BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VÕ THỊ THÙY TRANG
NỢ NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VÕ THỊ THÙY TRANG
NỢ NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: TS Bùi Hữu Phước
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam” là công trình nghiên cứu của chính tác giả, nội dung được đúc kết từ quá
trình học tập và các kết quả nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua, số liệu sử
dụng là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Luận văn được thực hiện dưới
sự hướng dẫn của TS Bùi Hữu Phước.
Tác giả luận văn
Võ Thị Thùy Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
EDT: Tổng nợ nước ngoài
EXP: Độ mở nền kinh tế
FDI: Vốn đầu tư nước ngoài
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
GSO: Tổng cục thống kê Việt Nam
HIPCs: Các nước nghèo có gánh nặng nợ
IMF: Quỹ tiền tệ thế giới
INV: Đầu tư nội địa
MOF: Bộ tài chính
NSNN: Ngân sách Nhà nước
TB: Cán cân thương mại
TDS: Tổng dịch vụ nợ
WB: Ngân hàng thế giới – World Bank
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tiêu chí đánh giá an toàn về nợ của IMF ............................................................ 11
Bảng 2.2: Tiêu chí đánh giá về nợ nước ngoài của WB ...................................................... 12
Bảng 2.3: Một số nghiên cứu thực nghiệm gần đây về mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và
tăng trưởng kinh tế ............................................................................................................... 17
Bảng 3.1: Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư giai đoạn 2003 – 2012 ................................................. 25
Bảng 3.2: Tỷ lệ tăng trưởng vốn đầu tư các thành phần kinh tế (theo giá thực tế) giai đoạn
2003 – 2012 .......................................................................................................................... 27
Bảng 3.3: Cơ cấu đầu tư phân theo ngành giai đoạn 2008 – 2012 ....................................... 29
Bảng 3.4: Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Châu Á giai đọan từ 2000 – 2012 30
Bảng 3.5: Thâm hụt thương mại của Việt Nam, giai đoạn 2000 – 2012 ............................. 33
Bảng 3.6: Thâm hụt NSNN giai đoạn 2000 – 2013F ........................................................... 35
Bảng 3.7: Thâm hụt NSNN và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012 ....... 38
Bảng 3.8: Các tiêu chí đánh giá độ an toàn nợ nước ngoài của IMF và WB cho HIPCs .... 41
Bảng 3.9: Các chỉ tiêu giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam ............................................ 42
Bảng 3.10: Mức ngưỡng phụ thuộc vào chính sách và thể chế theo tiêu chuẩn của HIPCs 44
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 2.1: Đường cong Laffer nợ............................................................................................ 8
Hình 3.1: Nợ nước ngoài, dịch vụ nợ, GDP và tăng tưởng GDP trong giai đọan 1986 –
2012 ...................................................................................................................................... 21
Hình 3.2: Vốn đầu tư theo thành phần kinh tế (giá thực tế, tỷ đồng) giai đoạn 2003 – 201226
Hình 3.3: So sánh tỷ lệ đầu tư/GDP (%) của Việt Nam với các nước trong khu vực châu Á,
giai đoạn 2000 – 2011 .......................................................................................................... 27
Hình 3.4: Tỷ lệ tiết kiệm/GDP, giai đoạn 2003 – 2012 ....................................................... 31
Hình 3.5: Quan hệ tỷ lệ thâm hụt NSNN và cán cân thương mại giai đoạn 2000 – 2012 ... 39
Hình 4.1: Đường cong Laffer nợ của Việt Nam giai đoạn 1986 – 2012.............................. 46
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Danh mục hình vẽ, đồ thị
TÓM TẮT ................................................................................................................... 1
1. GIỚI THIỆU ....................................................................................................... 2
1.1 Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 2
1.2 Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 3
1.3 Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................ 4
1.4 Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4
1.5 Bố cục của luận văn ....................................................................................... 4
2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ .................................... 5
2.1 Khái niệm về nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ..................................... 5
2.1.1 Nợ nước ngoài ........................................................................................ 5
2.1.2 Tăng trưởng kinh tế ................................................................................ 5
2.1.3 Tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ............................ 6
2.1.4 Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài đối các quốc gia có thu nhập thấp ...................................................................................................... 10
2.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ......................................................................................................... 13
2.2.1 Các nghiên cứu của tác giả nước ngoài ................................................ 13
2.2.2 Các nghiên cứu của tác giả trong nước ................................................. 18
3. THỰC TRẠNG NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 2012 ........................................................................................................................... 21
3.1 Tổng quan về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 1986 - 2012............ 21
3.2 Những nguyên nhân làm gia tăng nợ nước ngoài của Việt Nam ................ 24
3.2.1 Nợ nước ngoài gia tăng do thâm hụt thương mại ................................. 25
3.2.2 Nợ nước ngoài gia tăng do thâm hụt ngân sách.................................... 34
3.3 Đánh giá thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam ...................................... 37
3.3.1 Đánh giá độ an toàn nợ nước ngoài của Việt Nam theo mức ngưỡng của HIPCs ........................................................................................................... 37
3.3.2 Đánh giá tính ổn định của nợ theo các tiêu chí giám sát an toàn nợ nước ngoài của Việt Nam ................................................................................... 38
3.3.3 Đánh giá tính ổn định của nợ theo sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách quản lý nợ nước ngoài ...................................................................... 40
4. ĐỊNH LƯỢNG MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ NƯỚC NGOÀI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 2012 .............................. 42
Hình 4.1: Đường cong Laffer nợ của Việt Nam giai đoạn 1986 - 2012 ................ 43
4.1 Mô hình nghiên cứu ..................................................................................... 44
4.2 Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................... 45
4.3 Kết quả kiểm định........................................................................................ 46
4.3.1 Kiểm định sự phù hợp của mô hình hồi quy......................................... 46
4.3.2 Phân tích cân bằng dài hạn ................................................................... 50
4.3.3 Phân tích cân bằng ngắn hạn - Mô hình VECM ................................... 55
4.3.4 Kết luận mô hình hồi quy ..................................................................... 59
5. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI ..................................................................................................................... 60
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 63
HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO .................... 65
1
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu này với mục đích đo lường mối quan hệ giữa nợ nước ngoài đối với
sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian từ khi Việt Nam bắt đầu mở cửa
nền kinh tế năm 1986 đến năm 2012.
Bằng kỹ thuật kiểm định đồng liên kết Jonhansen, nghiên cứu đã tìm ra được mối
quan hệ cân bằng trong dài hạn giữa các biến nghiên cứu. Mô hình hiệu chỉnh sai số
VECM được sử dụng để ước lượng mối quan hệ trong ngắn hạn giữa các biến.
Kết quả đã khẳng định rằng có tồn tại mối quan hệ giữa nợ nước ngoài đối với sự
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Nợ nước ngoài hiện vẫn có tác động tích cực đối
với sự tăng trưởng kinh tế và dịch vụ nợ thì lại có tác động tiêu cực với sự tăng
trưởng kinh tế.
Từ khóa: Nợ nước ngoài, Dịch vụ nợ, Tăng trưởng kinh tế
2
1. GIỚI THIỆU
1.1 Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn mở cửa hội nhập để phát triển kinh tế. Để
nền kinh tế tăng trưởng thì bên cạnh các nguồn lực trong nước, chúng ta cần huy
động thêm các nguồn lực bên ngoài, trong đó có vấn đề vay nợ nước ngoài. Vay nợ
nước ngoài nhằm bổ sung các nguồn lực cần thiết để thúc đầy tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Nhưng nó cũng có cái giá phải trả khi nợ nước ngoài tăng nhanh, việc
sử dụng nợ vay kém hiệu quả, thất thoát lãng phí, dịch vụ trả nợ tăng nhanh trong
khi nền kinh tế tăng trưởng chậm, xuất khẩu gặp khó khăn sẽ dẫn đến khủng hoảng
nợ.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, khủng hoảng tiền tệ
luôn đe dọa các nền kinh tế, việc vay nợ nước ngoài luôn gắn với các rủi ro tài chính
qua các yếu tố tỷ giá, chi phí sử dụng nợ, lạm phát,… đây là vấn đề mà nhiều nhà
kinh tế đã cảnh báo. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát cao, giá trị đồng nội
tệ ngày càng suy giảm so với ngoại tệ vay nợ, thì quy mô nợ và gánh nặng trả nợ
ngày càng lớn. Thực tế các nước cho thấy, việc vay nợ và sử dụng nợ kém hiệu quả
đã dẫn nhiều nước đến tình trạng “vạ nợ”, chìm đắm trong khủng hoảng nợ. Như
vậy, có thể xem nợ nước ngoài như là một “con dao hai lưỡi”, vừa giúp các nước
đang “thiếu vốn” tăng cường và đẩy mạnh phát triển kinh tế, ngược lại sẽ gây ra
những tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế của nước vay nợ.
Tìm hiểu vấn đề này, trong nước cũng đã có nhiều các phân tích về mối quan hệ
giữa nợ nước ngoài và phát triển kinh tế nhưng phần lớn các phân tích thuộc về định
tính, tổng hợp và đưa ra nhận xét tình hình nợ nước ngoài của nước ta hiện nay. Một
số ít nghiên cứu sử dụng mô hình định lượng nhưng không có biến trực tiếp giải
thích mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, để tìm hiểu kỹ
3
hơn về vấn đề này, tác giả quyết định chọn đề tài “Nợ nước ngoài đối với tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, làm cho nợ công
và nợ nước ngoài trở thành vấn đề sống còn của nhiều nước trên thế giới, nhất là các
nước Châu Âu đang chìm đắm trong nợ và đang là vấn đề được quan tâm đặt biệt ở
Việt Nam hiện nay. Bởi vì, nợ nước ngoài là một biến kinh tế vĩ mô tác động mạnh
đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Những năm gần đây, nợ nước ngoài của Việt
Nam tăng lên rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế, điều này đã gây nhiều quan
ngại cho những nhà kinh tế, nhà hoạch định chính sách và Chính phủ Việt Nam. Do
đó, việc nghiên cứu sâu hơn sự tác động này trong thực trạng của nền kinh tế Việt
Nam là hết sức cần thiết, để rút kinh nghiệm và đề xuất những biện pháp, những
chính sách quản lý vay nợ nước ngoài một cách có hiệu quả nhất, đảm bảo sự tăng
trưởng kinh tế bền vững trong tương lai.
Ngoài việc tập trung phân tích nguyên nhân gia tăng nợ nước ngoài ở hai góc độ
thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách, nghiên cứu còn đo lường một số yếu tố
vĩ mô ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam bằng kỹ thuật phân tích đồng
liên kết và mô hình hiệu chỉnh sai số (VECM –Vector Error correction model). Đây
là kỹ thuật được rất nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài ứng dụng khi nghiên cứu về
tăng trưởng kinh tế, vì nó phù hợp với đặc điểm dữ liệu chuỗi thời gian.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là phân tích, nghiên cứu để tìm hiểu thực trạng vay nợ nước
ngoài của Việt Nam hiện nay. Định lượng mối quan hệ giữa nợ nước ngoài đối với
tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Từ đó, rút ra các nhận xét và đề xuất một số biện
pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam.
4
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên thì luận văn đi tìm câu trả lời cho các câu
hỏi sau:
- Mức vay nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay cao hay thấp?
- Có tồn tại mối quan hệ giữa nợ nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam hay không?
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp:
- Định tính: Thu thập thông tin, tổng hợp và phân tích số liệu từ các bài viết, bài
nghiên cứu trong và ngoài nước.
- Định lượng: Tác giả sử dụng kỹ thuật phân tích đồng liên kết để phân tích cân
bằng dài hạn và mô hình VECM để phân tích cân bằng ngắn hạn của một số
yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế giai đoan 1986 - 2012.
1.5 Bố cục của luận văn
Ngoài phần giới thiệu này thì phần còn lại của luận văn được chia thành 4 phần:
- Phần 2: Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về nợ nước ngoài
và tăng trưởng kinh tế
- Phần 3: Thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 1986 - 2012
- Phần 4: Định lượng mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam
- Phần 5: Một số đề xuất nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam
5
2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ
NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
2.1 Khái niệm về nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế
2.1.1 Nợ nước ngoài
Theo từ điển thuật ngữ về ngân hàng và tài chính của Nhà xuất bản Peter Collin tái
bản năm 1997, thì nợ nước ngoài là khoản vay nợ của một quốc gia từ một quốc gia
khác, nói cách khác, chủ nợ thường trú ở nước ngoài và con nợ thường trú trong
nước. Như vậy, nợ nước ngoài bao gồm các khoản nợ trên thị trường nợ nội địa
nhưng chủ nợ là những người không cư trú ở nội địa.
Về cơ cấu, nợ nước ngoài bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ nước
ngoài của khu vực tư nhân. Nợ nước ngoài của khu vực công bao gồm: nợ nước
ngoài của Chính phủ, nợ nước ngoài của chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (nếu có), nợ nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức tài
chính, tín dụng nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước trực tiếp vay nước ngoài
và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân có bảo lãnh của Chính phủ.
2.1.2 Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về giá trị trong phạm vi một nền kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế được phản ánh ở nhiều chỉ tiêu nhưng chỉ tiêu thường được sử dụng
là Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), tổng thu nhập
quốc dân (GNI), tăng trưởng vốn, lao động, sự gia tăng dung lượng thị trường... Sự
tương tác giữa các bộ phận cấu thành GDP như tiêu dùng nội địa, đầu tư, chi tiêu
chính phủ và cán cân thương mại sẽ làm thay đổi tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Quá trình tăng trưởng thể hiện các nguồn lực tăng trưởng như tài nguyên thiên
nhiên, vốn, lao động, công nghệ, quản lý, quan hệ, thị trường... được khai thác và sử
6
dụng có hiệu quả cao nhất. Tăng trưởng kinh tế bao hàm cả tăng trưởng theo chiều
rộng và chiều sâu, số lượng và chất lượng, ngắn hạn và dài hạn... Nhiều công trình
nghiên cứu trong ngoài nước đã lượng hóa tác động của các nguồn lực tăng trưởng
đến chất lượng và động thái tăng trưởng thông qua các mô hình như mô hình tái sản
xuất giản đơn của C.Mác, tái sản xuất mở rộng của V.I.Lênin, mô hình các giai đoạn
tăng trưởng kinh tế của W.Rostow hoặc Solow... hoặc hàm sản xuất Cob Douglas.
Quá trình tăng trưởng kinh tế có thể có nhiều mô hình khác nhau như tăng trưởng
kinh tế hướng nội, tăng trưởng kinh tế hướng ngoại hoặc sự kết hợp của cả hai mô
hình này tùy điều kiện và sự lựa chọn chiến lược của các quốc gia. Như vậy, tăng
trưởng kinh tế là quá trình tích lũy giá trị gia tăng của một nền kinh tế từ các nguồn
lực trong và ngoài nước và nó phải được thúc đẩy bằng những động lực đủ mạnh
của chính sách, lòng tự hào dân tộc hoặc những yếu tố khác trong điều kiện toàn cầu
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1.3 Tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế
Theo Tokunbo và cộng sự (2007), các nghiên cứu ban đầu của các nhà kinh tế trong
những thập niên 50 và 60 đã tìm thấy một lý thuyết chung về nợ nước ngoài và tăng
trưởng kinh tế. Tất cả họ đều chia sẻ quan điểm chung rằng việc chuyển giao các
nguồn lực nước ngoài (thông qua các khoản vay, viện trợ và tài trợ) tại các nước
kém phát triển là cần thiết, nó bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước. Với nguồn
vốn được bổ sung sẽ giúp các nước chuyển đổi nền kinh tế của họ để tạo ra mức
tăng trưởng cao hơn. Qua quá trình này có thể thấy mối liên hệ giữa nợ nước ngoài
và tăng trưởng kinh tế là với một quốc gia đang phát triển mức vay nợ hợp lý có khả
năng tăng cường tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia ở giai đoạn phát triển đầu với
dung lượng vốn nhỏ hơn sẽ có những cơ hội đầu tư với tỷ suất hoàn vốn cao hơn so
với các nền kinh tế phát triển. Do vậy chỉ cần các quốc gia này sử dụng vốn vay để
7
đầu tư sản xuất, tăng trưởng sẽ tăng và cho phép họ thanh toán các khoản nợ vay kịp
thời. Điều này cũng hàm ý rằng trong ngắn hạn mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa nợ
nước ngoài và tăng trưởng có thể giúp các nước này vượt qua chu kỳ nợ hợp lý.
Theo Soludo (2001), chu kỳ nợ có 3 giai đoạn: trong giai đoạn đầu tiên nợ phát triển
để bổ sung vào nguồn lực thiếu hụt trong nước, trong giai đoạn thứ hai, quá trình sử
dụng nợ tạo ra thặng dư nhưng có thể không đủ bù đắp các khoản thanh toán lãi
suất, trong khi giai đoạn thứ ba, quá trình sử dụng nợ phải tạo ra thặng dư đủ để
trang trải lãi và nợ gốc.
Câu hỏi đặt ra là tại sao mức nợ tích lũy cao quá mức hợp lý lại có thể dẫn tới tăng
trưởng kinh tế thấp hơn. Sự lý giải tốt nhất có thể xuất phát từ lý thuyết “debt overhang”.
Theo Krugman (1988) định nghĩa “debt overhang” là tình trạng trong đó số tiền dự
kiến chi trả nợ nước ngoài sẽ giảm dần khi dung lượng nợ tăng lên. Lý thuyết “debt
overhang” cho rằng nếu như nợ trong tương lai vượt quá khả năng trả nợ của một
nước thì các chi phí dự tính chi trả cho các khoản nợ sẽ kìm hãm đầu tư trong nước
và đầu tư nước ngoài, từ đó ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng. Các nhà đầu tư tiềm
năng sẽ lo sợ rằng khi quốc gia đó sản xuất càng nhiều, họ sẽ bị các nước đánh thuế
nặng hơn để chi trả cho các khoản nợ nước ngoài, do đó các nhà đầu tư sẽ khó có
thể bỏ các chi phí đầu tư hiện tại để thu về sản lượng cao hơn trong tương lai. Lý
thuyết “debt overhang” còn đi đến một kết quả rộng hơn, đó là mức nợ nước ngoài
quá cao sẽ làm giảm các ưu đãi của chính phủ cho các hoạt động cải tổ cơ cấu và tài
khóa do việc củng cố tình hình tài khóa quốc gia có thể làm tăng áp lực trả nợ cho
nước ngoài. Những bất lợi này đối với công cuộc cải tổ đang là mối quan ngại lớn ở
các nước có thu nhập thấp, nơi mà việc cải cách cơ cấu là cần thiết để duy trì tốc độ
tăng trưởng kinh tế.
8
Tình trạng “Debt overhang” cũng đồng thời kìm hãm đầu tư và tăng trưởng do gây
ra sự lo ngại về các quyết định của Chính phủ. Khi quy mô nợ công tăng lên, khó có
thể chắc chắc rằng chính phủ sẽ viện tới những chính sách gì để giải quyết các
khoản nợ phải trả. Trên thực tế, người ta cho rằng Chính phủ có thể dùng các công
cụ tác động đến đầu tư để chi trả cho các khoản nợ (theo Agenor và Montiel 1996).
Lập luận này có thể được xem xét trong đường cong Laffer về nợ (Hình 2.1), cho
thấy rằng tổng nợ càng lớn sẽ đi kèm với khả năng trả nợ càng giảm. Trên phần dốc
lên của đường cong, giá trị hiện tại của nợ càng tăng sẽ đi cùng với khả năng trả nợ
cũng tăng lên.Trên phần dốc xuống của đường cong, giá trị hiện tại của nợ càng tăng
lại đi kèm với khả năng trả nợ càng giảm.
Debt Overhang
Khả năng trả nợ
Dung lượng nợ
Hình 2.1: Đường cong Laffer nợ
Nguồn: Catherine Pattillo, Hélène Poirson and Luca Ricci (2002): “External Debt
and Growth”, Magazine Finance and Development of the IMF
9
Đỉnh đường cong Laffer nợ (hình 2.1) là điểm mà tại đó sự tăng lên trong tổng nợ
bắt đầu tạo ra gánh nặng cho đầu tư, cải tổ kinh tế và các hoạt động khác, điểm này
có thể liên quan đến điểm mà tại đó nợ bắt đầu ảnh hưởng ngược chiều đến tăng
trưởng. Do vậy, ở mức nợ hợp lí, vay nợ tăng lên sẽ có tác động tích cực đến tăng
trưởng. Ngược lại, tổng nợ tích lũy lớn sẽ có thể cản trở tăng trưởng.
Dung lượng nợ lớn có thể ảnh hưởng ngược chiều đến tăng trưởng do tác động xấu
đến tích lũy vốn sản xuất và tăng trưởng năng suất các nhân tố tổng hợp. Bên cạnh
đó, môi trường chính sách của Chính phủ cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa nợ
và tăng trưởng.
Nợ công đã tăng lên đáng kể ở hầu hết các nước đã và đang phát triển hiện nay, đây
là hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Và sự gia tăng nợ công
đã dấy lên lo ngại liệu nó đang bắt đầu đạt đến mức độ mà tại đó nó có thể làm chậm
tăng trưởng kinh tế. Có một "đỉnh điểm" tồn tại? Làm thế nào tác động tăng trưởng
mạnh mẽ được nếu nợ đã vượt qua ngưỡng? Điều gì sẽ xảy ra nếu nợ vẫn ở mức cao
trong một thời gian dài?
Theo nghiên cứu của Reinhart và Rogoff (2010), sử dụng biểu đồ tổng hợp từ 44
quốc gia phát triển và đang phát triển, họ tìm thấy một ngưỡng nợ của chính phủ
trên GDP 90%, nếu vượt quá mốc này tốc độ tăng trưởng thực tế giảm. Ngưỡng này
được xem là “điểm tới hạn” hay “ngưỡng nợ”.
Theo nghiên cứu của Mehmet Caner, Thomas Grennes và Koehler Fritzi-Geib, các
chuyên gia kinh tế của World bank (2010) bằng lý thuyết và thực nghiệm trên mẫu
là 101 quốc gia (75 quốc gia đang phát triển và 26 quốc gia phát triển), trong đó có
Việt Nam, về mối quan hệ trong dài hạn giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, giai
đoạn 1980 - 2008, phân tích này cung cấp một nền tảng cho sự phát triển các nghiên
cứu chứng minh sự tồn tại ngưỡng nợ và ước tính ngưỡng nợ (nợ công trên GDP)
10
cho từng quốc gia, từ đó có những chính sách phù hợp đối phó với nguy cơ khủng
hoảng nợ đang đe dọa các nước có nợ nước ngoài cao hiện nay. Và kết quả nghiên
cứu cho thấy có sự tồn tại ngưỡng nợ (Debt threshold), mức ngưỡng của tỷ lệ nợ
công trung bình dài hạn so với GDP là 77% cho các nhóm mẫu chung (gồm các
quốc gia đã phát triển và đang phát triển) và 64% cho các các nước đang phát triển.
Nếu nợ công vượt qua mức 77%, mỗi điểm phần trăm tăng thêm trong tỷ lệ nợ công
trên GDP của nền kinh tế làm mất 0,0174 điểm phần trăm tăng trưởng thực trung
bình hàng năm. Hiệu ứng này là rất quan trọng. Dưới ngưỡng này, mỗi điểm phần
trăm tăng thêm trong tỷ lệ nợ công trên GDP của nền kinh tế làm tăng 0,065 điểm
phần trăm tăng trưởng thực trung bình hàng năm. Như vậy, có sự tồn tại ngưỡng nợ,
đây là giá trị tới hạn.
2.1.4 Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài đối các quốc gia có thu
nhập thấp
Các chỉ số đánh giá mức độ an toàn về nợ nước ngoài được xây dựng thành hệ thống
nhằm xác định mức độ nghiêm trọng của nợ nước ngoài đối với an ninh tài chính
quốc gia. Cũng cần phải xác định lại là các chỉ tiêu đánh giá chung về nợ nước
ngoài, trong đó nợ nước ngoài của Chính phủ là chủ yếu, còn nợ của khu vực tư
nhân hầu như không đáng kể.
a. Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ nước ngoài của IMF
Theo quan điểm của IMF thì tiêu chí đánh giá an toàn nợ nước ngoài đối với các
quốc gia có thu nhập thấp dựa vào hiện giá thuần của nợ và dịch vụ nợ (nghĩa vụ trả
nợ), một chính sách nợ yếu đồng nghĩa an toàn về nợ và một chính sách nợ mạnh
đồng nghĩa với kém an toàn về nợ.
11
Bảng 2.1: Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn về nợ của IMF
Gánh nặng nợ theo tiêu chí DSF
NPV của nợ so với (%) Dịch vụ nợ so với (%)
GDP
Xuất khẩu 100 30 Thu ngân sách 200 Xuất khẩu 15 Thu ngân sách 25
150 40 250 20 30
200 50 300 25 35 Chính sách nợ yếu Chính sách nợ trung bình Chính sách nợ mạnh
- Tỷ lệ NPV của nợ/xuất khẩu (NPV/X): đo lường hiện giá thuần của nợ nước
ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia từ nguồn thu xuất khẩu.
Một nước có chính sách nợ yếu hay ở trong ngưỡng an toàn về nợ nước ngoài
thì sẽ có tỷ lệ NPV nợ/xuất khẩu ≤ 100%, chính sách nợ trung bình với tỷ lệ là
150% và chính sách nợ mạnh hay kém an toàn về nợ thì tỷ lệ này là 200%.
- Tỷ lệ NPV của nợ/thu ngân sách nhà nước (NPV/DBR): đo lường hiện giá
thuần của nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ
nguồn thu ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, chỉ tiêu thứ hai chỉ được sử dụng nếu như đáp ứng hai điều kiện: (i)
tỷ lệ xuất khẩu/GDP (X/GDP) phải lớn hoặc bằng 30% và (ii) tỷ lệ thu ngân
sách nhà nước/GDP ( DBR/GDP) phải lớn hơn 15%. Một quốc gia được xem
là an toàn nếu như NPVcủa nợ/X nhỏ hơn 100%; NPVcủa nợ/DBR nhỏ hơn
200%.
- Tỷ lệ NPV của nợ/GDP (NPV/GDP): đo lường hiện giá thuần của nợ nước
ngoài trên tổng thu nhập quốc nội.
12
- Dịch vụ nợ/xuất khẩu (TDS/X) và dịch vụ nợ/nguồn thu ngân sách
(TDS/DBR): là những chỉ tiêu đo lường tính lỏng được IMF đưa vào để đánh
giá mức độ bền vững nợ công. TDS/X đo lường khả năng thanh toán dịch vụ
nợ từ nguồn thu xuất khẩu. Còn TDS/DBR đo lường khả năng thanh toán dịch
vụ nợ từ thu ngân sách nhà nước. Một quốc gia đảm bảo tính lỏng, TDS/X phải
thấp hơn 15% và TDS/DBR thấp hơn 25%.
b. Tiêu chí của Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá mức độ nợ của các quốc
gia vay nợ
Bảng 2.2: Tiêu chí đánh giá mức độ nợ nước ngoài của WB
Chỉ số Mức độ bình thường Mức độ khó Mức độ trầm trọng
≤30% 30-50% ≥50%
≤165% 165-200% ≥200%
≤18% 18-30% ≥30%
≤2% 2-4% ≥4%
Tỷ lệ % tổng nợ nước ngoài so với GDP Tỷ lệ % tổng nợ nước ngoài so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ Tỷ lệ % nghĩa vụ trả nợ so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ Tỷ lệ % nghĩa vụ trả nợ so với GDP Tỷ lệ % nghĩa vụ trả lãi so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ≤12% 12-20% ≥20%
Dựa vào các chỉ số trên, các tổ chức tài chính quốc tế có thể đánh giá mức độ nợ nần
và khả năng tài trợ cho các nước thành viên. Các chỉ số này cũng là căn cứ để các
quốc gia vay nợ tham khảo, xác định tình trạng nợ để hoạch định chiến lược vay nợ
cho quốc gia.
13
Quy mô nợ và trả nợ, trả lãi so với nguồn thu trực tiếp và gián tiếp để trả nợ thường
được dùng để đánh giá mức độ nợ. Mức độ nợ cũng ngầm cho biết khả năng trả nợ
của các quốc gia trong trung và dài hạn. Các chỉ tiêu thường dùng:
- Khả năng hoàn trả nợ vay nước ngoài: đo bằng tỷ số Tổng nợ/Tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa dịch vụ (EDT/XGS). Chỉ tiêu này biểu diễn tỷ lệ nợ nước ngoài bao
gồm nợ tư nhân, nợ được chính phủ bảo lãnh trên thu nhập xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ. Ý tưởng sử dụng chỉ tiêu này là nhằm phản ánh nguồn thu xuất khẩu hàng
hóa và dịch vụ là phương tiện mà một quốc gia có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài.
- Tỷ lệ nợ nước ngoài so với tổng sản phẩm quốc nội (EDT/GDP): Đây là chỉ tiêu
đánh giá khả năng trả nợ thông qua tổng sản phẩm quốc nội được tạo ra. Hay nói
cách khác, nó phản ánh khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài. Thông thường các
nước đang phát triển thường đánh giá cao giá trị đồng nội tệ hoặc sử dụng chế độ đa
tỷ giá dẫn tới làm giảm tình trạng trầm trọng của nợ. Do vậy, tình trạng nợ có thể
không được đánh giá đúng mức.
2.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của nợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế
2.2.1 Các nghiên cứu của tác giả nước ngoài
Đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm về tăng trưởng kinh
tế. Các tác giả tập trung vào việc đo lường ảnh hưởng của các biến kinh tế vĩ mô tác
động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế và phổ biến là đo lường ảnh hưởng của nợ
nước ngoài, nghĩa vụ trả nợ, đầu tư nội địa, đầu tư nước ngoài,.. đến tăng trưởng
kinh tế.
Cunningham (1993) với nghiên cứu 16 nước là con nợ lớn trong giai đoạn từ năm
1980 đến 1987 đã tìm ra kết quả có mối quan hệ ngược chiều giữa tăng trưởng kinh
14
tế và gánh nặng vay nợ. Và Fosu (1999) trong bài nghiên cứu cho 35 nước châu Phi
đã chứng minh sự tồn tại của lý thuyết “debt overhang”. Tuy nhiên, Cohen (1993)
trong nghiên cứu 81 nước đang phát triển đã đưa ra kết luận rằng nợ nước ngoài
không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn nghiên cứu từ năm
1971 đến 1988.
Một vài nghiên cứu gần đây lại tìm ra các kết quả cho thấy tồn tại mối quan hệ phi
tuyến dạng đường cong Laffer như mối quan hệ “threshold level” giữa dung lượng
nợ nước ngoài và tăng trưởng. Sử dụng bộ số liệu của 93 nước đang phát triển trong
giai đoạn 1969 – 1998, Pattillo (2002) đã chứng minh rằng ảnh hưởng của nợ nước
ngoài tác động ngược chiều đến tăng trưởng GDP bình quân đầu người tại tỷ lệ giá
trị hiện tại của nợ trên xuất khẩu là 160-170% và trên GDP là 35-40%.
Tokunbo và cộng sự (2007) nghiên cứu mối quan hệ thâm hụt ngân sách, nợ nước
ngoài và tăng trưởng kinh tế của Nigeria trong giai đoạn phát triển kinh tế từ năm
1970 – 2003. Nghiên cứu đã khẳng định tồn tại đường cong Laffer nợ tại Nigeria.
Ngưỡng nợ được tìm thấy ở mức 60%. Dưới mức này quan hệ giữa GDP và tỷ lệ nợ
nước ngoài trên GDP là cùng chiều, nếu vượt quá 60% sẽ tác động tiêu cực đến
GDP.
Bài nghiên cứu này tác giả sử dụng mô hình định lượng tương tự như nghiên cứu
của Frimpong, J. M. and Oteng-Abayi, E. F., đăng trong Tạp chí Khoa học và Công
nghệ, Vol 26 No.3, 12/2006 “The Impact Of External Debt On Economic Growth In
Ghana: A Cointegration Analysis”. Trọng tâm nghiên cứu của Frimpong, J. M. and
Oteng-Abayi, E. F là đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế
của Ghana bằng cách phân tích số liệu chuỗi thời gian. Tác giả đã sử dụng bộ dữ
liệu thời gian từ năm 1970 - 1999 để tiến hành các bước thực nghiệm.
Tình hình kinh tế của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với Ghana đều là các
15
nước đang phát triển, đặc biệt là có mức nợ nước ngoài cao trong những năm của
thập niên 80 nhưng hiện tại nhờ những chính sách vay và sử dụng nợ hợp lý thì thực
trạng nợ nước ngoài đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Những năm của thập niên 80, Ghana phải đối mặt với một vấn đề nợ rất nghiêm
trọng, các khoản thanh toán nợ nước ngoài là 577 triệu USD (114% GDP) vào cuối
năm 1982. Cuộc khủng hoảng nợ này là do sự tăng vọt giá dầu trên thị trường quốc
tế, và việc tăng lãi suất cho vay ở phương Tây, trong bối cảnh các chính sách kinh tế
và quản lý kinh tế trong nước yếu kém. Vào cuối năm 2000, nợ của Chính phủ
Ghana và nợ bảo lãnh đã lên đến 6 tỷ USD, chiếm khoảng 571% của doanh thu tài
chính, 157% xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, và 78% của GDP.
Tình trạng nợ nước ngoài của Ghana cũng giống như các nước HIPCs với các tỷ số
về nợ nước ngoài trên GDP rất cao, chỉ ra rằng Ghana đứng nguy cơ của việc tích
lũy nợ, có thể là không bền vững trong dài hạn. Xu hướng này nếu không được kiểm
tra có thể có dẫn vào một cuộc khủng hoảng nợ, có thể làm cho đất nước một tình
trạng rủi ro tài chính nghiêm trọng.
Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình thực
nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp Augmented Dickey-Fuller (ADF), Phillips-
Perron (PP) và KPSS để kiểm nghiệm đơn vị và tiếp tục sử dụng phương pháp phân
tích đồng tích hợp (Co-integration) của Johansen-Juselius để đo lường các mối quan
hệ trong dài hạn giữa các biến (quan hệ đồng liên kết). Cuối cùng, tác giả sử dụng
mô hình điều chỉnh sai số VECM (Vector Error Correction Model) để thực hiện
khảo sát mối quan hệ động trong ngắn hạn giữa các biến vĩ mô. Từ đó, rút ra kết
luận và nhận xét đề xuất. Mô hình cụ thể như sau:
Yt = α0 + α1 lnEDTt + α2 lnTDSt + α3 lnINVt + α4 lnFDIt + α5 EXPt + εt
16
Trong đó: Biến Y là biến phụ thuộc đại diện cho mức tăng trưởng kinh tế, biến EDT
là tỷ số giữa tổng số nợ nước ngoài trên GDP, biến TDS là tỷ lệ tổng dịch vụ nợ trên
xuất khẩu, biến INV là tỷ lệ đầu tư trong nước trên GDP, biến FDI là tỷ lệ đầu tư
trực tiếp nước ngoài trên GDP, và biến EXP là chỉ tiêu đại diện cho biến đo lường
độ mở của nền kinh tế, được tính bằng cách lấy tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa dịch
vụ chia cho tổng giá trị nhập khẩu; α1,…, α5 lần lượt là hệ số ước lượng của các biến
kinh tế trên.
Các yếu tố quyết định phân tích của tác giả là một mô hình tăng trưởng Elbadawi. Et
al (1996) trong đó tăng trưởng phụ thuộc vào đầu tư quốc nội, đầu tư trực tiếp nước
ngoài, dịch vụ nợ, nguồn vốn nợ nước ngoài và năng lực xuất khẩu.
Kết quả thực nghiệm có sự tồn tại của một phương trình tăng trưởng dài hạn tại
Ghana. Trong dài hạn, dòng nợ nước ngoài (EDT), dịch vụ nợ (TDS) và đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP. Sự gia tăng dòng vốn nợ
nước ngoài có tác dụng tích cực đối với tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, sự gia tăng
dịch vụ nợ nước ngoài làm giảm tăng trưởng kinh tế, hay tồn tại “hiệu ứng lấn át” .
Bên cạnh đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có ảnh hưởng tích cực và đáng
kể đến tăng trưởng GDP. Đầu tư nội địa (INV) đã bất ngờ tác động tiêu cực và đáng
kể vào sự tăng trưởng.
Ngoài ra, còn một số nghiên cứu phân tích đánh giá mối quan hệ tác động giữa nợ
nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế tại các nước Kenya, Nepal, Pakistan và Turkye,
với kết quả tóm lượt như sau:
17
Bảng 2.3: Một số nghiên cứu thực nghiệm gần đây về mối quan hệ giữa nợ
nước ngoài và tăng trưởng kinh tế
Năm Tác giả Kết quả
Rockerbie
1994 Thời gian và quốc gia nghiên cứu Việc chi trả cho các khoản nợ nước 1965-1990, ngoài ảnh hưởng ngược chiều đến 13 nước đang tăng trưởng kinh tế. phát triển
2001 Maureen Were 1970-1995, Kenya
Nợ nước ngoài đã tác động tiêu cực tăng trưởng kinh tế thực, sự gia tăng trong tỷ lệ dịch vụ nợ hiện tại ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tư nhân, điều này khẳng định hiệu ứng lấn át dịch vụ nợ trên đầu tư tư nhân.
2002 Karagol, Causality 1965-2001, Turkey
Tồn tại một mối quan hệ tiêu cực giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế trong thời gian dài. Chi trả cho nợ nước ngoài ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Có quan hệ nhân quả đơn hướng chạy từ dịch vụ nợ đến tăng trưởng kinh tế
2008 Krishna 1986- 2006,
Prasad Regmi Nepal
Sự gia tăng nợ nước ngoài và dịch vụ nợ đã tác động tiêu cực, gây khó khăn trở ngại tăng trưởng kinh tế.
2010 Shahnawaz 1972-2005, Pakistan
Nợ nước ngoài tác động tiêu cực đáng kể đến tăng trưởng kinh tế. nợ nước ngoài, là nguyên nhân chính của suy giảm trong đầu tư sẽ dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế.
Malik ; Muhammad Khizar Hayat và Muhammad Umer Hayat
18
Nhìn chung phần lớn các nghiên cứu của tác giả nước ngoài cho rằng nợ nước ngoài
có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, dịch vụ nợ cao gây ra hiện tượng lấn át
đầu tư tư nhân, đầu tư trong nước và hoạt động xuất khẩu có đóng góp tích cực vào
tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển.
2.2.2 Các nghiên cứu của tác giả trong nước
Trong nước hiện chưa có nhiều nghiên cứu sử dụng mô hình định lượng để giải
thích tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, điển hình thì có
nghiên cứu của Ths. Đoàn Kim Thành – Viện nghiên cứu phát triển Tp.Hồ Chí Minh
(HIDS), đã thực hiện với đề tài: “Vốn vay ODA và khả năng trả nợ của Việt Nam,
giai đoạn 1990-2005”, trình bày tại Hội nghị nhóm các nhà tư vấn tài trợ cho Việt
Nam, ngày 4/12/2008. Trọng tâm của nghiên cứu này qua sử dụng mô hình hệ thống
dạng tĩnh lược của Jame de Pines và mô hình hồi quy bội để giải thích tác động của
nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Mục đích của nghiên cứu nhằm
tìm hiểu liệu nợ nước ngoài ở Việt Nam có bền vững hay không và đóng góp của nó
cho tăng trưởng kinh tế như thế nào. Tác giả đã sử dụng số liệu từ Ngân hàng Thế
giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Tổng Cục thống kê Việt Nam
(GSO), để phân tích thực nghiệm.
Trước tiên, tác giả đã phân tích định tính tổng quan về tình hình vay vốn ODA, đánh
giá khả năng chịu đựng nợ của Việt Nam theo khung của WB và IMF, chỉ số độ an
toàn nợ của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1990 đến 2005. Đánh giá chung nợ
nước ngoài đối với Việt Nam cho tới thời điểm này chủ yếu là vốn ODA với lãi suất
thấp và thời gian cho vay dài, tỷ lệ vay thương mại là không đáng kể. Các chỉ số an
toàn về nợ nước ngoài cho thấy Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn và khó có
khả năng xảy ra khủng hoảng về nợ.
19
Tuy nhiên đánh giá này chỉ mới thấy được tính thanh khoản trong thời điểm hiện tại
mà chưa dự báo tới khả năng khủng hoảng nợ trong tương lai, để làm rõ hơn vấn đề
trên tác giả tiến hành phân tích thực nghiệm mối quan hệ của nguồn vốn ODA tác
động đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Việc phân tích tập trung và mô hình nợ bền
vững Jame de Pines và mô hình hồi qui bội.
Mô hình hồi quy bội giải thích tăng trưởng kinh tế có dạng như sau:
Trong đó: gt là biến phụ thuộc đại diện cho tăng trưởng kinh tế, biến I là tỷ lệ đầu
tư trong nước, biến X là giá trị xuất khẩu, biến INFt-1 là mức độ lạm phát có độ trễ
thời gian là 1 kỳ, biến FDI đầu tư trực tiếp của nước ngoài, biến TDS/GDP là tỷ lệ
dịch vụ nợ trên GDP, biến AID/GDP là tỷ lệ viện trợ của nước ngoài trên GDPt-1,
(AID có độ trễ thời gian là 1 kỳ)
Kết quả chạy mô hình
Qua số liệu từ kết quả của mô hình ta thấy, đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài và
xuất khẩu đóng góp vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam 20 năm qua; Viện trợ có thể
không trực tiếp tác động hay tác động ít (nghịch biến) đến tăng trưởng, nhưng có thể
có tác động đến tăng trưởng phúc lợi bình quân đầu người thông qua các dự án công.
Nợ có thể tác động âm đến tăng trưởng, có thể do vay mượn và sử dụng không hiệu
quả hay có thể đầu tư vào các dự án dài hạn mà tác động của nó nằm ngoài mô hình
này.
20
Mô hình hệ thống dạng tĩnh lược của Jame de Pines cho thấy nợ Việt Nam đến năm
2020 vẫn bền vững (nợ trên xuất khẩu dưới 200%) nếu tốc độ tăng trưởng nhập khẩu
so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dưới 2% hàng năm. Nợ nước ngoài có tác động
âm đến tăng trưởng Việt Nam trong ngắn hạn. Cho nên việc quản lý và sử dụng các
khoản vay phải tính toán đến nhiều yếu tố: Chênh lệch lãi suất và lạm phát trong và
ngoài nước, thời điểm vay và thời gian vay, ràng buộc của các khoản vay, hiệu quả
kinh tế và xã hội của việc phân bổ và sử dụng nguồn vốn đi vay, thời điểm trả nợ.
Như đã phân tích ở trên, tác động của nợ cũng như viện trợ là đến phúc lợi bình
quân đầu người hơn là tăng trưởng kinh tế. Việt Nam hiện tại và trong tương lai gần
không gặp rủi ro về nợ nước ngoài để có thể dẫn tới một sự khủng hoảng kinh tế
trong trường hợp không có sự đột biến lớn.
21
3. THỰC TRẠNG NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 -
2012
3.1 Tổng quan về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 1986 - 2012
Để khái quát tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam (gồm Nợ Chính phủ và nợ do
Chính phủ bảo lãnh) trong giai đoạn 1986 - 2012, chúng ta nên xem xét trên các
phương diện: Quy mô nợ, dịch vụ nợ so với GDP, cơ cấu nợ, các chỉ số về an toàn
nợ và khả năng trả nợ của Việt Nam.
Qua số liệu thống kê cho thấy, tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam hiện đang
có xu hướng tăng rất nhanh và luôn ở mức cao so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do
đó, nguy cơ khủng hoảng nợ công như các nước Châu Âu (Hy lạp, Ireland,…) là
điều có thể, nếu không có những chính sách quản lý và sử dụng vốn vay một cách có
60%
160,000
40%
140,000
hiệu quả thì sẽ đi vào vết xe đỗ của các nước Nam Âu hiện nay.
D S U u ệ i r T
20%
120,000
0%
100,000
-20%
80,000
-40%
60,000
-60%
40,000
-80%
20,000
-100%
0
1986 1988 1990 1992 1994 1996 1998 2000 2002 2004 2006 2008 2010 2012
Năm
Nợ nước ngoài
Tăng trưởng GDP
GDP
Dịch vụ nợ
Nguồn: WB
Hình 3.1: Nợ nước ngoài, dịch vụ nợ, GDP và tăng tưởng GDP trong giai đọan
1986 - 2012
22
Trong những năm đầu thập niên 90, Việt Nam là một nước nợ lớn, nợ nước ngoài
cao rất nhiều lần so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP), điển hình: năm 1990 là
23,27 tỷ USD trong khi GDP chỉ là 6,4 tỷ USD, điều này cho thấy sự khủng hoảng
về khả năng thanh toán nợ của Việt Nam. Trong giai đoạn này, do được hưởng
những ưu đãi của Hội đồng tương trợ kinh tế (CMEA/SEV), Việt Nam đã vay nợ rất
lớn từ tổ chức này, chủ yếu là vay từ các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là vay nợ của
Liên Xô cũ và các nước Đông Âu với lãi suất ưu đãi rất thấp hoặc miễn lãi suất và
kỳ hạn trả nợ 20-30 năm. Ngoài ra, viện trợ không hoàn lại chiếm phần lớn trong số
vay đó.
Sau khi hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa tan rã ở Đông Âu (Năm 1991), Hội đồng tương
trợ kinh tế không còn nữa, mức nợ tồn đọng trước đó tiếp tục sinh lãi, nên nợ của
Việt Nam vẫn ở mức cao, từ 23,27 tỷ USD năm 1990 tăng lên 26,25 tỷ USD năm
1996.
Đến năm 1997, tổng nợ cũng như dịch vụ nợ của Việt Nam bắt đầu được cải thiện,
từ 27% trên giá trị xuất khẩu năm 1989 giảm xuống còn chưa tới 12% năm 1997,
điều này có được nhờ Việt Nam được giảm nợ và bố trí lại lịch trả nợ theo điều
khoản của câu lạc bộ Paris và các điều khoản của câu lạc bộ London chứ không phải
nỗ lực trả nợ của Việt Nam.
Trong thời gian từ năm 1993 - 1997, Việt Nam đã đàm phán song phương với các
chủ nợ thành viên câu lạc bộ Paris, tổng nợ được giảm là 745 triệu USD. Đến tháng
5-1996, Việt Nam đã thỏa thuận với câu lạc bộ London, kết quả giảm 53% nghĩa vụ
nợ theo phương án Brady qua các hình thức như: mua lại nợ, chuyển đổi nợ thành
các trái phiếu chiết khấu, chuyển đổi nợ trái phiếu ngang giá, chuyển đổi nợ thành
trái phiếu có lãi. Tháng 12/1997, Việt Nam đã hoàn tất được thỏa thuận giảm nợ là
572 triệu USD, trong đó nợ lãi là 304 triệu USD của các ngân hàng thương mại.
23
Tổng nợ năm 1997 đã giảm xuống còn 21,78 tỷ USD, tức là giảm 17% so với năm
1996, gánh nặng nợ nần đã giảm đáng kể.
Trong đó, khoản nợ cũ lớn nhất của Việt Nam là khoản nợ với Liên Bang Nga. Sau
tám vòng đàm phán kể từ 1994 - 2000, hai bên đã thỏa thuận và ký kết hiệp định xử
lý nợ tổng thể của Việt Nam với Liên Xô (cũ), giảm nợ ngay 85% tổng nợ cũ, tương
đương 9,3 tỷ USD. Hiệp định này đã đưa mức nợ tồn đọng của năm 1999 là 23,26 tỷ
USD, giảm xuống còn 12,78 tỷ USD vào năm 2000. Cộng thêm vào đó, nền kinh tế
Việt Nam luôn tăng trưởng ở mức cao và ổn định trong thập niên 1990, nên đến năm
2000 tổng nợ chỉ khoảng 1/3 so với tổng sản phẩm quốc nội.
Đến hết năm 2006, tổng dư nợ nước ngoài của Việt Nam bằng 32,5% GDP giảm so
với các năm trước đó và chiếm 52% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng gần 2 lần
dự trữ ngoại hối. Năm 2007 tổng nợ ước tính là 32,6% GDP, chiếm 51% tổng kim
ngạch xuất khẩu.
Với ưu thế ổn định về chính trị và sự điều hành hợp lý của Chính phủ nền kinh tế đã
tăng trưởng khả quan, từ đó nước ta nhận được sự tín nhiệm rất cao của cộng đồng
quốc tế. Việt Nam liên tục nhận được những khoản vay ưu đãi hỗ trợ phát triển mà
nổi bật là những khoản ODA đến từ Nhật Bản, WB và ADB. Do đó, tổng nợ nước
ngoài của Việt Nam có xu hướng liên tục tăng trong những năm gần đây. Đến năm
2012, theo Bộ tài chính thì nợ nước ngoài của Việt Nam (Nợ của Chính Phủ và
Chính phủ bảo lãnh) vào khoảng 72,86 tỷ USD bằng khoảng 51,43% GDP.
Nhìn chung, Việt Nam đã thành công trong xử lý nợ đến hạn, khống chế được luồng
nợ vay ngắn hạn, nhưng còn một số vấn đề trong sử dụng và quản lý nợ ở nước ta
còn nhiều vướng mắc cần được giải quyết. Đó là trong vay nợ và viện trợ, chúng ta
chưa xác định rõ mục tiêu, hiệu quả kinh tế theo quan điểm thúc đẩy hàng hóa xuất
khẩu tạo ra lợi nhuận và có ngoại tệ để trả nợ. Nhiều cán bộ lãnh đạo của chúng ta
24
khi nhận được các khoản ODA vẫn còn nghĩ là “của cho không”, họ không có ý thức
vay là phải trả vì thế đã để buông lỏng trong quá trình thực hiện các dự án.
Ngay cả khi viện trợ không hoàn lại cũng có cái giá của nó, nhà tài trợ đòi hỏi người
sử dụng phải dùng vốn vào đúng mục đích, đúng nơi, đúng chỗ.
Việt Nam hiện chưa xây dựng một chiến lược vay và trả nợ cụ thể rõ ràng cho từng
khoản vay, do đó việc ban hành các chính sách và cơ chế quản lý không khỏi lúng
túng. Nhiều cấp cùng quản lý một dự án và có khi một nguồn viện trợ được phân tán
ở nhiều ngành, nhiều địa phương gây ra những chi phí giao dịch không đáng kể.
Hiện nay, nợ nước ngoài đã gia tăng rất nhanh, tương ứng nghĩa vụ nợ cũng gia tăng
đáng kể, năm 2010 chúng ta phải trả cả gốc và lãi là 2,79 tỷ USD và tăng lên 4,46 tỷ
USD vào năm 2012, trong khi đó khả năng thanh toán nợ của nền kinh tế nói chung
và của ngân sách Nhà nước nói riêng là còn rất khó khăn.
3.2 Những nguyên nhân làm gia tăng nợ nước ngoài của Việt Nam
Mặc dù, các chỉ số đánh giá về nợ nước ngoài của Việt Nam đang nằm trong giới
hạn an toàn theo chuẩn mực của WB và không đáng lo ngại, nhưng thực tế, nợ nước
ngoài của Việt Nam giảm là do được giảm nợ chứ không phải nội lực trả nợ (Giai
đoạn từ 1993 - 2000). Hiện nay, nợ nước ngoài vẫn ngày càng tăng, thêm vào đó các
nguy cơ làm gia tăng nợ vẫn luôn tiềm ẩn, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế lại
không tương xứng với tốc độ gia tăng nợ, điều này dễ dẫn tới gia tăng rủi ro tài
chính.
Vì vậy, cần phải tìm hiểu các nguyên nhân gây ra gia tăng nợ nước ngoài, từ đó có
những nghiên cứu đề xuất kiểm soát sự gia tăng nợ nước ngoài tại Việt Nam trong
thời gian tới. Trong phần này, tác giả tiến hành phân tích việc gia tăng nợ nước
ngoài do thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách trong thời gian qua.
25
3.2.1 Nợ nước ngoài gia tăng do thâm hụt thương mại
Ta có thể phân tích một cách đơn giản vấn đề quan hệ giữa ngoại thương và nợ nước
ngoài này bằng cách phân tích chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư (S-I) và chênh lệch
giữa xuất khẩu và nhập khẩu (X-M). Nếu thâm hụt X-M lớn hơn S-I, khi ấy cần có các
khoản vay nước ngoài để bù vào khoản thiếu hụt ngoại tệ. Do vậy, dựa trên cách tiếp cận
lý thuyết này, khi tình trạng nhập siêu kéo dài mà nguồn lực trong nước không đủ để bù
đấp thâm hụt thì nợ nước ngoài sẽ gia tăng. Đó chính là lý do khiến quan hệ giữa ngoại
thương và nợ nước ngoài thường là trọng tâm của các nước đang phát triển trong việc tìm
những giải pháp để giảm gánh nặng nợ nước ngoài thông qua hệ thống thương mại đa
phương.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên
cứu này tác giả tập trung phân tích thâm hụt thương mại do chênh lệch giữa đầu tư và tiết
kiệm và do mất cân bằng giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
a. Thâm hụt thương mại do chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm
Nếu xem xét thâm hụt thương mại là chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm trong nước thì
có hai vấn đề cơ bản cần xem là đầu tư và tiết kiệm. Thâm hụt thương mại là do đầu tư
tăng cao trong khi mức tiết kiệm thấp.
Bảng 3.1: Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư giai đoạn 2003 – 2012
2003
2004 2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011 2012
31,16 32,84 35,78 36,30
34,18
29,37
29,20
28,50 27,00 32,29
35,44 35,47 35,57 41,50
46,50
39,71
42,70
41,90 34,60 33,50
-4,28
-2,63
0,21
-5,20
-12,32
-10,34
-13,50
-13,40
-7,60
-1.21
Chỉ tiêu Tổng tiết kiệm (% GDP) Tổng đầu tư (% GDP) Cán cân tiết kiệm và đầu tư (%GDP)
Nguồn: GSO
26
Qua số liệu trên, ta thấy những năm gần đây mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu
tư đang giảm dần, và đã thu hẹp so với mức 5-10% của thập niên trước đây. Tuy
nhiên, mức gia tăng tiết kiệm nội địa thấp hơn mức gia tăng đầu tư, sau khi đạt mức
thặng dư không đáng kể vào 2005 thì những năm tiếp theo cán cân tiết kiệm - đầu tư
liên tục bị thâm hụt.
Đầu tư tăng quá cao và không hiệu quả
Theo số liệu thống kê của GSO, tính theo giá thực tế tổng vốn đầu tư của toàn nền
kinh tế đã tăng từ hơn 239.246 tỷ đồng vào năm 2003 lên 989.300 tỷ đồng vào năm
2012. Xét theo khu vực kinh tế (theo giá thực tế) thì mức tăng bình quân lần lượt
của các khu vực kinh tế nhà nước là 12,86%, kinh tế ngoài nhà nước là 23,28% và
1,200,000
1,000,000
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 23,51%.
g n ệ đ ệ T
800,000
600,000
400,000
200,000
0
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Tổng vốn đầu tư
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế ngoài Nhà nước
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn: GSO
Hình 3.2: Vốn đầu tư theo thành phần kinh tế (giá thực tế, tỷ đồng)
giai đoạn 2003 - 2012
27
Bảng 3.2: Tỷ lệ tăng trưởng vốn đầu tư các thành phần kinh tế (theo giá thực tế) giai
đoạn 2003 – 2012
Năm
Tổng số %
Kinh tế Nhà nứớc %
Kinh tế ngoài Nhà nước %
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài %
19.54%
10.30%
46.98%
10.07%
2003
21.60%
10.49%
47.54%
7.94%
2004
17.95%
15.59%
18.81%
23.61%
2005
17.95%
14.52%
18.10%
28.38%
2006
31.47%
6.96%
32.92%
97.24%
2007
15.91%
5.58%
6.02%
47.35%
2008
14.93%
37.56%
10.63%
-4.98%
2009
17.13%
10.00%
24.73%
18.39%
2010
11.35%
7.99%
18.89%
5.77%
2011
7.01%
9.59%
8.14%
1.36%
2012
17.48%
12.86%
23.51%
Trung bình
23.28%
Hình 3.3: So sánh tỷ lệ đầu tư/GDP (%) của Việt Nam với các nước trong khu
vực châu Á, giai đoạn 2000 - 2011
Malaysia Indonesia
Thái Lan Hàn Quốc Nhật Ấn độ Việt Nam
2001 2002 2003
2004 2005 2007 2008 2009
2010 2011
50% 45% 40% 35% 30% 25% 20% 15% 10% 5% 0% 2000
Năm
Nguồn: WB
28
Qua đồ thị, ta thấy kể từ năm 2000 - 2011 tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam luôn ở
mức cao hơn các nước trong khu vực bình quân 40%/GDP. Trong khi đó, Việt Nam
có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân ngang với Ấn độ (7%/năm) nhưng tỷ lệ đầu
tư/GDP trong thập niên qua cao hơn rất nhiều, điều này cho thấy hiệu quả đầu tư của
Việt Nam là rất kém so với các nước trong khu vực, bình quân phải bỏ ra 6 đồng vốn
đề đạt 1 đồng tăng trưởng. (ICOR = 6)
Tuy nhiên, nếu mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư là do nhu cầu đầu tư tăng cao thì
thâm hụt chưa hẳn là một vấn đề nghiêm trọng, khi đầu tư nhiều tài sản cố định như:
nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất thì trong tương lai năng suất sẽ cao
hơn, sẽ sản xuất nhiều hơn và hàng hóa sản xuất ra có thể để tăng xuất khẩu nhằm
cân bằng cán cân thương mại và tài khoản vãng lai (trả nợ). Ngược lại, nếu đầu tư
tăng cao vào khu vực bất động sản thì lại đáng lo ngại, vì khu vực này thường không
làm tăng năng suất, cũng như tạo ra các sản phẩm có thể được dùng để trả nợ.
Thực tế, qua số liệu thống kê của GSO cho thấy trong suốt thập niên qua, tỷ lệ vốn
đầu tư vào các ngành thì không có nhiều biến đổi (Bảng 3.3), tỷ lệ đầu tư vào khu
vực sản xuất trung bình khoảng 45%/năm. Khu vực sản xuất được xem xét gồm các
ngành như: Công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến, sản xuất và phân phối
điện, khí đốt, nước và nông lâm thuỷ sản. Vốn đầu tư vào ngành xây dựng và nhà
hàng khách sạn chiếm tỷ trọng thấp khoảng 6%. Như vậy, xét về cơ cấu thì thâm hụt
thương mại do đầu tư tăng cao hiện nay chưa phải là vấn đề nghiêm trọng.
29
Bảng 3.3: Cơ cấu đầu tư phân theo ngành giai đoạn 2008 – 2012
Cơ cấu đầu tư theo ngành
2008
2009
2010
2011
2012
Các ngành sản xuất
47%
45%
44%
44%
44%
Ngành xây dựng
4%
4%
4%
4%
4%
Ngành thương nghiệp và sửa chữa
5%
4%
5%
4%
4%
Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc
15%
17%
16%
16%
16%
Khách sạn và nhà hàng
2%
2%
2%
2%
2%
Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
1%
1%
1%
1%
1%
Kinh doanh bất động sản
1%
4%
5%
5%
5%
Hoạt động khao học và công nghệ
1%
1%
1%
1%
1%
Giáo dục và đào tạo
3%
3%
3%
3%
3%
Các ngành khác
21%
19%
20%
20%
20%
Nguồn: GSO
Để đo lường hiệu quả đầu tư các nhà kinh tế thường lấy hệ số ICOR (Incremental
Capital Output Ratio) để đánh giá, ICOR xác định mối quan hệ giữa vốn (tư bản) và
đầu ra (GDP). Có nhiều cách để tính toán hệ số ICOR, nếu tiếp cận theo hiệu quả sử
dụng vốn ICOR là tỷ số giữa tỷ lệ đầu tư trên GDP so với tốc độ tăng trưởng GDP.
Theo khuyến cáo của Ngân hàng Thế giới, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và
nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững.
Theo tính toán của WB và tính toán của các nhà kinh tế trong nước thì ICOR
củaViệt Nam hiện hay còn quá cao (xem bảng 3.4). Điều này cho thấy vốn đầu tư
của Việt Nam kém hiệu quả.
30
Bảng 3.4: Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Châu Á giai đọan từ 2000 - 2012
Quốc gia GDP % Đầu tư/GDP ICOR
Trung Quốc 10.3 41.2 4.1
Indonesia 5.1 25 4.9
Ấn độ 7.2 31.2 4.7
Philippines 4.46 16.58 4.7
Việt Nam 7.26 44 5.6
Nguồn: WB, GSO
Trong quá trình đầu tư phát triển kinh tế, ICOR tăng nhanh lại luôn là không bình
thường và đáng lo ngại của mọi nền kinh tế. ICOR ở Việt Nam thậm chí còn cao
hơn cả một số nước trong khu vực như: Indonesia, Trung Quốc Ấn Độ và
Philippines. Vì vậy, để có thể đạt được hệ số ICOR = 3 (theo khuyến nghị của Ngân
hàng Thế giới) thì trong tương lai ta phải nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế trong
khi vẫn giảm được tỷ lệ đầu tư/GDP. Điều này có nghĩa là vẫn gia tăng mức đầu tư
trong đó mức gia tăng của GDP phải nhanh hơn. Tuy nhiên, làm sao đảm bảo được
đồng vốn đầu tư của Nhà nước nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng đạt được
hiệu quả cao nhất, là một câu hỏi không dễ giải một sớm, một chiều. Do đó, Việt
Nam cần phải có những chiến lược đầu tư thích hợp để cải thiện hệ số ICOR trong
thời gian tới.
Mức tiết kiệm thấp
Cán cân thương mại là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư: TB = Sp + Sg – I
31
Trong đó Sp là tiết kiệm của khu vực tư nhân (thu nhập trừ đi tiêu dùng và nộp thuế
cho chính phủ); Sg là tiết kiệm của khu vực chính phủ. Theo đẳng thức này, nếu như
nếu như mức tiết kiệm trong nước của khu vực tư nhân giảm đi.
các yếu tố khác như Sg và I mà không thay đổi thì cán cân thương mại sẽ thâm hụt,
Ở giai đoạn mới bắt đầu phát triển, các nước đang phát triển thường có mức tiết
kiệm khá thấp so với nhu cầu đầu tư trong nước (do thu nhập thấp nên mức tiết kiệm
cũng thấp). Việt Nam là quốc gia có thu nhập trung bình, mức tiết kiệm vốn dĩ đã
không cao, trong thời gian vừa qua mức độ tiết kiệm của Việt Nam so với GDP còn
tăng trưởng rất chậm nguyên nhân có thể do mức tiêu dùng tăng cao đột biến.
Tệ lệ tiệt kiệm/GDP
40%
35%
30%
25%
20%
15%
10%
5%
0%
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Nguồn: GSO
Hình 3.4: Tỷ lệ tiết kiệm/GDP giai đoạn 2003 - 2012
Việt Nam đã duy trì được tỷ lệ tiết kiệm gia tăng liên tục từ năm 2003 là 31,16% cho
đến năm 2006 là 36,30%. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2007 - 2008, do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, làm cho tỷ lệ tiết kiệm có xu hướng giảm rất nhiều,
năm 2008 là 29,37% GDP, giảm 14,07% so với năm 2007. Và mức tiết kiệm trong
32
các năm tiếp theo từ năm 2009 đến 2011 vẫn giữ ở mức khoảng 28,50% GDP. Hiện
nay mức tiết kiệm đã có dấu hiệu phục hồi trở lại năm 2012 là 32,29% GDP, nhưng
vẫn thấp hơn tỷ lệ đầu tư/GDP là 33,50%.
Thâm hụt giữa tiết kiệm và đầu tư đã tác động mạnh đến cán cân thương mại và phải
bù đắp bằng nguồn vay nợ trong và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu đầu tư đang tăng
cao. Tỷ lệ tiết kiệm so với GDP của Việt Nam thấp hơn so với các nước Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc trong những thời kỳ tương tự, do đó Việt Nam vẫn phải dựa
nhiều vào nguồn vốn bên ngoài. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời
gian qua vẫn dựa quá nhiều vào yếu tố vốn, điều này đã đẩy tỷ lệ đầu tư của Việt
Nam bình quân 40%/ GDP, cao bằng tỷ lệ đầu tư của Trung Quốc, nước đang tăng
trưởng quá nóng. Do vậy, vấn đề quan trọng của Việt Nam hiện nay là nâng cao chất
lượng đầu tư chứ không phải gia tăng tỷ lệ này và tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng
sang chiều sâu.
Hơn nữa, Việt Nam cũng cần tạo ra thể chế tốt hơn để nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, đặc
biệt là tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình. Yêu cầu vốn cho quá
trình công nghiệp hóa sẽ làm cho nhu cầu vốn tăng lên, khả năng nguồn cung vốn
phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm trong nước và nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Vấn đề
quan trọng đối với Việt Nam là tạo ra khung pháp lý đầy đủ và đồng bộ để đảm bảo
thị trường vốn và tiền tệ phát triển lành mạnh, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và
phòng ngừa khủng hoảng.
b. Thâm hụt thương mại do mất cân bằng giữa xuất khẩu và nhập khẩu
Thâm hụt thương mại xảy ra do tình trạng nhập khẩu vượt quá mức xuất khẩu của
quốc gia. Số liệu cho thấy hơn 10 năm qua thương mại hàng hoá quốc tế của Việt
Nam đã tăng nhanh chóng. Cả nhập khẩu và xuất khẩu đều tăng nhanh, đó có thể là
33
do kết quả những cải cách kinh tế mà Việt Nam đã thực hiện trong những năm 90,
thể hiện qua việc ký kết các hiệp định thương mại song phương và gần nhất là việc
Việt Nam gia nhập tổ chức WTO (01/11/2007) sức cạnh tranh của hàng hóa xuất
khẩu tăng lên, nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ đầu tư sản xuất và tiêu
dùng cũng gia tăng.
Bảng 3.5: Thâm hụt thương mại của Việt Nam, giai đoạn 2000 - 2012
ĐVT: triệu USD
Năm
Giá trị xuất khẩu Giá trị nhập khẩu Cán cân thương mại
17.155
17.922
(767)
2000
17.85
18.595
(745)
2001
19.913
21.725
(1.812)
2002
23.452
26.759
(3.307)
2003
29.862
33.292
(3.430)
2004
36.702
38.915
(2.213)
2005
44.835
47.613
(2.778)
2006
54.607
65.865
(11.258)
2007
70.982
84.835
(13.853)
2008
66.374
76.434
(10.060)
2009
82.513
93.449
(10.936)
2010
107.551
112.761
(5.210)
2011
127.172
127.808
(636)
2012
Nguồn: WB
Trong cả giai đoạn 2007 – 2011, xuất khẩu đã tăng 1,97 lần, từ 54,6 tỷ USD lên
107,5 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 19,5%/năm, cao hơn chỉ
34
tiêu 16%/năm trong kế hoạch 5 năm 2006-2010. Năm 2012, mặc dù tình hình kinh
tế thế giới và trong nước có rất nhiều khó khăn, nhưng giá trị xuất khẩu đạt 114,57
tỷ USD, tăng 18,2% so với năm 2011, kim ngạch xuất khẩu/GDP đạt khoảng 81,7%,
cao hơn mức kỷ lục 80,8% của năm 2011.
Trong giai đoạn 2007 - 2011, nhập khẩu tăng 1,71 lần, từ 65,8 tỷ USD lên 112,7 tỷ
USD. Tốc độ tăng nhập khẩu trung bình trong cả giai đoạn 2007 - 2011 là
18,9%/năm. Năm 2012, giá trị nhập khẩu đạt 113,79 tỷ USD, tăng 6,6 % so với năm
2011.
Cán cân thương mại của Việt Nam bị thâm hụt liên tục từ năm 2000 cho đến 2012.
Từ năm 2000 mức thâm hụt là 767 triệu USD cho đến năm 2010 là 10.936 triệu
USD. Tuy nhiên trong 2 năm trở lại đây thì cán cân thương mại Việt Nam đã được
cải thiện đáng kể. Đặc biệt là trong năm 2012 mức thâm hụt đã giảm xuống mức
thấp nhất trong hơn 10 năm qua, chỉ còn lại 636 triệu USD.
Thâm hụt thương mại còn bị tác động bởi nhiều yếu tố cả trong và ngoài nước, cả
những vấn đề có tính lâu dài cũng như những vấn đề mang tính ngắn hạn như chính
sách tỷ giá, mức thuế xuất nhập khẩu,… Tuy nhiên, thâm hụt thương mại là điều
khó tránh khỏi đối với các nước đang trong quá trình công nghiệp hóa do chưa có
nền công nghiệp phát triển và cần nhập khẩu máy móc, công nghệ phục vụ cho công
nghiệp hóa. Và điều này đã được chứng minh là trong nhiều năm qua, tỷ trọng nhập
khẩu của các mặt hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam.
3.2.2 Nợ nước ngoài gia tăng do thâm hụt ngân sách
Thâm hụt ngân sách Nhà nước (NSNN) được hiểu một cách chung nhất là sự vượt
trội về chi tiêu so với tiền thu được trong năm tài khóa hoặc thâm hụt NSNN do sự
35
cố ý của chính phủ tạo ra nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Có nhiều cách
để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí, lệ phí; giảm chi
ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài; phát hành tiền để bù đắp chi
tiêu,... Sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và
chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia.
Bảng 3.6: Thâm hụt NSNN giai đoạn 2000 – 2013F
ĐVT: Tỷ đồng
Tỷ lệ thâm hụt
Năm
Tổng thu
Tổng chi Thâm hụt
GDP
trên GDP
90.749
108.961
(18.212)
441.646
4.12%
2000
100.000
129.773
(29.773)
481.295
6.19%
2001
123.860
148.208
(24.348)
535.762
4.54%
2002
153.274
181.183
(27.909)
613.443
4.55%
2003
190.928
214.176
(23.248)
715.307
3.25%
2004
228.287
262.697
(34.410)
839.211
4.10%
2005
279.472
308.058
(28.586)
974.266
2.93%
2006
315.915
399.402
(83.487)
1.143.715
7.30%
2007
416.783
494.600
(77.817)
1.485.038
5.24%
2008
442.340
584.695
(142.355)
1.658.389
8.58%
2009
560.170
675.063
(114.893)
1.980.914
5.80%
2010
787.554
908.154
(120.600)
2.535.008
4.76%
2011
765.590
905.790
(140.200)
2.796.779
5.01%
2012
816.000
978.000
(162.000)
2.945.008
5.50%
2013F
Nguồn: GSO, MOF
36
Qua số liệu từ bảng 3.6 cho thấy, tình trạng thâm hụt ngân sách của Việt Nam bình
quân khoảng trên 5% GDP. Thâm hụt ngân sách tính từ 2000 đến 2010 hầu như
không giảm về tỷ trọng, quy mô gia tăng nhanh chóng: Năm 2000, con số thâm hụt
ngân sách là 18,2 ngàn tỷ đồng tương đương tỷ lệ bội chi là 4,12% GDP và luôn giữ
mức cao qua các năm. Đến năm 2007 các con số này tương ứng là 83,4 ngàn tỷ
VND tương đương 7,3% GDP; năm 2009 tăng cao 142,3 ngàn tỷ đồng tương đương
8,58% là do Chính phủ thực thi chính sách kích cầu khoảng 15 ngàn tỷ đồng và năm
2010 là 114,89 ngàn tỷ đồng và tỷ lệ bội chi ở mức 5,8% và nếu tính cả việc phát
hành trái phiếu chính phủ thì thâm hụt ngân sách còn cao hơn nhiều, 9,7% GDP năm
2009 và 8,7% năm 2010.
Năm 2011, tỷ lệ bội chi ngân sách giảm xuống 4,76% GDP do trong năm này Chính
phủ thực hiện quản lý chặt chẽ việc thu chi ngân sách. Nhưng trong năm tiếp theo
2012 thì bội chi cũng về lại mức trên 5% GDP, và dự toán cho năm 2013 bội chi sẽ
là 5,50% GDP.
Thâm hụt ngân sách tăng cao là do Việt Nam thực hiện nhiều cam kết khi gia nhập
WTO về việc giảm các loại thuế nhập khẩu, nguồn thu ngân sách chỉ còn trông chờ
vào tăng thuế trong nước, đồng thời Chính phủ thực thi chính sách đẩy mạnh đầu tư,
kích thích tiêu dùng đã làm tăng mức bội chi NSNN. Trong những năm gần đây, chi
tiêu đầu tư công quá lớn trong khi tiết kiệm nội địa còn hạn chế, đầu tư khu vực Nhà
nước hiệu quả rất thấp (ngoại trừ các dự án mang tính an sinh xã hội, hỗ trợ người
nghèo), đầu tư mang tính dàn trãi, tham nhũng rất lớn, khả năng thu hồi từ dự án rất
thấp, dẫn đến thất thu, làm tăng bội chi ngân sách Nhà nước trong thời gian dài.
Thâm hụt ngân sách triền miên ở mức độ cao trong hơn mười năm qua đã làm cho
nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng trong thế bất cân đối gia tăng, bất ổn kinh tế vĩ mô
trở thành vấn đề thường trực. Theo đó nợ Chính phủ đã gia tăng.
37
3.3 Đánh giá thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam
Việc đánh giá thực trạng nợ nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết
định xem xét nên tăng thêm nợ hay giảm nợ, hoặc lựa chọn nguồn vốn nào tài trợ
cho thích hợp, nhằm đảm bảo khả năng thanh toán nợ và sử dụng nợ một cách hiệu
quả trong tương lai.
Khi đánh giá tính ổn định bền vững nợ của Việt Nam, chúng ta cũng áp dụng theo
các tiêu chí mà Ngân hàng thế giới hay IMF đang áp dụng cho những nước nghèo
có tỷ lệ nợ cao (HIPCs) và các chỉ tiêu giám sát an toàn nợ do Việt Nam thiết lập
(Luật quản lý nợ công có hiệu lực 01/01/2010), với các nội dung sau:
3.3.1 Đánh giá độ an toàn nợ nước ngoài của Việt Nam theo mức ngưỡng của
HIPCs
Qua số liệu từ bảng 3.8, ta thấy từ năm 2006 đến năm 2010, tỷ lệ NPV/DBR bình
quân là 95,57% (<250%) và tỷ lệ NPV/XK bình quân là 44,84% ( < 150%), đồng
thời các tiêu chí tính lỏng nợ nước ngoài của Việt Nam là ổn định (TDS/XK là
2,06% và TDS/DBR là 5,04%) và thấp hơn tiêu chuẩn quốc tế, về cơ bản là do Việt
Nam đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu và duy trì mức thu ngân sách ổn định. Tổng
hợp các chỉ tiêu tỷ lệ NPV/XK, NPV/DBR, đều thấp so với ngưỡng của HIPCs, nợ
nước ngoài của Việt Nam đáp ứng được yêu cầu về nợ bền vững và được đánh giá là
vẫn ở ngưỡng an toàn mà Ngân hàng Thế giới đưa ra.
38
Bảng 3.8: Các tiêu chí đánh giá độ an toàn nợ nước ngoài của IMF và WB cho HIPCs
Năm
Chệ tiêu đánh giá
Trung bình (%)
2006
2007
2008
2009
2010
NPV/XK
50.91
45.96
35.44
51.41
40.49
44.84
NPV/DBR
89.96
81.29
67.56
137.74
101.28
95.57
NPV/GDP
33.07
30.72
24.12
30.79
28.43
29.43
X/GDP
64.95
66.84
68.06
59.88
70.23
65.99
DBR/GDP
36.76
37.79
35.71
22.35
28.08
32.14
TDS/XK
2.17
2.29
1.57
1.94
2.32
2.06
TDS/DBR
4.42
3.80
6.41
5.72
5.04
4.85
Nguồn:Tình hình nợ công và quản lý nợ công ở Việt Nam năm 2010-TS Mai Thu Hiền
3.3.2 Đánh giá tính ổn định của nợ theo các tiêu chí giám sát an toàn nợ nước
ngoài của Việt Nam
Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí tỷ lệ nợ công/GDP được coi là chỉ
số đánh giá phổ biến nhất cho cái nhìn tổng quát về tình hình nợ công của một quốc
gia, đánh giá mức an toàn của nợ công. Mức độ an toàn được thể hiện qua việc nợ
công có vượt ngưỡng an toàn tại một thời điểm hay giai đoạn nào đó hay không.
Để bảo đảm an toàn của nợ công, các nước thường sử dụng các tiêu chí sau làm giới
hạn vay và trả nợ: Thứ nhất, giới hạn nợ công không vượt quá 50% - 60% GDP
hoặc không vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai, nghĩa vụ trả nợ công
không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và nghĩa vụ trả nợ của chính phủ không
vượt quá 10% chi ngân sách. Ngân hàng Thế giới cũng đưa ra mức quy định ngưỡng
an toàn nợ công là 50% GDP. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ hợp lý
39
với trường hợp các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP. Tuy nhiên, trên
thực tế không có hạn mức an toàn chung cho các nền kinh tế; việc xác định “ngưỡng
an toàn” chỉ là khái niệm tương đối, không phải tỷ lệ nợ công trên GDP thấp là
trong ngưỡng an toàn và ngược lại. Mức độ an toàn của nợ công phụ thuộc vào tình
trạng mạnh hay yếu của nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như
tốc độ tăng trưởng, tính bền vững trong phát triển, khả năng chống đỡ rủi ro.
Bảng 3.9: Các chỉ tiêu giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam
Chỉ tiêu (%)
2006
2007
2008
2009
2010
31.4
32.5
29.8
39
42.2
26.7
28.2
25.1
29.3
31.1
Tổng số dư nợ nước ngoài so với GDP Nợ nước ngoài khu vực công so với GDP
4.0
3.8
3.3
4.2
3.4
Nghĩa vụ trả nợ trung và dài hạn so với xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
3.7
3.6
3.5
5.1
3.7
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ so với thu NSNN
6.380
10.177
2.808
290
187
Dự trữ ngoại hối so với tổng dư nợ ngắn hạn
4.5
4.6
4.7
4.3
5.8
Nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ so với thu NSNN
Nguồn: Bản tin nước ngoài số 7-Bộ tài chính
Như vậy, trong thời điểm hiện tại, tỷ lệ nợ Chính phủ so với GDP, các chỉ tiêu nợ
Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia đều trong giới hạn an toàn. Phần lớn các khoản
vay nước ngoài của Chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất ưu đãi. Mức lãi suất vay trung
bình nợ nước ngoài của Chính phủ năm 2009 là 1,9%/năm, năm 2010 là 2,1%/năm.
Theo Bộ Tài chính, các chỉ số nợ của Việt Nam ở mức an toàn, nợ công được quản
lý chặt chẽ theo quy định. Các khoản nợ trong nước và nước ngoài được thanh toán
đầy đủ, không có nợ xấu. Cụ thể, chỉ số nợ nước ngoài của Chính phủ trên GDP là
42,2%, vẫn dưới ngưỡng an toàn (50% GDP). Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ
40
khoảng 16% tổng thu ngân sách nhà nước (giới hạn an toàn 35%). Nghĩa vụ trả nợ
nước ngoài trung và dài hạn trong nhiều năm qua khoảng 3,3 - 4,8% kim ngạch
xuất khẩu (giới hạn an toàn là 25%). Cơ cấu nợ nước ngoài đang giảm dần so với
tổng dư nợ của Chính phủ nhằm giảm sự phụ thuộc vào vốn vay nước ngoài… So
với các nước đang phát triển có cùng hệ số tín nhiệm, chỉ số nợ công và nợ nước
ngoài của Việt Nam ở mức trung bình.
Vì vậy, để xác định, đánh giá đúng đắn mức độ an toàn của nợ công, không thể chỉ
quan tâm đến tỷ lệ nợ trên GDP, mà cần phải xem xét nợ công một cách toàn diện
trong mối liên hệ với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế quốc dân,
nhất là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu
quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội
địa và mức đầu tư toàn xã hội... Bên cạnh đó, những tiêu chí, như cơ cấu nợ công, tỷ
trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ.... cũng cần được phân tích kỹ
lưỡng khi đánh giá tính bền vững nợ công.
Đánh giá kết quả họat động vay, trả nợ và quản lý nợ công, nợ nước ngoài năm
2010, Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại cho rằng, Việt Nam đã huy động được
khối lượng vốn lớn bổ sung cho đầu tư phát triển, cân đối ngân sách nhà nước, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Các chỉ tiêu về nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc
gia nằm trong giới hạn an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Các hình thức
huy động vốn ngày càng đa dạng, linh họat, tạo tiền đề cho sự hình thành và phát
triển đồng bộ thị trường tài chính...
3.3.3 Đánh giá tính ổn định của nợ theo sức mạnh thể chế và chất lượng chính
sách quản lý nợ nước ngoài
Trong vài năm gần đây, một cách tiếp cận mới mà Ngân hàng Thế giới đưa vào để
41
đánh giá chất lượng quản lý nợ công đó là dựa vào chất lượng chính sách và thể chế.
Các quốc gia có chính sách và thể chế tốt thì có thể chống đỡ được mức nợ cao hơn
so với mức ổn định nợ cơ bản. Cách tiếp cận này đưa ra giá trị mức ngưỡng dựa vào
tỷ lệ nợ truyền thống để làm cơ sở đánh giá thể chế và chính sách của quốc gia. Dựa
vào giá trị ngưỡng, Ngân hàng Thế giới phân loại 3 mức thực hiện chính sách: kém,
vừa và mạnh
Bảng 3.10: Mức ngưỡng phụ thuộc vào chính sách và thể chế theo tiêu chuẩn của HIPCs
Đánh giá sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách
Mức ngưỡng %
Mạnh
Kém
Vừa
CPIA ≥ 3.9
CPIA ≤ 3
3 < CPIA < 3,9
NPV/GDP
30%
45%
60%
NPV/X
100%
200%
300%
NPV/DBR
200%
275%
350%
Nguồn: WB
Qua số liệu từ bảng 3.9 trên cho thấy, từ năm 2006 đến năm 2010, ba chỉ số hiện giá
thuần nợ nước ngoài của Việt Nam: NPV/GDP ≤ 30%, NPV/X < 60% và
NPV/DBR < 150%. Điều này cho thấy thể chế và chính sách quản lý nợ nước ngoài
của Việt Nam xếp vào chỉ số CPIA ≤3, tức là ở mức kém. Tóm lại, qua phân tích các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài, nghiên cứu nhận thấy
mặc dù nợ nước ngoài của Việt Nam có gia tăng nhanh trong những năm gần đây
nhưng vẫn nằm trong khả năng thanh toán, chưa rơi vào tình trạng nguy kịch như
một số quốc gia Châu Âu.
42
4. ĐỊNH LƯỢNG MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ NƯỚC NGOÀI VỚI TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 2012
Ước lượng ngưỡng nợ nước ngoài của Việt Nam theo mô phỏng đường cong
Laffer nợ
Mặc dù các lí thuyết “debt overhang” không trực tiếp giải thích ảnh hưởng của nợ
đến tăng trưởng nhưng ta có thể mở rộng và áp dụng đường cong Laffer nợ để mô tả
đường cong Laffer về ảnh hưởng của nợ đến tăng trưởng. Do đỉnh đường cong
Laffer nợ là điểm mà tại đó sự tăng lên trong tổng nợ bắt đầu tạo ra gánh nặng cho
đầu tư, cải tổ kinh tế và các hoạt động khác, điểm này có thể liên quan đến điểm mà
tại đó nợ bắt đầu ảnh hưởng ngược chiều đến tăng trưởng. Nó cũng chính là điểm
chỉ ra mức độ nợ tối ưu mà một quốc gia có thể duy trì mà không phải lo ngại vấn đề
“debt overhang”.
Nghiên cứu sử dụng hàm phi tuyến dạng đường cong phương trình bậc hai để mô
phỏng đường cong Laffer nợ. Để vẽ được đường cong này nghiên cứu sử dụng phần
mềm thống kê SPSS để vẽ đường cong theo các điểm phân tán của biến tỷ lệ tăng
trưởng theo tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP (theo giá cố định năm 2000), ký hiệu
GDP, số liệu từ năm 1986-2012. Đường cong được tìm thấy như Hình 4.1. Đỉnh của
đường cong được xác định với giá trị bằng 65% đây chính là ngưỡng nợ nước ngoài
trên GDP mà nghiên cứu cần tìm.
Tuy nhiên, để ngưỡng nợ nêu trên phản ánh đúng mức độ an toàn nợ của Việt Nam
cần phải xem xét, đánh giá một cách toàn diện trong mối quan hệ tác động của các
chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nhất là tỷ giá hối đoái, lạm phát, tốc độ và chất lượng tăng
trưởng kinh tế, hiệu quả sử dụng vốn và khả năng chống đỡ rủi ro của nền kinh tế.
43
Hình 4.1: Đường cong Laffer nợ của Việt Nam giai đoạn 1986 - 2012
44
4.1 Mô hình nghiên cứu
Nhằm đo lường tác động của nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam,
tác giả thực hiện mô hình nghiên cứu với giả định là tăng trưởng kinh tế chịu ảnh
hưởng bởi các biến kinh tế vĩ mô như: Nợ nước ngoài, đầu tư trong nước, dịch vụ
nợ, độ mở của nền kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài, mô hình dạng logarit
(Log-log), mô hình được tác giả sử dụng tương tự như mô hình Frimpong, J.
M.Oteng-Abayi, E. F sử dụng khi nghiên cứu các nhân tố tác động đến tăng trưởng
kinh tế tại Ghana, 2006. Mô hình này theo tác giả là phù hợp với hoàn cảnh nghiên
cứu về nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay vì tình trạng nợ nước ngoài của
Ghana cũng giống như các nước HIPCs, có thể tìm thấy số liệu thống kê của các
biến trong mô hình trong khi các mô hình khác rất khó tìm được đủ số liệu thống
kê. Mặt khác hệ số tuyến tính giữa biến tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ nợ nước ngoài
trên GDP chỉ ở mức 20% cho nên mô hình đa biến là lựa chọn phù hợp hơn. Mô
hình cụ thể như sau:
lnYt = α0 + α1 lnEDTt + α2 lnTDSt + α3 lnINVt + α4 lnFDIt + α5 lnEXPt + εt (1)
Trong đó:
- Biến Y (%) là biến phụ thuộc đại diện cho mức tăng trưởng kinh tế
- Biến EDT là tỷ số giữa tổng số nợ nước ngoài trên GDP (%)
- Biến TDS là tỷ lệ tổng dịch vụ nợ trên xuất khẩu (%)
- Biến INV là tỷ lệ đầu tư trong nước trên GDP (%)
- Biến FDI là tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP (%)
- Biến EXP là chỉ tiêu đại diện cho biến đo lường độ mở của nền kinh tế (%),
được tính bằng cách lấy tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa dịch vụ chia cho tổng
giá trị nhập khẩu hàng hóa dịch vụ
Tất cả các biến này đều được biểu diễn dưới dạng hàm số logarith cơ số tự nhiên.
45
Để phù hợp với mô hình tăng trưởng kinh tế, quan điểm lý thuyết và phân tích phần
trên đã trình bày, khi nợ nước ngoài của Việt Nam chưa vượt ngưỡng an toàn
“threshold level” nên nghiên cứu kỳ vọng nợ nước ngoài tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế, nghiên cứu mong đợi α1 > 0, tỷ lệ tổng dịch vụ nợ trên xuất khẩu dự
kiến sẽ tác động tiêu cực do việc giảm chi phí đầu tư trong nước từ dịch vụ thanh
toán nợ, nên nghiên cứu dự đoán α2 < 0, tỷ lệ đầu tư trong nước so với GDP dự kiến
sẽ có ảnh hưởng tích cực đáng kể vào tăng trưởng GDP, nên nghiên cứu mong đợi
α3 > 0, tương tự tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP bổ sung nguồn lực bên
ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và mong đợi một tác động tích cực đến tăng
trưởng, vì vậy kỳ vọng α4 >0, nền kinh tế Việt Nam hiện đã và đang hòa nhập sâu
rộng vào kinh tế thế giới, tốc độ xuất khẩu tăng nhanh qua các năm so với nhập
khẩu, độ mở nền kinh tế ngày càng rộng, nghiên cứu kỳ vọng α5 > 0.
Mô hình trên được sử dụng nhằm mục đích tìm hiểu liệu có hay không mối quan hệ
trong dài hạn giữa tăng trưởng kinh tế Việt Nam và các yếu tố đầu vào nêu trên. Khả
năng xảy ra mối quan hệ trong dài hạn được kiểm định bằng kỹ thuật đồng liên kết.
4.2 Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng dữ liệu theo năm từ năm 1986 đến năm 2012.
Dữ liệu được thu thập từ nguồn thống kê tại mục World Development Indicator của
Ngân hàng Thế giới (WB).
Với sự hỗ trợ của phần mềm STATA 11, để đo lường các nhân tố tác động đến tăng
trưởng kinh tế trong mô hình thực nghiệm, tác giả thực hiện theo các bước sau:
- Hồi quy mô hình và kiểm định sự phù hợp của mô hình ước lượng.
- Thực hiện việc kiểm định tính dừng và không dừng (unit roots or non-
stationary) của các chuỗi thời gian sử dụng trong mô hình thực nghiệm (kiểm
46
định nghiệm đơn vị). Giữa các chuỗi số không dừng có thể tồn tại mối quan
hệ đồng liên kết (mối quan hệ trong dài hạn). Tương quan đồng liên kết tồn
tại khi quan hệ tuyến tính giữa hai chuỗi là một chuỗi có tính dừng
(stationary). Phân tích mối quan hệ trong dài hạn giữa các biến (nếu tồn tại).
- Sử dụng mô hình VECM (Vector Error Correction Model) để đo lường mối
quan hệ trong ngắn hạn giữa các biến kinh tế nghiên cứu.
4.3 Kết quả kiểm định
4.3.1 Kiểm định sự phù hợp của mô hình hồi quy
Với sự hỗ trợ của phần mềm STATA 11, kết quả hồi quy được thể hiện như bên
S o u r c e S S d f M S N u m b e r o f o b s = 2 7 F ( 5 , 2 1 ) = 1 4 . 7 2 M o d e l 1 4 . 7 8 1 0 8 7 4 5 2 . 9 5 6 2 1 7 4 9 P r o b > F = 0 . 0 0 0 0 R e s i d u a l 4 . 2 1 8 4 3 2 6 2 1 . 2 0 0 8 7 7 7 4 3 R - s q u a r e d = 0 . 7 7 8 0 A d j R - s q u a r e d = 0 . 7 2 5 1 T o t a l 1 8 . 9 9 9 5 2 2 6 . 7 3 0 7 5 0 7 7 1 R o o t M S E = . 4 4 8 1 9
l n g d p C o e f . S t d . E r r . t P > | t | [ 9 5 % C o n f . I n t e r v a l ] l n e d t . 5 8 4 1 . 1 5 8 2 9 5 1 - 3 . 6 9 0 . 0 0 1 - . 9 1 3 2 9 2 6 1 . 2 5 4 9 0 7 3 l n t d s - . 2 8 8 9 8 3 9 . 2 2 2 7 5 7 3 - 1 . 3 0 0 . 0 0 9 - . 7 5 2 2 3 3 . 1 7 4 2 6 5 2 l n i n v . 9 3 2 3 3 4 3 . 4 0 5 3 1 9 9 2 . 3 0 0 . 0 3 2 . 0 8 9 4 2 5 4 1 . 7 7 5 2 4 3 l n f d i . 1 4 8 8 3 1 7 . 0 6 6 3 2 2 4 2 . 2 4 0 . 0 3 6 . 0 1 0 9 0 6 9 . 2 8 6 7 5 6 6 l n e x p . 5 9 2 4 4 3 6 . 7 2 5 0 6 5 3 0 . 8 2 0 . 0 2 3 - . 9 1 5 4 1 2 3 2 . 1 0 0 3 _ c o n s 2 4 . 6 0 8 9 2 . 5 9 8 5 0 0 9 4 1 . 1 2 0 . 0 0 0 2 3 . 3 6 4 2 7 2 5 . 8 5 3 5 7
dưới
47
Trước khi xét kết quả hồi quy ở trên, ta cần kiểm tra sự phù hợp của mô hình sử
dụng trong nghiên cứu.
a. Kiểm tra hiện tượng phương sai thay đổi
Để kiểm tra mô hình có xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi hay không ta dùng
kiểm định Breusch-Pagau với giả thuyết:
H0: chưa phát hiện phương sai thay đổi
H1: có phương sai thay đổi
Nếu kiểm định có p-value > mức ý nghĩa α = 5% thì chấp nhận H0 và ngược lại.
Ta có p-value = 0.4323 > 0.05 chấp nhận H0 và ta có thể kết luận rằng: mô hình
hồi quy này chưa phát hiện có phương sai thay đổi với mức ý nghĩa là 5% hay ước
lượng OLS là hiệu quả.
b. Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến
Để kiểm tra đa cộng tuyến ta dùng nhân tử phóng đại phương sai VIF
V a r i a b l e V I F 1 / V I F l n i n v 8 . 9 5 0 . 1 1 1 7 3 2 l n t d s 9 . 0 7 0 . 1 1 0 2 54 l n e d t 8 . 3 7 0 . 1 1 9 4 3 0 l n e x p 6 . 5 5 0 . 1 5 2 6 7 7 l n f d i 3 . 6 4 0 . 2 7 5 0 4 4 M e a n V I F 7 . 3 2
48
Ta thấy hệ số VIF của các biến đều nhỏ hơn 11 nên có thể kết luận trong mô hình có
hiện tượng đa cộng tuyến không hoàn hảo. Nếu hiện tượng đa cộng tuyến này không
làm sai dấu của các hệ số ước lượng thì ta có thể bỏ qua.
c. Kiểm tra hiện tượng tự tương quan
Ta dùng kiểm định Brush-Godfrey
Kết quả: p-value = 0.0001 < 0,05 bác bỏ H0 hay kết luận rằng mô hình hồi
quy (1) có xảy ra hiện tượng tự tương quan bậc 1.
Để kiểm định hệ số hồi quy trở nên đáng tin cậy ta dùng ma trận ước lượng
phương sai của Newey-West. Kết quả như sau:
R e g r e s s i o n w i t h N e w e y - W e s t s t a n d a r d e r r o r s N u m b e r o f o b s = 2 7 m a x i m u m l a g : 1 F ( 5 , 2 1 ) = 2 4 . 3 4 P r o b > F = 0 . 0 0 0 0
N e w e y - W e s t l n g d p C o e f . S t d . E r r . t P > | t | [ 9 5 % C o n f . I n t e r v a l ] l n e d t . 5 8 4 1 . 1 4 7 0 9 4 - 3 . 9 7 0 . 0 0 1 - . 8 8 9 9 9 8 8 1 . 2 7 8 2 0 1 2 l n t d s - . 2 8 8 9 8 3 9 . 1 9 5 0 3 6 5 - 1 . 4 8 0 . 1 5 3 - . 6 9 4 5 8 4 5 . 1 1 6 6 1 6 7 l n i n v . 9 3 2 3 3 4 3 . 4 2 2 1 1 6 8 2 . 2 1 0 . 0 3 8 . 0 5 4 4 9 4 4 1 . 8 1 0 1 7 4 l n f d i . 1 4 8 8 3 1 7 . 0 3 3 5 0 2 6 4 . 4 4 0 . 0 0 0 . 0 7 9 1 5 9 3 . 2 1 8 5 0 4 2 l n e x p . 5 9 2 4 4 3 6 1 . 0 1 1 8 3 4 0 . 5 9 0 . 5 6 4 - 1 . 5 1 1 7 8 1 2 . 6 9 6 6 6 8 _ c o n s 2 4 . 6 0 8 9 2 . 5 7 0 3 8 2 9 4 3 . 1 4 0 . 0 0 0 2 3 . 4 2 2 7 5 2 5 . 7 9 5 1
49
d. Kiểm tra tính chuẩn của sai số trong hồi quy
Theo lý thuyết định lượng nếu phần dư không ngẫu nhiên, không có phân phối chuẩn
là một thông tin quan trọng cho biết mô hình hồi quy chưa tốt do có thể bị các lỗi
như bỏ sót biến quan trọng, sai dạng hàm, phương sai thay đổi, tự tương quan,…
Hơn nữa, phần dư là hạng nhiễu có trung bình bằng không và phương sai không đổi.
Nếu giả định này không thỏa mãn thì các thống kê suy luận của mô hình hồi quy
(như tstat, Fstas, …) không có giá trị nữa.
Ta có giả thuyết: H0: sai số không có phân phối chuẩn
H1: sai số phân phối chuẩn
Ta có p-value = 0.0069 < 0.05 bác bỏ H0 và ta có thể kết luận rằng: sai số của mô
hình hồi quy này có phân phối chuẩn với mức ý nghĩa kiểm định là 5%.
50
4.3.2 Phân tích cân bằng dài hạn
Trong bài nghiên cứu, tác giả đã tiến hành kiểm định nghiệm đơn vị của từng biến
riêng biệt để xác định thuộc tính dừng bằng phương pháp phổ biến là phương pháp
ADF (Augmented Dickey-Fuller).
Giả thuyết: H0: chuỗi dữ liệu là không dừng
H1: chuỗi dữ liệu dừng
Kết quả: p-value > mức ý nghĩa α thì chấp nhận H0 và ngược lại
Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị
51
p-value Kết luận Biến
0.9421 Không dừng mức 1% lnGDP
0.0271 Không dừng mức 1% lnEDT
0.0159 Không dừng mức 1% lnTDS
0.0340 Không dừng mức 1% lnINV
0.0000 Dừng mức 1% lnFDI
0.0883 Không dừng mức 1% EXP
Vì hầu hết các chuỗi đều không dừng ở mức 1%, nên ta sẽ kiểm tra tính dừng của sai
phân bậc 1 của các chuỗi dữ liệu
p-value Kết luận Biến
0.0031 Dừng mức 1% dlnGDP
0.0044 Dừng mức 1% dlnEDT
0.0004 Dừng mức 1% dlnTDS
0.0007 Dừng mức 1% dlnINV
0.0000 Dừng mức 1% dlnFDI
0.0000 Dừng mức 1% dlnEXP
52
Kết quả kiểm định cho thấy các biến lnY, lnEDT, lnTDS, lnINV, lnFDI và lnEXP là
chuỗi thời gian không dừng (không xu hướng) I(0) và chuỗi dừng I (1) hay chúng
còn được gọi là chuỗi liên kết bậc 1.
Do các biến số sử dụng trong mô hình đều không dừng nên có thể xảy ra khả năng
các vecto đồng liên kết. Tác giả sử dụng phương pháp Johansen và Juselius (1990)
để thực hiện kiểm định giả thuyết này.
Kết quả kiểm định cho thấy là tồn tại 4 vecto đồng liên kết. Như vậy có tồn tại mối
quan hệ dài hạn giữa các biến lựa chọn trong mô hình (1).
Kết quả thu được bằng phương pháp OLS là thật sự có ý nghĩa, không phải là kết quả
giả mạo.
Từ kết quả hồi quy và kiểm định đồng liên kết ở trên ta có hàm hồi quy như sau:
lnY = 24.60892 + 0.5841 lnEDT – 0.2889839 lnTDS + 0.1488317 lnFDI +
0.9323343 lnINV + 0.5924436 lnEXP
53
Giải thích ý nghĩa mô hình:
R2 = 0.7780 cho biết mô hình giải thích được 77,80% sự phụ thuộc của tăng trưởng
kinh tế Việt Nam vào nợ nước ngoài, dịch vụ nợ trên xuất khẩu, đầu tư trực tiếp
nước ngoài, đầu tư trong nước và độ mở nền kinh tế.
Căn cứ kết quả hồi qui, dấu của các hệ số hồi qui phù hợp với kỳ vọng của nghiên
cứu.
- Hệ số của lnEDT = 0.5841 có nghĩa là khi nợ nước ngoài trên GDP tăng 1%
thì GDP sẽ tăng 0,58%, hệ số mang dấu dương cho thấy nợ nước ngoài trên
GDP đồng biến với tăng trưởng kinh tế, hay tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP
càng cao thì càng làm tăng sự tăng trưởng kinh tế. Như vậy, tỷ lệ nợ nước
ngoài trên GDP của Việt Nam chưa vượt qua ngưỡng nợ “Debt threshold”
hay ngưỡng an toàn.
- Trong khi đó, hệ số lnTDS = - 0.2889839 nghĩa là khi tỷ lệ dịch vụ nợ trên
xuất khẩu tăng 1% thì GDP sẽ giảm 0,29% và nó cho thấy tỷ lệ dịch vụ nợ
trên xuất khẩu tác động âm đến tăng trưởng, cho thấy việc thanh toán nợ làm
giảm nguồn lực đầu tư trong nước, nên việc gia tăng tỷ lệ này làm giảm tăng
trưởng kinh tế là phù hợp.
- Hệ số lnINV = 0.9323343 có nghĩa khi tỷ lệ đầu tư trong nước trên GDP tăng
1% thì GDP tăng 0,93%, hệ số mang dấu dương cho thấy biến số đầu tư trong
nước trên GDP đồng biến với tăng trưởng kinh tế là hoàn toàn phù hợp. Việt
Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong hơn 20 năm
qua, trung bình 7,4% hàng năm trong giai đoạn 1990 - 2012. Tốc độ tăng
trưởng tương đối cao phù hợp với sự tăng nhanh về đầu tư nhà nước và tư
nhân. Hiệu quả của đầu tư trong nước từ việc sử dụng các nguồn lực trong
54
nước để duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất,
kinh doanh, nhằm tạo ra nhiều hàng hóa có giá trị, dịch vụ tốt hơn, góp phần
nâng cao giá trị sinh hoạt đời sống cao hơn. Như vậy, đầu tư trong nước là
nền tảng, phát triển kết cấu tầng kinh tế -xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho
các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực phát triển, đồng thời thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài, đảm bảo sự phát triển toàn diện giữa các ngành, vùng,
miền kinh tế, góp phần đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững.
- Hệ số lnFDI = 0.1488317 có nghĩa là khi tỷ lệ đầu tư nước ngoài tăng 1% thì
GDP sẽ tăng 0,15% và nó cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP tỷ lệ
thuận với tăng trưởng kinh tế. Vai trò của FDI được thể hiện rất rõ qua việc
đóng góp vào các yếu tố quan trọng của tăng trưởng như bổ sung nguồn vốn
đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân
lực và tạo việc làm,…Ngoài ra, FDI cũng đóng góp tích cực vào tạo nguồn
thu ngân sách và thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới. Nhờ có sự đóng góp quan trọng của FDI mà Việt Nam đã đạt được tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm qua và được biết đến là quốc gia
phát triển năng động, đổi mới, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc
tế. Tuy nhiên, FDI cũng đã và đang tạo ra nhiều vấn đề ảnh hưởng tiêu cực
đến tính bền vững của tăng trưởng và chất lượng cuộc sống của người dân.
Gần đây, đã xuất hiện hàng loạt vấn đề gây bức xúc dư luận xã hội, trong đó
nổi bật là chất lượng sử dụng FDI thấp, thiếu tính bền vững, ô nhiễm môi
trường trầm trọng.
- Hệ số lnEXP = 0.5924436 có nghĩa khi tỷ lệ xuất khấu trên nhập khẩu tăng
1% thì GDP tăng 0,59%, và nó cho thấy độ mở nền kinh tế cũng tương quan
thuận với tăng trưởng kinh tế, khi độ mở nền kinh tế gia tăng, đồng nghĩa với
việc cơ hội giao thương hàng hóa của Việt Nam với bên ngoài tăng lên nên
55
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Điều này phù hợp xu thế
thời đại, thực trạng và chính sách mở cửa kinh tế của Việt Nam hiện nay,
bằng chứng việc gia nhập WTO đã có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh
tế của nước ta trong bốn năm qua, xuất-nhập khẩu tăng mạnh, quan hệ hợp
tác kinh tế và thương mại với nhiều nước được tăng cường và mở rộng, đặc
biệt là với các đối tác quan trọng. Lực lượng doanh nghiệp phát triển nhanh,
các thị trường nhân tố mau chóng mở rộng, một số sản phẩm và doanh nghiệp
khẳng định được chỗ đứng trên thị trường trong nước và quốc tế. Thể chế
kinh tế và môi trường kinh doanh trong nước được cải thiện về nhiều mặt
theo hướng mở rộng tự do hóa thương mại và đầu tư, phù hợp với các cam
kết của nước ta với WTO cũng như các cam kết đa phương và song phương
khác, đặc biệt trong khuôn khổ ASEAN và với các đối tác trong khu vực.
4.3.3 Phân tích cân bằng ngắn hạn - Mô hình VECM
Theo Granger (1983 và 1986) khái niệm cân bằng dài hạn chỉ định sự tương đương
về mặt thống kê của đồng tích hợp. Khi có đồng tích hợp và khi có một cú sốc bất
kỳ xảy ra gây ra sự mất cân bằng thì sẽ tồn tại quá trình điều chỉnh động ngắn hạn
như cơ chế hiệu chỉnh sai số. Cơ chế này sẽ đưa hệ thống trở lại cân bằng dài hạn.
Thực tế cho thấy, đồng tích hợp hàm ý sự tồn tại dạng hàm hiệu chỉnh sai số động
trong xem xét quan hệ giữa các biến, do vậy mô hình VECM được sử dụng trong
ước lượng sẽ cho phép xác định cân bằng dài hạn từ sự vận động ngắn hạn được xác
định từ dữ liệu thực tế.
Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị cho thấy tất cả các biến là chuỗi dừng ở sai phân
bậc một I(1), và có tồn tại sự đồng liên kết trong phương trình (1) nên ta có thể sử
dụng mô hình hiệu chỉnh sai số (VECM), để tính toán mức độ tác động của các nhân
tố đến biến động của tăng trưởng kinh tế và xác định mức chênh lệch trong ngắn hạn
56
so với mức cân bằng dài hạn của chỉ số tăng trưởng kinh tế.
Trước khi thực hiện mô hình VECM, ta thực hiện kiểm định VAR các biến của mô
hình ở sai phân bậc một để tìm ra bước trễ tối ưu. Kết quả ta tìm được bước trễ tối ưu
là 1 kỳ.
Với kết quả bước trễ 1 kỳ và số đồng liên kết là 4 như trong kiểm định Jonhansen ở
trên, ta thực hiện mô hình VECM, phần hiệu chỉnh sai số là biến được lấy từ
Kết quả hồi qui mô hình hiệu chỉnh sai số VECM với 1 bước trễ:
Dependent Variable: DlnY
Variable
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
0.6366427
0.347844
1.83
DlnYt-1 DlnEDTt-1
0.067** 0.040*
0.2601693
0.1267503
2.05
DlnTDSt-1
phương trình (1):
0.027*
-0.0532447
0.0670574
-0.79
DlnINVt-1
0.025*
0.354647
0.2309179
1.54
DlnFDIt-1
0.000*
0. 1211049
0. 0264552
4.58
DlnEXPt-1
-0.30
ECt-1
0.077** 0.027*
C
0.155
0. 0918077 -0.2121203 0. 0706255
0. 3098767 0. 1389517 0. 0496347
-1.53 1.42
Ghi chú: *(**) có ý nghĩa thống kê ở mức 5% (10%)
57
Từ kết quả phân tích được trình bày tóm tắt trong bảng trên, ở các mức ý nghĩa
thống kê, trong ngắn hạn, biến tăng trưởng kinh tế chịu tác động bởi chính nó trong
độ trễ 1 kỳ, ngoài ra còn chịu ảnh hưởng bởi các biến: DlnEDTt-1 (Tỷ lệ nợ nước
ngòai trên GDP độ trễ 1 kỳ), DlnTDSt-1 (Tỷ lệ dịch vụ nợ trên GDP độ trể 1 kỳ),
DlnFDIt-1 (Tỷ lệ đầu tư nước ngòai trên GDP độ trễ 1 kỳ), DlnINVtt-1 (Tỷ lệ đầu tư
trong nước trên GDP độ trễ 1 kỳ), và DEXPt-1 (Độ mở nền kinh tế độ trễ 1 kỳ).
Kết quả: Ý nghĩa của các hệ số thể hiện mối quan hệ quan hệ trong ngắn hạn của các
biến kinh tế nghiên cứu đối với tăng trưởng kinh tế như sau:
- Hệ số của các biến DlnINVt-1, DlnFDIt-1, DlnEXPt-1 mang dấu dương cho thấy
là một sự tăng (giảm) của các biến Tỷ lệ đầu tư trong nước/GDP,TỶ lệ đầu tư
nước ngoài/GDP, Tỷ lệ xuất khẩu trên nhập khẩu sẽ làm cho mức tăng trưởng
kinh tế tăng lên (giảm xuống) trong ngắn hạn.
- Hệ số của biến DlnTDSt-1 mang dấu âm có nghĩa là khi Tổng nợ nước
ngoài/GDP tăng (giảm) thì mức tăng trưởng kinh tế sẽ tăng (giảm) theo.
- Hệ số của biếnDlnEDTt-1 mang dấu dương cho ta ý nghĩa rằng trong ngắn hạn
khi Tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP tăng lên thì mức tăng trưởng kinh tế cũng tăng
lên theo.
Hệ số phần điều chỉnh sai số ECt-1 = -0.2121203: hệ số điều chỉnh của mô hình
mang dấu âm cho ta thấy mối quan hệ đồng liên kết đã tìm ra ở phần trước là đúng
hay các biến kinh tế nghiên cứu có tồn tại mối quan hệ trong dài hạn. Hệ số ECt-1 có
giá trị -0.2121203 cho thấy tốc độ điều chỉnh về cân bằng là khá nhanh.
Kiểm định sự phù hợp của mô hình VECM với độ trễ 1 kỳ
58
- Kiểm định tự tương quan
Với mức giá trị p-value = 0.096 > , ta có thể chấp nhận giả thuyết Ho rằng
mô hình VECM với độ trễ 1 kỳ không có hiện tượng tự tương quan.
- Kiểm định phần dư có phân phối chuẩn
Để kiểm định phần dư có phân phối chuẩn hay không chúng ta sử dụng thống kê JB
của jarque-berra (1990)
Giả thuyết: H0: Phần dư có phân phối chuẩn;
J a r q u e - B e r a t e s t E q u a t i o n c h i 2 d f P r o b > c h i 2 D _ l n g d p 1 . 6 3 8 2 0 . 4 4 0 8 0 D _ l n e d t 1 2 . 7 8 2 2 0 . 0 0 1 6 8 D _ l n t d s 0 . 4 0 1 2 0 . 8 1 8 2 4 D _ l n i n v 0 . 0 2 9 2 0 . 9 8 5 4 3 D _ l n f d i 1 5 . 0 3 0 2 0 . 0 0 0 5 4 D _ l n e x p 2 . 0 0 8 2 0 . 3 6 6 5 0 A L L 3 1 . 8 8 8 1 2 0 . 2 4 1 4 4
H1: Phần dư không có phân phối chuẩn
Với mức giá trị p-value = 0.241 > , ta có thể chấp nhận giả thuyết Ho rằng
phần dư của mô hình có phân phối chuẩn.
Với các kết quả kiểm định sự phù hợp của mô hình như ở trên, ta có thể kết luận
rằng mô hình VECM với độ trễ 1 kỳ thật sự phù hợp với nghiên cứu.
59
4.3.4 Kết luận mô hình hồi quy
Theo kết quả kiểm định mô hình các biến nợ nước ngoài, đầu tư trong nước, dịch vụ
nợ, độ mở của nền kinh tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải thích được khoảng
77,8% thay đổi của biến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu.
Trong dài hạn nợ nước ngoài, đầu tư trong nước và độ mở nền kinh tế ba yếu tố
chính trong các biến được lựa chọn có tác động nhiều đến tăng trưởng kinh tế. Trong
ngắn hạn, nợ nước ngoài, dịch vụ nợ, đầu tư trong nước, và đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở kỳ trước có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh kế kỳ hiện tại. Khi có biến
động mạnh của các yếu tố vĩ mô quá trình điều chỉnh từ cân bằng ngắn hạn về dài
hạn là nhanh hệ số cân bằng lớn (ECt-1 = - 0.2121203).
Để đảm bảo nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh và bền vững, chúng ta cần đề
xuất những giải pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh đầu tư trong nước bằng nguồn vốn
tiết kiệm, kiểm soát chặt chẽ nợ nước ngoài không để vượt ngưỡng an toàn, quản lý
khai thác vốn đầu tư có hiệu quả và khả năng trả nợ vay, đồng thời thu hút có chọn
lọc đầu tư nước ngoài với những dự án có trình độ công nghệ cao, máy móc hiện đại
và hạn chế tác động xấu đến môi trường.
60
5. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC
NGOÀI
Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy rằng “debt overhang” là một yếu tố cốt yếu
khi bàn về vấn đề nợ nước ngoài của Việt Nam. Gánh nặng nợ ngày càng tăng lên
bắt nguồn từ việc quản lý chưa hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, sự mất
cân bằng nển kinh tế vĩ mô và suy giảm tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Nợ nước ngoài quá cao sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia qua
một số kênh sau: Thứ nhất, số nợ phải trả lớn sẽ làm cạn kiệt nguồn vốn và dự trữ
ngoại hối của quốc gia do số tiền này được dùng vào việc trả lãi và các khoản nợ đến
hạn. Thứ hai, khi một quốc gia không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ của
mình thì các quốc gia và tổ chức cho vay sẽ đánh giá quốc gia đó có nhiều rủi ro
hơn, từ đó sẽ làm suy giảm sự sẵn lòng cho vay. Điều này cũng đồng nghĩa với việc
quốc gia này đi vay có thể trả lãi suất cao hơn cho các khoản vay mới của mình. Thứ
ba, việc tích lũy nợ sẽ làm giảm hiệu quả của nền kinh tế do đó sẽ gây khó khăn cho
việc điều chỉnh để thích ứng và đối phó một cách hiệu quả với các cú sốc và sự biến
động tài chính quốc tế.
Từ các kết luận và phân tích nêu trên, có thể thấy rằng vay nợ nước ngoài có hai mặt
đối lập, một mặt nó là nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội , mặt khác nếu quản
lí không tốt , hiệu quả sử dụng vốn thấp không hợp lý sẽ dẫn tới những hậu quả tiêu
cực cho nền kinh tế. Dưới đây là một số kiến nghị chính sách về nợ nước ngoài được
tác giả đề xuất:
- Xây dựng một cơ cấu nợ bền vững:
Cần tuân thủ quy luật khách quan trong thay đổi luồng vốn vào các nước đang phát
triển “các nước đang phát triển thường chuyển từ trạng thái nghèo, thu nhập thấp
sang giai đoạn mới phát triển ổn định và thoát khỏi ngưỡng nghèo thường đi liền với
61
thay đổi cơ cấu nợ từ chỗ phụ thuộc vào ODA sang vay thương mại ngày càng cao
hơn”. Lựa chọn hợp lí các nguồn vay nước ngoài nhằm hướng tới nâng cao chất
lượng nguồn vay. Một nguồn vốn có đặc điểm riêng, cần phối hợp các nguồn vay nợ
nước ngoài một cách hợp lí nhất theo mục đích sử dụng theo nguyên tắc khai thác
triệt để các nguồn vốn ưu đãi có thời gian dài, thời gian ân hạn dài, lãi suất thấp, tỉ lệ
ưu đãi cao như sử dụng viện trợ phát triển chính thức để đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng vì cần vốn đầu tư lớn, tác động đến tăng trưởng lâu dài, bền vững.
- Kiểm soát nợ nước ngoài:
Cần chú ý đến khả năng chịu đựng nợ nước ngoài của Việt Nam, không nên chủ
quan chỉ dựa vào ngưỡng an toàn cho nợ nước ngoài theo tập quán quốc tế là 40%
GDP. Trong thực tế, theo tiêu chuẩn phân loại mức độ nợ của Ngân hàng Thế Giới,
cho rằng tỷ lệ nước ngoài/GDP trong khoảng 30%-50% có nghĩa là quốc gia đó
đang ở mức độ khó khăn. Với tình hình ngân sách luôn bị thâm hụt, nếu công tác
kiểm soát nợ không chặt chẽ và hiệu quả thì khả năng vượt ngưỡng an toàn là rất
gần. Ngoài ra, chúng ta cần phải tính đến tổng nợ nước ngoài phải trả với tổng các
khoản vay mới, tránh tình trạng tổng trả phải lớn hơn tổng khoản vay vì các năm qua
con số trả nợ thấp do các khoản vay mới chưa đến hạn nhưng những năm sắp tới đây
chúng ta sẽ chịu áp lực trả nợ khi hạn thanh toán đã đến.
- Sử dụng nợ nước ngoài có hiệu quả:
Phân chia rủi ro cho việc phân bố các khoản vay vào dự án đầu tư, nên phân vốn vay
này vào các dự án đầu tư trong các lĩnh vực ngành nghề khác nhau nhưng chủ yếu
tập trung vào ngành kinh tế đang là mũi nhọn.
Đa dạng hóa và khai thác triệt để các nguồn vốn vay từ nước ngoài. Coi trọng vốn
vay dài hạn dưới hình thức ưu đãi của các tổ chức tài chính, tiền tệ, đặc biệt là nguồn
62
vốn ODA. Hạn chế vay thương mãi với lãi suất cao, thời gian ngắn, cần cân nhắc
vay nợ như thế nào là có lợi nhất.
Phải có chính sách vay trả nợ nước ngoài thận trọng, đầu tư hợp lý. Xây dựng dự án
để có khả năng sử dung vốn hợp lí và có hiệu quả nhất. Ngăn chặn vay nợ và đầu tư
tràn lan, đầu tư vào những dự án không hiệu quả, không có khả năng hoàn trả vốn
vay.
Khi vay nợ phải xem xét kỹ các điều khoản về vay và trả, thực hiện đàn phán để
tránh những rủi ro không đáng có.
Cần hạn chế việc đầu tư quá mức bằng nguồn vốn vay từ nước ngoài của Chính phủ
vào các dự án không có khả năng tạo ra nguồn ngoại tệ đê trả nợ hoặc các dự án
không phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Tăng cường tính cạnh tranh của nền kinh tế:
Nhằm cải thiện tình hình kinh tế vĩ mô, từ đó huy động tối đa các nguồn lực trong
nước, giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vay nợ nước ngoài. Đồng thời, việc
xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi cũng đóng vai trò quan trọng trong việc
giảm thiểu việc quản lí không hiệu quả các nguồn lực, từ đó thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế trên nền tảng tăng tích lũy vốn và năng suất sản xuất.
63
KẾT LUẬN
Vay nợ nước ngoài là một nguồn vốn cần thiết cho phát triển kinh tế, tuy nhiên
không nên vay nợ nước ngoài bằng mọi giá, càng không thể coi việc vay nợ nước
ngoài là một cứu cánh để tăng trưởng trong hiện tại mà không chú ý đến sự phát
triển bền vững trong quá trình phát triển của nền kinh tế.
Qua phân tích thực trạng vay nợ nước ngoài của Việt Nam, nghiên cứu nhận thấy
mặc dù nợ nước ngoài ở Việt Nam đang gia tăng mạnh trong những năm gần đây
nhưng so với các tiêu chí đánh giá trong nước và các tổ chức tài chính quốc tế thì
tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn. Nghiên cứu
cũng cho thấy sử dụng nợ chưa được như mong đợi, hiệu quả sử dụng nợ nói riêng
và sử dụng vốn nói chung còn thấp, nếu dùng chỉ số ICOR để đánh giá hệ số này ở
Việt Nam cao hơn nhiều so với các quốc gia khu vực Châu Á. Quản lý nợ cũng còn
nhiều điểm cần hoàn thiện để vay nợ không còn là gánh nặng quốc gia.
Ngoài ra nghiên cứu còn phân tích mối quan hệ định lượng giữa GDP, nợ nước
ngoài, dịch vụ nợ, đầu tư nội địa, và độ mở nền kinh tế, trong đó mục đích chính là
tìm ra mối quan hệ trong ngắn hạn và dài hạn giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế từ 1986 đến 2012.
Kết quả cho thấy trong dài hạn, nợ nước ngoài, đầu tư nội địa, độ mở nền kinh tế,
xuất khẩu đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay. Trong đó,
gánh nặng nghĩa vụ nợ phải trả cho nước ngoài tác động ngược chiều đến tăng
trưởng kinh tế.
Trên cơ sở phân tích nghiên cứu có nêu ra một số khuyến nghị về chính sách quản lý
vay nợ nước ngoài. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như
hiện nay, thách thức đặt ra cho Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển khác
nói chung là cần nhận thức đúng đắn vai trò vay và trả nợ như thế nào để vừa khai
64
thác nguồn vốn vay nước ngoài sao cho hiệu quả để biến việc vay mượn thành một
đòn bẩy phát triển kinh tế, vừa không làm gia tăng những nguy cơ đối với an ninh tài
chính và không phụ thuộc vào những can thiệp về kinh tế chính trị từ nước ngoài.
65
HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng theo tác giả, đề tài vẫn còn một số hạn chế.
Về mặt số liệu thống kê, ước lượng mô hình: vì chỉ tiêu nợ nước ngoài là một chỉ
tiêu khó tổng hợp đầy đủ và chính xác ví dụ như đối với các khoản nợ vay nước
ngoài của các con nợ không cư trú ở nội địa sẽ rất khó thu thập. Nên kết quả ước
lượng có được trong nghiên cứu có thể sẽ không chính xác.
Do thống kê tài chính trong nước không đầy đủ và rất khó tiếp cận nên nghiên cứu
sử dụng số liệu từ các tổ chức tài chính quốc tế nên có thể sẽ có một số điểm khác
biệt với các số liệu báo cáo trong nước, điều này có thể do phương pháp và cách
phân bổ khác nhau. Và số liệu không có đầy đủ nên nhiều chỉ tiêu, bảng biểu không
trình bày đầy đủ số liệu xuyên suốt từ năm 1986 đến nay.
Mẫu quan sát tương đối nhỏ (27 quan sát, theo số liệu năm 1986 - 2012), nếu số liệu
của Việt Nam được phản ảnh theo quý, thì số mẫu quan sát nhiều hơn và kết quả đo
lường kinh tế lượng sẽ chuẩn xác hơn.
Vì hạn chế thời gian và dữ liệu nên nghiên cứu chỉ tập trung vào chỉ tiêu ICOR ở
gốc độ cơ bản nhất để đánh giá hiệu quả đầu tư, chưa so sánh với các chỉ tiêu khác.
Để hoàn chủ đề nghiên cứu nợ nước ngoài, theo quan điểm của tác giả có thể thực
hiện thêm các chủ đề như:
- Thiết lập mô hình xác định ngưỡng nợ nước ngoài
- Biện pháp kiểm soát và sử dụng hiệu quả vốn ODA
- Hoàn thiện khuôn khổ luật quản lý nợ công của Việt Nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Thị Bình Minh và Sử Đình Thành, 2008. Phương pháp tiếp cận đánh giá
Tiếng Việt
2. Đoàn Kim Thành, 2008. Vốn vay ODA và khả năng trả nợ của Việt Nam. Trình
hiệu quả nợ công. Tạp chí kinh tế Phát triển số 215
3. Mai Thu Hiền và Nguyễn Thị Như Nguyệt, 2010. Tình hình nợ công và quản lý
bày tại Hội nghị nhóm các nhà tư vấn tài trợ cho Việt Nam, ngày 4/12/2008.
4. Nguyễn Hoàng Phương, 2007. Ước lượng hiệu quả của vốn ODA đối với tăng
nợ công ở Việt Nam. Tạp chí Đại học Ngoại thương
trưởng kinh tế tại Việt Nam. Nguồn tài chính trong nước và nước ngoài cho
5. Website: www.gso.gov.vn, www.mof.gov.vn, www.customs.gov.vn
tăng trưởng ở Việt Nam, NXB Lao động Xã hội năm 2007
Tiếng Anh
1. Adepoju, Adenike Adebusola, Salau, Adekunle Sheu and Obayelu, Abiodun
Elijah, 2007. The effects of External Debt Management on Sustainable
Economic Growth and Development: Lessons from Nigeria. Munich Personal
RePEc Archive
2. BoG, 2005. The HIPC Initiative and Ghana’s External debt: An empirical
assessment and policy challenges. Policy Brief, Special Studies, Research
Department, Bank of Ghana
3. Borensztein, E., 1990. Debt overhang, debt reduction and investment: The case
of the Philippines. IMF Working Paper No. WP/90/77, September
4. Catherine Pattillo, Hélène Poirson and Luca Ricci, 2002. External Debt and
Growth. Magazine Finance and Development of the IMF, June 2002, Volume
39, Number 2
5. Cohen, D., 1993. Low investment and Large LDC debt in 1980s. The American
Economic Review, June 1993
6. Elbadawi, A. I., J. B. Ndulu, and N. Ndung'u, 1996. Debt Overhang and
Economic Growth in Sub-Saharan Africa. Paper presented at the IMF/World
Bank Conference on External Financing for Low-income Countries, December
1996
7. Fosu, A.K, 1996. The Impact of External Dept on Economic Growth in Sub-
Saharan Africa. Jounnal of Economic Development, 21, 1:93-117
8. Frimpong, J. M. and Oteng-Abayi, E. F., 2006. The Impact Of External Debt On
Economic Growth In Ghana: A Cointegration Analysis. Journal of science and
technology, volume 26 no.3, December 2006
9. Krishna Prasad Regmi, 2008. A Study on Public Debt and its Impact on
Economic Growth in Nepal. World Bank
10. Krugman Paul, 1988. Financing versus forgiving a debt overhang. Journal of
Development Economics, 29:252-268
11. Mehmet Caner, Thomas Grennes, Fritzi Koehler-Geib, 2010. Finding the
Tipping Point - When Sovereign Debt Turns Bad. Policy Research Working
Paper 5391, World Bank
12. Reinhart, Carmen and Kenneth Rogoff, 2010. Growth in a Time of Debt.
American Economic Review, May forthcoming
13. Shahnawaz Malik, Muhammad Khizar Hayat và Muhammad Umer Hayat,
2010. External Debt and Economic Growth: Empirical Evidence from Pakistan.
International Research Journal of Finance and Economics - Issue 44 (2010)
14. Soludo, C.C., S.O’Connell, 2001. Aid and Reform in Nigeria. World
Development, vol.29, No.9, pp.1527-1552
15. Tokunbo, 2006. Budget Deficits, External Debt and Economic Growth in
Nigeria. Applied Econometrics and International Development Vol.6-3(2006)
16. Were, Maureen, 2001. The Impact of External Debt on Economic Growth and
Private Investment in Kenya: An Empirical Assessment. Kenya Institute for
Public Policy Research and Analysis
PHỤ LỤC
1. KẾT QUẢ KIỂM TRA TÍNH DỪNG CỦA CÁC BIẾN
2. KẾT QUẢ KIỂM TRA TÍNH DỪNG CỦA SAI PHÂN BẬC 1 CÁC
BIẾN
V e c t o r e r r o r - c o r r e c t i o n m o d e l S a m p l e : 1 9 8 8 - 2 0 1 2 N o . o f o b s = 2 5 A I C = - 9 . 2 9 5 0 7 6 L o g l i k e l i h o o d = 1 9 0 . 1 8 8 5 H Q I C = - 8 . 2 9 4 4 0 6 D e t ( S i g m a _ m l ) = 9 . 9 4 e - 1 5 S B I C = - 5 . 6 8 7 2 0 4 E q u a t i o n P a r m s R M S E R - s q c h i 2 P > c h i 2 D _ l n g d p 1 1 . 0 8 4 5 2 8 0 . 9 6 2 9 3 3 7 . 6 8 3 4 0 . 0 0 0 0 D _ l n e d t 1 1 . 2 1 9 0 8 9 0 . 9 7 5 6 5 1 9 . 5 7 8 4 0 . 0 0 0 0 D _ l n t d s 1 1 . 2 4 5 5 1 2 0 . 9 5 8 7 3 0 1 . 6 0 9 6 0 . 0 0 0 0 D _ l n i n v 1 1 . 1 2 4 3 8 1 0 . 9 5 2 8 2 6 2 . 5 9 8 0 . 0 0 0 0 D _ l n f d i 1 1 . 3 0 5 2 6 5 0 . 9 2 1 3 1 5 2 . 1 0 2 5 0 . 0 0 0 0 D _ l n e x p 1 1 . 0 8 2 5 2 9 0 . 9 2 3 3 1 5 6 . 4 2 8 4 0 . 0 0 0 0
C o e f . S t d . E r r . z P > | z | [ 9 5 % C o n f . I n t e r v a l ] D _ l n g d p _ c e 1 L 1 . - . 0 6 9 3 5 4 9 . 0 4 9 8 0 3 5 - 1 . 3 9 0 . 1 6 4 - . 1 6 6 9 6 8 . 0 2 8 2 5 8 2 _ c e 2 L 1 . - . 0 3 8 7 2 9 9 . 0 5 1 9 0 2 5 - 0 . 7 5 0 . 4 5 6 - . 1 4 0 4 5 6 9 . 0 6 2 9 9 7 _ c e 3 L 1 . . 0 1 6 9 5 4 3 . 0 5 6 4 4 5 5 0 . 3 0 0 . 7 6 4 - . 0 9 3 6 7 6 8 . 1 2 7 5 8 5 5 _ c e 4 L 1 . - . 2 1 2 1 2 0 3 . 1 3 8 9 5 1 7 - 1 . 5 3 0 . 0 2 7 - . 4 8 4 4 6 0 6 . 0 6 0 2 2 l n g d p L D . . 6 3 6 6 4 2 7 . 3 4 7 8 4 4 1 . 8 3 0 . 0 6 7 - . 0 4 5 1 1 9 1 . 3 1 8 4 0 4 l n e d t L D . . 2 6 0 1 6 9 3 . 1 2 6 7 5 0 3 2 . 0 5 0 . 0 4 0 . 0 1 1 7 4 3 2 . 5 0 8 5 9 5 4 l n t d s L D . - . 0 5 3 2 4 4 7 . 0 6 7 0 5 7 4 - 0 . 7 9 0 . 0 2 7 - . 1 8 4 6 7 4 7 . 0 7 8 1 8 5 3 l n i n v L D . . 3 5 4 6 4 7 . 2 3 0 9 1 7 9 1 . 5 4 0 . 0 2 5 - . 0 9 7 9 4 3 8 . 8 0 7 2 3 7 8 l n f d i L D . . 1 2 1 1 0 4 9 . 0 2 6 4 5 5 2 4 . 5 8 0 . 0 0 0 . 0 6 9 2 5 3 7 . 1 7 2 9 5 6 1 l n e x p L D . . 0 9 1 8 0 7 7 . 3 0 9 8 7 6 7 - 0 . 3 0 0 . 0 7 7 - . 6 9 9 1 5 4 8 . 5 1 5 5 3 9 5 _ c o n s . 0 7 0 6 2 5 5 . 0 4 9 6 3 4 7 1 . 4 2 0 . 1 5 5 - . 0 2 6 6 5 6 8 . 1 6 7 9 0 7 7
3. KẾT QUẢ HỒI QUY MÔ HÌNH VECM