BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HÀ TẤN ĐỨC
XÂY DỰNG BIỂU ĐỒ NOMOGRAM
ĐỂ CÁ NHÂN HÓA TIÊN LƯỢNG TỬ VONG
BỆNH LÝ NỘI KHOA TẠI KHOA CẤP CỨU
Ở ĐỐI TƯỢNG NGƯỜI VIỆT NAM
Ngành: Hồi sức cấp cứu và chống độc
Mã số: 9720103
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2018
2
Công trình được hoàn thành tại:
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Phạm Thị Ngọc Thảo
2. PGS.TS. Đỗ Văn Dũng
Phản biện 1: …………………………………………………………
Phản biện 2: …………………………………………………………
Phản biện 3: …………………………………………………………
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án cấp Trường,
họp tại ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
vào hồi ……..giờ………phút, ngày…….tháng……..năm ……….
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM
- Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM
1
GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
Đặt vấn đề
Khoảng 93% các tử vong trong bệnh viện xảy ra ở bệnh
nhân nhập viện trong tình trạng cấp cứu. Ngoài ra, do sự đa dạng về
bệnh lý và mức độ nặng của bệnh nội khoa cấp cứu nên gây ra nhiều
khó khăn cho việc tiên lượng bệnh. Điều này dẫn đến nhiều biến cố
bất lợi xảy ra ngoài dự đoán. Mặc dù tiên lượng dựa trên kinh
nghiệm cá nhân của bác sỹ điều trị có độ chính xác khá tốt, tiên
lượng dựa trên kinh nghiệm cá nhân thường có độ tin cậy thấp đối
với những bệnh nhân có kết cục điều trị rất tốt hoặc rất xấu (tiên
lượng thừa nguy cơ tử vong). Do đó, nhiều mô hình tiên lượng đã
được nghiên cứu và ứng dụng để phát hiện những bệnh nặng cần hồi
sức tích cực, nhằm giảm tỷ lệ tử vong và tối ưu hóa sử dụng nguồn
lực y tế. Hiện nay, đối với bệnh nhân nội khoa tại khoa cấp cứu các
mô hình được sử dụng phổ biến là Rapid Emergency Medicine Score
(REMS), Rapid Acute Physiology Score (RAPS), Worthing
Physiological Scoring system (WPS), Routine Laboratory Data
(RLD), Simple Clinical Score (SCS) và Admission Laboratory Tests
(ALTs). Các mô hình này đã được nghiên cứu ở các nước Âu Mỹ và
có độ chính xác tốt khi tiên lượng kết cục điều trị.
Trong các mô hình trên, hai mô hình REMS và WPS tương
đối đơn giản và có khả năng ứng dụng cao, vì các thông số của hai
mô hình này là các dấu hiệu lâm sàng không xâm lấn có thể thu thập
trong một thời gian ngắn, phù hợp với bối cảnh cấp cứu. Chỉ số AUC
(Area Under the ROC Curve) của mô hình REMS và WPS khi
nghiên cứu phát triển mô hình lần lượt là 0,852 và 0,740. Tuy nhiên,
theo nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện tại một trung tâm y
khoa ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, tính phân biệt của hai mô
2
hình này khi tiên lượng chỉ ở mức trung bình cho bệnh nhân nội khoa
tại khoa cấp cứu.
Nhiều yếu tố tiên lượng cho bệnh nội khoa cấp cứu là các
dấu hiệu lâm sàng hoặc các xét nghiệm. Cho đến nay, vẫn chưa có
nghiên cứu nào cho thấy sự kết hợp giữa các dấu hiệu lâm sàng và
xét nghiệm thường quy có lợi ích khi tiên lượng ở bệnh nhân nội
khoa cấp cứu người Việt Nam. Do đó, nghiên cứu này được thực
hiện trên giả thuyết rằng tử vong ở bệnh nhân có bệnh lý nội khoa tại
khoa cấp cứu là hệ quả của những rối loạn sinh lý và các bệnh lý đi
kèm; các rối loạn này được thể hiện qua triệu chứng lâm sàng và các
xét nghiệm thường quy. Thiết kế nghiên cứu hiện tại nhằm kiểm định
giả thuyết vừa nêu, với mục tiêu nghiên cứu như sau:
1. Xác định mối liên quan giữa các dấu hiệu lâm sàng, tiền sử bệnh,
và đặc điểm cận lâm sàng với tử vong ở bệnh nhân nội khoa cấp cứu.
2. Phát triển mô hình tiên lượng tử vong từ các dấu hiệu lâm sàng và
xét nghiệm thường quy cho bệnh lý nội khoa tại khoa cấp cứu ở bệnh
nhân Việt Nam. Mô hình sau khi được phát triển sẽ được chuyển
thành toán đồ (nomogram) để dự đoán nguy cơ tử vong của bệnh
nhân.
Tính cấp thiết của đề tài
Bệnh nhân cấp cứu là những người có nguy cơ tử vong cao
cần được thụ hưởng chế độ điều trị và chăm sóc tương xứng. Tuy
nhiên, tiên lượng độ nặng cho bệnh nhân thường rất khó khăn do tình
trạng quá tải thường xuyên và bệnh lý phức tạp tại khoa cấp cứu.
Trong khi đó, tình trạng khẩn cấp đòi hỏi người thầy thuốc phải tiên
lượng thật nhanh độ nặng của bệnh nhân để ra quyết định điều trị kịp
thời.
3
Mặc dù, có nhiều mô hình tiên lượng cho bệnh nội khoa cấp
cứu đã được xây dựng trên thế giới; tuy nhiên, vẫn chưa có mô hình
tiên lượng nào cho thấy thích hợp cho bệnh nhân nội khoa cấp cứu
Việt Nam. Xuất phát từ nhu cầu thực tế, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài này.
Những đóng góp mới của luận án
Công trình nghiên cứu của chúng tôi đã cung cấp thông tin
mới về yếu tố nguy cơ tử vong ở bệnh nội khoa cấp cứu. Trên cơ sở
này, chúng tôi đã xây dựng được các mô hình tiên lượng mới từ các
dấu hiệu lâm sàng và xét nghiệm. Về phương diện lâm sàng, các mô
hình này giúp cho việc quản lý bệnh nhân tốt hơn, bảo vệ bác sỹ về
phương diện pháp lý, đặc biệt khi đối diện với những bệnh nhân khó
tiên lượng.
Bố cục luận án
Luận án dài 98 trang. Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận,
luận án gồm 4 chương: Chương 1 - Tổng quan tài liệu (23 trang),
chương 2 - Đối tượng và phương pháp nghiên cứu (19 trang),
chương 3 - Kết quả nghiên cứu (25 trang), chương 4 - Bàn luận (26
trang). Luận án có 12 bảng, 17 biểu đồ, 1 sơ đồ, 150 tài liệu tham
khảo (3 tiếng Việt và 147 tiếng Anh).
Chương 1: Tổng quan tài liệu
Như đã đề cập trong phần đặt vấn đề, đối với bệnh nhân nội
khoa tại khoa cấp cứu, hiện nay có nhiều mô hình tiên lượng đã được
phát triển và thẩm định ở bệnh nhân Âu Mỹ. Các mô hình có các yếu
tố tiên lượng chỉ gồm những dấu hiệu lâm sàng không xâm lấn là:
REMS, RAPS, SCS, WPS. Các mô hình phối hợp giữa dấu hiệu lâm
sàng không xâm lấn và cận lâm sàng bao gồm: ALTs và RLD. Biểu
4
đồ 1.1 trình bày mối liên hệ giữa chỉ số AUC với số lượng yếu tố
tiên lượng trong mô hình.
Biểu đồ 1.1: AUC của các mô hình tiên lượng tại khoa cấp cứu
1.1. Ứng dụng mô hình tiên lượng vào thực tế tại khoa cấp cứu
1.1.1. Thiết lập tiêu chuẩn khách quan để chỉ định chế độ chăm
sóc
Mô hình tiên lượng cho phép thiết lập tiêu chuẩn khách quan
để chỉ định chế độ chăm sóc cho bệnh nhân. Điều này giúp phân bổ
hợp lý nhân lực và tài nguyên y tế. Mặc dù, các bác sỹ điều trị có thể
dựa trên kinh nghiệm cá nhân để ước lượng nguy cơ tử vong và từ đó
phân bổ chế độ chăm sóc cho từng bệnh nhân; tuy nhiên, có bằng
chứng cho thấy dựa trên các tiêu chuẩn khách quan có thể cho kết
quả chính xác hơn.
5
1.1.2. So sánh chất lượng chăm sóc giữa các đơn vị y tế
Vào năm 1984, Liddell đề xuất một cách đo lường mới gọi là
tỷ số tử vong chuẩn hóa (Standardised Mortality Ratio: SMR). Chỉ số
này cho phép chuẩn hóa tỷ lệ tử vong quan sát theo độ nặng của bệnh
nhân. Công thức tính như sau: