
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
237TCNCYH 183 (10) - 2024
ĐẶC ĐIỂM NỘI SOI TAI VÀ CẮT LỚP VI TÍNH
CHOLESTEATOMA BẨM SINH TAI GIỮA Ở TRẺ EM
Nguyễn Hữu Luật1 và Đào Trung Dũng2,3,
1Bệnh viện Nhi Thanh Hoá
2Bệnh viện Bạch Mai
3Trường Đại học Y Hà Nội
Từ khóa: Cholesteatoma bẩm sinh, tai giữa, trẻ em.
Nghiên cứu nhằm mô tả đặc điểm nội soi tai và cắt lớp vi tính cholesteatoma bẩm sinh tai giữa ở trẻ
em. Phương pháp nghiên cứu mô tả loạt ca bệnh, 63 bệnh nhi được chẩn đoán cholesteatoma bẩm
sinh tai giữa tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương; Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Nhi Thanh Hóa
từ tháng 01/2020 đến tháng 6/2024. Kết quả cho thấy tuổi trung bình là 4,5 ± 2,7 năm; 81% bệnh nhi ≤
6 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ là 2,7/1. 88,9% tình cờ phát hiện bệnh. Nội soi thấy khối cholesteatoma đều ở một
bên: 55,6% ở góc phần tư trước trên, 33,3% ở góc phần tư sau trên, 11,1% ở ≥ 2 góc phần tư. Tỷ lệ giai
đoạn I, II, III, IV lần lượt là 61,9%; 9,5%; 22,2%; 6,3%. Cắt lớp vi tính chẩn đoán đúng giai đoạn 90%, tổn
thương xương con 66,7%. Như vậy, cholesteatoma bẩm sinh tai giữa thường không triệu chứng. Nội
soi tai giúp phát hiện sớm bệnh, cần chụp cắt lớp vi tính xác định giai đoạn và lập kế hoạch phẫu thuật.
Tác giả liên hệ: Đào Trung Dũng
Bệnh viện Bạch Mai
Email: daotrungdung@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 01/10/2024
Ngày được chấp nhận: 15/10/2024
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
nhân không có tiền sử phẫu thuật, chảy mủ
tai hay thủng màng nhĩ trước đó, đây là điểm
khác biệt quan trọng với những trường hợp
cholesteatoma hình thành do biểu bì di cư vào
tai giữa qua lỗ thủng màng nhĩ sát xương hoặc
túi co kéo. Ước tính bệnh gặp với tỷ lệ là 0,12
trên 100.000 dân, chủ yếu ở trẻ em trong độ
tuổi 4 đến 5 tuổi với tỷ lệ nam/nữ là 3/1.1-3
Do cholesteatoma bẩm sinh tai giữa thường
tiến triển một cách âm thầm, thường gặp ở
trẻ nhỏ với triệu chứng nghèo nàn nên nhiều
trường hợp bệnh chỉ được phát hiện khi đã
nghe kém nhiều do tổn thương chuỗi xương
con, có biến chứng liệt mặt ngoại biên, rò mê
nhĩ, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng nếu
cholesteatoma xâm lấn nội sọ gây ra viêm
màng não, áp xe não. Hiện nay, nhờ ứng dụng
rộng rãi của nội soi tai mũi họng cũng như chụp
cắt lớp vi tính mà bệnh được phát hiện sớm và
chính xác hơn, giúp tăng khả năng thành công
của phẫu thuật lấy bỏ bệnh tích, giảm thiểu tai
biến và biến chứng. Ở Việt Nam, trong những
Cholesteatoma là một tổn thương lành
tính, bản chất là biểu mô vảy lát tầng sừng
hoá có tính phá huỷ xương rất mạnh do tiết
ra nhiều men như collagenase, phosphatase.1
Cholesteatoma có thể gặp ở nhiều vị trí khác
nhau của xương thái dương như hòm tai,
thượng nhĩ, xương chũm, đỉnh xương đá.
Cholesteatoma được phân thành hai loại là
bẩm sinh hoặc mắc phải, phương pháp điều trị
duy nhất là phẫu thuật.
Theo nghiên cứu, cholesteatoma bẩm
sinh tai giữa chiếm 10% đến 28% tổng số
cholesteatoma nói chung ở trẻ em.2 Trên lâm
sàng, chẩn đoán cholesteatoma bẩm sinh tai
giữa được đặt ra khi soi tai phát hiện thấy khối
màu trắng nằm phía trong màng nhĩ kín ở bệnh