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử phúc thẩm các vụ án hình
sự đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm”, Tạp chí TAND, số 22, tr.19-22.
11. Huỳnh Minh Hồng (2015), Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn Thạc sĩ, Học
viện Khoa học xã hội.
12. Hồ Chí Minh (1945-1946), Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
13. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 37/2012/QH13 về công tác phòng, chống vi phạm
pháp luật và tội phạm, ban hành ngày 23 tháng 11 năm 2012, Hà Nội.
14. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
15. Quốc hội (2014), Luật CAND, Hà Nội.
16. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
17. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
18. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung 2017), Hà Nội.
19. Quốc hội (2015), Nghị quyết số 111/2015/QH13 về công tác phòng, chống vi phạm
pháp luật và tội phạm, công tác của VKSND, của TAND và công tác thi hành án năm 2016
và các năm tiếp theo, ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015, Hà Nội.
20. Hồ Sỹ Sơn (2005), “Hoàn thiện mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2, tr. 63-68.
21. Thành ủy Thành phố Phan Rang (2012), Kế hoạch số 24-KH/TU ngày 10/5/2012 về
thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01/12/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng;
22. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg về việc phê duyệt
Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, ban hành ngày 31 tháng 7 năm 1998, Hà Nội.
23. Thủ tướng chính phủ (2011), Quyết định số 282/QĐ-TTg ban hành kế hoạch thực
hiện Chỉ thị số 481-CT/TW ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Bộ chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, ban hành
ngày 24 tháng 2 năm 2011, Hà Nội.
24. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 312/QĐ-TTg về việc Ban hành
Chương trình thực hiện Nghị quyết 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội về tăng
cường các biện pháp đấu trang phòng, chống tội phạm, ban hành ngày 28/02/2014, Hà Nội.
25. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 623/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến
lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến năm 2030,
ban hành ngày 14 tháng 4 năm 2016, Hà Nội.
26. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 199/QĐ-TTg về việc Phê duyệt
Chương trình thực hiện Kết luận số 05-KL/TW ngày 15/7/2016 của Ban Bí thư về việc tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và Chiến lược
quốc gia phòng, chống tội phạm đến năm 2020, ban hành ngày 14/02/2017, Hà Nội.
27. TAND thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, Bản án hình sự xét xử về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm 2014-2018 (119 bản án).
28. TAND thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, Báo cáo thống kê số liệu hình sự giai
đoạn 2014-2018.
29. TAND thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, Báo cáo Tổng kết công tác năm 2014-
2018.
30. Phạm Văn Tỉnh (2019), “ Tích hợp mô hình tương tác xuyên thời gian với đồng
thời gian của cơ chế hành vi phạm tội - phương pháp phát triển lý luận và nghiên cứu tội
phạm học về nguyên nhân, điều kiện và phòng ngừa tội phạm”, Tạp chí Nhân lực khoa học
xã hội, số 10, tr 2-3.
31. Phạm Văn Tỉnh (2015), Bài giảng tội phạm học, Học viện Khoa học xã hội
32. Phạm Văn Tỉnh (2014), Bài giảng Tội phạm học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
33. Phạm Văn Tỉnh (1994), “Tình trạng người phạm tội ở nước ta hiện nay và vấn đề
tuyên truyền, giáo dục pháp luật”, Tạp chí CAND, số 10, tr. 56-58.
34. Phạm Văn Tỉnh (2007), “Vấn đề định nghĩa khái niệm Tội phạm học và nhu cầu
nâng cao trình độ lý luận Tội phạm học ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12,
tr. 11-19.
35. Phạm Văn Tỉnh (2008), “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ở nước
ta hiện nay - mô hình lý luận”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6, tr. 79-84.
36. Phạm Văn Tỉnh (2009), “Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 4, tr. 57-64.
37. Phạm Văn Tỉnh (2010), “Quyền con người - Bản chất và cách tiếp cận khoa học
pháp lý”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12, tr. 60-65.
38. Phạm Văn Tỉnh và Nguyễn Văn Cảnh (2013), Một số vấn đề tội phạm học Việt
Nam, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
39. Phạm Văn Tỉnh (2014), “Phòng ngừa tội phạm và chiến lược phòng ngừa tội
phạm”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3, tr. 74-84.
40. Phạm Văn Tỉnh - Nguyễn Văn Cảnh (2013), Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam,
Học viện cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
41. Tống Bảo Toàn (2018), “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cổ ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khóc của người khác tại Quận 6, Thành phố Hồ Chí
Minh”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
42. Võ Khánh Vinh (2009), Giáo trình tội phạm học, Nxb CAND, Hà Nội
43. Võ Khánh Vinh (2006), Dự báo tình hình tội phạm, Một số vấn đề lý luận - thực
tiễn, Nxb CAND, Hà Nội.
44. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học Huế, Nxb
CAND, Hà Nội
45. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb.
CAND, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Bảng 2.1: Mức độ tổng quan của THTP nói chung và tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang Tháp Chàm (2014 - 2018)
Tình hình tội phạm Tỉ lệ (%) Năm Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Số vụ án Số bị cáo
2014 2015 2016 2017 2018
Số vụ án Số bị cáo 215 197 198 164 171 945 150 141 133 109 132 665 Tổng cộng 24 35 25 14 21 119 Số vụ án Số bị cáo 13,95 16,00 29,95 24,82 23,74 18,80 10,98 12,84 14,04 15,91 18,84 17,89 30 59 47 18 24 178
Nguồn: theo số liệu thống kê của TAND thành phố Phan Rang - Tháp Chàm
Bảng 2.2. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong mối tương quan với tình hình các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của con người trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (giai
đoạn 2014 - 2018)
Tỉ lệ (%)
Năm Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Tình hình các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người
Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo
30 59 47 18 24 85,71 85,71 87,50 89,39 86,21 83,93 82,35 75,00 77,78 82,76 Số vụ án 28 40 29 17 27 2014 2015 2016 2017 2018 35 66 56 24 29 24 35 25 14 21
Tổng cộng 141 210 119 178 84,40 84,76
Nguồn: theo số liệu thống kê của TAND thành phố Phan Rang - Tháp Chàm
Biểu đồ 2.3: Diễn biến tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
70
60
50
40
30
20
10
2014
2015
2016
2017
2018
0
Số vụ án Số bị cáo
Bảng 2.4. Cơ số tội phạm nói chung và cơ số tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm giai đoạn 2014 - 2018 (tính trên 100.000 dân)
Năm Dân số trung bình Cơ số tội phạm chung Số bị cáo đã xét xử
Cơ số tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Số bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
215 197 198 164 171 30 59 47 18 24
945 178 170.720 125,94 17,57 172.304 114,33 34,24 173.904 113,86 27,03 175.319 93,54 10,27 13,57 96,68 176.865 102,68 544,35 869.112
189 36 173.822 108,87 20,54 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng Trung bình
Nguồn: theo số liệu thống kê của TAND thành phố Phan Rang - Tháp Chàm
Bảng 2.5. Diễn biến tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (2014 - 2018)(so sánh định
gốc)
Số vụ án Năm Số bị cáo Số vụ án
Số bị cáo (%) 100 (%) 100
2014 2015 2016 2017 2018 145,83 196,67 104,17 156,67 58,33 60,00 87,50 80,00 24 35 25 14 21 30 59 47 18 24
Số vụ án Giai đoạn 03 năm Số bị cáo Số vụ án
(%) 100 Số bị cáo (%) 100
71,43 65,44 84 60 2014-2016 2016-2018 136 89
Nguồn: theo số liệu thống kê của TAND thành phố Phan Rang - Tháp Chàm
2.6. Cơ cấu xét theo các bước thực hiện hành vi phạm tội
Tỷ lệ (%)
Số bước thực hiện Số vụ án Số bị cáo
Số vụ án Số bị cáo
14,29 17,42 44,54 46,07 41,18 36,52
Một bước Hai bước Ba bước Tổng cộng 17 53 49 119 31 82 65 178 100 100
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014-2018
Bảng 2.7. Cơ cấu xét theo công cụ gây án
Tỷ lệ (%)
Công cụ gây án Số bị cáo Số vụ án Số vụ án Số bị cáo
Sử dụng hung khí Không sử dụng hung khí 76,47 75,84 23,53 24,16
Tổng cộng 135 43 178 100 100 91 28 119
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014-2018
2.8. Cơ cấu xét theo thời gian gây án
Thời gian Số vụ án Tỉ lệ (%)
37 13 11 58 0h ->6h00 sáng 6h sáng đến 12h trưa 12h đến 18 h 18h đến 0h
Tổng 119 31,09 10,92 9,24 48,74 100
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014-2018
2.9 Cơ cấu xét theo địa điểm gây án
Địa điểm Số vụ án Tỉ lệ (%)
13 Tại nhà bị hại
12 Tại nhà bị cáo
15 Tại nhà người quen
79 10,92 10,08 12,61 66,39 Nơi công cộng khác
100 Tổng 119
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014-2018
2.10. Cơ cấu xét theo chế tài áp dụng
Hình phạt Tỷ lệ (%)
Cải tạo không giam giữ Số bị cáo 0
- Phạt tù nhưng cho hưởng án treo 11
Dưới 03 năm tù Từ 03 năm đến dưới 07 năm tù Từ 07 năm đến dưới 15 năm tù Từ 15 năm đến 20 năm tù, chung thân, 6,18 21,91 47,19 24,72 -
Tổng cộng 39 84 44 0 178 100
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014-2018
Bảng 2.11. Cơ cấu xét theo độ tuổi người phạm tội
Độ tuổi
Từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi Từ đủ 18 tuổi đến dưới 30 tuổi Từ đủ 30 tuổi đến đưới 45 tuổi Từ đủ 45 tuổi đến 60 tuổi Trên 60 tuổi Tỷ lệ (%) 3,93 58,99 25,28 11,80 -
Tổng cộng Số bị cáo 7 105 45 21 0 178 100
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014-2018
Bảng 2.12. Cơ cấu xét theo giới tính của người phạm tội
Giới tính Đặc điểm
Số bị cáo Nam 141
Nữ 37 Tỷ lệ (%) 79,21 20,79
Tổng cộng 178 = 100%
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014-2018
Bảng 2.13. Cơ cấu xét theo hình thức cư trú
Hình thức cư trú
Thường trú Tạm trú Nơi khác
Tỷ lệ (%) 21,35 33,15 45,51 100 Tổng cộng Số bị cáo 38 59 81 178
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014-2018
Bảng 2.14. Cơ cấu xét theo trình độ văn hóa của người phạm tội
Tỷ lệ Trình độ văn hóa Số bị cáo
Không biết chữ (%) 12,36 22
Tiểu học 41,01 73
Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung cấp, cao đẳng, đại học Sau đại học 29,78 10,11 6,74 -
Tổng cộng 100 53 18 12 0 178
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014- 2018
Bảng 2.15. Cơ cấu xét theo nghề nghiệp của người phạm tội
Nghề nghiệp Số bị cáo Tỷ lệ (%)
Không có nghề nghiệp 39 21,91
Nghề nghiệp không ổn định 118 66,29
Nghề nghiệp ổn định 21
Tổng cộng 178 11,80 100
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014-2018
2.16. Cơ cấu xét theo đặc điểm hoàn cảnh gia đình
Trình độ văn hóa Tỉ lệ (%) Số bị cáo
Gia đình hoàn thiện và không có người vi phạm pháp luật 46 25,84
Gia đình không hoàn thiện ( có bố mẹ ly hôn hoặc chết) hoặc gia đình có người vi phạm pháp luật 132
Tổng 178 74,16 100
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014- 2018 2.17. Cơ cấu xét theo đặc điểm tiền án, tiền sự
Tiêu chí Số bị cáo
Phạm tội lần đầu Tiền án, tiền sự 117 61
Tổng Tỉ lệ (%) 65,73 34,27 100 178
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014-2018
2.18. Cơ cấu xét theo đặc điểm dân tộc
Tiêu chí Số bị cáo
Dân tộc kinh Dân tộc thiểu số 121 57
Tổng Tỉ lệ (%) 67,98 32,02 100 178
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014-2018
2.19. Cơ cấu xét theo đơn vị hành chính cấp phường
Phường Phường Đô Vinh Phường Bảo An Phước Mỹ Phủ Hà Mỹ Hương Đạo Long Tấn Tài Kinh Dinh Thanh Sơn Đài Sơn Văn Hải Đông Hải Mỹ Hải Mỹ Đông Mỹ Bình Thành Hải Tổng Số bị cáo 7 1 0 3 5 3 5 4 2 7 6 21 6 18 5 4 97 Tỉ lệ (%) 7,22 1,03 - 3,09 5,15 3,09 5,15 4,12 2,06 7,22 6,19 21,65 6,19 18,56 5,15 4,12 100
Nguồn: Theo thống kê 119 bản án của TAND thành phố PRTC giai đoạn 2014- 2018