BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HÀ TẤN ĐỨC

XÂY DỰNG BIỂU ĐỒ NOMOGRAM

ĐỂ CÁ NHÂN HÓA TIÊN LƯỢNG TỬ VONG

BỆNH LÝ NỘI KHOA TẠI KHOA CẤP CỨU

Ở ĐỐI TƯỢNG NGƯỜI VIỆT NAM

Ngành: Hồi sức cấp cứu và chống độc

Mã số: 9720103

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2018

2

Công trình được hoàn thành tại:

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Phạm Thị Ngọc Thảo

2. PGS.TS. Đỗ Văn Dũng

Phản biện 1: …………………………………………………………

Phản biện 2: …………………………………………………………

Phản biện 3: …………………………………………………………

Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án cấp Trường,

họp tại ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

vào hồi ……..giờ………phút, ngày…….tháng……..năm ……….

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

- Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM

- Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM

1

GIỚI THIỆU LUẬN ÁN

Đặt vấn đề

Khoảng 93% các tử vong trong bệnh viện xảy ra ở bệnh

nhân nhập viện trong tình trạng cấp cứu. Ngoài ra, do sự đa dạng về

bệnh lý và mức độ nặng của bệnh nội khoa cấp cứu nên gây ra nhiều

khó khăn cho việc tiên lượng bệnh. Điều này dẫn đến nhiều biến cố

bất lợi xảy ra ngoài dự đoán. Mặc dù tiên lượng dựa trên kinh

nghiệm cá nhân của bác sỹ điều trị có độ chính xác khá tốt, tiên

lượng dựa trên kinh nghiệm cá nhân thường có độ tin cậy thấp đối

với những bệnh nhân có kết cục điều trị rất tốt hoặc rất xấu (tiên

lượng thừa nguy cơ tử vong). Do đó, nhiều mô hình tiên lượng đã

được nghiên cứu và ứng dụng để phát hiện những bệnh nặng cần hồi

sức tích cực, nhằm giảm tỷ lệ tử vong và tối ưu hóa sử dụng nguồn

lực y tế. Hiện nay, đối với bệnh nhân nội khoa tại khoa cấp cứu các

mô hình được sử dụng phổ biến là Rapid Emergency Medicine Score

(REMS), Rapid Acute Physiology Score (RAPS), Worthing

Physiological Scoring system (WPS), Routine Laboratory Data

(RLD), Simple Clinical Score (SCS) và Admission Laboratory Tests

(ALTs). Các mô hình này đã được nghiên cứu ở các nước Âu Mỹ và

có độ chính xác tốt khi tiên lượng kết cục điều trị.

Trong các mô hình trên, hai mô hình REMS và WPS tương

đối đơn giản và có khả năng ứng dụng cao, vì các thông số của hai

mô hình này là các dấu hiệu lâm sàng không xâm lấn có thể thu thập

trong một thời gian ngắn, phù hợp với bối cảnh cấp cứu. Chỉ số AUC

(Area Under the ROC Curve) của mô hình REMS và WPS khi

nghiên cứu phát triển mô hình lần lượt là 0,852 và 0,740. Tuy nhiên,

theo nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện tại một trung tâm y

khoa ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, tính phân biệt của hai mô

2

hình này khi tiên lượng chỉ ở mức trung bình cho bệnh nhân nội khoa

tại khoa cấp cứu.

Nhiều yếu tố tiên lượng cho bệnh nội khoa cấp cứu là các

dấu hiệu lâm sàng hoặc các xét nghiệm. Cho đến nay, vẫn chưa có

nghiên cứu nào cho thấy sự kết hợp giữa các dấu hiệu lâm sàng và

xét nghiệm thường quy có lợi ích khi tiên lượng ở bệnh nhân nội

khoa cấp cứu người Việt Nam. Do đó, nghiên cứu này được thực

hiện trên giả thuyết rằng tử vong ở bệnh nhân có bệnh lý nội khoa tại

khoa cấp cứu là hệ quả của những rối loạn sinh lý và các bệnh lý đi

kèm; các rối loạn này được thể hiện qua triệu chứng lâm sàng và các

xét nghiệm thường quy. Thiết kế nghiên cứu hiện tại nhằm kiểm định

giả thuyết vừa nêu, với mục tiêu nghiên cứu như sau:

1. Xác định mối liên quan giữa các dấu hiệu lâm sàng, tiền sử bệnh,

và đặc điểm cận lâm sàng với tử vong ở bệnh nhân nội khoa cấp cứu.

2. Phát triển mô hình tiên lượng tử vong từ các dấu hiệu lâm sàng và

xét nghiệm thường quy cho bệnh lý nội khoa tại khoa cấp cứu ở bệnh

nhân Việt Nam. Mô hình sau khi được phát triển sẽ được chuyển

thành toán đồ (nomogram) để dự đoán nguy cơ tử vong của bệnh

nhân.

Tính cấp thiết của đề tài

Bệnh nhân cấp cứu là những người có nguy cơ tử vong cao

cần được thụ hưởng chế độ điều trị và chăm sóc tương xứng. Tuy

nhiên, tiên lượng độ nặng cho bệnh nhân thường rất khó khăn do tình

trạng quá tải thường xuyên và bệnh lý phức tạp tại khoa cấp cứu.

Trong khi đó, tình trạng khẩn cấp đòi hỏi người thầy thuốc phải tiên

lượng thật nhanh độ nặng của bệnh nhân để ra quyết định điều trị kịp

thời.

3

Mặc dù, có nhiều mô hình tiên lượng cho bệnh nội khoa cấp

cứu đã được xây dựng trên thế giới; tuy nhiên, vẫn chưa có mô hình

tiên lượng nào cho thấy thích hợp cho bệnh nhân nội khoa cấp cứu

Việt Nam. Xuất phát từ nhu cầu thực tế, chúng tôi tiến hành nghiên

cứu đề tài này.

Những đóng góp mới của luận án

Công trình nghiên cứu của chúng tôi đã cung cấp thông tin

mới về yếu tố nguy cơ tử vong ở bệnh nội khoa cấp cứu. Trên cơ sở

này, chúng tôi đã xây dựng được các mô hình tiên lượng mới từ các

dấu hiệu lâm sàng và xét nghiệm. Về phương diện lâm sàng, các mô

hình này giúp cho việc quản lý bệnh nhân tốt hơn, bảo vệ bác sỹ về

phương diện pháp lý, đặc biệt khi đối diện với những bệnh nhân khó

tiên lượng.

Bố cục luận án

Luận án dài 98 trang. Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận,

luận án gồm 4 chương: Chương 1 - Tổng quan tài liệu (23 trang),

chương 2 - Đối tượng và phương pháp nghiên cứu (19 trang),

chương 3 - Kết quả nghiên cứu (25 trang), chương 4 - Bàn luận (26

trang). Luận án có 12 bảng, 17 biểu đồ, 1 sơ đồ, 150 tài liệu tham

khảo (3 tiếng Việt và 147 tiếng Anh).

Chương 1: Tổng quan tài liệu

Như đã đề cập trong phần đặt vấn đề, đối với bệnh nhân nội

khoa tại khoa cấp cứu, hiện nay có nhiều mô hình tiên lượng đã được

phát triển và thẩm định ở bệnh nhân Âu Mỹ. Các mô hình có các yếu

tố tiên lượng chỉ gồm những dấu hiệu lâm sàng không xâm lấn là:

REMS, RAPS, SCS, WPS. Các mô hình phối hợp giữa dấu hiệu lâm

sàng không xâm lấn và cận lâm sàng bao gồm: ALTs và RLD. Biểu

4

đồ 1.1 trình bày mối liên hệ giữa chỉ số AUC với số lượng yếu tố

tiên lượng trong mô hình.

Biểu đồ 1.1: AUC của các mô hình tiên lượng tại khoa cấp cứu

1.1. Ứng dụng mô hình tiên lượng vào thực tế tại khoa cấp cứu

1.1.1. Thiết lập tiêu chuẩn khách quan để chỉ định chế độ chăm

sóc

Mô hình tiên lượng cho phép thiết lập tiêu chuẩn khách quan

để chỉ định chế độ chăm sóc cho bệnh nhân. Điều này giúp phân bổ

hợp lý nhân lực và tài nguyên y tế. Mặc dù, các bác sỹ điều trị có thể

dựa trên kinh nghiệm cá nhân để ước lượng nguy cơ tử vong và từ đó

phân bổ chế độ chăm sóc cho từng bệnh nhân; tuy nhiên, có bằng

chứng cho thấy dựa trên các tiêu chuẩn khách quan có thể cho kết

quả chính xác hơn.

5

1.1.2. So sánh chất lượng chăm sóc giữa các đơn vị y tế

Vào năm 1984, Liddell đề xuất một cách đo lường mới gọi là

tỷ số tử vong chuẩn hóa (Standardised Mortality Ratio: SMR). Chỉ số

này cho phép chuẩn hóa tỷ lệ tử vong quan sát theo độ nặng của bệnh

nhân. Công thức tính như sau:

= ∗ 100 ố ượ ử á ố ượ ử ê ượ

Chỉ số SMR này càng cao có nghĩa số tử vong quan sát được

trên thực tế càng cao so với số lượng tử vong tiên lượng.

1.1.3. Ứng dụng vào nghiên cứu

Trong các nghiên cứu can thiệp hoặc nghiên cứu lâm sàng

được tiến hành ở nhiều trung tâm y khoa, mô hình tiên lượng thường

được sử dụng để: (1) nhận diện những bệnh nhân có cùng mức độ

nguy cơ, (2) kiểm tra chất lượng của việc phân nhóm ngẫu nhiên, (3)

so sánh các nghiên cứu can thiệp hay các nghiên cứu lâm sàng với

nhau, hay so sánh các bệnh nhân trong nghiên cứu với các bệnh nhân

trong thực hành lâm sàng, hoặc xác định cỡ mẫu.

1.1.4. Thiết lập tỷ lệ bác sỹ : số gường điều trị thích hợp trong

một bệnh viện

Nếu chấp nhận chỉ số SMR là chỉ số để đánh giá chất lượng

điều trị của một bệnh viện, thì tỷ số bác sỹ : số giường bệnh là một

trong những yếu tố tiên lượng chất lượng điều trị. Căn cứ trên số

lượng bác sỹ trên 100 giường bệnh, người ta chia số lượng bác sỹ

cho một bệnh viện thành 3 loại: (1) thấp (số lượng bác sỹ trên 100

giường thấp hơn trung bình ½ độ lệch chuẩn), (2) trung bình (số

lượng bác sỹ trên 100 giường trong khoảng trung bình ± ½ độ lệch

chuẩn), và (3) cao (số lượng bác sỹ trên 100 giường cao hơn trung

6

bình ½ độ lệch chuẩn). Chỉ số SMR tỷ lệ nghịch với số lượng bác sỹ

tính trên 100 giường điều trị.

1.1.5. Vấn đề y đức khi sử dụng mô hình tiên lượng như một

hướng dẫn để ngừng điều trị

Sử dụng mô hình tiên lượng để hỗ trợ việc ra quyết định tiếp

tục hay dừng chăm sóc y tế vẫn còn bàn cãi vì nhiều lý do. Thứ nhất,

đa số các mô hình tiên lượng được thiết kế để mô tả độ nặng bệnh và

xác suất tử vong của nhóm bệnh nhân, không phải cho cá nhân bệnh

nhân. Thứ hai, thậm chí trong các nhóm bệnh nhân, không có mô

hình nào có xác suất tiên lượng so sánh hoàn hảo với xác suất quan

sát (khả năng hiệu chuẩn) và những mô hình này cũng không phân

biệt một cách hoàn hảo bệnh nhân sống sót với bệnh nhân tử vong.

Thứ ba, các mô hình tiên lượng chỉ có thể hướng dẫn ra quyết định

chăm sóc y tế chỉ trong bối cảnh có sự hiểu biết thích hợp về các

nguyên tắc đạo đức có liên quan đến việc tiếp tục hay dừng chăm sóc

y tế.

1.2. Khuyến cáo sử dụng mô hình trên lâm sàng và tình hình

nghiên cứu trong nước

Để áp dụng một mô hình tiên lượng vào thực tế lâm sàng,

nhà lâm sàng cần nắm rõ một số đặc điểm sau: (1) mô hình tiên

lượng sẽ khái quát hóa tốt nhất cho những quần thể có các giá trị của

biến số dao động trong phạm vi tương tự như ở quần thể phát triển

mô hình, giảm thiểu sai lệch liên quan đến quần thể nghiên cứu; (2)

khi một mô hình kém chính xác ở một quần thể mới thì nên sử dụng

dữ liệu mới này để biến đổi mô hình cho phù hợp thay vì phát triển

thêm một mô hình mới; (3) trước khi áp dụng mô hình tiên lượng

nhà lâm sàng cần phải biết rõ các định nghĩa và phương pháp đo

7

lường của các biến số, nhằm làm giảm sai lệch liên quan đến độ tin

cậy của biến số.

Cho đến nay, đã có nghiên cứu đánh giá tính chính xác của

các mô hình tiên lượng tại khoa hồi sức cấp cứu tại Việt Nam. Tuy

nhiên, đối với các mô hình tiên lượng cho bệnh nội khoa tại khoa cấp

cứu chỉ mới có một nghiên cứu được thực hiện ở quần thể người Việt

Nam. Kết quả cho thấy chỉ số AUC của hai mô hình REMS và WPS

khi tiên lượng tử vong trong vòng 30 ngày chỉ ở mức trung bình.

Điều này cho thấy, vẫn còn có những yếu tố nguy cơ khác cho phép

dùng để tiên lượng kết cục điều trị bệnh nhân nội khoa tại khoa cấp

cứu. Trong bối cảnh y tế Việt Nam, sự khác biệt về tính phân biệt khi

ứng dụng các mô hình tiên lượng được phát triển ở các nước Âu Mỹ

có thể liên quan đến nguồn lực y tế và mức độ nặng của bệnh.

Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

2.1. Địa điểm nghiên cứu

Khoa cấp cứu của Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ.

2.2. Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu được thiết kế theo mô hình quan sát tiến cứu.

2.3. Bệnh nhân nghiên cứu

Quần thể nghiên cứu là những bệnh nhân có bệnh lý nội

khoa từ 16 tuổi trở lên đến khám tại phòng cấp cứu và có chỉ định

nhập viện. Bệnh nhân được xem là có bệnh lý nội khoa khi nhập viện

không do nguyên nhân chấn thương và không có chỉ định phẫu thuật;

ngoại trừ các phẫu thuật do đột quỵ não, xuất huyết tiêu hóa trên, và

tràn khí màng phổi nguyên phát.

8

2.3.1. Tiêu chuẩn nhận

Bệnh nhân được nhận vào nghiên cứu khi có tất cả các tiêu

chuẩn sau: Tuổi từ 16 trở lên, tự đến khám hoặc do trung tâm y tế

khác chuyển đến do bệnh lý nội khoa, có chỉ định nhập viện, và đồng

ý tham gia vào nghiên cứu.

2.3.2. Tiêu chuẩn loại

Các bệnh nhân sau đây không được đưa vào nghiên cứu: Hội

chứng vành cấp, bỏng, ngưng tim trước khi vào viện hoặc ngưng tim

tại khoa cấp cứu với hồi sinh tim phổi thất bại, rắn cắn, côn trùng cắn

hoặc đốt, ngộ độc (thuốc, rượu, paraquat, thuốc trừ sâu, thuốc diệt

chuột, và chất ăn mòn), và có thai.

2.3.3. Tiêu chuẩn ngừng tham gia

Bệnh nhân có thể rút khỏi nghiên cứu vào bất kỳ lúc nào mà

không ảnh hưởng đến liệu pháp điều trị và kết quả điều trị. Bệnh

nhân được cho ngừng tham gia nghiên cứu khi xảy ra một trong các

tình huống sau: Không hợp tác điều trị, chuyển trung tâm y khoa

khác khi tình trạng lâm sàng chưa cải thiện, không liên lạc được bằng

điện thoại, và xuất viện do thân nhân hoặc bệnh nhân tự xin về.

2.4. Cỡ mẫu

Cỡ mẫu được ước lượng dựa vào mục tiêu nghiên cứu chính,

tức là dựa trên số lượng biến cố tử vong cho mỗi yếu tố tiên lượng

theo phương pháp của Peduzzi. Từ các mô hình tiên lượng REMS,

RAPS, WPS, RLD, SCS, ALTs đã được nghiên cứu chúng tôi dự

đoán rằng mô hình tiên lượng có khoảng 12 yếu tố tiên lượng. Vì tỷ

lệ hợp lý tối thiểu là 10 biến cố tử vong cho mỗi yếu tố tiên lượng, và

tỷ lệ tử vong trong nghiên cứu sơ khởi ở bệnh nhân có bệnh lý nội

khoa cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ là 6,6%,

9

do đó nghiên cứu cần tối thiểu khoảng 1820 bệnh nhân cho việc xây

dựng mô hình tiên lượng.

ỡ ẫ = = ≈ 1820 10 ∗ ố ượ ế ố ê ượ ỷ ệ ử 10 ∗ 12 0.066

Giả định tỷ lệ bệnh nhân ngừng tham gia nghiên cứu khoảng

10% và tỷ lệ bệnh nhân bị khuyết dữ liệu khoảng 10%, chúng tôi tính

toán được cỡ mẫu cho toàn bộ nghiên cứu khoảng 2184 bệnh nhân.

2.5. Quy trình nghiên cứu

Tất cả bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nhận và không có tiêu chuẩn

loại đều được mời tham gia nghiên cứu. Sau khi xác nhận đồng ý

tham gia nghiên cứu, các cộng tác viên trong nhóm nghiên cứu tiến

hành thu thập các dữ liệu nghiên cứu bao gồm: Đặc điểm lâm sàng,

tiền sử bệnh, và thực hiện các xét nghiệm theo yêu cầu của đề cương

nghiên cứu. Kết cục điều trị được ghi nhận sau thời gian 30 ngày.

2.6. Kết cục nghiên cứu

Kết cục chính của nghiên cứu này là tử vong trong vòng 30

ngày kể từ ngày nhập viện, được xác nhận qua điện thoại khi nghiên

cứu viên liên hệ với thân nhân hoặc bệnh nhân. Bệnh nhân được xem

là tử vong khi có một trong các tiêu chuẩn sau: (a) bệnh nhân tử vong

trong bệnh viện do bất kỳ nguyên nhân nào, hoặc (b) thân nhân xin

cho bệnh nhân xuất viện và bệnh nhân tử vong trong vòng 24 giờ sau

khi xuất viện, hoặc (c) bác sỹ cho xuất viện và bệnh nhân tử vong tại

nhà. Tử vong trong ngày đầu tiên nhập viện được gọi là ngày 0.

2.7. Các yếu tố nguy cơ

Trong vòng 15 phút đầu tiên kể từ khi bệnh nhân được đưa

vào phòng cấp cứu, cộng tác viên thu thập số liệu ghi nhận các dữ

liệu y khoa bao gồm sinh hiệu, điểm Glasgow, số ngày điều trị ở

10

bệnh viện khác, số ngày khởi phát bệnh, tình trạng chức năng, và

thực hiện các xét nghiệm được quy định trong đề cương. Ngay trước

khi bệnh nhân được chuyển đến khoa khác các dữ liệu sau được tiếp

tục ghi nhận: Hồi sinh tim phổi, thông khí cơ học, điều trị tại khoa

hồi sức cấp cứu theo chỉ định, và tiền sử bệnh. Các yếu tố nguy cơ là xét nghiệm được ghi nhận bao gồm:

Công thức máu, urea huyết thanh, đường huyết, creatinine huyết

thanh, bilirubin toàn phần huyết thanh, albumin huyết thanh, natri

huyết thanh, kali huyết thanh, aspartate transaminase (AST), và alanine transaminase (ALT).

2.8. Phương pháp phân tích

Giai đoạn đầu, thống kê mô tả được thực hiện để mô tả các

biến số có phân tầng theo tình trạng sống còn và tử vong của bệnh

nhân. Giai đoạn tiếp theo, phương pháp Bayesian Model Averaging

(BMA) được sử dụng để tìm mô hình tiên lượng tối ưu trong tiên

lượng tử vong.

Tính phân biệt của các mô hình được đánh giá bằng chỉ số

AUC trong tiên lượng tử vong 30 ngày. Khả năng hiệu chuẩn của mô

hình được kiểm định bằng phép kiểm Hosmer-Lemeshow.

Mô hình được chọn lựa dùng để vẽ toán đồ. Các toán đồ này

được dùng để ước lượng nguy cơ tử vong trong vòng 30 ngày.

Phương pháp BMA được thực hiện bằng gói phần mềm

“BMA”. Các toán đồ được vẽ bằng gói phần mềm “rms”. Tất cả các

phân tích được thực hiện bằng phần mềm R, phiên bản 3.1.0. Các

phân tích được cho là có ý nghĩa thống kê khi trị số P < 0,05.

11

Chương 3: Kết quả nghiên cứu

Trong thời gian nghiên cứu từ 13/03/2013 đến 01/06/2013

chúng tôi đã tuyển được 2179 bệnh nhân. Tuy nhiên, có 59 bệnh

nhân không đáp ứng được tiêu chuẩn nhận hoặc có tiêu chuẩn loại,

12 bệnh nhân bị khuyết dữ liệu ở tiêu chuẩn loại, 271 bệnh nhân

ngừng tham gia nghiên cứu (trong số này có 66 bệnh nhân nặng về

và tử vong sau đó, 28 bệnh nhân không liên hệ được, và 177 bệnh

nhân còn sống sau khi ngừng tham gia). Kể cả bệnh nhân còn sống

sau khi ngừng tham gia nghiên cứu còn lại tổng cộng 2014 bệnh

nhân; trong số này có 73 bệnh nhân bị khuyết dữ liệu, 2 bệnh nhân

có số ngày khởi phát bệnh là giá trị ngoại vi. Do đó, còn lại 1939

bệnh nhân được đưa vào phân tích.

3.1. Đặc điểm quần thể nghiên cứu

Tính theo trung vị, thời gian nằm viện là 6 ngày (khoảng tứ

phân vị: 4 – 10 ngày). Trong thời gian theo dõi 30 ngày sau khi nhập

viện từ khoa cấp cứu, 172 bệnh nhân tử vong. Do đó, tỷ lệ tử vong là

8,8% (KTC 95%: 7,6 – 10,2%).

3.1.1. Đặc điểm lâm sàng

Tuổi trung vị của bệnh nhân trong nghiên cứu là 68 (khoảng

tứ phân vị: 55 – 80 tuổi), không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê

về tuổi giữa nhóm sống sót và nhóm tử vong (trị số P = 0,082, kiểm

định Wilcoxon). Trong các dấu hiệu lâm sàng, dấu hiệu sinh tồn

(mạch, nhiệt độ, huyết áp tâm thu, nhịp thở, và SpO2) cho thấy có sự

khác biệt giữa nhóm sống sót và nhóm tử vong. Nhịp thở gia tăng

trung vị là 4 nhịp/phút ở nhóm tử vong so với nhóm sống sót (KTC

95%: 2 – 5 lần/phút). Tương tự, SpO2 giảm trung vị 3,5% ở nhóm tử

vong so với nhóm sống sót (KTC 95%: 3 – 5%). Ngoài ra, các dấu

hiệu lâm sàng khác như giới tính, hồi sinh tim phổi, thông khí nhân

12

tạo, điểm Glasgow, tình trạng chức năng, và chỉ định điều trị tại khoa

hồi sức cấp cứu cũng có sự khác biệt giữa nhóm sống sót so với

nhóm tử vong. Các dấu hiệu lâm sàng khác như số ngày điều trị ở

bệnh viện khác, số ngày khởi phát bệnh chưa thấy có sự khác biệt

giữa nhóm sống sót và nhóm tử vong.

3.1.2. Đặc điểm tiền sử bệnh

Trong 1939 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, các bệnh cơ bản

thường gặp là đái tháo đường (671 bệnh nhân, 34,6%), suy tim (121

bệnh nhân, 6,2%), khó thở lâm sàng (115 bệnh nhân, 5,9%), suy thận

mạn (84 bệnh nhân, 4,3%), và xơ gan báng bụng (56 bệnh nhân,

2,9%). Ngoài ra, còn một số tình trạng bệnh lý cơ bản khác với số

lượng ít hơn như bệnh lý ung thư, leukemia hoặc myeloma,

lymphoma, suy giảm miễn dịch do thuốc. Các tình trạng bệnh lý như

đái tháo đường, suy tim, khó thở lâm sàng, và xơ gan báng bụng cho

thấy có sự khác biệt giữa nhóm sống sót và nhóm tử vong.

3.1.3. Đặc điểm cận lâm sàng

Các chỉ số sinh hóa có sự khác biệt giữa nhóm sống sót và

nhóm tử vong như urea huyết thanh, đường huyết, creatinine huyết

thanh, bilirubin toàn phần huyết thanh, albumin huyết thanh, AST, và

ALT. Urea huyết thanh ở nhóm sống sót thấp hơn ở nhóm tử vong

trung vị là 2,2 mmol/L (KTC 95%: 1,1 – 3,2 mmol/L); tương tự,

creatinine huyết thanh ở nhóm sống sót thấp hơn ở nhóm tử vong

trung vị là 18 µmol/L (KTC 95%: 11 – 27 µmol/L). Các chỉ số sinh

hóa khác cũng có sự gia tăng trung vị ở nhóm tử vong so với nhóm

sống sót như đường huyết (1,3 mmol/L, KTC 95%: 0,7 – 2,0

mmol/L), bilirubin toàn phần huyết thanh (2,0 µmol/L, KTC 95%:

0,6 – 4,1 µmol/L), AST (15,5 U/L, KTC 95%: 6,0 – 20,0), và ALT

(5 U/L, KTC 95%: 1 – 8,5 U/L). Ngược lại, nồng độ albumin huyết

13

thanh giảm ở nhóm tử vong so với nhóm sống sót (giảm trung vị 4,0

g/L, KTC 95%: 1,5 – 6,0 g/L). Các biến số natri huyết thanh và kali

huyết thanh chưa thấy có sự khác biệt giữa nhóm sống sót và nhóm

tử vong.

Tương tự, các chỉ số huyết học cũng có sự khác biệt giữa

nhóm sống sót và nhóm tử vong như hemoglobin, số lượng bạch cầu,

và tiểu cầu. Hemoglobin ở nhóm sống sót cao hơn ở nhóm tử vong

trung vị 0,5 g/dL (KTC 95%: 0,0 – 0,9 g/dL); số lượng bạch cầu ở

nhóm sống sót thấp hơn ở nhóm tử vong trung vị 2,5 K/µL (KTC

95%: 1,6 – 3,6 K/µL); và số lượng tiểu cầu ở nhóm sống sót cao hơn

ở nhóm tử vong trung vị 19,5 K/µL (KTC 95%: 1,0 – 35,0 K/µL).

3.2. Lựa chọn mô hình tiên lượng tối ưu

Chúng tôi phát triển 2 loại mô hình: (1) mô hình từ các dấu

hiệu lâm sàng không xâm lấn và (2) mô hình kết hợp dấu hiệu lâm

sàng và xét nghiệm.

Đối với mô hình từ các dấu hiệu lâm sàng không xâm lấn,

chúng tôi đưa vào phân tích các biến số: Giới tính, tuổi, mạch, nhiệt

độ, huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương, loại nhịp thở, SpO2, điểm

Glasgow, ngày điều trị ở bệnh viện khác, ngày khởi phát bệnh, tình

trạng chức năng và hồi sinh tim phổi (13 biến số, Bảng 3.8).

Bảng 3.8: Bốn mô hình tiên lượng tối ưu từ các dấu hiệu lâm sàng

được chọn lựa bằng phương pháp BMA

Mô hình

Xác suất

1

2

3

4

≠ 0a (%)

.

X

.

Giới tính

48,0

X

14

Bảng 3.8: Bốn mô hình tiên lượng tối ưu từ các dấu hiệu lâm sàng

được chọn lựa bằng phương pháp BMA

Mô hình

Xác suất

1

2

3

4

≠ 0a (%)

.

.

.

.

Tuổi

2,1

.

.

.

.

Mạch

24,3

.

.

.

.

Nhiệt độ

9,9

X

X

.

.

Huyết áp tâm thu

43,9

.

.

.

.

Huyết áp tâm trương

6,6

X

X

X

X

Loại nhịp thởb

100,0

X

X

X

X

SpO2

100,0

X

X

X

X

Điểm Glasgow

100,0

.

.

.

.

Ngày điều trị ở bệnh

6,3

viện khác

.

.

.

.

Ngày khởi phát bệnh

30,1

.

.

.

.

Tình trạng chức năng

0,0

.

.

.

.

Hồi sinh tim phổi

34,1

5

4

4

3

Biến số trong mô hình

BIC

-195,7

-195,5

-195,4

-195,1

Xác suất hậu định

0,064

0,056

0,053

0,047

(a) Xác suất các biến số hiện diện trong các mô hình tiềm năng được chọn lựa bằng

phương pháp Bayesian Model Average.(b) Loại nhịp thở: Thở nhanh (nhịp thở > 24

lần/phút), thở không nhanh ( ≤ 24 lần/phút).

Đối với mô hình từ dấu hiệu lâm sàng và xét nghiệm, chúng

tôi kết hợp các dấu hiệu lâm sàng (13 biến số được liệt kê ở Bảng

15

3.8) và xét nghiệm được thực hiện trong nghiên cứu này (tổng cộng

27 biến số, Bảng 3.9).

Bảng 3.9: Bốn mô hình tiên lượng tối ưu từ các dấu hiệu lâm sàng và

xét nghiệm được chọn lựa bằng phương pháp BMA

Mô hình

Xác suất ≠

5

6

7

8

0a (%)

Giới tính

94,1

X

X

X

X

Tuổi

1,5

.

.

.

.

Mạch

4,4

.

.

.

.

Nhiệt độ

1,3

.

.

.

.

1,3

Huyết áp tâm thu

.

.

.

.

1,1

Huyết áp tâm trương

.

.

.

.

100,0

Loại nhịp thởb

X

X

X

X

100,0

SpO2

X

X

X

X

100,0

Điểm Glasgow

X

X

X

X

Ngày điều trị ở bệnh

1,1

.

.

.

.

viện khác

Ngày khởi phát bệnh

92,6

X

X

X

X

Tình trạng chức năng

0,0

.

.

.

.

Hồi sinh tim phổi

16,2

.

.

.

.

Hematocrit

1,6

.

.

.

.

Hemoglobin

1,6

.

.

.

.

Số lượng bạch cầu

8,1

.

.

.

.

Đa nhân trung tính

1,2

.

.

.

.

Số lượng tiểu cầu

17,8

.

.

.

.

16

Bảng 3.9: Bốn mô hình tiên lượng tối ưu từ các dấu hiệu lâm sàng và

xét nghiệm được chọn lựa bằng phương pháp BMA

Mô hình

Xác suất ≠

5

6

7

8

0a (%)

.

.

.

X

Urea huyết thanh

45,7

X

X

X

X

Đường huyết

99,6

X

.

X

.

Creatinine huyết thanh

33,3

.

.

.

.

Bilirubin huyết thanh

7,3

X

X

X

X

Albumin huyết thanh

100,0

.

.

.

.

Natri huyết thanh

4,0

.

.

.

.

Kali huyết thanh

4,0

.

.

X

.

AST

17,8

X

X

.

X

ALT

83,3

9

8

9

9

Biến số trong mô hình

BIC

-235,7

-235,0

-234,9

-233,8

Xác suất hậu định

0,081

0,057

0,053

0,032

(a) Xác suất các biến số hiện diện trong các mô hình tiềm năng được chọn lựa bằng

phương pháp Bayesian Model Average. (b) Loại nhịp thở: Thở nhanh (nhịp thở > 24

lần/phút), thở không nhanh ( ≤ 24 lần/phút).

3.3. Tính phân biệt và khả năng hiệu chuẩn của các mô hình

được chọn lựa

Trong nghiên cứu này, cả tám mô hình đều cho thấy có tính

phân biệt tốt (Biểu đồ 3.14). Trong tám mô hình, chỉ có mô hình 4

cho thấy khả năng hiệu chuẩn chưa tốt (P = 0,039, kiểm định

Hosmer-Lemeshow); các mô hình còn lại cho thấy có sự tương đồng

17

tốt giữa tỷ lệ tử vong quan sát và tỷ lệ tử vong tiên lượng (P > 0,05,

0 , 1

0 , 1

8 , 0

8 , 0

6 , 0

6 , 0

y ạ h n ộ Đ

y ạ h n ộ Đ

4 , 0

4 , 0

2 , 0

2 , 0

0 , 0

0 , 0

AUC(KTC95%) mô hình 1: 0,809(0,774-0,845) AUC(KTC95%) mô hình 2: 0,794 (0,754-0,833) AUC(KTC95%) mô hình 3: 0,819 (0,784-0,853) AUC(KTC95%) mô hình 4: 0,805 (0,767-0,843)

AUC(KTC95%) mô hình 5: 0,853(0,824-0,882) AUC(KTC95%) mô hình 6: 0,853(0,825-0,882) AUC(KTC95%) mô hình 7: 0,845(0,815-0,876) AUC(KTC95%) mô hình 8: 0,853(0,825-0,882)

1.0

0.8

0.6

0.4

0.2

0.0

1.0

0.8

0.6

0.4

0.2

0.0

Độ đặc hiệu

Độ đặc hiệu

kiểm định Hosmer-Lemeshow).

Biểu đồ 3.14: AUC của 8 mô hình tối ưu trong tiên lượng tử vong 30

ngày

3.4. Toán đồ tiên lượng nguy cơ tử vong của mô hình 3 và mô

hình 7

Dựa trên phương trình hồi quy của mô hình 3 và mô hình 7,

chúng tôi xây dựng 2 toán đồ tiên lượng cho bệnh nhân nội khoa tại

khoa cấp cứu. Biểu đồ 3.16 là toán đồ được xây dựng dựa trên các

dấu hiệu lâm sàng và Biểu đồ 3.17 được xây dựng dựa trên sự kết

hợp giữa các dấu hiệu lâm sàng và xét nghiệm.

0 5

0 0 1

0 4 2

3

9 9 , 0

0 2 2

0 9

5 5

4

0 0 2

0 8

0 6

5

5 9 , 0

0 8 1

0 7

5 6

6

9 , 0

0 6 1

7

8 , 0

0 6

0 7

0 4 1

7 , 0

8

6 , 0

0 5

5 7

0 2 1

5 , 0

9

0

4 , 0

0 0 1

0 4

0 8

3 , 0

0 1

0 5

0 8

2 , 0

1 1

0 3

5 8

0 0 1

1 , 0

0 6

2 1

0 5 1

1

0 2

0 9

5 0 , 0

0 4

3 1

0 0 2

1

0 1

5 9

0 2

4 1

0 5 2

y à g n 0 3 g n ò v g n o r t g n o v ử t t ấ u s c á x g n ợ ư l n ê i t 3 h n ì h ô m a ủ c ồ đ n á o T

1 0 , 0

0

0

0

0

5 1

0 0 1

0 0 3

18

.

)

: 6 1 3

) g H m m

t ấ h n o a c (

m a N : 1 ,

( u h t

:

:

m â

:

y à g n 0 3 g n o v ử

)

t

) t ú h p / n ầ l 4 2 > 1

t t

l

, t

%

i

p á

4 2 = < 0 ( ở h

ữ N 0 ( h n

ồ đ u ể i B

t

t

í t i

/

) u ứ c p ấ c a o h k i

i

i

i

ú h p n ầ

ớ G

m ể Đ

ế y u H

l

p h N

( 2 O p S

w o g s a G m ể Đ

t

m ể đ g n ổ T

ấ u s c á X

5

0 5 3

0 0 1

0 1

0 8

0 0 5 3

0 9

0 5

0 0 3

3

5 1

0 8

0 7

5 9 , 0

4

0 0 0 3

5 5

0

0 2

9 , 0

0 5 2

5

0 7

8 , 0

0 6

0 6

5

5 2

7 , 0

0 0 5 2

6

5 6

0 6

0 3

0 1

0 0 2

7

0 5

6 , 0 5 , 0 4 , 0 3 , 0

2 , 0

0 7

0 0 0 2

5 3

0 5

5 1

8

1 , 0

0 4

5 7

9

0 5 1

0 4

5 0 , 0

0 2

0 4

0 0 5 1

0 1

0 8

0 3

5 4

5 2

1 0 , 0

0 3

0 0 1

1 1

5 8

0 0 0 1

0 5

0 3

0 2

2 1

0 2

0 9

5 3

5 5

1

0 5

3 1

0 0 5

1

0 1

0 1

5 9

0 6

0 4

4 1

y à g n 0 3 g n ò v g n o r t g n o v ử t t ấ u s c á x g n ợ ư l n ê i t 7 h n ì h ô m a ủ c ồ đ n á o T

0

0

0

0

0

0

5 1

5 4

5 6

0 0 1

19

.

)

: 7 1 3

i

t ấ h n o a c (

m a N : 1 ,

) t ú h p / n ầ l

) L / l o m m

( t

:

:

/

h n ệ b t á h p

:

y à g n 0 3 g n o v ử

i

)

4 2 > 1

t t

l

, t

ồ đ u ể i B

e s a n m a s n a r t

%

i

i

ữ N 0 ( h n

4 2 = < 0 ( ở h

t

i

í t i

) L

/

/ I

) u ứ c p ấ c a o h k i

i

i

i

U

ú h p n ầ

ớ G

l

p h N

( 2 O p S

w o g s a G m ể Đ

t

ở h k y à g N

m ể Đ

ế y u h g n ờ ư Đ

e n n a Al

(

) L g ( n m u b Al

m ể đ g n ổ T

ấ u s c á X

20

Chương 4: Bàn luận

Nhiều mô hình đã được nghiên cứu phát triển cho bệnh nhân

nội khoa tại khoa cấp cứu. Nghiên cứu của chúng tôi có mục tiêu tìm

mô hình tiên lượng mới, mô hình tiên lượng này được xây dựng từ

các dấu hiệu lâm sàng hoặc kết hợp giữa dấu hiệu lâm sàng với xét

nghiệm được thực hiện thường quy tại cấp cứu. Ngoài khả năng ước

lượng chính xác nguy cơ ở bệnh nhân, mô hình cần phải đơn giản và

dễ sử dụng phù hợp với bối cảnh tại khoa cấp cứu.

Kết quả phân tích bằng phương pháp BMA cho thấy, mô

hình được xây dựng từ các dấu hiệu lâm sàng (mô hình 3, Bảng 3.8)

gồm 5 yếu tố nguy cơ: Giới tính, huyết áp tâm thu, loại nhịp thở,

SpO2, và điểm Glasgow; và mô hình được xây dựng dựa trên sự kết

hợp dấu hiệu lâm sàng và xét nghiệm (mô hình 7, Bảng 3.9) gồm 8

yếu tố nguy cơ: giới tính, loại nhịp thở, SpO2, điểm Glasgow, ngày

khởi phát bệnh, đường huyết, albumin huyết thanh, và ALT. Cả hai

mô hình 3 và mô hình 7 đều cho thấy có tính phân biệt và khả năng

hiệu chuẩn tốt trong giai đoạn phát triển mô hình. Từ mô hình 3 và

mô hình 7, chúng tôi đã xây dựng được hai toán đồ để tiên lượng

nguy cơ tử vong cho bệnh nội khoa tại khoa cấp cứu.

Nhiều mô hình tiên lượng cho bệnh nội khoa tại khoa cấp

cứu có các yếu tố tiên lượng là các kết quả xét nghiệm lúc vào viện

hoặc các dấu hiệu lâm sàng, tuy nhiên có ít mô hình kết hợp các yếu

tố lâm sàng và xét nghiệm lại với nhau. Qua phân tích bằng phương

pháp BMA cho thấy các biến số có xác suất cao xuất hiện trong mô

hình bao gồm: Giới tính, huyết áp tâm thu, nhịp thở, SpO2, điểm

Glasgow, ngày khởi phát bệnh, hồi sinh tim phổi, urea huyết thanh,

đường huyết, creatinine huyết thanh, albumin huyết thanh, AST, và

ALT. Tất cả các biến số này đều liên quan đến biến cố tử vong, có ý

21

nghĩa thống kê. Tám mô hình tiên lượng tối ưu được hình thành từ

các biến số này, bốn mô hình tiên lượng từ các dấu hiệu lâm sàng

không xâm lấn và bốn mô hình tiên lượng kết hợp các dấu hiệu lâm

sàng không xâm lấn và xét nghiệm (Bảng 3.8 và Bảng 3.9).

Trong các mô hình tiên lượng đang được ứng dụng, các yếu

tố nguy cơ là dấu hiệu sinh tồn như mạch, huyết áp, nhiệt độ, nhịp

thở, SpO2, và tri giác đều cho thấy có liên quan đến tử vong ở bệnh

viện. Ngoài ra, giới tính và tuổi của bệnh nhân cũng được xem như là

một yếu tố tiên lượng. Đối với các yếu tố nguy cơ là cận lâm sàng,

có vài nghiên cứu được phát triển chủ yếu dựa trên các xét nghiệm

thường quy được thực hiện tại khoa cấp cứu. Phần lớn các mô hình

tiên lượng vừa đề cập đều có tính phân biệt tốt (AUC > 0,8). Tuy

nhiên, mô hình tiên lượng trong nghiên cứu của chúng tôi không bao

gồm tất cả các biến số của các nghiên cứu trước đây và có chứa các

biến số mới (số ngày khởi phát bệnh, ALT). Sự khác biệt có thể do

các mô hình tiên lượng được phát triển trước đây (1) không phối hợp

yếu tố lâm sàng và xét nghiệm, (2) thu thập số liệu ngay thời điểm

bệnh nhân vừa vào cấp cứu, (3) nguồn lực y tế khác, (4) quan tâm

đến kết cục là tử vong trong vòng 24 giờ hoặc trong bệnh viện, (5)

chọn mô hình bằng phương pháp stepwise.

Đối với bốn mô hình tiên lượng tối ưu được chọn lựa từ các

dấu hiệu lâm sàng, mô hình 3 có lẽ là mô hình thích hợp nhất để áp

dụng trên lâm sàng vì các lý do: (1) xác suất hậu định khác biệt

không đáng kể so với mô hình 1 và 2, (2) số lượng biến số trong mô

hình phù hợp với bối cảnh khẩn trương ở khoa cấp cứu, và (3) có

tính phân biệt và khả năng hiệu chuẩn tốt. Tương tự, đối với bốn mô

hình tiên lượng tối ưu được chọn lựa do sự kết hợp giữa dấu hiệu lâm

sàng và xét nghiệm, mô hình 7 có lẽ là mô hình thích hợp nhất để áp

22

dụng trên lâm sàng vì các lý do: (1) xác suất hậu định khác biệt

không đáng kể so với mô hình 5 và 6, (2) số lượng biến số ít nhất, và

(3) có tính phân biệt và khả năng hiệu chuẩn tốt.

Trên thực tế, không có mô hình tiên lượng nào có thể tiên

lượng chính xác được cho tất cả các bệnh nhân. Mô hình được phát

triển từ nghiên cứu của chúng tôi (mô hình 3 và mô hình 7) cho thấy

có tính phân biệt tốt (AUC: 0,819 và 0,845) và khả năng hiệu chuẩn

tốt.

Những phát hiện trong nghiên cứu này cần được xem xét kết

hợp với những ưu điểm và nhược điểm của nghiên cứu. Dữ liệu

nghiên cứu của chúng tôi được thu thập dựa trên quy trình nghiên

cứu nghiêm ngặt, đảm bảo được tính chính xác và độ tin cậy của dữ

liệu. Các yếu tố nguy cơ trong hai mô hình là các dấu hiệu lâm sàng

và xét nghiệm thường quy được thực hiện tại cấp cứu nên được thu

thập dễ dàng và nhanh chóng. Hai toán đồ được xây dựng cung cấp

cho bác sỹ điều trị công cụ ước lượng nguy cơ tử vong tại giường

phù hợp với bối cảnh khẩn trương tại khoa cấp cứu. Bên cạnh đó,

nghiên cứu cũng có một số điểm hạn chế như: (1) dữ liệu được lấy

một lần lúc nhập viện nên không phản ánh đầy đủ kết cục điều trị của

bệnh nhân; (2) một số bệnh lý nội khoa thường gặp ở cấp cứu bị loại

trừ như hội chứng vành cấp và ngộ độc, nên kết quả nghiên cứu chưa

áp dụng được cho các bệnh lý này; và (3) mô hình trong nghiên cứu

này chưa được thẩm định bên ngoài nên cần phải có thêm bằng

chứng về sự chính xác của mô hình khi tiên lượng ở các quần thể

khác.

Kết luận

Qua kết quả phân tích ở 1939 bệnh nhân nội khoa cấp cứu

chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:

23

1. Mối liên quan giữa các dấu hiệu lâm sàng, tiền sử bệnh, và đặc

điểm cận lâm sàng với tử vong

Các yếu tố lâm sàng như giới tính nam, mạch nhanh, nhiệt

độ tăng, huyết áp tâm thu giảm, nhịp thở tăng, bão hòa oxy giảm,

ngày điều trị ở bệnh viện khác tăng, ngày khởi phát bệnh ngắn, điểm

Glasgow giảm, có hồi sinh tim phổi, có chỉ định thông khí nhân tạo,

có chỉ định điều trị tại khoa hồi sức cấp cứu, và tình trạng chức năng

phụ thuộc hoàn toàn vào sự chăm sóc của người khác làm gia tăng số

chênh tử vong ở bệnh nhân.

Tiền sử bệnh có khó thở lâm sàng, xơ gan báng bụng, suy

tim, và đái tháo đường cũng làm tăng số chênh tử vong ở bệnh nhân

nội khoa cấp cứu.

Giá trị các xét nghiệm như giảm hemoglobin, tăng số lượng

bạch cầu, giảm số lượng tiểu cầu, tăng urea huyết thanh, tăng đường

huyết, tăng creatinine huyết thanh, tăng bilirubin toàn phần huyết

thanh, giảm albumin huyết thanh, giảm natri huyết thanh, tăng kali

huyết thanh, tăng AST, và tăng ALT làm gia tăng số chênh tử vong ở

bệnh nhân.

2. Mô hình tiên lượng tử vong ở bệnh nhân nội khoa cấp cứu

Mô hình tiên lượng từ các dấu hiệu lâm sàng không xâm lấn

như giới tính, huyết áp tâm thu, nhịp thở, bão hòa oxy ngoại biên,

điểm Glasgow; và mô hình tiên lượng do sự kết hợp giữa các dấu

hiệu lâm sàng và xét nghiệm như giới tính, nhịp thở, bão hòa oxy

ngoại biên, điểm Glasgow, số ngày khởi phát bệnh, đường huyết,

albumin huyết thanh, và alanine transaminase qua nghiên cứu phát

triển mô hình cho thấy có tính phân biệt và khả năng hiệu chuẩn tốt.

Do đó, các mô hình này có tiềm năng ứng dụng trên lâm sàng cho

bệnh nhân nội khoa cấp cứu. Hai toán đồ được xây dựng dựa trên mô

24

hình tiên lượng là công cụ hỗ trợ ngay tại giường cho bác sỹ điều trị

có thể ước lượng nguy cơ tử vong, phù hợp với bối cảnh khẩn trương

của khoa cấp cứu.

Kiến nghị

Mô hình được phát triển trong nghiên cứu này cần được

thẩm định ở quần thể bệnh nội khoa cấp cứu khác, trước khi được

ứng dụng trên lâm sàng.

Trong tiêu chuẩn loại trừ ở nghiên cứu này, hội chứng vành

cấp và ngộ độc không được đưa vào nghiên cứu. Để ứng dụng mô

hình tiên lượng trong nghiên cứu này vào hai loại bệnh lý vừa nêu,

cần thực hiện nghiên cứu thẩm định bên ngoài ở quần thể bệnh nội

khoa cấp cứu khác có cả hội chứng vành cấp và ngộ độc.

Đường huyết, albumin huyết thanh, và alanine transaminase

là yếu tố nguy cơ độc lập của tử vong. Do đó, nên thực hiện các xét

nghiệm này thường quy ở khoa cấp cứu.

Nguồn lực y tế nên tập trung ngay từ những ngày đầu cho

những bệnh nhân có nguy cơ tử vong cao.

Danh mục các công trình nghiên cứu

1. Hà Tấn Đức, Đặng Quang Tâm, Trần Văn Ngọc, Bùi Quốc Thắng,

Đỗ Văn Dũng, Nguyễn Đình Nguyên, Nguyễn Văn Tuấn.

(2015), “Xây dựng mô hình tiên lượng tử vong ở bệnh nhân

nội khoa cấp cứu”. Y học thành phố Hồ Chí Minh, 19 (Phụ bản

số 1), tr.321 – 329.

2. Hà Tấn Đức, Đặng Quang Tâm, Trần Văn Ngọc, Bùi Quốc Thắng,

Đỗ Văn Dũng, Nguyễn Đình Nguyên, Nguyễn Văn Tuấn.

(2015), “Tiên lượng tử vong ở bệnh nhân nội khoa cấp cứu: so

sánh giữa mô hình WPS và CTS”. Y học thành phố Hồ Chí

Minh, 19 (số 3), tr.366 – 373.