ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
LÊ THỊ BẢO NGỌC
NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN
MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN TRONG BÁO CÁO
TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH
HÀNG TIÊU DÙNG NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN
Mã số: 60.34.03.01
Đà Nẵng - 2017
Công trình được hoàn thành tại
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐHĐN
Ngƣời hƣớng dẫn KH: TS. Nguyễn Hữu Cƣờng
Phản biện 1: PGS. TS. Hoàng Tùng
Phản biện 2: GS. TS. Đặng Thị Loan
Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
nghiệp Thạc Kế toán họp tại Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà
Nẵng vào ngày 27 tháng 8 năm 2017
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
1
M ĐẦU
1. Tính cp thiết của đề tài
CBTT nói chung cũng như CBTT trong báo cáo i chính
(BCTC) nói riêng của các doanh nghiệp (DN) niêm yết là một chủ đề
từ lâu đã được các nhà nghiên cứu học thuật trên thế giới quan
tâm. Việt Nam, trong thời gian qua, chủ đề về CBTT đã đang
dành được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu (như [9], [11]).
Các nghiên cứu này chủ yếu tập trung đánh giá thực trạng CBTT của
DN niêm yết trên TTCK kiểm chứng ảnh hưởng của nhân tố
thuộc về đặc điểm tài chính của DN đến mức độ CBTT, nhưng hầu
như lại chưa chú ý nhiều đến việc khảo sát mức độ ảnh hưởng của
một số nhân tố thuộc về quản trị DN. Một điểm đáng lưu ý nữa,
trong thời gian gần đây đã một số nghiên cứu tiến hành khảo sát
mức độ CBTT các nhân tố ảnh hưởng của các DN niêm yết trên
TTCK Việt Nam thuộc một ngành nhất định. Mặc vậy, đế nay
vẫn chưa tác giả nào nghiên cứu về các nhân tảnh hưởng đến
mức độ CBTT trong BCTC của các DN ngành hàng tiêu dùng.
Trong khi đó, ngành hàng tiêu dùng một trong số ít những
ngành có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh khá ổn định và tăng
trưởng vững chắc bất chấp sự chao đảo của nền kinh tế trong những
năm gần đây [13]. Ngoài ra, ngành hàng tiêu dùng lại một trong
những ngành có số lượng DN niêm yết trên TTCK khá nhiều. Do đó,
việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT trong
BCTC của các DN ngành này ý nghĩa không những đối với các
nhà đầu tư mà còn đối với cơ quan quản lý nhà nước.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả đã chọn đ tài Nghiên
cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong
báo cáo tài chính của các doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng
2
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” để thực hiện luận
văn tốt nghiệp này.
2. Mc tiêu nghiên cu
Đánh giá thực trạng mức độ CBTT trong BCTC của các DN.
Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT trong BCTC của
các DN ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên TTCK Việt Nam. đ
xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện nâng cao chất
lượng thông tin được công bố đối với các DN ngành này.
3. Đối tƣợng và phm vi nghiên cu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về CBTT trong
BCTC và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT trong BCTC của
các DN ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên TTCK Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Thông tin được công bố trong BCTC
năm 2015 đã được kiểm toán của tất cả các DN ngành hàng tiêu
dùng niêm yết trên TTCK Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Mức độ CBTT được đo lường bởi chỉ số CBTT bao gồm các
chỉ mục thông tin phải (hoặc nên) được quy định trong Thông
200/2014/TT-BTC các chuẩn mực kế toán Việt Nam liên quan
về CBTT trên BCTC năm.
- Ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ CBTT được kiểm
chứng thông qua phân tích hồi quy bằng mô hình hồi quy.
5. B cục đề tài
Luận văn được cấu trúc thành bốn chương như sau:
Chương 1: sở luận về công bố thông tin các nhân tố
ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong báo cáo tài chính của
doanh nghiệp.
3
Chương 2: Thiết kế nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
mức độ công bố thông tin.
Chương 3: Phân tích kết quả nghiên cứu.
Chương 4: Hàm ý chính sách và kết luận.
6. Tng quan tài liu nghiên cu
CBTT của các DN từ lâu đã là một chủ đề nhận được nhiều sự
quan tâm từ các nhà nghiên cứu. Những vấn đề thường được đặt ra
khảo t trong các nghiên cứu về CBTT gồm: i) loại thông tin
được công bố mức độ CBTT của các DN (niêm yết), ii) sự lựa
chọn của các DN trong việc công bố những thông tin lợi (và
ngược lại là che giấu những thông tin bất lợi), và iii) mức độ hài lòng
(lợi ích) của thông tin được công bố đối với người sử dụng thông tin.
Về vấn đề loại thông tin được công bố, các nghiên cứu về
CBTT khảo sát cả thông tin công bố bắt buộc, thông tin công bố tự
nguyện, hay thông tin công bố tùy ý.
Về vấn đề đánh giá mức độ CBTT, các nghiên cứu trước
thường tiếp cận theo một trong các cách sau. Một là sử dụng lại mức
độ CBTT đã được các tổ chức độc lập đo lường [26]. Hai dựa vào
thang đo sẵn đã được áp dụng trong các nghiên cứu trước. Ba
các nhà nghiên cứu tự xây dựng thang đo. Trong đó, cách tiếp cận
theo hướng chính các nhà nghiên cứu tự xây dựng thang đo để
đánh giá mức độc CBTT chiếm ưu thế hơn cả [26].
Về vấn đề khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ
CBTT, các nghiên cứu trước đã thực hiện việc kiểm chứng với nhiều
nhân tố khác nhau, gồm c nhân tố thuộc về đặc trưng (bên trong)
của DN các nhân tố khác (bên ngoài DN). Điều đáng chú ý kết
quả kiểm chứng về sự ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ CBTT
không hoàn toàn giống nhau các nghiên cứu khác nhau [10].