NGUYỄN NHÂN GÂY BỆNH UNG THƯ
lượt xem 8
download
Ngày nay người ta biết rõ ung thư không phải do một nguyên nhân gây ra. Mỗi loại ung thư có những nguyên nhân riêng biệt. Một tác nhân sinh ung thư có thể gây ra một số ung thư và ngược lại một loại ung thư có thể do một số tác nhân. Bệnh nhiễm trùng mạn tính, một số loại vi khuẩn, vi rút hoặc ký sinh trùng cũng là một trong những tác nhân sinh ra nhiều loại ung thư. Tế bào UT (Minh họa) A. Nhiễm trùng và ung thư Ngày nay người ta biết rõ ung...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: NGUYỄN NHÂN GÂY BỆNH UNG THƯ
- NGUYỄN NHÂN GÂY BỆNH UNG THƯ Ngày nay người ta biết rõ ung thư không phải do một nguyên nhân gây ra. Mỗi loại ung thư có những nguyên nhân riêng biệt. Một tác nhân sinh ung thư có thể gây ra một số ung thư và ngược lại một loại ung thư có thể do một số tác nhân. Bệnh nhiễm trùng mạn tính, một số loại vi khuẩn, vi rút hoặc ký sinh trùng cũng là một trong những tác nhân sinh ra nhiều loại ung thư. Tế bào UT (Minh họa) A. Nhiễm trùng và ung thư Ngày nay người ta biết rõ ung thư không phải do một nguyên nhân gây ra. Mỗi loại ung thư có những nguyên nhân riêng biệt. Một tác nhân sinh ung thư có thể gây ra một số ung thư và ngược lại một loại ung thư có thể do một số tác nhân. Bệnh nhiễm trùng mạn tính, một số loại vi khuẩn, vi rút hoặc ký sinh trùng cũng là một trong những tác nhân sinh ra nhiều loại ung thư. I. Nguyên nhân do vi rút 1. Vi rút viêm gan B và ung thư gan nguyên phát Hiện nay trên toàn thế giới có khoảng hơn 2 tỷ người bị nhiễm vi rút viêm gan B. Trong đó có khoảng 280 triệu người bị viêm gan mãn tính. Ở Việt Nam, những nghiên cứu bước đầu cho thấy tỷ lệ mang vi rút viêm gan B là 12,5% dân số. Giai đoạn đầu vi rút này xâm nhập vào cơ thể gây ra viêm gan cấp, nhiều khi bệnh chỉ biểu hiện thoáng qua. Khoảng 5-10% bệnh cấp tính trở thành mạn tính. Tổn thương này 1
- qua một thời gian dài tiến triển, không có triệu chứng sẽ dẫn đến hai biến chứng quan trọng là xơ gan toàn bộ và ung thư gan. So với các loại ung thư thì ở nước ta ung thư gan chiếm vị trí thứ ba ở nam giới và vị trí thứ 4 ở nữ giới. Người ta ước tính năm 2000 có khoảng 7.648 trường hợp mới mắc ung thư gan. Ung thư gan điều trị rất khó khăn và ít hiệu quả. Việc phát hiện ra vi rút viêm gan B gây ung thư gan đã mở ra một phương pháp phòng bệnh rất hiệu quả bằng cách tiêm vắc- xin phòng viêm gan B cho những người có kháng thể HBsAg (-), đặc biệt là ở trẻ sơ sinh. Đó là một biện pháp đơn giản, rẻ tiền nhưng mang lại lợi ích rất lớn cho việc bảo vệ sức khỏe. Ngoài ra, vì bệnh viêm gan vi rút B lây truyền qua đường máu nên chúng ta không nên dùng chung bơm, kim tiêm, chú ý dùng các phương tiện bảo hộ cơ thể khi tiếp xúc với máu... Vi rút cũng lây qua đường tình dục vì thế các hành vi tình dục an toàn không chỉ tránh được lây nhiễm HIV mà còn tránh được lây truyền vi rút viêm gan B, phòng được bệnh viêm gan B tức là phòng được bệnh xơ gan và ung thư gan 2. Vi rút Estein - Barr (EBV) và ung thư vòm mũi họng: Trong số các yếu tố liên quan đến ung thư vòm thì EBV được xem là quan trọng nhất. Người ta đã phân lập được loại vi rút này trong các khối ung thư vòm mũi họng. Ngoài ra EBV còn là một trong những nguyên nhân chính gây ra ung thư hệ thống hạch bạch huyết. Ung thư vòm mũi họng là bệnh đứng hàng đầu trong các ung thư ở khu vực đầu mặt cổ. Nước ta là một trong các nước có tỷ lệ mắc cao so với Thế giới. Hàng năm, trung bình có từ 250 - 300 bệnh nhân mới mắc ung thư vòm mũi họng điều trị tại khoa tia xạ Bệnh viện K. Biểu hiện sớm của ung thư vòm mũi họng là đau đầu, ù tai, ngạt mũi một bên. Các dấu hiệu này rất dễ nhầm với một số bệnh nội khoa, thần kinh v.v... Nh ưng điều đặc biệt là các triệu chứng này ở cùng một bên và tăng dần, không đáp ứng với các biện pháp chống 2
- viêm, giảm đau thông thường. Ở giai đoạn đầu của bệnh việc điều trị rất có hiệu quả và rẻ tiền. Do đó, nếu thấy các dấu hiệu trên, bạn nên đến các cơ sở chuyên khoa ung bướu để khám và điều trị kịp thời. 3. Vi rút gây u nhú có liên quan mật thiết với các ung thư vùng âm hộ, âm đạo, cổ tử cung ở nữ giới và ung thư dương vật ở nam giới. Đặc biệt là vi rút gây u nhú loại ở người ( HPV) típ 16 và 18, lây truyền qua quan hệ tình dục. Ung thư cổ tử cung là một trong những ung thư hay gặp nhất ở phụ nữ. Qua số liệu của Ghi nhận Ung thư TP Hồ Chí Minh giai đoạn 1995-1996 cứ 100.000 phụ nữ thì có 26 người mới mắc ung thư cổ tử cung. Ở Hà Nội, tỷ lệ này thấp hơn nhiều, nguyên nhân có thể do tỷ lệ nhiễm vi rút HPV thấp hơn. Ung thư cổ tử cung gặp nhiều ở những phụ nữ quan hệ tình dục sớm, với nhiều đàn ông hoặc có quan hệ với những người đàn ông có quan hệ tình dục với nhiều phụ nữ hoặc với gái mại dâm, sinh đẻ nhiều, thiếu săn sóc vệ sinh sinh dục... Đó cũng là những yếu tố thuận lợi cho sự lây nhiễm các loại vi rút u nhú và nhiều bệnh nhiễm trùng sinh dục khác. Ung thư cổ tử cung là bệnh phát triển chậm và khu trú tại chỗ, nên nếu được phát hiện sớm có thể điều trị khỏi hẳn. Để phòng tránh ung thư cổ tử cung chúng ta nên theo chế độ một vợ, một chồng, nhớ săn sóc vệ sinh sau khi giao hợp, đi khám phụ khoa 6 tháng một lần. 4. HIV tuy không phải là tác nhân trực tiếp gây ung thư nhưng ở các bệnh nhân bị nhiễm HIV, hệ miễn dịch suy giảm nên rất dễ mắc các bệnh nhiễm trùng khác. Người ta thấy rằng tỷ lệ saccôm Kaposi, ung thư cổ tử cung, ung thư hạch ở các bệnh nhân bị AIDS cao hơn hẳn người bình thường. II. Nguyên nhân do vi khuẩn 3
- 1. Vi khuẩn Helicobacter Pylori ( HP) và ung thư dạ dày. Ở nước ta ung thư dạ dày là bệnh gặp nhiều ở cả hai giới, đứng thứ hai trong các loại ung thư. Nam giới mắc ung thư dạ dày nhiều hơn nữ giới. Năm 2000 ước tính có 9.129 người mới mắc ung thư dạ dày được phát hiện. Các nghiên cứu cho thấy có sự liên quan mật thiết giữa viêm dạ dày do vi khuẩn HP với ung thư biểu mô tuyến của dạ dày và, đặc biệt là u limphô ác tính tại dạ dày. Khi điều trị bệnh do vi khuẩn HP thì các u limphô ác tính trên cũng biến mất. Nếu bị viêm loét dạ dày nên điều trị sớm và triệt để, để tránh sự biến chứng thành ác tính sau này. 2. Ung thư dương vật gặp nhiều ở những nam giới bị hẹp bao qui đầu. Trên những người này rất khó vệ sinh niêm mạc qui đầu, nên bị ứ đọng cặn nước tiểu cùng với vi trùng là nguy cơ gây ung thư. Trẻ nhỏ hẹp bao qui đầu cần tách nong bao qui đầu, lộn rửa thường xuyên, hoặc cắt bao qui đầu trước tuổi trưởng thành để phòng tránh ung thư dương vật. III. Ký sinh trùng và ung thư Ung thư bàng quang và một số ung thư niệu quản có liên quan chặt chẽ với nhiễm ký sinh trùng. Sán lá gan là yếu tố nguy cơ của bệnh ung thư đường mật. Người ăn phải cá có mang trùng sán chưa nấu chín sẽ mắc bệnh. Nước ta, ở một số địa phương có tập quán ăn cá gỏi, vệ sinh ngoại cảnh không tốt, tỷ lệ nhiễm sán trong nhân dân rất cao. Nhiễm trùng là bệnh lý phổ biến nhất ở những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Việc phòng chống các bệnh nhiễm trùng đã và đang được đặt lên hàng đầu. Ung 4
- thư tuy không phải là bệnh nhiễm trùng nhưng việc phòng chống các bệnh nhiễm trùng cũng đồng thời góp phần vào phòng chống một số bệnh ung thư. Chống nhiễm trùng không chỉ đơn giản là việc vệ sinh của mỗi cá nhân mà cần có sự tham gia phối hợp của các cấp, các ngành và cả cộng đồng trong việc giữ gìn vệ sinh chung. B. Rượu và ung thư Ung thư là một bệnh lý ác tính của tế bào. Khi bị kích thích bởi các tác nhân sinh ung thư tế bào phát triển một cách vô tổ chức, không tuân theo cơ chế phát triển bình thường của cơ thể. Ung thư không chỉ là một loại bệnh mà có trên 200 loại khác nhau. Mỗi loại bệnh đều có nguyên nhân riêng của nó. Ngày nay, sau nhiều nghiên cứu khoa học người ta kết luận rượu là một yếu tố nguy cơ gây ra một số bệnh ung thư. Uống rượu nhiều thường xuyên gây nghiện rượu, tác hại lên hệ thần kinh và gan, rượu được chứng minh là yếu tố nguy cơ của xơ gan và xơ gan có thể dẫn tới ung thư gan. Đồ uống có cồn có liên quan nhân quả với ung thư khoang miệng, họng thanh quản, thực quản. Quan tâm hơn cả là mối liên kết giữa rượu và thuốc lá có tác dụng cộng hưởng trên ung thư vùng đầu cổ. Rượu và thuốc lá là những thói quen xã hội có liên quan chặt chẽ với nhau. Nguy cơ tiêu thụ nhiều cả rượu và thuốc lá làm tăng nhiều lần nguy cơ do tiêu thụ từng thứ riêng lẻ. Nguy cơ mắc bệnh có tỷ lệ thuận trực tiếp với số lượng tiêu thụ. Mỗi yếu tố đơn độc làm tăng nguy cơ gấp 2-3 lần khi kết hợp chúng lại làm tăng nguy cơ lên hơn 15 lần. Điều này đã được chứng minh với tất cả các vị trí trên, trừ ung thư gan không phải lúc nào cũng tìm thấy bằng chứng. Ví dụ: Một tác động mạnh mẽ của cả hai sự tiếp xúc đã nhận thấy trong ung thư thực quản ở vùng Bretanh (Pháp) ở đây nguy cơ hút thuốc lá nặng trên 30 điếu/ngày và uống rượu trên 121g/ ngày là 155 lần lớn hơn nguy cơ của những người hút ít 0-9 điếu/ngày và uống rượu ít 0-40g/ngày. Sự liên quan tác dụng này cũng được giả định giữa rượu và nhiễm khuẩn viên gan B ẹan tính trong ung thư gan. Các ung thư ở các cơ quan khác cũng được đánh giá có liên quan tới tiêu thụ rượu, việc uống rượu thường xuyên cũng liên quan đến nguy cơ gây ung thư vú vào khoảng 1,5 5
- lần, quan hệ liều lượng -hiệu quả đôi khi được nghi nhận. Ở một nghiên cứu tác động của rượu được hạn chế khi dùng trước 30 tuổi đó là vấn đề cần được nghiên cứu về việc dùng rượu rộng rãi và tỷ lệ ung thư vú cao ở nhiều nước. Ung thư trực tràng không chắc chắn liên quan tới rượu vấn đề này cần được nghiên cứu. Cách thức tác động của rượu trong quá trình sinh ung thư hiện nay chưa rõ. Tuy nhiên, các cơ hội phòng ngừa các bệnh ung thư có liên quan tới rượu có thể đạt được tối thiểu về lý thuyết. C. Hành vi tình dục và ung thư Hành vi tình dục có mối liên quan rất chặt chẽ đến một số bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư của cơ quan sinh dục. Hành vi tình dục làm tăng cơ hội tiếp xúc với các yếu tố gây ung thư lây truyền qua đường sinh dục. Ung thư cổ tử cung gặp nhiều ở những phụ nữ quan hệ tình dục với nhiều người, hoặc có chồng/bạn tình có quan hệ tình dục với nhiều phụ nữ hoặc với gái mại dâm. Ung th ư cổ tử cung, ung thư âm hộ, âm đạo ở phụ nữ và ung thư dương vật ở nam giới gắn liền với sự có mặt của vi rút gây u nhú HPV16 và 18. Loại vi rút này lây truyền qua đường tình dục. Theo kết quả nghiên cứu của Bệnh viện K và Bệnh viện Ung bướu TP Hồ Chí Minh, tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung ở thành phố Hồ Chí Minh cao gấp bốn lần so với Hà Nội, trong khi đó tỷ lệ nhiễm vi rút HPV ở Tp Hồ Chí Minh, trong một nghiên cứu khác cũng được chứng minh là cao gấp năm lần ở Hà nội. Quan hệ tình dục với nhiều người còn làm tăng nguy cơ nhiễm HIV. Ở những người này hệ miễn dịch suy giảm, do đó rất dễ nhiễm các loại vi rút và vi khuẩn khác. Người ta thấy tỷ lệ mắc saccôm Kaposi và ung thư cổ tử cung ở người nhiễm HIV cao hơn hẳn người bình thường. Người có nhiều bạn tình còn dễ bị lây nhiễm vi rút viêm gan nhóm B. Loại vi rút này sau khi xâm nhập gây ra viêm gan cấp tính, sau đó có một số chuyển thành viêm gan mạn tính tiến triển và cuối cùng là dẫn tới xơ gan và ung thư gan. 6
- Ung thư cổ tử cung cũng hay gặp ở những phụ nữ quan hệ tình dục sớm, lập gia đình sớm trước 20 tuổi, sinh đẻ nhiều, thiếu săn sóc vệ sinh cá nhân và vệ sinh sau khi giao hợp. Hiếm thấy ung thư cổ tử cung ở những phụ nữ không sinh hoạt tình dục, hoặc phụ nữ tu hành. Sinh hoạt tình dục muộn hoặc không sinh hoạt tình dục lại liên quan chặt chẽ đến ung thư vú. Phụ nữ độc thân có nguy cơ mắc ung thư vú cao gấp hai lần phụ nữ có chồng. Ung thư vú cũng hay gặp ở những phụ nữ ly thân, ly hôn, chồng chết, sinh đẻ ít, đẻ con đầu lòng muộn trên 30 tuổi. Không nên quan hệ tình dục sớm, nên lấy chồng và có con trước 30 tuổi. Cần chú ý vệ sinh sạch sẽ sau khi giao hợp. Nên sống lành mạnh, thuỷ chung. Không nên quan hệ tình dục với nhiều người, nhớ dùng các biện pháp để bảo vệ mình khỏi bị lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục, và đó cũng là việc làm thiết thực để phòng tránh một số bệnh ung thư. D. Tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ Thuốc lá là nguyên nhân của nhiều loại bệnh nguy hiểm đối với con người như ung thư phổi, nhồi máu cơ tim, xơ vữa động mạch và các bệnh về hệ hô hấp. Theo số liệu điều tra năm 1997, ở Việt nam tỷ lệ nam giới hút thuốc là 73%, nữ giới là 3,4%, ước tính 10% dân số hiện nay (khoảng trên 7 triệu người) sẽ chết sớm do các bệnh có liên quan đến thuốc lá, trong đó 3,7 triệu người sẽ chết ở độ tuổi trung niên. Theo dự báo của Tổ chức y tế thế giới, đến năm 2020 số người chết vì thuốc lá sẽ nhiều hơn tổng số người chết do HIV/ AIDS, lao, tai nạn giao thông đường bộ. Tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ nói chung và gây nên ung thư nói riêng đ ã được y học chứng minh từ nhiều năm nay. * Tử vong do hút thuốc lá: - Cứ 10 giây trên thế giới lại có một người chết vì thuốc lá, cứ 3 người hút thuốc lá thường xuyên mỗi người hút trung bình 20 điếu thuốc lá một ngày thì một trong 3 người 7
- sẽ chết sớm do các bệnh có liên quan tới thuốc lá, đặc biệt là do ung thư. - Theo Tổ chức y tế thế giới thì hút thuốc lá gây 40 - 50% trong tổng số nam giới từ 35 - 69 tuổi tử vong do ung thư. Hút thuốc lá là nguyên nhân của 90 - 95% trong tổng số chết vì ung thư phổi - Dự báo với mức tiêu thụ hiện nay ở Việt Nam hơn 7 triệu người đang sống sẽ chết sớm do mắc các bệnh có liên quan tới thuốc lá. Một nửa trong số đó sẽ chết ở độ tuổi 35 - 69. Những người hút thuốc lá chết sớm hơn so với những người không hút thuốc lá không phải là một ngày, một tháng mà là hàng năm thậm chí tới 23 năm. Đổi 23 năm cuộc đời là quá nhiều cho một sở thích tốn tiền. * Thuốc lá với bệnh ung thư - Vai trò của thuốc lá gây bệnh ung thư đã được chứng minh một cách khoa học từ hơn 200 năm nay đặc biệt là ung thư phổi. Khói thuốc lá chứa hơn 4000 chất hoá học trong đó có 43 chất là tác nhân gây ung thư. Khi hít khói thuốc lá tất cả các chất này sẽ đi vào cơ thể và gây ra nhiều căn bệnh nguy hiểm. - Thời gian hút thuốc càng dài nhất là từ khi tuổi trẻ, số điếu thuốc hút mỗi ngày càng nhiều càng tăng nguy cơ bị ung thư phổi, họng miệng, thực quản, tụy, thận, bàng quang. Một người hút một bao thuốc mỗi ngày thì có nguy cơ bị ung thư phổi cao gấp 10 lần người không hút. Ở cả hai thành phố Hà Nội & Thành phố Hồ Chí Minh ung thư phổi là ung thư phổ biến nhất ở nam giới. Bệnh ung thư phổi là bệnh có khả năng gây chết người cao chỉ có một số ít bệnh nhân sống được 5 năm sau khi phát hiện bệnh, đây cũng là loại ung thư có thể phòng ngừa được bằng cách không hút thuốc. * Thuốc lá với các bệnh đường hô hấp. - Thuốc lá là một nguyên nhân có thể tránh được của rất nhiều bệnh phổi gồm khí phế thũng, hen phế quản, viêm phế quản mạn và bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Đặc biệt thuốc lá đã được chỉ rõ là một nguyên nhân quan trọng nhất của viêm phế quản mạn và khí phế thũng. * Thuốc lá với bệnh tim mạch - Hút thuốc lá làm tim đập mạnh hơn, làm giảm khí ôxy trong máu và làm tổn hại các 8
- tế bào cơ tim. Vì vậy nguy cơ mắc bệnh tim mạch ở những người hút thuốc lá tăng gấp 3 lần so với người không hút thuốc. * Ảnh hưởng của thuốc lá với phụ nữ và thai nhi - Phụ nữ hút thuốc lá làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư cổ tử ung và ung thư vú. Nếu phụ nữ hút trên 20 điếu thuốc mỗi ngày thì nguy cơ mắc ung thư vú sẽ tăng gấp 4 lần. Mãn kinh có thể xuất hiện sớm hơn từ 1 - 2 năm ở những phụ nữ hút thuốc lá, do vậy làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim và chứng loãng xương. Hút thuốc lá có thể gây rối loạn kinh nguyệt và làm giảm khả năng sinh đẻ. Hút thuốc lá còn làm giảm số lượng và chất lượng sữa mẹ. - Mẹ hút thuốc lá trong thời gian mang thai thì máu từ mẹ sẽ mang các chất độc hại của khói thuốc lá truyền qua rau thai và gây ảnh hưởng xấu tới thai nhi, làm tăng nguy cơ suy thai, thai chết lưu, trẻ ra đời hay bị chết non hay bị rối loạn sự phát triển thể chất và tinh thần. Nếu mẹ hút thuốc trong thời gian mang thai thi 50% trẻ sinh ra sẽ có nguy cơ bị mắc các bệnh đường hô hấp. * Hít phải khói thuốc lá cũng có hại cho sức khoẻ (hút thuốc thụ động) - Hút thuốc lá thụ động cũng thực sự là mối đe doạ nghiêm trọng đối với sức khoẻ cộng đồng. Các bằng chứng trong hai thập kỷ qua đã cho phép các nhà khoa học kết luận rằng không có giới hạn an toàn đối với hút thuốc lá thụ động - Môi trường có khói thuốc lá là nguyên nhân gây nên nhiều bệnh tật cho người không hút thuốc như: Ung thư, các bệnh đường hô hấp và tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch. - Trẻ em đặc biệt nhạy cảm với khói thuốc lá, nếu thường xuyên hít thở trong môi trường có khói thuốc lá sẽ tăng tỷ lệ mắc các bệnh đường hô hấp và có thể gây chết đột ngột ở trẻ sơ sinh. Trẻ em bị bệnh hen suyễn hít phải khói thuốc lá gây các triệu chứng lên cơn hen và bệnh trầm trọng hơn. * Ngoài những tác hại đối với sức khoẻ thuốc lá còn là nguyên nhân làm gia tăng ô nhiễm môi trường và gây thiệt hại về kinh tế - Hiện nay, ung thư phổi là loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và trong tương lai bệnh này sẽ tăng lên rất nhiều. Vì thế chi phí cho 9
- điều trị bệnh vì thuốc lá gây ra sẽ tăng lên. Ngành y tế ngày càng phát triển kinh phí chữa bệnh do đó cũng sẽ tăng lên thêm nữa... Mặt khác, chính phủ và cơ quan bảo hiểm cũng phải mất nhiều tiền hơn để trợ giúp cho gia đình của những người bị ốm hoặc chết vì thuốc lá và có nhiều người sống hoặc cùng làm chung phòng với người hút thuốc bị ảnh hưởng khói thuốc mà giảm sút sức khoẻ. - Một người hút thuốc lá một năm hút hết số tiền mua được khoảng 180kg gạo. - Toàn bộ số tiền mà những người hút thuốc lá tại Việt Nam dùng để mua thuốc lá năm 1998 khoảng 6000 tỷ đồng. Số tiền này có thể mua được 1,6 triệu tấn gạo hoặc 200.000 chiếc xe máy SuperDream. 10
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Dấu hiệu nhận biết bệnh ung thư phổi
7 p | 585 | 54
-
Người bệnh ung thư và Thực đơn dinh dưỡng cho : Phần 1
43 p | 151 | 45
-
Bài giảng Dịch tễ học bệnh ung thư - PGS. TS. Đoàn Huy Hậu
47 p | 182 | 38
-
Phòng tránh bệnh ung thư
5 p | 205 | 31
-
Ăn uống phòng bệnh ung thư
8 p | 157 | 29
-
Bài giảng Ung thư dạ dày (50 Tr.)
51 p | 127 | 20
-
Nguyên nhân gây bệnh ung thư
17 p | 185 | 16
-
Bệnh theo phương pháp 4T và phương pháp điều trị: Phần 2
38 p | 76 | 15
-
Bài giảng Phòng ngừa và kiểm soát bệnh ung thư - PGS. TS. Đoàn Huy Hậu
71 p | 133 | 15
-
Chữa bệnh ung thư: Phần 1
182 p | 23 | 7
-
Các nguyên nhân gây bệnh ung thư
5 p | 139 | 7
-
Các nguyên nhân gây bệnh ung thư, phần 2
5 p | 88 | 7
-
Phát hiện và điều trị kịp thời các bệnh ung thư phổ biến ở nữ giới
5 p | 68 | 6
-
Phụ nữ béo dễ bị ung thư tụy
3 p | 126 | 6
-
Những nguyên nhân gây ra ung thư bàng quang ở chị em
4 p | 97 | 3
-
4 nguyên nhân gây ung thư
6 p | 106 | 3
-
Ứng dụng kỹ thuật ARMS-PCR xác định đột biến gen BRCA2 6174delT và TP53 Arg72Pro ở bệnh nhân ung thư vú
4 p | 0 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn