HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

********

ĐỀ TÀI CẤP BỘ

NHỮNG SỰ KIỆN HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG ƢƠNG

CỤC MIỀN NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ

CỨU NƢỚC

1961-1975

Cơ quan chủ trì : VIỆN LỊCH SỬ ĐẢNG

Chủ nhiệm đề tài : PGS.PTS TRỊNH NHU

Tập thể tác giả : NGUYỄN VĂN KHANG, NGUYỄN KIM VỸ,

NGUYỄN DANH LỢI, NGUYỄN THỊ TÂM. NGUYỄN BÌNH,

LÊ XUÂN AN

HÀ NỘI – 1998

1

NĂM 1961

Ngày 23 tháng 1

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 (Khoa III) quy định tổ chức

và nhiệm vụ của Trung ương Cục miền Nam.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9-1960) đề ra hai nhiệm vụ chiến lược cách

mạng xây dựng CNXH ở miền Bắc và giải phóng miền Nam. Do yêu cầu cấp bách về chỉ đạo

cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam và tình hình giao thông liên lạc giữa hai miền có

nhiều khó khăn, Đại hội thấy cần phải tăng cường sự lãnh đạo về các chủ trương chính sách

và tổ chức thực hiện đối với các Đảng bộ miền Nam. Căn cứ vào điều 24, Điều lệ Đảng sửa

đổi tại Đại hội đã quy định: "Ban chấp hành Trung ương được thành lập Tung ương Cục phụ

trách chỉ đạo công tác Đảng ở những Đảng bộ đặc biệt trọng yếu", vì vậy, Hội nghị BCHTƯ

Đảng lần thứ 3 (Khoá III), ngày 23-1-1961 đã quyết định thành lập Trung ương Cục miền

Nam(1) với những quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, chức năng .

Theo quy định của Trung ương Đảng, về tổ chức, Trung ương Cục miền Nam là một

bộ phận của BCHTƯ, gồm một số đồng chí ủy viên Trung ương đươc BCHTƯ cử ra và ủy

nhiệm chỉ đạo toàn bộ công tác Đảng ở miền Nam. Trung ương Cục miền Nam đặt dưới sự

lãnh đạo của BCHTƯ, do Bộ Chính trị thường xuyên thay mặt Trung ương trực tiếp chỉ đạo.

Trung ương Cục miền Nam có một bí thư, một hoặc hai phó bí thư do BCHTƯ chỉ

định và Ban Thường vụ do Hội nghị Trung ương Cục bầu cử. Ngoài ra, tuỳ theo tình hình và

yêu cầu công tác, Trung ương Cục miền Nam sẽ tổ chức các cơ quan giúp việc như Ban Quân

sự, An Ninh, Hành chính, Tuyên huấn, Hậu cần v.v... Trung ương Cục thường lệ 6 tháng họp

một lần. Tuy tình hình cụ thể, Trung ương Cục có thể họp sớm hơn hoặc muộn hơn.

Cục miền Nam, tái lập Xứ ủy Nam Bộ.

(1) Tháng 9-1954, do tình hình cụ thể của miền Nam, Bộ Chính trị đã quyết định giải thể Trung ương

2

Về nhiệm vụ của Trung ương Cục miền Nam, B C H T Ư Đảng quy định:

- Căn cứ vào nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc và những chỉ thị, nghị quyết của

BCH Trung ương và Bộ Chính trị về cách mạng miền Nam mà đề ra chủ trương, chính sách,

phương châm, kế hoạch công tác và chỉ đạo thực hiện cụ thể ở miền Nam. Đối với những vấn

đề có quan hệ đến toàn quốc và kế hoạch chung toàn miền Nam thì phải xin chỉ thị của Trung

ương và Bộ Chính trị. Trong trường hợp đặc biệt cấp bách không kịp xin chỉ thị của Trung

ương Trung ương Cục có quyền đề ra những chủ trương chính sách lớn để đối phó kịp thời với

tình hình, nhưng phải báo cáo ngay với Trung ương và Bộ Chính trị.

- Chấp hành cương lĩnh và những quy định cụ thể về điều lệ Đảng ở miền Nam, căn

cứ vào điều lệ Đảng và những quy định cụ thể của Trung ương đối với Đảng bộ miền Nam

mà tổ chức ra Đảng bộ các cấp ở miền Nam và lãnh đạo các Đảng bộ đó hoạt động.

Ngoài ra Trung ương Cục miền Nam còn thay mặt BCH Trung ương Đảng quản lý và

phân phối cán bộ của Đảng ở miền Nam, thành lập các đảng đoàn trong các tổ chức quần

chúng, quản lý và phân phối tài chính của Đảng ở miền Nam...".

Quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam là một chủ trương đúng đắn của

Đảng ta, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của cuộc kháng chiến đang chuyển từ khởi nghĩa

từng phần sang chiến tranh cách mạng. Trong nhiều năm liền, nhiều chủ trương, quyết sách

của Đảng và Bác Hồ đã được Trung ương Cục cụ thể hoá và chỉ đạo thực hiện để thúc đẩy sự

nghiệp kháng chiến chống Mỹ tới thắng lợi

Cuối tháng 1

Thành lập Trung ương Cục miền Nam

Thực hiện quyết định của Hội nghị lần thứ 3 (Khoá III) của Ban chấp hành Trung

ương Đảng về việc thành lập Trung ương

3

Cục miền Nam thay cho Xứ ủy Nam Bộ cũ, Cuối tháng 1-1961, lễ thành lập Trung

ương Cục được tổ chức trọng thể tại Mã Đà (Chiến khu Đ).

Đồng chí Nguyễn Văn Linh (tức Mười Cúc), Uỷ viên BCH Trung ương Đảng được

cử làm Bí thư Trung ương Cục. Các đồng chí uỷ viên gồm có:

- Võ Chí Công (tức Năm Công)

- Võ Văn Kiệt (tức Sáu Dân)

- Hoàng Văn Thái (tức Tám Thành hoặc Mười Khang)

- Trần Lương (tức Trần Nam Trung)

- Trần Văn Quang (tức Bảy Tiến)

- Phan Văn Đáng (tức Hai Văn)

- Phạm Thái Bường (tức Ba Bường) - Phạm Văn Xô (tức Hai Già)

Lúc đầu Trung ương Cục miền Nam được Trung ương giao nhiệm vụ lãnh đạo phong

trào cách mạng từ Liên khu 5 trở vào, do đó Trung ương Cục chọn chiến khu Đ mở rộng khu

A - căn cứ nối liền phía Nam Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ làm nơi đặt cơ quan lãnh

đạo của Trung ương Cục. Đại bản doanh của Trung ương Cục - còn gọi là "R". Do hoàn cảnh

chiến tranh, các cơ quan của Trung ương Cục đã di chuyển nhiều nơi, có thời kỳ chuyển sang

Căm-pu-chia. Nhưng địa bàn đóng lâu nhất là khu rừng rậm Chàng Riệc, Tân Biên, tỉnh Tây

Ninh, giáp biên giới Việt Nam - Căm-pu-chia.

Trung ương Cục miền Nam được thành lập đã giúp các Đảng bộ địa phương củng cố

về tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng miền Nam. Cùng với sự ra

đời của MTDTGP miền Nam (20-12-1960), Quân giải phóng (15-2-1961), việc thành lập

Trung ương Cục miền Nam là 3 sự kiện quan trọng đặc biệt, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách

của cuộc kháng chiến đang chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng.

4

Tháng 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự kiến về tình hình miền Nam

Trong phiên họp Bộ Chính trị cuối tháng 1-1961, sau khi phân tích tình hình chính trị

ở miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự kiến về một cuộc đảo chính và chỉ rõ: "Ta phải dự

kiến mấy khả năng để tránh bị động. Ta làm sao quần chúng hiểu và phải chỉ thị ngay cho

anh em".

Về vấn đề thời cơ, Người nêu rõ: "Cần phân tích chỗ yếu cho mạnh của địch, tuy hoàn

cảnh để hành động, phải đề phòng nổi dậy non, chủ quan, nhưng cũng tránh bỏ lỡ cơ hội.

Trong xây dựng lực lượng phải chú trọng vấn đề ăn, "thực túc binh cường" nên phải xem

trọng sản xuất phải hết sức coi trọng công tác địch vận để đỡ hao tốn xương máu. Trước tình

hình này phải chú ý vũ trang nhưng "phải coi trọng hàng đầu là công tác xây dựng Đảng".

---------------------

Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử Tập 8, tr.21.

Ngày 31 tháng 1

Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra chỉ thị về phương hướng, nhiệm vụ và tăng

cường các cơ quan chỉ đạo các cấp của Đảng ở miền Nam.

Sau thắng lợi của phong trào đồng khởi, cách mạng miền Nam phát triển ngày càng

mạnh. Để đưa cách mạng miền Nam tiến lên một bước mới, ngày 31-1-1961, Bộ Chính trị đã

ra Chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam.

Chỉ thị của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: đến nay Cách mạng miền Nam đang phát triển theo

con đường tiến lên tổng khởi nghĩa với

5

những đặc điểm mới và khả năng hòa bình phát triển của cách mạng miền Nam gần như

không còn nữa.

Phương châm chiến lược của cách mạng miền Nam là: đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh

chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị.

Để chỉ đạo phương châm hoạt động thích hợp với đặc điểm của ta và địch ở từng

vùng, Bộ Chính trị đã nêu ra phương châm công tác ở 3 vùng khác nhau. Vùng rừng núi lấy

đấu tranh quân sự là chủ yếu. Vùng đồng bằng, đấu tranh quân sự và chính trị ngang nhau.

Vùng đô thị thì lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu.

Bộ Chính trị Trung ương Đảng chỉ rõ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam là:

ra sức xây dựng lực lượng của ta về hai mặt chính trị và quân sự, tập hợp đông đảo lực lượng

cách mạng ương mặt trận dân tộc giải phóng, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát

triển lực lượng của ta, tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại toàn bộ đồng bằng, ra sức xây

dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở đô thị, tạo điều kiện và nắm mọi thời cơ chuẩn

bị đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm, giải phóng miền Nam.

Về vấn đề thống nhất cơ quan chỉ đạo cách mạng ở miền Nam và tăng cường các cơ

quan chỉ đạo các cấp của Đảng, Bộ Chính trị đã nêu lên một số việc làm cụ thể như bổ sung

thêm số uỷ viên, chỉ định một số uỷ viên dự khuyết cho Trung ương Cục và tăng cường cán

bộ cho các cơ quan của Trung ương Cục, tăng cường các khu uỷ và cơ quan khu uỷ đủ sức

chỉ đạo công tác cách mạng ở từng chiến trường. Nơi nào quan trọng phải phân công uỷ viên

Trung ương phụ trách. Đồng thời phải ra sức nắm vững, củng cố và mờ rộng giao thông Liên

lạc từ Trung ương đến Trung ương Cục, từ Trung ương Cục đến các địa phương.

Với những nhận định đúng đắn về tình hình, với việc đề ra phương châm và nhiệm vụ

đấu tranh mới, chỉ thị tháng 1-1961 của Bộ Chính trị đã chỉ đạo kịp thời phong trào cách

mạng trước bước ngoặt mới nhằm thúc đẩy cuộc đấu tranh ở miền Nam tiến lên giai đoạn

mới giai đoạn đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị. đánh bại chiến lược

"chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ.

6

Ngày 15 tháng 2

Thống nhất các lực lượng vũ trang giải phóng và thành lập Ban quân sự trực

thuộc Trung ương Cục miền Nam

Ngày 15-2-1961, tại căn cứ chiến khu Đ, Trung ương Cục đã triệu tập hội nghị quân

sự để thống nhất các lực lượng vũ trang ương toàn miền Nam thành Quân giải phóng miền

Nam Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Trung ương Cục đã đọc nhật lệnh thống

nhất các lực lượng vũ trang. Đại diện Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã trao cho quân

giải phóng quân kỳ mang dòng chữ: "Giải phóng quân anh dũng chiến thắng".

Cùng với việc thống nhất các lực lượng vũ trang, Ban quân sự trực thuộc Trung ương

Cục cũng được thành lập (sau này gọi là Bộ tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền

Nam) để thống nhất chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Ban quân sự Miền

là cơ quan giúp Trung ương Cục chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng ở chiến

trường Nam Bộ và cục Nam Trung Bộ. Hệ thống chỉ huy quân sự được xây dựng từ Miền đến

tỉnh - huyện - xã. Bộ tư lệnh các Quân khu 1 (Đông Nam Bộ), Quân khu 2 (Trung Nam Bộ),

Quân khu 3 (Tây Nam Bộ), Quân khu 4 (Sài Gòn- Gia Định), Quân khu 6 (Nam Trung Bộ)

cũng dược thành lập. Thiếu tướng Trần Lương, Uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Phó chủ

nhiệm Tổng cục chính trị làm Trưởng ban quân sự Miền. Đồng chí Phạm Thái Bường, uỷ

viên Trung ương Cục là Chính uỷ đầu tiên của quân giải phóng và đồng chí Nguyễn Hữu

Xuyến làm Tư lệnh.

Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam có những thay đổi theo thời gian như sau:

Năm 1962, đồng chí Trần Lương làm Chính uỷ, Trần Văn Quang (Bảy Tiến) làm Tư lệnh.

Tháng 10-1964, đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Chính uỷ, Trần Văn Trà làm Tư lệnh. Cuối

năm 1964, đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Chính uỷ, Hoàng Văn Thái làm Tư lệnh v.v...

Các tướng Lê Đức Anh, Lê Quốc Sản, Hoàng Cầm, Trần Hải Phụng, Trần Văn Danh, Trần

Độ... giữ các cương vị phó Tư lệnh, phó Chính uỷ, hoặc Tư lệnh, phó Tư lệnh các quân khu

Việc thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và Bộ tư lệnh các lực lượng vũ

trang giải phóng đã đánh dấu một bước phát

7

triển mới về mọi mặt của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam đưa vai trò của đấu tranh

vũ trang song song với đấu tranh chính trị, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của đấu tranh trong

giai đoạn mới.

Tháng 2

Trung ương Cục chỉ đạo thành lập Bộ tư lệnh quân khu miền Đông (II)

Tháng 1-1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp và nhận định. Thời kỳ tạm ổn

của Mỹ Diệm đã qua và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu...

Phương châm chiến lược của cách mạng miền Nam là: đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị

đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng

cả hai mặt chính trị và quân sự". Thực hiện nghị quyết của Bộ chính trị và Trung ương Cục,

tháng 2-1961 Bộ tư lệnh quân khu miền Đông (T1) quyết định thành lập tiểu đoàn 800 chủ

lực tập trung của Khu. Tiểu đoàn này gồm 600 quân với 3 đại đội bộ binh (C1, C2, C3) một

đại đội pháo, một đại đội trinh sát.

Đây là tiểu đoàn chủ lực đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ. Đồng chí Đặng Ngọc Sĩ (Hai

Sĩ) tiểu đoàn trường, đồng chí Nguyễn Ngọc Tâm (Bảy Tâm) chính trị viên.

Tháng 3-1961 tiểu đoàn đã tổ chức 3 mũi tiến công vào chi khu Hiếu Liêm (An Lạc),

một mặt tiến công quân sự, mặt khác vũ trang tuyên truyền hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy

diệt ác phá kìm giải phóng một mảng lớn ở phía Tây Nam.

Tháng 3

Trung ương Cục miền Nam chủ trương củng cố căn cứ địa chiến khu Đ và xây

dựng căn cứ khu A

Ngay sau khi thành lập, Trung ương Cục miền Nam đã chủ trương giao cho Khu uỷ

miền Đông (T1) nhiệm vụ xây dựng căn cứ khu A (gồm chiến khu Đ cũ mở rộng đến đông

quốc lộ 13, mang phiên hiệu C150). Đảng uỷ Khu A gồm các đồng chí Lâm Quốc Đáng

8

(Bí thư), Sáu Chuộng, Hồng Sơn, Năm Minh, sau đó bổ sung đồng chí Mười Bi.

- Tháng 9-1961 Căn cứ khu A đổi phiên hiệu M50 do đồng chí Hoàng Minh Khanh

(Đào Sơn Tây) làm Bí thư Đảng uỷ.

Khu căn cứ có nhiệm vụ:

- Xây dựng Khu A thành một căn cứ địa hoàn chỉnh.

- Mở rộng diện tích sản xuất trong căn cứ, dự trữ vật chất để đón cán bộ, chiến sĩ từ

Trung ương vào miền Nam.

- Xây dựng lực lượng vũ trang cơ động từ 1 đến 2 tiểu đoàn. Tổ chức du kích gắn liền

với lực lượng bảo vệ sản xuất, bảo vệ đường dây giao liên.

- Tổ chức đường dây liên lạc nối liền Trường Sơn với các tỉnh đường dây trong căn

cứ từ đường 14 Đồng Xoài xuống Vĩnh An Cây Gáo.

- Vận động đồng bào dân tộc tham gia kháng chiến sản xuất bảo vệ căn cứ.

Trong căn cứ, một xưởng quân giới được xây dựng ở Bàu Sắn, cách đường Trần Lệ

Xuân 14 km về phía Tây Nam gồm 30 người do đồng chí Bá phụ trách. Một bệnh xá K24 do

đồng chí Đỗ Quang Thanh và y sĩ Thanh phụ trách.

Từ đây, chiến khu Đ ngày càng phát triển toàn diện nối liền hậu phương lớn miền Bắc

qua đường Trường Sơn với vùng căn cứ các tỉnh miền Đông, tạo thành thế căn cứ liên hoàn -

một hậu phương chiến lược ở miền Đông Nam Bộ.

Ngày 20 tháng 4

Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) và các đồng

chí Trung ương Cục về chỉ đạo phong trào đấu tranh ở nông thôn miền Nam.

Thắng lợi của phong trào đồng khởi trong các vùng nông thôn miền Nam, đã mở ra

bước ngoặt phát triển đối với phong trào cách

9

mạng từ khởi nghĩa từng phần tiến lên chiến tranh cách mạng. Với kinh nghiệm thực tiễn và

là người nắm vững và trực tiếp theo dõi diễn biến của cách mạng miền Nam, ngày 20-4-1961,

trong thư: "gửi anh Mười Cúc và Trung ương Cục", đồng chí Lê Duẩn đã có nhiều ý kiến chỉ

đạo quan trọng đối với phong trào đấu tranh trong các vùng nông thôn miền Nam như sau:

Về nhận định phong trào Đồng khởi ở nông thôn những năm qua, đồng chí Lê Duẩn

viết: "Ta đã thực hiện được chủ trương bóc dần lực lượng của địch và trên thực tế đã bóc

được một lớp đầu nên. Đây chỉ là bước đầu nhưng là một bước rất cơ bản vì nó làm tan rã

từng mảng lớn chính quyền cơ sở, một bộ phận quan trọng trong bộ máy cai trị của địch". Để

giữ vững những thành quả cách mạng, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên, đồng chí đã chỉ rõ

nhiệm vụ cấp bách hiện nay là: "Triển khai đấu tranh chính trị và quân sự ở rừng địa phương,

phối hợp với cuộc đấu tranh chung trên toàn miền nhằm phá cho được âm mưu địch lập lại

chính quyền của chúng... Tiếp tục xây dựng và mở rộng căn cứ địa, đảm bảo cho lực lượng

vũ trang của ta đứng chân ngày càng vững chắc và có thể hoạt động ngày càng cơ động".

Đồng chí cũng nhấn mạnh muốn tránh âm mưu của địch nhằm bao vây kinh tế và tách lực

lượng vũ trang của ta ra khỏi quần chúng thì ở các xã gần đồn bốt địch và các trục giao thông

trong khi phối họp chiến đấu, phải tìm mọi cách giữ thế hợp pháp càng khôn khéo bao nhiêu

càng tốt bấy nhiêu.

Những ý kiến chỉ đạo sát sao, phù hợp với thực tiễn phong trào đấu tranh ở các vùng

nông thôn miền Nam của đồng chí Lê Duẩn đã thúc đẩy và mở ra hướng đi đúng đắn đối với

phong trào cách mạng miền Nam.

Ngày 5 tháng 5

Đoàn cán bộ quản sự, chính trị miền Bắc tăng cường cho miền Nam.

Đầu năm 1961, Trung ương Đảng đã tập hợp đoàn cán bộ quân sự, chính trị tăng

cường cho cách mạng miền Nam nhằm góp phần

10

tăng cường bộ máy chỉ huy cho các cơ quan của Trung ương Cục và Ban quân sự Miền các

quân khu ở miền Nam". Đoàn gồm 500 người hầu hết là cán bộ cao cấp do thiếu tướng Trần

Văn Quang - Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Phó Tổng tham mưu trưởng dẫn

đầu. Trước khi đoàn lên đường, đồng chí Lê Duẩn và đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đến căn

dặn, chỉ đạo các nguyên tắc cần phải bám dẫn và tiến hành chiến tranh nhân dân với trình độ

cao hơn.

Ngày 5-5-1961, đoàn xuất phát từ Xuân Mai (Hòa Bình) theo đường Tây Trường Sơn

vào chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Đoàn lên đường vào lúc Liên Xô phóng thành

công tàu "Phương Đông" đưa anh hùng Ga-ga-rin - người đầu tiên trên thế giới bay vào vũ

trụ nên đặt tên là đoàn "Phương Đông". Ngày 20-7-1961, đoàn vào đến vị trí tập kết - đồi 300

(Bình Long). Đây không phải là đoàn đầu tiên và cũng không phải là đoàn cuối cùng, nhưng

đây là đoàn cán bộ cao cấp thuộc quy mô lớn lúc đó để tăng cường cho cách mạng miền

Nam.

Ngày 22 tháng 7

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị khắc phục kịp thời những lệch lạc để đưa

phong trào tiến lên.

Trước những bước phát triển không ngừng của cách mạng miền Nam. Từ sau phong

trào đồng khởi, đồng thời đề phòng tư tưởng lệch lạc, trước khó khăn mới xuất hiện, Trung

ương Cục chủ trương chống tư tưởng tả khuynh chủ quan, nóng vội phiến diện và cục bộ

đang nảy nở ở một số cơ sở Đảng. Sự nguy hại của tư tưởng ấy được Trung ương Cục phân

tích rõ: Nó biểu hiện trong khuynh hướng coi như "Tổng khởi nghĩa đã tới nơi", "Cách mạng

không gặp trở ngại khó khăn", "Chính quyền miền Nam đã suy yếu không còn sức đề kháng",

"can thiệp của Mỹ chỉ là hà hơi tiếp sức cho Diệm, không có tác dụng gì" v.v. Vì vậy tư

tưởng chủ quan nóng vội rất nguy hiểm, làm cho phong trào bung rộng ra mà thiếu củng cố

vững chắc, đảng viên và quần chúng phấn khởi nhưng thiếu bền bỉ chịu đựng. Phong trào dễ

bị tổn thất bi quan, thiếu tin tưởng. Tư tưởng đó còn là nguồn gốc của nhiều lệch lạc trong

nhiều mặt công tác.

11

- Nhiều nơi chủ quan đến nỗi không chú ý đặc điểm và phương châm đấu tranh 3

vùng, máy móc áp dụng phương pháp công tác ở nông thôn và thành thị, mạo hiểm tiến công

giải phóng đô thị.

- Có nơi thiếu hẳn việc giáo dục trong Đảng cũng như ngoài quần chúng ý thức đấu

tranh lâu dài, gian khổ gay go phức tạp nhưng nhất định thắng lợi. Trung ương Cục chỉ rõ cần

tiếp tục đề cao tác phong tích cực, khẩn trương mạnh dạn trong mọi công tác, nhưng phải

kiên quyết khắc phục bệnh quan liêu, mệnh lệnh, hời hợt thoát ly quần chúng.

Vì vậy các Đảng bộ cần phải nghiêm khắc kiểm tra và bài trừ khỏi Đảng các tác

phong xấu xa này và tăng cường giáo dục tác phong làm việc theo đường lối quần chúng,

luôn luôn quan tâm tới lợi ích thiết thân của quần chúng, phát huy sáng kiến của quần chúng.

Để đánh giá đúng âm mưu của địch Trung ương Cục miền Nam nhấn mạnh cần phải đánh giá

cho đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch.

Đánh giá địch quá cao và khả năng phong trào cách mạng quá thấp là nguồn gốc nảy

sinh tư tương bi quan hữu khuynh cố thủ. Ngược lại đánh giá địch quá chấp, phong trào cách

mạng quá thuận lợi sẽ nảy sinh tư tưởng tả khuynh chủ quan, nóng vội, phiến diện và cục bộ,

sinh ra tác phong quan liêu, mệnh lệnh xa rời quần chúng.

Sau vụ đảo chính tháng 11-1960, Trung ương Đảng ta đã nhận định tình hình hết sức

đứng đắn là: "Thời kỳ tạm ổn định của Mỹ Diệm đã qua và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp suy

sụp, nghiêm trọng của Mỹ Diệm đã bắt đầu,... Hình thái du kích cục bộ và khởi nghĩa từng

phần đã xuất hiện, thời kỳ khủng hoảng chính trị kéo dài đã bắt đầu... Một cuộc tổng khủng

khoảng chung và toàn diện của chính quyền Mỹ Diệm sẽ xuất hiện, cuộc tổng khởi nghĩa,

tổng công kích của nhân dân sẽ bùng nổ". Nhưng địch vẫn còn mạnh vì: "Chúng còn nắm

được bộ máy cai trị của chúng từ trung ương đến tỉnh, quận và một số xã... mặt khác chúng

vẫn được đế quốc Mỹ ráo riết tăng cường bảo vệ và duy trì".

Để làm tốt vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng, Trung ương Cục yêu cầu:

12

Tăng cường công tác tư tưởng trong Đảng bộ ra sức sửa chữa những nhận thức, tư

tưởng, tác phong sai lầm trong Đảng bộ hiện nay là một yêu cầu bức thiết then chốt nhất của

công tác giáo dục xây dựng Đảng. Phải làm cho toàn Đảng bộ nắm vững đường lối và nhiệm

vụ, phương châm lâu dài cũng như hiện tại. Trước hết phải làm cho toàn Đảng bộ nhận thức

cho đúng tính chất và nhiệm vụ của giai đoạn hiện nay, đánh giá cho đúng tương quan lực

lượng của ta và địch, gạt bỏ những nhận thức lệch lạc, sai lầm. Phải tăng cường công tác lãnh

đạo tư tưởng trong nội bộ hơn nữa.

Tháng 7

Các Trung đoàn chủ lực đầu tiên ở miền Nam lần lượt được thành lập.

Tháng 7-1961, Trung ương Cục và Ban quân sự Miền, quyết định thành lập trung,

đoàn đầu tiên của lực lượng vũ trang miền Nam, mật danh là Q761 (Trung đoàn 1) với số

quân và trang bị theo biên chế trên cơ sở quân tuyển tại chỗ và khung cán bộ từ miền Bắc

vào. Nhưng sau đó do một số khó khăn, việc thành lập trung đoàn tạm hoãn. Ngày 2-9-1961,

hai tiểu đoàn 1 và 2 làm lễ ra mắt tại Tây Ninh và chiến khu Đ. Mỗi tiểu đoàn biên chế 126

cán bộ chiến sĩ.

Ngày 22-12-1961, Quân uỷ Trung ương và Bộ quốc phòng quyết định thành lập đoàn

bộ binh 2 và điều ngay Trung đoàn vào chiến trường. Ngày 13-3-1962, trung đoàn vào đến

Mã Đà, chiến khu Đ.

Ngày 9-2-1962, thực hiện quyết định của Trung ương Cục và Quân uỷ Miền, trung

đoàn bộ binh 1 chính thức làm lễ ra mắt tại Trảng Dài (Tây Ninh) (mật danh lữ Q761 hoặc

C56). Các đồng chí Tăng Thiên Kim (Hoàng Đình Chương) làm Trung đoàn trưởng, Lê Văn

Nhỏ (Hai Lâm) làm Chính uỷ.

Tháng 6-1962, Trung đoàn 2, mật danh là Q762 làm lễ ra mắt tại chiến khu Đ. Các

đồng chí Nguyễn Văn Công trung đoàn trường Nguyễn Văn Bảy chính uỷ, Tạ Minh Khâm,

trung đoàn phó, tham mưu trưởng. Sau khi ra mắt, trung đoàn 1 ở khu B (Tây quốc lộ số 13),

trung đoàn 2 ở khu A (Đông quốc lộ 13).

13

Ngày 2 tháng 9

Thành lập tiểu đoàn 1 v à 2 quân chủ lực Miền

Hai tiểu đoàn 1 và 2 chủ lực Miền làm lễ thành lập tại chiến khu Dương Minh Châu

(Đông Nam Bộ). Tiểu đoàn 1 do đồng chí Bùi Thanh Vân (Út Liêm) làm tiểu đoàn trường,

đồng chí Đặng Văn Thượng làm chính trị viên. Tiểu đoàn 2 do đồng chí Huỳnh Leo làm tiểu

đoàn trường, đồng chí Hải (Bảy Trượt) làm chính trị viên. Mỗi tiểu đoàn biên chế hơn 120

cán bộ, chiến sĩ. Đây là hai tiểu đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của quân đội ta trên chiến

trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Đồng chí Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch đoàn chủ tịch

Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam căn dặn: "Nước ta vốn

nghèo, dân ta đang bị áp bức bóc lột, nên người và vũ khí hiện chỉ có bấy nhiêu. Các đồng chí

hãy lấy đó làm vốn rồi liên hệ với địa phương xin thêm người, tổ chức và huấn luyện cho tốt

để gấp rút ra chiến đấu hỗ trợ phong trào"

Ngày 14 tháng 9

Hội nghị thông tin đầu tiên của Trung ương Cục miền nam và căn cứ chiến khu Đ

Hội nghị thông tin đầu tiên của B2 đã được tổ chức tại đồi Cối Xay (Mã Đà) mật danh

đồi A1. Hội nghị đã thống nhất xây dựng ban thông tin quân sự Miền và các tiểu ban thông

tin quân khu. Phụ trách ban thông tin quân sự Miền là đồng chí Lê Văn Xai (Tám Nam). Ban

gồm có 3 tổ vô tuyến huấn luvện và hữu tuyến.

Năm 1962, khi Trung ương Cục miền Nam chuyển về khu B (Bắc Tây Ninh) đường

giao liên chuyển giao cho Ban giao liên Khu uỷ miền Đông. Từ giữa năm 1961, Ban giao liên

Khu uỷ đón tại Suối Hồng Hoàng, cách bến Cây Chanh (Sông Bé) nửa ngày đường. Từ 1962,

đường dây giao lưu của Khu từ khu Q về TƯC về các tỉnh được xây dựng thông suốt.

Từ tổng phát hành ở Hồng Hoàng (bắc Sông Bé) tới trạm Suối Ngang (Phước Thành),

vượt qua lộ 14 qua trạm Bông Trang (xã Chánh Phú Hoà tình Bình Dương), qua lộ 13 tới

trạm Hóc Măng ( x ã

14

Long Nguyên) từ đó vượt qua lộ số 7 qua sông Sài Gòn về trạm Bời Lời (Tây Ninh). Về phía

Đông tới trạm Bàu Hàm (Biên Hoà), từ đó xuống rừng xác về Bà Rịa, Vũng Tàu.

Việc xây dựng tương đối toàn diện căn cứ Khu A đã bảo đảm việc tiếp nhận nguồn

chi viện lớn của Trung ương cho miền Nam, đồng thời tạo điều kiện vật chất, địa bàn đứng

chân để các lực lượng vũ trang tiến công địch.

Tháng 9

Trung ương Cục quyết định thành lập kho quân giới và đơn vị hậu cần ở chiến

khu Đ

Thực hiện chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam, kho quân giới đầu tiên của Miền

được xây dựng ở căn cứ khu A lấy phiêu hiệu el50, đóng quân trên đồi 150 Suối Dài, do đồng

chí Lê Phương làm đại đội trưởng. Đây là kho cất giấu bảo quản vũ khí, chất nổ do hậu

phương chi viện cho miền Nam. Trung ương Cục đã chỉ đạo xây dựng một xưởng quân giới ở

khu A với đội ngũ cán bộ kỹ thuật 20 người được tăng cường từ xưởng B8 ở khu B Tây Ninh.

Xưởng do đồng chí Phạm Anh Tuấn làm xưởng trưởng, đến 1963 xưởng được đặt tên là Z24

gồm 60 cán bộ công nhân.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ, tháng 9-1961,

Trung ương Cục quyết định chuyển đơn vị C150 thành đơn vị đảm nhiệm công tác hậu cần

và xây dựng căn cứ địa tại khu A (chiến khu Đ mở rộng) lấy phiên hiệu là U50.

Ban chỉ huy gồm các đồng chí Đào Sơn Tây (Tư Khanh), Trần Công An, Năm Ninh,

Mười Bộ...

Đơn vị có 500 chiến sĩ phần lớn là thanh niên bổ sung từ miền Đông Nam Bộ, miền

Tây, và cán bộ từ Trung ương tăng cường. Đơn vị đóng tại trung tâm căn cứ Hiếu Liêm - Mã

Đà. U50 tổ chức 4 trung đội làm nhiệm vụ sản xuất và bảo vệ Trung ương Cục, Bộ tư lệnh

T 1 và Khu uỷ.

Từ 1962 U50 ngày càng phát triển. Đến 1964, đơn vị lên tới 5000 người. Diện tích

sản xuất hơn 1000 ha ở Mã Đà Suối Đạt, Bà

15

Tré, Bàu Đá. Ngoài nhiệm vụ sản xuất, đơn vị còn bổ sung quân số cho quân chủ lực. 12-

1964 đơn vị U50 chuyển thành đoàn hậu cần khu vực 81 thuộc cục hậu cần Miền do đồng chí

Mười Thiện làm chỉ huy.

Hành lang giao liên đưọc U50 tổ chức gồm 2 đường dây: từ căn cứ Mã Đà đi Bù Téc

qua Bù Khiên đến Bù Nà đi Bù Cháy nối liền vùng căn cứ Nam Tây Nguyên.

Đường thứ 2 từ Mã Đà đi Suối Rạt, An Long, An Tịnh, sang phía tây đường số 13 với

khu C (Long Nguyên Bến Cát). Khu B (Tây Ninh) để về miền Tây Nam bộ.

- Cuối 1965, Trung ương Cục đã hình thành 5 khu căn cứ tương ứng với việc thành

lập 5 đoàn hậu cần khu vực 81, 82, 83, 84, 85. Đoàn Hậu cần 81 đứng chân ở chiến khu Đ với

đường liên lạc và tuyến tải hoàn chỉnh nối liền các khu vực hậu cần khác xuống Đồng Tháp

Mười và cực Nam Trung bộ.

23-9-1965 Trung ương Cục thành lập tổng đội thanh niên xung phong phục vụ các

yêu cầu của chiến trường, chủ yếu là chiến trường miền Đông Nam bộ.

Phòng Hậu cần quân khu thành lập đại đội vận tải có 60 cán bộ đội quân bưu bảo đảm

đường giao liên vận tải chuyển từ căn cứ đi Tân Uyên, Châu Thành. Phú Giáo lên lộ 13, 14,

nối liền chiến khu Dương Minh Châu.

Phạm vi chiến khu Đ đã mở rộng lên hướng bắc giáp quốc lộ 14 thực sự là một hậu

phương kháng chiến và bàn đạp uy hiếp địch ở phía Đông và Đông bắc Sài Gòn.

Ngày 2 tháng 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp hội nghị Bộ Chính trị về cách mạng miền Nam.

Trong phiên họp Bộ Chính trị bàn về cách mạng miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh

nêu rõ: "Nói đến miền Nam, cần nhận định thêm tình hình quốc tế để có chính sách đối phó

cho khéo, cần phải

16

nhìn sự phát triển của tình hình sau Nghị quyết 15. Trước mắt, phải phá được kế hoạch mới

của địch, bàn thêm về phương châm quân sự, vấn đề mặt trận của Đảng.

Nếu giả định bọn Mỹ làm đảo chính bọn Diệm, ta nên tranh thủ thời cơ vì tình hình sẽ

rối ren hơn trước. Miền Nam đối với Mỹ rất quan trọng nên nó dốc sức làm. Trước nó nói

"Bắc tiến", nay nói "Nam trị" nhưng vẫn không từ bỏ âm mưu "Bắc tiến". Nó phá hoại miền

Bắc. Nó sợ mình đánh nó. Địch quân sự mạnh nhưng chính trị yếu. Ta chính trị mạnh nhưng

quân sự yếu. Nếu lấy sức đọ sức để tiêu hao thì không có lợi. Ta không lấy đấm chọi đấm mà

lấy mẹo diệt nó, trừ bọn ác đi để bảo vệ cơ sở, phong trào dần sẽ lên. Địch công thành ta công

tâm, phải lấy cho được lòng dân.

Tổ chức du kích cho đều, dễ hoạt động, giúp được dân và phân tán địch. Đồng thời ta

phải có một vài cú đấm, đánh rồi ta luồn đi. Ta không để lộ lực lượng, phải tự lực cánh sinh,

hoạt động dẻo dai, không phải chỉ có đấu tranh chính trị. Hoạt động sản xuất văn hoá cũng

cần kịp thời chuyển hướng.

Tình hình thế giới đang chú ý việc Mặt trận miền Nam lâu nay không kêu gọi hòa

bình thống nhất. Đảng nên chọn ngay một cái tên cho có lợi"

Ngày 2 tháng 10

Trung ương Cục chỉ thị về việc thành lập tòa án cách mạng

Để tiếp tục tiến công bọn phản cách mạng, làm cho quần chúng nhân dân tin tưởng

vào đường lối, chính sách của Đảng, mặt trận và nhằm thống nhất cách tổ chức, xét xử,

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đã ra chỉ thị về việc tổ chức tòa án cách mạng nhân

dân. Chỉ thị nêu lên 4 vấn đề sau đây:

1. Đặc điểm của tòa án cách mạng

17

Tòa án cách mạng của nhân dân hiện nay không phải là tổ chức tư pháp, thành viên

của cơ quan tư pháp trong một quốc gia có chính quyền đầy đủ mà là tổ chức của nhân dân

được uỷ nhiệm bất thường dựa vào đường lối chính sách của Đảng và Mặt trận dân tộc giải

phóng miền Nam. Thành phần của toà án là sự tập hợp các đại biểu của các cơ quan, đoàn

thể, đơn vị vũ trang dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng.

2. Nhiệm vụ chủ yếu của tòa án

Nhiệm vụ của tòa án là tiến công tiêu diệt ý thức tư tưởng và tổ chức chính trị phản

cách mạng giáo dục cải tạo người lầm đường lạc lối, phân hoá, cô lập, nghiêm trị bọn ngoan

cố. Tòa án cách mạng nhân dân còn có tác dụng làm cho nhân dân thông qua việc xét xử mà

giáo dục, động viên quần chúng tham gia cách mạng, vạch trần âm mưu Thủ đoạn của địch.

3. Chính sách trong việc xét xử.

Chính sách của Đảng trong việc xét xử là: "Trấn áp kết hợp với khoan hồng, trừng trị

kết hợp với giáo dục cải tạo". Nội dung cụ thể chính sách đó là: Nghiêm trị bọn chủ mưu, đầu

sỏ, ác ôn, có "nhiều nợ máu, bọn ngoan cố, không ăn năn hối cải, bọn che đấu tội phạm, cố

tình phá hoại cách mạng. Khoan hồng với trẻ lầm đường lạc lối, bị mua chuộc, bị ép buộc,

người biết ăn năn hối cải. Giảm hay tha tội với kẻ lập công chuộc tội.

Để tiến công chính trị với bọn địch và nêu cao ảnh hưởng cách mạng, cần có chính

sách nhân đạo cách mạng ương một số trường hợp như: Đối với phạm nhân nữ mang thai,

nuôi con nhỏ, trẻ em dưới 18 tuổi V.V..

4. Mấy vấn đề cụ thể về tổ chức toà án cách mạng.

Thành phần tòa án gồm có:

- Chủ tịch đoàn gồm 3 cán bộ: 1 cấp uỷ viên, 1 cán bộ mặt trận, 1 cán bộ đơn vị vũ

trang.

- Đại diện an ninh luận tội.

- Thư ký toà án.

18

- Đại diện đoàn thể bào chữa cho phạm nhân.

-Về thủ tục xét xử phải xây dựng hồ sơ đề nghị truy tố và có các bước nghiên cứu hồ

sơ, chuẩn bị phiên toà, tiến hành phiên toà. Hình thức phiên toà phải trang nghiêm (ăn mặc,

trang trí, nghi thức), chu đáo, bảo đảm an toàn cho quần chúng và cán bộ.

Sau mỗi phiên toà xét xử, toà án cần họp kiểm điểm rút kinh nghiệm về nội dung,

hình thức, kết quả ảnh hưởng chính trị vùng ta và vùng địch, và báo cáo về ban an ninh.

Tháng 10

Hội nghị lần thứ nhất Trung ương Cục miền Nam bàn về phương hướng và nhiệm

vụ của cách mạng miền Nam.

Để đánh bại âm mưu của địch trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt", tháng 10-1961,

Trung ương Cục miền Nam đã họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ nhất, bàn về phương hướng,

nhiệm vụ của cách mạng miền Nam.

Căn cứ vào Chỉ thị của Bộ Chính trị ngày 31-1-1961 Hội nghị đã phân tích tình hình

mọi mặt trong 2 năm qua, xác định phương hướng, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền

Nam.

Về phương hướng tiến lên của cách mạng miền Nam, Nghị quyết của Hội nghị đã

khẳng định: "Con đường đúng đắn mà Đảng ta chủ trương hiện nay là con đường tổng khởi

nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.... đó là con đường có lợi nhất và có nhiều khả năng

thực hiện". Hội nghị đã đi sâu nghiên cứu phương châm đấu tranh do Trung ương Đảng đề ra:

"đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song

với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự".

Hội nghị hoàn toàn nhất trí với chỉ thị của Bộ Chính trị và chủ trương động viên toàn

Đảng, toàn dân ra sức thực hiện đúng những nhiệm vụ và phương châm đó, quyết tâm vượt

qua mọi khó khăn, đập tan mọi âm mưu của địch, không ngừng tiến công địch, mở rộng

phong trào khẩn trương xây dựng và phát triển lực lượng, làm thay

19

đổi lực lương so sánh giữa ta và địch, tích cực chuẩn bị tiến lên tổng khởi nghĩa, sẵn sàng

chớp thời cơ giành những thắng lợi lớn.

Hội nghị đã nêu lên 10 công tác cụ thể và nội dung yêu cầu phương châm của mỗi

công tác đó.

1) Đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng rộng khắp 3 vùng.

2) Đẩy mạnh đấu tranh vũ trang phối hợp với đấu tranh chính trị, phá tan kế hoạch

Xta-lây - Tay-lo của địch, chuẩn bị mọi mặt cho tổng khởi nghĩa và đối phó với những âm

mưu mới của địch.

3) Tăng cường vận động binh lính và sĩ quan trong quân đội địch, đây là công tác có

tính chiến lược cần quán triệt trong quá trình cách mạng.

4) Đẩy mạnh công tác mặt trận và dân vận, tập hợp mọi lực lượng, mọi khả năng

chống Mỹ-Diệm.

5) Tiếp tục xây dựng và mở rộng căn cứ địa.

6) Cố gắng làm tốt công tác chính quyền ở vùng giải phóng .

7) Đẩy mạnh công tác kinh tế, tài chính nhằm cải thiện đời sống của nhân dân, đáp

ứng nhu cầu to lớn của cách mạng.

8) Xây dựng và mở rộng cơ sở cách mạng ở thành thị.

9) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục.

10) Củng cố xây dựng phát triển Đảng và Đoàn.

Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương Cục miền Nam (tháng 10-1961) đã cụ thể hoá

và phát triển chỉ thị của Bộ Chính trị về phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng

miền Nam, góp phần đưa cách mạng miền Nam tiến lên trong giai đoạn mới chống chiến

tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ.

20

NĂM 1962

Ngày 1 tháng 1

Đảng bộ miền Nam lấy tên là Đảng nhân dân cách mạng miền Nam.

Đảng ta luôn luôn là một Đảng thống nhất, lãnh đạo toàn bộ cách mạng Việt Nam từ

Bắc đến Nam. Khi cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang tiến công cách

mạng, trong hoạt động thực tế, Đảng ra gặp một số trở ngại trong việc tuyên truyền, tập hợp

quần chúng ở miền Nam.

Trước yêu cầu mới của cách mạng, tiếng nói của Đảng phải được thường xuyên thâm

nhập vào quần chúng làm cho quần chúng không những chỉ biết có Mặt trận mà còn thấy

rằng cách mạng miền Nam do Đảng lãnh đạo, nhằm hoàn thành, sự nghiệp giải phóng dân tộc

thống nhất Tổ quốc. Vì vậy, Đảng bộ miền Nam phải có danh nghĩa công khai để tham gia và

lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo cách mạng miền Nam, làm thất bại âm mưu xuyên tạc của kẻ thù.

Căn cứ vào yêu cầu thực tiễn cách mạng và đề nghị của Đảng bộ miền Nam, Trung

ương Đảng đã quyết định Đảng bộ miền Nam lấy tên là Đảng nhân dân cách mạng miền

Nam. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 1-1-1962, Đảng bộ miền Nam lấy tên công khai là

Đảng nhân dân cách mạng miền Nam và tuyên bố rõ cương lĩnh của Đảng.

Sự kiện trên là một sách lược có ý nghĩa quan trong có tác dụng cổ vũ tinh thần cách

mạng của quần chúng, tranh thu được rộng rãi các tầng lớp và cá nhân vào Mặt trận dân tộc

thống nhất cô lập thêm đế quốc Mỹ và tay sai. Sách lược này cũng có tác dụng tranh thủ một

số chính phủ các nước trên thế giới đồng tình với cuộc đấu tranh của nhân dân ta nhằm giải

phóng miền Nam.

21

Ngày 14 tháng 1

Trung ương Cục miền Nam chỉ thị về mấy đặc điểm trong âm mưu của địch và yêu

cầu đối phó của ta.

Trực tiếp theo dõi những diễn biến trong âm mưu mới của địch, Thường vụ Trung

ương Cục miền Nam ra chỉ thị nêu rõ: Đế quốc Mỹ đang cố gắng rất lớn trong việc tăng

cường viện trợ quân sự và xúc tiến việc cải tổ chính phủ Diệm nhằm âm mưu tập hợp các lực

lượng phản động tích cực "chống cộng" ở miền Nam. Chúng nhằm tạo cho chính quyền miền

Nam một thế chính trị và quân sự đủ sức sử dụng viện trợ Mỹ đẩy lùi cách mạng miền Nam,

đồng thời chuẩn bị cho cuộc vũ trang can thiệp quy mô lớn của Mỹ và chư hầu vào miền

Nam. Mặc dù kế hoạch Stalay-Taylo đã thi hành được 7 tháng, nhưng trước phong trào cách

mạng miền Nam, thế kìm kẹp của địch ở nông thôn xã bị thu hẹp, lực lượng phân tán ra bị

tiêu hao, hậu phương bị mất dần thế an toàn. Nên buộc địch phải có thay đổi về phương thức

hoạt động. Từ chỗ đóng quân khắp các vùng với đơn vị nhỏ và tập trung quân càn quét sâu

vào vùng nông thôn, rừng núi của ta, chúng phải rất bớt các đồn bốt bị cô lập. Miền Trung rút

35 đồn bốt, miền Đông rút 16 đồn bốt, miền Tây rút 34 đồn bốt, rừng núi Liên Khu 5. Khu 6

rút 18 đồn bốt. Mục đích của chúng nhằm bỏ bớt các vùng thưa dân, quay về củng cố, đóng

thêm đồn bốt ở vùng ngoại vi đô thị và các trục giao thông. Khi có chỗ đứng chân được vững

chắc, có lúc lượng tăng cường, chúng lại mở rộng đánh chiếm vào các vùng ta làm chủ. Nếu

ta không thấy hết âm mưu ấy, và không có kế hoạch chủ động tấn công địch làm cho địch

ngày càng bị động, thì chúng ta sẽ gặp khó khăn trong việc củng cố và mở rộng phong trào,

chúng ta rất dễ bị động khi địch bung ra. Do đó Trung ương Cục miền Nam nhấn mạnh yếu

cầu đối phó của ta trong lúc này là: không chủ quan, mất cảnh giác, kiên quyết phá tan kế

hoạch Stalay- Taylo, đẩy mạnh đấu tranh vũ trang và chính trị khắp các vùng, làm cho địch

ngày càng bị động hơn.

- Ở các vùng còn bị địch kìm kẹp, các tỉnh uỷ, huyện ủy cần tăng cường theo dõi chỉ

đạo, cần rút kinh nghiệm vận dụng phương châm xây dựng cơ sở và đấu Tranh cho phù hợp

từng vùng. Nắm vùng phương châm đấu tranh chính trị là chủ yếu kết hợp với đấu tranh vũ

22

trang tuyên truyền nhằm diệt ác ôn, hỗ trợ quần chúng, nhưng phải là lực lượng từ bên ngoài.

Phải bảo vệ cơ sở tồn tại lâu dài tránh bộc lộ.

- Ở các vùng sâu, vùng đã phá thế kìm kẹp, vùng giải phóng cần phổ biến âm mưu

mới của địch, không thoả mãn, mất cảnh giác, tích cực phòng gian, truy quét gián điệp, sẵn

sàng chống lại mọi hình thức đánh phá của địch (phi pháo, biệt kích, càn quét, gom dân), ra

sức xây dựng củng cố Đảng, Đoàn và các đoàn thể cách mạng, các lực lượng du kích, chiến

đấu đi đối với sản xuất, bảo vệ mùa màng, chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt làm thất bại âm mưu

mới của địch ngày từ đầu...".

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đã kết luận: "Nếu chúng ta chỉ đạo đúng và

kịp thời, phối hợp chặt chẽ giữa chính trị và vũ trang, giữa các địa phương, giữa vùng yếu và

vùng mạnh thì rất có khả năng đẩy mạnh toàn bộ phong trào tiến lên làm thất bại các âm mưu

mới của địch, làm cho địch vào thế tan rã, suy sụp nghiêm trọng hơn nữa".

Tháng 1

Trung ương Cục Miền Nam chỉ thị về công tác Mặt trận, dân vận, ruộng đất và

quản lý nông thôn.

Để giúp các tổ chức cơ sở Đảng ở miền Nam nắm vững và vận dụng đường lối chính

sách cho phù hợp, đầu năm 1962 Ban Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đã ra Chỉ thị về

công tác mặt trận, dân vận, ruộng đất và quản lý nông thôn. Chỉ thị nhận định những nội dụng

chính như sau:

1) V ề công tác mặt trận: Đây là công tác rất phức tạp cần phải nghiên cứu vận động

bằng nhiều cách mới có kết quả. So với khả năng và yêu cầu chính trị của cách mạng, Mặt

trận vẫn chưa tập hợp được rộng rãi các lực lượng yêu nước của các tầng lớp trên hoặc các

lực lượng giáo phái ít nhiều chống Mỹ - Diệm. Vì vậy sắp tới, Mặt trận phải lấy công nông

làm cơ sở, đoàn kết chặt chẽ với tầng lớp trí thức, học sinh, tranh thủ lôi kéo các tầng lớp

trên, đặc biệt là giới công thương và lôi kéo cả địa chủ yêu nước, tăng cường đoàn kết với các

dân tộc anh em. Khẩu hiệu của Mặt trận đề ra cũng phải nhằm tập hợp thật rộng rãi lực lượng

chống Mỹ-Diệm.

23

2) Công tác củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng: Phải tận dụng hết khả

năng để phát triển và củng cố các tổ chức quần chúng một cách rộng rãi; phát triển đi đôi với

củng cố, củng cố lấy giáo dục là chính. Cần gấp rút xây dựng các Ban chấp hành các đoàn thể

quần chúng ở các cấp để mỗi đoàn thể có thể đi sâu hướng dẫn công tác của giới mình. Nông

hội là tổ chức cơ bản ở nông thôn phải được xây dựng với tính chất của một tổ chức giai cấp.

Nông hội phải bao gồm cả nam nữ từ 13 tuổi trở lên theo điều lệ quy định. Hội phụ nữ và

thanh niên giải phóng ở nông thôn phải bố trí sinh hoạt sao cho thật hợp lý, tránh dẫm chân

lên nhau. Cần lấy sinh hoạt tổ Nông hội làm chính yếu, còn sinh hoạt phụ nữ, thanh niên phải

bàn bạc thảo luận sao cho hợp lý, thiết thực. Ngoài sinh hoạt đoàn thể, nên thường xuyên tổ

chức các cuộc đại hội nhân dân ở xóm ấp nhằm nâng cao giác ngộ cho quần chúng ngoài tổ

chức. v.v…

3) Vấn đề ruộng đất: Các cấp đã quan tâm nhiều đến vấn đề ruộng đất và lãnh đạo

nông dân đấu tranh giành được nhiều quyền lợi. Nhưng đồng thời cũng xảy ra nhiều lệch lạc

đáng chú ý như:

- Có nơi lấy bớt ruộng của trung nông đem trang trải cho bần cố nông, có nơi có

khuynh hướng xoá hẳn việc nộp tô cho địa chủ, có nơi coi phú nông như địa chủ. Nhiều

trường hợp cụ thể về ruộng đất của nông dân chưa được nghiên cứu giải quyết thích đáng,

hoặc giải quyết lệch lạc v.v... Vì vậy cần phải tổ chức học tập chính sách ruộng đất của Đảng.

Cần phải bảo đảm các chính sách ruộng đất của trung nông, phú nông. Cùng với việc chấp

hành đúng chính sách ruộng đất cần phải tổ chức, động viên nông dân tham gia sản xuất, thực

hiện tiết kiệm, bảo vệ các quyền lợi đã giành được.

4) Công tác quản lý nông chôn: Để củng cố vùng ra mới giải phóng thật vững chắc,

làm cơ sở phá thế kìm kẹp trong các vùng khác, công tác quản lý nông thôn cần được tiến

hành tốt để xây dựng các mặt chính trị, quân sự, văn hóa, kinh tế. Ở vùng giải phóng miền

núi cần lập ra " Ủy ban tự trị" kiêm luôn hình thức nhân dân tự quản. Ở vùng đồng bằng thì

dùng danh nghĩa mặt trận do Đảng lãnh đạo để quản lý. Việc lãnh đạo do chi uỷ xã phân công

cho các đoàn thể như nông hội phụ trách kinh tế, tài chính. Thanh niên phụ trách văn hóa phụ

nữ cứu tế xã hội, quân sự bảo vệ an ninh do chi uỷ trục tiếp nắm. Chi uỷ hoặc xã uỷ phải

quản lý nông thôn thông qua đảng viên nắm

24

trong mặt trận và đoàn thể, tránh mệnh lệnh, quan liêu, bao biện làm thay, xuất đầu lộ diện,

không giữ đúng cương vị lãnh đạo của Đảng.

Ngày 1 tháng 2

Đài phát thanh giải phóng, tiếng nói của Đảng bộ và nhân dân miền Nam Việt

Nam được thành lập.

Để đáp ứng yêu cầu của phong trào cách mạng miền Nam ngày càng lớn mạnh, trong

Chỉ thị tháng 1-1961 về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt, Bộ Chính trị đã đề ra

việc xây dựng đài phát thanh và cơ quan ngôn luận của Mặt trận: Hội nghị Trung ương Cục,

tháng 10-1961 cũng nhấn mạnh việc gấp rút xây dựng Đài phát thanh cho cách mạng miền

Nam.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Trung ương Cục miền Nam, Đài phát

thanh giải phóng đã được thành lập. Đúng vào 18 giờ 30 phút ngày 1-2-1962, Đài đã bắt đầu

buổi phát thanh đầu tiên, truyền đi tiếng nói đấu tranh của nhân dân miền Nam ra cả nước và

trên thế giới.

Đài phát thanh giải phóng đã góp phần quan trọng, trong việc phổ biến tuyên truyền

đường lối, chính sách của Đảng ta, tập hợp các tầng lớp nhân dân miền Nam đấu tranh chống

Mỹ - ngụy và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh

chính nghĩa của nhân dân ta.

Ngày 16 tháng 2

Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ nhất

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Trung ương Cục miền Nam về củng

cố, xây dựng MTDT thống nhất ngày 16-1962 tại vùng Kà Tùm (Tây Ninh), khoảng 80 đại

biểu các chính đảng đoàn thể, lực lượng vũ trang giải phóng, đại diện các dân tộc, các tôn

giáo đã họp Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ nhất. Đại hội cử

ra Uỷ ban Trung ương chính thức gồm 52 vị. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bầu Chủ tịch.

Năm vị phó chủ tịch là

25

bác sĩ Phùng Văn Lung, Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ hoà bình thế giới Việt Nam; đồng chí Võ

Chí Công, đại biểu BCHTƯ Đảng nhân dân cách mạng miền Nam Việt Nam; kiến trúc sư

Huỳnh Tấn Phát, Tổng bí thư đảng Dân chủ miền Nam Việt Nam; đại đức Sơn Vọng, đại

biểu đồng bào Khơ me yêu nước; ông Ybihalệ O, tín đồ Tin lành, chủ tịch Uỷ ban phong trào

tự trị Tây Nguyên. Thư ký của Uỷ ban Trung ương mặt trận là giáo sư Nguyễn Văn Hiếu,

Tổng bí thư đảng xã hội cấp tiến Việt Nam.

Đại hội Lần thứ nhất Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố tiếp

tục theo đuổi mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ tự do dân chủ, ấm no cho nhân

dân, thực hiện chính sách ngoại giao hoà bình, trung lập. Mười chủ trương trước mắt của Mặt

trận đã cụ thể hoá chương trình 10 điểm công bố ngày 20-12-1940, nhằm đáp ứng yêu cầu

của tình hình mới khi Mỹ tiến hành "chiến tranh đặc biệt", ráo riết thực hiện kế hoạch Stalay-

Taylo.

Tháng 2

Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng bàn biện pháp đánh bại kế hoạch Stalay-

Taylo của đế quốc Mỹ.

Từ giữa năm 1961, hoảng hốt trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng

miền Nam, đế quốc Mỹ đã tiến hành chiến lược "chiến tranh đặc biệt" với kế hoạch Stalay -

Taylo, kế hoạch này đế quốc Mỹ hy vọng bình định miền Nam trong vòng 13 tháng bằng 3

biện pháp: dồn dân, lập ấp chiến lược", phong toả biên giới, tiêu diệt lực lượng vũ trang cách

mạng bằng hai chiến thuật chủ yếu "trực thăng vận và "thiết xa vận".

Tháng 2-1962, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp hội nghị bàn về những công tác

trước mắt của cách mạng miền Nam, nhằm phá tan kế hoạch Stalay - Taylo.

Bộ Chính trị khẳng định đường lối và phương hướng, cơ bản của cách mạng miền

Nam Việt Nam không có gì thay đổi. Bộ Chính trị đã đề ra chủ trương trước mắt của cách

mạng miền Nam là: "Kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh chính trị, quân sự, giành và giữ vững

thế chủ động, đẩy địch vào thế bị động hơn nữa, địch lúc này xây dựng lực

26

lượng về mọi mặt, ra sức phá kế hoạch Staly-Taylo, mở rộng hơn nữa phong trào giải phóng

dân tộc, tăng cường hơn nữa khối đoàn kết toàn dân tiến lên dành những thắng lợi lớn hơn

nữa".

Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta chỉ rõ phải tiến hành đồng thời một loạt công tác

liên quan mật thiết với nhau như đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận, phá ấp chiến lược,

củng cố và mở rộng căn cứ địa, xây dựng vùng phương châm hoạt động ở 3 vùng một cách

linh hoạt, sáng tạo, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị và quân sự, kết hợp đấu tranh hợp

pháp và nửa hợp pháp, kết hợp đấu tranh ở miền Nam và ở miền Bắc, kết hợp việc đẩy mạnh

phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta với việc tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc

tế.

Về công tác Đảng, Bộ chính trị chủ trương phải nắm vùng phương châm coi trọng

chất lượng hơn số lượng, hết sức coi trọng và tiến hành thường xuyên công tác giáo dục huấn

luyện trong Đảng, nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ tư tưởng và tổ chức, kỷ luật cho cán

bộ và đảng viên.

Những nhận định và chủ trương của Hội nghị bộ Chính trị tháng 2-1962 có tác dụng

xác định quyết tâm và chỉ đường cho Đảng bộ và quân dân ta ở miền Nam đánh bại một bước

quan trọng kế hoạch chiến lược đầu tiên của cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

Tháng 2

Thành lập phòng Hội họa giải phóng thuộc tiểu ban văn nghệ của Ban Tuyên

huấn Trung ương Cục miền Nam.

Đầu xuân 1962, trong khu rừng già căn cứ chiến khu B ở bắc Tây Ninh tại Hội nghị

Ban tuyến huấn Trung ưng Cục đồng chí Trần Bạch Đằng Truởng ban Tuyên huấn đã tuyên

bố thành lập phòng Hội hoạ giải phóng thuộc tiểu ban văn nghệ của Ban Tuyên huấn. Lúc

đầu thành lập, phòng chỉ có 3 hoạ sĩ từ Sài Gòn ra Phòng có mật danh là B 1 1 .

Đồng chí Trần Bạch Đằng đã phát biểu: "Chúng ta vẫn phát triển mạnh công tác hội

hoạ. Với nhiệm vụ ghi lại các ký hoạ, vẽ

27

tranh động viên chiến sĩ và đồng bào kháng chiến nhằm giới thiệu bằng nghệ thuật hội hoạ

cuộc sống, chiến đấu của nhân dân, chiến sĩ miền Nam cho nhân dân toàn quốc và nhân dân

thế giới biết".

Những ngày đầu tiên phòng đã liên hệ với tất cả các cơ quan của Ban và đoàn thể

thuộc Trung ương Cục, đảm nhận mọi công việc trình bày và minh hoạ cho các ấn phẩm của

các đơn vị như: Thông tấn xã, bộ phận tuyên truyền, vẽ tên và giới thiệu cho xưởng phim giải

phóng, minh hoạ và trình bày các báo của ban tuyên huấn và các đoàn thể, các cơ quan khác.

Phòng Hội hoạ giải phóng ngày càng được tăng cường về lực lượng nên còn có điều kiện

thực hiện kế hoạch xây dựng ngành hội hoạ cho các địa phương và cơ quan, đơn vị bộ đội

bằng cách mở lớp đào tạo hoạ sĩ.

Các hoạ sĩ vừa chiến đấu vừa vẽ tranh. Nhiều chiến công rực rỡ như Bình Giã, Bầu

Bàng, Đồng Xoài; các gương chiến đấu của đội quân tóc dài, các mẹ chiến sĩ, các anh hùng

V.V.. đã được ghi vào nhiều tập ký họa của các hoạ sĩ giải phóng. Phòng Hội hoạ giải phóng

đã hoàn thành nhiệm vụ động viên chiến sĩ đồng bào trong nước, giới thiệu được cuộc kháng

chiến của nhân dân ra cho nhân dân thế giới.

Tháng 4

Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Cục miền Nam bàn kế hoạch thực hiện

Nghị quyết tháng 2-1962 của Bộ Chính trị.

Căn cứ vào nghị quyết của Bộ Chính trị, hội nghị đã thảo luận tình hình miền Nam,

âm mưu mới của địch và đề ra một số công tác cụ thể để thực hiện nghị quyết tháng 2-1962

của Bộ Chính trị.

Về tình hình miền Nam, hội nghị đã nêu lên tính chất nghiêm trọng của đế quốc Mỹ

ngày càng tăng cường vũ trang xâm lược miền Nam nước ra. Đồng thời khẳng định ý nghĩa

quan trọng của những thắng lợi mà cách mạng miền Nam đã giành được trong Thời gian qua.

Về phương hướng và phương châm đấu tranh, Hội nghị nhận định: kẻ thù nguy hiểm

trước mắt của nhân dân miền Nam là đế quốc Mỹ và bọn tay sai, nhưng thủ phạm chính,

nguy hiểm nhất là đế quốc Mỹ xâm lược. Do đó phương hướng tiến lên của cách mạng miền

28

Nam là đẩy mạnh đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị lâu dài, đánh đổ địch từng phần,

giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Hội nghị nhấn mạnh từ khởi

nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa là quá trình phát triển qua nhiều bước quá độ của

cách mạng.

Sau khi phân tích tình hình mọi mặt, hội nghị nhấn mạnh: Nắm vững phương châm

đấu tranh lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định thắng lợi là một vấn đề rất lớn mà về chỉ đạo cần

quán triệt.

Về chủ trương công tác sắp tới, hội nghị Trung ương Cục miền Nam hoàn toàn nhất

trí với nghị quyết của Bộ Chính trị và nhấn mạnh 3 công tác trọng tâm nhằm trực tiếp đánh

vào những âm mưu nguy hiểm nhất của địch là:

1)Tích cực đẩy mạnh phong trào đấu tranh toàn diện, đều khắp ở nông thôn, đô thị,

kiên quyết chống lại và làm thất bại kế hoạch gom dân lập "ấp chiến lược" của địch. Đây là

nhiệm vụ quan trọng nhất trong 3 nhiệm vụ trọng tâm.

2)Ra sức xây dựng, mở rộng căn cứ địa vững mạnh toàn diện và tăng cường công tác

quản lý nông thôn.

3) Khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang, chú trọng cả 3 thứ quân mau lớn mạnh

để đủ sức chặn đứng, và đánh lui những âm mưu quân sự của địch.

Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Cục miền Nam tháng 4-1964 đã cụ thể hoá

thêm chủ trương công tác của Bộ Chính trị góp phần đưa cách mạng miền Nam tiến lên một

bước mới trong giai đoạn đầu của những năm chống chiến tranh đặc biệt.

Tháng 5

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết về công tác quân sự.

Nghị quyết đề cập đến công tác chủ yếu là: Phát động quần chúng đứng lên đánh địch.

Các lực lượng vũ trang ra sức tiêu hao, tìm diệt nhiều sinh lực địch, xây dựng lực lượng ngày

càng lớn mạnh.

29

Nắm vững phương châm tác chiến nhỏ, ăn chắc, liên tục đều khắp sâu rộng trong hậu phương

địch, hiệp đồng ba thứ quân, đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng và củng cố căn cứ địa.

Nhiệm vụ cụ thể trước mắt là hỗ trợ phong trào quần chúng nổi dậy phá "ấp chiến lược".

Thực hiện nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Cục miền Nam về công tác

quân sự, hai trung đoàn chủ lực Miền được điều động về tiếp cận vùng dân cư. Trung đoàn 1

xuống Bời Lời, Nhuận Đức, An Nhơn Tây. Trung đoàn 2 xuống Bến Cát, Phú Giáo, Dầu

Tiếng.

Ngày 10 tháng 7

Trung ương Cục miền Nam chỉ thị về việc tuyên truyền và chỉ đạo thực hiện công

tác Mặt trận.

Trên cơ sở những thắng lợi của quân dân miền Nam trong thời gian qua và nhân hội

nghị Giơnevơ bàn về vấn đề Lào đang họp, Trung ương Cục miền Nam chủ trương mở đợt

tấn công chính trị lớn vào dịp 20-7-1962 nhằm:

- Cô lập hơn nữa đế quốc Mỹ và chính sách xâm lược của Mỹ. Để lập lại hoà bình ở

miền Nam, đế quốc Mỹ phải rút khỏi miền Nam, để nhân dân miền Nam tự giải quyết công

việc của mình.

- Phân hoá hàng ngũ Mỹ-ngụy. Nếu Mỹ rút khỏi miền Nam thì sẽ có giải pháp hòa

bình giữa các phái hữu quan để thành lập chính quyền Liên hiệp và trung lập.

- Tranh thủ thêm lực lượng đứng về phía cách mạng hoặc trung lập có lợi cho cách

mạng. Cơ sở liên hiệp hành động giữa các phe phái là chống Mỹ và phần nội bộ, thì thực hiện

ở nguyên tắc bàn bạc, thương lượng, bình đẳng đi đến nhất trí và thương lượng.

- Nước Lào đã giành được độc lập và hoà bình theo phương hướng đó thì miền Nam

Việt Nam có thể giành được thắng lợi như vậy.

30

Đối tượng tiến công đợt này là đế quốc Mỹ. Đối tượng tranh thủ là mọi tầng lớp nhân

dân, các phe phái chống Mỹ. Ngay cả với tập đoàn Ngô Đình Diệm, ta cũng không đả kích

mà có ý ngầm mở lối ra cho chúng (Điều này không nói và nói ra bây giờ là bất lợi đối với

đông đảo nhân dân và các phe phái chống Diệm). Cần phải làm cho mọi người nhận rõ là

không phải thay đổi đường lối mà chỉ là vấn đề sách lược. Muốn cho sách lược mềm dẻo có

tác dụng thì phải đánh mạnh. Tài liệu tuyên truyền là bản tuyên bố ngày 20-7 của Uỷ ban

Trung ương Mặt trận và các bài bình luận của báo, đài giải phóng.

Tháng 7

Đồng chí Lê Duẩn gửi cho các đồng chí Trung ương Cục miền Nam.

Trong thư đề ngày 7-1962, đồng chí Lê Duẩn đã tổng kết tình hình cách mạng miền

Nam trong 3 năm qua: "Cách mạng miền Nam rõ ràng đang ở thế ngày càng thuận lợi. Mặc

dù còn gặp rất nhiều khó khăn phức tạp, nhưng cách mạng miền Nam vẫn không ngừng phát

triển... Ta thấy được địch tuy có mạnh nhưng chúng đang ở thế bị động. Ta có khó khăn

nhưng có thuận lợi căn bản về chính trị... Hiện nay cách mạng miền Nam đang ở giai đoạn

đầu". Đồng chí đã phân tích cục diện chiến tranh chỉ diễn ra trong phạm vi nhỏ, nhưng rất

gay go và phức tạp vì "nó phản ánh cuộc đối đầu giữa hai thế lực cách mạng và phản cách

mạng" vì âm mưu của đế quốc Mỹ chẳng những muốn chiếm miền Nam làm thuộc địa kiểu

mới, làm bàn đạp tiến công miền Bắc mà còn muốn biến miền Nam thành một bức tường

ngăn cản chủ nghĩa cộng sản lan tràn xuống Đông Nam Á.

Đồng chí Lê Duẩn đã lưu ý các đồng chí lãnh đạo Trung ương cục Miền Nam cần

phải xem xét tình hình ở Lào, để rút kinh nghiệm, hiểu rõ cuộc đấu tranh của cách mạng miền

Nam: "Bài học của cách mạng Lào có tầm quan trọng lớn đối với cách mạng miền Nam".

Nghệ thuật lãnh đạo cách mạng là thúc đẩy sự phát triển của nhiệm vụ cách mạng thế giới:

giữ gìn hoà bình, ngăn ngừa đế quốc chiến tranh, bảo đảm an ninh cho nhân dân các nước

đồng thời phải đẩy mạnh đấu tranh, đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận chủ nghĩa đế

quốc. Để đương đầu với một kẻ địch hết sức hung bạo, nguy hiểm và xảo quyệt, phải nắm

vững phương pháp đấu tranh chính trị kết hợp

31

với đấu tranh quân sự: "Dùng quân sự, chính trị để tiến công địch là gươm giáo; còn giữ thế

hợp pháp cũng như cái khiên. Quần chúng phảỉ có gươm giáo để giết giặc, đồng thời phải có

khiên để chống đỡ". Để cho quần chúng có cả gươm giáo lẫn khiên thì phải "nắm thật vững,

dùng thật khéo lực lượng chính trị mặt khác phải thấy hết tính chất quyết định của lực lượng

quân sự".

Địch đánh ta rất quyết liệt bằng cả chính trị và quân sự thông qua cái gọi là "quốc

sách" ấp chiến lược. Để chống phá chính sách ấp chiến lược, đồng chí Lê Duẩn đã tóm tắt

một số ý chính: Phải dựa vào quần chúng. Tuyên truyền, giáo dục quần chúng hiểu rõ tác hại

của việc dồn dân lập ấp chiến lược để quần chúng nung nấu quyết tâõm phá ấp chiến lược.

Phải tạo phương tiện và thời cơ cho quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, phải phối hợp

đấu tranh trong ấp với tiến công từ bên ngoài vào. Sau khi phá ấp chiến lược, nơi nào có thể

thì phải lập xã ấp chiến đầu. Nơi nào chưa, thì phải tạo thế hợp pháp để bảo vệ tính mạng tài

sản và đấu tranh chống địch kìm kẹp trở lại v.v...

Trong thư của đồng chí Lê Duẩn còn bàn đến phát động chiến tranh du kích toàn dân,

toàn diện và lâu dài, đến việc xây dựng căn cứ địa. Những ý kiến của đồng chí Lê Duẩn là

những đóng góp quý báu để Trung ương Cục miền Nam vận dụng sát với thực tế trên chiến

trường từ đó đề ra yêu cầu đánh địch và thắng địch một cách có lợi nhất, kịp thời lãnh đạo

đưa phong trào tiến lên mạnh mẽ vững chắc.

Tháng 7

Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về đấu tranh phá ấp chiến lược.

Thực hiện chủ trương của Đảng về đấu tranh chống chính sách gom dân, lập ấp chiến

lược của địch, trong thời gian qua các cấp uỷ Đảng đã đặt kế hoạch tích cực đối phó với địch,

phong trào đã diễn ra mạnh mẽ và thu được một số kết quả bước đầu. Để kịp thời phân tích.

rút ra những kinh nghiệm, uốn nắn những sai lầm, khuyết điểm, Ban thường vụ Trung ương

Cục miền Nam đã ra chỉ thị về vấn đề đấu tranh chống phá ấp chiến lược, xã tự vệ và gom

dân của địch.

32

Nhận định về kết quả gom dân, lập ấp chiến lược trong hơn một năm qua, chỉ thị nhấn

mạnh: kế hoạch Stalay-Taylo đã định trong 18 tháng phải hoàn thành 17.000 ấp chiến lược

thì vừa qua chúng đã và đang hoàn thành 1.400 ấp với bao khó khăn nhược điểm. Đây là một

thất bại nặng nề của địch. Tuy vậy, nếu chúng ta chủ quan, mất cảnh giác thì địch có thể gây

cho ta tổn thất mới.

Trong thời gian qua, chúng ta cũng có một số nhược điểm cần chú ý là: Do chính sách

gom dân lập ấp chiến lược của địch nên nhiều nơi cơ sở cách mạng bị đánh bật ra ngoài,

trong lãnh đạo có nhiều lúng túng bị động. Chưa phân rõ thắng bại ở từng vùng khác nhau để

đề ra phương châm và yêu cầu cho thích hợp. Nhiều nơi đánh phá chỉ nặng về hình thức phá

rào bên ngoài, chưa phát động được lực lượng bên trong và phải phá từ bên trong, giữa kết

hợp được phương châm chống gom dân lập ấp chiến lược với xây dựng làng, thôn xã chiến

đấu, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Lực lượng vũ trang chưa kết hợp với quần chúng, chưa

có những trận đánh làm nhụt khí thế địch, chưa làm cho địch thất bại hẳn trong một vùng

v.v... Về một số điểm cụ thể chỉ đạo trong thời gian tới, chỉ thị nêu rõ:

1) Các cấp ủy cần soát lại khu ấp chiến lược trong địa phương, từ đó có kế hoạch

phân từng loại, từng khu, ấp để chống phá một cách hiệu quả.

2) Từng tỉnh, khu, huyện, cần chọn điểm cho mỗi loại để chỉ đạo rút kinh nghiệm.

Mỗi huyện cần chọn điểm yếu nhất tập trung phá bằng được để kích động phong trào chung.

Tuỳ tình hình có thể tổ chức chống phá rộng rãi đều khắp làm cho địch phải bị động lúng

túng.

3) Cần có kế hoạch sâu rộng và tổ chức quần chúng ở trong các ấp chiến lược cho

thích hợp sao cho các tầng lớp các giai cấp tin tưởng và đi theo cách mạng.

4) Trong ấp chiến lược cần tích cực phá thế kìm kẹp của địch làm cho tổ chức của

địch không ổn định.

33

5) Cần sử dụng lực lượng vũ trang tập trung, đánh những trận tiêu diệt trong bộ phận

quan trọng của địch để kích động phong trào quần chúng, tạo điều kiện cho phong trào quần

chúng đấu tranh.

6) Ở nơi địch chưa gom dân thì tích cực tổ chức việc chống gom dân. Phải có kế

hoạch kiên quyết chống phá việc gom dân lập "ấp chiến lược" của địch.

7) Cần tích cực trong công tác mặt trận, tập hợp lực lượng cô lập địch đến cao độ.

8) Cần kết hợp chặt chẽ giữa chống phá gom dân lập ấp chiến lược với xây dựng ấp,

xã chiến đấu, xây dựng căn cứ địa cách mạng.

9) Đấu tranh chống gom dân lập ấp chiến lược là cuộc đấu tranh gian khổ lâu dài, cần

phải kết hợp chặt chẽ với các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, các hình thức hợp pháp hoặc

nửa hợp pháp...

10) Trong cuộc đấu tranh này, chúng ta có nhiều khó khăn nhưng địch còn nhiều khó

khăn hơn ta. Khó khăn lớn nhất của địch là chúng đụng chạm đến quyền lợi và sinh mạng của

toàn dân nên địch phải đương đầu với cuộc chiến đấu ác liệt của toàn dân.

Cuối cùng, chỉ thị của Ban thường vụ Trung ương Cục miền Nam đã yêu cầu các cấp

ủy cần kiểm thảo việc lãnh đạo phong trào chống gom dân lập ấp chiến lược, rút kinh nghiệm

và đề ra kế hoạch đẩy mạnh phong trào.

Ngày 13 tháng 10

Nghị quyết Hội nghị công tác chính trị, công tác Đảng của lực lượng vũ trang Giải

phóng miền Nam lần thứ nhất.

Hội nghị công tác chính trị, công tác Đảng của quân đội Giải phóng miền Nam họp từ

ngày 13-10 đến 16-10-1962. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Trung ương Cục đã đến dự và

phát biểu ý kiến. Nghị quyết của hội nghị đã phân tích tình hình chính trị về các

34

mặt nhận thức, tư tưởng của đảng viên, đoàn viên trong lực lượng vũ trang. Hội nghị nhận

thấy rằng đi sâu phân tích từng vấn đề cụ thể, chúng ta còn những thiếu sót, lập trường quan

điểm chưa vững vàng, phương thức công tác càng đi sâu xuống cơ sở càng lúng túng. Nhưng

những vấn đề lớn về đường lối chính sách ta không phạm sai lầm lớn, trên công tác thực tế, ta

có những ưu điểm quan trọng sau đây:

1. Quán triệt sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với quân đội.

2. Nắm vững đường lối giai cấp trong xây dựng Đảng, xây dựng quân đội.

3. Quán triệt nguyên tắc cơ bản của công tác chính trị là đoàn kết nội bộ, đoàn kết

quân dân, đoàn kết quốc tế.

4. Nắm vững nguyên tắc "chính trị là gốc, tư tưởng dẫn đầu".

Về nhiệm vụ quân sự, nghị quyết của Hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của quân đội ta

là cùng với các tầng lớp nhân dân đập tan công cụ đàn áp và bộ máy chính trị của đế quốc,

phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất đất

nước. Bên cạnh nhiệm vụ chủ yếu của quân đội là tác chiến, tiêu diệt địch, cần phải kết hợp

chặt chẽ với hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh chính trị.

Tháng 10

Thành lập Tiểu ban giáo dục miền Nam, thuộc Ban tuyên huấn Trung ương Cục

miền Nam.

Cùng với các chính sách thực dân mới về chính trị quân sự, kinh tế, Mỹ - ngụy rất

quan tâm thực hiện chiến lược văn hoá giáo dục mà chúng gọi là chiến lược "tranh thủ trái

tim, khối óc" của nhân dân miền Nam. Chúng tìm mọi cách triệt phá nền giáo dục tiến bộ,

yêu nước của cách mạng và áp đặt nền giáo dục nô dịch. Sau đồng khởi 1960, vùng giải

phóng mở rộng. Do yêu cầu của nhân dân, của cách mạng, nhiều địa phương đã tự động

thành lập tiểu ban giáo dục bên cạnh uỷ ban tự quản các cấp. Tháng 10-1962, Tiểu ban giáo

dục miền Nam thuộc Ban tuyên huấn Trung ương cục miền Nam được thành lập. Lúc đầu chỉ

có 5 cán bộ nhân viên làm tham mưu cho Trung ương

35

Cục miền Nam và Uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, thống nhất

đường lối giáo dục chung cho toàn Miền. Phương hướng, nhiệm vụ của công tác giáo dục

miền Nam được xác định là: Dựa vào lực lượng nhân dân, cán bộ giáo dục và các nhà giáo

yêu nước, kiên quyết đả phá chính sách ngu dân và các hình thức giáo dục nô dịch, phản

động ngoại lai, đồi trụy của Mỹ ngụy, tích cực xây dựng một nền giáo dục dân tộc, dân chủ

và khoa học...

Được Trung ương Cục miền Nam quan tâm, Tiểu ban giáo dục đã xây dựng trường

đào tạo cán bộ quản ký và giáo viên trước hết ở căn cứ R. Nhờ trí tuệ tập thể của anh chị em,

Tiểu ban giáo dục đã khắc phục những khó khăn thiếu thốn để xây dựng "trường cho ra

trường" và biên soạn sách giáo khoa phục vụ học tập và giảng dạy. Cuối năm 1962, trường

giáo dục Tháng Tám khai giảng khóa I với hơn 30 học viên đại diện các khu và tỉnh trong

miền Nam. Bà con Việt Kiều Campuchia cũng gửi 4 học viên về học. Ngày 20-11-1963, Hội

nhà giáo yêu nước miền Nam Việt Nam được thành lập. Tháng 4-1964, Đại hội giáo dục toàn

miền Nam lần thứ nhất được tiến hành, Đại hội đã thông qua điều lệ chính thức, bầu Ban

chấp hành trung ương Hội gồm 31 vị giáo sư do giáo sư Lê Văn Huấn làm Chủ tịch, đồng chí

Dương Văn Diêu, Trần Thanh Nam trong ban Thường vụ, thường trực Hội.

Việc thành lập Tiểu ban giáo dục thuộc Ban tuyên huấn đã giúp Trung ương Cục

miền Nam chỉ đạo thống nhất đường lối, phương châm, biện pháp giáo dục trong kháng chiến

chống Mỹ. Bất chấp sự kìm kẹp của chính quyền Mỹ ngụy, ngành giáo dục đã góp phần đắc

lực củng cố vùng giải phóng, đào tạo hàng vạn cán bộ cung cấp cho kháng chiến, xây dựng

nông thôn mới với sự có mặt của nhà trường cách mạng.

Tháng 11

Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền tổ chức Hội nghị tổng kết chiến tranh du kích

toàn miền Nam.

Tại chiến khu Dương Minh Châu hội nghị đã thảo luận 12 bản báo cáo về xã chiến

đấu do chính các đồng chí lãnh đạo trực tiếp ở các xã trình bày. Kết luận của Hội nghị đã

khẳng định: "Muốn đánh

36

bại kẻ thù phải phát triển rộng rãi chiến tranh nhân dân, muốn chiến tranh nhân dân thực sự

rộng rãi, phải lấy xã chiến đấu làm cơ sở". Xã chiến đấu là cơ sở của chiến tranh nhân dân, là

chiến trường chủ yếu của "nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân để bảo tồn mình, tiêu hao

tiêu diệt địch, là nguồn dự trữ người và của cho cách mạng, vì vậy các Ban quân sự, các cấp

lãnh đạo, các đơn vị tập trung phải lấy việc xây dựng xã chiến đấu làm một trong những

nhiệm vụ chủ yếu của mình. Toàn Nam Bộ kể cả 2 tỉnh miền núi có hơn 1300 xã, nhưng theo

báo cáo chưa đầy đủ, số xã tương đối mạnh chỉ có khoảng 250 xã. Phương hướng của ta là

phải làm cho đại đa số các xã trở thành các xã chiến đấu. Để xây dựng cả xã chiến đấu, Hội

nghị đã nêu lên một số bài học chủ yếu về các vấn đề sau đây:

1) Phải phát động tư tưởng của quần chúng, làm cho đồng bào trong xã đồng tình,

kiên quyết xây dựng xã chiến đấu, chi bộ, du kích phải biết dựa vào quần chúng, bàn bạc với

quần chúng cùng nhau quyết tâm đánh giặc giữ làng, tránh quan liêu mệnh lệnh.

2) Nắm vững phương châm đấu tranh chính trị, vũ trang và binh vận; Phương châm

cụ thể của từng vùng là: ở vùng rừng núi lấy đấu tranh vũ trang làm chính, có kết hợp đấu

tranh chính trị. Ở đô thị lấy đấu tranh chính trị làm chính, hoạt đông vũ trang hỗ trợ. Ở nông

thôn đồng bằng, đấu tranh chính trị và vũ trang ngang nhau.

3) Muốn trở thành một xã chiến đấu mạnh phải vừa phòng ngự tốt, vừa tấn công tốt;

phải phát triển rộng rãi cả 3 mặt chính trị, vũ trang và binh vận. Du kích, tự vệ và nhân dân

trong xã không những đấu tranh vũ trang trong chống càn mà còn chủ động tiến công tiêu

diệt địch, phối hợp với các đơn vị bộ đội địa phương và chủ lực để tiến công tiêu diệt địch

bằng mọi cách.

4) Một số ý kiến về xây dựng lực lượng du kích tự vệ:

Du kích tự vệ là nòng cốt của xã chiến đấu, là lực lượng vũ trang của Đảng và nhân

dân trong xã. Tuy nhiên du kích tự vệ cũng. có những khuyết điểm. Ở một số nơi như: chưa

dũng cảm chiến đấu; không biết phát động quần chúng, không gương mẫu, quan liêu, hách

dịch mệnh lệnh với đồng bào v.v... Vì vậy cần phải khắc phục các

37

khuyết điểm trên bằng cách thường xuyên giáo dục anh em, phải huy phê bình và tự phê bình.

5. Tác phong lãnh đạo của chi bộ: Vì chi bộ là người lãnh đạo, giáo dục quần chúng

nên chi bộ kém, mọi mặt đều kém. Tác phong lãnh đạo của mỗi đảng viên phải gương mẫu,

bám sát quần chúng, lúc khó khăn nhất lại càng phải hoà mình với quần chúng.

6. Về quản lý nông thôn: Xây dựng xã chiến đấu và quản lý nông thôn có quan hệ

khăng khít với nhau, vì vậy mục địch của xã chiến đấu là để bảo đảm cho việc quản lý tốt

nông thôn, thực hiện tốt chính sách của Đảng, ở các xã chiến đấu tốt, tính mạng của quần

chúng được bảo đảm và đời sống của quần chúng nhân dân cũng được cải thiện.

Hội nghị tổng kết chiến tranh du kích toàn miền Nam đã biểu dương 5 xã xuất sắc của

miền Đông Nam Bộ là xã Bến Tương Thới Hoà (tỉnh Thủ Dầu Một), Tân Xuân, Phước Vĩnh

An (tỉnh Gia Định) và xã Biện Sơn (tỉnh Tây Ninh). Tỉnh Tây Ninh được biểu dương về kinh

nghiệm xây dựng xã ấp chiến đấu liên hoàn.

Tháng 11

Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị chống địch càn quét

Trong lúc lực lượng vũ trang của ta ở miền Nam mới ra đời còn non yếu, địch lại

dùng nhiều thủ đoạn thâm độc nhằm bao vây, cô lập tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng.

Để đối phó với âm mưu của địch, Trung ương Cục miền Nam và ban quân sự Miền đã chỉ thị

cho các đơn vị vũ trang ở Nam Bộ và Nam Trung bộ đẩy mạnh chống địch càn quét. Chỉ thị

nhấn mạnh: "Nếu không tích cực chống càn và thông qua chống càn mà tiêu diệt địch thì

không những không ngăn chặn và đánh bại âm mưu gom dân, lập ấp chiến lược của địch mà

lực lượng vũ trang của ta cũng có thể bị tiêu hao và lâm vào thế bị động. Do đó đóng quân ở

đâu cũng phải có kế hoạch chống càn, kết hợp với du kích dựa vào xã chiến đấu, hoặc những

trận địa đã chuẩn bị kiên quyết tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, bảo vệ mình. Đồng thời phải,

chủ động tìm địch mà đánh, chủ yếu là đánh giao thông, phục kích

38

địch hành quân, dùng chiến thuật đặc công đánh các đồn bốt nhỏ và tập kích những nơi địch

sơ hở".

Ngày 6 tháng 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Bộ Chính trị, chủ trương động viên toàn dân, đưa

cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi mới.

Từ ngày 6 đến 10-12-1962, dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị

Trung ương Đảng đã họp hội nghị bàn về phương hướng và nhiệm vụ của cách mạng miền

Nam trong năm 1963. Về phương hướng phát triển của cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị

Trung ương Đảng đã vạch rõ: "Dù tình hình diễn biến theo khả năng nào, phương hướng phát

triển cơ bản của cách mạng miền Nam cũng là trường kỳ đấu tranh bằng cả chính trị lẫn quân

sự, giữ vững và phát triển phong trào giành thắng lợi rừng phần, đẩy lùi địch từng bước, phát

triển và che dấu lực lượng, chuẩn bị điều kiện, tranh thủ thời cơ, tiến lên giành thắng lợi

quyết định, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà".

Bộ chính trị đã vạch ra một số nhiệm vụ cụ thể sắp tới như: Phát triển chiến tranh du

kích, phá ấp chiến lược, xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh công tác binh vận, tiến hành

công tác mặt trận, công tác đô thị, xây dựng căn cứ địa, công tác xây dựng Đảng. Ở miền

Nam cần tăng cường sự lãnh đạo của Trung ương Cục và các cấp uỷ Đảng, nhất là về lãnh

đạo công tác quân sự.

Phát biểu tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biểu dương cán bộ và đồng bào miền

Nam trong những năm qua đã chịu đựng gian khổ và chiến đấu anh dũng. Trong hoàn cảnh

chiến tranh "vừa trường kỳ, vừa phát triển", Đảng phải lo tìm cách cho cán bộ và nhân dân

không quá căng thẳng mệt nhọc. Phải làm sao giảm sự đóng góp của nhân dân càng thấp càng

tốt, do đó cán bộ và bộ đội cũng phải tranh thủ tăng gia sản xuất.

Phân tích thế và lực giữa ta và địch, Người chỉ rõ: Ta lấy yếu đánh mạnh. Mỹ mạnh

hơn ta về vật chất, nhiều tiền của và vũ khí phương tiện. Nó đang ráo riết lập ấp chiến lược.

"mình phá được mình

39

thắng". Nó làm chiến tranh gián điệp, ta phải tăng cường phòng gian bảo mật, tổ chức, họp

hành tránh cồng kềnh, hình thức. Phải khôn khéo, mềm dẻo, kết hợp giữa đấu tranh chính trị

với đấu tranh quân sự. "Chưa nên đặt vấn đề đánh công kiên, trận địa chiến. Phải phát triển

du kích thật rộng rãi, đâu đâu cũng có, làm cho địch không được tập trung chỗ nào".

Về vấn đề căn cứ địa, Người đặc biệt nhấn mạnh "Bây giờ không như hồi kháng

chiến. Bây giờ không có khu nào an toàn. Căn cứ phải hết sức linh động, gọn gàng, bí mật".

Người còn lưu ý về công tác mặt trận, binh vận, vấn đề phát triển Đảng.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và những ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí

Minh, Đảng bộ miền Nam đã lãnh đạo cuộc chiến đấu của toàn dân miền "Nam giành thêm

được nhiều thắng lợi quan trọng trong năm 1963.

Ngày 28 tháng 12

Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về một số công tác quân sự trước mắt.

Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam nhấn mạnh về 3 vấn đề chính sau

đây:

I. Cần nhận thức đúng đắn về tính chất, đặc điểm của đấu tranh vũ trang ở miền Nam

Việt Nam.

Cuộc đấu tranh vũ trang của ta với địch là cuộc chiến tranh nhân dân. Khi nói đến

chiến tranh nhân dân không chỉ nói đến mục đích giải phóng nhân dân mà còn phải nói đến

lực lượng tham gia rộng rãi của nhân dân vào cuộc chiến tranh. Cơ sở của chiến tranh nhân

dân là xã ấp chiến đấu. Lực lượng nòng cốt của chiến tranh nhân dân, không chỉ là quân chủ

lực mà còn có dân quân, du kích, tự vệ. Đấu tranh vũ trang phải tiến hành song song và kết

hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trọ hơn hẳn địch, nhưng còn có những nhược điểm về quân

sự cần có thời gian mới khắc phục được. Vì vậy ra và địch đang ở vào thời kỳ đấu tranh giằng

co quyết liệt và phức tạp.

40

II. Trong công tác cụ thể về quân sự, chúng ta còn một số nhược điểm chủ yếu là các

mặt sau đây:

1. Chưa quán triệt đầy đủ nhiệm vụ và phương châm tích cực phát triển du kích chiến

tranh.

2. Còn xem nhẹ chống càn quét, chống gom dân lập ấp chiến lược của địch.

3. Chưa kịp thời nghiên cứu những thủ đoạn mới của địch để nhanh chóng đối phó với

địch.

4. Hoạt động chiến đấu của bộ đội tập trung chưa kết hợp chặt chẽ với yêu cầu chính

trị.

5. Trong công tác huấn luyện quân sự chưa chú ý đến việc huấn luyện kỹ thuật, chiến

thuật, nội dung huấn luyện chưa phù hợp với trình độ tác chiến của mỗi thứ quân.

6. Trong xây dựng và phát triển lực lượng, tuy chúng ta đã thu được một số thành

tích, nhưng cũng còn một số khuyết điểm như: một số địa phương chỉ chú trọng xây dựng bộ

đội tập trung còn xem nhẹ xây dựng dân quân du kích và tự vệ xã. Các đơn vị tập trung của

tỉnh và khu lại chưa chú trọng xây dựng các đơn vị đặc công, công binh, chưa chú trọng đến

chất lượng...

7. Ban quân sự và các cơ quan quân sự đã được tổ chức ở các cấp, nhưng lề lối làm

việc còn luộm thuộm. Vẫn giữ nguyên tắc cấp ủy lãnh đạo Ban quân sự, nhưng cần phải xây

dựng nề nếp báo cáo theo hệ thống quân sự từ dưới lên và từ trên xuống.

8. Còn có một số khuyết điểm về các mặt lãnh đạo tư tương, chấp hành chính sách,

nâng cao cảnh giác.

9. Việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho bộ đội và dân quân du kích chưa

được chú ý đúng mức.

III- Một số biện pháp cụ thể để phát huy những ưu điểm, khắc phục nhược điểm.

41

1. Nghiên cứu các chỉ thị của Thường vụ Trung ương Cục từ đó liên hệ với tình hình

địa phương, phân tích được những ưu điểm và ngược điểm của mỗi vùng để có phương pháp

và kế hoạch hành động cho thích hợp.

2. Nghiên cứu nghị quyết của hội nghị chính trị, binh vận toàn miền Nam, tài liệu của

hội nghị tổng kết dân quân du kích và hội nghị huấn luyện quân sự Nam Bộ để áp dụng vào

công tác cụ thể từng địa phương.

3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Các chi bộ ở vùng tranh chấp,

cần tăng cường số lượng đảng viên trong du kích và dân quân tự vệ, củng cố hệ thống chỉ đạo

quân sự, xây dựng nề nếp báo cáo, xây dựng nề nếp và tổng kết phổ biến kinh nghiệm.

NĂM 1963

Ngày 2 tháng 1

Chủ trương phá "ấp chiến lược" và chiến thắng Ấp Bắc

Năm 1962, Trung ương Cục miền Nam đã nhiều lần họp bàn về chủ trương phát động

quần chúng nổi dậy phá "ấp chiến lược". Nhiệm vụ cụ thể của lực lượng vũ trang trước mắt là

hỗ trợ phong trào quần chúng nổi dậy phá "ấp chiến lược". Đánh bại chiến thuật "thiết xa

vận" và "trực thăng vận" là một yêu cầu cấp bách của quân và dân miền Nam nhằm làm phá

sản chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ-ngụy. Thực hiện chủ trương của Trung ương

Cục miền Nam, cuối năm 1962, Khu uỷ Khu VIII đã họp bàn chọn Mỹ Tho làm chiến trường

trọng điểm, xây dựng phương án tiến công địch bằng 3 mũi giáp công để rút kinh nghiệm cho

toàn khu.

Được tin một tiểu đoàn cơ động của quân giải phóng đã hành quân về đóng tại Ấp

Bắc (huyện Cai Lậy, Mỹ Tho), địch đã huy động hàng nghìn quân tinh nhuệ, với nhiều đại

bác, máy bay, tàu chiến mở

42

cuộc càn quét vào Ấp Bắc hòng tiêu diệt lực lượng của ta. Tại đây, lần đầu tiên với số quân ít

hơn địch 10 lần, quân giải phóng đã cùng với đồng bào địa phương đánh bại 5 đạt càn quét

của địch. Quân dân Ấp Bắc đã bao vây 30 đồn bốt, triệt phá 22 ấp chiến lược. Nhân dân các

xã xung quanh Ấp Bắc đã tham gia đấu tranh chính trị giam chân địch tạo điều kiện cho quân

giải phóng bao vây tiêu diệt chúng. Kết quả trong trận Ấp Bắc ta loại khỏi vòng chiến đấu

450 tên địch (có 19 cố vấn Mỹ), bắn rơi 8 máy bay, bắn cháy 3 xe bọc thép M113.

Chiến thắng Ấp Bắc chứng minh khả năng quân dân miền Nam có thể đánh bại hoàn

toàn chiến thuật "trực thăng vận" và'"thiết xa vận" của Mỹ-ngụy trong "chiến tranh đặc biệt",

sau trận Ấp Bắc, Trung ương Cục và Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền

"Nam đã phát động phong trào "Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công". Hường ứng "phong trào

"này, quân dân miền Nam đã lập thêm nhiều chiến công mới trên khắp các mặt trận.

Tháng 1

Ban Thống nhất Trung ương góp ý về hội nghị kinh tế của Trung ương Cục miền

Nam.

Để chuẩn bị cho hội nghị kinh tế của Trung ương Cục miền Nam, Ban thống nhất

Trung ương đã lấy ý kiến của các ngành kinh tế Trung ương, chủ yếu là các đồng chí trước

đây đã làm công tác kinh tế ở miền Nam nhằm nhận định và vạch ra phương hướng phát triển

kinh tế cho cách mạng miền Nam.

Sau khi phân tích tình hình, đặc điểm và tính chất nền kinh tế tài chính miền Nam ở

vùng địch kiểm soát và ta kiểm soát. Ban thống nhất Trung ương đã vạch ra nhiệm vụ và

phương hướng cơ bản phát triển kinh tế miền Nam là: "Kiên quyết đấu tranh xóa bỏ hoàn

toàn kinh tế thực dân và kinh tế địa chủ phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày

có ruộng, xây dựng một nền kinh thế dân tộc dân chủ nhân dân, tạo những tiền đề vật chất

cần thiết để sau này hướng miền Nam cùng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội".

43

Căn cứ vào nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam thì nhiệm vụ kinh tế trước

mắt là: "Phải tập trung toàn lực vào việc xây dựng và phát triển kinh tế tài chính miền Nam

nhằm đảm bảo cung cấp nhu cầu vật chất cho cuộc chiến Tranh yêu nước đi đến thắng lợi và

bồi dưỡng đời sống nhân dân".

Trong việc lãnh đạo kinh tế - tài chính Miền phải chú ý một số vấn đề cụ thể sau đây:

1. Lãnh đạo sản xuất: Phải lấy khôi phục và phát triển nông nghiệp làm chính, trong

đó lấy sản xuất lương thực làm trọng tâm, đồng thời coi trọng các ngành nghề thủ công, nghề

phụ gia đình, phát triển chăn nuôi, khai thác lâm, thổ, thủy sản. Lãnh đạo sản xuất phải đi đôi

với bảo vệ sản xuất cần chú trọng phổ biến những kỹ thuật tiến bộ sẵn có trong nhân dân, và

áp dụng kỹ thuật mới của địch ở miền Nam cũng như của ta ở miền Bắc. Cùng với đẩy mạnh

sản xuất trong nhân dân phải chú trọng đẩy mạnh sản xuất của cán bộ, bộ đội sao cho không

ảnh hưởng tới chiến đấu và công tác lãnh đạo sản mất phải quán triệt chính sách của Mặt trận

dân tộc giải phóng, không đẩy tư sản, địa chủ theo địch mà phải đoàn kết các giai cấp các

thành phần để phát triển kinh tế của ta, nhưng cần đề phòng khuynh hướng buông trôi lãnh

đạo.

2. Đẩy mạnh giao lưu hàng hóa và phát triển công tác giao thông vận tải: Đây là một

mặt của công tác đấu tranh kinh tế địch, đồng thời để đẩy mạnh sản xuất phát triển, bảo vệ và

bổi dưỡng đời sống nhân dân, bổ sung những nhu cầu ta còn thiếu. Vì vậy, phải dựa vào việc

đi lại buôn bán sẵn có của nhân dân lao động, đồng thời coi trọng lực lượng thương nghiệp

của tư sản dân tộc, cần lợi dụng, khuyến khích, lãnh đạo họ làm nhiệm vụ giao lưu hàng hoá.

Cần ban hành chính sách tự do mua bán trong vùng ta kiểm soát, nhằm khuyến khích trao đổi

giao lưu hàng hoá.

3. Về tài chính và tiền tệ: xây dựng nguồn thu tài chính của ta là dựa vào sự đóng góp

của nhân dân, nguồn lợi của các cơ sở công doanh, chiến lợi phẩm thu được và có sự viện trợ

bên ngoài. Trong lúc chưa có tiền ta, cần phát hành ngân phiếu, làm phù hiệu để vay hoặc

mua chịu.

44

4. Đấu tranh sử dụng kinh tế địch, bảo vệ kinh tế ta: Phải chủ trong tổ chức và sử

dụng tư sản và công nhân trong vùng địch, thu hút họ tiếp tế đưa hàng từ vùng địch vào vùng

ta tiêu thụ. Nội dung kế hoạch quân sự, chính trị phải tính toán đến lợi ích kinh tế, phải bảo

vệ tài nguyên và các cơ sở kinh tế có lợi cho quốc kế dân sinh lâu dài.

Ban Thống nhất Trung ương kết luận: "Công tác kinh tế hiện nay rất quan trọng và

phức tạp, bộ máy giúp Trung ương Cục miền Nam và các cấp làm công tác kinh tế đang yếu,

vì vậy cần đặt mạnh đến để tăng cường bộ máy kinh tế cho các cấp đủ năng lực giúp các cấp

chỉ đạo kinh tế".

Ngày 28 tháng 2

Trung ương Cục miền Nam chỉ thị về công tác binh vận

Nhận xét về tình hình công tác binh vận thời gian vừa qua, Thường vụ Trung ương

Cục miền Nam đã kết luận: "Khả năng công tác binh vận có nhiều, quần chúng nhân dân

ngày càng tham gia đông đảo, nhưng việc lãnh đạo chưa được phá huy đúng mức trong các

giới quần chúng và các ngành của Đảng. Nếu việc nhận thức quan niệm về vị trí công tác

binh vận được đúng đắn, việc chỉ đạo vận dụng tốt, tổng kết kinh nghiệm rộng rãi kịp thời và

tổ chức bộ máy đáp ứng yêu cầu thì công tác binh vận sẽ thu được nhiều kết quả hơn nữa".

Chỉ thị đã nêu lên vị trí công tác binh vận phải gắn chặt với đường lối đấu tranh chính

trị và vũ trang, là một công tác có tầm quan trọng chiến lược của Đảng. Yêu cầu công tác

binh vận trước sau vẫn là làm tan rã, tiêu hao, tiêu diệt hoàn toàn quân đội địch về mặt tư

tưởng, tinh thần củng như về tổ chức. Thường vụ Trung ương Cục yêu cầu các cấp uỷ Đảng

phải xây dựng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng có nhận thức đúng về tầm quan trọng

chiến lược của công tác binh vận, cụ thể các cấp uỷ cần chú trọng chỉ đạo là:

- Đẩy mạnh binh vận phục vụ chống khủng bố, càn quét gom dân, chống cướp phá

mùa màng, tài sản của nhân dân, chống phá ấp chiến lược.

45

- Đẩy mạnh đấu tranh đòi giải ngũ tại chỗ, giữ thế hợp pháp cho binh sĩ khi đã về gia

đình làm ăn.

- Ra sức làm tan rã bảo an, dân vệ và các lực lượng bán vũ trang.

- Khẩn trương vận động một số đối tượng sĩ quan phục vụ cho yêu cầu sách lược cụ

thể.

Tháng 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Bộ Chính trị bàn về mở rộng công tác Mặt trận.

Phát biểu trong phiên họp của Bộ Chính trị bàn về cách mạng miền Nam, Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã phân tích tình thế lúng túng bị động của Mỹ hiện nay và nói: "Mỹ bối rối, mình

đề xướng trung lập. Đó là thắng lợi của mình. Nói hai bên đình chiến, mình không đánh, đình

chiến gì ?". Nhấn mạnh ý nghĩa chủ trương trung lập của ta và sự ra đời của Mặt trận dân tộc

giải phóng miền Nam Việt Nam, Người nói: "Mình phải đưa Mặt trận dân tộc giải phóng ra.

Phải chú ý bọn leo nheo, theo đóm ăn tàn. Nên có chính sách cụ thể với các giáo phái, bộ đội

Diệm, tư sản, địa chủ, đảng phái... ".

Về thái độ của Mỹ, Người nhận định "Mỹ muốn không thắng, không bại để giữ thể

diện".

Ngày 19-6-1963 trong phiên họp Bộ Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh:

"Phải đề phòng Mỹ - Diệm châu với nhau đánh mình, Mỹ sẽ liều mạng hơn". Người đề ra

nhiệm vụ của quân và dân miền Nam: "Phải lượm súng giặc, phải lập tự vệ bí mật để đánh

địch. Phải giương cao khẩu hiệu: vấn đề miền Nam phải do nhân dân miền Nam tự giải quyết.

Đồng bào miền Nam đoàn kết chặt chẽ, cảnh giác cao độ, đấu tranh bền bỉ thì chắc chắn sẽ

giành được thắng lợi cuối cùng.

Những ý kiến quý báu trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp cho Trung ương

Đảng và Trung ương Cục miền Nam để ra đường lối và chỉ đạo thực hiện cách mạng miền

Nam một cách mềm dẻo và linh hoạt, sát với tình hình thực tế của chiến trường miền Nam.

46

Ngày 3 tháng 3

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam chỉ thị tăng cường binh vận và địch vận.

Vào đầu năm 1963, số quân xâm lược Mỹ ở miền Nam lên tới 15000. Chúng sẽ còn

tiếp tục đưa thêm binh sĩ Mỹ và Lính chư hầu vào miền Nam để tiếp tục mở rộng chiến tranh.

Vì vậy Trung ương Cục miền Nam chỉ thị phải ra sức đẩy mạnh cuộc chiến tranh yêu nước

của nhân dân chống Mỹ xâm lược, đồng thời tích cực tuyên truyền vận động binh lính, sĩ

quan Mỹ và quân chư hầu của Mỹ. Phải khéo léo linh hoạt vận dụng sách lược của Đảng ta

nhằm tranh thủ rộng rãi dư luận tiến bộ Mỹ, tranh thủ nhân dân Mỹ đồng tình ủng hộ cuộc

kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta và cô lập bọn hiếu chiến xâm lược Mỹ.

Đối với binh sĩ phải mở lối ra cho chúng, phải có chính sách cụ thể để tuyên truyền

vận động làm tan rã tư tưởng tinh thần của chúng. Tuyên truyền vận động binh lính sĩ quan

Mỹ và chư hầu Mỹ còn có tác dụng làm suy yếu chỗ dựa của chính quyền và quân đội Diệm.

Trung ương Cục miền Nam yêu cầu nội dung và khẩu hiệu tuyên truyền cần xoay quanh mấy

điểm chủ yếu sau đây:

- Làm cho binh lính, sĩ quan Mỹ và chư hầu Mỹ hiểu rõ về cuộc chiến tranh xâm lược

của bọn hiếu chiến Mỹ, chính sách theo đuôi Mỹ của một số nước tay sai và chế độ gia đình

trị Ngô Đình Diệm. Vì đa số trong quân đội Mỹ cũng là con em của nhân dân lao động Mỹ và

chư hầu Mỹ, vì họ bị tuyên truyền lừa bịp, chưa hiểu rỏ âm mưu của đế quốc Mỹ, chưa nhận

được chính nghĩa của ta, nên họ cầm súng sang xâm lược ta.

- Làm cho họ thấy cuộc chiến tranh mà bọn hiếu chiến Mỹ đang tiến hành ở miền

Nam là không có lối thoát. Họ hiểu rõ cuộc chiến tranh chính nghĩa của ta và chính sách của

ta đối với họ. Con đường sống vẻ vang của họ là phải đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động binh lính sĩ quan Mỹ cần phải đồng thời

đẩy mạnh tinh thần chống Mỹ trong quần chúng nhân dân và kích động tinh thần chống Mỹ,

tẩy chay Mỹ, đánh

47

Mỹ ngày càng rộng trong quân đội Diệm. Phong trào chống Mỹ ngụy càng mạnh, càng tác

động tới tinh thần binh sĩ Mỹ, tạo điều kiện cho công tác tuyên truyền vận động họ. Trung

ương Cục yêu cầu các cấp uỷ Đảng cần làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức thông suốt về

vấn đề này để kịp thời hưởng ứng đạt tuyên truyền vận động chung vào tháng 6-1963. Các

ban Binh vận và Tuyên huấn cần đi sâu nghiên cứu, có kế hoạch hướng dẫn cụ thể.

Ngày 1 tháng 6

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về phá âm mưu lợi dụng tôn giáo

của địch.

Vấn đề tôn giáo ở miền Nam là vấn đề lớn và có tính chất phức tạp. Về âm mưu mới

của địch đối với tôn giáo, chỉ thị của Trung ương Cục miền Nam nhận định: Đế quốc Mỹ một

mặt ra sức tăng cường vũ trang xâm lược, mặt khác chúng tích cực lừa bịp quần chúng về

chính trị, nhất là lôi kéo các tôn giáo làm hậu thuẫn cho chúng. Chúng tiến hành một cách có

kế hoạch với nhiều thủ đoạn thâm độc, đặc biệt chúng đang âm mưu biến quần chúng tôn

giáo thành một lực lượng vũ trang để chống lại cách mạng. Một số biện pháp chúng đang làm

như: Mua chuộc, lãnh tụ tôn giá, lôi kéo các tín đồ. Chúng ra sức lập những "khu trù mật",

"khu thánh địa".... nhằm lừa bịp, cưỡng ép các giáo dân vào các " ấp chiến lược" trá hình ấy

để dễ bề cai trị. Chúng còn trang bị vũ trang cho thanh niên thành những đội quân tôn giáo

với khẩu hiệu " tử vì đạo". Thủ đoạn của chúng xoáy vào luận điệu "vô thần hay hữu thần" để

chống lại ta. Chúng lợi dụng lòng tín ngưỡng, mê tín của quần chúng để xuyên tạc cách mạng

đây chia rẽ đạo đời. Để lôi kéo tất cả các tôn giáo, chúng lập ra tổ chức "Liên đoàn chống

cộng". Kết quả là chúng đã gây hoang mang và làm cho một bộ phận quần chúng trong các

tôn giáo nghi ngờ cách mạng, cầu an yên phận, chờ Trời, Phật, không dám đứng lên đấu tranh

tự cứu mình.

Tình hình công tác vận động tôn giáo của ta vừa qua đã thu được một số thành tích

trong việc vận động quần chúng tham gia đấu tranh cách mạng. Ta có đem lại một số quyền

lợi thiết thực cho quần chúng tín đồ như về ruộng đất, hướng dẫn sản xuất, y tế, vệ sinh v.v...

Quyền tự do tín ngưỡng được xâm nhập vào quần chúng và có ảnh

48

hưởng tốt. Nhưng bên cạnh đó còn có nơi phạm khuyết điểm như: chưa thấm nhuần chính

sách tôn giáo của Đảng, có nơi chấp hành sai lệch, ảnh hưởng không có lợi cho mặt trận đoàn

kết. Chưa quan tâm nhiều đến bồi dưỡng, đào tạo cán bộ tôn giáo.

Một số yêu cầu công tác tôn giáo hiện nay là:

- Tuyên truyền giáo dục vận động tín đồ các tôn giáo.

- Ra sức chăm lo cải thiện đời sống, tôn trong tự do tín ngưỡng, mở rộng đoàn kết các

tôn giáo.

- Xây dựng cơ sở quần chúng, thanh niên, Đảng trong quần chúng tín đồ tôn giáo.

- Các cấp uỷ cần tăng cường lãnh đạo công tác tôn giáo vận.

Để thực hiện tốt những yêu cầu trên, các cấp ủy Đảng trong chỉ đạo phải nắm vững

sách lược đoàn kết dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng. Nắm vững nội dung cơ bản là: tăng

cường đoàn kết, nâng cao tinh thần dân tộc, chăm lo đời sống, tuyệt đối tôn trọng quyền tự do

tín ngưỡng của quần chúng. Cán bộ công tác tôn giáo phải hoà mình trong quần chúng tín đó,

nắm vững phương châm: tích cực, kiên trì, thận trọng.

Tháng 6

Trung ương Cục miền Nam mở hội nghị chống phá địch lập "ấp chiến lược".

Qua những kinh nghiệm phong phú của nhiều địa phương tháng 6-1963, Trung ương

Cục miền Nam mở hội nghị "chống phá địch lập ấp chiến lược" toàn Miền. Hội nghị xác định

nội dung chỉ đạo có tính nguyên tắc: "Địch tập trung toàn lực và đánh phá toàn diện cho nên

ta cũng phải tập trung, toàn lực, toàn diện vào đánh địch và cần nắm vững khâu chính là đẩy

mạnh phong trào nhân dân du kích chiến tranh, kết hợp chống càn quét và chống gom dân,

lập ấp chiến lược. Phải kết hợp chặt chẽ lực lượng bên trong vì bên ngoài, bên trên và bên

dưới, địa phương này và địa phương khác kết hợp chặt chẽ 3 mũi giáp công". "Cần nhận rõ

lực lượng chính trị quần

49

chúng là cơ bản, lực lượng vũ trang kết hợp là đòn bẩy cực kỳ quan trọng"."Phải nắm vững

phương châm chống phá lâu dài, giằng co với địch cho đến lức đánh bại hoàn toàn âm mưu

của chúng".

Vận dụng các nội dung trên, các địa phương tùy tình hình so sánh thế và lực giữa ta

và địch mà có cách làm thích hợp.

Trên toàn Miền, năm 1963 đã có 34 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị phá

ấp chiến lược, phá hoàn toàn 2895 ấp (sau khi phá đi, phá lại 5950 lần) trong số 6164 ấp

chúng lập được. Ta đã phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở 12000/17000 thôn, giải phóng

5/14 triệu dân trên toàn miền Nam. Hơn 1,5 triệu ha/3,5 triệu ha ruộng đất lại về tay nông

dân. Hơn 23.000 thanh niên tham gia tòng quân đánh giặc. Hàng nghìn ấp chiến lược biến

thành làng chiến đấu của ta. Nhân dân các tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Long An, Tây Ninh, Phú

Yên, Bình Định đã có thành tích xuất sắc trong phong trào phá ấp chiến lược.

Tháng 7

Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh chống phá "ấp

chiến lược" chống gom dân.

Trung ương Cục miền Nam đã đánh giá một năm trên chiến trường tuy chưa đạt được

yêu cầu đề ra nhưng ta đã làm cho địch không thực hiện được ý đồ chúng dự định. Phần lớn ở

các khu ấp chiến lược không ổn định, địch chưa dựng được bộ máy kìm kẹp mạnh, hoặc chỉ

có hình thức mà chưa khống chế được quần chúng như mong muốn. Điều ta đạt được lớn

nhất là củng cố xây dựng, phát triển được cơ sở và đưa phong trào đấu tranh của quần chúng

lên bằng mọi hình thức, tuy chưa mạnh. Ở phần lớn các khu , "ấp chiến lược", nhiều cơ sở bị

đánh bật lúc đầu nay trở lại bám được trong làng ấp. Quá trình chống âm mưu thủ đoạn của

địch đã nảy nở nhiều hình thức phong phú, nhiều kinh nghiệm rất sinh động.

Tuy nhiên trong lúc địch tập trung toàn lực, coi là "quốc sách" là "sống còn" thì sự đối

phó của ta chưa tập trung, chưa tương ứng, nên hơn một năm, địch vẫn thu được kết quả khá

hơn như: lập được 5000 khu, "ấp chiến lược", khoanh hơn 6000 dân ở khắp 3 vùng,

50

trong tổng số dự tính của chúng là 8000 khu, "ấp chiến lược" trên toàn miền Nam. Thực tế

chúng có giành được dân, lấn được đất, vơ vét được tài nguyên, nhân lực... Phong trào phá ấp

chiến lược của ta chưa mạnh chưa đều, chỉ đạt ở mức giằng co, hạn chế hoặc làm cho địch

không ổn định chứ chưa chặn được chúng, trái lại trên thế chung, địch còn đang lấn tới.

Từ sự đánh giá khách quan ở trên, Trung ương Cục miền Nam đề ra nhiệm vụ cho

toàn Đảng, toàn dân và toàn quan miền Nam. Giai đoạn sắp tới là: "Quyết tâm đánh bại âm

mưu lập khu, "ấp chiến lược", nội dung chủ yếu của kế hoạch "bình định" của địch. Chỉ thị

xác định phải ra sức đẩy mạnh đấu tranh chính trị, và đấu tranh vũ trang. Đặc biệt phải phát

động phong trào chiến tranh du kích, chống càn quét, tiêu hao, tiêu diệt làm tan rã sinh lực

địch đi đôi với khẩn trương xây dựng củng cố và phát triển cả thế và lực, bên trong và ngoài

khu "ấp chiến lược". Tập trung và kết hợp chặt chẽ mọi lực lượng, mọi mặt công tác nhằm

tiến công địch để chặn đứng, đẩy lùi, làm thất bại từng bước, tiến lên làm thất bại hoàn toàn

âm mưu xây dựng khu, "ấp chiến lược" và kế hoạch gom dân của chúng.

Ngày 5 tháng 8

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về công tác 6 tháng cuối năm 1963.

Sau khi phân tích tình hình miền Nam trong thời gian qua, Trung ương Cục miền

Nam đã nêu lên một số phương hướng công tác cụ thể là:

1) Công tác quân sự

Phát triển du kích chiến tranh mạnh mẽ rộng khắp đẩy mạnh hoạt động vũ trang nhằm

tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch và ngăn chặn, làm thất bại các âm mưu càn

quét, lấn chiếm đánh phá mới của địch và chuẩn bị điều kiện để đánh mạnh, thu nhiều thắng

lợi to lớn hơn. Cán bộ, đảng viên và quần chúng phải tham gia công tác vũ trang tùy theo khả

năng của mình. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang bằng cách bổ

sung cán bộ của Đảng vào các lực lượng vũ trang và các cơ quan quân sự.

51

2) Công tác chống phá ấp chiến lược gom dân.

Âm mưu chủ yếu của kế hoạch Stalay-Taylo là lập ấp chiến lược, gom dân. Vì vậy

trong thời gian tới, chúng ta cần đặt công tác này là công tác trong tâm hàng đầu, mọi công

tác đều xoay quanh công tác này để làm thất bại hoàn toàn âm mưu của địch.

3) Công tác dân vận, Mặt trận và đẩy mạnh đấu tranh chính trị.

Phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng đang phát triển mạnh mẽ, cần được đẩy

mạnh hơn nữa, nhất là các vùng tranh chấp, vùng còn bị địch chiếm đóng, và ở các nơi địch

càn quét, đánh phá. Cần xây dựng nề nếp lãnh đạo của Đảng trong các tổ chức quần chúng

như tổ chức đảng - đoàn, ban dân vận và quy định hệ thống điện liên lạc ngang dọc để vừa

phát huy sự lãnh đạo của Đảng vừa phát huy tính độc lập của các tổ chức quần chúng. Các

cấp uỷ cần tăng cường cán bộ, tăng cường lãnh đạo công tác dân vận.

4) Công tác binh vận.

Công tác binh vận đã phục vụ đắc lực cho các mặt chống càn quét, gom dân, lập khu

ấp chiến lược, các mặt tác chiến tiêu hao, tiêu diệt địch, các mặt làm suy nhược hàng ngũ

địch, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ địch, làm suy nhược và tan rã tư tưởng, tinh thần hàng ngũ

địch... Sắp tới, công tác binh vận cần chú ý phục vụ chống phá ấp chiến lược, phá nguồn dự

trữ và bổ sung của địch như dân vệ, bảo an, đồng thời phải chú ý mai phục lâu dài để đón thời

cơ đánh đổ địch.

5) Công tác xây dựng căn cứ địa cách mạng, quản lý vùng nông thôn giải phóng và

công tác bảo vệ an ninh.

Củng cố và mở rộng căn cứ địa cách mạng là một nhiệm vụ cấp bách. Mỗi cấp uỷ

Đảng cần quy định khu căn cứ của mình và có kế hoạch xây dựng, củng cố, mở rộng. Quản lý

vùng nông thôn giải phóng là công tác chính quyền, nên phải thể hiện dân chủ với nhân dân

và chuyên chính với kẻ thù. Công tác bảo vệ an ninh có tính chất vừa bảo vệ mình vừa tấn

công địch, vừa bảo đảm cho nhiệm vụ trước

52

mắt vừa xây dựng cơ sở lâu dài nên các cấp uỷ Đảng phải hết sức quan tâm.

6) Công tác thành thị

Phong trào cách mạng ở thành thị đóng một vai trò rất quan trọng. Muốn thắng địch,

không chỉ đánh địch ở nông thôn mà còn phải làm cho các thành thị, hậu phương an toàn của

địch, trở nên rối loạn, khủng hoảng bế tắc. Yêu cầu công tác thành thị là lãnh đạo quần chúng

đấu tranh, tập hợp lực lượng, đẩy mạnh công tác binh vận, xây dựng lực lượng tự vệ bí mật,

chuẩn bị điều kiện cho các hoạt động vũ trang, tiến tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giành

thắng lợi quyết định.

7) Công tác kinh tế, tài chính

Các cấp uỷ Đảng cần phải quan tâm đầy đủ công tác kinh tế tài chính. Cần ra sức bồi

dưỡng sức dân, thi hành đúng đắn chính sách ruộng đất của Đảng, vận động tăng gia sản

xuất, tiết kiệm, bảo vệ sản xuất, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân. Mặt khác phải động viên

nhân tài, vật lực như dân công, đóng góp. Cần nâng cao công tác này lên thành nghĩa vụ công

dân, dành tiền của để nuôi bộ đội đánh giặc và phục vụ cho chiến tranh cứu nước.

8) Công tác Đảng

Tiếp tục làm cho các cấp uỷ Đảng, nắm vững công tác củng cố tổ chức cơ sở Đảng

(chi bộ, xã uỷ) là trung tâm. Cần gắn chặt xây dựng, củng cố cơ sở Đảng, vừa đẩy mạnh mọi

công tác vừa xây dựng củng cố các tổ chức quần chúng. Ra sức phát triển Đảng kết nạp thêm

nhiều Đảng viên mới. Chú ý phát triển đều khắp 3 vùng trước hết nhằm các vùng đồn điền,

thành thị, các ấp chiến lược vùng đồng bào dân tộc.

Ngày 10 tháng 10

Khánh thành xưởng in thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam.

53

Nhà máy in Trần Phú thuộc Xứ uỷ Nam Bộ được thành lập ngày 27-7-1947. Sau hiệp

định Giơnevơ 1954, do tình hình không cho phép, nhà máy đã phải phân tán đi các nơi và

ngừng hoạt động. Nhiều cán bộ của nhà máy bị địch bắt. Miền Nam đồng khởi, Cách mạng

đòi hỏi phải có nhà in mới của Ban tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam. Sau một thời

gian chuẩn bị khẩn trương, ngày 10-10-1963 buổi lễ khánh thành lần thứ hai nhà máy in Trần

Phú đã được tổ chức tại khu rừng Bến Ra và trảng Cố Vấn (Lò Gò - Tà Nốt -Tây Ninh).

Từ đó, nhà máy in Trần Phú lại tiếp tục hoạt động và phát triển. Lúc đầu nhà máy chỉ

có vài chục cán bộ công nhân, sau tăng lên vài trăm cán bộ công nhân với những thiết bị kỹ

thuật khá tốt. Địch ráo riết lùng sục, càn quét để tiêu diệt xưởng trong trận càn Attơnborơ,

đến Junction City thì nhà in Trần Phú gần như bị mất trắng về phương tiện. Địch cho trực

thăng cẩu máy in từ hầm sâu trong căn cứ và đưa về Sài Gòn. Nhà in bị thiệt hại khá lớn, anh

em đã chiến đấu dũng cảm và đã có trên 10 đồng chí là dũng sĩ diệt Mỹ, diệt tăng và trực

thăng. Cuối năm 1967, máy móc mới được chuyển từ Campuchia về, nhà in được nhanh

chóng hồi phục và phát triển, không chỉ có một nhà máy in Trần Phú (B15) mà là 4 nhà máy

in - 4B15 (15A, 15B, 15C và nhà in Giáo dục). Trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy Mậu

Thân 1968 và mùa xuân 1975, nhiều cán bộ chiến sỹ của nhà in đã anh dũng hy sinh trên

chiến trường. Miền Nam được giải phóng hoàn toàn, các cơ sở in từ chiến khu Tây Ninh

được chuyển về thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 13 tháng 10

Thành lập Đảng uỷ Hậu cần Trung ương Cục miền Nam

Từ ngày 17 đến 20-10-1963, Hội nghị thành lập Đảng ủy Hậu cần "R" đã được tiến

hành. Sau bốn ngày làm việc. Hội nghị đã nhất trí thông qua nghị quyết về các vấn đề lớn đã

được đưa ra bàn bạc trong hội nghị như sau:

1. Đặc điểm tình hình cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam.

2. Vị trí của công tác Hậu cần.

3. Đánh giá thành tích, thiếu sót, các nguyên nhân và những thuận lợi, khó khăn.

54

4. Nhiệm vụ, phương hướng công tác trong quý 4 năm 1963 và năm 1964.

5. Tổ chức phong trào Hậu cần và Đảng uỷ Hậu cần.

Hội nghị đã nhất trí thành lập phòng Hậu cần "R" gồm tám ngành nghiên cứu giúp

việc: kế hoạch, tài vụ, quân giới, chính trị, quân nhu, quân y, tiếp liệu, sản xuất. Do tính chất

chuyên môn của từng ban và khả năng cán bộ, các ban quân giới, quân y, sản xuất, tiếp liệu

được phòng uỷ nhiệm trực tiếp chỉ đạo chuyên môn các cơ sở sản xuất của ngành và kiểm tra

đôn đốc thực hiện kế hoạch, còn các ban khác thì chỉ đạo nghiệp vụ.

Tất cả các đảng viên trong ngành hậu cần họp lại thành một Đảng bộ, trên có một

đảng uỷ lãnh đạo. Đảng uỷ trực tiếp lãnh đạo các đảng uỷ, liên chi và chi bộ cơ sở. Đảng uỷ

Hậu cần bấy giờ có 600 đảng viên, 962 đoàn viên, hai liên chi, 47 chi bộ và 62 chi đoàn, Hội

nghị đã nhất trí lấy ngày 18-10-1963 làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng uỷ Hậu cần, đánh dấu

một bước trưởng thành của ngành hậu cần quân đội.

Ngày 29 tháng 10

Trung ương Cục miền Nam ra nghị quyết về phát động nhân dân, nỗ lực phấn đấu

giành những thắng lợi mới.

Từ ngày 29-10 đến ngày 5-11-1963, Ban Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đã

họp và ra nghị quyết về phát động nhân dân phấn đấu giành những thắng lợi mới. Nghị quyết

nêu lên những vấn đề chính sau:

I- Đánh giá lực lượng so sánh, khả năng phát triển và triển vọng phong trào cách

mạng của nhân dân miền Nam

Nhận định về hai năm thực hiện nghị quyết Trung ương Cục lần thứ nhất; Ban

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam khẳng định: " Kết quả chung của 2 năm đấu tranh anh

dũng của nhân dân miền Nam là kế hoạch Stalay-Taylo bình định miền Nam trong vòng 18

tháng đã bị thất bại. Kế hoạch lập ấp chiến lược của địch bị đảo lộn, không những địch không

gom được 2/3 dân vào ấp chiến lược như

55

chúng định mà những ấp chiến lược do chúng lập ra đã bị phá từng mảng, nhiều ấp chiến

lược đã trở thành làng chiến đấu của ta". Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã vạch

ra đường lối cho cách mạng miền Nam và phương châm đấu tranh để giành thắng lợi. Những

nghị quyết Bộ Chính trị năm 1961, 1962 đã vạch rõ những phương châm đấu tranh và những

chủ trương cụ thể nhằm chống lại có hiệu quả sự xâm lược của đế quốc Mỹ từ khi chúng tiến

hành "chiến tranh đặc biệt". Những nghị quyết của Trung ương Cục miền Nam đã cụ thể hóa

và phát triển nghị quyết của các hội nghị Trung ương. Những thắng lợi của đồng bào miền

Nam đã chứng minh các nghị quyết trên đây của Trung ương, Bộ Chính trị, Trung ương Cục

miền Nam đã hoàn toàn đúng đắn. Thắng lợi của nhân dân miền Nam chứng minh rằng sự

nghiệp chính nghĩa của nhân dàn miền Nam nhất định thắng lợi.

Xuất phát từ lực lượng so sánh giữa ta và địch, chúng ta kiên quyết đưa cách mạng

miền Nam phát triển theo chiều hướng giành thắng lợi từng phần, đẩy lùi địch từng bước, tiến

lên tổng công kích, tổng khỏi nghĩa. Bất kỳ trong trường hợp nào, lãnh đạo cũng phải có

quyết tâm động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành cho được những thắng lợi tối đa

không nên có tư tưởng lừng chừng muốn dừng lại ở một bước quá độ nhất định nào đó.

II. Phương châm chiến lược của cuộc đấu tranh cách mạng miền Nam Việt Nam.

Mỹ ngụy dùng thủ đoạn chính trị để nắm dân, giành giật dân với cách mạng. Mặt khác

chúng dùng thủ đoạn bạo lực phát xít để trị dân. Phương châm cơ bản mà địch áp dụng để

chống cách mạng miền Nam là dùng chính trị lẫn quân sự, trong đó quân sự là chủ yếu. Vì

vậy phương châm chiến lược cơ bản của cuộc đấu tranh nhân dân cách mạng miền Nam là

đấu tranh chính trị song song với đấu tranh vũ trang. Đấu tranh chính trị đóng vai trò rất cơ

bản và quyết định và đấu tranh quân sự đóng vai trò quyết định trực tiếp. Chúng ta phải quán

triệt phương châm trường kỳ, tự lực cánh sinh, nhưng mặt khác phải tranh thủ thời cơ để dành

những thắng lợi trong thời gian tương đối ngắn nhằm vào phương hướng tiến lên tất yếu là

tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Phải nắm vững và vận dụng linh hoạt phương châm chiến

lược 3 vùng. Phải đánh địch bằng 3 mũi giáp công: chính trị,

56

quân sự, binh vận. Phương châm chiến lược trên đây là con đường đưa cách mạng miền Nam

đến thắng lợi. Con đường đó có thể có những tổn thất cục bộ, những khó khăn, nhưng chắc

chắn sẽ thắng lợi vẻ vang.

III- Nhiệm vụ trước mắt

Nhiệm vụ chung trước mắt là động viên toàn Đảng, toàn dân vượt mọi khó khăn, ra

sức phấn đấu xây dựng lực lượng về mọi mặt làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch,

tích cực xây dựng và mở rộng căn cứ, nhất là địa bàn chiến lược, cơ động của quân chủ lực,

tiến lên tiêu diệt và làm tan rã từng bộ phận quân địch, phá phần lớn các ấp chiến lược, làm

chủ phần lớn xã thôn và rừng núi tạo điều kiện cho phong trào đô thị nổi dậy mạnh mẽ, thúc

đẩy chế độ Mỹ-ngụy khủng hoảng mau chóng hớn, sáng tạo ra thời cơ và giành những thắng

lợi quyết định.

Trong nhiệm vụ chung trước mắt trên đây, có hai nội dung chủ yếu là mục tiêu mà ta

phải quyết tâm đạt cho được. Đó là:

- Làm thất bại âm mưu gom dân lập ấp chiến lược của địch, đảm bảo giành nhân tài

vật lực cho cách mạng, làm chủ phần lớn nông thôn và rừng núi.

- Tiêu diệt sinh lực địch và làm tan rã từng bộ phận quân đội địch.

Tháng 10

Thành lập Quân ủy và Bộ tư lệnh Miền

Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong lực lượng vũ trang, đáp ứng với yêu

cầu và nhiệm vụ mới, tháng 10-1963, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã quyết định

thành lập Quân uỷ và Bộ Tư lệnh Miền. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Uỷ viên Trung ương

Đảng, Bí thư Trung ương Cục được kiêm giữ chức Bí thư Quân uỷ Miền. Trung tướng Trần

Văn Trà, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Tổng tham mưu trường QĐND Việt Nam làm Tư

lệnh Miền. Thiếu tướng Trần Độ, Uỷ viên Trung ương Đảng làm Phó chính uỷ Miền.

57

Cùng thời gian này, đồng chí Mai Chí Thọ (nguyên Bí thư Khu uỷ miền Đông 1960-

1963) và đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến được rút lên tăng cường cho Trung ương Cục. Đồng

chí Nguyễn Ngọc Tân (Hai Lực) được cử làm Bí thư Khu uỷ Miền Đồng, đồng chí Nguyễn

Văn Bứa (Hồng Lâm) quyền tư lệnh Quân khu 7, đồng chí Nguyễn Chí Sinh làm Tham mưu

trưởng.

Ngày 12 tháng 11

Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về tình hình và chủ trương của ta sau cuộc đảo

chính Ngô Đình Diệm.

Chỉ thị của Trung ương Cục miền Nam đã nhận định về tính chất của cuộc đảo chính:

Cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 là do âm mưu và sắp đặt của Mỹ. Chúng dùng một nhóm

thân Mỹ khác lật đổ gia đình Diệm để dựng lên một chính quyền tay sai mới mà Mỹ cho là dễ

sai khiến hơn: Nguyên nhân của cuộc đảo chính là: Đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm đã bị thất

bại liên tiếp về chính trị và quân sự trong cuộc chiến tranh ở miền Nam. Phong trào đấu tranh

của nhân dân ta mặc dù bị đánh phá dữ dội nhưng vẫn được giữ vững và ngày càng phát triển

mạnh mẽ. Chính quyền Mỹ - Diệm bị cô lập trong nước và trên thế giới trong khi đó thì gia

đình Diệm dựa vào các chính sách độc tài, phát xít nắm tương đối chặt chẽ quân đội và bộ

máy chính quyền, làm cho Mỹ khó trực tiếp sai khiến và các phe nhóm đối lập không xen vào

được. Mâu thuẫn Mỹ - Diệm ngày càng quyết liệt. Cho nên đế quốc Mỹ giật dây đảo chính lật

Diệm, hòng lừa bịp, xoa dịu sự căm phẫn của quần chúng, tập hợp bọn tay sai mới và nhằm

để chống lại cách mạng mạnh hơn.

Trung ương Cục miền Nam đề ra chủ trương công tác trước mắt của ta là cần tận dụng

tình trạng khủng hoảng suy yếu của địch, ta tập trung mọi lực lượng, mọi cố gắng ra sức tiến

công địch về mọi mặt trên khắp các chiến trường, làm cho địch không ổn định, mâu thuẫn nội

bộ ngày càng tăng. Bưóc đẩy mạnh tiến công địch nhằm các yêu cầu chủ yếu sau đây:

- Phát động một phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ nhằm phá tan khu, ấp chiến

lược, phá thế kìm kẹp của địch, đòi tự do, dân

58

chủ, cải thiện dân sinh, đòi xoá bỏ tất cả các chính sách phản động của chính quyền Diệm

trước đây.

- Đẩy mạnh hoạt động vũ trang và du kích chiến tranh nhằm kết hợp với phong trào

quần chúng, mở rộng vùng giải phóng, tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch.

- Đẩy mạnh công tác binh vận nhằm làm cho tinh thần binh lính địch hoang mang,

suy yếu hơn nữa, khoét sâu hơn nữa mâu thuẫn Mỹ - ngụy.

- Ra sức khoét sâu mâu thuẫn để phân hoá nội bộ địch, tranh thủ bọn lừng chừng và

những phần tử có xu hướng tiến bộ nhằm mở rộng mặt trận chống Mỹ và tay sai mới. Tận

dụng mọi khả năng hạ bọn ác ôn trước đây cũng như hiện nay làm cho nội bộ địch không ổn

định .

- Trên cơ sở đẩy mạnh hoạt động, cần ra sức phát triển thực lực cách mạng (Đảng,

đoàn, quần chúng và các lực lượng vũ trang....) khắp các vùng, đặc biệt chú ý phát triển lực

lượng ở thành phố, thị xã, thị trấn, vùng chưa có cơ sở."

Ngày 10 tháng 12

Chủ tịch H ồ Chí Minh nhận định về tình hình miền Nam sau khi Ngô Đình Diệm

bị đảo chính.

Ngày 10-12-1963, tại cuộc họp Bộ Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định

"Phải làm cho cán bộ, nhân dân ta rõ đây là thắng lợi của mình, nhưng bọn thân Pháp, bọn

Cao Đài phản động sẽ gặp khó khăn. Tình hình còn lộn xộn một thời gian nữa và đây không

phải là lần đảo chính cuối cùng . Sự kiện này cũng gây được một dư luận. Phải lợi dụng quân

sự, truyền truyền chính trị; Khẩu hiệu phải theo từng cấp, từng địa phương".

Về nội dung tuyên truyền giáo dục, Người nhấn mạnh một số điểm:

59

- Nói thuận lợi, nhưng đồng thời phải nói rõ khó khăn.

- Nên thêm về công tác dân vận. Công tác này nên giao cho Mặt trận.

- Nên nêu khẩu hiệu "người Việt Nam không đánh người Việt Nam".

- Làm sao động viên tiêu diệt cho được nhiều Mỹ: Mỹ rất sợ chết. Ta vừa tiêu diệt

vừa tuyên truyền.

- Viết cho gọn rõ, phù hợp với tình hình sau đảo chính.

Cuối buổi họp, Người kết luận: "Đồng bào miền Nam rất anh hùng, cán bộ Đảng viên

rất anh dũng. Phải đoàn kết, quyết tâm, tin tưởng, dù Mỹ có tăng gấp 10 lần ta cũng thắng.

Nhớ chuyển lời của Trung ương, của Bộ Chính trị rằng: các đồng chí, đồng bào chịu nhiều

gian khổ rất anh dũng thì nhất định thắng lợi".

Ngày 24 tháng 12

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về đợt ngừng bắn Tết Quý Mão

1963.

Sau những chiến thắng to lớn của quân và dân ta trong năm 1963, việc ta chủ trương

ngừng bắn trong 3 ngày tết đã lan truyền rộng rãi và gây được ảnh hưởng chính trị rộng lớn.

Đại đa số binh lính Mỹ-Diêm đều tỏ thái độ hoan nghênh, vui mừng. Bọn Mỹ- nguỵ thì hết

sức hằn học, tìm mọi cách phá hoại. Chúng ra sức tuyên truyền xuyên tạc chủ trương ngừng

bắn của ta. Chúng càng kìm kẹp, lừa bịp, càng gặp sự phản kháng đấu tranh của binh lính.

Nhân đà này, ta cần tiếp tục phát huy ảnh hưởng chính trị rộng lớn hơn nữa trong hàng ngũ

địch.

1. Đẩy mạnh công tác binh vận: Cần tuyên truyền sâu rộng hơn nữa trong binh lính, sĩ

quan và nhân viên chính quvền Mỹ-Diệm. Làm cho họ thấy được sức mạnh và uy thế của

cách mạng, chính sách khoan hồng nhân đạo của mặt trận, của nhân dân. Sở dĩ có chiến tranh

tàn khốc là âm mưu xâm lược của Mỹ và âm mưu bán nước của tay sai.

60

2. Làm cho toàn Đảng toàn dân thấy hết thắng lợi này, đẩy mạnh các mặt công tác

tiến công chính trị sâu rộng vào hàng ngũ địch. Toàn Đảng toàn dân ta thấy được chỗ yếu của

địch, chỗ mạnh của ta. Từ đó tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và mặt trận, qua đó thấy

được tầm quan trọng của đấu tranh chính trị, binh vận để hỗ trợ cho đấu tranh vũ trang.

3. Linh hoạt vận dụng 3 mũi giáp công: đấu tranh chính trị, binh vận và vũ trang, trên

cơ sở đó phân hoá hàng ngũ địch cô lập những tên gian ác, tranh thủ những phần tử tốt".

Tháng 12

Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoa III) bàn biện pháp

nhằm đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt" của đ ế quốc Mỹ.

Để thúc đẩy phương hướng tiến lên quyết tâm đánh bại chiến lược "chiến"tranh đặc

biệt" của đế quốc Mỹ, tháng 12-1963, BCH Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 9 ra

Nghị quyết về phương hướng và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam.

Nghị quyết của Hội nghị lần này đặc biệt nhấn mạnh tới chủ trương và phương hướng

đấu tranh ở vùng nông thôn miền Nam như sau: Phải nắm vững tình hình chính trị trong thôn

xã nhằm phát hiện ngăn chặn kịp thời mọi hành động do thám của địch. Cần nghiên cứu

những vấn đề ruộng đất, tô tức để có những chính sách chủ trương đúng đắn nhằm mở rộng

phong trào đấu tranh chính trị trong nhân dân. Cần tăng cường tổ chức nông dân thành đội

quân chính trị chiến đấu chặt chẽ... Tiêu diệt từng bộ phận quân đội địch và làm thất bại kế

hoạch gom dân, lập "ấp chiến lược"; phá phần lớn các "ấp chiến lược", giành nhân lực, vật

lực cho cách mạng, làm" chủ rừng núi và phần lớn thôn xã đồng bằng là những mục tiêu mà

Hội nghị nhấn mạnh ta phải quyết tâm đạt cho bằng được.

Nghị quyết của Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 9 bàn về cách mạng Miền có tác

dụng tăng cường đoàn kết nhất trí, nâng cao

61

quyết tâm và chỉ rõ phương hướng hành động cho toàn Đảng toàn dân ta nói chung và đồng

bào miền Nam nói riêng trong việc đánh bại chiến lược " chiến tranh đặc biệt" của đế quốc

Mỹ.

NĂM 1964

Ngày 18 tháng 3

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về tình hình, nhiệm vụ và chủ trương của ta.

Phân tích những âm mưu mới của địch, chỉ thị chỉ rõ: " Trong âm mưu mới của địch

là tấn công trong phòng ngự và cũng chỉ tấn công có trọng điểm". Thế của ta là trong thế tiến

công địch nên chủ trương của ta là chủ động đẩy mạnh tiến công chính trị, quân sự, binh vận

đều khắp trên 3 vùng, đặc biệt tập trung sức chống bình định, chống càn quét, chống gom dân

lập ấp chiến lược, tiêu hao, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch làm cho địch thất bại hoàn toàn

trong âm mưu mới của chúng. Một số công việc cụ thể là:

1. V ề quân sự: Đẩy mạnh hoạt động của 3 thứ quân, phát triển du kích chiến tranh.

Các đơn vị tập trung vừa kết hợp phá thế kìm kẹp, phá ấp chiến lược với tiêu hao diệt địch.

Công tác đánh phá giao thông, kho tàng, đánh vào trụ sở cố vấn Mỹ cần được đẩy mạnh.

2. V ề chính trị: Đối với đồng bào tôn giáo cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo

dục, tố cáo âm mưu của địch, tăng cường đoàn kết, không mắc mưu chia rẽ của địch. Đối với

bọn phản động đội lốt tôn giáo làm tay sai cho địch làm hại nhân dân thì kiên quyết vạch mặt

cô lập, phân hoá, tranh thủ những tên nào có thể tranh thủ được. Đối với những tên gian ác

cần phát động quần chúng trừng trị. Cần đẩy mạnh hoạt động trong các thành phố, thị xã làm

cho địch phải lúng túng, bị động ngay trong lòng của chúng.

62

3. Chống phá ấp chiến lược: Là công tác trọng, tâm hàng đầu, phải ra sức thực hiện:

Ấp chiến lược phá đến đâu cần xây dựng ngay thành ấp xã chiến đấu, chuyển thành thế đấu

tranh chính trị, không để địch khôi phục lại thế kìm kẹp.

4. Công tác binh vận: Vấn đề vận động sĩ quan có tác động đến việc khoét sâu mâu

thuẫn làm suy yếu hàng ngũ địch. Đối với âm mưu địch dùng chất hoá học và đánh phá kinh

tế cần tiến hành chuẩn bị phương tiện cho quần chúng và bộ đội để chống lại. Đối với việc

Mỹ tăng cường cố vấn quân sự, ta cần đẩy mạnh tuyên truyền ở trong nước và thế giới để cô

lập địch.

Ngày 27 tháng 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt

Tại Hội nghị chính trị đặc biệt, họp ở Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:

Mỹ và tay sai đã đến bước đường cùng. Chúng càng đánh càng thua, càng thua càng bí.

Người khẳng định cách giải quyết đứng đắn nhất đối với cuộc chiến tranh ở Việt Nam

là chấm dứt sự can thiệp của đế quốc Mỹ, rút quân và vũ khí Mỹ ra khỏi miền Nam Việt

Nam. Công việc nội bộ của miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết theo tinh thần

cương lĩnh của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

Người nhấn mạnh: nếu đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai liều lĩnh động đến miền Bắc thì

chúng sẽ bị thất bại thảm hại. Nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đánh lại chúng, các nước

XHCN và nhân dân tiến bộ toàn thế giới sẽ hết sức ủng hộ chúng ta, nhân dân Mỹ và các

nước đồng minh của Mỹ sẽ phản đối chúng,

Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân miền Bắc nêu cao chí khí chiến đầu, sẵn sàng đập tan

mọi hành động khiêu khích và phá hoại của đế quốc Mỹ. "Mỗi người làm việc bằng hai", "hết

lòng hết sức ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam ruột thịt".

Tin tưởng vững chắc ở sức mạnh của nhân dân, nắm vững chỗ mạnh chỗ yếu của

địch, Chủ tịch Hồ Chí Minh hạ quyết tâm đánh

63

thắng giặc Mỹ xâm lược. Hội nghị chính trị đặc biệt do Hồ Chủ tịch triệu tập là Hội nghị

"Diên Hồng" ở thế kỷ XX, thể hiện khí phách của dân tộc Việt Nam, kiên quyết bảo vệ độc

lập tự do, thống nhất Tổ quốc.

Tháng 3

Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ II

Từ Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ I cuối năm 1961 đến đầu năm 1964,

cách mạng miền Nam đã có những chuyển biến lớn. Để kiểm điểm lại tình hình những năm

qua và đề ra những chủ trương trong thời gian tới, tháng 3-1964, Trung ương Cục miền Nam

đã tiến hành Hội nghị lần thứ II và đề ra Nghị quyết về cách mạng miền Nam về tương quan

lực lượng và cách đánh giá âm mưu địch. Nghị quyết của Hội nghị nêu rõ từ chỗ chúng chuẩn

bị tiến công miền Bắc, phải quay lại áp dụng hình thức chiến tranh "đặc biệt" ở miền Nam và

quấy rối miền Bắc đó là một bước lùi bị động đối với toàn quốc. Nhưng đối với miền Nam đó

là một phản công quyết liệt nhằm cố thắng ta trong phạm vi chiến tranh miền Nam. Với kế

hoạch Stalay-Taylo, chúng quyết thắng nhanh trong vòng 18 tháng nhằm giành lại nông thôn,

nằm dân bằng hệ thống ấp chiến lược cốt để cô lập cách mạng miền Nam với hậu phương

miền Bắc, để tiêu diệt Đảng bộ cùng lực lượng vũ trang còn non yếu của ta, bao vây chia cắt,

thu hẹp và tiêu diệt các căn cứ địa cách mạng. Chúng tập trung mọi cố gắng hy vọng nâng

quân số lên gấp 15 - 20 lần lực lượng vũ trang của ta. Chúng đẩy mạnh càn quét lấn chiếm và

lập ấp chiến lược mong khoanh được 2/3 dân để tiêu diệt ta, bình định miền Nam. Tuy vậy,

về căn bản, chúng vẫn không làm thay đổi được sự so sánh lực lượng của ta và địch.

Về âm mưu và khả năng sắp tới của địch, Hội nghị đã nhận định: Đế quốc Mỹ tuy đã

thất bại nặng nề và đã hoài nghi ở thắng lợi, nhưng vẫn còn cố bám miền Nam với hy vọng

đánh bại phong trào cách mạng, hoặc ít nhất cũng giành thắng lợi quân s ự cần thiết để có lợi

thế trong trường hợp phải dùng giải pháp chính trị. Chúng ta cần theo dõi và đề phòng khả

năng để nước Mỹ có thể liều lĩnh đưa 5 vạn, 10 vạn quân vào miền Nam, dùng những thủ

đoạn tàn bạo thâm độc hơn, đồng thời tăng cườg phá hoại miền Bắc.

64

Về phía ta, trong những năm qua đã phá được kế hoạch Stalay - Taylo, chúng ta có

thời cơ thuận lợi hơn trước nhiều, dùng ta không nhưng đánh bại kế hoạch Mác Namara như

kế hoạch Stalay - Taylo mà còn có thể tranh thủ thời cơ, phát triển thế và lực của ta tương đối

nhanh chóng, tiến tới đánh tiêu diệt tan rã từng bộ phận quân sự địch, làm chuyển biến so

sánh lực lượng giữa ta và địch, giành lấy thắng lợi quyết định. Trong năm 1964, chúng ta

hoàn toàn có khả năng không những trụ lại chống địch mà còn tấn công địch mạnh hơn trước,

buộc địch phải bị động lúng túng hơn nữa trong thế phân tán thì bị bao vây tiêu diệt, tập trung

thì lại bỏ đất, mất dân.

Nghị quyết của Hội nghị cũng chỉ ra những nhược điểm của ta như: Tình hình phát

triển giữa các chiến trường không đều. Lực lượng vũ trang ta chưa đủ mạnh. Thực lực chính

trị có tổ chức còn yếu, đô thị còn yếu. Căn cứ địa và vùng giải phóng chưa được xây dựng và

củng cố vững chắc.

Đánh giá và phân tích các mặt tình hình giữa ta và địch trên đây, Hội nghị Trung

ương Cục hoàn toàn nhất trí với phương hướng và nhiệm vụ của Hội nghị Trung ương Đảng

lần thứ 9 đầu năm 1964 nhấn mạnh phải quyết tâm đạt cho được hai mục tiêu chính là:

1. Làm thất bại âm mưu gom dân lập ấp chiến lược của địch.

2. Tiêu diệt sinh lực địch và làm tan rã từng bộ phận quân đội địch.

Để thực hiện những nhiệm vụ nói trên, nghị quyết Trung ương Cục đã vạch ra 11

công tác lớn sau đây:

1) Phá ấp chiến lược và xây dựng xã chiến đấu.

2) Hoạt động và xây dựng lực lượng vũ trang.

3) Đẩy mạnh và xây dựng lục lượng chính trị.

4) Xây dựng cũng cứ địa vaà quản lý vùng giải phóng

5) Công tác đô thị

6) Công tác binh vận.

65

7) Công tác kinh tế tài chính.

8) Công tác chống do thám gián điệp và xây dựng lực lượng an ninh các cấp.

9) Tiếp tục tranh thủ sự đồng tình ủng hộ quốc tế đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa

của ta.

10) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.

11) Động viên chính trị toàn quân, toàn dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước

đảm bảo thực hiện những nhiệm vụ cách mạng to lớn trước mắt.

Với sự phân tích một cách khách quan, khoa học, tình hình giữa ta và địch, nghị quyết

Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ II đã khẳng định cách mạng miền Nam tuy còn

nhược điểm nhiều mặt, nhưng đã có đường lối phương châm đúng đắn, đã giành được những

thắng lợi có ý nghĩa chiến lược về xây dựng Đảng, mặt trận dân tộc, 3 thứ quân và căn cứ địa

để bảo đảm cho ta giữ vững và phát triển phong trào. Về nhiệm vụ trước mắt trong năm 1964,

Trung ương Cục miền Nam kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tranh thủ thời cơ liên

tục tiến công địch, kiên quyết đánh bại kế hoạch Mácnamara làm cho mưu đồ tập trung quân

tấn công trọng điểm, gom dân, lập ấp chiến lược, mua chuộc, sử dụng giáo phái thất bại nặng,

sinh lực địch tổn thất nhiều hơn nữa. Đồng thời ra sức khắc phục các nhược điểm, khẩn

trương xây dựng thực lực của ta, đẩy mạnh mọi hoạt động công tác, tạo ra những điều kiện

thiết yếu để năm sau có thể giành những thắng lợi to lớn hơn nữa.

Ngày 8 tháng 4

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về tăng cường lãnh đạo công tác

chống bắt lính, phá kế hoạch tăng quân và mở rộng chiến tranh của địch.

Sau khi Mắc Namara sang Sài Gòn đầu tháng 3-1964, bọn Mỹ - Khánh có âm mưu kế

hoạch mới nhằm tăng cường trọng điểm. Chúng dự định dồn 100.000 lính bảo an, dân vệ lên

chính quy và bắt thêm

66

50.000 thanh niên vào lính. Để đối phó kịp thời với âm mưu mới của địch khắc phục những

khuyết, nhược điểm của ta Thường vụ Trung ương Cục miền Nam yêu cầu các cấp bộ Đảng

cần quan tâm lãnh đạo công tác chống bắt lính một cách khẩn trương nhằm ngăn chặn và bẻ

gãy cho được kế hoạch tăng quân của địch. Phải coi công tác chống bắt lính là một công tác

chiến lược rất quan trọng nhằm đẩy địch vào thế bị động suy yếu, tan rã, đồng thời bảo vệ và

tăng cường thực lực của ta một cách nhanh chóng.

Chỉ thị của Trung ương Cục miền Nam đã nêu rõ trước tình hình bắt lính ào ạt của

địch, quần chúng đang xôn xao lo lắng và đã có nhiều hình thức đấu tranh chống lại. Nhiều

thanh niên trong vùng địch đang tìm cách lẩn tránh, có số đã chạy ra vùng giải phóng. Trong

lúc đó, công tác lãnh đạo chống bắt lính của ta vẫn còn nhiều thiếu sót như chưa chủ động,

không kịp thời và thiếu kế hoạch cụ thể. Trong kế hoạch lãnh đạo đấu tranh chưa kết hợp chặt

chẽ 3 mũi giáp công, nhất là chưa kết họp công tác chống bắt lính với công tác rút thanh niên

ra vùng giải phóng để bổ sung cho lực lượng ta. Vì vậy, Trung ương Cục yêu cầu nội dung

của công tác chống bắt lính là:

- Hạn chế, bẻ gãy kế hoạch tăng quân của địch, vừa chống bắt lính trực tiếp, vừa

chống phá các tổ chức nửa vũ trang và kế hoạch dồn dân, lập ấp chiến lược của địch.

- Phải bảo vệ cho được lực lượng thanh niên, kết họp rút thanh niên vùng địch ra vùng

giải phóng.

- Vừa vận động chống bắt lính một cách rộng rãi quyết liệt và liên tục, vừa xây dựng

cơ sở ta bí mật chui vào hang ngũ địch để tiếp tục phá lực lượng địch một cách lâu dài.

- Đẩy mạnh phong trào đấu tranh của binh sĩ địch chống đôn quân, không đi bắt lính,

phản chiến, làm cho quân đội địch không ổn định về tổ chức và tư tưởng.

Chỉ thị của Trung ương Cục miền Nam còn nêu lên yêu cầu và biện pháp cụ thể cho

từng vùng, những công tác trong lãnh đạo và lưu ý các cấp uỷ Đảng nên dựa vào tình hình cụ

thể từng địa phương mà

67

vạch kế hoạch cụ thể hơn để thi hành. Trong chỉ đạo đấu tranh phải có điểm, có diện, có sơ

kết, tổng kết rút kinh nghiệm.

Tháng 5

Nhân dân Tây Ninh chống âm mưu lập "Khu tự trị đạo" của địch, góp phần bảo vệ

căn cứ Trung ương Cục miền Nam.

Tây Ninh là địa bàn quan trọng của cách mạng miền Nam, là hậu phương căn cứ địa

trực tiếp của Trung ương Cục miền Nam. Nối liền với các căn cứ khác như: đường 13, Đổng

Xoài, chiến khu D, Long An, Đồng Tháp Mười v.v.. Ngay từ những ngày đầu kháng chiến,

nhân dân Tây Ninh đã chống trả quyết liệt chính sách "tố công" của Mỹ - Diệm và nối dậy

bằng chiến thắng Tua Hai. Đế quốc Mỹ và ngụy quyền đã dùng nhiều thủ đoạn cùng với tiến

công quân sự là chính sách chia rẽ dân tộc, đạo giáo để nối với đây thành vành đai an toàn

của chúng.

Từ tháng 5-1964, tỉnh uỷ Tây Ninh đã phát động phong trào thi đua yêu nước giết

giặc và phá chiêu bài lập "Khu tự trị đạo" của địch. Chủ trương của tỉnh uỷ được nhân dân

tích cực hưởng ứng. Một phong trào đấu tranh liên tục, sôi nổi, diễn ra quyết liệt trên địa bàn

nông thôn với nhiều hình thức phong phú. Đặc biệt là phong trào phát triển du kích chiến

tranh. Trong tháng 3-1964, nhân dân đã nổi dậy phá 13 ấp chiến lược, xây dựng 23 xã, ấp

chiến đấu, trừng trị hàng trăm tên tề điệp ác ôn. Tự vệ du kích đã dào hàng trăm hố chông,

đặt cạm bẫy, rào hàng nghìn mét rào tử địa để chủ động chống càn và phản công địch. Đồng

bào Cao Đài vùng toà thánh Tây Ninh đã tiến hành 9000 lần các cuộc đấu tranh chính trị

chống lại chính sách chia rẽ mua chuộc của địch. Hàng trăm kiến nghị của đồng bào gửi tới

hội đồng Toà Thánh đề nghị Mỹ ngụy chấm dứt can thiệp vào công việc nội bộ của Toà

Thánh. Nhân dân còn tích cực vận động lực lượng vũ trang Cao Đài trả súng trở về gia đình.

Nhân dân vùng Trảng Bàng vẫn kiên cường bám trụ, vừa sản xuất, vừa chiến đấu.

68

Ngày 25 tháng 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Bộ Chính trị bàn về chủ trương giành thắng

lợi ở miền Nam.

Từ ngày 25 đến 29-9-1964, BCT Trung ương Đảng họp dưới sự chủ toạ của Chủ tịch

Hồ Chí Minh. Sau khi phân tích tình hình, BCT chủ trương: Ở miền Nam, trên quan điểm

trường kỳ, cần động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, tập trung mọi khả năng, lực

lượng để giành một bước thắng lợi quyết định trong một vài năm sắp tới.

Bộ Chính trị nêu lên 5 công tác trước mắt, cần tập trung thực hiện kỳ được:

1. Phối hợp đấu tranh chính trị, quân sự và binh vận, tranh thủ thời cơ, cố gắng đánh

bại hoàn toàn quân ngụy trước khi quân Mỹ nhảy vào.

2. Làm chủ cho được nông thôn, rừng núi và đồng bằng.

3. Ra sức đẩy mạnh công tác đô thị.

4. Gấp rút xây dựng lực lượng chính trị, quân sự, đặc biệt là bộ đội chủ lực.

5. Tăng cường công tác mật trận, mở rộng mặt trận đến các tầng lớp đô thị

Tại Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu: "Ta phải đánh lâu dài 10 năm

đến 20 năm, phải để phòng địch có hành động điên cuồng dù chúng bị cố lập, phải có kế

hoạch phòng khi đột biến. Miền Nam phải mở rộng chiến tranh du kích, xây dựng chủ lực

thành quả đấm mạnh, gọn nhanh. Hai năm qua chưa tăng cường uỷ viên. BCT cho miền

Nam, nay tình hình cấp bách không đi không được".

Tại Hội nghị này, Bộ Chính trị đã nhất trí cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Uỷ viên

BCT và một số cán bộ cao cấp có kinh nghiệm chỉ huy các trận đánh lớn vào tăng cường cho

chiến trường miền Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn các đồng chí khi lên đường vào

Nam: "Đánh Pháp đã khó, đánh Mỹ còn khó hơn. Đảng và Chính

69

phủ giao cho các chú vào trong đó cùng với đồng bào miền Nam đánh Mỹ cho kỳ được thắng

lợi. Gặp đồng bào thì nói " Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến đồng bào miền Nam".

Ngày 11 tháng 10

Quân ủy Trung ương Chỉ thị về mở đợt hoạt động đông xuân 1964-1965.

Để triển khai chủ trương của Bộ Chính trị về tích cực tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch,

Quân uỷ Trung ương đã chỉ thị cho các lực lượng vũ trang ở miền Nam mở đợt hoạt động

đông xuân 1964-1965.

Quân ủy Trung ương yêu cần: Ở Nam Bộ, lấy Long Khánh - Bình Tuy hoặc Bình

Long - Phước Long làm hướng điểm. Khu 5 có thể hoạt động cả hai hướng Nam Quảng Ngãi

và Bắc Bình Định, trọng điểm là khu vực từ đường số 9 đến đường số 5 và một hướng trên

đường số 14, Tây Nguyên. Để giành thắng lợi về thời cơ, Nam Bộ có thể nổ súng nước, sau

đó là các chiến trường phối hợp.

Ngày 16 tháng 10

Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về chỉ đạo phong trào các đô thị.

Đối với địch, đô thị miền Nam là hậu phương để vơ vét nhân tài vật lực và xây dựng

lực lượng chính trị phản động. Đối với ta, đô thị đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, là nơi

đấu tranh ác liệt giữa ta và địch để giành thắng lợi cuối cùng cho cách mạng. Về phong trào

đô thị tháng 8 và tháng 9-1964, Trung ương Cục miền Nam đã có Chỉ thị ngày 16-10-1964,

Trung ương Cục miền Nam ra tiếp Chỉ thị bổ sung để chỉ đạo phong trào các đô thị. Chỉ thị

nhấn mạnh một số vấn đề chính sau:

1) Tính chất, nội dung, hình thức, mức độ của phong trào: Từ năm 1954 đến nay,

phong trào đấu tranh ở đô thị liên tục, không ngớt. Đó là phong trào cách mạng của quần

chúng đấu tranh cho các khẩu hiệu dân sinh, dân chủ và dân tộc. Vừa qua, phong trào đô thị

đã kết hợp với phong trào nông thôn làm cho địch suy yếu, nội bộ lục đục, đảo chính triền

miên. Tuy phong trào quần chúng đã có sức mạnh

70

buộc Khánh phải từ chức, phải hủy bỏ hiến chương 16-8, nhưng phong trào quần chúng vẫn

còn dựa vào sự khởi động của bọn đối lập. Đối với ta quần chúng tin tưởng nhưng chưa đến

mức hành động theo các khẩu hiệu của ta chống Mỹ Khánh, làm cách mạng giành chính

quyền.

2) Tình hình phong trào đô thị: Hiện nay, ở đô thị miền Nam có nhiều bọn phản động

đối lập trong các đoàn thể, tôn giáo, đảng phải. Chúng lừa gạt được một số người tiến bộ và

quần chúng tham gia. Chúng chống Mỹ với mức độ đòi Mỹ gạt bọn tay sai cũ để chúng thay

thế làm tay sai mà thôi. Cái gọi là "dân chủ chống độc tài" của chúng chẳng qua là hất cẳng

bọn này để bọn khác tiếp tục độc tài mà thôi, khác hẳn với ý thức cách mạng của quần chúng

chống Mỹ và chống độc tài.

3) Các tổ chức hợp pháp như học sinh, sinh viên, công nhân lao động, Phật giáo là

phản ánh phong trào đấu tranh của quần chúng. Nhưng thành phần bên trên của các tổ chức

này rất phức tạp có bọn đảng phái phản động, có phần tử tiến bộ, và có cả những người của ta

gài vào. Đối với các tổ chức ấy ta cần ra sức sử dụng, một mặt nắm quần chúng bên dưới, mặt

khác là xen vào thành phần lãnh đạo bên trên. Cần lợi dụng các tổ chức hoạt động công khai

để phát động quần chúng, phát triển thực lực của ta.

4) Phong trào các đô thị về hình thức chưa hình thành. Mặt trận dân tộc thống nhất,

nhưng khẩu hiệu và hành động đã có tính chất mặt trận. Hiện nay phong trào sinh viên và

Phật giáo đang là ngòi nổ ở đô thị, nhưng sau này phải đưa phong trào công nhân làm nòng

cốt. Ở những nơi ta có điều kiện thì phải tổ chức và phát triển tự vệ không nên để các tổ chức

đối lập lợi dụng. Ở những nơi thế kìm kẹp của địch lảng thì tổ chức các đội vũ trang tuyên

truyền. Công tác vũ trang diệt Mỹ, phá kho tàng, diệt tay sai cần chú ý đề phòng gián điệp

chui vào tổ chức. Để chỉ đạo phong trào đô thị phải nắm được ba yêu cầu: Duy trì phát triển

phong trào; giáo dục và tổ chức quần chúng- lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch.

71

Tháng 10

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và nhiều cán bộ trung, cao cấp tăng cường cho miền

Nam.

Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị và Bác Hồ về tăng cường cán bộ cho cách mạng

miền Nam để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, tháng 10-1964, Đại tướng Nguyễn Chí

Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân uỷ Trung ương đã lên đường vào chiến trường

miền Nam. Cùng vào chiến trường đợt này có Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Thiếu tướng Trần

Độ và nhiều cán bộ trung, cao cấp có kinh nghiệm xây dựng bộ đội chủ lực và chỉ huy các

trận đánh lớn.

Vào chiến trường miền Nam, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã phụ trách Trung ương

Cục miền Nam và làm Chính uỷ Miền. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn giữ cương vị phó tư lệnh

các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam với bí danh Ba Long. Thiếu tướng Trần Độ giữ

cương vị Phó chính uỷ Miền.

Ngày 14 tháng 12

Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về bảo vệ tài liệu

Để khẩn trương khắc phục tài liệu bị mất và nghiêm chỉnh chấp hành bảo quản tài liệu

một cách triệt để, Thường vụ Trung ương Cục chỉ thị lưu ý Ban An ninh các cấp một số vấn

đề sau đây:

- Mỗi chiến sĩ an ninh cần phải nhận rõ tất cả các tài liệu của ngành An ninh đều là tài

liệu mật, phải bảo vệ. Cần phải quán triệt bí mật là một vũ khí sắc bén nhất để đánh địch và

bảo vệ mình, là yếu tố có tính chất quyết định đến thành công.

- Các tài liệu đã phổ biến, nếu thấy không cần thiết hoặc không thể bảo vệ được thì

phải thu hồi về hoặc thiêu hủy. Từ nay về sau phải thực hiện nguyên tắc: "Việc ai người ấy

biết, của cấp nào cấp đó biết, địa phương nào địa phương ấy biết". Tất cả cá tài liệu phải có

ký nhận lưu giữ, phải có hầm bí mật cất giấu chu đáo.

72

- Những cán bộ, chiến sĩ đã phạm sai lầm làm lộ bí mật của Đảng của ngành phải

kiểm điểm kỷ luật một cách nghiêm khắc. Phải giáo dục khí tiết cách mạng cho cán bộ và

chiến sĩ anh ninh, củng cố lòng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng,

tuyệt đối không khai báo những bí mật của Đảng của ngành khi bị địch tra tấn.

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam yêu cầu Ban an ninh các cấp nghiên cứu một

số ý kiến trên đây và tuỳ tình hình từng nơi mà đề thêm nhiều biện pháp cụ thể nhằm bảo vệ

cho được tài liệu của Đảng của ngành.

Ngày 20 tháng 12

Thành lập báo Giải phóng tiền thân của báo Sài Gòn giải phóng.

Trong phiên họp tháng 7-1964, Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc

giải phóng chủ trương xuất bản báo Giải phóng đầu tiên vào ngày 20-12-1964 đúng dịp kỷ

niệm lần thứ 4 ngày thành lập mặt trận. Hội nghị cử kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ

nhiệm và nhà báo Kỳ Phương làm Tổng biên tập.

Từ đó, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam chính thức có cơ

quan ngôn luận để kêu gọi và tổ chức nhân dân đoàn kết chống Mỹ. Giữa năm 1966, cơ quan

báo chí về ở chung với Ban tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam để tiện cho việc chỉ đạo

và phối hợp tuyên truyền giữa Báo, Đài, Thông tấn xã. Năm 1967, địch mở cuộc càn Junction

City đánh vào căn cứ ban Tuyên huấn. Sau trận càn bị mất máy in, báo Giải phóng tạm đình

bản. Toà soạn báo đã quyết định ra "báo nói" để phát trên đài phát thanh giải phóng. Hơn

mười năm ra đời, phát triển và trường thành, báo Giải phóng luôn luôn giữ vững tiếng nói

truyền đạt chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam và Uỷ ban Trung ương Mặt trận tới các địa

phương. Nhiều phóng viên và nhân viên báo Giải phóng đã trực tiếp chiến đấu hy sinh quên

mình cho độc lập tự do của Tổ quốc. Sau ngày miền Nam được giải phóng, theo quyết định

của Trung ương Cục, toà soạn báo Giải Phóng có nhiệm vụ xuất bản tờ Sài Gòn giải phóng,

tiếng nói của Đảng bộ và nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

73

Tháng 12

Chiến dịch Bình Giã và sự thất bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của M ỹ -

ngụy.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của BCH Trung ương Đảng (tháng 12-

1963), Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 2 (tháng 3-1964) đã họp bàn và đề ra một trong hai

mục tiêu chính là phải tiêu diệt sinh lực địch, đặc biệt là tiêu diệt một bộ phận quân chủ lực

địch, để phối hợp 3 mũi giáp công làm tan rã phần lớn quân địch. Triển khai chủ trương đó,

tháng 4-1964, Bộ chỉ huy Miền đã vạch kế hoạch chuẩn bị cho chiến dịch Bình Giã, một

chiến dịch đầu tiên trong chiến tranh chống Mỹ. Nhiều cán bộ của Bộ chỉ huy Miền đã được

cử đi nghiên cứu chiến trường và lên kế hoạch tác chiến. Giữa mùa mưa năm 1964; kế hoạch

chiến dịch đã được Thường vụ Trung ương Cục miền Nam phê duyệt về căn bản, tuy vẫn còn

một số ý kiến chưa thống nhất. Tháng 10-1964, sau khi Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào và

sau khi Phó tư lệnh Trần Văn Trà đi kiểm tra tình hình về báo cáo, Trung ương Cục mới hoàn

toàn nhất trí với kế hoạch của chiến dịch.

Ban Thường vụ Trung ương Cục miền Nam và Bộ chỉ huy Miền quyết định thành lập

bộ chỉ huy chiến dịch gồm các đồng chí: Trần Đình Xu (Tham mưu trưởng Miền) - chỉ huy

trường; Lê Văn Trưởng - Chính uỷ; Nguyễn Hoà - phó chỉ huy trưởng kiêm tham mưu

trưởng; Nguyễn Văn Bứa (phó tư lệnh quân khu miền Đông) - chỉ huy phó; Lê Xuân Lưu -

phó chính uỷ. Lực lượng tham gia gồm hai trung đoàn bộ binh 1 và 2 , đoàn 30 pháo binh chủ

lực Miền, 2 tiểu đoàn quân khu 7,3 tiểu đoàn quân khu 6 và lực lượng vũ trang địa phương.

Từ trận đánh mở màn vào ấp Bình Giã (Bà Rịa) ngày 5-12-1964, đến ngày 8-3-1965

sau gần 3 tháng, quân Giải phóng đã loại khỏi vòng chiến đấu 1700 địch (có 60 cố vấn Mỹ)

và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh. Chiến dịch Bình Giã đã có ý nghĩa chiến

lược, đánh dấu sự thất bại về cơ bản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ngụy.

74

Tháng 12

Trung ương Cục miền Nam tặng Thông tấn xã giải phóng 16 chữ vàng

Ngày 12-10-1960, Thông tấn xã Giải phóng chính thức thành lập trực thuộc Ban

tuyên huấn Xứ ủy (sau này là Ban tuyên huấn Trung ương Cục). Ngoài bản tin trong nước,

Thông tấn xã còn ra đều đặn bản tia thế giới và tin tham khảo. Thông tấn xã giải phóng là

một trong những đơn vị mạnh nhất của Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam.

Cuối năm 1964, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đến thăm Thông tấn xã ở đồi 300, xa

cụm trung tâm gần 3 tiếng đồng hồ đi bộ đường rừng. Đồng chí đã xuống các hầm sâu có nắp

kiên cố, nơi bố trí phương tiện làm việc của đơn vị. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh có khen:

"Xây dựng như thế mới đánh địch được lâu dài".

Cán bộ của Thông tấn xã có mặt khắp chiến trường miền Nam. Các chiến dịch Bình

Giã, Bàu Bàng, Đồng Xoài... đều có phóng viên tin, ảnh và điện đài của Thông tấn xã đưa tin,

bài từ mặt trận về kịp thời động viên cổ vũ chiến sĩ và phong trào cả nước. Mậu Thân 1968,

Thông tấn xã giải phóng đã cử phóng viên tham gia tất cả các đợt tiến công. Cán bộ thông tấn

xã giải phóng đã tay bút, tay súng chiến đấu trên đưòng phố Sài Gòn. Qua 15 năm xây dựng

chiến đấu và phát triển, làn sóng điện của Thòng tấn xã giải phóng không bao giờ tắt. Thông

tấn xã giải phóng đã được Chính phủ tặng thưởng một Huân chương Thành đồng hạng hai,

hai huân chương Kháng chiến hạng nhất và một bằng khen của Trung ương Cục miền Nam.

Trung ương Cục miền Nam cũng đã tặng Thông tấn xã giải phóng 16 chữ vàng:

"Cần cù dũng cảm

Tự lực cánh sinh

Khắc phục khó khăn

Hoàn thành nhiệm vụ"

75

NĂM 1965

Tháng 1

Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ III

Để tổng kết một năm thực hiện nghị quyết Trung ương Cục miền Nam lần thứ II và đề

ra nhiệm vụ cụ thể cho cách mạng miền Nam trong thòi gian tới tháng 1-1965, Trung ương

Cục miền Nam đã tiến hành hội nghị thường kỳ lần thứ III. Hội nghị Trung ương Cục lần này

đã thông qua Nghị quyết về tình hình, nhiệm vụ, phương hướng sắp tới của cách mạng miền

Nam.

I- V ề nhận định tình hình trong nước và thế giới

Trung ương Cục nhận định trong năm 1964, tình hình thế giới tiếp tục phát triển thuận

lợi cho cách mạng nước ta. Cách mạng miền Nam đã góp một phần quan trọng vào sự phát

triển ấy.

Năm 1964, đế quốc Mỹ gặp nhiều khó khăn và suy yếu hơn năm 1963. Chúng đang ở

trong tình trạng bế tắc ở miền Nam và nhiều nơi khác trên thế giới. Các nước đế quốc đã tìm

mọi cách chống lại sự khống chế của Mỹ, mâu thuẫn trong nội bộ ngày càng say gắt. Các

khối quân sự, chính trị, kinh tế do Mỹ lập ra đã và đang bị tan rã, rạn nứt.

Sáu tháng cuối năm 1964, phong trào cách mạng miền Nam phát triển mạnh. Điểm

nổi bật là vai trò của quân chủ lực trên các chiến trường đã tạo điều kiện mới để tiêu diệt

quân chủ lực địch và phát triển chiến tranh du kích. Quân chủ lực đã đạt trình độ phổ biến là

tiêu diệt nhanh gọn cả tiểu đoàn địch, có nơi đã tiêu diệt cả chiến đoàn địch. Quân địa

phương đã 4 lần tiêu diệt cả tiểu đoàn địch.

Những thắng lợi của quân dân ta đã làm thay đổi nhanh chóng cục diện chiến tranh,

quyền chủ động trên chiến trường đã chuyển từ tay địch vào tay ra. Vấn đề chính quyền về

tay nhân dân đã trở thành khẩu hiệu bức thiết của nhân dân các đô thị. Tuy nhiên, cách mạng

miền Nam thời gian qua đã bộc lộ một số nhược điểm quan trọng là:

76

- Việc xây dựng và động viên hậu phương còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu to lớn và

cấp bách của tiền tuyến.

- Phong trào chính trị và binh vận còn chậm, sức tấn công của nó chưa mạnh mẽ, chưa

kết hợp chặt chẽ với đấu tranh vũ trang.

- Phong trào đô thị còn thiếu thực lực và tổ chức chưa chặt chẽ, chưa phối hợp với

phong trào nông thôn.

- Các lực lượng vũ trang tuy tiến bộ, nhưng quả đấm của ta chưa thật mạnh, bộ đội địa

phương và du kích nhiều nơi còn yếu, phối hợp 3 thứ quân chưa tốt.

II- Yêu cầu, phương hướng sắp tới.

Đường lối và phương châm giành thắng lợi ở miền Nam trước đây về cơ bản vẫn

không thay đổi. Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam vẫn là: lợi dụng thời cơ, trên cơ sở quan

điểm cách mạng lâu dài, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hãy đoàn kết một lòng, kiên quyết

đánh địch, tạo nên một bước ngoặt so sánh lực lượng có lợi cho ta, làm cơ sở xốc tới giành

thắng lợi quyết định.

Để thực hiện yêu cầu nhiệm vụ, phương hướng trên, cần nỗ lực đẩy mạnh các công

tác lớn sau đây:

1 ) V ề quân sự : phát động cao trào quân sự tiêu diệt sinh lực địch và phát triển du

kích chiến tranh, đánh tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy, bao vây, xiết chặt, tiêu hao

quân viễn chinh Mỹ và chư hầu, yểm trợ tích cực cho phong trào đô thị. Tiếp tục tăng cường

số lượng, nhưng điều quan trọng là nâng cao năng lực chiến đấu của quân chủ lực. Phải kiên

quyết đưa lực lượng địa phương ra bám sát vùng địch để liên tục cắt đứt các đường giao

thông và bao vây bức hàng, bức rút các đồn bốt nhỏ của địch, cần phải tổ chức các đơn vị

nhỏ, gọn, trang bị tốt để đánh vào vùng địch, đặc biệt là các cứ điểm quân sự của Mỹ-ngụy.

2 ) V ề đấu tranh chính trị và binh vận: Động viên một cao trào quần chúng đấu tranh

chính trị và binh vận nhằm nâng cao tinh thần dân tộc, phối hợp chặt chẽ với chiến thắng

quân sự của ta làm tan rã

77

nhanh chóng tinh thần và tổ chức của ngụy quân ngụy quyền với ý thức mạnh mẽ giành chính

quyền về tay nhân dân. Hướng phong trào đấu tranh vào các khẩu hiệu như: chống khủng bố,

chống bắt lính, đòi giải ngũ, đòi chồng con trở về, chống xâm lược, đòi độc lập, dân chủ, hoà

bình, trung lập v.v...

3) Công tác đô thị: Các cấp uỷ trực tiếp ở đô thị cần phải tập trung sức lực trong công

tác vận động công nhân lao động, đồng thời mở rộng hoạt động trong học sinh, sinh viên, tiểu

thương, tiểu chủ, tranh thủ trí thức, tư sản và nhân viên chính quyền địch đứng về đại nghĩa

dân tộc. Việc xây dựng bảo vệ cơ sở, chống âm mưu của địch đưa gián điệp chui vào cơ sở

của ta cần được quan tâm đúng mức.

4) Công tác nông thôn: Cần tiếp tục phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng tới

sát đô thị, ra sức xây dựng, củng cố hậu phương, khẩn trương động viên các tầng lớp nhân

dân sản xuất, chiến đấu, phục vụ tiến tuyến, tăng cường các mặt chiến đấu (du kích, chính trị,

binh vạn) để chống giặc, giữ làng làm tan rã địch, đồng thời chăm lo cải thiện đời sống nhân

dân. Tiếp tục giải quyết các vấn đề tô tức, ruộng đất, phục vụ cho việc đẩy mạnh đoàn kết sản

xuất giết giặc. Chăm lo ưu tiên cho nông dân nghèo và gia đình chiến sĩ v.v...

5) Công tác tư tưởng: Cuộc chiến tranh đi vào một giai đoạn quyết liệt và có nhiều

nhân tố phức tạp, nên các cấp phải hết sức chú trọng công tác tư tưởng. Cần làm cho các cấp

nhận rõ:

- Ý nghĩa thắng lợi vừa qua của ta và âm mưu mới trong thế thất bại bị động của Mỹ.

- Thời cơ chiến lược trực tiếp để tiêu diệt và làm tan rã lớn ngụy quân, ngụy quyền và

giành lấy thắng lợi quyết định.

- Quán triệt quan điểm đánh lâu dài, đánh địch để giành lấy thắng lợi trước mắt và lâu

dài. Động viên các tầng lớp nhân dân quyết tâm vượt qua mọi hy sinh gian khổ để giành

thắng lợi to lớn hơn chống lại tư tưởng sợ Mỹ, sợ chiến tranh lâu dài, ác liệt, dao động trong

tư tưởng và ảo tưởng về hoà bình.

78

Tháng 1

Nghị quyết Quân ủy Miền về công tác quân sự

Nhằm quán triệt chủ trương của Hội nghị III Trung ương Cục và chủ trương của Quân

ủy Trung ương, Quân ủy Miền đã họp ra nghị quyết về công tác quân sự trong năm 1965.

Phần kiểm điểm tình hình quân ủy Miền nhận định: Trong năm 1964, ta đã giành nhiều thắng

lợi quân sự, tạo ra nhiều thời cơ và điều kiện thuận lợi cho ta giành những thắng lợi to lớn

hơn. Nhưng về khách quan, ta chưa đủ mạnh, về chủ quan, ta chưa quán triệt đầy đủ tinh thần

Nghị quyết Trung ương lần thứ 9 và Nghị quyết Trung ương Cục lần thứ 2. Vì vậy, chưa tập

trung mọi nỗ lực để xây dựng thực lực cách mạng, nhất là lực lượng vũ trang và phong trào

đô thị. Trong xây dựng lực lượng vũ trang lại chưa tập trung vào những khâu chủ yếu và khu

vực chủ yếu.

Nghị quyết nêu rõ: Đến cuối năm 1964, địch đã suy yếu nhiều về chính trị và quân sự.

Nhất là về chính trị, chúng đã 7 lần đảo chính lẫn nhau, nhưng ta chưa đủ mạnh để đánh

những đòn mạnh mẽ làm chuyển biến tình hình. Đế quốc Mỹ đến nay cảm thấy không thể

thắng ta, nhưng cũng chưa chịu thất bại. Do đó, chúng đang tìm lối thoát để cứu vãn tình hình

với các phương hướng là: mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, biến "chiến tranh đặc biệt" thành

"chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, tiếp tục "chiến tranh đặc biệt" với mức độ ác liệt hơn. Mặc

dù địch bị động lúng túng, nhưng ý đồ chiến lược chưa hoàn toàn thay đổi. Vì vậy, chúng ta

phải tránh chủ quan khinh địch, tránh những sơ hở dù nhỏ nhất, chuẩn bị đối phó với cả khả

năng xấu nhất.

Về ý định chiến lược của ta, Nghị quyết Quân ủy Miền hoàn toàn nhất trí với đường

lối của Nghị quyết Trung ương lần thứ 9: "Quyết tâm kiên trì chiến đấu lâu dài để giành

thắng lợi cuối cùng. Nhưng trong lúc kiên trì chiến đấu lâu dài, cần tranh thủ thời cơ thuận

lợi, tập trung lực lượng, quyết tâm giành cho được những thắng lợi có tính chất quyết định

trong mấy năm tới".

Vấn đề cơ bản để giành thắng lợi trong chiến tranh là nhanh chóng xây dựng thực lực

cách mạng, nhất là lực lượng vũ trang. Do đó trong năm 1965, toàn Đảng, toàn dân, toàn

quân ta phải có nỗ lực

79

vượt bậc để xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị lớn mạnh để tạo ra bước ngoặt

về so sánh lực lượng có lợi cho ta. Về nhiệm vụ quân sự năm 1965, Quân uỷ Miền yêu cầu là:

Đặc biệt coi trọng tiêu diệt sinh lực địch, tiêu diệt gọn từng tiểu đoàn, đại đội địch đi đôi với

diệt nhỏ, tiêu hao địch. Kết hợp với phong trào quần chúng phá hơn một nửa ấp chiến lược

còn lại, gành lại phần lớn nông thôn và rừng núi về ta. Phát triển rộng rãi chiến tranh du kích,

củng cố và mở rộng căn cứ địa cách mạng. Tích cực xây dựng lực lượng quân sự, lấy chất

lượng làm chính, làm cho năm 1965 so sánh lực lượng có lợi cho ta.

Nghị quyết của Quân ủy Miền đã vạch ra những công tác lớn trong năm 1965 là:

1) Về tác chiến: Cần chú ý trên 3 chiến trường: rừng núi, đồng bằng và đô thị vì

chúng có liên quan chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Phương châm tác chiến là: lấy du kích

chiến là chủ yếu, tích cực đẩy mạnh vận động chiến. Phải kết hợp cả 3 thứ quân và 3 hình

thức đấu tranh.

2) Về xây dựng lực lượng: Xây dựng bộ binh là chính, đồng thời với xây dựng các

binh chủng chuyên môn: pháo binh, trinh sát, đặc công... Ra sức phát triển du kích không

thoát ly sản xuất và dân quân tự vệ cả nam lẫn nữ từ 15 đến 55 tuổi.

3) Giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng: Làm cho cán bộ chiến sỹ có trình độ chính

trị cao, lập trường vùng, tư tưởng kiên định, đoàn kết nội bộ, phục vụ nhân dân tận tụy.

4) Công tác cán bộ:

Ra sức đào tạo, bồi dưỡng và mạnh dạn cất nhắc, đề bạt cán bộ để tự lực đáp ứng yêu

cầu xây dựng và tác chiến.

5) Công tác hậu cần: Phải đảm bảo thường xuyên và đảm bảo dự trữ 6 tháng...

6) Công tác giao thông vận tải: Phải dựa vào sức mạnh của nhân dân để làm tốt công

tác giao thông vận tải.

80

7) Đề cao công tác bảo mật phòng gian: Chú trọng giữ gìn bí mật tác chiến và xây

dựng lực lượng, kiên quyết đập tan âm mưu chiêu hàng của địch.

Nghị quyết của Quân uỷ Miền nhấn mạnh vấn đề có ý nghĩa quyết định để đảm bảo

hoàn thành nhiệm vụ quân sự năm 1965 là phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng về

tư tưởng và tổ chức. Phải tăng cường công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là công tác cơ sở,

trọng tâm là xây dựng chi bộ vững mạnh. Cần chú ý đúng mức xây dựng Đoàn thanh niên

trong quân đội để Đoàn đủ sức đảm đương các nhiệm vụ khó khăn trong công tác và chiến

đấu. Với việc phân tích tình hình giữa ta và địch và đề ra các nhiệm vụ quân sự trên đây,

Quân uỷ Miền khẳng định những điều kiện thuận lợi đã có, tin tưởng vào sự lãnh đạo của

Trung ương Đảng, Trung ương Cục, lực lượng vũ trang quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ

và tay sai, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ quân sự năm 1965.

Tháng 2

Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho Trung ương Cục miền Nam về vấn đề tranh thủ

thời cơ tiến tới tổng công kích - tổng khởi nghĩa.

Tháng 2-1965, đồng chí Lê Duẩn đã gửi thư cho Trung ương Cục miền Nam. Trong

tình hình đế quốc Mỹ đang thay thế dần cuộc "chiến tranh đặc biệt" bằng "chiến tranh cục

bộ", đồng chí khẳng định phương châm chiến lược của ta vẫn là "chiến đấu lâu dài và ra sức

tranh thủ thời cơ giành thắng lợi; Đấu tranh quân sự và chính trị đi đôi, tiến tới tổng công

kích, tổng khởi nghĩa.

Nhận định tình hình sau trận Bình Giã, đồng chí đánh giá "Mỹ sẽ thua ta trong "chiến

tranh đặc biệt" và vì thế chúng phải thay đổi chiến lược. Chỗ dựa của địch là quân ngụy và

các đô thị đang lung lay. Lực lượng cách mạng không ngừng lớn mạnh.

Đồng chí đã đưa ra các ý kiến chỉ đạo đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị trong đó

phân tích rõ phong trào đấu tranh chính trị, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Lấy

những kinh nghiệm của cách mạng tháng Mười Nga soi sáng hoàn cảnh cụ thể của miền Nam

81

lúc này, đồng chí cho rằng nếu kết hợp tốt cuộc đấu tranh quân sự chính trị, binh vận... có thể

tạo ra thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Phác thảo kế hoạch khỏi nghĩa thành công và

thành lập chính quyền "trung lập", đồng chí lưu ý sự lãnh đạo của Trung ương Cục tập trung

vào một số điểm sau:

1. Gấp rút xây dựng đội quân chính trị quần chúng sẵn sàng khởi nghĩa.

2. Hiểu rõ hệ thống phòng thủ của địch ở Sài Gòn và một số thành phố khác để tiến

công có hiệu quả.

3. Xây dựng các bàn đạp vững mạnh quanh các thành phố.

4. Công tác binh vận đi vào chiều sâu, cố gắng tạo ra các cuộc binh biến lớn.

5. Thúc đẩy sự phân hóa nội bộ địch gây ra phong trào đòi trung lập, tự trị, ly khai

chính quyền Sài Gòn.

6. Đồng chí Lê Duẩn nhắc nhở Trung ương Cục cần tập trung nghiên cứu kỹ hơn vấn

đề tiến công và khởi nghĩa ở các thành phố lớn.

Ngày 25 tháng 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11

bàn về nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Nam.

Trước tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi

miền, Hội nghị lần thứ 11 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 25 đến 27-3-

1965 đã nhận định tình hình, đề ra những nhiệm vụ cấp bách cho cách mạng cả nước.

Sau khi phân tích tình hình mọi mặt cả nước, Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cơ bản của

toàn Đảng toàn dân, toàn quân ta là: Tích cực kiềm chế và thắng địch trong "chiến tranh đặc

biệt" ở mức cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng của cả nước

giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối

82

ngắn, đồng thời chuẩn bị đối phó và quyết thắng cuộc "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam nếu

địch gây ra. Kiên quyết bảo vệ miền Bắc, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân và hải

quân của địch, ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam, ra sức giúp

đỡ cách mạng Lào.

Hội nghị nhận định rằng đường lối và phương châm giành thắng lợi ở miền Nam đã

nêu trước đây về cơ bản vẫn không thay đổi. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cấp bách ở miền

Bắc là phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và

tăng cường lực lượng quốc phòng nhầm kịp thời đáp ứng bảo vệ miền Bắc và chi viện to lớn

cho cách mạng miền Nam trong tình hình mới.

Đánh giá về kết quả Hội nghị Trung ương lần thứ 11, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát

biểu: "Hội nghị Trung ương đặc biệt lần này cũng là một chuyển biến lớn vì họp gọn, các

đồng chí nhất trí cao với dự thảo Nghị quyết của Bộ Chính trị, chỉ bổ sung một số điểm. Đây

là một kế hoạch cơ bản của chúng ta nên phải giữ bí mật... về việc hoãn Đại hội, các đồng chí

tán thành cao. Các bộ, các ngành phải có kế hoạch chuyển hướng".

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu triển khai Nghị quyết tới các cấp các ngành. Về nhiệm

vụ của toàn Đảng toàn dân ta trong giai đoạn trước mắt, Người nêu rõ: "Tất cả mọi việc đều

phải phục vụ việc đánh Mỹ, thắng Mỹ. Nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vinh quang, vinh quang

cho dân tộc ta, con cháu ta, vì làm gương cho các nước khác chống Mỹ".

Ngày 18 tháng 4

Trung ương Cục miền Nam chủ trương đoàn kết dân tộc chung sức đấu tranh giải

phóng miền Nam.

Ngày 18-4-1965, Trung ương Cục miền Nam có Chỉ thị hướng dẫn các địa phương về

vấn đề chống lại âm mưu của địch đối với vùng dân tộc ở miền Nam.

Chỉ thị nêu rõ, các vùng dân tộc, đặc biệt là Tây Nguyên được Mỹ - ngụy xem là vị trí

chiến lược quan trọng, ở đây chúng đã thực

83

hiện việc chia rẽ dân tộc, khích động tinh thần hẹp hòi dân tộc, chống người Kinh đồng thời

tăng cường càn quét đánh phá cách mạng bằng lực lượng biệt kích, thổ phỉ. Về phía ta, 10

năm qua (1954-1964) trong hoàn cảnh cuộc đấu tranh còn khó khăn, chúng ta đã cố gắng bám

dân, bám đất, phát triển cơ sở cách mạng, đoàn kết dân tộc, lãnh đạo nhân dân đấu tranh, phát

triển kinh tế, xã hội, văn hóa, động viên nhân dân đóng góp cho kháng chiến, xây dựng Tây

Nguyên thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng miền Nam. Thắng lợi đó là do đường lối

đúng đắn của Đảng, công sức của cán bộ và tinh thần yêu nước, yêu cách mạng của bà con

các dân tộc. Tuy nhiên, ở đây, sự giác ngộ cách mạng của quần chúng chưa theo kịp yêu cầu

cách mạng, sản xuất và các mặt y tế, xã hội, văn hoá chưa mạnh. Cuộc đấu tranh phá ấp chiến

lược, dinh điền, đồn điền chưa mạnh mẽ. Đội ngũ cán bộ dân tộc còn thiếu và yếu, cơ sở

Đảng, Đoàn còn yếu.

Từ tình hình trên, chỉ thị nêu nhiệm vụ chung của công tác Tây Nguyên thời gian tới

là: Phát động toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nỗ lực khẩn trương xây dựng căn cứ địa Tây

Nguyên, kiên quyết phá âm mưu giành và chiếm Tây Nguyên của địch, củng cố khối đoàn

kết dân tộc, đoàn kết Kinh Thượng, động viên sức người sức của đẩy mạnh kháng chiến và

sản xuất, góp phần tích cực giành một bước thắng lợi quyết định.

Nội dung của nhiệm vụ trên nhằm 4 mục tiêu:

1. Xây dựng biên giới phía Tây thành một bức thành vững mạnh.

2. Củng cố vững chắc vùng đã giải phóng, làm chủ núi rừng,

3. Ra sức phá ấp chiến lược, dinh điền, đồn điền, làm chủ các đường giao thông.

4. Xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, giáo dục chính trị, tư tưởng, làm tốt công

tác binh vận, tôn giáo vận, động viên sức người, sức của cho kháng chiến.

Chỉ thị cũng nêu lên những nhiệm vụ cụ thể về công tác dân vận Tây Nguyên như

phát động tư tưởng quần chúng, cán bộ, về chính

84

sách dân tộc của Đảng, chăm lo đời sống nhân dân, xây dựng thực lực xây dựng và quản lý

vùng giải phóng, đẩy mạnh sản xuất tiết kiệm...

Tháng 5

Trung ương Cục miền Nam phát động nông dân vùng giải phóng đoàn kết sản

xuất, kháng chiến chống M ỹ cứu nước.

Tiếp theo các đợt phát động nông dân vùng lên phá ách kìm kẹp của địch, tháng 5-

1965, Trung ương Cục chủ trương phát động nông dân vùng giải phóng đoàn kết, sản xuất,

chống Mỹ cứu nước. Cuộc phát động, được thí điểm ở khu V từ tháng 5-1965 và đến tháng 8-

1965 mở rộng ra toàn miền Nam. Trong đạt này, Đảng ta chú trọng phát động tư tưởng, nâng

cao giác ngộ chính trị cho nông dân. Cuộc vận động đã được tiến hành với nhiều hình thức

phong phú như tổ chức cho nông dân học tập thư của Đảng, ôn nghèo kể khổ, tính sổ tội ác

của địch và liên hệ bản thân, qua đó động viên nhân dân thực hiện những nhiệm vụ cách

mạng của Đảng. Đợt phát động này đã thu được kết quả to lớn. Khoảng từ 90-95% nông dân

vùng giải phóng đã tham gia hoạt động học tập chính trị, nâng cao trình độ giác ngộ giai cấp,

đoàn kết nội bộ nông dân được củng cố. Tổ chức nông hội được củng cố với số lượng hội

viên tăng, các hoạt động tương trợ trong sản xuất và đời sống phong phú. Phong trào đẩy

mạnh sản xuất, tòng quân giết giặc và đóng góp sức người sức của trong các vùng nông thôn

ngày càng phát triển mạnh. Nông dân tham gia du kích, tự vệ chiến đấu, nhiều người trở

thành dũng sỹ diệt Mỹ. Ở nhiều nơi việc mua công trái kháng chiến và bán lương thực cho

cách mạng đã vượt mức quy định. Một số ruộng đất của địa chủ vắng mặt đã được tạm chia

cho nông dân góp phần bồi dưỡng lực lượng nông dân đẩy mạnh kháng chiến.

85

Tháng 5

Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho Trung ương Cục miền Nam về phương hướng đấu

tranh chống “chiến tranh cục bộ”.

Tháng 5-1965, đồng chí Lê Duẩn đã gửi thư cho Trung ương Cục trao đổi về nhiệm

vụ của cách mạng miền Nam chống cuộc "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ.

Phân tích âm mưu của địch, đồng chí chỉ rõ: Mỹ đưa quân vào miền Nam và bắn phá

miền Bắc nhằm làm thay đổi tương quan lực lượng ta và địch với ý đồ quyết bám giữ miền

Nam. Cuộc chiến tranh đang chuyển dần từ khuôn khổ "chiến tranh đặc biệt" sang "chiến

tranh cục bộ". Đánh giá về tương quan lực lượng, đồng chí cho rằng: Đế quốc Mỹ tuy là một

đế quốc khổng lồ, song hiện tại đang yếu cả về quân sự và chính trị ở Việt Nam, sợ bị sa lầy

vào chiến tranh Việt Nam. Trong khi đó miền Nam có thể và biết trường kỳ kháng chiến.

Quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, chúng ta có các nhân tố sau: Sự lãnh đạo của Đảng ta, một

đảng dày dạn trong đấu tranh cách mạng, nắm vững quy luật của cuộc chiến tranh nhân dân;

ý chỉ quyết tâm kháng chiến của toàn dân tộc và sự ủng hộ, giúp đỡ của anh em bè bạn thế

giới.

Phương châm của cách mạng miền Nam vẫn là nắm vững đấu tranh quân sự kết hợp

với đấu tranh chính trị. Trong lúc đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, binh vận, chuẩn bị

nấm thời cơ tiến lên khởi nghĩa, phải đánh mạnh, đánh trúng hơn nữa, giành thắng lợi hơn

nữa. Đồng chí khẳng định quyết tâm chiến đấu của nhân dân miền Bắc và cả nước vì sự

nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.

Tháng 5

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về chính sách ruộng đất và phương hướng

đưa phong trào nông thôn miền Nam phát triển.

Cùng với các cuộc vận động giáo dục tư tưởng chính trị cho nông dân nhằm xác định

quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, ngày 18-5-1965 Trung ương

Cục đã ra Chỉ thị về

86

chính sách ruộng đất và phương hướng đưa phong trào nông dân miền Nam phát triển." Chỉ

thị nhấn mạnh đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn là "dựa hẳn vào bần cố nông và trung

nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông, đánh đổ giai cấp địa

chủ phản động (có phân biệt và sách lược phân hoá)". Phát động phong trào " Đoàn kết sản

xuất, giết giặc", lấy nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ là mục tiêu chính, giải quyết ruộng đất

và sản xuất là nội dung quan trọng. Chỉ thị đã nêu ra chính sách cụ thể đối với từng loại đối

tượng trong nông thôn và nguyên tắc chia cấp ruộng đất.

Về chỉ đạo thực hiện, chỉ thị ghi rõ: "Phải làm cho nông dân hiểu rõ: xoá bỏ quyền

chiếm hữu ruộng đất của địa chủ là nội dung quan trọng nhằm thúc đẩy nhiệm vụ hàng đầu

chống Mỹ cứu nước", tránh máy móc, chú ý đoàn kết chặt chẽ nội bộ nông thôn trên cơ sở

đường lối giai cấp của Đảng. Chú ý tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chi bộ Đảng cần nắm

vững nông hội để lãnh đạo nông dân.

Chủ trương đúng đắn và kịp thời nói trên đã thúc đẩy mọi mặt kháng chiến của nông

dân, vượt qua thử thách ác liệt nhằm tiến lên đánh bại cuộc "chiến tranh cục bộ" của đế quốc

Mỹ.

Tháng 7

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị phát dộng quần chúng nông dân đẩy mạnh

hoạt động chống "Chiến tranh cục bộ".

Nhằm động viên sức mạnh toàn dân quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, ngày 13-7-1965,

Trung ương Cục ra Chỉ thị hướng dẫn các khu uỷ, tỉnh ủy thực hiện nhiệm vụ phát động quần

chúng nông dân đẩy mạnh hoạt dộng chống "Chiến tranh cục bộ". Chỉ thị nêu rõ "Đối với

vùng giải phóng, cần tiếp tục phát động nông dân vùng lên kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

với 3 mục tiêu: đoàn kết, sản xuất, giết giặc". Về các công tác cấp bách ở nông thôn, chỉ thị

nêu rõ: "Cần phải làm cho nội bộ nông thôn đoàn kết chặt chẽ, phân biệt rõ bạn, thù, liên

minh với phú nông, phân hóa cao độ địa chủ. Tăng cường mở rộng mặt trận theo hướng

"thêm bạn bớt thù". Chưa đặt vấn đề trưng thu, trưng mua, tịch thu, không đặt vấn đề quy

định thành phần. Căn bản không đặt vấn đề điều chỉnh ruộng đất trong nội bộ nhân dân lao

động. Không đặt vấn đề đấu tố và chưa nhất thiết phải tổ chức đại hội

87

nông dân. Tất cả mọi hoạt động tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu là đánh bại chiến lược

"chiến tránh cục bộ" của đế quốc Mỹ.

Ngày 14 tháng 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm chiến thắng giặc Mỹ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng bàn về tình

hình miền Nam và một số vấn đề công tác Đảng và ngoại giao. Trong nhiều ý kiến chỉ đạo về

cách mạng miền Nam, Người chỉ rõ đồng bào và chiến sỹ miền Bắc có trách nhiệm và nghĩa

vụ đối với nhân dân miền Nam, vì sự nghiệp chung giải phóng đất nước. Người khẳng định:

Mỹ sẽ tiếp tục leo thang nên nhân dân miền Nam phải duy trì và phát triển chiến tranh du

kích, chú ý xây dựng lực lượng đặc công. Người nhắc đồng bào chiến sỹ miền Nam thấu suốt

tư tưởng kháng chiến lâu dài và phải xây dựng nhiều căn cứ địa tại chỗ, giải quyết tốt mối

quan hệ giữa quân đội và nhân dân. Người nêu cao quyết tâm: "Tất cả để chiến thắng ở miền

Nam".

Tháng 11

Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho Trung ương Cục miền Nam bàn về động viên nhân

dân tiến lên đánh bại "Chiến tranh cục bộ"

Tháng 11-1965, đồng chí Lê Duẩn đã gửi thư cho Trung ương Cục miền Nam. Trong

bối cảnh đế quốc Mỹ đưa thêm hàng vạn quân vào miền Nam và mở rộng chiến tranh phá

hoại ở miền Bắc, cuộc chiến tranh đã chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn "chiến tranh

cục bộ". Do vậy, Mỹ và ngụy, là hai lực lượng chiến lược tiến hành chiến tranh, trong đó

quân Mỹ đã trở thành lực lượng chiến đấu trực tiếp và là chỗ dựa cho quân ngụy, quân ngụy

vẫn là một lực lượng lớn, có nhiệm vụ chính trị và quân sự rất quan trọng.

Từ sự nhận định trên, đồng chí phân tích rõ đối tượng tác chiến của ta ở miền Nam là

cả quân Mỹ và ngụy. Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là tiêu diệt, làm tan rã quân ngụy

đồng thời đánh bại quân Mỹ. Trước mắt, cần tiêu diệt quân ngụy vì lực lượng này yếu hơn.

88

Đồng chí cũng chỉ rõ đối tượng tác chiến ở mỗi chiến trường, ở vùng rừng núi, chủ

yếu đánh quân Mỹ. Ở đồng bằng: quân ngụy là đối tượng chủ yếu. Tuy nhiên còn tùy thuộc

vào từng địa phương, từng trận đánh mà xác định đối tượng, phương châm tác chiến.

Về phía ta, khả năng kiềm chế và thắng địch ở miền Nam vẫn là hiện thực, song miền

Bắc cũng phải sẵn sàng đối phó với lục quân Mỹ. Phương châm chiến lược của ta vẫn là đánh

lâu dài, dựa vào sức mình là chính, song cần tranh thủ thời cơ, nỗ lực phấn đấu giành thắng

lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn.

Căn cứ vào tình hình chiến trường và quốc tế, những khó khăn, thuận lợi của ta và

địch, đồng chí khẳng định: "Mỹ không thể đánh lâu dài và thắng ta được; kháng chiến lâu dài

thì chúng ta nhất định giành được thắng lợi hoàn toàn".

Đồng chí đã phân tích cụ thể đối tượng tác chiến, phương châm và chiến thuật đánh

địch trên các vùng miền và địa phương cụ thể nhằm đánh bại cuộc "chiến tranh cục bộ" cả

dưới đất và trên không.

Về khả năng khởi nghĩa khi lực lượng Mỹ vào chiếm đóng miền Nam ngày càng

đông, đồng chí chỉ rõ khả năng này vẫn còn, nhưng nhất thiết phải kết hợp chặt chẽ với tiến

công quân sự và có thể diễn ra trong một giai đoạn, bằng nhiều cuộc nổi dậy và qua nhiều đợt

đấu tranh. Như vậy, tuy Mỹ đưa vài chục vạn quân vào, ta vẫn có khả năng tiến lên tổng công

kích, tổng khởi nghĩa.

Để thực hiện nghị quyết Bộ Chính trị, đồng chí nêu rõ Trung ương Cục cần chỉ đạo

chặt chẽ các công tác sau:

1. Phải giành và nắm vững thế chủ động trên chiến trường.

2. Để phối hợp chặt chẽ các chiến trường, phải nắm vững đặc điểm các vùng chiến

lược, nắm vững đối tượng tác chiến và giao nhiệm vụ thích hợp cho từng chiến trường.

3. Phối hợp chặt chẽ ba thứ quân, sử dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật và các

phương thức tác chiến của ta.

89

4. Nắm chắc lực lượng dự bị và biết thắng địch một cách bất ngờ.

5. Đánh địch bằng cả quân sự và chính trị.

6. Chú ý xây dựng lực lượng chính trị của ta ở thành thị và đẩy mạnh công tác thành

thị.

7. Đẩy mạnh hơn nữa cộng tác ngụy vận, địch vận.

8. Xây dựng quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

9. Động viên nhân dân đóng góp cho kháng chiến và chú trọng bồi dưỡng sức dân để

chiến đấu lâu dài.

NĂM 1965

Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết về công tác tư tưởng

Quán triệt và cụ thể hoá Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 của Ban chấp hành Trung

ương Đảng, Trung ương Cục đã đề ra nghị quyết về công tác tư tưởng năm 1965. Bản nghị

quyết đã nêu bật 3 mục tiêu lớn của Đảng bộ và nhân dân miền Nam. Về quân sự: tiến lên

đánh những trận lớn ở trình độ phức tạp, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng chiến tranh du

kích. Mục tiêu thứ hai là phá ấp chiến lược, cơ bản giải phóng nông thôn, làm chủ 2/3 ruộng

đất. Ở thành phố dấy lên cuộc đấu tranh chính trị rộng lớn với một mặt trận rộng rãi chống đế

quốc Mỹ.

Nghị quyết chỉ rõ vấn đề quan trọng nhất là đánh giá đúng thế và lực của ta và địch,

chống nhận thức mơ hồ, ảo tưởng, nông nổi trong nhận định và chủ trương. Yêu cầu bao quát

của công tác tư tưởng năm 1965 là thực hiện cuộc tổng động viên chính trị trong toàn Đảng,

toàn quân, toàn dân, nâng cao trình độ nhận thức và hành động của toàn dân nhằm làm cho

năm 1965 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình cách mạng miền Nam.

90

Bản nghị quyết đã đề ra những yêu cầu hết sức cụ thể về công tác tư tưởng cho từng

vùng, từng giai cấp, tầng lớp khác nhau. Trước hết công tác tư tưởng phải làm tốt trong cán

bộ đảng viên, lấy đó làm tiền đề cho việc phát động quần chúng.

Nghị quyết đã xác định cuộc kháng chiến ở miền Nam là cuộc đấu tranh cách mạng

của nhân dân ta chống chủ nghĩa thực dân mới và tay sai, con đường đi đến chiến thắng

không bằng phẳng, còn nhiều chông gai. Do đó, Đảng bộ và nhân dân miền Nam cần sẵn

sàng đối phó với tình huống phức tạp và xấu nhất là đế quốc Mỹ sẽ chuyển, sang thi hành

chiến lược "chiến tranh cục bộ".

NĂM 1966

Đầu năm

Trung ương Cục miền Nam phát động nhân dân miền Nam đẩy mạnh nhiệm vụ

kháng chiến chống Mỹ.

Bước sang năm 1966, để động viên nhân dân miền Nam đoàn kết, quyết tâm kháng

chiến, chống "chiến tranh cục bộ", thường vụ Trung ương Cục ra Chỉ thị phát động toàn dân

thi đua đẩy mạnh nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ.

Nội dung đợt thi đua là huy động lực lượng toàn dân quyết tâm đánh thắng Mỹ và bè

lũ tay sai.

Khẩu hiệu "Đoàn kết giết giặc và sản xuất" với mục tiêu là giết giặc, đoàn kết sản

xuất là điều kiện chính trị kinh tế phục vụ mục tiêu giết giặc. Giết giặc bằng 3 cao trào: đấu

tranh chính tri, binh vận, vũ trang. Đối với vùng giải phóng cần tập trung phát động quần

chúng đẩy mạnh 3 mũi tiến công địch, chống phi pháo, chống chất độc hoá học. Hướng dẫn

nhân dân đoàn kết, tăng gia sản xuất, tiết kiệm, xây dựng xã ấp chiến đấu, tăng cường củng cố

các tổ chức quần chúng, củng cố vai trò làm chủ của nông dân ở nông thôn. Kiên quyết bảo

vệ

91

những quyền lợi ruộng đất đã giành được, triệt để giảm tô, giảm tức thực hiện chính sách

ruộng đất với vùng mới giải phóng. Đối với vùng tranh chấp, vùng địch kiểm soát, phát động

nông dân liên tục nổi dậy khởi nghĩa phá ấp chiến lược, diệt ác ôn, chống mọi chính sách của

địch, giải phóng đến đâu chia ngay ruộng đất cho nông dân đến đó. Xây dựng và củng cố xã

ấp, các tổ chức chính trị như chi bộ Đảng, nông hội, phụ nữ.

Đây là đợt phát động quần chúng sâu rộng và được các tầng lớp nhân dân tích cực

tham gia.

Ngày 4 tháng 1

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về chủ trương công tác trong dịp

Tết 1966.

Nhân dịp Tết năm 1966, Thường vụ Trung ương Cục ra Chỉ thị về chủ trương của ta.

Nhận định tình hình, Trung ương Cục chỉ rõ: ta đang thắng lớn, địch thua to, thất bại cả về

quân sự, chính trị. Cụ thể là càng tăng quân càng thua, bộ mặt xâm lược của Mỹ lộ rõ, nội bộ

địch tiếp tục mâu thuẫn gay gắt, ngụy quyền lực đục rối loạn, ngụy quân tiếp tục suy sụp

nặng về tư tưởng, tổ chức, tinh thần quân Mỹ và chư hầu Mỹ cũng sa sút nặng nề. Tuy nhiên,

địch vẫn ngoan cố và tăng cường mở rộng chiến tranh.

Trước tình hình đó, Thường vụ Trung ương Cục chủ trương: Ngừng bắn trong 7 ngày

nhưng đẩy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận để cô lập Mỹ và bè lũ Thiệu - Kỳ và không

ngừng nâng cao cảnh giác trước những thủ đoạn phá rối của địch. Cụ thể là ra sức đẩy mạnh

tấn công địch về chính trị, binh vận đẩy chúng vào bế tắc hơn nữa; Tích cực xây dựng ta mà

nội dung chủ yếu là động viên căm thù, củng cố lòng tin vào cách mạng, phát huy tinh thần

đoàn kết dân tộc, quyết chiến thắng giặc Mỹ.

Khẩu hiệu của đợt hoạt động Tết này là: "Đoàn kết, quyết chiến quyết thắng giặc

Mỹ".

Công tác cụ thể là ra sức giáo dục động viên tư tưởng trong toàn Đảng toàn dân và

mọi tầng lớp quần chúng để làm cho toàn dân tin

92

tưởng vào thắng lợi của ta, vạch trần âm mưu thủ đoạn của địch. Đối với vùng đô thị và vùng

yếu nông thôn, tập trung đấu tranh đòi địch chấp nhận tuyên bố ngừng bắn của Mặt trận, đòi

các quyền lợi thiết thân như nghỉ Tết, tiền Tết.... tăng cường các hoạt động văn hoá, y tế. Đối

với các vùng khác thì tập trung hoàn thành các công việc mà ngày thường ta khó có điều kiện

thuận lợi để làm như gặt lúa, vận tải, xây dựng công sự, chuyển quân... đoàn kết quân dân,

đón xuân vui vẻ. Tổ chức liên hoan, đón nhận huân chương, mừng công, khen thưởng của cá

nhân và đơn vị, địa phương. Gặp mặt, động viên, giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ, gia

đình có công với cách mạng. Các lực lượng vũ trang nâng cao cảnh giác, không ngừng huấn

luyện, sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu thâm độc của địch. Trong thời gian nghỉ Tết các địa

phương cũng phải hết sức chú ý đến công tác phòng gian bảo mật và các thủ đoạn chiêu hồi

chiêu hàng của địch.

Ngày 7 tháng 2

Quân khu Sài Gòn - Gia Định tổng kết những bài học kinh nghiệm đánh Mỹ đầu

tiên.

Sau gần một năm trực tiếp đối mặt với quân Mỹ trong "chiến tranh cục bộ", ngày 7-2-

1966, Bộ tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định mở hội nghị tổng kết chiến tranh nhân dân địa

phương trên địa bàn huyện Củ Chi, rút ra 10 bài học kinh nghiệm đánh Mỹ đầu tiên:

1. Ai cũng đánh được Mỹ.

2. Vũ khí gì cũng đánh được Mỹ.

3. Nhiều cũng đánh, ít cũng đánh, 1 người, 1 tổ cũng đánh và đều đánh thắng.

4. Ở đâu cũng đánh được Mỹ. Đánh rừng, ở xóm, ở ấp chiến lược, ở đồng lầy. Chỉ cần

tích cực bám địch, tìm địch mà đánh là được.

5. Ngày cũng đánh, đêm cũng đánh được Mỹ vì cả ngày, cả đêm Mỹ đều có sơ hở,

nhược điểm.

6. Địch phản công là cơ hội tốt để ra diệt chúng.

93

7. Đánh cả ở tiền tuyến, đánh cả ở hậu phương địch; đánh đều khắp, càng làm cho

giặc Mỹ bối rối, bị động, ta diệt địch càng dễ dàng hơn.

8. Đánh cả trong xã, ấp chiến đấu và ngoài xa, ấp chiến đấu, chỉ cần nâng cao quyết

tâm tìm Mỹ mà đánh, mà diệt.

9. Có khả năng đánh thắng các loại binh chủng Mỹ.

10. Đánh bằng vũ trang, đánh bằng chính trị, đánh cả bằng binh vận.

Những kinh nghiệm đánh Mỹ được nhanh chóng phổ biến rộng rãi và cổ vũ nhân dân

miền Nam tiến lên giành những thắng lợi mới.

Ngày 26-28 tháng 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo cho đường lối cách mạng miền Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng, thông qua

báo cáo của Quân ủy Trung ương về kế hoạch năm 1966. Người phát biểu ý kiến về một số

vấn đề về cách mạng miền Nam như nghị quyết quân sự phải có thêm nội dung chính trị và

kinh tế; cần phát triển chiến tranh du kích và xây dựng lực lượng đặc công mạnh cả về số

lượng và chất lượng; vấn đề sản xuất trong vùng giải phóng và sử dụng lao động phải chú

trọng đến đời sống nhân dân; cần đánh mạnh vào lực lượng hậu cần của địch; khoét sâu mâu

thuẫn Mỹ-ngụy và phải giải quyết tốt công tác thương binh.

Tháng 3

Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ IV bàn kế hoạch đẩy

mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống chiến lược "chiến tranh cục bộ".

Tháng 3-1966, Trung ương Cục miền Nam đã họp hội nghị lần thứ IV. Dưới ánh sáng

nghị quyết Trung ương Đảng (12-1965), hội nghị đã phân tích những thắng lợi của ta và thất

bại của địch trong năm 1965 và đầu năm 1966 từ đó khẳng định chúng ta có thể đánh thắng

địch trong "chiến tranh cục bộ".

94

Để thực hiện nghị quyết hội nghị lần thứ XII của Trung ương Đảng và đẩy mạnh cuộc

đấu tranh của nhân dân miền Nam tiến lên đánh thắng chiến tranh cục bộ, hội nghị đã đề ra

nhiệm vụ cụ thể của Đảng bộ và nhân dân miền Nam là: "Động viên và đoàn kết toàn Đảng

toàn dân, toàn quân quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ bất kỳ

trong tình huống nào; ra sức đẩy mạnh ba cao trào vũ trang, chính trị và binh vận, xây dựng

lực lượng ta lớn mạnh về mọi mặt, phát động nhân dân du kích chiến tranh rộng rãi và toàn

diện; đồng thời khẩn trương xây dựng chủ lực, ra sức tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch

(cả Mỹ và ngụy), đánh bại các âm mưu quân sự, chính trị, kinh tế, bình định nông thôn, kìm

kẹp đỏ thị của địch; củng cố và mở rộng thế làm chủ rừng núi và nông thôn đồng bằng, hết

sức chú trọng vấn đề sản xuất tiết kiệm, bồi dưõng sức dân, xây dựng căn cứ địa, từng bước

hoàn chính ở những vùng chiến lược quan trọng, tiếp tục phá ấp chiến lược thu hẹp phạm vi

kiểm soát của địch, xiết chặt vòng vây xung quanh các căn cứ quân sự và các đô thị, giữ vững

và phát triển phong trào đấu tranh của đô thị làm rối hậu phưong địch, làm cho chúng tiếp tục

bị động và sa lầy hơn nữa, đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, nắm vững và tiếp tục sáng

tạo thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn, đồng thời tạo cơ

sở vững chắc để thắng địch trong tình huống cuộc chiến tranh kéo dài và mờ rộng ra cả

nưóc".

Để thực hiện nhiệm vụ đó, hội nghị đã nêu ra 4 công tác lớn ở miền Nam:

1. Đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, phát động

phong trào chiến tranh du kích rộng khắp tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực Mỹ và

ngụy:

2. Mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc chống Mỹ, cứu nước. Đẩy mạnh cao trào đấu

tranh chính trị và binh vận.

3. Đẩy mạnh còng tác dân vận, nhận rõ tầm quan trong của công tác binh vận, nâng

cao lập trường giai cấp và dân tộc kiên và trì phát động quần chúng cũng như phát triển và

củng cố các tổ chức quần chúng.

95

4. Tăng cường: công tác xây dựng Đảng bộ cả về tư tưởng và tổ chúc cho phù hợp với

tình hình mới.

Ngày 1 tháng 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh góp ý kiến xây dựng đường lối cách mạng miền Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng bàn về tình hình

đấu tranh chính trị ở miền Nam và một số công tác khác.

Đối với công tác thông tin liên lạc từ miền Nam ra, Người nhắc khu V và Trung ương

Cục miền Nam phải thay đổi phương thức liên lạc với Trung ương vì dùng điện đài dễ làm lộ

bí mật.

Về đấu tranh chính trị ở miền Nam, Người đề nghị: phải chú trọng vận động công

nhân, binh lính địch, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ địch để đưa ra các khẩu hiệu

đấu tranh thích hợp, trước hết phải chú ý tập hợp lực lượng, trong đó có các giáo phái. Cần có

những biện pháp chống đàn áp, khủng bố, bảo vệ quần chúng.

Về hậu cần, Người nhắc các địa phương xem xét mức đóng góp của nhân dân, đặc

biệt là vùng Tây Nguyên, để định mức huy động hậu cần cho phù hợp, không để đồng bào

khó khăn trong đời sống.

Ngày 19 tháng 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về đấu tranh chính trị binh vận ở miền Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng để thảo luận

về tình hình đấu tranh chính trị, binh vận ở miền Nam. Người đề nghị phải chỉ đạo sát sao

phong trào sinh viên và duy trì phong trào quần chúng đô thị. Đối với mỗi tầng lớp nhân dân

cần có những khẩu hiệu đấu tranh cụ thể, thích hợp. Công tác binh vận phải chú ý cả hai đối

tượng Mỹ và ngụy. Phải dựa vào các chiến thắng quân sự làm nền cho đấu tranh, chính trị,

binh vận.

96

Tháng 6

Đồng chí Nguyễn Chí Thanh đánh giá chiến thắng của ta trong mùa khô 1965 -

1966.

Tháng 6-1966, sau khi quân dân miền Nam đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa

khô lần thứ nhất (1965-1966) của đế quốc Mỹ, đồng chí Nguyễn Chí Thanh với bút danh

Trường Sơn đã viết bài: "Vì sao quân và dân miền Nam thắng lớn, Mỹ và ngụy thua to trong

mùa khô 1965-1966" để lý giải nguyên nhân thắng lợi của ta và thất bại của địch.

Đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã phân tích một số điểm sau:

1. Bước vào mùa khô, cục diện chiến tranh phát triển có lợi cho ta: quân và dân miền

Nam đang trong thế thắng và chủ động về chiến lược; đế quốc Mỹ đang trong thế thua và bị

động về chiến lược. Mỹ đưa quân vào để cứu vãn quân ngụy và "chiến tranh đặc biệt" nên

ngay từ đầu đã ở thế bị động chiến lược. Còn thế chiến lược của cách mạng miền Nam là thế

chủ động, thế thắng, thể hiện ở những điểm như: ta có ưu thế tuyệt đối về chính trị - tinh

thần; hình thái chiến -trường có bước chuyển biến nhảy vọt so với một năm trước đó; ba thứ

quân phát triển mạnh mẽ về số lượng và phối hợp "trên một trình độ mới"; ta đã có hậu

phương tại chỗ vững chắc với 4/5 diện tích và 3/4 số dân. Thế chiến lược yếu kém của địch

thể hiện ở những mặt sau: yếu tố chính trị - tinh thần rối loạn, sút kém; Mỹ ngụy bị cuốn vào

thế trận chiến tranh nhân dân của ta, không phát huy được sức mạnh quân sự tiềm tàng; nội

bộ mâu thuẫn nhau, có lúc say gắt; hậu phương tại chỏ thu hẹp, cơ sở chính trị - xã hội còn ít.

Trong một bối cảnh như vậy, cách mạng miền Nam có điều kiện đạt cả ba mục tiêu

chiến lược trước mắt của chiến tranh là tiêu diệt địch, giữ đất, giành dân.

2. Quân và dân miền Nam có quyết tâm rất cao và chính xác. Quyết tâm đó được xây

dựng trên lập trường cách mạng triệt để và phương pháp biện chứng khoa học. Quyết tâm đó

là quyết tâm của toàn dân tộc Việt Nam, kiên quyết đánh tháng Mỹ ngay từ đầu. Quyết tâm

đó chứa đựng những nội dung: khí thế của cách mạng miền Nam

97

đang trên đà thắng lợi, lập trường kiên quyết kháng chiến chống xâm lược của một dân tộc

dày dạn kinh nghiệm đấu tranh chống đế quốc một dân tộc anh hùng, bất khuất, yêu nước tha

thiết và căm thù giặc sâu sắc. Quân và dân miền Nam cũng có phương pháp phân tích khoa

học, phát hiện mâu thuẫn của địch, đánh giá đúng tương quan lực lượng ta và địch, bám sát

thực tế chiến trường.

3. Sự chỉ đạo và thực hành chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo. Quân và dân

miền Nam đã buộc Mỹ ngụy phải đánh theo cách đánh của mình, làm cho Mỹ ngụy đông mà

thành ít, mạnh nhưng lại yếu. Chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo của ta thể hiện ở

tinh thần kiên quyết, liên tục, chủ động tiến công, chọn hướng tiến công chính xác; kết hợp

chặt chẽ với đâu tranh chính trị, binh vận; phối hợp chiến trường nhịp nhàng; phối hợp ba thứ

quân chặt chẽ; kết hợp chặt chẽ nhiều cách đánh...

Cuối cùng đồng chí kết luận: Mùa khô 1-965-1966 thực sự là mùa khô thắng lớn của

ta và đó là cơ sở thực tiễn chắc chắn nhất để ta tiến lên đánh bại "chiến tranh cục bộ".

Tháng 7

Đồng chí Nguyễn Chí Thanh bàn về công tác tư tưởng trong quân và dân miền

Nam với chiến thắng mùa khô (1965 -1966).

Tháng 7-1966, đồng chí Nguyễn Chí Thanh có bài viết bàn về công tác tư tưởng của

quân dân miền Nam trong chiến thắng mùa khô 1960-1966.

Đồng chí cho rằng: trong mùa khô 1965-1966, quân và dân miền Nam đã xác định

một lập trường cách mạng kiên định, một quyết tâm vững chắc đánh Mỹ và thắng Mỹ, trải

qua một phương pháp phân tích khoa học so sánh lực lượng và từ thực tế chiến trường. Đồng

chí khẳng định: "có vũ khí tư tưởng sắc bén mới có vũ khí bằng sắt thép sắc bén để chiến

thắng quân thù". Quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân miền Nam cũng được bắt

nguồn từ thực tế lịch sử, ta đã đánh bại cuộc "chiến tranh một phía" và "chiến tranh đặc biệt"

của địch, điều đó cổ vũ ta tiến lên đánh bại bất kỳ chiến 1 lược chiến tranh mới nào của địch.

98

Khi quân Mỹ vào, điều quan trọng nhất đối với dân tộc ta và quân dân miền Nam nói

riêng là phải xác định được lập trường kiên định - đó là cái gốc của mọi vấn đề. Đồng chí

tổng kết thật giản đơn: " muốn đánh giặc, thắng giặc thì trước hết gan phải to, chí phải quyết,

lòng phải bền".

Bước vào cuộc "chiến tranh cục bộ", vấn đề đầu tiên và quan trọng nhất là vấn đề tư

tưởng. Quân và dân miền Nam trong mùa khô thắng Mỹ đầu tiên đã xác định rõ tư tưởng

quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Đó là cái chìa khóa mở ra những thắng lợi huy hoàng từ đó

về sau.

Tháng 8

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị chỉ đạo công tác ở vùng giải

phóng và vùng tranh chấp nông thôn.

Từ ngày 12 đến 19-7-1966, Thường vụ Trung ương Cục đã họp và ra Chỉ thị chỉ đạo

công tác cho các khu ủy, tỉnh ủy về công tác ở vùng giải phóng và vùng tranh chấp nông

thôn. Nội dung chỉ thị là "quán triệt quan điểm quần chúng và nguyên tắc lãnh đạo đi đúng

đường lối quần chúng, tập trung sức xây dựng chi bộ các xã giải phóng và vùng tranh chấp

mạnh, tiến tới tự động công tác".

Xuất phát từ thực tế hoạt động của các chi bộ Đảng các vùng nói trên còn thụ động,

kém linh hoạt sáng tạo trong khi vai trò lãnh đạo quần chúng của chi bộ cơ sở rất quan trọng,

Trung ương Cục dự định tập trung chỉ đạo trong vòng 1 năm rưỡi để các chi bộ có thể tự

động công tác được. Các chi bộ biết đề ra chủ trương, nghị quyết sát đúng thực tế và biến nó

thành phong trào cách mạng quần chúng và củng cố trở lại tổ chức Đảng.

Để có thể đề ra chủ trương sát đúng, chi bộ phái nắm vững đường lối cấp trên, tình

hình cụ thể xã ấp mình và phương thức lãnh đạo quần chúng cơ sở. Có nghị quyết rồi, phải

hướng dẫn các tiểu tổ Đảng vạch kế hoạch công tác cụ thể ở xóm ấp, sau đó triển khai trong

chi đoàn thanh niên và lực lượng cốt cán, nắm chắc lực lượng dân quân du kích xã ấp và đưa

nghị quyết tới quần chúng qua các ban ngành, đoàn thể địa phương.

99

Các cấp ủy Đảng cấp trên có nhiệm vụ lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp công tác này như cử

cán bộ xuống giúp đỡ cơ sở, theo dõi uốn nắn, tổng kết rút kinh nghiệm.... để đẩy mạnh

phong trào quần chúng vùng giải phóng và vùng tranh chấp nông thôn.

Tháng 9

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về công tác binh vận 1966 -1967.

Quán triệt tư tưởng ba mũi giáp công đánh địch. ngày 25-9-1966 Thường vụ Trung

ương Cục ra chỉ thị chỉ đạo công tác binh vận năm 1966-1967. Căn cứ vào đặc điểm cuộc

chiến tranh cục bộ, Trung ương Cục yêu cầu toàn Đảng, toàn quân, toàn dân miền Nam

hướng công tác binh vận vào các đối tượng trước hết là quân ngụy, sau đến quân Mỹ và chư

hầu với các khía cạnh tiến hành binh vận hết sức cụ thể.

Chỉ thị nêu rõ nội dung chỉ đạo phong trào binh vận quần chúng. Phải nắm chắc ba

mũi giáp công, đưa mũi binh vận lên cân xứng với khá năng và yêu cầu của nó. Nắm vững

quan điểm vận động cách mạng quần chúng, coi công tác binh vận là một trong những nhiệm

vụ cơ bản của đoàn thể quần chúng trong đó thật coi trọng sự lãnh đao của chi bộ Đảng cơ sở

đối với công tác này.

Nội dung và khẩu hiệu binh vận tập trung kích thích giáo dục tinh thần dân tộc, giai

cấp, chống chiến tranh, trở vể vói nhàn dân, với tổ quốc. Gấp rút xây dựng cơ sở cách mạng

trong quân đội địch, linh hoạt, sáng tạo trong tuyên truyền vận động. Ban binh vận các cấp

cần tăng cường chỉ đạo nghiệp vụ công tác cho các xã ấp, phát triển các đội công tác, cán bộ

chuyên môn kết hợp với phong trào quẩn chúng làm binh vận, bám sát địa bàn công tác.

Chỉ thị cũng nêu rõ quân Mỹ vào càng nhiều thì càng phải nắm chắc và chỉ đạo công

tác binh vận hơn nữa theo phương hướng và nội dung đã đề ra.

100

Tháng 10

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về đẩy mạnh phong trào vùng

yếu ở nông thôn.

Tháng 10-1966, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đã ra Chỉ thị về đẩy mạnh

phong trào vùng yếu ở nông thôn. Chỉ thị nêu lên tầm quan trọng của phong trào đấu tranh ở

vùng yếu, vùng hậu phương địch, phân tích những đặc điểm tình hình ở vùng yếu, khi đế

quốc Mỹ tiến hành chiến tranh cục bộ, những thuận lợi và khó khăn của ta từ đó đề ra yêu cầu

chỉ đạo phong trào và những hình thức của phong trào. Cụ thể là phải vừa nắm vững yêu cầu,

vừa linh hoạt về hình thức, dám mạnh dạn đấu tranh nhưng biết khôn khéo, tích cực, khẩn

trương từng bước vững chắc. Yêu cầu chính của phong trào là xây dựng cơ sở, thực lực tại

chỗ, phát huy ưu thế 3 mũi giáp công phá kềm kẹp đều khắp, giữ vững thế chính trị hợp pháp

của quần chúng, giành dân và nắm dân, giành quyền làm chủ với nhiều mức độ. Chỉ thị cũng

đưa ra một số tư tưởng chỉ đạo cụ thể cho từng vùng như vùng sát căn cứ địch, vùng ven

thành phố thị xã, vùng tôn giáo, dân tộc, lộ giao thông quan trọng...

Để đẩy mạnh phong trào vùng yếu, Chỉ thị đề ra 4 nhiệm vụ cụ thể, đó là:

1. Cán bộ phải luồn sâu, bám vào vùng yếu để đẩy mạnh công tác.

2. Đẩy mạnh công tác vận động quần chúng và xây dựng tổ chức quần chúng.

3. Kết hợp chặt chẽ 3 mũi giáp công.

4. Đẩy mạnh xây dựng cơ sở Đảng, Đoàn ở vùng yếu.

Cuối cùng, chỉ thị nêu lên vai trò và trách nhiệm của các cấp bộ Đảng trong việc chỉ

đạo phong trào vùng yếu.

Bản chỉ thị này đã chỉ ra phương hướng cụ thể, đẩy mạnh phong trào vùng yếu, vùng

sau lưng địch ở nông thôn, góp phần động viên nhân dân miền Nam vùng lên đánh bại "chiến

tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ.

101

Tháng 10

Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập Quân khu X

Khu X với mật danh T10 gồm 3 tỉnh: Quảng Đức, Phước Long (Quan khu 6) và tỉnh

Bình Long (của quân khu 7). Quân khu X do đồng chí Nguyễn Trọng Xuyên làm tư lệnh,

Nguyễn Việt Hồng làm chính ủy.

Việc hình thành Quân khu X đã tạo điều kiện để mở rộng thêm chiến khu Đ (khu A)

về phía Bắc, mở hành lang nối thông suốt từ Trung ương qua đường Trường Sơn, Tây

Nguyên và khu uỷ Khu V.

Từ 16 đến 23 tháng 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng bàn về tình

hình miền Nam và những biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao.

Về việc huy động sự đóng góp của nông dân miền Nam vào cuộc kháng chiến, Người

đề nghị làm sao giảm càng nhẹ càng tốt sự đóng góp của nông dân. Trong phong trào đấu

tranh chính trị, Người chỉ rõ phải có ngay những khẩu hiệu rõ ràng, dứt khoát đòi hoà bình

và độc lập dân tộc, gắn hoà bình và độc lập dân tộc với việc đòi Mỹ rút quân. Chủ tịch Hồ

Chí Minh cũng nhắc phải chú ý đến vấn đề dân tộc và tôn giáo ở miền Nam.

Về phương châm kết hợp giữa đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, Người cho

rằng: Ta đánh là chính, vừa đánh vừa đàm để chia rẽ địch, đàm là để phục vụ cho đánh. Phải

kết hợp giữa đàm và tiến công sao chỗ uyển chuyển, trước hết phải giành thế mạnh về quân

sự mới có điều kiện đàm phán được, trong đàm phán tránh mơ hồ, mất cảnh giác.

Người nhắc Bộ Chính trị và cách mạng miền Nam phải khéo léo trong các mối quan

hệ quốc tế.

102

NĂM 1967

Tháng 1

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị quyết tâm đánh bại âm mưu bình định nông

thôn năm 1967 của Mỹ - ngụy.

Đầu năm 1967, Trung ương Cục đã ra Chỉ thị quyết tâm đánh bại âm mưu bình định

nông thôn năm 1967 của Mỹ-ngụy. Phân tích âm mưu của địch, chỉ thị vạch rõ: Địch sẽ huy

động 80-90% quân ngụy, chư hầu và một bộ phận quân Mỹ tập trung càn quét, chiếm giữ và

thực thi công tác bình định. Địch sẽ đánh ta trên cả 3 vùng với mức độ ngày càng ác liệt như

Long An, Tây Ninh, Bình Dương, Biên Hoà, Bà Rịa, vùng ven Đà Nẵng, Quy Nhơn. Bằng

các vùng "ưu tiên hành quân" địch sẽ tấn công tiêu diệt vào nhiều vùng căn cứ kháng chiến

của ta với phương châm "tiến chậm, giữ chắc, phát triển theo thế liên hoàn và vết dầu loang".

Mục tiêu cuối cùng là triệt hạ lực lượng cách mạng ở hạ tầng cơ sở, xây dựng cơ sở chính trị,

kinh tế của địch ở các vùng ở nông thôn.

Về phía ta, chỉ thị nêu rõ: phải kết hợp chặt chẽ 3 mũi giáp công, đẩy mạnh cao trào

đấu tranh chính trị chống Mỹ ngụy bình định, quyết tâm "bám dân, bám đất, bám địch" phát

triển đấu tranh vũ trang, lập các vành đai diệt Mỹ, hỗ trợ phong trào quần chúng phá kìm kẹp,

giành quyền làm chủ...

Chỉ thị trên đã tạo ra quyết tâm mạnh mẽ trong phong trào quần chúng nhân dân đấu

tranh chống âm mưu "bình định" nông thôn của địch.

Ngày 22 tháng 2

Đánh bại cuộc hành quân Junction City vào căn cứ Trung ương Cục miền Nam.

Từ ngày 22-2-1967 đến 15-4-1967, đế quốc Mỹ đã mở cuộc hành quân, được coi là

lớn nhất của Mỹ ở Nam Việt Nam đánh vào

103

Bắc Tây Ninh. Cuộc hành quân nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam và

chủ lực quân giải phóng.

Trung ương Cục đứng chân trên địa bàn đã lãnh đạo các cơ quan dân chính Đảng

cùng với quân và dân Tây Ninh tổ chức chiến dịch phản công với thế trận chiến tranh nhân

dân đánh bại cuộc tiến công của địch vào vùng căn cứ, tiêu diệt hơn 8000 tên địch và nhiều

máy bay, xe tăng...

Chiến thắng Junction City đã bảo vệ được các cơ quan đầu não của cách mạng miền

Nam như Trung ương Cục, MTDTGP v.v... bảo vệ vùng căn cứ địa trực tiếp của cách mạng

miền Nam. Cuộc chiến đấu đã chứng minh sức mạnh vô địch của thế trận chiến tranh nhân

dân, trình độ tổ chức chỉ huy của các cơ quan lãnh đạo cách mạng và là một đòn giáng mạnh

vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, phụ trách Trung ương Cục lúc đó đã nhận xét: Đây là

cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ vào vùng Bắc Tây Ninh, là cuộc hành quân thua đau nhất, là

cái mốc tột điểm đánh dấu sự thất bại của chúng trong cuộc phản công chiến lược mùa khô.

Tháng 5

Đồng chí Nguyễn Chí Thanh tổng kết những bài học thành công qua chiến thắng

mùa khô 1966-1967.

Tháng 5-1967, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã viết bài "Chiến thắng Đông Xuân

1966-1967 và năm bài học thành công về chỉ đạo chiến lược quân sự".

Đầu bài viết, với nhiều số liệu cụ thể và nhận định sắc sảo, đồng chí đã vẽ lên bức

tranh toàn cảnh về những thắng lợi hết sức to lớn của cách mạng miền Nam và thất bại thảm

hại của Mỹ ngụy. Đồng chí khẳng định: thắng lợi Đông Xuân 1966-1967 là thắng lợi to lớn

nhất của chúng ta tư trước đến nay, chiến lược của ta, cách đánh của ta đã thắng chiến lược

và cách đánh của địch.

104

Theo sự phân tích của đồng chí Nguyễn Chí Thanh, thắng lợi to lớn của mùa khô lần

thứ hai (1966-1967) đã đem lại những bài học thành công sau đây:

1. Tìm hiểu quyết tâm chiến lược, phán đoán đúng quy luật và khả năng hoạt động của

địch mới xác định đúng quyết tâm chiến lược và cách đánh của ta.

2. Giữ vững và phát triển thế tiến công liên tục, nắm chắc và mở rộng quyền chủ động

trên chiến trường, buộc quân địch phải đánh theo ý muốn của ta.

3. Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu diệt địch và giữ vững, phát triển

quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh việc kết họp đấu tranh quân sự, chính tri và binh vận.

4. Không ngừng nâng cao hiệu suất chiến đấu, hiệu quả chiến dịch và hiệu lực chiến

lược của cách đánh độc đáo của chiến tranh nhân dân.

5. Coi trọng việc xây dựng và phát triển hai lực lượng, ba thứ quân, giải quyết đúng

đắn mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng.

Từ thực tế chiến trường, với trí tuệ sắc sảo, những tổng kết của đồng chí Nguyễn Chí

Thanh đã bổ sung vào kho tàng lý luận cách mạng của Đảng ta, góp phần xây dựng đường lối

chống Mỹ cứu nước hoàn thiện hơn, tiến tới thắng lợi cuối cùng.

Tháng 5

Thành lập Đoàn hậu cần 70 thuộc Cục Hậu cần Miền

Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, tháng 5-1967, Trung ương Cục quyết định thành

lập đoàn 70 trực thuộc Cục hậu cần Miền. Đoàn 70 do đồng chí Cao Hoài Xại (Cao Phong)

làm đoàn trường, đồng chí Sáu Sâm làm chính ủy. Đoàn có nhiệm vụ đón nhận hàng chi viện

của Trung ương từ Nam Tây Nguyên và từ Campuchia chuyển về cho hoạt động ở chiến

trường B2.

105

Đoàn 70 có 4 cánh H7, H8, H9, H10, trong đó có hai cánh H8 và H10 đứng chân ở bờ

bắc Sông Bé (chiên khu Đ) và Nam Đồng Xoài, vừa đón nhận hàng tiếp liệu, vừa triển khai

kho tàng trong căn cứ. Đoàn 70 kết hợp với các Đoàn hậu cần khác tạo ra mạng lưới hậu cần

liên hoàn từ chiến khu Đ xuống các khu vực Bình Dương – Biên Hòa, Bà Rịa đảm bảo cho

các lực lượng chủ lực Miền, Quân khu hoạt động.

Tháng 6

Bộ chính trị Chỉ thị cho Trung ương Cục Miền Nam về nhiệm vụ quân sự năm

1967

Sau khi đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của đế quốc Mỹ,

nhất là sau chiến thắng Junction City, đánh bại cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ trong chiến

tranh Việt Nam, sức mạnh quân sự của cách mạng miền Nam đã có bước tiến mới. Tuy

nhiên, Bộ Chính trị vẫn chỉ thị cho Trung ương Cục: “Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang

gồm ba thứ quân, phấn đấu đưa tổng số chủ lực, bộ đội đia phương và du kích lên. Chú trọng

nâng cao chất lượng của bộ đội một cách toàn diện, làm cho bộ đội ta có tinh thần chiến đấu

cao, tổ chức biên chế thích hợp với yêu cầu tác chiến, bảo đảm cho bộ đội ta ăn no, sức khỏe

tốt, đánh giỏi”.

Ngày 1 tháng 7

Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho Khu ủy Sài Gòn – Gia Định bàn về công tác thành

thị.

Ngày 1-7-1967, đồng chí Lê Duẩn đã gửi thư cho Khu ủy Sài Gòn – Gia Định bàn về

công tác thành thị.

Trong thư, trước hết, đồng chí nói về vị trí của thành thị trong cách mạng miền Nam.

Đó là một trong ba vùng chiến lược theo sự xác định đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu

nước của Đảng ta. Đó là căn cứ, là hậu phương quan trọng của cuộc chiến tranh xâm lược

thực dân mới của Mỹ - ngụy, là hang ổ, đầu não của ngụy quân, ngụy quyền. Tấn công vào

đô thị là đánh vào toàn bộ hệ thống chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam.

Trong mối quan hệ với

106

vùng nông thôn, đồng chí phân tích rõ: công tác đô thị phải gắn với công tác nông thôn, đặc

biệt là vùng ven đô. Nông thôn miền Nam là nơi địch có nhiều sơ hở và ta có điều kiện đẩy

mạnh hoạt động, giành thắng lợi ở vùng nông thôn, kết hợp với phong trào thành thị tiến lên

tổng công kích - tổng khởi nghĩa.

Về lực lượng cách mạng ở thành thị, đồng chí nêu rõ cần đặc biệt chú ý tới tầng lớp

thanh niên, phụ nữ, đây là lực lượng xung kích trong đội quân chính trị và binh vận, chúng ta

phải xây dựng cho được đội quân chính tri này ở thành thị. Đối với binh lính tiến bộ trong

hàng ngũ địch, chúng ta phải tranh thủ họ với khẩu hiệu "công nông binh liên hiệp". Phải gắn

liền công tác vận động công nhân, nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ và binh vận. Giới

trí thức bao gồm học sinh, sinh viên, các nhà khoa học là lực lượng có thể gây ảnh hưởng lớn

ở thành thị vì vậy chúng ta phải chú trọng đúng mức công tác vận động trí thức, hình thành

mặt trận "công nông trí thức" đấu tranh cho hoà bình, độc lập, dân chủ. Đồng chí cũng chỉ

đạo việc thâm nhập, nắm và tổ chức các nghiệp đoàn, các tổ chức tôn giáo, mở rộng. Mặt trận

dân tộc giải phóng để xây dựng thực lực và phát huy cao nhất sức mạnh của các lực lượng

cách mạng ở thành thị.

Thứ ba, bức thư đề cập đến vấn đề khẩu hiệu và tổ chức đấu tranh. Cách mạng miền

Nam trong thời điểm này cần lấy khẩu hiệu "chính quyền về tay nhân dân" để cổ vũ đấu

tranh. Nhưng để tập hợp và phát triển lực lượng cách mạng ở đô thị cần đưa ra những khẩu

hiệu cụ thể như đòi tự do, cơm áo, hoà bình, ruộng đất, chống bắt lính, cướp đất, đuổi nhà,

chống thuế... Đề ra được khẩu hiệu sát đúng rồi, vấn đề quan trọng hơn là phải biết phát

động, tập hợp quần chúng đấu tranh. Đồng chí cho rằng, ở thành thị miền Nam, chúng ta phải

tập hợp, tổ chức lực lượng trong các xí nghiệp sản xuất, trong các khu lao động nội thành và

ven đô, phát triển các tổ chức công khai nửa công khai thuộc về các giới, giáo, nghề nghiệp...

để tập hợp đông đảo quần chúng. Phải bắt kịp mọi sự kiện kinh tế, xã hội, chính trị hàng ngày

để phát động đấu tranh. Trong khi phát triển mạnh các tổ chức công khai cũng cần đồng thời

phát triển tổ chức, cơ sở bí mật, để cao cảnh giác, chống địch đánh phá.

Tiếp đó, đồng chí nhắc nhở vấn đề lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch như Đảng ta ( Đại

hội III) đã tổng kết đây là một nguyên tắc

107

chiến lược, chứ không phải chỉ là vấn đề sách lược. Hiện tại, nội bộ địch đang tồn tại nhiều

mâu thuẫn, có lúc gay gắt, lợi dụng được mâu thuẫn nội bộ kẻ địch, chúng ta có điều kiện tập

hợp lực lượng rộng rãi nhất.

Cuối cùng, đồng chí để cập đến vấn đề thời cơ. Phương hướng chiến lược của ta là

tiến lên tổng công kích - tổng khởi nghĩa. Qua phân tích kinh nghiệm của cuộc cách mạng

tháng Mười Nga và cách mạng tháng Tám năm 1945, và thực tế đấu tranh của nhân dân thành

thị miền Nam hơn 10 năm qua, đồng chí khẳng định chúng ta hoàn toàn có thể khởi nghĩa

thành công ở các đô thị, phối hợp chặt chẽ với các đòn công kích mạnh. Tuy nhiên, đồng chí

nhắc nhở rằng: cần chuẩn bị thực lực thật đầy đủ, nắm vững tình hình, nắm vững phương

hướng chiến lược và những nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa và có quyết tâm hành động. Có

như vậy, chúng ta mới có thể chớp thời cơ, tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa thành

công.

Ngày 6 tháng 7

Đồng chí Nguyễn Chí Thanh từ trần

Ngày 6-7-1967, đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung

ương Đảng, Uỷ viên Hội đồng Quốc phòng, phụ trách Trung ương Cục miền Nam, Chính uỷ

Bộ Tư lệnh Miền từ trần sau một cơn đau tim nặng, thọ 53 tuổi.

Chỉ thị Hồ Chí Minh đã ký lệnh (số 75/LCT) truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và

Huân chương Quân công hạng nhất cho đại tướng Nguyễn Chí Thanh do những cống hiến

xuất sắc cho cách mạng Việt Nam.

Đồng chí Phạm Hùng ủy viên Bộ Chính trị vào Nam được cử giữ chức Bí thư Trung

ương Cục miền Nam, thay đồng chí Nguyễn Chí Thanh.

108

Ngày 18 tháng 10

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về phát động quần chúng.

Ngày 18-10-1967, Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị số 81 về việc phát động quần

chúng thừa thắng xông lên đánh bại ý chí xâm lược của giặc Mỹ, giành thắng lợi quyết định

trong thời gian tương đối ngắn.

Chỉ thị nêu rõ: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, việc phát động tư tưởng quần

chúng là rất quan trọng, đặc biệt trong thời điểm lịch sử quyết định, Đảng bộ và nhân dân

miền Nam chuẩn bị dốc sức giành thắng lợi quyết định.

Yêu cầu của đợt phát động là nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân,

thể hiện thành những hành động cách mạng sôi nổi, khẩn trương.

Chỉ thị đề ra những yêu cầu rất cụ thể về phát động tư tưởng cho mỗi vùng, mỗi giai

cấp, mỗi giới với khẩu hiệu trung tâm của cuộc phát động là: "Tranh thủ thời cơ, thừa thắng

xông lên, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ và bọn tay sai, giành toàn bộ chính quyền về tay

nhân dân".

Chỉ thị cũng nêu rõ việc phát động quần chúng chuẩn bị cho tổng công kích, tổng

khởi nghĩa phải tiến hành thường xuyên, liên tục, khẩn trương với nhiều đợt khác nhau. Cuộc

phát động được chia làm nhiều đợt khác nhau cho các đối tượng và mục tiêu cụ thể trước mắt

nhằm tiến tới đánh bại hoàn toàn đế quốc Mỹ và tay sai giành thắng lợi quyết định.

Ngày 24 tháng 11

Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị đẩy mạnh phong trào cách mạng miền Nam.

109

Ngày 24-11-1967 Thường vụ Trung ương Cục ra Chỉ thị. "Đẩy mạnh hơn nữa tốc độ

thực hiện nghị quyết của Trung ương và Trung ương Cục theo kịp với sự phát triển và yêu

cầu của tình hình".

Từ sau hội nghị Trung ương Cục tháng 6-1967, nhận thức tư tưởng và hành động cách

mạng của cán bộ chiến sỹ và quần chúng nhân dân được nâng lên, tạo đà cho ta đẩy mạnh

cuộc kháng chiến, giành thắng lợi to lớn nhất. Tuy nhiên, sự phát triển của phong trào cách

mạng còn chưa theo kịp tình hình, còn thiếu sót về nhận thức tư tưởng và thực hiện các nghị

quvết của cấp trên. Do vậy, Trung ương Cục thấy cần phải bổ khuyết một số vấn đề sau:

Về nhận thức tư tưởng phải thấy địch đang ở thế thua, thế bị động và ta ở thế thắng,

thế chủ động. Do đó cần có tinh thần tiến công địch mạnh mẽ trong mọi tình huống, có quan

điểm quần chúng thật vững và có một lòng tin sắt đá vào thắng lơi cuối cùng. Phải đạt được

những đỉnh cao nhất trên các mặt vũ trang, chính trị, binh vận, sản xuất và bảo vệ sản xuất,

động viên phục vụ tiền tuyến.

Về lãnh đạo phong trào đấu tranh: sắp tới phải thấu suốt phương châm hai chân ba

mũi, tích cực, kiên quyết, chủ động tấn công: "chân vũ trang tấn công, chân chính trị tấn

công, chân binh địch vận tấn công, ba mũi thực hiện giáp công thành một thế tấn công địch

mạnh mẽ ở khắp nơi". Do vậy cần phối hợp chặt chẽ ba thứ quân, đánh nhỏ, đánh vừa, đánh

lớn, đánh liên tục, vận dụng 6 phương thức tác chiến linh hoạt. Tấn công địch kết hợp với xây

dựng lực lượng, đảm bảo thắng lợi lớn nhất về đấu tranh vũ trang. Đối với công tác đô thị và

những vùng xung yếu, chỉ thị nêu rõ phải tăng cường chỉ đạo địa bàn này, mạnh dạn phát

triển Đảng, Đoàn, các tổ chức quần chúng, mở rộng điện quần chúng cảm tình và tích cực

xây dựng các lõm chính trị ở các đô thị. Phải mạnh dạn, nhạy bén, khẩn trương đưa phong

trào tiến lên.

Vùng giải phóng phải xây dựng củng cố thành hậu phương hoàn chỉnh và vững chắc

trong đó chú ý đặc biệt công tác kinh tế tài chính vì đó là cơ sở vật chất cho cuộc chiến đấu

của ta. Đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống càn quét. Cũng trong thời gian tới, đấu

tranh chính tri lấy khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, giành chính quyền

về tay nhân dân" để tập hợp quần chúng

110

đấu tranh. Sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng sẽ là yếu tố rất quan trọng để đưa phong trào đi

lên, giành thắng lợi quyết định.

Ngày 28 tháng 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng, quyết định

chủ trương của đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968).

Sau Hội nghị, Người chỉ thị cho cán bộ chỉ huy các chiến trường: Kế hoạch phải thật

tỉ mỉ; hợp đồng phải thật ăn khớp; bí mật phải thật tuyệt đối; hành động phải thật kiên quyết;

cán bộ phải thật gương mẫu.

Tháng 12

Trung ương Cục miền Nam và Khu ủy Sài Gòn-Gia Định chuẩn bị kế hoạch tổng

công kích - tổng khởi nghĩa.

Tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị ra Nghị quyết lịch sử "chuyển cuộc đấu tranh cách

mạng miền Nam của ta sang một thời kỳ mới -thời kỳ giành thắng lợi quyết định". Tháng 1-

1968 nghị quyết này được Trung ương Đảng chính thức thông qua. Tuy nhiên, tinh thần của

nghị quyết đã đến Trung ương Cục miền Nam và Bộ chỉ huy Miền từ tháng 10-1967. Và

Trung ương Cục miền Nam đã ra nghị quyết về tổng công kích - tổng khởi nghĩa (10-1967)

gọi là "Nghị quyết Quang Trung" lấy Đông Nam Bộ và Sài Gòn làm trọng điểm, hướng tiến

công chủ yếu là Sài Gòn. Mục đích của ta là xoá bỏ ngụy quyền, thành lập chính quyền cách

mạng và thực hiện những nhiệm vụ tiếp theo trên cơ sở đã giành được chính quyền.

Ngày 25-10-1967, Trung ương Cục quyết đinh giải thể Quân khu 7 và Quân khu Sài

Gòn - Gia Định, tổ chức lại chiến trường miền Đông theo yêu cầu, nhiệm vụ mới. "Khu trọng

điểm" được thành lập, ban lãnh đạo có đồng chí Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Trần Văn

Trà. Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định họp tại chiến khu Dương Minh Châu hạ quyết tâm động viên

mọi lực lượng thực hiện 2 nhiệm vụ trên giao là: đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch tại

Sài Gòn, phát động quần chúng giành chính quyền về tay nhân dân. Khu trọng điểm được

111

tổ chức thành 6 phân khu và Trung ương Cục cũng quyết định thành lập Đảng uỷ tiền phương

và 2 Bộ chỉ huy tiền phương Bắc và Nam.

NĂM 1968

Ngày 18 tháng 1

Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho Trung ương Cục và Quân u ỷ miền Nam bàn về

tổng công kích - tổng khởi nghĩa.

Ngày 18-1-1968, đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho Trung ương Cục và Quân uỷ miền

Nam bàn về thực hiện nhiệm vụ tổng công kích - tổng khởi nghĩa mà Trung ương Đảng đã ấn

định sẽ nổ ra vào dịp Tết Mậu Thân 1968.

Đồng chí nhắc nhở thời cơ là hết sức quan trọng. Điểm lại qua trình quân và dân miền

Nam liên tiếp thắng địch trong "chiến tranh cục bộ", đồng chí khẳng định "tình hình cơ bản

hiện nay là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi; địch đang ở thế thua, thế bị động

và khó khăn". Quân và dân miền Nam đã "đánh bại một bước quan trọng cuộc "chiến tranh

cục bộ" của Mỹ đã phát triển tới mức rất cao". Đế quốc Mỹ đang ở vào "tình thế tiến thoái

lưỡng nan về chiến lược" và cố gắng của Mỹ ương chiến tranh Việt Nam đã lên tới đỉnh cao

nhất. Tình hình trên cho phép chúng ta có thể tiến lên giành thắng lợi quyết định bằng tổng

công kích - tổng khởi nghĩa.

Đồng chí nhắc nhở Trung ương cục và Quân ủy miền Nam nắm vững mục đích, yêu

cầu của TCK - TKN và dự đoán những khả năng phát triển của tình hình và quyết tâm của ta.

Thực chất yêu cầu của đợt TCK - TKN sắp tới là giáng cho địch những đòn sấm sét, làm thay

đổi cục diện chiến tranh, làm lung lay hơn nữa ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải thay

đổi chiến lược, xuống thang chiến tranh.

Về hướng tiến công của ta, đồng chí chỉ rõ: một đòn chính của chủ lực ta là nhằm vào

nông thôn, mặt khác một đòn chính nữa phải nhằm vào thành thị. "Hướng công kích và khởi

nghĩa nhằm vào thành

112

thị, nhưng phải nhớ rằng kết quả lớn nhất, quan trọng, nhất phải đạt được là ở việc giành và

giữ nông thôn".

Cuối cùng, đồng chí động viên cán bộ, chiến sỹ và nhân dân miền Nam tiến lên giành

thắng lợi to lớn nhất, thỏa lòng mong ước của Trung ương Đảng và Bác Hồ.

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích.

Để đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, ngày 18-1-1968 Thường vụ Trung ương

Cục và Quân uỷ Miền ra Chỉ thị "Về đẩy mạnh xây dựng và hoạt động, tác chiến của dân

quân du kích trong thời gian tới".

Nhìn lại phong trào chiến tranh du kích trong năm 1967 chỉ thị đánh giá: Năm qua

chiến tranh du kích đã phát triển mạnh mẽ, rộng rãi cả về số lượng chất lượng, góp phần vào

những thắng lợi to lớn của cách mạng miền Nam. Tuy nhiên phong trào còn chưa đều, chưa

mạnh giữa các vùng, so với dân số còn thấp, đặc biệt ở các vùng đô thị, vùng ven.

Do vậy nhiệm vụ xây dựng, hoạt động và tác chiến của dân quân du kích trong thời

gian tới được xác định là : "Dựa trên cao trào chính trị và thắng lợi quân sự hiện nay, nhanh

chóng xây dựng lực lượng dân quân du kích rộng rãi và vững chắc, phối hợp chặt chẽ với bộ

đội địa phương và chủ lực, kết hợp với đấu tranh chính trị và binh địch vận, tiến công địch

mạnh mẽ và liên tục, hỗ trợ cho quần chúng đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền, đồng

thời sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc

Mỹ".

Các chỉ tiêu cụ thể về phát triển dân quân du kích cho vùng giải phóng là 13%; vùng

tranh chấp là 6-8%, vùng tạm chiếm từ 2-4% ( so với dân số).

113

Chỉ thị nhấn mạnh: các cấp ủy Đảng cần quán triệt sâu sắc đường lối nhiệm vụ,

phương châm đấu tranh và phương hướng chiến lược của Đảng, tăng cường giáo dục cho dân

quân du kích thấy rõ vị trí vai trò của mình. Tăng cường cán bộ Đảng, Đoàn vào dân quân du

kích để lãnh đạo, chi đạo lực lượng dân quân du kích thực hiện tốt nhiệm vụ đang đặt ra.

Ngày 5 tháng 2

Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền ra Nghị quyết về phát huy thắng lợi

của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân.

Ngày 5-2-1968 Thường vụ Trung ương Cục và quân ủy Miền đã họp và ra nghị quyết

"Thừa thắng xông lên, liên tục tấn công địch kiên quyết giành thắng lợi cuối cùng".

Đánh giá tình hình Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mâu Thân từ 30-1 đến 5-2-1968,

hội nghị nhận định: Ta "đã giành được thắng lọi hết sức to lớn và toàn diện. Quân ta đã tiêu

hao, tiêu diệt và làm tan rã 1 bộ phận quan trọng quân ngụy, nhiều cơ quan và bọn chỉ huy

các cấp, đã tiêu diệt rất nhiều phương tiện chiến tranh của. Mỹ gồm có máy bay, xe cơ giới,

pháo cối, đạn dược, chất đốt, đã bắt sống nhiều binh lính và sỹ quan MỸ ngụy, chư hầu, đã

đánh sụp đổ bộ máy ngụy quyền ở cơ sở và đánh tan ngụy quân từ quận đến trung ương, giải

phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn, nhiều quận lỵ thị trấn. chiếm giữ và làm chủ với mức

độ khác nhau nhiều thành phố thị xã, liên tục đánh địch phản kích giành thắng lợi lớn".

Nghị quyết đã phân tích kỹ lưỡng những thuận lợi và khó khản của ta và địch từ đó đề

ra chủ trương hoạt động trong thòi gian tới là: kiên quyết và liên tục tiến công địch, phát huy

những thắng lợi đã đạt được, tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Một số nhiệm vụ cụ thể được

nghị quyết nêu ra:

1. Tăng cường công tác chính trị tư tưởng trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta,

xây dựng một quyết tâm mới, động viên một sự cố gắng phi thường vươn lên, xốc tới liên tục

tấn công địch.

114

2. Về quân sự phải liên tục tấn công địch nhiều hơn nữa. Kiên quyết chốt giữ một số

địa bàn chiến lược đã chiếm được, hình thành thế bao vây, cô lập địch. Tăng cường xây dựng

lực lượng và phối kết hợp sức mạnh của các lực lượng vũ trang, cô lập Mỹ, tiêu diệt ngụy.

3. Về chính trị: liên tục phát động quần chứng nổi dậy đấu tranh, kết hợp với vũ trang

và binh vận đánh sụp ngụy quân, ngụy quyền. Xây dựng và mở rộng chính quyền cách mạng

ở các khu vực đã giải phóng, đập tan bộ máy chính trị phản động của địch.

4. Về công tác binh vận phải đẩy mạnh phong trào binh vận rộng rãi của quần chúng,

chú ý đối tượng ngụy quân ngụy quyền, cố gắng tuyên truyền trong quân Mỹ và chư hầu.

5. Chấn chỉnh và linh hoạt ương lãnh đạo chỉ huy, khắc phục ngay những thiếu sót và

sai lạc trong tổ chức chiến đấu, trong tiếp tế...

Cuối cùng nghị quyết kêu gọi toàn Đảng, toàn dân ta hãy thừa thắng xông lên tiếp tục

tiến công truy kích địch, kiên quyết giành thắng lợi cuối cùng. Các khu ủy, tỉnh ủy phải kiểm

điểm sâu sắc công tác lãnh đạo, chỉ đạo cuộc tổng tiến công và nổi dậy.

Ngày 19 tháng 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi cán bộ chiến sĩ và nhân dân miền Nam

qua đợt I Tổng tiến công và nổi dậy

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư nhiệt liệt khen ngợi chiến thắng vẻ vang của đồng bào

và chiến sỹ miền Nam và có mấy lời dặn dò tóm tắt như sau:

- Ý chí phải thật kiên quyết.

- Kế hoạch phải thật tỷ mỷ.

- Kiểm tra phải thật kỹ càng.

- Phối hợp phải thật ăn khớp.

- Chấp hành phải thật chu đáo.

- Cán bộ phải thật gương mẫu.

115

- Bí mật phải giữ triệt để.

Sau bức thư này, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đã ra Chỉ thị về học tập thư

Bác. Chỉ thị để nghị việc phổ biến và học tập, thảo luận thư của Bác trong toàn Đảng, toàn

dân, toàn quân miền Nam, kết hợp với việc học tập Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần

thứ 6, nhằm làm cho miền Nam luôn thấy sự quan tâm hàng giờ hàng phút của Bắc tới miền

Nam, phấn khởi thi đua thực hiện những lời Bác dạy, quyết tâm phấn đấu đưa cách mạng

miền Nam tiến lên.

Ngày 23 tháng 3

Trung ương Cục miền Nam chủ trương mở đợt hai tổng tiến công và nổi dậy.

Ngày 23-3-1968 Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị tiếp tục đẩy mạnh tổng tiến công và

nổi dậy, giành thắng lợi to lớn hơn nữa, đẩy Mỹ ngụy vào thế bị động hơn nữa. Chấp hành

chỉ thị này, Trung ương Cục miền Nam chủ trương "Mở đợt tấn công thứ hai nhằm liên tục

tiến công địch và phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, ra sức tiêu hao, tiêu diệt

thật nhiều sinh lực đa phương tiện chiến tranh của Mỹ ngụy, duy trì và đẩy mạnh các mặt

hoạt động trên địa bàn đô thị, làm chủ các đường giao thông chiến lược, giải phóng toàn bộ

nông thôn, đồng bằng, miền núi và tăng cường xây dựng củng cố, phát triển lực lượng vũ

trang và chính trị, giành thắng lợi liên tiếp và vững chắc, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn

với tinh thần hết sức khẩn trương, đồng thời sẵn sàng ứng phó một cách chủ động nếu chiến

tranh kéo dài và mở rộng".

Tháng 3

Hội nghị Trung ương Cục miền Nam (mở rộng) lần thứ VI ra Nghị quyết đẩy

mạnh tổng công kích - tổng khởi nghĩa.

Trong bối cảnh cuộc tổng công kích tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân đang diễn ra ác

liệt, đầu tháng 3-1968, Trung ương Cục đã họp

116

hội nghị (mở rộng) lần thứ 6, ra Nghị quyết động viên quân dân miền Nam tiến lên giành

thắng lợi hoàn toàn.

Nhận định tình hình qua một tháng tổng công kích, tổng khởi nghĩa, nghị quyết đánh

giá quân và dân ta đã giành được thắng lợi to lớn và toàn diện chưa từng có, có ý nghĩa hết

sức quan trọng. Nó đánh dấu một bước ngoặt hết sức quan trọng trong việc làm thay đổi

nhanh chóng so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra những sức mạnh to lớn về quân sự,

chính trị, kinh tế và mở ra một cục diện mới trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, đặt cơ sở

vững chắc đưa tổng công kích tổng khởi nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn. Nghị quyết cũng

phân tích rõ những nguyên nhân thắng lợi của ta, đồng thời chỉ rõ những khuyết điểm hạn chế

thắng lợi. Vì vậy chúng ta "chưa giành được thắng lợi cao nhất theo khả năng thứ nhất". Tổng

công kích - tổng khởi nghĩa đã đưa đến một hình thái hoàn toàn mới trên các mặt quân sự,

chính trị, kinh tế so với các thời kỳ trước. Đó là "liên tục tấn công và liên tục nổi dậy", "đánh

đổ hoàn toàn ngụy quyền tay sai, đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ,

giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân".

Nghị quyết đã giải đáp nội dung quá trình tổng công kích tổng khởi nghĩa là: "một

giai đoạn, một quá trình tấn công chiến lược rất ác liệt và phức tạp bằng cả tấn công quân sự,

tấn công chính trị với ba mũi giáp công trên cả 3 vùng chiến lược và có phối hợp với tấn công

ngoại giao. Đó là một giai đoạn gồm nhiều chiến dịch lớn của quân đội ở các vùng chiến lược

quan trọng kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng cách mạng ở khắp các đô thị và vùng nông

thôn còn bị tạm chiếm... là quá trình ta tấn công và truy kích địch liên tục cả về quân sự và

chính trị đồng thời cũng là quá trình địch phản kích ác liệt để giành giật và chiếm lại những

vị trí chiến lược quan trọng đã mất". Nghị quyết cũng chỉ rõ: Những cố gắng chủ quan và

nghệ thuật chỉ đạo chỉ huy của ta có tác dụng quyết định trực tiếp.

Nghị quyết nêu lên chủ trương sắp tới của ta là "Ra sức động viên toàn Đảng bộ, toàn

quân, toàn dân kiên quyết giữ vững và không ngừng phát huy thắng lợi đã giành được nhanh

chóng khắc phục các khuyết điểm và nhược điểm, liên rục tấn công địch và phát động quần

chúng nổi dậy giành chính quyền, ra sức tiêu hao, tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện

chiến tranh của Mỹ ngụy, duy trì và đẩy mạnh

117

các mặt hoạt động: trên địa bàn đô thị, làm chủ các đường giao thông chiến lược, giải phóng

và làm chủ toàn bộ các vùng nông thôn đồng bằng, miền núi và tăng cường xây dựng hậu

phương lớn mạnh về mọi mặt, nhanh chóng xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng vũ trang

chính trị, giành thắng lợi liên tiếp và vững chắc, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn với tinh

thần hết sức khẩn trương; đồng thời sẵn sàng ứng phó một cách chủ động nếu chiến tranh kéo

dài và mở rộng". Từ chủ trương trên, nghị quyết nêu ra 4 nhiệm vụ cụ thể mà vấn đề then

chốt nhất là ta phải có đủ sức mạnh chính trị và quân sự để tiêu diệt nhiều sinh lực và phương

tiện chiến tranh của địch.

Để thực hiện tốt chủ trương và nhiệm vụ nói trên, nghị quyết đã đề ra các mặt Công

tác cụ thể, cấp bách:

Một là: Kiên quyết và liên tục tấn công địch, nhanh chóng xây dựng lực lượng vũ

trang lớn mạnh vượt bậc làm nòng cốt cho tổng công kích - tổng khởi nghĩa.

Hai là: Nhanh chóng phát triển lực lượng chính trị, liên tục phát động và lãnh đạo

quần chúng nổi dậy khởi nghĩa.

Ba là: Đẩy mạnh phong trào binh biến khởi nghĩa trong quân ngụy, thực hiện khẩu

hiệu công nông binh liên hiệp, gây phong trào phản chiến trong quân Mỹ và chư hầu.

Bốn là: Xây dựng hậu phương vững mạnh về kinh tế tài chính, động viên đúng mức

sức người, sức của tập trung cao độ cho chiến đấu và chiến thắng, chăm lo đời sống nhân

dân, triệt phá mọi nguồn vơ vét cướp phá của địch.

Năm là: Tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao quyết tâm và khí thế cách

mạng trong toàn quân, toàn dân.

Sáu là: Gấp rút tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cải tiến và nâng cao trình độ chỉ

đạo chỉ huy của các cấp.

Cuối cùng, nghị quyết kêu gọi, động viên toàn Đảng toàn quân, toàn dân ta dũng cảm,

kiên quyết tiếp tục tiến hành tổng công kích -tổng khởi nghĩa tiến lên giành thắng lợi hoàn

toàn.

118

Ngày 4 tháng 4

Trung ương Cục ra Chỉ thị về tiết kiệm vũ khí đạn dược

Ngày 4-4-1968, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền ra Chỉ thị

về vấn đề tiết kiệm vũ khí đạn dược.

Theo chỉ thị, trong những năm vừa qua, các lực lượng vũ trang giải phóng đã được

trang bị nhiều loại vũ khí mới, quý giá góp phần làm nên những thắng lợi to lớn. Tuy nhiên

cũng đã nảy sinh nhiều hiện tượng xấu trong quản lý và sử dụng vũ khí. Nhiều đơn vị chỉ

muốn vũ khí mới, không nhận các loại vũ khí đã sản xuất lâu năm hoặc vũ khí tự tạo, quản lý

vũ khí lỏng lẻo, ỷ lại cấp trên, xin nhiều dùng ít, đòi loại này loại kia. Ý thức bảo quản vũ khí

kém, để gỉ sét nhiều, hao hụt nhiều sau mỗi trận đánh. Việc thu hồi chiến lợi phẩm cũng bị

buông lơi. Trong sử dụng cũng xuất hiện các hiện tượng sai trái như sử dụng không đúng tính

năng vũ khí, sử dụng lãng phí dùng bắn chơi, bắn chim, đánh cá.

Các hiện tượng nói trên làm ảnh hưởng lớn công tác bảo đảm vận tải, phát huy tiềm

lực vũ khí và mối quan hệ giữa bộ đội và nhân dân, giữa các đơn vị với nhau.

Từ tình hình trên, Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền chỉ thị mở một đợt

sinh hoạt chính trị trong các cấp ủy Đảng, các địa phương và trong các lực lượng vũ trang

kiểm điểm việc lãnh đạo quản lý và sử dụng vũ khí trang bị, trên cơ sở đó tiến hành giáo dục

tư tưởng quý trọng, tiết kiệm vũ khí đạn dược, quản lý sử dụng vũ khí đúng chế độ, đúng tính

năng. Các đơn vị được yêu cầu báo cáo cụ thể trước và sau mỗi trận đánh về tình hình vũ khí

trang bị, mọi yêu cầu về vũ khí đạn được phải có sự giải trình đầy đủ mới được bổ sung.

Trong chiến đấu phải tận thu chiến lợi phẩm, "lấy súng địch đánh địch". Có như vậy mới đảm

bảo hiệu quả của công tác vận tải, nâng cao hiệu: quả chiến đấu góp phần làm nên những

thắng lợi to lớn hơn nữa.

119

Ngày 8 tháng 4

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập Hội đồng quân dân y

các cấp Miền, Khu, Phân khu và Tỉnh.

Xuất phát từ thực tế cuộc chiến đấu đang diễn ra ác liệt, khối lượng chiến thương của

ta nhiều ở các tuyến, bao gồm cả cán bộ chiến sỹ và nhân dân, Thường vụ Trung ương Cục

và Quân ủy Miền quyết định thành lập Hội đồng Quân dân y các cấp Miền, Khu, Phân khu

và Tỉnh, giúp các cấp ủy theo dõi, đôn đốc sự phối hợp giữa quân y và dân y.

Chấp hành chỉ thị đó, ngày 2-5-1968 Phòng quân y Miền và Ban dân y Miền đã họp

và ra Quy chế về tổ chức Hội đồng Quân dân y. Theo quy chế này Hội đồng Quân dân y là tổ

chức đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ giữa hai bên quân y và dân y, đặt dưới sự lãnh đạo của

cấp ủy cùng cấp. Hội đồng phải tôn trọng tính độc lập của mỗi bên và nghị quyết của Hội

đồng do mỏi bên thực hiện theo thủ tục hành chính.

Hội đồng Quân dân y được tổ chức ở các cấp Miền, Khu, Phân khu, Tỉnh do cấp ủy

cùng cấp chỉ định, thành phần bao gồm đại diện của cấp ủy, của Ban chủ nhiệm Hậu cần,

Phòng quân y và Ban dân y các cấp đó. Hội đồng chịu trách nhiệm báo cáo tình hình với cấp

ủy sở tại qua đồng chí đại diện gấp ủy phụ trách Hội đồng.

Ngày 12 tháng 5

Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền ra Nghị quyết đẩy mạnh Đợt 2 tổng

công kích, tổng khởi nghĩa..

Bảy ngày sau đạt 2 cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, ngày 12-5-1968,

Thường trục Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền đã họp bàn và ra nghị quyết về

công tác trước mắt.

Nhận định tình hình, nghị quyết cho rằng kẻ địch vẫn bị bất ngờ khi ta tấn công đợt 2

do vậy chúng ta đã giành một số thắng lợi bước

120

đầu, nhưng chưa đạt yêu cầu kế hoạch. Đạt tấn công đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, tiếp tục

làm mất ổn định nền kinh tế xã hội miền Nam đẩy lùi một bước ý chí xâm lược của đế quốc

Mỹ. Cách mạng miền Nam có những bước tiến bộ lớn về thế và lực, tiếp tục thế tấn công

địch với quyết tâm chiến đấu và chiến thắng rất cao.

Hạn chế của đợt tấn công được nhìn nhận là sức tấn công, tinh thần tấn công chưa

đều, chưa liên tục, thiếu mạnh mẽ giữa các chiến trường, giữa các lực lượng và sự chỉ đạo chỉ

huy còn chậm chạp, thiếu linh hoạt và kiên quyết.

Nguyên nhân của những hạn chế trên được xem chủ yếu là do chủ quan, do "ta chưa

quán triệt thật sâu sắc quyết tâm chiến lược của Trung ương và Trung ương Cục lần thứ 6,

chưa quán triệt đầy đủ mục đích yêu cầu và tầm quan trọng của đợt 2 trên nhận thức cũng

như trên hành động cụ thể, chưa nhận thức sâu sắc rằng trong điều kiện hiện nay vấn đề cố

gắng chủ quan và nghệ thuật chỉ đạo của ta có ý nghĩa quyết định".

Về tình hình hiện tại, nghị quyết phân tích: địch đang co cụm phòng thủ ven đô, nội

đô nên các phân khu suy yếu và sơ hở, chính trị ngoại giao còn đang lúng túng. Về phía ta,

bộ đội có thể trụ bám và tiến công sâu hơn vào đô thị và mở rộng vùng giải phóng nông thôn,

hỗ trợ phong trào nổi dậy của quần chúng. "Thời cơ hiện nay tốt hơn bất cứ lúc nào hết".

Từ sự phân tích tình hình, nghị quyết chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách trước mắt là: "Làm

cho toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân nhận rõ thắng lợi to lớn ở hướng trọng điểm, động

viên mọi người kiên quyết giữ vững và phát triển thắng lợi bước đầu đã giành được ở Sài

Gòn và phát triển thật mạnh mẽ trên toàn miền, đánh sụp thêm một bước ngụy quân, ngụy

quyền gây thiệt hại nặng và đè bẹp ý chí xâm lược của quân Mỹ, tạo điều kiện tốt hơn để tiến

tới giành thắng lợi hoàn toàn".

Nghị quyết cũng nêu lên những nhiệm vụ cụ thể mà quân dân chiến trường trong điểm

và chiến trường các khu cần làm. Một số vấn đề cần chú ý đối với các cấp ủy Đảng về sự lãnh

đạo chỉ đạo nhiệm vụ

121

trước mắt cũng được nghị quyết đề cập, nhằm làm cho công tác lãnh đạo chỉ đạo tiến bộ hơn

nữa.

Cuối cùng nghị quyết kêu gọi đồng bào chiến sỹ miền Nam phối hợp chặt chẽ với

chiến trường Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, chủ động tiến công, liên tục tiến công, giành

thắng lợi to lớn trong đạt 2, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Ngày 25 tháng 5

Trung ương Cục miền Nam chủ trương củng cố chính quyền cách mạng.

Tiếp theo các chỉ thị và điện bổ sung ngày 15-1-1968 và 29-8-1968 về xây dựng hệ

thống chính quyền cách mạng từ xã ấp lên tỉnh, ngày 25-5-1968 Trung ương Cục miền Nam

lại ra một chỉ thị quan trọng dưới nhan đề: "Ra sức xây dựng chính quyền cách mạng các cấp

theo kịp sự phát triển của tình hình".

Chỉ thị nêu lên vấn đề từ khi "Đồng khởi" các cơ cấu tổ chức của chính quyền xã ấp

được hình thành và hoạt động nhưng chính quyến cấp xã chính thức mới thành lập đầu năm

1968 ở một số nơi. Còn phần lớn các xã ấp giải phóng ta chưa lập chính quyền cách mạng

hoặc có thành lập nhưng không chặt chẽ.

Nguyên nhân của tình hình nói trên là các cấp các ngành chưa nhận thức rõ tầm quan

trọng của vấn để xâv dựng chính quyền là vấn đề cơ bản của cách mạng, chưa gắn tấn công

địch với xây dựng ta, ý thức chuyên chính cách mạng chưa triệt để. Tình hình hiện tại đang

rất thuận lợi cho việc xây dựng hệ thống chính quyền từ tỉnh xuống xã ấp.

Chỉ thị nêu rõ: chính quyền cách mạng miền Nam mang tính chất dân chủ nhân dân

chuyên chính dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù, liên hiệp rộng rãi với người yêu

nước. Thành phần chủ yếu là công nông để đảm bảo tính chuyên chính của Đảng. Chính

quyền cách mạng kiên quyết đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ chính quyền

tay sai, thực hiện các quyền lợi của nhân dân.

122

Nhiệm vụ của chính quyền cách mạng được xác định là tổ chức lãnh đạo nhân dân

miền Nam chiến đấu hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam, hoà bình,

thống nhất tổ quốc tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Trung ương Cục miền Nam chủ trương đánh đổ địch tới đâu, lập chính quyền cách

mạng tới đó, lập chính quyền từ thấp lên cao, chuẩn bị điều kiện lập chính quyền trung ương

khi có điều kiện.

Tùy theo điều kiện từng địa phương mà bầu cử hoặc chỉ định ra chính quyền cách

mạng chính thức hoặc lâm thời, hoặc dự định chính quyền. Tiêu chuẩn những người được

chọn vào chính quyền là: có thành tích chiến đấu, được quần chúng tín nhiệm và hết lòng

phục vụ nhân dân.

Chỉ thị cũng nêu lên cấu tạo, số lượng, thành phần, lề lối làm việc và mối quan hệ, số

lượng, thành phần, lề lối làm việc và mối quan hệ giữa chính quyền với các cấp các ngành

đoàn thể khác.

Kết quả thực hiện chỉ thị nói trên: xây dựng chính quyền xã 516 xã / 1800 xã trong đó

Nam Bộ và T6 được 300 xã/1200 xã, T5 được 225 xã/600 xã. Xây dựng chính quyền huyện

21 huyện/170 huyện trong đó Nam Bộ và T6: 7 huyện/121 huyện, T5: 14 huyện/50 huyện, ba

tỉnh là Cà Mau, Gia Lai, Mỹ Tho đã xây dựng chính quyền (trên tổng số 44 tỉnh). (Số liệu

cuối năm 1968). Hệ thống chính quyền cách mạng đã đem lại cho đồng bào quyền dân sinh,

dân chủ, bình đẳng... trong đó quan trọng nhất là đem lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân.

Hệ thống chính quyền cách mạng thực sự trở thành một nhân tố thắng lợi của cách mạng

miền Nam.

Ngày 5 tháng 6

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở đ ô thị.

Ngày 5-6-1968, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị "Nhân đà thắng lợi

đợt hai, đẩy mạnh tấn công chính trị ở các đô thị".

123

Chỉ thị nêu lên tình hình đô thị sau đạt tổng tiến công và nổi dậy lần thứ hai của ta là:

nội bộ kẻ địch hết sức lục đục, đang ra sức đàn áp cách mạng. Liên minh Dân tộc dân chủ hoà

bình ra đời, đoàn kết các tầng lớp nhân dân đấu tranh. Quần chúng sôi sục căm thù giặc, phấn

khởi tin tưởng hơn vào cách mạng.

Từ tình hình trên, chỉ thị nêu một số vấn đề chỉ đạo phong trào đô thị. Đối với chính

phủ ngụy quyền (đang đưa ra 4 chính sách lừa bịp) và âm mưu chính trị của Mỹ, phải vạch

trần bộ mặt tay sai bán nước, chống dân tộc, chống tổ quốc của chính phủ trương và các mặt

trận do Mỹ lập ra. Tiếp tục khoét sâu mâu thuẫn trong chính phủ và chính sách của chính phủ

Hương (như bỏ kiểm duyệt báo chí, đòi cứu trợ, cải thiện đời sống nhân dân...), vừa đấu tranh

vừa xây dựng lực lượng.

Tuyên truyền rộng rãi chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng và Liên minh dân

tộc dân chủ hoà bình, đặc biệt trong trí thức, tư sản, tôn giáo, công chức ngụy. Tập hợp quần

chúng lớp dưới vào Mặt trận, tranh thủ quần chúng lớp trên vào Liên minh, cô lập chính phủ

Trần Văn Hương.

Do địch vừa khủng bố dữ dội, vừa đưa ra các chính sách lừa mị nên ta có khả năng

tiếp tục tổng công kích - tổng khởi nghĩa đồng thời tổ chức đấu tranh chính trị lợi dụng những

thủ đoạn lừa mị của địch, kết hợp vừa đấu tranh, vừa xây dựng lực lượng.

Ngày 23 tháng 6

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị hướng dẫn việc kết hợp cuộc đấu tranh

quân sự, chính trị và ngoại giao.

Thất bại trên chiến trường, đế quốc Mỹ buộc phải đàm phán với chính phủ Việt Nam

dân chủ cộng hoà. Trong tình hình cuộc đấu tranh ngoại giao đã mở ra, Thường vụ Trung

ương Cục đã ra chỉ thị hướng dẫn phong trào đấu tranh tiếp tục phát triển. Chỉ thị nêu rõ: Mỹ

xuống thang chiến tranh nhưng ta chưa đủ mạnh nên Mỹ ngụy còn rất ngoan cố xảo quyệt

trên mặt trận quân sự cũng như trên bàn hội nghị.

124

Tuy nhiên cuộc đấu tranh ngoại giao của ta đang thắng lợi cùng với thắng lợi của cuộc tổng

tiến công và nổi dậy, đấu tranh vạch trần bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, đòi Mỹ chấm dứt

ném bom miền Bắc và đàm phán nghiêm chỉnh.

Trước tình hình trên, chỉ thị đề ra những công tác giáo dục tư tưởng cũng như hướng

dẫn hành động cho cách mạng miền Nam. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố nên chúng ta phải đẩy

mạnh quyết tâm tấn công địch mạnh hơn nữa để hổ trợ cho cuộc đàm phán, tránh tư tưởng

chờ đợi, hy vọng, ảo tưởng hoà bình. Phát động quần chúng vạch tội ác của đế quốc Mỹ và

tay sai, nâng cao lòng căm thù và quyết tâm chiến đấu, tinh thần đoàn kết hai miền Nam Bắc

và ủng hộ Mặt trận dân tộc giải phóng, đập tan các luận điệu chiến tranh tâm lý của địch.

Nhân dịp ngày 20-7-1968 tiến hành một cuộc động viên chính trị lớn bằng cách tuyên truyền,

khen thưởng thành tích chiến đấu của quân và dân miền Nam qua đó động viên cổ vũ tinh

thần hăng hái kháng chiến. Đặc biệt ở địa bàn đô thị, Trung ương Cục đã chủ trương đẩy

mạnh phong trào đấu tranh chính trị đi đối với phong trào nổi dậy diệt ác phá kèm. Lấy khẩu

hiệu "Hoà bình" để tập hợp quần chúng, lôi kéo các tầng lớp trung gian, tập trung biểu dương

lực lượng làm rối loạn hậu phương của địch. Tóm lại là phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu

tranh quân sự, chính trị, kết hợp với cuộc đấu tranh ngoại giao để tạo nên sức mạnh tổng hợp

giành thắng lợi to lớn hơn nữa.

Ngày 1 tháng 7

Trung ương Cục miền Nam gửi thư cho các chiến sỹ mới bổ sung từ miền Bắc vào

chiến trường Nam Bộ.

Ngày 1-7-1968, Trung ương Cục miền Nam và Quân uỷ Miền gửi thư cho cán bộ,

chiến sỹ, đảng viên, đoàn viên thuộc các đơn vị bổ sung, mới từ miền Bắc vào.

Bức thư nói lên tình cảm Nam - Bắc ruột thịt, miền Nam vô cùng biết ơn đồng bào và

chiến sỹ miền Bắc đã không tiếc xương máu cùng nhân dân miền Nam tiến lên hoàn thành sự

nghiệp giải phóng miền Nam.

125

Thắng lợi vừa qua là thắng lợi chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân 2 miền,

tuy nhiên đây cũng là thời kỳ thử thách quyết liệt đối với chúng ta.

Trung ương Cục và Quân uỷ Miền nhắc nhở các đồng chí tân binh miền Bắc mới

được bổ sung vào phải luôn luôn quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nắm chắc tay

súng, kiên quyết và liên tục tiến công, vượt mọi gian khổ, hy sinh, đoàn kết với đồng đội, với

nhân dân, thực hiện tốt những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh (trong thư ngày 19-3-

1968), vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.

Cuối thư, Trung ương Cục và Quân ủy Miền gửi gắm đến những chiến sĩ miền Bắc

mới vào những tình cảm thương mến của nhân dân miền Nam và chờ đợi những chiến công

to lớn hơn nữa của "anh bộ đội cụ Hồ".

Trong năm 1968

Quân và dân miền Nam tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi to lớn.

Tháng 12-1967, Bộ chính trị Trung ương Đảng họp, ra nghị quyết về tổng công kích -

tổng khởi nghĩa (tháng 1-1968 được Hội nghị lần thứ 14 BCH Trung ương Đảng thông qua).

Chấp hành Nghị quyết này, trong năm 1968, quân và dân miền Nam đã tiến hành 3 đạt tổng

công kích và tổng khởi nghĩa.

Đợt 1: Từ ngày 30-31.1.1968 đến 25-2-1968, ta đã tiến công vào 4/6 thành phố,

37/42 thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn trên khắp miền Nam, hầu hết các cơ quan đầu não

của Mỹ ngụy đều bị tấn công, gây thiệt hại nặng cho địch về sinh lực, phương tiện chiến

tranh, cơ sở hạ tầng...

Đợt 2: Từ ngày 5-5 đến đầu tháng 6-1968, ta đã tiến công bằng pháo và bộ binh vào

31 thành phố, thị xã, 58 thị trấn, quận lỵ và nhiều mục tiêu quân sự của địch.

126

Đợt 3: Từ ngày 17-8-1968 đến 30-9-1968, quân và dân miền Nam đã tiến công chủ

yếu bằng pháo binh vào 27 thành phố, thị xã, 100 thị trấn, quận lỵ, chi kim quân sự và nhiều

mục tiêu quân sự khác.

Qua hơn 200 ngày đêm tổng tiến công và nổi dậy, quân và dân miền Nam đã loại khỏi

vòng chiến đấu 630.000 tên địch, phá huy 1300 xe quân sự, 1000 tàu xuồng chiến đấu, xóa bỏ

15.000 đồn bốt, chi khu quân sự, phá 1200 ấp chiến lược.

Quá trình tổng tiến công và nổi dậy trong năm 1968 là một đòn mạnh mẽ giáng vào đế

quốc Mỹ và tay sai, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo nên bước ngoặt của

cuộc chiến tranh Việt Nam.

Tháng 10

Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Cục miền Nam chủ trương đưa

cách mạng miền Nam nỗ lực vượt bậc, kiên quyết tiến lên giành thắng lợi quyết định.

Tháng 10-1968, Trung ương Cục miền Nam đã họp hội nghị lần thứ VIII ra nghị

quyết đẩy mạnh cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi quyết định.

Nhận định về tình hình sau các đợt tiến công và nổi dậy vừa qua, nghị quyết đánh giá

như sau:

V ề địch: cuộc "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ xâm lược liên tiếp bị thất bại

nặng nề và toàn diện. Biểu hiện là các đô thị, căn cứ quan sự, trục giao thòng và hộ thống đồn

bốt quan trọng đều bị tấn công phải lui vào thế phòng ngự bị động, một bộ phận. quan trọng

sinh lực và phưong tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy bị tiêu diệt, hậu phương của địch bị rối

loạn và tê liệt. Chiến lược tìm diệt và bình định bị phá sản hoàn toàn. Nền kinh tế tài chính

của đế quốc Mỹ và ngụy quyền suy sụp. Ý chí xâm lược của Mỹ lung lay, ngụy quyền phân

hóa, hoang mang. Tuy nhiên, Mỹ-ngụy vẫn còn ưu thế về quân số và phương tiện chiến tranh

có thể chống trả quyết liệt các cuộc tấn công và nổi dậy của ta, đang tăng cường đánh phá ác

liệt cơ s ở cách

127

mạng và tiến hành chiến tranh tâm lý làm nhụt ý chí tiến công của ta. Nhưng chỗ mạnh của

địch chỉ là tạm thời, chỗ yếu của địch mới là cơ bản.

Về phía ta: sau tổng tấn công và nổi dậy ta đã giành được thắng lợi to lớn và toàn

diện, lớn mạnh nhanh chóng cả quân sự, chính trị, cả về thế và lực, về cách đánh cũng như

tinh thần chiến đấu. Chúng ta đang ở trong thế trận mới: liên tục tấn công và nổi dậy trên cả 3

vùng, lực lượng vũ trang ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Phong trào đấu

tranh chính trị ngày càng sôi nổi và trên mặt trận ngoại giao chúng ta đã giành quyền chủ

động.

Nghị quyết cũng phân tích rõ một số khuyết điểm của ta trong tổng tấn công và nổi

dậy về quân sự, về chính trị và chỉ đạo chiến lược.

Hội nghị đã phân tích, tìm hiểu âm mưu sắp tới của địch và dự đoán hướng phát triển

tình hình, từ đó xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là động viên sự nỗ

lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tiến lên đánh bại kẻ địch, giành thắng lợi

quyết định, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi đánh thắng địch nếu chúng mở rộng, kéo dài

chiến tranh.

Phương châm và nguyên tắc chỉ đạo trước mắt là: Tấn công quân sự phát triển nòng

cốt cho đấu tranh chính trị và sự nổi dậy của quần chúng phải tạo điều kiện cho lực lượng

quân sự đứng lại chiến đấu, giữ vững và mở rộng thế trận. Phải đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ

giữa 3 vùng, 3 thứ quân và 3 mũi giáp công, giữa các chiến trường khác với chiến trường

trọng điểm, giữa tấn công và xây dựng lực lượng. Tấn công liên tục, nắm vững quyết tâm

chiến lược, táo bạo, khẩn trương, linh hoạt, bất ngờ.

Nghị quyết đã đề ra các công tác lớn nhằm thực hiện mục tiêu nhiệm vụ trước mắt.

1. Ra sức phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết nhược điểm, tăng cường xây dựng lực

lượng vũ trang đẩy mạnh tấn công quân sự kết hợp tấn công chính trị một cách toàn diện,

kiên quyết giành thắng lợi quyết định trong thời gian tới.

128

2. Ra sức xây dựng lực lượng chính trị, đẩy mạnh cao trào chính trị và khởi nghĩa

khắp đô thị và nông thôn.

3. Nâng cao trình độ lãnh đạo, chỉ huy của các cấp ủy, kiện toàn các ban, ngành, đoàn

thể, củng cố chi bộ, phát triển đảng viên, đoàn viên, tăng cường đội ngũ cán bộ đảm bảo tình

hình trong tình hình mới.

4. Nắm vững công tác chính trị và tư tưởng, đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

chính trị của Đảng trong thời gian tới.

Ngày 4 tháng 11

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị số 36 CTNT về vấn đề Tổng thống M ỹ

Giôn-xơn tuyên bố ngừng ném bom hoàn toàn trên miền Bắc.

Đúng như đã dư đoán ở các Chỉ thị 29, 34 và 35 của Trung ương Cục, đế quốc Mỹ đã

ngừng ném bom miền Bắc kể từ 1-11-1968 theo lời tuyên bố của Giôn-xơn. Do vậy, Thường

vụ Trung ương Cục nhấn mạnh một số công tác sau.

Trước hết, mở ngay một đợt tuyên truyền rộng mạnh trong toàn Đảng toàn quân toàn

dân miền Nam bằng mọi hình thức nhằm đạt cho được yêu cầu nhận rõ thắng lợi, nâng cao

khí thế và quyết tâm thắng Mỹ. Đợt tuyên truyền này kéo dài từ 10 đến 15 ngày, dựa vào hai

văn kiện quan trọng ngày 3-11-1968 là Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tuyên bố

của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Ở các đơn vị, địa phương vùng giải phóng mở những cuộc

thảo luận rộng rãi. Ở đô thị, vùng tạm chiếm tùy tình hình mà tuyên truyền cho thích hợp.

Ở các vùng địch tạm chiếm cần thấy thời cơ thuận lợi mà đẩy mạnh các mặt công tác.

Địch đang hoang mang dao động về tư tưởng và tổ chức khi Mỹ ngừng ném bom miền Bắc,

ta phải đẩy mạnh các phong trào đấu tranh dân sinh dân chủ, diệt ác phá kèm giành quyền

làm chủ. Cuộc đấu tranh tập trung vào các khẩu hiệu đòi hoà bình, chấm dứt chiến tranh, lập

nội các hoà bình, đối thoại với Mặt trận Dân tộc giải phóng...

129

Đặc biệt là nhân sự kiện này, Trung ương Cục chủ trương mở đợt hoạt động binh địch

vận kéo dài một tháng, chú trọng vào đối tượng binh sỹ Mỹ.

Ngày 11 tháng 11

Trung ương Cục miền Nam vận động xây dựng chi bộ 4 tốt

Ngày 11-11-1968, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị số 41/CTNT "Về

cuộc vận động củng cố và xây dựng chi bộ 4 tốt" .

Nhận xét về tình hình chi bộ Đảng thời gian vừa qua, chỉ thị cho rằng: qua các đợt học

tập, chỉnh huấn và đặc biệt là qua thực tế chiến đấu tổng tiến công và nổi dậy, trình độ nhận

thức và chỉ đạo của chi bộ được nâng lên một bước. Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng

được tăng cường. Việc phát triển Đảng, đoàn viên, củng cố các tổ chức quần chúng được tiến

hành tốt.

Tuy có nhiều tiến bộ rõ rệt, nhưng các chi bộ Đảng còn chưa theo kịp yêu cầu tình

hình, nhiệm vụ mới. Những nhược điểm của chi bộ được chỉ ra là: Trình độ nhận thức và tư

tưởng chi bộ chưa theo kịp tình hình mới; từng nơi, từng lúc trình độ chỉ đạo chỉ huy của chi

bộ chưa được nâng lên bao nhiêu; chưa thấm nhuần quan điểm tin tưởng và dựa vào quần

chúng, nguyên tắc sinh hoạt nội bộ chưa đảm bảo; chưa gắn việc xây dựng tư tưởng và tổ

chức...

Căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 8 (10-1968), chỉ thị đề ra

nội dung, yêu cầu củng cố và xây dựng chi bộ 4 tốt.

Trước hết phải gắn chặt xây dựng chi bộ về tư tưởng tổ chức trong đó phải nâng cao

nhận thức tư tưởng của chi bộ, phát huy tác dụng công tác tư tưởng phục vụ công tác tổ chức,

giáo dục mỗi đảng viên về trách nhiệm của mình trong việc phát triển Đảng, củng cố Đảng về

tổ chức.

Thứ hai là việc xây dựng, củng cố chi bộ phải gắn với đẩy mạnh phong trào tấn công

địch, xây dựng thực lực ta và bồi dưỡng quần

130

chúng về mọi mặt. Chi bộ phải biết phát động và tố chức quần chúng đấu tranh, chăm lo đời

sống nhân dân. Xây dựng, củng cố các ngành và chính quyền. Trong lãnh đạo phong trào

quần chúng, các chi bộ phải biết khơi dậy, nuôi dưỡng phong trào không ngừng phát triển.

Thứ ba, chỉ thị chỉ rõ muốn xây dựng và thực hiện tốt nghị quyết của mình, các chi bộ

phải thông suốt đường lối, phương châm chiến lược và các chính sách của Đảng, nắm tình

hình địa phương, đi đúng đường lối quần chúng, tin tưởng dựa vào quần chúng và các ban

ngành đoàn thể, kế hoạch tỷ mỷ phân công rõ ràng, kiểm tra đôn đốc thường xuyên, làm tốt

công tác tuyên truyền.

Thứ tư là việc củng cố và xây dựng chi bộ 4 tốt phải gắn liền với ra sức kiện toàn lề

lối, tố chức các cấp ủy, các ngành bên trên, nhất là cấp huyện:

Về chỉ đạo thực hiện, chỉ thị nêu rõ chỉ tiêu đến cuối 1969, 2/3 chi bộ của mối đảng

bộ là chi bộ 4 tốt, số còn lại là trung bình. Thi đua xây dụng chi bộ 4 tốt phải gắn với phong

trào thi đua chung, gắn với kiện toàn các ban, ngành, đoàn thể. Công tác củng cố xây dựng

chi bộ 4 tốt phải là một quá trình, có làm thí điểm rút kinh nghiệm, xây dựng điển hình rồi

mở ra diện rộng.

Ngày 22 tháng 11

Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị công tác tài chính năm 1969

Trong nhiều lĩnh vực công tác phục vụ cuộc kháng chiến, công tác tài chính chiếm vai

trò không kém phần quan trọng, nhất là khi cuộc chiến tranh bước vào giai đoạn quyết liệt.

Ngày 22-11-1968 Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đã ra Chỉ thị về mặt công tác này

của năm 1969.

Trong việc thực hiện ngân sách năm 1968, Chỉ thị nhận định: Các cấp ủy địa phương

và Ban Kinh tài đã có chuyển biến bước đầu trong lãnh đạo chỉ đạo còng tác kinh tế, tài

chính, đã phát động quần chúng đấu tranh giữ vững và phát triển sản xuất, chống địch bao

vây

131

phá hoại kinh tế, cướp bóc vơ vét tài sản đồng thời hăng hái làm nghĩa vụ đóng góp cho cách

mạng. Nguồn thu tại chỗ và sự chi viện của Trung ương về căn bản đã đảm bảo được nhu cầu

chi rất lớn của các ngành, các cấp phục vụ tốt cho cuộc chiến đấu và chiến thắng.

Những hạn chế về công tác tài chính được Trung ương Cục đánh giá là về thu còn

thấp so với khả năng thực tế nhưng cũng không đạt kế hoạch đối với tất cả các lĩnh vực công,

nông nghiệp, giao thông vận tải, thương nghiệp... về chi tuy đã tăng dự toán lên nhiều so với

năm 1967 nhưng vẫn bội chi 12%, công tác quản lý tài chính còn lỏng lẻo, tệ lãng phí tham ô

còn phổ biến, nghiệp vụ cán bộ còn thấp... Nguyên nhân có nhiều, một phần do chiến tranh ác

liệt, nhưng chủ yếu do việc lãnh đạo chỉ đạo của Ban Kinh tài và các cấp uỷ Đảng còn nhiều

thiếu sót.

Bước sang năm 1969, chỉ thị chỉ rõ: kháng chiến sẽ có thời cơ rất thuận lợi nhưng

cũng sẽ còn nhiều khó khăn gian khổ. Từ đó chỉ thị để ra phương hướng nhiệm vụ công tác

tài chính năm 1969 là: "Tăng cường giáo dục, đề cao tinh thần tự lực cánh sinh, phát động

quần chúng trước hết là nông dân ra sức khôi phục và phát triển sản xuất, tiêu dùng tiết kiệm

và tổ chức lãnh đạo tốt việc lưu thông hàng hoá trong vùng giải phóng và giữa các vùng, kết

hợp thật chặt các mặt đấu tranh quân sự, chính trị, kinh tế và tiền tệ với địch, bảo vệ sản

xuất... chống địch cướp bóc vơ vét, phá hoại...". Trên cơ sở đó động viên cao nhất tài lực vật

lực cho cuộc kháng chiến, cân bằng thu chi ngân sách tài chính, quản lý chi chặt chẽ, sử dụng

hợp lý nguồn viện trợ của cấp trên, đảm bảo nhu cầu cuộc chiến đấu và chiến thắng. Chỉ thị

đề ra những chủ trương chính sách cụ thể về đẩy mạnh sản xuất, lưu thông, tiết kiệm, mở

rộng và quản lý tốt các nguồn thu; thực hiện chi đúng chi đủ, kịp thời cho nhu cầu cuộc chiến

đấu ở từng chiến trường từng địa phương. Vấn đề quan trọng nhất là phối hợp chặt chẽ giữa

Ban Kinh tài, Hậu cần và Hội đồng cung cấp tiền phương, dựa chắc vào nhân dân để thực

hiện tốt công tác tài chính năm 1969.

132

Ngày 2 tháng 12

Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị tăng cường công tác phụ vận.

Ngày 2-12-1968 Thường vụ Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị "Đẩy mạnh công

tác phụ vận nhằm phát huy hơn nữa vai trò và khả năng cách mạng của quần chúng phụ nữ

trong tình hình mới".

Chỉ thị nêu rõ phụ nữ là lực lượng chiến lược trong phong trào đấu tranh chính trị,

binh vận, trong sản xuất. Phụ nữ cũng tham gia công tác dân công phục vụ tiền tuyến, chăm

sóc thương binh, tham gia du kích đánh giặc giữ làng... Tuy nhiên thời gian qua việc động

viên vai trò đảm đang ở hậu phương, động viên phụ nữ đấu tranh bạo lực và trực diện với kẻ

thù chưa đạt yêu cầu. Tổ chức Hội phụ nữ chưa thật rộng mạnh và đội ngũ cán bộ nữ trong

Đảng và đoàn thể, chính quyền phát triển chậm.

Từ tình hình trên đây, chỉ thị nêu bật nhiệm vụ công tác phụ vận trong thời gian tới là:

"Tiếp tục phát huy truyền thống "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" của phụ nữ, ra

sức khắc phục những khuyết nhược điểm để đẩy mạnh phong trào phụ nữ tiến công địch bằng

ba mũi giáp công liên tục đều khắp với tinh thần khẩn trương, táo bạo và không ngừng nâng

cao, tiếp tục động viên lực lượng phụ nữ đi phục vụ tiền tuyến đồng thời chú trọng đẩy mạnh

phong trào phụ nữ đảm đang công tác ở hậu phương, đẩy mạnh công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ

em, ra sức củng cố phát triển tổ chức Hội một cách nhanh chóng ở khắp cả ba vùng; tích cực

khẩn trương, đào tạo đội ngũ cán bộ để góp phần giành thắng lợi của cách mạng trong bất cứ

tình huống nào".

Để thực hiện tốt nhiệm vụ nói trên, các cấp cần nắm vững các mặt công tác cụ thể

sau:

1. Đẩy mạnh công tác, giáo dục tư tưởng và củng cố tổ chức phụ nữ trong các vùng,

phấn đấu đến 6-1969, vùng giải phóng 50% phụ nữ vào Nông hội, 70-80% vào Hội liên hiệp

phụ nữ giải phóng; vùng yếu vùng tranh chấp 50% phụ nữ vào hai tổ chức trên; ở đô thị 30%

133

phụ nữ vào các loại tổ chức cách mạng (phụ nữ giải phóng, công đoàn…).

2. Đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, binh vận vũ trang của phụ nữ, riêng phụ

nữ tham gia du kích, phấn đấu đến 6-1969: 1/3 du kích xã là nữ; 1/2 du kích ấp là nữ và 2/3

số phụ nữ trong dân quân tự vệ.

3. Tiếp tục động viên phụ nữ phục vụ tiền tuyến và đảm đang công tác hậu phương.

4. Quan tâm đúng mức đến công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em, đó là bảo vệ lực lượng

chiến đấu - sản xuất, bảo vệ tương lai của cách mạng.

5. Ra sức đào tạo cán bộ nữ và tạo điều kiện cho chị em công tác. Chống lại những tư

tưởng phong kiến hẹp hòi của cán bộ nam và tư tưởng ỷ lại, tự ty của chị em phụ nữ.

Ngày 5 tháng 12

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị đẩy mạnh tấn công toàn diện, ra

sức giải phóng nông thôn, đánh bại kế hoạch "bình định cấp tốc" của địch.

Ngày 5-12-1968, Thường vụ Trung ương cục ra Chỉ thị đẩy mạnh phong trào đấu

tranh ở nông thôn phá kế hoạch "bình định cấp tốc" của Mỹ ngụy. Chỉ thị vạch rõ, đế quốc

Mỹ đang tiến hành "phi Mỹ hoá" cuộc chiến tranh, ra sức đấu tranh giành dân, giành đất với

những thủ đoạn biện pháp thâm độc phục vụ cho cuộc đàm phán bốn bên. Nhưng đó là những

hành động đầy mâu thuẫn, nằm trong thế yếu của địch.

Về chủ trương của ta, chỉ thị nêu rõ:" Phải tích cực khẩn trương đẩy mạnh tấn công

toàn diện, biết lợi dụng thời cơ mới và tận dụng khả năng mới để đánh bại âm mưu kế hoạch

"bình định cấp tốc" gắn liền với "kế hoạch Phượng Hoàng" của địch, đẩy mạnh giải phóng

nông thôn, bám trụ giữ vững địa bàn vùng ven, bao vây ép sát đô thị,

134

các thị xã và thị trấn và các căn cứ của địch, tranh thủ chiếm lĩnh và làm chủ toàn bộ nông

thôn khi có thời cơ đột biến".

Để phá kế hoạch "bình định cấp tốc" của địch, các địa phương cần nắm vững chủ

trương của Đảng, xây dựng quyết tâm liên tục tẩn công địch, phá vỡ âm mưu dành lợi thế

trên bàn ngoại giao của địch. Trong chỉ đạo thực hiện, phải có kế hoạch cụ thể trên các mặt

và điều khiển sự phối hợp chặt chẽ giữa 3 mũi giáp công, giữa các vùng với nhau, giữa các

lực lượng vũ trang, các phương thức tác chiến để phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của

cách mạng. Ra sức xây dựng.củng cố các vùng, các xã ấp đã giải phóng, lực lượng chính trị

và vũ trang, tiến lên đánh bại hoàn toàn âm mưu của Mỹ-ngụy.

Ngày 22 tháng 12

Trung ương cục miền Nam chủ trương tăng cường công tác thanh niên.

Ngày 22-12-1968, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về tăng cường

công tác thanh niên.

Chỉ thị nêu rõ, thanh niên là lực lương xung kích trong các phong trào ở tiền tuyến

cũng như ở hậu phương, lập nhiều thành tích to lớn, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân

tộc. Phong trào 5 xung phong đang được đẩy mạnh và tổ chức thanh niên phát triển mạnh hơn

trước. Tuy nhiên thời gian vừa qua các cấp ủy Đảng chưa quan tâm đúng mức tới công tác

thanh niên vì thế số lượng thanh niên vào Đoàn và đoàn viên vào Đảng còn ít, nữ thanh niên

tham gia mọi hoạt động chưa nhiều, vai trò đầu tàu của thanh niên chưa thể hiện rõ nét..

Từ tình hình trên chỉ thị nêu rõ yêu cầu nhiệm vụ công tác thanh vận hiện tại là:

1. Giáo dục cho thanh niên nhận rõ vai trò nhiệm vụ của mình vượt qua mọi khó khăn

gian khổ, kiên quyết chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.

135

2. Ra sức củng cố phát triển cơ sở Đoàn, đẩy mạnh phong trào thanh niên làm lực

lượng xung kích.

3. Ra sức kiện toàn Ban chấp hành Đoàn các cấp để bảo đảm sự lãnh đạo của Đoàn

đối với thanh niên, đào tạo bồi dưỡng đội nữ cán bộ Đoàn, cán bộ thanh niên.

Các hoạt động cụ thể mà các cấp uỷ Đảng và Ban chấp hành Đoàn cần làm là xây

dựng cho thanh niên quan điểm đúng đắn về sống và chiến đấu xứng đáng là thế hệ thanh

niên thời đại Hồ Chí Minh thông qua các hình thức hoạt động phong phú như hội họp, câu lạc

bộ, văn nghệ thể thao... Đặc biệt phải phát huy vai trò của Đoàn đối với công tác thanh niên

như kết nạp thanh niên vào Đoàn, vận động thanh niên tham gia các tổ chức quần chúng

khác, xây dựng chi đoàn 4 tốt, đào tạo bồi dưỡng cán bộ Đoàn, cán bộ thanh niên. Về hoạt

động cách mạng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của thanh niên "phất cao cờ 5 xung phong

giành 4 nhất thắng Mỹ". Trước hết là phong trào xung phong tổng quân, đi dân công, tham

gia du kích, ở vùng yếu, tập trung thanh niên vào các tổ chức công khai hợp pháp đấu tranh

bằng ba mũi giáp công hướng vào mục tiêu chung chống Mỹ cứu nước.

Cuối cùng chỉ thị nêu rõ các cấp uỷ Đảng cần nhận thức rõ vị trí vai trò của Công tác

thanh niên, chú ý bồi dưỡng cán bộ trẻ, giao nhiệm vụ tập hợp và tổ chức thanh niên cho

Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng phục vụ những nhiệm vụ của cuộc kháng chiến.

Ngày 24 tháng 12

Trung ương Cục miền Nam nêu quyết tâm đánh thắng âm mưu bình định cấp tốc

của địch.

Ngày 24-12-1968 Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về việc tăng

cường chỉ đạo, kiên quyết đánh bại hoàn toàn âm mưu bình định cấp tốc của địch.

136

Chỉ thị nêu tình hình địch đang ráo riết tiến hành chương trình bình định cấp tốc trên

cả ba vùng với nhiều loại lực lượng và nhiều thủ đoạn thâm độc để giành đất, giành dân nhằm

mục đích đối phó với cuộc tổng tiến công và nổi dậy của ta cũng như giành lợi thế khi có giải

pháp chính trị.

Về phía ta, nhiều nơi, lực lượng vũ trang và quần chúng đã chống bình định có kết

quả tốt như T2, T5, một số nơi ở T3, phân khu 2, 3... bước đầu đánh bại âm mưu của địch.

Tuy nhiên, phong trào đấu tranh ở các địa phương chưa đều, chưa mạnh, nhiều nơi gặp khó

khăn lớn.

Trước tình hình đó, Thường vụ Trung ương Cục nhắc các địa phương: trước hết cần

nhận rõ hơn tầm quan trọng và cấp bách của việc đánh bại kế hoạch bình định cấp tốc của

địch thấy hết âm mưu và cố gắng của địch để đối phó có hiệu quả. Phải đẩy mạnh hoạt động

thường xuyên liên tục và chuẩn bị sẵn sàng khi có thời cơ đột biến. Việc đối phó phải toàn

diện cả về tổ chức chỉ đạo, sử dụng lực lượng, kế hoạch và biện pháp.

Cụ thể, Trung ương Cục chỉ thị các cấp ủy phải tập trung chỉ đạo vùng địch đang bình

định, sử dụng lực lượng phù hợp trong đó triệt để sử dụng lực lượng địa phương kết hợp với

bộ đội chủ lực. Các địa phương trên cả ba vùng chiến lược đều phải xây dựng kế hoạch đối

phó với địch đặc biệt là các khu vực địch đang tập trung bình định. Kết hợp với chống bình

định phải tích cực tấn công các khu vực trọng yếu, các cơ quan đầu não của địch, các thị xã,

thị trấn. Đẩy mạnh ba mũi giáp công, phát triển chiến tranh du kích, ở vùng yếu vùng tranh

chấp thì kết hợp chống bình định với giành quyền làm chủ, giải phóng xã ấp.

Trung ương Cục cũng chỉ thị các cấp khu, tỉnh, huyện phải tăng cường cho xã ấp lực

lượng, cán bộ... Ở xã ấp thì Đảng, Đoàn, du kích phải bám sát quần chúng để lãnh đạo cho sát

hợp, kiên quyết bảo vệ cán bộ và cơ sở cách mạng. Địch có kế hoạch toàn diện, tập trung, vì

vậy ta cũng phải có kế hoạch đối phó toàn diện, cụ thể, từ trên xuống dưới. Có như vậy mới

đảm bảo đánh bại âm mưu bình định cấp tốc của địch.

137

NĂM 1969

Ngày 2 tháng 1

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về công tác y tế

Công tác y tế phục vụ cuộc kháng chiến là một vấn đề được Trung ương Cục quan

tâm chỉ đạo. Ngày 2-1-1969 Thường vụ Trung ương Cục ra Chỉ thị "Đẩy mạnh công tác y tế

phục vụ chiến đấu, sản xuất và đời sống nhân dân, đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và tay sai".

Nhìn lại tình hình công tác y tế thời gian qua, Trung ương Cục nhận định rằng, dù cho

chiến tranh khốc liệt và điều kiện còn nhiều thiếu thốn, công tác y tế đã cứu chữa kịp thời cho

cán bộ chiến sỹ nhân dân nhất là từ đầu năm 1968 đến nay, góp phần đắc lực vào cuộc chiến

đấu. Hoạt động y tế cũng đã kịp thời ngăn chặn bệnh dịch, hướng dẫn phòng tránh chất độc,

có nhiều tiến bộ về sản xuất thuốc men. Đội ngũ cán bộ y tế được bổi dưỡng, đào tạo, phát

triển nhanh về số lượng, y đức ngày càng đảm bảo. Màng lưới y tế xã hình thành rộng khắp,

Ban dân y từ Miền xuống đến xã hoạt động có hiệu quả.

Tuy nhiên thời gian qua các cấp chưa thực sự quan tâm đến công tác y tế, chưa nhận

rõ công tác này là công tác cách mạng của Đảng, gắn với các nhiệm vụ chính trị, quân sự của

Đảng tạo nên sức mạnh tổng hợp. Cán bộ y tế các cấp chưa quán triệt sâu sắc đường lối. y tế

nhân dân, chưa kết hợp tốt Đông y và Tây y, giữa phòng và trị bệnh. Hệ thống y tế chuyên

môn chưa thông suốt từ Miền xuống xã ấp, chưa phối hợp tốt quân y với dân y, giữa ngành y

tế với các ngành, các đoàn thể khác.

Cuộc kháng chiến sẽ còn gay go ác liệt, yêu cầu về y tế phục vụ chiến đấu và đời sống

còn to lớn khẩn trương. Vì vậy nhiệm vụ của công tác y tế sắp tới là: "Trên cơ sở quán triệt

nghị quyết 8 của Trung ương Cục, không ngừng tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho

cán bộ y tế các cấp, phát huy những thành tích tiến bộ đã đạt được ra sức củng cố xây dựng

màng lưới y tế xã ấp mạnh mẽ rộng khắp chú trọng các vùng ven đô thị, đảm bảo cấp cứu kịp

thời chiến thương và quần chúng, đồng thời đẩy mạnh công tác vệ sinh phòng bệnh phòng

dịch, phát triển từng bước, thích hợp với hoàn cảnh thực

138

tế nếp sống mới, tăng cường công tác điều trị ở vùng giải phóng và vùng tranh chấp mạnh,

bảo vệ tốt hơn nữa sức khoẻ cán bộ và quần chúng. Ra sức củng cố công tác y tế về tổ chức,

cơ sở vật chất và chuyên môn, phục vụ yêu cầu giành thắng lợi quyết định trước mắt cũng

như đối phó với tình huống chiến tranh kéo dài hoặc mở rộng".

Chỉ thị đã nêu ra những nhiệm vụ cụ thể về phát triển màng lưới y tế rộng khắp, đẩy

mạnh phong trào phòng dịch bệnh chất độc, tăng cường công tác điều trị, sản xuất thuốc men,

bảo vệ bà mẹ trẻ em, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ y tế các cấp... để công tác y tế đáp ứng được

những yêu cầu nhiệm vụ trước mắt.

Ngày 19 tháng 1

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về đợt hoạt động Tết Kỷ Dậu 1969.

Ngày 19-1-1969, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về đợt hoạt động

Tết Kỷ Dậu 1969.

Nhận định tình hình, Trung ương cục cho rằng, từ Tết Mậu Thân 1968, cao trào tổng

công kích, tổng khởi nghĩa đã diễn ra liên tục, đều khắp dồn Mỹ và tay sai vào khủng hoảng,

bế tắc. Tuy nhiên sắp tới địch còn ngoan cố, xảo quyệt, tàn ác trong âm mưu và thủ đoạn. Vì

thế Tết Kỷ Dậu này, phải đẩy lên những cao trào mới. Đó sẽ là cái Tết chiến đấu quyết liệt,

đầy phấn khởi tin tưởng, cái Tết đại đoàn kết và đại thắng lợi.

Yêu cầu của Tết Kỷ Dậu 1969 là với quyết tâm cao giành thắng lợi vượt bậc về mọi

mặt, thực hiện lời chúc Tết của Hồ Chủ tịch "Đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào". Đẩy

mạnh cao trào đấu tranh chính trị rộng lớn phối hợp chặt chẽ với tấn công quân sự và ngoại

giao. Tùy từng địa bàn cụ thể mà có hình thức đấu tranh phù hợp, cơ bản là phải biểu dương

cho được lực lượng và khí thế cách mạng của quần, chúng đấu tranh đòi hòa bình, lật đổ

Thiệu Kỳ Hương, các quyền dân sinh dân chủ khác.

139

Nhân dịp Tết Kỷ Dậu, đẩy mạnh cuộc tấn công binh vận với các "khẩu hiệu đòi hòa

bình, nghỉ Tết, vui Xuân, chấm dứt chiến tranh...

Trung ương Cục cũng nhắc nhở các cấp chứ ý công tác lãnh đạo tư tưởng trước và sau

Tết. Đón Tết phấn khởi tin tưởng, cảnh giác tích cực tấn công địch về mọi mặt, đề phòng

khuynh hướng hòa bình chủ nghĩa, muốn nghỉ ngơi, xả hơi. Tất cả cho mục tiêu đánh cho Mỹ

cút, ngụy nhào."

Ngày 20 tháng 2

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về đẩy mạnh sản xuất phục vụ kháng chiến.

Ngày 20-2-1969, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "Nỗ lực vượt bậc,

đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, tăng cường bồi dưỡng sức dân động viên cao độ sức

người, sức của phục vụ tiền tuyến, kiên quyết giành thắng lợi quyết định".

Chỉ thị đã đề ra nhiệm vụ sản xuất, tiết kiệm của quân và dân miền Nam năm 1969 là:

"Trên cơ sở phát động quần chúng vượt mọi gian khổ hy sinh bẻ gãy âm mưu bình định cấp

tốc; giải phóng đại bộ phận nông thôn, nỗ lực vượt bậc đẩy mạnh sản xuất với mức cao nhất;

mở rộng phục hóa khai hoang, thu hẹp vùng trắng, xây dựng kinh tế vùng giải phóng vững

chắc, giữ vững sản xuất ờ vùng ven, bảo đảm đời sống nhân dân, bảo đảm cung cấp cho chiến

trường và tạo dự trữ to lớn để tiếp tế về sau. Chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt để nhanh chóng

phục hồi và đẩy mạnh sản xuất theo đà thắng lợi chung cũng như ở từng địa phương. Hết sức

tiết kiệm, sử dụng hợp lý những nguồn nhân tài vật lực đã được huy động, xây dựng trong

cán bộ và nhân dân nếp sống lành mạnh, giành ngày giờ và tiền của cho chiến đấu và sản

xuất".

Căn cứ vào tình hình cụ thể, chỉ thị đã đề ra nhiệm vụ sản xuất tiết kiệm của các khu,

phân khu và tỉnh. Để hoàn thành nhiệm vụ trên, mấy công tác cấp bách mà quân và dân miền

Nam cần làm là chuẩn bị đầy đủ các điều kiện sản xuất như đất đai, thủy lợi, máy móc xăng

dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, giống lúa, phát triển các hình thức vần đổi công, tận dụng mọi

khả năng lao động; bảo vệ sức kéo cho sản

140

xuất; gây tạo giống gia súc , gia cầm và quan trọng nhất là phải nâng cao trình độ quản lý

nông nghiệp, đất đai, phương tiện sản xuất để tăng cụ tăng diện tích và sản lượng lương thực.

Các cấp, các ngành cần quán triệt cho cán bộ, nhân dân hiểu rõ sản xuất cũng là một

mặt trận ác liệt và chúng ta phải chiến thắng. Khắc phục tư tưởng coi nhẹ sản xuất, coi nhẹ

hậu phương trong khi dồn sức đánh địch (như đầu năm 1968). Ban Nông vận của Trung ương

Cục sẽ thành lập các tiểu ban sản xuất ở các tỉnh để chỉ đạo công tác này.

Tháng 3

Chỉ thị của Trung ương Cục miền Nam về đợt hoạt động mùa hè năm 1969.

Ngày 29-3-1969, Trung ương Cục ra Chỉ thị số 81/CTNT "Phát huy thắng lợi mùa

xuân, khẩn trương bước vào mùa hè với những đợt tấn công và nổi dậy mạnh mẽ hơn, đánh

một đòn thật mạnh vào âm mưu giành thế mạnh của Mỹ ngụy, tiến nhanh tới thắng lợi quyết

định".

Chỉ thị nêu rõ trong quá trình tiến tới giành thắng lợi quyết định phải liên tục tiến

công không cho kẻ địch kịp hồi phục. Đợt tấn công mùa xuân 1969 đã gây thiệt hại nặng cho

quân Mỹ hơn cả mùa xuân 1968. Cùng với dùng các lực lượng đặc biệt tiến công các thành

phố, thị xã đầu não của kẻ địch, chúng ta đã đẩy mạnh phá kế hoạch bình định của địch ở

nông thôn. Đặc biệt là việc diệt ác phá kìm và tiến công đồng loạt trên cả 3 vùng chiến lược

giữ vững thế tiến công trong cả quá trình tổng công kích, tổng khởi nghĩa.

Về đợt tấn công mùa hè 1969 chỉ thị đề ra nhiệm vụ và yêu cầu cụ thể: "Phát huy toàn

diện thắng lợi của đợt Xuân, phát động cuộc tiến công và nổi dậy mùa hè nổ ra mạnh mẽ,

đồng loạt, rộng khắp cả ba vùng với cường độ tấn công và nổi dậy ngày càng cao, càng

rộng...".

Chỉ thị đã đưa ra 6 yêu cầu cụ thể của đợt hoạt động hè với nội dung chính là kết hợp

chặt chẽ giữa 3 vùng, 3 mũi giáp công và 3 thứ

141

quân, giữa tấn công và xây dựng để đảm bảo chiến đấu lâu dài. Vị trí và nhiệm vụ cụ thể của

các vùng, các lực lượng cũng được xác định rõ.

Chỉ thị đã góp phần định hướng tư tưởng và hành động cho cán bộ chiến sỹ và nhân

dân miền Nam tiếp tục tiến lên.

Ngày 12 tháng 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ và căn dặn đồng chí Phạm Hùng về chỉ đạo cách

mạng miền Nam.

Tình hình sức khoẻ không đáp ứng nguyện vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn vào

thăm đồng bào, chiến sỹ miền Nam. Tuy nhiên, Người thường xuyên gặp gỡ nhiều cán bộ,

chiến sỹ và nhân dân miền Nam. Làm việc với đồng chí Phạm Hùng, uỷ viên Bộ chính trị, Bí

thư Trung ương Cục miền Nam, chính uỷ bộ tư lệnh quân giải phóng miền Nam ngày 12-4-

1969, Người nhắc nhở: "Phải nhanh chóng củng cố và phát triển cơ sở chính trị, các đoàn thể

Thanh niên, phụ nữ, nông hội, công đoàn ở nông thôn và thành thị. Trong chống phá âm mưu

bình định của địch, phải luôn luôn nắm vững phương châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu

tranh chính trị, kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công, kết hợp ba thứ quân trên ba vùng chiến

lược. Phải xây dựng lực lượng vũ trang địa phương cho mạnh. Lực lượng bổ sung chưa kịp

thì càng phải huấn luyện cho tinh. Phải quan tâm đến việc ăn ở, phòng bệnh cho bộ đội. Phải

trên cơ sở củng cố và phát triển các đoàn thể nhân dân mà phát triển chiến tranh nhân dân

rộng rãi, chống phá bình định, giữ và làm chủ nông thôn. Phải báo cáo kịp thời, chính xác,

chỉ đạo chỉ huy phải đi sát dưới". Cuối cùng, Bác gửi lời thăm đồng bào miền Nam, thăm bộ

đội, cán bộ dân, chính, Đảng, cán bộ và chiến sỹ trong quân đội. Các chú phải nhớ chuyển lời

thăm hỏi của Bác".

142

Ngày 15 tháng 5

Trung ương. Cục miền Nam ra Chỉ thị chỉ đạo công tác đối ngoại vói Căm-pu-chia

ở vùng biên giới hai nước.

Ngày 15-5-1969, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về quan hệ biên

siới giữa ta và Căm-pu-chia. Tình hình hiện tại lả Mỹ đang ra sức ve vãn, uy hiếp Căm-pu-

chia phá hoại tình hữu nghị giữa ta và Căm-pu-chia. Chính phủ Căm-pu-chia vẫn thực hiện

trung lập, ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của tri, nhưng mặt khác lại lo ngại trước thắng lợi

của ta, của nhân dân Căm-pu-chia và sự phá hoại của bè lũ phản động trong chính quyền

Căm-pu-chia.

Trước tình hình đó, Trung ương Cục chủ trương bằng mọi cách, tiếp tục giữ vững và

phát huy những nhân tố thuận lợi hiện có, thúc đẩy mối quan hộ hữu nghị hơn nữa giữa ta và

Căm-pu-chia, nhất là ờ khu vực biên giới. Khéo léo đấu tranh, khắc phục những mặt tiêu cực

của Căm-pu-chia đánh bại mọi âm mưu đe dọa và đánh phá vùng biên" giới để bảo vệ nhân

dân Căm-pu-chia, chống Mỹ ngụy chia rẽ ta và Căm-pu-chia.

Phưong châm công tác ở vùng biên giới là tôn trọng chủ quyền độc lập của nhau, giữ

mối quan hệ bình đẳng giữa 2 bên; có nghĩa vụ và quyền lợi giúp đỡ nhau chống Mỹ xâm

lược; giữ gìn kỷ luật, chính sách biên giới nghiêm túc; Quan hệ tốt với cả bên trên và bên

dưới; Biết ơn sự siúp đỡ của nhân dân Căm-pu-chia và chủ động giải quyết hợp lý mọi vấn đề

xảy ra.

Chỉ thị cũng quy định những công tác cụ thể về giáo dục tư tưởng, về đóng quân canh

phòng, về hậu cần... nhằm thực hiện tốt những chủ trương nói trên, phục vụ đắc lực cho cuộc

kháng chiến chống Mỹ.

143

Ngày 31 tháng 5

Thường vụ Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị hướng dẫn kết hợp cuộc đấu

tranh quân sự-chính trị, binh vận và ngoại giao.

Ngày 31-5-1969, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị: "Phát huy mạnh

mẽ tác dụng 10 điểm về đấu tranh ngoại giao phối hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị

và binh vận, đẩy mạnh đợt Hè giành thắng lợi lớn"

Chỉ thị chỉ rõ: Cùng với các thắng lợi về quân sự, chính trị, binh vận, giải pháp 10

điểm của ta tại Hội nghị Pa-ri đang được các tầng lớp nhân dân hưởng ứng và ủng hộ rộng

rãi, kể cả trong ngụy quân ngụy quyền. Nó cũng làm cho đế quốc Mỹ và ngụy quyền tiếp tục

bị động, mâu thuẫn nội bộ địch trở nên căng thẳng và gây ra một tâm lý phấn khởi trong đồng

bào, chiến sỹ miền Nam.

Từ tình hình trên, Trung ương Cục chủ trương đẩy mạnh đợt tấn công Hè, đưa phong

trào chính trị lên một bước mới, nhất là ở các thành thị; làm ngụy quyền khủng hoảng nghiêm

trọng, làm Mỹ càng thèm lúng thế, tạo ra một tình thế mới cho cách mạng miền Nam.

Muốn thế, về nhận thức tư tưởng, phải làm cho cán bộ và nhân dân hiểu rõ những đặc

điểm mới trong thế thua, thế bị động và suy yếu của địch, những khả năng mới của ta, đặc

biệt trên các mũi đấu tranh chính trị, binh vận.

Trong đợt Hè 1969, phải tiếp tục đánh mạnh, đánh đau, đánh dồn dập vào kế hoạch

bình định của địch, phát triển phong trào thành thi, đẩy mạnh tấn công binh vận.

Trước hết, phải phổ biến giải pháp 10 điểm trong quần chúng, tập hợp mọi lực lượng

xã hội, vạch rõ tính chất phản động của tuyên bố 8 điểm của Ních-xơn, đấu tranh đòi lật đổ

Thiệu Kỳ Hương, lập chính phủ liên hiệp, đàm phán với Mặt trận dân tộc giải phóng.

Để phát huy tác dụng của giải pháp 10 điểm, chỉ thị nhấn mạnh bằng mọi hình thức

truyền đơn, thư từ, báo chí, hội thảo, họp bàn, mít tinh... dấy lên một phong trào quần chúng

bàn tán sôi nổi và hội thảo

144

rộng rãi hưởng ứng giải pháp 10 điểm của ta và phê phán 8 điểm của Ních-xơn với các nội

dung:

- Lên án lập trường ngoan cố phản động của Mỹ, đòi Mỹ rút quân không điều kiện.

- Vạch mặt bù nhìn bán nước, độc tài quân sự của ngụy quyền Sài Gòn, đòi thay thế

Thiệu Kỳ Hương.

- Nêu cao lập trường chính nghĩa, thái độ thiện chí, hoà bình, đoàn kết, đoàn kết của

Mặt trận.

Kết hợp với khẩu hiệu chính trị, nêu lên các khẩu hiệu dân sinh, dân chủ qua đó phát

động quần chúng, tập hợp lực lượng, xây dựng cơ sở cách mạng, mở rộng mặt trận liên hiệp

hành động, chia rẽ nội bộ ngụy quân, ngụy quyền... Tất cả nhằm phát huy cao nhất sức mạnh

tổng hợp của sự kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận và ngoại giao.

Ngày 6 tháng 6

Trung ương Cục miền Nam ủng hộ sự thành lập chính phủ cách mạng lâm thời

cộng hoà miền Nam Việt Nam.

Ngày 6-6-1969, Đại hội đại biểu quốc dân toàn miền Nam đã bầu ra chính phủ cách

mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam. Cùng ngày, Thường vụ Trung ương Cục miền

Nam ra Thông tri số 99/CTNT về sự kiện này.

Thông tri nêu bật ý nghĩa của việc thành lập chính phủ lâm thời. Chính phủ là đại diện

chân chính cho cách mạng miền Nam" trong mọi hoạt động, nhất là khi cuộc đấu tranh ngoại

giao đang diễn ra. Chính phủ cách mạng ra đời chứng tỏ cuộc kháng chiến của ta đang giành

thắng lợi to lớn, là một đòn giáng mạnh vào ngụy quyền thối nát. Việc thành lập chính phủ là

một cuộc vận động trung lập, mở rộng hàng ngũ của mặt trận cách mạng, là đòn tấn công

chính trị mạnh mẽ phối hợp với cuộc tấn công quân sự và giải pháp 10 điểm về ngoại giao

của ta, nâng cao uy tín cách mạng miền Nam trên thế giới.

145

Tính chất của chính phủ lâm thời là chính phủ liên hiệp rộng rãi, tập hợp các lực

lượng tán thành hoà bình, trung lập, độc lập dân chủ theo sự lãnh đạo của Đảng. Chính phủ

có nhiệm vụ đoàn kết nhân dân miền Nam chiến đấu đánh bại đế quốc Mỹ, lật đổ ngụy quyền

tay sai phản động xây dựng miền Nam Việt Nam độc lập, hoà bình dân chủ trung lập, phồn

vinh tiến tới thống nhất tổ quốc. Chính phủ với hệ thống chính quyền địa phương (thành phố,

tỉnh, huyện, xã, khu phố) hợp thành một cơ cấu thống nhất hoàn chỉnh.

Mặt trận dân tộc giải phóng, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hoà bình Việt

Nam và các đoàn thể cách mạng khác vẫn hoạt động mạnh mẽ, làm hậu thuẫn cho chính phủ

lâm thời.

Đồng thời thông tri nêu vấn đề kết hợp việc thành lập chính phủ với đẩy mạnh đạt đấu

tranh Hè 1969 và 10 điểm ngoại giao.

Trước hết cần nhận rõ tính chất cách mạng, dân tộc, dân chủ của chính phủ lâm thời,

tránh tư tưởng hoặc coi nhẹ hoặc ỷ lại vào chính phủ. Kết hợp việc tuyên truyền thắng lợi đợt

hè và 10 điểm ngoại giao với tuyên truyền rộng rãi sự thành lập của chính phủ cách mạng lâm

thời tạo ra một không khí phấn khởi, hào hứng đẩy mạnh công tác. Phát động phong trào thi

đua lập công trong các ngành, các cấp, các đơn vị để lấy thành tích chào mừng chính phủ lâm

thời, tạo nên một phong trào bàn tán sôi nổi để phát huy ảnh hưởng của chính phủ trong nhân

dân. Lấy thắng lợi của đợt Hè và giải pháp 10 điểm, sự thành lập của chính phủ cách mạng

lâm thời để đẩy mạnh cuộc đấu tranh binh vận làm tan rã ngụy quân, ngụy quyền. Điều quan

trọng là tiếp tục xây dựng củng cố vai trò của chính quyền cách mạng các cấp, nhất là cấp xã

để đẩy mạnh các mặt kháng chiến, tạo nên sự thống nhất trong hệ thống chính quyền cách

mạng từ trung ương đến cơ sở.

146

Tháng 7

Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ IX chủ trương tiếp tục đánh bại "Việt

Nam hoa chiến tranh" và ám mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của đế quốc Mỹ.

Nhằm cụ thể hóa và triển khai Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 7 -1969, Hội nghị

Trung, ương Cục miền Nam đã họp lần thứ IX bàn về chỉ đạo cách mạng miền Nam.

Hội nghị đã đánh giá những thắng lợi to lớn của chúng ta, đặc biệt là sau Tết mậu

Thân 1968 và sự thất bại nặng nề của địch, đồng thời cũng chỉ ra một số điểm yếu như cao

trào đấu tranh chính trị chưa mạnh, đấu tranh binh vận còn yếu, chiến tranh du kích phát triển

chậm, công tác hậu cần chưa đảm bảo.

Hội nghị cũng nhận định về âm mưu, thủ đoạn của địch trong thời gian trước mắt "phi

Mỹ hóa" rồi "Việt Nam hóa" chiến tranh, từ đó đề ra phương hướng công tác của ta là:

- Đẩy mạnh tấn công quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang, coi đây là vấn đề có ý

nghĩa quyết định nhất.

- Tăng cường công tác dân vận làm cơ sở cho phong trào đấu tranh chính trị và binh

vận.

- Phát huy vai trò chính quyền cách mạng, đẩy mạnh công tác an ninh, kinh tế, tài

chính, mở rộng căn cứ cách mạng.

- Xây dựng Đảng mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức để hoàn thành mọi nhiệm vụ

trong tình hình mới.

Nghị quyết Trung ương Cục lần thứ 9 có ý nghĩa rất lớn trong vận dụng đường lối của

Trung ương Đảng và trong chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam.

147

Ngày 22 tháng 7

Trung ương Cục miền Nam hướng dẫn việc kết hợp hai nhiệm vụ sản xuất và

chiến đấu.

Ngày 22-7-1969, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đã điện gửi cho các khu,

phân khu, tỉnh trực thuộc, quân ủy và các đoàn thể quần chúng hướng dẫn việc kết hợp hai

nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu.

Trung ương Cục yêu cầu các địa phương và đoàn thể trên khẩn trương chỉ đạo phong

trào chống bình định giành quyền làm chủ thật chặt chẽ, sử dụng đúng mức tất cả các lực

lượng: đấu tranh diệt ác phá kèm, phá ấp chiến lược, phá rã phòng vệ dân sự của địch, bung

ra sản xuất. Kết hợp tốt nhiệm vụ chống bình định với chăm lo phát triển sản xuất, bảo về sản

xuất, ổn định đời sống nhân dân. Ở đô thị và vùng tạm chiếm đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống

bắt lính, chống tăng thuế, chống giá sinh hoạt cao... Đặc biệt chú ý xây dựng thực lực về mọi

mặt phù hợp với tốc độ đẩy mạnh tiến công. Tất cả những công tác trên nhằm phục vụ cho

mục tiêu giành thắng lợi lớn trong đạt đấu tranh Hè và Thu sắp tới.

Ngày 1 tháng 8

Những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh chống "bình định cấp

tốc"của địch ở miền Nam.

Trước cuộc phản kích ác liệt của Mỹ - ngụy sau Tết Mậu Thân, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đặc biệt quan tâm đến tình hình miền Nam. Ngày 1-8-1969, Người tiếp đồng chí Nguyễn Văn

Linh, ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam từ chiến trường ra

báo cáo. Người hỏi nhiều về các chiến dịch "bình định cấp tốc" mà Mỹ ngụy đang xúc tiến

trên toàn miền Nam. Người căn dặn: "Bất cứ trong tình huống nào cũng phải bám chắc lấy

dân, dựa vào dân để mà tồn tại. Đó là cái chìa khoá của mọi thắng lợi".

148

Ngày 13 tháng 8

Trung ương Cục miền Nam phát động phong trào "Đánh cho M ỹ cút, đánh cho

ngụy nhào".

Ngày 13-8-1969, Thường vụ Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị "Phát động quần

chúng thành sức mạnh to lớn, dành thắng lợi mới, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".

Phân tích tình hình, Trung ương Cục miền Nam cho rằng chúng ta đang đứng trước

một tình hình thuận lợi và cần phải phát động quần chúng tạo nên phong trào lớn mạnh, tạo

thế và lực mới, đánh bại kẻ thù. Hiện tại Mỹ ngụy đã chuyển sang phòng ngự chiến lược,

chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc và ngồi đàm phán tại Pa-ri và nhiệm vụ trước mắt

của ta là đánh cho Mỹ thật đau, đánh sụp ngụy quân ngụy quyền, buộc Mỹ rút quân và công

nhận độc lập chủ quyền của ta.

Mục đích đợt phát động là tạo thế tạo lực mới, đưa phong trào nông thôn và thành thị

lên một bước mới làm cơ sở cho cuộc đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao để giành thắng

lợi mới thật to lớn.

Yêu cầu đợt phát động là tuyên truyền thắng lợi của ta, làm rõ thất bại của địch và âm

mưu của địch, nâng cao tinh thần đoàn kết yêu nước vượt mọi gian khổ hy sinh. Phải đẩy

mạnh cao trào đấu tranh chính trị, binh vận, chiến tranh du kích, cao trào sản xuất phục vụ

tiền tuyến trên khắp ba vùng chiến lược. Mỗi một địa bàn vùng ven, vùng giải phóng, thành

thị đều có những yêu cầu cụ thể trong đợt phát động này.

Về nội dung phát động phải giáo dục sâu sắc nội dung "Không có gì quý hơn độc lập

tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào". Những nội dung cụ thể được Trung ương Cục

đề ra là: Tố cáo bản chất và tội ác giặc, gây lòng căm thù giặc; Nêu cao truyền thống của địa

phương, của giai cấp của giới mình; Đánh giặc là nhiệm vụ của toàn dân và chỉ có chính

quyền về tay nhân dân mới có hoà bình no ấm thực sự.

149

Cuộc phát động được tiến hành thông qua các Đại hội nhân dân ở vùng ta làm chủ.

Còn ở vùng địch tạm chiếm thì đưa ra những khẩu hiệu phù hợp, bức bách, lợi dụng báo chí

và các tổ chức công khai, nửa công khai mà tuyên truyền phát động phong trào.

Điều cốt yếu nhất mà đợt phát động quần chúng lần này cần đạt được là: phát động

quần chúng gắn với thực tế chiến đấu và sản xuất, với xây dựng và phát triển các lực lượng

cách mạng, với việc củng cố tổ chức Đảng.

Ngày 14 tháng 8

Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập Ban kiểm tra các cấp.

Ngày 14-8-1969, Thường vụ Trung ương cục miền Nam ra Nghị quyết số 13 quyết

định thành lập Ban kiểm tra các cấp. Đến ngày 1-12-1969, Trung ương cục miền Nam lại ra

Thông tri số 135 hướng dẫn thi hành Nghị quyết trên.

Theo Nghị quyết, Ban kiểm tra các cấp có những nhiệm vụ sau:

1. Kiểm tra những đảng viên và tổ chức của Đảng làm sai trái Điều lệ, kỷ luật của

Đảng, trái đạo đức cách mạng (gọi tắt là: Công tác kiểm tra giữ gìn kỷ luật).

2. Thi hành kỷ luật đối với đảng viên và tổ chức Đảng phạm sai lầm đến mức cần phải

áp dụng các hình thức kỷ luật. Xét giải quyết thư khiếu nại về kỷ luật trong Đảng của đảng

viên và tổ chức của Đảng ( gọi tắt là công tác xét xử kỷ luật).

3. Xét và giải quyết thư tố cáo của đảng viên hoặc quần chúng tố cáo những cán bộ,

đảng viên hoặc tổ chức Đảng làm sai trái kỷ luật của Đảng và đạo đức cách mạng (gọi tắt là

công tác xét thư tố giác).

4. Kiểm tra tài chính, cụ thể là kiểm tra việc thu nộp, sử dụng Đảng phí, các khoản thu

khác và việc chi tiêu trong Đảng sai trái với quy định của Trung ương Cục (gọi tắt là công tác

kiểm tra tài chính của Đảng).

150

Trung ương Cục nhấn mạnh: đây là công tác mới mẻ ờ miền Nam, nên phương châm

là phải tiến hành thận trọng, từng bước và lấy giáo dục làm chính về tổ chức và thực hiện

công tác.

Ngày 9 tháng 9

Trung ương Cục miền Nam biến đau thương thành hành động cách mạng quyết

tâm thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngày 9-9-1969 Thường vụ trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị cấp tốc gửi các phân

khu ủy, khu ủy, tỉnh ủy, quân ủy, cục chính trị và tất cả các ban ngành thuộc Trung ương Cục

miền Nam về kết thúc những ngày để tang Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bản chỉ thị nhấn mạnh nội dung quan trọng nhất mà các cấp ủy phải quán triệt là: biến

những đau thương mất mát không gì bù đắp được thành những hành động cách mạng trong

chiến đấu, sản xuất và đoàn kết đế đẩy lên một cao trào mới giết giặc cứu nước, lướt qua mọi

khó khăn gian khổ, quyết hy sinh chiến đấu dũng cảm phi thường theo ngọn cờ bách chiến

bách thắng của Hồ Chủ tịch.

Trung ương cục đã gửi tới các Đảng bộ bài Điếu văn của BCH Trung ương Đảng, Bản

Di chúc của Bác để in và phổ biến đến từng đảng viên nhằm phát động quần chúng làm theo

Di chúc của Người đẩy nhanh sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi to

lớn hơn nữa.

Ngày 29 tháng 9

Trung ương Cục miền Nam tiếp tục chỉ đạo công tác biên giới giữa ta và

Cămpuchia.

Ngày 29-9-1969 Thường vụ Trung ương cục miền Nam ra chỉ thị 120-CTNT "Về

công tác biên giới" giữa ta và Cămpuchia.

Chỉ thị đã phân tích rõ những nội dung trong quan hệ biên giới giữa ta và Cămpuchia

thời gian qua trong đó làm rõ những khuyết điểm của ta như: Một số đồng chí còn chưa coi

trọng tinh thần đoàn kết, hữu nghị, phong tục tập quán của nhân dân Cămpuchia. Trong

151

việc ăn ở đi lại sinh hoạt của một số đơn vị còn lộ liễu, một số đơn vị lại có tư tưởng cục bộ

địa phương chỉ thấy lợi cho đơn vị mình Trung ương Cục cho rằng sở dĩ có điều đó vì còn

một số cá nhân, đơn vị chưa có quan điểm dân tộc vững vàng, cách nghĩ, cách nhìn phiến

diện và chấp hành chưa tốt các chỉ thị về biên giới.

Sắp tới, nhiệm vụ quan trọng là cần giáo dục cán bộ, chiến sỹ nhân dân có nhận thức

đúng đắn về vấn đề biên giới, mọi giao dịch quan hệ phải thông qua cơ quan biên phòng và

bộ đội biên phòng, bình tĩnh xem xét và giải quyết mọi vấn đề xảy ra. Quân ủy Miền sẽ tổ

chức ra Ban Biên Giới trực thuộc Quân ủy Miền và các khu vực biên giới địa phương sẽ do

cấp ủy địa phương quản lý.

Cũng trong tháng 9 năm 1969 Quân ủy Miền đã ban hành nội quy gồm 9 điểm về các

hoạt động của ta ở vùng biên giới với Cămpuchia và nội dung, nguyên tắc quan hệ cũng như

lề lối làm việc của đại diện hai bên quan hệ .

Ngày 5 tháng 10

Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị xây dựng tổ chức bộ máy chính phủ cách mạng

lâm thời.

Ngày 5-10-1969, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết về tổ chức bộ

máy chính phủ cách mạng lâm thời.

Nói về tình hình hiện tại, Nghị quyết chỉ rõ: ở miền Nam chúng ta đã xây dựng được

một hệ thống chính quyền cách mạng hoàn chỉnh đại diện cho nhân dân, có uy tín trên trường

quốc tế. Như vậy, ở miền Nam, có hai hệ thống chính quyền đang đấu tranh gay gắt với nhau.

Cuộc đấu tranh xây dựng chính quyền là một bộ phận rất khăng khít của toàn bộ chiến đấu

của quân dân ta. Nguyên tắc của việc xây dựng, củng cố chính quyền là bảo đảm sự lãnh đạo

vững chắc của Đảng đối với chính quyền cách mạng cơ sở, kể cả ở nông thôn và đô thị, đồng

thời chính quyền bên trên phải vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa thể hiện được tính

chất liên hiệp rộng rãi. Chính quyền cách mạng ở miền Nam theo quy mô một chính phủ

hoàn chỉnh từ Trung ương đến huyện, xã và nhiệm vụ trước mắt của chính quyền cách mạng

là thúc đẩy cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa đến thắng lợi

152

quyết định. Xây dựng chính quyền phải đi đôi với tăng cường các ban chuyên môn của Đảng:

Chính phủ "cách mạng lâm thời là cơ quan hành chính cao nhất, lãnh đạo tập trung thống

nhất các Bộ, và các cấp chính quyền. Một yêu cầu nữa là xây dựng chính quyền cách mạng

phải từng bước vững chắc để chính quyền cách mạng đáp ứng kịp sự phát triển của tình hình.

Về tổ chức bộ máy của chính phủ cách mạng lâm thời, Nghị quyết của Trung ương

Cục quy định: Chính phủ có Phủ Chủ tịch, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ

Kinh tế tài chính, Bộ thông tin văn hoá, Bộ Giáo dục và thanh niên, Bộ y tế, xã hội và thương

binh, Bộ tư pháp và ban đại diện chính phủ ở Khu. Ngoài ra còn có Hội đồng cố vấn giúp

việc cho chính phủ.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Trung ương Cục cũng quyết định thành lập

Đảng đoàn Chính phủ và Đảng đoàn các Bộ, các Ban chuyên môn của Đảng chịu sự chỉ đạo

trực tiếp của Trung ương Cục.

Ngày 10 tháng 10

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị tăng cường lãnh đạo Hội đồng cung cấp tiền

phương.

Ngày 10-10-1969, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về tăng cường

lãnh đạo Hội đồng cung cấp tiền phương. Đánh giá về hoạt động của hội đồng thời gian qua,

chỉ thị nêu rõ Hội đồng cung cấp tiền phương đã đảm bảo phần lớn lương thực, sức người,

đạn dược, y tế... cho tiền tuyến. Tuy nhiên trong khi nhu cầu đảm bảo vật chất ngày càng lớn

thì việc thu mua, dự trữ, vận chuyển ngày càng giảm sút, việc huy động sức người sức của

phục vụ tiền tuyến chưa tốt... gây ảnh hưởng đến nhiệm vụ chiến đấu của một số đơn vị. Do

vậy, nhiệm vụ trong thời gian tới của Hội đồng cung cấp tiền phương là động viên sức người

sức của đến mức cao nhất phục vụ tiền tuyến trên cơ sở bồi dưỡng sức dân, bảo vệ và đẩy

mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm. Cần phải đảm bảo thông suốt các hành lang vận chuyển

và có sư điều hòa giữa các vùng. Những nhiệm vụ cần làm ngay trong Đông Xuân 1969-1970

là thu mua lương thực đạt chỉ tiêu cả ở tuyến trước và tuyến sau, mở ra và đảm bảo thông

suốt hành lang vận

153

chuyển, phát triển màng lưới dân y các cấp, khai thác tốt khu vực vùng ven, vùng đông dân

và động viên nhân dân hăng hái tham gia bộ đội du kích, thanh niên xung phong. Chỉ thị

cũng nêu rõ nhiệm vụ cụ thể của Hội đồng cung cấp tiền phương ở các vùng: giải phóng,

vùng tranh chấp, đô thị. Cuối cùng chỉ thị yêu cầu Hội đồng cung cấp địa phương các cấp

nhanh chóng củng cố kiện toàn tổ chức nhất là tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối

với Hội đồng để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trước mắt.

Ngày 20 tháng 10

Trung ương Cục miền Nam phát động đồng bào, chiến sỹ miền Nam học tập và

thực hiện Di chúc của Chủ tịch H ồ Chí Minh.

Ngày 20-10-1969, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị mở đợt phát

động học tập và làm theo Di chúc của Hồ Chủ tịch,

Chỉ thị nêu rõ bản Di chúc là "nguồn sức mạnh vô cùng to lớn đối với sự nghiệp đấu

tranh cách mạng hiện nay và mãi mãi về sau của Đảng ta và dân tộc ta". Đạt phát động này

nhằm bồi dưỡng, phát huy mạnh mẽ những tư tưởng, tình cảm của toàn Đảng, toàn dân, toàn

quân ta đối với Bác Hồ, thấy rõ công lao vĩ đại, đạo đức cao đẹp của Người, trên cơ sở đó

"động viên phong trào thi đua yêu nước thực hiện Di chúc của Hồ Chủ tịch, nâng cao quyết

tâm vượt qua mọi hy sinh gian khổ, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước, nỗ lực vượt bực hoàn thành cho được nhiệm vụ và những công tác mà nghị quyết 9 đã

đề ra".

Nội dung tuyên truyền giáo dục là đạo đức cao đẹp, công lao to lớn của Người với

dân tộc ta, với miền Nam ruột thịt. Quyết tâm làm theo lời Bác: đấu tranh giải phóng miền

Nam, thống nhất tổ quốc tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng Đảng vững mạnh, đoàn kết dân

tộc, đoàn kết quốc tế, rèn luyện đạo đức tác phong cách mạng... Trung ương Cục cũng gắn

việc học tập và thực hiện Di chúc Hồ Chủ Tịch với việc học tập và triển khai Nghị quyết hội

nghị IX của Trung ương Cục nhằm tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng của Người, trước

hết là đánh đuổi giặc Mỹ xâm lược. Với cuộc phát động này, phong trào cách mạng miền

Nam được đẩy mạnh với quyết tâm giành thắng

154

lợi to lớn trong Đông Xuân 1969-1970 tiến tới thực hiện Di chúc của Bác.

Ngày 1 tháng 11

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị kết hợp cuộc đấu tranh phản chiến ở M ỹ

với đẩy mạnh phong trào đ ộ thị miền Nam.

Ngày 1-11-1969, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị "Nhân phong trào

đấu tranh chính trị ở các đô thị đòi Mỹ rút quân, đẩy mạnh công tác binh địch vận".

Chỉ thị nêu rõ, hiện tại, phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân Mỹ cùng với

những chính sách không họp" lòng dân của ngụy quyền (tăng thuế gần 2000 mặt hàng ...) là

thời cơ cho ta tổ chức đấu tranh với nội dung là đòi Mỹ rút quân, đòi cải thiện đời sống, đòi

dân chủ và hòa bình. Cuộc đấu tranh này phải tập hợp đông đảo nhân dân đô thị với hình thức

đấu tranh phong phú như truyền đơn, báo chí, kiến nghị, hội thảo, thư tay, mít tinh... Song

song với nó phải đẩy mạnh hoạt động vũ trang trong các thành phố.

Việc vận động phong trào phản chiến của lính Mỹ và chư hầu cũng phải được coi

trọng với những lý lẽ sắc bén từ phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ, vạch trần bộ mặt giả

dối của chính quyền Mỹ, đánh vào tâm lý cầu an của lính Mỹ trước khi về nước. Vận động

ngụy quân phải gắn chặt với việc tăng thuế 2000 mặt hàng làm ảnh hường tới gia đình họ.

Chỉ thị nhấn mạnh tình hình hiện tại là thời cơ thuận lợi cho phong trào đô thị và công tác

bình địch vận phát triển, là thời cơ công nông binh liên hiệp thục hiện khẩu hiệu chính trị

trung tâm: Hòa bình, Mỹ rút quân, lật đổ Thiệu Kỳ Khiêm.

Ngày 4 tháng 11

Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết đẩy mạnh chiến tranh du kích trong

tổng công kích, tổng khởi nghĩa.

Ngày 4-11-1969, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết số 14/NQNT

"Về việc đẩy mạnh chiến tranh du kích trong tổng cộng kích, tổng khởi nghĩa".

155

Mở đầu, bản nghị quyết nêu lên vị trí chiến lược quan trọng của chiến tranh du kích

trong tổng công kích, tổng khởi nghĩa (TCK -TKN). Đó là: Chiến tranh du kích kéo căng

địch, tiêu hao tiêu diệt địch trên cả ba vùng chiến lược tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực đánh

lớn. Chiến tranh du kích bảo vệ hậu phương của ta chống bình định lấn chiếm và làm rối loạn

hậu phương của địch. Thứ ba là chiến tranh du kích của ta dựa chắc vào nhân dân, càng đánh

càng mạnh, chủ động ứng phó trong mọi tình huống.

Tình hình hiện tại là chiến tranh du kích đang phát triển mạnh mẽ ở các địa bàn, kể cả

đô thị, vùng ven, dọc các trục giao thông lớn nhưng nhìn chung còn chậm so với yêu cầu của

TCK-TKN. Vì vậy nhiệm vụ đang đặt ra cấp bách là phát động cuộc chiến tranh du kích, phối

hợp với đấu tranh chính trị, binh vận trên cả ba vùng chiến lược nhằm tiêu diệt tiêu hao địch

nhiều hơn nữa, đánh bại kế hoạch bình định lấn chiếm, làm tan rã hậu phương của địch, mở

rộng hậu phương của ta, tạo ra cơ sở quân sự và chính trị vững chắc để giành thắng lợi trong

thời gian ngắn đồng thời sẵn sàng thắng địch trong tình huống chiến tranh kéo dài.

Về phương châm, phương thức về tổ chức và hoạt động của chiến tranh du kích, nghị

quyết nêu rõ: "phải đi sâu vào từng vùng cụ thể, phải có yêu cầu phương châm phương thức

hình thức về tổ chức và hoạt động cụ thể sát hợp với từng vùng". Ở những khu vực trọng

điểm phải "quán triệt sâu sắc tư tưởng tiến công địch và lòng tin mãnh liệt ở khả năng cách

mạng của quần chúng" do đó phải ra sức phát triển Đảng, Đoàn, cơ sở cách mạng, các đoàn

thể quần chúng, các đội du kích mật, tự vệ mật làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh. Phải

phối hợp giữa lực lượng bên trong và bên ngoài để tạo thuận lợi cho sự phát triển bên trong

và điều kiện cho bên ngoài bám trụ trong quần chúng. Kết hợp lực lượng bên trong, bên

ngoài chống càn, lập các đội biệt động, đặc công luồn sâu, đánh hiểm ở bên trong, lực lượng

bên ngoài hỗ trợ bên trong diệt ác phá kèm, bung ra sản xuất.

Cuối cùng Nghị quyết khẳng định vai trò các cấp uỷ Đảng "cần phải tăng cường hơn

nữa sự lãnh đạo chỉ đạo chiến tranh du kích về cả 2 mặt phát động quần chúng đẩy mạnh

chiến tranh du kích và tăng cường lãnh đạo các đơn vị vũ trang địa phương và du kích làm

nòng cốt thúc đẩy chiến tranh du kích". Các cấp ủy Đảng phải huấn luyện

156

cho lực lượng địa phương và du kích không chỉ chiến đấu giỏi mà còn phải làm tốt công tác

dân vận, binh địch vận.

Tháng 12

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về đẩy mạnh phong trào đấu tranh trong

năm 1970.

Ngày 8-12-1969, Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị khẩn trương đẩy mạnh tiến

công toàn diện, tạo thêm thế thêm lực, đánh bại kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế

quốc Mỹ, mở ra cục diện mới để giành thắng lợi quyết định.

Nhận định tình hình từ khi triển khai Nghị quyết IX của Trung ương Cục, chỉ thị cho

rằng, đế quốc Mỹ rút quân, thế và lực của Mỹ và tay sai đang suy giảm không ngừng. Cách

mạng miền Nam tiếp tục giữ vững thế tiến công và nổi dậy kết hợp với đấu tranh ngoại giao,

giành thắng lợi trong điều kiện rất khó khăn. Đặc biệt về quân sự, ta đã bước đầu đánh bại

Việt Nam hóa chiến tranh, củng cố thêm một bước thế và lực ở 3 vùng chiến lược. Cuộc đấu

tranh chính trị ở nông thôn và thành phố ngày càng mở rộng, làm cho nền kinh tế chính trị, xã

hội miền Nam tiếp tục lâm vào khủng hoảng trầm trọng.

Tuy nhiên những thắng lợi to lớn của ta về mọi mặt "chưa tới mức làm chuyển biến

lớn cục diện tình hình giữa ta và địch". Nhưng do địch đang ở thế đi xuống nên: "năm 1970 là

thời gian tập trung; những điều kiện thuận lợi nhất cho ta, bất lợi nhất cho địch... đó là thời cơ

cụ thể để động viên những nỗ lực phi thường làm chuyển biến lớn cục diện tình hình giữa ta

và địch". Năm 1970 là năm quyết định tạo ra cục diện mới tuy nhiên nếu đế quốc Mỹ ngoan

cố và cố gắng chủ quan của ta chưa đủ thì ta vẫn sẽ giành thắng lợi lớn.

Chủ trương sắp tới được chỉ thị xác định về mọi mặt nhằm tạo thêm thế thêm lực để

tiến lên.

V ề quân sự. Tiếp tục tấn công tiêu diệt nhiều hơn quân Mỹ và ngụy, đẩy mạnh chiến

tranh du kích bảo vệ hậu phương và các hành làng vận tải. Chống bình định, diệt ác phá kèm,

mở rộng vùng giải phóng.

157

V ề chính trị: Đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng, đặc biệt là phong trào

đô thị đòi Mỹ rút, đòi các quyền dân sinh dân chủ, đòi lật đổ Thiệu Kỳ Khiêm, lập chính phủ

trung lập, hoà bình.

Chăm lo chỉ đạo xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng thực lực, bảo vệ hậu

phương kháng chiến, phát triển sản xuất đời sống, an ninh, văn hoá, y tế...

V ề binh vận: phải khai thác cao nhất khả năng to lớn của mũi đấu tranh này, vận

động cả Mỹ và ngụy.

Công tác Đảng Đoàn: Chú ý khắc phục những tư tưởng lệch lạc như ỷ lại, trông chờ;

giáo dục nghị quyết IX Trung ương Cục và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp tục củng

cố chi bộ 4 tốt, chi đoàn 4 tốt.

Chỉ thị của Trung ương Cục đã có ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy quân dân miền

Nam tiến lên tạo ra cục diện mới trong năm 1970.

NĂM 1970

Tháng 1

Hội nghị lần thứ 18 của Ban chấp hành Trung ương Đảng chủ trương đánh bại

chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ.

- Hội nghị dự đoán về âm mưu sắp tới của địch: chúng sẽ tiếp tục chuyển hướng chiến

lược từng bước rút dẫn quân Mỹ, ra sức thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" để

cố tạo nên một thế mạnh trong quá trình xuống thang, hòng kéo dài chiến tranh xâm lược,

tiếp tục duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam nước ta.

158

- Hội nghị nêu lên đặc điểm của giai đoạn cách mạng lúc này là quá trình ta đánh bại

địch từng bước, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

- Hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt: Tiếp tục phát triển chiến lược tiến công một

cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ; vừa tiến công địch vừa ra sức xây dựng lực lượng quân

sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh; đánh bại âm mưu "Việt Nam hoá chiến tranh" của

Mỹ, đánh bại âm mưu của chúng xuống thang từng bước, kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh

hòng duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới" của chúng ở miền. Nam nước ta; làm thất bại

chiến lược phòng ngự của đích, tạo nên chuyển biến mới trong cục diện chiến tranh, giành

thắng lợi từng bước đi đến giành thắng lợi quyết định, đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh

cho ngụy phải suy sụp, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ,

hoà bình, trung lập tiến tới thống nhất đất nước.

- Hội nghị nhấn mạnh phải vận dụng đúng đắn phương châm đẩy mạnh tiến công toàn

diện về quân sự, chính trị, ngoại giao; phương châm tiến công trên cả 3 vùng chiến lược, lấy

nông thôn hướng tiến công chính, quán triệt phương châm đánh lâu dài, trên cơ sở tranh thủ

giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, đập tan âm mưu "Việt Nam hoá

chiến tranh" của đế quốc Mỹ.

- Về mặt tác chiến của các lực lượng vũ trang Hội nghị nêu rõ cần phải đẩy mạnh tác

chiến của lực lượng chủ lực, đồng thời phải thực hiện cho kì được một sự chuyển biến mạnh

mẽ trong phong trào chiến tranh du kích ở địa phương. Hội nghị nêu rõ tầm quan trọng của

công tác hậu cần và yêu cầu phải tổ chức tuyến hậu cần tại chỗ thật vững chắc, đồng thời có

kế hoạch ứng phó với mọi tình thế địch gây ra.

Hội nghị còn nhấn mạnh miền Bắc phải tiếp tục xây dựng CNXH sẵn sàng chiến đấu

và làm tròn nhiệm vụ cho chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia.

159

Ngày 2 tháng 1

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị số 01 về đẩy mạnh đợt tấn công

chính trị và binh vận trong dịp Tết Nguyên Đán.

Để chuẩn bị kế hoạch đấu tranh trong dịp Tết Canh Tuất, Thường vụ Trung ương Cục

miền Nam đã ra Chỉ thị xác định đây là một thời cơ tốt để tiếp tục phát huy thắng lợi đẩy

mạnh thực hiện nhiệm vụ đợt mùa đông. Nhiệm vụ chủ yếu là tập trung đẩy mạnh tấn công

chính trị, binh vận tăng cường công tác phát động quần chúng nhằm tạo thêm thế, thêm lực

chuẩn bị đầy đủ điều kiện để mở ra cục diện mới trong thời gian sắp tới.

Chỉ thị đề ra các nhiệm vụ đấu tranh:

- Đấu tranh chính trị ở 3 vùng đô thị, vùng ven và vùng giải phóng.

- Đẩy mạnh tấn công binh vận trong dịp Tết.

- Làm tốt còng tác nội bộ và phát động quần chúng đấu tranh; tố chức thăm viếng các

gia đình tử sĩ, gia đình chiến sĩ, gia đình có cán bộ thoái li, gia đình địch bị khủng bố...., đồng

thời động viên mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân.

Tháng 1 năm 1970

Chỉ thị số 02 của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam về công tác và chính sách

cán bộ nữ.

Bản Chỉ thị nhấn mạnh phương châm công tác cán bộ nữ của Đảng là: "tích cực bồi

dưỡng, mạnh bạo sử dụng". Chỉ thị xác định: vấn đề mạnh bạo sử dụng và đề bạt cán bộ nữ

đã trở thành một yêu cầu cấp bách, một vấn đề cần phải chú ý. Phải hết sức coi trọng việc đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ; vì đây là một khâu rất yếu, phải khắc phục trước mắt, đồng thời

đây cũng là nhiệm vụ có tính chất cơ bản, lâu dài. Cùng với công tác đào tạo, bồi dường, đề

bạt cán bộ nữ phải hết sức coi trọng những chế độ, chính sách và biện pháp cụ thể đối với

160

chị em phụ nữ. Giải quyết tích cực những mâu thuẫn, chủ yếu là về gia đình, con cái, sắp xếp

công việc hoạt động của chị em.

Ngày 7 tháng 1

70.000 công nhân thành phố Sài Gòn tổng bãi công

Thực hiện chủ trương của Trung ương Cục về đẩy mạnh các phong trào đấu tranh ở

các đô thị, cuối năm 1969 đầu năm 1970 phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thành

phố Sài Gòn đã có bước chuyển quan trọng. Ngày 7-1-1970 hơn 70.000 công nhân thuộc 118

nghiệp đoàn ở Sài Gòn đã tham gia tổng bãi công ủng hộ những yêu sách của công nhân xe

buýt đòi chính quyền Sài Gòn phải lập lại "Công quản xe buýt" và thu nhận lại những công

nhân bị sa thải. Cuộc tổng bãi công đã diễn ra liên tục trong nhiều ngày làm tê liệt nhiều hoạt

động của địch ở Sài Gòn và hầu hết các bến tàu, hải cảng, sân bay của địch không hoạt động

được. Tại thương cảng Sài Gòn hàng chục tàu quân sự chở xăng phải ngừng bốc dỡ. Tại Khu

8 Nhà Bè, việc cung cấp hàng viện trợ cho quân ngụy bị ngừng hẳn.

Cuộc bãi công đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới nhiều thành phố khác ở miền Nam. Tại

Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Bến Tre, Mỹ Tho hàng vạn công nhân đã liên tục tổ chức mít tinh,

biểu tình phản đối chế độ của Mỹ - ngụy và ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Sài Gòn.

Ngày 20 tháng 2

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị mấy vấn đề cấp bách về lãnh

đạo, chỉ đạo bảo đảm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9.

Về nhận định tình hình địch - ta trên chiến trường, bản Chỉ thị khẳng định Nghị quyết

Hội nghị lần thứ 9 và Chỉ thị 136 là hoàn toàn đúng đắn. Hai khả năng nêu ra trong Nghị

quyết 9 vẫn tồn tại; Từ khi thực hiện Nghị quyết 9 đến nay (20-2-70) xu thế ta thắng, địch

thua ngày càng rõ hơn; Nhưng những cố gắng của ta còn hạn chế chưa tương xứng so với yêu

cầu và khả năng của ta.

161

Chỉ thị đề ra các nhiệm vụ cụ thể nhằm thực hiện tốt nội dung đề ra trong Nghị quyết

9 và Chỉ thị 136.

1. Nhận thức rõ hơn nữa tình hình và nhiệm vụ trước mắt, quán triệt sâu sắc yêu cầu

quyết tâm của Đảng trong thời gian tới là tập trung nỗ lực cao độ giành thắng lợi quyết định

trong thời gian tương đối ngắn nhằm đánh bại về cơ bản âm mưu bình định của địch và xây

dựng lực lượng của ta lớn mạnh về mọi mặt tạo cơ sở vững chắc làm thay đổi cục diện trên

chiến trường.

2. Nắm vững 3 mũi giáp công, 3 vùng chiến lược, vừa tấn công, vừa xây dựng; kết

hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa tấn công quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận và đấu tranh

ngoại giao.

3. Những khâu quan trọng nhất trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện và lãnh đạo toàn

diện là đẩy mạnh chỉnh huấn chi bộ và phát động quần chúng đấu tranh, tập trung chỉ đạo

phong trào từ xã, ấp trở lên; xây dựng kế hoạch thống nhất lãnh đạo của các cấp ủy từ trên

xuống.

Ngày 27 tháng 3

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị nhận định về cuộc đảo chính ở Campuchia

và chủ trương đối phó của ta.

Trước tình hình đế quốc Mỹ làm cuộc đảo chính lật đổ chính phủ Xi-ha-núc đưa chính

phủ tay sai thân Mỹ lên nắm quyền, Trung ương Cục miền Nam đã nhận định "đây là một

chủ trương nằm trong chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh của đế quốc Mỹ nhằm giành thế

mạnh trên chiến trường miền Nam, đồng thời đàn áp phong trào cách mạng Campuchia. Cuộc

đảo chính này nổ ra trong lúc đế quốc Mỹ đang thua, còn phải tiếp tục rút quân và giảm chi

phí quân sự nên Mỹ không đưa quân vào Campuchia mà thông qua đội quân tay sai và vũ khí

Mỹ... Cuộc đảo chính này trước mắt sẽ gây cho ta một số khó khăn.

Trung ương Cục miền Nam chủ trương: trước mắt phải tập trung củng cố thế đứng

chân của ta ở vùng biên giới, đồng thời khẩn trương giúp bạn phát triển thực lực chính trị, vũ

trang, mở rộng căn cứ, hình

162

thành mặt trận thống nhất, phối hợp chặt chẽ giữa 3 chiến trường Việt Nam, Lào và

Campuchia.

Ngày 28 tháng 5

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về: "Đẩy mạnh cuộc tấn công và

nổi dạy phối hợp chặt chẽ với quân dán Cămpuchia - Lào giành những thắng lợi mới".

Căn cứ vào tình hình địch mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương, chúng

đang gặp phải sự phản đối quyết liệt của nhân dân thế giới và trong nước Mỹ. Ở miền Nam,

lực lượng cả Mỹ và ngụy đều suy yếu và bị phân tán dàn mỏng. Kế hoạch bình định đang bí

lại càng tăng nguy cơ thất bại.

Trung ương Cục nhận định: "Hiện tại địch có gây cho ta một số khó khăn tạm thời

cho ta, song căn bản là thuận lợi cho cuộc đấu tranh của nhân dân 3 nước Đông Dương".

Trung ương Cục miền Nam chủ trương:

- Phải tranh thủ thời cơ địch rút quân chủ lực đi Campuchia để đẩy mạnh phong trào

đồng khởi ở các vùng đông dân, tăng cường nhanh chóng thực lực chính trị, vũ trang, phát

triển 3 mũi giáp công giành quyền làm chủ và giải phóng nhân dân trên phạm vi từng mảng

lớn. Phải đánh thật mạnh thật đau lực lượng dân vệ, ác ôn, các đơn vị chủ lực yểm trợ.

- Ở các vùng ven, vùng yếu phải vừa đẩy mạnh diệt ác phá kìm trong ấp chiến lược

vừa phát triển phong trào bung ra sản xuất tạo thế bám sâu của lực lượng vũ trang ta vào trong

dân. Phát động phong trào đoàn kết, chiến đấu, sản xuất phục vụ tiền tuyến.

- Đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở đô thị như phong trào của học sinh, sinh viên,

phong trào thương phế binh, phong trào của các tầng lớp trung gian đòi các khẩu hiệu dân

sinh, dân chủ, đòi hòa bình chấm dứt chiến tranh.

163

- Phát triển đấu tranh binh vận, phản đối những cuộc hành quân đánh chiếm

Campuchia kết hợp với vận động binh sĩ ngụy trở về với nhân dân.

Ngày 19 tháng 6

Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương ra Nghị quyết "Về tình hình mới trên

bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta".

Tháng 5-1970 đế quốc Mỹ làm đảo chính ở Campuchia và mở rộng chiến tranh ra

khắp Đông Dương. Trước tình hình đó Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết "Về tình hình mới trên

bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta".

Về âm mưu của địch, Nghị quyết nhận định: Tuy đã bị thất bại nặng nề, nhưng do bản

chất cực kỳ ngoan cố của chúng, lại do còn tiềm lực, đế quốc Mỹ sẽ tìm cách kéo dài chiến

tranh, vừa xuống thang, vừa phản công bộ phận, vừa rút quân Mỹ, vừa tiếp tục những hành

động phiêu lưu. Trong thế bị động và thất bại chúng còn tìm cách mở rộng chiến tranh xâm

lược các nước trên bán đảo Đông Dương theo phương thức và hạn độ chúng cho là thích hợp

và có lợi, nhằm phối hợp với "Việt Nam hoá chiến tranh" ở miền Nam Việt nam để đàn áp

cách mạng Campuchia và Lào.

Nghị quyết phân tích chỗ yếu, chỗ mạnh của địch và nhận định âm mưu của chúng

trong thời gian sắp tới để đề ra nhiệm vụ chung cho cách mạng cả nước là: Động viên sự nỗ

lực cao nhất của toàn Đảng toàn quân, toàn dân cả hai miền Nam - Bắc nước ta, tăng cường

khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương trở thành một khối thống nhất,

có một chiến lược chung, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ba

nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lù tay sai.

Vị trí và nhiệm vụ cụ thể của mỗi chiến trường.

1) Miền Nam: đây là chiến trường quan trọng nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước của nhân dân 3 nước Đông Dương. Thắng lợi ở chiến trường này có tác dụng chi

phối và làm thay đổi

164

toàn bộ cục diện trên toàn bán đảo Đông Dương. Do đó nhiệm vụ cụ thể của chiến trường

miền Nam là kiên trì đẩy mạnh kháng chiến, kết hợp chặt chẽ hơn nữa 3 mũi tấn công, tiếp

tục xây dựng thế tấn công chiến lược mới này càng mạnh mẽ. Tập trung lực lượng đập tan kế

hoạch bình định và âm mưu "Việt Nam hóa" chiến tranh, làm thất bại chiến lược phòng ngự

kéo dài chiến tranh của chúng. Đồng thời tranh thủ thời cơ khi địch bị sa lầy trên chiến

trường Cămpuchia để đẩy mạnh hoạt động ở đồng bằng sông Cửu Long và uy hiếp xung

quanh Sài Gòn và các đô thị khác.

2. Chiến trường Campuchia: đây là khâu yếu nhất của địch trên bán đảo Đông

Dương. Do đó nhiệm vụ của ta là: giúp đỡ và phối hợp với bạn, nắm vững thời cơ, tiếp tục

thế tiến còn 2 liên tục, đưa cách mạng Cămpuchia tiến lên mạnh mẽ.

3. Chiến trường Lào: Ngày càng trở nên có vị trí quan trọng với chiến trường toàn

Đông Dương và vị trí hiểm yếu nhất là vùng Trung và Hạ Lào. Do đó nhiệm vụ của ta đối với

chiến trường này là ra sức giúp đỡ, phối họp với bạn, tiếp tục khuyếch trương thắng lợi vừa

qua, kiên quyết tiến công địch về mọi mặt, đưa cách mạng Lào tiến lên.

4. Miền Bắc: lúc này không những là hậu phương lớn của tiền tuyến miền Nam, mà

còn là hậu phương lớn của cách mạng ba nước Đông Dương. Nhiệm vụ là động viên sức

người sức của cao nhất cho tiền tuyến, đồng thời nâng cao cảnh giác sẵn sàng đập tan mọi âm

mưu khiêu khích và mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ.

Nghị quyết dự kiến 2 khả năng phát triển của tình hình.

Một là, nếu Mỹ-ngụy bị đánh bại ở chiến trường Campuchia, cục diện Campuchia có

thay đổi đột biến thì ta có điều kiện để giành thắng lợi nhanh chóng.

Hai là, nếu cách mạng còn gặp những khó khăn nhất định đế quốc Mỹ tiếp tục tăng

cường và mở rộng chiến tranh thì chiến sự sẽ đi vào thế giằng co và kéo dài.

Ta cần cố gắng tranh thủ khả năng thứ nhất.

165

Ngày 30 tháng 6

Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi Trung ương Cục miền Nam , đồng chí Phạm Hùng,

đồng chí Hoàng Văn Thái.

Sau khi nhận được điện số 318 ngày 23-6-1970 của Trung ương cục miền Nam và

đồng chí Phạm Hùng và điện của đồng chí Hoàng Văn Thái gửi Quân ủy Trung ương, Bộ

Chính trị và đồng chí Lê Duẩn đã đồng ý với những nhận định đánh giá của Trung ương Cục

miền Nam về thắng lợi của ta và thất bại của địch trên chiến trường Campuchia: "Chiến

trường này là khâu yếu nhất của địch trong toàn bỏ chiến trường Đông Dương vì vậy cách

đánh cũng như hoạt động của ta ở đây khác với miền Nam Việt Nam". Và đồng ý với phương

hướng do Trung ương Cục để ra là phải tiến công mạnh nhằm khoét sâu những chỗ yếu và

bất lực của địch, không để cho chúng có thời gian củng cố lực lượng.

Về ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, trong thư đồng chí Lê Duẩn nói rõ: ở chiến trường

Cămpuchia quân Mỹ sẽ rút để quân ngụy miền Nam ở lại, đồng thời Mỹ sẽ tăng cường viện

trợ để củng cố quân ngụy Campuchia. Địch sẽ mở những cuộc tiến công lớn vào cuối mùa

mưa hoặc đầu mùa khô, đánh vào các căn cứ dọc biên giới và hành lang chiến lược của ta ở

Trung, hạ Lào và Đông bắc Campuchia làm cho ta không có chỗ đứng chân vững chắc, phá

hoại, cắt đứt tuyến tiếp tế duy nhất của ta hiện nay. Mặt khác đánh phá các căn cứ, các tuyến

tiếp tế của ta và giành giật lại các vùng nông thôn bị mất".

Tóm lại về nhận định tình hình Bộ Chính trị nhấn mạnh những đặc điểm mới:

- Cả Đông Dương đã trở thành một chiến trường để từ đó đánh giá lực lượng so sánh

giữa ta và địch, nhận rõ đối tượng tác chiến, phán đoán thời cơ và đề ra chủ trương chiến

lược.

- Campuchia hiện nay là chiến trường yếu nhất của chiến trường Đông Dương. Sai

lầm của địch khi đánh sang Campuchia là đã bị động mở ra một chiến trường mới. Ở đó

chẳng những quân ngụy Lon

166

non rất yếu mà quân ngụy miền Nam cũng ngày càng bị sa lầy và có nguy cơ bị tiêu diệt một

bộ phận quan trọng.

- Bộ Chính trị cũng tán thành ý kiến của anh Bảy Cường là phải chú ý vừa tiến công

vừa chấn chỉnh lực lượng; vừa phát triển, vừa củng cố; vừa tiếp tục thực hiện kế hoạch trước

mắt vừa tích cực chuẩn bị mọi mặt để đón thời cơ.

Đồng chí Lê Duẩn nhắc lại là: Phải nắm thật chắc công tác hậu cần đề phòng trường

hợp hành lang chiến lược gặp khó khăn; phải có kế hoạch xây dựng và củng cố hậu phương

của ta và của bạn, giữ vững các vùng lúa gạo và các đường giao thông chiến lược.

- Đối với Đồng bằng Nam bộ và các vùng chung quanh Sài Gòn - Gia Định cần có

những biện pháp cụ thể, kiên quyết đưa thêm lực lượng địa phương bố trí lại các thứ quân và

có phương hướng hoạt động thích hợp để chống phá "bình định" có kết quả. Chấn chỉnh các

cấp uỷ Đảng, cơ quan chỉ huy quân sự nhằm đẩy phong trào lên cho kịp với yêu cầu.

Về cơ bản ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị và đồng chí Lê Duẩn đã phù hợp với những

điện báo cáo của Trung ương Cục ra Bộ Chính trị.

6 tháng đầu năm 1970

Phong trào đấu tranh của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long thực hiện chủ

trương của Trung ương Cục miền Nam về phá kế hoạch "bình định" của Mỹ-ngụy.

Đầu năm 1970, Mỹ - ngụy tăng cường các biện pháp thâm độc nhằm thực hiện kế

hoạch "bình định" nông thôn, trong đó có Luật Cải cách điền địa. Chúng chọn đồng bằng

sông Cửu Long - một nơi đông người nhiều của làm địa bàn thí điểm chính sách "người cày

có ruộng".

Thực hiện chủ trương của Trung ương Cục miền Nam về phá kế hoạch "bình định"

của địch, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đã liên tiếp nổi dậy đấu tranh chống địch,

bảo vệ xã ấp, bảo vệ cơ sở

167

đáng. Ngay từ đầu năm 1970 đã có hàng chục vạn lượt đồng bào nổi dậy phá ách kìm kẹp của

địch, giành quyền làm chủ. Ở các tỉnh Trà Vinh, Cần Thơ, Rạch Giá chỉ trong tháng 4-1970

đã có 140.000 lượt đồng bào nổi dậy phá tan 236 ấp chiến lược, giành quyền làm chủ và bao

vây uy hiếp 230 đồn bốt địch, trừng trị 2.000 tên tề điệp ác ôn hơn 100.000 đồng bào thoát

khỏi ách kìm kẹp của địch về quê cũ làm ăn.

Từ cuối tháng 3, phong trào đánh phá "bình định" ngày một lên cao, đặc biệt ở vùng

Châu Thành Bắc, Châu Thành Nam, vùng 20-7 (Mỹ Tho); vùng núi Tô (An Giang); vùng

Cao Lãnh, Kiến Văn, Mỹ An (Kiến Phong). Tại vùng ven biển Gò Công ta đã phát động được

85.000 lượt quần chúng đấu tranh trực diện với dịch, chống khủng bố, bắn phá, rải chất độc

hóa học, gom dân, giữ nguyên tình trạng ruộng đất và bung ra đồng sán xuất. Tính cả thời

gian này, toàn miền Tây Nam bộ đã có hơn 745.000 lượt người nổi dậy chống phá kế hoạch

bình định của địch. Tính đến cuối tháng 6-1970, phong trào đấu tranh của nông dân đồng

bằng sông Cửu Long đã phá tan 1.971 ấp chiến lược và khu dồn dân, giành quyền làm chủ.

Phong trào nổi đậy của quân và dân vụng đồng bằng sông Cửu Long đã giáng một

đòn phủ đầu nặng nề vào âm mưu "bình định" kiểu mới của địch, làm thất bại một bước chiến

lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ-ngụy.

Ngày 10 tháng 7

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị một số ý kiến hướng dẫn thêm về

chỉ đạo đánh phá "bình định".

Bản Chỉ thị nhấn mạnh kết quả việc đánh phá bình định của quân và dân miền Nam

hiện đạt rất thấp so với yêu cầu đặt ra. Nguyên nhân là do sự lãnh đạo, chỉ đạo còn nhiều, mặt

chưa tốt, thậm chí còn lệch lạc.

Chỉ thị nêu rõ hiện có 3 loại tình hình:

a) Loại 1: Khu vực bị địch gom hết dân vào ấp chiến lược khu tập trung. Cơ sở và tổ

chức của ta ở bên trong còn rất ít và yếu, lực

168

lượng bộc lộ bị đánh bật ra ngoài. Phong trào ở đây hiện chưa có chuyển biến bao nhiêu,

nhiều mặt còn trì trệ. Do lãnh đạo chưa sát với thực tế, chưa kết hợp được giữa chủ trương

của cấp trên với tình hình cụ thể của địa phương.

Yêu cầu các cấp ủy địa phương phải xem xét thật kỹ toàn bộ tình hình của địa phương

để xác định cho đúng tính chất của chiến trường mình. Tránh nôn nóng, chủ quan, nhưng đề

phòng sự thoả mãn với một vài sự kiện nổi đột xuất mà không đi vào thực chất của phong

trào . Trước mắt làm cho thực lực của ta, nhất là lực lượng bí mật có mật đều khắp ở các xã

ấp, làm nòng cốt lãnh đạo quần chúng.

b) Loại 2: Vùng ven thành phố, nhất là ven Sài Gòn. Đây là nơi đã gom dân vào các

ấp chiến lược, quanh là đồn bốt. Nhưng đây cũng là địa bàn ta đã gài được thế bám trụ ở hầu

hết các xã, ấp, kể cả ở trong một số đơn vị vũ trang của địch. Thực tế đã hình thành được thế

có 2 lực lượng ở xã, ấp. Nhưng trên thực tế ta chưa phát huy được thế thuận lợi này để đưa

phong trào cách mạng đi lên.

Yêu cầu phải ra sức cải tiến, nâng cao nội dung và phương pháp bám trụ của lực

lương có ở xã ấp. Phải thấy rõ bám trụ chỉ là một phương thức công tác để thực hiện mục

đích giáo dục xây dựng cơ sở, vận động tổ chức và đưa quần chúng ra đấu tranh để chuyển

phong trào bên trong lên theo chủ trương yêu cầu đã đặt ra cho mỗi địa bàn.

c) Loại 3: Gồm phần lớn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây là nơi địch đang ráo

riết bình định gom dân. Chúng vừa tập trung củng cố bình định, vừa mở các cuộc hành quân

lớn bình định lập các vùng giải phóng còn lại của ta. Nhưng đây cũng là địa bàn mà các tổ

chức cơ sở Đảng, Đoàn, các tổ chức quần chúng, lực lượng du kích được duy trì ở hầu khắp

mọi nơi. Nhiều địa bàn còn có lực lượng bộ đội của tỉnh, huyện ở cùng với nhân dân.

Yêu cầu nhiệm vụ: Phải xoáy vào việc đánh thủng hệ thống phòng thủ, bảo an, diệt

cho được một số đồn bốt của địch làm cho chúng mất chỗ dựa và không hỗ trợ được cho

nhau, tạo điều kiện cho phong trào 3 mặt giáp công phá tan bộ máy và lực lượng kìm kẹp của

địch ở xã, ấp, đồng thời phát hiện và tiêu diệt, khống chế bọn do

169

thám, gián điệp của địch, phát triển lực lượng ta về mọi mặt đưa phong trào lên một bước cao

hơn.

Ngày 23 tháng 7

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "đẩy mạnh cuộc vận động nhân dân bung

ra và bám lại sản xuất, bảo vệ đời sống, xây dựng thế và lực của ta, phá thế kìm kẹp gom

dân của địch".

Để chống lại chính sách "bình định" gom dân quyết liệt của Mỹ ngụy tại các địa bàn

nông thôn nhằm phục vụ âm mưu "Việt Nam hoá chiến tranh", Trung ương Cục miền Nam

đã phân tích nhận định tình hình và chỉ rõ: "Tạm thời địch có sớm được dân ở nhiều nơi có

gây một số thiệt hại làm bật cơ sở cách mạng của ta, chúng bắt được lính bổ sung phát triển

lực lượng dân vệ. Tuy nhiên do thất bại liên tiếp về quân sự, chính trị, địch đang đi vào thế sa

lầy mới. Đặc biệt là lực lượng bình định tại chỗ bị co lại, một số nơi bị ta đánh mạnh chúng tê

liệt, tan rã. "Nhân dịp này, để đẩy tới một bước tiêu diệt lực lượng dân vệ bảo an, lực lượng

chủ chốt trong kìm kẹp bình định ở cơ sở, đưa phong trào phát triển cả thế và lực, Trung

ương Cục Miền Nam yêu cầu các khu ủy, tỉnh uỷ:

- Huy động nhân dân bung ra đòi giải quyết đời sống, sản xuất để nhân đó ta tạo lại

địa hình, lấy vùng trắng, bám lại địa hình ruộng vườn. Nhân dân vừa giải quyết được đời

sống của mình, vừa chống sự cướp phá vơ vét của địch, tăng đoàn kết bảo vệ lẫn nhau giữ thế

làm chủ liên tục.

- Trong lãnh đạo phong trào này, chi bộ Đảng phải giữ vị trí nòng cốt, những nơi

phong trào yếu cần có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang.

Ngày 28 tháng 7

Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị về củng cố và xây dựng căn cứ địa cách

mạng miền Nam.

Do yêu cầu cấp thiết của cuộc kháng chiến Bộ Chính trị xác định tầm quan trọng của

việc xây dựng căn cứ địa cách mạng là nhằm

170

bảo đảm, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến cho đến thắng lợi, đồng thời tạo điều kiện để

xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng, sau khi kết thúc chiến dịch.

Về nội dung xây dựng căn cứ địa, Chỉ thị nêu rõ phải xây dựng căn cứ một cách toàn

diện, song trước mắt cần tập trung lực lượng làm tốt công tác xây dựng kinh tế, nhằm đẩy

mạnh sản xuất lực lượng, thực phẩm, công cụ sản xuất vũ khí để cung cấp cho nhu cầu sinh

hoạt và chiến đấu của quân và dân ta. Do đó, việc xây dựng kinh tế là khâu trung tâm của nội

dung xây dựng căn cứ địa cách mạng. Bên cạnh việc xây dựng kinh tế, phải xây dựng về

chính trị, phải nâng cao sự giác ngộ chính trị, khả năng chiến đấu của nhân dân các vùng căn

cứ.

Phải làm tốt công tác củng cố phát triển tổ chức Đảng; và các tổ chức quần chúng

nòng cốt, xây dựng và củng cố chính quyền vững mạnh. Phải chấp hành nghiêm chỉnh và linh

hoạt đường lối chính sách của Đảng như: chính sách dân tộc, tôn giáo, chính sách ruộng đất,

đặc biệt là chính sách đoàn kết các dân tộc.

Chỉ thị nêu rõ phải có kế hoạch xây dựng căn cứ cách mạng của từng chiến trường

miền Nam, trong đó có chiến trường miền Đông Nam bộ, đồng thời phải có kế hoạch xây

dựng căn cứ liên hoàn phù hợp với yêu cầu chung của cách mạng 3 nước Đông Dương. Phải

nhanh chóng xây dựng các địa bàn quan trọng ở miền núi Trị - Thiên, Tây Nguyên, Đông

Nam bộ và các vùng giải phóng ở Trung Lào, Hạ Lào và đông bắc Cămpuchia.

Chỉ thị cũng đã vạch ra một số phương hướng cơ bản ưong việc xây dựng căn cứ cách

mạng trong đó nêu rõ các yêu cầu về mặt quân sự và việc tổ chức thực hiện.

Tháng 7

Thư của đóng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng và Trung ương Cục miền

Nam.

Cùng với việc truyền đạt nghị quyết của Bộ Chính trị về phương hướng và nhiệm vụ

của cách mạng miền Nam, nhằm làm rõ thêm một

171

số vấn đề mà nghị quyết không thể nói đến, nói cụ thể được, đồng chí Lê Duẩn đã chỉ đạo

thêm những ý kiến sau:

- Khẳng định và đánh giá cho đúng tình hình từ sau tết Mậu Thân. Đồng chí khẳng

định: "Trong đợt tiến công và nổi dậy dịp tết Mậu Thân, ta đã thắng lợi rất to, địch đã thua rất

nặng. Rõ ràng trận này đã mở ra một bước ngoặt chiến lược, đánh dấu thời kỳ Mỹ phải xuống

thang trong chiến tranh do bị thất bại trong chiến lược "chiến tranh cục bộ"... về phía ta, một

thời gian sau Mậu Thân chúng ta đã thấy cần phải có phương hướng tiến công thích hợp với

diễn biến chiến trường để làm suy yếu địch hơn nữa. Nghĩa là trong khi tiếp tục thực hiện

chiến lược tiến công trên cả 3 vùng, tiếp tục đẩy mạnh phong trào chính trị và hoạt động quân

sự ở thành thị thì hướng tiến công chủ yếu phải nhằm vào nông thôn; uy hiếp thành thị để tiến

công mạnh ở nông thôn, giải phóng nông thôn, phát huy quyền làm chủ ở những vùng đông

dân nhiều của tạo điều kiện mới để tiến công thành thị.

- Sau khi địch mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương thì cả ba nước Đông

Dương đã trở thành một chiến trường thống nhất sự chỉ đạo chiến lược của ta là nhằm cuối

cùng giành cho được thắng lợi cho cách mạng của các nước Đông Dương, nhưng phải nhận

rõ miền Nam là chiến trường quyết định cho cả phong trào giải phóng toàn Đông Dương.

- Đối tượng tác chiến chủ yếu trên chiến trường Đông Dương là quân Mỹ và quân

ngụy miền Nam. Ta phải có phương thức tiếp tục đánh cho quân Mỹ thua đau, làm cho Mỹ

không giảm được thương vong như ý đồ của chúng và có phương hướng đánh mạnh quân

ngụy tiêu diệt những đơn vị lớn quân chủ lực ngụy. Đây là một yêu cầu chiến lược có ý nghĩa

quyết định làm thất bại chính sách " Việt Nam hoá chiến tranh" và mở rộng chiến tranh ra

toàn cõi Đông Dương của đế quốc Mỹ.

- Về phương hướng và tình hình cách mạng Campuchia, đồng chí nhấn mạnh: "Chiến

trường Campuchia là một bộ phận không thể tách rời của chiến trường thống nhất toàn Đông

Dương... vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải giúp bạn và cùng bạn giành thắng lợi lớn ở

Campuchia đập tan âm mưu của bọn đế quốc dùng một giải pháp

172

thoả hiệp hòng ngăn chặn bước tiến của ta... Với Đảng nhân dân cách mạng Campuchia

chúng ta cần tìm mọi cách tăng cường quan hệ, từng bước tạo ra sự nhất trí về đường lối, chủ

trương, đồng thời giúp bạn bồi dưỡng đào tạo cán bộ. Trên bước đường tiến lên của cách

mạng không tránh khỏi có sự khác nhau giữa ta và bạn, nhưng với đường lối đúng đắn, với

tinh thần quốc tế chân chính với thái độ chân thành, tôn trọng bạn chúng ta tin chắc sẽ xây

dựng được tinh thần đoàn kết nhất trí sâu sắc giữa 2 đảng, tăng cường tình hữu nghị chiến

đấu ngày càng bền vững giữa nhân dân hai nước.

- Về nhiệm vụ trước mắt; ngay từ bây giờ cần phải nghiên cứu giải quyết một loạt vấn

đề cụ thể về cách đánh, chuẩn bị bộ đội, thực hiện ưu thế binh lực, hoả lực trong chiến dịch

và chiến đấu, chuẩn bị chiến trường, hoả lực trong chiến dịch và tạo yếu tố bất ngờ để đánh

những trận lớn trên chiến trường Campuchia và chiến trường miền Nam.

Và một nhiệm vụ quan trọng bậc nhất là xây dựng những binh đoàn chủ lực mạnh, đủ

sức làm trụ cột cho cả chiến trường Đông Dương, đủ sức đập tan quân ngụy miền Nam ở bất

cứ đâu và bất cứ lúc nào.

Cần cố gắng cao hơn và chỉ đạo tốt hơn để làm thất bại về cơ bản kế hoạch "bình

định" của địch, giành lại đại bộ phận dân chúng, xây dựng thế làm chủ thực sự, không cho

địch bắt lính, kéo dài chiến tranh... Để đẩy mạnh phong trào nông thôn đồng bằng phải tổ

chức những chiến dịch tổng hợp, kết hợp hoạt động của bộ đội chủ lực với chiến tranh du

kích và các cuộc nổi dậy của quần chúng... Phải chấn chỉnh cách làm việc, bảo đảm cho sự

chỉ đạo của các cấp ủy Đảng được chặt chẽ, đặc biệt là ở các tỉnh Khu 9.

Đồng chí đề nghị Trung ương Cục miền Nam có nên phân công một vài đồng chí phụ

trách trực tiếp và chỉ đạo phong trao ở đồng bằng sông Cửu Long.

- Đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh việc mở rộng và xây dựng căn cứ địa đặc biệt ở Nam

bộ, việc mở rộng căn cứ địa miền Đông (gần Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, Biên Hòa

và một phần Khu 6) nối liền với Khu 5 tạo thế uy hiếp Sài Gòn - Gia Định.

173

Tất cả những điểm trên đều nhằm xây dựng thế tiến công chiến lược mới của ta.

Những ý kiến chỉ đạo trên của đồng chí Lê Duẩn làm rõ hơn việc đánh giá chiều

hướng phát triển mới của cuộc chiến tranh đánh giá đúng so sánh tương quan lực lượng, xác

định rõ nhiệm vụ đối tượng tác chiến và hướng tiến công để giúp Trung ương Cục có được

chủ trương đúng đắn tạo thêm sức mạnh mới, tiến lên giành thắng lại to lớn hơn nữa.

Ngày 16 tháng 8

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "Cần nắm vững những vấn đề

chỉ đạo then chốt".

Bản Chỉ thị nêu rõ 5 vấn đề mấu chốt:

1 . Phải kiểm điểm, đánh giá thật khách quan, sâu sát, cụ thể tình hình địch, ta ở mỗi

địa phương để đề ra yêu cầu, bước đi, kế hoạch phù hợp với từng vùng, từng khu vực nhằm

tiếp tục đẩy mạnh tiêu diệt địch, tập trung đánh phá bình định đi đôi với ra sức xây dựng lực

lượng ta về mọi mặt làm cho địch càng bị suy yếu, sa lầy thêm, ta ngày một lớn mạnh hơn.

2. Địch đang nỗ lực tập trung cho kế hoạch bình định đặc biệt 6 tháng cuối năm. Kế

hoạch này thành công hay thất bại có ảnh hưởng quan trọng đến việc tiếp tục chương trình

Việt Nam hoá chiến tranh của chúng. Do đó: "trong bất cứ tình huống nào đều phải tập trung

cao độ đánh bại kế hoạch bình định đặc biệt của địch".

3. Tình thế cách mạng hiện nay thuận lợi hơn bao giờ hết nhưng thực lực mọi mặt tại

chỗ của ta chưa đủ mạnh. Vì vậy, phải coi trọng việc xây dựng lực lượng mọi mặt của ta là

nhiệm vụ chính trị cấp bách và có ý nghĩa quyết định của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta

hiện nay.

4. Phải thấy rõ chính sách "Việt Nam hoá chiến tranh" của địch ngày càng đi sâu vào

thủ đoạn khủng bố, khống chế, mua chuộc, lừa

174

bịp quần chúng nhất là ở nông thôn. Để nắm quần chúng, phát động quần chúng đấu tranh,

phải khoét sâu vào những âm mưu thủ đoạn lừa bịp của chúng. Đặc biệt là việc chúng đưa

quân đi Campuchia. Đó là thuận lợi mới để nắm quần chúng và phát động phong trào đấu

tranh chính trị và binh vận của quần chúng.

5. Nâng cao sự lãnh đạo, chỉ đạo theo kịp yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới là

then chốt của mọi vấn đề hiện nay.

Ngày 26 tháng 8

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về "Tình hình nhiệm vụ và công

tác trước mắt".

Về tình hình địch, ta ở chiến trường Đông Dương bản Chỉ thị xác định: Mỹ đã chuyển

hướng chiến lược, thực hiện âm mưu "Việt Nam hoá chiến tranh" nhưng chúng càng cố gắng

càng thất bại và bị động. Khi chúng đưa quân sang làm đảo chính ở Campuchia mở rộng

chiến tranh ra khắp Đông Dương đã bộc lộ rõ những nhược điểm, sơ hở lớn không thể khắc

phục nổi. Đối với ta, sự lãnh đạo, chỉ đạo luôn bám sát thực tế và đã giành được những thắng

lợi to lớn.

Về khả năng phát triển của tình hình: Mỹ tiếp tục rút quân, quân ngụy ngày càng suy

yếu - vấn đề đánh quân ngụy ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Để bổ sung lực lượng cho

cuộc chiến, quân ngụy sẽ tập trung đánh phá vào các vùng đông dân nhiều của nhưng cuộc

chiến này sẽ không có đủ lực lượng yểm trợ cần thiết, tạo điều kiện cho phong trào diệt ác

phá kiềm, bung ra sản xuất của nhân dân. Mặt khác, địch sẽ tăng cường chính sách độc tài

phát xít điều đó sẽ tăng mâu thuẫn với nhân dân làm cho phong trào đấu tranh chính trị sẽ

ngày càng mạnh mẽ.

Nhiệm vụ trước mắt: Tập trung đánh địch trên tất cả các mặt quân sự, chính trị, binh

vận đồng thời xây dựng lực lượng ta lớn mạnh về mọi mặt. Để đánh phá kế hoạch "bình

định" của địch phải vừa đánh tiêu diệt lực lượng cơ động của chúng, vừa đánh mạnh lực

lượng

175

bảo an dân vệ phá kìm kẹp mở rộng quyền làm chủ và vùng giải phóng, phát triển phong trào

đô thị.

Để thực hiện nhiệm vụ đó phải:

1- Xây dựng các vùng giải phóng, căn cứ miền núi, biên giới thành một mặt trận chiến

đấu về các mặt và sản xuất, tiếp tế hậu cần

2- Về đánh phá bình định: tập trung lực lượng đánh mạnh vào lực lượng dân vệ, các

đơn vị yểm trợ nhất là bọn ác ôn, bung ra ruộng vườn sản xuất.

3- Ở thành thị: mở rộng các phong trào đấu tranh công khai diệt ác trừ gian, phá kìm

kẹp giành quyền làm chủ ở cơ sở phát triển tổ chức công khai, nửa công khai và bí mật.

4- Ngoại giao: phải có bước tấn công mới sắc bén, đòi Mỹ rút quân, giảm quân số

người Việt ở miền Nam, thành lập chính phủ không có Thiệu, Kì, Khiêm tán thành độc lập,

trung lập và đi vào thương lượng nghiêm chỉnh.

Ngày 1 tháng 10

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về "Đẩy mạnh nhiệm vụ tiến

công, nổi dậy giành một bước thắng lợi mới trong mùa khô 1970-1971"

Ban Chỉ thị nêu rõ âm mưu của địch trong mùa khô 1970-1971 là tiếp tục ra sức thực

hiện kế hoạch bình định đặc biệt,, vừa giành dân vừa phát triển lực lượng bán vũ trang và vũ

trang; tập trang lực lượng chủ lực đánh phá đường tiếp tế của ta từ miền Bắc vào; đồng thời

gắn các hoạt động trên chiến trường với các hoạt động chính-trị và ngoại giao bịp bợm. Tham

vọng của địch rất lớn, rất khẩn trương nhưng chúng đang gặp trở ngại lớn. Đó là, việc quân

Mỹ rút về nước và lực lượng bị dàn trải trên khắp chiến trường Đông Dương.

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam xác định đặc điểm yêu cầu của đợt hoạt động

mùa khô 1970-1971 là: toàn thể nhân dân Đông Dương đánh Mỹ; chiến trường Campuchia.

nhảy vọt; chiến trường miền Nam Việt Nam có tính chất quyết định. Nhưng ta còn nhiều khó

khăn, ta vẫn chưa tạo đươc một sự chuyển biến lớn về so sánh lực lượng trên chiến trường,

đặc biệt trong sự so sánh thế và lực tại chỗ ở địa phương.

176

Chủ trương của ta: phát huy những thuận lợi mới, khả năng mới, nỗ lực khắc phục

khó khăn kiên quyết đánh bại kế hoạch mùa khô của địch, tập trung chỉ đạo đánh phá bình

định, đặc biệt là vùng trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long và các vùng đông người nhiều

của khác ở miền Nam; kết hợp với đẩy mạnh tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch, tiếp tục

phát triển phong trào đô thị làm cho so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho ta, đẩy kế hoạch

bình định và Việt Nam hoá chiến tranh của địch vào thất bại.

Yêu cầu chủ yếu của mùa khô 1970-1971 .

1. Đánh phá bình định, tạo chuyển biến mới về so sánh lực lượng tại chỗ về hình thái

nông thôn có lợi cho ta rõ rệt hơn.

2. Phát triển lực lượng tăng lên cả về số và chất lượng.

3. Tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân cơ động của địch

Ở biên giới, đẩy mạnh tiêu diệt và tiêu hao làm tan rã các đơn vị chủ lực địch, yểm trợ

cho phá kềm.

4. Đẩy mạnh hơn nữa phong trào đô thị, buộc Mỹ phải thay đổi chính phủ Thiệu - Kì -

Khiêm.

5. Vừa đẩy mạnh tấn công địch trên các chiến trường vừa ra sức giữ vững và củng cố

địa phương, kho tàng, căn cứ.

Tháng 10

Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ 10 về kiểm điểm hoạt động chỉ đạo

của Trung ương Cục sau Mậu Thân 1968.

Tại Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ 10, tổ chức vào tháng 10-1970, trên

cơ sở kiểm điểm thực hiện Nghị quyết lần thứ 9, Hội nghị Trung ương Cục miền Nam đã bàn

một số công tác trọng tâm sau:

177

- Đánh giá tình hình khó khăn của ta, Trung ương Cục cho rằng từ đầu 1970 đến nay

tình hình chống phá bình định vẫn còn là vấn đề nghiêm trọng song địch vẫn chưa thực hiện

được những mục tiêu cơ bản. Chúng không tiêu diệt được hạ tầng cơ sở của ta, ta có bị tổn

thất nhưng nhìn chung vẫn giữ vững. Lực lượng vũ trang có bị tiêu hao, nhiều nơi bổ sung

khó nhưng ta vẫn bám trụ được; quần chúng tuy bị xáo trộn, gặp khó khăn nhưng tin tưởng

vào cách mạng. Phong trào nông thôn và đô thị càng quyết liệt.

Trước tình hình mới Trung ương Cục đề ra nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong

năm 1971 là "phải quyết tâm đánh bại một bước quan trọng kế hoạch bình định cấp tốc của

địch. Phá hỏng , phá rã trên một diện rộng các xã ấp ở nông thôn giành quyển làm chủ phần

lớn số ấp. Mở được vùng, củng cố và mở rộng xã ấp giải phóng nhất là ở đồng bằng sông

Cửu Long làm thay đổi thế và lực của ta ở cơ sở.

Phải đưa phong trào đô thị phát triển lên một bước mới toàn diện, đặc biệt là Sài Gòn

phải đưa lên thành một cao trào của các tầng lớp quần chúng nhằm vào 4 mục tiêu: đời quyền

sống, đấu tranh dân chủ, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, đòi Mỹ rút quân, đòi hoà bình. Về

quân sự, Trung ương Cục yêu cầu các lực lượng vũ trang phải tiêu diệt cho được một số đơn

vị chủ lực cơ động của ngụy, tiếp tục tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận quân Mỹ, tiêu diệt và

làm tan rã một bộ phận quan trọng bảo an dân vệ, đánh vào lực lượng bình định.

Phải kết hợp với bạn củng cố và xây dựng hậu phương và hành lang vững chắc, bảo

đảm công tác chi viện từ Bắc vào liên tục. Nói tóm lại trọng tâm công tác của ta từ nay tới khi

có được giải pháp chính trị cần:

+ Phải làm cho quân ngụy tốn thất nặng nề trong lúc Mỹ tiếp tục rút quân.

+ Phải phá bình định có kết quả ở đồng bằng , chuẩn bị bàn đạp và chiến trường, chủ

lực tiến công mạnh ở miền Nam. Hậu phương và hành lang được củng cố vững chắc.

178

Về kế hoạch cụ thể: Trung ương Cục quyết định: lấy vùng đồng bằng sông Cửu Long

và vùng đông dân ven Sài Gòn là hướng chủ yếu. Xây dựng lực lượng chính trị tại chỗ (kể cả

quân sự) đồng thời tăng cường lực lượng quân sự từ trên xuống. Trước mắt tăng cường lực

lượng tỉnh, huyện, du kích và phong trào du kích chiến tranh.

Phương châm chống bình định: lấy quân sự làm chính, lực lượng tại chỗ là chính. Từ

nay tới 1972 phải cơ bản đánh bại âm mưu bình định của địch.

Tại Hội nghị này Trung ương Cục đã nghiêm túc kiểm điểm toàn diện công tác chỉ

đạo từ Mậu Thân 1968 và cho rằng về chỉ đạo đã nắm vững nhiệm vụ tổng công kích, tổng

khởi nghĩa trong một thời gian ngắn từ cuối tháng 10-1967 đến Mậu thân 1968. Đã quán triệt

cho các cấp và đã tích cực thực hiện đúng thời gian quy định góp phần vào thắng lợi chung.

Từ sau đợt 2 đã chú ý vấn đề chuyển phương thức hoạt động vào nông thôn nghĩa là không

đánh vào Sài Gòn mà chuyển hướng đánh vào trung tuyến, ra chỉ thị về phương hướng hoạt

động vùng ven. Khuyết điểm chính của Trung ương Cục là chưa đánh giá đầy đủ âm mưu

hành động cụ thể của địch, nhất là âm mưu bình định của Việt Nam hoá chiến tranh, do đó sự

chuyển hướng tấn công về nông thôn chậm trễ. Trung ương Cục nhận thấy rằng: lẽ ra sau đợt

2 là có phần đánh giá dứt khoát địch ta, xác định ta ở khả năng nào, xác định rõ sự chuyển

hướng của địch trong thế thất bại và phòng ngự để ta chuyển trọng tâm về chỉ đạo nông thôn

và không đề ra các đợt với yêu cầu quá cao để cho các cấp dưới biết phân bổ lực lượng và

nắm vững hướng chủ yếu để tập trung chỉ đạo. Sự chậm trễ này đã hạn chế thắng lợi của ta;

ảnh hưởng tới sự chỉ đạo phương châm phương thức cụ thể, ảnh hưởng tới xây dựng lực

lượng chính trị, quân sự vì vậy bước chuyển chậm không toàn diện và thiếu tập trung.

Trung ương Cục cũng nhận thấy khuyết điểm là trông chờ ỷ lại vào chủ trương mở

các đợt trên, không quán triệt đầy đủ xây dựng chỉ đạo 3 vùng chiến lược. Nhiều nơi để lộ lực

lượng hao tổn ảnh hưởng đến thế và lực.

Tại hội nghị này, có điều chỉnh phân công trong Trung ương Cục.

179

Đồng chí Sáu Dân phụ trách T3 thay đồng chí Ba Bình về trên công tác.

Đồng chí Mười Út nắm vấn đề đô thị và đấu tranh chính trị. Đồng chí Hai Già nắm

vấn đề kinh tế, tài chính của Trung ương Cục

Đồng thời về chỉ đạo nhập một số phân khu, bỏ qua cấp trung gian trực tiếp dưới sự

chỉ đạo của Trung ương Cục như phân khu: Gia Ninh, Long An, Thủ Biên, Bà Rịa, Phước

Bình Long, và giao Đức Lập cho Đắc Lắc, Kiến Đức gia nghĩa cho Lâm Đồng.

Ngày 15 tháng 12

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "Tập trung sức chỉ đạo đánh

phá bình định phát triển phong trào làm chủ ấp xã trên khắp nông thôn".

Đặc điểm tình hình: Địch ráo riết tiến hành bình định, hòng lấn chiếm nốt các vùng

nông thôn đông dân còn lại, đồng thời tăng cường các biện pháp để củng cố, ổn định những

vùng đã bình định hòng giành thế mạnh với ta. Chúng tăng cường hệ thống đồn bốt, phối hợp

lực lượng bảo an, dân vệ, tề điệp. Nhưng chúng không nắm được dân. Mặt khác, do chính

sách bắt lính bừa bãi đã làm cho chất lượng quân ngụy bị giảm sút, đồng thời gây mâu thuẫn

sâu sắc với nhân dân. Bên cạnh đó, việc Mỹ rút quân và cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị,

nội bộ lục đục càng làm cho địch suy yếu.

180

Yêu cầu sắp tới là đẩy mạnh phong trào đánh phá bình định và giành quyền làm chủ

trên hầu hết các xã ấp làm cho so sánh lực lượng giữa ta và địch có một bước thay đổi mà ta

có lợi thế hơn địch.

Yêu cầu nội dung đánh phá bình định: phải đẩy mạnh phong trào đánh phá bình định

giành và giữ quyền làm chủ trên diện thật rộng với những loại ấp giải phóng liên hoàn; Đối

với mỗi vùng phải có chỉ đạo phù hợp. Riêng vùng căn cứ, giải phóng đang bị địch càn quét

lấn chiếm phải phát động mạnh mẽ phong trào bám đất giữ làng, đánh địch liên tục bằng tất

cả các loại vũ khí; kiên trì đấu tranh chính trị, binh vận, ngăn cản sự cướp phá của địch, đẩy

mạnh sản xuất góp người góp của đồng thời sử dụng lực lượng tập trung tiêu diệt một số đơn

vị địch.

Yêu cầu chuyển hướng sâu sắc và toàn diện về công tác lãnh đạo, chỉ đạo.

NĂM 1971

Ngày 5 tháng 1

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "Nắm vững nhiệm vụ và phương

hướng công tác trước mắt, ra sức xây dựng thế tiến công chiến lược mới".

- Đánh giá tình hình từ sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Trung ương Cục miền

Nam, Thường vụ Trung ương Cục chỉ rõ:

1. Trên mặt trận "bình định" và đánh phá "bình định": cuộc đấu tranh giữa ta và địch

đang diễn ra hết sức quyết liệt. Địch giành được những kết quả tạm thời nhưng đang trên đà

đi xuống. Ta đã anh dũng chiến đấu, tuy còn nhiều khó khăn nhưng đang ở chiều hướng đi

lên.

2. Cuộc đảo chính 18-3-70 và việc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược Campuchia đã

không đạt được mục đích. Cách mạng Campuchia

181

có bước phát triển nhảy vọt, thúc đẩy nhân dân 3 nước Đông Dương tăng cường đoàn kết

chiến đấu chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ và tay sai. Trên địa bàn chiến lược rộng lớn của

ba nước Đông Dương chiến trường Campuchia là khâu yếu nhất của địch, miền Nam Việt

Nam là chiến trường chủ yếu quyết định thắng lợi chung, Lào là chiến trường rất quan trọng.

3. Địch đẩy mạnh triển khai học thuyết Ních-xơn ở miền Nam nước ra và toàn Đông

Dương. Chúng ta phải vượt qua những khó khăn thử thách lớn để giữ vững và phát triển cuộc

chiến đấu chống Mỹ cứu nước. Hiện tại, ta vẫn đang ở thế đi lên trên tất cả các địa bàn.

4. Tuy ta đã giành được những thắng lợi về quân sự, chính trị, ngoai giao nhưng ta

còn nhiều khuyết điểm và nhược điểm, nhất là phong trào quần chúng đấu tranh chính trị,

binh vận và du kích chưa rộng, chưa mạnh; việc củng cố chi bộ, xây dựng thực lực cách

mạng còn rất chậm chạp, công tác bổ sung và rèn luyện lực lượng vũ trang chưa tốt....

- Âm mưu của địch:

Mỹ rất ngoan cố, thâm độc và đầy tham vọng. Chúng vẫn tiếp tục thực hiện học

thuyết Ních xơn ở miền Nam nước ta và cả 3 nước Đông Dương. Về kế hoạch rút quân,

chúng vẫn tiếp tục rút nhưng sẽ giữ lại một bộ phận quan trọng làm chỗ dựa cho Việt Nam

hoá chiến tranh kéo dài và tiếp tục sử dụng không quân đánh phá ta ở các vùng căn cứ, hệ

thống kho tàng, có thể đánh phá cả miền Bắc. Mặt khác, chúng tăng cường, củng cố các vùng

bình định, đẩy mạnh lấn chiếm hòng khống chế, kiểm soát toàn bộ vùng nông thôn, đồng thời

tăng cường đôn quân, bắt lính, củng cố nguỵ quyền từ cơ sở đến trung ương. Tuy vậy, Mỹ,

ngụy đang gặp phải những khó khăn rất cơ bản mà không giải quyết được, đã buộc phải rút

quân.

- Nhiệm vụ sắp tới của ta về chỉ đạo chiến lược và sách lược là:

1 - Nắm vững phương châm chiến lược kiên trì chiến đấu, liên tục tấn công và nổi

dậy, kết hợp chật chẽ với xây dựng tăng cường lực lượng cách mạng, đánh bại địch từng

bước, giành thắng lợi từng phần,

182

phát huy cao độ nỗ lực chủ quan tranh thủ thời cơ và tạo thời cơ giành thắng lợi càng sớm

càng tốt.

2- Trước mắt động viên phong trào chống Mỹ cứu nước rộng khắp các địa bàn nông

thôn và thành thị, đánh sụp một bước quyền lực của bọn ngoan cố, hiếu chiến ở các cấp, nhất

là ở cơ sở, làm thay đổi một bước quan trọng so sánh lực lượng giữa ta và địch.

3- Nắm vững phương châm 3 mũi giáp công, vận dụng sáng tạo hợp với điều kiện

tương quan lực lượng cụ thể, đáp ứng nhiệm vụ chính trị trong bước đi trước mắt và trong

từng vùng cụ thể.

4- Trước hết, phải đạt cho được một bước tiến bộ mới về thế và lực, về hình thái chủ

động tấn công, về trình độ năng lực lãnh đạo của cán bộ, đảng viên.

Tháng 2

Hội nghị lần thứ 19 của Ban chấp hành Trung ương Đảng chủ trương đẩy mạnh

cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Hội nghị lần thứ 19 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ chống Mỹ,

cứu nước và nhiệm vụ khôi phục phát triển kinh tế để tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

miền Bắc.

Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hội nghị nhận định ta đã giành những

chiến thắng lớn có ý nghĩa lịch sử buộc địch xuống thang chiến tranh thực hiện chính sách

"Việt Nam hoá chiến tranh" nhưng chúng tiếp tục kéo dài và mở rộng chiến tranh, tiếp tục

duy trì chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam nước ta. Nhưng tình hình thực tế trên

chiến trường ngày càng chứng tỏ chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" đang bị thất bại to

lớn và nhất định sẽ thất bại hoàn toàn. Trên chiến trường Đông Dương, cuộc đấu tranh yêu

nước của nhân dân Lào và Campuchia được sự giúp đỡ tích cực của Việt Nam đang có những

bước phát triển nhảy vọt.

- Hội nghị nhận định, lúc này nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu

của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Để giành thắng lợi, nhân dân ta phải đoàn kết chặt

chẽ với nhân dân Lào và

183

nhân dân Campuchia cùng nhau chiến đấu quyết đánh bại âm mưu kéo dài và mở rộng chiến

tranh xâm lược của Mỹ ở 3 nước Đông Dương, tiến tới đánh đuổi chúng ra khỏi bán đảo

Đông Dương

- Tại Hội nghị, đồng chí Lê Duẩn đã vạch rõ cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở

miền Nam đang diễn ra theo một quy luật khác thường là leo thang rồi lại xuống thang,

xuống thang nhưng lại kéo dài và mở rộng chiến tranh. Trong lúc leo thang đế quốc Mỹ tỏ ra

bị động và phiêu Lưu.

Trong lúc xuống thang chúng tỏ ra rất ngoan cố và có những hành động phiêu lưu

mới, vừa rút dần quân viễn chinh Mỹ, vừa tăng cường quân ngụy, vừa xuống thang vừa phản

công lại ta, muốn giành thắng lợi về quân sự. Do đó, phương châm của cách mạng miền Nam

là chiến đấu lâu dài, phải biết thắng đích để đánh địch lâu dài và phải biết đánh lâu dài để

thắng đích, đồng thời phải biết nỗ lực vươn lên đánh bại âm mưu "Việt Nam hoá chiến tranh"

của Mỹ, đập tan kế hoạch "bình định" nông thôn của ngụy.

Ngày 28 tháng 4

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về "Nhiệm vụ và công tác thành

thị trước mắt".

Về đặc điểm tình hình thành thị, Chỉ thị nêu rõ ý thức chính trị của nhân dân miền

Nam chống Mỹ ngụy ngày càng chín muồi: "Chưa khi nào phong trào đấu tranh chính trị ở

các đồ thị miền Nam chống Mỹ, Thiệu, Kì, Khiêm lên cao với nhiều khẩu hiệu và hình thức

phong phú, quyết liệt như hiện nay".

Để tập trung cho phong trào đô thị, bản chỉ thị nêu rõ một số vấn đề cần khắc phục

trong công tác chỉ đạo, đồng thời đề ra các nhiệm vụ, yêu cầu và nguyên tắc trong công tác

đô thị.

1. Tập hợp lực lượng tán thành hoà bình, độc lập, trung lập trong một mặt trận đoàn

kết rộng rãi nhằm cô lập cao độ kẻ thù.

2. Ra sức tập hợp công nhân, lao động và lớp nghèo thành thị làm nền tảng đoàn kết

chặt chẽ với giai cấp tiểu tư sản trí thức tiến bộ,

184

lấy học sinh sinh viên làm ngòi pháo, liên hiệp với giai cấp tư sản dân tộc, tranh thủ lôi kéo

các đảng phái, tôn giáo đối lập kể cả một số trong ngụy quân, nguỵ quyền thành một mặt trận

rộng rãi phối hợp chặt chẽ đô thị và nông thôn trên cơ sở liên minh nhằm cô lập cao độ Mỹ

và bọn tay sai cực đoan hiếu chiến.

3. Yêu cầu: tập hợp lực lượng quần chúng thành mặt trận rộng rãi trong đó phải nắm

vững các lực lượng nòng cốt để lôi kéo các tầng lớp khác. Trong quá trình đó cần tích cực

xây dựng lực lượng du kích, tự vệ mặt, đặc công, biệt động; các tổ chức quần chúng bí mật

đồng thời phải chú trọng phát triển đảng, đoàn làm hạt nhân lãnh đạo.

Trước mắt phải tập trung vào các khâu công tác: công tác phát động, giáo dục quần

chúng, công tác tổ chức tập hợp quần chúng, công tác binh vận, công tác hoạt động vũ trang,

công tác xây dựng các "lõm" chính trị, công tác xây dựng phát triển và củng cố đảng, đoàn

thanh niên.

Ngày 19 tháng 5

Thường vụ Trung ương Cục ra Chỉ thị về "Chủ trương đấu tranh chống bầu cử hạ

viện và tổng thống ngụy"

Ý đồ của địch: Mỹ muốn thông qua cuộc bầu cử này để củng cố thế lực thống trị, tay

sai ngoan cố, hiếu chiến phục vụ cho "Việt Nam hoá chiến tranh" kéo dài, mở rộng chiến

tranh và duy trì quyền lực, ảnh hưởng của Mỹ ở miền Nam và Đông Dương.

- Chủ trương của Trung ương Cục: Mở cuộc vận động chính trị rộng rãi ở khắp thành

thị và nông thôn chống Mỹ và Thiệu, Kì, Khiêm trong Hạ viện, tập trung chĩa mũi nhọn vào

Thiệu, Kì, Khiêm trong cuộc bầu cử Tổng thống.

- Yêu cầu: Tiến hành một cuộc vận động chính trị sâu rộng trong thời gian từ tháng 5

đến tháng 12-1971.

- Bản chỉ thị dự kiến 3 khả năng của cuộc bầu cử. Trước phong trào đấu tranh mạnh

mẽ của quần chúng nhân dân Mỹ sẽ:

185

1. Cố giữ lại Thiệu: phong trào đấu tranh của quần chúng sẽ càng phát triển mạnh

hơn.

2. Thay Thiệu bằng một tên khác để lừa bịp nhân dân tiếp tục duy trì chủ nghĩa thực

dân mới. Ta phải cho quần chúng thấy rõ âm mưu lừa bịp của địch, tiếp tục đấu tranh.

3. Hoãn cuộc bầu cử hoặc dùng bọn tướng trẻ làm đảo chính. Đây thực chất là phát xít

hoá thêm một bước chính quyền Sài Gòn. Điều đó sẽ đẩy địch vào khó khăn hơn.

- Kế hoạch đấu tranh: Trước, trong và sau các cuộc bầu cử ta đều đẩy mạnh đấu tranh

ở thành thị, nông thôn, kết hợp với đấu tranh ngoại giao. Trong đấu tranh ta tập trung tố cáo

tội ác của Mỹ, vạch mặt bọn ra ứng cử, phản đối Luật bầu cử, bóp nghẹt dân chủ, đòi các

quyền tự do báo chí, tự do hội họp..., thu thập nguyện vọng của quần chúng, đưa người ra

ứng cử. Trong bầu cử đấu tranh chống gian lận, đòi dân chủ.

Tháng 5

Hội nghị Bộ Chính trị chủ trương mở rộng cuộc tiến công chiến lược trong năm

1972 trên toàn miền Nam.

Sau thắng lợi Đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và các chiến trường phối

hợp ở miền Nam Việt Nam, cục diện chiến trường Đông Dương đã thay đổi về căn bản và

ngày càng có lợi cho ta. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng

đã họp Hội nghị và đề ra nhiệm vụ giành thắng lợi quyết định trong năm 1972.

Phân tích tình hình giữa ta và địch trên các chiến trường, tình hình quốc tế, tình hình

nước Mỹ, "Bộ chính trị đã nhận định: Đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục thực hiện chính sách

"Việt Nam hoá chiến tranh"; rồi đây chúng sẽ điên cuồng phản kích và đẩy mạnh "bình định",

đánh phá các vùng nông thôn, đồng bằng, các căn cứ kháng chiến, gây cho ta nhiều khó khăn

hơn nữa, nhằm cố duy trì chủ nghĩa thực dân mới của chúng ở miền Nam nước ta và trên toàn

cõi Đông dương. Nhưng vừa qua chúng đã b ị thất bại nặng nề và đang

186

tiếp tục thất bại về quân sự và chính trị... Chúng đã đánh bại hoàn toàn chính sách "Việt Nam

hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ, do đó ta đang đứng trước thời cơ lớn để tiến lên giành

thắng lợi hoàn toàn.

Nhiệm vụ của quân và dân ta trong thời gian tới là: "kịp thời nắm lấy thời cơ lớn, trên

cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tấn công quân sự, chính trị và ngoại

giao, phát triển thế chiến lược tấn công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến

trường Đông Dương, đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ, đánh bại một

bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Campuchia và Lào, giành thắng lợi quyết

định trong năm 1972 buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế

thua, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến

tranh còn kéo dài".

Chủ trương của Bộ Chính trị đã được Hội nghị quân ủy trung ương và Trung ương

Cục cụ thể hoá bằng các kế hoạch cụ thể.

Tháng 5

Trung ương Cục miền Nam thành lập phân khu Thủ Biên và đẩy mạnh xây dựng

căn cứ địa.

Tháng 5-1971, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải thể phân khu 5 thành lập

phân khu Thủ Biên. Phân khu này bao gồm các xã chiến khu Đ, Châu Thành, thị xã Biên

Hoà, huyện Vĩnh Cửu, Trảng Bom ở phía Nam chiến khu Đ bên bờ sông Đồng Nai. Căn cứ

phân khu đóng tại suối Bà Thơ. Bí thư phân khu là đồng chí Nguyễn Văn Trung Tư lệnh là

đồng chí Nguyễn Hồng Lâm.

Thành lập phân khu Thủ Biên nhằm thống nhất sự chỉ đạo chung ở chiến trường căn

cứ và phía Nam, tạo điều kiện bàn đạp trực tiếp tiến công cơ quan đầu não ở miền Đông, tạo

được hành lang cửa khẩu cho căn cứ trên lộ 1 và lộ 20.

187

Ngày 1 tháng 6

Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị Chuyển hướng công tác tổ chức và xây dựng

Đảng bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện và sâu sắc đánh bại kế hoạch "bình định" và chính

sách "Việt Nam hoá chiến tranh" của địch.

Ban Chỉ thị nhấn mạnh: phải nắm vững yêu cầu nhiệm vụ công tác tổ chức và xây

dựng gắn với nhiệm vụ chính trị để làm chuyển biến một cách toàn diện và sản sắc sự lãnh

đạo và chỉ đạo các mặt công tác. Phải củng cố chi bộ và xây dựng cơ sở chi bộ đều khắp ở

các xã, ấp để phát huy vai trò lãnh đạo tại chỗ. Phải chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức và sửa đổi

lề lối làm việc, tác phong công tác của các cấp lãnh đạo bên trên, đi sâu, đi sát bên dưới. Phải

khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng các bộ các cấp, nhất là cán bộ cơ sở, nâng cao cảnh giác cách

mạng, tăng cường công tác bảo vệ Đảng.

Các nội dung chủ vốn để nâng cao vai trò lãnh đạo của chi bộ:

- Chi bộ biết đề ra nghị quyết sát với thực tế và biết triển khai thực hiện nghị quyết đề

ra.

- Nâng cao chất lượng các cuộc sinh hoạt của chi bộ, và tổ chức sinh hoạt đều đặn.

- Làm cho chi bộ quán triệt quan điểm quần chúng và đường lối quần chúng của Đảng

trong công tác vận động quần chúng.

- Chi bộ biết làm công tác xây dựng nội bộ về các mặt.

Ngày 29 tháng 6

Thư của đồng chí Lê Duẩn gủi đồng chí Phạm Hùng và Trung ương Cục miền

Nam.

Trong bức thư này đồng chí nêu một số ý kiến về đánh giá tình hình về khả năng phát

triển của chiến tranh về phương hướng nhiệm

188

vụ trong thời gian tới nhằm đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh".

- Sau khi nêu lên ý nghĩa của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và nguyên nhân thắng

lợi của cách mạng miền Nam.

Tuy nhiên khi nhận định tình hình hơn một năm qua (kể từ sau Mậu Thân) đồng chí

đã nhấn mạnh:

- Về địch: trong khi bị ta giáng trả quyết liệt trên khắp chiến trường miền Nam và bị

thất bại nặng trên chiến trường Campuchia, đường 9 Nam Lào, thì ở một số vùng nông thôn

quan trọng Mỹ-ngụy đã thu được những kết quả đáng kể trong công tác bình định. Chúng đã

lấn chiếm được một số vùng ở đồng bằng sông Cửu Long, Trị Thiên vơ vét thêm sức người

sức của tiếp tục bắt lính, đôn quân để tăng cường quân ngụy, nhất là quân địa phương, củng

cố được hệ thống đồn bốt và bộ máy kìm kẹp ở thôn xã.... Nhìn chung ở một số chiến trường

nông thôn quan trọng, địch đã giành được một số thế mạnh nào đó; Trái lại, thế ta bị giảm

sút, vùng giải phóng một số nơi bị thu hẹp, các căn cứ bị đánh phá, chiến trường bị chia cắt;

lực lượng quân sự địa phương bị tiêu hao chưa kịp bổ sung, bộ đội chủ lực miền bị đẩy ra xa,

sự hợp đồng hỗ trợ lẫn nhau giữa 3 thứ quân, giữa các cách đánh không chặt chẽ như trước.

Nguyên nhân của tình hình: về cơ bản sự chỉ đạo chiến lược của ta là đúng, tuy nhiên

có lúc chúng ta (cả ngoài này cũng như trong đó) nhận định tình hình không đầy đủ, không

sâu sát, kịp thời do đó đã không đánh bại được tất cả những âm mưu và thủ đoạn mới của Mỹ

- ngụy như khi địch chuyển từ "tìm diệt và bình định" sang "quét và giữ"; Ta cũng chưa đánh

giá đúng âm mưu, thủ đoạn, biện pháp và khả năng của địch do đó đã không kịp thời vận

dụng chiến lược tấn công bằng những phương thức đấu tranh quân sự; chính trị thích hợp để

tiếp tục uỷ hiếp thành thị giành và giữ nông thôn... Trong khi đó, một thời gian dài nhiều

chiến trường ở miền Nam không đặt công tác chống càn quét "bình định" thành nhiệm vụ

trung tâm; ngay cả sau khi có chủ trương khắc phục khuyết điểm trên, nhiều nơi vẫn giao phó

nhiệm vụ ấy cho các cấp dưới và cơ sở... Nói tổng quát là các cấp ủy Đảng không nắm vững

và thực hiện đúng phương châm chiến lược

189

quan trọng nhất là "làm chủ để tiêu diệt, tiêu diệt để làm chủ kết hợp tiến công và nổi dậy, nổi

dậy và tiến công".

Đồng chí cho rằng: gần đây đảng bộ các cấp đã đánh giá lại tình hình một cách đầy

đủ. khách quan. Đồng chí cho rằng 8 khuyết điểm mà khu uỷ Khu 8 nêu ra là cơ sở, là đúng

đắn và đó cũng là khuyết điểm chung của toàn miền.

- Về phương hướng và nhiệm vụ sắp tới của cách mạng miền Nam là:

"đẩy mạnh hoạt động quân sự, mở nhiều chiến dịch lớn trong mùa đông năm 1971,

1972 trên toàn chiến trường Đông Dương, hướng tiến công chính là chiến trường miền Nam,

đẩy mạnh đánh phá bình định giành lại phần lớn nhân dân ở những vùng nông thôn quan

trọng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở thành thị, nhằm làm thay đổi lực lượng so sánh hoàn

toàn có lợi cho ta, giành lại thế chủ động chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam, tạo ra

một bước chuyển căn bản, làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh ở miền Nam và Đông

Dương, kết hợp tiến công trên chiến trường và tấn công ngoại giao... Về đấu tranh vũ trang,

điều chủ yếu là phải nhanh chóng tăng cường bộ đội địa phương tỉnh, huvện, Trung ương

Cục, Quân ủy và Bộ tham mưu của Miền phải nắm sát vấn đề này,... phải gắn chặt đấu tranh

chính trị với hoạt động quân sự với công tác binh vận để chống lại và phá tan kế hoạch bình

định của địch ở nông thôn. Cần có sự chỉ đạo thống nhất từ Trung ương Cục xuống dưới,

phối hợp chặt chẽ các lực lượng, các thứ quân, các hình thức đấu tranh, các phương thức tác

chiến để đạt hiệu quả cao.

Những nhận định đánh giá của đồng chí Lê Duẩn về tình hình cách mạng miền Nam

là phù hợp với thực tiễn diễn biến. Đồng thời trong phương hướng chỉ đạo đã gợi mở ra

những yêu cầu cụ thể và yêu cầu các cấp chỉ đạo phải quán triệt những nhiệm vụ cơ bản trên.

190

Tháng 7

Trung ương Cục miền Nam họp hội nghị tổng kết tình hình chiến trường miền

Nam và nhấn mạnh vấn đề xây dựng hậu phương, xây dựng căn cứ.

Nhằm tạo một bước chuyển biến mới trong phong trào đấu tranh chống bình định của

địch ở các tỉnh đồng bằng Nam bộ, Trung ương Cục nhấn mạnh vấn đề xây dựng hậu

phương, xây dựng căn cứ.

Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh: "xây dựng, củng cố phát triển hậu phương vững

mạnh, mở rộng căn cứ miền Đông Nam bộ nối liền với Tây Nguyên và đồng bằng, giữ vững

đường hành lang chiến lược từ ngoài vào và các đường hành lang từ biên giới xuống. Tăng

cường dự trữ vật chất tại chỗ, phát huy các lực lượng phía sau để bảo đảm nhu cầu cho phía

trước... đặc biệt chú trọng khu vực biên giới Bình Phước Long xuống chiến khu Đ, kết hợp

lực lượng miền với lực lượng địa phương mà tổ chức hành lang vận chuyển.

Trung ương Cục miền Nam đã chấn chỉnh công tác hậu cần, thống nhất chỉ đạo và tạo

nguồn dự trữ cho cách mạng miền Nam, mở rộng các cửa khẩu và trạm thu mua. Đồng thời,

tổ chức các khu vực sản xuất ở phía Nam và đông Nam căn cứ thuộc Bù Chóp, Lý Lịch, Tài

Lài, Mã Đà... vụ mùa năm 1971 ta thu hoạch gần 100 tấn lương thực và thu mua thêm 50 tấn.

Đây là một hoạt động kinh tế có ý nghĩa to lớn nhằm chống lại hành động phong toả kinh tế

địch và bảo đảm một phần dự trữ cho các lực lượng trong căn cứ, mở rộng hành lang chiến

lược góp phần chuẩn bị vào cuộc tiến công năm 72.

Ngày 13 tháng 8

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị "tăng cường công tác chính trị, tư

tưởng, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, đảng viên đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới".

Bản Chỉ thị đã nêu bật tinh thần chiến đấu kiên cường dũng cảm của cán bộ, đảng

viên ta trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời cũng nghiêm khắc kiểm

điểm những tư tưởng lệch

191

lạc, nôn nóng muốn thắng ngay hoặc không biết chiến tranh kéo dài đến bao giờ.

Trung ương Cục miền Nam xác định nguyên nhân của những tư tưởng lệch lạc trên là

do cán bộ đảng viên chưa có lập trường giai cấp công nhân vững chắc, chưa thấm nhuần sâu

sắc ý tưởng chiến đấu của Đảng.

Để đáp ứng yêu cầu chuyển hướng mạnh mẽ, nhanh chóng, sâu sắc, toàn diện sự lãnh,

chỉ đạo của Đảng vấn đề bức thiết đặt ra là phải ra sức tăng cường công tác chính trị, tư

tưởng, chăm lo bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, đảng viên nhất là từ sơ cấp đến chi bộ cơ sở, đặc

biệt là chi bộ mật. Phải cho cán bộ, đảng viên thấy rõ phương châm chiến lược của Đảng ta

là: Trên cơ sở lâu dài, kiên trì chiến đấu, liên tục tiến công và nổi dậy, kết hợp chặt chẽ với

xây dựng tăng cường lực lượng cách mạng, đánh bại địch từng bước, giành thắng lợi từng

phần, phát huy cao độ nỗ lực chủ quan, tranh thủ thời cơ và tạo thời cơ, giành thắng lợi càng

sớm càng tốt.

Ngày 26 tháng 3

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "Tận dụng cuộc khủng hoảng

chính trị hiện nay, đẩy mạnh đánh phá bình định nông thôn, đánh bại âm mưu của Mỹ

muốn duy trì Thiệu.

Thực hiện Chỉ thị 05 của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam về đẩy mạnh đấu

tranh trong đợt bầu cử của địch, từ tháng 5-1971, song song với những chiến thắng của các

lực lượng chống Mỹ trên chiến trường Đông Dương, phong trào đấu tranh của quần chúng

nhân dân đã phát triển mạnh mẽ ở khắp các đô thị và các địa bàn nông thôn miền Nam nước

ta, đẩy địch lún sâu vào những khó khăn chồng chất. Tuy vậy chúng vẫn rất ngoan cố muốn

tiếp tục duy trì chính sách Việt Nam hoá chiến tranh.

Chủ trương của Trung ương Cục miền Nam là: phải lập tức nắm thời cơ khủng hoảng

chính trị nghiêm trọng của địch, đưa lên một phong trào đấu tranh thật rộng, thật mạnh.

192

Tháng 10

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Trung ương Cục miền Nam về nhiệm vụ phương

hướng đấu tranh chống "Việt Nam hoá chiến tranh".

Căn cứ vào nghị quyết của Trung ương Cục miền Nam Hội nghị lần thứ 11 đã kiểm

điểm việc thực hiện Nghị quyết 10, đánh giá so sánh lực lượng địch ta trên chiến trường và

những công tác lớn.

Phần đánh giá tình hình từ tháng 10-1970 tới tháng 10-1971, Trung ương Cục miền

Nam nhận định: "từ giữa 1970, ta đã thực hiện chuyển hướng toàn diện trong việc chỉ đạo

đánh phá bình định, lực lượng vũ trang chính trị tại chỗ của ta vẫn được duy trì và bắt đầu

được củng cố, xây dựng theo phương hướng đúng, phong trào đánh phá bình định ở nông

thôn có thể phát triển mới thuận lợi hơn trước, vượt qua được thời kỳ nghiêm trọng nhất và

đang tạo ra những điều kiện rất cơ bản. Tuy nhiên mặt yếu của ta là chưa làm thất bại nặng nề

kế hoạch bình định, trong việc nắm dân, tập hợp lực lượng quần chúng, xây dựng chi bộ, xây

dựng du kích còn yếu. Việc vận dụng phương châm phương thức chính trị vũ trang hợp pháp,

bất hợp pháp còn nhiều lúng túng".

Về âm mưu sắp tới của địch, Trung ương Cục miền Nam nhận định: "đế quốc Mỹ tiếp

tục duy trì Việt Nam hoá chiến tranh nhằm giữ vững tình thế, giữ vững ngụy quân ngụy

quyền giành một số thắng lợi nào đó nhằm kéo dài chiến tranh mà vẫn rút được Mỹ. Mỹ

không bỏ mục tiêu cắt đứt, cô lập miền Nam với hậu phương lớn bằng

193

cách đánh vào hậu phương trực tiếp và hành lang của ta. Quân ngụy sắp tới chủ yếu là giữ

chiến trường nội địa, khi cần mới mở hành quân ngoài biên để thay thế cho quân ngụy ở miền

Nam trên chiến trường Campuchia và Lào, nhất là sử dụng quân Thái", về phương hướng và

nhiệm vụ của ta, Trung ương Cục miền Nam nhấn mạnh những yêu cầu chủ yếu sau:

- Nắm vững đánh phá bình định là công tác trung tâm trong cả quá trình đánh bại

chính sách Việt Nam hoá chiến tranh, đẩy mạnh nổi dậy và tấn công đồng loạt mở mảng mở

vùng, chủ yếu là giành lại phần lớn dân vùng giải phóng ở đồng bằng khôi phục và xây dựng

vững mạnh căn cứ chiến trường miền Đông nối liền với Tây Nguyên và biên giới, mở rộng

vùng làm chủ mạnh trên các vùng ven Sài Gòn và các đô thị lớn.

- Phải tiêu diệt cho được một bộ phận sinh lực quan trọng làm tan rã nặng nề quân

ngụy, làm cho hệ thống và lực lượng kìm kẹp và yểm trợ của địch ở địa phương bị suy sụp

nặng. Trung ương Cục có kế hoạch chỉ đạo cụ thể, chỉ đạo từng vùng như sau:

- Vùng xung quanh Sài Gòn và phần lớn miền Đông là chiến trường thuận lợi cho chủ

lực của ta do vậy phải từng bước khôi phục củng cố vững chắc căn cứ miền Đông về mọi mặt

quân sự, chính trị, kinh tế, từng bước đưa dân về; phải mở một số lõm giải phóng bám sát

vùng ven đô thị và các đầu trục giao thông lớn.

- Vùng T6 là vùng có căn cứ miền núi rộng lớn và vùng đồng bằng ven biển hẹp từ Đà

Lạt xuống và Phú Yên trở vào cần mở rộng căn cứ rừng núi thành một căn cứ địa vững mạnh

về mọi mặt nối Tây Nguyên vào miền Đông.

Trong tình hình tới phải tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác nắm dân tập hợp và phát

huy sức mạnh của dân, phát động thành bạo lực cách mạng của quần chúng với hình thức

đông khởi đứng lên đánh đổ chính quvền cơ sở địch giành lại chính quyền cho nhân dân. Cần

gắn các yêu cầu đấu tranh bức xúc của quần chúng như bung ra sản xuất và trở về ruộng

vườn cũ. Chống âm mưu lập phòng vệ dân sự đôn quân bắt lính của địch, chống độc tài tham

những, xây dựng cơ sở tổ

194

chức bí mật, hoạt động bất hợp pháp. Phải xây dựng chi bộ cơ sở đủ sức làm vai trò hạt nhân

trong phong trào quần chúng.

- Vùng đô thị: phải tiếp tục đẩy tới một cao trào đấu tranh chính trị rộng lớn tấn công

vào ngay hang ổ đầu não của địch phải hết sức mở rộng, đẩy mạnh phong trào công khai hợp

pháp và phát triển các tổ chức bí mật, các lực lượng bí mật để làm nòng cốt đảm bảo sự lãnh

đạo của Đảng. Đồng thời xây dựng các lõm chính trị, gấp rút chỉ đạo công tác binh vận ở các

thành phố, gắn phong trào đấu tranh ở Sài Gòn với các đô thị khác và vùng nông thôn. Điểm

mới trong yêu cầu chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 11 lần này, Trung ương Cục nhấn mạnh là

đảm bảo yêu cầu khẩn trương và bám sát tình hình cụ thể, thống nhất lãnh đạo từ trên xuống

và sáng tạo vận dụng với từng nơi, từng thời gian.

Ngày 20 tháng 11

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về ''Nắm vững thời cơ thuận lợi,

khẩn trương hoàn thành bước một, kịp thời chuyển sang bước hai, quyết tâm giành thắng

lợi lớn nhất trong thời gian tới".

Trung ương Cục miền Nam nhận định: trong năm 1971, ta đã đánh bại một bước có ý

nghĩa rất quan trọng trong chính sách "Việt Nam hoá chiến tranh" của địch và đang đứng

trước một thời cơ rất thuận lợi. Về quân sự, ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc tấn công chiến

lược mùa khô của địch ở Nam Lào và Đông - Bắc Campuchia, làm cho ngụy quân, ngụy

quyền tiếp tục lâm vào những khó khăn chồng chất. Về đánh phá "bình định" ở nông thôn và

phong trào đô thị ta đều có bước phát triển mới đẩy mạnh địch vào thế cô lập, thất bại. Tuy

vậy, địch vẫn rất ngoan cố, chúng tìm mọi cách để duy trì chính sách "Việt Nam hoá chiến

tranh" giữ vững ngụy quân, ngụy quyền, cố tạo thế mạnh trong thương lượng và kéo dài

chiến tranh, trong khi vẫn phải tiếp tục rút quân Mỹ.

Trung ương Cục miền Nam đề ra chủ trương, phương hướng trước mắt: "Trên cơ sở

kiên trì chiến đấu và quán triệt tinh thần tiến công đẩy lùi địch từng bước, giành thắng lợi

rừng phần, ra sức nắm thời cơ thuận lợi để giành thắng lợi lớn nhất, trước mắt phải khẩn

195

trương hoàn thành bước 1, để kịp thời chuyển sang bước 2, phối hợp với đấu tranh ngoại giao

nhằm đánh cho ngụy quân ngụy quyền suy sụp một bước nghiêm trọng, đánh bại về cơ bản

chính sách "Việt Nam hoá chiến tranh", tiến lên giành thắng lợi quyết định ở miền Nam,

đồng thời phối hợp với Campuchia và Lào giành thắng lợi trên chiến trường Đông Dương".

Phương châm chỉ đạo:

- Lấy thời cơ trước mắt để giành thắng lợi lớn nhất.

- Nắm vững thế tiến công chiến lược với 3 quả đấm chiến lược.

- Đẩy mạnh đấu tranh trên toàn chiến trường Đông Dương, nhưng phải lấy miền Nam

Việt Nam làm chiến trường chính.

- Nắm vững yếu tố bất ngờ.

Ngày 20 tháng 11

Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng và Trung ương Cục miền

Nam. Đồng gửi Khu uỷ Sài Gòn Gia Định "Về chỉ đạo phong trào đô thị miền Nam".

Trong bức thư này đồng chí Lê Duẩn đã chỉ đạo, uốn nắn một số nhận thức trong chỉ

đạo phong trào đấu tranh chính trị của Khu ủy Sài Gòn Gia Định và góp thêm những ý kiến

về phương hướng đấu tranh trong thời gian tới.

Đồng chí đồng ý với nhận định của Khu uỷ Sài Gòn Gia Định về phong trào đấu tranh

ở các thành thị miền Nam trong thời gian qua (năm 1971) đã diễn ra sôi nổi với nhiều hình

thức phong phú, đánh dấu một bước chuyển biến mới. Điều đó đã góp một đòn nặng về vào

trò hề "bầu cử dân chủ", vạch trần bộ mặt xâm lược hiếu chiến của Mỹ và bộ mặt tay sai bán

nước của Nguyễn Văn Thiệu, làm cho hắn thêm cô lập và suy yếu về chính trị.

Tuy nhiên đồng chí chưa đồng ý với nhận định của Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định cho

rằng: phong trào chưa thật sự trở thành phong trào cách mạng của quần chúng, đã đạt tới một

cuộc phát động quần chúng vừa rộng, vừa sâu chưa từng có, đã tập hợp được lực lượng rộng

rãi chưa từng có: "sự thật là: đội ngũ đấu tranh của ta còn bó hẹp

196

trong lực lượng học sinh, sinh viên đại bộ phận quần chúng cơ bản vẫn thụ động".

Yêu cầu của Trung ương Đảng và Bộ Chính trị trong chỉ đạo đợt đấu tranh chính trị

chống bầu cử hạ nghị viện và tổng thống bù nhìn: - Một là phải chú trọng trước hết đến yêu

cầu tập hợp, tổ chức quần chúng, coi đây là vấn đề hàng đầu, là vấn đề mấu chốt có tác dụng

quyết định - yêu cầu 2 là đặt vấn đề kéo địch xuống một bước về chính trị, coi đó là một khả

năng yêu cầu này tùy thuộc vào việc thực hiện yêu cầu thứ nhất.

Kiểm điểm lại thấy Thường vụ Khu ủy chưa hiểu đúng và làm đúng như thế. Trong

chỉ đạo Thường vụ đã nhấn mạnh yêu cầu kéo Thiệu xuống hơn là yêu cầu tập hợp quần

chúng. Coi việc đánh đổ Thiệu như là mọi công tác của ta. Trong nhiều tháng qua, Khu uỷ

thường chú trọng phân tích thái độ chính trị của các tầng lớp bên trên và sách lược phân hóa,

tranh thủ họ, chứ chưa có một nghị quyết nào phân tích sâu sắc toàn diện tình hình các tầng

lớp quần chúng, tình hình phong trào ở các quận, các khu phố, các xóm lao động, các giới

công nhân lao động để từ đó vạch ra đầy đủ phương châm, phương huống, hình thức đấu

tranh để xây dựng phát triển thực lực chính trị của ta.

Đồng chí phê phán xu hướng cho ý kiến việc làm của những "chính khách" bên trên

có giá trị quyết định trong cuộc đấu tranh chống Mỹ Thiệu nhân dịp bầu cử. Nhận định này

có mặt sai lầm rất nghiêm trọng.

Đồng chí nhấn mạnh phương châm lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch là để cho địch

thêm suy yếu và đưa phong trào cách mạng tiến lên, chứ tuyệt nhiên không mơ hồ ảo tưởng

đối với việc bầu bán dưới chế độ Mỹ ngụy đối với... tập hợp các nhân vật bên trên. Điều cơ

bản trước hết là cách mạng phải có thực lực, phải có sức mạnh thật sự trong quần chúng đó

mới là chỗ dựa để ta phân hoá, cô lập tiến tới đánh bại địch.

Về phương hướng nhiệm vụ của công tác đấu tranh chính trị ở thành thị trong thời

gian sắp tới, đồng chí nhấn mạnh là: ra sức tranh thủ động viên, tập hợp và tổ chức quần

chúng, nhanh chóng hình

197

thành đội quân chính trị thật đông đảo kết hợp phong trào cách mạng quần chúng với việc

khoét sâu và lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ địch, mở rộng mặt trận liên hiệp hành động

chống Mỹ - Thiệu tập trung mũi nhọn đấu tranh đòi đuổi Mỹ, lật Thiệu, đòi chấm dứt chiến

tranh xâm lược, vãn hồi hoà bình, hoà hợp dân tộc, tích cực chuẩn bị để tiến tới một bước

phát triển nhảy vọt của phong trào chính trị ở thành thị phối hợp với các đòn tiến công chiến

lược khác nhằm tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng ngụy quân, ngụy quyền giành

thắng lợi cơ bản về ta.

Trong thời gian trước mắt cần nêu bật mục tiêu: đuổi Mỹ về nước, đánh đổ Thiệu, phá

bỏ về cơ bản chế độ kìm kẹp bằng quân sự và cảnh sát của tập đoàn tay sai phát xít nhằm đập

tan âm mưu kéo dài "Việt Nam hoá chiến tranh" của Ních xơn, lập chính phủ vãn hồi hoà

bình, hoà hợp dân tộc, giành độc lập dân chủ, cơm áo và quyền sống cho nhân dân... phải từ

khẩu hiệu dân sinh, dân chủ mà tiến lên chĩa mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu là Mỹ

Thiệu... Điều cần thiết lúc này là phải tạo được diện đấu tranh thật rộng, sử dụng nhiều hình

thức, phát động nhiều cuộc đấu tranh theo từng ngành, từng giới, từng khu phố, xóm lao

động, lấy phong trào nuôi dưỡng phong trào và lôi cuốn phong trào... Đồng thời ra sức tổ

chức tập hợp thật đông đảo quần chúng cơ bản vào phong trào đấu tranh chính trị, làm cho

thực lực của cách mạng thay đổi một cách có ý nghĩa cả về số lượng và chất lượng. Đó là

khẩu hiệu trung tâm cấp bách của công tác thành thị hiện nay... lấy khóm, phường, xóm lao

động làm nơi tập hợp lực lượng, phối hợp hành độnh, xây dựng phong trào quần chúns... kết

hợp phong trào đấu tranh của quần chúng với việc khoét sâu mâu thuẫn trong nội bộ địch, mở

rộng mặt trận liên hiệp hành động chống Mỹ - Thiệu.

Đồng chí nhấn mạnh: năm 1972 là năm cách mạng miền Nam có thời cơ lớn để

chuyển sang một bước ngoặt mới, thực hiện quy luật chiến tranh của ta - nổi dậy và tiến công,

tiến công và nổi dậy, làm chủ để tiêu diệt, tiêu diệt để làm chủ làm cho nó phát huy tác dụng

cao nhất. Đồng chí căn dặn Trung ương Cục căn cứ vào phương hướng và kế hoạch để phối

hợp giúp đỡ khu uỷ Sài Gòn Gia Đình phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh hoạt động

quân sự, củng cố căn cứ bàn đạp, củng cố giao thông liên lạc, bảo đảm sự lãnh đạo thông

suốt.

198

NĂM 1972

Tháng 2

Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết và nhiệm vụ quân sự năm 1972.

Từ sau Hội nghị Bộ Chính trị và Hội nghị Quân uỷ Trung ương giữa năm 1972 về chủ

trương giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, quân và dân ta đã giành được nhiều thắng

lợi quan trọng. Để thực hiện các chủ trương lớn của Đảng, tháng 2-1972, Quân ủy Trung

ương đã ra Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự năm 1972 của các lực lượng vũ trang nhân dân.

Nghị quyết chỉ rõ phải đánh địch bằng cả 3 đòn chiến lược lớn.

1. Đòn chiến lược của bộ đội chủ lực; đánh địch trên những chiến trường có lợi tiêu

diệt một bộ phận lực lượng quân ngụy, phá vỡ từng mảng thế phòng ngự của địch, mở rộng

vùng giải phóng.

2. Đòn tiến công và nổi dậy ở các vùng nông thôn đồng bằng quan trọng, kết hợp tiến

công quân sự, chính trị và binh vận, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích và nổi dậy của

quần chúng để giành quyền làm chủ xã, ấp.

3. Đẩy mạnh phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đô thị, kết hợp đấu tranh

mạnh của quần chúng với việc khoét sâu và lợi dụng triệt để những mâu thuẫn trong hàng

ngũ kẻ thù. Khi có thời cơ phải nhanh chóng đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở thành thị phát triển

thành cao trào cách mạng.

Ngoài ra Nghị quyết còn nêu rõ nhiệm vụ giúp đỡ và phối hợp với các lực lượng của

các bạn Lào và Campuchia để cùng đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Đối với miền Bắc, Nghị quyết nêu rõ quân và dân ta phải nâng cao tinh thần cảnh

giác, sẵn sàng đập tan bất cứ âm mưu và hành động nào của đế quốc Mỹ và tay sai.

199

Ngày 12 tháng 3

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị số 01/CT72 "Thời cơ đã chín

muồi, nắm vững quyết tâm của Trung ương khẩn trương phát động toàn Đảng toàn quân

toàn dân xốc tới giành thắng lợi lớn nhất"

Tình hình chiến trường đầu năm 1972: địch thất bại nặng trên cả các chiến trường

Đông Dương. Ở miền Nam nước ta "chưa bao giờ cả thế và lực của Mỹ ngụy về quân sợ lại

có sự thay đổi lớn bất lợi cho địch, có lợi cho ta như hiện nay". Bộ đội chủ lực và bộ đội

thuộc các khu đã có bước trường thành nhanh chóng; ở nông thôn đã có nhiều nhân tố mới

xuất hiện, những điều kiện cơ bản cho một cuộc đồng khởi của quần chúng đang hình thành

và ngày càng chín muồi. Bản chỉ thị chỉ rõ:

1. Đây là một thời cơ lịch sử đã chín muồi.

2. Phải quyết tâm lớn nhất, đó là quyết tâm thắng Mỹ.

3. Cuộc tấn công này là một cuộc tấn công lớn nhất bằng cả quân sự, chính trị, binh

vận trên cả 3 vùng với 3 quả đấm chiến lược, kết hợp chặt chẽ với tấn công ngoại giao buộc

địch phải chịu thua.

4. Cuộc tấn công của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân với khí thế long trời chuyển đất,

chuyển hẳn cuộc chiến đấu thành bước phát triển nhảy vọt của quân và dân ta nhằm đánh bại

chính sách "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ.

5. Nhân tố bảo đảm thắng lợi là gắn quyết tâm với các công tác chuẩn bị khẩn trương,

cụ thể, chặt chẽ về mọi mặt. Mỗi địa phương đơn vị căn cứ vào quyết tâm chung của toàn

Đảng mà hạ quyết tâm cao nhất giành thắng lợi lớn nhất cho địa phương, đơn vị mình.

Những công việc chỉ đạo cụ thể:

Một là, phải phát động cho được trong toàn Đảng nhận rõ thời cơ lịch sử đã đến và

mỗi đảng viên phải gương mẫu đi đầu trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy.

200

Hai là, Khẩn trương phát động quần chúng tổng khởi nghĩa đánh bại bình định nông

thôn: không có một cuộc nổi dậy long trời chuyển đất của quần chúng thì không thể đánh bại

được chính sách "Việt Nam hóa" của địch.

Ba là, Quả đấm quân sự.

Bốn là, Tăng cường công tác đô thị, xác đinh rõ vị trí đặc biệt quan trọng của địch.

Năm là, Tập trung giải quyết cho được một số khâu chủ yếu về tổ chức chỉ đạo theo

nguyên tắc thống nhất, tập trung, toàn diện, kịp thời, sâu sát.

- Phương châm: Kiên quyết, táo bạo, thực tế, vững chắc, linh hoạt và dài hơi.

Ngày 31 tháng 3

Trung ương Cục, Quân ủy miền chủ trương mở Chiến dịch Nguyễn Huệ ở miền

Đông Nam Bộ .

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương về việc mở đợt tiến

công chiến lược năm 1972 trên toàn chiến trường miền Nam, ngày 31-3-1972 Trung ương

Cục, Quân ủy và Bộ tư lệnh miền đã quyết định mở chiến dịch Nguyễn Huệ ở miền Đông

Nam Bộ.

Sau gần 9 tháng (từ 31-3-72 đến tháng 1-1973) với các đợt tiến công liên tiếp, trong

đó có nhiều trận tiến công hợp đồng binh chủng quy mô lớn kết hợp với sự nổi dậy của quần

chúng, chiến dịch Nguyễn Huệ đã kết thúc thắng lợi. Kết quả ta đã tiêu diệt hơn 76.000 tên

địch, bắn rơi và phá hủy 897 máy bay, 1.081 xe quân sự và nhiều phương tiện chiến tranh

khác.

201

Chiến dịch Nguyễn Huệ thắng lợi đã góp phần đưa cách mạng miền Nam tiếp tục tiến lên

không ngừng đẩy địch lún sâu vào thế bị động và thất bại.

Ngày 7 tháng 4

Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi thư động viên toàn thể cán bộ và chiến sĩ

đang chiến đấu trên các mặt trận.

Để kịp thời động viên quân và dân ta ở miền Nam tiến công mạnh mẽ hơn nữa vào

các hệ thống phòng ngự của địch, giành thắng lợi cho cuộc tiến công chiến lược, ngày 7-2-

1972, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã gửi thơ kêu gọi toàn thể cán bộ và chiến sĩ trên

các mặt trận hãy anh dũng tiến lên, đánh mạnh hơn nữa để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

trong cuộc tiến công chiến lược này.

Nhận định về tình hình ta và địch, Ban chấp hành Trung ương chỉ rõ: Cuộc chống Mỹ,

cứu nước của nhân dân ta đang ở trong một tình thế mới, trước thời cơ rất thuận lợi và triển

vọng tốt đẹp... Đế quốc Mỹ đã thua to ở Việt Nam và Đông Dương, khó khăn ngay ở nước

Mỹ và trên thế giới. So sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường đã biến đổi rõ rệt,

ngày càng có lợi cho ta. Thế của ta là thế thắng, thế của giặc Mỹ và tay sai là thế thua, thế bị

động, thế đi xuống.. Mặc dù chúng còn rất ngoan cố nhưng đang đứng trước nguy cơ thất bại

hoàn toàn.

Bức thư nêu lên quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng ta lúc này là: "Động viên

sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, tập trung sự cố gắng cao nhất, nắm

vững thời cơ thuận lợi, đẩy mạnh tấn công về mọi mặt, hành động kiên quyết, liên tục, đập

tan chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", đập tan "học thuyết Ních xơn" của đế quốc Mỹ ở

Đông Dương, làm chuyển biến cục diện chiến tranh giành thắng lợi lớn nhất cho cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta và nhân dân các nước Đông Dương. Trong cuộc

đọ sức quyết liệt lần này giữa ta và địch, thắng lợi về quân sự của ta trên chiến trường có tầm

quyết định về chiến lược quan trọng".

Về nhiệm vụ trước mắt, bức thư nhấn mạnh các lực lượng vũ trang của ta phải phát

huy thế tiến công, giáng cho quân địch những

202

đòn sấm sét, tiêu diệt thật nhiều địch, đập vỡ các tuyến phòng ngự của chúng, đồng thời tạo

điều kiện cho đồng bào các vùng địch tạm kiểm soát nổi dậy giành quyền làm chủ, đánh bại

kế hoạch "bình định" của Mỹ-ngụy, nhanh chóng mở rộng vùng giải phóng, đẩy mạnh công

tác binh vận, làm tan rã lực lượng địch.

Trung ương Đảng kêu gọi cán bộ và chiến sĩ các lực lương vũ trang nhân dân ta hãy ra

sức thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, đẩy mạnh tiến công trên các mặt trận,

quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.

Ngày 7 tháng 4

Quân và dân đồng bằng sông Cửu Long liên tục tiến công và nổi dậy chọc thủng

hệ thống phòng thủ nhiều tầng của Mỹ-ngụy.

Đồng bằng sông Cửu Long là địa bàn đông dân, nhiều của nên đã trở thành một trọng

điểm của kế hoạch "bình định" của Mỹ-ngụy. Hòa nhịp với cao trào tiến công và nổi dậy dồn

dập của quân và dân ta trên toàn miền Nam, ngày 7-4-1972 quân và dân vùng đồng bằng

sông Cửu Long đã tiến công mạnh mẽ vào các tuyến phòng ngự của Mỹ-ngụy. Cùng một lúc,

quân ta đánh phá dữ dội vào hàng trăm vị trí, đồn bốt, căn cứ quân sự của địch, tiêu diệt và

đánh thiệt hại nặng một loạt chi khu, tiểu khu quân sự như Ngang Dừa (Sóc Trăng), Thầy

Phó (Vĩnh Long), Quang Phòng (Cần Thơ), Tiêu Cần (Trà Vinh)... tiêu diệt nhiều sinh lực

địch.

Trải qua 100 ngày tiến công và nổi dậy liên tục mạnh mẽ quân và dân vùng đồng bằng

sông Cửu Long đã diệt, bắt và làm tan rã gần 57.000 tên địch, bắn rơi và phá hủy 130 máy

bay các loại, phá hủy 150 xe quân sự, bắn cháy 145 tàu, xuồng chiến đấu, bức hàng và bức

rút 600 đồn bốt, giải phóng thêm 1.100 xã ấp, bao gồm hàng chục vạn dân.

100 ngày tiến công và nổi dậy ờ vùng đồng bằng sông Cửu Long đã chọc thủng tuyến

phòng thủ nhiều tầng của Mỹ-ngụy ở vùng Đồng Tháp Mười, giải phóng nhiều đất đai và dân

cư. Đây là một thắng lọi lớn trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường

đồng bằng sông Cửu Long.

203

Tháng 4

Hội nghị lần thứ 20 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh nhiệm vụ

chống M ỹ cứu nước ở miền Nam.

Về nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước ở miền Nam; Hội nghị nhất trí nhận định những

thắng lợi to lớn của quân và dân ta và của các bạn Camphuchia, Lào đã phá sản một bước

quan trọng chính sách "Việt Nam hoá chiến tranh" và học thuyết Nichxơn ở Đông Dương.

Năm 1971 là năm địch có cố gắng lớn, nhưng cũng là năm chúng bị thua nặng, ta và địch đã

có thay đổi căn bản có lợi cho ta: Ta đang ở thế thắng, thế chủ động, thế thuận lợi, thế đi lên,

địch đang ở thế thua, thế bị động, thế khó khăn, thế đi xuống. Hội nghị nêu rõ lập trường cơ

bản của ta là: đế quốc Mỹ phải chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam; chấm

dứt chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh"; chấm dứt các hoạt động không quân, hải quân

cùng mọi hoạt động quân sự khác chống nhân dân ta ở hai miền; rút hết quân đội, nhân viên

quân sự của Mỹ ở miền Nam; phải thật sự tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam;

chấm dứt sự ủng hộ ngụy quyền tay sai, xoá bỏ áp bức kẹp của chúng để mở đường cho việc

thành lập một chính phủ hoà hợp dân tộc; tổ chức tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ. Hội

nghị khẳng định: nếu đế quốc Mỹ còn tiếp tục chiến tranh xâm lược và duy trì chủ nghĩa thực

dân mới ở miền Nam nước ta dưới bất kỳ hình thức nào thì nhân dân ta còn tiếp tục chiến đấu

đến thắng lợi hoàn toàn.

27 tháng 4

Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng và đồng chí Mười Khang

(Hoàng Văn Thái).

Trong thư này đồng chí nhấn mạnh sự cần thiết sử dụng một cách cơ động quân chủ

lực để thực hiện cho được nhiệm vụ tiêu diệt những đơn vị lớn quân chủ lực ngụy quyền để

giải phóng một số vùng quan trọng về chiến lược.

Đồng chí cho ý kiến phải đưa nhanh bộ đội chủ lực đang đứng chân ở biên giới Việt

Nam - Campuchia về đồng bằng mà trước hết cần tăng cường thêm cho khu 8, khu 9 mỗi nơi

hai trung đoàn chủ lực

204

để cùng với bộ đội khu, tỉnh đẩy mạnh đánh giá "bình định" mở rộng vùng giải phóng trên

những địa bàn nông thôn quan trọng. Ngoài các trung đoàn độc lập, mỗi khu cần tiến lên lập

cho được một sư đoàn chủ lực để tiếp tục đánh mạnh ở đồng bằng, giữ vững giải phóng.

Đồng chí nhấn mạnh: đây là việc làm cấp bách phải làm trong tháng 5 tới. Bởi vì cần

phải chớp thời cơ khi quân chủ lực ngụy còn bị căng ra ở nhiều hướng, thế của địch ở đồng

bằng đang bị sơ hở. Do đó đẩy mạnh tiến công và nổi dậy ở đồng bằng sông Cửu Long, quyết

giành cho được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược tạo nên những thay đổi mới về so sánh

lực lượng và cục diện chiến trường Nam Bộ cũng như cả chiến trường miền Nam.

Đây là một bước chỉ đạo hết sức cụ thể của đồng chí Lê Duẩn đối với địa bàn khu 8,

khu 9 và đồng bằng sông Cửu Long

Ngày 8 tháng 5

Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi Trung ương Cục miền Nam

Trong thư, đồng chí Lê Duẩn đã hoan nghênh những biện pháp mới của Trung ương

Cục miền Nam nhằm tăng cường phong trào đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt trong hai

tháng 5 và 6 sẽ cố gắng tạo nên một chuyển biến có ý nghĩa chiến lược trong việc giành thắng

lợi phá chính sách "bình định" của địch ở chiến trường khu 8.

Đồng chí góp thêm một số ý kiến chỉ đạo kế hoạch, tác chiến trên mặt trận Bình Long,

cụ thể là thị xã An Lộc. Đây là hướng tác chiến tốt nhất nhằm tập trung tiêu diệt viện binh

của định tiêu diệt được số đơn vị địch trên đường 13 nhất là 2 lữ dù thì ta sẽ thắng rất lớn,

đồng thời tạo thêm điều kiện để giải phóng An Lộc và uy hiếp Sài Gòn. Tuy nhiên cũng cần

cân nhắc kỹ vì đánh vào hướng này trong khi lực lượng địch còn rất mạnh nên có khả năng ta

bị tổn thất và khó dứt điểm. Vì thế nếu không chắn thắng mà dẫn đến khả năng đánh kéo dài,

giàn quân chủ lực thì dứt khoát nên chuyển hướng

205

Ngày 11 tháng 5

Trung ương cục miền Nam ra chỉ thị: tập trung lực lượng quân sự, sức mạnh nổi

dậy của quần chúng và binh viện dứt điểm, mở toang từng khu vực, giải phóng từng vùng

nông thôn rộng lớn làm chuyển biến cục diện.

Sau khi kiểm điểm đánh giá công tác nổi dậy đánh phá bình định Trung ương cục đề

ra một số yêu cầu khẩn cấp sau đối với các cấp ủy:

- Lãnh đạo 3 mũi giáp công của quần chúng trong lúc này là phải nhằm thẳng vào

mục tiêu tiêu diệt và làm tan rã địch, quét sạch đồn bốt, bộ máy kìm kẹp, giải phóng xã ấp,

tiến lên giải phóng khu vực quận lỵ, chi khu, xây dựng chính quyền cách mạng kiên quyết

không để cho địch trở lại, động viên một cao trào kháng chiến đóng góp sức người sức của

cho cách mạng.

- Phát động quần chúng nổi dậy dưới hình thức bạo lực vũ trang và chính trị quyết

liệt, tạo khí thế long trời lở đất với tinh thần liên tục áp đảo kẻ địch tới cùng. Nắm vững

phương châm tiêu diệt để làm chủ và làm chủ để tiêu diệt nhằm giải phóng từng khu vực.

Trung ương cục nhắc nhở các cấp uỷ cần uốn nắn phương thức đấu tranh không còn

phù hợp với tình hình hiện nay như nặng về xin xỏ làm rón rén, dây dưa không triệt để mà

phải hiểu rằng ở giai đoạn này, tình hình đã phát triển thuận lợi hơn về chất. Lúc này không

thể dừng lại ở đấu tranh đưa quần chúng bung về sản xuất, sáng đi chiều về mà phát động

quần chúng phá ấp chiến lược, khu tập trung, giải phóng và làm chủ tại chỗ, bố phòng xây

dựng xã ấp chiến đấu.

Trung ương Cục yêu cầu các cấp uỷ phải khẩn trương lãnh đạo và tổ chức chỉ đạo chỉ

huy theo kịp yêu cầu mới, các cấp uỷ, cơ quan quân sự phải căn cứ vào chỉ thị này để chọn

điểm, diện thực hiện bằng được khẩu hiệu đã nêu trên. Đồng thời phải thấy rằng việc xây

dựng và củng cố vùng giải phóng là yêu cầu cấp bách của nhân dân và cách mạng không

được xem nhẹ. Cần phải lập chính quyền cách mạng, tổ chức và quản lý ngay đời sống của

nhân dân. Động viên sức tiến công

206

phía trước, ổn định giữ vững hậu phương, từng bước xây dựng cuộc sống mới.

16 tháng 6

Thư đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng đồng chí Mười Khang, đồng chí

Tư Nguyễn về tăng cường lực lượng chống "bình định'' ở khu 8 và khu 9(2)

Sau 2 tháng đẩy mạnh tiến công quân sự, đồng chí Lê Duẩn đã nhận định tình hình

như sau:

- Mỹ vẫn buộc phải tiếp tục rút bớt lục quân

- Ta đang ở thế chủ động tiến công là thế và lực của ta đã tốt hơn, mạnh hơn nhiều so

với trước.

- Phần lớn các đơn vị chủ lực mà ta đã trở về miền Nam chủ động tiến công địch trên

những địa bàn chiến lược quan trọng.

Đồng chí nhận định, trong thời cơ chiến lược hiện nay đòn tiến công mà bộ đội chủ

lực đã có hiệu quả lớn, điều quan trọng cấp thiết là phải đưa một bộ phận quân chủ lực trở về

đồng bằng sông Cửu Long nhằm mở các chiến dịch tổng hợp đánh vào nơi địch yếu, đẩy

mạnh tiến công và nổi dậy nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giành dân giải phóng từng mảng lớn

tạo thế liên hoàn. Hướng tác chiến là bao vây các thị xã, tỉnh lỵ, đánh tiêu diệt chi khu, quận

lỵ ... Phải có kế hoạch gấp rút phát triển bộ đội địa phương và dân quân du kích và tiếp tục

đưa phong trào nông thôn tiên lên trong mọi tình huống Trong thời gian trước mắt phải mở

được hành lang vận chuyển bảo đảm tiếp tế hậu cần cho khu 8, khu 9...

Về cách đánh, trong lúc này có thể tránh chỗ địch mạnh, tìm chỗ địch yếu hoặc tương

đối yếu mà tấn công... Để bảo đảm cho khối chủ lực miền làm tốt nhiệm vụ cơ động cần có kế

hoạch củng cố vùng giải phóng miền Đông và bố trí lực lượng bộ đội địa phương đủ mạnh để

giữ vững địa bàn này.

(2) Đồng chí Hoàng Văn Thái và đồng chí Trần Bạch Đăng phó tư lệnh miền.

207

Về chỉ đạo phải thật khẩn trương, cụ thể, động viên nỗ lực cố gắng cao nhất của toàn

đảng bộ, của nhân dân, lực lượng vũ trang nhằm tạo ra một cục diện mới vào cuối mùa thu

năm nay.

Ngày 25 tháng 6

Thường vụ Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị về "Kiên quyết giữ vững và tích

cực xây dựng vùng giải phóng phát huy thắng lợi đánh bại chính sách "Việt Nam hoá

chiến tranh" của M ỹ " .

Bản chỉ thị xác định: vấn đề xây dựng củng cố vùng giải phóng và xây dựng chính

quyền cách mạng là một yêu cầu cấp bách. Những điểm mới trong việc xây dựng vùng giải

phóng và chính quyền cách mạng.

1. Đây là lúc ta đang phát triển thế tiến công và nổi dậy vừa giành dân, giữ dân vừa

mở rộng và xây dựng vùng giải phóng giành chính quyền về tay nhân dân vừa củng cố chính

quyền cách mạng do đó phải có quyết tâm cao, không chần chừ do dự, phải luôn giữ thế tiến

công liên tục và ngày càng mạnh mẽ.

2. Trong 3 năm thực hiện chính sách Việt Nam hoá chiến tranh địch đã bị thất bại liên

tiếp, thế và lực ngày càng giảm sút.

3. Đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh ác liệt và phức tạp, tương quan cụ

thể còn có 2 chính quyền.

4. Đây là lúc vùng giải phóng đang được mở rộng và có nhiều tính chất, đặc điểm

khác nhau.

Về nguvên tắc, phương châm và nội dung chủ yếu trong chỉ đạo xây dựng vùng giải

phóng, bản chỉ thị chỉ rõ:

1. Quán triệt quyết tâm chiến lược của Đảng, khẩn trương tiến công và nổi dậy giải

phóng nhiều huyện, xã thành những mảng rộng lớn, liên hoàn, đồng thời kiên quyết giữ vững

vùng giải phóng.

2. Phải liên tục phát động cách mạng trong quần chúng. Giác ngộ quần chúng là vấn

đề cấp bách và việc làm cơ bản đầu tiên.

208

3. Xây dựng vùng giải phóng thực chất là xây dựng chính quyền cách mạng. Các cơ

cấu cách mạng ở cơ sở và các cấp làm công cụ chuyên chính với kẻ thù.

4. Xây dựng vùng giải phóng phải nắm vững yêu cầu đoàn kết chiến đấu, sản xuất để

giữ dân, giành dân, phát triển đời sống và các sinh hoạt của chế độ mới phải nhằm động viên

sức chiến đấu của nhân dân để đẩy mạnh thế tiến công và nổi dậy tiếp tục mở rộng vùng giải

phóng rộng lớn hơn nữa.

5. Quán triệt phương châm vừa tấn công, vừa xây dựng tấn công để xây dựng, củng

cố và mở rộng vùng giải phóng; xây dựng để tiếp tục đẩy mạnh thế tấn công quyết liệt với

địch giành thắng lợi lớn nhất.

6. Phải hết sức khẩn trương, vững chắc, nhưng đồng thời phải hết sức lính hoạt, sâu

sát, thiết thực trong việc chỉ đạo công tác vùng giải phóng.

Ngày 4 tháng 8

Thư đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng và đồng chí bí thư Khu ủy 8.

Trong thư đồng chí đã nêu một số ý kiến với địa bàn khu 8 trong hoạt động hè thu

1972. Đồng chí cho rằng, mặc dù khu 8 đã được tăng cường thêm bộ đội chủ lực miền và đã

tăng cường chỉ đạo trên hướng trọng điểm này nhưng chưa đạt yêu cầu về tiêu diệt sinh lực

địch.

Nhận thức về nguyên nhân của tình hình trên, đồng chí cho rằng Khu ủy 8 khi phân

tích tình hình quán triệt quyết tâm còn hữu khuynh, cố thủ, lãnh đạo còn chủ quan đơn giản,

thiếu sâu sát, vận dụng phương châm, phương thức thiếu linh hoạt... không nói đến tăng

cường lực lượng quân sự, tăng cường chỉ đạo chiến dịch thì mới tạo được điều kiện để phát

triển phong trào. Đồng chí cho rằng, trong tình hình cụ thể tương quan lực lượng giữa ta và

địch về quân sự trên địa bàn khu 8 thì địch còn mạnh hơn ra, Khu 8 lại là hướng đánh phá

"bình định" chủ yếu của địch ở Nam bộ. Vì vậy phải có biện pháp làm

209

thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch về lực lượng vũ trang từ huyện xuống xã, thôn,

phải mở nhiều chiến dịch vận động thanh niên Tích cực tham gia lực lượng vũ trang nhân dân

địa phương. Cần giảm chính các cơ quan xung quanh Trung ương Cục và quân ủy Miền, coi

đây là biện pháp đột xuất để tăng cường lực lượng cho địa phương cụ thể là cho tỉnh và

huyện. Miền Bắc cũng đưa vào 9 tiểu đoàn 40 đại đội để tăng cường bộ đội địa phương ở các

huyện tỉnh trọng điểm.

Về phương hướng tới, đồng chí nhắc nhở: nhiệm vụ chính của bộ đội chủ lực miền

đưa xuống Khu 8 là đánh "bình định" phải hết sức tạo bất ngờ về cách đánh và hướng đánh...

cần phá vỡ tuyến ngăn chặn biên giới, mở rộng: hành lang vận chuyển xuống các tỉnh Khu 9

bảo đảm tiếp cho chủ lực Miền, chủ lực Khu tác chiến liên tục. Trong thời gian cấp bách,

Trung ương Cục, quân ủy miền tăng cường chỉ đạo bảo đảm giành thắng lợi lớn ở Khu 8

đồng thời có sự chỉ đạo kịp thời với Khu 9 nhằm hình thành thế liên hoàn giữa 2 khu.

Tháng 8

Một số ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn gửi Trung ương Cục miền Nam về

công tác đấu tranh chính trị trong thời gian tới.

Trong thư này, đồng chí đã khẳng định việc đánh giá tình hình như sau:

- Về địch: Sau cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân ta ở miền Nam trong mấy

tháng qua đã làm cho chính sách "Việt Nam hoá chiến tranh" của địch cơ nguy cơ bị phá sản

hoàn toàn.

- Về ta: tình hình chung là chưa bao giờ cuộc kháng chiến của ta có được thế trận tốt

và lực lượng hùng hậu như ngày nay... Tuy nhiên chúng ta phải luôn luôn cảnh giác và sẵn

sàng đối phó với mọi âm mưu thâm độc của Níchxơn.

Đồng chí đã có một số ý kiến chỉ đạo về công tác đấu tranh chính trị ở miền Nam hiện

nay và cả sau khi cách mạng đã chuyển sang bước ngoặt mới.

210

- Đồng thời với các mũi đấu tranh quân sự, ngoại giao thì trong lúc này ở miền Nam,

ta cần nêu khẩu hiệu Hoà bình, độc lập, dân chủ làm khẩu hiệu trung tâm để phát động quần

chúng trong vùng địch kiểm soát đứng lên chống Mỹ - Thiệu..

Hoà bình là vấn đề sống còn là nguyện vọng tha thiết nhất của mọi tầng lớp nhân dân

từ thành thị đến nông thôn... nó là một khẩu hiệu cách mạng, một khẩu hiệu tiến công, gắn

với những mục tiêu cơ bản trước mắt của cách mạng miền Nam. Hoà bình còn gắn liền với

khẩu hiệu đòi tự do dân chủ chống lại mọi chính sách độc tài phát xít, mọi biện pháp tăng

cường đàn áp phát xít trả thù của địch đối với đồng bào ta.

Hoà bình gắn liền với hoà hợp dân tộc nhằm mở rộng hơn nữa mặt trận của ta, phân

hoá các thế lực phản động, cô lập bọn tay sai ngoan cố nhất... trước mắt phấn đấu thực hiện

một chính quyền hòa hợp dân tộc, mở đường tiến lên thiết lập ở miền Nam Việt Nam một thể

chế chính trị dân tộc, dân chủ thực sự, thoát hẳn sự khống chế của Mỹ... Điều quan trọng là

phải quy tụ các phong trào vào một dòng thác chung, làm cho cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc

lập dân chủ trở thành một phong trào sâu rộng có khí thế mạnh mẽ.

Phải đẩy mạnh công tác binh vận, thúc đẩy việc đào ngũ, rã ngũ, làm binh biến, phản

chiến tập thể, làm tan rã cho được các tổ chức phòng vệ dân sự của địch.

Về chỉ đạo, mỗi khu, tỉnh cần tập trung chỉ đạo giành thắng lợi ở một số vùng để rút

kinh nghiệm mở rộng... Đồng thời khi có giải pháp chính trị của Hội nghị Pari, thì lập tức

nhanh chóng phát động đông đảo quần chúng khởi nghĩa dưới khẩu hiệu vì hoà bình thật sự,

vì độc lập tự do thật sự, không cho địch biết chặt sự kiểm soát của chúng. Khởi nghĩa ở đây là

quần chúng nổi dậy phá banh các ấp chiến lược, các khu dồn dân, xoá bỏ các hình thức tổ

chức kìm kẹp để tự do đi lại làm ăn sinh sống. Phải ra sức động viên tập hợp quần chúng,

phát triển lực lượng nòng cốt và xung kích hình thành cho được mặt trận quần chúng cơ bản

ở cơ sở, ở các khu dân cư, các xóm lao động, biến nơi đây thành cứ điểm, chỗ dựa để tiến

hành khởi nghĩa từng phần. Phải kịp thời tập hợp các phe nhóm tán thành hoà bình, độc lập

dân chủ, hòa hợp dân tộc, hình thành lực lượng thứ 3 để phân hoá hơn

211

nữa các thế lực phản động, cộ lập chĩa mũi nhọn vào Thiệu và các phần tử thân Mỹ hiếu

chiến nhất.

Đối với vùng giải phóng, trước hết phải làm cho tình hình chính trị ổn định, tạo cơ sở

để từng bước ổn định đời sống, ổn định kinh tế, phải làm đúng 10 điều kỷ luật của dân vận

trong cán bộ, lực lượng vũ trang.

Ngày 13 tháng 8

Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng và các đồng chí Trung ương

Cục, về đẩy mạnh công tác binh vận

Trong bức thư này, đồng chí nhắc lại phương hướng chiến lược của cách mạng miền

Nam là tiến công và nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã quân ngụy. Thời gian qua ta đã tiêu diệt

một bộ phận lớn quân chủ lực ngụy, nhưng lực lượng bảo an dân vệ vẫn chưa tan rã lớn. Về

quân địa phương tại chiến trường miền Nam thì địch có ưu thế hơn ta.

Từ thực tế trên, đồng chí yêu cầu các cấp ủy Đảng phải đặt vấn đề công tác đích vận

cũng quan trọng như thắng địch bằng tác chiến. Cần coi trọng việc đẩy mạnh chiến tranh du

kích rộng khắp để tiêu diệt, tiêu hao địch mà còn phải làm tan rã lực lượng "nhân dân tự vệ",

bảo an, dân vệ là một nhiệm vụ chính trị mấu chốt nhằm làm thay đổi lực lượng so sánh có

lợi cho ta.

Sau khi phân tích tình hình và nguyện vọng sâu xa nhất của các tầng lớp nhân dân

trong vùng tranh chấp và vùng địch kiểm soát, cần đề cao khẩu hiệu: hòa bình, chống bắt

lính, đôn quân là một cuộc vận động có ý nghĩa chính trị cực kỳ quan trọng như cuộc vận

động cái cách ruộng đất... đồng thời phổ biến 10 chính sách binh vận của Mặt trận dân tộc

giải phóng nhằm đẩy mạnh các hành động phản chiến, binh biến, ly khai với quy mô khác

nhau.

Đồng chí nhắc nhở các cấp uỷ Đảng phải nhanh chóng phổ biến chỉ thị này xuống tận

cơ sở để quán triệt.

212

Ngày 19 tháng 8

Thành lập lại khu ủy miền Đông và Bộ tư lệnh miền Đông.

Để thống nhất chỉ đạo chiến trường miền Đông Nam Bộ, tập trung lực lượng chuẩn bị

cho đợt thời cơ (chiến dịch Nguyễn Huệ) Trung ương Cục quyết định thành lập lại Khu ủy và

Bộ tư lệnh miền Đông. Căn cứ Khu ủy và Bộ tư lệnh quân khu đóng ở khu vực suối Bon, suối

Ràng, Mã Đà, vinh An, Bà Hảo, Rang Rang. Chủ lực của quân khu gồm trung đoàn 4, trung

đoàn 33 và các đơn vị phối họp đặc công, công binh, pháo binh được bố trí ở hướng Đông

Nam Sài Gòn để mở mang, mở vùng, mở hành lang chiến lược nối liền từ chiến khu Đ xuống

Bà Rịa - Long Khánh ra ven biển áp sát Sài Gòn - Thủ phủ của ngụy quyền.

Bí thư Khu uy miền Đông lúc này là đồng chí Lê Quang Chữ.

Ngày 30 tháng 8

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về việc gấp rút xây dựng, phát

triển và bố trí lực lượng chính tụ thành thế chiến lược vững mạnh.

Nhằm phát huy những thắng lợi to lớn của chiến dịch xuân hè 1972, ngày 30-8-1972

Thường vụ Trong ương Cục miền Nam đã ra chỉ thị số 08-CT72 về việc gấp rút xây dựng,

phát triển và bố trí lực lượng chính trị thành thế chiến lược vững mạnh, kịp thời đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ chính trị trước mắt.

Bản chỉ thị nêu rõ 5 nguyên tắc chỉ đạo:

1. Xây dựng, phát triển và bố trí lực lượng phải nhằm vừa bảo đảm thắng lợi trước

mắt vừa tạo cơ sở vững mạnh để đẩy cách mạng tiến lên.

2. Việc xây dựng, phát triển và bố trí lực lượng vững mạnh phải gắn liền với kiện toàn

tổ chức các cấp.

3. Để thay đổi tương quan lực lượng theo hướng có lợi cho ta phải kiên quyết tấn

công tiêu diệt làm tan rã, suy yếu địch, phát triển

213

lực lượng ta đồng thời phải nâng cao cảnh giác, chống mọi âm mưu thủ đoạn của địch.

4. Xây dựng, phát triển lực lượng phải có ý đồ rõ rệt thể hiện trong việc bố trí lực

lượng vũ trang, chính trị, dân vận, phân công sắp xếp cán bộ.

5. Thời cơ đang hết sức thuận lợi do đó phải kiên quyết và hết sức khẩn trương trong

việc xây dựng và phát triển lực lượng cả về số lượng và chất lượng.

Về yêu cầu và nội dung chủ yếu của việc xây dựng, phát triển và bố trí lực lượng

chính trị lần này là:

1. Xây dựng, phát triển, bố trí lực lượng ở cơ sở là khâu cơ bản nhất vì nó là nền tảng

của sức mạnh tổng hợp của ta. Trong 3 tháng tới (kể từ tháng 4-1972) đi đôi với việc tấn công

địch giành thắng lợi lớn trước mắt phải xây dựng gấp rút lực lượng vũ trang và chính trị đông

về số, mạnh về chất trên cả 3 vùng chiến lược, có cơ cấu vững chắc.

2. Ra sức bồi dưỡng, đào tạo cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trước mắt.

Trọng tâm hiện nay là gấp rút bồi dưỡng và đào tạo cán bộ cho phía trước.

3. Xây dựng tổ chức và lề lối làm việc thiết thực ở các cấp từ huyện trở lên nhằm thúc

đẩy hoàn thành tốt yêu cầu xây dựng, phát triển và bố trí lực lượng chính trị và vũ trang ở cơ

sở.

Ngày 10 tháng 10

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị vận dụng khẩu hiệu hoà bình

độc lập - dân chủ - cơm áo - hoà hợp dân tộc, kiên quyết đưa phong trào cách mạng tiến

lên giành thắng lợi mới.

Chỉ thị chỉ rõ: cuộc tấn công và nổi dậy xuân-hè năm 1972 đã mở ra một cục diện mới

vô cùng thuận lợi cho cuộc chống Mỹ cứu nước. Để thực hiện chủ trương lớn của Trung

ương về giành thắng lợi lớn trước mắt và xây dựng lực lượng vũ trang, chính trị vững mạnh

kết

214

hợp với đấu tranh ngoại giao, quân và dân miền Nam phải nắm vững khẩu hiệu: "Hòa bình -

độc lập - dân chủ - cơm áo - hòa hợp dân tộc" vì đây là những nguyện vọng sâu sa và bức

bách nhất của các tầng lớp nhân dân và cũng là những mục tiêu cơ bản của cách mạng miền

Nam. Từ khẩu hiệu chung đó phải vận động nhiều phong trào đấu tranh của quần chúng với

những khẩu hiệu cụ thể khác nhau thích hợp với các vùng, với mọi tầng lớp, mọi giới, mọi

lứa tuổi kể cả binh lính, nhân viên, ngụy quyền nhằm tạo ra một cao trào cách mạng mạnh mẽ

và rộng khắp.

Chỉ thị dự kiến nếu trường hợp có một giải pháp chính trị thì phải kịp thời nắm thời cơ

bạo dạn đẩy tới cao trào cách mạng với những hình thức, quy mô thật rộng, mạnh, sôi nổi ở

các thành thị và nông thôn nhằm tập hợp lực lượng chính trị, vũ trang mạnh mẽ đánh bại

quân địch.

Chỉ thị đề ra các nhiệm vụ cụ thể cho mỗi vùng và yêu cầu lãnh đạo phải sắc bén linh

hoạt để giành chiến thắng cao nhất.

Ngày 3 tháng 12

Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị "Ra sức củng cố chi bộ, phát huy vai trò hạt

nhân lãnh đạo của Đảng trong mọi tình huống".

Để thực hiện vai trò hạt nhân lãnh đạo quần chúng từ cơ sở, việc chỉ đạo củng cố xây

dựng các cơ sở Đảng trở nên hết sức cấp thiết. Trung ương Cục đã nhấn mạnh nội dung và

phương pháp củng cố chi bộ trong thời gian trước mắt:

- Phải làm cho chi bộ thông suốt nắm vững đường lối chính sách phương châm của

Đảng và vận dụng trong lãnh đạo thực hiện. Huyện ủy là cấp có trách nhiệm trực tiếp với

Đảng bộ cơ sở.

- Nhiệm vụ đấu tranh hiện nay, chi bộ phải nắm vững khẩu hiệu trung tâm là: Hòa

bình, độc lập, dân chủ, cơm áo hòa hợp dân tộc và phát động phong trào đấu tranh chính trị

lúc chiến tranh cũng như khi có giải pháp chính trị. Đó là khẩu hiệu trung tâm hiện nay, đồng

thời phải gắn với các quyền lợi bức xúc của quần chúng nhất là chống bắt

215

lính đòi chồng con, phong trào bung ra trở về ruộng vườn cũ, đòi tư do đi lại làm ăn, chống

luật lệ phát xít, chống phạt thuế v.v...

- Chi bộ phải nhận thức và thực hiện tốt chính sách 10 điểm chính sách tôn giáo,

chính sách hoà hợp dân tộc. Phải đề phòng chủ quan mất cảnh giác, phó trương lực lượng,

bộc lộ khi phá kềm, khi ngừng bắn và có giải pháp.

Việc củng cố chi bộ cơ sở để kịp thời phát huy vai trò nòng cốt lãnh đạo ở cơ sở là

một chủ trương chỉ đạo đúng đắn của Trung ương Cục. Song tình hình thực tiễn đã phát triển

đòi hỏi nội dung chỉ đạo của Trung ương Cục cần đi sát để chỉ đạo đúng.

Ngày 10 tháng 10

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo các Khu uỷ, Tỉnh u ỷ về việc đẩy

mạnh cuộc vận động đấu tranh chính trị làm tan rã ngụy quân, tranh thủ lôi kéo ngụy

quyền cơ sở.

Những ngày cuối năm 1972, trên cơ sở những thắng lợi lớn về quân sự, ngoại giao,

Trung ương cục miền Nam tiếp tục chủ trương chỉ đạo các Khu uỷ, Tỉnh uỷ đẩy mạnh mũi

đấu tranh binh vận, ngụy vận làm tan rã lớn ngụy quân, tranh thủ ngụy quyền, giành thắng lợi

to lớn toàn diện trên khắp các chiến trường.

Sau khi nhận định đánh giá tương quan lực lượng địch - ta, Trung ương Cục miền

Nam chủ trương: "đi đôi với đẩy mạnh tấn công quân sự tiêu diệt địch phải kịp thời tận dụng

tình thế thuận lợi, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị làm cho ngụy quân ngụy quyền cơ sở

suy sụp tan rã lớn, làm cho địch không thực hiện được khẩu hiệu lấn chiếm, không đủ sức

kéo đài chiến tranh và nếu có ngừng chiến thì càng tan rã lớn không làm nổi vai trò đàn áp

phá hoại những điều đã ký...".

Trung ương Cục miền Nam tiếp tục chỉ thị cho các cấp uỷ tiếp tục thực hiện chính

sách 10 điểm với ngụy quân, ngụy quyền tận dụng tinh thế thuận lợi để làm tan rã lớn lực

lượng tại chỗ, của chúng. Trung ương Cục nhấn mạnh: "công tác binh vận 10 điểm thực chất

là một cuộc vận động cách mạng của đông đảo quần chúng nhân dân,

216

trong đó lực lượng nòng cốt lại chính là các gia đình binh sĩ cần chủ động lôi kéo con em họ

trở về với gia đình, làng xóm, giai cấp và dân tộc.

Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo các cấp uỷ cần căn cứ vào tình hình cụ thể để xây

dựng kế hoạch binh vận, hình thành 3 mũi giáp công từ thôn ấp, xã phường, bao vây từng đồn

bốt địch phối hợp giữa lực lượng bên trong và bên ngoài, nơi nào có điều kiện thì thực hiện

binh biến, khởi nghĩa.

Đồng thời cần thực hiện tốt chính sách đoàn kết hòa hợp dân tộc trong từng gia đình,

xóm ấp, tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất, đấu tranh và bảo vệ thanh niên chống quân

địch.

Trong điều kiện địch đã hoang mang cực độ do những thất bại liên tiếp về chính trị

quân sự, ngoại giao, việc đẩy mạnh mũi tiến công binh, địch vận tới tận cơ sở ngụy quân

ngụy quyền là một chỉ đạo đúng đắn của Trung ương Cục miền Nam. Tuy nhiên đây chỉ là 1

trong 3 mũi tiến công quân sự, chính trị, binh vận, không nên tập trung quá mức vào chủ

trương này và cho rằng: địch sẽ không thực hiện được khẩu hiệu lấn đất, giành dân, và không

đủ sức kéo dài chiến tranh, phá hoại Hiệp định.

NĂM 1973

Ngày 19 tháng 1

Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị đấu tranh chống địch lấn chiếm, bảo đảm thi

hành Hiệp định Pari.

Tháng 1-1973, trước khi ký Hiệp định Pari, chính quyền Thiệu đã công bố quyết định

kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ", cắm cờ chiếm đất, giành dàn, đẩy mạnh bình định lan chiếm

các vùng ta làm chủ.

Đế đối phó với tình hình trên, Trung ương Cục miền Nam ra c h ỉ thị số 2/CT.73 nêu

chủ trương cơ bản và công tác cấp bách khi có giải pháp chính trị và ngừng bắn, động viên

toàn Đảng, toàn quân, toàn

217

dân phát huy cao độ thắng lợi, đẩy mạnh cao trào chính trị ở cả 3 vùng dưới khẩu hiệu: "hoà

bình, độc lập, dân chủ, cơm áo và hoà hợp dân tộc", đòi thi hành Hiệp định Pari, cảnh giác,

đập tan âm mưu phá hoại Hiệp định của địch, kịp thời ngăn ngừa xung đột vũ trang lớn nhằm

giữ gìn hoà bình, thực hiện tổng tuyển cử theo Hiệp định, đưa cách mạng miền Nam tiến lên,

hoàn thành mục tiêu cơ bản đã đề ra. Đồng thời sẵn sàng đối phó với âm mưu gây chiến tranh

trở lại của đế quốc Mỹ.

Cuối tháng 5-1973. Trung ương Cục miền Nam phê phán một số địa phương chưa

chấp hành đúng đường lối của trên và nhắc các nơi phải thực hiện 5 cấm (cấm bao vây đồn

bốt, gỡ đốn bốt, đánh địch bung ra, cấm pháo kích và xây dựng ấp chiến đấu).

Bộ Tư lệnh Miền điện phê bình uốn nắn các chiến trương tiếp tục tăng cường lực

lượng chuẩn bị đối phó với các hành động ngoan cố của Mỹ-ngụy.

Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về tập trung chỉ đạo phong trào cách mạng

trong thời gian đến khi có giải pháp chính trị Hiệp định Pari.

Đây là bản chỉ thị cơ bản của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam về phương

hướng chỉ đạo phong trào chuẩn bị khi Hiệp định Pari ký kết.

Bản chỉ thị nhấn mạnh: Mỹ đang âm mưu tìm mọi cách duy trì sự dính líu về quân sự

ở miền Nam dưới những hình thức mới đi đôi với tăng cường xâm nhập về kinh tế, văn hoá,

can thiệp về chính trị, đồng thời dùng bọn tay sai ngụy quyền để phá hoại Hiệp định, tăng

cường các thủ đoạn đàn áp phát xít đối với nhân dân ta, đặc biệt để chống lại phong trào nổi

dậy của quần chúng, không ngừng gây ra. những cuộc xung đột cục bộ kể cả khả năng gây

chiến trở lại hòng ngăn chặn cách mạng tiến lên.

Trung ương Cục miền Nam chủ trương: "phải tranh thủ thời cơ, dựa vào sức mạnh

của quần chúng, lấy vũ trang làm hậu thuẫn và phát

218

huy cơ sở pháp lý của Hiệp định, tập trung chỉ đạo làm bật lên cho được phong trào chính trị

của quần chúng biến thành cao trào bạo lực khắp cả 3 vùng dưới khẩu hiệu: Hòa bình, dân

chủ, cơm áo, hòa bình hòa hợp dân tộc".

Về nhiệm vụ cụ thể, Trung ương Cục miền Nam chỉ rõ:

- Phải đẩy mạnh cao trào chính trị ở cả 3 vùng dưới khẩu hiệu "Hòa bình, độc lập, dân

chủ, cơm áo và hòa hợp dân tộc" đòi thi hành Hiệp định.

- Làm tan rã và suy sụp nặng ngụy quân ngụy quyền, chiếm lĩnh nông thôn, giành

chính quyền cơ sở.

- Đi đôi với xây dựng phát triển lực lượng vũ trang và chính trị, xây dựng chính quyền

cách mạng và vùng giải phóng vững mạnh về mọi mặt.

- Đập tan mọi âm mưu phá hoại Hiệp định của địch, kịp thời ngăn ngừa xung đột lớn

nhằm giữ gìn hòa bình, thực hiện tổng tuyển cử theo Hiệp định, đưa cách mạng miền Nam

tiến lên hoàn thành những mục tiêu cơ bản đề ra.

- Phải xây dựng sự nhất trí trong toàn Đảng về thắng lợi và dự báo tình hình trên, phải

xây dựng Đảng thật vững mạnh, nhất là chi bộ cơ sở.

- Phải nắm vững khẩu hiệu: Hòa bình, độc lập dân chủ, cơm áo, hòa bình, hòa hợp

dân tộc không chỉ là khẩu hiệu trung tâm trước mắt mà còn là khẩu hiệu chiến lược trong giai

đoạn tới.

- Phải nắm vững chiến lược tiến công địch, đẩy lùi địch từng bước, giành thắng lợi

tùng phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

- Nắm vững quan điểm bạo lực, triệt để phát huy bạo lực chính trị của quần chúng và

không buông lơi bạo lực quân sự

219

27-3

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về nhiệm vụ trước mắt và một số

công tác cấp bách sau 60 ngày thi hành Hiệp định Pari.

Ngày 27-1-1973 Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam

được ký kết nhưng ngay sau đó địch đã ra sức phá hoại Hiệp định. Trước tình hình đó Trung

ương Cục đã có các chỉ thị hướng dẫn các địa phương đấu tranh, trong đó có chỉ thị số

03/CT73.

Bản chỉ thị xác định: cuộc đấu tranh giữa ta và địch vẫn diễn ra rất gay go quyết liệt

và phức tạp nhưng theo xu thế phát triển có lợi cho ta, bất lợi cho địch.

Về tình hình trước mắt chỉ thị nêu rõ những khuyết điểm của ta sau 2 tháng thi hành

Hiệp định là chúng ta chưa đánh giá đúng tình hình, chưa kịp thời phát huy những thắng lợi

to lớn đã đạt được, không đánh giá hết mọi sự ngoan cố của Mỹ ngụy, việc chuyển phương

châm phương thức chỉ đạo không kịp thời và còn lúng túng; công tác tổ chức và thực hiện

không đến xã, không ra đến quần chúng; ngoài ra còn có tư tưởng hoà bình, nghỉ ngơi, nhậu

nhẹt mất cảnh giác làm giảm ý chí đấu tranh sắc bén và không kịp thời đối phó với địch.

Nhiệm vụ trước mắt là mở cuộc vận động lớn đấu tranh đòi thi hành nghiêm chỉnh

Hiệp định đã kỳ, đồng thời ra sức xây dựng và phát triển lực lượng có lợi cho ta, đẩy lùi địch

từng bước để giữ hòa bình, không ngừng đưa phong trào cách mạng tiến lên, sẵn sàng đánh

bại những hành động liều lĩnh nếu địch gây ra nội chiến.

Các khâu công tác cấp bách:

1. Làm tốt công tác nhận thức tư tưởng về Hiệp định Pari: phải thấy rõ đây là một

thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử và thời đại, mở ra một giai đoạn mới của cả dân tộc và

phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; Hiệp định đã được ký kết nhưng địch sẽ còn tiếp

tục phá hoại bằng nhiều cách vừa tinh vi vừa trắng trợn do đó ra tuyệt đối không ảo tưởng

nhưng cũng không giản đơn cho địch muốn làm gì thì làm: Hiệp định là nhân tố mới, là vũ

khí mới để ta tiến công địch và

220

xây dựng thực lực của ta; cần bình tĩnh đánh giá, tránh nôn nóng chủ quan và tiêu cực bị

động; tích cực chuẩn bị để làm thay đổi tương quan lực lượng về mọi mặt.

2. Các công tác cụ thể: phát động phong trào đấu tranh với phương châm: kết hợp

chặt chẽ đấu tranh chính trị, vũ trang và pháp lý, lấy đấu tranh chính trị làm cơ sở, đấu tranh

vũ trang làm hậu thuẫn, hết sức phát huy tác dụng của đấu tranh pháp lý; Trong đấu tranh vũ

trang phải phân tán, linh hoạt đúng mức, đúng nơi, đúng lúc, đúng đối tượng, có điểm, có lý,

có lợi tạo thế cho phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển. Khi địch dùng quân sự tấn

công ta, ta phải kiên quyết tiêu diệt chúng. Trong đấu tranh ta tiếp tục thực hiện khẩu hiệu:

Hòa bình, độc lập, dân chủ, cơm áo, hòa hợp dân tộc; về công tác binh vận phải kết hợp với

pháp lý của Hiệp định để đẩy mạnh đấu tranh; Tích cực xây dựng lực lượng cách mạng củng

cố và mở rộng vùng giải phóng và căn cứ.

Ngày 30 tháng 5

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo các Khu uy, Tỉnh ủy về chuyển

hướng đấu tranh sau khi ký Hiệp định Pari.

Trước khi có chỉ thị này, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đã triển khai chỉ thị

02, điện 775, chỉ thị 03 gửi các địa phương yêu cầu chuyển hướng chỉ đạo khi tình hình cách

mạng miền Nam đã có bước chuyển khi Hiệp định Pari đã ký kết.

Tuy nhiên, sau 4 tháng nhiều nơi có sự chuyển hướng tốt, nhưng cũng còn một số địa

phương có nhiều khó khăn trong vận dụng phương châm phương thức chỉ đạo 3 mũi kết hợp

với pháp lý của Hiệp định.

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam tiếp rục có ý kiến chỉ đạo các địa phương trên

những vấn đề sau:

- Trước hết các địa phương cần nhận thức một cách sâu sắc toàn diện về sự chuyến

huống chỉ đạo của Đảng sau khi Hiệp định được ký kết, có như vậy hoạt động đấu tranh 3

mũi mới phù hợp với tình hình đã thay đổi. Nội dung phương hướng đấu tranh là: Sử dụng 3

mũi tấn

221

công địch nhằm buộc địch thi hành Hiệp định để đưa cách mạng tiến lên bằng con đường thi

hành Hiệp định, nhưng đồng thời phải ra sức khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang và

chính trị, xây dựng căn cứ và vùng giải phóng để có sức mạnh vừa buộc địch thi hành Hiệp

định vừa sẵn sàng đánh bại nếu chúng gây chiến tranh trở lại.

- Cần nhận rõ yêu cầu mới của 3 mũi và vận dụng phương châm phương thức kết hợp

với pháp lý của Hiệp định cho phù hợp với tình hình cụ thể. Đó là việc kết hợp đấu tranh 3

mũi với pháp lý đòi địch thi hành Hiệp định Pari gắn với yêu cầu phá kèm kẹp giành quyền

làm chủ, giữ quyền làm chủ ở xã ấp không ngừng làm thay đổi tương quan lực lượng ở cơ sở.

Mọi hoạt động vũ trang của 3 thứ quân cũng là nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị là để thi

hành Hiệp định.

- Tiếp tục nhận rõ yêu cầu bức xúc là đưa dân bung ra trở về sản xuất ở các xã ấp cũ

tạo thành thế da beo, thế cài răng lược (nhất là những xã thuộc vùng trắng trước đây) tạo

thành thế liên hoàn của vùng tà giữa các ấp của xã, giữa các xã trong huyện. Đồng thời gắn

nội dung chỉ đạo phá kìm kẹp với việc vận động binh lính địch.

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam cũng phê bình nhắc nhở một số địa phương có

sự chuyển hướng vẫn tiếp tục đấu tranh theo lối cũ (tức là lấy vũ trang bao bây đồn bốt là

phương thức chủ yếu) cho rằng làm như vậy thì tình hình tiếp tục căng thẳng, thế và lực tại

chỗ chuyển biến chậm, không có lợi cho việc thi hành Hiệp định.

Ngày 8 tháng 5

Quân dân quân Khu IX phản công và tiến công chống bình định lấn chiếm, bảo vệ

vùng giải phóng.

Ngày 28-1-1973 Hiệp định Pari có hiệu lực. Theo quy định hai bên ngưng bắn tại chỗ,

song chiến tranh vẫn tiếp tục khắp Vùng đồng bằng sông Cửu Long. Quân đoàn 4, quân khu

4 ngụy tiếp tục tấn công lấn chiếm. Kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" tăng cường phản kích đánh

phá ác liệt hơn trước. Tháng 10-1972 nhận được chỉ thị 02 của Trung ương Cục miền Nam về

kế hoạch chuẩn bị cho giải

222

pháp chính trị. Ngày 02-2-73 Thường, vụ Khu ủy Khu IX. họp xác định: địch không thi hành

Hiệp định ta phải tiếp tục chiến đấu giữ vững thành quả. Tình hình còn bỡ ngỡ, nhưng trước

mắt phải kiên quyết trừng trị đánh địch vi phạm Hiệp định.

Ngày 15-2 Hội nghị Khu ủy xác định thêm: "Đặc điểm của cuộc đấu tranh hiện nay

vẫn là cuộc đấu tranh giữa một bên là kẻ vi phạm Hiệp định và một bên là người trừng trị bọn

vi phạm Hiệp định... Vì vậy tấn công là vấn đề có tính chất nguyên tác, nhưng tấn công thế

nào cho đúng tinh thần vận dụng phương châm, phương thức" phương châm tác chiến là:

đánh địch phản kích càn quét, tiêu diệt quân địch lấn chiếm phá hoại Hiệp định. Diệt ác ôn

phá kềm, bao vây tấn công đồn bốt hỗ trợ cho quần chúng bung về ruộng vườn. Trong tháng

5-1973 toàn khu IX đánh diệt và bức rút 75 đồn bốt địch chiếm lại 16 đồn.

Cũng trong tháng 5-1973, đoàn tổng kết đấu tranh chính trị binh vận Miền xuống địa

phương phê phán "quân khu làm sai đường lối của trên" và đề ra cho các địa phương thực

hiện 5 cấm (cấm bao vây đốn bốt, cấm đánh địch bung ra, cấm pháo kích, cấm làm xã ấp

chiến đấu)...". Thường vụ khu ủy đã phát hiện ra kịp thời nghiêm cấm phổ biến cho các tỉnh

và ra chỉ thị cho các tỉnh nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của quân khu. Từ tháng 6 đến

tháng 8, quân khu IX đã đánh trên 200 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 5000 tên. Địch vẫn không hoàn thành kế hoạch chiếm được Chương Thiên. Vùng giải phóng căn cứ U Minh cơ

bản vẫn ổn định, ta tấn công liên tục không bị động đối phó như trước. Phương thức đánh phá

bình định: ở, giữ, mở, thọc sâu làm cho địch thêm bị động và lần lượt mất dần đất, quân số ra

ngũ ngày càng nhiều. Chiến dịch giữ Chương Thiện, Long Mỹ của quân khu IX kéo dài cả

năm 1973 và ta đánh trong hoàn cảnh bị động về chiến dịch bởi còn bị ràng buộc của các chỉ

thị cấp trên. Nhưng ta thắng được là nhờ sự sáng suốt của Khu ủy và quân khu ủy, sự cảnh

giác và sự hiệp đồng 3 mũi, 3 thứ quân rất chật chẽ. Đến tháng 8-1973, mới có lệnh phản

công, tiến công của Trung ương và Quân ủy miền.

223

Ngày 20-25 tháng 5

Trung ương Cục miền Nam chủ trương xây dựng căn cứ địa Đồng Tháp Mười.

Sau Hiệp định Pari, Trung ương Cục miền Nam chủ trương phải xây dựng thực lực

của ta mạnh về mọi mặt để tiến tới giành những thắng lợi to lớn, quyết định. Nghiên cứu kỹ

địa hình các tỉnh Kiến Phong, Kiến Tường, Mỹ Tho, Trung ương Cục đã tổ chức hội nghị các

tỉnh trên để bàn phương hướng quy vùng xây dựng căn cứ địa Đồng Tháp Mười.

Trung ương Cục miền Nam cho rằng: "cần phải xây dựng Đồng Tháp Mười thành căn

cứ địa nối liền Đồng Tháp Mười với miền Đông, Tây Nguyên ra miền Bắc, tạo ra một thế

mạnh cho chiến trường Đông Dương. Hiện tại Đồng Tháp Mười là một căn cứ đồng bằng có

ưu thế về sức người, sức của cung cấp cho kháng chiến và nơi đây có địa thế thuận lợi cả về

chính trị và quốc phòng".

Để đạt được những yêu cầu của căn cứ địa, Trung ương Cục miền Nam yêu cầu các

tỉnh Kiến Phong, Kiến Tường, Mỹ tho phải trở thành một đơn vị hoàn chỉnh về chính trị,

quốc phòng, kinh tế, với địa giới các tỉnh vẫn giữ nguyên không xáo trộn.

Về nội dung xây dựng căn cứ địa, Trung ương Cục miền Nam nhấn mạnh: "vấn đề

mấu chốt là phải phá cho được hệ thống kìm kẹp đồn bốt tạo thế liên hoàn giữa các xã ấp,

huyện, tỉnh.

Các cấp uỷ phải đi vào quần chúng, phát động quần chúng đấu tranh thi hành Hiệp

định, phải chuẩn bị địa bàn để đánh địch lấn chiếm vùng mới giải phóng.

Phải xây dựng thực lực mọi mặt, đặc biệt việc xây dựng kinh tế chiếm vị trí quan

trọng nhằm phát huy thế mạnh của kinh tế Đồng Tháp Mười phục vụ cho chiến trường tại

chỗ.

224

Tháng 7

Hội nghị lần thứ XXI Ban chấp hành Trung ương Đảng đề ra đường lối hoàn

thành sự nghiệp cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Về tình hình miền Nam, Hội nghị chỉ rõ chính sách cơ bản của Mỹ vẫn là thực hiện

học thuyết "Nichxơn" áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Đối

với quân ngụy tuy lực lượng vũ trang của chúng vẫn còn tương đối lớn và đang chiếm giữ

những địa bàn quan trọng, vẫn được Mỹ giúp đỡ về mọi mặt nhưng những mặt yếu rất cơ bản

về chính trị mà chỗ dựa tạm thời về quân sự của chúng không thể bù đắp được. Hội nghị dự

kiến 2 khả năng: Hoặc do ta tích cực đấu tranh trên ba mặt trận: chính trị, quân sự, ngoại giao

buộc địch từng bước phải thực hiện Hiệp định Pari, hoặc do địch ngoan cố gây chiến, ta lại

phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go, quyết liệt để giành thắng lợi hoàn toàn. Hội

nghị nhấn mạnh: dù phát triển theo khả năng nào, con đường cách mạng miền Nam vẫn là

con đường bạo lực cách mạng, bất kỳ trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ

vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến

lên.

Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân, đấu tranh trên

3 mặt ưận chính trị, quan sự, ngoại giao một cách hết sức chủ động, linh hoạt, tuy theo từng

lúc, từng nơi mà kết họp giữa các mặt trận đó cho thích họp để buộc địch phải thi hành

nghiêm chỉnh Hiệp đinh Pari về Việt Nam, không ngừng giữ vững và phát triển lực lượng

cách mạng về mọi mặt, thắng địch từng bước và chủ động trong mọi tình huống đưa cách

mạng miền Nam tiến lên.

Về phương châm: Cách mạng miền Nam phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến

công, nhưng phải căn cứ vào từng thời kỳ, tình hình cụ thể từng vùng, thậm chí tuy cuộc đấu

tranh mà vận dụng hình thức đấu tranh và chiến thuật tiến "công hoặc phòng nghệ một cách

linh hoạt, sắc bén đồng thời giữ vững và phát triển lực lượng quân sự, chính trị của địch, làm

cho lực lượng so sánh giữa ta và địch ngày càng thay đổi có lợi cho ta. Về đấu tranh quân sự

phải kiên quyết phản công và tiến công, giữ vững và phút huy thế chủ động về mọi

225

mặt của ta, đánh bại các cuộc hành quân của địch lấn chiếm vùng giải phóng hoặc bình định

các vùng giáp ranh.

Hội nghị tiếp tục xác định vị trí của hậu phương miền Bắc XHCN đối với cách mạng

miền Nam.

Tháng 9

Trung ương Cục miền Nam kiểm điểm tình hình và sự lãnh đạo từ Hội nghị Trung

ương Cục lần thứ XI đến 9-1973.

Văn kiện này được gửi ra Trung ương cuối tháng 9-1973.

Phần kiểm điểm của Trung ương Cục miền Nam từ đầu 1972 tới 9-1973 đã chỉ rõ:

Đặc điểm lớn nhất sau ký Hiệp định là nhân dân hào hứng hoà bình, nguyện vọng đòi

giải quyết hoà bình dân chủ, hoà hợp dân tộc lan rộng trong các phe phái. Nhưng ngay từ đầu

địch liên tiếp đưa quân đánh phá các lõm địa hình, lấn chiếm lõm giải phóng, ngăn chặn nhân

dân bung ra sản xuất, di dân đạo giáo đi chiếm đất đai, ngăn chặn hành lang của ta hòng tiêu

diệt và đẩy lùi lực lượng.

Vài giờ sau ngừng bắn theo tinh thần Hiệp định Pari, Trung ương Cục miền Nam đã

triển khai các chỉ thị 02,03, triển khai các lực lượng thực hiện chiếm lĩnh nhiều vùng và nhiều

đoạn giao thông quan trọng, ta lãnh đạo phong trào đấu tranh 3 mũi kết hợp với pháp lý nhằm

buộc địch thi hành Hiệp định Pari, giữ vững và mở rộng vùng ta, kiên quyết trừng trị bọn lấn

chiếm và chuyển phương châm giành dân, giành quyền làm chủ ở xã ấp. Trung ương Cục đã

chỉ đạo một số địa phương xây dựng căn cứ địa và vùng giải phóng ở miền Đông, T6, Đồng

Tháp, U Minh. Trung ương Cục miền Nam nhận định các địa bàn bao gồm T1, T2, T3, T6

nhân dân vẫn giữ vững, ta mở thêm được cơ sở ở vùng địch đặc biệt là ở nông thôn.

Tuy nhiên Trung ương Cục miền Nam đã có khuyết điểm như: "Khi ký Hiệp định ta

có phán đoán địch sẽ vi phạm và phá lệnh ngừng bắn nhưng không dự kiến đầy đủ mức độ

khốc liệt kéo dài của các

226

cuộc hành quân lấn chiếm với quy mô lớn của địch; Thiếu hướng dẫn cho các địa phương chủ

động và kiên quyết linh hoạt ứng phó với mọi tình huống - phần nhiều ta còn đặt vai trò đấu

tranh chính trị hơn đấu tranh vũ trang hoặc thiếu kết hợp. Cũng có nơi do chỉ đạo chưa sát

không kịp thời để diễn ra tình hình lúng túng (đó là giai đoạn đầu sau Hiệp định). Về dự kiến

âm mưu sắp tới của địch: Âm mưu lâu dài của đế quốc Mỹ là tìm mọi cách xóa bỏ sự tồn tại

của chính quyền cách mạng, chia cắt lâu dài đất nước, duy trì chính quyền tay sai thân Mỹ.

Dự kiến: sắp tới đồng bằng Sông Cửu Long sẽ là trọng điểm đánh phá của địch nhằm lấn

chiếm, giành sức người sức của ở miền Đông và T6 là trọng điểm của kế hoạch gom dân,

phong tỏa, bao vây KT phá hoại căn cứ địa của ta. Sài Gòn và thành thị cùng với vùng ven và

1 số vùng đạo giáo sẽ là trọng điểm triển khai nhưng chính sách phản động của chính quyền

Nguyễn Văn Thiệu.

Về nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Trung ương Cục nhấn mạnh: "tiếp tục hoàn

thành cách mạng dân tộc dân chủ mà nội dung cơ bản là đoàn kết toàn dân tập trung mũi

nhọn vào đế quốc Mỹ và tập đoàn tư sản mại bản tay sai quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu, đẩy

lùi và đánh thắng đi tới xóa bỏ chính quyền tay sai Mỹ, xóa bỏ chế độ thực dân kiểu mới,

thiết lập một chính quyền dân tộc, dân chủ thực sự, thực hiện hòa bình, hòa hợp dân tộc thoát

khỏi sự lệ thuộc Mỹ".

Yêu cầu và phương hướng trước mắt là tập trung giành dân, giành quyền làm chủ là

nhiệm vụ cơ bản nhằm khấc phục khuyết điểm và tạo thế mạnh cho ta. Phải nhanh chóng mở

diện đấu tranh vào vùng địch kiểm soát. Tất cả các chi bộ đều phải bám trụ trong dân để

hướng dẫn nhân dân đấu tranh, hình thành thế làm chủ ở mỗi xã ấp. Dùng 3 mũi giáp công

phá kìm kẹp, kết hợp với đấu tranh chính trị binh vận với công tác diệt ác nhằm làm tan rã

đồn bốt của ngụy quyền và giải phóng xã ấp. Trước mắt phải phát huy vai trò chủ động phản

công, tấn công tiêu diệt địch nhằm đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm bao vây chia cắt

của địch, bảo vệ đường hành lang của ta và những địa bàn quan trọng.

227

Ngày 15 tháng 10

Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập căn cứ địa Tân Phú.

Nhằm xây dựng một căn cứ hoàn chỉnh ở phía Đông và đông bắc miền Đông, ngày

15-10-1973, Trung ương Cục quyết định thành lập cắn cứ Tân Phú. Đồng chí Nguyễn Văn

Luông được cử làm bí thư tỉnh uỷ, tỉnh đội trưởng là đồng chí Lưu Phước Anh. Tỉnh căn cứ

Tân Phú bao gồm một phần đất của tỉnh Thủ Dầu Một, Phước Long và huyện Định Quán.

Lúc này địa giới của chiến khu Đ được khu ủy xác định: phía Bắc giáp lộ 14 từ Đồng

Xoài lên Bù Đăng, giáp giới tỉnh Đắc Lắc, phía Nam từ Tân Uyên chạy dọc bờ bắc sông

Đồng Nai lên thượng nguồn phía Tây giáp tỉnh lộ 16 và liên tỉnh lộ 14 lên Đồng Xoài, phía

Đông và Đông bắc giáp tỉnh Đắc Lắc. Chiều dài Nam - Bắc khoảng 60km; chiều dài Đông-

Tây khoảng 85km. Diện tích khoảng 5.00km2. Căn cứ được tổ chức thành các huyện Sông

Bé, Phú Giáo, Độc Lập, Mã Đà (trung tâm). Kế hoạch phát triển sản xuất trong căn cứ được

quy hoạch triển khai và giao cho các tỉnh Thủ Dầu Một, huyện Tân Uyên, Phú Giáo trồng

lúa, mỳ, khoai bảo đảm sản xuất cần cho kháng chiến.

Cuối 1973, Trung ương Cục và Bộ tư lệnh miền quyết định mở chiến dịch mùa khô

1973 - 1974 phản công và tiến công nhằm đánh bại các kế hoạch "bình định" mở hành lang

bàn đạp tiến công và hoàn chỉnh vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ. Trung ương Cục miền

Nam đặc biệt nhấn mạnh phải thu hồi và làm chủ 4 xã chiến khu Đ như Đại An, Thiện Trân,

Đồng Lách, Đông May (phía nam sông Đồng Nai).

228

Ngày 16 tháng 11

Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi Trung ương Cục miền Nam Khu ủy khu V, Khu uy

Trị Thiên về công tác chống "bình định" lấn chiếm sau Hiệp định Pari.

Trong bức thư này đồng chí đã để cập tới nhiệm vụ cơ bản trước mắt của cách mạng

miền Nam trong năm 1974, đặc biệt là từ sau Hiệp đinh Pari là "phải coi việc đánh phá kế

hoạch "bình định" lấn chiếm của địch là còng tác trung tâm số một... phải tiến hành một cách

toàn diện kết hợp các mặt đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận pháp lý, kinh tế, vừa đẩy

mạnh đấu tranh trong vùng địch kiểm soát và vùng tranh chấp, vừa phát huy thế mạnh của

vùng ta để tác động đến vùng địch.

Đồng chí nhấn mạnh: để đánh bại kế hoạch bình định lấn chiếm của địch, đấu tranh

quân sự đóng vai trò quyết định giải phóng những đòn đích đáng vào lực lượng "bình định"

lấn chiếm, tiêu diệt cho được bọn ác ôn, bọn chỉ huy ngoan cố và cả một số đồn bốt, cơ sở

hậu cần làm chỗ dựa cho các cuộc hành quân đó.

Về những thiếu sót của ta trong thời gian qua, đồng chí cho rằng: "ta có khuyết điểm

đã để cho địch lấn chiếm được một số vùng ta mới mở ra và còn mất thêm một phần đất và

dân trong vùng giải phóng cũ. Điều đó không phải địch mạnh mà chính là do trong Đảng bộ

và trong quân đội có những cấp lãnh đạo chỉ huy đánh giá không hết âm mưu cơ bản của địch

từ đầu và việc phát huy sức mạnh tổng hợp để đánh bại âm mưu của địch trong tình hình mới.

Do đó có nơi do dự, hữu khuynh, không kiên quyết đánh trả hoặc đánh trả không tốt để địch

lấn tới. Ngược lại có những nơi ta kiên quyết giữ vững quyền chủ động, đánh trả kịp thời, kết

hợp chặt chẽ vói đấu tranh bằng binh vận, pháp lý thì ta gây cho địch những thiệt hại nặng,

buộc chúng phải co lại. Đồng chí nhấn mạnh: muốn đánh thắng địch, ta phải vận dụng đúng

tư tưởng chiến lược tiến công, bảo vệ thành quả cách mạng chứ không phải phòng ngự đơn

thuần... về phía ta phải nhận rõ rằng thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước hai mươi

năm qua và việc ký Hiệp đinh Pari đã rạo ra cục diện có lợi nhất cho cách mạng cả nước nói

chung và cách mạng miền Nam nói riêng... thế thắng của ta là không thể đảo ngược được.

229

Tháng 12

Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về phương hướng tới của cách mạng miền

Nam.

Sau gần 1 năm chỉ đạo chuyển hướng đấu tranh nhằm thi hành Hiệp định Pari, rút

kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh giằng co quyết liệt giữa ta và "địch trên khắp chiến trường

miền Nam, Trung ương Cục miền Nam đã chỉ rõ: ở miền Nam hiện nay, ta và địch đang ở thế

đan xen rất phức tạp, ta phải tuỳ theo từng vùng, từng lúc và lực lượng so sánh từng địa

phương xã ấp để vận dụng thích hợp 3 mũi tiến công: quân sự, chính trị, binh vận. Phải sẵn

yêu cầu giành dân, giành quyền làm chủ là giành thế mạnh, thế thắng. Đối với vùng giải

phóng, vùng căn cứ địa phải đoàn kết toàn dân, đoàn kết quân dân vừa sản xuất vừa chiến đấu

phải xây dựng mạnh cả về quân sự và chính trị kinh tế, sẵn sàng phản công và tiến công địch.

Đối với vùng tranh chấp: phải giữ vững thế và lực của ta, từng bước chuyển lên nắm dân, xây

dựng thực lực. Trong vùng địch kiểm soát phải lãnh đạo quần chúng, đấu tranh hợp pháp

chống lại các hình thức kìm kẹp, đòi chính quyền địch thực hiện các yêu cầu cấp thiết của

quần chúng về dân sinh dân chủ.

Trung ương Cục miền Nam nhấn mạnh: "cuộc chiến tranh giành dân, giành quyền làm

chủ của dân là một cuộc đấu tranh toàn diện vừa tấn công vừa xây dựng. Kết hợp đấu tranh

quân sự, chính trị, binh vận đấu tranh pháp lý, đấu tranh kinh tế, vừa dùng bạo lực vừa hoà

bình, vừa pháp lý, vừa không hợp pháp, hình thành một phong trào hành động cách mạng

rộng khắp, hình thành 3 mũi giáp công, sử dụng đúng mức, linh hoạt buộc địch thi hành Hiệp

định bảo vệ quyền lợi của quần chúng, từng bước giành quyền làm chủ của nhân dân, giải

phóng xã ấp, xây dựng chính quyền cách mạng ở cơ sở tiến lên xây dựng chính quyền cách

mạng ở nông thôn.

Chủ trương của Trung ương Cục miền Nam trong năm 1974 là : lãnh đạo nhân dân

quyết tâm đánh bại một bước quan trọng kế hoạch bình định mới của địch, thu hồi về cơ bản

vùng giải phóng và vùng tranh chấp trước ngày 28-1-1973. Đồng thời tuy điều kiện từng nơi

ra sức mở rộng nông thôn vùng giải phóng và tranh chấp mới, mở rộng diện lỏng kềm giành

quyền làm chủ với nhiều mức độ ở vùng nông

230

thôn do địch kiểm soát, làm cho hậu phương địch bị thu hẹp và không ổn định.

Trung ương Cục miền Nam nhấn mạnh các cấp ủy phải bám sát tình hình, có kế

hoạch cụ thể cho từng địa phương và nhấn mạnh: "cuộc đấu tranh giành dân, giành quyền

làm chủ của dân là một qua trình giành đi giật lại giữa ta và địch rất gay go phức tạp. Nó đòi

hỏi phải luôn nắm vững tư tường tiến công, quan điểm bạo lực và quan điểm quần chúng

chống bệnh hữu khuynh.

Hiện nay địa bàn xã ấp là rất quan trọng do đó các cấp ủy phải trực tiếp chỉ đạo địa

bàn xã ấp, thật sự gắn bó với quần chúng, không ngừng củng cố chi bộ Đảng và nâng cao

chất lượng đảng viên.

Tháng 12

Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ XII về 5 công tác lớn của

Đảng bộ miền Nam.

Phân tích về đặc điểm tình hình xã hội và các giai cấp ở miền Nam Nghị quyết chỉ rõ:

Bên canh mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân miền Nam với đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị

tư sản mại bản quan liêu quân phiệt tay sai của Mỹ còn có mâu thuẫn sâu sắc giữa một bên là

chế độ dân chủ nhân dân ở vùng giải phóng và một bên là chế độ chính trị mang nhãn hiệu

"quốc gia" thực chất là chế độ nô dịch, con đẻ của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Nghị

quyết đánh giá các giai cấp và tầng lớp nhân dân trong xã hội miền Nam. Trong đó xác định:

giai cấp tư sản mại bản là lực lượng phản động ngoan cố và hiếu chiến nhất. Giai cấp nông

dân là lực lượng chủ yếu trong đấu tranh chính trị, vũ trang, là nguồn cung cấp sức người sức

của cho kháng chiến xứng đáng là lực lượng đồng minh tin cậy của giai cấp công nhân, cùng

giai cấp còng nhân hợp thành đội quân chủ lực của cách mạng.

Nghị quyết đề ra 5 công tác lớn của Đảng bộ miền Nam:

1. Công tác quân sự: Kiên quyết và chủ động đánh bại kế hoạch bình định lấn chiếm

của địch, tiêu diệt và làm tan rã nhiều địch kết họp với đấu tranh chính trị và đấu tranh pháp

lý của quần chúng, giữ vững, hoàn chỉnh vùng giải phóng và căn cứ địa cách mạng, mở rộng

231

diện tranh chấp, từng bước chuyển vùng tranh chấp thành vùng giải phóng, chuyển vùng địch

kiểm soát thành vùng tranh chấp để thu hẹp vùng địch, giành dân và giành quyền làm chủ của

dân, tạo thế và điều kiện thuận lợi nhất phát triển phong trào đấu tranh trong đô thị và vùng

địch kiểm soát ở nông thôn.

2. Công tác đánh ra phía trước (vùng tranh chấp và vùng địch tạm kiểm soát): đây là

vùng đông người nhiều của, giành được vùng này là làm chủ được kho nhân lực, vật lực, tài

lực lớn và chiếm được bàn đạp vùng ven tạo thế cho phong trào đô thị, mở ra khả năng thuận

lợi để xây dựng vùng giải phóng và căn cứ địa cách mạng, hình thành thế mạnh của ba vùng

chiến lược, làm thay đổi lớn lực lượng so sánh có lợi cho ta ương giai đoạn mới. Nghị quyết

nhấn mạnh phải nhận thức rõ vị trí, tính chất và nội dung của công tác này đó là: phải xác

định đây là một cuộc đấu tranh toàn diện, vừa tấn công vừa xây dựng, kết hợp tổng hợp các

loại hình đấu tranh buộc địch thi hành Hiệp định để bảo vệ đời sống cho nhân dân, từng bước

giành quvền làm chủ của nhân dân, giải phóng xã ấp, xây dựng chính quyền cách mạng ở cơ

sở tiến lên thiết lập một chế độ dân tộc, dân chủ nhân dân ở nông thôn.

Nghị quyết đề ra nhiệm vụ của năm 1974 là: "quyết tâm đánh bại một bước quan

trọng kế hoạch bình định mới của địch, thu hồi về cơ bản vùng giải phóng và tranh chấp

mạnh trước ngày 28-1-1973 đồng thời tuy điều kiện tùng nơi ra sức mờ rộng thêm vùng giải

phóng và tranh chấp mới mờ rộng diện phá lỏng kìm giành quyền làm chủ với nhiều mức độ

ở vùng nông thôn do địch kiểm soát về mọi mặt làm cho hậu phương của địch bị thu hẹp và

luôn luôn không ổn định". Để thực hiện được nhiệm vụ này phải luôn luôn nắm vững tư

tưởng tiến công quan điểm bạo lực cách mạng, quan điểm quần chúng.

3. Về công tác đô thị, Nghị quyết xác định: phong trào thành thị phải trải qua nhiều

bước quá độ để đẩy mạnh đấu tranh và xây dựng lực lượng để từng bước đẩy lùi địch và làm

thay đổi lực lượng so sánh co lợi cho ta phải từng bước đưa lên bạo lực chính trị và bạo lực

vũ trang.

4- Công tác xây dựng vùng giải phóng.

232

5. Công tác Đảng: phải tăng cường lãnh đạo tư tưởng mà nội dung chủ yếu là làm cho

cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân thấu suốt một cách sâu sắc các vấn đề cơ bản của

cách mạng miền Nam. Tình hình và nhiêm vụ mới, trên cơ sở đó mà bồi dưỡng tinh thần cách

mạng tiến công cách mạng liên tục, tư tường bạo lực, quan điểm quần chúng, đạo đức cách

mạng của Hồ Chủ tịch, xây dựng quyết tâm tạo mọi sự chuyển biến trong công tác tổ chức

nhất là ở cơ sở.

Ngày 10 tháng 12

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về "nắm vững nội dung mới

trong đánh phá bình định, tạo thế tiến công mới .

Đến cuối năm 1973, chính quyền địch tiếp tục lâm vào tình trạng khó khăn về mọi

mặt. Về kinh tế: Ngân sách thâm hụt nặng, đồng tiền liên tục mất giá viện trợ của Mỹ tiếp tục

giảm, các mặt hàng chiến lược như gạo, xăng dầu... giá cả tăng vọt, tệ nạn xã hội phát triển.

Về quân sự, địch tiếp tục ờ thế thua. Chúng tiếp tục thực hiện các cuộc hành quân bình định,

lấn chiếm nhằm cướp lúa, gom dân, tận thu các loại thuế hòng cứu vãn tình hình kinh tế,

chính trị đang bị suy sụp nặng nề của chúng.

Chủ trương của Trung ương Cục miền Nam trong mùa khô 1974 là quyết tâm đánh

bại kế hoạch bình đinh lấn chiếm của địch phải nắm vững nội dung chống cướp lúa gạo gắn

với chống lấn chiếm, giành lúa, giành dân, giành đất, bảo vệ mùa màng ở vùng nông thôn,

đồng thời kết hợp với phong trào đô thị, đấu tranh pháp lí và ngoại giao làm thất bại một

bước kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch, phục hồi một phần quan trọng vùng bị địch lấn

chiếm sau ngày 28-1, giải phóng thôn xã và mở rộng quyền làm chủ của nhân dân.

233

NĂM 1974

Đầu 1974

Thường vụ Trung ương Cục miền ra Chỉ thị về phương hướng nhiệm vụ ngân

sách năm 1974.

Đến năm 1974, cuộc đấu tranh của quân và dân ta ở phía trước được tiến hành nhịp

nhàng với xây dựng vùng giải phóng ở phía sau. Hiện đang có hàng triệu dân bung về ruộng

vườn cũ sản xuất, hàng trăm người hăng hái xây dựng kinh tế, văn hoá vùng giải phóng,

nhiều cơ quan và bộ đội các cấp tích cực sản xuất tự túc lương thực, thực phẩm, do đó đã giải

quyết được bước đầu một phần lương thực trong vùng ta, đồng thời tạo được một số cơ sở vật

chất ban đầu cho các ngành thủ công và công nghiệp nhỏ.

Phương hướng ngân sách trong năm 1974: Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh giành dân,

mở rộng vùng giải phóng, khôi phục và phát triển, kinh tế. Phấn đấu thu đủ, thu đúng trên cả

3 vùng, phát huy khả năng tài chính tại chỗ, đi đôi với cải tiến công tác quản lý kinh tế, tài

chính, chống lãng phí, tham ô, tiết kiệm, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn được chi viện, giành

ưu tiên cho yêu cầu chiến đấu.

Các nội dung cụ thể:

- Thu: Chú trọng bồi dưỡng nguồn thu, phụ thu nông nghiệp là lớn nhất, bảo đảm

động viên từ 10-12% thu nhập quốc dân ở vùng giải phóng, từ 8-10% ở vùng ta làm chủ;

vùng tranh chấp ta mạnh thu từ 5-8%; vùng yếu động viên đóng góp tự nguyện.

Quản lý tốt nguồn chi viện tự hậu phương vào; các đơn vị, cơ quan phần đấu tự túc

lương thực, thực phẩm phải từ 3-6 tháng và nộp 2/3 giá trị sản phẩm thu hoạch, sau khi trừ

chi phí sản xuất.

- Chi theo phương châm: Việc gì dựa vào dân mà làm được thì không chi, việc gì phải

chi thì chi ít mà được nhiều, ra sức phát huy khả năng tự lực và hậu cần tại chỗ".

234

+ Phân phối: giành 70% cho chiến đấu; 10-20% cho hành chính; 5-10% cho giáo dục,

y tế.

- Mức ăn: - bộ đội chiến đấu, huấn luyện là 21kg/tháng.

-bộ đội tuyến sau là 19,5 kg/tháng

-cán bộ hệ dân chính là 17,2 kg/tháng

Ngày 4 tháng 1

Bộ chỉ huy Miền ra Chỉ thị về mở chiến dịch binh địch vận mùa xuân.

Chỉ thị nêu rõ thời cơ tiến hành binh địch vận có rất nhiều, khả năng binh địch vận

của ta rất lớn. Do đó, nhân dịp đầu năm ta mở chiến dịch mùa xuân làm cho binh lính địch

nhận thức rõ: Mỹ-ngụy vi phạm Hiệp đinh Pari là đẩy họ đến chỗ chết, gia đình thêm đau

khổ; hòa bình là có lợi cho chính họ và gia đình họ; các lực lượng vũ trang ta đánh trả họ là

để bảo vệ Hiệp định Pari.

Để thực hiện được mục tiêu trên phải tổ chức điều tra nắm địch thật chặt chẽ, đánh

giá, phân loại các đơn vị, đồn bốt địch thật đúng, đồng thời phải lập kế hoạch triển khai từng

bước, từng thời gian họp lí. Phải chuẩn bị đầy đủ các phương tiện vật chất cần thiết để sử

dụng trong thời gian chiến dịch. Vừa tổ chức địch lấn chiếm, vừa đẩy mạnh các hình thức tấn

công tuyên truyền tạo thành các phong trào thu hút đông đảo quần chúng tham gia.

Bộ chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch binh địch vận từ ngày 15-1-1974 đến hết

ngày 30-6-1974. Trong khoảng thời gian này vừa tấn công trên diện rộng, đồng thời có trọng

điểm, mỗi tháng có 1 cao điểm. Tháng 1 lấy dịp tết Nguyên đán làm đạt cao điểm, tháng 2 lấy

dịp kỷ niệm 1 năm ngày ký Hiệp định Pari, tháng 3 lấy ngày toàn quốc chống Mỹ và ngày

đơn vị Mỹ cuối cùng rút khỏi nước ta v.v...

235

Ngày 18 tháng 4

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về "Phát động hàng triệu quần

chúng đứng lên đánh bại chính sách bình định lấn chiếm, đ ò i thực hiện một miền Nam

hoà bình, độc lập dân chủ, phồn vinh, hoà hợp dân tộc tiến tới hoà bình thống nhất.

Chỉ thị nêu rõ đạt phát động này là nhằm làm cho các chủ trương, chính sách của

Đảng thâm nhập vào quần chúng biến thành hành động cách mạng mạnh mẽ tấn công địch và

xây dựng ta, làm thay đổi tương quan lực lượng tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.

Trước hết, cuộc vận động phải làm cho nhân dân nhận rõ tình hình, nhiệm vụ mới đó

là ta đang thắng, địch đang thua, ta đang gặp nhiều thuận lợi do đó phải đẩy mạnh đấu tranh

đánh bại địch từng bước, giành thắng lợi từng phần. Mặt khác cũng phải cho nhân dân thấy rõ

đau khổ của đồng bào do chính quyền phát xít hiếu chiến gây ra để tăng lòng căm thù địch,

mọi người hướng về chính nghĩa theo cách mạng đấu tranh theo khẩu hiệu: Hoà bình, độc

lập, dân chủ, cải thiện đời sống và hoà hợp dân tộc.

Chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ của mỗi vùng, ứng với điều kiện của từng nơi và quyết định

phát động đạt đầu từ giữa tháng 4 đến tháng 8-1974.

Ngày 3 tháng 5

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "đẩy mạnh sản xuất, thực hành

tiết kiệm giữ vững trật tự trị an, xây dựng cuộc sống mới” .

Sau Hiệp định Pari, tuy địch ra sức phá hoại, đẩy mạnh bình định, lấn chiếm nhưng

trong công tác ổn định đời sống nhân dân, phát triển sản xuất, xây dựng nguồn hậu cần tại

chỗ ta đã đạt được những thành tích tốt bước đầu: "sản xuất được đẩy mạnh và phát triển,

nhân dân ta đã vượt được những khó khăn về lương thực, đời sống nhân dân, cán bộ nhân

viên", bộ đội được ổn định hơn trước, trật tự trị an

236

được củng cố từng bước, chính quyền cách mạng được thành lập đã cố gắng chăm lo đời

sống văn hóa tinh thần, học hành và sức khỏe của nhân dân".

Chủ trương của Trung ương Cục miền Nam:

- Ra sức khuyến khích, giúp đỡ việc đẩy mạnh sản xuất, cấm những gì có hại cho sản

xuất.

- Tổ chức lại và quy đinh việc kinh doanh, giữ trật tự trị an, xây dựng nếp sống lành

mạnh trong vùng giải phóng và căn cứ cách mạng, tổ chức cuộc sống trong cơ quan và bộ

đội, có nề nếp, kiên quyết với gian thương.

- Quản lý chặt chẽ các cửa khẩu, ngăn chặn buôn lậu.

Ngày 4 tháng 5

Thư của đồng chí Lê Duẩn về chỉ đạo những nhiệm vụ cấp bách của Khu VI trong

2 năm 1974-1975.

Mở đầu bức thư, đồng chí nhấn mạnh vị trí và nhiệm vụ chiến lược của Khu VI ". Về

vị trí Khu VI không đông dân nhưng có một vị trí chiến lược rất quan trọng, nó nằm án ngữ

phía Đông và Đông bắc Sài Gòn và cảng Cam Ranh... Từ sau Hiệp định Pari, địch có ý đồ và

đang thực hiện từng bước việc di dân từ Trị-Thiên, Nam Ngãi vào khu VI.

Đồng chí nhấn mạnh đối với ta hiện nay, Khu VI có vị trí quan trọng cũng chủ yếu là

về quân sự. Nhiệm vụ chiến lược của Khu VI phải gắn liền với chiến lược chung của toàn

chiến trường Nam bộ. Do đó không nên đặt Khu VI thành một đơn vị chiến trường cắt rời với

Nam bộ và cũng không nên sát nhập vào Khu VII. Hiện nay, Khu VI cần nỗ lực vươn lên mở

rộng và hoàn chỉnh thế làm chủ miền rừng núi, phối hợp với Khu VII xây dựng căn cứ chiến

lược chung cho cả chiến trường Nam bộ. Về nhiệm vụ cụ thể, trước mắt Khu VI cần giành

dân và đánh phá kế hoạch "bình định" của địch. Phải đặt mạnh vấn đề giành dân ở miền

núi, coi trọng công tác vận động đồng bào

237

các dân tộc ít người. Phải mở từng đợt phá ấp chiến lược phá các khu dồn dân, bung dân ra,

lập làng xóm mới ở hẳn vùng ta. Phải hoàn chỉnh thế làm chủ của ta trên toàn bộ vùng rừng

núi và khẩn trương xây dựng căn cứ. Trong xây dựng căn cứ cần có kế hoạch toàn diện cả về

quân sự, chính trị, kinh tế, đặc biệt chú trọng sản xuất nông nghiệp, giải quyết từng bước vấn

đề lương thực, thực phẩm cho dân tự túc được cho cơ quan, đơn vị đồng thời có dự trữ cho

lực lượng miền đến hoạt động và tiếp nhận lực lượng chi viện từ miền Bắc. Khu VI cũng cần

sử dụng lực lượng tại chỗ có hiệu quả, tránh tiêu hao không cần thiết đồng thời cố gắng tìm

cách bổ sung tại chỗ và hết sức tiết kiệm vũ khí. Phải nghiên cứu cách đánh của lực lượng

quân sự địa phương cho hợp với điều kiện cụ thể của chiến trường, đảm bảo đạt

Đồng chí đề nghị Khu ủy cần nghiên cứu bố trí để chỉ đạo cả 3 vùng, trong đó chỉ đạo

thích đáng việc làm chủ ở miền núi, mở rộng và xây dựng căn cứ, coi đây là nhiệm vụ quan

trọng hàng đầu. Phải Làm rất khẩn trương tích cực để trong năm tới có thể đón bộ đội chủ lực

từ ngoài vào và kịp nắm thời cơ giành thắng lợi.

Ngày 31 tháng 5

Nghị quyết Hội nghị Quân ủy Miền về chỉ đạo công tác tiến công quân sự.

Hội nghị Quân ủy Miền (mở rộng) họp từ 27-5 đến 31-5-1974 đã ra Nghị quyết chỉ

đạo công tác tấn công địch như sau:

- Về tình hình ta và địch nghị quyết chỉ rõ: "Thế và lực cách mạng miền Nam đã tạo

nên những chỗ mạnh rất cơ bản đang trên đà phát triển có đầy đủ điều kiện và khả năng đưa

cách mạng tiến lên từng bước vững chắc. Mỹ-ngụy ngày càng khó khăn hơn và đang trên đà

đi xuống, xu thế phát triển của tình hình ngày càng có lợi cho ta, hơn".

238

- Nghị quyết tiếp tục khẳng định con đường giành thắng lợi của cách mạng miền Nam

là con đường bạo lực dựa trên lực lượng chính trị và lực lượng quân sự.

- Về tính chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Nghị quyết nhất trí với kết luận của

Quân ủy Trung ương là: "vừa là một cuộc đấu tranh một mất, một còn giữa các tầng lớp nhân

dân Việt Nam với tập đoàn thống trị tư sản mại bản quan liêu quân phiệt phát xít tay sai Mỹ

để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Do đó nó vừa mang tính

chất giai cấp sâu sắc, vừa mang tính chất dân tộc. Vì vậy cuộc đấu tranh này là cuộc đấu

tranh giải phóng dân tộc vừa là cuộc nội chiến giữa lực lượng cách mạng do Đảng ta lãnh

đạo và tập đoàn phản động do đế quốc M ỹ giúp đỡ.

Nghị quyết xác định nhiệm vụ trung tâm số 1 là đánh phá bình định, lấn chiếm giành

dân, giành quyền làm chủ của dân. Trọng điểm là ở đồng bằng sông Cửu Long và vùng ven

Sài Gòn.

- Đối tượng tác chiến của ta: đánh tất cả các thứ quân, các lực lượng kìm kẹp của

địch. Trong 3 năm tới phải đánh suy sụp một bước quan trọng lực lượng địa phương và các

lực. lượng kìm kẹp của địch để tạo điều kiện tiến lên tiêu diệt và đánh sụp đội quan chủ lực

của địch.

- Chỉ tiêu trong thời gian 1974-1976:

1) Diệt và làm tan rã khoảng 1/3 lực lượng phòng vệ dân sự; 1/4 bảo an, dân vệ; 1/5

chủ lực địch.

2) Giải phóng 1,6-1,8 triệu dân; 3 triệu đến 3,5 triệu dân tranh chấp.

3) Phát triển 10-12 vạn du kích; lấy 6000-7000 tân binh bổ sung vào bộ đội địa

phương.

239

Ngày 9 tháng 8

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về việc tích cực hoàn thành kế hoạch năm

1974 và phương hướng nhiệm vụ yêu cầu công tác cấp bách năm 1975.

Tình hình 6 tháng đầu năm 1974: ta đã giành thắng lợi to lớn toàn diện và vững chắc

đã đánh bại kế hoạch mùa khô cướp lúa gạo của địch, đẩy lùi và đánh bại một bước quan

trọng kế hoạch bình định lấn chiếm của chúng... Thế và lực của ta phát triển vững chắc mạnh

hơn khi ta bước vào mùa khô 1973-1974, mạnh hơn cả lúc ta chuẩn bị tấn công năm 1968 và

1972. Ngụy quân và ngụy quyền tuy chưa bị sụp đổ nhưng khó khăn ngày càng nhiều hơn về

mọi mặt và đang trên đà đi xuống cả về thế và lực, cả về số lượng và chất lượng.

Phương hướng nhiệm vụ yêu cầu và công tác cấp bách trong 6 tháng cuối năm 1974:

- Đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định lấn chiếm của địch nhất là trên chiến trường

đồng bằng sông Cửu Long và ven đô, cố gắng trong cuối năm 1975 giải phóng và làm chủ

khoảng 4 triệu dân, cố gắng trong mùa mưa và mùa khô 1974-9175 đạt phần lớn chỉ tiêu.

- Tiêu diệt nhiều sinh lực địch kể cả chủ lực, bảo an, dân vệ và phòng vệ dân sự.

- Làm chuyển biến một bước quan trọng vùng yếu, tiến tới xoá một nửa số ấp trắng

hiện nay, đưa các ấp này có cơ sở quần chúng tiến tới có chi bộ.

- Đưa phong trào các đô thị tiến lên một bước mới xây dựng được các cơ sở ở các địa

bàn và vị trí suy yếu, phát huy được lực lượng thứ 3, tranh thủ được các lực lượng đối lập,

hoặc quần chúng các tôn giáo, sử dụng tốt mâu thuẫn nội bộ địch kết hợp với các mũi tấn

công khác ở nông thôn tạo sức mạnh lật đổ Thiệu.

240

Ngày 18 tháng 9

Thư của Bộ chính trị và đồng chí Lê Duẩn gửi Trung ương Cục, Khu V , Khu Trị

Thiên, Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng.

Để tập trung đánh giá tình hình và chỉ đạo sát phong trào cách mạng miền Nam, Bộ

chính trị, đồng chí Lê Duẩn đã có ý kiến nhận định tình hình miền Nam như sau: "Hiện nay

so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam đã thay đổi một bước có lợi cho ta nhưng chưa

đến lúc Mỹ ngụy phải thay đối chính sách thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam mà chúng còn

rất ngoan cố giành giật quyết liệt với ta trên chiến trường Vấn đề đặt ra cho Mỹ ở miền Nam

là tiếp tục chiến tranh như hiện nay hay quay lại giải pháp chính trị. Nếu tiếp tục chiến tranh

thì Mỹ ngụy càng thất bại và vấp thêm nhiều, khó khăn không lối thoát. Còn quay lại giải

pháp chính trị thì phải bám lấy Hiệp đỉnh Pari thực hiện phần nào chứ không còn lối thoát..

Nhưng bất kể hoàn cảnh nào cuối cùng con đường tiên tới thắng lợi của cách mạng miền

Nam vẫn là con đường bạo lực. Hai khả năng phát triển của cách mạng miền Nam gắn liền

với nhau, ta phải luôn chủ động chuẩn bị cho cả 2 để tùy cơ ứng biến, không bị động, không

ảo tưởng..."

Bộ Chính trị nhấn mạnh: Trong năm 1975 là một năm có nhiều sự chuyển biến quan

trọng cả về quân sự, chính trị, ngoại giao, ta phải giành cho được những thắng lợi hơn nữa và

làm cho địch thất bại nặng nẻ hơn nữa, tạo ra một sự thay đổi quan trọng về so sánh lực lượng

giữa ta và địch. Lúc đó, căn cứ vào thực tiễn tình hình mà ta tùy cơ ứng biến theo những khả

năng mà ta dự kiến để thắng địch một cách căn bản cả 3 mặt quân sự, chính trị, ngoại giao...

- Lúc này cũng cần cánh giác với các phần tử cánh hữu thân Mỹ trong tôn giáo như:

Phật giáo, công giáo với khẩu hiệu đòi hòa bình, tự do, báo chí, kể cả đòi Thiệu "'ra đi", ý đồ

của họ là giương cao ngọn cờ hòa bình hòa giải dân tộc để thu hút quần chúng nắm quyền chi

phối lực lượng thứ 3...

241

Với ta lúc này phải tích cực xây dựng tổ chức trong phong trào quần chúng và nắm

lấy quần chúng là quan trọng nhất. Đưa quần chúng của ta vào các phong trào để tập hợp

quần chúng. Phải lựa chọn cán bộ cốt cán ở bên trên và bên dưới để hình thành và nắm vững

mặt trận của lực lượng thứ 3, cô lập lực lượng xấu giả danh lực lượng thứ 3.

Ngày 10 tháng 10

Thư đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng về những ý kiến kết luận đợt 1

của Hội nghị Bộ Chính trị họp từ 30-9-1974 đến 8-10-1974 hạ quyết tâm giải phóng miền

Nam trong năm 1975-1976.

- Kết luận thứ nhất là Bộ chính trị nhất trí hạ quyết tâm hoàn thành sự nghiệp cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đây là một sự kiện vô cùng trọng đại để tiến tới

kết thúc cuộc chiến tranh cách mạng kéo dài gần ba mươi năm.

- Vấn đề thứ hai là ý đồ chiến lược của ta sau ký Hiệp định Pari là giữ nguyên thế và

lực của mình ở miền Nam để tiến lên tiếp tục tiến công địch, và đối với ta điều quan trọng

của Hiệp định Pari không phải là ở chỗ thừa nhận hai chính quyền, hai Quân đội, hai vùng

kiểm soát tiến tới thành lập chính phủ 3 thành phần mà điều mấu chốt là Mỹ phải ra đi còn

quân ta thì ở lại, hành lang Nam Bắc vẫn nối liền, hậu phương gắn với tiền phương thành một

dải liên hoàn thống nhất thành thế trận tiến công của ta vẫn vững.

- Vấn đề thứ ba là đánh giá thời cơ, Bộ Chính trị nhận định: "lúc này chúng ta đang có

thời cơ", hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta phải biết nắm lấy sự

nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn... ngoài thời cơ này không có thời cơ nào

khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy được các thế lực xâm

lược hồi phục, bọn bành trướng mạnh lên thì tình hình sẽ phức tạp vô cùng... về chớp thời cơ

này phải làm nhanh, làm gọn, làm triệt để nhưng phải khôn khéo. Có như thế mới tạo được

bất ngờ không kịp trở tay. Về quyết tâm, chúng ta đã nhất trí cần thiết phải làm và nhất định

làm được.

242

- Khi hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam, đồng chí nhấn mạnh phải thấy

hết ý nghĩa trọng đại của nó, nhưng đồng thời phải thấy hết những khó khăn, phức tạp mà kẻ

thù có thể gây ra... Song điều cần nhấn mạnh là phải nhận rõ những khả năng và lực lượng to

lớn mà chúng ta cần và có thể huy động được để tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng

trong cuộc đọ sức cuối cùng này.

Sức mạnh của chúng ta trước hết là sức mạnh làm chủ của nhân dân, sức mạnh của cả

nước đánh giặc từ Bắc đến Nam hậu phương đến tiền tuyến, cách mạng dân tộc dân chủ nhân

dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc quyện với nhau là một nhưng sức mạnh

lớn nhất, quyết định nhất là ở miền Bắc, ở hậu phương... sức mạnh của chúng ta là sức mạnh

của chiến tranh nhân dân... cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam là một cuộc

chiến tranh chống ngoại xâm đồng thời mang một số yếu tố nội chiến... ngay từ bây giờ phải

tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ

nhất để đánh mạnh, thắng nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong hai năm 1975-1976.

Cuối tháng 11

Trung ương Cục miền Nam và Bộ tư lệnh miền quyết định mở đợt hoạt động mùa

khô 1974 -1975.

Từ ngày 30-9-1974 đến ngày 8-10-1974 Bộ chính trị Trung ương Đảng đã họp và

đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ mới. Bộ Chính trị nhận xét: "chúng ta đã kết thúc thời

cơ chiến lược chín muồi, đã tạo nên những yếu tố chiến lược quan trọng để tiến lên giành

thắng lợi hoàn toàn". Hội nghị đã nhất trí thông qua phương án giải phóng miền Nam trong

vòng 2 năm 1975 - 1976.

Cuối tháng 11-1974, Trung ương Cục và Bộ tư lệnh miền quyết định mở đợt hoạt

động mùa khô 1974-1975. Nhiệm vụ chính là: "hoàn chỉnh khu giải phóng cách mạng nối

liền hành lang chiến lược từ biên giới xuống bờ biển phía Đông, xây dựng thành căn cứ địa

vững chắc liên hoàn, tạo thế bao vây Sài Gòn, giải phóng đường 14 và dự kiến giải phóng

Phước Long khi có điều kiện. Trong qua trình tấn còng sẩn sàng đánh bại mọi cuộc hành

quân xâm chiếm, tái chiếm của địch vào vùng giải phóng và vùng mới mở. Riêng khối chủ

lực

243

đứng trên địa bàn quân khu 7 yêu cầu đánh những trận thoi động, tiêu diệt gọn từng đơn vị

chủ lực địch.

Chiến dịch mùa khô 1974-1975 được chia làm 2 đợt:

Đợt 1 từ tháng 12-1974 đến tháng 2-1975 chủ yếu trên hướng đồng bằng sông Cửu

Long.

Đợt 2 từ tháng 3-1975 tập trung trên hướng lộ 14 Phước Long và phối hợp với toàn

miền.

Đầu tháng 1-1975 kế hoạch đánh chiếm tiền khu Phước Long được Bộ chính trị chấp

thuận. Quân ta bắt đầu tiến công từ này 1-1-1975 đến 19 giờ ngày 6-1-1975 đã đánh chiếm và

giải phóng hoàn toàn thị xã Phước Long. Lần đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ ta giải

phóng hoàn toàn 1 tỉnh do địch kiểm soát. Chiến thắng Phước Long góp phần thên thực tiễn

sinh động để trung ương Đảng nhận định đánh giá tình hình khả năng Mỹ ngụy, đề ra chủ

trương chiến lược giành thắng lợi hoàn toàn.

Ngày 8 tháng 11

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về phương hướng nhiệm vụ xây

dựng kinh tế - văn hoá ở các vùng giải phóng và khu căn cứ.

Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch xây dựng kinh tế văn hoá năm 1974 chỉ thị nêu

rõ: qua một năm triển khai thực hiện ta đã khắc phục những khó khăn và thu được nhiều kết

quả tốt, tạo chỗ dựa vững chắc cho công tác tấn công phía trước, làm cho quần chúng ở vùng

giải phóng và cả vùng tranh chấp, vùng yếu thêm tin tưởng và ngày càng hướng về cách

mạng. Nhưng đây mới chỉ là những kết quả bước đầu và cũng chỉ mới làm được ở 1 số khu

căn cứ lớn.

- Phương hướng năm 1975: phải giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, hoàn chỉnh

dần các khu căn cứ lớn tạo bàn đạp và chỗ dựa

244

- Phương châm:

+ Xây dựng phía sau phải gắn chặt với tấn công phía trước; giải phóng đến đâu, xây

dựng ngay đến đó trên tinh thần quyết xây và quyết giữ, sản xuất đi đôi với chiến đấu và sẵn

sàng chiến đấu.

+ Xây dựng toàn diện theo nội quy chế độ dân chủ nhân dân với quy mô rộng hơn và

tốc độ nhanh hơn năm 1974.

+ Đẩy mạnh sản xuất đi đôi với thực hành, tiết kiệm, chống tham ô lãng phí, xây dựng

đến đâu quản lý tốt đến đó, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, triệt để khai thác khả năng sức

người, sức của và tài nguyên tại chỗ, đồng thời biết tranh thủ và sử dụng tốt nguồn viện trợ

của miền Bắc.

+ Nắm vững chủ trương lớn về giải quyết các vấn đề về nhân lực, vốn và kỹ thuật.

- Về mục tiêu trong năm 1976, bản chỉ thị nêu rõ 8 lĩnh vực về kinh tế, trong đó quan

trọng nhất là lĩnh vực nông nghiệp. Ngoài "ra, chỉ thị còn xác định cần đẩy mạnh điều tra cơ

bản, lập quy hoạch sơ bộ và phân vùng nông nghiệp và vấn đề xây dựng văn hóa, giáo dục, y

tế.

NĂM 1975

Kết luận đợt hội nghị Bộ Chính trị bàn về tình hình và nhiệm vụ cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước.

Từ ngày 8-12-1974 đến ngày 7-1-1975, Bộ chính trị họp (đợt 2) bàn về tình hình và

nhiệm vụ công cuộc chống Mỹ, cứu nước. Hội nghị đã thảo luận ba vấn đề cụ thể: Lực lượng

so sánh ta - địch diễn ra từ sau Hiệp định Pari đến lúc này; những yêu cầu phải đạt của kế

hoạch 2 năm 1975-1976 và nhiệm vụ cụ thể của từng chiến trường. Ngày 7-1-1975, đồng chí

Lê Duẩn đã gửi vào các đảng bộ miền Nam nội dung cơ bản của Hội nghị:

245

- Về so sánh giữa ta và địch, Hội nghị cho rằng thế và lực mới của ta được thể hiện rõ

trên các mặt: Một là, ta giành quyền chủ động tiến công địch trên khắp các chiến trường; Hai

là, ta đã củng cố và hoàn chỉnh thế chiến lược liên hoàn từ Bắc vào Nam; Ba là , ta đã xây

dựng và tăng cường các binh đoàn chủ lực cơ động; Bốn là, ta đã cải thiện được tình hình

nông thôn; Năm là , phong trào đấu tranh chính trị đòi hoà bình, độc lập, hoà hợp dân tộc đã

được phát động. Trong khi đó về phía địch tuy chúng có những chỗ mạnh nhất định, nhưng

thế của chúng ngày càng xấu, lực của chúng ngày càng suy.

- Về nhiệm vụ, kế hoạch tác chiến: nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch

tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống

Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ

quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đạt được nhiệm vụ đó, phải tạo ra sức mạng

tổng hợp, kết hợp quân sự với chính trị, khởi nghĩa với chiến tranh, phối hợp "3 mũi giáp

công", ba vùng chiến lược, tiêu diệt địch để làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch, tiến tới tổng

tiến công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn. Đánh

trận cuối cùng này là nhiệm vụ của quân và dân cả nước, trong đó, khối chủ lực miền và các

binh đoàn chủ lực từ các chiến trường khác đến đóng vai trò quyết định.

- Về kế hoạch hoạt động năm 1975:

1- Chiến trường Nam Bộ: đánh phá "bình định", đánh quân chủ lực ngụy, vây ép

thành thị.

2- Chiến trường khu V, Tây Nguyên: đánh chủ lực ngụy ở Tây Nguyên mở thông"

hành lang nối Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, để quân chủ lực của ta tiến vào cùng bộ đội

Miền tiến đánh Sài Gòn. Mở đầu đánh chiếm Buôn Ma Thuật, thọc xuống Tuy Hoà, Phú Yên,

cắt đồng bằng khu V làm đôi, một hướng tiến vào vây ép Sài Gòn.

3- Chiến trường Trị - Thiên: đánh chiếm đồng bằng, cắt Huế với Đà Nẵng.

246

Kế hoạch tiếp theo cho năm 1976 sẽ do kết quả thực hiện kế hoạch thực hiện năm

1975 quyết định. Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975.

Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ làm hết sức mình để tăng cường lực lượng, bảo

đảm đầy đủ nhu cầu về vật chất, kỹ thuật cho chiến trường, tuyển cho được 30 vạn tân binh,

động viên toàn quân, toàn dân nêu cao ý chí "tất cả cho tiền tuyến", tất cả để đánh thắng.

Khéo sử dụng vũ khí đấu tranh ngoại giao, làm sáng tỏ chính nghĩa của ta, ngăn chặn những

âm mưu thủ đoạn can thiệp, phá hoại của Mỹ và bọn phản động quốc tế.

Ngày 21 tháng 1

Trung ương Cục miền Nam ra chủ trương về "chính sách ruộng đất ở miền Nam

Việt Nam"

Trong quá trình chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ cách mạng dận tộc, dân chủ, Trung ương

Cục miền Nam luôn gắn chặt nhiệm vụ đấu tranh cách mạng với chủ trương thực hiện "người

cày có ruộng".

Các nghị quyết 1, 2, 3, 4 của Trung ương Cục miền Nam, nghị quyết tháng 8-1965 và

chỉ thị số 5C của Thường vụ Trung ương Cục đều nêu rõ các chủ trương giải quyết vấn đề

ruộng đất, tô tức và cương lĩnh chính trị của MTDTGP miền Nam.

Qua nhận định đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ mang lại ruộng đất cho nông

dân, Trung ương Cục đánh giá: "cho tới năm 1965 nông dân ta đã giành được hầu hết số

ruộng đất trong kháng chiến chống Pháp, đưa tổng số ruộng đất giành được là 1,5 triệu ha.

(Riêng ở B2 có trên 1.350.000 ha). Nếu cả ruộng đất riêng của người dân thì tổng số là

23.000.000 ha, chiếm 70% diện tích canh tác toàn miền Nam. Từ sau cuộc tổng tiến công

chiến lược năm 1972 và sau ký Hiệp định Pari, vùng giải phóng được củng cố và mở rộng.

Giải phóng tới đâu, cách mạng đã tiến hành chia cấy ruộng đất cho nông dan tới đó và giúp

đỡ nông dân đẩy mạnh sản xuất, mức tô trên phần ruộng đất giảm còn 15%.

247

Về phương hướng tiếp tục giải quyết vấn đề ruộng đất, Trung ương Cục miền Nam

chủ trương: "Xoá bỏ triệt" để toàn bộ quyền chiếm hữu về ruộng đất của tập đoàn thống trị tư

sản mại bản quan liêu quân phiệt phát xít tay sai của đế quốc Mỹ. Xóa bỏ mọi hình thức bóc

lột thực dân mới và phong kiến thừa nhận và ổn định quyền sở hữu về ruộng đất của nông

dân, ra sức hướng dẫn giáo dục nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, hợp tác tương trợ

bằng những hình thức thích hợp với từng vùng, từng bước cải tạo quan hệ sản xuất ở nông

thôn, đẩy mạnh phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của nông dân, phục vụ tấn công phía

trước, xây dựng cơ cấu kinh tế, quân sự, chính trị theo nội dung cách mạng của chế độ dân

chủ nhân dân; từng bước xây dựng và phát triển thành phần kinh tế XHCN.

Để thực hiện được phương hướng trên, trước mắt đẩy mạnh cuộc đấu tranh đánh bại

chính sách bình định lấn chiếm, giải phóng xã ấp, giải phóng nông thôn, tiến lên đánh đổ tập

đoàn thống trị tay sai của Mỹ.

Về nội dung chính sách ruộng đất, Trung ương Cục miền Nam nêu rõ:

Đối tượng được chia cấy ruộng đất bao gồm: nông dân không có ruộng hoặc thiếu

ruộng, gia đình binh sĩ ngụy quyền là nông dân lao động không có ruộng hoặc thiếu ruộng;

binh sĩ ngụy quyền phải trở về với nhân dân làm ăn lương thiện hoặc có hành động binh biến

phản chiến trở về với cách mạng; những mười lao động khác ở nông thôn hoặc đô thị muốn

về nông thôn làm ăn cũng được chia cấy.

Cách chia cấy theo bình quân nhân khẩu nam nữ như nhau trên cơ sở nguyên canh, ưu

tiên gia đình liệt sĩ, thương binh bộ đội, cán bộ, những người có công với cách mạng.

Việc giải quyết xáo trộn ruộng đất trên cơ sở "lá lành đùm lá rách" bảo đảm đoàn kết

nội bộ nông thôn.

Gần tới giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến, những chủ trương về chính sách

ruộng đất có tác động động viên rất to lớn sức mạnh của nông dân vào việc đóng góp sức

người sức của cho cách mạng tiến tới hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam.

248

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo việc tập trung tấn công công binh

vận trong dịp tết Ất Mão.

Trung ương Cục miền Nam chủ trương ngoài các điểm hiện đang tập trung tấn công

cần mở rộng thêm nhiều trọng điểm mới. Phải triển khai quy mô thật sâu rộng công tác tuyên

truyền vận động. Cần sử dụng mọi hình thức như truyền đơn, loa phong thành, thơ tay... Các

lực lượng vũ trang tuyên truyền phải đẩy mạnh hoạt động, phát động và tổ chức lực lượng

quần chúng nhất là các gia đình binh sĩ đi tuyên truyền lôi kéo chồng con và kéo vào các hậu

cứ, các đồn bốt tuyên truyền, vận động binh lính trờ về nhà ăn tết. Trong tuyên truyền, vận

động cần đặc biệt chú ý tới các sĩ quan ngụy ở các tỉnh, huyện. Cần nắm lại số sĩ quan đang

chỉ huy chi khu, tiểu khu và những đơn vị ở địa phương và những người gốc địa phương đang

ở nơi khác để tổ chức tấn công.

Trung ương Cục miền Nam nhấn mạnh: "Ngụy quân, ngụy quyền đang trên suy sụp

nhanh, các cấp ủy phải triệt để khai thác thuận lợi này chỉ đạo công tác binh vận chặt chẽ hơn

nữa để thực hiện tốt đánh tiêu diệt và làm tan rã lớn quân đội địch"

Ngày 25 tháng 2

Thường vụ Trung ương Cục ra chỉ thị về chuẩn bị kế hoạch tấn công đợt 2.

Tình hình sau đợt I của kế hoạch mùa khô năm 1974-1975: Ta đã chuyển lên thế tiến

công tổng họp rất lớn, giải phóng được nhiều vùng nông thôn rộng lớn, mở rộng vùng tranh

chấp, áp sát các trục đường giao thông và đô thị tạo thế bao vây chia cắt địch trong mỗi địa

bàn. Về phía địch, chúng đã bị thất bại liên tiếp, địa bàn kiểm soát bị thu hẹp, quân số thiếu

và ngày càng suy yếu. Tình hình đó đã mở ra triển vọng để ta đưa lên quy mô tốc độ của sự

phát triển mới của phong trào và sự suy sụp nhanh chóng của địch.

249

Chỉ thị nhấn mạnh việc xây dựng kế hoạch và chỉ đạo kế hoạch đợt 2 phải thật toàn

diện, liên tục và nâng cao hơn trước, trong đó phải coi trọng chỉ đạo thắng lợi ở cả trọng điểm

và các vùng diện thắng lợi cả quân sự, chính trị và kinh tế; trong tấn công quân sự phải đánh

điểm tiêu diệt cho tốt...

Việc tổ chức chỉ đạo:

- Mỗi cấp uỷ tùy theo tình hình và yêu cầu cụ thể để tổ chức ban chỉ đạo chỉ huy tổng

hợp.

- Cấp ủy và ban chỉ đạo tổng hợp phải nắm và chỉ đạo kịp thời các mặt và các vùng

trong phạm vi trách nhiệm, phải linh hoạt, chủ động trong tình hình phát triển tấn công thuận

lợi để giành thắng lợi lớn.

- Phải phát động một phong trào thi đua rộng lớn động viên mọi lực lượng thi đua tiêu

diệt địch, động viên phong trào xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng

tỉnh...

Ngày 24 tháng 3

Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "về xây dựng vùng giải phóng và

khu căn cứ trong tình hình hiện nay".

Chỉ thị nêu rõ: "tình hình mới không cho phép ta chần chừ, do dự trong vấn đề xây

dựng vùng giải phóng và khu căn cứ. Chần chừ, do dự là hạn chế thắng lợi, bỏ lỡ thời cơ".

Nội dung xây dựng toàn diện vùng giải phóng và khu căn cứ:

- Xây dựng chính quyền, chi bộ và các đoàn thể quần chúng.

- Xây dựng lực lượng dân quân du kích và lực lượng an ninh để cùng với lực lượng

chính trị quét sạch các lực lượng phản động còn lại.

- Ổn định đời sống nhân dân, đẩy mạnh sản xuất.

250

- Tổ chức cơ sở y tế, văn hóa, giáo dục cần thiết phục vụ nhân dân.

- Sau khi có chính quyền lâm thời một thời gian phải đi vào bầu cử xây dựng chính

quyền chính thức.

Chỉ thị nêu rõ 7 việc phải làm ngay của huyện giải phóng và 5 việc làm cho tỉnh giải

phóng mạnh. Chỉ thị nhấn mạnh, tỉnh là đơn vị chiến lược do đó phải có kế hoạch xây dựng

toàn diện về mọi mặt. Chỉ thị đề ra các nhiệm vụ cụ thể về xây dựng chính trị, quốc phòng,

kinh tế và văn hóa để các cấp triển khai thực hiện.

Ngày 29 tháng 3

Nghị quyết đặc biệt của Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ 15 về chủ

trương giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Trước những thắng lợi to lớn của quân và dân miền Nam ở Tây Nguyên và vùng

duyên hải miền Trung, thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến. Để chỉ đạo kịp thời

cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, ngày 29-3-1975 Hội nghị

Trung ương Cục miền Nam lần thứ 15 đã ra Nghị quyết đặc biệt.

1. Nghị quyết đánh giá đặc điểm tình hình: Tình thế chiến lược mới đã xuất hiện, cán

cân lực lượng đã thay đổi hẳn. Ta đang ở thế áp đảo, địch ở thế suy sụp tan rã lớn. Thời cơ

chiến lược để tiến hành cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín

muồi: "Chúng ta phải nhanh chóng, táo bạo phát triển tiến công dồn dập giành thắng lợi hoàn

toàn với những nỗ lực phi thường một ngày bằng hai mươi năm:.

Nghị quyết cho rằng, nếu có xuất hiện một tình hình về đấu tranh ngoại giao thì chỉ để

tạo thuận lợi, tạo sức mạnh thêm cho quân dân ta giành thắng lợi hoàn toàn.

2. Nhiệm vụ trực tiếp khẩu hiệu hiện nay là: "Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn

dân tập trung cao nhất mọi sức mạnh tinh thần và lực lượng của mình, phát huy cao độ sức

mạnh tổng hợp ba mũi

251

giáp công, ba thứ quân, ba vùng, vùng lên tổng công kích tổng khởi nghĩa, nhanh chóng đánh

sụp đổ toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền, giành lại toàn bộ chính quyền về tay nhân dân với khí

thế tấn công quyết liệt, thần tốc, táo bạo và quyết giành toàn thắng, giải phóng xã mình,

huyện mình, tỉnh mình và toàn miền Nam".

Nghị quyết nhấn mạnh phải kịp thời chuyển nhận thức theo phương hướng nhiệm vụ

mới; phải tranh thủ thời gian, coi thời gian lúc này là kế hoạch, về kế hoạch phát triển tấn

công và xây dựng lực lượng, Nghị quyết xác định: "phải tập trung từng giờ, từng ngày, từng

tháng từ đầu tháng 4 này, nơi nào sẵn sàng vùng lên ngay cướp chính quyền, không đợi chờ

lực lượng chủ lực, cứ như thế liên tục tấn công và phát triển cho đến toàn thắng.

Ngoài ra Nghị quyết còn đề ra nhiệm vụ tiếp thu quản lý vùng mới giải phóng và công

tác chỉ đạo thực hiện.

Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng về thống nhất ý kiến đánh giá

tình hình và kịp thời hành động.

Đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh: tình hình chuyển biến mau lẹ. Cuộc cách mạng miền

Nam đang đứng trước nguy cơ sụp đổ nhanh chóng cả về quân sự và chính trị. Đồng chí nhất

trí với đánh giá của Trung ương Cục miền Nam là: lúc này cần hành động hết mức kịp thời,

kiên quyết và táo bạo. Để thực hiện được mục tiêu chiến lược để ra phải mạnh bạo tăng thêm

lực lượng thực hiện chia cắt và bao vây chiến lược phía Tây Sài Gòn ở vùng Mỹ Tho, Tân

An. Đồng chí nhấn mạnh: Trên thực tế, có thể coi chiến dịch giải phóng Sài Gòn bắt đầu từ

đây.

Ngày 30 tháng 3

Điện số 340 của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam gửi các Khu uỷ, tỉnh uỷ về

thực hiện kế hoạch giải phóng miền Nam.

Để kịp thời "chỉ đạo" cuộc tổng tiến công và nổi dậy theo tinh thần Nghị quyết đặc

biệt của Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần

252

thứ 15, ngày 30-3-1975 Thường vụ Trung ương Cục đã gửi điện chỉ rõ: Đây là thời kỳ không

phải chỉ giải phóng nông thôn mà giải phóng cả thị xã, thành phố, giải phóng cả khu; tỉnh

mình. Các khu ủy, tỉnh ủy phải phóng tay hết mức, chỉ đạo khởi nghĩa bằng tất cả khả năng

của địa phương, không rụt rè, không chờ đợi, mạnh dạn, táo bạo phát động quần chúng nổi

dậy khởi nghĩa giải phóng địa phương của mình. Các khu ủy và tỉnh ủy chỉ đạo chặt lực

lượng tập trung của mình táo bạo đánh các điểm then chốt. Với việc phóng tay phát động

quần chúng nổi dậy khởi nghĩa và tấn công táo bạo, phải gấp rút xây dựng lực lượng về mọi

mặt: quân sự, chính trị thành sức mạnh liên tiếp tấn công địch. Mỗi tỉnh, huyện phải tổ chức

được thêm nhiều tiểu đoàn và đại đội nhân khí thế nổi dậy của quần chúng.

Bức điện nhấn mạnh: cần nhận rõ lúc này là lúc tình hình một ngày phát triển bằng 20

năm lúc cách mạng phát triển bình thường. Chần chừ do dự, rụt rè không dám quyết liệt tấn

công hiện nay là có tội với cách mạng.

Ngày 1 tháng 4

Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi các đồng chí Phạm Hùng, Lê Đức Thọ và Văn Tiến

Dũng về chỉ đạo cuộc quyết chiến chiến lược xuân 1975.

Sau cuộc họp Bộ chính trị ngày 31-3-1975, đồng chí Lê Duẩn đã gửi ngay các nội

dung chỉ đạo của Bộ chính trị vào mặt trận miền Nam.

Bộ Chính trị nhận định:

1. Cuộc tổng tiến cóng chiến lược của ta trên thực tế đã bắt đầu với việc đánh chiếm

Tây Nguyên và trong một thời gian rất ngắn đã giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn.

Qua những chiến thắng đó, các lực lượng vũ trang ta đã lớn mạnh vượt bậc, quân chủ lực

trong một thời gian ngắn, đã tăng lên gấp bội; có sức cổ động khắp các chiến trường.

Bộ chính trị nhận định: về chiến lược, về lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức

mạnh áp đảo, địch đang đứng trước nguy cơ sụp

253

đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra hoàn toàn bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được

tình thế ngụy. Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn

phát triển nhảy vọt mà thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn - Gia Định đã

chín muồi. Từ giờ phút này trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt

đầu.

2. Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ "một ngày bằng 20 năm". Do đó,

chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy,

kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và

kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm, phải hành động "thần tốc, táo bạo, bất ngờ",

phải tiến công ngay lúc địch hoang mang, suy sụp. Phát huy sức mạnh của 3 đòn chiến lược,

kết hợp tiến công và nổi dậy, từ ngoài đánh vào, từ trong đánh ra. Trên từng hướng và trong

từng trận, phải tập trung lực lượng áp đảo, tiêu diệt gọn, làm tan rã nhanh quân địch, tận dụng

thời cơ và thuận lợi mới mà dồn dập tiến công, phát triển thắng lợi.

3. Để cho kịp thời gian phải lập tức vạch kế hoạch hành động táo bạo với lực lượng

sẵn có tại chiến trường miền Đông, không nên chờ lực lượng tăng cường (quân đoàn 3 từ Tây

Nguyên xuống và quân dự bị vào), đồng thời cũng cần tránh điều quân không hợp lý, làm ảnh

hưởng tới chiến dịch.

4. Bộ chính trị quyết định thành lập bộ chỉ huy và Đảng uỷ mặt trận Sài Gòn để tập

trung, thống nhất cao độ sự lãnh đạo và chỉ đạo.

5. Bộ chính trị tập trung chỉ đạo toàn diện trong toàn quân, các chiến trường, các

ngành, các ấp để bảo đảm cho trận quyết chiến lịch sử toàn thắng.

Ngày 1 tháng 4

Chỉ thị 04 của Trung ương Cục miền Nam về chỉ đạo sát cuộc tiến công và nổi dậy.

Tiếp theo Nghị quyết đặc biệt của Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ XV và

Điện số 340, ngày 01-4-1975, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam tiếp tục ra chỉ thị 04

nhằm chỉ đạo sát sao

254

công cuộc tổng tiến công và nổi dậy. Bản chỉ thị nhấn mạnh một số vấn đề cấp bách về công

tác chính trị tư tưởng và công tác tổ chức:

1. Phải làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức được rằng đây là lúc cách

mạng nước ta có thời cơ thuận lợi nhất để đánh bại hoàn toàn kẻ địch. Trước thời cơ chiến

lược này, nếu chần chừ do dự, bỏ lỡ thời cơ thì không chỉ là một khuyết điểm, mà còn là một

sai lầm lớn, là có tội. Trên cơ sở nhận thức ấy mà phát huy cao độ tính năng động sáng tạo,

nhạy bén, linh hoạt, kịp thời trong chỉ đạo thực hiện để có ý thức tổ chức kỷ luật cao trong

chấp hành mệnh lệnh và nghị quyết, chỉ thị của Đảng.

2. Củng cố nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong tình hình và

nhiệm vụ mới của cách mạng.

3. Tăng cường sự lãnh đạo thống nhất, tập trung của các cấp ủy đảng trong chỉ đạo tấn

công quân sự và đẩy mạnh cao trào khởi nghĩa của quần chúng. Các cấp uy đảng phải sửa đối

ngay tác phong công tác và lề lối làm việc để mọi việc được cụ thể, thiết thực, nhanh chóng

và có sự nhất trí cao; tạm hoãn những còng việc chưa cần làm ngay để tập trung vào lãnh đạo

chỉ đạo tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa ở từng địa phương, phải đề cao tinh thần

trách nhiệm của mỗi cấp, mỗi tổ chức ban, ngành, mỗi người có một quyết tâm cao và hết sức

khẩn trương để hoàn thành nhiệm vụ của mình.

4. Phải tăng cường cán bộ tấn công cho phía trước, cho các thị xã và thành phố lớn.

Có kế hoạch bồi dưỡng cấp tốc cho cán bộ cơ sở trong các vùng bằng tập huấn với yêu cầu

chỉ công việc và cách làm thiết thực đươc ngay. Mạnh dạn đề bạt cán bộ cơ sở qua phong trào

theo tiêu chuẩn.

Ngày 4 tháng 4

Chỉ thị số 05 của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam về gấp rút mua lương

thực.

Tình hình trên chiến trường ta đang thắng lớn, trong những ngày tới ta còn đánh lớn,

do đó Trang ương Cục miền Nam xác định phải gấp rút chuẩn bị kế hoạch thu mua lúa gạo

trong nhân dân, đặc

255

biệt là ở các tỉnh thuộc Khu IX và khu VIII. Về giá, lấy giá chung và tinh thần của nhân dân;

các bộ phận được giao nhiệm vụ thu mua phải chuẩn bị thật tốt phương tiện vận chuyển. Tổ

chức tốt việc vận động nhân dân đăng ký bán lúa gạo cho cách mạng.

- Về số lượng: + Khu IX cố gắng đạt 100.000 tấn.

+ Khu VIII cố gắng đạt 50.000 tấn.

- Thời gian phải xong trong tháng 4 và 5.

- Số lúa gạo nhân dân đăng ký thì để lại cho nhân dân giữ lại tại nhà cho cách mạng,

khi cách mạng nhận sẽ giao tiền cho nhân dân.

Ngày 9 tháng 4

Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi các đồng chí: Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Phạm

Hùng và Trần Văn Trà về kế hoạch tổng tiến công Sài Gòn.

Sau khi nhận được báo cáo của đồng chí Văn Tiến Dũng từ miền Nam gửi ra, đồng

chí Lê Duẩn chỉ đạo: cần đợi phần lớn lực lượng quân đoàn 3 và quân đoàn 1 vào đến nơi hãy

bắt đầu cuộc tiến công.

Tranh thủ thời gian trước khi cuộc tiến công lớn bắt đầu, cần tấn công mạnh ở phía

Tây và Tây - Nam, chia cắt đường số 4, buộc địch phải đoán được kế hoạch của ta, đồng thời

lệnh cho các đội biệt động thâm nhập nội thành. Các hướng khác hoạt động thích hợp để tạo

điều kiện phối hợp tiến công.

Đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh: "một khi đã phát động tiến công thì phải công kích

thật mạnh và liên tục, dồn đập cho đến toàn thắng, vừa tiến công ở ngoại vi, vừa nắm thời cơ,

thọc sâu vào Trung tâm Sài Gòn từ nhiều hướng với những lực lượng đã chuẩn bị sẵn. Thực

hiện từ ngoài đánh vào, từ trong đánh ra, tạo cho đồng bào nổi dậy, không chia làm hai bước.

Đó là phương án cơ bản và chắc thắng nhất. Trong tình hình hiện nay, thần tốc, táo bạo, bất

ngờ là ở chỗ đó".

256

Ngày 10 tháng 4

Thường vụ Trung ương Cục ra chỉ thị về việc chuẩn bị công tác tiếp quản thành

phố Sài Gòn - Gia Định.

Chỉ thị chỉ rõ: khi đánh đổ chính quyền Trung ương địch cần thực hiện chế độ quân

quản trong 1 thời gian nhất định, tức là điều hành mọi việc bằng mệnh lệnh Quân sự nhằm

đảm bảo cho thắng lợi triệt để, không theo lối hành chính thông thường. Chế độ quân quản

dựa vào lực lượng quân đội, ta chiếm đóng khắp thành phố, kết hợp với các tổ chức quần

chúng, tự vệ vũ trang ở khóm, phường xí nghiệp để quản lý đường phố buộc tất cả mọi người

phải theo các mệnh lệnh quân sự của uỷ ban quân quản. Uỷ ban quân quản phải có quyền lực

mạnh, phải có bộ mặt tương xứng với thành phố, phải có năng lực làm được việc.

Nhiệm vụ của uỷ ban quân quản:

1. Tiêu diệt các ổ đề kháng, thanh toán triệt để các lực lượng phản động của địch.

2. Nhanh chóng ổn định tình hình và thiết lập trật tự trị an của thành phố, xây dựng

lực lượng tự vệ của quần chúng.

3. Từng bước khôi phục những cơ sở bảo đảm cho cuộc sống của nhân dân.

4. Chuẩn bị những điều kiện để chuyển sang chính quyền cách mạng.

Ngoài ra chỉ thị còn quy định thành phần và bộ máy của uỷ ban quân quản và phạm vi

trách nhiệm của uỷ ban.

Ngày 22 tháng 4

Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho các đồng chí: Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Phạm

Hùng và Lê Trọng Tấn.

Ngay sau khi Bộ chính trị và quân uỷ Trung ương họp đánh giá tình hình và kế hoạch

tác chiến của ta, đồng chí Lê Duẩn đã gửi ngay

257

những nội dung chỉ đạo của Bộ Chính trị vào cho Đảng ủy Bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí

Minh. Bộ Chính trị chỉ rõ: thời cơ mở cuộc tổng tiến công về quân sự và chính trị vào Sài

Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động

trong lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nếu để chậm sẽ không

có lợi cả về quân sự và chính trị.

Các hướng hành động kịp thời, đồng thời khu uỷ Sài Gòn - Gia Định sẵn sàng phát

động quần chúng nổi dậy kết hợp với các cuộc tiến công của quân sự.

Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định giành toàn thắng.

Ngày 29 tháng 4

Thư của đồng chí Lê Duẩn giả các đồng chí Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến

Dũng, Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn.

Ngay khi nhận tin Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn, Bộ Chính trị và quân uỷ

Trung ương đã chỉ thị:

1. Lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch. Tiến quân với khí

thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân đội địch,

giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng.

2. Công bố đặt thành phố Sài Gòn - Gia Định dưới quyền của uỷ ban quân quản do

tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch.

3. Sẽ có điện tiếp, nhận được điện trả lời ngay.

Ngày 29 tháng 9

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về chủ

trương giải thể Trung ương Cục miền Nam.

Năm tháng sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, Ban chấp hành Trung ương

Đảng đã triệu tập Hội nghị lần thứ 24 chuyên bàn về "nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam

trong giai đoạn mới".

258

Để đảm bảo sự thống nhất lãnh đạo về mặt hành chính, chuẩn bị thống nhất đất nước

nhằm tạo ra sức mạnh mới, toàn diện của Tổ quốc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Ban

chấp hành trung ương ghi rõ: "Giải thể Trung ương Cục miền Nam, giải thể các khu ủy ở cả

hai miền, đồng thời thành lập Ban đại diện Trung ương Đảng và chính phủ ở miền Nam - một

hình thức tổ chức làm việc để thực hiện sự chỉ đạo tại chỗ của Bộ chính trị, Ban bí thư và

Chính phủ. Tổ chức đó phải gọn nhẹ, chỉ tổn tại một thời gian và không phải là một cấp trung

gian giữa Trung ương và tỉnh..."

Như vậy sau gần 15 năm được thành lập, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng.

Trung ương Cục miền Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử của mình trong việc chỉ

đạo triển khai trực tiếp đường lối cách mạng DTDCND của Đảng ở miền Nam.

259

MỤC LỤC SỰ KIỆN

NĂM 1961 ..................................................................................................................

Tháng 1 ........................................................................................................................

- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 (Khoa III) quy định tổ chức

và nhiệm vụ của Trung ương Cục miền Nam. ....................................................................... 1

Thành lập Trung ương Cục miền Nam ...................................................................... 2

- Chủ tịch Hồ Chí Minh dự kiến về tình hình miền Nam .......................................... 4

- Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra chỉ thị về phương hướng, nhiệm vụ và tăng

cường các cơ quan chỉ đạo các cấp của Đảng ở miền Nam. .................................................. 4

Tháng 2 ........................................................................................................................

- Thống nhất các lực lượng vũ trang giải phóng và thành lập Ban quân sự trực thuộc

Trung ương Cục miền Nam ................................................................................................... 6

- Trung ương Cục chỉ đạo thành lập Bộ tư lệnh quân khu miền Đông (II) ............... 7

Tháng 3 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam chủ trương củng cố căn cứ địa chiến khu Đ và xây

dựng căn cứ khu A ................................................................................................................. 7

Tháng 4 ........................................................................................................................

- Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) và các

đồng chí Trung ương Cục về chỉ đạo phong trào đấu tranh ở nông thôn miền Nam. ........... 8

260

Tháng 5 ........................................................................................................................

- Đoàn cán bộ quản sự, chính trị miền Bắc tăng cường cho miền Nam. ................... 9

Tháng 7 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị khắc phục kịp thời những lệch lạc để đưa

phong trào tiến lên. .............................................................................................................. 10

- Các Trung đoàn chủ lực đầu tiên ở miền Nam lần lượt được thành lập. ............... 12

Tháng 9 ........................................................................................................................

- Thành lập tiểu đoàn 1 v à 2 quân chủ lực Miền ................................................... 13

- Hội nghị thông tin đầu tiên của Trung ương Cục miền nam và căn cứ chiến khu Đ

.............................................................................................................................................. 13

- Trung ương Cục quyết định thành lập kho quân giới và đơn vị hậu cần ở chiến

khu Đ .................................................................................................................................... 14

Tháng 10 ......................................................................................................................

- Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp hội nghị Bộ Chính trị về cách mạng miền Nam. .. 15

- Trung ương Cục chỉ thị về việc thành lập tòa án cách mạng ................................ 16

- Hội nghị lần thứ nhất Trung ương Cục miền Nam bàn về phương hướng và nhiệm

vụ của cách mạng miền Nam. .............................................................................................. 18

NĂM 1962 ..................................................................................................................

Tháng 1 ........................................................................................................................

- Đảng bộ miền Nam lấy tên là Đảng nhân dân cách mạng miền Nam. .................. 20

261

- Trung ương Cục miền Nam chỉ thị về mấy đặc điểm trong âm mưu của địch và

yêu cầu đối phó của ta. ......................................................................................................... 21

- Trung ương Cục Miền Nam chỉ thị về công tác Mặt trận, dân vận, ruộng đất và

quản lý nông thôn................................................................................................................. 22

Tháng 2 ........................................................................................................................

- Đài phát thanh giải phóng, tiếng nói của Đảng bộ và nhân dân miền Nam Việt

Nam được thành lập. ............................................................................................................ 24

- Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ nhất ............... 24

- Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng bàn biện pháp đánh bại kế hoạch Stalay-

Taylo của đế quốc Mỹ.......................................................................................................... 25

- Thành lập phòng Hội họa giải phóng thuộc tiểu ban văn nghệ của Ban Tuyên huấn

Trung ương Cục miền Nam. ................................................................................................ 26

Tháng 4 ........................................................................................................................

- Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Cục miền Nam bàn kế hoạch thực hiện

Nghị quyết tháng 2-1962 của Bộ Chính trị. ......................................................................... 27

Tháng 5 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết về công tác quân sự. ....... 28

Tháng 7 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam chỉ thị về việc tuyên truyền và chỉ đạo thực hiện công

tác Mặt trận. ......................................................................................................................... 29

Đồng chí Lê Duẩn gửi cho các đồng chí Trung ương Cục miền Nam. ................... 30

262

Tháng 8:

- Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về đấu tranh phá ấp chiến lược. ..................... 31

Tháng 10 ......................................................................................................................

- Nghị quyết Hội nghị công tác chính trị, công tác Đảng của lực lượng vũ trang Giải

phóng miền Nam lần thứ nhất. ............................................................................................. 33

- Thành lập Tiểu ban giáo dục miền Nam, thuộc Ban tuyên huấn Trung ương Cục

miền Nam. ............................................................................................................................ 34

Tháng 11 ......................................................................................................................

- Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền tổ chức Hội nghị tổng kết chiến tranh du

kích toàn miền Nam. ............................................................................................................ 35

- Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị chống địch càn quét ...................................... 37

Tháng 12 ......................................................................................................................

- Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Bộ Chính trị, chủ trương động viên toàn dân, đưa

cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi mới. ............................................................ 38

- Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về một số công tác quân sự trước mắt. ......... 39

NĂM 1963 ..................................................................................................................

Tháng 1 ........................................................................................................................

- Chủ trương phá "ấp chiến lược" và chiến thắng Ấp Bắc ....................................... 41

263

- Ban Thống nhất Trung ương góp ý về hội nghị kinh tế của Trung ương Cục miền

Nam. ..................................................................................................................................... 42

Tháng 2 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam chỉ thị về công tác binh vận ...................................... 44

- Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Bộ Chính trị bàn về mở rộng công tác Mặt trận. .. 45

Tháng 3 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam chỉ thị tăng cường binh vận và địch vận.

.............................................................................................................................................. 46

Tháng 6 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về phá âm mưu lợi dụng tôn

giáo của địch. ....................................................................................................................... 47

- Trung ương Cục miền Nam mở hội nghị chống phá địch lập "ấp chiến lược". .... 48

Tháng 7 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh chống phá "ấp

chiến lược" chống gom dân. ................................................................................................ 49

Tháng 8 ........................................................................................................................

Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về công tác 6 tháng cuối năm 1963. ........... 50

Tháng 10 ......................................................................................................................

- Khánh thành xưởng in thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam. ........ 52

- Thành lập Đảng uỷ Hậu cần Trung ương Cục miền Nam ..................................... 53

264

- Trung ương Cục miền Nam ra nghị quyết về phát động nhân dân, nỗ lực phấn đấu

giành những thắng lợi mới. .................................................................................................. 54

- Thành lập Quân ủy và Bộ tư lệnh Miền ................................................................ 56

Tháng 11 ......................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về tình hình và chủ trương của ta sau cuộc đảo

chính Ngô Đình Diệm. ......................................................................................................... 57

Tháng 12 ......................................................................................................................

- Chủ tịch H ồ Chí Minh nhận định về tình hình miền Nam sau khi Ngô Đình Diệm

bị đảo chính. ......................................................................................................................... 58

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về đợt ngừng bắn Tết Quý Mão

1963...................................................................................................................................... 59

- Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoa III) bàn biện pháp

nhằm đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt" của đ ế quốc Mỹ. .................................... 60

NĂM 1964 ..................................................................................................................

Tháng 3 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về tình hình, nhiệm vụ và chủ trương của

ta. .......................................................................................................................................... 61

- Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt .................................. 62

- Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ II .................................................... 63

Tháng 4 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về tăng cường lãnh đạo công tác

chống bắt lính, phá kế hoạch tăng quân và mở rộng chiến tranh của địch. ......................... 65

265

Tháng 5 ........................................................................................................................

- Nhân dân Tây Ninh chống âm mưu lập "Khu tự trị đạo" của địch, góp phần bảo vệ

căn cứ Trung ương Cục miền Nam. ..................................................................................... 67

Tháng 9 ........................................................................................................................

- Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Bộ Chính trị bàn về chủ trương giành thắng

lợi ở miền Nam. ................................................................................................................... 68

Tháng 10 .....................................................................................................................

- Quân ủy Trung ương Chỉ thị về mở đợt hoạt động đông xuân 1964-1965. ....... 69

- Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về chỉ đạo phong trào các đô thị. .................. 69

- Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và nhiều cán bộ trung, cao cấp tăng cường cho

miền Nam. ............................................................................................................................ 71

Tháng 12 ......................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị về bảo vệ tài liệu ........................................... 71

- Thành lập báo Giải phóng tiền thân của báo Sài Gòn giải phóng. ........................ 72

- Chiến dịch Bình Giã và sự thất bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của M ỹ -

ngụy...................................................................................................................................... 73

- Trung ương Cục miền Nam tặng Thông tấn xã giải phóng 16 chữ vàng .............. 74

NĂM 1965 ..................................................................................................................

Tháng 1 ........................................................................................................................

- Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ III ................................................... 75

266

- Nghị quyết Quân ủy Miền về công tác quân sự .................................................... 78

Tháng 2 ........................................................................................................................

- Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho Trung ương Cục miền Nam về vấn đề tranh thủ

thời cơ tiến tới tổng công kích - tổng khởi nghĩa. ................................................................ 80

Tháng 3 ........................................................................................................................

- Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11

bàn về nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Nam. ........................................................ 81

Tháng 4 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam chủ trương đoàn kết dân tộc chung sức đấu tranh giải

phóng miền Nam. ................................................................................................................. 82

Tháng 5 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam phát động nông dân vùng giải phóng đoàn kết sản

xuất, kháng chiến chống M ỹ cứu nước. .............................................................................. 84

- Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho Trung ương Cục miền Nam về phương hướng đấu

tranh chống “chiến tranh cục bộ”. ........................................................................................ 85

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về chính sách ruộng đất và phương hướng

đưa phong trào nông thôn miền Nam phát triển. ................................................................. 85

Tháng 7 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị phát dộng quần chúng nông dân đẩy mạnh

hoạt động chống "Chiến tranh cục bộ". ............................................................................... 86

- Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm chiến thắng giặc Mỹ. ..................... 87

267

Tháng 11 ......................................................................................................................

- Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho Trung ương Cục miền Nam bàn về động viên nhân

dân tiến lên đánh bại "Chiến tranh cục bộ" .......................................................................... 87

- Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết về công tác tư tưởng .......................... 89

NĂM 1966 .............................................................................................................. 90

Tháng 1 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam phát động nhân dân miền Nam đẩy mạnh nhiệm vụ

kháng chiến chống Mỹ. ........................................................................................................ 90

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về chủ trương công tác trong

dịp Tết 1966. ........................................................................................................................ 91

Tháng 2 ........................................................................................................................

- Quân khu Sài Gòn - Gia Định tổng kết những bài học kinh nghiệm đánh Mỹ đầu

tiên........................................................................................................................................ 92

- Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo cho đường lối cách mạng miền Nam. .................. 93

Tháng 3 ........................................................................................................................

- Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ IV bàn kế hoạch đẩy

mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống chiến lược "chiến tranh cục bộ". ..... 93

Tháng 4 ........................................................................................................................

- Chủ tịch Hồ Chí Minh góp ý kiến xây dựng đường lối cách mạng miền Nam ..... 95

268

- Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về đấu tranh chính trị binh vận ở miền Nam. ............ 95

Tháng 6 ........................................................................................................................

- Đồng chí Nguyễn Chí Thanh đánh giá chiến thắng của ta trong mùa khô 1965 -

1966...................................................................................................................................... 96

Tháng 7 ........................................................................................................................

- Đồng chí Nguyễn Chí Thanh bàn về công tác tư tưởng trong quân và dân miền

Nam với chiến thắng mùa khô (1965 -1966). ...................................................................... 97

Tháng 8 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị chỉ đạo công tác ở vùng giải

phóng và vùng tranh chấp nông thôn. .................................................................................. 98

Tháng 9 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về công tác binh vận 1966 -

1967...................................................................................................................................... 99

Tháng 10 ......................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về đẩy mạnh phong trào vùng

yếu ở nông thôn.................................................................................................................. 100

- Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập Quân khu X ........................... 101

- Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng bàn về tình

hình miền Nam và những biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao. ................................. 101

NĂM 1967 ..................................................................................................................

Tháng 1 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị quyết tâm . .............................................. 102

269

đánh bại âm mưu bình định nông thôn năm 1967 của Mỹ - ngụy.

Tháng 2 ........................................................................................................................

- Đánh bại cuộc hành quân Junction City vào căn cứ Trung ương Cục miền Nam.

............................................................................................................................................ 102

Tháng 5 ........................................................................................................................

- Đồng chí Nguyễn Chí Thanh tổng kết những bài học thành công qua chiến thắng

mùa khô 1966-1967. .......................................................................................................... 103

- Thành lập Đoàn hậu cần 70 thuộc Cục Hậu cần Miền ....................................... 104

Tháng 6 ........................................................................................................................

- Bộ chính trị Chỉ thị cho Trung ương Cục Miền Nam về nhiệm vụ quân sự năm

1967.................................................................................................................................... 105

- Tháng 7 .....................................................................................................................

- Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho Khu ủy Sài Gòn – Gia Định bàn về công tác thành

thị. ...................................................................................................................................... 105

- Đồng chí Nguyễn Chí Thanh từ trần ................................................................... 107

Tháng 10 ......................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về phát động quần chúng. ....................... 108

Tháng 11 ......................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị đẩy mạnh phong trào cách mạng miền Nam.

............................................................................................................................................ 108

Tháng 12 ......................................................................................................................

- Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng, quyết định

chủ trương của đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968). .............................. 110

270

- Trung ương Cục miền Nam và Khu ủy Sài Gòn-Gia Định chuẩn bị kế hoạch tổng

công kích - tổng khởi nghĩa. .............................................................................................. 110

NĂM 1968 ..................................................................................................................

Tháng 1 ........................................................................................................................

- Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho Trung ương Cục và Quân ủy miền Nam bàn về

tổng công kích - tổng khởi nghĩa. ...................................................................................... 111

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích.

............................................................................................................................................ 112

Tháng 2 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền ra Nghị quyết về phát huy thắng lợi

của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. .......................................................... 113

Tháng 3 ........................................................................................................................

- Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi cán bộ chiến sĩ và nhân dân miền Nam

qua đợt I Tổng tiến công và nổi dậy .................................................................................. 114

- Trung ương Cục miền Nam chủ trương mở đợt hai tổng tiến công và nổi dậy... 115

- Hội nghị Trung ương Cục miền Nam (mở rộng) lần thứ VI ra Nghị quyết đẩy

mạnh tổng công kích - tổng khởi nghĩa. ............................................................................ 115

Tháng 4 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục ra Chỉ thị về tiết kiệm vũ khí đạn dược .................................... 118

271

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập Hội đồng quân dân y

các cấp Miền, Khu, Phân khu và Tỉnh. .............................................................................. 119

Tháng 5 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền ra Nghị quyết đẩy mạnh Đợt 2 tổng

công kích, tổng khởi nghĩa.. ............................................................................................... 119

- Trung ương Cục miền Nam chủ trương củng cố chính quyền cách mạng. ......... 121

Tháng 6 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở đ ô thị.

............................................................................................................................................ 122

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị hướng dẫn việc kết hợp cuộc đấu tranh

quân sự, chính trị và ngoại giao. ........................................................................................ 123

Tháng 7 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam gửi thư cho các chiến sỹ mới bổ sung từ miền Bắc

vào chiến trường Nam Bộ. ................................................................................................. 124

Tháng 9:

- Quân và dân miền Nam tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi to lớn .......... 125

Tháng 10 ......................................................................................................................

- Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Cục miền Nam. ................... 126

Tháng 11 ......................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị số 36 CTNT về vấn đề Tổng thống M ỹ

Giôn-xơn tuyên bố ngừng ném bom hoàn toàn trên miền Bắc. ......................................... 128

272

- Trung ương Cục miền Nam vận động xây dựng chi bộ 4 tốt .............................. 129

- Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị công tác tài chính năm 1969 ....................... 130

Tháng 12 ......................................................................................................................

- Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị tăng cường công tác phụ vận................... 132

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị đẩy mạnh tấn công toàn diện, ra

sức giải phóng nông thôn, đánh bại kế hoạch "bình định cấp tốc" của địch ...................... 133

- Trung ương cục miền Nam chủ trương tăng cường công tác thanh niên. ........... 134

- Trung ương Cục miền Nam nêu quyết tâm đánh thắng âm mưu bình định cấp tốc

của địch. ............................................................................................................................. 135

NĂM 1969 ..................................................................................................................

Tháng 1 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về công tác y tế ....................................... 137

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về đợt hoạt động Tết Kỷ Dậu 1969. ....... 138

Tháng 2 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về đẩy mạnh sản xuất phục vụ kháng chiến.

............................................................................................................................................ 139

Tháng 3 ........................................................................................................................

Chỉ thị của Trung ương Cục miền Nam về đợt hoạt động mùa hè năm 1969. ...... 140

273

Tháng 4 ........................................................................................................................

- Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ và căn dặn đồng chí Phạm Hùng về chỉ đạo cách

mạng miền Nam. ................................................................................................................ 141

Tháng 5 ........................................................................................................................

- Trung ương. Cục miền Nam ra Chỉ thị chỉ đạo công tác đối ngoại vói Căm-pu-

chia ở vùng biên giới hai nước. .......................................................................................... 142

- Thường vụ Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị hướng dẫn kết hợp cuộc đấu

tranh quân sự-chính trị, binh vận và ngoại giao. ................................................................ 143

Tháng 6 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ủng hộ sự thành lập chính phủ cách mạng lâm thời

cộng hoà miền Nam Việt Nam. .......................................................................................... 144

Tháng 7 ........................................................................................................................

- Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ IX chủ trương tiếp tục đánh bại

"Việt Nam hoa chiến tranh" và ám mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của đế quốc

Mỹ. ..................................................................................................................................... 146

- Trung ương Cục miền Nam hướng dẫn việc kết hợp hai nhiệm vụ sản xuất và

chiến đấu. ........................................................................................................................... 147

Tháng 8 ........................................................................................................................

- Những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh chống "bình định cấp

tốc"của địch ở miền Nam. .................................................................................................. 147

- Trung ương Cục miền Nam phát động phong trào "Đánh cho M ỹ cứt, đánh cho

ngụy nhào". ........................................................................................................................ 148

- Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập Ban kiểm tra các cấp. ............ 149

274

Tháng 9 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam biến đau thương thành hành động cách mạng quyết

tâm thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. ............................................................ 150

- Trung ương Cục miền Nam tiếp tục chỉ đạo công tác biên giới giữa ta và

Cămpuchia. ........................................................................................................................ 150

Tháng 10 ......................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị xây dựng tổ chức bộ máy chính phủ cách

mạng lâm thời. ................................................................................................................... 151

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị tăng cường lãnh đạo Hội đồng cung cấp

tiền phương. ....................................................................................................................... 152

- Trung ương Cục miền Nam phát động đồng bào, chiến sỹ miền Nam học tập và

thực hiện Di chúc của Chủ tịch H ồ Chí Minh. ................................................................. 153

Tháng 11 ......................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị kết hợp cuộc đấu tranh phản chiến ở M ỹ

với đẩy mạnh phong trào đ ộ thị miền Nam. ..................................................................... 154

- Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết đẩy mạnh chiến tranh du kích trong

tổng công kích, tổng khởi nghĩa......................................................................................... 154

Tháng 12 ......................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về đẩy mạnh phong trào đấu tranh trong

năm 1970. ........................................................................................................................... 156

NĂM 1970 ..................................................................................................................

Tháng 1 ........................................................................................................................

- Hội nghị lần thứ 18 của Ban chấp hành Trung ương Đảng chủ trương đánh bại

chiến lược "Việt Nam hoá

275

chiến tranh" của đế quốc Mỹ. ................................................................................ 157

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị số 01 về đẩy mạnh đợt tấn công

chính trị và binh vận trong dịp Tết Nguyên Đán. .............................................................. 159

- Chỉ thị số 02 của Thướng vụ Trung ương Cục miền Nam về công tác và chính

sách cán bộ nữ. ................................................................................................................... 159

- 70.000 công nhân thành phố Sài Gòn tổng bãi công ........................................... 160

Tháng 2 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị mấy vấn đề cấp bách về lãnh

đạo, chỉ đạo bảo đảm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của trung ương Cục ........ 160

Tháng 3 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị nhận định về cuộc đảo chính ở Campuchia

và chủ trương đối phó của ta. ............................................................................................. 161

Tháng 5 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về: "Đẩy mạnh cuộc tấn công

và nổi dạy phối hợp chặt chẽ với quân dán Cămpuchia - Lào giành những thắng lợi mới".

............................................................................................................................................ 162

Tháng 6

- Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương ra Nghị quyết "Về tình hình mới trên bán

đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta". ............................................................ 163

- Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi Trung ương Cục miền Nam , đồng chí Phạm

Hùng, đồng chí Hoàng Văn Thái. ...................................................................................... 165

276

- Phong trào đấu tranh của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long thực hiện chủ

trương của Trung ương Cục miền Nam về phá kế hoạch "bình định" của Mỹ-ngụy. ....... 166

Tháng 7 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị một số ý kiến hướng dẫn thêm

về chỉ đạo đánh phá "bình định". ....................................................................................... 167

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "đẩy mạnh cuộc vận động nhân dân bung ra

và bám lại sản xuất, bảo vệ đời sống, xây dựng thế và lực của ta, phá thế kìm kẹp gom dân

của địch". ........................................................................................................................... 169

- Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị về củng cố và xây dựng căn cứ địa cách

mạng miền Nam. ................................................................................................................ 169

- Thư của đóng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng và Trung ương Cục miền

Nam. ................................................................................................................................... 170

Tháng 8 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "Cần nắm vững những vấn đề

chỉ đạo then chốt". ............................................................................................................. 173

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về "Tình hình nhiệm vụ và công

tác trước mắt". .................................................................................................................... 174

Tháng 10 ......................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về "Đẩy mạnh nhiệm vụ tiến

công, nổi dậy giành một bước thắng lợi mới trong mùa khô 1970-1971" ......................... 175

- Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ 10 về kiểm điểm hoạt động chỉ đạo

của Trung ương Cục sau Mậu Thân 1968. ......................................................................... 176

277

Tháng 12 ......................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "Tập trung sức chỉ đạo đánh

phá bình định phát triển phong trào làm chủ ấp xã trên khắp nông thôn". ......................... 179

NĂM 1971 ..................................................................................................................

Tháng 1 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "Nắm vững nhiệm vụ và

phương hướng công tác trước mắt, ra sức xây dựng thế tiến công chiến lược mới". ........ 180

Tháng 2 ........................................................................................................................

- Hội nghị lần thứ 19 của Ban chấp hành Trung ương Đảng chủ trương đẩy mạnh

cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. ............................................................................. 182

Tháng 4 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về "Nhiệm vụ và công tác thành

thị trước mắt". .................................................................................................................... 183

Tháng 5 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục ra Chỉ thị về "Chủ trương đấu tranh chống bầu cử hạ

viện và tổng thống ngụy" ................................................................................................... 184

- Hội nghị Bộ Chính trị chủ trương mở rộng cuộc tiến công chiến lược trong năm

1972 trên toàn miền Nam. .................................................................................................. 185

- Trung ương Cục miền Nam thành lập phân khu Thủ Biên và đẩy mạnh xây dựng

căn cứ địa. .......................................................................................................................... 186

278

Tháng 6 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị Chuyển hướng công tác tổ chức và xây dựng

Đảng bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện và sâu sắc đánh bại kế hoạch "bình định" và chính

sách "Việt Nam hoá chiến tranh" của địch. ....................................................................... 187

- Thư của đồng chí Lê Duẩn gủi đồng chí Phạm Hùng và Trung ương Cục miền

Nam. ................................................................................................................................... 187

Tháng 7 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam họp hội nghị tổng kết tình hình chiến trường miền

Nam và nhấn mạnh vấn đề xây dựng hậu phương, xây dựng căn cứ. ............................... 190

Tháng 8 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam Chỉ thị "tăng cường công tác chính trị, tư

tưởng, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, đảng viên đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới". ......... 190

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "Tận dụng cuộc khủng hoảng

chính trị hiện nay, đẩy mạnh đánh phá bình định nông thôn, đánh bại âm mưu của Mỹ

muốn duy trì Thiệu............................................................................................................. 191

Tháng 10 ......................................................................................................................

- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Trung ương Cục miền Nam về nhiệm vụ phương

hướng đấu tranh chống "Việt Nam hoá chiến tranh". ........................................................ 192

Tháng 11 ......................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về ''Nắm vững thời cơ thuận lợi,

khẩn trương hoàn thành bước một, kịp thời chuyển sang bước hai,

279

quyết tâm giành thắng lợi lớn nhất trong thời gian tới". ........................................ 194

- Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng và Trung ương Cục miền

Nam. Đồng gửi Khu uỷ Sài Gòn Gia Định "Về chỉ đạo phong trào đô thị miền Nam". ... 195

NĂM 1972 ..................................................................................................................

Tháng 2 ........................................................................................................................

- Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết và nhiệm vụ quân sự năm 1972. ................ 198

Tháng 3 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị số 01/CT72 "Thời cơ đã chín

muồi, nắm vững quyết tâm của Trung ương khẩn trương phát động toàn Đảng toàn quân

toàn dân xốc tới giành thắng lợi lớn nhất" ......................................................................... 199

- Trung ương Cục, Quân ủy miền chủ trương mở Chiến dịch Nguyễn Huệ ở miền

Đông Nam Bộ . .................................................................................................................. 200

Tháng 4 ........................................................................................................................

- Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi thư động viên toàn thể cán bộ và chiến sĩ

đang chiến đấu trên các mặt trận. ....................................................................................... 201

- Quân và dân đồng bằng sông Cửu Long liên tục tiến công và nổi dậy chọc thủng

hệ thống phòng thủ nhiều tầng của Mỹ-ngụy. ................................................................... 202

- Hội nghị lần thứ 20 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh nhiệm vụ

chống M ỹ cứu nước ở miền Nam. .................................................................................... 203

280

- Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng và đồng chí Mười Khang

(Hoàng Văn Thái). ............................................................................................................. 203

Tháng 5 ........................................................................................................................

- Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi Trung ương Cục miền Nam ............................... 204

- Trung ương cục miền Nam ra chỉ thị: tập trung lực lượng quân sự, sức mạnh nổi

dậy của quần chúng và binh viện dứt điểm, mở toang từng khu vực, giải phóng từng vùng

nông thôn rộng lớn làm chuyển biến cục diện. .................................................................. 205

Tháng 6 ........................................................................................................................

- Thư đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng đồng chí Mười Khang, đồng chí

Tư Nguyễn về tăng cường lực lượng chống "bình định'' ở khu 8 và khu 9 ....................... 206

- Thường vụ Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị về "Kiên quyết giữ vững và tích

cực xây dựng vùng giải phóng phát huy thắng lợi đánh bại chính sách "Việt Nam hoá chiến

tranh" của M ỹ " . ................................................................................................................ 207

Tháng 8 ........................................................................................................................

- Thư đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng và đồng chí bí thư Khu ủy 8. . 208

- Một số ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn gửi Trung ương Cục miền Nam về

công tác đấu tranh chính trị trong thời gian tới. ................................................................. 209

- Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng và các đồng chí Trung ương

Cục, về đẩy mạnh công tác binh vận ................................................................................. 211

- Thành lập lại khu ủy miền Đông và Bộ Tư

281

lệnh miền Đông. ..................................................................................................... 212

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về việc gấp rút xây dựng, phát

triển và bố trí lực lượng chính tụ thành thế chiến lược vững mạnh. .................................. 212

Tháng 10 ......................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị vận dụng khẩu hiệu hoà bình

độc lập - dân chủ - cơm áo - hoà hợp dân tộc, kiên quyết đưa phong trào cách mạng tiến

lên giành thắng lợi mới. ..................................................................................................... 213

Tháng 12 ......................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị "Ra sức củng cố chi bộ, phát huy vai trò hạt

nhân lãnh đạo của Đảng trong mọi tình huống". ............................................................... 214

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo các Khu uỷ, Tỉnh u ỷ về việc đẩy

mạnh cuộc vận động đấu tranh chính trị làm tan rã ngụy quân, tranh thủ lôi kéo ngụy quyền

cơ sở. .................................................................................................................................. 215

NĂM 1973 ..................................................................................................................

Tháng 1 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị đấu tranh chống địch lấn chiếm, bảo đảm thi

hành Hiệp định Pari. .......................................................................................................... 216

- Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về tập trung chỉ đạo phong trào cách mạng

trong thời gian đến khi có giải pháp chính trị Hiệp định Pari. ........................................... 217

Tháng 3 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về nhiệm vụ trước mắt và một số

công tác cấp bách sau 60 ngày thi hành Hiệp định Pari..................................................... 219

282

Tháng 5 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo các Khu uy, Tỉnh ủy về chuyển

hướng đấu tranh sau khi ký Hiệp định Pari. ...................................................................... 220

- Quân dân quân Khu IX phản công và tiến công chống bình định lấn chiếm, bảo vệ

vùng giải phóng.................................................................................................................. 221

- Trung ương Cục miền Nam chủ trương xây dựng căn cứ địa Đồng Tháp Mười.

............................................................................................................................................ 223

Tháng 7 ........................................................................................................................

- Hội nghị lần thứ XXI Ban chấp hành Trung ương Đảng đề ra đường lối hoàn

thành sự nghiệp cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam. ............................... 224

Tháng 9 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam kiểm điểm tình hình và sự lãnh đạo từ Hội nghị Trung

ương Cục lần thứ XI đến 9-1973. ...................................................................................... 225

Tháng 10 ......................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập căn cứ địa Tân Phú. ............. 227

Tháng 11 ......................................................................................................................

- Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi Trung ương Cục miền Nam Khu ủy khu V, Khu

uy Trị Thiên về công tác chống "bình định" lấn chiếm sau Hiệp định Pari. ..................... 228

Tháng 12 ......................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về phương hướng tới của cách mạng miền

Nam. ................................................................................................................................... 229

283

- Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ XII về 5 công tác lớn của

Đảng bộ miền Nam. ........................................................................................................... 230

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về "nắm vững nội dung mới

trong đánh phá bình định, tạo thế tiến công mới . ............................................................. 232

NĂM 1974 ..................................................................................................................

Tháng 1 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền ra Chỉ thị về phương hướng nhiệm vụ ngân

sách năm 1974.................................................................................................................... 233

- Bộ chỉ huy Miền ra Chỉ thị về mở chiến dịch binh địch vận mùa xuân. ............. 234

Tháng 4 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về "Phát động hàng triệu quần

chúng đứng lên đánh bại chính sách bình định lấn chiếm, đ ò i thực hiện một miền Nam

hoà bình, độc lập dân chủ, phồn vinh, hoà hợp dân tộc tiến tới hoà bình thống nhất. ...... 235

Tháng 5 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "đẩy mạnh sản xuất, thực hành

tiết kiệm giữ vững trật tự trị an, xây dựng cuộc sống mới” . ............................................. 235

- Thư của đồng chí Lê Duẩn về chỉ đạo những nhiệm vụ cấp bách của Khu VI trong

2 năm 1974-1975. .............................................................................................................. 236

- Nghị quyết Hội nghị Quân ủy Miền về chỉ đạo công tác tiến công quân sự. ...... 237

284

Tháng 8 ........................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về việc tích cực hoàn thành kế hoạch năm

1974 và phương hướng nhiệm vụ yêu cầu công tác cấp bách năm 1975. ......................... 239

Tháng 9 ........................................................................................................................

- Thư của Bộ chính trị và đồng chí Lê Duẩn gửi Trung ương Cục, Khu V , Khu Trị

Thiên, Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. ......................................................................................... 240

Tháng 10 ......................................................................................................................

- Thư đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng về những ý kiến kết luận đợt 1

của Hội nghị Bộ Chính trị họp từ 30-9-1974 đến 8-10-1974 hạ quyết tâm giải phóng miền

Nam trong năm 1975-1976. ............................................................................................... 241

Tháng 11 ......................................................................................................................

- Trung ương Cục miền Nam và Bộ tư lệnh miền quyết định mở đợt hoạt động mùa

khô 1974 -1975. ................................................................................................................. 242

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị về phương hướng nhiệm vụ xây

dựng kinh tế - văn hoá ở các vùng giải phóng và khu căn cứ. ......................................... 243

NĂM 1975 ..................................................................................................................

Tháng 1:

- Kết luận đợt hội nghị Bộ Chính trị bàn về tình hình và nhiệm vụ cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước. ......................................................................................................... 244

285

- Trung ương Cục miền Nam ra chủ trương về "chính sách ruộng đất ở miền Nam

Việt Nam" .......................................................................................................................... 246

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo việc tập trung tấn công công binh

vận trong dịp tết Ất Mão. ................................................................................................... 248

Tháng 2 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục ra chỉ thị về chuẩn bị kế hoạch tấn công đợt 2. ..... 248

Tháng 3 ........................................................................................................................

- Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "về xây dựng vùng giải phóng

và khu căn cứ trong tình hình hiện nay". ........................................................................... 249

- Nghị quyết đặc biệt của Hội nghị Trung ương Cục miền Nam lần thứ 15 về chủ

trương giải phóng hoàn toàn miền Nam. ........................................................................... 250

- Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng về thống nhất ý kiến đánh

giá tình hình và kịp thời hành động. .................................................................................. 251

- Điện số 340 của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam gửi các Khu uỷ, tỉnh uỷ

về thực hiện kế hoạch giải phóng miền Nam. .................................................................... 251

Tháng 4 ........................................................................................................................

- Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi các đồng chí Phạm Hùng, Lê Đức Thọ và Văn

Tiến Dũng về chỉ đạo cuộc quyết chiến chiến lược xuân 1975. ........................................ 252

- Chỉ thị 04 của Trung ương Cục miền Nam về chỉ đạo sát cuộc tiến công và nổi

dậy. ..................................................................................................................................... 253

286

- Chỉ thị số 05 của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam về gấp rút mua lương

thực. ................................................................................................................................... 254

- Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi các đồng chí: Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Phạm

Hùng và Trần Văn Trà về kế hoạch tổng tiến công Sài Gòn. ........................................... 255

- Thường vụ Trung ương Cục ra chỉ thị về việc chuẩn bị công tác tiếp quản thành

phố Sài Gòn - Gia Định. .................................................................................................... 256

- Đồng chí Lê Duẩn gửi thư cho các đồng chí: Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Phạm

Hùng và Lê Trọng Tấn. ...................................................................................................... 256

- Thư của đồng chí Lê Duẩn giả các đồng chí Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến

Dũng, Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn. .................................................................................. 257

Tháng 9 ........................................................................................................................

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về chủ trương

giải thể Trung ương Cục miền Nam. ................................................................................. 257