LUẬN VĂN:
Nhiệm vụ và các giải pháp giải
quyết việc làm trong kế hoạch 5
năm 2001-2005 ở Việt Nam
Lời mở đầu
Xuất phát từ vai trò của con người trong lực lượng sản xuất cũng như trong công
cuộc đổi mới đất nước”. Tư tưởng chỉ đạo xuyên xuốt các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước về các lĩnh vực văn hoá là chăm sóc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con
người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu cách mạng”. Lao động với vai trò là
một nguồn lực lớn và quan trọng có ý nghĩa quyết định sự thành công của công cuộc đổi
mới và phát triển đất nước trong đó việc đào tạo, bố trí và sử dụng lao động đóng vai trò
trung tâm. Nhưng thực tế trong những năm vừa qua và cho tới thời điểm này vấn đề lao
động còn nhiều bất cập và hạn chế, việc làm và thất nghiệp của người lao động được
Đảng, buộc Đảng và Nhà nước có nhiều quan tâm. Những hạn chế này một phần đã kìm
hãm sự phát huy của các nguồn lực phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước. Quá trình chuyển dịch cơ cấu số lượng và chất lượng lao động cũng như cơ
cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá chưa theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Giải
quyết việc làm vẫn đang là vấn đề nóng bỏng và bức xúc hiện nay ở cả khu vực thành thị
và khu vực nông thôn đòi hỏi nhà nước, các đơn vị kinh tế và bản thân người lao động
phải giải quyết. Giải quyết việc làm là một nhiệm vụ cơ bản và cấp bách hiện nay. Nhưng
giải quyết việc làm không thể chỉ hoàn thành trong thời gian ngắn mà nó đòi hỏi giải
quyết liên tục trong khoảng thời gian dài với sự định hướng và chỉ đạo của chiến lược,
quy hoạch và các kế hoạch giải quyết việc làm. Đề án với đề tài “Nhiệm vụ và các giải
pháp giải quyết việc làm trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 ở Việt Nam “. Xin trình bày
những vấn đề cơ bản về việc làm hiện nay và các mục tiêu, các giải pháp giải quyết việc
làm trong kế hoạch 2001-2005.
Đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Kế hoạch nguồn nhân lực trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội.
Chương II: Thực trạng và tình hình thực hiện kế hoạch việc làm ở Việt Nam.
Chương III: mục tiêu và giải pháp giải quyết việc làm trong kế hoạch 2001-2005.
.
Chương I: Kế hoạch nguồn nhân lực trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội.
1.Kế hoạch hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường:
Kế hoạch hoá vĩ mô nền kinh tế quốc dân là phương thức quản lí nền kinh tế của
nhà nước theo mục tiêu. Nó thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển kinh tế
xã hội phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia và những
giải pháp, chính sách,những cân đối vĩ mô cần thiết nhằm đạt được mục tiêu đặt ra một
cách có hiệu quả nhất.
Kế hoạch hoá không chỉ là việc lập kế hoạch mà còn là quá trình tổ chức thực hiện
và theo dõi đánh giá kết quả. Trong nền kinh tế thị trường kế hoạch hoá thể hiện những
cố gắng có ý thức của chính phủ để đạt được tăng trưởng kinh tế nhanh với mức việc làm
cao, ổn định giá cả. Kế hoạch hoá sẽ giúp chính phủ ngăn chặn được sự mất ổn định kinh
tế trong khi vẫn đảm bảo kích thích tăng trưởng nhanh.
Kế hoạch phát triển là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế
xã hội, là một công cụ quản lí điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, nó là sự cụ thể hoá
các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển theo từng thời kì bằng hệ thống các chỉ
tiêu mục tiêu và chỉ tiêu biện pháp định hướng phát triển và hệ thống chính sách, cơ chế
áp dụng trong thời kì kế hoạch.
Hệ thống chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển được biểu hiện là thước đo cụ thể
nhiệm vụ cần đạt được của thời kì kế hoạch. Các số đo này chỉ thể hiện cả về số lượng và
chất lượng. Nó cho phép xác định nội dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế xã hội
các bộ phận cấu thành cụ thể của nó và được nhà nước sử dụng để thực hiện quá trình
điều tiết nền kinh tế.
Hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia bao gồm:
*Hệ thống các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội: Kế hoạc tăng trưởng, kế hoạch
chuyển dịch cơ cấu kinh tế,kế hoạch phát triển vùng, kế hoạch nâng cao chất lượng phúc
lợi xã hội.
*Hệ thống các kế hoach biện pháp và các cân đối vĩ mô chủ yếu: Kế hoạch các
nguồn lực, cân đối vốn đầu tư, cân đối ngân sách, cân đối thương mại, cân đối thanh toán
quốc tế.
*Hệ thống các chính sách phát triển.
2.Kế hoạch nguồn nhân lực trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội.
a. Các khái niệm liên quan đến vấn đề giải quyết việc làm.
- Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi lao động và có khả
năng lao động.
Dân số trong độ tuổi lao động gồm 2 bộ phận:
*Dân số hoạt động kinh tế còn gọi là dân số nguồn lao động hay lực lượng lao
động là những người trong độ tuổi lao động, đang làm việc hoặc không có việc làm
nhưng có nhu cầu làm việc. Như vậy lực lượng lao động trong độ tuổi lao động bao gồm
số người có việc làm và số người thất nghiệp.
*Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm tất cả những người khác trong độ tuổi
lao động không thuộc nhóm có việc hoặc thất nghiệp. Bộ phận này bao gồm: những
người không có khả năng làm việc do bệnh tật ốm đau, mất sức kéo dài; những người chỉ
làm việc nội trợ chính gia đình mình và được trả công; học sinh viên trong độ tuổi lao
động; những người không hoạt động kinh tế vì những lí do khác nhau.
- Những người thất nghiệp là những người không có việc làm nhưng có nhu cầu
làm việc. Đánh giá tình trạng thất nghiệp:
+ ở khu vực thành thị người ta ding thước đo: % thất nghiệp hữu hình.
+ ở khu vực nông thôn người ta dùng thước đo: % thời gian không làm việc.
Thất nghiệp được coi là một hiện tượng xã hội nó tồn tại trong mọi xã hội và dưới
nhiều hình thức: thất nghiệp hữu hình, thất nghiệp vô hình, thất nghiệp chu kì, thất
nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện. Nhưng cho dù tồn tại dưới hình thức
nào thì nó đều gây ra những ảnh hươỏng tiêu cực đến nền kinh tế như sự giảm sút của
tổng thu nhập quốc dân, ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống của người lao động, làm nảy
sinh các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Vì vậy việc giải quyết vấn đề thất nghiệp luôn
được đặt ra với mọi quốc gia đặc biệt là nước ta.
- Việc làm là những hoạt động tạo ra thu nhập và được xã hội thừa nhận ( bao gồm
cả những người không có thu nhập nhưng tạo điều kiện cho người khác có thu nhập).
Việc làm là hoạt động sáng tạo có ý thức, có mục đích của con người vì sự hạnh phúc và
tồn tại của chính bản thân mình. Việc làm trước hết đem lại thu nhập cho bản thân người
lao động đồng thời đóng góp tạo nên sự phát triển chung nền kinh tế xã hội. Do vậy tạo
việc làm cho người lao động là điều kiện và giải pháp quan trọng để phát triển toàn diện
nền kinh tế xã hội của mọi quốc gia.
- Giải quyết việc làm:
Mục đích cuối cùng của nghiên cứu vấn đề việc làm là đề xuất ra các giải pháp để
giải quyết việc làm. Giải quyết việc làm là nâng cao chất lượng việc làm và tạo việc làm
thu hút người lao động vào guồng máy sản xuất của nền kinh tế. Giải quyết việc làm
không chỉ nhằm tạo thêm về số việc làm mà còn phải nâng cao chất lượng việc làm.
Do nhiều lí do khác nhau nên số lượng việc làm luôn bị hạn chế. Trong xã hội
thường có số lượng nhất định người không có việc làm, điều này gây ảnh hưởng không
chỉ đến bản thân người không có việc làm mà cả đến xã hội. Họ không những không có
đóng góp cho xã hội mà còn buộc nhà nước trợ cấp. Tình trạng không có việc làm còn tạo
ra sự căng thẳng về mặt xã hội, một trong những nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh các tệ
nạn xã hội. Chính vì vậy giải quyết việc làm là một nhiệm vụ hết sức quan trọng không
chỉ đòi hỏi nhà nước giải quyết mà đòi hỏi toàn xã hội đứng ra giải quyết.
Trong thời kì tập trung bao cấp nhà nước xây dựng kế hoạch và phân bổ hầu như
toàn bộ các nguồn lực sản xuất quốc gia trong đó có việc phân bổ nguồn lao động. Các
đơn vị sản xuất không có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh mà chỉ thực hiện kế hoạch
của nhà nước giao, còn người lao động về nguyên tắc là không phải lo tìm việc làm.
Nghiã là trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mọi người đến tuổi lao động đều được
sắp xếp vaò những công việc theo chỉ tiêu kế hoạch đã định. Dường như trong xã hội
không có hiện tượng thất nghiệp, chính nguyên lí xã hội chủ nghĩa không có thất nghiệp
đã dẫn đến tình trạng “chia việc làm” bất chấp nguyên tắc hiệu quả. Vì vậy vấn đề giải
quyết việc làm thường rất giản đơn và chỉ do nhà nước đứng ra giải quyết.
Trong nền kinh tế thị trường thì việc làm được tự do tạo lập theo các nguyên tắc
cơ bản của cơ chế thi trường, người lao động không bị ràng buộc và thụ động trông chờ
vào sự sắp xếp của nhà nước, hợp tác xã. Họ được tự chủ định đoạt việc sử dụng sức lao
động của mình, phát huy năng lực sáng tạo theo khả năng , sở trường của mình. Tạo việc
làm, giải quyết việc làm không còn là quyền hạn trách nhiệm duy nhất của nhà nước và
hợp tác xã. Tất cả các tổ chức các thành phần kinh tế, mọi công dân đều có quyền và
trách nhiệm trong việc tạo và tìm việc làm. Toàn xã hội tham gia tạo việc làm, giải quyết
việc làm, cùng tham gia đóng góp vào sự nghiệp chung.
Với tư tưởng xuyên suốt của Đảng thì sự nghiệp phát triển là do dân, vì dân, phát
triển đi lên xã hội chủ nghĩa lấy phát triển con người làm vị trí trung tâm. Vì vậy mà việc
giải quyết việc làm không chỉ là đưa ra các phương án sử dụng tối ưu nguồn lao động mà
nó còn liên quan đến vấn đề đào tạo, chăm sóc và các yếu tố về văn hoá tinh thần của
người lao động. Giải quyết việc làm liên quan mật thiết đến công bằng xã hội do đó quan
điểm mới của nhà nước về vấn đề “việc làm hợp lí” không chỉ tính về mặt số lượng mà
còn xét về chất lượng, hiệu quả, nguyện vọng năng khiếu người lao động, phù hợp về mặt
số lượng và chất lượng các yếu tố con người với vật chất sản xuất.
b. Kế hoạch việc làm trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
- Kế hoạch việc làm và vị trí kế hoạch việc làm.
Kế hoạch hoá lực lượng lao động là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch hoá phát
triển nhằm xác định qui mô cơ cấu, chất lượng của bộ phận dân số tham gia hoạt đọng
kinh tế cần huy động cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu về nhu cầu việc làm
mới, nhiệm vụ giải quyết việc làm trong kì kế hoạch đồng thời đưa ra các chính sách và
giải pháp quan trọng nhằm thu hút sử dụng hiệu quả lực lượng lao động xã hội.
Trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển, kế hoạch hoá lực lượng lao động có ý
nghĩa đặc biệt nó bao hàm cả ý nghĩa của kế hoạch biện pháp và kế hoạch mục tiêu:
+ Nếu xét lao động là yếu tố nguồn lực thì kế hoạch nguồn lao động mang tính
biện pháp, kế hoạch phát triển lực lượng lao động nhằm vào mục tiêu của kế hoạch tăng
trưởng, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kế hoạch phát triển vùng tạo ra các điều
kiện về lao động để thực hiện các kế hoạch này.
+ Nếu xét lao động là yếu tố hưởng lợi ích thì kế hoạch nguồn nhân lực mang tính
mục tiêu vì kế hoạch phát triển lao động bao hàm một số các chỉ tiêu nằm trong hệ thống
các mục tiêu phát triển xã hội như: giải quyết lao động, khống chế thất nghiệp hay các chỉ
tiêu giáo dục sức khoẻ của người lao động.
Quan điểm trên có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dung và triển khai
thực hiện kế hoạch về lao động. Một mặt kế hoạch lao động được xây dung dựa trên cơ
sở các yếu tố cầu do các kế hoạch về tăng trưởng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặt ra đồng
thời kế hoạch lao động còn tìm ra các cơ chế chính sách để thực hiện các kế hoạch mục
tiêu do chính kế hoạch lao động đặt ra.
- Nội dung chính của kế hoạch ngồn nhân lực:
Xác định nhu cầu lao động xã hội cần có kì kế hoạch: là nhu cầu thu hút và giải
quyết nguồn lao động trong các lĩnh vực kinh tế xã hội của kì kế hoạch: Đo bằng tỉ số
việc làm mới mà các lĩnh vực kinh tế xã hội có khả năng giải quyết.
Xác định khả năng cung cấp nguồn lực lượng lao động kì kế hoạch: tổng số bộ
phận dân số hoạt động kinh tế có thể cung cấp cho nền kinh tế kì kế hoạch.
Cân đối giữa nhu cầu và khả năng từ đó dưa ra nhiệm vụ giải quyết việc làm.
Các giải pháp và chính sách nhằm khai thác huy động và sử dụng có hiệu quả
nguồn lao động.
Chương II: Thực trạng và tình hình thực hiện kế hoạch giải quyết việc làm ở Việt
Nam.
1.Phương hướng thực hiện mục tiêu kế hoạch việc làm trong kế hoạch 5 năm 1996-
2000.
a.Nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể về lao động và việc làm trong kế hoạch 1996-
2000.
“Giai đoạn 1996-2000 là bước tiến quan trọng của thời kì phát triển mới- đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Đẻ đạt được nhiệm vụ tổng quát trên thì
mục tiêu cơ bản của giải quyết việc làm trong thời kì 1996-2000 là nhằm tạo việc làm
mới và đảm bảo việc làm cho người có khả năng lao động, có yêu cầu việc làm: Thực
hiện các biện pháp trợ giúp người lao động nhanh chóng có được việc làm, có việc làm
đầy đủ, có việc làm có hiệu quả hơn. Thông qua đó giải quyết hợp lí mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm cho người lao động góp phần thực hiện công
bằng và tiến bộ xã hội.
Mục tiêu cụ thể: Môi năm thu hút thêm 1.3-1.4 triệu người có chỗ việc làm, giamt
tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống 5% và nâng tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông
thôn lên 75% vào năm 2000. Trong 5 năm phải giải quyết việc làm cho 6.5-7 triệu người,
đào tạo lại nghề cho 4.5 triệu người, nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo trong lực lượng lao
động lên 22-25% vào năm 2000. Tổ chức dạy nghề gắn với việc làm cho 1 triệu người,
cho vay vốn để giải quyết việc làm cho 925000 người.
b. Phương hướng cơ bản về lao động và việc làm thời kì 1996-2000.
Phương hướng chung là nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện
tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế,
mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động.
Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển
dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lực lượng lao động trên địa bàn cả nước,
tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ning quốc phòng. Mở rộng
kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỉ lệ thất nghiệp ở thành
thị và thiếu việc làm ở nông thôn.
Giải quyết việc làm đến năm 2000 được triển khai trên 3 hướng cơ bản:
+Ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật, các chủ chương chính sách
đồng bộ nhằm thúc đẩy nền kinh tế hướng về xuất khẩu phát triển bền vững. Kết hợp hài
hoà giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm.
+Duy trì và bảo đảm việc làm cho người lao động, chống sa thải nhân công hàng
loạt. Từng bước xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
+Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm cho người thất
nghiệp, người thiếu việc làm và những đối tượng yếu thế trong thị trường lao động. Tạo
lập các chương trình phát triển và các quĩ quốc gia hỗ trợ việc làm. Nguồn tài chính quĩ
hỗ trợ việc làm được bảo đảm băng nguồn ngân sách (cả trung ương và địa phương) và
nguồn vốn đầu tư phát triển để thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội.
Giải quyết việc làm ở khu vực thành thị thời kì 1996-2000 theo hướng: Phát triển
các xí nghiệp qui mô lớn liên doanh với nước ngoài tạo việc làm có kĩ thuật cao, có giá trị
sức lao động cao nhằm giải quyết việc làm cho lao động có tay nghề. Phát triển nhanh và
vững chắc các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực kinh tế không kết cấu trong lĩnh vực
kinh doanh và dịch vụ. Phát triển các hình thức gia công hàng xuất khẩu, đa dạng hoá các
mặt hàng đặc biệt các hàng hoá có công nghệ sử dụng nhiều lao động như may mặc, giầy
da, gốm sứ, lắp ráp các mặt hàng điện tử xe gắn máy. Khai thác tiềm năng kinh tế ven
thành phố thị xã, liên kết kinh tế nội và ngoại thành hình thành vành đai cung cấp và tiêu
thụ sản phẩm giữa thành thị và nông thôn. Hình thức các trung tâm dạy nghề và dịch vụ
việc làm tập trung ở các đô thị nhằm đào tạo tay nghề có kĩ thuật cao, cung ứng dịch vụ
cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Lao động nông thôn là nguồn lực quan trọng nhất ở nước ta, lực lượng này phân
bổ trên địa bàn rộng lớn và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp với
trình độ lao động, kĩ thuật lao động lạc hậu, năng suất lao động rất thấp vì vậy giải quyết
việc làm cho lao động ở khu vực nông thôn có ý nghĩa rất quan trọng. Trong kế hoạch
1996-2000 phương hướng giải quyết lao động ở khu vực nông thôn trên các hướng cơ
bản: việc làm cho người lao động ở nông thôn phải có sự nghiên cứu theo định hướng
nhất định. Trước mắt phải tận dụng được lợi thế về lao động, về tài nguyên thiên nhiên để
tạo việc làm, phát triển ngành nghề thích hợp với nhu cầu đa dạng và chất lượng ngày
càng cao của thị trường. Nhà nước phải có chính sách khuyến khích điều tiết, tăng cường
cơ sở hạ tầng cho sản xuất, tạo thị trường khai thông buôn bán, khuyến khích hợp tác sản
xuất tiêu thụ cung ứng. Việc đào tạo văn hoá, trình độ học vấn và nâng cao dân trí cho
người lao động ở khu vực nông thôn đóng vai trò tích cực và quan trọng trong việc tạo và
tìm việc làm cho người lao động.
2. Tình hình thực hiện mục tiêu việc làm kế hoạch 1996-2000 và thực trạng việc làm
ở nước ta.
a. Tình hình thực hiện mục tiêu việc làm kế hoạch 1996-2000.
Kế hoạch 5 năm 1996-2000 được xây dựng trong bối cảnh có nhiều thuận lợi, hầu
hết các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 1991-1995 đều đạt và vượt mức kế hoạch đặt ra, đất
nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và chuyển sang thời kì mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá hiên đại hoá. Vì vậy mục tiêu kế hoạch đặt ra với mức phấn đấu cao, thực
hiện đồng thời 3 mục tiêu. Trong quá trình thực hiện kế hoạch nhất là từ giữa năm 1997
đến 1999 do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế khu vực cùng với
thiên tai nghiêm trọng liên tiếp xảy ra đã đặt nền kinh tế nước ta trước những thách thức
quyết liệt. Trong bối cảnh đó toàn Đảng toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó
khăn thách thức duy trì được nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm,
công cuộc phát triển kinh tế xã hội tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng. Với
hoàn cảnh kinh tế, các lĩnh vực văn hoá xã hội đã có bước phát triển khá thể hiện sự nỗ
lực rất lớn của toàn Đảng toàn dân, trong đó những kết quả mà công tác giải quyết việc
làm đạt được cũng rất đáng khích lệ. Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế chính sách thúc
đẩy đầu tư phát triển mở rộng sản xuất, đa dạng hoá ngành nghề, khuyến khích các thành
phần kinh tế bỏ vốn đầu tư thực hiện các chương trình kinh tế xã hội của ddất nước đã tạo
thêm nhiều chỗ việc làm mới góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Mạng
lưới các trung tâm xúc tiến việc làm, trung tâm dạy nghề, hướng nghiệp của các ngành
các cấp các doanh nghiệp và đoàn thể quần chúng đã góp phần tích cực trong việc tạo cơ
hội để người lao động có thể tiếp cận việc làm hoặc tự tạo việc làm, kết hợp với sự hỗ trợ
của nhà nước và cộng đồng.
Trong 5 năm thực hiện kế hoạch đã có thêm 6.1 triệu lao động được thu hút vào
làm việc và tạo thêm việc làm trong các ngành kinh tế xã hội, bình quân mỗi năm thu hút
khoảng hơn 1.2 triệu người trong đó khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác xã đóng góp
phần đáng kể tạo ra nhiều chỗ việc làm mới. Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị năm 2000 là
6.4% trong khi kế hoạch đặt ra là giảm xuống dưới 5%, thời gian sử dụng lao động thực
tế là 73.8% và tỉ lệ lao động qua đào tạo trong lực lượng lao động ở mức 20% so với mục
tiêu kế hoạch tương ứng đặt ra là 75% và 22-25% vào năm 2000. Về công tác dân số, kế
hoạch hoá gia đình đạt được những thành quả nhất định. Tỉ lệ sinh bình quân mỗi năm
giảm 0.078% (mục tiêu đề ra là 0.06%). Tỉ lệ tăng dân số năm 1995 là 1.7% đến
năm2000 chỉ còn 1.4%. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác dân số, kế hoạch hoá gia
đình được tăng cường đáng kể. Với những tiến bộ kể trên năm 1999 Việt Nam đã được
liên hợp quốc tặng giải thưởng về công tác dân số.
b. Thực trạng lao động và việc làm ở nước ta hiện nay:
Nước ta hiện nay là một nước nông nghiệp nghèo, có dân số đông với tốc độ tăng
bình quân cao, nguồn lao động dồi dào năng suất lao động thấp, cung lao động luôn luôn
trong tình trạng lớn hơn cầu lao động bởi vậy trong nền kinh tế luôn luôn duy trì lực
lượng lao động dư thừa dưới nhiều hình thức, tình trạng thiếu việc làm là phổ biến. Năm
2000 tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị là 6.42% còn ở nông thôn tỉ lệ thời gian lao động được
sử dụng của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 76.58% . Đây là vấn đề cấp
bách không chỉ trước mắt mà còn có nguy cơ kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hôị lâu
dài. Trước hết chúng ta xem xét hiện trạng và xu hướng thay đổi việc làm trong những
năm gần đây qua bảng biểu sau:
Các tiêu chí 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Tổng số 33978 34352 34801 35679 36205 37677
Theo Nông lâm ngư 23431 22589 23018 22861 22670 22813
nhóm nghiệp
ngành Xây dựng, công 3698 4170 4049 4435 4744 5428
nghiệp
Dịch vụ 6849 7593 7734 8382 8791 8426
Theo Nhà nước 2973 3049 3533 3606 3644 3769
thành Ngoài nhà nước 31005 31128 31083 31884 32343 33554
phần Có vốn đầu tư 130 184 190 218 354
kinh tế nước ngoài
Phân tích số liệu biểu trên ta thấy rằng số người có việc làm thường xuyên tăng
lên liên tục trong thời kì 1996-2000, mỗi năm trung bình tăng gần 740 nghìn người, trong
đó năm tăng nhiều nhất là năm 2001 so với năm 2000 với số tuyệt đối là 1472 nghìn và
năm tăng nhất là năm 1998 so với 1997 với số người là 449 nghìn. Xu hướng thay đổi
trên phần nào được phản ánh qua sự thay đổi cơ cấu làm việc theo 2 nhóm tiêu chí phân
loại ở biểu trên. Trước hết số việc làm trong nông lâm ngư nghiệp trong thời kì này nói
chung là không thay đổi nhiều có xu hướng giảm nhẹ nhưng không đều. So sánh năm
2001 với năm 1996 số việc làm trong nông lâm ngư nghiệp giảm đi 618 nghìn (trong khi
dân số, nguồn lao động ở khu vực nông thôn thời kì này không hề giảm đi về số tuyệt
đối. Đối với nhóm ngành xây dựng công nghiệp xu hướng thay đổi là tích cực, số việc
làm đã tăng lên liên tục trung bình mỗi năm tăng 346 nghìn việc làm. Đối với nhóm
ngành dịch vụ xu hướng thay đổi cũng tích cực tương tự như trong xây dựng công
nghiệp, số tuyệt đối việc làm tăng trung bình mỗi năm khoảng 230 nghìn người. Xét về
tổng thể cơ cấu việc làm trong thời kì này, năm 1996 tổng số việc làm là 100% thì các
nhóm ngành sẽ là : nông lâm ngư nghiệp 69%, xây dựng công nghiệp chiếm 10.9% và
dịch vụ 20.1%. Năm 2001 số % tương ứng là 60.5-14.4-25.1% . Như vậy tỉ trọng việc
làm trong nông lâm ngư nghiệp đã giảm đi khoảng 9% tương ứng là số việc làm tăng
thêm trong xây dựng công nghiệp và dịch vụ trong thời kì 5 năm 1996-2000.
Đối với cơ cấu việc làm theo thành phần kinh tế chúng ta thấy xu hướng tăng
trong cả 3 nhóm: nhà nước, ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài. Trung bình mỗi
năm khu vực nhà nước tăng thêm 159 nghìn, ngoài nhà nước tăng 510 nghìn và khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài là 56 nghìn việc làm. Nếu so sánh về tốc độ tăng việc làm trung
bình năm thì thứ tự là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhanh nhất 43% sau
đó đến khu vực nhà nước 5.35% và khu vực ngoài nhà nước 1.64%.
Về cung lao động: Nước ta là một nước có dân số đông với cơ cấu dân số trẻ vì
vậy mà lực lượng lao động là rất dồi dào hàng năm tăng từ 3.3-3.5% tương ứng mỗi năm
có 1.5 triệu người bước vào tuổi lao động. Số người ra khỏi tuổi lao động gần 0.5 triệu
người vậy mỗi năm trung bình Việt Nam tăng hơn 1 triệu lao động. Dân số và lao động ở
nước ta lại chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn với việc sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu trong khi đó diện tích canh tác cho một nhân khẩu đang có xu hướng giảm dần, tâta
yếu sẽ dẫn đến hiện tượng thất nghiệp ra tăng ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế xã hội.
ở thành phố ngoài thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ cấu còn tồn tại thất nghiệp do
chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế, do bố trí sắp xếp lại lao động nên tỉ lệ thất nghiệp trong
các năm qua tương đối cao và có xu hướng gia tăng (1996: 5.88% , 1997: 6.01% , 1998:
6.85% , 1999: 7.4%) .ở khu vực nông thôn cùng với chuyển giao sử dụng đất đến hộ
nông dân và áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, tạo thêm việc làm nhưng số người thiếu
việc làm vẫn chiếm một tỉ lệ lớn (1996: 27.65% , 1997: 25.47% ,1998: 27.65% , 1999
khoảng 29%).
Về chất lượng nguồn lao động, trong năm 2000 lao động nước ta đã qua đào tạo
gần 6 triệu người chiếm 15.52% so với tổng số lao động tăng 1.65% so với năm1999.
Miền Đông Nam Bộ có tỉ lệ lao động qua đào tạo cao nhất là 21% tiếp đến là Đồng bằng
sông Hồng 20.9%. Cơ cấu lao động đã có sự thay đổi: nhóm ngành xây dựng tăng 0.7%;
dịch vụ tăng 0.35% và tỉ lệ lao động thất nghiệp chung cả nước giảm 0.3% so với năm
1999. Chuẩn hộ nghèo theo mức trung bình thu nhập đầu người trong từng hộ gia đình,
từng vùng cũng được nâng cao hơn trước đây với mức 80000 đồng/tháng cho vùng nông
thôn miền núi hải đảo, 100000 đồng/tháng cho vùng nông thôn đồng bằng và 150000
đồng/tháng cho vùng thành thị.
Thành tích đạt được trên là đáng khích lệ nhưng so với yêu cầu còn khoảng cách
khá xa và đòi hỏi sự nỗ lực và phấn đấu rất lớn. Lao động được đào tạo ở nước ta vẫn là
quá ít (15.52%) trong khi đó các nước trong khu vực tỉ lệ này chiếm 40-50%. Chúng ta
lại thiếu công nhân có tay nghề cao phù hợp với yêu cầu công nghệ sản xuất mới số công
nhân bậc cao (5,6,7) nữ mới chiếm 18.32%, nam 29.4% so với tổng số công nhân kĩ
thuật. Cơ cấu đào tạo giữa bậc đại học, trung học, công nhân hiện nay chưa hợp lí với tỉ
lệ 1-1.3-1, trong khi các nước trong khu vực tỉ lệ này bình quân này là 1-4-10.
Trong cuộc điều tra tại 84 doanh nghiệp thuộc các khu chế xuất, khu công nghệ ở
8 địa phương trọng điểm do Tổng Liên doàn Lao Động Việt Nam tổ chức, kết quả cho
thấy 3% công nhân có trình độ văn hoá tiểu học, 34.1% trung học cơ sở, 61.5% phổ
thông trung học, 1.4% có trình độ trung học chuyên nghiệp và đại học. Nhưng số liệu trên
phần nào đã phản ánh được thực trạng về chất lượng lao động ở nước ta hiện nay.
c. Thực trạng trong vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta.
Đảng và nhà nước luôn xác định con người là vị trí trung tâm của sự nghiệp phát
triển, phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu cấu
thành lên sự phát triển chung của đất nước. Đồng thời tiến trình hội nhập khu vực và thế
giới buộc công tác phát triển nguồn nhân lực phải được đặt lên hàng đầu để có thể theo
kịp và nắm bắt các cơ hội mà tiến trình hội nhập mang đến. Nhận thức được ý nghĩa và
tầm quan trọng, công tác kế hoạch giải quyết việc làm trong những năm qua đã có nhiều
cố gắng, nỗ lực và bước đầu đã thu được nhiều kết quả khả quan. Bằng nhiều hình thức
thúc đẩy đầu tư phát triển kinh tế, tạo mọi điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển
kết hợp với các chương trình quốc gia tạo việc làm đã tạo mới nhiều việc làm cho người
lao động. Trong những năm qua đã tạo ra trung bình mỗi năm 1.2 triệu chỗ làm việc mới
đáp ứng phần nào nguồn cung lao động ngày càng tăng. Cùng với việc tạo ra chỗ làm
việc mới thì nhà nước cũng đặc biệt quan tâm đến đào tạo và đào tạo lại lao động, từng
bước nâng cao chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công nghiệp hoá
hiện đaị hoá đát nước. Tuy công tác kế hoạch việc làm đã đạt được nhiều bước tiến
nhưng vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục: Các chỉ tiêu thực tế về việc làm đã
không đạt được so với mức chỉ tiêu đặt ra. Tình hình thất nghiệp còn đáng lo ngại năm
2000 tỉ lệ này là 6.44% trong khi kế hoạch đặt ra chỉ là 5%, thời gian sử dụng lao động ở
nông thôn là 73.8% so với 75% của mục tiêu kế hoạch. Đặc biệt chất lượng lao động của
nước ta hiện nay là rất thấp so với khu vực và thế giới nhất là trong khu vực nông thôn,
phân bố và cơ cấu lao động bất hợp lí phần nào đã gây nên tình trạng thiếu việc làm và
thất nghiệp ngày càng gia tăng trong vài năm gần đây (1996-1999).
d. Những tồn tại của vấn đề việc làm những khó khăm trong công tác giải quyết
việc làm trong những năm qua do các nguyên nhân cơ bản sau:
Phần lớn lao động nằm ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên do diện tích canh tác bình
quân đầu người thấp, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp chậm, tiểu thủ công nghiệp kém
phát triển, mức đầu tư cho nông nghiệp còn hạn chế, cho nên tình trạng thiếu việc làm
trầm trọng, biểu hiện cụ thể là tỉ lệ thời gian lao động không cao năm 2000 chỉ đạt
74.14%.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình và các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là nơi có khả năng tạo nhiều việc làm vì những ưu thế về qui mô và
chi phí thấp để tạo ra một chỗ làm việc, tính năng động và lợi ích trực tiếp của lao động,
phù hợp với chất lượng lao động và trình độ quản lí. Tuy nhiên khu vực này cũng đang
đối đầu với những khó khăn trong điều kiện mở cửa và hội nhập, sản phẩm kém tính cạnh
tranh do chất lượng không cao, ngoài ra môi trường kinh doanh chưa ổn định còn nhiều
rủi ro, thiếu thông tin thiếu sự hỗ trợ, hạn chế về vốn.
Khu vực nhà nước đang gặp thách thức không nhỏ. Nhiệm vụ và yêu cầu cải cách
bộ máy quản lí và thủ tục hành chính đòi hỏi phải tinh giản biên chế sắp xếp lại số biên
chế hiện có, hạn chế nhận thêm lao động mới. Các doanh nghiệp nhà nước mặc dù có
nhiều khoản đầu tư và các chính sách hỗ trợ cũng gặp khó khăn trong sản xuất kinh
doanh, trước yêu cầu nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh, chống độc quyền do đó cơ
hội tạo thêm việc làm là rất hạn hẹp.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tuy có tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm
khá cao khoảng 17% tuy nhiên tỉ trọng trong GDP còn thấp, hơn nữa phần lớn tập chung
vào các ngành công nghiệp nặng, dầu khí, bất động sản đó là những ngành cần nhiều vốn,
có hệ số bảo hộ cao, bởi vậy khả năng thu hút lao động không nhiều.
Huy động giáo dục và đào tạo cơ sở và đào tạo tay nghề cho người lao động chưa
gắn với yêu cầu thực tế cho nên dẫn đến chất lượng lao động ở nước ta còn yếu kém,
trình độ tay nghề thấp, cơ cấu ngành nghề không phù hợp với yêu cầu, tỉ lệ lao động
không có trình độ chuyên môn kĩ thuật còn rất cao đặc biệt ở khu vực nông thôn và vùng
sâu vùng xa.
Việc thực hiện công tác kế hoạch giải quyết việc làm còn nhiều hạn chế không có
sự đồng bộ giưã đào tạo và nhu cầu sử dụng. Chưa có sự thống nhất hợp lí giữa trung
ương và các địa phương, giữa các địa phương, các vùng với nhau trong giải quyết và thực
hiện tốt công tác kế hoạch giải quyết việc làm. Chưa thực hiện được việc xã hội hoá trong
việc tìm và tạo việc làm.
Thị trường lao động được coi là một trong những biện pháp quan trọng để giải
quyết việc làm, thì ở nước ta hiện nay thị trường này còn rất sơ khai và kém phát triển
được thể hiện thông qua hệ số lao động tham gia vào thị trường lao động là rất thấp.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản đẫn đến thực trạng lao động và việc làm ở
nước ta hiện nay.
Chương III: Mục tiêu và giải pháp giải quyết việc làm trong kế hoạch 2001- 2005.
1.Quan điểm và chủ trương của Đảng về việc làm và giải quyết việc làm:
Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định phát
triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nhu cầu chính đáng và yêu cầu bức xúc của
nhân dân. Đến năm 2010 nước ta có 56.8 triệu người ở độ tuổi lao động tăng gần 11 triệu
người so với năm 2000. Để giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, phải tạo môi
trường, điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi các
cơ sở sản xuất kinh doanh,tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động. Thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế. Chú trọng bảo
đảm an toàn xã hội.
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Xây dựng và thực hiện đồng bộ và chặt chẽ cơ chế,
chính sách về đào tạo nguồn lao động, đưa lao động ra nước ngoài, bảo vệ quyền lợi và
tăng uy tín của lao động Việt Nam ở nước ngoài.
Tiếp tục giảm tốc độ, giảm dân số, ổn định quy mô dân số ở mức hợp lí, giải quyết
đồng bộ, từng bước và có trọng điểm chất lượng dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư.
Bằng nguồn lực của nhà nước và toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho
vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu
thụ sản phẩm. Chủ động di dời một bộ phận nhân dân không có đất canh tác và điều kiện
sản xuất đến lập nghiệp ỏ những vùng còn tiềm năng. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi,
khuến khích mọi người dân vượt lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ người nghèo. Thực
hiện trợ cấp xã hội đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt không thể tự lao động,
không có người bảo trợ nuôi dưỡng.
2. Mục tiêu và phương hướng giải quyết việc làm trong kế hoạch 5 năm 2001- 2005.
a. Mục tiêu của Đảng và nhà nước về việc làm.
Mục tiêu cơ bản lâu dài: Tạo việc làm mới và bảo đảm việc làm cho người lao
động có khả năng lao động có yêu cầu việc làm. Thực hiện các biện pháp để trợ giúp
người thất nghiệp nhanh chóng có được việc làm, người thiếu việc làm có đủ việc làm,
đặc biệt có chính sách trợ giúp cụ thể các đối tượng yếu thế trong thị trường lao động.
Thông qua đó giải quyết hợp lí mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế với giải quyết việc làm cho người lao động nhằm từng bước nâng cao năng suất
lao động, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Mục tiêu cụ thể: Mỗi năm tạo thêm 1.3-1.4 triệu lao động chỗ làm mới, giảm tỉ lệ
thất nghiệp ở thành thị xuống 5% và nâng tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở nônh thôn
lên 80% vào năm 2005. Tập chung phát triển kinh tế xã hội, duy trì tỉ lệ tăng GDP hàng
năm không dưới 7% để tạo ra 5-5.5 chỗ việc làm mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng giảm dần tỉ trọng nông nghiệp xuống 55%, công nghiệp và xây dựng 21%, dịch vụ
24% vào năm 2005. Đào tạo đào tạo lại nghề cho 5-5.5 triệu người. Nâng tỉ lệ lao động
qua đào tạo trong lực lượng lao động lên 30% vào năm 2005. Tốc độ tăng năng suất lao
động xã hội đạt 4-5%/năm. Trong đó các hoạt động hỗ trợ trực tiếp của chương trình việc
làm sẽ tổ chức dạy nghề và bổ túc nghề gắn với việc làm cho 1 triệu người, cho vay vốn
hỗ trợ giải quyết việc làm cho 1.5-1.6 triệu lao động. Đổi mới cơ chế hoạt động, nâng cao
năng lực và hiện đại hoá các trung tâm dịch vụ việc làm ở các tỉnh thành phố trực thuộc
trung ương và hệ thống cơ sở vệ tinh để cung cấp dịch vụ tư vấn, giới thiệu, chắp nối việc
làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm đã đăng kí tại trung tâm với người sử
dụng lao động.
b. Các chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm thời kì 2001-2005:
Các hoạt động của chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm 2001-
2005 được tiến hành trên 3 lĩnh vực: phát triển kinh tế xã hội tạo mới việc làm; đẩy mạnh
xuất khẩu và chuyên gia; tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm
cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm và các đối tượng yếu thế trong thị trường lao
động có nhu cầu việc làm. Trong đó phát triển kinh tế xã hội tạo mở việc làm là lĩnh vực
cơ bản có ảnh hưởng quyết địnhđến việc làm tăng hoặc giảm chỗ việc làm ổn định cũng
như cơ cấu lao động của lực lượng lao động xã hội trong mối quan hệ nhân quả có tính
hữu cơ giữa tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch kinh tế với phát triển và ổn định việc làm,
chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Theo tính toán từ các chương trình mục tiêu cho thấy:
Các chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn phấn đấu đưa tốc độ tăng
trưởng giá trị tổng sản lượng ngành nông nghiệp tăng bình quân hàng năm giai đoạn
2001-2005 đạt trên 4% và đến năm 2005 thu hút thêm được 1.3-1.4 triệu lao động.
Các chương trình phát triển công nghiệp và xây dựng phấn đấu đạt tốc độ tăng
trưởng giá trị tổnh sản lượng công nghiệp xây dựng tăng bình quân hàng năm trên 12%
và đến năm 2005 thu hút được thêm 2.4-2.5 triệu lao động.
Các chương trình phát triển thương mại, dịch vụ phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng
giá trị tổng sản lượng khu vực dịch vụ tăng bình quân hàng năm trên 7% và đến năm
2005 thu hút được thêm 1.8-1.9 triệu lao động. Như vậy thông qua các chương trình đầu
tư phát triển đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng của mỗi khu vực kinh tế
nói riêng và tổng GDP cả nước nói chung sẽ có khoảng 40075000 có việc làm thường
xuyên, cơ cấu lao động xã hội sẽ là 60.04-17.98-21.98 . Số lao động không có việc làm
thường xuyên đến năm 2005 vào khoảng 2 triệu 657.5 ngàn người.
Theo tính của các chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm 2001- 2005, trong 5
năm phấn đấu xuất khẩu được 30 vạn lao động và chuyên gia giải quyết việc làm (bao
gồm cả tạo việc làm mới và có thêm việc làm) cho 1 triệu 550 ngàn lao động là đối tượng
thất nghiệp, thiếu việc làm. Ngoài ra các chương trình kinh tế xã hội khác đặc biệt là
chương trình phát triển nguồn nhân lực, chương trình quốc gia cho vay vốn hỗ trợ việc
làm, chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình 135 của chính phủ cũng cần có sự
phối hợp đồng bộ, bố trí mức đầu tư hợp lí đúng đối tượng để phục vụ các mục tiêu
chung có hiệu quả.
b. Phương hướng cơ bản giải quyết việc làm trong thời kì 2001- 2005.
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, tích cực với những nét
đặc trưng sau:
Tăng tỉ trọng của các khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỉ trọng khu
vực nông nghiệp nhằm tạo cơ cấu một nền kinh tế có khả năng tạo nhiều việc làm mới và
thu hút ngày càng nhiều lực lượng lao động.
Thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn làm cơ sở cho việc đẩy nhanh quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động ở khu vực nông thôn. Nhà nước kích
thích quá trình này bằng cách hỗ trợ xây dựng các công trình cấu trúc hạ tầng như cấp
điểm, giao thông, thông tin liên lạc, các trung tâm thương mại dịch vụ … khuyến khích
dân cư nông thôn tự tạo việc làm ngay tại quê hương mình với phương châm “li nông bất
li hương” “vào xưởng không vào thành”.
Cải tiến và đổi mới cơ chế huy động vốn, sử dụng và quản lí nguồn đầu tư theo
hướng sau:
Đa dạng hoá hình thức huy động vốn và thường xuyên điều chỉnh lãi suất cũng
như việc thuận lợi hoá những thủ tục gửi tiền, rút tiền tiết kiệm nhằm huy động ngày
càng nhiều vốn nhàn rỗi trong dân.
Đẩy nhanh việc cổ phần hoá, hình thành thị trường vốn và vận hành tốt loại thị
trường này nhằm nhanh chóng huy động vốn và di chuyển vốn dễ dàng giữa các khu vực,
các ngành kinh tế.
Cải tiến cơ cấu sử dụng nguồn vốn đầu tư của nhà nước theo hướng chủ yếu dành
để xây dựng cấu trúc hạ tầng nhằm tạo diều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế
khác đầu tư phát triển vào các khu vực, các ngành kinh tế có khả năng tạo thêm được
nhiều chỗ việc làm hơn, khả năng sinh lời và quay vòng vốn nhanh hơn.
Tăng nguồn vốn trung hạn và dài hạn hỗ trợ cho nhân dân trong quá trình tạo việc
làm và chuyển đôỉ cơ cấu kinh tế.
Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, chuẩn bị tốt điều kiện hội nhập kinh tế
thế giới và khu vực kết hợp với đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại cởi mở thông thoáng.
Tập trung vào đổi mới công nghệ, nâng cao kĩ năng lao động, hình thành và phát triển
năng lực các ngành chế biến nhằm tăng qui mô và tỉ trọng xuất khẩu các sản phẩm đã qua
chế biến, giảm xuất khẩu nguyên liệu thô. Đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu, tuy nhuên
trước mắt cần tập chung vào những sản phẩm có dung lượng lao động lao động lớn như
dệt may, dày dép, chế biến lương thực thực phẩm, gia công cơ khí điện tử, đồ gỗ, hoá
chất tiêu dùng và thủ công mỹ nghệ. Tìm kiếm và mở rộng thị trường đồng thời làm tốt
công tác đào tạo nghề để đưa được nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Hình thành, phát triển và điều tiết có hiệu quả giữa các vùng các khu vực, các
ngành nghề của thị trường lao động. Thị trường lao động đã và đang hình thành tuy nhiên
hiện nay phạm vi và qui mô hoạt động còn hạn chế nhưng sẽ ngày càng phổ biến rộng rãi.
Quản lí tốt thị trường này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình sắp xếp việc làm, giảm tỉ
lệ thất nghiệp và thúc đẩy tính cơ động, linh hoạt của lực lượng lao động cũng như ngăn
chặn và khắc phục nhiều hậu quả kinh tế xã hội khác. Để thúc đẩy quá trình hình thành
và khai thác những ưu điểm của thị trường lao động cần nhanh chóng xúc tiến những
công việc sau:
Soạn thảo và ban hành những văn bản dưới luật nhằm cụ thể hoá những điều
khoản và hướng dẫn thi hành bộ luật lao động.
Hình thành và vận hành tốt mạng lưới những công cụ của thị trường lao động
như các trung tâm dịch vụ việc làm, phát triển hệ thống thông tin về cung và cầu lao động
đặc biệt là thông tin về cầu sức lao động. Khuyến khích những hoạt động giao dịch về
việc làm thông qua hệ thống trung tâm, văn phòng giới thiệu và sắp xếp việc làm.
Trong những năm tới, một trong những dặc điểm ở nước ta là số lao động tham
gia vào thị trường lao động sẽ tiếp tục tăng và thị trường lao động ngày càng được đa
dạng hơn. Vì vậy cần có những qui định nhằm hướng dẫn và điều tiết các loại hình thị
trường lao động khác nhau đẻ đạt được mục tiêu điều tiết kịp thời, có hiệu quả giữa cung
và cầu sức lao động cũng như bảo vệ quyền lợi xác định rõ trách nhiệm của những bên
tham gia vào thị trường lao động.
3. Giải pháp, chính sách giải quyết việc làm thời kì 1996-2000.
a. Giải pháp về vấn đề kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm có mối quan hệ qua lại và qiui định lẫn
nhau. Xét về một mặt nào đó tăng trưởng kinh tế sẽ tạo cầu việc làm, là cơ sở để xây
dựng kế hoạch việc làm. Còn việc làm là nhân tố cơ bản để tạo lên tăng trưởng kinh tế.
Vì thế tăng trưởng kinh tế sẽ góp phần làm tăng việc làm xã hội cho người lao động.
Giải pháp về kinh tế là giải pháp chủ yếu để tăng cầu lao động, là giải pháp cơ bản
và có hiệu quả giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay cũng như trong thời gian tới. Giải
pháp này với mục đích hướng vào tăng trưởng kinh tế, tăng cầu lao động từ đó dẫn đến
tăng việc làm. Đây là một hướng tích cực, tuy nhiên phụ thuộc vào nhiều yếu tố và sự lựa
chọn chiến lược giải pháp trong những điều kiện dân số, kinh tế xã hội cụ thể. Dựa vào
chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 2001-2005 cùng với tình hình của nước ta,
những giải pháp chủ yếu có thể như sau:
* Phát triển toàn diện khu vực nông thôn: Các chương trình phát triển khu vực
nông thôn cần phải được khuyến khích tập trung vào việc tạo thu nhập cho khu vực nông
thôn, tăng số công ăn việc làm, cải thiện các dịch vụ y tế và giáo dục, phát triển cơ sở hạ
tầng (điện, đường, trương, trạm) đồng thời cung cấp các tiện nghi khác cho nông thôn.
Thực hiện giải pháp này sẽ có tác dụng 2 mặt: một mặt sẽ có tác động làm giảm cung lao
động về lâu dài, mặt khác sẽ tăng cầu tại chỗ, hạn chế di cư ồ ạt từ nông thôn ra thành thị,
dần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn. Đảng và nhà nước ta luôn coi nông
nghiệp, nông thôn là mặt trận hàng đầu không chỉ bởi ý nghĩa kinh tế mà còn là tầm quan
trọng xã hội, chính trị. Nhiều chính sách được ban hành, gần đây nhất là nghị quyết hội
nghị trung ương 5 khoá 9 về công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn
đang khẳng định tính đúng đắn của vấn đề. Nhiều chương trình phát triển, nhiều nguồn
vốn trong và ngoài nước được huy động nhằm mục tiêu này. Đơn cử, chính phủ Việt
Nam tích cực hợp tác trực tiếp với ngân hàng thế giới kết quả là đầu tư của ngân hàng thế
giới cho phát triển nông thôn Việt Nam đã tăng từ 27% tổng các dự án đầu tư trong giai
đoạn 1994-1998 lên 38% trong giai đoạn 1999-2000 với tổng số vốn gần 12 tỉ USD cho
các dự án phục hồi thuỷ lợi, tài chính nông thôn, bảo vệ rừng, đa dạng hoá nông nghiệp,
phát triển cơ sở hạ tầng và xoá đói giảm nghèo.
* Phát triển toàn diện khu vực nông thôn trước hết phải nhận thức được tầm quan
trọng của sản xuất nông nghiệp, phát triển sản xuất nông nghiệp vẫn là hình thức sản xuất
chính nhưng phải dần chuyển đổi từ hình thức sản xuất nông nghiệp nhỏ lên sản xuất lớn,
tập trung nâng cao năng suất hiệu quả lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Các địa
phương, khu vực nào có điều kiện thì tiến tới hình thành các trang trại nông nghiệp, các
nông trường lâm nghiệp theo hương cơ khí hoá công nghiệp hoá các hoạt động sản xuất.
Phát triển toàn diện nông thôn đồng thời phát triển các ngành nghề công nghiệp tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ, một mặt tận dụng các lợi thế về nguồn lao động dư thừa và lao
động mùa vụ từ khu vực nông nghiệp mặt khác nó có tác dụng thúc đẩy, hỗ trợ sự phát
triển nông nghiệp. Tuỳ vào từng điều kiện, lợi thế về tự nhiên, nguồn nhân lực mà các
vùng xác định cơ cấu ngành nghề cho phù hợp với khu vực nông thôn, tạo việc làm tại
chỗ cho người lao động theo chủ trương “li nông bất li hương”.
* Phát triển khai thác các yếu tố tăng việc làm tự thân: Khu vực việc làm tự thân
bao gồm những chủ doanh nghiệp độc lập, chủ cửa hàng, cửa hiệu tự hạch toán, người
làm thường xuyên và không thường xuyên nghề tự do, các thành viên gia đình…làm việc
tuỳ theo nhu cầu sử dụng vốn và nhu cầu hàng hoá và dịch vụ. Việc làm tự thân xuất phát
từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thu hút nhiều lao động với cường độ lớn, nó
bổ sung cho các doanh nghiệp lớn của nhà nước và của tư nhân do đó việc làm khu vực
làm tự thân trong một nước nghèo và đông dân như nước ta cần được thừa nhận và chú ý
phát triển. Trong hơn 2 năm qua kể từ khi luật doanh nghiệp có hiệu lực cả nước có hơn
42000 doanh nghiệp và hơn 300000 hộ kinh doanh cá nhân mới đăng kí thu hút thêm 4 tỉ
USD tiền vốn đầu tư tạo được 750000 chỗ việc làm mới. Để tạo nhiều việc làm cần tập
chung vào các yếu tố cần thiết như: sự mất ổn định thể chế và kinh tế vĩ mô; sự bất bình
đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; huy động mọi nguồn lực đặc
biệt là vốn, đào tạo chuyên môn kĩ thuật và nâng cao trình độ văn hoá cho các đối tượng
trong khu vực việc làm tự thân.
* Mở rộng các ngành sản xuất có qui mô nhỏ, lựa chọn các công nghệ sản xuất phù
hợp sử dụng nhiều lao động.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá có tác động đến việc làm thông qua các chính sách
của chính phủ lựa chọn các ngành để phát triển. Nếu lựa chọn phát triển các ngành sử
dụng dung lượng vốn cao, kĩ thuật cao đặc biệt là các ngành xuất khẩu thì không có khả
năng tạo đủ việc làm cho lực lượng lao động đang tăng lên. Bởi vậy chiến lược đặt ra sao
cho thúc đẩy các ngành công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp ở các khu vực truyền
thống lẫn hiện đại ở các khu vực nông thôn và đô thị có khả năng tạo việc làm nhiều hơn
so với công nghiệp qui mô lớn. Thực hiện chiến lược này có thể bằng 2 cách: trực tiếp
thông qua đầu tư và các hình thức khuyến khích của chính phủ và gián tiếp thông qua
việc tái phân phối thu nhập cho người nghèo, đây là những đối tượng mà cơ cấu tiêu
dùng của họ vừa ít yếu tố nhập khẩu lại vừa sử dụng lao động hơn so với những người
giàu. Mặt khác một trong những yếu tố chủ yếu kìm hãm sự thành công của bất kì
chương trình tạo công việc làm chính là sự phụ thuộc quá nhiều công nghệ của các nước
phát triển. Do đó cần phải giảm bớt sự phụ thuộc này bằng cách phát huy nội lực trong
lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng công nghệ trong nước, trong các doanh nghiệp Việt Nam
sử dụng nhiều lao động. Ngoài ra cũng có thể tập chung phát triển các công nghệ có giá
thành thấp, sử dụng nhiều lao động. Nhưng việc sản xuất ngành nghề với công nghệ sử
dụng nhiều lao động thường chỉ thu hút những lao động có trình độ thấp và đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng hiện tại hoặc có lợi thế xuất khẩu về giá nhân công rẻ. Còn xét về lâu dài
thì vẫn phải phát triển các khu công nghiệp cao thu hút lao động có trình độ để đẩy nhanh
tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên trong điều kiện của Việt Nam hiện nay thì việc lựa chọn
công nghệ sử dụng nhiều lao động là quan trọng đồng thời bên cạnh đó phát triển các khu
công nghiệp, khu chế xuất công nghệ cao giải quyết lao động có trình độ cao là tiền đề
cho tăng trưởng kinh tế.
b. Nhóm giải pháp về chính sách:
* Chính sách về dân số: Qui mô cơ cấu dân số tạo nên cung lao động, và là đối
tượng của công tác giải quyết việc làm. Các nhân tố làm tăng giảm qui mô, thay đổi cơ
cấu dân số của một địa phương, của một quốc gia sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân
lực của địa phương và quốc gia đó. Để đạt được các chỉ tiêu, giảm tỉ lệ sinh bình quân
hàng năm 0.05%, tốc độ tăng dân số đến năm 2005 vào khoảng 1.2% nhằm ổn định qui
mô dân số ở mức hợp lí (88-89 triệu người vào năm 2010), giải quyết đồng bộ từng bước
có trọng điểm chất lượng dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư cần thực hiện các giải
pháp cơ bản sau:
Thực hiên xã hội hoá công tác kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ
trẻ em đặc biệt với sự tham gia của các tổ chức xã hội như hội phụ nữ, tổ chức đoàn thể là
rất quan trọng.
Do có sự phân bố không đều và thiếu thống nhất về nguồn nhân lực so với các
nguồn lực khác giữa các vùng trong phạm vi quốc gia đẫn đến tình trạng dư thừa lao
động ở khu vực này trong khi đó lại thiếu lao động ở khu vực khác. Thực hiện phân bố
lại dân cư, lao động trên địa bàn từng địa phương cũng như phạm vi toàn quốc là giải
pháp quan trọng nhằm thay đổi qui mô cơ cấu dân số, lao động tạo nên sự hợp lí giữa các
vùng miền. Chủ trương, chính sách của chính phủ khuyến khích người dân đặc biệt ở khu
vực nông thôn đồng bằng đi làm kinh tế mới một mặt nhằm giải quyết việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động mặt khác nhằm khai thác các nguồn lực của đất nước. Nhà nước
ngoài việc giúp đỡ vật chất, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động thì mặt khác nhà
nước phải quản lí tốt công tác di dân tránh tình trạng di dân một cách tự phát gây khó
khăn cho cả nhà nước và người lao động.
* Xuất khẩu lao động và chuyên gia: “Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một
hoạt động kinh tế xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu
nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất
nước… cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao
động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài góp phần xây dựng đội ngũ lao
động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá“ (
Nghị Định 152/1999/NĐ-CP ). Để khắc phục những hạn chế hiện tại và phấn đấu đạt
được chỉ tiêu thường xuyên có một triệu lao động làm việc ở nước ngoài trong thời gian
tới cần phải có nhiều giải pháp về cơ chế, chính sách cũng như về tổ chức cán bộ. Sau
đây là một số giải pháp chủ yếu:
Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực cho xuất khẩu: Thông thường sau khi kí
được hợp đồng xuất khẩu lao động các doanh nghiệp mới bắt đầu thông báo tuyển lao
động cho xuất khẩu. Do vậy nhiều khi không đủ số lượng và không đảm bảo chất lượng
mặc dù nó phù hợp với khả năng và tư duy của người lao động hiện nay chỉ học tập, rèn
luyện khi được tham gia xuất khẩu lao động. Trong thời gian tới cần tích cực đào tạo
nguồn nhân lực mang tính đón đầu và dự trữ để xuất khẩu. Cần trang bị cho người học
vững vàng các kiến thức về chuyên môn, ngoại ngữ, hiểu biết về quan hệ trong nền kinh
tế thị trường đồng thời có biện pháp để nâng cao trình độ văn hoá, sức khoẻ, ý thức tổ
chức kỉ luật và một số vấn đề khác. Nếu làm tốt công tác trên, khi các doanh nghiệp kí
được hợp đông sẽ có nguồn lao động ddax được đào tạo sẵn tại các cơ sở, chỉ cần bồi
dưỡng thêm một số vấn đề như luật pháp, phong tục tập quán của nước sở tại là có thể đủ
số nguồn lao động để xuất khẩu theo yêu cầu của nước nhận lao động.
Sắp xếp lại doanh nghiệp và tốt công tác tuyển chọn lao động đi xuất khẩu lao
động: xuất khẩu lao động khác hoàn toàn với xuất khẩu hàng hoá. Xuất khẩu lao động
cần thông qua các doanh nghiệp có đủ điều kiện cần thiết và được phép xuất khẩu. Do đó
cần phải sắp xếp lại các doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động, thu hồi giấy phép
hoặc đình chỉ hoạt động một thời gian hoặc vĩnh viễn các doanh nghiệp không đủ điều
kiện. Các doanh nghiệp này cần được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Cần tuyển chọn trực tiếp, không thông qua các đại lí thu gom như thu gom các hàng hoá
thông thường vì đây là những người lao động xuất khẩu, đơn vị xuất khẩu lao động phải
chăm lo đến người lao động trước trong và sau khi xuất khẩu lao động. Những người
được lựa chọn đi xuất khẩu lao động phải là những người được đào tạo, có trình độ
chuyên môn, tay nghề, có sức khoẻ, hiểu biết ngoại ngữ, luật pháp, phong tục tập quán
của nước đến làm việc.
Tích cực khai thác thị trường mới, giữ vững thị trường hiện có: Trong điều kiện
cạnh tranh gay gắt, củng cố và mở rộng thị trường là một việc khó khăn và phức tạp
nhưng cũng là điều kiện quan trọng để xuất khẩu lao động. Để làm tốt công việc này cần
có sự đầu tư thích đáng về thời gian và tiền vốn nhằm thu thập thông tin về số lượng, chất
lượng và cơ cấu lao động các nước yêu cầu, tình hình tài chính của các doanh nghiệp cần
tuyển, phong tục tập quán, luật pháp, tiền công và các khoản thu chi tại các doanh nghiệp,
các yếu tố dễ pháy sinh rủi ro…, hiệu quả kinh tế và khả năng rủi ro của thị trường mới
khai thác. Cùng với việc khai thác thị trường mới, vấn đề quan trọng trong công tác thị
trường cho xuất khẩu lao động là giữ vững các thị trường truyền thống của nước ta như
Hàn Quốc, Nhật Bản và gần đây là Đài Loan.
Tăng cường công tác quản lí lao động nước ngoài: Khi số lao động ở nước ngoài
tăng lên, tăng cường quản lí số lao động này là việc rất quan trọng. Việc quản lí này
nhằm khắc phục những rủi ro những vướng mắc liên quan đến người lao động.
* Gắn kết giáo dục, đào tạo với công việc làm. Tăng qui mô đào tạo, đặc biệt là đào
tạo đại học, trong những năm gần đây tạo nên hiện tượng “ người thất nghiệp có học “,
nhiều sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm, hoặc không tương xứng với trình độ
chuyên môn. Đào tạo chính qui bị giới hạn trước nhu cầu học lớn và tăng nhanh làm cho
các hình thức đào tạo tại chức, bằng 2, … mở rộng qui mô với chất lượng đào tạo không
cao. Đây là sự biểu hiện của sự kéo dài thời gian học trước sự phát triển không kịp của
khu vực công nghiệp và dịch vụ hiện đại. Kết quả là sự lãng phí xã hội, chi phí cơ hội
cao, biến dạng tiền lương của lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Bởi vậy cần có
những chính sách tạo ra những cơ hội kinh tế hấp dẫn hơn ở nông thôn, điều chỉnh hệ
thống giáo dục đào tạo đáp ứng các nhu cầu phát triển nông thôn, nhu cầu có nghề để làm
việc trong các doang nghiệp Việt Nam và tự tạo việc làm, hơn là định hướng cho sinh
viên vào nhu cầu làm việc trong các khu vực hiện đại như hiện nay. Thực hiện được giải
pháp này sẽ tránh được những lãng phí không cần thiết, tăng tiềm năng cầu lao động.
a. Nhóm giải pháp về tăng cường quản lí của Nhà nước và sự phối hợp của các
tổ chức Đoàn thể trong việc giải quyết việc làm:
Ngoài cơ chế thị trường là công cụ hữu hiệu để giải quyết việc làm thì không thể
thiếu được sự quản lí của Nhà nước trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động
đặc biệt đối vơí một thị trường lao động còn sơ khai và kém phát triển như nước ta. Nhà
nước quản lí thị trường lao động, quản lí giải quyết việc làm bằng nhiều giải pháp nhưng
2 giải pháp được coi là hữu hiệu và quan trọng đối với nước ta hiện nay cũng như trong
thời gian tới là: * Quản lí yếu tố giá cả, tiền lương, phân phối
thu nhập và các hình thức tiêu dùng. Đây là giải pháp tác động gián tiếp đến việc làm.
Tương quan lao động và vốn trong sản lượng phụ thuộc vào hàm sản xuất và giá cả, do
đó cần có các chính sách tài chính hạn chế tăng dung lượng vốn và sử dụng công nghệ
đắt không thích hợp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Bên cạnh đó cần kiểm soát tiền
lương, chẳng hạn cân nhắc qui định lương cao trong khu vực Nhà nước, bởi vì điều này
có thể làm tăng lương trong khu vực khác. Nhìn chung tiền lương trong khu vực thành thị
có xu hướng cao hơn nhiều chi phí cơ hội của lao động đang tạo ra sự thiên lệch về sử
dụng lao động trong khu vực này. Ngoài ra cần khuyến khích các hình thức tiêu dùng
hàng hoá trong nước và các dịch vụ được tạo ra bởi các công nghệ sản xuất cần nhiều lao
động, kết quả sẽ làm tăng cầu lao động. Đến lượt mình nhu cầu tiêu dùng chịu sự tác
động bởi các hình thức phân phối thu nhập trong xã hội. Các gia đình giầu và trung bình
thường có xu hướng thiên về các hàng hoá ngoại nhập có dung lượng vốn cao. Cần có
chính sách khuyến khích sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nội địa đáp ứng nhu cầu đông đảo
của các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp, do đó sẽ tăng được cầu lao động.
* Nâng cao hiệu quả sử dụng Ngân sách nhà nước trong việc giải quyết việc làm
bằng việc tiến hành cải cách chính sách thuế cũng như đầu tư khuyến khích phát triển các
ngành nghề có thể thu hút được nhiều lao động, khoản chi y tế trong chi tiêu thường
xuyên của ngân sách nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm sức khoẻ
cho nhân dân và nâng cao chất lượng lao động. Nhà nước phải bằng các chính sách
khuyến khích, đầu tư cơ sở để hướng các hoạt động đầu tư của tư nhân vào các lĩnh vực
thông qua đó giải quyết việc làm cho người lao động. Ngoài ra Nhà nước cần phải tăng
cường đầu tư trực tiếp vào việc đào tạo cơ sở cũng như đào tạo nghề nhằm tạo đội ngũ
lao động có trình độ đáp ứng nhu cầu trong tương lai.
Nâng cao chức năng của các tổ chức đoàn thể đặc biệt là Đoàn thanh niên trong công tác
tạo và giúp đỡ các thành viên tìm việc làm, khuyến khích các đoàn viên, tầng lớp thanh
niên đi làm việc ở các vùng miền còn khó khăn thông qua các hội chợ việc làm dịch vụ
việc làm hoặc bằng các cuộc phát động như thanh niên xung phong đi làm việc. Giải
pháp này được coi là tích cực và có triển vọng trong thời gian tới vì đoàn viên thanh niên
sẽ là đội ngũ lao động kế cận và tiên phong trong tương lai của đất nước.
Kết luận
Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đang được đẩy mạnh, quá trình quốc tế
hoá, khu vực hoá đang được mở rộng, nền kinh tế tri thức với những yêu cầu cao và tiềm
lực trí tuệ và khoa học công nghệ đang đặt ra những đòi hỏi lớn về nguồn lực phát triển,
trong đó nguồn nhân lực chiếm vị trí hàng đầu. Nguồn nhân lực ngày nay được xem là
yếu tố cơ bản, yếu tố năng động nhất, có vai trò quyết định nhất cho sự phát triển nhanh
và bền vững, cho nên trong quá trình phát triển kinh tế xã hội dất nước nói chung con
người được đặt vào vị trí trung tâm, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển
kinh tế xã hội. Kế hoạch giải quyết việc làm nằm trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội. Nó không chỉ nhằm đưa ra phương án sử dụng tối đa nguồn nhân lực của đất
nước mà quan trọng nó còn đưa ra các biện pháp nhằm phát triển toàn diện con người. Kế
hoạch nguồn nhân lực một mặt nó là kế hoạch biện pháp để thực hiện thành công kế
hoạch tăng trưởng, kế hoạch chuyển dịng cơ cấu kinh tế nhưng mặt khác nó là kế hoạch
mục tiêu buộc kế hoạch khác phải thực hiện. Với thực trạng về nguồn nhân lực, việc làm
của đất nước hiện nay cùng với những đòi hỏi về nguồn nhân lực cho công nghiệp hiện
đại hoá thì vấn đề giải quyết việc làm được đặt ra rất cấp bách đòi hỏi toàn xã hội đứng ra
giải quyết. Giải quyết việc làm nhằm tạo đề cho tăng trưởng kinh tế còn tăng trưởng kinh
tế lại là giải pháp tích cực và quan trọng nhất để tạo việc làm, thu hút lao động vào guồng
máy kinh tế góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống của người
lao động. Cùng với các giải pháp khác, giải pháp về kinh tế để giải quyết việc làm nhằm
phát triển toàn diện nguồn nhân lực từng bước xây dqựng con người xã hội chủ nghĩa.
Tài liệu tham khảo
1. Niêm giám thống kê 2000. NXB Thống Kê - Hà Nội - 2001
2. Trần Đình Đàn. Giải quyết việc làm, một nhiệm vụ cơ bản cấp bách hiện nay
kinh tế dự báo - 6/1996.
3. TS. Chu Tiến Quang. Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp. NXB
Nông thôn - Hà Nội - 2001.
4. GS. Viện sỹ Phạm Minh Hạc. Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước. Nhân dân - 7/6/2001.
5. TS. Ngô Thắng Lợi, Giáo trình kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội. NXB
Thống Kê - Hà Nội - 2001.
6. Chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm đến năm 2000. Kinh tế
và dự báo - 9/1998.
7. Giáo trình kinh tế phát triển tập I. NXB Thống kê, Hà Nội - 1998.
8. Nguyễn Khang. Về lao động việc làm ở thành thị thời kỳ 1996 - 2000. Lao
động xã hội - 2/1996.
9. Đinh Ngọc Thịnh. Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà nước trong giải
quyết việc làm. Nghiên cứu kinh tế - 1/2001.
10. Nolwen Henaf và jean - Y ves Martin. Lao động, việc làm và nguồn nhân lực
ở Việt Nam 15 năm đổi mới. NXB thế giới - Hà Nội 2001.
11. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam. NXB
chính trị quốc gia.
12. PTS. Nguyễn Hữu Dũng và PTS. Trần Hữu Trung. Về chính sách giải quyết
việc làm ở Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia.
13. TS. Phạm Quý Thọ. Hiện trạng và giải pháp tăng cầu lao động ở Việt Nam.
Tạp chí kinh tế và phát triển -2/2002.
Mục lục
Lời mở đầu ............................................................................................................ 1
Chương I: Kế hoạch nguồn nhân lực trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội. ......................................................................................................................... 3
1.Kế hoạch hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường ................................. 3
2.Kế hoạch nguồn nhân lực trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội.
..................................................................................................................... 4
Chương II: Thực trạng và tình hình thực hiện kế hoạch giải quyết việc làm ở Việt
Nam........................................................................................................................ 9
1.Phương hướng thực hiện mục tiêu kế hoạch việc làm trong kế hoạch 5 năm
1996-2000. ................................................................................................... 9
2. Tình hình thực hiện mục tiêu việc làm kế hoạch 1996-2000 và thực trạng việc
làm ở nước ta. .............................................................................................11
Chương III: Mục tiêu và giải pháp giải quyết việc làm trong kế hoạch 2001- 2005.
..............................................................................................................................19
1.Quan điểm và chủ trương của Đảng về việc làm và giải quyết việc làm ............. 19
2. Mục tiêu và phương hướng giải quyết việc làm trong kế hoạch 5 năm 2001-
2005. ...........................................................................................................19
3. Giải pháp, chính sách giải quyết việc làm thời kì 1996-2000. ..................24
Kết luận ................................................................................................................32
Tài liệu tham khảo ...............................................................................................33