Bài Luận

Nhà máy thủy điện

Nhà Máy Thủy Điện

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA NHÀ MÁY THỦY ĐIỆN

I. KHÁI NIỆM VỀ THỦY ĐIỆN

Thuỷ điện là nguồn điện có được từ năng lượng nước. Đa số năng lượng

thuỷ điện có được từ thế năng của nước được tích tại các đập nước làm quay một

tuốc bin nước và máy phát điện. Kiểu ít được biết đến hơn là sử dụng năng lượng

động lực của nước hay các nguồn nước không bị tích bằng các đập nước như

năng lượng thuỷ triều. Thuỷ điện là nguồn năng lượng có thể hồi phục.

Năng lượng lấy được từ nước phụ thuộc không chỉ vào thể tích mà cả vào sự khác

biệt về độ cao giữa nguồn và dòng chảy ra. Sự khác biệt về độ cao được gọi là áp

suất. Lượng năng lượng tiềm tàng trong nước tỷ lệ với áp suất. Để có được áp

suất cao nhất, nước cung cấp cho một turbine nước có thể được cho chảy qua một

ống lớn gọi là ống dẫn nước có áp.

Nước trong thiên nhiên mang năng lượng ở 3 dạng: hoá năng, nhiệt năng, cơ

năng. Hoá năng của nước thể hiện chủ yếu trong việc tạo thành các dung dịch

muối và hoà tan các loại đất đồi núi trong nước sông. Nhiệt năng của nước thể

hiện ở sự chênh lệch nhiệt độ giữa các lớp nước trên mặt và dưới đáy sông, giữa

nước trên mặt đất và nước ngầm. Hai dạng năng lượng của nước nói trên có trữ

lượng lớn, song phân tán, kỹ thuật sử dụng còn nhiều khó khăn, hiện nay chưa

khai thác được. Cơ năng của nước thiên nhiên thể hiện trong mưa rơi, trong dòng

chảy của sông suối, trong dòng nước và thuỷ triều. Dạng năng lượng này rất lớn,

ta có khả năng và điều kiện sử dụng. Trong đó các dòng sông có nguồn năng

lượng rất lớn và khai thác dễ dàng hơn cả. Năng lượng tiềm tàng đó thường ngày

bị tiêu hao một cách vô ích vào việc khắc phục những trở lực trên đường chuyển

động, ma sát nội bộ, bào mòn xói lở bờ sông và lòng sông, vận chuyển phù sa bùn

cát và các vật rắn, công sản ra để vận chuyển khối nước.

Nhóm 1 1

Nhà Máy Thủy Điện

Nước ta ở vùng nhiệt đới, mưa nhiều, lượng mưa thường từ 1500-2000

mm/năm. Có những vùng như Hà Giang, dọc Hoàng Liên Sơn, Tây Côn Lĩnh ,

Tây Nguyên lượng mưa đến 4000-5000 mm/năm nên nguồn nước rất phong phú.

II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỦY ĐIỆN VIỆT NAM

Ở nước ta việc khai thác sử dụng cơ năng của dòng nước đã có từ lâu,

nhưng chỉ từ đầu thế kỷ thứ XX mới phát triển mạnh mẽ. Hàng nghìn năm về

trước, tổ tiên ta cũng như một số dân tộc Aicập, Trung Quốc đã biết lợi dụng cơ

năng của sông suối để xay lúa, giã gạo và làm cọn nước để đưa nước lên cao phục

vụ nông nghiệp.

Trong thời gian trước năm 1960, ở Miền Bắc một số TTĐ với quy mô công

suất nhỏ được xây dựng mà lớn nhất là TĐ Cấm Sơn trên sông Hóa (Lạng Sơn)

với Nlm =4800 KW (những năm 1980 đã bị tháo bỏ tổ máy do không hiệu quả,

nay đang có phương án lắp máy phục hồi lại), và hồ chứa 250 triệu m3, một số

TTĐ nhỏ; TTĐ Bàn Thạch trên kênh gần đập Bái Thượng Thanh Hóa có Nlm =

960 KW được xây dựng từ năm 1959, đến 1963 thì khánh thành. Một số TTĐ nhỏ

(với Nlm khoảng vài trăm KW) có mặt rải rác ở các tỉnh Lào Cai, Bắc Cạn, Lạng

Sơn.

Những năm từ 1960 đến 1975 có 2 TTĐ quy mô lớn được xây dựng là TTĐ

Đa Nhim trên sông Đa Nhim (thượng nguồn dòng chính Đồng Nai) do người

Nhật xây dựng từ 4/1961 đến 1/1964 hoàn thành với Nlm = 160.000 KW, hồ

chứa 165 triệu m3, cột nước phát điện 798 m. TTĐ Thác Bà trên sông Chảy (Yên

Bái) được xây dựng từ năm 1960-1961 và theo kế hoạch hoàn thành năm 1965,

có Nlm = 108.000 KW, hồ chứa có tổng dung tích 3,94 tỷ m3(Do chiến tranh, quá

trình thi công gián đoạn, nên thực tế đến 5/1971 mưới hoàn thành và phát cả 3 tổ

máy với công suất 108MW. Năm 1986 đã chính thức nâng công suất trạm lên

120MW).

Nhóm 1 2

Nhà Máy Thủy Điện

Công suất thiết kế (MW) Tên nhà máy

Năm 2003 Năm 2004

4155 1920 120 420 167 150 66 720 70 476 46 4155 1920 120 420 167 150 66 720 70 476 46

Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình Thác Bà Trị An Đa Nhim - Sông Pha Thác Mơ Vĩnh Sơn Ialy Sông Hinh Hàm Thuận - Đa Mi Thuỷ điện nhỏ

Nhóm 1 3

Nhà Máy Thủy Điện

CHƯƠNG 2

ĐÁNH GIÁ NĂNG LƯỢNG TIỀM TÀNG CỦA DÒNG NƯỚC

I.TÍNH TRỮ LƯỢNG CHO MỘT CON SÔNG

Muốn tính tữ lượng thuỷ nặng cho mọt con sông, ta phân nó ra nhiều đoạn,

rồi dùng công thức (1-11) tính trữ lượng thuỷ năng cho từng đoạn rồi sau đó cộng

dồn lại.

(KW)

(W)

 Nguyên tắc phân đoạn:

Ta biết, muốn tính công suất, phải biết lưu lượng Q và cột nước H của từng

đoạn. Khi phân đoạn cần tuân theo một số nguyên tắc như:

 Phân đoạn tuần tự từ nguồn đến cửa sông.

 Phân đoạn ở những nơi Q và H thay đổi đặc biệt như nơi có sông nhánh

hoặc suối lớn chảy vào làm cho lưu lượng tăng lên rõ rệt, nơi có độ dốc lòng sông

bắt đầu thay đổi đặc biệt ở những nơi có thác ghềnh thiên nhiên.

Đó là 2 nguyên tắc cơ bản khi chọn mặt cắt phận đoạn còn phải lưu ý những vị trí

thuận tiện và có lợi cho việc khai thác, nơi có khả năng chọn làm tuyến xây dựng

công trình thuỷ điện sau này.

II. CÔNG SUẤT VÀ THỦY LƯỢNG CHO MỘT TRẠM THỦY ĐIỆN

Muốn khai thác thuỷ năng để phát điện, chúng ta phả xây dựng trạm thuỷ

điện. Công trình chủ yếu của trạm thuỷ điện là công trình dâng nước (đập), công

trình tràn và xả nước thừa, công trình lấy nước và dẫn nước, các thiết bị máy móc

thuỷ lực và cơ điện trong nhà máy của trạm thuỷ điện. trong quá trình khai thác

có tổn thất. Tổn thất thuỷ năng của trạm thuỷ điện thể hiện ở:

 Tổn thất lưu lượng do bốc hơi, ngấm theo các đường nước ngầm, thấm

qua lòng hồ, vai đập và thân đập rò rỉ qua công trình và một phần lưu lượng thừa

Nhóm 1 4

Nhà Máy Thủy Điện

phải xả bỏ khi lưu lượng đến nhiều mà công trình không đủ khả năng trữ, turbine

không đủ khả năng tháo lưu lượng lớn.

 Tổn thất cột nước khi chảy qua cửa lấy nước, công trình dẫn nước turbine

cũng như các tổn thất khác trong máy phát điện và hệ thống truyền động.

Vì vậy công suất của trạm thuỷ điện bao giờ cũng bé hơn công suất thiên

nhiên tính theo (1-11). Công suất của trạm thuỷ điện xác định theo công thức:

(1-12)

Trong công thức (1-12) lưu lượng Q và cột nước H đã trừ đi mọi tổn thất về

lưu lượng và cột nước. Mặt khác để thể hiện tổn thất qua máy móc thiết bị trong

công thức còn có hệ số η. Hệ số η được gọi là hiệu suất của trạm thuỷ điện. Hiệu

suất bao giờ cũng nhỏ hơn 1 và bằng:

Trong đó:

– hiệu suất turbine

– hiệu suất máy phát

– hiệu suất truyền động

Nếu turbine và máy phát nối trực tiếp (liên tục) thì

Công thức (1-12) có thể viết dưới dạng:

(1-13)

Trong đó: K = 9,81.

Thông thường khi tính toán thuỷ năng, chưa chọn được thiết bị, nên chưa

xác định được η. Khi tính toán thường lấy theo kinh nghiệm.

 Trạm thủy điện lớn: K = 8 - 8,5

 Trạm thủy điện vừa: K = 7 – 8

 Trạm thủy điện nhỏ: K = 6 – 7

Nhóm 1 5

Nhà Máy Thủy Điện

Điện lượng E của trạm thuỷ điện là điện lượng thực tế mà trạm thuỷ điện

phát ra đầu thanh cái máy phát. Trị số này phụ thuộc vào công suất và thời gian

làm việc của trạm. Dạng chung để tính điện lượng của trạm là:

(1-14)

Hoặc: (1-15)

Trong đó:

ti – thời gian mà trạm làm việc với công suất Ni

n – số đoạn làm việc

Nhóm 1 6

Nhà Máy Thủy Điện

CHƯƠNG 3

NHÀ MÁY THỦY ĐIỆN VÀ CÁC THIẾT BỊ TRONG NHÀ MÁY THUỶ

ĐIỆN

I. KHÁI QUÁT THÀNH PHẦN CỦA NHÀ MÁY THỦY ĐIỆN

Nhà máy thủy điện và bố trí thiết bị trong nhà máy

Nhà máy thủy điện được chia làm hai phần, lấy cao trình sàn máy phát làm

ranh giới phân chia: phần dưới nước và phần trên khô. Phần trên là kết cấu nhà

công nghiệp thông thường chứa hệ thống cầu trục, các phần trên của máy phát

điện, tủ điều khiển tổ máy và thiết bị điều tốc... Phần dưới nước chủ yếu chứa các

bộ phận dưới của máy phát, ống áp lực, buồng turbine, BXCT, ống xả và bố trí hệ

thống thiết bị thiết bị phụ cơ điện.

Trong nhà máy, ngoài các tổ máy phát điện còn có cầu trục dùng để lắp ráp

và vận chuyển các cụm lớn của turbine, máy phát điện, máy biến áp động lực và

Nhóm 1 7

Nhà Máy Thủy Điện

các thiết bị phụ trong nhà máy, trong gian máy thường dùng cầu trục cầu. Ngoài

gian máy chính thường dùng cần trục chữ môn hoặc các loại máy trục khác như

tời, máy nâng kích thủy lực... đặt tại chỗ. Cửa lấy nước và ống xả còn được trang

bị lưới chắn rác, các cửa van và trang thiết bị cơ khí thuỷ công khác. Trạm máy

biến áp đặt song song ở thượng hoặc hạ lưu các tổ máy để rút ngắn chiều dài các

thanh cái máy phát, trong điều kiện nhà máy ngang đập có ống xả dài đặt trạm

biến áp phía hạ lưu nhà máy rất thuận tiện và kinh tế.

II. Phân loại nhà máy thuỷ điện

Nhà máy thuỷ điện được phân loại theo các cách sau:

1. Phân loại theo công suất lắp máy

Phân loại theo cách này mang tính tương đối vì nó tuỳ thuộc vào mức độ

phát triển kinh tế - kỹ thuật của từng quốc gia và mỗi quốc gia cũng tuỳ theo từng

thời kỳ. Nói chung thường phân ra một cách tương đối các loại nhà máy sau:

 Trạm thuỷ điện nhỏ, khi công suất lắp máy Nlm < 5.000 kW

 Trạm thuỷ điện trung bình, khi công suất lắp máy Nlm = 5.000 -

50.000 kW

 Trạm thuỷ điện lớn, khi khi công suất lắp máy Nlm > 50.000 -

1.000.000 kW

Theo TCVN 285 - 2002 đã phân ra các cấp TTĐ sau:

 Trạm thuỷ điện cấp V, khi khi công suất lắp Nlm < 200 kW

 Trạm thuỷ điện cấp IV, khi công suất lắp Nlm < 5.000 - 200 kW

 Trạm thuỷ điện cấp III, khi công suất lắp Nlm < 50.000 - 5.000 kW

 Trạm thuỷ điện cấp II, khi công suất lắp Nlm < 300.000 - 50.000kW

 Trạm thuỷ điện cấp I, khi công suất lắp Nlm ≥ 300.000 kW

 Khi trạm thủy điện khi công suất lắp Nlm > 1.000.000 kW thường

được coi là trạm thủy điện cấp đặc biệt.

Nhóm 1 8

Nhà Máy Thủy Điện

2. Phân loại theo điều kiện chịu áp lực nước thượng lưu

Phân loại theo cách này ta có:

 Nhà máy thuỷ điện ngang đập (nhà máy trực tiếp chịu áp lực nước

thượng lưu)

 Nhà máy thuỷ điện sau đập và nhà máy đường dẫn (không trực tiếp

chịu áp lực nước thượng lưu)

3. Phân loại theo cột nước của trạm thuỷ điện

Phân loại theo cách này ta có:

 Trạm thuỷ điện cột nước thấp, khi Hmax < 50 m

 Trạm thuỷ điện cột nước trung bình, khi 50 m ≤ Hmax ≤ 400 m

 Trạm thuỷ điện cột nước cao, khi Hmax > 400 m

4. Phân loại theo kết cấu nhà máy

Theo cách phân loại này ta có những loại nhà máy sau:

 Nhà máy thuỷ điện không kết hợp xả lũ (công trình xả lũ nằm ngoài

nhà máy)

 Nhà máy thuỷ điện kết hợp xả lũ (công trình xả lũ nằm trong nhà

máy)

 Nhà máy thuỷ điện kết hợp về kết cấu (nhà máy trong thân đập, nhà

máy trong các mố trụ, nhà máy trong tháp xả nước....)

 Nhà máy ngầm và nửa ngầm

 Nhà máy thuỷ điện tích năng

Nhà máy thuỷ điện thuỷ triều...

III. NGUYÊN LÝ KHAI THÁC THUỶ NĂNG

Từ các công thức N = 9,81.η .Q.H hay N = K.Q.H, ta thấy N tỉ lệ thuận với

Q,H,

và η . Do đó muốn tăng công suất phải tìm cách tăng Q, H, η

Việc tăng lưu lượng Q có thể dùng các biện pháp tập trung và điều tiết dòng chảy,

Nhóm 1 9

Nhà Máy Thủy Điện

tăng lưu lượng mùa kiệt. Mặt khác có thể lấy nước từ lưu vực khác bổ sung cho

lưu lượng của trạm.

Cột nước H thì phân bố, phân tán dọc theo chiều dài sông. Do đó muốn tăng H thì

phải dùng biện pháp nhân tạo bằng cách xây dựng công trình thuỷ lợi.

Ngoài ra, muốn cho công suất của trạm thuỷ điện phát ra lớn, phải có máy

móc thiết bị tốt, có hiệu suất cao.

IV. BIỆN PHÁP KHAI THÁC THUỶ NĂNG

1.Cách tập trung cột nước

Tuỳ theo biện pháp tăng cột nước, mà ta có các phương thức khai thác

thuỷ năng sau đây:

- Dùng đập để tạo thành cột nước.

- Dùng đường dẫn để tạo thành cột nước.

- Dùng hỗn hợp cả đập và đường dẫn để tạo thành cột nước

2.Dùng đập để tạo thành cột nước.

Xây dựng đập tại một tuyến thích hợp nơi cân khai thác. Đập tạo ra cột

nước do sự chênh lệch mực nước thượng hạ lưu đập. Đồng thời tạo nên hồ chứa

có tác dụng

Nhóm 1 10

Nhà Máy Thủy Điện

tập trung và điều tiết lưu lượng, làm tăng khả năng phát điện trong mùa kiệt,

nâng cao hiệu quả lợi dụng tổng hợp nguồn nước như cắt lũ chống lụt, cung cấp

nước, nuôi cá, vận tải thuỷ…Phương thức tập trung cột nước như sơ đồ hình (1-3)

được gọi là phương thức khai thác kiểu đập. Phương thức này có ưu điểm là vừa

tập trung được cột nước vừa tập trung và điều tiết lưu lượng phục vụ cho việc lợi

dụng tổng hợp nguồn nước. Song nó có nhược điểm là đập càng cao, khối lượng

xây lắp càng nhiều, kinh phí lớn, ngập lụt và thiệt hại nhiều. Khi thiết kế xây

dựng phải thông qua tính toán kinh tế kỹ thuật , so sánh lựa chọn phương án có

lợi.

Sơ đồ khai thác kiểu đập thường thích ứng với các vùng trung du của các

sông nói có độ dốc lòng sông tương đối nhỏ, địa hình địa thế thuận lợi cho việc

tạo nên hồ chứa có dung tích lớn là tổn thất ngập lụt tương đối nhỏ. Ngược lại ở

vùng thượng lưu, do lòng sông hẹp, độ dốc lòng sông lớn nên dù có làm đập cao

cũng khó tạo thành hồ chứa có dung tích lớn. Ở hạ lưu, độ dốc lòng sông nhỏ, xây

đập cao dẫn đến ngập lụt lớn thiệt hại nhiều. Cho nên ở vùng này ít có điều kiện

khai thác kiểu đập.

Với sơ đồ khai thác kiểu đập, trạm thuỷ điện có thể bố trí ở ngang đập hay

sau đập (xem hình 1-4 và 1-5 ) nhưng thường thấy hớn cả là loại trạm thuỷ điện

sau đập. Trạm thuỷ điện ngang đập chỉ thích ứng trong trường hợp cột nước thấp,

nhà máy đủ sức chịu lực như một đoạn đập và kết cấu kinh tế.

Nhóm 1 11

Nhà Máy Thủy Điện

3.Tập trung cột nước bằng đường dẫn

Ở những đoạn sông thượng lưu, độ dốc lòng sông thường lớn, lòng sông

hẹp, dùng đập để tạo nên cột nước thường không có lợi cả về tập trung cột nước,

tập trung và điều tiết lưu lượng. Trong trường hợp này cách tốt nhất là dùng

đường dẫn để tạo thành cột nước ( hình 1-6).

Đặc điểm của phương thức này là cột nước do đường dẫn tạo thành. Đường

dẫn có thể là kênh máng, ống dẫn hay đường hầm có áp hoặc không áp. Đường

dẫn có độ dốc nhỏ hơn sông suối, nên dẫn càng đi xa độ chênh lệch giữa đường

dẫn và sông suối càng lớn, ta được cột nước càng lớn. Hay nói cách khác, đường

dẫn dài chủ yếu để tăng thêm cột nước cho trạm thủy điện. Đập ở đây thấp và chỉ

có tác dụng ngăn nước lại để lấy nước vào đường dẫn. Do đập thấp nên nói chung

tổn thất do ngập lụt nhỏ.

Đối với sơ đồ khai thác này tuỳ tình hình và yêu cầu cụ thể mà có thêm các

công trình phụ khác như: cầu máng, xi phông, bể áp lực, tháp điều áp, bể điều tiết

ngày.vv…

Cách tập trung cột nước bằng đường dẫn được ứng dụng rộng rãi ở các sông

suối miền núi có độ dốc lớn và lưu lượng nhỏ.

Nhóm 1 12

Nhà Máy Thủy Điện

4. Tập trung cột nước bằng đập và đường dẫn

Khi vừa có điều kiện xây dựng hồ để tạo ra một phần cột nước và điều tiết

lưu lượng lại vừa có thể lui tuyến nhà máy ra xa đập một đoạn nữa để tận dụng độ

dốc lòng sông làm tăng cột nước, thì cách tốt nhất là dùng phương pháp tập trung

cột nước bằng đập và đường dẫn. Với phương thức này, cột nước của trạm thuỷ

điện do đập và đường dẫn tạo thành. Đập thương đặt ở chỗ thay đổi độ dốc của

lòng sông nơi khai thác. ( hình 1-7)

5. Một số trường hợp đặc biệt dùng phương thức khai thác kiểu đường

dẫn.

Trong điều kiện của sông suối tự nhiên, phương thức khai thác kiểu

đường dẫn ngoài việc ứng dụng ở những nơi có độ dốc lớn (II) còn ứng dụng ở

những nơi có thác nước tập trung (I), ở những nơi sông uốn khúc (III), chỗ hai

sông gần nhau, có cao trình chênh lệch nhau lớn (IV) hay hồ thiên nhiên có nguồn

nước phong phú nằm trêncao.(V) ( xem hình 1-9).

Nhóm 1 13

Nhà Máy Thủy Điện

a. Bố trí trạm thuỷ điện trên kênh tưới

Trên kênh tưới thường gặp bậc nước và dốc nước. Ngày nay người ta

thường làm những trạm thuỷ điện nhỏ trên kênh tưới ở các bậc nước và dốc nước.

Trạm thuỷ điện loại này thực chất là những loại đường dẫn. Tuỳ theo vị trí bậc

nước và dốc nước nằm trên kênh nhánh hay kênh chính mà bố trí trạm thuỷ điện

nằm trên kênh nhánh hay kênh chính . Do kênh chính dẫn lưu lượng lớn và thời

gian làm việc kéo dài hơn trên kênh nhánh nên công suất và điện lượng của trạm

thuỷ điện đặt trên kênh chính lớn hơn trên kênh nhánh. Thí dụ trạm thuỷ điện Bàn

Thạch ( Thanh Hoá) trên kênh chính có N = 960 kw, còn trạm Hậu Hiền ( Thanh

Hoá) trên kênh nhánh có công suất N = 10kw.

Nhóm 1 14

Nhà Máy Thủy Điện

b. Trạm thuỷ điện tích năng

Trong thực tế có một số trạm phát điện có năng lượng thay đổi ( sức gió,

thuỷ triều…) có lúc năng lượng nhiều, phát ra điện nhiều, cung cấp cho phụ tải

thừa, nhưng cũng có lúc năng lượng thiếu, cung cấp điện không đầy đủ. Để giải

quyết mâu thuẫn đó người ta chỉ ra cách bố trí trạm thuỷ điện kiểu bơm nước tích

năng. Lúc thừa điện bơm nước lên bể cao, lúc thiếu điện lấy nước dùng để phát

điện cung cấp thêm cho yêu cầu của phụ tải. Hình thức này không phải là trực

tiếp lợi dụng thiên nhiên mà là tạo điều kiện để lợi dụng tốt năng lượng của các

trạm phát điện, giải quyết phụ tải đỉnh.

Ngoài việc phối hợp với trạm điện sức gió và thuỷ triều như đã trình bày ở

trên, trạm thuỷ điện tích năng còn phối hợp với trạm nhiệt điện để nâng cao hiệu

suất của trạm nhiệt điện. Cụ thể, có những lúc trạm nhiệt điện thừa điện, điện

thừa dùng để bơm nước cho trạm thuỷ điện tích năng. Khi phụ tải tăng, trạm thuỷ

điện tích năng làm nhiệm vụ và bổ sung điện cho phụ tải, hoặc đảm nhận phụ tải

đỉnh, để trạm nhiệt điện làm việc bới công suất ít thay đổi, do đó nâng cao hiệu

suất của trạm nhiệt điện.

Nhóm 1 15

Nhà Máy Thủy Điện

c. Trạm thuỷ điện thuỷ triều

Trạm thuỷ điện thuỷ triều lợi dụng năng lượng thuỷ triều để phát điện. Các

trạm thuỷ điện thuỷ triều thường bố trí ở các vịnh hay các đoạn sông gần biển khi

thoả mãn hai điều kiện.

- Cần có vịnh hay đoạn sông để trữ nước lại điều tiết.

- Cần có độ chênh cột nước thuỷ triều đủ sức quay turbine.

Hiện nay có mấy loại trạm thuỷ điện thuỷ triều sau đây:

Trạm thuỷ điện 1 chiều 1 hồ

Công trình bao gồm: nhà máy thuỷ điện (A), cống khống chế (B) và đập

ngăn.Nguyên tắc làm việc: Khi triều lên ta đóng cửa cống B lại. Cột nước

triều tăng lên,còn cột nước ở vịnh không đổi. Đến thời điểm t1 thì độ chênh lệch

cộ nước giữa vịnh và biển đủ cho phép phát điện, bấy giờ ta mới cho trạm thủy

điện A làm việc trong thời gian từ t1 đến t2. Tại thời điểm t2 nước triều bắt đầu

rút xuống, không cho phép phát điện nữa. Triều xuống đến điểm D thì mực nước

Nhóm 1 16

Nhà Máy Thủy Điện

biển bằng mực nước vịnh ( Zbiển = Zvịnh) lúc này ta mở cửa cống B để cho mực

nước trong vịnh tiếp tục giảm xuống.

Đến thời điểm t3 thì triều bắt đầu lên, ta lại vận hành tương tự như trên hình

1.9

Trạm thủy điện thủy triều một chiều một hồ có ưu điểm là bố trí đơn giản,

quản lý nhẹ nhàng. Nhưng có nhược điểm là thời gian phát điện ngắn ( chỉ

lúc triều lên). Do đó năng lượng phát ra nhỏ, không phù hợp với yêu cầu dùng

điện. Để khắc phục nhược điểm trên có thể dùng các biện pháp sau đây:

- Bố trí một họ tổ máy chuyên phát điện lúc triều lên và một họ tổ máy

chuyên phát điện lúc triều xuống. Cách giải quyết này có khuyết điểm là tăng

thiết bị, do đo giá thành tăng và mức lợi dụng máy móc thấp, cho nên ít dùng biện

pháp này.

- Dùng loại turbine thuận nghịch, song kết cấu phức tạp, nên giá thành cao.

- Có thể thay đổi một số kết câu thủy công để dùng lúc triều lên và triều

xuống.

Do đó ta có thêm một số trạm thủy điện thủy triều sau:

Trạm thủy điện một hồ 2 chiều

Các công trình của trạm thuỷ điện gồm có: Đập, nhà máy thuỷ điện, 4

cóng vận hành A, B, C, D và 2 cống khống chế E, F ( hình 1-10)

Nhóm 1 17

Nhà Máy Thủy Điện

Nguyên tắc làm việc:

- Thời gian từ t0 ÷ t1, mực nước biển lớn hơn mực nước hồ, nhưng chênh

lệch đầu nước chưa đủ sức để phát điện. Lúc này các cửa cống đều đóng kín.

- Tại thời điểm t1, chênh lệch cột nước đủ để phát điện. Ta mở cửa cống A

và B để phát điện đến thời gian t2 ( khi triều bắt đầu xuống)

- Thời gian từ t2÷ t3 , mực nước biển xuống, nhưng vẫn còn cao hơn mực

nước hồ, song không đủ để phát điện. Lúc này ta đóng cửa cống A và B lại , và

mở cửa cống E, F ra để cho nước vào hồ, mục đích là làm tăng cột nước cho hồ.

Tại thời điểm t3 mực nước hồ bằng mực nước biển , ta đóng cống E, F lại.

- Trong thời gian từ t3÷ t4 mực nước hồ lớn hơn mực nước biển, nhưng

chưa đủ để phát điện. Tại thời điểm t4 , mực nước chênh lệch đủ để phát điện, ta

tiến hành mở cống C, D để phát điện. Đến thời điểm t5 , mực nước không đủ để

phát điện, ta đóng C, D lại đồng thời mở E, F ra để hạ thấp mực nước trong hồ.

Đến thời điểm t6 mực nước hồ bằng mực nước biển, ta đóng E, F lại. Quá trình

lại diễn biến tương tự như lúc đầu. Ưu điểm của loại trạm này là thời gian phát

điện tương đối dài, công trình tập trung dễ quản lý và độ thay đổi cột nước ít.

Song nó có khuyết điểm là vẫn còn thời gian ngừng phát điện, do đó mà

không phù hợp với phụ tải bên ngoài. Mặt khác số cửa công tăng, nên giá thành

tăng, yêu cầu thao tác cao. Để khắc phục nhược điểm về thời gian phát điện trên,

ta có thể dùng lại trạm thuỷ điện 2 hồ 1 chiều.

Nhóm 1 18

Nhà Máy Thủy Điện

Trạm thuỷ điện 2 hồ 1 chiều.

Công trình gồm có: 2 hồ, 1 nhà máy, cửa nước vào A và cửa nước ra B

( xem hình 1-11 )

Nguyên tắc làm việc: Phải đảm bảo hồ trên và hồ dưới luôn có một độ chênh

cột nước nhất định. Khi triều lên đóng B đồng thời mở A để tích nước cho hồ trên

trong thời gian từ t0 đến t1. Lúc này trạm thuỷ điện vẫn làm việc bình thường. Tại

thời điểm t1, triều bắt đầu xuống ta đóng A lại, nước hồ trên vẫn tiếp tục chảy

xuống hồ dưới, mực nước hồ trên rút xuống, mực nước hồ dưới dần dần tăng lên

đến t2

Tại thời điểm t2 mực nước hồ dưới bằng mực nước hồ dưới xuống theo

triều, đến thời điểm t3 thì đóng cửa B lại. Trong thời gian từ t3 đến t4 nước triều

lên, đến thời điểm t4 thì mực nước biển bằng mực nước hồ trên, ta lại bắt đầu mở

cửa A để nước hồ trên tăng lên… quá trình làm việc lặp lại như ban đầu.

Ưu điểm của cách bố trí này là cột nước thay đổi ít, phát điện liên tục, nhưng

công suất nhỏ. Song nó có nhược điểm là công trình phân tán, do đó quản lý khó

khăn. Mặt khác phải xây dựng nhiều đập, nên tiền đầu tư vào 1 kw công suất lớn.

Mặc dù trạm thuỷ điện thuỷ triều có vốn đầu tư đơn vị tương đối lớn, nhưng ở

nhiều nước đã và đang xây dựng và thiết kế khá nhiều trạm thuỷ điện thuỷ triều

lớn.

Nhóm 1 19

Nhà Máy Thủy Điện

V. ĐẶC ĐIỂM VÀ CẤU TẠO CỦA NHÀ MÁY ĐIỆN

1.Nhà máy thủy điện ngang đập

Nhà máy thuỷ điện ngang đập là một phần của đập dâng do vậy nó trực

tiếp chịu áp lực nước thượng lưu, đồng thời cũng là công trình lấy nước trực tiếp

vào turbine. Vì vậy loại nhà máy này được sử dụng thường với cột nước nhỏ (H ≤

30 - 40 m). Các nhà máy lớn và trung bình thường dùng turbine cánh quay trục

đứng. Những tổ máy lớn có đường kính BXCT D1 = (10 - 10,5) m. Phần dưới

nước của nhà máy loại này ở trong trường hợp làm việc bất lợi hơn các loại sau

đập và đường dẫn. Áp lực nước từ một phía đòi hỏi nhà máy phải ổn định không

bị trượt theo theo đế, và khi xây dựng trên nền không phải đá còn phải tính ổn

định của nền và chống lún, như một công trình chắn nước. Vì cần bảo đảm tính

vững chắc và ổn định, cũng như vì kích thước lớn và hình dạng phức tạp của

buồng turbine và ống xả, phần dưới nước của nhà máy thủy điện ngang đập, loại

đặt ngay tuyến công trình thường là phần đắt tiền nhất của công trình. Cửa lấy

nước đặt ngay trước buồng turbine, có bố trí các rãnh thả lưới chắn rác, rãnh van

sửa chữa, rãnh van công tác. Dùng cầu trục di động bên trên để nâng hạ lưới và

van. Trong trường hợp có vật nổi lớn nguy hiểm, có thể đặt thêm tường ngực để

Nhóm 1 20

Nhà Máy Thủy Điện

chắn; bố trí rãnh để thả van công tác khi cần ngăn nước vào buồng xoắn. Nếu có

xả lũ kết hợp trong nhà máy thì đặt rãnh van sữa chữa của công trình tràn có áp;

cuối đường xả đặt van xã tràn. Việc bố trí công trình xả lũ trong nhà máy sẽ làm

tăng thêm cột nước của trạm vào mùa nước lũ và giảm bớt chiều rộng đập tràn,

dẫn đến giảm khối lượng công trình trạm. Phía trên đoạn khuếch tán của ống xả

dài, bố trí thiết bị phụ, phòng phân phối điện cấp điện áp máy phát, trên nó là

trạm máy biến áp... Để thao tác van hạ lưu, ở hình trên cũng dùng cần trục cổng.

Đường ô tô và đường tàu lửa cũng được đặt phía trên phần ra của ống xả. Trạm

phân phối ca áp đặt ở phần trên ống xả và phần trên nhà máy.

2.Nhà máy thủy điện sau đập

Nhà máy thủy điện sau đập thường dùng cho các trạm có đập khô và đập

tràn với cột nước trung bình và cao. Với nhà máy sau đập, thường dùng buồng

xoắn kim loại mặt cắt tròn. Nhờ những thay đổi kết cấu của nhà máy mà phần

dưới nước giảm đi nhiều. Phần trên có thể dùng các kết cấu khác hoặc giống như

trong nhà máy ngang đập. Loại nhà máy này, ống xả không dài thường không đủ

chiều rộng để đặt máy biến áp, do vậy tận dụng khoảng trống giữa đập và nhà

Nhóm 1 21

Nhà Máy Thủy Điện

máy để đặt trạm biến áp là thích hợp. Cột điện cao thế có thể đặt trên thân đập bê

tông. Nhà máy thuỷ điện sau đập thường dùng với cột nước từ (30 - 45) m ≤ H ≤

(250 - 300) m. Turbine được sử dụng thường là turbine tâm trục, turbine cánh

quay cột nước cao hoặc turbine hướng chéo. Để giảm ảnh hưởng lún không đều,

giữa đập bê tông và nhà máy đặt khớp lún.

3.Nhà máy thủy điện kiểu đường dẫn

Nhà máy thủy điện kiểu đường dẫn về cơ bản giống nhà máy thủy điện

sau đập, song chỉ khác là kích thước phần dưới nước của nhà máy giảm nhỏ hơn

do đường kính turbine nhỏ, nhất là khi lắp turbine gáo. Ở những trạm đường dẫn

cột nước cao, sử dụng turbine tâm trục thì trong một số trường hợp sử dụng ống

xả thẳng hình chóp hoặc ống xả loa kèn nên kết cấu phần dưới cũng đơn giản

hơn, nước sau khi ra khỏi ống xả chảy về kênh xả hạ lưu.

4.Nhà máy thủy điện ngầm

Sự khác biệt giữa nhà máy ngầm và loại nhà máy khác là ở chỗ toàn bộ nhà

máy đều được đặt ngầm trong lòng đất đá, liên hệ giữa nhà máy với bên ngoài

bằng các đường hầm và giếng riêng. Tùy thuộc vào độ cứng của địa chất bao

Nhóm 1 22

Nhà Máy Thủy Điện

quanh nhà máy mà kết cấu có khác: nếu nhà máy được đặt trong khối đá cứng

chắc thì không cần lớp áo chịu lực, nếu khối đá yếu thì phải có lớp áo chịu lực

bao quanh. Để bảo vệ gian máy khỏi nước thấm và nước ngưng tụ xuất hiện trên

bề mặt đá hoặc lớp trên lớp áo bêtông, tường vòm.. thường xây lớp áo, giữa áo và

lớp đá là không khí. Dùng thiết bị thông gió thổi qua khoảng không ấy để loại bỏ

nước ẩm. Ở trạm thủy điện cột nước thấp và trung bình có kích thước turbine lớn,

đồng thời nhà máy đặt trong đá yếu và nứt nẻ, do vậy trong nhà máy chỉ đặt

turbine, máy phát và cầu trục cầu. Cửa van sự cố đặt cuối đường dẫn và sửa chữa

ống xả có thể bố trí trong đường hầm riêng dọc theo nhà máy. Khi nhà máy đặt

không sâu so với mặt đất thì máy biến áp có thể đặt trên mặt đất. Dùng đường

hầm để dẫn dây điện từ máy phát đến máy biến áp. Việc sửa chữa máy biến áp có

thể tiến hành tại trạm phân phối cao áp, hoặc có thể dùng đường hầm đưa máy

biến áp vào sàn lắp ráp trong nhà máy để sửa chữa. Đối với những nhà máy đặt

khá sâu dưới mặt đất thì máy biến áp được bố trí trong một đường hầm riêng chạy

song song nhà máy. Đối với nhà máy có cột nước cao dùng turbine tâm trục có số

vòng quay lớn, do kích thước tổ máy giảm thì máy biến áp có thể đặt trực tiếp gần

gian máy trong cùng một khoang và có tường riêng để bảo vệ. Nhờ vậy giảm

được tổn thất điện năng từ thanh cái máy phát đến máy biến áp, đơn giản sơ đồ

đấu dây và điều kiện làm việc của khối đá xung quanh nhà máy được ổn định vì

số đường hầm đào trong đá ít…

Để bảo đảm nhiệt độ và độ ẩm thích hợp cho nhân viên vận hành và điều

kiện làm việc bình thường của thiết bị, trong nhà máy ngầm cần phải có hệ thống

điều hòa không khí, hệ thống thông gió và hút bụi, có thể dùng nhiệt của máy

phát và máy biến áp để sưởi ấm gian máy về mùa lạnh.

Nhóm 1 23

Nhà Máy Thủy Điện

5.Nhà máy thủy điện tích năng

Kết cấu nhà máy TĐ tích năng, nhìn chung cũng giống những nhà máy

khác, chỉ có phần dưới nước là khác. Để đảm bảo chu trình làm việc, trong nhà

máy đặt cả turbine và máy phát. Trong mọi trường hợp, cột nước làm việc của

turbine nhỏ hơn cột nước mà máy bơm tạo ra một ít. Có thể dùng các loại turbine

tâm trục, cánh quay, turbine cánh chéo đồng thời làm máy bơm. Để làm điều đó

cần thay đổi hướng quay, còn máy phát chuyển thành động cơ điện. Các tổ máy

như thế là tổ máy thuận nghịch, cho phép đơn giản hóa sơ đồ bố trí nhà máy,

giảm kích thước và giá thành xây dựng. Khi cột nước H = (12÷15) m thì turbine

cáp xun thuận nghịch trục ngang là hiệu quả hơn cả. Dùng tổ máy có turbine

thuận nghịch và máy phát - động cơ gọi là “tổ máy hai máy“.

Khi cột nước cao hơn 100 - 150 m, dùng rộng rãi “tổ máy ba máy“ gồm turbine,

máy bơm, máy phát - động cơ. Máy bơm đặt sâu hơn turbine. Giữa trục nối của

turbine và trục máy bơm dùng một khớp ly hợp để ngắt turbine hoặc máy bơm

khi làm việc ở chế độ tương ứng. Dưới khớp ly hợp bố trí một turbine gáo đồng

Nhóm 1 24

Nhà Máy Thủy Điện

bộ phụ dùng khi đưa tổ máy bơm vào hoạt động mà không phải dừng tạm thời

động cơ. Sơ đồ này cho phép nâng cao hiệu suất tổ máy. Để giảm bớt lực dọc trục

tác dụng lên ổ chịu lực của máy phát - động cơ, dưới máy bơm bố trí đế tựa để đỡ

trọng lượng máy bơm.

Ngoài những loại nhà máy trên, trong thực tế xây dựng thủy điện còn những loại

nhà máy khác (như nhà máy lộ thiên, nhà nưả ngầm, nhà may trong trụ,..) rất đa

dạng.

VI. CÁC THIẾT BỊ CHÍNH CỦA NHÀ MÁY THỦY ĐIỆN

1) Máy phát điện của trạm thủy điện

Máy phát điện là thiết bị biến cơ năng của turbune thành điện năng cung

cấp cho hệ thống điện, nó là loại máy phát đồng bộ ba pha có vòng quay thường

thấp, cực lồi. Các bộ phận chính của máy phát là: phần quay rotor, phần tĩnh

stator, hệ thống kích từ, hệ thống làm nguội máy phát, hệ thống chống cháy, nén

nước...

Nhóm 1 25

Nhà Máy Thủy Điện

Phân loại và các bộ phận của máy phát điện thuỷ lực

Dựa vào vị trí tương đối giữa rotor và ổ trục đỡ chia máy phát ra hai kiểu

chính:

 Máy phát điện kiểu treo: ổ đỡ đặt trên giá đở trên, nằm trên rotor

 Máy phát kiểu ô: ổ đỡ đặt dưới rotor; kiểu này lại chia hai kiểu nữa

là : kiểu ô thường với ổ đỡ đặt trên giá đỡ dưới, kiểu ô thấp với ổ đỡ đặt trực tiếp

lên nắp turbine trình bày máy phát kiểu ô thấp - không có giá đỡ dưới.

Cấu tạo các bộ phận của hai kiểu máy phát:

 Rotor 1 gồm có mayơ gắn trên trục, khung và vành bánh để gắn các

cực từ. Mỗi cực từ gồm có lõi thép và cuộn dây điện lấy điện từ máy kích từ qua

vòng góp về và trở thành nam châm điện khi quay. Ở các máy phát hiện đại, vành

6 được làm từ các lá thép vòng dày 3-4 mm. Lõi thép của các cực từ được làm từ

những lá thép dập dày 1,5 -2 mm, số lượng cực từ xác định qua tính toán.

 Stator của phát phát: Stator của máy phát gồm: thép từ, cuộn dây

(trong hình vẽ là phần dây đưa ra bên ngoài của nó) và thân để gắn cực từ. Để

tăng khả năng làm mát, trong các thép từ có các rãnh thông gió. Thân của stator

được đặt lên bệ máy và được gia cố chắc chắn.

Sơ bộ xác định các thông số máy phát

Công suất định mức là công suất tác dụng lớn nhất của máy phát NMP

(kW)

Công suất biểu kiến: (kVA)

Công suât vô công: (var)

Với các loại turbine thông thường thì điện áp máy phát được chọn thiết kế

theo thống kê sau đây tuỳ thuộc vào công suất của máy phát:

 NMP < 4 MW thì điên áp máy phát: UMF = 3,15 kV

 NMP ≤ 15 MW thì điên áp máy phát: UMF = 6,3 kV

Nhóm 1 26

Nhà Máy Thủy Điện

 NMP ≤ 70 MW thì điên áp máy phát: UMF = 10,5 kV

 NMP > 70 MW thì điên áp máy phát: UMF = 18 kV

2) Cầu trục trong nhà máy thuỷ điện

Trong nhà máy TĐ để phục vụ cho việc lắp ráp và sửa chữa tổ máy cần phải

có cầu trục. Thông thường cầu trục chính bố trí trong gian máy chính, tầm hoạt

động của nó phải bao quát toàn bộ gian máy và sàn lắp ráp.

Chọn cầu trục trong nhà máy căn cứ vào trọng lượng và kích thước vật nâng

lớn nhất (rotor máy phát + trục, BXCT turbine + trục, MBA..) và kích thước đủ

bố trí các thiết bị và đi lại theo bề rộng gian máy. Trường hợp không có cầu trục

đã sản xuất thì mới đặt hàng chế tạo đơn chiếc, vì chế tạo đơn chiếc sẽ lâu và đắt

hơn…

3) Máy biến áp

Việc truyền tải điện năng đi xa được tiến hành với điện áp cao nhằm giảm

tổn thất trên dây tải và giảm tiết diện dây tải, khoảng cách tải càng xa và công

Nhóm 1 27

Nhà Máy Thủy Điện

suất tải càng lớn thì điện áp càng phải cao. Ví dụ để tải 500 MW đi xa 100 - 200

km cần phải có điện áp 220 kV. Khi nâng áp để tải điện đi xa thì cuối đường dây

lại phải hạ áp xuống 3 đến 6 kV, và thường nhất là 380 V để cấp cho các hộ sử

dụng điện. Do vậy máy biến áp phải làm nhiệm vụ nâng và giảm điện áp. Máy

biến áp hiện đại thường có hiệu suất cao (đến 99% và hơn), tuy nhiên tổn hao

chung cho các trạm biến áp vào khoảng 4 - 6% điện năng hàng năm của các trạm

điện sản ra.

Máy biến áp có thể phân loại theo số cuộn dây: Máy biến áp hai dây cuốn

(dùng nâng điện áp lên một cấp) và máy biến áp ba dây cuốn (dùng nâng điện áp

lên hai cấp điện áp trung áp và cao áp cho hai hệ thống khác nhau). Hoặc phân

loại theo số pha: máy biến áp ba pha và máy biến áp một pha. Cùng với máy biến

áp ba dây cuốn, trong TTĐ còn có thể sử dụng máy biễn áp tự ngẫu, điểm khác cơ

bản của nó là trong nó không chỉ có quan hệ về điện từ mà còn có quan hệ về điện

giữa các cuộn dây trung áp và cao áp. Loại này có nhiều ưu điểm trong vận hành

và cho phép giảm điện áp ngắn mạch có thể xảy ra giữa cuộn thấp áp và một pha

nào đó trong cuộn cao áp.

4) Bố trí các thiết bị phụ trong nhà máy thủy điện

Yêu cầu bố trí các thiết bị này là bảo đảm vận hành an toàn, tiện lợi và kinh

tế. Cần chọn sơ đồ làm việc chắc chắn và đơn giản, thao tác thuận tiện, các phòng

có liên quan cần đặt gần nhau để rút ngắn đường dây cáp điện, diện tích các

phòng vừa phải, không lãng phí. Đối với nhà máy nhỏ, có thể bố trí các phòng

trong gian máy, còn nhà máy lớn có thể phải bố trí riêng biệt mới bảo đảm đủ

diện tích yêu cầu.

Các thiết bị thuộc nhóm các phòng thao tác

 Phòng điều hiển trung tâm là đầu não chỉ huy của toàn trạm. Trong phòng

này bố trí các bảng điều khiển, các tủ tín hiệu đo lường và rơle bảo vệ. Diện tích

phòng vào khoảng 80 - 200m2 với chiều cao 4 - 6 m, không có cột. Phòng điều

Nhóm 1 28

Nhà Máy Thủy Điện

 khiển trung tâm cần bảo đảm sáng sủa, thuận tiện liên lạc với các bộ phận

của trạm thông qua các cáp nhị thứ từ các nơi dẫn về. Vị trí của phòng này thường

đặt cùng cao trình với sàn máy phát để rút ngắn đường cáp nhị thứ. Do trong

phòng đặt các thiết bị đo lường, tín hiệu chính xác nên cần bố trí ở nơi yên tĩnh,

tránh rung động và khách vãn lai. Để sớm đưa tổ máy đầu vào vận hành cần đặt

phòng điều khiển ở đầu nhà máy hoặc gần tổ máy đầu tiên.

 Nhóm phòng điện một chiều: có nhiệm vụ cung cấp dòng một chiều cho

các thiết bị đo lường, tín hiệu, điều khiển và thắp sáng khi sự cố nhà máy. Cụm

phòng này gồm các phòng ắc quy, axit và phòng máy nạp điện cho ắc quy. Do khí

độc từ ắc quy và axit nên chúng phải đặt tách biệt với các phòng khác và có các

cửa thông gió riêng, không dùng chung cửa và hệ thống thông gió với phòng

khác. Máy nạp nên đặt cạnh phòng ắc quy axit, nếu máy nạp có trọng lượng

không lớn hay dùng chỉnh lưu thuỷ ngân thì có thể đặt ở tầng trên gần phòng điều

khiển trung tâm, tiện theo dõi nạp điện. Diện tích phòng ắc quy cần 30 - 60 m2,

phòng axit 10 - 15 m2, phòng nạp điện 20 - 40 m2.

Nhóm 1 29

Nhà Máy Thủy Điện

 Phòng phân phối cấp điện áp máy phát : Phòng này đặt các thiết bị đóng,

ngắt (máy cắt, dao cách ly, cầu chì..) để phân phối điện từ thanh cái máy phát đi

đến trạm máy biến áp, máy biến áp tự dùng và đường dây tải khác. Để rút ngắn

chiều dài thanh cái từ máy phát đến máy biến áp nên đặt phòng này giữa hai máy

và gần sát máy phát, ở tầng xây ghé với gian máy phát cùng cao trình sàn máy

phát, hoặc ở tầng turbine sát máy phát. Phòng phân phối cần cao ráo, bảo đảm an

toàn đi lại, rộng chừng 6 - 8m, dài theo gian máy.

 Phòng điện tự dùng: Phòng này thường bố trí máy biến áp tự dùng và bảng

điện tự dùng, ước chừng 30 - 50 m2.

Bố trí các phòng thuộc nhóm sản xuất

Đây là các nhóm phòng bảo đảm sự làm việc bình thường, gồm: các hệ

thống dầu, cấp nước kỹ thuật, khí nén..., các xưởng sửa chữa cơ khí, kĩ thuật điện,

đo lường điện, thí nghiệm điện cao áp... Nhóm các thiết bị điện được bố trí ở các

tầng trên đảm bảo khô ráo, an toàn. Các nhóm cơ khi như dầu, nước thường bố trí

ở tầng turbine, dọc nhà máy, phòng khí nén và xưởng cơ khí thường ở tầng

turbine - dưới sàn lắp ráp, thiết bị cấp nước kỹ thuật và bơm tháo nước thường đặt

gần tổ máy chính, tầng turbine.

5) Turbine thủy lực của trạm thủy điện

Trong quá trình đấu tranh sinh tồn và cải tạo thế giới tự nhiên, loài người đã sớm

biết sử dụng các động cơ thủy lực: từ những bánh xe nước dùng vào việc kéo máy

xay xát nông sản đến phát triển chúng lên thành những turbin thuỷ lực hiện đại

kéo máy phát điện để sản xuất ra điện năng ngày nay. Để sử dụng một cách có

hiệu quả năng lượng dòng nước đặc trưng bởi tổ hợp cột nước và lưu lượng khác

nhau cần phải có đủ những loại turbine khác nhau về cấu tạo, kích thước cũng

như quá trình làm việc của chúng.

Dựa vào việc sử dụng dạng năng lượng trong cơ cấu bánh xe công tác của

turbine người ta chia turbine thủy lực ra làm hai loại: turbine xung kích và turbine

Nhóm 1 30

Nhà Máy Thủy Điện

phản kích. Trong các loại lại chia ra các hệ và các kiểu turbine.

 Turbine chỉ sử dụng phần động năng để làm quay bánh xe công tác gọi

là loại turbine xung kích. Loại này còn gọi là turbine dòng chảy không áp vì dòng

chảy trong môi trường khí quyển nên chuyển động của dòng tia trên cánh bánh xe

công tác là chuyển động không áp, áp suất ở cửa vào và cửa ra như nhau và bằng

áp suất khí trời. Turbine xung kích đuợc chia ra các hệ sau:

 Hệ turbine xung kích gáo (turbine Penton)

 Hệ turbine xung kích kiểu phun xiên

 Hệ turbine xung kích hai lần (turbine Banki)

 Turbine sử dụng cả thế năng và động năng, trong đó phần thế năng là

chủ yếu gọi là loại turbine phản kích. Loại này còn gọi là turbine dòng chảy có

áp, áp lực dòng chảy ở cửa vào của bánh xe công tác luôn lớn hơn áp lực ở cửa ra

của nó. Dòng chảy qua turbine là dòng liên tục điền đầy nước trong toàn bộ máng

cánh. Loại này được chia ra các hệ sau:

 Hệ TB xuyên tâm hướng trục (gọi tắt là là turbine tâm trục, hay

Franxis)

 Hệ TB hướng trục (gồm turbine cánh quạt và turbine cánh quay)

 Hệ TB hướng chéo

 Hệ TB dòng (gồm turbine dòng nửa thẳng và turbine dòng thẳng)

 Hệ TB thuận nghịch (làm việc theo hai chế độ: máy bơm và turbine)

a. Turbine xung kích

Turbine xung kích là loại chỉ sử dụng phần động năng của dòng chảy. Ở loại

turbine này, dòng nước sau khi ra khỏi vòi phun thì toàn bộ năng lượng dòng

chảy đều biến thành động năng để đẩy bánh xe công tác. Vì chảy trong môi

trường khí quyển nên chuyển động của dòng tia trên các cánh bánh xe công tác là

chuyển động không áp hay còn gọi là dòng tia tự do. Sau đây chúng ta nghiên cứu

cụ thể các hệ của turbine xung kích:

Nhóm 1 31

Nhà Máy Thủy Điện

 Turbine xung kích gáo (còn gọi là turbine Pelton)

Turbine này do người Mỹ tên là Penton đưa ra năm 1880 nên còn gọi là

turbine Penton. Quá trình hoạt động của turbine gáo như sau: nước từ thượng lưu

theo ống áp lực chảy qua vòi phun (ở đây lưu lượng được điều chỉnh trước khi

phóng vào cánh bánh xe công tác nhờ van kim), rồi phóng vào cánh dạng gáo của

turbine, làm quay bánh xe công tác kéo theo trục turbine quay, nước đập vào cánh

gáo bị bắn ra hai phía và được vỏ của turbine gom lại dẫn về hầm xả để tháo về

hạ lưu của nhà máy.

Turbine gáo sử dụng động năng để quay do vậy cần tạo nên vận tốc dòng

phun lớn để tăng công suất turbine, măt khác kết cấu bánh xe công tác rất vững

chắc do vậy turbine này được sử dụng với cột nước cao lưu lượng nhỏ. Turbine

gáo loại lớn có phạm vi sử dụng cột nước từ 200 ÷ 2000m hoặc hơn nữa, turbine

gáo loại nhỏ thì từ 40 ÷ 250m. Trục turbine gáo có thể đứng hoặc ngang. Trạm

TĐ Bôgôta ở Côlombia đã đạt đến cột nước rất cao H = 2000m, công suất lắp

máy N = 500 MW. Trạm Raisec ở Úc có cột nước H = 1767m. Nước ta có các

Nhóm 1 32

Nhà Máy Thủy Điện

trạm H = 500÷800m như Vĩnh Sơn và Đa Nhim, sử dụng hệ turbine xung kích

gáo.

 Turbine xung kích hai lần (turbine Banki)

Turbine xung kích hai lần có phạm vi sử dụng cột nước từ 6 ÷ 150m,

thường từ 10 ÷ 60m. Kết cấu của nó rất đơn giản, dễ chế tạo nên được sử dụng

rộng rãi ở các trạm thủy điện nhỏ có lưu lượng bé, cột nước vừa, trục thường nằm

ngang.

Turbine gồm có vòi phun tiết diện hình chữ nhật được nối liền với đoạn

ống chuyển tiếp. Vòi có cơ cấu điều chỉnh lưu lượng gồm van phẳng gắn với trục

điều khiển có tay quay vô lăng. Khi vô lăng quay, trục điều chỉnh sẽ tịnh tiến về

phía trước hoặc phía sau làm cho tiết diện ra của vòi phun thay đổi, nên lưu lượng

Nhóm 1 33

Nhà Máy Thủy Điện

vào turbine cũng được thay đổi theo. Bánh xe công tác gồm các cánh cong được

gắn giữa các đĩa, số cánh từ 12 ÷ 48. Trục turbine xuyên qua giữa bánh xe công

tác gắn chặt với các đĩa bằng then. Vỏ (buồng) dùng để chắn không cho nước từ

bánh xe công tác bắn ra ngoài. Hầm xả có nhiệm vụ dẫn nước về hạ lưu.

Hình dáng bánh xe công tác turbine xung kích hai lần gần giống lồng sóc.

Dòng nước từ vòi phun tác dụng vào các cánh phía trên (nhận khoảng chừng 80%

năng lượng của dòng nước) đẩy bánh xe công tác lần thứ nhất, xong lại đi vào

khoảng trống giữa bánh xe công tác rồi lại tác dụng lần thứ hai vào cánh trước khi

ra khỏi bánh xe công tác (nhận thêm 20 ÷ 30% phần năng lượng còn lại). Cũng

chính vì thế ta gọi nó là turbine xung kích hai lần.

 Turbine xung kích phun xiên

Turbine xung kích phun xiên có hình dạng giống turbine gáo chỉ khác ở

kết cấu bánh xe công tác và hướng của tia nước vào bánh xe công tác. Tia nước

bắn vào bánh xe công tác không trực giao với cánh mà làm với cánh một góc α,

nhờ thế có thể làm vành ghép mép ngoài của bánh xe công tác nên đơn giản hóa

Nhóm 1 34

Nhà Máy Thủy Điện

được cách ghép cánh vào đĩa. Hình dạng cánh loại này cũng dễ chế tạo hơn. Nó

cho phép gia công hàng loạt bằng cách đập. Turbine tia nghiêng ít được sử dụng

rộng rãi, nó chỉ được sử dụng ở trạm thủy điện nhỏ có cột nước vào khoảng H =

30 ÷ 400m.

i. b. Turbine phản kích

Turbine phản kích là loại sử dụng phần thế năng và một phần động năng

của dòng nước. Bánh xe công tác của nó làm việc trong môi trường chất lỏng liên

tục và áp lực nước ở phía trước bánh xe công tác lớn hơn phía sau của nó. Khi

chảy qua rãnh tạo bởi bề mặt cong của các cánh, dòng nước sẽ thay đổi hướng tác

dụng lên cánh và làm quay bánh xe công tác. Dựa vào hướng của dòng nước ở

cửa vào và cửa ra bánh xe công tác người ta chia turbine làm các hệ: tâm trục,

hướng trục, cánh chéo, turbine dòng, thuận nghịch.

Bánh xe công tác của turbine tâm trục (turbine Franxis)

Turbine tâm trục là một trong những hệ turbine phản kích được sử dụng rộng rãi nhất. Chất lỏng từ buồng qua cánh hướng dòng vào cửa vào cánh bánh xe

công tác theo hướng xuyên tâm rồi chuyển chuyển hướng 900 và ra khỏi bánh xe

Nhóm 1 35

Nhà Máy Thủy Điện

công tác để vào ống xả theo hướng dọc trục. Do vậy gọi là turbine tâm trục.

Turbine này do kỹ sư người Pháp tên là Franxis hoàn chỉnh năm 1849 nên còn gọi

là turbine Franxis.

Bánh xe công tác của turbine tâm trục gồm có vành trên 14 và vành dưới

13, các cánh có dạng cong không gian ba chiều gắn chặt vào hai vành. Số cánh từ

12 đến 22 cánh, thường là 14 đến 18 cánh. Thường bánh xe công tác được đúc

liền thành một khối, trường hợp bị điều kiện vận chuyển hạn chế có thể chế tạo

bánh xe công tác thành từng phần, khi lắp ráp sẽ dùng các bulông ghép vành trên

và đai ghép nóng ở vành dưới của các phần đó lại hoặc hàn nối các rãnh phân

chia. Đối với turbine nhỏ có thể dập cánh, sau đó định vị chúng rồi đúc liền vành

trên và dưới để được bánh xe công tác liền khối vững chắc.

Bánh xe công tác của turbine hướng trục cánh quạt

Bánh xe công tác của turbine cánh quạt gồm có bầu, có gắn từ 3 đến 9

cánh, thông thường là 4 đến 8 cánh. Cánh có thể chế tạo liền với bầu tạo thành

một khối thống nhất hoặc chế tạo riêng biệt sau đó gắn chặt vào bầu bằng bulông.

Khi đi qua các mặt cong của cánh, dòng nước buộc phải đổi hướng chuyển động

do đó tạo ra một áp lực tác dụng lên cánh làm quay bánh xe công tác. Nhược

Nhóm 1 36

Nhà Máy Thủy Điện

điểm của loại bánh xe công tác này là có đường đặc tính công tác dốc, do vậy khi

lưu lượng, cột nước hoặc công suất thay đổi lệch với chế độ thiết kế thì hiệu suất

turbine sẽ giảm đi rất nhanh. Đối turbine tỷ tốc cao chỉ cần lưu lượng giảm đến

còn 45% lưu lượng tính toán thì hiệu suất và công suất có thể giảm đến không.

Do vậy nên cho turbine cánh quạt đảm nhận công suất và cột nước ít thay đổi.

Turbine cánh quạt được sử dụng ở Trạm thuỷ điện có cột nước H = 1.5÷40m,

hiện nay thường dùng ở trạm thủy điện nhỏ, tuy rằng đã có turbine dạng này

đường kính đạt đến 9 m.

Bánh xe công tác của turbine cánh quay (Kaplan)

Turbine cánh quay là loại ra đời sau cánh quạt. Năm 1924 giáo sư người

Tiệp tên là Kaplan đã cải tiến thành công turbine cánh cố định thành cánh quay

được, nên turbine này còn được gọi là turbine Kaplan. Nhờ cánh có thể quay

được xung quanh bầu, do vậy thích ứng được các chế độ làm việc khác chế độ

thiết kế dẫn đến vùng làm việc của turbine với hiệu suất cao được mở rộng. Do

vậy turbine cánh quay có khả năng làm việc với công suất và cột nước thay đổi

nhiều. Bánh xe công tác của turbine cánh quay gồm có: bầu, cánh, chóp thoát

Nhóm 1 37

Nhà Máy Thủy Điện

nước và bộ phận quay cánh xung quanh bánh xe công tác. Bầu phải có hình cầu

để giảm bớt khe hở giữa cánh với bầu khi quay cánh. Chóp thoát nước có tác

dụng làm cho nước chảy khỏi bánh xe công tác thuận dòng hơn và giảm được tác

dụng mạch động. Khi làm việc, các cánh bánh xe công tác hướng trục chịu tác

dụng áp lực nước ở dạng sơ đồ chịu lực kiểu dầm côngxôn do không có vành

dưới, tại nơi tiếp giáp cánh với bầu chịu mômen uốn lớn nhất. Người ta đã đo

được áp lực nước tác dụng lên một cánh có thể đạt tới 240 tấn. Do vậy phải sử

dụng động cơ tiếp lực dầu cao áp mới quay được cánh.

Bộ phận quay cánh gồm trục cánh, động cơ tiếp lực, hệ thống thanh

truyền. Tay quay được nối với trục cánh, còn thanh truyền có chốt nối liền píttông

của động cơ tiếp lực với tay quay. Pittông chia xi lanh của động cơ tiếp lực làm

hai ngăn: trên và dưới. Dầu có áp từ thiết bị dầu áp lực qua hai ống dẫn đồng tâm

lồng vào nhau nằm bên trong trục tổ máy. Khi dầu có áp vào một ngăn nào đó của

xi lanh còn ở ngăn kia dầu thông với lỗ dầu xả thì pittông lẫn thanh truyền sẽ dịch

lên hoặc xuống, do đó làm xoay các cánh theo các góc quay như nhau. So với

turbine cánh quạt thì turbine cánh quay được dùng với cột nước thấp hơn do khả

năng chịu lực của nó có yếu hơn. Cùng với turbine tâm trục, turbine cánh quay

được sử dụng rất rộng rãi.

Bánh xe công tác của turbine cánh chéo

Turbine cánh chéo được ra đời chậm hơn các loại turbine trên, nó là loại

trung gian giữa tâm trục và hướng trục. Nó kết hợp được các ưu điểm của hai hệ

turbine trên. Turbine cánh chéo được sử dụng ở các trạm thủy điện có cột nước H

= 30 ÷ 150m. Nó thuộc loại turbine cánh quay. Bánh xe công tác gồm 10 đến 14

cánh được gắn vào bầu hình chóp nhờ các trục cánh. Trục cánh làm với trục

turbine một góc 300,450,600 nên dòng chảy trong bánh xe công tác chéo góc với

trục. Cũng như turbine cánh quay, các cánh bánh xe công tác quay được quanh

trục của nó, nhờ cơ cấu quay cánh gồm vành sao và thanh truyền nằm trong bầu

Nhóm 1 38

Nhà Máy Thủy Điện

nên hiệu suất bình quân của nó cao hơn turbine tâm trục ở hầu hết các chế độ làm

việc. Mặt khác số cánh bánh xe công tác của turbine này nhiều hơn so với turbine

cánh quay nên có thể làm việc với cột nước cao hơn mà vẫn không bị khí thực.

Ngoài ra, turbine cánh quay làm việc với cột nước thấp, muốn chịu được cột nước

cao hơn thì phải tăng số lượng cánh bánh xe công tác của nó lên từ 6 đến 10 cánh.

Như vậy bầu bánh xe công tác phải có đường kính lớn. Để có thể tăng số cánh mà

không phải tăng đường kính thì tốt hơn hết là trên mỗi trục cánh lắp hai cánh kép

Bánh xe công tác của turbine dòng nửa thẳng

Turbine này còn gọi là turbine Capxun. Tổ máy có turbine trục ngang nối

liền trục với trục máy phát điện đặt trong bọc kín bằng kim loại (gọi là cáp xun)

có dạng thuận dòng. Cápxun chứa máy phát điện có thể nằm trước bánh xe công

tác hoặc nằm sau bánh xe công tác trong ống hút thẳng. Các cánh hướng dòng

thuộc loại hướng tâm hoặc hình chóp. Stator thuộc loại và cùng với các trụ tựa sẽ

truyền tải trọng tổ máy lên móng máy. Liên hệ giữa các thiết bị đặt trong cáp xun

với gian máy bằng các tháp. Turbine capxun có hiệu suất cao hơn so với turbine

phản kích khác đến 30% do khả năng tháo nước của nó.

Bánh xe công tác của turbine dòng thẳng

Ở turbine dòng thẳng, dòng nước theo buồng turbine hình trụ thẳng đi qua

Stato trước vào bộ phận hướng dòng và tác động vào bánh xe công tác về hạ lưu

theo dòng thẳng. Roto máy phát điện được gắn vào mút cánh turbine, do vậy khi

bánh xe công tác quay thì cũng chính là rotor quay. Turbine dòng thẳng có cấu

tạo phức tạp, đặc biệt là ở các vòng đệm chống thấm vòng quanh mà hiệu suất

không cao hơn turbine hướng trục bình thường mấy, nên ít được sử dụng.

Bánh xe công tác của turbine thuận nghịch

Turbine thuận nghịch được dùng trong " tổ máy hai máy" ở các trạm thủy

điện tích năng, có khả năng làm việc ở hai chế độ: bơm nước và phát điện. Tổ

máy gồm có hai máy: turbine thuận nghịch và máy điện ("máy phát điện - động

cơ điện") làm việc ở 2 chế độ máy phát và động cơ. Tổ máy loại này thay cho các

Nhóm 1 39

Nhà Máy Thủy Điện

loại tổ máy làm việc ở các chế độ riêng biệt không kinh tế hoặc " tổ máy ba máy".

Nguyên lý làm việc của turbine và máy bơm trái ngược nhau, do vậy để làm việc

ở một chế độ cụ thể phải chỉnh chiều quay cánh thích hợp với từng chế độ làm

việc.

VII. Một số ưu nhược điểm của nhà máy thủy điện

1. Ưu điểm

• Sử dụng nguồn thủy năng dồi dào vô tận của thiên thiên. • Vận hành đơn giản, an toàn, dễ dàng tự đông hóa. • Giá thành điện năng của nhà máy thủy điện thấp hơn nhiều so với các nhà máy nhiệt điện.

2. Nhược điểm

• Vốn đầu tư lớn, thời gian xây dựng lâu • Nhà máy thủy điện thường lợi dụng tổng hợp(thủy lợi, chống lũ, giao thông, chăn nuôi).

• Nguồn nước thay đổi ngẫu nhiên và biến động mạnh theo thời gian. • Ảnh hưởng manh đến hệ sinh thái môi trường.

Nhóm 1 40

Nhà Máy Thủy Điện

Nhóm 1 41