Nhận biết dấu hiệu nguy hiểm khi trẻ
chậm nói
Quá trình phát triển ngôn ngữ bình thường ở trẻ
Giai đoạn phát triển ngôn ngữ bình thường của trẻ được biểu hiện như sau:
Từ 3 - 6 tháng: trẻ bắt đầu chăm chú nhìn vào người nói chuyện. Quay đầu
về phía có tiếng động phát ra.
Phân biệt được các tiếng động khác nhau phát ra từ các vị trí khác nhau.
Nói được nguyên âm “a”, từ “ba”, “bà”.
Từ 6 - 9 tháng: nói được 2 âm khác nhau như “ma ma”, “da da”.
Từ 9 - 12 tháng: trẻ phát âm “ê”, “a” kéo dài thành một chuỗi âm thanh như
người lớn nhưng không rõ từ.
Tùy theo mỗi trẻ, nhưng khi được khoảng 11 tháng hay 1 tuổi có trẻ nói
được khoảng 2 - 3 từ đơn khá rõ, có thể là: bố, bà.
Từ 12 - 15 tháng: trẻ có thể phát âm như tiết tấu âm nhạc để giữ cho câu
chuyện tiếp tục.
Từ 15 - 18 tháng: sử dụng được 4 từ, thường là tên con vật kết hợp với cử
chỉ, đưa tay vẫy, chỉ. Khi trẻ được 18 tháng tuổi trẻ bắt đầu nói và tự nối
ghép được hai từ với nhau. Ở giai đoạn này, trẻ nói bắt đầu hình thành các
trật tự câu. Trẻ biết chỉ được ít nhất là sáu bộ phận trên cơ thể, chỉ được một
hai hình ảnh quen thuộc khi cho trẻ nhìn tranh như: hình bố, hình con cá
hoặc hình con chó…
Từ 18 tháng đến 2 năm: biết khoảng 25 từ, gọi tên người, chào hỏi, từ chối.
Từ 2 - 3 tuổi: nói rất nhiều, biết từ 50 - 200 từ, tự nói chuyện khi chơi. Đến 3
tuổi trẻ tạo ra một cụm từ có đầy đủ thành phần chủ vị. Trẻ biết sử dụng các
câu đơn giản, đặt câu hỏi đơn giản.
Trẻ trả lời được các câu hỏi như: cái gì, ở đâu? Có/ không. Sau giai đoạn
này, trẻ sẽ nói được và sẽ tạo đà cho trẻ phát triển được rất nhiều các câu
phức tạp, hình thành được các câu chuyện dài với nội dung khá logic.
Từ 3 - 4 tuổi: trẻ nói được các câu phức tạp trẻ bắt đầu sử dụng các ngôn
ngữ ấy một cách khá tốt. Tự kiểm soát được cường độ giọng nói, xây dựng
Nguyên nhân khiến trẻ chậm nói
Nguyên nhân làm trẻ chậm nói được xếp thành 2 nhóm chính là nguyên
nhân thực thể và nguyên nhân tâm lý. Nguyên nhân thực thể là do trẻ có
những vấn đề về cơ quan phát âm (tai, mũi, họng), cơ quan chỉ huy (não bị
dị tật bẩm sinh, bại não, những di chứng sau xuất huyết não, viêm màng
não...). Nguyên nhân tâm lý là do gia đình hoặc quá cưng chiều, hay bỏ bê
trẻ, hoặc đã xảy ra một biến cố nào đó làm ảnh hưởng đến tâm lý trẻ.
Khi nào cần can thiệp?
Trước tiên cha mẹ, người thân cần chú ý chăm sóc, quan tâm phát triển kỹ
năng ngôn ngữ ở trẻ phù hợp với độ tuổi, và cần can thiệp sớm khi thấy trẻ
có dấu hiệu bất thường về phát triển ngôn ngữ.
Các biểu hiện bất thường về phát triển ngôn ngữ ở trẻ:
- Không đáp ứng với giọng nói hay những âm thanh to khi bé 6 – 8 tuần
tuổi.
- Không cười với giọng nói của cha mẹ lúc 2 tháng.
- Không quan tâm đến người và vật xung quanh lúc 3 tháng.
- Không quay đầu theo hướng âm thanh lúc 4 tháng.
- Không cười tự phát lúc 6 tháng.
- Không bập bẹ lúc 8 tháng.
- Không nói được từ đơn lúc bé 2 tuổi.
- Không nói được một câu đơn giản khi bé 3 tuổi.
Nếu thấy trẻ có một trong những biểu hiện trên, cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để
các bác sĩ kiểm tra. Tùy theo mức độ chậm nói và độ tuổi của trẻ các bác sĩ
sẽ có nhiều hình thức can thiệp khác nhau như tư vấn, hướng dẫn cha mẹ
huấn luyện ngôn ngữ cha mẹ tại gia đình, hoặc cần kết hợp chuyên gia ngôn
ngữ, tâm lý và bác sĩ để can thiệp thúc đẩy ngôn ngữ ở trẻ.
Đối với trẻ chậm nói do nguyên nhân thực thể, đa phần là do trẻ có vấn đề
về thính lực. Các bác sĩ phải điều trị về thính lực cho trẻ. Đối với trẻ bị điếc
nhẹ và điếc trung bình thì việc điều trị trước 5 tuổi rất có hiệu quả. Trong
những trường hợp điếc do viêm tai, thủng màng nhĩ, trẻ sẽ được điều trị
bằng phẫu thuật, vá màng nhĩ để nâng sức nghe. Với những trường hợp
không nghe lại được thì phải can thiệp bằng cách đeo máy nghe.